LỜI CHÚA
TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
THỨ HAI - NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN HẬU
THỨ TƯ - CHÚA GIÊSU DẠY LỜI CẦU NGUYỆN
THỨ NĂM - HIỆU LỰC CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
THỨ BẢY - ƯU TIÊN LÀ TUÂN GIỮ LỜI CHÚA
LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI - ĐẦY TỚ VÔ DỤNG
CNTN 27A - VƯỜN NHO CỦA CHÚA
Lời Chúa: Mt
21, 33-43
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa
Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy
nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung
quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi
phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi.
Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia
và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ
cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì
nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai
ông chủ liền bảo nhau: 'Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết
nó đi và chiếm lấy gia tài của nó'. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết.
Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời,
"Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ
mùa nộp phần hoa lợi."
Chúa Giêsu
phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: 'Chính viên đá bọn
thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước
mắt chúng ta!' Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để
trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái." Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Chiếc nỏ thần
Thục Phán An
Dương Vương được Thần Kim Quy tặng cho chiếc nỏ có sức công phá cực kỳ, không
ai có thể chống lại được. Nhờ chiếc nỏ mà trong nước được an bình.
Ông có cô
con gái tên Mỵ Châu, được chàng Trọng Thuỷ con của Triệu Đà thuộc nước lân bang
đến cưới. Mọi việc hết sức tốt đẹp, mối duyên của đôi trẻ ngày càng nồng ấm.
Một hôm Trọng
Thuỷ xin về thăm cha của mình. Ít ngày sau thì chiến tranh kéo đến. Nhìn thấy
đoàn quân đến từ xa, An Dương Vương không lo lắng gì, ông mỉm cười tự tin, vì
đã có chiếc nỏ thần trong tay. Giặc càng ngày càng gần, đến lúc cần thiết, ông
mới dùng đến nỏ thần. Nhưng bất ngờ thay, chiếc nỏ không còn công hiệu như xưa,
đội quân của ông không phòng thủ nỗi với sức tấn công dũng mạnh của quân thù.
Ông cùng với cô con gái thân yêu tìm đường thoát thân. Nhưng càng chạy thì nghe
tiếng của địch quân ngày càng gần. Nhìn lại thì ông thấy chính đứa con mà ông
yêu thương nhất lại là người làm ông thất vọng nhất. Chính cô đã để lại dấu hiệu
trên đường cho giặc đuổi theo. Ông cũng hiểu ra: chính vì đứa con mà ông yêu
thương, nên kẻ thù mới lợi dụng tình yêu thương đó, cưới con ông và tráo đỗi nỏ
thần, khiến cho ông phải đi vào chỗ chết. Ông yêu thương con gái mình, nên cũng
rất mực yêu thương chàng rể. Nhưng những gì mà ông yêu thương đã phản bội lại
ông, làm cho ông phải chết. Nếu như ông có quyền trở lại ông sẽ đối xử với
chàng rể như thế nào?
Khi lòng
tham đã lên ngôi, thì tình yêu thương không còn hiệu quả nữa mà bị phản bội.
Lòng tham làm cho con người trở nên tàn ác, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn làm sao
lòng tham đạt được như ý muốn.
2. Những kẻ chối bỏ Thiên Chúa
Trường hợp
thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc cách mạng
Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau đó, ông đã
phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết. Ông đã chết
bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.
Trường hợp
thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên Chúa
và Giáo hội. Chính ông vàp năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã hết
thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê thảm,
tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ có thể
chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn còn mãi,
nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
3. Vị thiên thần dễ tính
Ngày kia, có
hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của Thiên
Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được những
công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện:
“Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có
sức làm những việc thông thường.” Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và
không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ
phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những
thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt
xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ
cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi
sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi
chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi
sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược lại,
người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị thiên
thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực nào đặc
biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu.” Chàng bình thản tiếp tục sống cuộc
đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công dân lương
thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con cái, một
người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm thấy đời
mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn gì hơn
là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân trong những
gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết nhìn ra
những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới có khả
năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời họ. Từ
đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá trị của
bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
4. Tìm về giá trị đích thực
Năm 1492,
Columbus thả buồm ra biển khơi. Ông đã cập vào quần đảo của người Hispaniola,
giữa Cuba và Puerto Rico, với dân số 100. 000 người. Thổ dân da đỏ niềm nở ra
chào đón những nhà thám hiểm của Phương tây. Columbus đã nhìn thấy họ đeo những
nữ trang bằng vàng và báo cáo cho vua Ferdinand biết rằng vũ khí của thổ dân
này rất đơn sơ, chỉ cần một nhóm lính Tây Ban Nha được trang bị vũ khí cẩn thận,
cũng có thể bắt ép họ làm nô lệ trong những mỏ vàng để phục vụ cho ngân khố của
Tây Ban Nha. Trong 15 năm, sự cai trị của Tây Ban Nha đã làm giảm dân số của
người Hispaniola từ 100. 000 xuống còn 15. 000 người. Những việc lao nhọc dã
man đã đè nặng trên những người nô lệ của Tân Thế Giới này là một hình thức diệt
chủng tàn bạo phát xuất từ những nền văn minh trọn hảo. Những người lính phục vụ
trung thành đã kiếm được rất nhiều tài sản và đồn điền.
Một ngày
kia, chàng thanh niên tên là Bartolomeo de las Casas đã nghe một bài giảng của
linh mục dòng Đaminh. Ngài đã nói những sự đối xử tàn bạo đó đối với người khác
là ghê tởm, trái với đạo lý của Kitô giáo. Những người địa chủ Tây Ban Nha cười
nhạo ngài, nhưng de cas Casas đã ăn năn trở lại. Anh trao trả tự do cùng với đất
đai cho những người nô lệ. Sau này, anh đi tu trở thành linh mục, và lễ thụ
phong của linh mục Bartolomeo là thánh lễ truyền chức đầu tiên ở Tân thế Giới.
Bartolomeo
phục vụ như một linh mục của những người cai trị Tây Ban Nha, nhưng ngài rất
thương mến những người thổ dân da đỏ. Ngài nói rằng những hạt lúa mì đã được trồng
xuống, chăm nom, và gặt hái bởi những người nô lệ đã tạo nên tấm bánh được bẻ
ra trong Bí tích Thánh Thể. Khi ngài bẻ bánh, ngài nhìn thấy máu của những người
nô lệ chảy xuống.
Qua bài Phúc
Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải trở nên những người đầy tớ của
Thiên Chúa. Phải xây dựng vườn nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh chính
thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm lấy tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm
lấy mà ăn vì này là mình Ta.”
Để xây dựng
trật tự xã hội phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống hình ảnh
của Thiên Chúa” làm trọng tâm như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Chính
từ giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải từ giá trị
xã hội mà có giá trị con người.”
Phải trở về
với những giá trị Kitô giáo để kiến tạo hoà bình.
5. Tá điền thời nay
Có một bản
tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả tự do lạm
thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha mẹ, nên em
này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt đẹp như
năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ nuôi
cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm nhận
được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.
Một hôm, em
được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời nhắn
nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya.” Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1 giờ
sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi của
em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới
nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ
nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ
không phải lo lắng đợi chờ con nữa.”
Sáng hôm
sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ nuôi ở
nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến lại đập
đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người cha nuôi
của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết người
vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng.”
Thái độ vô
ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta hôm
nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với Thiên
Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ những
lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.
6. Những sợi dây và những chiếc cầu
Chiếc cầu
treo Melrose bắc trên sông Niagara ở Nữu Ước nối liền Gia Nã Đại và Hiệp Chủng
Quốc. Người ta nói rằng chiếc cầu này đã được thiết kế như sau:
Trước tiên
người ta thả một cái diều cho nó bay ngang qua sông. Cái diều đó được cột vào một
sợi dây, tiếp theo, sợi dây này được cột lại vào một sợi thừng và đến lượt sợi
thừng này lại được cột vào một sợi cáp bằng thép. Như thế, dây cáp bằng thép
này được dùng để giúp cho phần còn lại của chiếc cầu đứng vững.
Câu chuyện cầu
Melrose thường được dùng để minh hoạ cho thấy các sự việc lớn lao thường được
khởi đầu bằng những việc rất khiêm tốn.
Thuật kể
chuyện rất phổ biến ngay từ khi con người biết liên kết từ với nhau để tạo
thành câu. Thời xưa rất ít người biết đọc hoặc viết. Khi muốn dạy một điều gì
quan trọng, người ta thường dựng lên một câu chuyện về điều muốn dạy, nhờ thế
không những dễ học mà còn dễ nhớ nữa.
7. Vô ơn
Hai vợ chồng
kia có 4 đứa con và hết mực yêu thương chăm sóc chúng. Dù không giàu có, nhưng
vì muốn con cái mình có được tất cả những gì tốt nhất, họ đã làm tất cả những
gì họ làm được: ngoài giờ làm việc chính thức ở sở làm, họ còn đi làm thêm vào
ngày Chúa nhật và các buổi tối; vay tiền để mua một ngôi nhà rộng rãi để mỗi đứa
có một phòng riêng tiện cho việc học; không ngại gởi con vào những trường tốt
nhất mặc dù học phí rất cao; không bao giờ dám bỏ tiền đi du lịch, thậm chí
không dám đi ăn cơm tiệm và đến các rạp hát để giải trí…
Thế rồi các
đứa con dần dần lớn lên, đỗ đạt, lập gia đình, có việc làm tốt. Nhưng cũng dần
dần từng đứa từng đứa ra riêng. Đứa nào cũng chỉ lo cho cuộc sống riêng của gia
đình chúng, không hề nhớ đến mẹ cha. Bây giờ hai vợ chồng già sống hiu quạnh
trong căn nhà cũ. Họ đã than thở với một người đến thăm:
- Chẳng có
việc gì có thể làm cho chúng nó mà chúng tôi đã không làm. Thế mà bây giờ chẳng
có việc gì chúng nó phải làm cho chúng tôi mà chúng nó chịu làm !
8. Quên cám ơn
Ngày xưa có
một cô gái bị nhốt trong một cái chai, rất khổ sở. Một hôm có một vị thần tình
cờ đi ngang qua, nghe tiếng than của cô: "Thật là khổ sở và nhục nhã phải
sống trong cái chai này. Ước gì mình được sống trong một túp lều." Vị thần
động lòng, hóa phép cho cô ra khỏi cái chai và được sống trong một túp lều. Rồi
vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau, vị
thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: "Thật là khổ sở và nhục nhã
phải sống trong cái túp lều này. Ước gì mình được sống trong một biệt thự rộng
rãi." Vị thần động lòng, hóa phép cho cô sống trong một biệt thự. Rồi vị
thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau nữa,
vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: "Thật là khổ sở và nhục
nhã phải sống trong cái biệt thự này. Ước gì mình được làm một công nương có kẻ
hầu người hạ." Vị thần động lòng, hóa phép biến cô thành một công nương. Rồi
vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm sau nữa,
vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: "Thật là khổ sở và nhục
nhã vì chỉ là một công nương. Ước gì mình được trở thành hoàng hậu được thần
dân cả nước tôn thờ." Vị thần bảo cô cứ yên tâm đi ngủ, sáng hôm sau sẽ được
như ý. Sáng hôm sau, khi thức dậy, cô gái thấy mình bị nhốt ở trong cái chai
như trước !
9. Phiến đá bị loại bỏ
Malebon là
tên của một tảng đá rất nổi tiếng tại tiểu bang California. Tên của tảng đá này
được người ta nhắc đến do một sự tinh cờ: Ngày nọ, có một người dân làm đơn khiếu
nại Sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có thể đổ
xuống làm hư nhà; và thế là hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu loại lớn,
người ta đã đưa tảng đá ra xa lộ.
Theo dõi câu
truyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đến mua tảng đá đó với giá 100 Mỹ
kim. Sở Kiều lộ của thành phố mừng thầm vì ít ra cũng có người giúp họ di chuyển
cái của nợ ấy ra khỏi xa lộ. Sau đó, người Úc bỏ ra 20.000 Mỹ kim để thuê xe
chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài, anh đã tạc được chân
dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà qúi nhất
mà người Úc đã dành cho tài tử này truớc khi nhắm mắt lìa đời. Không bao lâu
sau đó, tác phẩm đã được bán cho một người chuyên sưu tầm với giá một triệu Mỹ
kim.
Tảng đá
Melebon trên đây đã bị nhiều người xem như là một của nợ cần vứt đi, nhưng một
người Úc đã nhìn ra nó như một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Sự
thành công trong cuộc sống thường được nhiều người gán cho là một sự ngẫu nhiên
hay một vận may nào đó. Nhưng người có niềm tin thì xem đó là sự quan phòng kỳ
diệu của Thiên Chúa. Trước Công nghị Do thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái
chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại
bỏ đã trở thành viên đá góc tường." Cái chết của Chúa Giêsu quả thực là một
hành động đê hèn dã man của người Do thái, nhưng Thiên Chúa đã biến cái chết ấy
trở thành biểu tượng của tình yêu, và nguyên nhân cứu rỗi của con người. Đó là
điều quan trọng mà mọi người có thể học được qua bài dụ ngôn hôm nay. Amen.
10. Không tin cần biên lai
Một thượng
nghị sĩ lịch lãm ở miền Nam nước Pháp đến Paris. Ông thuê một phòng trong khách
sạn uy tín, và trả tiền phòng luôn một tháng. Viên quản lý khách sạn hỏi:
- Ông có muốn
ghi biên lai không?
Thượng nghị
sĩ đáp:
- Không cần
thiết đâu, có Chúa làm chứng chuyện này mà.
Viên quản lý
tỏ vẻ ngạc nhiên:
- Cái gì !
Thời đại này mà ông còn tin có Chúa ư?
- Ô tin chứ.
Vậy ông không tin à?
- Tôi không
tin, thưa ngài.
- Nếu thế
thì tốt nhất ông hãy ghi biên lai cho tôi đi. (Liguorian)
11. Sức mạnh và yếu đuối
Khi con tàu
khổng lồ mang tên Titanic vừa được xuất xưởng và hạ thủy, người ta có thể đọc
thấy dọc theo sườn con tầu những câu khẩu hiệu kiêu căng được vẽ sơn thật lớn,
ngạo nghễ như sau:
No God, No
Pope! (Không có Chúa, cũng chẳng có Giáo Hoàng!) Le Christ lui même, ne le fera
pas sombrer. Ni le ciel, ni la terre ne peut nous engloutir! (Ngay đến Đức
Ki-tô cũng không tài nào đánh đắm con tàu này. Cả trời lẫn đất cũng không thể
khiến chúng ta bị nhận chìm!).
Ngay khi ấy,
một trong các công nhân đóng tàu, vốn là một người Công Giáo ở Dublin đã ghi
vào trong nhật ký như một lời tiên tri: “Vì những tội xúc phạm ghê gớm đó, tôi
tin Titanic sẽ không bao giờ tới được New York”
Và quả không
sai, vào lúc 0 giờ 5 phút ngày 14.4.1912, đúng ngày Chúa Nhật Quasimodo sau lễ
Phục Sinh, tàu Titanic đã chạm mạnh vào một tảng băng khổng lồ giữa đại dương
làm thủng một lỗ lớn làm con tàu bị gãy đôi. Người ta chỉ vớt được 705 người sống
sót, còn 1.502 người đã chết theo con tàu kiêu hãnh...
Sau đó mấy
ngày, một tờ báo lớn ở Anh đưa tin kèm theo 2 bức tranh hí họa đầy ý nghĩa:
Hình vẽ con tàu và tảng băng (sự yếu đuối của con người và sức mạnh của Thiên
Chúa) và hình vẽ một người đàn ông nhường chiếc phao cứu hộ cho một bà đang bế
con (sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người).
12. Không biết chia sẻ.
Một
người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn
lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân
phẩm hơn đó là điều mà con người may mắm này đã cảm nhận được.
Tuy
nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi hỏi, đòi hỏi thách thức nhất của người
nghèo bỗng nhiên trở thành giầu có là: hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc,
bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ,
trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó là thói thường của người đời.
Kẻ
trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy, lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng
quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi người. Nhưng dần dà con số người
đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm
của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên. Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn
nữa.
Một
hôm, ông đề nghị với vợ:
- Hay
là ta dọn đi một nơi khác.
Người
vợ lắc đầu bảo:
- Mình
có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
Nhưng
người chồng giải thích:
- Mình
sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết
mình sẽ đi đâu, và sẽ cố gắng sống một cách đơn giản để không ai để ý đến mình
nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho biết mình đã trúng số.
Người
vợ thắc mắc:
- Còn
tiền bạc thì mình để ở đâu?
Chồng
trả lời dứt khoát:
- Mình
sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể không hề trúng số, chỉ đem ra dùng khi
nào cần thiết mà thôi.
Thế là
cả gia đình đã dọn đến một nơi khác như dự kiến: họ lén lút ra đi nên không ai
biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy
ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột. Ngày qua ngày, chính họ cũng quên
rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết thì tất cả mọi tài sản đều mất hết.
Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để trao lại tài sản cho chúng.
13. Tá điền chiếm vườn nho
Vua Akhab muốn
có vườn nho của ông Nabot mà không được vì đó là cơ nghiệp tổ tiên để lại làm
gia bảo. Vua hằm hằm, giận dữ, buồn bực bỏ ăn. Vợ vua lập mưu ra lệnh mở lễ đại
hội cầu an, mời Nabot chủ sự và đặt hai tên vô loài đối diện Nabot để chúng làm
chứng tố cáo Nabot đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua; rồi điệu Nabot ra ném
đá cho chết đi. Thế là Akhab đã tịch thu vườn nho Nabot. Nhưng tội giết người
cướp của không che được mắt thánh. Tiên tri Elia được Thiên Chúa sai đến báo
cho Akhab biết: “Chó sẽ ăn thịt các ngươi bên tường Nabot." Lòng tham của
Akhab không đáy, được voi đòi tiên, Akhab lại đem quân xâm chiếm đất nước Aram.
Akhab bị bắn chết, đàn chó đã liếm máu ông, y như Chúa đã phán (1V. 21,1 –
22,38). Tham thực cực thân, ác giả ác báo.
Akhab là một
trong muôn ngàn tá điền ở thế gian, mà dụ ngôn tá điền chiếm vườn nho trong Tin
mừng hôm nay kể tới.
14. Chọn lựa của tôi
Mỗi ngày tôi
chọn một niềm vui, một bông hoa, một tiếng cười hay ngược lại?
Và rồi trải
dài suốt cả ngày sống, chúng ta đước trước không biết bao nhiêu là điều phải lựa
chọn, bao nhiêu là điều phải phân xử.
Đứng trước một
sự cãi vả, một cuộc tranh chấp, chúng ta phải lựa chọn cái gì? Lựa chọn sự thua
thiệt hay sự hơn người khác?
Đứng trước một
quyết định về một mầm sống, chúng ta quyết định để hay là phá?
Đứng trước một
con người thấp cổ bé họng, một con người nghèo khổ túng cực, chúng ta yêu
thương họ hay phỉ báng?
Đứng trước một
người giàu thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một
người nghèo thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng trước một
con người tạm gọi là tội lỗi, khiếm khuyết, yếu đuối thì chúng ta sẽ xử họ như
thế nào?
Và rồi, cuối
ngày, trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta có kiểm điểm lại qua một ngày sống
chúng ta được không biết bao nhiêu là ơn lành của Chúa để chúng ta tạ ơn Chúa
hay là chúng ta lại tỏ thái độ dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ mà Chúa dành
cho ta? Chúng ta lại có khiêm tốn để trao phó cuộc đời chúng ta trong tay Chúa
qua giấc ngủ mà chúng ta sắp chìm vào hay không?
15. Đời chỉ là giấc mộng (Tv 90)
Ngài cuốn
đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm
ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Ngài thịnh nộ,
chúng con phải mạng vong, nổi trận lôi đình: thấy mà khủng khiếp! Tội chúng
con, Thánh Nhan đều soi tỏ.
Chúa nổi
xung, đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài. Tính tuổi
thọ, trong ngoài bảy chục mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là
gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Cơn giận
Ngài, ai lường được sức mạnh, trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên?
Xin dạy
chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv
90:5-12)
16. Sự ác còn mãi, Chúa ở đâu?
Một bác sĩ nọ
tìm đến với một Giám mục cao niên và tuyên bố, “Con đến để thông báo cho Đức
cha biết, con đang nghĩ đến chuyện rời khỏi Giáo Hội."
Vị Giám mục
yêu cầu ông cho biết lý do. Nhìn Giám mục, bác sĩ nói, “Thưa Đức cha, Giáo Hội
đã có mặt gần 2,000 năm; thế nhưng, con người đâu có gì khá hơn; con không chấp
nhận những bất công trong Giáo Hội."
Giám mục
bình tĩnh trả lời, “Bác sĩ nói chí lý, nhưng hãy thử nghĩ lại, nước đã xuất hiện
trên mặt đất từ bao nhiêu triệu năm, vậy mà ngày nào, bác sĩ cũng như tôi, ai
cũng phải rửa tay; cũng thế, Thiên Chúa đang thanh luyện chúng ta; Thiên Chúa
chờ đợi chúng ta; Người chờ đợi bác sĩ, Người chờ đợi tôi."
Nghe thế,
viên bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội.
17. Tá điền bất trung
Một linh mục
Trung hoa đã minh họa bằng câu chuyện sau đây:
"Một bà
kia đi chợ mang theo 7 quan tiền trong túi áo. Khi tới chợ, bà trông thấy một
người đàn ông bị què, áo quần rách nát, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Bà thấy
tội nghiệp nên đã móc túi ra cho hắn 6 quan tiền và chỉ giữ lại duy một quan đi
chợ. Nhưng tên ăn mày này vốn tham lam, thấy bà ân nhân vẫn còn một quan tiền ở
trong túi, hắn ta liền bám sát theo và nhân cơ hội bà sơ ý, hắn ta đã ăn cắp nốt
quan tiền còn lại. Khi nghe câu chuyện về tên ăn mày tham lam này, có lẽ ai
trong chúng ta cũng nghĩ hắn ta đúng là một tên mạt rệp đáng khinh bỉ và trừng
phạt!"
Rồi vị linh
mục đặt vấn đề với cộng đoàn: Còn chúng ta thì sao? Trong một tuần lễ, Chúa đã
ban cho chúng ta 6 ngày lao động kiếm ăn, thế mà còn duy một ngày Chúa nhật để
ta dành ra mà nhớ đến Chúa, làm các việc thờ phượng kính mến Chúa và các việc
bác ái phục vụ tha nhân, nhưng nhiều khi chúng ta đã tiếc xót, vẫn làm việc
thêm mong kiếm nhiều tiền cho đầy túi tham! Như vậy, chúng ta sẽ là hạng người
nào?
18. Sinh lợi cho Chúa
Năm 1965
trong chuyến bay từ Ý qua Mỹ, có một số Giám Mục trở về sau khi tham dự Công đồng
Vaticanô II. Có 1 nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp nhưng cô lại rất bực mình vì
có một người cứ chăm chú nhìn cô, người đó là Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen, vị
giảng thuyết lừng danh của Hoa Kỳ. Khi hạ cánh, Đức Tổng nói với cô: “cô đẹp lắm,
cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.” Mấy hôm sau cô chiêu đãi viên này tìm đến
văn phòng Đức Tổng và hỏi con phải cám ơn Chúa thế nào? Đức Tổng trả lời: “Chúa
đã lấy hết sắc đẹp của người cùi trong trại cùi Di linh bên VN mà ban cho cô,
cô hãy qua đó an ủi họ.” Sau một thời gian, cô này đã nhập Dòng làm nữ tu và
tình nguyện sang Việt Nam phục vụ tại trại cùi Di Linh.
19. Hy sinh giúp việc Chúa
Một thiếu nữ
trẻ đẹp Người Úc ở Melbourne. Chúa kêu gọi cô làm thừa sai giúp những người mắc
bệnh cùi tại Inđônêsia. Cô sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa không chút do dự, và được
hội truyền giáo gởi đến khu làng cùi tại đó. Nhiều người ngạc nhiên hỏi cô:
- Sao cô can
đảm hy sinh như thế? Nếu cô bị lây nhiễm bệnh cùi, sắc đẹp cô sẽ tàn phai đã
đành, cuộc đời cô sẽ bất hạnh nữa. Cô nghĩ sao?
- Tôi sẵn
sàng hy sinh cho những người cùi, vì đó là điều Chúa muốn tôi thực hiện để giúp
việc Chúa, dù có chết tôi cũng sẵn sàng để làm sáng danh Chúa.
Thế là cô
lên đường, phục vụ người cùi được trên mười năm, thì mắc bệnh như người ta tiên
đoán. Mặc dầu cô được chữa khỏi, nhưng nhan sắc cô bị ảnh hưởng bệnh đó nên trở
nên xấu xí. Nhất là khi thời tiết thay đổi, cô rất đau đớn. Có người hỏi:
- Cô có ân hận
vì đã giúp người cùi mà bây giờ phải mang hậu quả bi đát thế không?
Cô điềm
nhiên đáp:
- Dù ta phải
trả giá bằng mạng sống, tôi cũng sẵn sàng dâng hiến. Và nếu Hội Thánh cần, tôi
vẫn không từ chối đến phục vụ anh chị em cùi bất cứ ở nơi nào.
20. Hy sinh vì Nước Chúa
Sáng ngày 19
tháng 3 năm 1994, do hai phát súng của nhóm bất lương Camara ở nước Ý đã giết
chết cha Giuse Daiana tại phòng áo nhà thờ xứ Casandi Piusêpê, lúc cha chuẩn bị
dâng Thánh Lễ.
Cha Daiana
là một linh mục 36 tuổi luôn nhiệt thành trong sứ mạng tông đồ, chăm sóc vườn
nho của Chúa. Trong bài giảng lễ an táng cha, Đức Giám Mục Lôrensô Chiaradinali
đã tóm lược công tác tông đồ của cha như sau: “Đau khổ và tin tưởng. Đó là đời
sống tông đồ của cha Daiana. Việc tông đồ của cha đầy khó khăn vì những hình thức
vô luân đồi bại và những sức mạnh bất lương núp sau bóng tối. Sứ mệnh tông đồ của
cha là bẻ gãy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình thương. Hoạt
động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗi lực sống chứng
tá Kitô, bảo vệ quyền lợi cho người nghèo khổ và bị áp bức, nhất là huấn luyện
giới trẻ qua hoạt động hướng đạo...
Tinh thần
hăng say hoạt động tông đồ và lòng quả cảm hy sinh của cha Daiana mời gọi chúng
ta nhớ đến thái độ bê tha chểnh mãng của các Thượng Tế và Biệt Phái trong Tin Mừng
hôm nay đối với vườn nho của Chúa.
Cha Daiana
đã cống hiến cho vườn nho của Chúa bao nhiêu thì các Thượng Tế và Biệt Phái đã
bê bối bấy nhiêu. Với tấm lòng của người tông đồ, cha đã trung thành với sứ mạng
Chúa giao bằng cái giá đắt là mạng sống của mình.
Cái chết của
cha như hạt giống gieo vào lòng đất, phải mục nát để sinh được bông trái dồi
dào tốt đẹp dâng cho Chúa, như Chúa Giêsu đòi hỏi các nhà lãnh đạo Do Thái phải
thực hiện trong Tin Mừng. Thật vậy, cái chết của cha đã không uổng phí. Mấy hôm
trước khi bị sát hại, cha đã nói với một thanh niên muốn theo ơn gọi linh mục:
“Nếu con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ con sẽ phải trả giá rất đắt."
Và chính người thanh niên đó, khi đứng trước thi hài của cha đã tuyên bố: “Trước
kia tôi còn do dự, nhưng giờ đây đứng trước thi hài của cha, tôi nhất quyết trở
thành linh mục”
21. Lịch sử loại trừ nhau
Trước đây,
có một nhân vật đã nhìn vào lịch sử nhân loại và đưa ra những con số như sau: từ
năm 1496 BC, trước công nguyên, tới năm 1861 AD, trong 3358 năm, đã có 227 năm
hoà bình, và 3130 năm chiến tranh. Như vậy cứ 13 năm chiến tranh, mới có một
năm hoà bình. Trong ba thế kỷ, 16, 17 và 18 đã có 286 cuộc chiến xảy ra ở Âu
Châu. Từ năm 1500 BC, trước công nguyên, tới năm 1860 AD, đã có hơn 8000 hiệp ước
về hoà bình đã được ký kết.
Nhận xét
trên đây về tình trạng của nhân loại đã được đưa ra hơn một thế kỷ rồi, chưa kể
đến hai cuộc thế chiến, những cuộc chiến tranh kéo dài về ý thức hệ, chủng tộc
và khủng bố ở thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói:
“Thế kỷ 20 sẽ được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người.
Trong bài
Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về vườn nho với những hành động bạo lực,
bắt bớ, đánh đập, ném đá và giết người của các tá điền. Trong Cựu Ước, vườn nho
là hình ảnh của dân Thiên Chúa, dân Do Thái, như đã được diễn tả trong sách
tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà
Irael." Trong cái nhìn của Tân Ước, khi Chúa Giêsu nói với các thầy thượng
tế và kỳ lão rằng: “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc
khác biết làm cho trổ sinh hoa trái." Chúng ta phải nghĩ đến hình ảnh vườn
nho là cả nhân loại, gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
22. Thuốc đặc trị virus sự ác
Con vi-rút
quái ác Corona xuất hiện từ cuối năm 2019 đến nay làm điên đảo cả thế giới. Các
nhà khoa học gần đây vừa tìm ra một số loại vắc-xin để ngăn chặn sự lây nhiễm
thì đã phát hiện thêm ít là 3 biến thể mới, lây nhanh hơn, độc lực mạnh hơn. Về
mặt thiêng liêng, còn có một cơn đại dịch khác độc hại hơn, lây lan nhanh hơn,
vốn đã có từ khởi thuỷ, đến nay vẫn còn đang hoành hành: cơn đại dịch của sự
ác. Có thể nói, tất cả độc lực của con vi-rút sự ác: ghen ghét, đố kị, tham
lam, giết chóc… được khắc hoạ nơi “những tá điền sát nhân” khiến chúng tấn công
huỷ diệt không trừ ai, từ những đầy tớ cho chí người con yêu dấu của ông chủ.
Chính trong cơn bĩ cực ấy, Chúa lại ban “thuốc đặc trị”: “Tảng đá bị loại bỏ lại
trở nên đá tảng góc tường”, đó là Đức Giê-su, Đấng “bị treo lên cây gỗ mà giết
đi” đã sống lại và “đem lại ơn sám hối và ơn tha tội” (x. Cv 5,30-31).
Cơn đại dịch
của sự ác vẫn không ngừng làm khuynh đảo lòng người, tuy nhiên Chúa đã gửi đến
cho chúng ta phương thuốc vô cùng hiệu quả để tiêu diệt con vi-rút sự ác;
phương thuốc gồm hai vị chính: Lời Chúa và các Bí tích, hiệu quả tốt nhất khi
dùng kết hợp với nhau, đồng thời với các biện pháp linh đạo trị liệu là cầu
nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.
23. Đặt niềm tin nơi Chúa
Một giáo sư
Đại học đã đưa các sinh viên lớp xã hội đến khu nhà ổ chuột ở Baltimore để lập
hồ sơ nghiên cứu về hoàn cảnh của 200 cậu bé sống ở đó. Sau chuyến đi, giáo sư
yêu cầu các sinh viên viết bài thu hoạch nhận định về tương lai của từng cậu
bé. Các sinh viên đều kết luận: “Các cậu bé này không có cơ hội phát triển.”
Hai mươi năm
sau, một giáo sư Xã hội học khác tình cờ xem lại hồ sơ nghiên cứu trước đó. Ông
yêu cầu các sinh viên tiếp tục công trình ấy để điều tra số phận sau này của những
cậu bé đó. Ngoài 20 trường hợp các cậu bé đã chuyển đi nơi khác hoặc không biết
tin tức, các sinh viên nhận thấy rằng có 176 trong số 180 còn lại đều thành đạt
trên mức bình thường, tất cả đã trở thành những luật sư, bác sĩ hay các doanh
nhân thành công.
Vị giáo sư rất
đỗi ngạc nhiên, ông quyết tìm hiểu kỹ hơn mọi chuyện. Rất may, các cậu bé ngày
xưa vẫn sinh sống tại các khu lân cận nên ông có thể tiếp xúc với tất cả. Câu hỏi
ông đặt ra là: “Đâu là nguyên nhân cho sự thành đạt của bạn hôm nay?” Trong tất
cả các trường hợp, câu trả lời luôn đi kèm với sự xúc động: “Đó là nhờ một người
thầy của tôi.”
Người thầy
đó vẫn còn sống, nên vị giáo sư quyết tâm đi tìm và hỏi người phụ nữ, tuy cao
tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn ấy rằng: phép lạ nào đã giúp bà cứu các cậu bé
thoát khỏi khu nhà ổ chuột và đạt được những thành công như ngày hôm nay.
Đôi mắt của bà
chợt sáng lên và với một nụ cười dịu dàng trên môi, bà nói: “Điều đó rất đơn giản.
Vì tôi có niềm tin vào những cậu bé đó.”
Chúa đã đặt
niềm tin vào mỗi người. Chớ gì khi Chúa đến, thành quả của chúng ta sẽ được
Chúa chúc phúc, để cùng với Chúa Giêsu Kitô được sống trong “vườn nho vĩnh cửu
của Chúa.”
24. Tá điền chiếm vườn nho
Bà Terri
Schiavo, 41 tuổi, bị hư não, bất toại với đời sống thực vật suốt 15 năm. Bà đã
qua đời ngày 31-3-2005 sau 13 ngày bị rút ống dẫn thức ăn uống theo ý của người
chồng, trong khi cha mẹ và những người bảo vệ sự sống không đồng ý, vì muốn cho
bà tiếp tục được sống. Thực vậy, việc rút máy tiếp ăn uống cho bà là không hợp
với luân lý. Bà không hôn mê, không cần trợ sinh, bà chỉ cần chăm sóc cơ bản và
sự trợ giúp tiếp nhận thức ăn và nước uống. Như lời Đức cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II trong dịp tiếp đón 400 tham dự viên của Tổng hội nghị quốc tế, được tổ
chức bởi liên đoàn thế giới của những hội y tế Công giáo và Hàn lâm viện Giáo
hoàng về sự sống, vào ngày 20-3-2004, đã khẳng định: “Con người, thậm chí dù có
bị ốm đau trầm trọng hay bị liệt cả thân thể, thì họ vẫn luôn là những con người,
và sẽ không bao giờ trở thành “những con vật” hay những “loài vật.” Nhân phẩm của
anh chị em chúng ta trong hoàn cảnh “dở sống dở chết” này phải được tôn trọng
và gìn giữ một cách trọn vẹn.
Hành động
làm cho bà Terri Schiavo chết một cách không tự nhiên này, đi ngược lại với
giáo huấn của Hội Thánh (Dựa vào Tuyên ngôn về an tử của Thánh bộ giáo lý đức
tin 1980, vào Giáo lý Công giáo và tài liệu của Hàn lâm viện Giáo Hoàng phục vụ
sự sống. Với lý do: Không ai có quyền trên sự sống con người, quyền này thuộc về
Thiên Chúa, và con người có bổn phận sống hòa hợp với tình yêu và kế hoạch của
Thiên Chúa).
25. Đàng thánh giá lạ lùng
Trong một
chuyến đi Chicago, tôi đã đặt chân vào ngôi nhà nguyện ấy.
Đó là ngôi
nhà nguyện trong một cao ốc tối tăm vùng Nam Chicago, nơi được dùng làm trụ sở
của tổ chức Catholic Charities. Mặt tiền của cao ốc này là con đường tấp nập xe
cộ; cửa sau cao ốc thông ra một khu đậu xe, với con đường đất dẫn vào, gập ghềnh,
lồi lõm. Ngay trên đầu lối xe vào là chiếc cầu xi măng, trên đó xe điện chạy rầm
rập suốt ngày đêm.
Rõ ràng, đây
không phải là một cao ốc khang trang, tráng lệ. Nó hợp với khung cảnh của vùng
Nam Chicago, nơi có nhiều người da đen và người Mễ, những người nghèo, thuộc tầng
lớp thấp kém trong xã hội. Tầng trệt của cao ốc này là trung tâm sinh hoạt tôn
giáo của những người Mễ Tây Cơ.
Có lẽ trong
tầng trệt của cao ốc này, ngôi nhà nguyện là căn phòng đẹp nhất, với những bờ
tường cẩn đá cuội to bên dưới, một bàn thờ làm bằng một phiến gỗ mộc, một nhà tạm
bên góc trái với ngọn đèn dầu leo lét, và một giàn đèn màu hắt ánh sáng từ trên
trần xuống.
Tôi quì
trong nhà nguyện, tĩnh tâm một lúc rồi ngó lên bốn bức tường tìm kiếm một hình ảnh
thân quen: mười bốn chặng đàng thánh giá. Trong bất cứ một thánh đường hay nguyện
đường Công giáo lớn nhỏ nào, đều có hình ảnh của mười bốn chặng đàng thánh giá.
Đó là những hình ảnh ghi lại những biến cố quan trọng trong đoạn đường khổ nạn của
Chúa Kitô, bắt đầu từ sự kiện Ngài bị đưa đến dinh quan tổng trấn Philatô luận
tội và kết thúc ở sự kiện xác Ngài được táng trong huyệt đá. Người giáo dân,
khi muốn tưởng nhớ đến công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô thì đứng trước mỗi chặng
đó, đọc kinh, suy niệm, gọi là ''đi đàng thánh giá.”
Điều làm tôi
kinh ngạc là ngôi nhà nguyện trang trí theo nghệ thuật Mễ Tây Cơ này không có
mười bốn chặng đàng thánh giá. Tôi đã từng đến những ngôi nhà nguyện rất nhỏ hẹp,
rất đơn sơ nghèo nàn, nghèo đến độ không có nổi hình ảnh của mười bốn chặng
đàng thánh giá; nhưng thay vào đó, người ta đã cắt mười bốn hình thánh giá nhỏ
bằng giấy, gắn lên tường, tượng trưng cho mười bốn chặng đàng thánh giá. Ở đây,
hình ảnh không có, thánh giá bằng nhựa, bằng giấy cũng không có, tường vách trống
trơn. Thay vào đấy, họa sĩ nào đó đã dùng màu, vẽ dày đặc trên bốn bức tường.
Hình ảnh những người đa đen, người Mễ, những cảnh gồng gánh, cảnh làm việc tại
công trường... trông hết cả vẻ trang nghiêm của một nơi thờ phượng. Tự nhiên
tôi thấy giận giận trong lòng. Cái tật vẽ tùm lum tà la trên tường nhà, đường
phố, cầu cống của người Mễ xâm nhập cả vào nơi cầu nguyện.
Tại sao lại
có một sự vô ý thức đến như thế!
Vì công việc,
tôi phải ở lại trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Mễ này vài ngày. Và cũng
vì trách nhiệm, mỗi ngày tôi phải vào ngôi nhà nguyện đó nhiều lần. Lần nào
cũng vậy, thay vì tìm thấy sự bình an trong tâm hồn thì tôi chỉ cảm thấy... mất
bình an. Càng mất bình an bao nhiêu thì tôi càng có cảm tưởng những hình ảnh
trên tường đó càng nhảy múa, trêu ghẹo tôi bấy nhiêu. Hóa ra, thay vì được
''tĩnh tâm" thì tôi lại bị ''động tâm''. Nguyên do cũng chỉ vì ngôi nhà
nguyện không có mười bốn chặng đàng thánh giá, lại thêm nữa là tường vẽ đầy những
hình ảnh kì quái làm mất vẻ trang nghiêm.
Cho đến buổi
sáng kia, một vị hình mục đến dâng Thánh lễ trong ngôi nhà nguyện này. Trong phần
giảng thuyết, ngài khai triển chủ đề ''Chúa ở trong tha nhân''. Ngài nói:
''Chúng ta không nhìn thấy Chúa, nhưng nhìn thấy anh em chung quanh ta cũng chính
là thấy Chúa, vì Chúa ở trong những người anh em đó. Chúng ta cũng không trực
tiếp phục vụ Chúa, nhưng khi chúng ta phục vụ những người anh em cũng là chúng
ta phục vụ chính Chúa, vì Chúa ở trong những người anh em đó.''
Tôi ngồi
nghe, hơi thờ ơ. Những tư tưởng này tôi cũng đã được nghe nhiều lần, không có
gì mới lạ. Nhưng tôi bắt đầu chú ý khi vị linh mục đề cập tới những bức tường
trong ngôi nhà nguyện. Bằng một giọng đều đặn nhưng không thiếu sự rung cảm,
ngài nói:
Anh em thử
nhìn lên bốn bức tường trong nhà nguyện này. Anh em không thấy mười bốn chặng
đàng thánh giá, cũng không thấy Chúa đâu. Nhưng có Chúa đó, và cũng có cả mười
bốn chặng đàng thánh giá đó.
Tôi kinh ngạc,
chú ý nghe. Và vị linh mục nói tiếp:
Anh em hãy
nhìn bức hình thứ nhất: một người da đen bị trói hai tay, đứng trước những người
khác. Anh em không nhìn thấy Chúa đâu, nhưng có Chúa trong người da đen ấy.
Chúa Kitô đang bị đưa ra trước tòa quan tổng trần Philatô đó... Anh em hãy nhìn
bức hình thứ hai, anh em không thấy Chúa đâu, chỉ thấy một người đang vác những
vật rất nặng trên vai, lưng anh ta còng xuống. Chúa đó, Chúa Kitô vác thánh giá
trong người anh em đang mang nặng đó... Anh em hãy nhìn bức hình thứ ba, anh em
không thấy Chúa đâu, chỉ thấy một người bị đè dưới một đống gạch. Chúa đó, Chúa
Kitô bị ngã xuống đất dưới sức nặng của cây thánh giá...
Anh em hãy
nhìn bức hình thứ tư, anh em không thấy Chúa đâu, chỉ thấy một phụ nữ đẹp sầu
muộn đang nhìn một người đang bị đánh đập. Chúa Kitô đó, trên đường khổ giá,
Ngài đã gặp Đức Mẹ sầu bi.
Lần lượt, vị
linh mục giảng giải trọn vẹn mười bốn chặng đàng thánh giá vẽ trên tường. Tôi
và những người ngồi trong nhà nguyện chăm chú lắng nghe. Nghe mà cảm thấy trong
lòng sung sướng. Đây là lần đầu tiên, tôi cảm nghiệm bài học "Chúa ở trong
tha nhân '' một cách thật mãnh liệt và sống động.
Buổi chiều,
tôi gặp vị linh mục yà tỏ ý cảm phục vì sự ngài nhìn ra ý nghĩa của những hình ảnh
''kì quái” trên tường. Ngài cười nhẹ đáp: "Tôi nghĩ đó là sự nhạy cảm văn
hóa."
Buổi sáng sớm
nay, tôi vào nhà nguyện, ngồi suy niệm. Bất chợt, nhìn lên tường, ngắm những bức
tranh ấy, tôi tìm ra được ý nghĩa của chúng.
Tôi không có
được sự ''nhạy cảm văn hóa'' của vị linh mục kia. Nhưng qua sự giải nghĩa của
ngài, tôi học được một bài học còn quan trọng hơn sự ''nhạy cảm văn hóa''. Chuyện
xảy ra là, sau buổi sáng hôm ấy, mỗi lần vào nhà nguyện Mễ Tây Cơ đó, tôi không
còn cái tâm trạng ''giận giận'' và ''mất bình an'' nữa; trái lại, lòng tôi thấy
bình an thư thái và chan chứa yêu thương. Tôi thấy ngôi nhà nguyện đẹp và dễ
thương, những giờ cầu nguyện trong ngôi nhà nguyện ấy thật là ý nghĩa.
Trước đây,
tôi thấy ngôi nhà nguyện dễ ghét, vì tôi không hiểu được ý nghĩa những bức
tranh vẽ trên tường.
Bây giờ,
ngôi nhà nguyện dễ thương, vì tôi đã hiểu được ý nghĩa những bức tranh ấy. Bài
học tôi học được chính là ở chỗ đó: ngôi nhà nguyện cũng y như một con người và
những bức tranh vẽ trên tường cũng giống như tâm hồn của người ấy. Có những người,
khi mới thoạt gặp, tôi đã thấy ''mất cảm tình'' ngay, nơi họ có cái gì kì cục,
khó ưa và tôi tìm cách xa tránh họ, không muốn tiếp xúc với họ. Tình cờ gặp họ,
dù họ không làm gì đụng chạm đến tôi, tôi cũng thấy ghét, thấy bực mình. Thế
nhưng, nếu có cơ hội nào, tôi đi được vào cõi lòng của người ấy, tôi biết được
tâm trạng, sự suy nghĩ, niềm vui nỗi buồn, niềm đau và sự hạnh phúc của người ấy,
tôi sẽ thấy người ấy có những điểm dễ thương và tâm hồn người ấy có nhiều điều
đáng quí.
Hi vọng rằng
từ nay, khi tiếp xúc với một người, tôi sẽ không vội ưa hay không ưa, mà cố gắng
tìm hiểu tâm hồn họ. Và tôi tin rằng nơi tâm hồn bất cứ một ai cũng có những điểm
đáng quí, dễ thương.
Nhà văn
Quyên Di
26. Giết Chúa thời nay
Tháng 8/1963
Martin Luther King dẹp qua một bên bài diễn thuyết được soạn sẵn, để nói thẳng
với hàng trăm ngàn người nghe ông: “Hôm nay, tôi mơ ước rằng một ngày nào đó
người da đen sẽ nắm tay người da trắng và cùng nhau sánh bước như anh em.” Khi
ông nói như thế , một số người đã nhạo báng: “Nào chúng ta giết hắn đi…để xem
những ước mơ của hắn sẽ ra sao?”
Thái độ của
tôi như thế nào đối với những mơ ước của Martin Luther King? Tôi đang làm gì về
điều đó một cách cụ thể? Tôi có để cho sự sợ hãi (sợ thất bại, sợ dư luận) giết
chết những ước mơ của tôi không?
Khi bạn thấy
thực chất của vấn đề, bạn hỏi: “Tại sao như vậy?” Nhưng khi bạn mơ ước những điều
xa vời, bạn lại hỏi: “Tại sao không xảy ra chứ?” (George Bernard Shaw).
CNTN
27B -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN
27C -
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ
HAI - NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN HẬU
Lời Chúa: Lc
10, 25-37
Khi ấy, có một
người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, tôi phải
làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề luật đã
chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?"
Ông trả lời:
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức
và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình." Chúa
Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống."
Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng
ai là anh em của tôi?"
Chúa Giêsu
nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay bọn cướp;
chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa chết.
Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi qua.
Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua. Nhưng một
người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng thương. Người
đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn nhân lên lừa
của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền, ông trao cho
ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài ra còn tốn
phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông."
"Theo
ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"
Người thông
luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy."
Và Chúa
Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy."
TRUYỆN KỂ
1. Có khổ mới có cảm thông
Một phóng
viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm người bị
thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người đã đi
qua..., cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện thoại
cho cảnh sát.
Người phóng
viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để phỏng
vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một ngày
kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm được
sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.
2. Chén thánh bữa tiệc ly
Sir Launfal,
một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy tìm chiếc
chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa tiệc ly. Khi chàng bắt đầu rời khỏi
thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Chạnh
lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi. Chàng tìm mãi chẳng
thấy chén thánh đâu!
Thất bại,
chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa sau cuộc
hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ cũ.
Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh
bánh vụn còn lại của anh. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy
cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước
quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước
hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
3. Tình yêu vượt qua hận thù
Trong thế
chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang oằn oại
bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa người
thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình không
đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy!
Thế là anh
phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất mà
quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi chiến
hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan Anh.
4. Tình yêu gầy dựng
Một hôm, Thầy
Antôn dẫn Thầy Amôna ra khỏi chòi tu và chỉ vào tảng đá giữa hoang địa mà nói:
- Thầy hãy mắng
tảng đá và đập cho nó một cái đi.
Thầy Amôna
làm theo. Lúc đó Thầy Antôn hỏi: - Tảng đá có nói gì không?
Thầy Amôna
đáp: - Không.
Thầy Antôn
nói: - Thầy cũng vậy, thầy sẽ đạt tới mức độ này.
Ý thầy Antôn
muốn nói là thầy Amôna phải tập sao cho mình không còn biết đến hai chữ giận dữ,
không còn biết đến nóng nảy là gì nữa.
Và quả thực
sau này đã xảy ra như thế. Thầy Amôna càng ngày càng tiến bộ, lòng nhân hậu của
Thầy càng ngày càng tăng trưởng tới mức thầy không biết tới sự ác độc, dữ dằn
là gì nữa. Về sau, khi thầy lên chức Giám Mục, có một lần các tu sĩ trong miền
dẫn tới Toà Giám Mục một thiếu nữ mang bầu và xin Ngài ra hình phạt. Ngài đã ứng
xử như thế nào? Đức Cha đã đưa tay vẽ hình Thánh Giá lên bụng cô gái, rồi ra lệnh
ban cho cô sáu tấm drap bằng lanh mịn và nói:
- Sợ rằng,
khi cô ta sinh con, cô ta hay đứa con có thể chết, mà không có gì tẩm liệm
chăng?
Nhưng những
kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức
Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn
bảo:
- Xin anh em
coi, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi còn phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi
Ngài cho cô ta về. Từ đấy, không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
5. Trở nên người thân cận
Giám mục
Myriel, nhân vật trong cuốn tiểu thuyết “Những người cùng khổ” của Victor Hugo,
đã cứu anh J. Valjean khỏi rắc rối với cảnh sát khi anh ăn trộm bộ muỗng đĩa của
toà giám mục, lại còn tặng anh thêm mấy chân đèn bạc và nhắn nhủ: “Thôi con đi,
đừng bao giờ quên lời cha. Con hãy hứa với cha là con sẽ dùng số tiền bán các đồ
vật này để làm lại cuộc đời, sống lương thiện giúp ích cho xã hội.” Cảm kích
trước tấm lòng nhân hậu như thế, Valjean đã được biến đổi từ một người tội phạm
thành một thị trưởng gương mẫu. Lòng trắc ẩn của vị giám mục coi phạm nhân như
người thân cận, minh hoạ hình ảnh người Sa-ma-ri coi nạn nhân bị cướp trên đường
Giê-ri-khô như người thân cận của mình, không tiếc công sức, thời giờ, tiền bạc
để cứu giúp nạn nhân trong tình huống cấp bách.
“Tránh
sang bên kia đường” là cám dỗ không phải chỉ của thầy tư tế hay thầy Lê-vi, mà
cũng có thể là cám dỗ cho chính bạn khi bạn dửng dưng trước những người lâm cảnh
khốn cùng vì cho rằng mình không có bổn phận giúp người xa lạ hay không thân
thiết với mình. Lời Chúa hôm nay mời gọi bạn đổi lại thái độ: khi giúp đỡ chia
sẻ với ai đó bằng lời nói hay việc làm bác ái, bạn làm cho người ấy trở nên người
thân cận với bạn.
6. Hãy làm như vậy
Tạp chí
Glamour số ra tháng 12/1991 có bài xã luận về một phụ nữ trong chiếc xe hơi màu
đỏ. Bà ta lái xe đến trạm thuế qua cầu Bay và đưa cho nhân viên bảy chiếc vé và
nói: “Tôi trả cho sáu chiếc xe sắp tới.” Khi các xe sau ngừng lại, người tài xế
đều được bảo cho biết là người phụ nữ đi xe hơi màu đỏ đã trả phí qua cầu cho
ông và chúc một ngày tốt lành. Người phụ nữ đó đã được đẩy bởi câu nói của Anne
Herbert: “Hãy thực hành lòng tốt cách ngẫu nhiên và làm những nghĩa cử cao đẹp
một cách gàn dở.” Anne tin rằng “lòng tốt ngẫu nhiên” có khả năng phát sinh cơn
sống thần, cũng như sự hung bạo ngẫu nhiên vậy. Có lẽ đó là lý do tại sao câu
nói của Anne đang xuất hiện khắp nơi. Nó đánh thức một cái gì đó sâu lắng trong
tâm hồn con người.
Tôi có thể
“đi và làm như vậy” không?
Như trong mọi
cuộc cách mạng, ưu thế của du kích có kết quả nhờ những hành động đơn lẻ. Bạn
cũng hãy làm như vậy (Tạp chí Glamour).
7. Bức tường thù ghét
Đưa người
Samaritanô nhân hậu như mẫu mực trong dụ ngôn của Ngài, Chúa Giêsu đã gây khó chịu
cho những thính giả Do Thái, những người rất thù ghét người Samari. Sự thù ghét
này đã có từ ngày quân Assyri chinh phục phía Bắc Israel (Samari) vào năm 722
trước công nguyện. Những người Samari còn sống sót thông gia với những kẻ đã
chinh phục họ, và điều này khiến cho những người Do Thái khác giận dữ. Vào thời
Chúa Giêsu, người Samari bị cấm vào Đền thờ và Hội đường (dành cho người Do
Thái). Ngược lại, người Samari cũng không cho người Do Thái đến gần thị trấn của
họ.
Tôi sẵn sàng
tới mức nào trong sáng kiến phá bỏ bức tường của thù ghét, để xây dựng nhịp cầu
yêu thương? Tôi có thể thực hiện điều này ra sao?
Tình anh em,
trước kia chỉ là một giấc mơ, giờ đây đã trở nên vô cùng cần thiết (Louis
L.Mann).
8. Tình yêu đòi hy sinh
Sáng ngày
13-07-1970, ông Đinh Văn S., một cảnh sát viên ở Bảo Lộc – Lâm Đồng, đang chạy
chiếc xe vespa đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật (XV năm C). Ông có thói quen đọc
Phúc Âm ở nhà trước khi dự Lễ, trên đường đi, ông đang suy nghĩ về đoạn Phúc Âm
“Người Samari nhân hậu”(Lc 10,25-37), chiếc xe ông đang đổ dốc, thình lình ông
nhìn thấy một cô gái nằm bất tỉnh cạnh chiếc xe đạp bên vệ đường! Ông sợ quá rồ
ga chạy nhanh hơn, nhất là gần đến giờ Lễ rồi, mà Nhà Thờ chỉ có một Lễ sáng.
Chạy một quãng dài, hình ảnh “Người Samari nhân hậu” tra vấn lòng ông. Thế là
ông quay xe trở lại chỗ cô gái lúc nãy, ông tiến lại gần và thấy cô nằm bất động,
máu me đẫm ướt quần cô gái. Ông vội vực cô đưa lên xe chở vào nhà thương cấp cứu.
Người ta chẳng
biết nguyên nhân thế nào, cứ tạm giữ ông để điều tra, vì biết đâu chính ông là
người đã gây ra?!
Từ ở bệnh viện
ông nhắn tin về nhà cho vợ biết. Bà nghe tin, vội đi ngay đến xem sự gì đã xảy
ra với chồng? Khi nghe ông kể đầu đuôi câu chuyện, thay vì an ủi, bà lại xỉa
xói:
- Sao ông
ngu thế! Ông làm thế bây giờ người ta cứ cột tội vào cổ ông. Nếu cô ta chết, ai
làm chứng cho ông đây? Ở nhà tôi đã đủ thứ việc, bây giờ lại mắc của nợ này,
ông giết tôi cho rồi!
Ông chỉ còn
biết cắn răng với nhân đức chịu vậy suốt ba ngày, trước sự cằn nhằn của vợ về sự
“dại dột” của mình!?
Nhưng rất
may, cô gái ấy tỉnh lại và kể rõ mọi việc: “nguyên nhân là vì hôm ấy tôi đang đổ
dốc với chiếc xe đạp đi hái trà, chẳng may xe bị đứt thắng sau, chiếc xe lao xuống
quá nhanh, tôi hoảng hốt bóp thắng trước, tức thì chiếc xe lộn ngược quật tôi
xuống đất, chiếc ghi-đông đâm vào háng tôi, từ bấy giờ tôi không biết gì nữa!Tôi
rất biết ơn người đã đưa tôi vào bệnh viện.”
Lúc ấy người
vợ cảm thấy ân hận vì đã đay nghiến chồng! Và dĩ nhiên sau đó người ta cho ông
S. tự do.
Một tháng
sau, gia đình cô gái đem quà đến nhà hậu tạ ông, vì nhờ ông mà cô gái giữ được
mạng sống! Nhưng ông nói với gia đình cô gái:
- Có chi
đâu, tôi chỉ chịu một chút phiền hà để cứu một mạng người; còn thua xa Chúa
Giêsu đã chết để cứu tôi khỏi tội, và Ngài đã dạy tôi là phải bắt chước “Người
Samari nhân hậu."
Vậy “Ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa Đấng nó không thấy!” (1 Ga 4,20b).
9. Chúa ở trong anh em
Trong dân
gian vùng Cận Đông còn truyền tụng câu chuyện sau đây về ông Abraham. Họ kể rằng,
ông Abraham tốt bụng đến nỗi: ông luôn luôn dời bữa ăn sáng lại, để chờ cho đến
khi nào có một người đói đến, để chia sẻ bửa ăn với ông thì ông mới dùng bửa.
Nhưng một
ngày kia, có cụ già đi ngang qua và được ông Abraham mời vào chia sẻ bữa ăn
sáng. Nhưng ngay trước khi dùng bữa, ông nghe cụ già thì thầm lời kinh của người
ngoài đạo Chúa. Ông Abraham vội vàng ngưng bữa ăn lại và mời cụ già đi nơi
khác.
Cụ già chưa
khuất thì Abraham nghe tiếng Chúa trách:
- Abraham,
Abraham, Ta đã cung cấp lương thực nuôi cụ già này trong vòng 80 năm qua, mặc
dù ông không phải là kẻ tin thờ Ta. Phần con, con không đủ kiên nhẫn và nhân từ
để chia sẻ chỉ một bữa ăn với cụ hay sao?
10. Tình yêu tỏa sáng
Biến cố toà
tháp đôi của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Hoa Kỳ bị tấn công và sụp đổ vào
ngày 11/9 năm 2001 đã làm cả thế giới phải lặng thinh trong đau khổ. Nhưng
chính trong bóng tối mà vẻ đẹp của pháo bông được tôn vinh, chính trong cảnh huống
đau khổ này mà tình liên đới lại làm sáng lên một giá trị không gì so sánh được
cho tâm hồn con người, từ những trái tim biết chia sẻ, biết cảm thông.
Vâng, đang
khi ai cũng thấy bất lực trước cái chết không thể tránh khỏi của rất nhiều người
đang bị nhốt trong toà tháp đôi, thì cha Mychal Judge, linh mục tuyên uý của
lính cứu hoả New York, và anh em cứu hoả New York lại xông vào toà nhà để cứu
người bị nạn.
Dù biết rằng
việc xông vào lúc đó là rất nguy hiểm, nhưng việc cứu người bị nạn được đặt lên
trên. Thế nên mấy trăm lính cứu hoả và cha Judge vẫn xông vào toà tháp đôi.
Đang lúc cha Judge ban các bí tích sau cùng cho các nạn nhân thì toà tháp đôi sụp
xuống chôn vùi cha và mấy trăm anh em cứu hoả đã xông vào bên trong.
11. Nghe thấy lòng tốt
Mẹ Têrêsa
thành Calcuta kể chuyện: Tại Calcutta, cách đây một thời gian, mỗi đêm chúng
tôi ra đường đem bốn năm người hấp hối về Nhà Vĩnh Biệt của chúng tôi. Có một
bà ở trong tình trạng thật bi đát nên tôi muốn tự tay mình chăm sóc. Tôi gởi hết
tình yêu thương vào công việc này. Khi tôi đặt bà lên giường, bà nắm lấy tay
tôi và môi bà nở một nụ cười tuyệt diệu. Bà chỉ nói có một tiếng: “Cám ơn”, rồi
bà chết.
“Bà đã cho
tôi nhiều hơn tôi cho bà, rất nhiều. Bà đã tặng tôi tấm lòng biết ơn của bà, và
tôi thầm nghĩ: “Ở hoàn cảnh bà tôi sẽ làm gì nhỉ? Rồi tôi tự trả lời: Hẳn là
tôi sẽ cố gắng lôi kéo sự chú ý về mình; hẳn là tôi sẽ bảo: Tôi đói hay tôi lạnh
hay tôi sắp chết.
“Nhưng phần
bà, bà thật cao cả, bà thật tuyệt vời qua hành động trao tặng của mình.”
Chúa nghe
người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Ngài… người xứ Samaria trông thấy người
bị nạn và động lòng thương,…
Còn tôi, tôi
có nghe không, tiếng lon múc gạo cạo vào đáy thùng, và có thấy không, người mẹ
gầy gò bới thùng rác tìm ve chai?
THỨ
BA - CON ĐƯỜNG YÊU CHÚA
Lời Chúa: Lc
10, 38-42
Khi ấy Chúa
Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào nhà mình.
Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người. Martha bận
rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy Thầy, em
con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em con giúp
con với."
Nhưng Chúa
đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ có một
sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất."
TRUYỆN KỂ
1. Chọn phần tốt hơn
Nếu ở Việt Nam
mỗi năm có khoảng mười hai ngàn người chết vì tai nạn giao thông, thì ở Nhật có
ba mươi ngàn người tự sát trong năm qua. Tai nạn giao thông lắm khi do vội vã,
không làm chủ được tốc độ. Tự sát do áp lực của công việc quá lớn, do căng thẳng,
do sợ bị khiển trách. Xem ra cuộc sống hối hả đã dẫn đến nhiều cái chết thương
tâm. Nhiều người chết bất ngờ vì bệnh tim mạch.
Con người
hôm nay có nhiều tiện nghi hơn, nhiều thú vui hơn ngày xưa, nhưng lại thiếu sự
thanh thản, bình an, trầm lắng.
Trong bài diễn
văn ngày 20-08-2006 tại Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha đã cảnh báo về nguy hiểm
khi làm quá nhiều công việc. Ngài trích lời thánh Bênêđictô: bị quá tải thường
dẫn đến sự chai đá của con tim, tinh thần bị thương tổn, trí khôn bị mất và ơn
Chúa bị phân tán.
Ngài khẳng định
lời nhắc nhở này cũng áp dụng cả cho ngài và cho mọi người. Không được đánh mất
mình trong công việc: đó là tâm niệm của người lãnh đạo trên một tỉ người Công
Giáo khắp thế giới.
Bài Tin Mừng
hôm nay cho ta thấy một giây phút thư giãn của Đức Giêsu. Trên con đường nay
đây mai đó của một người rao giảng, Đức Giêsu cũng có lúc dừng chân. Một ngôi
làng quen thuộc, một mái nhà ấm cúng, một bữa ăn ngon, tất cả như một ốc đảo
xanh tươi đem lại cho Thầy trò hạnh phúc sau những vất vả, nhọc mệt, hiểm nguy
và thiếu thốn.
2. Chứng tá bởi lời cầu nguyện
Trong một
bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:
"Cuộc sống
của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy
tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một
thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị
lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống
cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu
nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người
ngày nay."
3. Lòng hiếu khách
Lòng hiếu
khách của gia chủ Việt Nam được thể hiện qua câu:
“Ai kêu cửa
ngõ thì vô / Nước trà đang quạt, cá khô đang lùi."
Khi nghe
chuông, chủ nhà nhanh nhẹn mở cửa mời khách vào. Mời khách ngồi và rót nước mời,
chủ nhà phải tỏ ra ưu ái đối với khách qua nét mặt vui tươi và cử chỉ:
“Ra đi chân
bước nhẹ nhàng / Là người hiếu khách, rõ ràng yên vui."
Mời cơm
khách đến chia sẻ chung vui, người hiếu khách luôn lo lắng chuẩn bị làm bữa,
dành của ngon đãi khách như tục ngữ có câu: “Khách đến nhà chẳng gà thì vịt."
Hay như câu ca dao diễn tả:
“Gỏi nào bằng
gỏi cá kìm, Dọn ra đãi bạn trọn niềm thủy chung”
Hình ảnh ẩn
dụ tượng trưng cho những của ăn ngon nhất để đãi khách, cũng như trân trọng người
khách qua việc chuẩn bị bữa ăn:
“Năm tiền một
khứa cá buôi, Cũng mua cho đặng đãi người khách sang…”
Cá buôi dù đắt
cũng mua cho được để đãi khách quý, hình ảnh nói về tấm lòng chủ với khách:
Luôn dành cho khách những của ăn ngon nhất.
4. Giá trị của tình yêu
Bác sĩ
Elizabeth Couplaros là giáo sư về môn tâm lý trị liệu tại đại học Chicago, Hoa
Kỳ. Một trong những tác phẩm bán chạy nhất của bà có tựa đề “Sự chết và Chết."
Cuốn sách
ghi lại sự phỏng vấn của tác giả với hàng trăm người đã từng bị bác sĩ tuyên bố
là chết nhưng bỗng dưng sống lại. Có thể nói người chết sống lại này đều cho biết
rằng trong khoảnh khắc mà bác sĩ gọi là chết ấy họ như sống lại cả quãng đời của
họ, cứ như thế họ xem lại cuốn phim về cuộc đời của họ. Khoảnh khắc ấy có nghĩa
gì không?
Bác sĩ
Couplaros đã nhận định như sau: “Khi bạn trải qua khoảnh khắc ấy, bạn chỉ thấy
có hai điều quan trọng trong cuộc đời: một là bạn đã phục vụ, hai là bạn sống
yêu thương; còn tất cả những điều mà chúng ta xem trọng như danh tiếng, tiền của,
uy tín và quyền lực đều vô nghĩa."
5. Cần tinh thần phục vụ
Những thuộc
viên cao cấp của Bà-la-môn ở Ấn Độ không bao giờ cúi xuống làm việc của người đầy
tớ. Vì thế Shirman Naraayan sốc làm sao khi ông được giao nhiệm vụ mà ông thấy
như mình bị hạ thấp khi ông dành thời gian làm tại trung tâm Gandhi (là một
trung tâm tĩnh tâm của người Hindu).
Tốt nghiệp
tiến sĩ tại trường Kinh tế Luân Đôn, chàng thanh niên này đã đến tìm hướng đi
cho tương lai. Chàng không biết rằng mọi người tại trung tâm này đều được giao
nhiệm vụ cụ thể, và Shirman phải chùi nhà vệ sinh. Thấy bị xúc phạm ghê gớm,
anh đi thẳng đến chỗ Gandhi và phàn nàn: “Tôi có bằng tiến sĩ. Tôi có thể làm
được nhiều điều lớn lao hơn, tại sao lại bắt tôi phải phí thời gian và tài năng
vào việc lau chùi phòng vệ sinh vậy?” Gandhi trả lời: “Tôi biết anh có thể làm
được nhiều việc lớn, nhưng tôi cũng phải xem thử anh có đủ năng lực để làm những
việc nhỏ không đã."
6. Marta và Maria đều nói về Chúa
Cô giáo môn
tiếng Anh của tôi không phải là người công giáo. Một hôm cô nói với lớp: “Không
hiểu vì sao cô rất thích nghe nhạc của đạo công giáo. Những bài hát ấy có một sức
lôi cuốn nào đó, mỗi lần nghe cô cảm thấy tâm hồn thanh thoát vui tươi và cuộc
sống thật hạnh phúc.” Nói xong cô hỏi lớp: “Lớp mình có bạn nào người công giáo
không? Hãy nói cho cô và các bạn nghe về Chúa!” Cả lớp vẫn im lặng. Tôi muốn
nói nhưng khổ nỗi vào giờ này không ai được nói tiếng Việt. Tôi biết Chúa nhưng
nói về Chúa bằng tiếng Anh thì không thể, vì tôi không có đủ vốn từ và cũng
không biết phải nói làm sao.
Tôi buồn vì
đã bỏ qua một cơ hội để nói về Chúa cho cô và các bạn chỉ vì thiếu khả năng ngoại
ngữ. Từ đó bên cạnh việc học hỏi và chia sẻ Lời Chúa, tôi sẽ nói bằng tất cả
lòng yêu mến và kiến thức sẵn có của mình.
Lạy Chúa! cả
hai thái độ của Mác-ta và Maria đều cần thiết cho con trong cuộc sống hôm nay.
Xin cho con vừa là Maria vừa là Mác-ta để con xứng đáng là chứng nhân đích thực
của Chúa.
7. Các thánh gặp Chúa
Người ta thuật
lại, thánh Phanxicô Xavie vì phải mải mê rao giảng Tin Mừng cho lương dân, nên
mỗi khi đêm về, ngài thường quì gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, có lắm lúc quá
mệt mỏi phải ngủ gục trên bục bàn thờ. Lúc ấy, ngài thường cầu nguyện: “ Lạy
Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa thì ít nữa xác con đây muốn
ở gần Chúa."
Còn thánh
Vincent Ferrier thì có những cách ứng xử đặc biệt hơn. Những lúc gặp các tội
nhân cứng lòng, khuyên bảo mãi cũng chẳng chịu trở lại, ngài gia tăng việc ăn
chay, hãm mình, cầu nguyện để kéo ơn Chúa xuống cho họ nhiều hơn. Nếu như thế vẫn
chưa có kết quả thì lúc đêm về, ngài lại ra trước bàn thờ để than thở cùng Chúa
và nhiều khi ngài còn táo bạo mở cửa nhà chầu ra để nói chuyện cùng Chúa.
Gần đây,
chúng ta có tấm gương của Đức Thánh cha Gioan XXIII. Người ta kể lại rằng: Mặc
dù công việc Hội Thánh rất bề bộn, Ngài vẫn sống một cuộc sống nội tâm dồi dào.
Đặc biệt ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp hết mọi công việc và dọn một phòng
riêng ở Vatican để sống những giờ khắc âm thầm bên Chúa, nghe lời giảng dạy.
Trước khi
khai mạc công đồng Vaticanô II, ngài đã đi tĩnh tâm một thời gian, rồi tới
Lorette, một nơi tục truyền có nhà Đức Mẹ, để cầu nguyện cùng Mẹ ban ơn cho
công đồng được thành công.
8. Xin cho có thời giờ để gặp Chúa
Lạy Chúa,
con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ để trò chuyện với
Ngài.
Thực ra, mỗi
ngày con có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất:
Khi chờ một
người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, Khi lên cầu thang, lúc bị kẹt xe, khi bị cúp
điện bất ngờ.
Lúc con chờ
gặp một người thân ở bến xe, ở phi trường, Khi chờ để lên máy bay, hay xuống một
con thuyền xin cho con biết tìm ra sự hiện diện của Chúa bên con. Amen.
9. Nếu như Marta
Chúa đã nói
qua miệng ngôn sứ Hôsê: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn lễ vật, Ta ưa việc học
biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu!” (Hs 6,6).
Do đó, nếu
cô Matta phục vụ bữa ăn tiếp đón Đức Giêsu mà cô tỏ ra yêu thương Thầy cũng như
em mình, thì chắc chắn cô không bị Đức Giêsu trách. Bởi lẽ:
- Nếu cô
Matta bắt chước bà Sara làm bánh đãi ba người khách mà miệng vẫn nở nụ cười,
thì chắc chắn được Thiên Chúa chúc lành hơn bà Sara trong tuổi già được Chúa
cho sinh con (x St 18).
- Nếu cô
Matta biết sống đơn giản như Đức Giêsu dạy: “Chỉ có một điều cần thiết mà thôi”
(Lc 10,42a), điều cần ấy là: bất cứ làm việc gì cũng do tình yêu Chúa thúc đẩy
(x 2Cr 5,14), đó cũng là chọn phần tốt nhất như cô Maria ngồi nghe Lời Chúa (Lc
10,42:Tin Mừng).
Thế nên sống
yêu là hãy sống đơn giản trong việc hưởng dùng của cải vật chất: “Một điều đã đủ”
mới có điều kiện để nghe Lời Chúa như cô Maria đã được Đức Giêsu khen: “Đã chọn
phần tốt nhất và sẽ không bị ai giựt mất” (Lc 10, 42b).
- Nếu cô
Matta đừng kết án Chúa: “Cả Thầy không biết quan tâm tới tôi? Hãy bảo em tôi xuống
bếp giúp tôi?” (Lc 10,40) Mà cô Matta lại lên tiếng nói với em: “Chị đã lớn tuổi,
học khó nhớ hơn em, em để chị lo việc bàn ăn đãi Thầy, còn em cứ ngồi nghe Thầy
giảng dạy, sau bữa ăn em nói lại cho chị nghe”, thì như vậy cô Matta mới phục vụ
vì yêu. Nhưng rất tiếc cô tự mãn cho việc bếp núc của mình quan trọng hơn việc
Thầy giảng Lời, quan trọng hơn cô em cứ ngồi nghe Lời Chúa. Và như thế thâm tâm
của Matta muốn nói: “Có thực mới vực được đạo”, Thầy và em sống không thực tế.
10. Chính mình là món quà
Văn học Việt
Nam ghi lại giai thoại cụ Dương Khuê đến chơi nhà ông bạn vong niên Nguyễn Khuyến.
Nhà cửa thanh đạm, không có gì tiếp đãi bạn:
Ao sâu nước
cả khôn chài cá
Vườn rộng
rào thưa khó đuổi gà
Cụ Nguyễn
Khuyến dí dỏm dành cho bạn điều quí giá hơn hết, đó là một tình bạn chân thật:
Bác đến chơi
đây, ta với ta.
11. Hoạt động và cầu nguyện
Năm 1973,
khi Mẹ Têrêxa Calcutta được trao tặng trao tặng bằng tiến sĩ danh dự về thần học
của đại học Kempet, Anh quốc, một ký giả đã hỏi mẹ: “Đâu là động lực thúc đẩy Mẹ
bắt tay vào việc phục vụ người nghèo?” Người ta chờ đợi câu trả lời dài với rất
nhiều lời giải thích. Thế nhưng, Mẹ Têrêsa chỉ đáp lại bằng một tiếng vắn gọn:
“Chúa Giê-su." Vâng, “tất cả vì Chúa và cho Chúa”; con người lăn xả hoạt động
như Mác-ta nhưng với một động lực thâm sâu của cầu nguyện như Ma-ri-a, đó là mẹ
Têrêxa Calcutta.
Mác-ta và
Ma-ri-a, mỗi người đón tiếp Chúa theo cách của mình. Mác-ta tất bật phục vụ lo
chuẩn bị bữa ăn. Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Người. Ngài không
đề cao thái độ này để hạ thái độ kia, nhưng Ngài muốn chúng ta nhớ rằng việc ưu
tiên số 1 là lắng nghe Lời Ngài trong tâm tình cầu nguyện, và tâm tình đó không
được thiếu vắng ngay cả khi bạn lăn xả vào hoạt động tông đồ.
Đời sống của
bạn đã có sự thống nhất chưa? Nghĩa là việc cầu nguyện có chiếm địa vị ưu tiên
nhất và có thấm nhuần vào mọi hoạt động khác trong một ngày sống của bạn
không?
12. Chuyện cần thiết
Nhà vật lý học
lừng danh người Pháp André-Marie Ampère dù rất thành công trong lĩnh vực khoa học
phục vụ nhân loại, nhưng ông không coi đó là tất cả cho cuộc đời. Ông có “một
chuyện cần thiết” nhất và suốt đời trung thành với nó, đó là cầu nguyện. Ông đã
để lại một phương châm cho những ai sống niềm tin vào Thiên Chúa: “Chúng ta chỉ
vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi.” Ampère đã hiểu thấu đáo câu nói của Chúa Giêsu
với Mácta: ..."Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt
nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,42).
Cách sống của
ông có thể nói thực hiện lời dạy của Thầy Giêsu: vừa nhiệt thành phục vụ như
Mácta, lại vừa dành thời gian để trung thành “ngồi bên chân Chúa” như Maria.
Đây chính là điều Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cô Mácta, và qua đó, nhắn nhủ với những
ai muốn làm môn đệ Ngài.
Trong cuộc sống
đầy những ồn ào và lo toan như hiện nay, sự tĩnh lặng cầu nguyện luôn rất cần
thiết cho đời sống người tín hữu. Nhưng tìm đâu ra những giây phút quý báu đó nếu
chúng ta không tự mình tìm về nội tâm của chính mình?
Hôm nay Chúa
đến thăm nhà bạn, bạn sẽ tiếp đãi Ngài thế nào?
Trong ngày,
ngay trong những lúc làm việc, bạn dừng lại một vài giây, để tâm sự với Chúa.
13. Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình
Trong cuốn
sách “Đời tôi không có Chúa”, William Murray cho biết ông đã trở lại Kitô giáo
như thế nào ở tuổi 33. Cũng như thánh Phaolô, ông bắt đầu rao giảng Tin mừng mà
trước kia ông từng chế diễu. Chẳng hạn, ông đã viết hai thư ngỏ: lá thư thứ nhất
gửi cho tạp chí ở Austin, Texas để xin lỗi vì đã góp phần xây dựng trung tâm vô
thần Mỹ. Lá thư thứ hai gửi tạp chí Baltimore Sun để xin lỗi vì đã đi kiện ở
tòa tối cao vào năm 1963 nhằm cấm cầu nguyện và đọc Kinh thánh trong các trường
công ở Baltimore.
Tôi đã cố gắng
làm gì để đền bù tội lỗi?
Hoán cải mà
không tu chỉnh thì cũng giống như trả nợ bằng cách viết chi phiếu lên mặt nước.
14. Tiền bạc không mua được sự hiện diện
Một người
cha nọ đang nói chuyện với thầy giáo của con trai ông, đột nhiên ông bật khóc
và nói: “Tôi không còn sống với con tôi, nhưng tôi yêu thương nó.” Sau khi lấy
lại bình tĩnh, ông giải thích rằng vợ và gia đình ông đã bỏ ông. Ông là một chủ
thầu và thường phải làm việc mười tám giờ một ngày. Ông nói: “Tôi muốn mua cho
gia đình tôi tất cả những gì chưa từng có, nhưng lại quên điều mà họ mong muốn
nhất, đó là một người cha luôn sẵn sàng khi họ cần đến tình yêu và chỗ dựa.”
Tôi có mải
mê mua sắm đến nỗi quên đi những điều quý giá hơn, những thứ mà không tiền bạc
nào có thể mua được chăng?
Thước đo của
giàu có không phải là những gì bạn có, nhưng là những thứ bạn có mà không tiền
bạc nào có thể mua được.
15. Maria, Giáo dân xuất sắc
1/ Học trò
gương mẫu của Thầy Giêsu:
Hình ảnh chị
Maria cứ ngồi dưới chân Đức Giêsu mà nghe giảng dạy, gợi cho ta nhớ đến ông
Phaolô là học trò xuất sắc của tôn sư Gamaliel, ông Phaolô cũng ngồi dưới chân
thầy Gamaliel mà thụ giáo (x. Cv 22,3).
2/ Là con
chiên ngoan đạo.
Đức Giêsu đã
xác định: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi, tôi
ban cho chúng sự sống đời đời, không phải qua tòa phán xét, nhưng bước qua sự chết
mà vào cõi sống” (Ga 10,27a; 5,24).
3/ Là Hiền
Thê của Đức Kitô.
Như Đức
Giêsu đã nói về chị Maria: “Maria đã chọn phần tốt nhất và không bị ai giựt mất”
(Lc 10,42b).
“Maria không
bị giựt mất”: Đức Giêsu có ý muốn xác nhận Ngài là Hôsê mới, “đã kết duyên” với
chị Maria là Gômơ mới: Xưa kia ngôn sứ Hôsê quyết tâm không rẫy từ cô Gômơ, một
gái điếm bất trung với chồng để lấy vợ khác, dù ông biết người vợ luôn ruổi
theo tình lang, thế mà ông nói: “Bây giờ ta sẽ lột trần cái đĩ già của nó trước
mặt các gã tình lang, và sẽ không đứa nào giựt nó khỏi tay ta được” (Hs 2,12: Bản
dịch NTT).
4/ Chị Maria
là người khôn ngoan.
Như Lời
Kinh Thánh đã nói: “Khởi điểm đích thực nhất của khôn ngoan là thực lòng ham muốn
học hỏi, còn lo lắng học hỏi là mến chuộng khôn ngoan” (Kn 6,17).
5/ Chị Maria
diễn tả người trong Nước Trời .
Thánh
Phaolô được Chúa nhấc lên tới tầng trời thứ ba, khi trở lại trần gian, ông nói:
“Vào Thiên Đàng tôi được nghe những Lời khôn tả, người phàm không được phép nói
lại” (2 Cr 12,4). Như thế chị Maria được nghe những Lời khôn tả xuất phát từ miệng
Đức Giêsu, chị đã không nói lại một lời, dù người chị phản đối em cứ ngồi dưới
chân Thầy, mà không xuống bếp giúp chị (x. Lc 10,40: Tin Mừng).
16. Cầu nguyện và hoạt động cần đến nhau
Có một tu sĩ
trẻ thắc mắc về chăm ngôn của Dòng mình “Cầu nguyện và làm việc.” Rồi một ngày
kia, Viện phụ bảo anh chèo thuyền qua hồ với ngài. Viện phụ chèo trước, nhưng
chỉ với một mái chèo và kết quả là thuyền chỉ xoay tròn mà không đi được. Tu sĩ
trẻ nói: “Thưa cha, nếu không chèo hai mái, chúng ta sẽ chẳng đi được.” Viện phụ
trả lời: “Đúng, mái chèo bên phải là cầu nguyện, mái chèo bên trái là làm việc.
Nếu không hài hòa được chúng, con vẫn chỉ ở trong vòng xoáy.”
Tôi có luôn
cố gắng giữ cân bằng giữa công việc và cầu nguyện không? Tôi nhận thấy thế nào
khi có sự cân bằng?
Mỗi kitô hữu
cần cầu nguyện nửa giờ mỗi ngày khi bận rộn. Nếu không bận lắm, cần cầu nguyện
một giờ mỗi ngày (Thánh Phanxicô Salêsiô).
17. Miếng da lừa
Văn hào
Honoré de Balzac viết một tác phẩm nổi tiếng tên là ‘Miếng da lừa’. Tác phẩm đó
kể về một chàng trai sống vào thế kỷ 19 tình cờ gặp một miếng da lừa có phép thần
trong tiệm đồ cổ, trên đó có một dòng chữ: “Mi có ta, mi sẽ có hết thảy. Nhưng
đời mi sẽ thuộc về ta. Mỗi lần ước, ta sẽ co lại như đời mi!”
Có miếng da
đó, anh có được mọi điều mình ước muốn, quyền lực, tiền bạc, vợ đẹp, và dễ dàng
trả được mối thù xưa… Nhưng mỗi khi anh ra một điều ước thì miếng da lại nhỏ đi
một chút.
Anh ước ao đủ
chuyện nhưng khi thấy miếng da nhỏ hẳn lại thì hoảng sợ. Lúc nó chỉ còn một
chút xíu, anh không dám ước mơ, không dám hy vọng điều gì nữa, để nó thôi co
thêm.
Trái lại,
“những người cậy trông Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung
cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân.” (Tv 40,31)
18. Đời trong đạo
Ở một
giáo xứ kia vẫn có thông lệ là 8 giờ sáng thứ năm, cha xứ giải tội
và tập nghi thức cho các đôi bạn trẻ sẽ cử hành hôn lễ vào sáng
thứ bảy. Lần kia, có đôi bạn sắp cử hành bí tích Hôn Phối, họ đã
xin cha xứ cho họ xưng tội và tập nghi thức vào chiều thứ sáu, lý
do, công ty chỉ cho phép họ nghỉ từ trưa thứ sáu. Cha xứ đồng ý và
dăn họ 16 giờ đến nhà thờ. Cha xứ chờ mãi đến 17 giờ 20 họ mới đến,
vì sát giờ lễ nên ngài nói họ ở lại dự lễ, sau lễ, khoảng 18 giờ,
ngài sẽ giải tội và tâp nghi thức cho. Lễ xong, gần 30 phút sau, đôi
bạn trẻ mới đến. Cha xứ trách nhẹ nhàng:
- Các con
đi đâu, giờ mới đến?
Cặp hôn nhân
cười cười trả lời:
- Thưa cha,
chúng con đi thử mấy cái áo cưới và tìm thợ chụp hình.
Thế đấy,
đi thử áo cưới và tìm thợ chụp hình quan trọng hơn việc chuẩn bị
xưng tội và lãnh bí tích Hôn Phối! Trong giáo xứ, trong mỗi gia đình
và mỗi người cũng thế, khi mừng bổn mạng của giáo xứ, giáo họ hay
các hội đoàn, người đi tham dự tiệc mừng nhiều hơn người đi dự tĩnh
tâm và tham dự thánh lễ. Xin lễ “đưa chân” cho người thân mới qua đời,
nhưng nhiều khi con cháu của họ không tham dự thánh lễ, có lễ vì bận
sắp xếp nhiều việc ở nhà! Ai đó dự bữa tiệc vài giờ đồng hồ vẫn
thấy là bình thường, nhưng dự thánh lễ một giờ thì cảm thấy mệt
mỏi vì quá dài, hoặc lại không dành được dăm ba phút để nhớ đến
Chúa mỗi ngày.
THỨ
TƯ - CHÚA GIÊSU DẠY LỜI CẦU NGUYỆN
Lời Chúa: Lc
11, 1-4
Ngày kia,
Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ thưa
Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy môn đệ
ông."
Người nói với
các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: "Lạy Cha, nguyện danh Cha
cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày.
Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để
chúng con sa chước cám dỗ."
TRUYỆN KỂ
1. Cần cầu nguyện
Khi tương
quan giữa Mỹ và Irak căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan
đã tới Bagdad để thuyết phục phía Irak ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về,
ông nói: “Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều. Ðừng bao giờ đánh thấp sức mạnh của
sự cầu nguyện.”
2. Lạy Cha chúng con...
Có một Giám
mục trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm một bà lão. Người ta nói bà là tấm
gương cho cả làng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám mục hỏi:
- Bà thường
đọc sách đạo đức nào nhất?
- Thưa Đức
Cha, con không biết đọc – bà cụ trả lời. Nghe thế vị Giám mục hỏi: “Nhưng bà
hay cầu nguyện cơ mà”? Thấy vị Giám mục muốn biết bí quyết của mình, bà thật
thà thưa:
- Thưa Đức
Cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng và kinh Tin
kính. Mỗi ngày con khởi sự đọc tới 10 lần, nhưng thường thì con không đọc xong.
- Tại sao thế?
– Bà cụ thưa: “Tại vì khi bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con... con không hiểu tại
sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như con được gọi
Ngài là Cha. Điều đó làm con bật khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp hết chuỗi
được." Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám mục khuyến khích:
- À, này bà
cụ, đó là lời cầu nguyện giá trị bằng tất cả những lời cầu nguyện của chúng
tôi. Bà cứ tiếp tục cầu nguyện theo câu đó nhé!
3. Chúa là cha
Một cậu bé bệnh
nặng sắp chết. Cha cậu bé hỏi:
- Con sợ chết
không con?
- Thưa ba,
không, nếu như Thiên Chúa cũng giống như ba, cậu đáp.
4. Tình Cha
2 Sam 18,33:
Thái tử Absalom nổi loạn định lật đổ cha là Đavít. Nhưng quân đội của Đavít đã
phản công và giết chết Absalom. Khi một người lính từ chiến trường trở về vui mừng
báo tin cái chết của kẻ phản loạn, Đavít đã xé áo mình ra và kêu lên thảm thiết
“Absalom con ơi, Absalom con ơi. Phải chi cha được chết thay cho con!”
5. Sức thuyết phục của Tình Cha
“Người con
gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề biết
đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình cờ
tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời kinh ấy
và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng tôi
có thể tin Ngài được." Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người
con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình
anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó
thác, với anh em trong tình bác ái”
6. Cầu nguyện và làm việc
Một bác chèo
đò chở một thanh niên trên chiếc thuyền của mình. Chiếc thuyền có hai mái chèo.
Trên một mái chèo có chữ “cầu nguyện”, trên mái chèo kia có chữ “làm việc."
Chàng thanh niên nói với giọng châm biếm:
- Nếu đã làm
việc thì cần gì phải cầu nguyện nữa.
Bác lái đò
chẳng nói gì, buông tay không chèo mái “cầu nguyện” nữa, chỉ chèo bằng mái chèo
“làm việc." Chiếc thuyền cứ quay vòng vòng chẳng tiến được chút nào cả.
Khi ấy chàng thanh niên hiểu rằng ngoài mái chèo “làm việc” còn cần thêm mái
chèo “cầu nguyện” nữa thì thuyền đời mới tiến được.
7. Kinh lạy Cha và đời sống con người
Một lần kia
cùng dự Thánh lễ với một nhóm sinh viên, tôi cầm lòng cầm trí đọc chung Kinh Lạy
Cha với họ, và bỗng cảm thấy những điều Chúa Giêsu bảo tôi xin chứa đựng rất
nhiều ý nghĩa:
- Lạy Cha
chúng con…: tất cả chúng tôi đang ở đây đều có một người Cha chung.
- Nguyện
danh Cha cả sáng, nước Cha trị đền, ý Cha thể hiện…: nhưng chỉ có một nhóm nhỏ
này được biết Cha, còn biết bao nhiêu sinh viên học sinh khác nữa…
- Xin Cha
cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: tôi nghĩ đến những bạn chung quanh.
Họ ăn cơm tháng, mỗi tháng chỉ hơn 100 ngàn, đồ ăn rất đạm bạc, buổi sáng thường
nhịn đói.
- Và tha nợ
chúng con: họ là những người trẻ, nhiều sai sót lỗi lầm, nhiều tội..
- Xin cớ để
chúng con sa chước cám dỗ: có biết bao cám dỗ vây quanh họ, trong trường học,
ngoài xã hội, ở chợ đời…
8. Nhà và mái che
Một thanh
niên Scotland làm mướn cho gia đình khá giả, nhưng hai tuần sau, anh xin nghỉ.
Một người bạn hỏi:
- Có phải
công việc quá nặng không?
- Không.
- Hay lương
thấp?
- Không,
lương cao.
- Có lẽ thức
ăn không hợp với anh?
- Thức ăn rất
ngon.
- Thế sao
anh nghỉ việc?
- Tại vì
"Nhà đó không có mái che."
Ở Scotland,
thành ngữ đó ám chỉ không có sự cầu nguyện trong gia đình.
9. Đức tin cần biết
Một nhà truyền
giáo đến kiểm tra trình độ giáo lý một bà già 73 tuổi để bà được nhập đạo
- Đức Kitô
là ai?
- Là người
đã chết cho con.
- Người chết
thế nào?
- Con không
biết.
- Ai là môn
đệ đức Kitô?
- Con không
nhớ. Con không biết chữ.
- Bà có biết
một cuốn sách Thánh Kinh nào không?
- Thưa
không. Với người mù chữ...
Đức Kitô sống
ở nước nào ?
Bà không trả
lời được.
Nhà truyền
giáo dừng lại. Bà già tỏ vẻ đau khổ vô cùng.
Người hướng
dẫn cho bà nói: "Bà này là người rất vững tin luôn có mặt trong các buổi
phụng vụ, dù ở cách xa đó 3 dặm. Bà luôn sẵn lòng cho đi những gì có thể. Trước
đây tính khí thất thường, nhưng từ ngày học đạo, bà trở nên hiền hoà và rộng lượng.
Mọi người đều thấy thế." Nhà truyền giáo nhìn người đàn bà 73 tuổi. Bà chẳng
còn sống bao lâu nữa, một năm cũng khó. Và ngài quyết định tiếp tục:
- Thiên Chúa
là ai ?
- Thiên Chúa
là Cha trên trời.
- Thiên Chúa
ở đâu?
- Con ở đâu,
Ngài ở đó.
- Bà có hay
thưa chuyện với Ngài?
- Rất thường.
Làm việc ngoài đồng hay làm bữa trong nhà lúc vui cũng như lúc buồn, con đều
thân thưa với Chúa. Lúc có nhiều chuyện, con nói lâu. Khi có ít, con nói vắn
hơn. Có gì trong lòng, con đều trình bày với Ngài hết. Và lòng con thấy rộng mở.
10. Nước Cha trị đến
Trong cuốn
“Những suy tư về an bình tâm trí”, Maurice Nassan kể lại viên thị trưởng trước
kia của New York là Fiorello La Guardia đôi khi đã chủ tọa phiên tòa như thế
nào. Một lần nào, trong những năm khủng hoảng, một người thất nghiệp bị đưa ra
tòa vì tội ăn cắp bánh mì cho gia đình. La Guardia nói: “Thưa ông, rất tiếc là
pháp luật không loại trừ ai. Tôi phạt ông 10 đô la.” Rồi La Guardia mở ví, đưa
cho người đàn ông 10 đô la, giảm phạt cho ông, nhưng là phạt mỗi người trong
phòng xử án 50 xu vì sống trong một thành phố mà người ta phải ăn cắp bánh mì để
nuôi gia đình. Người đàn ông xúc động rời khỏi phòng xử án với 47,50 đô la
trong túi.
Tôi có năng
động để bảo vệ những người túng thiếu không?
Khi cho người
nghèo là bạn cho Thiên Chúa vay (Cn 19, 17)
11. Gọi Thiên Chúa là Cha
Một linh mục
hỏi một nữ tu 40 năm phục vụ người cùi tại sao giữa bao công việc vất vả nặng nề
mà chị vẫn luôn vui vẻ tươi cười, chị trả lời rằng: “Sau 25 năm sống đời tu
trì, con mới bất ngờ khám phá ra rằng Thiên Chúa thật sự yêu thương con. Kinh
nghiệm đó đã thay đổi tất cả cuộc đời con… Nếu cha biết con trước đây, cha sẽ thấy
con khác xưa biết chừng nào!”
Khi dạy
chúng ta cầu nguyện, Chúa Giê-su muốn chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha.” Ngài muốn
chúng ta nhận ra Thiên Chúa thật sự yêu ta; từ đó, lời cầu nguyện cũng như toàn
bộ cuộc sống giữa ta với Chúa và tha nhân phải được xây dựng trên mối tương
quan Cha-con này.
12. Xin cho chúng con lương thực hằng ngày
Bà
Heidemarie (Hai-đi-me-ri) 69 tuổi, được mệnh danh là “người sống không cần tiền”
vì từ 15 năm nay bà đã cho đi tất cả số tài sản đủ để bà có một cuộc sống sung
túc ở miền đông bắc nước Đức; ngay cả tiền bản quyền cuốn sách bà viết ra, bà tặng
tất cả cho người nghèo. Bà nói: “Tôi sống trong nhà của người khác, giúp họ làm
việc nhà, đổi lại, họ cho tôi đồ ăn và chỗ ngủ” (Tuổi Trẻ ngày 18/09/2011).
Với những
người lòng tham không đáy “được voi đòi tiên” chỉ muốn chiếm hữu và hưởng thụ với
bất cứ giá nào, kể cả bằng những phương tiện bất chính, thì việc làm của bà
Heidemarie bị coi là khùng điên; nhưng phải chăng bà đang minh hoạ bằng chính
cuộc sống mình lời kinh Chúa dạy chúng ta sống tín thác vào Thiên Chúa là Cha:
“Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”?
THỨ
NĂM - HIỆU LỰC CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
Lời Chúa: Lc
11, 5-13
Khi ấy, Chúa
Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn, giữa
đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc
bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi
anh ấy." Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy
tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi
dậy lấy bánh cho anh được." Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì
tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy
rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và Thầy
bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở
cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người
cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá
lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp
ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt,
phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người."
TRUYỆN KỂ
1. Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện
Một tác giả
kể lại câu truyện như sau: Một hôm ông theo đoàn đánh cá ra khơi, trời thật đẹp,
nhưng đến trưa, gió thổi mạnh và cơn bão rất lớn ập tới. Ðoàn người chống chọi
quyết liệt nhưng vô ích, nước đã tràn vào đầy tàu. Lúc ấy, viên thuyền trưởng
ra lệnh: "Các bạn hãy cầu nguyện." Người phụ tá bảo: "Sao lại cầu
nguyện? Mây che kín cả bầu trời rồi, Chúa chẳng nghe thấy đâu." Nhưng viên
thuyền trưởng dứt khoát: "Chúng ta cứ cầu nguyện."
Tất cả đều sốt
sắng cầu nguyện, bỗng từ đám mây đen nghịt ấy lóe ra một tia sáng xanh trong vắt.
Viên thuyền trưởng la lên: "Cửa trời đã mở, Chúa đã nghe lời của chúng ta,
và tia sáng đó là ánh mắt nhân từ Ngài nhìn xuống chúng ta. Hãy tiếp tục cầu
nguyện." Và rồi sau đó, sóng gió im lặng và trời càng sáng rõ, các thủy thủ
tạ ơn Chúa và đã cập bến an toàn.
2. Vững tin vào tình yêu của Cha
Một người
giàu có Millwankee có một đứa con trai duy nhất mười hai tuổi. Thường ông cho
con mọi cái nó muốn. Có một điều người con ao ước hơn hết, là có một người anh
em cùng lứa tuổi để chia sẻ, để cùng chơi. Người cha quyết định nuôi một bé
trai nghèo nhỏ hơn con trai ông sáu tháng. Cả hai đứa trẻ đều sung sướng. Đứa
con trai có bạn, đứa con nuôi có những món đồ chơi mà nó chưa bao giờ biết đến.
Một bữa nọ,
hai đứa trẻ đang thảy banh qua lại trong sân. Đứa con nuôi ngỏ ý: “Gee, em ước
mong Kenny có một trái banh như thế này. Nó thích đá banh lắm, nhưng cha mẹ nó
không thể mua cho nó một trái banh như thế này” và em tiếp tục nói về Kenny, một
người bạn lối xóm cũ. Người con ruột nói: “Sao em không xin ba cho nó một trái
banh?" Người con nuôi trả lời: “Ba đã quá tốt với em rồi, em không dám làm
phiền người nữa." Nhưng người con ruột nài nỉ: “Em đừng quên ba anh là ba
em. Người cho anh mọi cái anh xin. Người cũng làm cho em như vậy. Nếu người cho
rằng cái đó không tốt cho em, người sẽ nói, nhiều khi người cho em những cái tốt
hơn nữa. Hãy xin đi, Kenny sẽ có trái banh”
3. Sức mạnh của lòng tốt
Một ngày nọ,
thánh Clément Hofbauer vào một quán ăn để xin tiền giúp trẻ mồ côi. Thấy vậy,
có một người chửi bới và nhổ vào mặt ngài. Ngài lặng lẽ lau mặt và nói: “Đấy là
phần ông cho tôi, còn phần cho các em cô nhi đâu”? Cảm phục trước sự kiên trì của
thánh nhân, ông xin lỗi và dốc hết túi tiền tặng ngài.
Thiên Chúa
không bao giờ mệt mỏi vì bị con cái quấy rầy bằng những lời van xin khẩn nguyện.
Bởi vì, Ngài là Thiên Chúa yêu thương nhân từ. Thiên Chúa biết chúng ta cần gì
là tốt cho chúng ta. Ngài luôn sẵn sàng ban những ơn cần thiết để nâng đỡ và
giúp chúng ta vượt thắng cám dỗ. Vì vậy, chúng ta hãy chạy đến với Ngài, kiên
trì cầu nguyện để xin Ngài cứu giúp. Nhờ đó, chúng ta có những ân sủng cần thiết
để đi trọn hành trình theo Chúa và gắn bó mật thiết hơn với Ngài.
4. Một em bé cầu nguyện.
Một đứa bé nọ
có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải vào nhà
thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi cho thuốc
mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em bé đã xin
quì gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành bệnh."
Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu..
Hôm sau thức
dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?” Bác sĩ
nhìn em bé cảm động nói “Cháu hãy để cho Chúa liệu.... Điều bác tin chắc là lời
cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm: cháu đã cứu được một người là chính bác. Từ
lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi cháu cầu
nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ xưng tội,
rước lễ...”
5. Kiên trì cầu nguyện
Nhà văn Nga
Maxime Gorki đã thuật lại một câu chuyện rất đẹp để dạy con người về việc này:
Thuở ấy, có
một vị sĩ quan cao cấp nhưng rất độc ác tên là Gordien. Ông ta thường tróc nã
và tàn sát những người ngay lành. Người mà Gordien ghét nhất là nhà tu hành
Mirone, một ẩn sĩ đầy bác ái, làm việc thiện mà không bao giờ sợ hãi và luôn cầu
nguyện.
Vị tướng
Gordien gọi tên đầy tớ trung thành của ông là Yvan Le Guerrier, sai anh này đi
sát hại nhà ẩn sĩ Mirone, chặt đầu vị ẩn sĩ đem về cho chó của vị tướng đánh
chén.
Yvan đến gặp
nhà ẩn sĩ, rút gươm ra khỏi bao da và chùi thanh gươm vào áo choàng của mình.
- Hỡi đạo sĩ
Mirone, tôi đến đây để giết ông. Thế nhưng, trước khi lưỡi gươm của tôi chạm
vào ông, tôi cho ông cầu nguyện với Thiên Chúa lần chót. Ông hãy cầu cho ông, cầu
cho tôi, cầu cho cả nhân loại. Sau đó tôi sẽ chặt đầu ông!
Nhà tu hành
Mirone liền quỳ xuống trước một gốc cây sồi và mỉm cười nói với Yvan:
- Yvan, anh
sẽ phải đợi lâu lắm đó, vì lời cầu nguyện cho nhân loại sẽ rất dài. Hay hơn cả,
là anh hãy giết tôi ngay bây giờ đi, để khỏi phải chờ lâu vô ích.
Nghe vậy,
Yvan chau mày và đáp:
- Không được,
tôi đã nói gì là không được rút lời lại. Tôi đợi cho đạo sĩ cầu nguyện xong cho
dù có lâu một thế kỷ cũng được!
Nhà ẩn sĩ cầu
nguyện cho đến chiều tà. Rồi từ chiều tà cho đến bình minh hôm sau. Người tiếp
tục cầu xin, rồi từ bình minh đến hoàng hôn ông vẫn say sưa cầu khẩn. Rồi mùa
hè qua đến mãi mùa xuân, lời cầu của ông không hề ngưng một phút. Rồi mùa này đến
mùa nọ, năm này đến năm khác, Mirone vẫn cầu xin. Cây sồi mọc lên cao gần tới
chân mây. Một khu rừng rậm mọc lên từ những hạt sồi rụng xuống. Nhưng lời cầu
xin của nhà tu sĩ vẫn chưa ngừng. Cho đến ngày hôm nay, vị ẩn sĩ vẫn mấp máy những
lời xin cứu độ, xin Thiên Chúa thương xót nhân loại, xin Đức Nữ Đồng Trinh cứu
giúp loài người.
Thời gian
trôi qua, Yvan vẫn đứng nguyên bên cạnh nhà ẩn sĩ. Thanh gươm của y đã rỉ sét hết
và sắp tan thành cát bụi. Áo mũ của y rơi từng mảnh. Xuân qua đông lại, Yvan vẫn
đứng đó. Các bầy chó sói và gấu đi ngang qua cũng chẳng thèm nhìn đến anh.
Vâng, phải xin, phải tìm, phải gõ cửa.
Xin một cách kiên trì, tìm một cách kiên trì, gõ cửa cũng phải kiên trì.
6. Hãy đẩy
Có câu chuyện
kể về chàng trai nọ được Chúa yêu cầu đẩy (tiếng Anh: push) một tảng đá. Anh ta
‘push’ nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm.
Tảng đá
không nhúc nhích, vì nặng quá. Cuối cùng, anh trách Chúa: “Sao con ‘push’ hoài
mà không được, thật vô ích!” Chúa trả lời: “Ta chỉ yêu cầu con ‘push’ thôi mà.
Và con đã ‘push’ thật tốt đó chứ. Còn tảng đá nhúc nhích hay không là việc của
Ta. Không vô ích đâu con ạ. Nhờ ‘push’ tảng đá hằng ngày mà thân thể con trở
nên mạnh hơn trước nhiều đấy; cơ bắp con khoẻ hơn, xương cốt con rắn chắc hơn.
Vậy mà không tốt sao?”
Sứ điệp của
câu chuyện là: chúng ta hãy PUSH luôn luôn, hãy cầu nguyện cho đến khi điều gì
đó xảy ra (PUSH: Pray Until Something Happens!) Trong Tin Mừng hôm nay, Đức
Giêsu năn nỉ chúng ta cầu nguyện bền bỉ như vậy.
7. Ai xin thì sẽ được
... Ông
Giuseppe Zaccari làm nghề gác-dan một tòa nhà nơi khu chung cư. Người trong khu
phố không ai là không biết ông. Họ âu yếm gọi ông bằng tên Peppe. Lý do là vì
ngoài công việc canh gác tòa nhà ông luôn luôn sẵn sàng ra tay giúp đỡ bất cứ
ai cần đến. Ông rất tháo vát và khéo léo trong các công tác sửa chữa những vật
dụng bị hư hỏng. Ông giúp mà không bao giờ đòi hỏi thù lao. Biết bao nhiêu gia
đình không khá giả đã hưởng nhờ bàn tay ông cứu giúp khi có bất trắc nào đó xảy
ra trong nhà. Đôi khi các sửa chữa đầy khó khăn và nguy hiểm đến tính mạng.
Nhưng ông Peppe không bao giờ từ chối khi ông có thể làm được.
Một ngày
trong tháng 9 năm 2009, một gia đình trong tòa nhà có cánh cửa sổ bị hư không mở
được. Họ nhờ ông Peppe đến xem và sửa dùm. Ông vui vẻ nhận lời. Nhưng trong lúc
loay hoay sửa thì ông bị ngã từ nơi cửa sổ ở lầu thứ hai. Ông bị hôn mê. Bác sĩ
cho vợ của ông biết là ông bị gãy xương chậu và có nhiều nơi trong cơ thể bị hư
hại. Trong vòng một tháng, mạng sống ông Peppe như treo lơ lửng trên một sợi chỉ.
Khi nghe tin
ông Peppe gặp tai nạn và đang trong tình trạng thập tử nhất sinh, tôi tức tốc
dâng lời khẩn cầu lên THIÊN CHÚA. Đặc biệt tôi van xin thánh Luigi Orione
(1873-1940) cầu bầu cùng THIÊN CHÚA cho ông Peppe thoát chết. Bởi vì đối với
tôi, cứ mỗi lần gặp gian nan khốn khố, tôi thường kêu cầu thánh Luigi Orione cứu
giúp. Và tôi luôn luôn được thánh nhân đáp lời. Bây giờ thì tôi hướng lời cầu
cho ông Peppe, vị ân nhân của chúng tôi đang gặp khốn khó.
Tôi quyết định
đến Viện Dưỡng Lão Piccolo Cottolengo di Don Orione ở Monteverde tại thủ đô
Roma để xin Cha Giancarlo - Giám Đốc Trung Tâm - một di tích của thánh Luigi
Orione và mang đến cho ông Peppe. Nhưng không may là Cha Giancarlo đi vắng. Tôi
trở lại Viện Dưỡng Lão ngày hôm sau để xem có ai giúp được việc tìm ra một di
tích của thánh Luigi Orione không. Nhưng cũng vô hiệu. Thấy thế, tôi liền gởi
cho ông Peppe di tích thánh Luigi Orione mà tôi luôn luôn mang theo trong mình
từ 5 năm qua. Tôi để di tích thánh trong ví-tay hoặc trong va-li mỗi khi tôi ra
khỏi nhà hay phải di chuyển đến nơi nào đó. Tôi rất quí trọng di tích thánh và
hơi tiếc-tiếc khi phải nhường di tích thánh này cho ông Peppe. Tôi chỉ hơi tiếc-tiếc
thôi nhưng vẫn vui lòng trao di tích thánh cho ông Peppe cùng với tha thiết
nguyện xin thánh Luigi Orione ra tay cứu giúp ông Peppe tai qua nạn khỏi.
Một thời
gian sau đó tôi gặp bà vợ của ông Peppe. Bà cho biết là ông Peppe khá hơn. Bà
âu yếm ôm hôn tôi và nói:
- Ông Peppe
khá hơn nhờ di tích của thánh Luigi Orione. Tôi cẩn thận đặt di tích thánh nơi
người ông. Tôi cũng tha thiết đọc không biết bao lời kinh dâng lên thánh Luigi
Orione!
Bà cám ơn
tôi và vô cùng sung sướng vì bỗng nhiên tình trạng sức khoẻ của ông Peppe xoay
chiều và khá hơn.
Từ đó có thể
nói rằng ông Peppe đã thoát hiểm nguy. Ông tiếp tục các cuộc chữa trị cho đến
ngày 25-3-2010 thì ông rời nhà thương trở về nhà. Ông có thể tự mình đi đứng
bình thường và khi tình trạng sức khoẻ ổn định ông có thể trở lại với công việc
như trước. Thật là tin vui rất lớn.
Đối với tôi,
tôi tin tưởng vững chắc rằng việc ông Peppe thoát chết và trở về với đời sống
thường nhật quả là ơn lành THIÊN CHÚA ban nhờ lời chuyển cầu của thánh Luigi
Orione. Muôn vàn cảm tạ hồng ân THIÊN CHÚA và tri ân Thánh Luigi Orione.
Chứng từ của
bà Sabrina Conti tín hữu Công Giáo Ý.
... Khi ấy Đức
Chúa GIÊSU nói với các môn đệ rằng: ”Ai trong anh em có một người bạn, và nửa
đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ”Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có
anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả”; mà người
kia từ trong nhà đáp lại: ”Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu
lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được!” Thầy nói
cho anh em biết: Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng
sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ đứng lì ra đó ..
Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa
thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở
cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy
rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những
kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi CHA trên Trời
lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11,5-13).
(”Don Orione
oggi”, Rivista mensile della Piccola Opera della Divina Provvidenza, Anno CV,
n.10, Novembre 2010, trang 12)
Sr. Jean
Berchmans Minh Nguyệt
8. Lời nguyện của Mẹ Teresa Calcutta
Lạy Chúa,
Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến
mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã
khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau
khổ của Thập Giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải
gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống
Chúa hơn.
Xin dạy
chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ
chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ
nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm
vui ngày Chúa Phục Sinh. Amen. (Mẹ Têrêsa Calcutta).
THỨ SÁU - QUYỀN
NĂNG CỦA CHÚA
Lời Chúa: Lc
11, 15-26
Khi ấy, (lúc
Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân chúng nói rằng: "Ông ta nhờ
tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ." Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người
một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người
biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ
sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao
đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ
Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con
cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ
quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
"Khi có
người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được
an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí
giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với
Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.
"Khi thần
ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ
ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta sẽ trở lại nhà ta, nơi ta
đã ra đi." Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được quét sạch và sắp đặt ngăn nắp.
Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và
tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại hơn trước."
TRUYỆN KỂ
1. Không được vu khống
Có một thời
người ta đổ xô đi mua cuốn sách: “Cơn cám dỗ cuối cùng” của tác giả Nikos
Kazantzakis, và trong những năm gần đây, đạo diễn Martin Scoresse đã hiện thực
hóa trong bộ phim cùng tên. Khi phim được trình chiếu, nhiều người đã tỏ ra bức
xúc vì những lời lẽ và hành động được tác giả gán cho Đức Giêsu xem ra có vẻ tầm
thường và đôi khi không được tốt đẹp cho lắm!
Đó là câu
chuyện thời nay, còn thời xưa, những người Pharisêu đã không ngần ngại gán cho
Đức Giêsu rằng: Ngài đã nhờ Tướng Quỉ để mà trừ quỉ. Đây là một sự xúc phạm nặng
nề đến bản tính của Thiên Chúa.
2. Con ốc neo
Vào tháng 2
năm 2014, cầu treo Chu Va 6 bị lật khiến 8 người thiệt mạng và hơn 20 người bị
thương nặng. Các chuyên gia cho rằng, lỗi kỹ thuật không nằm ở trụ cầu hay cáp
treo mà ở một con ốc neo. Một sai lầm nhỏ cũng đủ làm lật cây cầu treo dài hơn
50 mét. Cũng thế, chỉ một sự chia rẽ nhỏ trong tập thể cũng có thể đem lại hậu
quả khôn lường. Vì thế, hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta giá trị cần thiết của
sự đoàn kết: ”Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia”;
ngược lại, đoàn kết làm cho một tập thể thêm huynh đệ, yêu thương, tha thứ.
Đức Giáo
hoàng Phanxicô cũng mạnh mẽ lên án việc chia rẻ bên trong các cộng đoàn. Ngài
phê phán bệnh xầm xì nói xấu nhau. Căn bệnh này có thể phá hủy tình thân hữu
trong bất kỳ cộng đoàn nào. Đó là thứ tội lỗi xấu xa, phát xuất từ lòng ghen tị,
thù hận, và là hoạt động trực tiếp của ma quỷ, nhằm phá hoại sự hiệp nhất của cộng
đoàn.
3. Phải biết chọn lựa.
Ngày kia,
trong khi đến rao giảng cho các tù nhân tại trại tù nọ, cha Gioan nhìn thấy
trong số cử tọa một người với gương mặt có vẻ quen quen.
Sau khi kết
thúc bài giảng, cha liền tìm đến gặp người đó tại xà lim nơi giam giữ anh ta. Gặp
lại người quen của mình từ nhỏ, người tù nhân đó nói:
- Thưa linh
mục, tôi còn nhớ rất rõ về ông. Cả hai chúng ta đều lớn lên ở cùng một khu phố,
chúng ta cùng đi học với nhau tại một ngôi trường; ngồi cùng một bàn bên cạnh
nhau; và tôi cũng có những triển vọng tươi sáng giống như ông. Nhưng đến khi lớn
lên, ông chọn lựa con đường làm linh mục, phục vụ Thiên Chúa. Còn tôi, tôi lại
khước từ việc đến với Đức Kitô, và đã chọn đi theo thế gian và tội lỗi. Hiện
nay, ông là một người rao giảng Tin Mừng, có cuộc sống hạnh phúc và được mọi
người kính trọng, trong khi tôi lại là một con người tồi tệ, bị gạt ra ngoài lề
xã hội. Tôi đã sống trong trại tù này từ 10 năm nay, và tôi sẽ còn phải sống ở
đây cho đến mãn đời!
4. So sánh với thập giá
Người hạnh
phúc nhất mà tôi từng được biết, đó là một người Ái nhĩ Lan tên Dundee. Ông bị
té gãy lưng từ năm 15 tuổi, sau đó phải nằm trên giường bệnh rất đau đớn trong
suốt 40 năm. Nhưng lúc nào ông cũng tươi cười. Tôi hỏi:
- Có khi nào
ông bị quỷ cám dỗ không, chẳng hạn nó nói với ông rằng nếu Chúa thương ông thì
chẳng để ông phải liệt giường như vậy?
- Có chứ, rất
nhiều lần. Nó thường dẫn trí óc tôi nhìn đến cảnh sung sướng của người khác và
nói với tôi như thế. Nhưng tôi cũng dẫn nó tới đồi Canvê, chỉ cho nó thấy Chúa
Giêsu đang chết trên Thập giá. Và tôi hỏi lại nó “Thế Chúa không thương tôi
sao?" Kết quả là lần nào nó cũng vội vàng rút lui.
5. Ganh tỵ là tự sát
Có một con đại
bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này bay cao hơn nó. Một hôm con đại
bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ đối thủ của nó. Chàng xạ thủ
đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên."
Con đại bàng
nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì
quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh tị lại nhổ thêm một cọng nữa,
rồi một cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi nhẵn. Nó không bay được nữa.
Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy con đại bàng trụi cánh về làm
thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn chỉ tổ hại chính bản thân
mình
6. Dấu hiệu của chiến thắng
Trong lịch sử
của thánh Martino, giám mục thành Tour (Pháp) có chép:
Một hôm, ma
quỉ muốn cám dỗ thánh nhân đi vào con đường trụy lạc. Hắn liền hiện hình một vị
vua oai phong huy hoàng đến với thánh nhân: - Martino hỡi con, cha cám ơn con về
lòng tin của con đối với cha. Con cũng phải biết rằng, cha luôn thành tín đối với
con. Từ nay, con sẽ mãi mãi cảm thấy ở bên cạnh cha, con có thể hoàn toàn tín
nhiệm ở cha.
Thánh nhân
chăm chú nhìn ông vua kia hồi lâu rồi ngài hỏi: - Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?
Tên quỉ đội
lốt vua đáp: - Ta là Giêsu Kitô đây.
Thánh nhân lại
hỏi: - Vậy thì vết thương bị đóng đinh ở chân tay ngài đâu?
Tên quỉ trả
lời: - Ta từ vinh quang trên trời xuống, nơi đó chẳng còn có thương tích nữa.
Thánh nhân
đáp lại ngay: - Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không thương tích. Tôi không thể
tín nhiệm Đức Kitô không qua dấu hiệu Thập Giá.
Thấy mưu đồ
bại lộ, tên quỷ lủi mất.
7. Quỷ trở lại
Ông Leonardo
da Vinci là một danh họa, kể lại câu truyện như sau:
Tôi muốn thực
hiện bức họa Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu, việc khó nhất của tôi là đi tìm một
khuôn mặt nào thật dễ mến, đầy nghị lực, nhất là toát ra sự thánh thiện để làm
mẫu vẽ Chúa Giêsu. Cuối cùng tôi đã tìm được một thanh niên tên là Pietri
Bandielli! Các Tông Đồ của Chúa Giêsu thì rất dễ đối với tôi, tôi cứ tưởng tượng
thế nào thì vẽ như vậy. Trừ có khuôn mặt của Giuđa, tôi chưa tìm được mẫu người
để diễn tả về một kẻ tham tiền, đểu cáng…! Tôi đi khắp nơi: vào các quán rượu,
xuống tận hầm mỏ, và phải mất một thời gian dài, cuối cùng thì tôi cũng gặp được
một người tôi ưng ý ngay. Tôi liền ngỏ lời với anh ta: xin ngồi làm mẫu cho tôi
vẽ…! Đang khi vẽ, tôi chợt cảm thấy anh này tôi đã nhìn ở đâu rồi, trông quen
quen! Tôi liền hỏi anh:
- Này anh,
hình như tôi đã gặp anh ở đâu rồi thì phải.
Người ấy
đáp:
- Ông không
nhớ tôi sao, cách đây khá lâu, chính ông đã nhờ tôi làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu,
tên tôi là Pietri Bandielli. Sau ngày tôi gặp ông, tôi đã sa đà vào con đường
trụy lạc, vì bị bạn bè lôi kéo, giờ tôi sống rất khổ sở…!
8. Ma quỷ trở lại
Một người
kia lui về ở ẩn đã trải qua một cuộc hoán cải. Bà ta nói với vị linh sư: “Con
phải làm gì bây giờ? Về mặt thiêng liêng, con không đủ nghị lực để trở về chốn
cũ và với bạn bè cũ của con. Làm sao có thể lắp đầy chỗ trống này?” Lý luận của
người phụ nữ này thật là đúng đắn. Nếu chúng ta loại một cái gì đó ra khòi cuộc
sống, chúng ta phải thay thế nó bằng một cái gì khác. Nếu không thì trong những
giây phút bị cám dỗ, chúng ta có nguy cơ trở lại đường cũ, thiếu can đảm và rốt
cuộc tệ hơn trước.
Tôi đã bao
giờ kinh nghiệm một cái gì tương tự khi cố gắng theo Chúa, gần gũi Chúa hơn
trong quá trình cầu nguyện chưa? Làm sao tránh khỏi mất can đảm khi gặp thử
thách hoặc sa vào đường cũ?
Ta chỉ thật
sự thất bại khi ta bỏ cuộc.
9. Sợi xích không ai phá nổi!
Thời Trung Cổ,
có một bác thợ rèn rất giỏi. Bác luôn tự hào về những giây xích do bác làm ra:
đó là những sợi xích tuyệt hảo, không ai phá nổi!
Ngày kia,
bác bị bắt đi tù. Người ta xích bác lại bằng một sợi xích sắt. Bác ngồi quan
sát giây xích, tìm cách bẻ gãy để thoát thân. Nhưng bác chợt nhìn thấy dấu hiệu
của mình trên sợi xích, bác thở dài, thất vọng khi biết rằng giây xích nầy là
do bác làm ra, rất tốt, chẳng ai phá nổi!
Các tính xấu
là những sợi xích ràng buộc tôi. Khi nó mới ló ra mà tôi không sửa đổi ngay thì
càng ngày nó càng kiên cố, càng bền chắc, cho đến ngày nó ghìm chặt lấy tôi, nuốt
sống tôi, và làm cho tôi phải chết.
Các tính xấu
giống như bầy chó rất dữ bà hoàng hậu độc ác Giêsaben đã nuôi. Ai cũng sợ bầy
chó này. Nhưng chính bầy chó dữ mà bà hoàng hậu nuôi đã ăn thịt bà. Khi bà chết,
xác bà bị vất ra cánh đồng, và chính bầy chó nầy đến ăn thịt xác bà.
Một nết xấu
không bị trừ khử thì sẽ lớn lên, lớn lên hằng ngày. Nó ăn thịt tôi mà lớn lên
cho đến ngày tôi không còn là tôi nữa mà trở nên hiện thân của thói xấu đó.
"Khi thần
ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ
ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: "Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra
đi." Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn dẹp hẳn hoi. Nó liền đi
kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc tình trạng của
người ấy lại còn tệ hơn trước." (Lc 11,24-26)
THỨ BẢY - ƯU TIÊN
LÀ TUÂN GIỮ LỜI CHÚA
Lời Chúa: Lc
11, 27-28
Khi ấy, Chúa
Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân chúng, có một phụ nữ cất tiếng
nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú!"
Nhưng Người
phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa thì có phúc hơn."
TRUYỆN KỂ
1. Cây tốt sinh trái tốt
Có người hỏi
thi sĩ François Coppée, người Pháp: “Ai làm cho ông nên tốt lành như thế?"
Ông trả lời ngay, không chút do dự: “Đó là mẹ tôi!"
Mẹ Maria khi
được sứ thần loan tin cho biết Mẹ sẽ là Mẹ của Con Đức Chúa Trời, Mẹ xưng mình
là tôi tớ của Đức Chúa Trời và luôn làm theo thánh ý Ngài.
2. Thực hành Lời Chúa dạy.
Có người nô
lệ da đen kia đạo đức và trung thành, do được chủ mến chuộng, mỗi khi cần có
thêm đầy tớ trong nhà, chủ thường dẫn theo người nữ tì da đen này để cô chọn
cho chủ.
Một hôm, cô
đã chọn một ông già có tật. Chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn chẳng
được việc và chẳng đáng giá. Nhưng vì cô nữ tì cứ nài nỉ mãi nên buộc lòng ông
chủ phải mua người nô lệ già này bị bệnh nặng. Cô nữ tì săn sóc ông với tất cả
tình của người con hiếu thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi:
- Bộ ông ấy
là cha mày, sao mày chăm sóc ông ấy kỹ như thế?
Người nữ tì
trả lời:
- Thưa ông,
người kia không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu, trái lại
còn là kẻ thù của cháu nữa. Bởi vì khi cháu con nhỏ, hắn đã bắt cóc cháu khỏi
vòng tay cha mẹ của cháu, bán cháu như một đứa nô lệ. Nhưng vì cháu là người
Công giáo nên cháu luôn thực hành lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy tha thứ thì sẽ
được thứ tha."
3. Đọc với trái tim
Một bà kia rất
thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một
thí dụ để giải thích:
Hôm qua tôi
nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và
đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã
quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi
cũng rất thương người đó
4. Tôi tớ Chúa lắng nghe
Truyện kể rằng,
khi ông Ađam và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ phải dựng lấy nhà để ở
trên mặt đất khô cằn và phải đổ mồ hôi sôi nước mắt làm lụng mới kiếm ra miếng
ăn. Ađam làm rẫy và Evà dệt vải. Mỗi năm họ cho ra chào đời một đứa con.
Năm tháng
trôi qua, lũ trẻ mười bốn đứa lớn dần. Một hôm, chợt nghe tiếng gõ cửa, Ađam mở
then gài cho một cụ già quắc thước bước vào. Với con mắt tinh đời, Evà nhận ra
ngay cụ già đó chính là Đức Chúa. Bà vội vàng mời Chúa ngồi. Bà lấy nước ra mời
Ngài dùng. Ngài cám ơn và hỏi:
- Lũ trẻ có
nhà không?
Ađam vội gọi
các con ra và bảy đứa trẻ tiến đến trước mặt Chúa, lễ phép chào Ngài. Chúa đứng
lên, mỉm cười và nói với chúng: - Ta sẽ ban cho các con mỗi đứa một ơn.
Lũ trẻ quỳ
xuống để Ngài đặt tay trên đầu. Ngài phán bảo với đứa đầu tiên:
- Con sẽ trở
nên một vị hoàng đế đầy quyền thế.
Quay sang đứa
kế bên, Ngài phán: - Con sẽ là công Chúa.
Đứa thứ ba
nghe Ngài truyền: - Con sẽ làm quận công.
Và bốn đứa
còn lại cũng được ban cho làm học giả và nhà buôn giàu có.
Sau khi nghe
những lời chúc phúc tuyệt diệu của Thiên Chúa ban cho con mình, ông Ađam và bà
Evà vội vàng chạy đi tìm những đứa con khác đang làm việc ở bên ngoài. Cả lũ bảy
đứa bé còn lại cũng hớt ha hớt hả chạy về trình diện Chúa. Ngài lại mỉm cười hiền
từ và phán bảo:
- Ta cũng sẽ
ban phúc lành cho chúng con.
Ađam và Evà
tươi cười trông chờ và lắng nghe Lời Chúa.
Thiên Chúa
phán bảo đứa thứ nhất: - Con sẽ trở nên một người giúp việc mẫn cán.
Ngài nói với
đứa thứ hai: - Con sẽ là người nông dân.
Và đến đứa
thứ ba, Ngài cho nó làm bác thợ giày. Những đứa còn lại trở thành thợ rèn, thợ
thuộc da và thợ may.
Vừa nghe dứt
lời chúc lành của Thiên Chúa ban cho những đứa về sau, Evà khóc oà lên:
- Lạy Chúa,
Ngài thật là bất công. Ngài ban phát những lời chúc lành không công bằng chút
nào. Chúng đều là những đứa con do vợ chồng con sinh ra, sao Ngài lại cho chúng
đứa được làm vua làm quan, còn đứa thì lại làm kẻ hầu người hạ.
Thiên Chúa
nghe xong, bèn giải thích rằng:
- Evà, con
chẳng hiểu gì cả. Ta cần phải ban phát mọi ngành nghề cho thế giới này thông qua
con cái của con. Giả sử tất cả bọn chúng đều là vua thì ai sẽ là người nông dân
làm ra lương thực. Giả như tất cả đều làm quan thì ai sẽ làm ra y phục? Mỗi người
phục vụ ở những vị trí và giữ vai trò khác nhau, và trong mắt Ta mọi ngành nghề
đều quan trọng như nhau. Giống như những bộ phận trong cùng một thân thể, chúng
kết hợp lại để hỗ trợ lẫn nhau.
Lúc đó, Evà
mới hiểu ra và thành khẩn xin Chúa tha thứ: - Lạy Chúa, xin tha tội cho con.
Con đã vội vàng cãi lại Ngài. Con cầu xin cho ơn Ngài được thực thi trên con
cái chúng con.
Chúng ta hãy
bắt chước Samuen thuở xưa mà thưa: "Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ Chúa
đã sẵn sàng lắng nghe" (1Sm 3,9). Amen.
5. Mối phúc thứ chín
Tám mối phúc
thật được Chúa gồm tóm vào một mối: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ Lời
Chúa.” Lắng nghe chưa đủ, còn phải thực hành. Không thể thực hành đúng, nếu
không lắng nghe và hiểu cho đúng. Nêu lên “mối phúc thứ chín” này Chúa Giê-su
ngầm tôn vinh Đức Mẹ không chỉ vì đã “cưu mang và cho Ngài bú mớm” mà còn vì Mẹ
nêu gương sống khiêm nhu đón nhận Lời Chúa, suy niệm trong lòng, và thực hành.
Mẹ đúng là người có phúc.
Gia đình bạn,
cá nhân bạn đã dành những thời gian nào để đọc, nghe Lời Chúa? Và đã có những
quyết tâm cụ thể để thực hành Lời Chúa chưa?
6. Thiên Chúa ở ngay bên
Một phụ nữ
thánh thiện bị ma quỷ cám dỗ. Bà luôn cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa dường như
không nghe tiếng bà. Cuối cùng, cơn cám dỗ cũng giảm cường độ. Khi Thiên Chúa
hiện ra, người phụ nữ hỏi: “Lạy Chúa, Ngài ở đâu khi con bị cám dỗ?” Thiên Chúa
trả lời: “Ta ở bên cạnh con.” Khi bị thù địch dầy xéo, dân Israel cảm thấy như
mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, và hỏi: “Lạy Chúa, Chúa ở đâu?” Nhưng ngôn sứ Gioel
trấn an rằng: “Thiên Chúa ở bên các ngươi.”
Lần cuối
cùng tôi cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi là khi nào? Tại sao?
Đừng sợ hãi:
có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi Ta cho ngươi vững
mạnh và trợ giúp ngươi Ta bảo vệ ngươi và cứu thoát ngươi. (Is 41,10)
7. Bản dịch của mẹ
Có hai chủng
sinh đang thảo luận về bản dịch Kinh thánh. Chris nói: “Tôi thích bản dịch New
American, vì rõ ràng và dễ đọc hơn.” Pat thì nói: “Tôi thích bản dịch Kinh
thánh Giêrusalem, vì có chất thơ và dễ cầu nguyện hơn.” Một vị linh mục nghe thấy
thế liền nói: “Tôi lại thích cách dịch của mẹ tôi hơn. Bà ta dịch nó thành hành
động, khiến nó sống động và dễ hiểu hơn.” Cách phiên dịch của người mẹ, đó là
điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: Ngài muốn nói về cách
phiên dịch “sống động.”
Maurice
Zundel có ý gì khi nói: “Bạn chỉ có thể hiểu Kinh thánh bằng chính con người bạn?”
Điều tôi bắt
đầu bằng việc đọc phải được hoàn tất bằng hành động (Henry David Thoreau).
8. Phúc của mình hay phúc ăn theo?
“Chị Bảy”
Phương Mỹ Chi với giọng hát dân ca ngọt ngào cuốn hút đã trở thành “hiện tượng
gây sốt” của cuộc thi Giọng Hát Việt Nhí trong mùa hè 2013. Đến cả gánh chè của
mẹ “chị Bảy” cũng trở thành nổi tiếng đến độ “chị Bảy” phải lo lắng “sợ mẹ
không đủ chè để bán!” Mối liên hệ gia đình khiến người ta chung chia thân phận
với nhau trong niềm vui cũng như nỗi buồn: “một người làm quan cả họ được nhờ”,
hay một người được vinh danh, cả nhà cũng được “thơm lây."
Trong xã hội
Do thái cũng thế, Chúa Giêsu được thán phục vì lời giảng dạy của Ngài thì Đức
Maria cũng được ca ngợi là người có phúc. Chúa Giêsu cho thấy để được “phúc đức”
và để trở nên người thân trong gia đình Thiên Chúa không hệ tại ở mối liên hệ
huyết thống tự nhiên. Nhưng chỉ những ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa mới đích thực
là anh em bà con với Chúa và mới thật là có phúc.
Đức Ma-ri-a,
là “Đấng đầy ơn phúc” không chỉ vì Mẹ đã “cưu mang và cho Thầy bú mớm,” mà trước
tiên bởi vì Mẹ đã lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa từ lời thưa “xin vâng”
trong ngày truyền tin cho đến thái độ xin vâng khi đứng dưới chân thập giá.
Hằng ngày bạn
vẫn đang tìm kiếm thứ hạnh phúc nào? Bạn có quan tâm tìm kiếm hạnh phúc qua việc
thực thi Lời Chúa không?
9.
Tự hào với tấm lòng của người mẹ
Quan tổng đốc
Hà Nội là Hoàng Diệu có lần gởi một tấm lụa quý về làm quà cho mẹ ở đất Quảng
Nam. Bà mẹ già xứ quê gởi trả lại tấm lụa, kèm theo một cây roi dâu, để nhắc nhở
con mình về sự thanh liêm. Người mẹ này đáng được ca ngợi, do công sinh thành
dưỡng dục khi con còn nhỏ, cũng như do tiếp tục giáo dục con cái cách hữu hiệu
khi con đã trưởng thành.
Chúng ta
liên tưởng đến một người mẹ đáng được ca tụng khác là Đức Maria. Mẹ có phúc
không chỉ do sinh hạ, cho Đức Giêsu bú mớm, nhưng còn do Mẹ nỗ lực “lắng nghe
và tuân giữ Lời Chúa.” Tin Mừng Luca nói với chúng ta rằng Đức Maria luôn “ghi
nhớ và suy niệm trong lòng” những sự kiện xảy ra trong đời mình, để nhận ra ý
Chúa và mau mắn đáp lại bằng tiếng xin vâng.
LỄ
ĐỨC MẸ MÂN CÔI - ĐẦY TỚ VÔ DỤNG
Lời Chúa: Lc
1, 26-38
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy,
Thiên thần Gáp-ri-en được Chúa sai đến một thành xứ Ga-li-lê-a, tên là
Na-gia-rét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc
chi họ Đa-vít, trinh nữ ấy tên là Maria.
Thiên thần
vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng
Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi
lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần
liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh
một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng
Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đa-vít tổ phụ Người. Người sẽ cai
trị đời đời trong nhà Gia-cóp và triều đại Người sẽ vô tận.”
Nhưng Maria
thưa với Thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người
nam?”
Thiên thần
thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà.
Vì thế Đấng Bà sinh ra, sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này,
I-sa-ve chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang
thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà
Chúa không làm được.”
Maria liền
thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và
Thiên thần cáo biệt Bà.”
TRUYỆN
KỂ
1.
Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch sử cho
thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc
tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng
thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã
trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ
nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la
Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này
đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ.
Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân
côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo
phận Âu Châu.
Phong trào đọc
kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội
liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh
Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh
đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại
Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin
ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó
không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính
là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh
của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong
chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để
nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng
là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu,
hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một
hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo,
Hồi giáo.
Với hình thức
đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn
trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
2.
Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch sử cho
thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một
nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm 1571,
trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội
Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được
Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở
để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10,
Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629,
trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra
chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó,
thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được
vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết
lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn
bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến
đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức
Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân
xá.
Năm 1826,
trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon,
đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống.” Cứ 10 nguời thì
thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi
ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa
đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng,
bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền
giáo.
Đầu thế kỷ
XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội
Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi
ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ,
nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần.
Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những
người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt
qua các thử thách.
Nói chung,
khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy
lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã
đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
3.
Lời thưa xin vâng của Thánh giáo hoàng Gioan Phaolô 2
Nếu chương
trình của Chúa cần có Đức Mẹ "xin vâng", thì trong chương trình của Đức
Mẹ cũng cần một người con quảng đại dâng hiến toàn thân cho Đức Mẹ sử dụng. Người
đó chính là Đức Cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II có lòng yêu mến Đức Mẹ nồng nàn. Ngài đã viết Tông huấn
"Kinh Mân Côi" để tôn vinh Đức Mẹ. Ngài là vị Giáo hoàng lần hạt
chung với dân chúng. Ngài đã lập thêm Năm Sự Sáng cho tràng chuỗi Mân Côi.
Nhưng nhất là Ngài dâng hiến toàn thân cho việc phụng sự Đức Mẹ. Khẩu hiệu của
ngài là "Totus Tuus", trích từ câu nói của thánh Louis Grignon de
Monfort:Totus Tuus ego sum et omnia mea Tua sunt (Con là tất cả của Mẹ và mọi sự
của con đều là của Mẹ).
Ngài đã dâng
nước Nga cho Đức Mẹ. Và đáp lại Đức Mẹ đã thực hiện những lời hứa và những bí mật
Fatima trong cuộc đời của ngài. Việc nước Nga được ơn trở lại dưới triều Giáo
hoàng của ngài là bằng chứng rõ rệt nhất về lời hứa Fatima: "Trái Tim Mẹ Sẽ
Thắng.” Theo sau nước Nga là các nước Đông Âu khác. Bản đồ thế giới được vẽ lại.
Tình hình thế giới đổi mới khác hẳn. Quả thật Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp vào lịch
sử thế giới.
Tuy nhiên Đức
Thánh Cha phải chịu đau khổ. Và thị kiến chị Lucia thấy người áo trắng bị ám
sát đã ứng nghiệm trong đời ngài. Ngài bị bắn đúng ngày 13-5-1981. Tay thiện xạ
Ali Agca đứng sát ngài và nhắm bắn trúng chỗ hiểm. Nhưng ngài thoát chết trong
gang tấc. Ngài biết Đức Mẹ đã cứu ngài. Nên ngài đến hành hương Fatima tạ ơn Đức
Mẹ và đặt đầu viên đạn lên triều thiên Đức Mẹ để tôn vinh quyền phép của Đức Mẹ.
Vết thương hành hạ suốt đời đã biến cuộc đời ngài thành cuộc đền tạ Trái Tim Mẹ
không ngưng nghỉ.
3.
Lời Vãn Mân Côi
Lời
"Vãn Mân Côi" cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào
thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một
bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện
đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu
siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời
Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa,
bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này
mà Giáo Hội được gọi là "vườn Rôsa" - vườn của những đóa hoa hồng, vì
nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức
Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến
thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày
7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong
ngày giao chiến.
Một câu chuyện
kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài,
tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt
như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng
hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.
"Đức Bà
như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy" (Kinh cầu Đức Bà)
4.
Ave Maria
Julbell có một
bài hát nổi tiếng khắp thế giới từ thế kỷ này đến thế kỷ khác, và chắc có lẽ
mãi mãi còn đọng lại trong lòng người nghe. Bài hát rất quen thuộc. Đó là bài
Ave Maria.
Điều gì đã
khiến cho nhạc sĩ có được cảm xúc một cách dạt dào để viết lên một bản nhạc tuyệt
vời như vậy?
“Kính mừng
Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng Bà. Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và
Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ.” Chính lời kinh tuyệt vời đó đã làm nên cảm xúc
không phải chỉ một Julbell mà cho biết bao nhạc sĩ trong lịch sử âm nhạc của thế
giới viết nên những bản nhạc tuyệt vời và chính lời kinh đó làm nên ngày lễ Mân
Côi hôm nay. Tại sao vậy?
Trong lịch sử
Giáo Hội vào khoảng thế kỷ 16. Anh em Hồi giáo làm một cuộc chinh phục thế giới.
Bởi vì họ đi từ vùng Trung Đông sang Á châu đến Ấn Độ. Họ đổ bộ lên Âu châu. Đi
đến đâu thắng đến đó. Khi đổ bộ đến Âu châu, đi vào một vịnh của nước Ý. Một
đoàn quân thiện chiến như thế thì quân Ý làm sao mà đối đầu được. Nếu để thua
thì Ý sẽ thất thủ, thủ đô của Hội Thánh Công giáo là Rôma cũng biến mất và cả
Âu châu cũng bị đe dọa.
Đức Giáo
Hoàng Piô V bấy giờ lên tiếng kêu gọi cầu nguyện, và cầu nguyện bằng kinh Kính
Mừng.
Ngày 7/10
năm ấy quân của Công giáo chiến thắng. Chiến thắng không phải nhờ khả năng quân
sự mà là nhờ sự phù trợ của Mẹ Maria. Vì thế Đức Giáo Hoàng đã lấy ngày đó làm
ngày lễ Đức Bà chiến thắng. Sau này thành lễ Mân Côi.
5.
Lợi ích của Kinh Mân Côi
Có một linh
mục kể chuyện: Trong một lần ngài đi máy bay, ngồi cạnh nhà sư, thấy trên tay
nhà sư cầm xâu chuỗi, miệng lâm râm nam-mô-a-di-đà-phật. Linh mục hỏi nhà sư: Tại
sao lần chuỗi vậy? Nhà sư bảo: Chúng tôi lần chuỗi như thế này tâm trí đỡ căng
thẳng. Thế thì bên các ngài không có cái gì giống vậy à?
Linh mục trả
lời: Có chứ, nhưng mà chúng tôi lần chuỗi không phải để cho tâm trí bớt căng thẳng,
mà chúng tôi nhắm cái khác cơ. Nhà sư nói với vị linh mục thế này: Cha ạ, nếu
cha muốn tập trung vào một điều gì, thì trong tay của cha phải có một cái gì,
nhờ đó cha sẽ dễ tập trung hơn.
Vị linh mục
học được một bài học, hóa ra chuỗi Mân côi mình cầm trong tay giúp cho cái trí
của mình tập trung. Khi các bạn lần chuỗi là trong tay cầm xâu chuỗi, nó giúp
cho trí của mình tập trung vào lời kinh, và còn tập trung vào cuộc đời của Chúa
Giêsu mà kinh Mân Côi mô tả từ khi Ngài sinh ra cho đến cuộc sống công khai, đến
khi bị chết trên thánh giá chịu táng trong mồ, sống lại, lên trời, ban Thánh Thần
xuống cho Giáo Hội.
Tất cả cuộc
sống của Chúa Giêsu. Một thứ Tin Mừng thu gọn được tóm lại ở trong chuỗi Mân
Côi, đồng thời khi chúng ta lần chuỗi như vậy tâm của mình tịnh lại. Đối với
người trẻ hôm nay đang sống trong một thời đại tốc độ, mà người đọc như thế thật
mất thì giờ. Tôi đã từng nghĩ như vậy. Nhưng sau này khi tìm hiểu lại lịch sử
linh đạo, tôi mới thấy đó là một phương pháp rất hay cho cuộc sống tâm linh. Những
lời con người vắn tắt được lặp đi lặp lại như thế nó làm cho tâm của mình tĩnh
lại.
6.
Đức Cha Fulton Sheen và kinh Mân Côi
Chuỗi Mân
Côi giúp cho chúng ta chiến thắng cái xấu ở nơi bản thân mình, hoàn thành một
con người mới, con người mới đó sẽ tác động trong cuộc sống, làm cho cuộc sống
được đẹp hơn.
Đức Cha Fulton
Sheen là một diễn giả nổi tiếng ở Mỹ. Ngài chỉ giảng trên đài truyền hình chứ
không giảng ở nhà thờ. Nhiều bạn trẻ xin Ngài chứng hôn cho lễ cưới của mình.
Ngài đồng ý chứng nhận với hai điều kiện, hai bạn đó phải hứa với Ngài mỗi ngày
vợ chồng phải đọc chung với nhau 50 kinh Kính Mừng. Lời kinh nối kết vợ chồng
giúp cho vợ chồng xây dựng cuộc sống gia đình tốt đẹp hơn.
Hình như bây
giờ các bạn trẻ ít lần chuỗi lắm. Hôm nay tôi muốn nói về giá trị của kinh Mân
côi. Chúng ta đừng xem thường, lại càng không nên xem đó là chuyện đạo đức rẻ
tiền. Chúng ta hãy cầu nguyện để khám phá ra giá trị tuyệt vời của kinh Mân
Côi. Nếu chúng ta không đọc được nhiều, tôi xin đề nghị mỗi ngày chỉ đọc 1 kinh
Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng, 1 kinh Sáng Danh. Chúng ta hãy nuôi dưỡng trong tâm
trí mình ý nghĩ: khi tôi đọc kinh Mân Côi, đó là phương cách để tôi đào luyện bản
thân, để tôi chiến thắng chính mình, để tôi sống đời đức tin tốt hơn. Amen.
7.
Mẹ Mân Côi, Mẹ chiến thắng
Lễ Đức Mẹ
Mân Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo
trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo
vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền
tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa
ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng.
Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc
chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng
còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc
cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh
chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh
Mân Côi.
Có một truyện
kể lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn
nào cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u
đầu sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào
làm của chung gọi là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy.
Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta
gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ
Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
8.
Huấn quyền của Giáo hội về kinh Mân Côi
Các Đức Giáo
hoàng đã đề cao vẻ đẹp và lợi ích của kinh Mân Côi và khuyên nhủ giáo dân hãy
siêng năng lần hạt Mân Côi trong gia đình.
Đức Giáo
hoàng Piô XII đã ra 12 thông điệp, 8 văn kiện để nói về lợi ích của kinh Mân
Côi. Cũng chính Ngài đã ấn định tháng 10 dương lịch hằng năm là tháng Mân Côi
và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: “Nữ Vương rất thánh Mân Côi.” Ngài còn nói: “Ước
chi chuỗi Mân Côi luôn ở trong tay mỗi người… Ước chi kinh Mân Côi vang lên
trong khắp các gia đình Kitô hữu để xây dựng gia đình trên nền tảng Phúc âm. Ước
chi kinh Mân Côi xây dựng gia đình yên vui hiệp nhất, củng cố niềm tin, sự yêu
thương và biến nó thành trường giáo dục đời sống Công giáo.”
Đức Giáo
hoàng Piô IX nói: “Ta khuyên các con hãy đọc kinh Mân Côi buổi tối trong các
gia đình.”
Đức Giáo
hoàng Piô X nói: “Nếu chúng ta muốn gia đình bình an hoà thuận thì hãy lần hạt
Mân Côi.”
Đức Giáo
hoàng Piô XI dạy: “Ta khuyến khích các bậc cha mẹ gia đình hãy in sâu vào tâm
trí con cái minh thói quen lần hạt.”
Đức Giáo
hoàng Phaolô VI viết trong Tông huấn gia đình: “Các gia đình Kitô hãy tôn sùng
Đức Mẹ bằng việc lần hạt Mân Côi. Đó là phương tiện đắc lực để nuôi dưỡng hiệp
thông tình yêu thương trong gia đình và phát triển linh đạo hôn nhân gia đình.”
Đức Mẹ đã củng
cố cho lời dạy dỗ của các Đức Giáo hoàng trong những lần hiện ra với thánh Đa
Minh, với thánh Bernadette ở Lộ Đức (Pháp) và đặc biệt với ba đứa trẻ là Lucia,
Giaxinta và Phanxicô ở Fatima (Bồ Đào Nha) với ba mệnh lệnh: “Hoán đời sống –
Siêng năng lần hạt Mân Côi – Tôn sùng Trái tim Đức Mẹ.”
Thánh Piô
Năm Dấu Thánh chia sẻ: "Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân Côi. Đức Mẹ không
từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân Côi. Muốn làm Đức Mẹ vui
lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân Côi.”
Còn cha
Stefano Gobbi viết: "Chuỗi Mân Côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh
Mân Côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân
đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và
thánh ân." Và "Chuỗi Mân Côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này
dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối
tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu"
9.
Kinh Mân Côi và nhà bác học Ampère
Frederic
Ozanam, vị sáng lập Hội Bác Ái Vinh Sơn, người được Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II tôn phong Chân phước tại Paris ngày 22 tháng 8 năm 1997, nhân Đại hội Giới
trẻ thế giới lần XII. Hồi còn là sinh viên, một hôm Ozanam vào nhà thờ Đức Bà ở
Paris, để tham quan mỹ thuật kiến trúc của thánh đường. Ozanam thấy một ông già
tóc bạc quỳ trong nhà thờ, tay cầm tràng hạt, miệng thì thầm. Ozanam đưa mắt
nhìn theo bỗng anh giật mình, vì đó là cụ Ampère, nhà phát minh điện từ trường.
Ozanam không ngờ rằng nhà bác học trứ danh đó lại đạo đức như thế. Gương cụ
Ampère đã thay đổi đời sống của sinh viên Ozanam và như ông thường nói sau này
rằng: “Tràng chuỗi của cụ Ampère đã ảnh hưởng đến đời sống thiêng liêng của tôi
hơn tất cả bài giảng và sách vở.”
10.
Vũ khí của Satan và của Đức Mẹ
Một hôm
Satan đem bày bán những dụng cụ làm việc của hắn. Có rất nhiều món, được dán
nhãn hiệu rõ ràng: nào là giận hờn, ganh ghét, dâm dục, nào là kiêu ngạo, nói dối,
tham lam v.v. Và món nào cũng có ghi giá. Nhưng có một món được để riêng một
bên, không dán nhãn nhưng giá lại cao nhất. Một người hỏi:
- Đó là cái
gì mà cao giá dữ vậy?
- Đó là sự
ngã lòng.
- Tại sao nó
cao giá thế?
- Vì nó hữu
hiệu hơn tất cả những dụng cụ khác: khi tôi không thể dùng những dụng cụ kia để
đến gần người ta thì tôi dùng nó để xâm nhập tận cõi lòng người ta. Một khi tôi
đã đặt nó vào lòng người ta rồi thì tôi có thể xúi người ta làm bất cứ điều gì
tôi muốn. Mà đặt nó vào lòng ta rất dễ, bởi vì ít ai biết dụng cụ đó là của tôi.”
Trong tháng
Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi
là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ
lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho
chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống
gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.
Ước gì mỗi
người trong chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù
lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen.
11.
Ampere và kinh Mân Côi
Trên chuyến
xe lửa từ Paris xuống miền Nam nước Pháp. Hành khách đông nghẹt, ồn ào, kẻ lên
người xuống, hàng hóa ngổn ngang. Chàng sinh viên khoa học đang cố gắng len lỏi
tìm chỗ ngồi.
Bất giác
chàng thấy một cụ già đang ngồi lâm râm lần hạt Mân côi. Chàng liền đến ngồi
bên cụ, thực chất là để xem cụ già lẩm cẩm này làm cái gì, thời buổi văn minh
bây gìờ mà còn ngồi đọc mấy cái kinh nhảm nhí. Chàng mở to tờ báo khoa học có
đăng hình nhà bác học Louis Pasteur, đang nghiên cứu về đề tài bàn luận về vi
trùng học. Anh vội chạy lại vỗ vai cụ, và nói: “Bác có cần sách báo gì để đọc,
cho cháu điạ chỉ, cháu sẵn sàng gửi đến cho bác. Thời nay văn minh rồi, ai còn
tụng niệm như bác nữa.”
Cụ gật đầu,
đọc hết kinh Kính mừng, cụ mở ví ra, rút tấm danh thiếp đưa cho chàng sinh
viên. Chàng cầm tấm danh thiếp và đọc: “Louis Pasteur, Giám đốc Viện Nghiên cứu
vi trùng học quốc tế, Giáo sư chuyên khoa Đại học Hoá học và Sinh vật học.”
Chàng sinh viên bật ngửa... Chàng liền so sánh hình chụp trong tờ báo khoa học,
và hình ông cụ nhà quê đang ngồi lần chuỗi Mân côi, thì giống y chang. Chàng liền
quỳ xuống bên cạnh cụ, xin lỗi, và cúi hôn chuỗi hạt Mân côi mà cụ đang cầm
trong tay. Rồi chàng trở về chỗ ngồi, nét mặt đăm chiêu, suy nghĩ, và hối hận….
Còn cụ già Louis vẫn tiếp tục lần chuỗi Mân côi…
12.
Sức mạnh chữa lành của chuỗi kinh Mân Côi:
Tạp chí
Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ
Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:
Trên chuyến
máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên
Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu
thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị
trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm
cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy
bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ
Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi: - Anh có thường lần chuỗi không?
Anh trả lời:-
Thưa không.
Anh vừa trả
lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói: - Vậy thì
hãy bắt đầu lần chuỗi đi.
Ra khỏi phi
trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại
cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng
như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa.”
Chín tháng
sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ
nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo
các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần,
rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói: - Chị
cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị.Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn
này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm
sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình
tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn
giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng
hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim. Sau này bà kể
lại rằng: - Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng
khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân
yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến
người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại
đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.
Jim suy
nghĩ: phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh
tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng,
hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào
anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người
khác cần đến.”
Cuộc sống của
Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại
rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm
thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như
sau: - Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là
tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.
13.
Đức tin của Fulton Oursler nhờ Mẹ Maria:
Vào một buổi
chiều đông lạnh giá, Fulton Oursler, một người đã mất đức tin và bỏ không đến
nhà thờ nhiều năm, đang trong tâm trạng tuyệt vọng vì gặp nhiều vấn đề khó khăn
nan giải. Khi đi qua đại lộ nhà thờ chính toà của thành phố Nữu Ước, tự nhiên
ông cảm thấy có một sức mạnh vô hình cuốn hút ông vào trong nhà thờ và đến quỳ
trước tượng Đức Mẹ.
Sau một hồi
im lặng, tự nhiên Fulton cầu nguyện như sau: “Lạy Mẹ Ma-ri-a, có thể chỉ một
giây lát nữa thôi là con lại thay đổi ý nghĩ lúc này để tiếp tục bài bác chế diễu
việc đạo đức con đang làm và quay trở lại con đường vô tín của con. Nhưng bây
giờ con cảm thấy tâm hồn thật bình an, dù con đang gặp rất nhiều khó khăn. Xin
Mẹ giúp con thêm đức tin.”
Ngay lúc đó Fulton
cảm thấy một điều gì đó kỳ diệu vừa xảy ra nơi ông và biến ông trở thành một
người mới: Ông đã có đức tin! Từ đó, ông luôn kết hiệp với Mẹ Ma-ri-a để làm chứng
cho Chúa bằng một cuộc sống khiêm nhường, cậy trông phó thác và đầy vị tha bác
ái.
14.
Đức Mẹ dạy lần hạt
Tương truyền
rằng thánh Đaminh đã vất vả chinh phục người ly giáo Albigois ở miền Nam nước
Pháp. Thánh nhân đã hy sinh làm việc lành, như hầu như vô hiệu quả và bè ly
giáo càng ngày càng bành trướng làm hư hoại bao nhiêu linh hồn. Thánh Đaminh chạy
đến nhờ Mẹ, van xin hết lời, thánh nhân được Đức Mẹ ban cho một phương thế hiệu
nghiệm là kinh Mân côi. Và nhờ đó bè lạc giáo đã bị tiêu trừ.
Năm 1571, một
lần vinh thắng nữa là kinh Mân côi giúp
Giáo Hội chiến thắng quân Hồi giáo ở vịnh Lépante, để kỷ niệm chiến thắng này,
Giáo Hội đã lập ra lễ Mân Côi vào ngày 7 tháng 10, vào tháng Mân Côi hàng năm.
Trong hai thế
kỷ 19-20, Đức Mẹ đến với con cái Mẹ nhiều lần. Ở Lộ Đức, Mẹ hiện ra với
Bernadette. Lần nào Mẹ cũng lần hạt với
thánh nữ và nhắn nhủ hãy lần hạt như thế để cầu nguyện cho nhân loại và kẻ có tội.
Chúng ta thấy các tượng Lộ Đức đều đeo
tràng hạt. Năm 1917, vào những lần Mẹ hiện ra ở Fatima, lần nào Mẹ cũng khuyên
lần hạt và Mẹ đã đặt tràng hạt là một trong ba điều kiện để cứu rỗi nhân loại,
để Chúa khỏi phải đoán phạt một cách
công thẳng. Mẹ coi tràng hạt như là một điều kiện để được cứu rỗi. Ở
Fatima cậu bé Phanxicô hỏi "Con có được lên trời không?" Mẹ đáp:
"Có, miễn là phải lần hạt nhiều.”
Ngày
10-12-1925 rồi ngày 15-2-1926, Mẹ muốn các tín hữu xưng tội chịu lễ trong 5 thứ bảy đầu tháng
liên tiếp và suy gẫm lần hạt Mân côi trong 15 phút đồng hồ để đền tạ Trái Tim Mẹ,
thì Mẹ sẽ ban ơn cần thiết cho phần rỗi lúc lâm chung. Đối với Mẹ, tràng hạt trở
nên 1 trong 3 điều kiện để được cứu rỗi, để kẻ có tội ăn năn trở lại, để mưu hạnh
phúc cho mọi người.
15.
Kinh Mân Côi và sự sống tâm hồn
Năm 1601,
chuyện kể rằng, ở Bỉ có hai chàng thanh niên bê bối, tội lỗi. Sau khi đã phạm tội
nặng, một anh ở lại nơi phạm tội, một
anh trở về nhà mình. Vừa về đến nhà đặt mình xuống, vì quá khuy nên rất buồn
ngũ… nhưng anh nhớ lại lời mẹ dạy nên quỳ xuống đọc ba kinh Kính Mừng. Đọc xong
anh gục đầu ngũ thiếp đi ngay dưới đất. Lúc ấy có tiếng gõ cửa. Đẩy cửa vào là
một chàng thanh niên mặt mũi đen thui ghê tởm xấu xa có lửa bốc cháy: “Anh ơi
tôi đã bị luận phạt ngay sau khi anh ra về bằng một tai nạn. Xác tôi còn đang nằm
ngoài đường kia. Chính Đức Maria đã gìn giữ anh vì ba kinh kính mừng.” Chàng
thanh niên này đẫm lệ ăn năn, quỳ gối trước tòa Mẹ và sau này trở thành một tu
sĩ và được phúc tử đạo tại Nhật bản. Còn cái chết của anh tội lỗi kia được một
vị chân phước tên là Ham Suo Huere chứng kiến và kể lại.
Đó là một
trong những muôn ngàn câu chuyện về hiệu lực của Kinh Mân Côi. Kinh Mân Côi đã
từng chứng minh cho sự hiệu lực của mình trong từng gia đình, cho từng dân tộc
và cho cả nhân loại qua các thế kỷ.
16.
Sao em không lần chuỗi
Linh mục thi
sĩ Xuân ly Băng có bài thơ: “Sao em không lần chuỗi”:
Sao
em không lần chuỗi.
Những
lúc trời gió mưa,
Khi
đêm về tăm tối …
Sao
em không lần chuỗi,
Cảm
tạ Mẹ nhân lành,
Ơn
Mẹ như mưa tuôn…
Sao
em không lần chuỗi,
Khi
trái gió trở trời,
Em
mong manh yếu đuối,
Đến
cùng Mẹ em ơi!”
Câu chuyện:
Thầy Patrich Peyton là một chủng sinh đang học ở Đại chủng viện. Chẳng may thầy
bị đau nặng. Các bác sĩ chữa bệnh cho thầy đã bó tay. Thầy chỉ còn chờ chết. Mẹ thầy rất thương thầy nên
bà khấn cùng Chúa: Xin Chúa cho con được chết thay cho con của con.
Quả nhiên Thầy
được khỏi bệnh lạ lùng còn mẹ thầy lại chết đúng như lời bà khấn. Ít năm sau Thầy
được chịu chức linh mục. Thầy cảm tạ Đức Mẹ và hứa sẽ dâng hiến đời mình để
loan truyền sứ điệp Fatima và đã lập ra Hội lần chuỗi Mân côi mỗi ngày: Hội được
nhiều người tham gia lên tới 50 triệu hội viên; Họ đọc kinh Mân côi ở nhà thờ, ở
xưởng thợ, ở gia đình và ở những nơi
khác nữa.
Chúng ta có
lòng kính mến Đức Mẹ và siêng năng lần chuỗi Mân Côi để cầu xin cho Hòa Bình thế
giới và xin cho chúng ta cùng nhiều người tội lỗi được ơn hoán cải trở về cùng
Chúa. Amen.
17.
Thánh Anphongsô và kinh Mân Côi
Thánh
Anphongsô còn cho biết: "nhờ kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội
lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân
Côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh" như câu truyện
"chuỗi hạt Mân Côi với vua Galicia":
Alphonso từ
ngày được tôn lên làm vua nước Galicia, đã tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Nhà vua
đi đâu cũng có các quan văn võ tả hữu theo hầu. Thần dân của vua hầu hết là những
người công giáo ngoan hiền đạo hạnh. Biết thế nên muốn lấy lòng dân, vua luôn tỏ
ra mình là người đạo đức, có lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, để triều đình và thần
dân bắt chước. Cho nên dụng ý nhà vua là làm thế nào cho thần dân biết mình là
người năng lần chuỗi Mân Côi. Vua cho đặt một cỗ tràng hạt thật dài để quấn vào
thắt lưng, mỗi khi vua đi ra ngoài. Dân chúng ai cũng trầm trồ khen ngợi nhà
vua rất ngoan đạo. Cho nên để lấy lòng vua, các quan cũng như thần dân, ai cũng
mang tràng hạt, và cũng bắt chước vua năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Nhưng
than ôi, thực tế phũ phàng thay! Vua chỉ giả hình vậy thôi, chứ chẳng bao giờ
ông đọc kinh cầu nguyện gì cả, chỉ lo ăn chơi trác táng .
Một ngày
kia, vua lâm bệnh nặng, trong một thị kiến vua thấy mình bị đưa đến toà phán
xét. Ma quỷ vây chung quanh tố cáo vua các tội tầy đình, và chúng chực sẵn để đầy
vua xuống hoả ngục. Đang lúc Chúa Giêsu Đấng Thẩm Phán Tối Cao, sắp sửa luận phạt
vua, thì Đức Mẹ xuất hiện biện hộ cho vua. Mẹ nói với Chúa Giêsu: Con hãy thư
thả để Mẹ xem xét lại vụ này.
Đức Mẹ liền
truyền cho các thiên thần đem các tội vua đã phạm khi còn sống để trên một bàn
cân, và cỗ tràng hạt vua luôn luôn đeo bên mình, cùng các kinh Mân Côi đã được
đọc do gương sáng đeo tràng hạt của vua, trên một bàn cân khác. Kết quả là cỗ
tràng hạt nặng hơn các tội vua đã phạm.
Rồi Đức Mẹ
nhìn vua một cách trìu mến và nói: để tưởng thưởng một chút công của con đã
dành cho Mẹ, bằng cách đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ đã xin Con Mẹ cho con được ơn
rất lớn lao là khỏi sa hỏa ngục. Con sẽ được sống thêm mấy năm nữa để làm việc
đền tội. Nhà vua tỉnh lại kêu lên: “Ngợi khen chuỗi hạt Mân Côi của ĐứcTrinh Nữ
Maria ! Nhờ đó trẫm được giải thoát khỏi sa hoả ngục.” Sau khi bình phục, nhà
vua đã sốt sắng truyền bá kinh Mân Côi, và lần chuỗi Mân Côi suốt ngày.
18.
Đức Mẹ che chở
Có một gia
trưởng trẻ, trước đây, anh ta rất ít đi lễ, nếu có đi lễ, anh cũng thường đứng
dưới góc sân nhà thờ. Gần đây, anh ta có dấu hiệu thay đổi, anh thường xuyên đi
lễ và sau lễ còn đứng lại viếng Đức Mẹ rất lâu. Cha ngạc nhiền hỏi sở lấy làm
thăm anh: Gia đình có chuyện gì mà thời gian gần đây thấy anh đi đễ và viếng Đức
Mẹ sốt sắng quá? Anh trả lời: Thưa cha, con đi Tapao và được thấy Đức Mẹ. Từ đó
đến nay, mỗi tháng con đều đi Tapao vào ngày mười ba trong tháng. Ngày nào vợ
chồng con trước khi đi ngủ cũng lần chuỗi. Hôm nào chưa lần chuỗi thì con không
thể ngủ được. Sau khi nghe anh kể, cha sở suy nghĩ: Không biết anh có nhìn thấy
Đức Mẹ thật hay không, nhưng việc anh thay đổi một cách nhanh chóng như thế quả
là một phép lạ Đức Mẹ đã thực hiện trên cuộc đời của anh. Ai cũng ngạc nhiên khi
thấy anh từ một người hờ hững trở thành một người sốt sắng, từ một người dửng
dưng với giáo xứ, nay trở thành một tông đồ nhiệt thành.
Trong lịch sử
Giáo hội đã có biết bao người nhận được ơn biến đổi cũng như những phép lạ từ Đức
Maria qua tràng chuỗi Mân Côi. Kinh Mân côi là lời kinh đơn sơ, bình dân, ai
cũng có thể thuộc và có thể đọc ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, và cũng là lời
kinh đem bao nhiêu ơn Chúa và phép lạ đến cho người tín hữu. Đức Thánh Giáo
hoàng Gioan-Phaolô II là một bằng chứng về sự can thiệp của Mẹ Maria. Ngài hết
lòng yêu mến Đức Mẹ và yêu mến việc lần chuỗi Mân Côi. Ngài cổ vũ và mời gọi mọi
người cùng đọc kinh Mân Côi. Chính Ngài đã thiết lập thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng
vào chuỗi Mân Côi để mọi người cùng suy gẫm.
Có một biến
cố lớn trong cuộc đời của Ngài liên quan đến Đức Mẹ mà chúng ta không thể quên.
Đó là vào ngày 13/5/1981, ngày lễ Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Trong khi Đức
Thánh Cha chào thăm khách hành hương tại quảng trường Thánh Phêrô, thì một loạt
đạn đã bắn vào Ngài. Đức Thánh Cha ngã xuống, cả quảng trường Thánh Phêrô rung
động bởi tiếng khóc và lời kinh Mân Côi. Thật là phép lạ khi các viên đạn chỉ
cách trái tim của ngài vài centimet. Mọi người đều tin rằng, đó là nhờ sự che
chở của Đức Mẹ,
19.
Chiến thắng oanh liệt của nhờ lời việc lần chuỗi Mân côi:
Đầu thế kỷ
XII bè rối Albigensê nổi lên ở miền Nam nước Pháp, gieo lầm than và đau khổ cho
nhân dân. Thánh Đaminh đứng ra khấn xin Đức Mẹ soi sáng cách nào để cứu vớt những
tâm hồn sai lạc. Đức Mẹ đã hiện ra, tay cầm một chuỗi Mân côi, và dạy thánh
Đaminh cách đọc Kinh Mân côi, đồng thời truyền cho ngài rao giảng như một
phương thuốc linh nghiệm ngăn ngừa tội lỗi và sự lầm lạc. Quả nhiên, hơn
100.000 kẻ rối đạo đã từ bỏ sự sai lạc, và rất nhiều người được thêm phấn khởi sốt
sắng đọc kinh Mân côi.
Hơn thế nữa,
vào thế kỷ XVI quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ đe doạ xâm chiến toàn vùng đất Công
giáo Âu châu. Và trong lúc thuỷ quân của Hồi giáo xuống vịnh Lépante để tràn
sang Âu châu, đô đốc Don Juan người nước Áo chỉ huy hải quân Công giáo ra
nghinh chiến. Lúc ấy, thánh Giáo hoàng Piô đệ V truyền lệnh cho các giáo phận tổ
chức một nghi thức "cầu nguyện 40 giờ" gồm cuộc rước kiệu cung nghinh
Đức Mẹ và đọc kinh Mân côi cầu cho các chiến sĩ Công giáo thắng trận. Bỗng
nhiên, tại vịnh Lépante gió đổi chiều làm lợi điểm cho các chiến hạm Công giáo
ào ạt tấn công đánh chìm các chiến hạm quân Thổ vào ngày Chúa nhật 7/10/1571.
Sau cuộc thắng trận nhờ ơn lạ đặc biệt của Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi, thánh Piô
V dạy rước kiệu Mẹ trọng thể và thành lập lễ Mẹ Thắng Trận vào ngày mồng 7
tháng 10 để ghi ơn Đức Mẹ.
Ngày nay,
các tín hữu còn tiếp tục được khuyến khích dùng lời kinh Mân Côi giúp nâng tâm
hồn lên tới Chúa. Nhưng không phải bởi số lượng lời kinh mà là bởi sự chú tâm sốt
sắng chất lượng miệng đọc lòng suy. Nếu đọc kinh Mân côi mà không suy niệm mầu
nhiệm, kinh Mân Côi sẽ chỉ có xác mà không có hồn. Phần kinh đọc gồm: Một lời
nguyện bắt đầu một ngắm. Sau đó đọc Kinh Lạy Cha, mười Kinh Kính Mừng, Kinh
Sáng Danh, và kết thúc mỗi chục bằng lời xin ơn: “Lạy Đức Chúa Giêsu, xin tha tội
cho chúng con, xin cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên
thiên đàng, nhất là những linh hồn cần nhờ đến lòng Chúa thương xót hơn.” Và tiếp
theo đến lời nguyện ngắm thứ hai…, cứ như vậy đến hết ngắm thứ năm của một mùa
Vui, Sáng, Thương hay Mừng.
20. Thần lực kinh Mân Côi
Ngoài những
ơn lạ Đức Mẹ ban nhờ thần lực của kinh Mân côi về phần hồn cũng như phần xác, *
Mẹ Maria phán dạy Chân phước Alanô: "Bất cứ ai trung thành đọc kinh Mân
côi và suy ngắm những mầu nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi
hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết. Điều đó rất dễ đối với Mẹ, vì Mẹ là
Mẹ Vua Trời và Người gọi Mẹ là Đấng đầy ơn. Và vì đầy ơn, Mẹ có thể ban phát ơn
phúc cho các con cái dấu yêu của Mẹ.”
- Thánh
Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa
Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi.
- Chân phúc
Alanô: Kinh Kính mừng là một cầu vòng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót
và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính
kinh Mân côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ torng cuộc sống và trong giờ
họ chết. Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều
thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
- Thánh
Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã
tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết
lành và hưởng phúc trường sinh.
- Đức Gioan
XXIII: Chớ gì kinh Mân côi gia đình là một hương thơm sự an bình cho gia đình
các con. Ước chi con cái của các con chạy đến với Mẹ maria để gìn giữ sự trong
trắng thơ ngây. Ước chi các bạn thanh thiếu niên học được nơi Đức Mẹ sự phấn khởi
làm việc thiện và bảo đảm sự thanh khiết của họ. Ước chi người đau khổ hy vọng
được niềm an ủi nơi Đức Nữ Trinh.
- Đức Phaolô
VI: Kinh Mân côi đạo đức và phổ cập hiện ra như một chuỗi cứu độ treo trên cánh
tay Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Người, và do đó phát ra mọi ơn lành cho chúng ta
và mọi niềm hy vọng đến với chúng ta.
- Đức Gioan
Phaolô II: Trong những chục kinh Mân côi, tấm lòng chúng ta có thể hái lượm được
những sự kiện làm thành đời sống cá nhân, gia đình, dân tộc, giáo hội và thế giới.
Đó là những vấn đề cá nhân hay người thân cận, người thân quyến chúng ta. Như vậy,
kinh Mân côi hoà nhịp đời sống con người.
21.
ĐTC Phanxicô và kinh Mân Côi
Đức Thánh
Cha Phanxicô của chúng ta rất yêu mến Đức Mẹ qua việc lần chuỗi Mân Côi. Cụ thể,
ngày 13-3-2013 Ngài được bầu làm Giáo Hoàng, thì sáng ngày 14-3, Ngài đến tượng
ảnh Đức Mẹ Che Chở Dân Rôma để lần chuỗi Mân Côi và cầu nguyện để dâng cả triều
đại giáo hoàng của Ngài cho Đức Mẹ.
Năm 2015, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã chọn ngay ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi ngày khai mạc thượng Hội
Đồng Thế Giới về gia đình, dĩ nhiên trước đó, Ngài kêu gọi mọi thành phần dân
Chúa hãy đọc kinh Mân Côi. Và rồi mới đây, 12-5-2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã
đến hành hương tại Đền thánh Đức Mẹ Fatima, Bồ đào nha, nhân dịp kỷ niệm 100
năm Đức Mẹ hiện ra với 3 mục đồng tại đây: Lucia, Phanxicô và Giacinta. Đây là
chuyến viếng thăm thứ 19 của Đức Thánh Cha tại nước ngoài. Nhưng đây là lần đầu
tiên, chuyến viếng thăm của ngài hoàn toàn là một cuộc hành hương không có những
hoạt động gì khác, chỉ có cầu nguyện với Đức Mẹ Fatima qua việc lần hạt Mân Côi và dâng Thánh Lễ.
Hôm đó, Ngài
đã đến trước tượng Đức Mẹ Fatima tại Nhà nguyện Hiện Ra, Đức Thánh Cha quỳ cầu
nguyện rằng: “Lạy Nữ Vương, là Đức Trinh Nữ Fatima, là Mẹ Khiết Tâm, là nơi
nương náu và là đường dẫn đến Thiên Chúa! Như người lữ hành theo Ánh sáng tỏa
lan từ bàn tay Mẹ, con cảm tạ Chúa Cha, Đấng qua mọi nơi và mọi thời, vẫn hoạt
động trong lịch sử nhân loại; Như người lữ hành của nền hòa bình mà Mẹ đã loan
báo tại nơi này, con chúc tụng Chúa Kitô, là an bình của chúng con, và con cầu
xin ơn hòa hợp giữa mọi dân nước trong thế giới này; như người lữ hành của niềm
hy vọng mà Chúa Thánh Linh khích lệ, con muốn là một ngôn sứ và là sứ giả rửa
chân cho mọi người, tại bàn ăn liên kết tất cả chúng con nên một.”
22.
Năm đóa hồng xanh dâng Mẹ--AM. Trần Bình An
Trong cuốn
Niên Sử của Bộ Truyền Bá Đức Tin, người ta đọc câu chuyện sau đây xảy ra tại nước
Somalia thuộc đại lục Phi Châu. Hôm ấy, các Thừa Sai cùng với nhóm Giáo Lý Viên
trực chỉ Abal, một làng nhỏ thuộc tỉnh Bakool bên nước Somalia, để rao giảng
Tin Mừng của Đức Chúa GIÊSU KITÔ.
Khi đến một
ngã rẽ, đoàn truyền giáo bỗng phân vân không biết phải chọn con đường bên trái
hay rẽ sang bên phải? Sau cùng, mọi người đồng ý để rơi xuống đất Ảnh Vảy Phép
Lạ (Ảnh Đức Mẹ Ban Ơn). Khi rơi xuống, Ảnh Vảy Phép Lạ chỉ về hướng bên trái. Mọi
người vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình.
Tuy nhiên
khi đến nơi, mới biết đây là Ulfunga, một làng nhỏ nằm đối ngược với làng Abal
mà đoàn thừa sai muốn đi tới. Khi biết như vậy thì đã quá trễ vì trời đã tối.
Vã lại, thật nguy hiểm khi quay trở lại đàng sau. Các vị truyền giáo quyết định
dừng lại qua đêm tại làng Ulfunga.
Nơi làng, chỉ
tìm thấy duy nhất một cụ bà ngoại giáo cùng với mấy đứa trẻ đang quây quần sưởi
ấm chung quanh đám lửa cháy. Sau bữa ăn tối sơ sài, đoàn thừa sai đạo đức bắt đầu
lần hạt Mân Côi chung. Buổi lần hạt chấm dứt, cụ bà Somalia tiến lại gần vị
Linh Mục thừa sai và hỏi:- “Ông đọc “Ave MARIA - Kính Mừng MARIA” phải không?”
Vị thừa sai đáp:- “Đúng thế! Cụ biết “Lời Kinh” này phải không? Phải chăng cụ
là tín hữu Công Giáo?” Cụ bà liền giơ cho vị Linh Mục xem Ảnh Vảy Phép Lạ đang
mang nơi cổ và nói:
- “Cách đúng
20 năm, đứa con trai duy nhất của tôi trở về làng sau một chuyến đi lâu thật
lâu. Rồi con trai tôi ngã bệnh nặng. Trước khi chết, con nói với tôi: “Má à,
con ra đi về một xứ sở mà Má không biết. Nhưng con mong muốn rằng một ngày kia
Má cũng đến xứ sở này với con. Nơi đó, chúng ta cùng chung hưởng hạnh phúc.
Ngay bây giờ, con không thể dạy cho Má biết điều phải làm để đến được xứ sở đó,
như con từng học biết nơi xứ sở của người da trắng. Nhưng Má hãy lấy Ảnh Vảy
con đang mang nơi cổ và hàng ngày Má luôn luôn đọc: “Ave MARIA.” Nói xong, con
trai tôi tắt thở. Kể từ ngày đó, tôi luôn luôn đọc “Kính Mừng MARIA.” Nhưng
MARIA là Ai vậy?” Vị Linh Mục thừa sai vui mừng nói cho cụ bà Phi Châu biết
MARIA là thánh danh của Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA.
Rồi Cha dạy
cho cụ bà biết các điều căn bản phải TIN theo giáo lý đạo Công Giáo. Tối hôm
sau, vị Thừa Sai rửa tội cho bà cụ với tên thánh là MARIA. Suốt đêm ấy, các thừa
sai nghe bà cụ liên tục lập đi lập lại “Ave MARIA.” Ngày tiếp theo, cụ bà êm ái
trút hơi thở cuối cùng, trên đôi môi, điểm nụ cười hạnh phúc và đôi tay đặt
trên ngục trong đó siết chặt Ảnh Vảy Đức Mẹ Ban Ơn. Cụ bà Maria hân hoan ra đi
gặp lại đứa con trai thân yêu trên thiên quốc, dưới áo choàng của Đức Nữ Trinh
Rất Thánh MARIA. Đó là danh thánh cụ hằng kêu cầu và chào kính mà không hề biết
rằng ngài chính là Hiền Mẫu MARIA! (Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt, Ave Maria
ban ơn cứu rỗi, La Mia Messa, Volume II, Marzo Aprile, Maggio/2009, Anno III,
Anno B, Casa Mariana Editrice)
23.
Năm đóa hồng đỏ dâng Mẹ--AM. Trần Bình An
Đức Gioan
Phaolô II chỉ bị trọng thương qua vụ ám sát. Và việc ngài sống sót là cà một
phép lạ. Dĩ nhiên, sức khỏe vốn cường tráng trước kia của ngài đã bị ảnh hưởng
rất nặng bởi vụ ám sát, khiến ngài phải chịu đau đớn thường xuyên, kéo dài mãi
cho tới lúc ngài băng hà năm 2005. Hai năm sau vụ ám sát, vào ngày 23.12.1983,
Đức Gioan Phaolô II đã đích thân vào phòng giam thăm tên khủng bố Ali Agca, nói
chuyện với y và nhất là ngài đã tha thứ cho y.
ĐHY
Stanislaw Dziwisz tường thuật lại là trong cuộc gặp gỡ và nói chuyện này tại
nhà tù, Ali Agca chỉ lặp đi lặp lại với Đức Thánh Cha một câu hỏi duy nhất: “Tại
sao Ngài lại không chết? Tôi biết chắc chắn là tôi đã nhắm rất trúng đích. Tôi
cũng biết rằng phát đạn tôi bắn ra có hiệu quả tàn phá và gây tử thương một
cách chắc chắn. Nhưng tại sao Ngài lại không bị tử thương?”
Về phần Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II thì hoàn toàn xác tín rằng chính nhờ bàn tay hiền mẫu
của Đức Mẹ Fatima che chở nên ngài mới có thể thoát chết một cách lạ lùng như
thế. Bởi vì, ngày ngài bị ám sát tại Rôma, ngày 13 tháng 5 (1981) chính là ngày
Đức Mẹ đã hiện ra với ba trẻ chăn chiên năm xưa tại Fatima, ngày 13 tháng 5
(1917). Hơn nữa, theo Đức Gioan Phaolô II, thì vị Giám Mục mặc áo trắng phải chịu
đau khổ nhiều mà Đức Mẹ đã cho ba trẻ trông thấy trong một thị kiến khi hiện ra
với ba trẻ tại Fatima, chính là ngài. Do đó, đúng một năm sau vụ ám sát (1982),
Đức Gioan Phaolô II đã đích thân đi hành hương Fatima để tạ ơn cứu sống của Đức
Mẹ và trong dịp này ngài cũng mang theo một trong các đầu đạn mà Mehmet Ali
Agca đã bắn vào ngài để dâng kính Đức Mẹ. Và kìa một sự lạ lùng đã làm chính Đức
Gioan Phaolô II và tất những người chứng kiến không khỏi sửng sốt và kinh ngạc,
là đầu viên đạn mà ngài mang theo kia khi được gắn vào một lỗ hổng duy nhất còn
sót lại ở mão triều thiên trên đầu tượng Đức Mẹ Fatima, mà các đoàn thể phụ nữ
Bồ Đào Nha đã dâng cúng cho Đức Mẹ vào năm 1946, thì hoàn toàn vừa vặn như thể
người ta đã cốt ý làm cái lỗ hổng đó sẵn cho viên đạn vậy. (Lm Nguyễn Hữu Thy,
Nhắc lại vụ ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II)
Năm đóa hoa
đỏ bi thương nhuộm máu đào Con Chúa kính dâng lên Mẹ Sầu Bi. Toàn thể Kitô xin
hữu hiệp thông cùng Mẹ với tấm lòng sám hối, ăn năn, để xoa dịu nỗi đau tột
cùng của Mẹ.
24.
Năm đóa hồng vàng dâng Mẹ--AM. Trần Bình An
Ngày
10-10-1945, Đài Phát Thanh truyền đi bản tin: một trong các chủ tịch đảng cộng
sản tại Mỹ Châu, sau 30 năm lầm đường lạc lối, đã trở về với Giáo Hội Công
Giáo. Đó là chủ tịch Luis Francesco Bundez. Chính ông cũng công khai tuyên bố:
“ Với niềm vui sâu xa, tôi muốn loan báo cho mọi người biết rằng, nhờ ơn THIÊN
CHÚA, tôi đã quay về với Đức Tin Công Giáo, Đức Tin cha ông tôi truyền lại cho
tôi.”
Cuộc đời ông
Luis Francesco Bundez quả là chuỗi dây xích lầm lạc và ảo tưởng. Năm 1935, ông
chính thức ghi tên vào đảng Cộng Sản tại New York. Từ đó, cuộc đời ông ngày
càng xuống dốc và chìm vào đêm đen. Nhưng trong bóng tối, ông vẫn cảm nhận ơn
thánh hằng theo ông, đánh động ông và thúc đẩy ông trở về với THIÊN CHÚA. Ngài
chờ đợi ông.
Được thế là
vì, nơi mái ấm gia đình, trong vòng ròng rã 30 năm trời, toàn thể gia đình ông,
mỗi ngày lần hạt Mân Côi cầu cho đứa con hoang đàng, sớm trở về đường ngay nẻo
chính.
Cha mẹ và
anh chị em ông, sốt sắng kêu xin Đức Nữ Trinh Rất Thánh MARIA - Đức Bà bầu chữa
kẻ có tội - chuyển cầu cho ông. Vì thế, mặc dầu sống xa gia đình, ông Luis
Francesco Bundez vẫn như nghe vang vọng lời kinh Mân Côi tha thiết dành cho
ông. Sau 30 năm lang thang mất hướng, đứa con trai... đi theo chủ nghĩa cộng sản
vô thần, quyết định quay trở về Nhà Cha.
Cuộc hoán cải
của ông Luis Francesco Bundez gây tiếng vang lớn tại Mỹ Châu lúc bấy giờ. Mọi
người hiểu rằng, việc ông thoát khỏi... là nhờ lời kinh Mân Côi toàn gia đình
ông dâng lên Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc mỗi ngày. (Sr JB Minh Nguyệt, Quyền lực
cứu rỗi của Kinh Mân Côi, Evaristo Cardarelli,”Il Santo Rosario”, Edizioni
Cantagalli - Siena, 1987)
Để chuẩn bị
Năm thánh Mẫu, bắt đầu từ lễ Hiện Xuống năm 1987 và bế mạc vào ngày lễ Mông Triệu
năm 1988, ĐGH Gioan Phaolô II gửi đến Dân Chúa Thông điệp “Mẹ Đấng Cứu Độ,”
công bố ngày 25.3.1987. Nhân dịp Năm Mân Côi từ tháng 10. 2002 đến tháng 10.
2003, ngài gửi tiếp Tông thư “Kinh Rất Thánh Mân Côi,”công bố ngày 16.3.2002.
Chính ngài đã thêm Năm Mầu Nhiệm Sự Sáng vào chuỗi Kinh Mân Côi tựa năm đóa hoa
hồng vàng rực rỡ, huy hoàng, vương giả kính dâng lên Mẹ.
25.
Năm đóa hồng trắng dâng Mẹ--AM. Trần Bình An
Cho đến một
hôm có một chị ở nhà thờ thấy chị Maria Nguyễn Thị Mai yếu quá, liền mời Cha tới
xức dầu và cho chị xưng tội. Cha hỏi chị:
- Con có một
nguyện ước gì không? Hội đoàn sẽ giúp cho, người nhà con đâu, con đưa địa chỉ
đây để cha nhờ người kêu về.
Chị lắc đầu
thều thào nói qua hơi thở, chị em con từ chối trách nhiệm, nên bây giờ con chỉ
còn có Chúa và Đức Mẹ. Nguyện ước cuối cùng của con là muốn viếng thăm Đức Mẹ
Tàpao lần cuối.
Sáng sớm, có
người tới rước chị tới điểm hẹn. Nhìn thấy chị ai cũng lo ngại cho sức khỏe của
chị và khi đoàn hành hương lên xe, chị Trưởng đoàn xướng kinh kinh cầu nguyện
cho chị. Đi tới Tàpao mọi người tìm phòng trọ nghỉ ngơi ăn uống, rồi chuẩn bị
lên núi. Nhờ đoàn hành hương cùng hiệp ý cầu nguyện, nên trông chị Mai có vẻ tỉnh
táo hơn. Chị Trưởng đoàn khuyên:
- Chị nghĩ
ngơi đi rồi sáng mai dưới chân núi có Thánh lễ đồng tế, chị tham dự cho tiện,
đường lên núi cao lắm! Có tới 429 bậc thang chị đang bệnh làm sao leo lên được.
-Tôi đi lên
núi được mà, bây giờ tôi khoẻ rồi, cô đừng lo.
Chị Mai
không chịu ở lại, vì chị mơ ước đi Tàpao lâu rồi, mà chỉ muốn lên núi nhìn được
thấy Mẹ một lần, chị mới mãn nguyện. Thế rồi chị choàng chiếc khăn màu trắng
hôm Rửa Tội choàng lên cổ. Tay cầm Chuỗi lần hạt đọc kinh. Mọi người đều ái ngại,
khi nhìn chị lên núi với một cái bụng rất to của một người ung thư giai đoạn cuối.
Mọi người ai cũng nể chị có một nghị lực phi thường. Trong thân hình mỏng manh
gầy gò ấy, tiềm tàng một khát vọng sống mãnh liệt.
Mọi người
trong đoàn bắt đầu dõi bước theo, lỡ chị có ngất xỉu thì cõng chị về. Mọi người
bắt đầu ồ lên vì ngạc nhiên, khi chị đi rất nhanh, không có một người nào đi kịp
theo chị, vì tất cả khách hành hương hay thanh niên khoẻ mạnh, ai cũng phải ngừng
nghỉ một lúc rồi mới đi tiếp.Còn bây giờ, chị không hề nghỉ đoạn nào hết. Chị
đã bỏ lại đoàn người khá xa và đã tới nơi linh địa Đức Mẹ Tàpao.
Sau khi tham
dự Thánh Lễ xong ai cũng thấy gương mặt chị rạng rỡ và chị nhanh chóng đi như
bay xuống núi. Mọi người lần lượt đi thật nhanh xuống chân núi và vây chung
quanh chị hỏi chuyện. Chị kể rằng sau khi chị bước chưa tới 10 bậc thang, chân
tay chị rã rời chị xay xẩm mặt mày. Chị biết không thể nào đi được nữa mới cầu
nguyện: “Mẹ ơi! Mẹ hãy dắt con lên núi đi Mẹ con không đi nổi nữa Mẹ ơi! Mẹ
giúp con với Mẹ. Vừa cầu nguyện xong Đức Mẹ hiện ra mỉm cười, rồi dắt tôi lên
núi.” (Đỗ Hải Oanh, Chuỗi Mân Côi chữa lành bệnh ung thư,
DucMeFatimaMancoi.org)
26.
Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng
Chính Mẹ đã
dạy chân-phước Alanô: "Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm
những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi
tội lỗi trong giờ họ chết.”
Thánh Bênađô
nói: "Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ.”
Còn thánh
Bônaventura nói: "Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng.”
Theo thánh
Montfort "Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu
căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân
Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân
Côi.”
Thánh
Anphongsô "Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh
hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng
phúc Thiên đàng.”
Kinh Mân côi
là kinh chính Ðức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ
đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và
Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều
thúc-dục: "Các con hãy tiếp tục đọc Kinh Mân Côi hằng ngày.” Và nhất là:
"Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình.”
27.
Sự tích kinh Mân Côi
Trong cuốn
Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như
sau:
Vào cuối thế
kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng.
Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay,
đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội
nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin
chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba
thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu
dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế
giới không?
Thánh Đaminh
đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ
biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho
phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy
giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn
cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên
Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các
linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân
vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền
đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ
chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh
nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối
lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ
treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu
họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho
rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng
về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng
thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
28.
Tràng chuỗi Mân Côi, sợi dây yêu thương
Một linh mục
đã kể câu chuyện như sau: buổi tối nọ, có cuộc điện thoại mời ngài đến một bệnh
viện gần đó để xức dầu cho một bệnh nhân. Người bệnh là một bà cụ già trạc tuổi
80. Khi đến nơi, cụ đang trong cơn nguy kịch. Vì thế, tay bên trái thì chằng chịt
dây truyền nước và thuốc vào cơ thể, nhưng tay còn lại thì cụ không rời tràng hạt
Mân Côi.
Vị linh mục
nói tiếp: “Tôi có thể ví Tràng chuỗi Mân Côi như là sợi dây truyền mà Mẹ đang
truyền nước và thuốc tâm linh vào trong cuộc đời của mỗi chúng ta để tăng thêm
sinh lực, nhất là đức tin, cậy, mến nơi Thiên Chúa như Mẹ.”
Hôm nay, mừng
lễ Đức Mẹ Mân Côi, chúng ta hãy cùng nhau chiêm ngưỡng sự kết hiệp mật thiết
sâu xa của Mẹ Maria nơi Thiên Chúa, cũng như cảm nghiệm được tình mẫu tử nơi Mẹ
Maria với con cái.
29.
Chứng nhân của phép lạ mặt trời xoay
Ở đây, chúng
ta hãy nghe tiến sĩ José Maria Proença de Almeida Garrett, giáo sư môn khoa học
tự nhiên đại học Coimbra, kể lại những gì ông đã quan sát thấy ở Fatima hôm đó.
Vì ông là một giáo sư, nên lời tường trình của ông rất khả tín và gây được sự
chú ý của mọi người:
“Hôm đó, tôi
đến nơi vào giữa trưa. Cơn mưa tầm tã từ buổi sáng sớm chẳng những không ngớt,
mà bây giờ còn bị những trận gió dữ dội thổi ào tới tấp như muốn làm tràn ngập
cả cảnh vật. (…) Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều. Trong vài giây lát trước đó, mặt
trời còn bị che khuất sau đám mây dày đặc, bổng chốc nó chiếu sáng qua đám mây.
Mọi cặp mắt đều hướng nhìn về phía mặt trời như bị một sức mạnh nam châm vô
hình nào đó cuốn hút vậy. Chính tôi cũng nhìn thẳng vào mặt trời. Nó trông giống
như một cái đĩa sáng rực rỡ, chói lọi nhưng không làm lóa mắt. (…)
Nhưng mặt trời
vào lúc bấy giờ không làm lóa mặt, không giống như khi chúng ta nhìn nó bị che
khuất sau một đám mây. Không, bầu trời lúc bấy giờ hoàn toàn trong sáng, chứ
không hề có một vẩn mây nào che khuất mặt trời cả; nó xuất hiện rõ ràng giữa bầu
trời. Cái đĩa sáng chói đầy mầu sắc rực rỡ đó không đứng yên, nhưng chuyển động
rất nhanh. Và đó không phải là những tia sáng lung linh phát ra từ các ngôi
sao.
Cái đĩa lửa
quay tròn với một tốc độ nhanh khủng khiếp, khiến từ đám đông những người có mặt
hôm đó bổng chốc vang lên những tiếng kêu la sợ hãi thất thanh. Mặt trời cứ tiếp
tục quay tròn như thế cùng với tốc độ nhanh khủng khiếp tương tự, đồng thời, nó
tách ra khỏi không trung và tiến đến gần mặt đất với mầu đỏ máu, mọi cảnh vật
như đang sắp sửa bị nghiền nát dưới độ quay nhanh khủng khiếp của vòng lửa
không lồ. (…)
Tất cả những
hiện tượng này tôi đã bình tĩnh quan sát và trình bày ra đây sự nhận xét khách
quan của mình, chứ không do bất cứ sự xúc động nào chi phối cả. Tôi cũng hoàn
toàn chờ đợi sự nhận xét và quan điểm của kẻ khác.”
Linh mục
Joaquim Lourenco, hiện là nhà giáo luật học của giáo phận Leiria, nhưng vào lúc
xảy ra phép lạ, hãy còn là một học trò và cùng người anh và các bạn bè của ngài
đang có mặt tại làng Alburitel, cách Fatima vào khoảng 54km. Tất cả đều tưởng
ngày tận thế đã đến.
Cha Lourenco
tường thuật lại như sau:
“Tôi nghĩ rằng
tôi không đủ khả năng để diễn tả lại những gì chính tôi đã chứng kiến xưa kia.
Tôi nhìn như dán mắt vào mặt trời để quan sát: Mặt trời có màu nhợt, đến nỗi
tôi có thể nhìn thẳng vào nó mà không bị đau mắt chút nào cả. Mặt trời vào lúc
bấy giờ, trông tựa như một quả bóng bằng tuyết, quay chung quanh cái trục của
mình, và bổng chốc, nó như rơi ra khỏi bầu trời, quay lượn ngoằn ngoèo và tiến
sát gần mặt đất với vẻ đầy đe dọa. Vì quá sợ hãi, tôi đã chạy nấp vào phía sau
người lớn đang đứng khóc lóc vì tưởng rằng thế giới trong giây lát nữa sẽ bị chấm
tận. Bên ngoài ngôi trường làng của chúng tôi, có một đám đông đang tụ họp lại;
còn đám học trò chúng tôi thì xô nhau chạy ra khỏi lớp học và đi xuống đường.
Khi phép lạ bắt đầu xảy ra thì chúng tôi nghe thấy tiếng kêu la của những người
đang đứng đầy ngoài đường phía trước cổng trường, đàn ông cũng như đàn bà…
Lúc bấy giờ
có một người vô thần, mà cả buổi sáng hôm đó cứ rêu rao lên tiếng chê bai cười
nhạo những người tới Fatima là “những kẻ ngu ngốc”, cốt chỉ để xem một đứa bé
gái nhà quê. Nhưng trong suốt lúc xảy ra phép lạ thì ông ta đứng đờ ra như một
người bị bất toại cả thân mình và chỉ đưa mắt cắm chặt vào mặt trời. Ông ta bắt
đầu run rẩy cả mình mẩy lẫn chân tay, rồi quỳ xuống trên bùn lầy và giơ hai tay
lên trời cầu xin Chúa tha thứ cho mình.”
30.
Phép lạ từ chuỗi Mân Côi
Cha Patrick
Joseph Gillard-Peyton là vị Linh Mục tông đồ của Tràng Chuỗi Mân Côi. Cha chào
đời ngày 9-1-1909 tại County Mayo trong gia đình Công giáo nghèo bên nước
Ái-nhĩ-lan. Năm 18 tuổi, Patrick cùng với bào huynh Tom sang Hoa Kỳ tìm kế sinh
nhai. Nhưng rồi Chúa gọi, Patrick từ giã anh, gia nhập chủng viện.
Lúc gần chịu
chức Linh mục, thầy Patrick bỗng lâm bệnh lao phổi trầm trọng. Các bác sĩ cho
biết vô phương cứu chữa! Giấc mơ Linh mục trong phút chốc tan thành mây khói ..
Thầy Patrick chán nản buông tay bỏ cuộc. Một vị Linh Mục lão thành bất ngờ đến
thăm và nói với Thầy: Hãy kêu xin Đức Mẹ MARIA chữa lành bệnh. Đức Mẹ là nguồn
sự sống. Hãy tin tưởng nơi Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ như Người Mẹ thật. Hãy kiên
trì van nài và tin chắc chắn Đức Mẹ sẽ chữa lành. Đức Mẹ sẽ tỏ ra vô cùng nhân
hậu với Thầy. Chính vì chúng ta tin tưởng quá ít nơi Đức Mẹ nên Đức Mẹ không
ban cho chúng ta nhiều ơn!
Nghe vị Linh
mục lão thành nói thế, Thầy Patrick bỗng nhớ lại chuỗi ngày niên thiếu nơi quê
hương Ái-nhĩ-lan thân yêu. Thầy cũng nhớ đến “liều thuốc thần” hiền mẫu Thầy vẫn
dùng trong cơn gian nan khốn khó. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Cứ chiều đến, cả
gia đình tụ họp và cùng nhau sốt sắng lần hạt Mân Côi.
Giờ đây, vì
hết hy vọng nơi các phương thuốc chữa trị trần gian, Thầy Patrick hướng về Trời
Cao và kêu van Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc qua Kinh mân côi. Và Thầy được lành bệnh
thật.
Năm 1941 -
32 tuổi - Thầy Patrick Peyton hân hoan lãnh thiên chức Linh mục trong dòng
Thánh Giá. Từ đó Cha xác tín rằng: Thế giới cầu nguyện là thế giới hòa bình.
Gia đình cầu nguyện là gia đình hiệp nhất. Nếu mỗi người, mỗi gia đình dành ít
thời gian trong ngày để đọc Kinh mân côi thì các tổ ấm sẽ trở thành vườn địa
đàng. (x. Phép lạ của Tràng chuỗi Mân Côi, Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt)
31.
Con đường bảo đảm về thiên đàng
Cha
Lacordaire nói:
- Con đường
bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn có cỗ
tràng hạt trong tay.
Chính Mẹ,
khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:
- Phanxicô sẽ
được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Nếu chúng ta
đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần rỗi của
chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho chúng ta nhiều
an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp phải khổ đau và buồn
phiền.
Có một anh
lính trở về từ thế giới ngục tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã
giúp anh ta cầu nguyện và thánh hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối
ấy.
Rồi anh ta kể
tiếp:
- Khi bị
thương và nằm lại trên chiến trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn
bên cạnh cũng muốn lần theo. Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người
một mẫu để cùng nhau lần chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây
giờ. Nó mãi mãi sẽ là một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.
Lời Chúa Tuần
27 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch