LỜI CHÚA TUẦN 26 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 26B - DỨT KHOÁT VỚI TỘI
LỖI
LỄ THÁNH TÊRÊXA HÀI ĐỒNG
GIÊSU
THỨ HAI – NGƯỜI CAO TRỌNG NHẤT
THỨ BA - CON NGƯỜI ĐẾN ĐỂ CỨU
CHỮA
THỨ TƯ - ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA
GIÊSU
THỨ NĂM - SAI BẢY MƯƠI HAI
NGƯỜI RAO GIẢNG
THỨ SÁU - LẮNG NGHE VÀ SÁM HỐI
Lời
Chúa: Mt 21, 226-32
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông
nghĩ sao? Người kia có hai người con. Ông đến với đứa con thứ nhất và bảo:
"Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho cho cha!" Nó thưa lại rằng:
"Con không đi." Nhưng sau nó hối hận và đi làm. Ông đến gặp đứa con
thứ hai và cũng nói như vậy. Nó thưa lại rằng: "Thưa cha, vâng, con
đi." Nhưng nó lại không đi. Ai trong hai người con đã làm theo ý cha
mình?" Họ đáp: "Người con thứ nhất."
Chúa
Giêsu bảo họ: "Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ
vào nước Thiên Chúa trước các ông. Vì Gioan đã đến với các ông trong đường công
chính, và các ông không tin ngài; nhưng những người thu thuế và gái điếm đã tin
ngài.
Còn các
ông, sau khi xem thấy điều đó, các ông cũng không hối hận mà tin ngài."
TRUYỆN KỂ
1. Thanh kiếm của Quý Tử
Năm
xưa, Quí Tử đi sứ nước Tấn có mang thanh bảo kiếm, qua thăm vua nước Từ.
Vua
nước Từ ngó hoài thanh kiếm ra dáng yêu thích lắm, lòng tuy muốn xin mà miệng
chẳng tiện nói ra….
Qúi Tử
vì còn phải đi sứ thượng quốc, tuy chưa tặng vua Từ thanh kiếm được, nhưng
trong lòng đã thầm hứa cho, khi đi sứ xong!
Sau khi
xong việc, về thăm vua nước Từ thì vua Từ đã mất!!! Quí Tử liền tháo thanh kiếm
đưa cho sứ quân vua Từ. Các người hầu ngăn lại:
- Bảo
kiếm này là Báu Vật của nước nhà, không phải là món quà có thể tặng được!!!
Mong tướng quân suy xét kỹ việc này….
- Lần
ghé trước đây, vua Từ xem kiếm của ta, tuy chưa nói ra, nhưng lòng dường như
rất yêu thích. Ta vì còn phải đi sứ thượng quốc, chưa dâng được. Tuy vậy trong
lòng ta đã hứa cho. Vua Từ nay đã mất, ta vẫn giữ lời hứa mình vì nếu không, ta
đã tự dối tâm mình. Tiếc kiếm mà thất hứa, dối tâm… người liêm không bao giờ
làm!!!
Nói
xong, Quí Tử tháo thanh kiếm đưa cho sứ quân của Từ Vương!
Sứ quân
nói: “Vua tôi không có dặn việc này, tôi thiệt không dám nhận kiếm.”
Quí Tử
bèn treo kiếm vào cành cây ở mộ vua Từ, rồi đi.
Người
nước Từ ai cũng khen Quí Tử đã không quên lời hứa, ngay cả với người đã mất!!
2. Bản án đánh đòn
Vào năm
1992, tại tiểu bang Georgia - Hoa Kỳ. Xảy ra một câu chuyện có thể gọi được là
“cười ra nước mắt."
Một bà
mẹ 73 tuổi bị chính đứa con trai của mình kiện vì bà không trả cho anh ta tiền
công sửa chiếc xe tải của bà. Sau đó, bà mẹ đã đệ đơn tố cáo ngược lại con mình
với lời đề nghị là anh ta phải bị đánh đòn vì lúc anh ta còn nhỏ bà đã không áp
dụng câu tục ngữ: “Thương con cho roi cho vọt."
Vào
ngày 6 tháng 7 năm 1992, anh thợ sửa xe ô tô tên là Kê-nêt Ar-gut đã đệ đơn tại
tòa sơ thẩm để thưa mẹ anh và đòi tòa ra lệnh cho bà thanh toán hóa đơn 2,613
đô la tiền sửa xe mà bà đã từ chối không chịu trả cho anh.
Trả lời
cho đơn người con trai kiện mình, bà An-sen Ar-gut đã viết như sau: “Nguyên cáo
đã mắc nợ bị cáo 40 năm phục dịch của một bà mẹ, một người giữ em, một người
giúp việc nhà, nấu ăn, giặt giũ, y tá, một nhà tâm lý để cố vấn, khuyên nhủ, an
ủi, v.v… Tất cả những dịch vụ trên, nguyên cáo đã không trả tiền công bị
cáo." Bà Ar-gut còn viết tiếp:
“Như
một bà mẹ, nếu luật pháp cho phép, tôi sẽ công khai đánh đòn con tôi, những cú
roi rất cần thiết cho nó mà tôi đã thất bại không cho nó lúc nó còn bé. Nếu
pháp luật không cho phép mẹ đánh con thì xin tòa hãy cử một nhân viên ngành tư
pháp đánh đòn để sửa trị con tôi."
Đó là
nỗi đau của một bà mẹ bị con khước từ. Nó đã không còn nhận bà là mẹ. Nó đòi bà
phải trả tiền như bao khách hàng khác. Chính trong nỗi đau đó, Bà mẹ Argus hối
tiếc vì đã không dạy con từ nhỏ nên mới lãnh lấy hậu quả hôm nay.
3. Ngôn hành bất nhất
Vợ thầy
Tăng Tử đi chợ. Con khóc, đòi đi theo. Mẹ bảo:
- Con ở
nhà rồi mẹ về làm thịt lợn cho con ăn!
Lúc vợ
về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt. Vợ nói:
- Tôi
nói đùa nó đấy mà!
Thầy
Tăng Tử bảo:
- Nói
đùa thế nào? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt
chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư?
Tăng Tử
nói xong làm thịt lợn cho con ăn.
4. Nói và làm
Vào
cuối thập niên 260 của thế kỷ trước, có một chính khách đã viết nhiều bài báo
nói về “đổi mới tư duy”, Ông thường ký tên NVL. Nhiều người nghĩ đơn giãn đó là
3 chữ viết tắt tên của ông, (tên của ông nếu viết tắt thì đúng là 3 mẫu tự đó),
như nhiều tác giả thường làm như vậy, nhưng khi được hỏi vì sao ông không ký
tên trọn vẹn mà lại chỉ viết tắt, ông nói bút hiệu NVL của ông nó có nghĩa là
“nói và làm."
Đọc
những bài báo đó, không biết chúng có thay đổi được gì thực tế xã hội không,
nhưng chúng phản ánh một xã hội mà nhiều người đang có trách nhiệm trực tiếp
trong guồng máy xây dựng xã hội thời điểm đó đang lâm cơn bệnh “nói nhiều làm
ít”, thậm chí “nói mà không làm”, và còn hơn thế nữa, “nói một đàng làm một
nẻo."
“Nói
nhiều làm ít” là thứ bệnh phóng đại, phô trương.
“Nói mà
không làm” là thứ bệnh nói dốc, nói láo.
“Nói
một đàng làm một nẻo” là thứ bệnh lường gạt, thủ đoạn, thâm độc.
Cách
sống “nói và làm” kiểu đó sẽ đưa đến một xã hội phi đạo đức, vì đạo đức không
thể cùng tồn tại với giả hình và bịp bợm.
Một con
người chân chính bao giờ cũng coi trọng Việc làm hơn Lời nói. Bởi chỉ bằng
những hành động thực tế mới chứng tỏ được mình suy nghĩ có đúng không, có ý chí
thể hiện những suy nghĩ tâm huyết thành hành động thực tế hay không. Và chính
điều đó cho biết anh là ai, là người có đáng tin cậy hay không. (…)
5. Lấy của ban ngày
Nước
Tấn có kẻ hiếu lợi, một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: “Cái
này tôi ăn được, cái này tôi mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng
được." Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
“Lửa
tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng
của tôi cả, không còn trông thấy gì nữa. Thôi, các ngươi cứ cho tôi, sau này
tôi có giàu, tôi sẽ đem tiền trả lại."
Người
coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả
chợ cười ồ. Anh ta mắng:
“Thế
gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm
lấy của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì
lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!” (Long Môn Tử).
6. Ao ước của ĐTC Benedict 16
Ngày 15
tháng 9 năm 2011, nhà xuất bản Vatican, Giuseppe Costa đã tổ chức triển lãm 600
tác phẩm của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger, sau này là Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô
XVI.
Cuộc
triển lãm được trình bầy cho Đức Thánh Cha tại Castel Gandolfo, nhưng cũng đã
được mở ra cho các du khách tại Vatican và ngày 24 tháng 9 tại trụ sở của nhà
xuất bản Herder tại Freiburg.
Trong
dịp này, Đức Thánh Cha đã nói: “Tôi rất cảm động và khá ngạc nhiên được thấy số
lượng các sách vở tôi đã viết. Hy vọng của tôi là những lời tôi viết trong đó
không chỉ đến và đi, nhưng giúp cho các độc giả nam và nữ tìm được hướng đi của
họ.”
7. Augustino và ý Chúa
Thánh
Augustinô, sinh năm 534, tại Targas, xứ Algêrie, Phi Châu, trong một gia đình
giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mônica, một gương mẫu các bà mẹ
công giáo về việc sống đạo và việc giáo dục con cái bằng đời sống và bằng cầu
nguyện nữa…
Từ nhỏ,
Augustinô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại
Carthage; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ
của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Augustinô đã bỏ ngoài tai. Augustinô hầu
như đã mất đức tin, ngài còn theo lạc thuyết Manê nữa. Ngài hầu như đã trả lời
không khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, tâm
hồn của ngài luôn bị dày vò, không hề được sự bình an…
Sau đó
ngài được mời sang Rôma để làm giáo sư khoa hùng biện. Đây cũng là ý Chúa, nhờ
đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Ambrosiô, và cũng từ đây
ngài đã trở lại với niềm tin và đã chấp nhận đi vào làm trong vườn nho của
Chúa, mặc dù một khoảng thời gian dài ngài đã từ chối lời mời gọi của Chúa.
8. Theo Chúa hết lòng
Anh
Rmah Nguc, là người làng Plei-ia-ba, huyện Đức Cơ, bộ tộc Jrai, sinh năm 1966,
được rửa tội từ nhỏ. Cha anh cũng là công giáo gốc, từng là người đi giúp đồng
đạo thời Đức Cha Kim Paul Seizt…
Sau năm
1975, tôn giáo và ngay cả những nét văn hóa như tiếng coòng chiêng, cũng bị kết
tội là mê tín. Cha anh vì quá sợ hải nên… bỏ chuyện đạo qua một bên. Rmah Nguc
lớn lên và hòa nhập nhanh vào đời sống xã hội. Các người lãnh đạo chú ý đến vì
sự thông minh và hoạt bát của anh. Học xong lớp 9, R. Nguc được đưa đi học sơ
cấp sư phạm để về làm hiệu truởng trường tiểu học của cả huyện. Chỉ mới 20 tuổi,
anh đã được kết nạp đảng. Một vị lãnh đạo cho biết: “Thằng R. Nguc đã được đưa
vào kế hoạch đào tạo để làm bí thư đảng ủy xã." Là hiệu trưởng, anh đã
sống hết mình cho học sinh.
Năm
1990, cha anh mất, anh quyết tâm trở lại với Chúa. Dần dần cấp lãnh đạo biết
anh là người công giáo, họ gọi anh lên cảnh cáo, đe dọa đủ cách, nhưng anh trả
lời: “tôi theo đạo từ nhỏ, nên tôi phải giữ.” Thế là tự nhiên anh bị cho nghỉ
việc, mất cả lương bổng, kể cả thâm niên…Anh bị người ta đuổi việc. Lúc đầu dĩ
nhiên anh phải buồn…nhưng nhờ vậy, anh có nhiều giờ học giáo lý, đọc Thánh
kinh… Ngày hôm nay (2002), nhà anh là là nơi giáo dân Jrai lui tới cầu nguyện.
Có những buổi học giáo lý dành cho các ami (các bà mẹ), các ama (ông bố) và
Lắc-ai (ca đoàn)…
Rõ ràng
anh Rmah Nguc, không vâng giữ lời Chúa chỉ bằng môi miệng; anh còn đem nó ra
thực hành nữa…
9. Thức tỉnh trở về
Trên
đường tu đức, ai cũng ham đọc sách của Thomas Merton. Cha đã khai sáng một lối
suy tư mới để cân bằng, cảnh tỉnh và thăng tiến đời nội tâm. Trong tác phẩm
“Ngọn núi bẩy tầng” (The Seven Story Mountian) Thomas Merton đã diễn tả ơn trở
về đặc biệt của chính bản thân.
Lúc 20
tuổi, Merton gia nhập đảng cộng sản và du lịch Âu châu. “Bỗng một đêm ở Paris,
tôi nhận ra cái tình trạng tồi tệ, khốn quẫn và man dại của mình trong cơn ác
mộng. Tôi bị quỉ dữ săn đuổi và cố chạy trốn! Càng chạy càng mắc và càng lâm
nguy. Thức giấc trong kinh hoàng và ướt đẵm, tôi quì xuống khẩn cầu. Đây là lần
đầu tiên trong đời, tôi tha thiết nguyện xin. Những mong Thiên Chúa giải cứu
khỏi sự dữ đang kìm kẹp và đe doạ tôi. Thiên Chúa đã ra tay thị uy và tạo cơ
hội cho tôi trở về." Khi 23 tuổi, Merton đã tin nhân và suy phục Chúa. Anh
làm phóng viên cho tờ Nữu Ước Thời Báo. Và lúc tròn 26, anh giã từ nghề nghiệp,
bố thí gia sản, rồi dồn những đồ tùy thân vào một túi vải, gõ cửa xin gia nhập
dòng Trapist tại Kentuckty. Chúa đã chuyển hóa một thanh niên hoang đàng thành
một thầy dòng khổ tu. Thật lạ lùng!
Không
hài lòng với bản thân, nổi loạn với cha mẹ, chống cưỡng quyền bính, và tranh đấu
cho công bằng xã hội, chúng ta thường có hai phản ứng tương khắc. Một là dấn
thân xây dựng cơ cấu và thế hệ mới, cải tiến gia đình, học đường và xã hội. Đây
là con đường đoan chính và thánh thiện mà lịch sử Giáo Hội còn ghi đậm những
nết son đặc thù của một Phaolô, Augustinô, Inhaxiô, Phanxicô. Hai là bất mãn,
chống đối, làm loạn, thủ tiêu và trả thù theo thuyết “thần học giải
phóng." Thuyết này đã được phái vô thần áp dụng tuyệt mức. Họ cấy thù hận
vào tâm não; dùng tra tấn, đàn áp và tù tội làm chính sách; lấy thủ tiêu, bỏ
đói và tra tấn làm phương tiện. Kết quả là có nhiều tâm hồn thất vọng, chán
chường.
Sống
bất an và bất hạnh, Merton quyết tung cánh chim tìm về tổ ấm và ra khỏi ngõ cụt
của văn hoá sự chết. Merton được cải tử hoàn sinh qua ba giai đoạn. Một là ý
thức quá khứ lỗi lầm và hướng thiện. Hai là cương quyết thăng tiến và thay đổi.
Ba là dấn thân sống lý tưởng và hành hiệp trượng nghĩa. Đây là ba chặng chuyển
hướng quan trọng, phải theo đúng nếu muốn cải tử hoàn sinh. Merton, Phaolô, Mai
Đệ Liên, Augustinô… đã thành công và trở thành những “tín hữu thật” theo quan
niệm của Soren Kierkegaard “Chưa có một tín hữu thật sự trên đời, mà chỉ có
tiến trình trở thành một tín hữu." Quả vậy tâm tình “ngại núi e sông” đang
trói chặt chúng ta. Vì thế chúng ta còn tiếc xót đời tiện nghi, ấm cúng, hạnh
phúc, chưa đeo nổi túi vải lên vai và vui bước lên đường.10. Hữu dũng vô mưa
Một lần
nọ, người chủ ruộng dẫn con trâu đến mảnh đất để cày, con trâu và người chủ làm
việc suốt buổi sáng. Đến trưa người chủ thả trâu cho nghỉ ngơi và ăn cỏ, còn
người chủ cũng ăn uống lấy sức.
Con
trâu đang nằm nhơi cỏ, thì bỗng đâu có con cọp xuất hiện làm cho trâu hốt
hoảng, nhưng cọp trấn an trâu và nói: thân mi to lớn, với sức khoẻ phi thường,
tại sao mi phải lệ thuộc con người yếu đuối và chịu sự điều khiển như thế?
Con
trâu trả lời: con người tuy nhỏ bé, yếu đuối, nhưng họ có trí khôn, nên sức
mạnh không làm gì được trí khôn của họ. Cọp mới hỏi trâu trí khôn là gì mà ghê
thế? Trâu bảo cọp hãy đến hỏi con người.
Cọp mới
đến gần con người xin cho xem trí khôn. Con người bảo là để quên ở nhà, anh bảo
cọp chờ anh ta về nhà lấy cho nó xem. Nhưng anh ta chợt suy nghĩ và bảo cọp. Mi
hãy để ta trói mi lại, chứ nhở khi về lấy trí khôn cho mi xem, mi sợ và bỏ trốn
thì sao?
Cọp bị
chạm tự ái, nên để cho người trói lại. Vừa trói xong, anh ta lấy một cây to đến
bên cọp và đánh cho đến khi cọp không còn sức vùng vẫy nữa, anh ta bảo: trí
khôn của ta đây nầy. Con trâu nhìn thấy thế và mỉm cười cho cọp.
10. Nghe và làm
Một tân
linh mục giảng một bài thật hay. Chúa nhật kế tiếp, cộng đoàn tín hữu đông đảo
chờ đợi nhưng họ ngạc nhiên khi vị linh mục lặp lại bài giảng Chúa nhật trước.
Chúa nhật sau đó, ngài cũng lặp lại cùng một bài giảng. Khi tín hữu tỏ ý thắc
mắc, ngài bảo họ: “Tôi lặp lại bài giảng cho đến khi thấy anh chị em thực hiện
được một gì đó trong bài giảng.”
Cái gì
ngăn cản tôi không quan tâm đến Lời Chúa?
Người
ta không thể băng qua biển khi chỉ đứng nhìn mặt nước (R. Tagore).
11. Tuân theo ý Chúa
Có một
ông công chức, khi về hưu, đã mua mấy mẫu đất ở miền quê để làm một thửa vườn
rộng. Thế nhưng, ông thấy mình không thể đảm đương hết mọi công việc, nên ông
đã đi thuê người giúp việc.
Đầu
tiên, một chàng thanh niên tới và ông đã hỏi:
- Anh
có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả
lời:
- Tôi
có biết chút ít.
Ông ta
chỉ dẫn cho anh:
- Anh
hãy lấy những hạt giống này, ngâm vào nước âm ấm cho qua một đêm, rồi mới đem
gieo trồng.
Thế
nhưng anh đã phản đối và cho rằng đó không phải là một cách thức tốt.
Sáng
hôm sau, một chàng thanh niên khác đến xin việc, ông ta cũng hỏi:
- Anh
có biết gì về nghề làm vườn hay không?
Anh trả
lời:
- Tôi
không biết nhưng rất vui lòng được học.
Ông ta
cũng chỉ cho anh cách ươm cây và anh đã vâng theo làm như vậy. Cuối cùng ông ta
cắt nghĩa:
- Đây
là giống bạch đàn không dễ gieo trồng. Nếu không ngâm vào nước ấm trong một đêm
thì hạt sẽ khó mà nẩy mầm.
Và
chàng thanh niên đã thú nhận:
- Tôi
không biết lý do nhưng tôi nghĩ rằng ông có kinh nghiệm hơn tôi nên ông bảo sao
thì tôi làm như vậy.
Từ câu
chuyện trên chúng ta thấy: Một số người có quyền và có bổn phận bảo cho người
khác điều phải làm. Chẳng hạn người cha trong dụ ngôn chúng ta vừa nghe, có
quyền và có bổn phận đó. Còn hai người con của ông tiêu biểu cho chúng ta, là
những người có bổn phận phải làm, phải thi hành, phải vâng theo.
12. Có và không
Một
linh mục phó xứ quyết định mở khoá học Thánh Kinh vào mỗi buổi tối Chúa nhật.
Sau thánh lễ 26 giờ sáng, ngài yêu cầu giáo dân ở lại để trình bày ý tưởng về
nhóm học Thánh Kinh. Sau khi cắt nghĩa chương trình, ngài hỏi, “Quý ông bà anh
chị em có nghĩ rằng chúng ta nên mở khoá học Thánh Kinh trong họ đạo vào mỗi
tối Chúa nhật không?” Có tất cả 54 người giơ tay đồng ý, tán thành ý tưởng đạo
đức này.
Sau đó,
trở về nhà xứ, ngài trình bày với cha xứ về sự hưởng ứng nhiệt liệt của giáo
dân đối với dự tính của ngài. Cha xứ đã lắng nghe, rồi nhẹ nhàng nói: “Có lẽ
cha nên đặt lại câu hỏi."
Sáng
Chúa nhật tuần sau, cũng sau thánh lễ, ngài xin giáo dân ý kiến, và đặt lại câu
hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ dự buổi học Thánh Kinh tối nay?” Thật tuyệt vọng,
cha phó đã đếm được bốn người giơ tay.
13. Sức mạnh siêu phàm của một cô gái điếm
Một hôm
nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm,
vua Ashoka đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô thi thố tài năng để có dịp tận
mắt chứng kiến và biết rõ thực hư ra sao.
Trước
mặt nhà vua cùng các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng tụ tập bên bờ
sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô có thể ra lệnh cho dòng sông
đang cuồn cuộn chảy phải thay đổi chảy ngược lại, gây ra những tiếng động ầm ầm
giống như long trời lở đất. Đang khi đo, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện
nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hằng
năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân
dân dọc theo hai bên dòng sông ngày một lầm than đói khổ!
Nhà vua
không thể tin đươc một cô gái điếm, thuộc hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức
mạnh siêu phàm như thế. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi
ti tiện như ngươi lại có thể làm được việc lớn lao phi thường như thế?” Cô gái
đáp:”Tâu Đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ!"
Đức vua
lại cười khẩy và vặn hỏi:”Thế đức hạnh của ngươi ra sao?" Cô đáp: “Tâu đức
vua, đức hạnh của tiên nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người.
Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám thường
dân, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa.
Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ người nào cả!"
Như
vậy, theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những
việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh
chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nêu tên Gio-an
Tẩy giả và đòi những ai muốn được ơn cứu độ phải tin ông Gio-an và đi theo
đường công chính của ông như sau: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính
cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô
gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối
hận mà tin ông ấy” (c 32).
14. Hối hận
Có một
tâm sự như sau: Lúc tôi còn là một chàng thanh niên nhà nghèo từ miền quê lên
thành phố học tập, mẹ tôi đã phải gồng gánh, chắt chiu từng đồng gửi cho tôi ăn
học. Mỗi lần có dịp về thăm nhà, tôi thấy ngôi nhà ẩm thấp, nóng nảy ngày xưa
vẫn không hề thay đổi. Trời tối nóng bức, mẹ tôi phải phe phẩy chiếc quạt nan
cũ kỹ cả đêm. Tôi nói với mẹ: Tháng lương đầu tiên, con sẽ mua tặng mẹ cái quạt
điện cho mát.
Thời
gian trôi qua, tôi cũng đã có việc làm, nhưng dường như tôi đã quên hẳn lời hứa
với mẹ về tháng lương đầu tiên. Cuộc sống ở thành phố cứ cuốn tôi vào với dòng
chảy của nó, bạn bè ngày càng nhiều hơn, các bữa tiệc ngoại giao ngày càng
thường xuyên hơn, có những bữa tiệc tiêu tốn đến vài triệu.
Rồi một
ngày, nhận được tin mẹ mất, tôi vội vã trở về với mẹ. Vẫn ngôi nhà đơn sơ năm
xưa, mẹ tôi nằm đó, trên gương mặt còn đậm nét khắc khổ. Buổi chiều hôm ấy, khi
người ta đặt mẹ vào quan tài, những người phục vụ đã không quên bỏ vào quan tài
của mẹ chiếc quạt nan cũ kỹ năm xưa. Nhìn thấy chiếc quạt, tim tôi thắt lại,
giật mình nhớ lại lời hứa về tháng lương đầu tiên sẽ mua tặng mẹ chiếc quạt
điện.
Tôi vô
cùng hối hận vì đã không thực hiện được một lời hứa nhỏ bé dành cho mẹ. Kể từ
đó, mỗi khi ngồi cạnh chiếc quạt điện tại văn phòng, tôi lại nhớ lời hứa năm
xưa với mẹ mà lòng đau đớn.
15. Ai là người đắc đạo?
Tôi có
người bạn thân, trí thức. Anh học giáo lý rất chăm chỉ nhiều năm. Tuy nhiên mỗi
lần đề nghị anh trở lại đạo, chịu bí tích thanh tẩy (rửa tội) anh từ chối ngay.
Gạn hỏi, anh kể cho tôi câu chuyện như sau:
Ở Tích
Lan, có một nhà sư nổi tiếng. Thiện nam tín nữ đến nghe ông thuyết pháp rất
đông. Chuyện đến tai nhà vua, vua cho vời sư ông tới giảng giải giáo lý nhà
Phật cho bá quan văn võ. Chính vua cũng không vắng mặt buổi nào. Sau đó vì ban
ngày bận việc triều đình nên nhà vua thường lẻn khỏi hoàng cung ban đêm để tìm
nghe nhà sư thuyết giảng. Hai người đưa nhau lên mỏm núi cao ngồi.
Một
hôm, khi đang nghe Phật pháp bỗng trông thấy hoàng cung bốc cháy. Nhà vua vẫn
bình tĩnh ngồi nghe không tỏ vẻ quan tâm chút nào. Khi chấm dứt bài giáo lý, sư
ông hỏi: “Lúc nãy hoàng cung cháy bệ hạ không lưu ý sao?” Nhà vua trả lời:
“Cháy đền này, ta xây cái khác. Còn chuyện đạo pháp không như thế được."
Đêm hôm
sau, hai người lại trông thấy ngôi chùa, nơi nhà sư tạm trú, bốc cháy. Nhà sư
bồn chồn lo lắng đứng ngồi không yên. Đức vua hỏi duyên cớ làm sao? Sư ông trả
lời: “Hạ thần còn để quên cái khố ở trong chùa.” Nhà vua đắc đạo, sư ông thì
không. Đây là lý do tại sao tôi không dám vào đạo. Sợ rằng sau đó cũng như nhà
sư thôi.
Nói
xong anh bạn nhắm mắt, rùng mình. Tôi hiểu nỗi lo lắng của anh.
16. Lòng quảng đại phải cụ thể
Tại một
giáo xứ nọ, cứ mỗi năm có một chủ đề sống. Chủ đề năm ấy là “Mau mắn quảng đại
chia sẻ cho người nghèo." Vào cuối dịp tĩnh tâm đầu năm, Cha xứ muốn mỗi
người nói lên quyết tâm của mình trong ngày đầu năm, Ngài hỏi:
- Ông
Hai! Ông có sẵn sàng sống bác ái chia sẻ theo chủ đề của Giáo xứ không?
- Vâng!
Con nhất trí ạ!
- Vậy,
nếu ông có hai con bò, ông sẽ góp quỹ tặng cho người nghèo một con chứ?
Ông Hai
hiên ngang trả lời trước Cha xứ và cộng đoàn:
- Đương
nhiên rồi thưa Cha!
- Nếu
ông có hai căn nhà, ông hứa dâng một căn nhé!
- Bảo
đảm trăm phần trăm với Cha.
- Nếu ông
có hai con gà, ông sẽ nhường lại cho người nghèo một con gà, phải không?
- Ồ,
không được, thưa Cha.
Cha xứ
ngạc nhiên hỏi:
- Sao
vậy? Tôi không hiểu. Sao nãy giờ, ông luôn nói đồng ý mà bây giờ, ông lại nói
không?
Ông Hai
thành thực thú nhận:
- Những
thứ trước, Cha hỏi, nhà con không có, còn gà, nhà con có nhiều ạ!
17. Tình yêu cốt ở việc làm
Thánh
Têrêxa HĐGS nói: "Lòng yêu mến không cốt ở những tình cảm, nhưng cốt ở
việc làm"
Một vị
Giám mục kiểm tra khả năng của một nhóm ứng viên xin lãnh nhận bí tích Thanh
Tẩy. Ngài hỏi:
- Bằng
vào dấu chỉ nào các người khác nhận ra các con là người Công giáo?
Không
có tiếng trả lời. Rõ ràng không có ai ngờ một câu hỏi như thế. Vị Giám mục lập
lại câu hỏi và ngài lập lại thêm một lần nữa, lần này ngài làm dấu thánh giá có
ý mách nước cho các người dự tòng một câu trả lời đúng. Bất. chợt một ứng viên
trả lời:
- Đó là
"Tình yêu."
Vị Giám
mục rất nhạc nhiên! Khi ngài sắp mở miệng nói "Sai ", ngài bỗng kịp
thời ngậm miệng lại
18. Hối cải sinh kết quả tốt đẹp
Một
thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng
trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông
trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ
giấy bạc biến mất. Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra
ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất. Người em hỏi
người anh:
- Anh
có thấy tờ giấy bạc đâu không?
- Không
- người anh đáp.
Tuy
thế. Người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi.
- Anh
không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được!
Chắc chắn anh phải thấy nó!
Sự buộc
tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa
hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn
cách gay gắt và sâu thắm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với
nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức
tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng
lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ. Một ngày nọ, một
người đàn ông đỗ xe ngay trước của hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng:
- Anh
đã ở đây bao lâu rồi?
Người
bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp:
- Tôi
phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đang đi xe lửa và tạt vào thị trấn
này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và
thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những
năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn
nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi.
Người
đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người
bán hàng trạc tuổi trung niên này.
- Ông
có vui lòng sang cửa hàng bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa
hàng đó được không? - anh ta đề nghị.
Rồi
người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên,
trông rất giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt
giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập
bỏ. ( Loren Fischer )
Đó
chúng con thấy sự hối cải đã đem lại kết quả đẹp đẽ như thế nào!
19. Phô trương
Platon
hồi ấy là người yêu nghệ thuật. Nhà ở của ông được trang trí bằng nhiều bức thảm
qúi đẹp. Một hôm, DIOGENE, - người chủ trương sống màn trời chiếu đất, đầu
đường xó chợ -, tới thăm Platon. Tới nơi, mặt đỏ gay, con mắt trợn trừng, ông
ta vừa đạp thình thịch lên tấm thảm qúi của Platon, vừa nghiến răng nói:
-
Ta chà đạp dưới chân tính phô trương kiêu hãnh của nhà ngươi.
Ông
Platon bình tĩnh trả lới:
-
Phải, và với một sự phô trương kiêu hãnh sâu rộng hơn nhiều.
Thì
ra đời sống bên ngoài đầy quảng cáo của Diogène không đi đôi với đời sống bên
trong. Nhà quân tử cũng mắc phải chứng bệnh phô trương như ai.
20. Nhà ái quốc Aristogiton.
Aristogiton
hồi ấy lúc thanh bình, là một nhà ái quốc thượng thặng. Thở ra lửa trận, nói ra
sấm sét. Chàng lợi dụng mọi hoàn cảnh để cổ võ những đức tính anh hùng kiêu
hùng của người chiến sĩ yêu nước. Nghe chàng nói, thính giả có ấn tượng như
chàng đang tuyên chiến với tất cả các cường quốc trên thế giới.
Nhưng
đến khi phải thi hành lệnh quân dịch, người ta thấy chàng đột nhiên bước đi
khập khiễng, tay chống gậy, chân thì băng bó, trông thảm não vô cùng.
Biết
rõ những bí ẩn của chàng, ông Photion trợn mắt nói:”Aristogiton đã làm một
người què lại còn hèn nhát."
21. Lòng sám hối đi trước
Có hai
phụ nữ đến gặp vị ẩn sĩ. Một người tự nhận mình tội lỗi nặng nề vì đã phản bội
chồng, trái lại, người phụ nữ kia thì yên tâm thấy mình không phạm một tội nặng
nào.
Sau khi
nghe hai phụ nữ kể tâm trạng mình, vị ẩn sĩ nói với người thứ nhất: “Hỡi nữ tì
của Thiên Chúa, con hãy ra ngoài tìm một tảng đá nặng và mang về đây cho ta”;
với người thứ hai thì ông nói: “Phần con không phạm tội gì nặng, con hãy mang
về một túi những hòn đá nhỏ thôi.”
Hai bà
vâng lời ra đi, một lát sau họ trở lại. Người đầu khệ nệ bê một tảng đá nặng,
còn người kia xách một túi những hòn đá nhỏ. Bấy giờ, vị ẩn sĩ mới bảo họ hãy
đem tảng đá cũng như những hòn đá nhỏ đặt trở lại đúng chỗ mình đã thấy lúc
nãy, rồi trở lại gặp ngài.
Người
đầu dễ dàng đặt tảng đá vào chỗ cũ, còn người kia không sao nhớ nổi chỗ của
từng hòn đá. Cả hai trở về và kể lại cho vị ẩn sĩ nghe việc làm của mình. Ông
nói với người thứ nhất: “Con đặt được tảng đá vào chỗ cũ dễ dàng vì con biết rõ
nó ở đâu”; và nói với người kia: “Cái khó của con là không nhận ra được chỗ của
chúng.”
Lòng
thống hối là điểm bắt đầu cho việc đón nhận Tin Mừng
22. Lời hứa
Nhạc sĩ
Vũ Thành An trong nhạc phẩm “Bài không tên cuối cùng” đã có lời viết: “Biết bao
lần em đã hứa. Hứa cho nhiều rồi lại quên.”
“Hứa.”
Vâng, tự điển tiếng Việt phổ thông định nghĩa: hứa là nói với ai đó, với ý thức
tự ràng buộc mình, sẽ làm điều gì đó theo yều cầu mà người đó đang quan tâm.
“Hứa
cho nhiều rồi lại quên” nghĩa là gì? Xin thưa, chính là hứa mà không làm! Là
hứa mà không làm điều đã hứa…
Hứa mà
không làm điều đã hứa còn được gọi là “hứa cuội.” Hứa mà không làm điều đã hứa
còn được gán cho nhiều từ ngữ khác như “hứa lèo… hứa hão… hứa hươu hứa vượn.”
Kinh
Thánh có câu rằng: “Kẻ to miệng hứa… mà không giữ lời hứa chẳng khác nào có
mây, có gió mà chẳng có mưa” (Cn 25,14).
Vâng,
đó cũng là điều Đức Giêsu mạnh mẽ lên án qua dụ ngôn “hai người con.”
23. Cái đinh sám hối
Một người
kia trở nên nghiện rượu, ông cũng xa rời Thiên Chúa và gia đình. Một hôm, trong
khi đi dạo, ông hối hận vì cuộc sống hiện tại của mình khi ông chợt trông thấy
một chiếc đinh bị rỉ và cong queo. Chiếc đinh đó nhắc nhớ ông về bản thân và
cuộc đời ông. Vì vậy, ông nhặt nó lên và đem về nhà. Ông đặt nó lên đe, gò cho
thẳng và lau sạch rỉ sét. Một giờ sau, chiếc đinh hầu như mới lại. Cũng thế,
ông cũng có thể uốn nắn và thanh tẩy cuộc đời của ông. Suy nghĩ đó đã đem lại
cho ông một sự biến đổi: Ông bỏ rượu và trở về với Thiên Chúa và gia đình. Hiện
nay ông vẫn giữ chiếc đinh đã được gò thẳng và lau sạch ấy trong ví của mình.
Đã có
bao giờ tôi hầu như giống chiếc đinh cong queo và rỉ sét đó chưa? Điều đó đã
làm tôi thay đổi?
Ai
thống hối tội lỗi thì đã được sạch tội. (Seneca)
24. Trách nhiệm vời việc làm
O.
Henry nổi tiếng vì cách kết thúc câu truyện gây ngạc nhiên của ông. Có một câu
truyện liên hệ đến một đứa trẻ thiếu thốn về mặt tình cảm. Nó luôn hỏi cha nó
xem liệu nó có thể ngồi vào lòng ông được không. Nhưng người cha luôn gạt đi và
bảo nó ra ngoài chơi. Điều không thể tránh khỏi đã xảy ra: cô bé lớn lên và
chấp nhận tình yêu thương từ bất cứ ai, cô trở thành một gái điếm. Khi cô chết,
thánh Phêrô thưa với Chúa Giêsu: “Hôm nay có một người xấu xa tội lỗi đến.” Và
đây là kết luận gây ngạc nhiên khi Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô: “Lúc cô ấy
đến, hãy cho cô vào thiên đàng, còn khi người cha của cô đến, hãy bắt ông chịu
trách nhiệm về cuộc đời của cô.”
Tôi có
cảnh giác để không làm điều gì khiến cho người khác, đặc biệt là trẻ nhỏ mất
niềm tin vào Chúa Giêsu không?
Người
lớn là tấm gương để trẻ nhỏ soi vào.
CNTN 26B -
DỨT KHOÁT VỚI TỘI LỖI
Lời
Chúa: Mc 9, 37-42. 44. 46-47
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Gioan thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh
Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y.”
Nhưng
Chúa Giêsu phán: "Ðừng ngăn cấm y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà
làm phép lạ, rồi liền đó lại nói xấu Thầy.
Ai
chẳng chống đối các con, là ủng hộ các con. Ai nhân danh Thầy mà cho các con
một ly nước vì lẽ các con thuộc về Ðấng Kitô, Thầy bảo thật các con: kẻ đó sẽ
không mất phần thưởng đâu. Nhưng nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một trong những
kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy mà xô xuống
biển thì hơn.
"Nếu
tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được
vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề
tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một
chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả
ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một
mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả
ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt.”
TRUYỆN KỂ
1. Chặt tay bạn đi
Ngày
xửa, ngày xưa, một đoàn thám hiểm từ lục địa Châu Âu đi tìm đất mới. Bạn biết
gì về hòn đảo Ireland ngày nay – Nhà lãnh đạo của họ là một người phiêu lưu với
số mệnh. Ông tuyên bố: Ai đều tiên ở trên đảo, sẽ là chủ toàn thể lãnh thổ.
Một
người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm dành được đất mới. Ông rán sức chèo,
nhưng một chiếc thuyền đối thủ rượt theo ông, bắt kịp ông rồi qua mặt ông. Ông
có thể làm gì? Người đàn ông tinh thần mạnh mẽ, ý chí sắt đá này buông mái
chèo, cầm lấy búa và chặt bàn tay trái liệng lên bờ. Như thế ông là người đầu
tiên đụng vào đất mới, và nó là của ông.
2. Óc ganh tị bè phái... vì danh Chúa!
Những
bài Sách Thánh mà phụng vụ tuyển đọc trong Thánh Lễ hôm nay đề cập tới một tính
xấu, đó là Óc ganh tị bè phái vì danh Chúa. Tính xấu đó như thế nào, chút nữa
chúng ta sẽ phân tích. Bây giờ trước hết chúng ta hãy xem lại những bài đọc nói
gì.
- Bài
đọc I kể một câu chuyện xảy ra từ thời ông Môsê đang dẫn dân Chúa đi lang thang
trong sa mạc, nghĩa là lâu lắm rồi, khoảng năm 1250 trước Chúa Giáng sinh,
nghĩa là cách nay đến hơn 3000 năm. Khi ấy Chúa bảo Môsê chọn trong dân ra 72
người để Chúa đổ ơn Chúa Thánh Thần xuống trên họ và nhờ đó họ được ơn nói tiên
tri. Môsê đã chọn 72 người, Chúa đã ban cho họ ơn nói tiên tri. Nhưng mà có 2
người khác không ở trong danh sách 72 người kia cũng nói tiên tri. Một đứa bé
thấy vậy chạy về báo cáo cho Môsê và người phụ tá của ông là Giôsuê hay sự việc.
Giôsuê liền đề nghị ông Môsê ra lệnh ngăn cấm 2 người đó, lý do là vì họ không
thuộc danh sách 72 người được chọn. Xin nhắc lại rằng câu chuyện này xảy ra từ
thời Cựu Ước, cách đây khoảng 3000 năm lận. Nghĩa là từ thuở rất xa xưa, mà
người ta đã có tính ganh tị rồi.
- Cái
tính xấu này vẫn còn cho tới thời Tân ước. Bài Tin Mừng kể: Khi ấy có một số
người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Ðức Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ
thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ
được. Thế là họ cũng nhân danh Ðức Giêsu và họ cũng làm được một số phép lạ.
Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại cho Ðức Giêsu
biết. Gioan tưởng cấm như vậy là đúng, bởi vì những người đó không phải là tông
đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Nhưng Ðức
Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Ðức Giêsu còn nói "Ai không chống lại ta
thì thuộc về ta.”
3. Ba cấp ganh tị
Cấp thứ
nhất là Ganh tị: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi thấy
người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn, tốt
hơn mình nữa.
Cấp thứ
hai là Ganh tị bè phái: là Ganh tị với người không thuộc phe nhóm của mình.
Cấp thứ
ba là Ganh tị bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa, những
người có đạo ganh tị với những người không có đạo khi những người không có đạo
này làm được những điều hay điều tốt.
4. Bẫy khỉ
Người
ta đồn thổi rằng: Ăn thịt khỉ, nhất là óc khỉ sẽ trị được bệnh phong thấp. Nên
họ tìm cách đánh bẫy khỉ.
Họ lấy
trái dừa bổ làm đôi, nhét vào trong đó một trái cam thơm ngon, rồi khoét một lỗ
nhỏ vừa bằng nắm tay khỉ, xong cột trái dừa lại như trước. Sau đó đem cột chặt
trên cây.
Ngửi
thấy mùi thơm của cam, khỉ sẽ chạy đến, leo lên cây, thọt tay vào trái dừa, nắm
chặt lấy trái cam và lôi ra.
Thọt
tay vào thì dễ, nhưng rút ra thì không được vì bàn tay khỉ bây giờ đã quá lớn
so với lỗ dừa. Có một điều rất trớ trêu, là không bao giờ khỉ chịu buông trái
cam ra để bàn tay được tự do. Ðã nắm được của ăn rồi thì cứ khư khư giữ lấy.
Biết mình bị mắc bẫy nhưng cứ nắm chặt trái cam, dẫy dụa, kêu la chí choé. Và
người thợ săn cứ ung dung đến bắt lấy con khỉ dại khờ đáng thương.
"Nếu
tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay nó đi" (Mc.9,43).
5. Cha Béc-na Vô-gan
Trên
một chuyến xe lửa, cha Béc-na Vo-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô
tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và cười khói trá. Mọi
thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả.
Xe đến
ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vo-gan thò đâu ra cửa xe gọi theo: “Này ông,
ông còn quên cái gì đây này.” Người đó vội lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên
cái gì đâu"? Cha Vo-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại
một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa.” Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
6. Thuê tài xế lái xe.
Có một
người giầu có rất yêu mến mẹ già. Một hôm ông muốn đi thuê một người tài xế chở
bà mẹ già đi chơi mỗi buổi chiều. Có ba người đến xin chân tài xế đó.
Người
giầu nói: “Tôi không muốn có một tai nạn nào xẩy ra trong khi các ông mang mẹ
tôi đi chơi cả. Tôi sẽ thử cả ba ông xem các ông lái xe giỏi đến mức nào. Tôi
muốn xem các ông lái sát hào bao nhiêu mà không bị rơi xuống.”
Người
tài xế thứ nhất tự nhủ: “Cái đó thì dễ ợt.” Ông ngồi bẻ tay lái và chạy vù
xuống đường, cách cái hào một tấc.
Người
thứ hai thầm bảo: “Mình lái ngon hơn hẳn là cái chắc.” Ông này cũng lái vèo
xuống đường và chỉ cách cái hào có nửa tấc.
Trong
khi đó, người thứ ba suy nghĩ rất hung, kết quả ông lái cách hào những một mét.
Hai
người tài xế trước thấy thế cười đắc chí, nhưng người giầu lại bảo bác tài xế
thứ ba rằng: “Tôi xin nhận bác làm tài xế cho mẹ tôi. Tôi cần người tài xế có
bảo đảm, mà một người lái có bảo đảm thì không bao giờ lái sát hào quá.”
7. Thế nào là người tốt lành
Một
buổi sáng, khi vừa thức dậy, một số thiền sinh phát hiện mình bị mất cắp một
vài vật dụng cá nhân. Họ bảo nhau cùng để ý rình rập, và họ đã bắt được quả
tang một chú thiền sinh mới đến đang lấy cắp đồ dùng của họ. Họ liền ập vào bắt
giữ, giải lên cho thầy viện trương. Thầy im lặng, và cho chú thiền sinh nọ trở
về phòng.
Ít lâu
sau đó, chú thiền sinh tại bị phát giác đang ăn trộm lần thứ hai, và lại bị dẫn
đến viện trưởng. Lần này cũng như lần trước, thầy vẫn im lặng, không nói năng
gì, chỉ đưa tay ra hiệu cho phép chú trở về phòng. Mọi người đều thấy tấm tức
bực bội về thái độ xử lý quá rộng lượng của thầy mình...Đến lần thứ ba, chú
thiền sinh có tật ăn cắp kia lại tái phạm. Tất cả các môn sinh đều tập trung
lại, đòi thầy phải có thái độ trừng phạt xứng đáng. Họ đưa ra yêu sách:
- Thưa
thầy, hoặc là tất cả chúng con, thầy phải lựa chọn, nếu không chúng con sẽ rời
bỏ nơi này ngay lập tức!
Im lặng
một lát, thầy viện trưởng điềm đạm trả lời:
- Tất
cả các con đều đã sống tốt lành với nhau, còn chú này thì chưa được như thế
vậy, thầy muốn chú ấy sẽ ở lại với thầy để thiền định tập tành cho được tốt
hơn. Các con thì không cần phải làm như thế nữa, các con có thể chia tay với
thầy được rồi đấy !
Mọi
người đều chưng hửng, cúi đầu, lần lượt từng người không dám nói gì nữa, lặng
lẽ ai về phòng nấy.
Riêng
chú thiền sinh tội lỗi kia vẫn quì đấy, đôi giòng lệ lăn dài trên gò má.
8. Làm cớ vấp phạm
O.
Henry, nhà văn Mỹ lừng danh về truyện ngắn đã sáng tác câu truyện về một em bé
gái mồ côi mẹ như thế này. Cha cô bé có thói quen mỗi khi đi làm về là ngồi
ngay xuống ghế, mở cặp, lôi giấy tờ ra, đốt ống điếu và gác chân lên ngăn kệ
đặt gần lò sưởi. Một lần kia con ông là một bé gái mở cửa bước vào. Em xin ông
chơi đùa với em một lát vì em cảm thấy rất cô đơn. Lần này cũng như những lần
trước ông luôn bảo ông rất mệt, hãy để cho ông yên. Và ông bảo con ông hãy ra
đường mà chơi. Thế là cô bé đi ra chơi ở ngoài đường, và truyện không tránh
được đã xảy ra là sau những ngày tháng chơi ở ngoài đường, em đã trở thành một
cô gái đứng đường. Thời gian trôi qua, ông bố chết và cô cũng chết. Linh hồn cô
được đưa lên đến Thiên Đàng. Thánh Phêrô vừa trông thấy cô liền thưa với Chúa
Giêsu:
- Thưa
Thầy, đây là cô gái thật xấu nết. Con nghĩ phải đưa thẳng cô ta xuống hỏa ngục.
Nhưng
Chúa Giêsu ôn tồn đáp:
- Không,
hãy cho cô ấy vào.
Rồi đôi
mắt ngài trở nên nghiêm nghị:
- Và
con hãy đi tìm người cha đã từ chối không chịu chơi đùa với con gái nhỏ của
mình, đuổi nó ra thiên đường, và đưa hắn xuống hỏa ngục.
9. Đứng về điều thiện
Cha
Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, đã kể câu chuyện “Chúa Giêsu đi
xem bóng đá” trong tập truyện “Bài ca của loài chim” (The Song of Bird) như
sau:
“Nghe
Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng
tôi liền đưa Ngài đến xem một trận đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin Lành
và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1- 0, Đức Giêsu hoan hô vang dội
và tung cả mũ lên trời.
Vài
phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ một đều (1-1),
Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm
khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:
- Này
ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời: “Tôi à? tôi không ủng hộ bên
nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi.”
Người
khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại càng bực hội hơn. Ông
quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”
Trên
đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo
thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả
những ai không thuộc về tôn giáo của họ.”
Chúa
Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao Thầy không ủng hộ
đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi, dù
họ thuộc bất cứ đội tuyển nào.”
“Ai
không chống chúng ta là ủng hộ chúng ta.”
10. Mở biên giới lòng mình
Trong
trận thế chiến II, ba vị tuyên úy của Công giáo, Tin lành và Do thái trở thành
bạn thân của nhau. Họ thề hứa với nhau nếu một người trong nhóm bị chết, thì những
người còn sống phải báo tin cho gia đình của người qua đời và lo việc chôn cất.
Sau đó
vị tuyên úy Do thái bị chết. Hai người còn lại không sao tìm thấy một Rab-bi
hay một hội đường Do thái nào. Cuối cùng, trong một làng ở nước Pháp, họ tìm
thấy một nhà thờ Công giáo với một nghĩa trang được chăm sóc cẩn thận. Vị tuyên
úy Công giáo đề nghị: “Chúng ta hãy đi gặp linh mục chánh xứ, may ra ông ấy có
thể giúp chúng ta.” Cha xứ ngỏ ý muốn giúp họ. Nhưng ngài lại không thể tự ý
quyết định làm điều trái với quy định nên nói: “Ngày mai, xin các ông trở lại
đây. Tôi sẽ tìm xem có luật nào cho phép chôn một người không phải Ki-tô hữu
trong một nghĩa trang Công giáo hay không.” Cha xứ đã tìm kiếm suốt đêm đó,
nhưng không kết quả. Hôm sau khi gặp họ, ngài nói với họ như sau: “Hãy chôn ông
ấy bên ngoài nghĩa trang sát bên hàng rào. Tôi hứa sẽ chăm sóc cho ngôi mộ của
ông ấy.”
Khi
chiến tranh kết thúc, hai vị tuyên uý quay lại thăm viếng ngôi mộ của người
bạn, nhưng họ không sao tìm ra ngôi mộ nào nằm bên ngoài hàng rào nghĩa trang.
Họ liền đi tìm cha xứ hỏi thăm. Cha xứ mỉm cười nói: “Tôi thấy ngôi mộ bạn các
ông nằm bên ngoài nghĩa trang cô độc quá, nên tôi đã tìm ra cách giải quyết.”
Họ liền hỏi: “Cha đã tìm thấy điều luật cho phép dời ngôi mộ người ngoại giáo
từ ngoài vào phía trong hàng rào nghĩa trang hay sao?” Cha xứ trả lời: “Tôi
không thấy có điều luật nào như thế. Nhưng tôi cũng không thấy có luật nào cấm
di dời hàng rào nghĩa trang ra phía ngoài ngôi mộ kia, nên tôi đã quyết định
làm như thế.”
11. Mọi người là anh em
Một
trong những tình bạn đẹp mà Linh mục Cao Vĩnh Phan (1924 - 2011) có được với
các Đại đức và Thượng tọa phải kể đến tình bạn giữa Đại đức Thích Thiện Hiền và
Thích Huệ Tánh. Đại đức Thích Thiện Hiền trụ trì tại chùa Phú Sơn gần nhà thờ
giáo xứ Thánh Mẫu, nơi Lm Cao Vĩnh Phan làm Cha xứ từ 1975 đến 1991. Hai người
đã kết nghĩa anh em với nhau; Lm Phan là anh và Đại đức là em, bởi vì ngài lớn
tuổi hơn. Hai anh em thường gặp nhau, động viên nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn
và giúp đỡ nhau trong mọi hoàn cảnh. Lúc Đại đức đau ốm, Lm Phan đến thăm nom
săn sóc, và ngược lại. Thân nhau đến nỗi nhiều lần Đại Đức đã nhờ Lm Phan cạo
đầu cho mình.
Giữ lời
đã nói với Đại đức: “Thầy tịch trước tôi không quên, thầy tịch sau tôi nhớ
mãi.” Lm Phan thường đến thăm viếng Đại đức Thích Thiện Hiền trong thời gian
bệnh nặng và có mặt lúc lâm chung cũng như đã tham dự đám tang. Tiếp theo sau
nghi thức tôn giáo nhà Phật, Lm Phan cũng đọc Điếu văn phân ưu và một lời
nguyện theo đức tin Công giáo.
Sau lễ
an táng của Đại đức nhiều người nói với nhau rằng: “Đám tang của Thầy Hiền là
đặc biệt hơn cả, vì có Linh mục và bổn đạo giáo xứ Thánh Mẫu tham dự một cách
tích cực và có lời phân ưu nồng nhiệt chân tình chưa từng có.” Bà con họ hàng
của Đại đức Thiện Hiền cũng đến giáo xứ Thánh Mẫu để cám ơn Cha xứ. Có mấy
người ôm lấy ngài và khóc. Họ nghẹn ngào nói: “Như vậy là Thầy chúng tôi đã
viên tịch, Cha không còn có dịp mà đến với chúng tôi nữa, nhưng chúng tôi luôn
coi Cha như người thân thay thế Đại đức Thích Thiện Hiền. Xin Cha thương chấp
nhận lời khẩn cầu nầy!”
Từ ngày
ngài bị bệnh phải nghỉ hưu tại Viện Dưỡng Lão Chí Hòa (cuối năm 1992), nhiều
Đại đức, Thượng tọa và đạo hữu Phật giáo vùng Phan Thiết và Mũi Né thường xuyên
vào thăm ngài. Có nhiều khi họ đi cả phái đoàn vài ba chục người. Dịp lễ Giáng
Sinh năm 1993 có mấy Đại Đức đã đưa các đệ tử và đạo hữu vào thăm cha Phan. Họ
nói rằng: “Muốn vào thăm Cha vào dịp lễ Noel vì từ khi Cha đi không còn ai mời
đi dự lễ Noel nữa.” Hiểu được nguyện vọng của họ, sau khi trò chuyện thăm hỏi,
Lm Phan mời họ vào nhà nguyện viếng hang đá. Sau một lúc quì cầu nguyện, ngài
giải thích cho họ về ý nghĩa lễ Giáng Sinh, dựa vào câu Kinh Thánh: “Vinh danh
Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm.”
Kết
thúc buổi gặp gỡ thăm viếng, ngài bộc phát nguyện: “Lạy Chúa, đây là những vị
Tăng Ni Phật tử thân thương từ Phan Thiết vào thăm con tại nhà hưu dưỡng nầy.
Các vị thật là những “người thiện tâm”, các ngài muốn nghe Chúa nói. Vậy con
tha thiết cầu xin Chúa nói cho các ngài hiểu biết về Chúa. Con muốn nói và nói
nhiều lắm, nhưng con không đủ sức, và các ngài cũng không đủ thì giờ, vì phải
về. Con tin Chúa thiêng liêng quyền phép. Xin Chúa hãy tỏ mình ra cho các vị
như xưa Chúa đã tỏ mình ra cho ba Vua và các mục đồng. Con xin dâng tất cả các
vị cho Chúa. Xin Chúa chúc lành cho các vị đi về bằng yên. Con xin Chúa ở với
các vị luôn mãi và ban ơn cho các vị và gia quyến để chúng con cùng được làm
con Chúa như nhau. Con cầu xin như vậy nhân danh Chúa Giêsu là Chúa của chúng
con. Amen!” (Lm Phêrô Đan-Minh, Lm GBT Cao Vĩnh Phan Với Định Hướng Truyền Giáo
Mới)
12. Hãy yêu như Giêsu
Có một
câu truyện ngụ ngôn của Ấn độ kể rằng: Một hôm thần Krisna muốn thử lòng các
vua trên trần thế.
Trước
tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác, đến: "Ta muốn
ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng tốt.” Duriana đi khắp
thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy Ngài, con không thể gặp được
một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ, đê hèn.”
Thần
gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là Damanatra và ra lệnh
ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một người thực sự xấu xa.” Một thời
gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy Ngài, con xin chịu tội,
con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham, trộm cắp... nhưng người
thực sự xấu xa thì con không gặp. Cho dù có vấp ngã, mọi người đều có lòng
tốt.”
Xem ra
nhận xét về một con người tùy thuộc vào tình cảm của người nhận xét nhiều hơn
là về bản thân của người được nhận xét.
13. Gương tốt khơi dậy gương tốt
Một
thanh niên bị án tử hình vì tội sát nhân. Trước khi thi hành án, anh xin nhà
vua hoãn lại cho anh hai ngày và cho anh về nhà sắp đặt mọi việc. Nhà vua sợ
anh trốn luôn nên nói với dân chúng có mặt ở đó, “Trẩm sẽ cho người thanh niên
này về nhà, nếu có ai trong các ngươi dám bảo lãnh, và nếu người thanh niên này
không trở lại thì kẻ đó phải chết thay.”
Nhà vua
nghĩ là không ai dám bảo lãnh như thế, nhưng có người dám đứng ra bảo lãnh. Mọi
người đều cho rằng người này phải chết thay cho người thanh niên đó, vì chắc
chắn hắn sẽ trốn luôn.
Nhưng
đúng hai ngày, người thanh niên đó đến phủ phục trước mặt vua, “Tâu bệ hạ, tôi
đã làm xong mọi việc, hôm nay tôi xin đến để chịu án tử.”
“Thế là
ngươi không trốn luôn à?”
“Thưa
tôi không muốn thất tín, để cho không ai nói được sự tín trung đã bến mất khỏi
thế giới con người.”
Quay
sang người bảo lãnh, nhà vua hỏi, “Còn ngươi, sao ngươi dám bảo lãnh cho người
xa lạ này?”
“Tâu bệ
hạ, vì tôi muốn chứng tỏ lòng nhân hậu và can đảm hy sinh cho kẻ khác vẫn còn
trong xã hội loài người.” Và từ trong đám đông, người con của kẻ bị chàng thanh
niên giết chết tiến ra phủ phục trước măt vua và nói: “Tâu bệ hạ, giờ đây tôi
xin bệ hạ tha cho chàng thanh niên bị án tử hình này. Tôi và gia đình đã tha
cho anh ta rồi, vì tôi muốn chứng minh trong xã hội con người còn có kẻ biết
tha thứ cho nhau.”
14. Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết
Có sáu
người đi lạc giữa đêm giá lạnh miền Bắc cực. Họ xúm xích nhau bên đống lửa để
đỡ giá lạnh như cắt da xé thịt. Nhưng điều lạ là đống lửa sắp tàn, và mỗi người
đang cầm một thanh củi trên tay, mà không ai bỏ vào lửa cho nó tiếp tục cháy.
Người
thứ nhất là một quả phụ. Bà thấy người ngồi bên cạnh là một thanh niên da đen.
Bà tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh thanh củi này để sưởi ấm ngoại kiều?”
Người thứ
hai nhìn thấy người gần bên là một kẻ thuộc phe đối lập nên nghĩ, “Tại sao mình
phải hy sinh khúc củi này sưởi ấm kẻ thù?”
Người
thứ ba là một người nghèo khổ đói rách, nhìn thấy bên mình là một người giàu có
sang trọng. Anh tự nhủ, “Tại sao mình phải hy sinh miếng củi của mình để sưởi
ấm cho hạng giàu sang ích kỷ?”
Người
thứ tư chính là kẻ giàu sang đó. Anh ta thấy kẻ nghèo khó bên cạnh thì nghĩ,
“Dại gì mình bỏ thanh củi của mình ra, để sưởi ấm cho hạng cùng đinh mạt kiếp
và lười biếng đó.”
Người
thứ năm chính là anh thanh niên da đen. Anh nghĩ người da trắng đã khinh dễ hà
hiếp người da màu. Anh dứt khoát không bỏ thanh củi của mình vào đống lửa để
trả thù bọn da trắng.
Người
sau cùng thuộc thành phần du đãng, không tin ai cũng chẳng làm việc gì cho ai
nếu không có lợi. Hắn tự nhủ, “Nhất định mình không bỏ khúc củi của mình vào
đống lửa để cho bọn đó sưởi ấm.”
Như
thế, tất cả sáu người đều sưởi ấm nhờ đống lửa đang tàn lụi, nhưng không ai
muốn bỏ thanh củi của mình vào cho nó tiếp tục sưởi ấm cho mình và cho những
người cùng lạnh lẽo như mình. Cuối cùng sáu người đều chết cóng vì giá lạnh,
không chỉ giá lạnh bên ngoài mà vì sự giá lạnh của tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi, phe
phái.
15. Lời cảnh báo
“Này
đây, hỡi những người giàu có, các ngươi hãy than khóc kêu la, vì các tai hoạ
sắp giáng xuống trên các ngươi”
“Các
ngươi đã tích trữ cho các ngươi cơn thịnh nộ trong ngày sau hết.”
“Các
ngươi đã ăn uống say sưa ở đời này, lòng các ngươi đã tận hưởng khoái lạc trong
ngày sát hại. Các ngươi đã lên án và giết chết người công chính, vì họ đã không
kháng cự lại các ngươi” (x. Gc 5, 1-6)
16. Nhỏ mà to
Có
những điều tưởng nhỏ mà hóa to, có những điều tưởng to mà lại nhỏ. Như tục ngữ
Việt Nam nói: “Lỗ nhỏ làm đắm thuyền.” To hoặc nhỏ cũng có nghĩa đen và nghĩa
bóng, tiêu cực và tích cực. Chuyện nhỏ và to giống như vòng lẩn quẩn, có cái
khôi hài mà “thấm thía.”
Trong
cộng đồng mạng, người ta có luận về “chuyện nhỏ – to” như thế này: “Đất nước
NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn
nhà TO, căn nhà TO có… có…” (*). Đúng là cười ra nước mắt, cười mà đau, cười mà
chẳng vui chút nào! Sao thế nhỉ? Chỉ khổ cho đám “dân đen”, kêu chẳng ai thèm
nghe!
Chu kỳ
“nhỏ-to” như vậy không chỉ nói tới xã hội, đừng vội cười người kẻo bị người
cười, vì trong đó cũng thấy “thấp thoáng” bóng dáng những người có chức vị
trong tôn giáo. Dù to hay nhỏ, dù rộng hay hẹp, loại “ô dù” nào cũng đáng sợ.
Kiểu nào thì cũng chỉ khổ đám dân đen thấp cổ bé miệng mà thôi!
Tuy
nhiên, sự thật mãi mãi là sự thật, và sự thật thường làm chúng ta đau lòng,
ngại đối mặt, thế nhưng ai dám đối mặt với sự thật thì mới khả dĩ “nên khôn”,
vì chính sự thật sẽ giải thoát chúng ta (x. Ga 8:32) – Thầy chí thánh Giêsu đã
bảo thế.
17. Cội rễ sự ác
Giàu
sang, lắm của và nhiều tiền, đó không là tội. Nhưng tiền bạc có ma lực khó
cưỡng lại, vì thế mà Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là
lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa
đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé” (1 Tm 6:10).
Đất nước
NHỎ có thủ đô TO, thủ đô TO có những con đường NHỎ, con đường NHỎ có những căn
nhà TO, căn nhà TO có cô vợ NHỎ, cô vợ nhỏ dành cho ông quan TO, ông quan TO
mang chiếc cặp nhỏ, chiếc cặp NHỎ có những dự án TO, dự án TO nhưng hiệu quả
NHỎ, hiệu quả NHỎ nhưng thất thoát TO, thất thoát TO nhưng lỗi lại NHỎ… Trong
đất nước NHỎ có những ông lãnh đạo TO, những ông lãnh đạo TO có cái đầu NHỎ,
cái đầu NHỎ nhưng túi tham TO, túi tham TO bởi vì đầu óc NHỎ, đầu óc NHỎ nên
tác hại TO, tác hại TO mà trách nhiệm NHỎ, trách nhiệm NHỎ nhưng quát tháo TO,
quát tháo TO vì trí tuệ NHỎ, trí tuệ NHỎ nhưng lợi nhuận TO, lợi nhuận TO nhưng
số người chia chác lại NHỎ, số người tuy NHỎ nhưng tổn thất TO, tổn thất TO
nhưng báo cáo là NHỎ, báo cáo NHỎ nhưng thành tích thật vẫn TO. Và… cán bộ TO
đi xe NHỎ (xe riêng), cán bộ NHỎ lại đi xe TO (xe đò), ông quan TO thường ở với
vợ NHỎ (vợ bé), ông quan NHỎ phải ở với vợ TO (vợ cả) và ở nhà TO (nhà tập
thể)…
Đừng
tưởng rằng những người đi tu mà “quên” tiền bạc, thậm chí có người còn tệ hơn giáo
dân.
Ví dụ:
Gm Tebartz-van Elst “nổi tiếng” là xa hoa hào nhoáng ở Đức, đã chi hơn 31 triệu
euro để tu sửa dinh cơ của ông. ĐGH Phanxicô đã cho mãn nhiệm hồi tháng
10-2014. Lm Gioan Baotixita Võ Hồng Khanh vì lem nhem tiền bạc đã bị tước năng
quyền cử hành phụng vụ tại bất kỳ cơ sở nào của TGP Los Angeles (Hoa Kỳ) từ
ngày 25-6-2015. Lm Ng. của TGP Saigon, còn trẻ nhưng đã bị nghỉ hưu non vài
tháng qua vì lem nhem tiền bạc, quyên góp tiền cách bất chính để dùng cho mục
đích cá nhân ông. Và rồi các dịp đặc biệt (lễ, tết,…), Việt Nam cũng có giám
mục được người ta đến chúc mừng bằng vật chất “béo bở” (không chỉ “phong bì
dày” mà “vàng thật”). Thảo nào người ta bảo “tiền là tiên, là Phật,….” Có nên
đặt “dấu hỏi LỚN” hay không? Quả thật, đáng quan ngại biết bao!
18. Gương xấu nguy hại
Thánh
Âu Tinh đã nói đến tác hại của gương mù gương xấu, nhất là trong trường hợp gây
ra bởi các vị mục tử như sau: “Vị mục tử sống một đời sống tội lỗi trước dân
chúng là người sát hại chiên do các vị chăm sóc.Vị mục tử này đừng có tự lừa
dối mình khi thấy chiên không chết, vì dù nó vẫn sống thật, vị ấy cũng trở
thành một kẻ sát nhân – giống hệt như người đàn ông nhục dục nhìn người đàn bà
một cách thèm thuồng, thì hắn đã phạm tội ngoại tình dù cho người đàn bà đó có
còn trong sạch… Hắn không lên giường với nàng, nhưng hắn đã chiếm đoạt nàng
trong phòng ngủ của lòng mình rồi. Bởi thế, kẻ nào sống đời sống tội lỗi trước
mặt những ai thuộc quyền chăm sóc của mình là những kẻ sát hại bởi chính họ cho
dù những người ấy khỏe mạnh. Những ai bắt chước họ thì chết; ai không thì sống.
Nhưng đối với chính họ, họ đã sát hại cả hai…” (Bài Giảng về Các Vị Mục Tử,
sermo 46, 9: CCL 41, 535-536 – dịch theo cuốn The Office of Reading, Saint Paul
Edition, 1983, trang 1077).
19. Một ly nước lã
Một cậu
bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền ăn học. Một ngày nọ, cậu bé chỉ
còn một hào trong túi, mà bụng thì đang đói, cậu ta đi đến nhà bên cạnh để xin
ăn. Một phụ nữ trẻ đẹp ra mở cửa, nhìn thấy cậu bé. Cô ta đoán là cậu đang đói
bèn mang cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: Cháu
phải trả cô bao nhiêu ạ? Người phụ nữ trả lời: Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ
cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt. Cậu bé cảm kích đáp: Cháu
sẽ biết ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu. Khi ra đi, cậu cảm thấy khỏe khoắn hơn
và niềm tin của cậu vào con người càng mãnh liệt hơn. Trước đó, cậu như muốn
đầu hàng với số phận.
Nhiều
năm sau, người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương không chữa khỏi. Họ
chuyển bà đến thành phố lớn để các chuyên gia nghiên cứu căn bệnh lạ lùng này.
Tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Ngay lập tức, ông khoác áo choàng
và đi đến phòng bệnh của người phụ nữ nọ. Ông nhận ra ngay người ân nhân của
mình năm xưa. Quay về phòng hội chuẩn, ông quyết định sẽ dốc hết sức lực để cứu
sống bệnh nhân này.
Sau đó,
tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hóa đơn viện phí của ân
nhân để xem lại. Ông viết vài chữ và chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hóa
đơn thầm nghĩ rằng, bà phải thanh toán nó cho đến hết đời cũng chưa xong. Bỗng
nhiên, có gì đó khác thường khi bà nhìn thấy ngay dòng chữ: “ Trị giá hóa đơn =
một ly sữa.” (Trích câu chuyện tiến sỹ Howard Kelly).
20. Sự ghen tị của ông Joshua:
Khi thấy những điều này xảy ra, một người thanh niên chạy đi báo
tin cho ông Moses rằng: "Ông Endad và ông Medad đang phát ngôn trong
trại!"
(1)
Phản ứng của ông Joshua: Ông Joshua con ông Nun, từng theo hầu ông Moses từ hồi
còn nhỏ, lên tiếng nói với ông Moses: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản
họ!"
(2)
Phản ứng của ông Moses: Ông Moses hiểu Thánh Thần, cũng giống như Thiên Chúa,
hoạt động và điều khiển mọi người trong mọi nơi, chứ không phải chỉ trên những
người Moses đã chọn; nên ông trả lời ông Joshua: "Anh ghen dùm tôi à? Phải
chi Đức Chúa ban Thánh Thần trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ!"
Chúng
ta thường có khuynh hướng giới hạn hoạt động của Thiên Chúa hay của Thánh Thần
nơi một số người hay chỉ trong Giáo Hội; nhưng hoạt động của Thiên Chúa cũng
như của Thánh Thần bao trùm cả vũ trụ này. Kinh Thánh nhiều lần chứng minh
quyền lực Thiên Chúa hoạt động trên các vua Dân Ngoại như Ai-cập, Assyria,
Babylon, và Ba-tư... khiến họ phải thi hành thánh ý Ngài; và Thánh Thần hoạt
động trên những người Dân Ngoại chưa chịu Phép Rửa, như gia đình Cornelius,
viên sĩ quan người Rôma (Acts 10).
21. Đại hội cái búa
Có câu
chuyện ngụ ngôn “Đại hội cái búa” kể về nỗi lo sợ của các loại cây trong rừng,
từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều sợ Cái Búa của người đốn cây. Hễ búa đi
đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến đó.
Một
hôm, cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó với Cái Búa. Để chứng tỏ rằng việc
làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa cũng được mời tham dự Đại hội này.
Sau một
lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết luận: Cương quyết không cho Búa bất kỳ
một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà không có cán thì làm được việc gì bây
giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều hoan hỉ về quyết định này. Dù một khúc
gỗ cũng không cho!
Bấy
giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài nỉ đáng thương: Xin quý vị niệm
tình, thân tôi mà không có cán như người tật nguyền không tay chân, xin hãy cho
tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa vào những việc tốt, tôi chỉ chặt
những gai góc làm vướng chân quý vị mà thôi!
Trước
lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại hội liền có sự chia rẽ vì khác quan
điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết lại. Kết quả là đa số bằng lòng cấp
cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng hỡi ôi! Khi Búa đã có cán rồi, nó
bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ cây non cho đến cây cổ thụ.
Bạn chỉ
cần cho tội ác một cơ hội thôi, là bạn sẽ hối tiếc cả cuộc đời!
22. Cái giá người môn đệ phải trả
"Người
môn đệ phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh vì nước trời…"
Cuốn
phim "A man for all seasons" (Người thích ứng mọi mùa) được xây dựng
dựa theo cuộc đời thánh Thomas More.
Khi Kha
Luân Bố khám phá ra Mỹ Châu, Thomas More mới là một thiếu niên mười mấy tuổi
tại Anh Quốc. Chàng theo học tại Đại học Oxford. Sau khi tốt nghiệp Đại học,
chàng dấn thân vào cuộc đời chính trị. Là một viên chức của triều đình, chàng
được thăng quan tiến chức rất mau lẹ, năm 1529, vua Henri thứ VIII đã phong
chàng lên chức Đại pháp quan của Anh Quốc.
Nhưng
thảm kịch đã xảy đến cho Thomas More. Khi vua Henri VIII ly dị với hoàng hậu và
tái kết hôn không đúng theo luật lệ. Để chống lại bất cứ ai phản đối cuộc hôn
này, Henri ra lệnh cho một số quan chức triều đình ký vào một văn bản tuyên thệ
rằng sự tái hôn của ông là hợp pháp. Ông truyền cho các vị chức sắc này là nếu
họ từ chối không chịu ký vào văn bản ấy họ sẽ bị hạ ngục vì tội phản loạn. Và
rồi thảm kịch đã xảy ra khi ngài Norfold mang văn bản ấy đến cho Thomas More.
Ông này chẳng chịu ký bất chấp biết bao lời thuyết phục khuyên ông thay đổi ý.
Cuối cùng, Norfolk không còn kiên nhẫn được nữa, ông nói với bạn:
"Tôi
không biết cuộc kết hôn có hợp pháp hay không, nhưng thây kệ nó! Thomas ơi, ông
hãy nhìn vào tất cả những kẻ đã ký vào đây! Ông biết rõ những người này mà! Tại
sao ông không thể làm như chúng tôi, nhân danh tình bạn của chúng ta?"
Thomas More vẫn từ chối. Ông không muốn tuyên thệ điều gì mà tận thâm tâm ông
biết là sai trái. Cuối cùng, Thomas More bị tống giam. Vào ngày 6 tháng 6 năm
1535 ngài đã bị hành hình vì tội phản loạn.
23. Cuộc chiến nội tâm của Thomas More
Thomas
More là một vị thánh nên ngài đã tự hiến dâng đời sống một cách dễ dàng. Chúng
ta hãy lắng nghe những lời trong lá thư ngài viết cho cô con gái của ngài ít
lâu sau khi ngài bị giam, những lời này sẽ cho ta biết cuộc đấu tranh khủng
khiếp xảy ra bên trong tâm hồn ngài như thế nào:
"Meg
thân yêu, Bố sẽ không bất tín với Chúa, dù bố cảm thấy yếu đuối khi sắp phải
đương đầu với nỗi sợ hãi. Bố nhớ lại sự kiện thánh Phêrô bắt đầu chìm xuống
nước vì thiếu đức tin, khi thấy gió thổi mạnh, bố sẽ bắt chước ông kêu cầu Chúa
Kitô nài xin Chúa giúp đỡ Bố. Bố tin rằng Chúa sẽ đặt đôi tay thánh thiện lên
Bố và ngay trong cơn bão biển Chúa sẽ giữ cho bố khỏi bị chìm xuống… vì thế hỡi
con gái yêu của bố, con đừng bối rối âu lo về bất cứ điều gì sẽ xảy đến cho bố
trong cuộc sống dương trần này, không điều gì xảy ra ngoài ý Chúa, Bố rất xác
tín rằng bất cứ điều gì tồi tệ xảy ra, thì chắc hẳn đó là điều tốt nhất đấy.”
24. Ai không chống lại chúng ta là thuận với chúng ta
Một ni
cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo.
Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của
mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương trước tượng Phật của mình, ni cô không
muốn làn hương bay sang các tượng khác, cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương
bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô
vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi tượng trở nên đen thùi xấu xí.
Đôi khi
lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên nhỏ mọn khó coi.
Trong
Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng về thái độ hẹp hòi
của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên tôi tớ mọi người,
phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng với người đồng đạo, người Công
giáo.
25. Nhẫn thật
Ngụ
ngôn phương Đông có câu chuyện như sau: Người kia có một chiếc nhẫn bích ngọc
rất lạ. Hễ ai đeo nhẫn ấy vào thì tính tình trở nên hiền hậu, chân thực khiến
mọi người đều yêu mến. Chiếc nhẫn là một thứ phép màu. Nó được truyền từ đời
cha sang đời con luôn luôn linh nghiệm. Thời gian trôi qua, chiếc nhẫn được
truyền đến một người có ba con trai, mà đứa nào ông cũng yêu quý cả.
Khi
biết mình sắp chết, ông ta băn khoăn sẽ để lại chiếc nhẫn lại cho đứa nào đây?
Ông đã liều thuê thợ bạc làm thêm hai chiếc khác, y hệt như chiếc nhẫn thật,
đến nỗi chẳng ai phân biệt được chiếc nào là chiếc thật, chiếc nào là giả. Lúc
hấp hối, ông gọi riêng từng đứa con trối trăn riêng với từng người, sau đó ông
cho riêng mỗi người một chiếc nhẫn mà người kia không biết. Nhưng về sau, cả ba
người đều khám phá ra rằng mỗi người đều được nhẫn, thế là một cuộc tranh cãi
dữ dội đã bùng nổ xem ai được chiếc nhẫn có thể đem lại nhiều điều có lợi cho
chủ nó.
Nội vụ
được đưa đến một quan tòa khôn ngoan xét xử. Quan tòa xem xét thật kỹ các chiếc
nhẫn rồi nói “ta không biếc chiếc nhẫn nào là chiếc nhẫn thật, nhưng chính các
người có thể chứng nghiệm điều đó.” Ba người con ngạc nhiên hỏi “chúng tôi à?”
Quan tòa bảo “phải, và nếu chiếc nhẫn thật tạo cho người đeo nó một bản chất
dịu hiền thật bởi đời sống thiện hảo của người ấy. Cho nên, các anh hãy về đi,
sống cho tử tế, trung thực, dũng cảm ngay thẳng trong mối liên hệ với mọi
người, và ai làm như thế chính là người được chiếc nhẫn thật.”
Vấn đề
phải chứng nghiệm bằng đời sống. Không ai lên án được một giáo lý đã khiến một
người xấu trở nên tốt. Nếu chúng ta nhớ được điều ấy, có thể giảm bớt sự thiếu
khoan dung.
26. Hình phạt cho gương xấu
Tại
Palestine có hai loại cối: cối đá xay bằng tay mà phụ nữ dùng trong nhà và loại
cối đá lớn đến nỗi phải cột một con lừa mới kéo nổi. Loại cối đá nói ở đây là
loại lớn. Bị ném xuống biển với một thớt cối như thế cột vào người, chắc chắn
không hy vọng trở về. Thật ra, đây là cách xử tử cả tai Roma lẫn tại Palestine.
Sử gia
Josephus kể rằng, lúc một số người Galilê thành công trong một cuộc nổi dậy,
“họ bắt được những người thuộc đảng Hêrôđê và ném xuống biển hồ.” Suetonius, sử
gia Roma kể lại về Augustus rằng “vì ông thầy dạy học và bọn người hầu hạ hoàng
tử là Gaius lợi dụng căn bệnh của chủ để lạm quyền và tham nhũng trong tỉnh,
nên hoàng đế truyền cột vật nặng vào cổ và ném họ xuống sông.”
27. Một chén nước
Bà giáo
vừa dậy các học sinh cấp 1 người Phi châu về việc nhân danh Chúa Giêsu cho
người ta một chén nước lạnh. Hôm ấy, bà đang ngồi trước nhà, thấy một đám phu
khuân vác người bản xứ đi vào làng. Họ vác những kiện hàng thật nặng. Ai nấy
đều mỏi mệt, khát nước và ngồi bệt xuống đất để nghỉ ngơi.
Họ là
người thuộc bộ tộc khác và nếu họ xin nước nơi những thường dân không theo Kitô
giáo, sẽ được bảo: hãy tự đi tìm lấy mà uống, vì có một bức tường ngăn cách ở
giữa họ. Nhưng đang khi số người mệt mỏi kia ngồi đó và bà đang nhìn họ thì một
đám trẻ gái người Phi Châu từ trường học đi ra, mỗi em đội trên đầu một vò
nước. Cả bọn rụt rè, sợ sệt tiến đến gần những người khuân vác đang mỏi mệt và
quỳ xuống, đưa các vò nước cho họ. Những người khuân vác ngạc nhiên, tiếp lấy
rồi uống ngon lành và trả vò lại. Các bé gái vội vàng chạy nhanh đến với bà
giáo, và nói “chúng cháu vừa nhân danh Chúa Giêsu cho những người khát uống
nước.” Các bé gái đã tiếp nhận lời dạy dỗ ấy theo nghĩa đen của nó. Ước gì cũng
có nhiều người làm vậy.
Chính
những việc làm đơn sơ với tấm lòng tử tế là những việc hết sức cần thiết.
Mahomet đã nói “Đặt người lạc lối vào đúng con đường, cho một nguơì khát uống
nước, mỉm cười với anh em mình, đó là đức ái.”
28. Óc bè phái.
Có một
vị linh mục, ngày kia đã giảng một bài rất cảm động, khiến cho mọi người đều
rơi lệ. Thế nhưng, có một người ngồi ngay ở hàng ghế đầu lại chẳng hề tỏ ra
chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ kết thúc người ta đã hỏi: Ông có nghe bài
giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời: Dĩ nhiên là có và tôi đã nghe rõ lắm. Vậy
thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm động đến nỗi tôi rưng rưng như muốn khóc.
Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại không khóc. Người đàn ông trả lời: Đơn
giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ này.
29. Lợi và hại trong mắt người ghen tị
Trong
triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người
thì ganh tị, một người thì tham lam.
Để chữa
trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình.
Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì những phục vụ của họ trong
thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên, người mở miệng xin đầu
tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai
viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người. Người tham lam nghĩ trong
lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tị thì lý
luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng nói trước để tên kia được gấp
đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh tị nói trước. Người này lại
tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam kia được gấp đôi.
Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: "Tôi xin được móc một con mắt...!”
Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị móc hai con mắt.
30. Báo oán dĩ đức
Tống
Tựu làm quan Doãn một huyện gần biên thùy nước Lương, chỗ giáp với nước Sở.
Người đình trưởng ở biên thùy nước Lương và người đình trưởng ở biên thùy nước
Sở, cả hai cùng trồng dưa.
Người
bên nước Lương chăm làm, tưới luôn, nên dưa tốt. Còn người bên nước Sở, biếng
làm, và tưới ít nên dưa xấu.
Quan
Doãn ở ngay biên thùy nước Sở, thấy dưa bên Lương tốt, bên mình xấu, lấy làm
tức giận. Người đình trưởng nước Sở thấy dưa bên Lương tốt hơn bên mình, cũng
sinh ra ghen ghét, đêm đêm cứ lẻn sang cào vò dưa bên Lương, đến nỗi dưa bên ấy
phải héo, chết một ít.
Được ít
lâu, người đình trưởng nước Lương biết việc đó, ông ta ngỏ ý với người trưởng
trong huyện, định tâm sang cào vò dưa bên Sở, để trả thù. Người trưởng này đem
truyện ấy nói với Tống Tựu, hiện đang làm quan Doãn gần biên thùy nước Lương.
Tống Tựu bảo: “Ôi sao lại thế! Thế chỉ là gây thù oán, chuốc tai họa thôi. Này
ta bảo ngươi, chớ sang cào dưa của người ta, cứ đêm đêm lẻn sang tưới dưa cho
người ta, mà đừng để cho người ta biết.”
Người
đình trưởng nước Lương cứ theo thế mà làm. Sau dưa bên Sở mỗi ngày một tốt.
Người đình trưởng nước Sở lấy làm lạ, xét mãi ra mới biết người đình trưởng
nước Lương không trả thù, mà còn làm giúp.
Quan
Doãn nước Sở biết rõ việc ấy, lấy làm vui lòng, tâu lên vua Sở. Vua Sở biết
truyện, buồn và có ý thẹn nghĩ rằng: ngoài cái tội đi cào dưa của người ta,
chắc còn có nhiều việc khác đáng tội với người ta nữa. Vua Sở bèn lấy nhiều của
dưa sang tạ tội với Lương và xin giao hiếu. Vua Lương cũng vui lòng, thành hai
nước giao hòa với nhau được lâu. Lão Tử có nói: “Báo oán dĩ đức.” nghĩa là hãy
đem đức để báo oán. Câu truyện trên đây xẩy ra mãi đời chiến quốc, nhưng cái ý
nghĩa của nó cũng rập theo tinh thần Tin Mừng và thích hợp cho muôn đời.
31. Lòng tốt kết trái tốt
Maria
Goretti sinh ngày 16 tháng 10 năm 1890 tại Ancona. Cha mẹ Maria Goretti là
những người nhà quê thất học. Vì hoàn cảnh nghèo túng , năm 1899, gia đình
Maria Goretti rời về sống trong một nông trại ở làng Anziô, gần Nettunô. Gia
đình phải sống chung với một gia đình khác, vỡ dất trồng trọt để nuôi tám miệng
ăn.
Gia
đình can đảm và đầm ấm này, đã bị giao động khi người cha bất ngờ qua đời, bà
góa phụ Assunta phải tự quyết định, tiếp nối công việc nặng nhọc của cả gia
đình. Bà giao việc săn sóc các con nhỏ, cho trưởng nữ Maria Goretti lúc đó mới
lên mười. Maria Goretti tỏ ra là người nội trợ đảm đương. Thánh nữ là nguồn an
ủi cho mẹ nàng. Gia đình Serenelli, hàng xóm của bà, có tinh thần đạo đức và
phục vụ, nhưng cậu con trai Alessandrô thì hung tợn, thiếu tư cách, vì giao
tiếp với bạn bè xấu và đọc nhiều sách vở dâm ô. Nhiều lần Alessandrô giúp đỡ
Maria Goretti, trong những việc nặng nhọc, người ta ngờ là Alessandrô đã sửa
đổi tính nết. Maria Goretti thì chỉ biết ơn, và còn quá trong trắng để hoài
nghi và dè đặt trước cử chỉ của Alessandrô. Nhưng Alessandrô đã không ngần ngại
tỏ ý muốn phạm tội với Maria Goretti. Anh lại còn đe dọa cô, không được nói với
ai. Maria Goretti đã nói tất cả với mẹ. Bà Assunta đã dậy con phải xa lánh tội
lỗi, giữ mình trong sạch, và đề phòng cô không rơi vào cạm bẫy của Alessandrô.
Maria Goretti hứa sẽ luôn luôn làm đúng lời mẹ chỉ dậy.
Alessandrô
đã thúc bách, nhưng người thiếu nữ đã giữ gìn và cương quyết chống cự. Ngày 5
tháng 7 năm 1902: Sáng hôm đó, khi mọi người vắng nhà, Alessandrô tới gần cô
gái, cầm dùi trong tay, va đe dọa: “Nếu cô không chịu, tôi sẽ giết cô.”
Maria
Goretti liền la lớn: “Không! Đó là tội lỗi, Chúa đã cấm. Anh sẽ phải vào địa
ngục.” Không cầm hãm được thú tính, Alessandrô lao vào cô gái, đâm cô tới 14
nhát …
Bà
Assunta đưa Maria Goretti hấp hối vào nhà thương ở Nettunô, dọc đường Maria
Goretti còn cố nói với mẹ: “Mẹ ơi, anh muốn con phạm tội với anh, con đã cự
tuyệt.”
Khi
Maria Goretti sắp lìa đời: Một linh mục tới đầu giường, nhắc lại cho cô cuộc tử
nạn của Chúa trên thập giá, và hỏi cô có sẵn sàng tha thứ cho Alessandrô không,
thì Maria Goretti đã trả lời: “Vì yêu Chúa Giêsu, con tha, chớ gì anh được lên
thiên đàng với con.”
Alessandrô
bị kết án 30 năm khổ sai. Tuy đã vào nhà giam, nhưng tính hung bạo của anh càng
tăng, và làm các bạn tù khiếp sợ.
Nhưng
rồi qua 8 năm, bỗng nhiên, tâm tính anh đổi hẳn, và sự thay đổi này, theo lời
anh, thì do một đêm: Anh mơ thấy Maria Goretti sáng chói, giữa vườn đầy hoa huệ
và hái trao cho anh một bông. Sau đêm đó anh đã viết lời thú tội gửi Đức Giám
Mục, và kể lại cho ngài biết giấc mơ. Anh thành thực hối hận, trở thành con
người gương mẫu và được phóng thích năm 1929. Để biểu lộ lòng thành thực và
thống hối, anh đã xin vào sống trong một tu viện.
Maria
Goretti được phong hiển thánh ngày 24 tháng 6 năm 1950: Trong buổi lễ này người
ta thấy có sự hiện diện của mẹ cô là bà Assunta, lúc đó đã 87 tuổi, và cũng có
sự hiện diện của… tu sỹ Alessandro.
32. Vợ Bành Tổ khóc chồng
Trong
kho tàng truyện cổ Trung Hoa có câu truyện Vợ Bành Tổ Khóc Chồng như sau:
Ngày
kia, Ngãi Tử ra khỏi nhà thấy một bà lão tóc bạc phơ đang khóc bên đường. Ngãi
Tử hỏi:
- Tại
sao bà khóc thương tâm như thế?
- Tôi
khóc vì chồng tôi mới qua đời. Bà lão trả lời.
- Tôi
hỏi khí không phải: chồng bà là ai vậy? Ngãi Tử hỏi.
- Chồng
tôi là Bành Tổ!
- Này
bà, chồng bà là Bành Tổ thọ 800 tuổi mới qua đời. 800 tuổi chẳng phải là thọ
lắm sao? Cớ gì bà phải tiếc nuối như thế?
Bà cụ
trả lời:
- Tôi
khóc không vì tiếc nuối. Tôi khóc vì phiền muộn bởi thế gian này còn có người
sống tới 900 năm! Như thế an tâm sao được!
33. Tội con phạm mà chẳng hay
ĐHY
Fulton Sheen kể chuyện:
"Tại
Nam Tư, trong một lần giúp lễ, một chú bé đã vô ý sẩy tay đánh rơi chiếc lọ
nước. Vị linh mục đang dâng lễ tức giận tát cậu và quát mắng: "Cút xéo
ngay và đừng bao giờ quay lại đây nữa!” Và quả thật, cậu bé tủi thân và uất ức
đó không bao giờ quay trở lại nữa. Lớn lên cậu bé trở thành vị lãnh tụ độc tài vô
thần Tito của đất nước Nam Tư.
“Còn về
phần mình, tôi nhớ khi còn là một chú bé giúp lễ 7 tuổi ở nhà thờ Chính Toà của
Đức Cha. Một lần nọ tôi cũng đánh rơi chiếc lọ đựng rượu lễ. Tôi sợ hãi tưởng
như chết đi được vì biết rõ tính khí của Đức Cha rất nghiêm khắc đối với những
chuyện vô ý vô tứ như thế…
“Thế
nhưng sau thánh lễ ngài gọi tôi và hỏi: "Lớn lên con dự tính học ở trường
nào? Rồi ngài tiếp: "Đã bao giờ con nghe nói tới Louvain chưa?” Tôi rụt rè
trả lời, lòng đã bớt sợ: "Thưa Đức Cha, chưa ạ.”
“Ngài
dõi mắt nhìn xa xăm, miệng tủm tỉm cười: "Vậy con hãy về thưa với mẹ con
rằng lớn lên con sẽ vào học tại đại học Louvain nhé!”
“Không
ngờ lớn lên, từ một chú giúp lễ, tôi đã xin Đức Cha cho đi tu, và hai năm sau
khi chịu chức linh mục tôi đã được Đức Cha chỉ định đi học tại đại học Louvain.
Cũng một sự kiện, một lỗi lầm như nhau, nhưng tôi đi về hướng này, còn ông Titô
thì đi về hướng ngược lại…”
Lạy
Chúa, nào ai thấy rõ các lầm lỗi của mình? Xin Ngài tha các tội con phạm mà
chẳng hay.
34. Phòng tránh dịp tội
Bài
Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi này: chúng ta có biết phòng
tránh tội lỗi để đạt nước trời không? Chúng ta có biết canh chừng đối với bất
cứ điều gì có thể khiến chúng ta đánh mất nước trời không?
Trong
một lá thư của mình, một vị thánh danh tiếng người Pháp, Francis de Sales, đã
nói về vấn đề cám dỗ và việc canh phòng chống lại tội lỗi như sau;
"Mặc
cho quân thù gào thét ở ngoài cửa, mặc cho nó gõ, nó la, nó gào, nó làm bậy làm
bạ. chúng ta biết chắc rằng nó không thể đi vào nhà trừ khi chúng ta bằng lòng
mở cửa cho nó.” Vậy chúng ta cần tỉnh thức đề phòng tội lỗi. Khi cơn cám dỗ xảy
đến; và chắc chắn nó sẽ đến chúng ta hãy nhớ lại những lời thánh Thomas More đã
viết cho Meg con gái ngài: "Bố sẽ nhớ lại sự kiện thánh Phêrô bắt đầu chìm
xuống vì thiếu đức tin khi thấy gío mạnh thổi lên, và bố cũng sẽ bắt chước ngài
kêu lên với Chúa Kitô và khẩn cầu Ngài giúp đỡ. Bấy giờ bố tin rằng Chúa sẽ đặt
tay lên người bố và giữ bố khỏi chìm xuống giữa cơn bão biển.”
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ THÁNH TÊRÊXA HÀI ĐỒNG GIÊSU
Lời
Chúa: Mt 18, 1-4
Khi ấy,
các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất
trong Nước Trời?"
Chúa
Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà phán rằng: "Thật, Thầy
bảo các con: nếu các con không hoá nên như trẻ nhỏ, các con sẽ không được vào
Nước Trời. Vậy ai hạ mình xuống như trẻ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước
Trời. Còn ai tiếp đón một em nhỏ như thế này vì danh Thầy, là đón tiếp chính
Thầy.”
TRUYỆN KỂ
1. Bí mật của Thánh Têrêsa Hài Đồng--dongcatminh.org
Bạn đã
bao giờ nghe về Thánh Thérèse hay Thánh Têrêsa Hài Đồng và những bí mật về
thánh nữ? Bạn có biết tại sao có rất nhiều người chọn ngài làm thánh quan thầy,
và là người bạn gần gũi nhất của mình không?
Câu
chuyện của Thérèse Martin
Thérèse
Martin sinh ra trong một thị trấn thuộc Alencon, Pháp vào ngày mùng 2 tháng 1
năm 1873. Chị là con gái út trong gia đình gồm 5 chị em gái. Khi chị còn rất
nhỏ, mẹ của chị mắc căn bệnh ung thư. Vào thời đó, họ không có thuốc và sự điều
trị tốt như ngày nay. Các bác sĩ đã cố gắng hết sức nhưng căn bệnh của bà
Martin vẫn ngày càng nặng thêm. Bà đã mất khi Thérèse mới chỉ 4 tuổi.
Đó là
khi bố của Thérèse quyết định tốt hơn nên chuyển nhà đến Lisieux, một thị trấn
khác, nơi có nhiều người thân sinh sống. Ở đó có tu viện Carmelite, một tu hội
dòng kín, nơi các thiếu nữ làm một công viêc đặc biệt đó là cầu nguyện cho toàn
thế giới. Khi Thérèse được 10 tuổi, một chị gái của chị là Pauline đã xin nhập
dòng Carmelite ở Lisieux. Điều đó thật khó khăn cho Thérèse vì chị Pauline
giống như người mẹ thứ hai của Thérèse, chăm sóc và dạy dỗ chị ân cần như mẹ đã
từng làm. Thérèse nhớ chị Pauline đến phát ốm. Suốt cả tuần sau đó chị vẫn chưa
khỏi, các bác sĩ không biết chị đã gặp vấn đề gì. Bố và 4 chị gái của Thérèse
đã cầu xin Thiên Chúa giúp. Một ngày sau, tượng Đức Mẹ trong phòng ngủ của
Thérèse bỗng dưng mỉm cười với Thérèse và chị hoàn toàn bình phục!
Một lần
khác, Thérèse nghe tin về một người đàn ông đã gây ra ba vụ giết người và thậm
chí còn không biêt hối lỗi. Chị quyết định cầu nguyện và làm một việc hy sinh
để cầu nguyện cho ông ấy (như từ bỏ một cái gì đó mình thích, hay làm một việc
nào đó mà mình không thích). Chị cầu xin Chúa thay đổi tâm hồn người đàn ông
ấy. Trước khi người đàn ông đó chết, ông ta hỏi về cây thánh giá và hôn lên
hình Chúa Giêsu. Thérèse cảm thấy rất hạnh phúc, chị biết rằng ông ta đã tin
vào Chúa và đón nhận ơn sám hối.
Thérèse
rất yêu mến Chúa Giêsu. Chị muốn dâng hết cả con người mình cho Chúa. Chị muốn
gia nhập dòng Camelô để có thể dâng hiến đời mình để làm việc và cầu nguyện cho
mọi người, nhất là cho những người còn chưa biết đến lòng thương xót Chúa.
Nhưng Thérèse gặp một trắc trở: chị còn quá trẻ, cần phải cầu nguyện và chờ đợi
thêm. Cuối cùng thì chị cũng được 15 tuổi, được phép gia nhập vào tu viện.
Chị
Thérèse đã làm gì trong thời gian ở tu viện? Không gì đặc biệt cả. Bí mật của
chị ấy là: YÊU MẾN. Có một lần Thérèse nói rằng: “Thiên Chúa không muốn chúng
ta phải làm điều này điều kia cho Ngài, mà Ngài muốn chúng ta yêu Ngài là đủ.”
Vì thế, Thérèse đã ước muốn và thực hành đời sống yêu mến Chúa. Chị tập kiên
nhẫn và ân cần với mọi người, điều đó thật không dễ chút nào. Trong thời ấy,
lúc các chị đang giặt quần áo bằng tay (lúc đó máy giặt chưa được phát minh),
có một chị luôn làm bắn tóe nước bẩn vào mặt Thérèse. Nhưng Thérèse chẳng bao
giờ tỏ ra bực bội. Thérèse thường hay giúp đỡ một chị lớn tuổi có tính cáu gắt
và luôn phàn nàn về mọi thứ, bởi vì Thérèse không cảm thấy thích việc đó.
Thérèse muốn đối xử với chị ấy như với chính Chúa Giêsu. Chị biết rằng khi mình
yêu những người khác tức là mình đang yêu chính Chúa Giêsu. Tình yêu khiến
Thérèse trở nên hạnh phúc.
Thérèse
chỉ sống đời tu 9 năm. Căn bệnh lao đã xảy đến với chị, nó khiến chị phải chịu
rất nhiều đau đớn. Không có sự điều trị đối với căn bệnh ấy, các bác sĩ cũng
không thể giúp được nhiều cho chị. Thérèse qua đời khi mới chỉ 24 tuổi. Nhưng
trước khi chết, chị đã hứa sẽ không từ bỏ điều bí mật của mình. Chị hứa sẽ luôn
yêu thương và giúp đỡ mọi người khi về quê trời. Trước khi mất, Thérèse đã nói:
“Tôi sẽ gửi mưa ơn lành từ trời xuống mặt đất.” Và chị ấy đã làm được điều đó!
Tất cả mọi người trên thế giới, những người đã nhờ thánh Thérèse Lisieux cầu
xin đến Thiên Chúa đều nhận được sự đáp trả qua lời cầu nguyện của họ.
Bí mật
của Thánh Têrêsa Hài Đồng
Thérèse
đã khám phá ra “con đường nhỏ” để đến với Thiên Chúa: Thérèse muốn nên Thánh.
Ngài biết Thiên Chúa rất muốn giúp đỡ mình và đặt hết mọi tin tưởng nơi Thiên
Chúa và yêu Chúa hết cả tấm lòng, sau đó ngài quan tâm, đối xử tốt với mọi
người xung quanh, từ những việc đơn giản nhất. “Con đường nhỏ” của Thérèse là
làm mọi việc bạn có thể làm cho người khác vì yêu mến Chúa. Đó chắc chắn là
cách để bạn có thể nên thánh.
2. Gắn bó vào Ðức Giêsu như trẻ thơ
Một cậu
bé gõ cửa nhà một bà già và hỏi xem bà có mua những trái trứng cá chín mọng cậu
vừa hái được hay không. Bà trả lời: “Có, bà sẽ xách xô của cháu vào bếp và đong
2 lít.”
Cậu bé
đứng ngoài đùa với con chó. Bà nói: “Sao cháu không vào xem bà đong có đúng
không? Nhỡ bà lường gạt cháu thì sao?”
- Cháu
không sợ, vì làm thế bà sẽ nhận được điều xấu nhất.
- Cháu
muốn nói gì?
- Vì
cháu chỉ mất vài trái nhỏ, nhưng bà tự biến mình thành kẻ trộm.
3. Với tình yêu, càng thua thiệt càng có giá trị
Mùa hè
1987 khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đến thăm tiểu bang California Hoa Kỳ.
Trong buổi gặp gỡ với dân chúng đón tiếp Ngài người ta đã được chứng kiến một
sự kiện vô cùng đẹp đó là khi từ trên lễ đài nhìn xuống, Ngài thấy một người
thanh niên tàn tật đang ôm một cây đàn và hát. Hôm ấy nhiều người đã được chứng
kiến và thật không bao giờ có thể quên được khi Đức Giáo Hoàng từ trên cao Đức
Giáo Hoàng bước xuống để ôm và hôn một người thanh niên đang hát với tiếng đàng
ghi ta đó. Điều gì đã làm cho cảnh ấy trở nên khác lạ và giây phút ấy trở nên
luyến nhớ cho nhiều người? Thưa rằng bởi vì người thanh niên ấy đã chơi đàn ghi
ta bằng những ngón chân của mình!
Tony
Belade là hiện thân của niềm hy vọng. Anh đã chào đời không có hai cánh tay,
nhưng anh đã biết tận dụng các ngón chân của mình để học đàn ghi ta. Không
những thế, anh còn dùng chân trong nhiều công việc khác nữa như: gấp quần áo,
vắt một ly nước chanh... Anh đã biết biến sự tàn tật kém may mắn của mình thành
một khả năng thuần thục. Ngạc nhiên trước khả năng lạ lùng ấy của anh, nhiều
người đã hỏi anh:
- Bí
quyết nào đã giúp anh chẳng những chấp nhận mình để sống bình thường, mà còn sử
dụng ghi ta một cách tuyệt diệu như thế?
Người
thanh niên tàn tật trả lời:
- Tôi
đã cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, xin nhận lấy con và dùng con theo Thánh ý
Chúa.” Tôi đã tự hiến cho Chúa như một của lễ sống động và Chúa đã nhận lời
tôi.
4. Những câu nói nổi tiếng của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu
Dưới
đây là những câu nói nổi bật của thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu
- Đức
Tin của chúng ta thật hiển hách! Thay vì giới hạn các con tim, như thế gian
mong muốn, Đức Tin lại nâng các con tim lên và gia tăng khả năng yêu thương của
chúng.
- Xin
nhớ rằng không có điều gì là nhỏ bé dưới mắt Thiên Chúa. Hãy làm mọi việc với
tình yêu.
- Vẻ
rực rỡ của bông hồng và màu trắng của bông huệ không tước mất hương thơm của
bông hoa tím hay lấy đi vẻ hấp dẫn mộc mạc của bông cúc dại. Nếu mỗi bông hoa
nhỏ cứ muốn làm một bông hồng, mùa xuân hẳn sẽ mất vẻ yêu kiều.
- Hẳn
là bạn cũng biết rằng Chúa chúng ta không quan tâm nhiều đến vẻ lớn lao hay sự
khó khăn của các hành vi chúng ta làm, nhưng là tình yêu chúng ta có khi làm.
- Không
có tình yêu, các hành vi, dù sáng chói nhất, cũng không đáng kể gì.
- Tin
tưởng và chỉ tin tưởng mới dẫn chúng ta đến tình yêu.
- Không
nên bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào mà không làm một hy sinh nhỏ, ở đây bằng gương mặt
tươi cười, ở kia bằng một lời khả ái, luôn luôn làm việc đúng đắn dù nhỏ bé
nhất và làm vì tình yêu.
- Đối
với em, cầu nguyện là một sự trào dâng của con tim; cầu nguyện đơn giản là một
cái nhìn hướng về trời, là một tiếng kêu nhận biết và yêu thương, ôm lấy cả thử
thách lẫn niềm vui.
- Một
lời nói hay một nụ cười thường cũng đủ để đưa sự sống tươi mát vào trong một
tâm hồn thất vọng.
- Bây
giờ em biết rằng bác ái chân thật hệ tại gánh lấy tất cả những khuyết điểm của
người thân cận – không ngạc nhiên trước sự yếu đuối của họ, nhưng vui sướng về
những nhân đức nhỏ nhất của họ.
- Niềm
vui ấy ta không tìm được nơi các sự vật bao quanh ta, nhưng chỉ ở trong tâm
hồn; và ta có thể sở hữu nó dễ dàng khi ở trong một nhà tù tăm tối cũng như khi
ở trong dinh thự của một vị Vua.
- Con
cầm lấy quyển Kinh Thánh. Thế là mọi sự dường như sáng ra với con; chỉ một chữ
thôi cũng mở ra cho con những chân trời vô biên, sự hoàn thiện tỏ ra đơn giản
với con.
- Nếu
em không chỉ sống từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, hẳn là em đã không
thể kiên nhẫn; nhưng em chỉ nhìn đến hiện tại, em quên đi quá khứ, và em quan
tâm không chặn trước tương lai.
- Đừng
sợ nói với Đức Giêsu rằng bạn yêu thương Người; cho dù không cảm thấy gì, đó là
cách để buộc Người giúp đỡ bạn, và bồng lấy bạn như một em nhỏ quá yếu không
thể bước đi.
- Sứ
mạng của con – làm cho Thiên Chúa được yêu mến – sẽ bắt đầu sau khi con chết.
Con sẽ sống trên trời mà làm điều thiện dưới đất. Con sẽ gửi đến một trận mưa
hoa hồng.
- Đức
Giêsu không cần sách vở hoặc các Tiến sĩ thần học để dạy dỗ các tâm hồn; là
Tiến sĩ của các tiến sĩ, Người dạy dỗ không cần nói năng ồn ào.
- Điều
duy nhất con thực sự ước muốn… là yêu cho đến chết vì yêu.
5. Đường Thơ Ấu Thiêng Liêng
Một hôm
nhà đạo sĩ Beroca cùng với người môn đệ là Elia bước ra khỏi trại, nhà đạo sĩ
đưa mắt nhìn ra đám đông người, giữa khu phố ồn ào náo nhiệt, rồi lên tiếng hỏi
môn đệ: Con nghĩ sao giữa những người bon chen nơi phố chợ này? Sẽ có ai được hưởng
hạnh phúc đời đời trên thiên đàng không?
Thoạt
đầu Elia lắc đầu bi quan trả lời là: không có ai cả. Một lúc sau người môn đệ
đưa tay chỉ về phía hai người đang đứng đó và nói: thưa thầy, con nghĩ rằng hai
người này thế nào cũng sẽ được chia sẻ phần hạnh phúc đời đời.
Nhà đạo
sĩ cho gọi hai người ấy đến và hỏi xem họ làm nghề gì?
Họ
thưa: thưa thầy, chúng con chỉ biết làm nghề mua vui cho người ta thôi. Khi
thấy ai buồn sầu, chúng con tới làm cho họ vui lên. Khi họ gây lộn cãi vã nhau,
chúng con tìm mọi cách giúp họ làm hòa và sống an bình với nhau hơn. Chúng con
không biết làm gì hơn ngoài những việc nhỏ mọn như thế thôi.
Nhà đạo
sĩ trả lời: các anh nói rất đúng, vì những việc các anh làm tuy bé nhỏ nhưng
thực sự lại rất lớn lao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã nói: "Ai không trở nên
đơn sơ bé nhỏ sẽ không được vào Nước Trời.”
6. Sự vĩ đại đến từ Chúa
Thế
nhưng, sự vĩ đại của một vị thánh đâu hệ ở những biến cố hay những công trạng
vang dội, song cốt ở việc họ thuộc về Chúa[4] đến mức nào mà thôi. Chị Têrêsa
Nhỏ đã minh chứng cho chân lý ấy cách mạnh mẽ và đầy hồn nhiên bằng những dòng
nhật ký của mình.
Chị
viết xuống ước mơ của chị:
“Phần
con, con vẫn một lòng quả cảm muốn làm đại thánh. Con không cậy công con, có
đâu mà cậy; con hoàn toàn cậy trông ở Chúa là sức mạnh, là chính sự thánh
thiện. Những cố gắng nhỏ nhặt của con cũng làm Chúa vui lòng. Người sẽ nâng đỡ
con lên tới Người, Người sẽ lấy công nghiệp cực trọng Người mà bù đắp cho con.
Người sẽ làm con nên thánh.”[5]
7. Đĩa rau trộn
Không
chỉ mơ mộng suông, Têrêsa còn sống lý tưởng kia trong đời thực bằng những hy
sinh, tập rèn nhân đức. Có bận, khi đang giặt đồ, một Soeur cứ làm bắn nước bẩn
vào mặt Têrêsa. Têrêsa vô cùng khó chịu. Chị muốn lùi ngay ra, lau mặt như để
“giằng mặt” Soeur ấy. Nhưng rồi chị cố nén mình, không tỏ vẻ khó chịu gì hết,
và cứ để nước bẩn ấy bắn lên mặt. Chị giải thích nguyên do như sau: “Con là một
linh hồn rất nhỏ mọn, chỉ biết dâng lên Chúa những việc rất nhỏ mọn thế thôi.
Thật là việc hèn mọn chẳng đáng gì, song đã mang lại cho con được bình an vui
vẻ trong lòng.”[6] Một lần khác, khi đang là phụ tá giáo tập, Têrêsa đã “được”
các chị em nhà Tập “góp ý” cách thẳng thắn về những khuyết điểm cũng như những
điều các chị em ấy không ưa không thích nơi Têrêsa. Têrêsa đã đau khổ gọi nó là
“một đĩa rau trộn, trộn rất nhiều giấm và thêm thắt nhiều vị đắng chát… đĩa rau
trộn chẳng thiếu gì, chỉ thiếu chất dầu, một chất không có không thành rau
trộn, chỉ thành một món chưa có tên gọi.”[7] Đối mặt với “đĩa rau trộn” này,
chị Têrêsa lại coi đó như là “cách thức Chúa chăm sóc gìn giữ chị. Chúa chỉ
muốn chị phải nén lòng bên trong, phải khiêm nhượng thật trong linh hồn.”
Với
những tập rèn nho nhỏ ấy suốt 8 năm ròng trong tu viện, Têrêsa đã có thói quen
“mỉm cười trước và trong đau khổ.” Thế nên, trong những ngày tháng cuối đời
trên giường bệnh, dù liên tục ho ra máu, dù đau đầu như thể không làm chủ được
mình, chị thánh vẫn hằng giữ được nụ cười trên môi. Bởi tận sâu trong thâm tâm
mình, chị xác tín một điều rằng: “Một trinh nữ muốn hy sinh cho Tình Ái mà còn
ghê sợ chút quà Bạn Thánh gởi cho sao? Lúc nào chịu nổi ngần nào, Bạn Thánh gởi
cho ngần ấy, không bao giờ phải lo quá, giả như chốc nữa Người gởi thêm đau
đớn, Người cũng sẽ gởi thêm sức chịu đựng. Tuy nhiên, chẳng khi nào con dám xin
Chúa gởi cho đau khổ cả thể, vì sức con hèn yếu lắm. Con mà xin như thế, những
đau khổ ấy sẽ thuộc về con và riêng sức con phải gánh lấy; nhưng sức riêng con
có làm nên trò trống gì bao giờ?”[8]
8. Ta khát
“Một
Chúa nhật kia, khi nhìn ảnh tượng Chúa Giêsu trên Thánh Giá, Têrêxa xúc động
như thể máu đang chảy từ vết thương của mình. Têrêxa cảm thấy vang dội trong
con tim tiếng kêu của chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá: ‘Ta khát’.
Têrêxa
kể lại: ‘Những lời ấy khơi lên trong con một sự nồng nhiệt mãnh liệt chưa từng thấy…
Con muốn cho Đấng con yêu mến được giải khát và con cảm thấy chính mình đang bị
dằn vặt vì niềm khao khát các linh hồn. Bấy giờ con chưa bị thu hút vì linh hồn
của các linh mục, nhưng là linh hồn của những người đại tội lỗi.’ Và Têrêxa
quyết định vào dòng kín Camêlô, nơi Chúa Giêsu lôi kéo chị.
Chính
trong nhà dòng kín đó mà chiều kích tông đồ của chị được phát triển đặc biệt.
Chị giúp việc đào tạo các tập sinh trong nhà dòng và đồng thời đảm trách việc
hỗ trợ tinh thần cho hai thừa sai. Sự cởi mở đó thật phù hợp với sự quan phòng
của Chúa: đó là dịp để Têrêxa khám phá và biểu lộ sứ mạng tông đồ của chị trong
Giáo Hội.
Ngày 18
tháng 8 năm 1890, chị Pauline của Têrêxa hỏi: ‘Vậy em có muốn lập công không?’.
Têrêxa mau lẹ đáp: ‘Có chứ, nhưng không phải cho em, mà là cho những người tội
lỗi đáng thương, cho các nhu cầu của Giáo Hội’. Thái độ dâng hiến cho Tình Yêu
Từ Bi thật là rõ ràng: ‘Con không muốn tích trữ công đức cho mình để được lên
trời, con muốn làm việc cho Chúa là Tình Yêu duy nhất… Con muốn nhận được từ
Tình Yêu Chúa phần thưởng đời đời là chính Chúa’ (Sách Giáo Lý Công Giáo, n.
2011).”
9. Con đường của thánh Têrêxa
Têrêxa
Hài Đồng là bậc thầy tu đức được noi gương nhiều nhất, không những trong các
chủng viện và dòng tu, nhưng cả trong các nhóm, phong trào và hội đoàn giáo
dân, cũng như trong các gia đình. Tác phẩm của thánh nữ thuộc vào loại được đọc
nhiều nhất thời nay, và trở thành một vị hướng đạo cho hàng triệu người. Ấn bản
đầu tiên của cuốn Truyện một tâm hồn, xuất bản năm 1898 đã được dịch ra, ấn
hành và tái bản trong hơn 50 ngôn ngữ với hàng triệu bản.
ĐHY
Dionigi Tettamanzi, TGM giáo phận Milano, đã từng nói với các nữ đan sĩ dòng
kín Cát Minh ở Genova: “Nơi thánh nữ Têrêxa tôi thấy được sự dịu hiền từ ái vô
biên của Thiên Chúa. Lời Chúa phán qua Sứ ngôn Isaia đã trở thành kinh nghiệm
hằng ngày của Thánh Nữ: “… Những người con nhỏ của Chúa sẽ được bồng ẵm trên
tay, chúng được vuốt ve trên đầu gối của Người. Như một người mẹ an ủi con
mình, Ta cũng sẽ an ủi các con như vậy” (Is 66,12-13). Sứ điệp này quả thực có
tính chất thời sự dường nào! Con người ngày nay đang cần tình thương, cần được
quan tâm, cần có những quan hệ tình người đầy ý nghĩa, cần phải làm sao để họ
gặp được những chứng nhân đích thực về sự dịu hiền từ ái của Chúa. Có lẽ cũng
vì thế, con đường của thánh Têrêxa cũng là con đường trở về được chuẩn bị cho
những người đã rời xa Thiên Chúa.” (Báo Avvenire, 14-10-1997).
10. Đau khổ trong tâm hồn
Có kẻ
bảo rằng chị thánh Tê-rê-sa chịu đau đớn trên thân xác nhưng những đau khổ
trong tâm hồn mới gọi là đau khổ.
Phải.
Anh chàng đau răng nói nhức răng mới gọi là đau. Cô dâu nói chỉ có bị mẹ chồng
hành mới gọi là khổ.Nhưng đau đớn trên thân xác hay đau khổ trong tâm hồn chị
thánh Tê-rê-sa đều có cả.
Trong
Đan viện, chị phải đau khổ vì Mẹ Bề trên, một bà khó tánh. Mỗi lần gặp bà là
mỗi lần chị phải hôn đất, chị nói thế. Còn Mẹ Giáo tập thì tốt nhưng lại phải
cái tánh “nói trước quên sau”, nên nhiều lần chị vâng lời rồi lại bị khiển
trách. Rồi cộng đoàn chị em nữa, nhiều khi cũng nói ra, nói vào. Chỉ vì trong
cộng đoàn 18 người mà dòng họ Martin đóng góp đến 5. Bà Bề trên, chẳng hạn, có
lần đã nói: “Cái chị Tê-rê-sa được hết mọi chuyện, chỉ trừ một chuyện là có đến
4 chị em trong nhà này.” Trời ơi! Người ta rủ nhau đi tu mà cũng nói! Có lần nghĩ
đến chuyện ấy, chị Tê-rê-sa nói: “Những bước đầu tiên của tôi vào đan viện đã
đạp phải gai, gai hoa hồng.”
11. Nước Trời dành cho trẻ thơ
Trong
một thị kiến tôi thấy: Một đoàn người đứng trước cửa Trời, ai cũng mong được
vào trước, nhưng những kẻ thấp cổ bé miệng thì không dám dành với những người
có chức quyền. Khi Thánh Phêrô mở cửa Trời, Chúa từ trong Cung Điện bước ra,
Ngài gặp một vị mặc áo cẩm bào, đội mũ cà cuống, cầm gậy rồng đứng trước, Chúa
hỏi:
- Ngươi
là ai?
- Dạ,
thưa con là Giáo hoàng.
- Đứng
ra một bên, đợi đã.
Người
khác tiến đến, mặc áo vét-tông, thắt cà-vạt, Chúa hỏi:
- Ngươi
là ai?
- Dạ
con là Tổng thống.
- Đứng
bên cạnh chờ.
…………
Một cụ
già lụ khụ chống gậy đến, Chúa hỏi:
- Ngươi
là ai?
- Dạ,
con là con nít ạ.
- Vô,
vô con, lẹ lên!
12. Đức công bằng của Chúa yên ủi ta
Ngày 9
tháng 5 năm 1897, thánh Têrêsa có gửi Cha Rouland, đang giảng đạo bên Trung
Quốc, một bức thư, trong đó thánh nhân có nói về đức công bằng của Chúa. Ngày
16 tháng 7 năm 1897, Têrêsa có nói với chị ngài là Mẹ Agnès de Jésus: “Mẹ ạ,
trong tập viết của con (cuốn tự thuật, truyện một linh hồn) con mới chỉ nói vài
lời về đức công bằng của Chúa. Nhưng nếu mẹ muốn biết rõ, mẹ sẽ thấy tất cả tư
tưởng của con trong bức thư gửi Cha Rouland. Con đã diễn tả rất rõ.”
Sở dĩ
trong bức thư gửi Cha Rouland, thánh nữ có đề cập tới đức công bằng của Chúa,
vì ngày 24 tháng 2 năm 1897, Cha Rouland có gửi cho thánh nữ một bức thư, trong
đó có câu:
“Sau
cùng, chúng tôi phó thác nơi Chúa, nếu tôi bị cướp giết, mà không được vào
thiên đàng ngay, thì chị cố kéo tôi ra khỏi luyện tội, và tôi sẽ chờ chị trên
thiên đàng.”
Thánh
nữ có viết thư trả lời như sau:
“Thưa
cha, con không hiểu được, sao cha coi như hoài nghi không được vào thiên đàng
ngay, nếu như cha bị giết. Tuy con biết, phải rất trong sạch mới được ra trước
mặt Chúa, đấng đầy thánh thiện, nhưng con cũng biết rằng, Chúa cũng công bằng,
và đức công bằng này tuy làm cho biết bao linh hồn run sợ, thì lại làm cho con
vui sướng, và đầy trông cậy. Công bằng không phải là chỉ thi hành sự nghiêm
thẳng, để phạt tội nhân, mà công bằng còn phải biết đến chủ ý thẳng thắn mà ân
thưởng nhân đức. Con hy vọng vào đức công bằng cũng như hy vọng vào lòng từ ái
của Chúa; cũng chỉ vì Chúa công bằng, nên thánh vịnh 103 từ câu 8 tới 14 mới
ghi:
Chúa
đầy trắc ẩn và từ bi,
khoan
dung và giầu ơn nghĩa,
Người
không hạch tội luôn luôn,
Người
không oán hờn mãi mãi
Người
không xử với ta xứng tội của ta,
Người
không trả cho ta xứng lỗi ta làm
Ví như
trời cao hơn đất thế nào,
thì ơn
người cũng cao vời trên những ai kích sợ người.
Đông,
đoàn cách nhau bao nhiêu,
thì
người cũng cất lỗi phạm của ta ra xa ta chừng ấy.
Như cha
xót thương, con mình thế nào,
thì
Chúa cũng xót thương những ai kính sợ người như vậy.
Người
biết hình hài ta ra sao,
Người
nhớ lắm: ta là bụi đất.
(Tv.103,8-14)
13. Câu chuyện của thánh Têrêsa (Gm Bùi Tuần)
Thánh
nữ đưa ra một chuyện biến ngôn. Có một vị lãnh chúa muốn xây một thánh đường
nguy nga dâng kính Thiên Chúa. Ông ra sắc lệnh, kêu gọi những ai có của phải
góp phần vào. Từ khắp nơi, đoàn ngựa kế tiếp nhau chở vật tư đến nơi xây cất.
Các chủ vật tư đều là những người giàu có. Đang khi đó, một người đàn bà rất
nghèo cũng muốn dâng cúng. Nhưng bà chỉ đủ tiền mua một sọt cỏ. Bà đưa cỏ cho
mấy con ngựa chở vật tư ăn. Khi thánh đường được xây cất xong, vị lãnh chúa
truyền ghi trên tấm bảng tên của mình và của các ân nhân, được gắn vào tường
thánh đường. Nhưng, qua một đêm, trên tấm bảng đó các tên đã ghi đều bị xoá, và
thay vào đó là tên một người đàn bà vô danh. Vị lãnh chúa phẫn nộ, truyền làm
lại tấm bảng. Nhưng đêm sau, các tên trên bảng lại bị xoá, và lại ghi tên một
người đàn bà vô danh. Ông liền điều tra. Sau cùng, ông được gặp người đàn bà
nghèo đó. Bà nói thật bà chỉ cho ngựa ăn mớ cỏ, mà bà đã bỏ hết tiền của bà ra
để mua. Vị lãnh chúa hiểu trước mặt Chúa bà là người có nhiều công nhất.
Từ
chuyện biến ngôn trên đây, thánh nữ Têrêsa nghĩ về chính mình. Trong việc xây
dựng Hội Thánh, ngài sẽ chỉ làm những việc bé nhỏ, âm thầm, nhưng tin chắc Chúa
sẽ căn cứ vào tình yêu hơn là việc làm.
Bài
học trên đây rất dễ hiểu. Tôi áp dụng cho tôi. Tôi sẽ chỉ đủ sức làm những việc
nhỏ. Nhưng tôi đem tất cả tình yêu của tôi vào những việc nhỏ đó. Chúa sẽ
thương nhận, để góp phần xây dựng Hội Thánh, và cứu các linh hồn. Xin hết lòng
tạ ơn Chúa đã ban cho tôi một trái tim biết yêu thương.
14. Yêu thương các linh hồn
Về việc
cứu các linh hồn, thì thánh nữ Têrêsa đã là một bài học dễ hiểu. Có lần ngài đã
nói với các em đệ tử của ngài: “Nếu chị phải ở luyện tội cho đến tận thế, để
cầu nguyện, chỉ để cứu lấy một linh hồn mà thôi, thì hãy để mặc chị.”
Qua
lời nói trên đây, thánh nữ cho thấy ngài rất quên mình để cứu các linh hồn. Yêu
thương và hy sinh chịu đau khổ, để cứu các linh hồn, đó là niềm vui ngài muốn
dâng lên Chúa.
Một
nữ tu trẻ dòng Kín có được một khao khát cứu các linh hồn như thế, quả là một
tiếng Chúa đánh thức lương tâm tôi. Tôi có nhiều cách để tránh né tiếng gọi đó.
Nhưng nếu làm thế, tôi sẽ chỉ chuốc khổ vào thân. Tôi sẽ chẳng cứu được ai, và
cũng chẳng cứu được chính mình. Tôi cảm tạ Chúa đã cho tôi nghị lực để dấn thân
cứu các linh hồn bằng cầu nguyện và hy sinh âm thầm trong chính hoàn cảnh già
yếu hiện giờ của tôi.
15. Lược sử
"Tôi
thích sự buồn tẻ của việc hy sinh âm thầm hơn là những trạng thái xuất thần.
Nhặt một cây kim vì tình yêu cũng có thể hoán cải một linh hồn." Đó là
những lời của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu dòng Camêlô thường được
gọi là "Bông Hoa Nhỏ," người đã sống một đời âm thầm trong tu viện ở
Lisieux, nước Pháp. Và quả thật, những hy sinh âm thầm của ngài đã hoán cải các
linh hồn. Không mấy vị thánh của Thiên Chúa nổi tiếng như vị thánh trẻ trung
này. Cuốn tự truyện của ngài, Chuyện Một Linh Hồn, được cả thế giới đọc và yêu
chuộng. Tên thật của ngài là Thérèse Martin, gia nhập tu viện năm 15 tuổi và từ
trần năm 1897 lúc 24 tuổi.
Đời
sống tu viện dòng kín Camelô thật buồn tẻ và phần lớn chỉ gồm sự cầu nguyện và
làm các công việc trong nhà. Nhưng Thánh Têrêsa có được sự hiểu biết sâu sắc
thánh thiện để chuộc lại quãng thời gian ấy, bất kể có nhàm chán đến đâu. Ngài
nhìn thấy sự đau khổ cứu chuộc trong sự đau khổ âm thầm, sự đau khổ là đời sống
tông đồ của ngài.
Vào
ngày 19-10-1997, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II tuyên xưng ngài là Tiến Sĩ Hội
Thánh, là người phụ nữ thứ ba trong Giáo Hội được công nhận về sự thánh thiện
và về ảnh hưởng tinh thần của những gì ngài viết.
16. Với Chúa Thánh Thần
Thánh
nữ Têrêxa muốn vào dòng tu kín năm 15 tuổi. Trở ngại đầu tiên ngài phải lướt
thắng là trình bày với cha ngài để cha ưng thuận, vì hai chị của ngài cũng mới
từ giã cha để vào dòng kín. Ngài là con út, cha ngài lại rất yêu thương ngài,
coi ngài là nguồn an ủi đặc biệt của tuổi già. Ngài có viết trong tập “Tự
Thuật” (Truyện Một Linh Hồn):
“Con
chẳng biết liệu cách nào mà trình bày với cha được, cha vừa mới phải hy sinh
hai con cho Chúa, nỗi thương nhớ còn đầy lòng, bây giờ lại nói đến chuyện phải
lìa xa đứa con út của cha sao đành! Vả nữa năm ấy chúng con thấy cha phải chứng
bệnh bại thân đau lắm, tuy đã chóng khỏi thật, nhưng cũng còn phải lo ngại cho
sau này.
“Con đã
chọn ngày lễ Hiện Xuống để thưa cha việc quan trọng này, cả ngày ấy con những
cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng, kêu van các thánh tông đồ nguyện giúp
cầu thay để con được biết mà nói cho cha vui lòng…”
Kết quả
việc cầu xin cùng Chúa Thánh Thần là: cha ngài đã ưng thuận…
17. Ách êm ái và gánh nhẹ nhàng
Ngày
kia, chị thánh Têrêxa đố các chị em trong dòng:
- Các
chị có biết ngày lễ vui mừng của em là ngày nào không?
Vừa hỏi
xong, chị thánh đã mau mắn trả lời ngay:
- Đó là
ngày Chúa thử thách em nhiều nhất. Đó là ngày Chúa để cho em chịu nhiều đau khổ
nhất.
Một hôm
kia, bà bề trên hỏi chị:
- Sáng
nay, sao em vui thế?
Chị
thành thật thưa lại:
- Dạ,
con vừa làm được hai việc hy sinh.
Chị
thánh Têrêxa thú nhận là chị đã tập được một thói quen rất anh hùng, đó là luôn
mỉm cười. Chị nói:
- Tôi
đã tập được thói quen mỉm cười trong mọi lúc, trong mọi nơi, trong mọi trường
hợp, trong mọi hoàn cảnh.
18. Niềm tin trong nghịch cảnh
Năm 23
tuổi, Têrêxa bị thổ huyết lần đầu vào Thứ Sáu Tuần Thánh, sau đó sức khoẻ chị
dần dần phục hồi. Nhưng năm sau, bệnh lao phổi tái phát nặng nề vào Mùa Chay.
Trong những ngày sau hết, khi sức cùng lực kiệt, chị lại được tin thân phụ vừa
phải đưa vào điều trị chung với những người điên, chịu người đời khinh miệt.
Cuối
cùng, ngày 30.9.1897, chị đã qua đời trong cơn khát nước và ngạt thở do bệnh
lao phổi và loét ruột. Giờ hấp hối, chị đã thốt lên trong nhọc mệt: “Chúa ơi,
Chúa ơi, sao Chúa nỡ bỏ con?”
Tiếng
kêu của nỗi đau! Kêu than nhưng vẫn cậy trông, bám víu vào Chúa, như chị nói:
“Sự điên khùng của tôi chính là hy vọng.”
Chị tự
nhận mình là hy vọng một cách điên khùng vì thấy mình chỉ bám víu vào Chúa, một
điều không thể hiểu được nếu không có niềm tin. Nhưng nếu không có niềm hy vọng
đó thì chị đã phát điên lên trước bao nghịch cảnh của cuộc đời, như chị đã viết
trong nhật ký: “Nếu không có đức tin thì tôi đã tự sát, không do dự một phút
nào!”
Lời
Chúa: Mt 18, 1-5. 10
Khi ấy,
các môn đệ đến bên Chúa Giêsu mà hỏi rằng: "Thưa Thầy, ai là kẻ lớn nhất
trong Nước Trời?" Chúa Giêsu gọi một trẻ nhỏ lại, đặt nó giữa các ông mà
phán rằng: "Thật, Thầy bảo thật các con: nếu các con không hoá nên như trẻ
nhỏ, các con sẽ không được vào Nước Trời.
Vậy ai
hạ mình xuống như trẻ nhỏ này, người ấy là kẻ lớn nhất trong Nước Trời. Và kẻ
nào đón nhận một trẻ nhỏ như thế này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy. Các
con hãy coi chừng, đừng khinh rẻ một ai trong những kẻ bé mọn này, vì Thầy bảo
các con, thiên thần của chúng trên trời hằng chiêm ngưỡng thánh nhan Cha Thầy,
Ðấng ngự trên trời."
TRUYỆN KỂ
1. Kẻ bé mọn trong cộng đoàn
Bài Tin
Mừng hôm nay vừa nói đến trẻ nhỏ, vừa nói đến những kẻ bé mọn trong cộng đoàn.
Ai là những kẻ bé mọn trong cộng đoàn?
Đó là
những người tin vào Đức Giêsu (Mt 18, 6), nhưng đức tin của họ còn non yếu,
mong manh. Đức Giêsu đã nặng lời với ai làm cho một kẻ bé mọn sa ngã. “Thà cột
cối đá lớn vào cổ và ném nó dưới biển còn hơn.” Rõ ràng Đức Giêsu quý những kẻ
bé mọntrong cộng đoàn.
Ngài
không muốn họ bị tổn thương vì gương mù gương xấu. Câu cuối của bài Tin Mừng là
một lời nhắc nhở nữa. “Anh em chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn này” (c.
10). Lý do Đức Giêsu đưa ra khá đặc biệt: “Vì các thiên thần của họ ở trên trời
không ngừng thấy khuôn mặt của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.”
2. Người nhỏ nhất
Phá kỷ
lục là ước mơ của các vận động viên. Làm sao phá kỷ lục của quốc gia, của vùng,
của châu lục và thế giới?
Để phá
kỷ lục cần có thành tích vượt hơn người đang giữ nó. Chỉ cần chạy nhanh hơn một
phần ngàn giây, nhảy cao hơn hay xa hơn một centimét, cũng đủ để làm một kỷ lục
đứng vững nhiều năm bị phá đổ.
Nhưng
không phải chỉ các vận động viên mới thích phá kỷ lục. Các nước cũng tranh nhau
xem ai là cường quốc về một lãnh vực nào đó. Có vẻ cả nhân loại đều ở trong một
cuộc đua tranh xem ai đứng đầu.
Có
những cuộc đua tranh lành mạnh, thúc đẩy tiến bộ. Nhưng cũng có những cuộc đua
tranh dẫn đến chiến tranh và hủy diệt.
3. Thiên Thần Bản Mệnh giữ gìn tôi
Một vị
linh mục kể lại một chứng từ: “Khi đó ngài làm cha sở ở một xứ đạo hẻo lánh
miền quê bên Pháp, vào một đêm được tin một người đau nặng đang hấp hối, muốn
xin ngài tới xức dầu. Trời về khuya, với bổn phận mục tử ngài ra đi làm phận sự
của mình. Từ nhà xứ tới nhà người đau, ngài phải băng qua khu rừng vắng. Khi
tới khu rừng, trời đã rất tối, ngài ngập ngừng, nhưng nghĩ lại và nhớ tới Thiên
Thần Bản Mệnh, ngài cầu nguyện để Thiên Thần cùng đi với mình. Ngài mạnh dạn và
đã tới xức dầu cho người bệnh kịp thời giờ hấp hối...
Mười
năm sau, ngài được người ta báo: Có người tử tù sắp bị hành quyết, anh ta rất
khó tính và không chịu nghe bất cứ một ai khuyên bảo. Nghe tin, ngài đã tới
thăm vì lòng nhân từ mục tử. Vừa thấy ngài, người tử tù đã muốn phản ứng xua
đuổi, không muốn gặp, nhưng khi nhìn trực diện ngài, bỗng anh ta ngừng lại và
nói với ngài: “Có phải cha là cha sở họ X không?" Ngài ngạc nhiên trả lời:
“Trước đây 10 năm tôi làm cha sở ở đó, nhưng bây giờ tôi đã đi nơi khác...
Thì
ra cách đây 10 năm, người tử tù lúc đó là tên ăn cướp giết người, đang lẩn trốn
ở khu rừng mà tôi đi qua và hắn định bất cứ gặp thấy ai, hắn sẽ giết chết để
lấy quần áo của khổ chủ mà hóa trang, đánh lừa lưới của pháp luật. Người tử tù
kể lại: “Lúc đó y muốn giết tôi, nhưng thấy bên cạnh có người thanh niên lực
lưỡng, thấy không thể thắng nổi, nên y đã để cho tôi và người thanh niên ấy đi
bình an, vô sự."
Nghe
người tử tù thuật lại, tôi ngạc nhiên và sực nhớ lại lúc đó tôi dừng lại để cầu
nguyện xin Thiên Thần Bản Mệnh giúp đỡ. Như vậy, người thanh niên mà người tử
tù thấy chính là Thiên Thần Bản Mệnh của tôi, đã giữ gìn tôi."
4. Các thiên thần hộ thủ
Mỗi
người Chúa dựng nên đều có một thiên thần giữ mình, điều đó Chúa Giê-su đã
khẳng định: “Anh em hãy coi chừng, chớ khinh một ai trong những kẻ bé mọn nầy;
quả thật, Thầy nói cho anh em biết; các thiên thần của họ không ngừng chiêm
ngưỡng nhan Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt. 18, 10).
Và
thánh Bê-na-đô minh chứng: “Chúa đã sai các thiên thần đến phục vụ các con, cắt
đặt các ngài gìn giữ các con, và cho các ngài làm quản giáo cho các con."
Thánh Giê-gô-ri-ô nói: “Phẩm giá các linh hồn cao quý biết bao, vì mỗi linh hồn
đều được Thiên Chúa ban cho một thiên thần chăm sóc." Và thánh
Ghê-rô-ni-mô viết: “Chúa biết ác tâm của ma quỷ, chúng luôn tìm cách ngăn cản
không cho ai vào chỗ chúng đã mất trên thiên đàng, nên ban cho mỗi người một
thiên thần hộ thủ, để chống trả kẻ thù của phần rỗi chúng ta."
“Ma quỷ
đông đúc và độc dữ như sư tử, ngày đêm rình chực hãm hại con người, thì Chúa
cũng ban cho họ vô số thiên thần quyền phép hơn gìn giữ bảo hộ. Ngay lúc mới
sinh ra, mỗi người đều có một thiên thần giữ mình. Dù lương hay giáo, dù lành
hay dữ, ai ai cũng được Chúa thương cho thiên thần che chở. Chẳng những Chúa
cho thiên thần bảo vệ từng người, mà còn cho các ngài gìn giữ các xã hội, các
cộng đoàn, các gia đình, mọi nước, mọi thành, mọi nơi chốn có con người trú
ngụ. Như lời thánh Tô-ma tiến sĩ nói: “Có thiên thần bảo hộ các quốc gia, dân
tộc, thành thị, cộng đoàn cũng như mỗi người."
“Thiên
thần hộ thủ có trách nhiệm che chở chúng ta khỏi mọi sự dữ và gian nan khốn
khó, cứu giúp chúng ta khỏi sa ngã phạm tội, giúp chúng ta làm lành lánh dữ,
nâng đỡ chúng ta trong lúc yếu đuối, tăng thêm lòng can đảm mạnh mẽ, an ủi
chúng ta trong những lúc sầu buồn đau khổ."
“Các
ngài còn giúp sức chúng ta lướt thắng các chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt thế
gian. Và nếu chúng ta có lỡ lầm sa ngã, các ngài nâng đỡ chúng ta ăn năn hối
cải."
“Ngoài
ra, các thiên thần hộ thủ dâng lên trước tòa Chúa các việc lành phúc đức và lời
cầu nguyện hằng ngày của chúng ta, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta được ơn
lành của Chúa. Các ngài an ủi soi sáng chúng ta trong cơn bệnh hoạn chết chóc,
và bênh đỡ chúng ta trong ngày phán xét."
“Tắt
một lời, Chúa cho thiên thần hộ thủ gìn giữ che chở chúng ta trên khắp nẻo
đường và suốt đời, như thánh Bê-na-đô nói, và bảo chúng ta hãy cám ơn Chúa, vì
Người đã thương chúng ta, đồng thời phải kính sợ, thương mến, tin tưởng thiên
thần giữ mình: “Người truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Họ
hãy cảm tạ Chúa vì tình thương Người, vì những kỳ công Người đã làm cho con cái
loài người…”
“Người
truyền cho thiên sứ gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường. Lời nầy phải mang lại cho
bạn bao niềm kính sợ, tôn kính và tin tưởng: Kính sợ trước sự hiện diện, tôn
kính trước lòng nhân hậu, tin tưởng trước sự phù trợ của các ngài."
5. Bạn đồng hành yêu thương
“Này Ta
sai thiên sứ đi trước con, để giữ gìn con khi đi đường và đưa con vào nơi Ta đã
dọn sẵn!"
A.
Maclaren nhận định, “Nếu Chúa sai bạn đi trên những con đường đầy đá, Ngài sẽ
cung cấp những đôi giày bền bỉ! Sai bạn đến một nơi xa lạ, Ngài sẽ chuẩn bị một
người bạn đồng hành yêu thương! Và nếu muốn cứu độ chúng ta đời đời, Ngài ban
Con Một!"
Lời
Chúa ngày lễ Thiên Thần Bản Mệnh cho thấy tình yêu của Thiên Chúa dành cho mỗi
người chúng ta bao la như trời bể. Giáo lý Hội Thánh dạy, để canh giữ hồn xác
chúng ta từ khi chào đời cho đến ngày tắt hơi, Chúa Cha ban cho mỗi người chúng
ta một người ‘bạn đồng hành yêu thương’ như một vệ sĩ vô hình.
Lời
Chúa: Lc 1, 26-38
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến
với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít,
trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính
chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ." Nghe lời đó,
Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa:
"Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ
sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là
Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người
sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng
Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không
biết đến người nam?"
Thiên
thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao
sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được
gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai
trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là
son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được."
Maria
liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần
truyền." Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Gốc tích kinh Mân Côi
Căn cứ
vào các nguồn tài liệu đáng tin nhất của Thánh Louis Marie Grignion de Monfort,
trong cuốn “Bí Mật Kinh Mân Côi”, thì chính Đức Mẹ đã ban Kinh Mân Côi và dạy
Kinh Mân Côi cho thánh Đaminh. Vào thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa
Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong
việc chống tà thuyết Anbi, thuyết cho rằng đồng hiện hữu của hai quy luật đối
nghịch là Thiện và Ác.
Đức Mẹ
đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng chống lại tà thuyết và trao cho ngài
Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu
quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho
những người khác. Từ đó, thánh Đaminh đã là sứ giả của Đức Mẹ và là tông đồ
tiên khởi truyền bá Kinh Mân Côi từ năm 1214.
Và sự
kiện cuối cùng, ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân Công Giáo thắng hải quân
Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lepante. Tin chiến thắng được
báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mân Côi đang
rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín
hữu, Đức Giáo Hoàng Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính
Đức Bà chiến thắng.
Ngày
1.4.1573, Đức Giáo Hoàng Ghê-go-ri-ô XIII đặt tên cho lễ này là lễ Mân Côi và
truyền phải cử hành trong các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi vào
Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, Đức Giáo Hoàng Clément XI truyền cho toàn
thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, Đức Thánh Piô X ấn
định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.
Rồi năm
1917, trong cả sáu lần hiện ra tại Fatima với ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô
và Giaxinta, Đức Mẹ đã kêu gọi các em hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày. Trong lần
hiện ra cuối cùng Mẹ đã tự xưng “Ta là Đức Mẹ Mân Côi."
2. Trọng lượng của kinh Mân Côi
Alphonso
từ ngày được tôn lên làm vua nước Galicia, đã tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Nhà
vua đi đâu cũng có các quan văn võ tả hữu theo hầu. Thần dân của vua hầu hết là
những người công giáo ngoan hiền đạo hạnh. Biết thế nên muốn lấy lòng dân, vua
luôn tỏ ra mình là người đạo đức, có lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, để triều
đình và thần dân bắt chước. Cho nên dụng ý nhà vua là làm thế nào cho thần dân
biết mình là người năng lần chuỗi Mân Côi. Vua cho đặt một cỗ tràng hạt thật
dài để quấn vào thắt lưng, mỗi khi vua đi ra ngoài. Dân chúng ai cũng trầm trồ
khen ngợi nhà vua rất ngoan đạo. Cho nên để lấy lòng vua, các quan cũng như
thần dân, ai cũng mang tràng hạt, và cũng bắt chước vua năng lần chuỗi Mân Côi
kính Đức Mẹ. Nhưng than ôi, thực tế phũ phàng thay! Vua chỉ giả hình vậy thôi,
chứ chẳng bao giờ ông đọc kinh cầu nguyện gì cả, chỉ lo ăn chơi trác táng.
Một
ngày kia, vua lâm bệnh nặng, trong một thị kiến vua thấy mình bị đưa đến toà
phán xét. Ma quỷ vây chung quanh tố cáo vua các tội tầy đình, và chúng chực sẵn
để đầy vua xuống hoả ngục. Đang lúc Chúa Giêsu Đấng Thẩm Phán Tối Cao, sắp sửa
luận phạt vua, thì Đức Mẹ xuất hiện biện hộ cho vua. Mẹ nói với Chúa Giêsu: Con
hãy thư thả để Mẹ xem xét lại vụ này.
Đức Mẹ
liền truyền cho các thiên thần đem các tội vua đã phạm khi còn sống để trên một
bàn cân, và cỗ tràng hạt vua luôn luôn đeo bên mình, cùng các kinh Mân Côi đã
được đọc do gương sáng đeo tràng hạt của vua, trên một bàn cân khác. Kết quả là
cỗ tràng hạt nặng hơn các tội vua đã phạm.
Rồi Đức
Mẹ nhìn vua một cách trìu mến và nói: để tưởng thưởng một chút công của con đã
dành cho Mẹ, bằng cách đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ đã xin Con Mẹ cho con được ơn
rất lớn lao là khỏi sa hỏa ngục. Con sẽ được sống thêm mấy năm nữa để làm việc
đền tội. Nhà vua tỉnh lại kêu lên: “Ngợi khen chuỗi hạt Mân Côi của ĐứcTrinh Nữ
Maria! Nhờ đó trẫm được giải thoát khỏi sa hoả ngục." Sau khi bình phục,
nhà vua đã sốt sắng truyền bá kinh Mân Côi, và lần chuỗi Mân Côi suốt ngày.
3. Thần lực kinh Mân Côi
Ngoài
những ơn lạ Đức Mẹ ban nhờ thần lực của kinh Mân côi về phần hồn cũng như phần
xác, * Mẹ Maria phán dạy Chân phước Alanô: “Bất cứ ai trung thành đọc kinh Mân
côi và suy ngắm những mầu nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha
mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết. Điều đó rất dễ đối với Mẹ, vì
Mẹ là Mẹ Vua Trời và Người gọi Mẹ là Đấng đầy ơn. Và vì đầy ơn, Mẹ có thể ban
phát ơn phúc cho các con cái dấu yêu của Mẹ."
- Thánh
Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa
Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi.
- Chân
phúc Alanô: Kinh Kính mừng là một cầu vòng trên trời, là một dấu chỉ lòng
thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng
sùng kính kinh Mân côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ torng cuộc sống và
trong giờ họ chết. Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua
đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
- Thánh
Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã
tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết
lành và hưởng phúc trường sinh.
- Đức
Gioan XXIII: Chớ gì kinh Mân côi gia đình là một hương thơm sự an bình cho gia
đình các con. Ước chi con cái của các con chạy đến với Mẹ maria để gìn giữ sự
trong trắng thơ ngây. Ước chi các bạn thanh thiếu niên học được nơi Đức Mẹ sự
phấn khởi làm việc thiện và bảo đảm sự thanh khiết của họ. Ước chi người đau
khổ hy vọng được niềm an ủi nơi Đức Nữ Trinh.
- Đức
Phaolô VI: Kinh Mân côi đạo đức và phổ cập hiện ra như một chuỗi cứu độ treo
trên cánh tay Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Người, và do đó phát ra mọi ơn lành cho
chúng ta và mọi niềm hy vọng đến với chúng ta.
- Đức
Gioan Phaolô II: Trong những chục kinh Mân côi, tấm lòng chúng ta có thể hái
lượm được những sự kiện làm thành đời sống cá nhân, gia đình, dân tộc, giáo hội
và thế giới. Đó là những vấn đề cá nhân hay người thân cận, người thân quyến
chúng ta. Như vậy, kinh Mân côi hoà nhịp đời sống con người.
4. Đến với Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria
Dưới
thời Hitler, Đức quốc xã đã bắt không biết bao nhiêu giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và
giáo dân tập trung vào các trại, mà người ta gọi là “lò sát sinh." Linh
mục Tito Brandsma, dòng Camêlô cũng bị bắt tập trung taị trại Dachau, gần
Muechen, Tây Đức. Ngài đã bị án hành quyết ngày 26/7/1942. Biết mình sắp chết,
do một cô y tá Đức quốc xã, chuyên môn làm cai nghề độc ác là chích thuốc độc
cho tử tội. Cha đã chuẩn bị sẵn, lợi dụng lúc cô đang chích thuốc độc cho mình,
thì ngài đưa cho cô xâu chuỗi Mân Côi, mà cha đã làm trong tù để kỷ niệm, hoặc
sau này, nhờ cô là nhân chứng, để đem chuỗi hạt gửi lại cho người thân trong
gia đình..
Cha nói
với cô y tá: cô hãy dùng xâu chuỗi này để cầu nguyện. Cô ta đáp: “Tôi không
cần, vì tôi không biết cầu nguyện.” Cha nói: “Cô cứ thử xem đi. Ít là cô hãy
đọc câu: “Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.” Đó là
những lời cuối cùng của Linh Mục Brandsma trước khi chết. Dù vậy, cô cũng cứ
cầm lấy chuỗi hạt Mân Côi mà vị tử tù cho để làm kỷ niệm.
Sau khi
chế độ Đức quốc xã sụp đổ, cô ý tá phải đổi tên, đổi họ, đi sinh sống tại một
vùng xa xôi hẻo lánh khác, để khỏi bị cảnh sát quốc tế lùng bắt, vì cô đã góp
phần sát hại hàng ngàn tù nhân dưới chế độ Đức quốc xã. Chính nhờ xâu chuỗi Mân
Côi của linh mục Brandsma, mà cô ý tá tìm lại được đức tin.
Năm
1955, khi Tòa Thánh lập hồ sơ phong Chân Phước cho cha Brandsma, cô cảm thấy
hối hận, và quá cảm động, cô đã tự ý ra trình diện với chính quyền sở tại,
thuật lại tất cả những gì đã xảy ra 10 ngày cuối cùng của cha Bradsma, để bổ
túc vào hồ sơ phong Chân Phước.
5. Kinh Mân Côi, lời kinh của nhà bác học
Trên
một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít
phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng
hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ
già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa,
anh ta mới lên tiếng:
- Thưa
ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già
điềm nhiên trả lời?
- Đúng
thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người
sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc
nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học
đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi,
và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước
đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia
bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu
vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được
điều nầy không?
Người
sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông
cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào
thế giới của khoa học.
Cụ già
từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm
danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa
khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa
học Paris."
6. Phương thuốc cho cả xác lẫn hồn
Cha
Patrick Joseph Gillard-Peyton là vị Linh Mục tông đồ của Tràng Chuỗi Mân Côi.
Cha chào đời ngày 9-1-1909 tại County Mayo trong gia đình Công giáo nghèo bên
nước Ái-nhĩ-lan. Năm 18 tuổi, Patrick cùng với bào huynh Tom sang Hoa Kỳ tìm kế
sinh nhai. Nhưng rồi Chúa gọi, Patrick từ giã anh, gia nhập chủng viện.
Lúc gần
chịu chức Linh mục, thầy Patrick bỗng lâm bệnh lao phổi trầm trọng. Các bác sĩ
cho biết vô phương cứu chữa! Giấc mơ Linh mục trong phút chốc tan thành mây
khói.. Thầy Patrick chán nản buông tay bỏ cuộc. Một vị Linh Mục lão thành bất
ngờ đến thăm và nói với Thầy: Hãy kêu xin Đức Mẹ MARIA chữa lành bệnh. Đức Mẹ
là nguồn sự sống. Hãy tin tưởng nơi Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ như Người Mẹ thật.
Hãy kiên trì van nài và tin chắc chắn Đức Mẹ sẽ chữa lành. Đức Mẹ sẽ tỏ ra vô
cùng nhân hậu với Thầy. Chính vì chúng ta tin tưởng quá ít nơi Đức Mẹ nên Đức Mẹ
không ban cho chúng ta nhiều ơn!
Nghe vị
Linh mục lão thành nói thế, Thầy Patrick bỗng nhớ lại chuỗi ngày niên thiếu nơi
quê hương Ái-nhĩ-lan thân yêu. Thầy cũng nhớ đến “liều thuốc thần” hiền mẫu
Thầy vẫn dùng trong cơn gian nan khốn khó. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Cứ chiều
đến, cả gia đình tụ họp và cùng nhau sốt sắng lần hạt Mân Côi.
Giờ
đây, vì hết hy vọng nơi các phương thuốc chữa trị trần gian, Thầy Patrick hướng
về Trời Cao và kêu van Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc qua Kinh mân côi. Và Thầy được
lành bệnh thật.
Năm
1941 - 32 tuổi - Thầy Patrick Peyton hân hoan lãnh thiên chức Linh mục trong
dòng Thánh Giá. Từ đó Cha xác tín rằng: Thế giới cầu nguyện là thế giới hòa
bình. Gia đình cầu nguyện là gia đình hiệp nhất. Nếu mỗi người, mỗi gia đình
dành ít thời gian trong ngày để đọc Kinh mân côi thì các tổ ấm sẽ trở thành
vườn địa đàng.
7. Sự tích kinh Mân Côi
Trong
cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân
Côi như sau:
Vào
cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa
sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố
Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để
xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê
trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức
Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
-
Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để
canh tân thế giới không?
Thánh
Đaminh đáp:
- Thưa
Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính
yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ
bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ
muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh
Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho
các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của
Mẹ.
Thánh
nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy.
Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô
hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi
thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung,
trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh
Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo
oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh
Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt
đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen
năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình
cứu độ nhân loại.
8. Lời kinh của tuổi thơ
Mừng lễ
Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho tuổi
thơ. Trước hết chúng ta sẽ đưa ra một vài sự kiện lịch sử.
Sự kiện
thứ nhất, đó là biến cố Lộ Đức.
Tại đây
Mẹ đã hiện ra với một cô bé mười bốn tuổi, tên là Bernadette. Mẹ bảo cô bé lần
hạt và Mẹ cùng đọc với cô bé kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Đồng thời, Mẹ còn
tỏ cho chúng ta thấy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sự kiện
thứ hai, đó là biến cố Phatima.
Tại đây
Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ: Lucia mười tuổi, Giaxinta bảy tuổi và Phanxicô bảy
tuổi. Đồng thời, qua ba em nhỏ này, Mẹ đã gửi đến mỗi người chúng ta ba mệnh
lệnh: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần
hạt Mân côi.
Nếu
ngày xưa Chúa đã yêu thương các trẻ nhỏ, bởi vì các em vừa đơn sơ và trong
trắng, lại vừa tin tưởng và phó thác, thì bây giờ Mẹ cũng đã dành cho các em
một tình yêu thương đậm đà, bởi vì các em đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời
khuyên nhủ của Mẹ.
Bernadette
đã lần hạt với Mẹ và sau này vào tu trong một nhà dòng, sống một cuộc đời đạo
đức và thánh thiện. Còn ba em nhỏ ở Phatima cũng thế.
Mẹ bảo:
-
Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt nhiều trước đã.
Và
Phanxicô đã thưa lên:
- Lạy
Mẹ, Mẹ muốn con lần hạt bao nhiêu cũng được.
Từ đó,
không những lần hạt với hai em kia, mà cậu bé còn lần hạt riêng một mình nữa.
Lắm khi
đang chơi với bạn, cậu bé lẻn đi lần hạt. Được hỏi tại sao thì cậu bé trả lời:
- Đức
Mẹ bảo em phải lần hạt nhiều cơ mà.
Còn
Giaxintha cũng vậy. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra, em đã về nhà và nói với má:
- Má à,
hôm nay con đã được nhìn thấy Đức Mẹ.
Bà mẹ
bảo:
- Con
đã là thánh đâu mà được nhìn thấy Đức Mẹ.
Rồi em
xin phép má đi lần hạt với anh Phanxicô, bởi vì Đức Mẹ bảo:
- Chúng
con phải lần hạt mỗi ngày.
Nhất là
Lucia, em thường đứng lên lần hạt mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Sau khi được ơn nhìn
thấy Đức Mẹ, em gia nhập phong trào Phatima để cùng với mọi người chống lại với
những kẻ ghét đạo. Em cũng thường lần hạt chung với mọi người để suy gẫm về
Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Sau cùng, em đã dâng hiến trọn cuộc đời mình trong dòng
kín.
9. Mẹ thắng con rồi
Giovanni
Tomasi là một người vô thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ
nơi mấy người đồng hương nước Ý.
Khi
biết mình bị ung thư nan y, anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người
bạn thân rủ anh qua Lộ đức hành hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi
dù chẳng tin một chút nào.
Anh trở
về chẳng hề thuyên giảm, càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh hãy
thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ
khác. Sau nhiều lần uống nước ở chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh
nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.
Ngày
14.11.1987, anh mua một khẩu súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang
Lộ đức, hét to lên một lời thách thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn
tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư
của tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng này để tự sát ngay tại đây, để cho
cả thế giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì, rằng đây chỉ là một trò bịp.”
Thinh
lặng… căng thẳng, ai cũng thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.
Anh đưa
súng vào màng tang và bóp cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy
mọi sự bình thường. Sao lại không nổ vậy?
Rồi anh
lại lên đạn và đưa súng lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn
vẫn không nổ. Lúc đó anh không còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay
buông rơi khẩu súng. Anh ngước nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã
thắng con rồi!”
Tomasi
mang căn bệnh trở về nhà nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi
khắp nơi để diễn thuyết, viết thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như
mình để khích lệ, ủi an và mời gọi họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ
Maria.
Tình
yêu của Đức Mẹ đã chiến thắng và đem lại niềm vui và bình an cho một tâm hồn.
Tình yêu đó cũng không thể ngồi yên nhìn cả thế giới hôm nay ngụp lặn trong hận
thù, máu lửa, bóng tối của tội lỗi.
10. Lời kinh chiến thắng sợ hãi
Đức Cha
Dupanloup, một viện sĩ thời danh của Pháp, tác giả cuốn ‘Lettres sur
l’éducation des filles’, thường hay nhắc lại câu chuyện này:
Khi mới
làm linh mục, ngài thường dạy các em nhỏ chuẩn bị rước lễ lần đầu là nếu mỗi
ngày đọc ba kinh Kính Mừng dâng mình cho Đức Mẹ, và giữ cho đến chết, thì Đức
Mẹ sẽ không bỏ rơi trong giờ phút sau cùng.
Sau này
khi ngài làm Giám mục thì có cô con gái duy nhất của một vị tướng bị mắc bịnh
ung thư lúc còn trẻ. Cô đã phát bệnh sau khi sinh đứa con đầu lòng, năm 20
tuổi. Cả gia đình không biết phải báo tin này như thế nào cho cô nên mới nhờ
Đức Cha báo tin và giúp cô dọn mình chết lành. Ngài nhận lời nhưng cũng thấy
bối rối vì không biết phải bắt đầu như thế nào. Bước vào phòng bệnh nhân, ngài
hỏi:
- Chúa
định cho con phải đau đớn quá nhỉ?!
Nhưng
bệnh nhân tươi cười và hỏi lại:
- Đức
Cha có tin chắc con được lên thiên đàng không?
Đức Cha
trả lời:
- Cha
hy vọng Chúa sẽ cho con lên thiên đàng.
Bệnh
nhân lại nói:
- Đức
Cha thì hy vọng, còn con thì tin chắc là con sẽ được lên thiên đàng.
- Làm
sao mà con lại dám tin chắc là con được lên thiên đàng?”
- Thì
chính Đức Cha đã dạy con mà.
Đức Cha
ngạc nhiên:
- Cha
đã dạy con khi nào?
Cô trả
lời:
- Khi
con học lớp giáo lý chuẩn bị xưng tội rước lễ lần đầu, Đức Cha đã dạy chúng con
nếu mỗi ngày đọc ba kinh Kính Mừng, và dâng mình cho Đức Mẹ và giữ thói quen
này cho đến chết thì chắc chắn là Đức Mẹ sẽ không bao giờ bỏ chúng con.
Con đã
giữ thói quen đọc ba kinh Kính Mừng mỗi ngày; đặc biệt, từ ngày lập gia đình,
con còn đọc thêm mỗi ngày năm chục kinh. Mỗi ngày con nói với Đức Mẹ năm mươi
lần ‘Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và
trong giờ lâm tử’ thì làm sao mà Đức Mẹ bỏ con được?
Và Đức
Giám mục Dupanloup kết luận:
- Thay
vì tôi yên ủi cô thì cô lại yên ủi tôi.
Đúng
thế, khi đọc kinh Mân côi, tôi còn gì phải lo âu khi ở bên tôi có ‘Đấng toàn
năng bởi lời cầu nguyện’.
11. Lời kinh chữa lành tâm hồn
Ở nước
Tây Ban Nha, có một người phạm tội như uống nước lã! Không kể tội rối đạo, tội
nào cũng là môn sở trường của ông. Tệ hơn cả, ông lại thích phạm những tội mà
ông biết rõ là làm đau lòng Chúa nhất!
Ðến
tuổi già lụ khụ, ông lâm trọng bệnh, nhưng tuyệt nhiên không hề có một ý nghĩ
nào trở lại cùng Chúa….
Trong
một đêm thức trắng, ông thấy Ðức Nữ Vương trên trời hiện ra gần giường ông,
nhìn ông bằng đôi mắt thùy mị, nhân từ và thương xót, rồi biến đi mà không nói
nửa lời.
Lúc đó,
bệnh nhân mới nhớ cuộc đời đầy tội lỗi của mình. Nhìn về dĩ vãng đen tối, ông
phiền sầu lo lắng nước mắt trào ra, nếu không vì yếu liệt, ông đã hối hả chạy
đi gặp linh mục để xưng tội.
Sáng
hôm sau, ông vội cho người đi mời linh mục. Chính cha Nieremberg, linh mục Dòng
Tên, là tác giả chuyện này, đã được cử đến giúp ông. Tội nhân đã xưng thú một
cách rõ ràng tỉ mỉ hết mọi tội lâu tới 3 giờ. Cha giải tội phải sửng sốt vì
linh hồn ông được ơn soi sáng và lòng thống hối tuyệt vời như vậy.
Xưng tội
xong, ông khấn hứa với Chúa trước mặt cha:
- Nếu
Chúa cho con bình phục, con sẽ đi tu dòng để đền tội.
Nhưng
ông lại thêm: “Nếu Chúa muốn cho con ra khỏi đời này, thì xin cha cầu nguyện
cho con được làm trọn ý Chúa.”
Thánh ý
Chúa đã được thực hiện. Năm ngày sau đó, đầy tâm tình thống hối và yêu mến, ông
đã từ trần giữa những thương tiếc cũng như hoan hỉ của mọi người chứng kiến.
Trước
khi chết cha Nieremberg có hỏi ông:
- Ông
có quen làm việc để tôn kính Ðức Mẹ không?
Ông trả
lời:
- Thưa
cha con chỉ làm một việc rất nhỏ: hằng ngày đọc một kinh Kính Mừng. Hôm nay,
con xin cha một điều là, để làm vinh danh Mẹ Thiên Chúa, xin cha hãy rao giảng
mọi nơi về tình thương đặc biệt Ðức Mẹ đã đoái thương đến một kẻ rất tội lỗi,
khốn nạn là con đây.
12. Lời kinh nâng đỡ
Nhớ
lại hơn ba trăm năm, khi các Kitô hữu cha ông chúng ta bị ngược đãi và
bách hại vì đức tin, có rất nhiều người trong số họ một chữ bẻ đôi
cũng không biết, họ cũng chẳng thuộc được một đoạn Kinh Thánh, nhưng
nhờ tràng chuỗi mân côi, lời kinh của niềm hy vọng, họ đã có được
sức mạnh để trung kiên với đức tin cho đến hơi thở cuối cùng.
Một
vị linh mục đến thăm người đàn ông bị bại liệt đã hơn ba năm. Giữa
những lời trao đổi, ngài hỏi người bệnh:
- Không
đi lại được, nằm một chỗ, ông có buồn không?
- Thưa
Cha, nhiều lúc buồn lắm!
- Vậy
ông làm gì những lúc rảnh để vơi nỗi buồn?
- Thưa
cha, đây là niềm hy vọng và sức mạnh của con, vừa nói ông vừa cầm
xâu chuỗi đưa lên trước mặt ngài.
Đau
ốm, thất bại, yếu đuối và lỗi lầm trong cuộc sống dễ làm cho chúng
ta chán nản buông xuôi. Nhưng là người tín hữu Công Giáo, chúng ta
được nâng đỡ nhờ dòng suối ân sủng là các bí tích, ánh sáng của
Lời Chúa, giáo huấn của Hội Thánh và phương thức đạo đức bình dân
là kinh mân côi. Trong Tông Thư Kinh Mân Côi ở số 1, Chân Phước Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II cũng quả quyết với chúng ta: “Qua kinh mân côi các
tín hữu lãnh nhận vô vàn ơn thiêng, hầu như qua chính đôi tay của Mẹ
Đấng Cứu Thế.”
Năm
1917, khi hiện ra tại Fatima, một trong những lời Đức Mẹ căn dặn là:
“Hãy siêng năng lần hạt mân côi."
13. Lời kinh của gia đình
Trong
cuốn “Năm chiếc bánh và hai con cá”, Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể: “Mẹ tôi
đã đổ vào tim tôi lòng kính mến Đức Mẹ từ tuổi ấu thơ. Bà nội tôi, mỗi buổi
tối, lúc gia đình đọc kinh xong rồi, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi
hỏi, bà trả lởi:
- Mệ
lần một chuỗi cầu nguyện cho các cha.
Bà tôi
không biết đọc biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun
trồng hạt giống ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi.”
Thấy rõ
tầm quan trọng của việc lần chuỗi Mân Côi và giờ kinh trong các gia đình, thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư Kinh Mân Côi đã nhắc nhở và khẩn
thiết mời gọi: “Là lời kinh cầu cho hoà bình, Kinh Mân Côi cũng là và luôn luôn
là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Lời kinh này đã một thời hết sức thân
thiết với các gia đình Kitô giáo, và hẳn đã làm cho các gia đình xích lại gần
nhau hơn. Điều quan trọng là đừng đánh mất gia sản quý báu đó. Chúng ta cần
phải quay lại với thói quen cầu nguyện trong gia đình và cầu nguyện cho gia
đình, khi tiếp tục sử dụng Kinh Mân Côi.” (số 41)
14. Chuỗi kinh ơn lành
Hoàng
hậu Blanche xứ Castille nước Pháp đã phải đau buồn cùng cực vì bà thành hôn
mười hai năm rồi mà vẫn không có con. Khi đến thăm thánh Đaminh, Ngài khuyên
hoàng hậu đọc kinh Mân Côi hàng ngày để xin Thiên Chúa ban diễm phúc được làm
mẹ. Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Năm 1213 hoàng hậu hạ
sinh hoàng nam đầu lòng. Đó là hoàng tử Philip. Nhưng con trẻ chết ngay khi còn
trong trứng nước.
Trước
nỗi bất hạnh này, hoàng hậu vẫn không ngã lòng, không chút nao núng niềm tin.
Trái lại, bà tha thiết van xin Đức Mẹ cứu giúp. Hoàng hậu cũng phân phát nhiều
tràng hạt Mân Côi cho các triều thần cùng dân chúng trong cả nước, và xin tiếp
lời cầu nguyện cho bà.
Năm
1215, qua sự bầu cử của Đức Mẹ, Chúa đã nhận lời cầu xin của bà, một vị hoàng
tử chào đời. Hoàng tử này đã trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương
mẫu cho tất cả các hoàng đế Công giáo. Vị hoàng đế này sau đã trở thành một vị
thánh. Đó là vua thánh Louis.
Kể sao
cho hết những ơn lành Mẹ Maria đã ban xuống cho nhân loại qua kinh Kính Mừng.
Bởi vì kinh Kính Mừng là kinh mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ rất ưa thích.
Có thể
nói với bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta hai bức
tranh khác hẳn nhau về Đức Maria:
1. Bức
tranh thứ nhất: Một Đức Maria tầm thường.
- Maria
chỉ là một thiếu nữ nhà quê. Chắc chắn là cuộc sống chẳng có gì nổi bật. Ngay
cái tên Maria cũng chỉ là một tên gọi bình dân mà rất nhiều người có. Trong Tân
Ước chúng ta thấy ít nhất đã có 4 người mang tên đó: Maria Mẹ của Đức Giêsu,
Maria, Mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và
Ladarô.
-
Nagiareth, nơi Maria sinh sống cũng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, một thị trấn
hầu như vô danh. Cựu Ước không lần nào nhắc tới và trong Tân Ước có lần người
ta đã nhắc tới nhưng nhắc tới với một thái độ chẳng mấy thiện cảm: “Ở Nagiareth
làm gì mà có những điều hay ở đó”(Ga 1,40).
Đó là
bức tranh thứ nhất.
2.
Bức tranh thứ hai: Một Đức Maria cao sang.
- Thiên
sứ gọi Đức Maria bằng những tước hiệu rất cao sang: Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa
ở cùng Bà, Bà là người đẹp lòng Thiên Chúa.
- Con
của Bà sẽ sinh ra là Đấng Cao cả: Ngài là Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa,
Ngài sẽ trị vì trong nhà Giacob đến muôn đời, triều đại Người vô cùng vô tận...
Toàn là
những lời mà một người nhà quê như Đức Mẹ khó mà có thể tưởng tượng được. Thế
nhưng đó lại là sự thật.
3. Do
đâu mà một thiếu nữ nhà quê tầm thường như thế bỗng trở nên cao trọng như vậy?
Câu trả
lời: Do sự khiêm tốn của Đức Mẹ.
Khi Đức
Mẹ thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ
nói”(Lc 1,38) thì Đức Mẹ đã ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi ngài
rồi. Đức Mẹ hiến dâng cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, không cản trở, không
đòi Thiên Chúa phải làm bất cứ một điều gì theo ý riêng của mình nữa.
Đối với
một Thiên Chúa Toàn năng: “Đối với Người, không có gì là không thể làm được”(Lc
1,37), Đức Mẹ không còn một chút sợ hãi nào nữa. Tin tưởng phó thác tất cả đời
mình trong bàn tay của Thiên Chúa: Đó là một quyết định dứt khoát và trọn cả
cuộc đời.
Và đó
cũng là con đường làm nên sự cao cả của Đức Mẹ.
16. Giá trị của tiếng xin vâng
Vào một
ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn
mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
- Chào
Bà! Bà đã từng làm người.Vậy theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì?
- Là
sống cho Chúa.
- Người
nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để có thể hoàn tất vai trò của mình trong gia
đình, xã hội và Giáo hội?
- Hãy
trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ”
- Nhưng
càng nhu mì, càng hiền dịu càng bị đối xử bất công, làm sao tìm được bình đẳng
mà không đánh mất nữ tính?
- Mỗi
người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
- Như
vậy là sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối?
- Chỉ
có sự bình đẳng hoàn hảo nhất. Đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa!
Và Đức
Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của
Đức Giêsu với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”
Thông
qua hai tiếng “Xin Vâng” Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của
phận người tùy thuộc vào sự đáp trả của mỗi người trước tiếng gọi của Thiên
Chúa chứ không phải là những khả năng của phái tính mà mỗi người mang trong
mình. Biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây phút của
cuộc sống như Mẹ Maria. Đó là cách tốt nhất để sống ơn gọi làm người và cũng là
cách tốt nhất để làm nên sự cao cả cho cuộc sống của mình.
17. Sự tích Kinh Mân Côi
Vào
cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút
trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để
ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa
cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại
với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng
với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
-
Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để
canh tân thế giới không?
Thánh
Đaminh đáp:
- Thưa
Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính
yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ
bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ
muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh
Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho
các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của
Mẹ.
Thánh
nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy.
Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô
hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi
thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung,
trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh
Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo
oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh
Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt
đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen
năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình
cứu độ nhân loại.
THỨ HAI – NGƯỜI CAO TRỌNG NHẤT
Lời
Chúa: Lc 9, 46-50
Khi ấy,
các mộn đệ nghĩ ngợi trong lòng rằng ai trong các ông sẽ là người cao trọng
nhất. Chúa Giêsu thấu biết tư tưởng trong lòng các ông, Người liền dẫn một trẻ
nhỏ tới, để đứng bên cạnh Người, và bảo các ông rằng: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ
này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận
Đấng đã sai Thầy. Vì kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao
trọng nhất.”
Gioan
lên tiếng thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh
Thầy mà trừ quỷ, và chúng con đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với
chúng con.” Chúa Giêsu bảo ông rằng: “Các con chớ ngăn cản, vì ai không chống
nghịch các con, tức là thuận với các con.”
TRUYỆN KỂ
1. Một chữ ký của Picasso
Một
hôm, họa sĩ Picasso đến một xưởng mộc làm một cái tủ. Ông lấy bút phác họa hình
thù và kích thước cái tủ rồi trao cho người thợ mộc và hỏi giá cả. Người thợ
mộc cầm lấy tờ giấy một cách trân trọng và trả lời: "Ngài không phải trả
gì cả, chúng tôi chỉ xin Ngài ký tên vào giấy này là đủ rồi.”
“Lạy
Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ”
2. Nhân Danh Chúa Giêsu
Tên
tuổi có một ý nghĩa và sức mạnh đặc biệt trong cuộc sống con người. Người ta
thường kể về tên tuổi Alexandre Ðại Ðế của Hy Lạp giai thoại như sau:
Trong
quân đội của ông có một binh sĩ rất nhát đảm, cứ mỗi lần nguy ngập anh đều tìm
cách thoái lui. Alexandre cảm thấy bị xúc phạm về hành vi của người binh sĩ này
vì anh ta cũng mang tên Alexandre như ông. Một hôm, ông gọi anh ta lại và bảo:
"Ta cho nhà ngươi một chọn lựa: hoặc là chấm dứt thái độ nhát đảm hoặc là
đổi tên đi.”
3. Nước Trời thuộc về trẻ em
Nhà kỹ
nghệ công giáo danh tiếng, Léon Harmel, thuật lại câu chuyện sau:
Một bà
mẹ đánh thức con dậy. Bà thấy dưới gối con có một cục gỗ.
- Con
làm gì thế?
- Thưa
mẹ, khi đi học giáo lý, con nghe dạy rằng mình phải hãm mình để cho kẻ có tội
được trở lại. Con chọn cách hãm mình này. Con trông cậy Chúa nhận lời con.
Đó là
gương một em bé trong sạch, biết đền tội thay cho những kẻ có tội mà không chịu
đền tội.
4. Phục vụ trong khiêm tốn.
Sau đệ
nhị thế chiến, những người dân ly tán khắp nơi còn sống sót đều trở về làng quê
cũ, họ gạt nước mắt và sẵn sàng đổ mồ hôi để nỗ lực hàn gắn lại những vết
thương chiến tranh và xây dựng lại cuộc sống trong hòa bình.
Tại một
thị trấn nọ, tất cả nhà cửa, phố xá, ruộng vườn đều đã tan hoang đổ nát. Một
nhóm bạn trẻ bước vào ngôi nhà thờ thân yêu ngày xưa, nay chỉ còn lại bốn vách
tường và mái ngói tương đối là đứng vững, còn bên trong là những gạch vữa, gỗ
đá vỡ vụn. Họ tìm thấy pho tượng Chúa Giêsu nằm sõng suợt dưới đất, chỉ còn có
thân mình là nguyên vẹn.
Tuy
thế, họ vẫn dọn dẹp sạch sẽ gian cung thánh, rồi họ đặt bức tượng trên một
chiếc bàn con, ở ngay trung tâm của những buổi cử hành phụng vụ và cầu nguyện
của giáo xứ. Và người ta đã ghi lại được một lời cầu nguyện bộc phát rất cảm
động của một chị thiếu nữ như sau:
“Lạy
Chúa, xin cho chúng con trở thành đôi mắt của Chúa, để chúng con diễn tả được
tình yêu thương của Chúa. Xin biến chúng con trở thành đôi tay của Chúa, để
chúng con nâng đỡ phục vụ anh chị em. Xin cho chúng con trở thành đôi chân của
Chúa, để chúng con sẵn sàng đến với tha nhân. Xin biến chúng con trở thành con
tim của Chúa, để chúng con biết thực sự yêu thương hết thảy mọi người.”
5. Tuổi nhỏ mà lòng lớn
Tôi
đang loay hoay tìm kiếm mấy con ốc bị thất lạc khi sửa cái máy cassette thì
thằng cháu mon men lại gần:
- Cậu
ơi, cậu làm gì thế? Cho cháu làm với.
- Con
nít chỉ biết nghịch phá chứ biết làm cái gì. Đi chỗ khác chơi! Tôi quát lớn.
- Nhưng
cháu muốn ở lại nói chuyện với cậu, cho cậu đỡ buồn.
Câu nói
ngây thơ của đứa trẻ lên bốn chứa đựng cả một tấm lòng nhân hậu làm tôi phải
xét lại thái độ của mình. Những người lớn hay coi thường trẻ thơ bởi chúng là
những trẻ nhỏ chưa có địa vị hay chỗ đứng trong xã hội. Thế nhưng những suy
nghĩ tưởng chừng là bé nhỏ của chúng lại chất chứa cả một tâm hồn vĩ đại.
Lạy
Chúa, xin cho những người lớn chúng con biết khiêm tốn lắng nghe và khám phá ra
thế giới trẻ thơ; để qua trẻ thơ, mỗi người chúng con sẽ hoàn thiện chính mình
(Hosanna).
6. Ai lớn, ai nhỏ?
Năm
thành viên của một gia đình nọ đang nghỉ ngơi và vui đùa ở một bãi biển. Các
đứa bé tắm và nghịch ngợm xây những lâu đài bằng cát, khi cách đó không xa,
xuất hiện một bà già gầy còm, đầu tóc rối bung trong gió và áo quần thì rách
rưới, bẩn thỉu. Bà vừa đi vừa lảm nhảm điều gì đó trong miệng và cúi xuống nhặt
các vật trên bãi cát, bỏ vào một cái bị.
Bố mẹ
vội kêu các con lại bên họ và bảo chúng đứng tránh xa bà già kia ra. Khi đi
ngang qua họ, bà cúi xuống nhặt bên trái, bên phải các vật trên cát, rồi bà
nhìn và cùng mỉm cười với cả gia đình họ. Song thái độ thân thiện của bà ta
không được đáp trả.
Nhiều
tuần sau, họ biết được rằng, người đàn bà già yếu rách rưới đó đã bỏ những
tháng ngày ròng rã để nhặt những mảnh vụn chai, sắt, thiếc trên bãi biển hầu
các em nhỏ có thể nô đùa mà không bị thương tổn.
7. Tiêu diệt kẻ thù
Tổng
thống Abraham Lincoln của Hoa Kỳ có thói quen áp dụng một phương pháp bất
thường để kết bạn. Một lần kia, ông đã dùng những lời hay ý đẹp để nói về những
chính trị gia đối lập với mình. Nghe thế một phụ nữ thắc mắc:
- Tại
sao ông lại ca ngợi những địch thủ của mình mà không phê bình, chỉ trích và
tiêu diệt họ?
Tổng
thống Abraham Lincoln đã trả lời bằng một câu hỏi:
- Biến
kẻ thù thành bạn hữu, không phải là tôi đã tiêu diệt kẻ thù hay sao?
Một
hoàng đế Trung Hoa nói:
- Một
khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất cả các địch thù của ta!
Ông đã
chinh phục các nước ấy và cả đình thần của ông đều chờ đợi một cuộc thảm sát
địch quân. Họ mong những địch thù đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu.
Nhưng họ rất bỡ ngỡ khi thấy tất cả bọn địch thù cùng ngồi ăn với vua và lại
nói cười vui vẻ nữa. Họ tâu vua:
- Muôn
tâu Hoàng Thượng, ngài đã nói sau khi thắng trận sẽ tiêu diệt tất cả địch thù
kia mà!
Hoàng
đế trả lời:
- Ta đã
tiêu diệt tất cả bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ
thành những người bạn của ta!
8. Tinh thần trẻ thơ
Đức
Giáo hoàng Gioan XXIII, tuần nào cũng kiếm giờ về thăm mẹ. Mẹ con bên nhau hàn
huyên cả tiếng đồng hồ. Có lần mẹ lên tiếng hỏi: “Con quá nhiều việc bận rộn
trong Hội Thánh, sao không để thời giờ lo việc Chúa cho chu đáo hơn?” Nhưng Đức
Giáo hoàng thưa lại: “Được ngồi bên mẹ để nghe mẹ dạy bảo, đó là hạnh phúc
trong đời con không bao giờ quên.”
9. Tinh thần trẻ thơ của ông Gióp
“Một
ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh cả
của họ,thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của ông
cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn các
đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông
hay.”Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của Thiên Chúa
từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ
có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.”Người này còn đang nói thì một người
khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn
các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông
hay.”Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa: "Con trai con gái
ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của họ, thì một trận cuồng
phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè trên đám
trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay.”
Bấy giờ
ông Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói:
"Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, tôi sẽ trở về đó cũng trần truồng. Chúa
đã ban cho, Ngài lại lấy đi: xin chúc tụng danh Chúa! "
10. Coi trọng người bé nhỏ
Trong
buổi yết triều một ngày tháng 11/2013, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã âu yếm ôm
hôn và cầu nguyện cho một bệnh nhân bị u sợi thần kinh. Người mắc bệnh này
thường bị khinh bỉ, ghê tởm vì thân thể bị biến dạng rất kì dị, không còn ra
hình dáng một con người.
Trước
đó vào buổi chiều thứ Năm Tuần Thánh 2013 trong nhà nguyện nhỏ tại nhà tù Casal
del Marmo ở Rô-ma, ngài đã cúi xuống hôn và rửa chân cho 12 phạm nhân thiếu
niên ở đây. Những hình ảnh này đã gây xúc động mạnh trên toàn thế giới về vị
Giáo hoàng đương thời.
Phong
cách Đức Thánh Cha sống đơn sơ, nghèo khó và quan tâm đến những người nghèo khổ
đã minh hoạ cách sống động tinh thần phục vụ Chúa Giê-su đã dạy: “Hãy phục vụ
tất cả mọi người, nhất là những người nghèo, những người yếu thế và những người
dễ bị tổn thương.”
11. Thiên Chúa ở gần
“Rừng
Emerald” là một bộ phim về một cậu bé bị lạc đường trong rừng nhiệt đới Nam Mỹ.
Gia đình cậu không ngừng đi tìm kiếm, và cuối cùng họ gặp cậu đang sống với một
bộ tộc thổ dân. Bộ phim tạo nên một dụ ngôn thích hợp về sự quan tâm của Thiên
Chúa đối với dân Israel. Họ đã phạm tội và bị đưa xa khỏi Giêrusalem và Đền
thờ. Trong nỗi thất vọng ê chề của họ, tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ rõ
nét nhất. Ngài đến để cứu thoát họ.
Tôi có
nhớ đã khi nào tôi cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi hoặc ngay cả quên lãng không?
Người ta nói rằng đó là lúc Thiên Chúa gần ta nhất. Tại sao?
Trái
tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới có thể lấp đầy.
12. Tình yêu là đáp án
Một
nhóm học sinh đang xén cỏ trên con đường mòn mà một cặp vợ chồng luống tuổi
thường đi qua. Ban đầu, điều này khiến cho cặp vợ chồng cảm thấy bực mình và
còn khiến họ giận dữ nữa. Họ biết rằng mình phải làm một cái gì đó, bởi vì tình
trạng này đang phá đi sự bình an trong tâm hồn họ. Cách giải quyết của cặp vợ
chồng thật đẹp: họ lát đá con đường, trồng hoa hai bên và đặt một chiếc Ghế đá
gần đó. Rồi vào những ngày đẹp trời, họ ngồi trên ghế và chào đón bọn trẻ. Phản
ứng của bọn trẻ cũng thật tuyệt vời: chúng cám ơn họ vì con đường lát đá và
ngồi nói chuyện với họ một vài phút.
Tình
huống nào đe dọa sự thanh thản trong tâm trí tôi? Tôi có giải quyết nó với tinh
thần sáng tạo như cặp vợ chồng kia đã làm không?
Lạy
Chúa, xin giúp con giải quyết những tình huống xấu theo một cách thức đẹp đẽ.
13. Nghịch lý thập giá
Đức Cha
Ph.X. Nguyễn Quang Sách, nguyên giám mục giáo phận Đà Nẵng vừa từ trần hồi đầu
tháng 7/2013, có viết trong di chúc rằng: “Suốt cả đời tôi, công phúc chẳng có
gì, mà tội lỗi, thiếu sót thì vô số...”
Sống
một cuộc đời giản dị, hiếu khách và thánh thiện với châm ngôn “để phục vụ,”
ngài muốn trở nên một người “nhỏ nhất” trong giáo phận và giữa anh chị em mình,
để phục vụ mọi người như Thầy Giêsu. Phải, chỉ khi nào nhận ra tương quan đích
thực giữa “tôi” với “mọi người”, tôi mới có thể phục vụ họ một cách chính đáng:
“họ” phải lớn lên, còn “tôi” phải nhỏ lại, thậm chí “nhỏ” đến mức độ của “người
tôi tớ.”
Tuy
nhiên, lý tưởng này luôn luôn là một thách đố lớn lao cho người môn đệ của Đức
Kitô.
14. Quyền lực của công dân Nước Trời
Người đời luôn quan tâm đến những người nam nữ quyền lực nhất,
ảnh hưởng nhất, giầu có nhất… Các tông đồ cũng không tránh khỏi não trạng này
khi suy nghĩ và thậm chí có lúc tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất.
Đã là môn đệ Đức Giêsu - Đấng khai mở Nước Trời - và là công dân của Nước Trời
ấy, nhưng xem ra các ông chưa hiểu gì về Nước Trời.
Điều được tìm kiếm trong Nước Trời là tình thương, công lý và an
bình, làm gì có chuyện lớn nhất với nhỏ nhất, quyền lực nhất với hèn mọn nhất,
vì ai ai cũng là con cái Thiên Chúa, là anh em với nhau, là em của Anh Cả
Giêsu.
Là công dân của Nước Trời đồng nghĩa với việc bạn phải từ bỏ bản
ngã, hạ thấp cái tôi bành trướng.
THỨ BA - CON NGƯỜI ĐẾN ĐỂ CỨU CHỮA
Lời
Chúa: Lc 9, 51-56
Vì gần
tới thời gian Chúa Giêsu phải cất khỏi đời này, Người cương quyết lên đường đi
Giêrusalem, và sai những người đưa tin đi trước Người.
Những
người này lên đường vào một làng Samaria để chuẩn bị mọi sự cho Người. Nhưng ở
đó người ta không đón tiếp Người, bởi Người đi lên Giêrusalem. Thấy vậy, hai
môn đệ Giacôbê và Gioan thưa Người rằng: “Lạy Thầy, Thầy muốn chúng con khiến
lửa bởi trời xuống thiêu huỷ chúng không?”
Nhưng
Người quay lại, quở trách các ông rằng: “Các con không biết thần trí nào xúi
giục mình. Con Người đến không phải để giết, nhưng để cứu chữa người ta."
Và các Ngài đi tới một làng khác.
TRUYỆN KỂ
1. Tấm lòng nhân ái tuyệt vời.
Nhiều
năm về trước – một ủy viên chấp hành khá cao tuổi của một tập đoàn dầu lửa
Rochefeller ở Mỹ - đã đưa ra một quyết định sai lầm làm công ty thiệt hại hơn
hai triệu đôla. John D. Rochefeller lúc đó là người đứng đầu công ty.
Bedford
được Rochefeller mời lên văn phòng. Bedford đến rất đúng giờ và sẵn sàng để
nghe những lời chỉ trích có thể nặng nề của Rochefeller.
Khi
Bedford bước vào phòng, ông vua dầu hỏa đang ngồi cạnh bàn, chăm chú viết bằng
bút chì lên một tờ giấy. Bedford đứng yên lặng, không muốn phá ngang. Sau vài
phút, Rochefeller ngẩng lên.
- A,
anh đấy à, Bedford – Rochefeller nói rất chậm rải – Anh đã nghe tin những tổn
thất của công ty chúng ta rồi chứ?
Bedford
đáp rằng tôi đã biết rồi.
- Tôi
đã suy nghĩ rất nhiều về điều này, - Rochefeller nói,- Và trước khi nói chuyện
với anh, tôi đã ghi ra đây vài dòng.
Sau
này, Bedford kể lại cuộc nói chuyện của ông với Rochefeller như sau: Tôi thấy
rõ dòng đầu tiên của tờ giấy mà ông chủ đã “ghi vài dòng” là “những ưu điểm cùa
Bedford." Sau đó là một loạt những đức tính của tôi, kèm theo là miêu tả
vắn tắt rằng tôi đã giúp công ty, đưa ra quyết định đúng đắn được ba lần, giúp
công ty kiếm được gấp nhiều lần số tiền tổn thất lần này.
Bedford
không bao giờ quên bài học ấy. Ông đã ghi khắc những điều đó trong lòng và đem
ra áp dụng trong những ngày làm việc còn lại của ông.
2. Để bớt đổ vỡ
Một Cha
sở già kia có nhiều kinh nghiệm thường khuyên các đôi tân hôn như sau: “Khi các
con thấy trong nhà sắp xảy ra cãi vã, các con hãy nói với nhau: “Để sáng mai
rồi hãy gây gỗ." Sáng hôm sau các con sẽ thấy rằng việc hôm qua thật là
nhỏ nhoi không đáng gây gỗ chút nào.
"Khi
các con sắp có chuyện cãi vã, chúng con hãy ngậm hoài một ngụm nước lạnh cho
đến khi ngụm nước nóng lên. Rồi cứ tiếp tục ngậm ngụm nước khác. Làm như thế
các con sẽ bớt được những xô xát đổ vỡ trong gia đình.
3. Chạy ba vòng
Ở Tây
Tạng xưa kia có một người tên là Ái Địa Ba, mỗi khi tức giận tranh chấp với
người khác, anh đều chạy về nhà với tốc độ rất nhanh, chạy xung quanh ngôi nhà
và mảnh đất của mình ba vòng, sau đó ngồi xuống bờ ruộng thở dốc.
Ái Địa
Ba làm việc vô cùng siêng năng. Nhà của anh ta càng ngày càng to, đất đai của
anh ta càng ngày càng rộng lớn, nhưng cho dù nhà có to và đất có rộng bao nhiêu
đi nữa, thì nhưng khi tức giận với một người nào đó, anh vẫn chạy quanh nhà và
mảnh đất của mình ba vòng.
Tại sao
Ái Địa Ba mỗi lần tức giận đều chạy quanh nhà và mảnh đất ba vòng? Tất cả những
người quen biết anh đều cảm thấy nghi hoặc, nhưng cho dù hỏi gì, anh đều không
muốn giải thích.
Cho đến
một ngày nọ, Ái Địa Ba đã trở thành một ông cụ rất già, ngôi nhà và mảnh đất
của ông bây giờ cũng đã quá rộng lớn, khi tức giận, ông vẫn chống gậy vất vả đi
xung quanh ngôi nhà và mảnh đất của mình, sau khi hoàn thành ba vòng một cách
khó khăn, mặt trời cũng đã lặn xuống núi, Ái Địa Ba một mình ngồi trên bờ ruộng
thở dốc, cháu ông đến bên cạnh nài nỉ:
- Ông
ơi, tuổi ông đã cao, những người hàng xóm quanh đây cũng không có ai có đất đai
rộng lớn bằng ông, ông không thể giống như lúc trước được, mỗi khi tức giận đều
chạy quanh mảnh đất! Ồng có thể nói cho cháu biết bí mật này không, tại sao mỗi
khi tức giận ông đều chạy quanh mảnh đất ba vòng?
Trước
sự nài nỉ của đứa cháu, Ái Địa Ba cuối cùng cũng phải nói ra bí mật trong lòng
mình suốt nhiều năm nay:
- Khi
trẻ, mỗi khi ông cãi cọ, tranh luận, tức giận một ai đó ông đều chạy ba vòng
quanh mảnh đất của mình, vừa chạy vừa suy nghĩ, ngôi nhà của mình nhỏ như vậy,
đất đai của mình nhỏ như vậy, mình làm gì có thời gian và tư cách để tức giận
mọi người. Khi nghĩ đến đây, bao nhiều tức giận đều tan biến hết, ông dành tất
cả thời gian nỗ lực làm việc.
Đứa
cháu hỏi:
- Ông
à, vậy bây giờ ông đã lớn tuổi rồi, cũng đã trở thành một người giàu có, tại
sao ông vẫn còn chạy như thế?
Ái Địa
Ba cười nói:
- Phải.
Bây giờ, tuy ta đã già nhưng nhiều khi vẫn có thể tức giận, khi tức giận thì
chạy ba vòng, vừa chạy vừa suy nghĩ, nhà của ta thật to, đất đai của ta thật rộng
lớn, ta hà tất tính toán với người khác làm gì cho mệt? Nghĩ đến đây, bao nhiêu
tức giận đều tan biến cả.
4. Lý do người Samari không đón tiếp Chúa
Sở dĩ
dân Samari không đón tiếp Đức Giêsu và các môn đệ, cũng có nghĩa là họ không
muốn theo Đức Giêsu đi dâng Lễ ở Giêrusalem, vì mối thù truyền kiếp khai mào từ
thời lưu đày bên Babylon:
- Năm
721 trước Công nguyên, vua Assur bắt dân Israel ở Samari đi lưu đày, và cho dân
ngoại đến Samari sinh sống. Những người Do Thái còn lại, họ đã xây Đền Thờ kính
Chúa ở núi Garizim trong miền Samari. Như thế là chống lại truyền thống cha ông
họ xưa nay vẫn tôn thờ Thiên Chúa ở Giêrusalem! Lúc đó đền thờ Giêrusalem vẫn
còn, mãi đến 134 năm sau, tức là vào năm 587 trước Công nguyên, đền thờ
Giêrusalem mới bị phá (x Is 40-55).
- Năm
539 trước Công nguyên, những người Do Thái lưu đày từ Babylon được vua Cyros
cho họ hồi hương tái thiết Đền Thờ Giêrusalem (x Is 45), thì lại bị dân ở
Samari gây khó dễ, vì họ chỉ muốn mọi người thờ Chúa ở Garizim.
- Năm
200 trước Công nguyên, những người thờ Chúa ở Giêrusalem lại kéo đến Garizim
đập phá Đền Thờ của người Do Thái ở Samari!
Đó là
lý do khi những người Do Thái ở Samari thấy Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài
muốn ghé lại Samari, rồi mới tiếp tục lên Giêrusalem dự Lễ, thì dân vùng này
không đón tiếp!
5. Ăn miếng trả miếng
Một cô
gái lên tàu, nhìn thấy chỗ của mình đã bị một chàng trai ngồi, cô gái kiểm tra
lại vé của mình thêm một lần nữa, rất lễ phép nói với chàng trai:
- Thưa
anh, anh đã ngồi nhầm vị trí rồi ạ!
Chàng
trai giơ tờ vé ra:
Nhìn
kỹ đi, đây là chỗ của tôi, cô mù à!
Cô gái
nhìn kỹ tờ vé của chàng trai, im lặng không nói, lặng lẽ đứng bên cạnh chàng
trai.
Một lát
sau đoàn tàu bắt đầu từ từ rời ga, cô gái cúi đầu nhẹ nhàng nói với chàng trai
- Thưa
anh, ghế anh ngồi không sai, nhưng anh ngồi nhầm tàu rồi ạ!
6. Thế giới cần chứng nhân
Một tư
tế đạo Bà la môn nói với một vị thừa sai Kitô giáo ở Ấn độ rằng: “Nếu như các
Kitô hữu giống như cuốn Kinh thánh của Ngài, thì Ngài có thể chinh phục Ấn độ
trong năm năm.” Nói khác đi, nếu chúng ta sống những điều Kinh thánh dạy, chúng
ta sẽ hoán cải người Ấn một cách nhanh chóng. Đó là chứng từ mà Thiên Chúa nói
đến trong bài đọc hôm nay. Đó cũng là chứng từ khiến người ta phải nói với
chúng ta “Chúng tôi muốn biết nhiều hơn về Thiên Chúa của các bạn.”
Bài đọc
hôm nay mời gọi tôi xin được sửa chữa bất cứ gì ngăn cản tôi là người khác đến
với tôi: “Chúng tôi muốn biết nhiều hơn về Thiên Chúa của bạn.”
Có hai
cách truyền ánh sáng, đó là ánh nến và gương phản chiếu ánh sáng đó (Edith
Wharton).
7. Nóng giận là làm nô lệ
Phản
ứng nóng nảy của Giacôbê và Gioan trong bài đọc hôm nay, chứng tỏ các ông chưa
quán triệt lời này của Chúa Giêsu: “Hãy học cùng Thầy vì thầy hiền lành và
khiêm nhường trong lòng” (Mt 11, 29).
Có bao
giờ tôi đã đáp trả cách bực tức khi bị người khác xử tệ chưa? Lúc này, tôi giải
quyết cách xử tệ đó ra sao?
Khi
chúng ta ghét bỏ kẻ thù, chúng ta cho họ được quyền trên chúng ta: quyền trên
giấc ngủ, quyền trên sức khỏe và quyền trên sự bình an của tâm trí chúng ta.
Chắc hẳn kẻ thù sẽ nhảy mừng nếu họ biết rằng sự thù ghét đang giết dần giết
mòn chúng ta, nhưng chẳng hề làm thương tổn họ.
8. Giận mất khôn
Một con
rắn bò vào một cửa hàng bán đồ làm mộc và bò đến góc nhà. Khi bò ngang qua một
cái cưa, nó vô tình bị lưỡi cưa làm bị thương. Lập tức, nó quay lại và cắn cái
cưa. Càng cắn, nó lại càng bị thương ở miệng.
Sau đó,
không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nghĩ rằng cái cưa đang tấn công mình, nó quyết
định quấn lấy cái cưa với ý định làm cho cái cưa ngạt thở với toàn bộ sức mạnh
của mình. Thật không may, con rắn cuối cùng bị chết bởi một cái cưa vô tri vô
giác.
Đôi
khi, chúng ta phản ứng với sự giận dữ với ý định sẽ làm tổn thương những người
đã đối xử tệ với mình nhưng thực ra chúng ta đã làm tổn thương chính bản thân
mình.
Trong
cuộc sống, có những lúc tốt hơn là mặc kệ sự việc có tồi tệ ra sao, là con
người đừng nghĩ đến thù hận và sự đáp trả. Bởi vì hậu quả khi đã xảy ra là
không thể đảo ngược và thảm khốc. Tốt hơn là luôn ứng xử với họ bằng thái độ ôn
hoà, và tình yêu thương nhân hậu mặc dù phải nỗ lực rất nhiều...!
Hãy làm
chủ cảm xúc của mình, đừng để bản thân chỉ vì một tình huống, chỉ một câu nói
của người khác mà làm hỏng tâm tình, hỏng việc của mình. Một phút nóng giận, ân
hận cả đời.
9. Mãnh hổ và chó điên
Một con
hổ nhìn thấy một con chó điên, nó vội vã tránh ra thật xa. Hổ con nói với bố:
"Bố ơi, bố dám đấu với sư tử, dám tranh hùng với báo săn, vậy mà lại phải
tránh một con chó điên, thật mất mặt quá!"
Hổ bố
hỏi: "Theo con, đánh bại một con chó điên có vinh quang không?"
Hổ con
lắc đầu.
"Để
con chó điên cắn phải một nhát, có đen đủi không?"
Hổ con
gật gật đầu.
"Đã
như vậy, chúng ta việc gì phải động chạm đến một con chó điên? – Không phải
người nào cũng có thể coi làm đối thủ của con, không nên tranh biện với những
người không có tố chất, cứ mỉm cười một cái rồi tránh thật xa, đừng để họ cắn
được con.
Điều
này nhất định con phải nhìn cho thấu đáo, bởi lẽ trong thực tế cuộc sống này,
vẫn có rất nhiều người đang đấu với chó điên mà không ý thức được vấn đề."
Tôi
cũng thế nếu tôi dị ứng với đức mến được thánh Phalô trình bày hết sức rõ ràng:
“Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự
đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi
hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức
mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cr
13,4-7)
10. Tự sát vì dục vọng
Người
Eskimo ở bắc cực nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ da
chúng làm y phục.
Người ta
dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc vật, rồi đem dang ra
ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp lại động tác đó
nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu đông, lớn như quả
xoài.
Đợi đến
khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa đồng hoang. Với tài
đánh hơi bén nhạy, loài sói khát máu sẽ nhanh chóng phát hiện mùi máu tươi
và sẽ chạy đến đua nhau liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao
lộ ra cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi của bầy sói bị cứa đứt nhiều đường, máu
từ lưỡi ứa ra và chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của
chính mình chảy ra mà không hay biết. Càng liếm hăng, lưỡi chúng càng bị cứa
sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy thành dòng… kết thúc cuộc đời lũ sói tham
ăn.
THỨ TƯ - ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA GIÊSU
Lời
Chúa: Lc 9, 57-62
Khi ấy,
đang lúc Chúa Giêsu và các môn đệ đi đường, thì có kẻ thưa người rằng: "Dù
Thầy đi đâu, tôi cũng sẽ theo Thầy." Chúa Giêsu bảo người ấy rằng:
"Con chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không có nơi gối đầu."
Người
bảo một kẻ khác rằng: "Hãy theo Ta." Người ấy thưa: "Xin cho
phép tôi đi chôn cha tôi trước đã." Nhưng Người đáp: "Hãy để kẻ chết
chôn kẻ chết; phần con, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa."
Một
người khác thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi sẽ theo Thầy, nhưng cho phép
tôi về từ giã gia đình trước đã." Nhưng Chúa Giêsu đáp: "Ai đã tra
tay vào cày mà còn ngó lại sau lưng thì không xứng đáng với Nước Thiên
Chúa."
TRUYỆN KỂ
1. Ðiều kiện theo Chúa
Một
linh sư Ấn đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông, có một người đàn ông nọ muốn xin
làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân vị tu hành hai viên
ngọc quí nhất như của lễ ra mắt. Vị linh sư mở mắt ra, nhưng ông không để lộ
một chút thích thú nào; không cần nhìn kỹ vào món quà quí giá ấy, vị linh sư
cầm lấy một viên và ném xuống dòng sông.
Tiếc
của, người đàn ông giầu có liền nhảy xuống sông để cố tìm lại viên ngọc, nhưng
mất một ngày mà ông không tài nào tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi, chán nản,
người đàn ông đến vị linh sư xin chỉ rõ nơi đã ném viên ngọc quí. Vị linh sư
cầm viên ngọc còn lại ném xuống dòng sông và nói: "Ta đã ném vào chỗ đó,
ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại."
Chúa
Giêsu cũng đòi hỏi môn đệ Ngài một thái độ từ bỏ và dứt khoát như thế. Thánh Luca
trình bày cuộc đời Chúa Giêsu là một hành trình lên Giêrusalem mà đích điểm là
cái chết trên thập giá.
2. Đường đến hạnh phúc
Theo
truyện thần thoại của Hy Lạp, Hercule là một vị thần, một lần đứng giữa ngã ba
đường và tự hỏi xem mình nên đi về đâu. Có hai người chỉ cho ông.
Một
người nói: “Hãy theo tôi, đây là con đường thoải mái, hạnh phúc và lối đi dễ
dàng."
Người
thứ hai nói: “Đây là con đường cố gắng, nỗ lực, khó khăn. Tuy là đường khó
khăn, nhưng đưa tới hạnh phúc."
Hercule
đã chọn con đường khó khăn và quả thực ông khôn ngoan, ông đã thành công.
3. Phải dứt khoát từ bỏ.
Một nhà
buôn ở Francfurt muốn tìm một em bé trai để lo việc giao hàng. Có một người anh
trưởng trong một gia đình gồm 07 người anh em 16 tuổi đến xin việc. Nhân viên
tiếp tân ở phòng khách gật đầu nói: ”Cậu không có nhiều may mắn lắm đâu. Trước
cậu đã có 52 người đến xin việc rồi. Tuy nhiên, cậu có thể thử thời vận."
Nhân
viên này dẫn cậu vào phòng ông chủ. Ông chủ tiếp chuyện thân mật với ứng viên,
đặt nhiều câu hỏi với chàng trai.
- Mời
cậu một điếu.
- Cám
ơn ông, nhưng cháu không hút thuốc.
- Thế
nào? Cậu không hút thuốc ư? Nhưng anh bạn của tôi ơi, để làm một người lớn, cần
phải biết hút thuốc. Đừng rồ dại nữa!
-
Không. Cháu cám ơn bác. Cho đến nay cháu vẫn không hút thuốc và cháu cũng không
muốn bắt đầu.
Thế rồi
ông chủ chìa tay ra cho anh.
- Tôi
nhận cậu vào làm việc. Cậu là người thứ 53 đến gặp tôi xin việc, nhưng cậu lại
là người đầu tiên không nhận điếu thuốc. Cậu thích hợp với tôi.
Và ném
điếu thuốc đi, ông nói thêm: - Tôi cũng vậy, tôi không hút thuốc.
Sau đó,
chàng trai được biết rằng người làm công trước đã bị sa thải vì anh ta hút
thuốc quá nhiều và đã thâm hụt thụt quỹ để mua thuốc.
4. Cả nhà đi tu
Hai vợ
chồng nhà báo người Hà Lan tên là Val Der Meer de Walcheren đã cùng xin chịu Bí
tích Thánh tẩy vào năm 1911 để gia nhập Giáo Hội Công giáo. Sau đó, ông bà đã
lần lượt khuyên các con cùng theo đạo, rồi lại cùng lần lượt theo đuổi ơn gọi
Tận Hiến của các dòng tu. Người con trai lớn sau này trở thành một linh mục
dòng Biển đức Nam (Bénédictin), người con gái kế làm nữ tu trong đan viện Biển
đức nữ (Bénédictine).
Năm
1933, nhờ lòng khao khát tuyệt đối và ý chí tận hiến cho Chúa, Tòa Thánh đã
chấp thuận đơn xin của hai ông bà để được phép chia tay nhau trong lòng mến
đích thật. Ông xin được vào dòng Biển đức nam, nơi người con trai linh mục vừa
sớm lìa đời, còn bà thì xin vào dòng Biển đức nữ chung với người con gái.
Trong
thời kỳ tập tu, Bề Trên cả hai dòng chỉ định cho ông bà phải tiếp tục thường
xuyên thư từ cho nhau. Sau hai năm, cả hai ông bà vẫn đầy thiện chí, sẵn sàng
hy sinh dâng mình cho Chúa. Thế nhưng, Bề Trên của hai bên đều nhận thấy mối
duyên tình của ông bà còn quá khăng khít, nên đã khuyên cả hai trở về với đời
sống gia đình. Ông bà vâng lời trở về, tiếp tục sống hạnh phúc bên nhau, chan
hòa lòng yêu thương bác ái đối với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ.
Đến năm
1954 thì bà Val Der Meer de Walcheren qua đời. Nối lại ý hướng từ 20 năm về
trước, cụ ông 74 tuổi đã xin trở lại tu viện. Và vào ngày 22.12.1956, cụ được
thụ phong linh mục tại nhà nguyện tu viện Đức Mẹ nơi người con gái của cụ vẫn
đang sống cuộc đời đan tu gương mẫu đã hơn 40 năm qua.
5. Một bước thay đổi cuộc đời
Vào một
ngày đẹp trời, ở một thôn nhỏ trên cao nguyên hẻo lánh, bỗng xuất hiện một
chiếc xe con bóng nhoáng. Đây là chuyện hiếm thấy đối với một thôn nhỏ chưa
từng nghe thấy tiếng động cơ ôtô. Hầu hết những người dân trong thôn đều chạy
ra khỏi nhà, xúm quanh chiếc xe để xem có chuyện gì lạ xảy ra.
Khi
cánh cửa xe được mở ra, có vài người bước xuống. Một người đàn ông trung niên
đầu cắt trọc, mặc một bộ quần áo rằn ri cất tiếng hỏi:
- Có ai
muốn đóng phim không? Ai muốn đóng phim thì lại đây đăng ký.
Tuy mỗi
người dân trong thôn đều đã xem phim, nhưng đóng phim như thế nào thì họ biết rất
ít. Tại sao lại đến nơi hẻo lánh này quay phim chứ? Đóng phim là đóng như thế
nào? Rất nhiều người đều hỏi những người xung quanh hoặc tự lẩm bẩm một mình.
Người
đàn ông trung niên ấy hỏi lại mấy lần, nhưng không có ai lên tiếng. Lúc đó, một
cô bé khoảng mười ba tuổi bước lên trước một bước và nói: - Cháu muốn đóng
phim.
Đó là
một cô gái bình thường với đôi mắt nhỏ, một mí, cặp má đỏ au nhưng ánh mắt và
gương mặt của cô toát lên vẻ hiền hậu và quả cảm của những đứa trẻ vùng sơn
cước.
Người
đàn ông trung niên hỏi cô: - Cháu có biết hát không?
Cô gái
trả lời gãy gọn, dứt khoát: - Có biết.
- Vậy
cháu hãy hát một bài cho chúng tôi nghe đi!
- Hát
thì hát? - Cô bé không hề tỏ ra sợ sệt, cô vừa hát vừa nhảy – Đất nước chúng ta
là một vườn hoa, những bông hoa trong vườn hoa thật đẹp.
Những
người dân trong thôn không nhịn được cười, bởi vì giọng hát của cô thật khó
nghe, không những sai nhạc, mà đến giữa chừng cô còn quên mất lời bài hát.
Nào
ngờ, người đàn ông trung niên giơ tay chỉ vào cô: - Được rồi, chúng tôi chọn
cháu.
Người
đàn ông trung niên ấy chính là nhà đạo diễn điện ảnh lừng danh Trương Nghệ Mưu,
còn cô gái dũng cảm bước về phía trước một bước ấy là Ngụy Mẫn Chi, nữ diễn
viên chính trong bộ phim “Một người cũng không thể thiếu."
Tuy
Ngụy Mẫn Chi chỉ bước lên phía trước một bước, nhưng bước chân ấy đã thay đổi
cuộc đời của cô.
6. Chọn là chọn
Trong
thần thoại Hy Lạp có kể truyện về thần Orpheus bị đày xuống trần, được các thần
tặng cho cây đàn bảy dây. Tiếng đàn làm nước ngừng chảy, đá vỡ ra, thú dữ biến thành
chiên…
Orpheus
cưới được cô vợ rất xinh đẹp tên là Eurydice, ngày kia nàng bị rắn cắn chết,
hồn nàng xuống âm phủ! Orpheus thương nhớ vợ nên đem đàn xuống âm phủ gảy để
đưa hồn vợ về. Các thần căn dặn Orpheus: Phải đi sau nàng mà gảy đàn, và các
thần cũng dặn dò nàng: Khi nghe tiếng đàn thì cứ đi thẳng đừng ngó lui đằng
sau. Nhưng đi được một đoạn, nàng ngó lại xem chồng có theo nàng về không, thế
là hồn nàng bị chết muôn đời! Orpheus mãi mãi mất vợ!
Thánh
Clémenté đã áp dụng truyện này vào việc Tông Đồ:
-
Orpheus là Chúa Giêsu.
- Đàn
bảy dây: Bầu đàn là Lời Chúa, bảy dây là bảy Bí tích sẽ biến tội ra ơn, dữ ra
lành, chết ra sống.
-
Eurydice bị rắn cắn: con người bị quỷ làm hại
- Chàng
đem đàn đến cứu vợ, nhưng vì nàng không nghe lời căn dặn đã quay lại, nên chàng
mất vợ: Chúa Giêsu ban Lời và lập Bí tích để cứu ta, nhưng ta không dứt khoát
theo Chúa. Chúa khóc vì ta bị diệt (x Ga 11,35 ; Lc 19,41).
7. Thầy Giêsu và tôi
Tôi nổi
giận thì Thầy lại bảo: Hãy nhịn nhục và thứ tha.
Tôi run
sợ thì Thầy lại bảo: Hãy can đảm.
Tôi
hoài nghi thì Thầy lại bảo: Hãy tín thác.
Tôi bồn
chồn không ngơi thì Thầy lại bảo: Hãy tĩnh lặng đi.
Tôi
thích đi con đường riêng mình thì Thầy lại bảo: Hãy theo Ta.
Tôi
muốn lập kế hoạch riêng cho mình thì Thầy lại bảo: Hãy quên đi.
Tôi
nhắm tìm của cải vật chất thì Thầy lại bảo: Hãy bỏ lại đằng sau.
Tôi
muốn được bảo đảm ở đời này thì Thầy bảo: Phần Ta, Ta chẳng hứa hẹn gì đâu.
Tôi
thích sống cuộc đời riêng của mình thì Thầy bảo: Hãy từ bỏ chính mình đi.
Tôi
nghĩ rằng mình tốt lành thì Thầy bảo: Tốt lành thôi thì chưa đủ đâu con.
Tôi
thích làm ông chủ thì Thầy bảo: Hãy quỳ xuống mà phục vụ lẫn nhau.
Tôi
muốn ra lệnh cho người khác thì Thầy bảo: Thôi, hãy vâng lời đi.
Tôi đi
kiếm tìm tri thức thì Thầy bảo: Hãy tin.
Tôi
thích sự rõ ràng thì Thầy lại dạy tôi bằng ngụ ngôn.
Tôi
thích thi ca mơ mộng thì Thầy lại nói toàn chuyện hiện thực.
Tôi yêu
sự yên tĩnh của mình thì Thầy lại muốn tôi bị quấy rầy.
Tôi
thích bạo lực thì Thầy lại bảo: Bình an ở cùng các con.
Tôi rút
gươm ra thì Thầy bảo: Vứt nó ngay lập tức.
Tôi
nghĩ chuyện trả thù thì Thầy bảo: Đưa má bên kia cho người ta đánh luôn đi con.
Tôi nói
về một trật tự thì Thầy bảo: Ta đến đem gươm giáo.
Tôi căm
ghét thì Thầy bảo: Thôi, hãy yêu thương cả kẻ thù nhé.
Tôi
muốn gieo sự hòa hợp thì Thầy nói: Ta đem lửa xuống thế gian.
Tôi
muốn làm người lớn thì Thầy nói: Hãy trở nên trẻ nhỏ.
Tôi
muốn ẩn thân, Thầy bảo: Ánh sáng thì phải chiếu rọi.
Tôi đi
tìm chỗ nhất trong hội đường, Thầy lại bảo: Xuống chỗ chót hết mà ngồi.
Tôi
thích được quan tâm, Thầy nói: Đóng cửa lại mà cầu nguyện.
Không,
tôi không thể hiểu nổi ông Thầy Giêsu này, Ông khiêu khích tôi, ông làm tôi bối
rối.
Cũng
giống như nhiều học trò khác, tôi rất muốn đi theo Thầy Giêsu này, Thế nhưng,
khổ quá, chắc là phải đi tìm ông thầy khác thì sẽ khá hơn, Ít đòi hỏi hơn và
lại có nhiều quyền lợi hơn.
Nhưng
cuối cùng, tôi đã cảm nhận như anh trưởng Phêrô đã thốt lên: "Tôi không
biết ai khác lại có được Lời ban Sự Sống đời đời như Thầy Giêsu của tôi."
Amen.
8. Ở cùng Chúa luôn
Một
cách cầu nguyện mà thánh Têrêsa Avila sử dụng, đó là chỉ đứng một cách cung
kính và thinh lặng trước mặt Thiên Chúa. Khi đề nghị cách thức cầu cầu nguyện
này cho người khác, thánh nữ viết: “Hãy tưởng tượng như Thiên Chúa ở bên bạn.
Hãy ở cùng người bạn này càng lâu càng tốt… Bạn chẳng cần phải quan tâm đến
việc trò chuyện.”
Cách
thức này hiệu quả ra sao đối với tôi?
Hãy
năng nghĩ đến Thiên Chúa, ngày và đêm, trong công việc và ngay cả lúc giải trí.
Thiên Chúa luôn ở gần và ở với bạn, bạn đừng để Ngài một mình. Thật bất lịch sự
khi để người đến thăm bạn lẻ loi một mình. (Lawrence)
9. Đừng ngoái lại sau lưng
Vào năm
1954, sau khi Roger Bannister của Anh quốc phá được kỷ lục bốn phút một dặm,
thì John Landy của Úc cũng phá được kỷ lục như thế. Điều này buộc hai đấu thủ
phải thực hiện một cuộc chạy đua ở Canada. Khi hai đấu thủ cố sức ở cự li cuối
cùng. Landy chợt nhìn lại sau một chút để xem Bannister gần mình đến đâu. Bắt
được cơ hội ngàn vàng này, Bannister đã bứt phá và vượt qua Landy để dành chiến
thắng.
Đã bao
giờ tâm trí tôi đặt câu hỏi hoặc do dự trong quyết định theo Chúa gần gũi hơn
chưa? Khi nào? Tại sao?
Thiên
Chúa không kêu gọi tôi thành công, nhưng Ngài kêu gọi tôi tin tưởng. (Mẹ
Têrêsa)
10. Không chỗ tựa đầu
Nhà thơ
Bàng Bá Lân đã thi vị hóa cảnh nhà dột như sau: “Bốn bề gió lạnh vào thăm, Ba
gian mưa uớt biết nằm nơi nao? Dế ngâm thơ ở khe nào, Bảo cho ta biết ta vào
trú mưa.” Dù vậy, có một mảnh đất, cất một mái nhà nho nhỏ vẫn là mơ uớc ngoài
tầm tay của rất nhiều người, nhất là những anh chị em nhập cư ở các thành phố
lớn. Quyền được có nhà ở là một quyền cơ bản của con người như con thú có hang,
con chim có tổ. Đức Giêsu đã từ khước quyền lợi ấy và chia sẻ kiếp người cùng
đinh nhất: chỗ tựa đầu của Ngài lúc chào đời là máng cỏ dành cho súc vật; khi
rao giảng Tin Mừng là khoang thuyền của ngư dân nghèo; lúc lìa đời là thập giá
của tử tội. Ngài cũng muốn có một mái nhà để “an cư lạc nghiệp” chứ! Thế nhưng,
Ngài từ khước nhu cầu cơ bản ấy vì mục tiêu cao cả hơn: để loan báo Tin Mừng
Nước Thiên Chúa.
Đi đạo
hay theo Chúa Giesu là chấp nhận đi theo bước chân, con đường Ngài đã đi. Vì
thế, khi nào bạn sẵn sàng đón nhận những mạo hiểm, bấp bênh, giảm bớt những chỗ
tựa đầu để có thể sống Lời Chúa, bạn đang thật sự là môn đệ chân truyền của
Ngài.
Xem xét
chỗ tựa đầu nào đang trói buộc, không cho tôi tích cực sống những giá trị của
Tin Mừng (những thói quen hưởng thụ, những tiện nghi không thực sự cần
thiết...) và từ bỏ để loan báo Tin Mừng cách tích cực hơn.
THỨ NĂM -
SAI BẢY MƯƠI HAI NGƯỜI RAO GIẢNG
Lời
Chúa: Lc 10, 1-12
Khi ấy,
Chúa chọn thêm bảy mươi hai người nữa và sai các ông cứ từng hai người đi trước
Người, đến các thành và các nơi mà chính Người sẽ tới.
Người
bảo các ông rằng: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít; vậy các con hãy
xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người. Các con hãy đi. Này Thầy sai các
con như con chiên ở giữa sói rừng. Các con đừng mang theo túi tiền, bao bị,
giày dép, và đừng chào hỏi ai dọc đường. Vào nhà nào, trước tiên các con hãy
nói: "Bình an cho nhà này." Nếu ở đấy có con cái sự bình an, thì sự
bình an của các con sẽ đến trên người ấy. Bằng không, sự bình an lại trở về với
các con. Các con ở lại trong nhà đó, ăn uống những thứ họ có, vì thợ đáng được
trả công. Các con đừng đi nhà này sang nhà nọ.
"Khi
vào thành nào mà người ta tiếp các con, các con hãy ăn những thức người ta dọn
cho. Hãy chữa các bệnh nhân trong thành và nói với họ rằng: "Nước Thiên
Chúa đã đến gần các ngươi." Khi vào thành nào mà người ta không tiếp đón
các con, thì hãy ra giữa các phố chợ và nói: "Cả đến bụi đất thành các
ngươi dính vào chân chúng tôi, chúng tôi cũng xin phủi trả lại các ngươi. Nhưng
các ngươi hãy biết rõ điều này: Nước Thiên Chúa đã đến gần." Thầy bảo các
con, ngày ấy, thành Sôđôma sẽ được xử khoan dung hơn thành này."
TRUYỆN KỂ
1. Tiền của và Hạnh phúc
Có một
nhà hiền triết đến nghỉ hè tại một thành phố nọ; ông vua của đô thị này thường
tự hào mình là người giàu có nhất trần gian. Vốn là người siêu thoát mọi của
cải trần thế, nhà hiền triết quyết định đến gặp cho được con người khoe khoang
này. Khi nhà hiền triết vừa đến cung điện, nhà vua liền đưa ông đi một vòng và
cho ông thấy tất cả sự giàu sang của mình. Nhà vua hỏi một cách huênh hoang:
Nhà
ngươi nghĩ gì về tất cả sự giàu có của ta?
Nhà
hiền triết cúi đầu giữ im lặng. Nhà vua lại hỏi tiếp:
Theo
nhà ngươi, thì ai là người hạnh phúc nhất trần gian này?
Nhà
hiền triết suy nghĩ một lúc rồi kể tên của những người Hy lạp mà có lẽ không ai
biết đến, kể cả nhà vua. Nhận ra thái độ khiêu khích của nhà hiền triết, nhà
vua liền nổi giận; ông yêu cầu nhà hiền triết phải giải thích ngay về thái độ
ấy. Lúc bấy giờ, nhà hiền triết mới thong thả nói:
Thưa
ngài, không ai có thể được xem là hạnh phúc, khi trái tim người đó còn gắn bó
với của cải vật chất. Ðiều này cũng giống như một cuộc hôn phối, của cải vật
chất qua đi, người có của sẽ thành một người góa, mà người góa thì đương nhiên
sẽ khóc lóc; hoặc giả như người có của cải qua đi, người đó cũng chẳng mang
theo được một đồng xu nào, lúc đó cũng chỉ có khóc lóc mà thôi.
2. Tin vào Thiên Chúa
Tướng
Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm
lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
“Các
bạn hãy can đảm lên! Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng
quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta
đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu."
3. Truyền giáo là việc cấp thiết
Thánh
Phanxicô Xavier sinh ra tại Tây Ban Nha chỉ ít lâu sau khi tìm ra Châu Mỹ. Hồi
còn là sinh viên ở trường đại học Pari, ngài nghe được lời mời gọi trở thành
linh mục và sau đó ngài đã thành một nhà truyền giáo ở Ấn Độ. Một trong những
lá thư của ngài từ Ấn độ vang vọng lời Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay. Đây
là một phần của lá thư: “Nơi đây, nhiều người không trở nên kitô hữu được chỉ
vì một lý do là không có ai sẳn sàng đảm nhận sứ mạng dạy dỗ cho họ về Chúa.
Tôi thường nghĩ đến việc đi tới trường đại học ở Âu Châu và kêu gọi những người
thợ đến thu hoạch vụ mùa ở đây (Ấn Độ).”
Tôi có
thể làm gì để giúp thu hoạch vụ mùa trong đời tôi?
Lạy
Chúa, con đây, Chúa muốn con làm gì? (Thánh Phanxicô Xavier)
4. Đôi tay của Chúa.
Vào
cuối thế chiến thứ hai, để thu phục thiện cảm và tin tưởng của người dân trong
làng vừa mới được giải phóng khỏi tay Đức Quốc xã, toán lính thuộc lực lượng
đồng mình cố gắng lượm lại từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng
lên ở ở quảng trường trước ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê
miền cực nam nước Italia.
Sau
nhiều ngày cố gắng, toán lính đã gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa.
Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là không thể nào hàn gắn lại được. Vì các mảnh
vụn lớp thì bị bể quá nhỏ, lớp thì đã bị nát thành như bụi.
Sau
nhiều giờ bàn luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người
trong toán lính có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể
nát của bức tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động
được tâm hồn những người dân trong làng, mà còn thu hút được nhiều khách du
lịch đến vùng này để được tận mắt xem hàng chữ đầy ý nghĩa. Các bạn có thể đoán
được hàng chữ này không? Đó là “CHÍNH BẠN LÀ ĐÔI TAY CỦA CHÚA."
5. Mang và không mang những gì?
Nếu
phải thực hiện một chuyến đi dài, tôi sẽ mang theo thứ gì? Chắc chắn là những
gì gọn nhất, nhẹ nhất, cần thiết nhất. Và hôm nay, trong lênh truyền của Chúa
Giêsu tôi đọc được nét nhẹ nhàng thanh thoát ấy trong bước chân của người môn
đệ không giày dép, bao bị, tiền nong...
Và phải
chăng cũng vang động trong tâm hồn tôi lời mời gọi “ra một cuộc lữ hành”? Nhưng
lạy Chúa, khó quá, vì nơi con: Đã quen rồi bóng râm của tiện nghi, an toàn. Đã
quen rồi đôi giày của danh vọng. Đã quen rồi chiếc đồng hồ kế hoạch. Đã quen
rồi bao bị của bằng cấp, bạc tiền.
Lạy
Chúa, trên hành trình tiến về nhà Chúa, xin giải thoát con khỏi những ràng buộc
của bản thân, của lề thói xã hội, để biết trao ban cho anh em chính Chúa chứ
không phải chính con
6. Truyền giáo cần dấn thân
Một
cuộc đánh bom tự sát tại một nhà thờ Anh Giáo ở Peshawa, Pakistan đã khiến trên
80 tín hữu bị chết khi họ vừa ra khỏi nhà thờ sau khi dự lễ Chúa Nhật
22/09/2013. Lý do “đơn giản” là, đại diện nhóm Taliban tổ chức cuộc tấn công đó
tuyên bố, vì sự thù địch với Kitô giáo, họ sẽ tiếp tục tấn công cho đến khi
không còn người ngoài Hồi giáo nào trên đất Pakistan. Các Kitô hữu vẫn tiếp tục
bị thù ghét dưới nhiều hình thức: từ việc bị bách hại, bị xua đuổi “từ thành
này sang thành khác” (x. Mt 10,23) đến việc người ta bịt tai trước lời rao
giảng. Chúa Giêsu dạy chúng ta phản ứng lại một cách nhẹ nhàng là “phủi bụi
chân lại” nhưng vẫn phải kiên quyết loan báo Tin Mừng mà không sợ hãi rằng:
“Nước Thiên Chúa đã đến gần.”
Nhiều
kitô hữu “ngại” nói đến hai tiếng “truyền giáo” hoặc cho rằng việc truyền giáo
ngày nay là không phù hợp. Bạn nhớ, bản chất của Giáo hội là truyền giáo (AG
2). Thánh Phaolô cũng đã khuyên Timothê “hãy rao giảng Lời Chúa, lúc thuận tiện
cũng như không thuận tiện” (2Tm 4,2).
7. Truyền giáo cần biết
Theo
thống kê thì trên thế giới hiện nay có khoảng 7 tỷ người, và có khoảng 1,5 tỷ
người Công giáo. Tại Việt Nam có gần 88 triệu người nhưng chỉ có khoảng hơn 6
triệu tín hữu. Một con số quá chênh lệch mà chính Chúa Giêsu đã nhìn thấy cách
đây hơn 2000 năm. “Cánh đồng lúa” của Chúa thì bao la trong khi “thợ gặt” lại
quá ít. Chúa đã sai các môn đệ ra đi, làm “thợ gặt” cho Chúa. Những “thợ gặt”
này trong khi được sai đi như vậy, phải có bổn phận làm phát sinh nhiều “thợ
gặt” khác: “Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của Người." Giáo
Hội đang rất cần những thợ gặt nhiệt thành với sứ mạng rao truyền tình yêu
thương của Chúa cho thế giới hôm nay.
Truyền
giáo không chỉ là làm thế nào để rửa tội cho thật nhiều người. “Thợ gặt” muốn
có “lúa” để “gặt” thì trước tiên phải biết gieo giống. Vì thế, bổn phận đầu
tiên của “thợ gặt” là làm “những công việc tốt đẹp” như “ánh sáng chiếu giãi ra
trước mặt thiên hạ” nhờ đó “họ tôn vinh Thiên Chúa Cha chúng ta, Đấng ngự trên
trời” (x. Mt 5,16). Phải có những hạt giống Tin Mừng đó mới mong trổ sinh một
vụ mùa bội thu những người tín hữu Chúa Kitô.
Sống
trong sự thật, yêu thương cả kẻ thù, tha thứ cho kẻ thù ghét mình, đó là những
hạt giống Tin Mừng mà “thợ gặt” Chúa Kitô phải gieo vào trong cuộc sống hằng
ngày.
8. Hành trang tông đồ
Người
đi đường cần phải mang theo bao bị, túi xách. Đi càng lâu càng xa, bao bị càng
lớn, va li càng to. Vậy mà Đức Giê-su lại căn dặn người môn đệ ra đi rao giảng
Tin Mừng không túi tiền giắt lưng, cũng chẳng bao bị, túi xách, va li. Lỡ hết
tiền dọc đường chẳng lẽ ngửa tay xin? Không có đồ dùng cá nhân thì lấy gì lo
cho những nhu cầu tối thiểu? Cần phải hiểu đúng lời Đức Giê-su: Ngài muốn hành
trang người tông đồ phải là hành trang gọn nhẹ, đơn giản hết sức. Đúng hơn nữa,
hành trang ấy phải là lòng yêu mến Thiên Chúa, tâm tình nhiệt thành đối với các
linh hồn, nhất là đối với những người chưa biết Đức Ki-tô, chưa nghe biết Tin
Mừng Nước Trời. Chính lòng yêu mến Chúa và công cuộc Nước Trời mới là hành
trang cho sinh hoạt mỗi ngày của những ai muốn làm tông đồ.
Hãy ghi
nhớ lời Gandhi: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu.
Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh.” Bạn sẽ làm gì để
lửa yêu mến các linh hồn làm tan chảy sự dửng dưng của bạn đối với công cuộc
truyền giáo và sau đó làm tan chảy các tâm hồn khác?
9. Thiên đàng ở đâu
Trong
tác phẩm Nhà Giả Kim, Paulo Coelho đã kể về cậu bé chăn chiên nằm mơ thấy kho
báu. Thế là cậu bán hết đàn chiên, thu góp hành trang để đến xứ Ai Cập xa xôi.
Nhờ đi ra, cậu đã học được nhiều điều về thế giới, về bản thân, và rốt cuộc cậu
tìm được kho báu ngay đúng chỗ trước đây cậu đã nằm mơ. Song bài học lớn nhất
là cậu biết đặt niềm tin vào sức mạnh siêu nhiên-sức mạnh luôn thúc đẩy và nâng
đỡ cho những ai luôn khát khao truy tìm chân lý.
Câu
chuyện của Paulo Coelho có thể cho chúng ta có một cái nhìn rõ hơn về Tin Mừng
hôm nay. Các môn đệ cũng được sai đi với hai bàn tay trắng, phải đối diện với
khó khăn như chiên giữa bầy sói. Thế nhưng, nhờ ra đi hành động cho Chân Lý,
các ông đã vượt qua sợ hãi để tìm được niềm vui. Niềm vui không phải bởi việc
đã làm, nhưng vì nhận ra được giá trị của sự từ bỏ, sức mạnh nội tại của lòng
tin và trên hết là cảm nghiệm Thầy luôn kề bên: Thiên Chúa ở cùng các ông và
Bình An của Người lan tỏa nơi các ông.
Trong
Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã kêu gọi Giáo Hội nói
chung và từng Ki-tô hữu nói riêng cần phải ‘ra đi’ đến những vùng ngoại biên để
loan báo Tin Mừng. Bạn nghĩ gì khi nhiều gia đình trẻ của Giáo Hội Hàn Quốc sẵn
sàng đến những vùng xa lạ và nghèo khổ để sống làm chứng cho Tin Mừng? Bạn có
nghĩ và tin rằng: phải đi ra, bạn mới được biến đổi và tìm được hạnh phúc của
mình ngay ở đời này không?
THỨ SÁU -
LẮNG NGHE VÀ SÁM HỐI
Lời
Chúa: Lc 10, 13-16
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán rằng: "Khốn cho ngươi, hỡi Corozain, khốn cho ngươi, hỡi
Bethsaiđa: vì nếu tại Tyrô và Siđon đã xảy ra những phép lạ thực hiện nơi các
ngươi, thì từ lâu, những nơi đó đã mặc áo vải thô và ngồi trên tro bụi mà sám
hối. Cho nên trong ngày thẩm phán, Tyrô và Siđon sẽ được nhiêu dung hơn các
ngươi. "
Còn
ngươi nữa, hỡi Capharnaum, phải chăng ngươi sẽ được nâng cao đến tận trời?
Ngươi sẽ phải hạ thấp xuống tới địa ngục. "Ai nghe các con, tức là nghe
Thầy, và ai khinh dể các con, là khinh dể Thầy. Mà ai khinh dể Thầy là khinh dể
Ðấng đã sai Thầy."
TRUYỆN KỂ
1. Tin vào Thiên Chúa
Tướng
Carreau bị thương nặng, sắp chết. Sau khi được chịu các phép sau hết, ông cầm
lấy thánh giá mà vợ ông đã mang vào cổ ông, nói với các bạn binh sĩ của ông:
“Các
bạn hãy can đảm lên! Giữa các sự cực nhọc và đau khổ của mình, các bạn đừng
quên rằng cuộc đời là vắn vỏi và ta thật vô phúc nếu khi chết, ta thấy rằng ta
đã không hiểu biết, đã không thờ lạy và đã không bênh vực Chúa Giêsu."
2. Hai triết gia Jacques Maritain và Raissa.
Jacques
Maritain và Raissa là hai triết gia của nước Pháp vào đầu thế kỷ này. Hồi còn
trẻ, hai người đã hết lòng yêu thương nhau. Nhưng rồi sự vô tín ngưỡng đã đưa
họ đến vực thẳm của thất vọng. Cuộc sống càng ngày càng trở nên nhạt nhẽo, vô
nghĩa. Rồi một hôm kia, hai người dắt nhau đến một công viên ở Paris và thề
thốt với nhau rằng, nếu trong vòng 12 tháng mà không tìm ra được một ý nghĩa
nào cho cuộc sống thì cả hai sẽ cùng tự vẫn.
Rất may
là sau 12 tháng họ đã tìm ra cho cuộc sống một ý nghĩa. Ý nghĩa ấy là tình yêu
và ân sủng của Thiên Chúa.
Sau đó
cho đến cuối đời, họ đã giành tất cả cuộc sống của họ để làm chứng cho tình yêu
và ân sủng họ đã nhận được.
Trong
tác phẩm có tựa đề “Thủ lãnh của thế gian”, bà Raissa đã viết như sau: “Ma quỉ
đã tung ra một mạng lưới ảo tưởng trên chúng ta. Mạng lưới này tuy vô hình
nhưng rất mãnh liệt. Nó làm cho chúng ta yêu thích giây phút chóng qua hơn cuộc
sống vĩnh cửu. Nó khuyến dụ chúng ta chạy theo sự vô định hơn chân lý. Nó bảo
ta rằng, ta chỉ có thể yêu mến tạo vật bằng cách thờ lạy chúng mà thôi."
3. Gieronimo – môn đệ Chúa Kitô
Chàng
Giêrônimô rất say mê những tác phẩm bằng tiếng La Tinh của Cicéron, lúc nào
trên tay chàng cũng mang cuốn sách này, trước khi ngủ chàng phải đọc mấy trang
cho đến khi rơi vào giấc ngủ. Lần kia, chàng nằm mơ thấy mình bị điệu đến trước
Tòa Chúa để chịu xét xử. Chàng phải run lên vì thấy Chúa ngồi trên Ngai uy
quyền, bên phải Chúa là các Thiên thần cầm roi; bên trái Chúa là bầy Satan cùng
xiềng xích, gươm giáo, gậy gộc. Chúa lên tiếng hỏi:
- Ngươi
là môn đệ của ai? Nếu thành thật thì án giảm, ngoan cố mà nói dối, thì sẽ bị
đòn và trao cho quỷ lôi xuống Hỏa ngục!
- Dạ,
con là môn đệ của Chúa.
- Không
đúng, Thiên thần đâu cho tên này một trận đòn.
Sau
trận đòn thứ nhất, Chúa lại cho Giêrônimô đứng dậy, hỏi
- Ngươi
là môn đệ của ai? Nếu còn ngoan cố nói dối, thì đòn sẽ gia tăng.
- Dạ,
con là môn đệ của Chúa Giêsu ạ.
- Không
phải, vẫn nói dối, Thiên thần đâu gia tăng đánh đòn cho Ta.
Sau
trận đòn thứ hai, Chúa lại cho Giêrônimô đứng dậy,và hỏi
- Này
Giêrônimô, nếu quá tam ba lần nói dối, thì Ta sẽ giao cho quỷ lôi ngươi đi.
Ngươi là môn đệ của ai?
Nghe
được quỷ sẽ lôi đi, Giêrônimô quá sợ, chàng suy nghĩ một lát, rồi thưa
- Dạ,
con là môn đệ của Chúa Giêsu Kitô ạ.
- Quá
láo, ngươi không phải là môn đệ của Ta, ngươi là môn đệ của Cicéron. Quỷ đâu
lôi nó xuống Hỏa ngục!
Vì quá
sợ hãi làm chàng bừng tỉnh, nắn tay chân thấy mình còn sống, mừng quá vì đó chỉ
là giấc mơ, chứ nếu là thật thì hết đường cứu thoát! Chàng quỳ ngay xuống tạ ơn
Chúa!
Từ bấy
giờ Giêrônimô dẹp bỏ tất cả các tác phẩm do tay người đời viết, chỉ ôm lấy cuốn
Kinh Thánh vào rừng ăn chay cầu nguyện và suy gẫm Lời Chúa. Thời gian sau chàng
trở về xin vào Dòng tu, và được làm Linh mục, và chính Linh mục Giêrônimô đã
dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La Tinh, gọi là Bản Phổ Thông
(Vulgata), được Hội Thánh dùng đọc trong Phụng Vụ. Ngài đã viết nhiều tác phẩm
chú giải Kinh Thánh gọi là cuốn Kinh Thánh Bảy Cột, ngài giảng dạy rất xuất
sắc. Trong cơn bệnh nguy tử, rất nhiều tín hữu đứng vây quanh khóc nức nở, vì
biết sắp mất một thầy dạy Đức Tin tuyệt vời! Ngài quay mặt nhìn mọi người với ánh
mắt trìu mến và nói: “Ai không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.” Nói
đoạn, ngài trút hơi thở!
4. Ngại thú tội
Trong
cuốn “Hương rượu mới”, Keith Miller nói rằng như một tín hữu Tin lành, ông ngại
thú tội với bất cứ ai. Ông tin rằng việc thú tội chỉ nên diễn ra giữa Thiên
Chúa và ông. Tuy nhiên, Keith nhận thấy rằng cho dù Thiên Chúa có tha thứ cho
ông, ông vẫn không thể tha thứ cho mình được. Ông bị dày vò nhiều tháng trời.
Thế rồi một hôm, ông và một người bạn cùng cầu nguyện. Ông viết: “Trong khi cầu
nguyện, tôi thú tội lớn tiếng với Thiên Chúa trước mặt người bạn, và sau đó
không lâu, tôi đã chấp nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa.”
Một tội
lỗi hay một hành động nào đối với Thiên Chúa và tha nhân vẫn còn dày vò tôi?
Tôi có thể làm gì được?
Khi ta
trung thực với người khác, điều đó đảm bảo tôi trung thực với Thiên Chúa và với
chính mình.
5. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
Một thi
sĩ vô danh viết những vần thơ cho những ai thắc mắc về sự khôn ngoan của Tiên
Chúa: “Bạn là kẻ không làm chuyển động được một vì sao, không tạo dựng được một
ngọn núi, không đưa ra mẫu của một bông tuyết, không hiểu được mầu nhiệm sinh
hạ, không thể thay đổi được vũ trụ, không thể tạo ra được một mầm chồi hoặc cho
mưa rơi hay nắng ấm, không vẽ nên được ánh hoàng hôn hoặc làm cho bình minh ló
rạng, không tạo nên được dù chỉ một phép lạ. Hỡi con người yếu đuối, làm sao
bạn dám nghi ngờ Đấng duy nhất có thể làm được những điều đó.”
Phải
chăng đôi khi tôi thắc mắc về sự khôn ngoan của Thiên Chúa? Tại sao? làm thế
nào tôi giải quyết được thắc mắc đó?
Nếu
công trình của Thiên Chúa dễ hiểu đối với lý trí con người, thì chúng chẳng còn
tuyệt vời và chẳng có gì đáng nói nữa (Thomas Kempis)
6. Một người sống đức tin
Một
giáo viên bắt đầu lớp học bằng cách nói về Chúa Giêsu. Cô nói: “Hôm nay, cô
muốn kể cho các em về một người mà ai trong các em cũng muốn gặp. Người này yêu
thương các em hơn cả những bạn thân nhất của các em. Người này tử tế hơn cả
những người tử tế nhất mà các em biết. Người này tha thứ cho các em, dù các em
thường hay phạm lỗi đến đâu đi nữa.” Trong khi tiếp tục, cô giáo chú ý đến một
cậu bé ở cuối lớp càng lúc càng trở nên phấn khích. Đột nhiên, không còn kiềm
chế được nữa, cậu hồi hợp thốt lên: “Em biết rõ người mà cô đang nói tới, ông
ta sống ở ở khu phố chúng ta.”
Cuộc
sống của tôi phản ánh cuộc sống của Chúa Giêsu về phương diện nào? Và không
phản ánh ở phương diện nào?
Xin hãy
tỏ sáng và ở lại trong con, để mỗi tâm hồn mà con tiếp tục cảm nhận được sự
hiện diện của Ngài trong con (Henry Newman)
7. Tội cố chấp
Tục ngữ
Ả Rập nói rằng: tội có năm ngón tay, nó dùng hai ngón bịt mắt chúng ta, để
chúng ta không thấy được tội lỗi xấu xa chừng nào. Nó sợ nếu chúng ta biết tội
lỗi xúc phạm đến Chúa nặng nề thế nào, thì chúng ta không dám phạm.
Nó dùng
hai ngón khác bịt tai chúng ta, để chúng ta không còn nghe thấy tiếng Chúa mà
ăn năn sám hối. Nó làm như vậy để giữ chúng ta ở trong tình trạng tội lỗi lâu
ngày, lòng chúng ta trở nên chai đá, và chúng ta không muốn thống hối nữa.
Nó dùng
ngón cuối cùng bịt miệng chúng ta, để chúng ta không đọc lời thống hối, không
phàn nàn hối hận vì tội lỗi đã phạm.
Lời
Chúa: Lc 10, 17-24
Khi
ấy, bảy mươi hai ông trở về vui mừng và nói rằng: "Thưa Thầy, nhân danh Thầy
thì cả ma quỷ cũng vâng phục chúng con.” Người bảo: "Ta đã thấy Satan từ
trời sa xuống như luồng chớp. Này Ta đã ban cho các con quyền giày đạp rắn rết,
bọ cạp, mọi quyền phép của kẻ thù, và không có gì có thể làm hại được các con.
Dù vậy, các con chớ vui mừng vì các thần phải vâng phục các con; nhưng hãy vui
mừng vì tên các con đã được ghi trên trời.”
Lúc
đó, Chúa Giêsu đầy hoan lạc trong Chúa Thánh Thần, Người nói: "Lạy Cha là
Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không cho những người thông
thái khôn ngoan biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những kẻ đơn sơ. Vâng, lạy
Cha, đó là ý Cha đã muốn thế. - Cha Ta đã trao cho Ta mọi sự. Không ai biết
Chúa Con là ai, ngoài Chúa Cha; cũng không ai biết Chúa Cha là Đấng nào, ngoài
Chúa Con, và những người được Chúa Con muốn tỏ cho biết.” Rồi Chúa Giêsu quay lại
phía các môn đệ và phán: "Hạnh phúc cho những con mắt được xem những điều
các con xem thấy, vì chưng, Thầy bảo các con: Có nhiều tiên tri và vua chúa đã
muốn xem những điều các con thấy, mà chẳng được xem, muốn nghe những điều các
con nghe, mà đã chẳng được nghe.”
TRUYỆN
KỂ
1. Niềm
vui đích thực
Giải
phóng con người khỏi ách nô lệ và đưa con người vào tự do đích thực, đó là sứ mệnh
mà Giáo Hội tiếp tục thực thi trong thế giới này. Chúng ta có thể nhận ra sứ mệnh
ấy qua diễn văn Ðức Gioan Phaolô II đọc tại trụ sở Liên Hiệp Quốc vào ngày
5/10/1995. Ðức Thánh Cha ghi nhận rằng con người càng ngày càng tìm kiếm tự do
và đây chính là điểm nổi bật của thời đại chúng ta. Sự tìm kiếm tự do ấy đặt nền
tảng trên các quyền phổ quát của con người. Chính vì phản ứng lại những hành vi
man rợ đối với phẩm giá con người, mà chỉ ba năm sau khi thành lập, Liên Hiệp
Quốc đã công bố bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Ðây là một gia sản chung của
nhân loại, nó bắt nguồn từ chính bản tính của con người, trong đó có phản ánh
những đòi hỏi khách quan và không thể hủy bỏ được của một luật luân lý phổ
quát.
2. Nhiệt
thành trong cánh đồng truyền giáo
Bác
sĩ Cronin kể câu chuyện của mình trở lại với Chúa như sau:
Khi
làm việc trong một bệnh viện, ông thấy một cô y tá rất tận tâm, rất yêu người bệnh,
hầu như đêm nào cô cũng thức thật khuya để lo cho bệnh nhân. Dù vậy, ông biết rằng
tiền lương của cô rất ít, chỉ vừa đủ để sống thôi.
Ngày
kia, gặp cô y tá này, ông đề nghị:
-
Cô có công nghiệp lắm! Rất đáng được tăng lương.
- Tiền
lương của tôi như vậy cũng đủ rồi, cô y tá nói.
-
Nhưng cô đáng được nhiều hơn nữa. Chúa biết cô có nhiều công nghiệp, vị bác sĩ
khẳng định.
- Nếu
Chúa biết… thì tôi còn muốn gì hơn nữa, cô nói thêm: Tôi chỉ làm vì Chúa!.
Và
bác sĩ Cronin thú nhận: “Nghe cô nói như vậy, tôi rất cảm phục. Tôi thấy tâm hồn
tôi bừng sáng lên. Tôi thấy cô y tá này có một tâm hồn quá cao trọng, còn tôi
thì quá nghèo nàn. Và nhờ thế, tôi đã trở lại với Chúa.”
Tin
Mừng hôm nay thuật lại sự trở về trong hớn hở nói lên niềm vui của người môn đệ
dấn thân:
“Ai
nghẹn ngào ra đi gieo giống,
mùa
gặt mai sau khấp khởi mừng.
Họ
ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
lúc
trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126,5-6).
3. Cùng
đích của con người.
Ngày
xưa, triết gia Diogenes là một người sống rất thanh bạch, cái nhà của ông ở chỉ
là một cái thùng rỗng. Ông có kiểu nói làm cho nhiều người phải ngạc nhiên.
Một
hôm, ông đến giữa chợ thành Athènes dựng một căn lều. Trước cửa lều, ông đặt một
tấm bảng trên đó có ghi đậm hàng chữ như sau:
- Tại
đây có bán sự khôn ngoan.
Một
bậc khoa cử tình cờ đi ngang qua căn lều đọc được lời rao bán, mới cười thầm
trong bụng. Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì. Ông mới sai người đầy tớ
cầm tiền đến dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người
đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ, anh đưa cho Diogenes 3 hào
và nói rằng, chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào túi, triết
gia Diogenes nói với người đấy tớ một cách trang trọng như sau:
- Anh
hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự hãy nghĩ đến cùng
đích của mình.”
Vị
khoa cử thành Athènes vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết
trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất
cả những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
4.
Lời bầu cử của Mẹ Chúa
Một
quả phụ đem đứa con trai duy nhất của bà lên 10 tuổi đến hang đá Lộ Ðức. Cậu bé
bị bất toại từ lúc vừa mới biết đi vì một tai nạn xe hơi. Dọc đường, bà mẹ
không ngừng lập đi lập lại với con là bất cứ điều gì con cầu xin cùng Chúa
Giêsu, nhờ lời bầu cử của Ðức Mẹ sẽ không bị từ chối.
Tới
hang Lộ Ðức, bà mẹ đẩy con ngồi trên xe lăn nhập hàng rước kiệu cùng với các bệnh
nhân khác, và kiên nhẫn chờ đợi Mình Thánh Chúa đi ngang qua đó, để lãnh nhận phép
lành. Vị linh mục cầm Mình Thánh Chúa trên tay và dừng lại ban phép lành trước
mỗi bệnh nhân. Khi ngài đến trước mặt cậu bé bất toại, cậu bé lớn tiếng cầu
nguyện với tất cả lòng tin tưởng.
- Lạy
Chúa Giêsu, nếu Chúa không chữa con lành bệnh con sẽ thưa lại với Mẹ Chúa cho
xem.
Nghe
vậy, vị linh mục xúc động mạnh, liền quay trở lại ban phép lành cho cậu một lần
nữa. Cậu bé vừa chăm chú nhìn Mình Thánh Chúa, vừa lớn tiếng thân thưa:
- Lạy
Chúa Giêsu, nếu Chúa không chữa lành bệnh cho con, con nhất định sẽ thưa lại với
Mẹ Chúa cho xem.
Mình
Thánh Chúa vừa được vẽ xong hình Thánh Giá trên người em thì như có một sức mạnh
nào đó thúc đẩy, cậu bé đứng thẳng dậy bước khỏi xe lăn, quì gối thờ lạy tạ ơn
Chúa trước sự ngạc nhiên của mọi người, nhất là trước sự xúc động của mẹ em.
5. Ổ
đây có bán sự khôn ngoan
Sử
gia Plutarque có kể lại câu chuyện sau đây:
Một
ngày nọ, hoàng đế Alexandre thấy triết gia Diogenes ngồi quan sát rất chăm chú
bộ xương người nên hỏi:
-
Khanh làm gì mà quan sát bộ xương đó kỹ càng như vậy ?
Diogenes
trả lời:
-
Muôn tâu bệ hạ, hạ thần nghiên cứu rất kỹ mà vẫn không thấy bộ xương của phụ
vương bệ hạ khác với bộ xương của người nô lệ tí nào cả.
Rồi
cũng triết gia Diogenes. Một hôm đến giữa chợ Athène dựng lên một căn lều. Trước
cửa lều ông đặt một tấm bảng trên đó có ghi đậm hàng chữ như sau:
- Tại
đây có bán sự khôn ngoan.
Một
bậc khoa cử tình cờ đi ngang qua căn lều đọc được lời rao bán, mới cười thầm
trong bụng. Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ
cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.
Người
đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ, anh đưa cho Diogenes 3 hào
và nói rằng, chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba hào bỏ vào túi, triết
gia Diogenes nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau:
-
Anh hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu này: “Trong tất cả mọi sự hãy nghĩ đến
cùng đích của mình.”
Vị
khoa cử thành Athène vô cùng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết
trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả
những ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.
6.
Mất tất cả nhưng lại hạnh phúc vì có Chúa
Charlie
bị cáo buộc là đã giết một viên chức hành chánh tại Đại Học Harverford ở
Pennsylvania và phải nhận án tử hình trên ghế điện. Lúc anh ở tù, một đoàn truyền
bá Tin Mừng thuộc Hội Thánh Tin Lành Alden Union đã đưa anh ta đến với Chúa.
Charlie học Kinh Thánh và rất thích thánh ca. Charlie hay hát bài: “Không ai
săn sóc tôi bằng Chúa Giêsu .”
Trước
khi bị lên ghế điện, Charlie xin được nói chuyện với các bạn tù. Nhận được
phép, Charlie nói về niềm vui của anh trong Chúa: Anh bảo rằng, không còn sợ bị
hành quyết. Anh rất hối hận về tội của mình, nhưng đã được Chúa tha thứ và biết
rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ được gặp Chúa trực tiếp.
Cuối
giờ nói chuyện, Charlie hát bài mình thích nhất rồi bước xuống. Một tờ báo tại
Philadelphia thuật rằng, khi đi vào ghế điện, anh hát một lần nữa. Khi người ta
trùm đầu Charlie, câu nói cuối cùng của anh cũng là lời hát: “Một ngày kia tôi
sẽ gặp mặt Chúa trong hạnh phúc.”
7.
Tìm được điều hữu ích
Bill
Gates đã thố lộ rằng Melinda, vợ ông đã giúp ông sử dụng tài sản của một “vua
máy tính” cách hữu ích. Vợ chồng Bill Gates đã lập quỹ từ thiện giúp cho các tổ
chức phòng chống bệnh HIV/AIDS, bệnh lao và mang nhiều phương tiện kỹ thuật đến
cho những người thu nhập thấp hoặc vô gia cư. Đối với họ, người hữu ích còn là
người có mối tình thân với tha nhân, điều thường bị lãng quên trong xã hội đề
cao thu nhập này. Đối với Ki-tô hữu, mối tương quan với Thiên Chúa quyết định
cuộc đời của họ có hữu ích hay không. Những thành công ở đời này, dù làm cho quỷ
thần phải khuất phục, chưa hẳn đã có giá trị trước mắt của Thiên Chúa, bởi nó
có thể được dùng để đánh bóng đương sự, để thu hút vinh quang cho mình. Điều phải
đạt đến là qui hướng mọi sự về với Chúa, về sự trên trời. Ngay cả một việc đơn
sơ nhất, mặc dù yếu đuối hay bị chia trí bởi trăm công nghìn việc, tay cầm
tràng hạt Mân Côi với thiện chí muốn gặp Chúa cũng đã làm nên điều hữu ích rồi.
8. Tình
yêu Chúa đón nhận tâm hồn thống hối
Trong
cuốn “Trước sự hiện diện của Ngài”, Louis Evely nói rằng xấu xa tồi tệ nhất
không phải là làm điều xấu, mà là làm điều xấu rồi chối tội. Ông viết: “Phải
làm sao một khi đã phạm lỗi rõ ràng, không thể chối cãi được, bạn có thể thống
hối cách chân tình như bạn đã phạm lỗi. Nếu bạn đã lỡ yếu đuối phạm tội, thì đừng
quá kiêu hãnh để không nhìn nhận tội lỗi.”
Tôi
nghĩ sao về câu nói của Tolstoi: “Mọi người chỉ nghĩ đến chuyện thay đổi thế giới,
nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi bản thân mình?”
Đệ
tử hỏi: “Thiên Chúa có đón nhận những người thống hối không?”
Vị
thầy trả lời: “Thế con có vứt đồ dơ đi không?”
Đệ
tử nói: “Thưa không.”
Vị
thầy tiếp: “Thiên Chúa cũng không ném con đi.”
9.
Ai tìm thì sẽ gặp
Trong
cuốn “Tìm kiếm Thiên Chúa”, Louis Savary và Thomas O’ Connor kể câu truyện về một
thanh niên có kinh nghiệm đáng lưu ý về Thiên Chúa. Một ngày nọ, anh quỳ gối cầu
nguyện lần đầu tiên sau hơn 20 năm. Trong quá trình cầu nguyện, anh phó thác trọn
vẹn cho Thiên Chúa. Sau khi làm như thế, anh nghĩ rằng phần đời còn lại của anh
sẽ khó khăn vất vả, ngay cả đau khổ. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra: Thiên Chúa
chúc phúc cho anh ngoài sức anh tưởng tượng. Người thanh niên sau đó đã viết:
“Từ khi tôi để Thiên Chúa chiếm hữu đời tôi, Ngài đã chúc phúc cho tôi bằng
hàng ngàn cách.”
Đã
bao giờ tôi nghĩ đến việc quỳ gối cầu nguyện và phó thác cuộc đời cho Chúa
chưa?
Trong
trái tim chúng ta có một khoảng trống mà chỉ Thiên Chúa mới lắp đầy được.
10.
Tên gọi và cuộc sống
Một
du khách Mỹ đi xuống một con đường quê vắng vẻ ở Đức. Tình cờ cô gặp một người
chăn cừu đang cho cừu ăn cỏ. Một con chó đang canh giữ đàn cừu cẩn thận. Cô hỏi
tên con chó là gì, người chăn cừu trả lời: “Tôi sẽ đánh vần tên của nó cho cô.
Tôi không thích gọi tên nó, nếu không có gì sai bảo nó.” Lời giải thích của người
chăn cừu nhắc nhở chúng ta rằng tên của chúng ta thì riêng tư và có sức mạnh ra
sao. Những người thời Kinh Thánh còn gìn giữ danh xưng một cách trân trọng. Vì
vậy, chẳng có gì ngạc nhiên nếu Danh Thánh Chúa Giêsu đã có một uy lực lớn đối
với ma quỷ khi Danh Ngài được kêu cầu.
Tôi
nhận thức thế nào về uy quyền của Danh Thánh Chúa? Tôi có nói đến Danh Ngài một
cách kính trọng không?
Danh
Thánh Chúa Giêsu ngọt ngào khi cảm nếm, êm ái khi nghe và đem lại niềm vui cho
tâm hồn (Thánh Bernađô)
11.
Niềm vui đích thực
Có
những người tìm niềm vui qua việc tiêu xài của cải. Thế nhưng, một kinh nghiệm
cay đắng là “có tiền mua tiên cũng được, hết tiền mua lược không xong.” Không
phải lúc nào ta cũng rủng rỉnh tiền bạc trong túi, hoặc nghịch lý hơn, cảnh
“người giàu cũng khóc” vẫn xảy ra nhan nhản trong bất cứ xã hội nào. Sống giữa
xã hội tiêu thụ hôm nay, người Kitô hữu được mời gọi
(1)
vượt lên trên quan điểm tìm niềm vui theo cung cách thế gian, một niềm vui mau
qua chóng hết, bởi vì “bộ mặt thế gian này đang qua đi;”
(2)
chọn cho mình niềm vui thật sự và vĩnh cửu từ Thiên Chúa, niềm vui thanh thoát
của người công dân Nước Trời mà Đức Giêsu đem đến cho nhân loại.
12.
Mục tiêu tối hậu
Michael
Vick ngôi sao bóng bầu dục, 27 tuổi, có tên trong số 33 người giàu nhất hành
tinh năm 2005 với tài sản ước tính lên đến hàng 100 triệu USD. Thật đáng mừng,
quá mừng nữa là khác! Thế nhưng hiện nay anh đang lo vì phải đối mặt với án tù
từ 12 đến 18 tháng vì liên quan đến tội cá độ đấu chó bất hợp pháp. Tiền tài và
danh tiếng không giúp Michael Vick vươn lên cao hơn một thú vui nhỏ nhặt.
Chúa
Giê-su dạy các tông đồ đừng dừng lại ở điều đáng mừng tạm thời vì thấy quỷ thần
khuất phục họ trong những buổi thực tập truyền giáo. Trái lại phải nhắm tới giá
trị cao hơn, tới mục tiêu tối hậu là tên mình được ghi trên Nước Trời.
Lời
Chúa Tuần 26 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch