LỜI CHÚA TUẦN 27 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
THỨ HAI - NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN HẬU
THỨ TƯ - CHÚA GIÊSU DẠY LỜI CẦU NGUYỆN
THỨ NĂM - HIỆU LỰC CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
THỨ BẢY - ƯU TIÊN LÀ TUÂN GIỮ LỜI CHÚA
LỄ KÍNH - LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
THỨ HAI - NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN HẬU
THỨ TƯ - CHÚA GIÊSU DẠY LỜI CẦU NGUYỆN
THỨ NĂM - HIỆU LỰC CỦA LỜI CẦU NGUYỆN
CNTN 27A - VƯỜN NHO CỦA CHÚA
Lời
Chúa: Mt 21, 33-43
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các
ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu
chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh, đoạn ông cho tá điền thuê, rồi
đi phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi.
Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia
và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ
cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì
nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai
ông chủ liền bảo nhau: 'Đứa con thừa tự kia rồi, nào anh em! Chúng ta hãy giết
nó đi và chiếm lấy gia tài của nó'. Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết.
Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào?" Các ông trả lời,
"Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó, và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ
mùa nộp phần hoa lợi."
Chúa
Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh: 'Chính viên
đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc. Đó là việc Chúa làm và là việc lạ
lùng trước mắt chúng ta!' Bởi vậy, Tôi bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi
các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái." Đó là lời
Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Chiếc nỏ thần
Thục
Phán An Dương Vương được Thần Kim Quy tặng cho chiếc nỏ có sức công phá cực kỳ,
không ai có thể chống lại được. Nhờ chiếc nỏ mà trong nước được an bình.
Ông
có cô con gái tên Mỵ Châu, được chàng Trọng Thuỷ con của Triệu Đà thuộc nước
lân bang đến cưới. Mọi việc hết sức tốt đẹp, mối duyên của đôi trẻ ngày càng nồng
ấm.
Một
hôm Trọng Thuỷ xin về thăm cha của mình. Ít ngày sau thì chiến tranh kéo đến.
Nhìn thấy đoàn quân đến từ xa, An Dương Vương không lo lắng gì, ông mỉm cười tự
tin, vì đã có chiếc nỏ thần trong tay. Giặc càng ngày càng gần, đến lúc cần thiết,
ông mới dùng đến nỏ thần. Nhưng bất ngờ thay, chiếc nỏ không còn công hiệu như
xưa, đội quân của ông không phòng thủ nỗi với sức tấn công dũng mạnh của quân
thù. Ông cùng với cô con gái thân yêu tìm đường thoát thân. Nhưng càng chạy thì
nghe tiếng của địch quân ngày càng gần. Nhìn lại thì ông thấy chính đứa con mà
ông yêu thương nhất lại là người làm ông thất vọng nhất. Chính cô đã để lại dấu
hiệu trên đường cho giặc đuổi theo. Ông cũng hiểu ra: chính vì đứa con mà ông
yêu thương, nên kẻ thù mới lợi dụng tình yêu thương đó, cưới con ông và tráo đỗi
nỏ thần, khiến cho ông phải đi vào chỗ chết. Ông yêu thương con gái mình, nên
cũng rất mực yêu thương chàng rể. Nhưng những gì mà ông yêu thương đã phản bội
lại ông, làm cho ông phải chết. Nếu như ông có quyền trở lại ông sẽ đối xử với
chàng rể như thế nào?
Khi
lòng tham đã lên ngôi, thì tình yêu thương không còn hiệu quả nữa mà bị phản bội.
Lòng tham làm cho con người trở nên tàn ác, bất chấp mọi thủ đoạn, miễn làm sao
lòng tham đạt được như ý muốn.
2. Những kẻ chối bỏ Thiên Chúa
Trường
hợp thứ nhất là trường hợp của Mirabeau. Ông là người đi tiên phong cho cuộc
cách mạng Pháp, hăng hái đả phá Giáo hội và chối bỏ Thiên Chúa. Nhưng rồi sau
đó, ông đã phải đau khổ và tuyệt vọng, nhất là khi phải đối đầu với cái chết.
Ông đã chết bằng một cái chết đớn đau và điên khùng.
Trường
hợp thú hai là trường hợp của Voltaire. Suốt đời, ông đã tìm cách hạ bệ Thiên
Chúa và Giáo hội. Chính ông vàp năm 1753 đã viết: Thiên Chúa phải về hưu vì đã
hết thời. Đúng hai mươi năm sau, nghĩa là vào năm 1773 ông đã chết một cách thê
thảm, tru tréo như một con chó dại, đến nỗi bà giúp việc phải thốt lên: Nếu quỉ
có thể chết, thì cũng không chết một cách dữ tợn hơn Voltaire. Thiên Chúa vẫn
còn mãi, nhưng khốn cho ngươi, nếu ngươi giơ chân đạp mũi nhọn.
3. Vị thiên thần dễ tính
Ngày
kia, có hai người xin vị thiên thần cho họ được tham dự vào quyền vạn năng của
Thiên Chúa. Vị thiên thần đồng ý. Người thứ nhất xin cho có khả năng làm được
những công việc vĩ đại. Vị thiên thần gật đầu ưng thuận, nhưng lại ra điều kiện:
“Ngươi sẽ được quyền lực để hoàn thành những kỳ công. Nhưng ngươi lại không có
sức làm những việc thông thường.” Chàng ta đọc được ý nghĩ của kẻ khác, và
không ngừng chế tạo ra những phát minh vĩ đại. Ít lâu sau chàng đã trở thành tỉ
phú nhờ kinh doanh những phát minh của chàng. Chàng ta rất hài lòng với những
thành công đã đạt được. Nhưng chẳng bao lâu, từng người một, các bạn bè lần lượt
xa lánh chàng mà chàng lại không làm gì được để giữ họ lại. Sau đó cả người vợ
cũng thầm giũ áo ra đi. Chàng cũng không làm gì được để nối lại mối tình xưa. Rồi
sau cùng sức khoẻ cũng giã biệt chàng, thân thể trở nên bạc nhược, đến nỗi
chàng không còn đi đứng được nữa, chàng bất lực, chẳng làm gì được để phục hồi
sức khoẻ ngoài việc ngồi trên xe lăn để đếm từng ngày cô đơn.
Ngược
lại, người thứ hai chỉ xin được có khả năng làm tới những việc bình thường. Vị
thiên thần cũng đồng ý và nhắn thêm: “Thiên Chúa sẽ không cho ngươi quyền lực
nào đặc biệt để hoàn thành những việc phi thường đâu.” Chàng bình thản tiếp tục
sống cuộc đời của mình, hằng ngày chàng vui vẻ chu toàn nghĩa vụ của một công
dân lương thiện, một người chồng chung thuỷ, một người cha hiền tận tuỵ với con
cái, một người bạn, một người láng giềng quảng đại, hào hiệp, vị tha. Chàng cảm
thấy đời mình thật ý nghĩa, thật vui tươi và hạnh phúc. Chàng không còn ước muốn
gì hơn là được tiếp tục sống trọn cuộc đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân
trong những gì bình thường nhất với một niềm tri ân sâu thẳm.
Biết
nhìn ra những giá trị của những điều bình thường trong cuộc sống, con người mới
có khả năng khám phá được sự cao cả phi thường mà Thiên Chúa cất giấu trong đời
họ. Từ đó con người cũng sẽ kín múc được sức mạnh dồi dào để phát huy những giá
trị của bản thân, của cuộc sống để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
4. Tìm về giá trị đích thực
Năm
1492, Columbus thả buồm ra biển khơi. Ông đã cập vào quần đảo của người
Hispaniola, giữa Cuba và Puerto Rico, với dân số 100. 000 người. Thổ dân da đỏ
niềm nở ra chào đón những nhà thám hiểm của Phương tây. Columbus đã nhìn thấy họ
đeo những nữ trang bằng vàng và báo cáo cho vua Ferdinand biết rằng vũ khí của
thổ dân này rất đơn sơ, chỉ cần một nhóm lính Tây Ban Nha được trang bị vũ khí
cẩn thận, cũng có thể bắt ép họ làm nô lệ trong những mỏ vàng để phục vụ cho
ngân khố của Tây Ban Nha. Trong 15 năm, sự cai trị của Tây Ban Nha đã làm giảm
dân số của người Hispaniola từ 100. 000 xuống còn 15. 000 người. Những việc lao
nhọc dã man đã đè nặng trên những người nô lệ của Tân Thế Giới này là một hình
thức diệt chủng tàn bạo phát xuất từ những nền văn minh trọn hảo. Những người
lính phục vụ trung thành đã kiếm được rất nhiều tài sản và đồn điền.
Một
ngày kia, chàng thanh niên tên là Bartolomeo de las Casas đã nghe một bài giảng
của linh mục dòng Đaminh. Ngài đã nói những sự đối xử tàn bạo đó đối với người
khác là ghê tởm, trái với đạo lý của Kitô giáo. Những người địa chủ Tây Ban Nha
cười nhạo ngài, nhưng de cas Casas đã ăn năn trở lại. Anh trao trả tự do cùng với
đất đai cho những người nô lệ. Sau này, anh đi tu trở thành linh mục, và lễ thụ
phong của linh mục Bartolomeo là thánh lễ truyền chức đầu tiên ở Tân thế Giới.
Bartolomeo
phục vụ như một linh mục của những người cai trị Tây Ban Nha, nhưng ngài rất
thương mến những người thổ dân da đỏ. Ngài nói rằng những hạt lúa mì đã được trồng
xuống, chăm nom, và gặt hái bởi những người nô lệ đã tạo nên tấm bánh được bẻ
ra trong Bí tích Thánh Thể. Khi ngài bẻ bánh, ngài nhìn thấy máu của những người
nô lệ chảy xuống.
Qua
bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải trở nên những người đầy tớ
của Thiên Chúa. Phải xây dựng vườn nho bằng tình yêu thương và sự hy sinh chính
thân mình cho tha nhân, như chính Ngài đã cầm lấy tấm bánh bẻ ra và nói: “Hãy cầm
lấy mà ăn vì này là mình Ta.”
Để
xây dựng trật tự xã hội phải lấy chính nhân phẩm con người như một tạo vật “giống
hình ảnh của Thiên Chúa” làm trọng tâm như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
nói: “Chính từ giá trị con người mới phát sinh ra giá trị xã hội, chứ không phải
từ giá trị xã hội mà có giá trị con người.”
Phải
trở về với những giá trị Kitô giáo để kiến tạo hoà bình.
5. Tá điền thời nay
Có
một bản tin gây nhiều xúc động, đó là: một thanh thiếu niên phạm pháp được trả
tự do lạm thời, nhờ hạnh kiểm tốt trong thời gian bị giam tù. Vì không còn cha
mẹ, nên em này được một người trong vùng nhận làm con nuôi và em được đối xử tốt
đẹp như năm người con khác trong gia đình, không chút kỳ thị phân biệt. Cha mẹ
nuôi cũng như anh chị em mới trong gia đình cố gắng làm hết mọi sự để giúp em cảm
nhận được tình yêu thương chân thành trong gia đình mới.
Một
hôm, em được phép cha mẹ cho đi tham dự buổi tiệc sinh nhật của người bạn với lời
nhắn nhủ là “hãy trở về nhà trước 11 giờ khuya.” Nhưng 11 giờ, rồi 12 giờ và 1
giờ sáng mà em vẫn chưa về. Mọi người trong nhà đã đi ngủ, chỉ trừ cha mẹ nuôi
của em canh thức đợi em về với nhiều lo tắng, cuối cùng 2 giờ sáng em mới về tới
nhà. Không một lời giải thích hay xin lỗi cha mẹ nuôi gì cả, nhưng phần cha mẹ
nuôi chỉ trách nhẹ em một câu: “Này con, lần sau con ráng về đúng giờ để cha mẹ
không phải lo lắng đợi chờ con nữa.”
Sáng
hôm sau, khi mọi người trong gia đình kẻ đi làm người đi học, chỉ còn lại mẹ
nuôi ở nhà, và bất ngờ, người thiếu niên này dùng một khúc sắt từ sau lưng tiến
lại đập đầu người mẹ nuôi của em. Trước toà án, em không chút hối hận và người
cha nuôi của em trong cơn đau khổ tột cùng chỉ thốt lên một lời: “Nó đã giết chết
người vợ thân yêu của tôi. Đây là một hành động vô ơn tột cùng.”
Thái
độ vô ơn tột cùng này cũng là một lời cảnh tỉnh cho mỗi người Kitô hữu chúng ta
hôm nay, qua đó nhắc nhở chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với
Thiên Chúa. Như ông chủ vườn nho, Thiên Chúa nhân lành luôn thông cảm và tha thứ
những lỗi tầm của chúng ta, một khi chúng ta biết trở về với Ngài.
6. Những sợi dây và những chiếc cầu
Chiếc
cầu treo Melrose bắc trên sông Niagara ở Nữu Ước nối liền Gia Nã Đại và Hiệp Chủng
Quốc. Người ta nói rằng chiếc cầu này đã được thiết kế như sau:
Trước
tiên người ta thả một cái diều cho nó bay ngang qua sông. Cái diều đó được cột
vào một sợi dây, tiếp theo, sợi dây này được cột lại vào một sợi thừng và đến
lượt sợi thừng này lại được cột vào một sợi cáp bằng thép. Như thế, dây cáp bằng
thép này được dùng để giúp cho phần còn lại của chiếc cầu đứng vững.
Câu
chuyện cầu Melrose thường được dùng để minh hoạ cho thấy các sự việc lớn lao
thường được khởi đầu bằng những việc rất khiêm tốn.
Thuật
kể chuyện rất phổ biến ngay từ khi con người biết liên kết từ với nhau để tạo
thành câu. Thời xưa rất ít người biết đọc hoặc viết. Khi muốn dạy một điều gì
quan trọng, người ta thường dựng lên một câu chuyện về điều muốn dạy, nhờ thế
không những dễ học mà còn dễ nhớ nữa.
7. Vô ơn
Hai
vợ chồng kia có 4 đứa con và hết mực yêu thương chăm sóc chúng. Dù không giàu
có, nhưng vì muốn con cái mình có được tất cả những gì tốt nhất, họ đã làm tất
cả những gì họ làm được: ngoài giờ làm việc chính thức ở sở làm, họ còn đi làm
thêm vào ngày Chúa nhật và các buổi tối; vay tiền để mua một ngôi nhà rộng rãi
để mỗi đứa có một phòng riêng tiện cho việc học; không ngại gởi con vào những
trường tốt nhất mặc dù học phí rất cao; không bao giờ dám bỏ tiền đi du lịch,
thậm chí không dám đi ăn cơm tiệm và đến các rạp hát để giải trí…
Thế
rồi các đứa con dần dần lớn lên, đỗ đạt, lập gia đình, có việc làm tốt. Nhưng
cũng dần dần từng đứa từng đứa ra riêng. Đứa nào cũng chỉ lo cho cuộc sống
riêng của gia đình chúng, không hề nhớ đến mẹ cha. Bây giờ hai vợ chồng già sống
hiu quạnh trong căn nhà cũ. Họ đã than thở với một người đến thăm:
-
Chẳng có việc gì có thể làm cho chúng nó mà chúng tôi đã không làm. Thế mà bây
giờ chẳng có việc gì chúng nó phải làm cho chúng tôi mà chúng nó chịu làm !
8. Quên cám ơn
Ngày
xưa có một cô gái bị nhốt trong một cái chai, rất khổ sở. Một hôm có một vị thần
tình cờ đi ngang qua, nghe tiếng than của cô: "Thật là khổ sở và nhục nhã
phải sống trong cái chai này. Ước gì mình được sống trong một túp lều." Vị
thần động lòng, hóa phép cho cô ra khỏi cái chai và được sống trong một túp lều.
Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm
sau, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: "Thật là khổ sở và nhục
nhã phải sống trong cái túp lều này. Ước gì mình được sống trong một biệt thự rộng
rãi." Vị thần động lòng, hóa phép cho cô sống trong một biệt thự. Rồi vị
thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm
sau nữa, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: "Thật là khổ sở
và nhục nhã phải sống trong cái biệt thự này. Ước gì mình được làm một công
nương có kẻ hầu người hạ." Vị thần động lòng, hóa phép biến cô thành một
công nương. Rồi vị thần ra đi. Cô gái mừng quá quên cám ơn vị thần.
Năm
sau nữa, vị thần trở lại để xem cô sống ra sao. Cô than: "Thật là khổ sở
và nhục nhã vì chỉ là một công nương. Ước gì mình được trở thành hoàng hậu được
thần dân cả nước tôn thờ." Vị thần bảo cô cứ yên tâm đi ngủ, sáng hôm sau
sẽ được như ý. Sáng hôm sau, khi thức dậy, cô gái thấy mình bị nhốt ở trong cái
chai như trước !
9. Phiến đá bị loại bỏ
Malebon
là tên của một tảng đá rất nổi tiếng tại tiểu bang California. Tên của tảng đá
này được người ta nhắc đến do một sự tinh cờ: Ngày nọ, có một người dân làm đơn
khiếu nại Sở Kiều lộ. Người này báo động rằng vì nạn đất chùi, tảng đá này có
thể đổ xuống làm hư nhà; và thế là hai chiếc trực thăng yểm trợ cho hai xe cẩu
loại lớn, người ta đã đưa tảng đá ra xa lộ.
Theo
dõi câu truyện trên đài truyền hình, một người Úc nọ đến mua tảng đá đó với giá
100 Mỹ kim. Sở Kiều lộ của thành phố mừng thầm vì ít ra cũng có người giúp họ
di chuyển cái của nợ ấy ra khỏi xa lộ. Sau đó, người Úc bỏ ra 20.000 Mỹ kim để
thuê xe chuyên chở tảng đá ấy về nhà, và sau bốn tháng miệt mài, anh đã tạc được
chân dung của một tài tử nổi tiếng chuyên đóng phim cao bồi. Đó là món quà qúi
nhất mà người Úc đã dành cho tài tử này truớc khi nhắm mắt lìa đời. Không bao
lâu sau đó, tác phẩm đã được bán cho một người chuyên sưu tầm với giá một triệu
Mỹ kim.
Tảng
đá Melebon trên đây đã bị nhiều người xem như là một của nợ cần vứt đi, nhưng một
người Úc đã nhìn ra nó như một thách đố để thực hiện một công trình vĩ đại. Sự
thành công trong cuộc sống thường được nhiều người gán cho là một sự ngẫu nhiên
hay một vận may nào đó. Nhưng người có niềm tin thì xem đó là sự quan phòng kỳ
diệu của Thiên Chúa. Trước Công nghị Do thái, thánh Phêrô đã giải thích về cái
chết của Chúa Giêsu, với câu nói thời danh: “Phiến đá mà những người thợ xây loại
bỏ đã trở thành viên đá góc tường." Cái chết của Chúa Giêsu quả thực là một
hành động đê hèn dã man của người Do thái, nhưng Thiên Chúa đã biến cái chết ấy
trở thành biểu tượng của tình yêu, và nguyên nhân cứu rỗi của con người. Đó là
điều quan trọng mà mọi người có thể học được qua bài dụ ngôn hôm nay. Amen.
10. Không tin cần biên lai
Một
thượng nghị sĩ lịch lãm ở miền Nam nước Pháp đến Paris. Ông thuê một phòng
trong khách sạn uy tín, và trả tiền phòng luôn một tháng. Viên quản lý khách sạn
hỏi:
-
Ông có muốn ghi biên lai không?
Thượng
nghị sĩ đáp:
-
Không cần thiết đâu, có Chúa làm chứng chuyện này mà.
Viên
quản lý tỏ vẻ ngạc nhiên:
-
Cái gì ! Thời đại này mà ông còn tin có Chúa ư?
- Ô
tin chứ. Vậy ông không tin à?
-
Tôi không tin, thưa ngài.
- Nếu
thế thì tốt nhất ông hãy ghi biên lai cho tôi đi. (Liguorian)
11. Sức mạnh và yếu đuối
Khi
con tàu khổng lồ mang tên Titanic vừa được xuất xưởng và hạ thủy, người ta có
thể đọc thấy dọc theo sườn con tầu những câu khẩu hiệu kiêu căng được vẽ sơn thật
lớn, ngạo nghễ như sau:
No
God, No Pope! (Không có Chúa, cũng chẳng có Giáo Hoàng!) Le Christ lui même, ne
le fera pas sombrer. Ni le ciel, ni la terre ne peut nous engloutir! (Ngay đến
Đức Ki-tô cũng không tài nào đánh đắm con tàu này. Cả trời lẫn đất cũng không
thể khiến chúng ta bị nhận chìm!).
Ngay
khi ấy, một trong các công nhân đóng tàu, vốn là một người Công Giáo ở Dublin
đã ghi vào trong nhật ký như một lời tiên tri: “Vì những tội xúc phạm ghê gớm
đó, tôi tin Titanic sẽ không bao giờ tới được New York”
Và
quả không sai, vào lúc 0 giờ 5 phút ngày 14.4.1912, đúng ngày Chúa Nhật
Quasimodo sau lễ Phục Sinh, tàu Titanic đã chạm mạnh vào một tảng băng khổng lồ
giữa đại dương làm thủng một lỗ lớn làm con tàu bị gãy đôi. Người ta chỉ vớt được
705 người sống sót, còn 1.502 người đã chết theo con tàu kiêu hãnh...
Sau
đó mấy ngày, một tờ báo lớn ở Anh đưa tin kèm theo 2 bức tranh hí họa đầy ý
nghĩa: Hình vẽ con tàu và tảng băng (sự yếu đuối của con người và sức mạnh của
Thiên Chúa) và hình vẽ một người đàn ông nhường chiếc phao cứu hộ cho một bà
đang bế con (sự yếu đuối của thiên nhiên và sức mạnh của con người).
12. Không biết chia sẻ.
Một người nghèo nọ được thần tài gõ cửa, nên
không mấy chốc căn nhà của anh bỗng rộn lên tiếng cười của vợ con, họ hàng và
láng giềng. Một cuộc sống xứng với nhân phẩm hơn đó là điều mà con người may mắm
này đã cảm nhận được.
Tuy nhiên, may mắn nào cũng kéo theo những đòi
hỏi, đòi hỏi thách thức nhất của người nghèo bỗng nhiên trở thành giầu có là:
hãy chia sẻ với người khác. Không mấy chốc, bà con họ hàng từ các nơi đổ xô về
căn nhà nghèo nàn của anh để xin giúp đỡ, trước là nhận họ sau là nhận hàng, đó
là thói thường của người đời.
Kẻ trúng số hiểu được các tâm lý thông thường ấy,
lúc đầu được thúc đẩy bởi lòng quảng đại, ông không ngần ngại chia sớt cho mọi
người. Nhưng dần dà con số người đến xin giúp đỡ ngày càng gia tăng, cho đến một
lúc cuộc sống riêng tư và êm ấm của gia đình hầu như bị xáo trộn triền miên.
Người đàn ông không còn đủ kiên nhẫn nữa.
Một hôm, ông đề nghị với vợ:
- Hay là ta dọn đi một nơi khác.
Người vợ lắc đầu bảo:
- Mình có đi đâu thì thiên hạ cũng tìm tới.
Nhưng người chồng giải thích:
- Mình sẽ đi đến một chỗ không ai biết, mình sẽ
đổi tên đổi họ, cũng không cho ai biết mình sẽ đi đâu, và sẽ cố gắng sống một
cách đơn giản để không ai để ý đến mình nữa, ngay cả mấy đứa nhỏ cũng không cho
biết mình đã trúng số.
Người vợ thắc mắc:
- Còn tiền bạc thì mình để ở đâu?
Chồng trả lời dứt khoát:
- Mình sẽ đem chôn giấu, mình sẽ sống như thể
không hề trúng số, chỉ đem ra dùng khi nào cần thiết mà thôi.
Thế là cả gia đình đã dọn đến một nơi khác như
dự kiến: họ lén lút ra đi nên không ai biết, tiền bạc đem chôn cất, con cái còn
quá nhỏ nên không biết việc gì đã xẩy ra, họ sống nghèo nàn trong một khu ổ chuột.
Ngày qua ngày, chính họ cũng quên rằng mình đã có lần trúng số, và khi họ chết
thì tất cả mọi tài sản đều mất hết. Họ quên cả việc viết chúc thư cho con cái để
trao lại tài sản cho chúng.
13. Tá điền chiếm vườn nho
Vua
Akhab muốn có vườn nho của ông Nabot mà không được vì đó là cơ nghiệp tổ tiên để
lại làm gia bảo. Vua hằm hằm, giận dữ, buồn bực bỏ ăn. Vợ vua lập mưu ra lệnh mở
lễ đại hội cầu an, mời Nabot chủ sự và đặt hai tên vô loài đối diện Nabot để
chúng làm chứng tố cáo Nabot đã nguyền rủa Thiên Chúa và đức vua; rồi điệu
Nabot ra ném đá cho chết đi. Thế là Akhab đã tịch thu vườn nho Nabot. Nhưng tội
giết người cướp của không che được mắt thánh. Tiên tri Elia được Thiên Chúa sai
đến báo cho Akhab biết: “Chó sẽ ăn thịt các ngươi bên tường Nabot." Lòng
tham của Akhab không đáy, được voi đòi tiên, Akhab lại đem quân xâm chiếm đất
nước Aram. Akhab bị bắn chết, đàn chó đã liếm máu ông, y như Chúa đã phán (1V.
21,1 – 22,38). Tham thực cực thân, ác giả ác báo.
Akhab
là một trong muôn ngàn tá điền ở thế gian, mà dụ ngôn tá điền chiếm vườn nho
trong Tin mừng hôm nay kể tới.
14. Chọn lựa của tôi
Mỗi
ngày tôi chọn một niềm vui, một bông hoa, một tiếng cười hay ngược lại?
Và
rồi trải dài suốt cả ngày sống, chúng ta đước trước không biết bao nhiêu là điều
phải lựa chọn, bao nhiêu là điều phải phân xử.
Đứng
trước một sự cãi vả, một cuộc tranh chấp, chúng ta phải lựa chọn cái gì? Lựa chọn
sự thua thiệt hay sự hơn người khác?
Đứng
trước một quyết định về một mầm sống, chúng ta quyết định để hay là phá?
Đứng
trước một con người thấp cổ bé họng, một con người nghèo khổ túng cực, chúng ta
yêu thương họ hay phỉ báng?
Đứng
trước một người giàu thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng
trước một người nghèo thái độ chúng ta như thế nào?
Đứng
trước một con người tạm gọi là tội lỗi, khiếm khuyết, yếu đuối thì chúng ta sẽ
xử họ như thế nào?
Và
rồi, cuối ngày, trước khi đi vào giấc ngủ, chúng ta có kiểm điểm lại qua một
ngày sống chúng ta được không biết bao nhiêu là ơn lành của Chúa để chúng ta tạ
ơn Chúa hay là chúng ta lại tỏ thái độ dửng dưng trước bao nhiêu ân huệ mà Chúa
dành cho ta? Chúng ta lại có khiêm tốn để trao phó cuộc đời chúng ta trong tay
Chúa qua giấc ngủ mà chúng ta sắp chìm vào hay không?
15. Đời chỉ là giấc mộng (Tv 90)
Ngài
cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng, như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh
sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.
Ngài
thịnh nộ, chúng con phải mạng vong, nổi trận lôi đình: thấy mà khủng khiếp! Tội
chúng con, Thánh Nhan đều soi tỏ.
Chúa
nổi xung, đời chúng con tàn tạ, kiếp sống thoảng qua: một tiếng thở dài. Tính
tuổi thọ, trong ngoài bảy chục mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ
là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.
Cơn
giận Ngài, ai lường được sức mạnh, trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên?
Xin
dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan. (Tv
90:5-12)
16. Sự ác còn mãi, Chúa ở đâu?
Một
bác sĩ nọ tìm đến với một Giám mục cao niên và tuyên bố, “Con đến để thông báo
cho Đức cha biết, con đang nghĩ đến chuyện rời khỏi Giáo Hội."
Vị
Giám mục yêu cầu ông cho biết lý do. Nhìn Giám mục, bác sĩ nói, “Thưa Đức cha,
Giáo Hội đã có mặt gần 2,000 năm; thế nhưng, con người đâu có gì khá hơn; con
không chấp nhận những bất công trong Giáo Hội."
Giám
mục bình tĩnh trả lời, “Bác sĩ nói chí lý, nhưng hãy thử nghĩ lại, nước đã xuất
hiện trên mặt đất từ bao nhiêu triệu năm, vậy mà ngày nào, bác sĩ cũng như tôi,
ai cũng phải rửa tay; cũng thế, Thiên Chúa đang thanh luyện chúng ta; Thiên
Chúa chờ đợi chúng ta; Người chờ đợi bác sĩ, Người chờ đợi tôi."
Nghe
thế, viên bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội.
17. Tá điền bất trung
Một
linh mục Trung hoa đã minh họa bằng câu chuyện sau đây:
"Một
bà kia đi chợ mang theo 7 quan tiền trong túi áo. Khi tới chợ, bà trông thấy một
người đàn ông bị què, áo quần rách nát, đang ngồi ăn xin bên vệ đường. Bà thấy
tội nghiệp nên đã móc túi ra cho hắn 6 quan tiền và chỉ giữ lại duy một quan đi
chợ. Nhưng tên ăn mày này vốn tham lam, thấy bà ân nhân vẫn còn một quan tiền ở
trong túi, hắn ta liền bám sát theo và nhân cơ hội bà sơ ý, hắn ta đã ăn cắp nốt
quan tiền còn lại. Khi nghe câu chuyện về tên ăn mày tham lam này, có lẽ ai
trong chúng ta cũng nghĩ hắn ta đúng là một tên mạt rệp đáng khinh bỉ và trừng
phạt!"
Rồi
vị linh mục đặt vấn đề với cộng đoàn: Còn chúng ta thì sao? Trong một tuần lễ,
Chúa đã ban cho chúng ta 6 ngày lao động kiếm ăn, thế mà còn duy một ngày Chúa
nhật để ta dành ra mà nhớ đến Chúa, làm các việc thờ phượng kính mến Chúa và
các việc bác ái phục vụ tha nhân, nhưng nhiều khi chúng ta đã tiếc xót, vẫn làm
việc thêm mong kiếm nhiều tiền cho đầy túi tham! Như vậy, chúng ta sẽ là hạng
người nào?
18. Sinh lợi cho Chúa
Năm
1965 trong chuyến bay từ Ý qua Mỹ, có một số Giám Mục trở về sau khi tham dự
Công đồng Vaticanô II. Có 1 nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp nhưng cô lại rất bực
mình vì có một người cứ chăm chú nhìn cô, người đó là Đức Tổng Giám Mục Fulton
Sheen, vị giảng thuyết lừng danh của Hoa Kỳ. Khi hạ cánh, Đức Tổng nói với cô:
“cô đẹp lắm, cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.” Mấy hôm sau cô chiêu đãi
viên này tìm đến văn phòng Đức Tổng và hỏi con phải cám ơn Chúa thế nào? Đức Tổng
trả lời: “Chúa đã lấy hết sắc đẹp của người cùi trong trại cùi Di linh bên VN
mà ban cho cô, cô hãy qua đó an ủi họ.” Sau một thời gian, cô này đã nhập Dòng
làm nữ tu và tình nguyện sang Việt Nam phục vụ tại trại cùi Di Linh.
19. Hy sinh giúp việc Chúa
Một
thiếu nữ trẻ đẹp Người Úc ở Melbourne. Chúa kêu gọi cô làm thừa sai giúp những
người mắc bệnh cùi tại Inđônêsia. Cô sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa không chút do
dự, và được hội truyền giáo gởi đến khu làng cùi tại đó. Nhiều người ngạc nhiên
hỏi cô:
-
Sao cô can đảm hy sinh như thế? Nếu cô bị lây nhiễm bệnh cùi, sắc đẹp cô sẽ tàn
phai đã đành, cuộc đời cô sẽ bất hạnh nữa. Cô nghĩ sao?
-
Tôi sẵn sàng hy sinh cho những người cùi, vì đó là điều Chúa muốn tôi thực hiện
để giúp việc Chúa, dù có chết tôi cũng sẵn sàng để làm sáng danh Chúa.
Thế
là cô lên đường, phục vụ người cùi được trên mười năm, thì mắc bệnh như người
ta tiên đoán. Mặc dầu cô được chữa khỏi, nhưng nhan sắc cô bị ảnh hưởng bệnh đó
nên trở nên xấu xí. Nhất là khi thời tiết thay đổi, cô rất đau đớn. Có người hỏi:
-
Cô có ân hận vì đã giúp người cùi mà bây giờ phải mang hậu quả bi đát thế
không?
Cô
điềm nhiên đáp:
-
Dù ta phải trả giá bằng mạng sống, tôi cũng sẵn sàng dâng hiến. Và nếu Hội
Thánh cần, tôi vẫn không từ chối đến phục vụ anh chị em cùi bất cứ ở nơi nào.
20. Hy sinh vì Nước Chúa
Sáng
ngày 19 tháng 3 năm 1994, do hai phát súng của nhóm bất lương Camara ở nước Ý
đã giết chết cha Giuse Daiana tại phòng áo nhà thờ xứ Casandi Piusêpê, lúc cha
chuẩn bị dâng Thánh Lễ.
Cha
Daiana là một linh mục 36 tuổi luôn nhiệt thành trong sứ mạng tông đồ, chăm sóc
vườn nho của Chúa. Trong bài giảng lễ an táng cha, Đức Giám Mục Lôrensô
Chiaradinali đã tóm lược công tác tông đồ của cha như sau: “Đau khổ và tin tưởng.
Đó là đời sống tông đồ của cha Daiana. Việc tông đồ của cha đầy khó khăn vì những
hình thức vô luân đồi bại và những sức mạnh bất lương núp sau bóng tối. Sứ mệnh
tông đồ của cha là bẻ gãy xiềng xích của tội ác để xây dựng công bằng và tình
thương. Hoạt động tông đồ của cha bắt đầu từ công tác giáo dục đức tin, nỗi lực
sống chứng tá Kitô, bảo vệ quyền lợi cho người nghèo khổ và bị áp bức, nhất là
huấn luyện giới trẻ qua hoạt động hướng đạo...
Tinh
thần hăng say hoạt động tông đồ và lòng quả cảm hy sinh của cha Daiana mời gọi
chúng ta nhớ đến thái độ bê tha chểnh mãng của các Thượng Tế và Biệt Phái trong
Tin Mừng hôm nay đối với vườn nho của Chúa.
Cha
Daiana đã cống hiến cho vườn nho của Chúa bao nhiêu thì các Thượng Tế và Biệt
Phái đã bê bối bấy nhiêu. Với tấm lòng của người tông đồ, cha đã trung thành với
sứ mạng Chúa giao bằng cái giá đắt là mạng sống của mình.
Cái
chết của cha như hạt giống gieo vào lòng đất, phải mục nát để sinh được bông
trái dồi dào tốt đẹp dâng cho Chúa, như Chúa Giêsu đòi hỏi các nhà lãnh đạo Do
Thái phải thực hiện trong Tin Mừng. Thật vậy, cái chết của cha đã không uổng
phí. Mấy hôm trước khi bị sát hại, cha đã nói với một thanh niên muốn theo ơn gọi
linh mục: “Nếu con muốn trở thành linh mục, con phải luôn nhớ con sẽ phải trả
giá rất đắt." Và chính người thanh niên đó, khi đứng trước thi hài của cha
đã tuyên bố: “Trước kia tôi còn do dự, nhưng giờ đây đứng trước thi hài của
cha, tôi nhất quyết trở thành linh mục”
21. Lịch sử loại trừ nhau
Trước
đây, có một nhân vật đã nhìn vào lịch sử nhân loại và đưa ra những con số như
sau: từ năm 1496 BC, trước công nguyên, tới năm 1861 AD, trong 3358 năm, đã có
227 năm hoà bình, và 3130 năm chiến tranh. Như vậy cứ 13 năm chiến tranh, mới
có một năm hoà bình. Trong ba thế kỷ, 16, 17 và 18 đã có 286 cuộc chiến xảy ra ở
Âu Châu. Từ năm 1500 BC, trước công nguyên, tới năm 1860 AD, đã có hơn 8000 hiệp
ước về hoà bình đã được ký kết.
Nhận
xét trên đây về tình trạng của nhân loại đã được đưa ra hơn một thế kỷ rồi,
chưa kể đến hai cuộc thế chiến, những cuộc chiến tranh kéo dài về ý thức hệ, chủng
tộc và khủng bố ở thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã
nói: “Thế kỷ 20 sẽ được coi như thời đại mưu sát khổng lồ sinh mạng con người.
Trong
bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói dụ ngôn về vườn nho với những hành động bạo
lực, bắt bớ, đánh đập, ném đá và giết người của các tá điền. Trong Cựu Ước, vườn
nho là hình ảnh của dân Thiên Chúa, dân Do Thái, như đã được diễn tả trong sách
tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất: “Vườn nho của Chúa các đạo binh là nhà
Irael." Trong cái nhìn của Tân Ước, khi Chúa Giêsu nói với các thầy thượng
tế và kỳ lão rằng: “Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc
khác biết làm cho trổ sinh hoa trái." Chúng ta phải nghĩ đến hình ảnh vườn
nho là cả nhân loại, gồm tất cả mọi dân tộc trên thế giới.
22. Thuốc đặc trị virus sự ác
Con
vi-rút quái ác Corona xuất hiện từ cuối năm 2019 đến nay làm điên đảo cả thế giới.
Các nhà khoa học gần đây vừa tìm ra một số loại vắc-xin để ngăn chặn sự lây nhiễm
thì đã phát hiện thêm ít là 3 biến thể mới, lây nhanh hơn, độc lực mạnh hơn. Về
mặt thiêng liêng, còn có một cơn đại dịch khác độc hại hơn, lây lan nhanh hơn,
vốn đã có từ khởi thuỷ, đến nay vẫn còn đang hoành hành: cơn đại dịch của sự
ác. Có thể nói, tất cả độc lực của con vi-rút sự ác: ghen ghét, đố kị, tham
lam, giết chóc… được khắc hoạ nơi “những tá điền sát nhân” khiến chúng tấn công
huỷ diệt không trừ ai, từ những đầy tớ cho chí người con yêu dấu của ông chủ.
Chính trong cơn bĩ cực ấy, Chúa lại ban “thuốc đặc trị”: “Tảng đá bị loại bỏ lại
trở nên đá tảng góc tường”, đó là Đức Giê-su, Đấng “bị treo lên cây gỗ mà giết
đi” đã sống lại và “đem lại ơn sám hối và ơn tha tội” (x. Cv 5,30-31).
Cơn
đại dịch của sự ác vẫn không ngừng làm khuynh đảo lòng người, tuy nhiên Chúa đã
gửi đến cho chúng ta phương thuốc vô cùng hiệu quả để tiêu diệt con vi-rút sự
ác; phương thuốc gồm hai vị chính: Lời Chúa và các Bí tích, hiệu quả tốt nhất
khi dùng kết hợp với nhau, đồng thời với các biện pháp linh đạo trị liệu là cầu
nguyện, ăn chay và làm việc bác ái.
23. Đặt niềm tin nơi Chúa
Một
giáo sư Đại học đã đưa các sinh viên lớp xã hội đến khu nhà ổ chuột ở Baltimore
để lập hồ sơ nghiên cứu về hoàn cảnh của 200 cậu bé sống ở đó. Sau chuyến đi,
giáo sư yêu cầu các sinh viên viết bài thu hoạch nhận định về tương lai của từng
cậu bé. Các sinh viên đều kết luận: “Các cậu bé này không có cơ hội phát triển.”
Hai
mươi năm sau, một giáo sư Xã hội học khác tình cờ xem lại hồ sơ nghiên cứu trước
đó. Ông yêu cầu các sinh viên tiếp tục công trình ấy để điều tra số phận sau
này của những cậu bé đó. Ngoài 20 trường hợp các cậu bé đã chuyển đi nơi khác
hoặc không biết tin tức, các sinh viên nhận thấy rằng có 176 trong số 180 còn lại
đều thành đạt trên mức bình thường, tất cả đã trở thành những luật sư, bác sĩ
hay các doanh nhân thành công.
Vị
giáo sư rất đỗi ngạc nhiên, ông quyết tìm hiểu kỹ hơn mọi chuyện. Rất may, các
cậu bé ngày xưa vẫn sinh sống tại các khu lân cận nên ông có thể tiếp xúc với tất
cả. Câu hỏi ông đặt ra là: “Đâu là nguyên nhân cho sự thành đạt của bạn hôm
nay?” Trong tất cả các trường hợp, câu trả lời luôn đi kèm với sự xúc động: “Đó
là nhờ một người thầy của tôi.”
Người
thầy đó vẫn còn sống, nên vị giáo sư quyết tâm đi tìm và hỏi người phụ nữ, tuy
cao tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn ấy rằng: phép lạ nào đã giúp bà cứu các cậu bé
thoát khỏi khu nhà ổ chuột và đạt được những thành công như ngày hôm nay.
Đôi
mắt của bà chợt sáng lên và với một nụ cười dịu dàng trên môi, bà nói: “Điều đó
rất đơn giản. Vì tôi có niềm tin vào những cậu bé đó.”
Chúa
đã đặt niềm tin vào mỗi người. Chớ gì khi Chúa đến, thành quả của chúng ta sẽ
được Chúa chúc phúc, để cùng với Chúa Giêsu Kitô được sống trong “vườn nho vĩnh
cửu của Chúa.”
24. Tá điền chiếm vườn nho
Bà
Terri Schiavo, 41 tuổi, bị hư não, bất toại với đời sống thực vật suốt 15 năm.
Bà đã qua đời ngày 31-3-2005 sau 13 ngày bị rút ống dẫn thức ăn uống theo ý của
người chồng, trong khi cha mẹ và những người bảo vệ sự sống không đồng ý, vì muốn
cho bà tiếp tục được sống. Thực vậy, việc rút máy tiếp ăn uống cho bà là không
hợp với luân lý. Bà không hôn mê, không cần trợ sinh, bà chỉ cần chăm sóc cơ bản
và sự trợ giúp tiếp nhận thức ăn và nước uống. Như lời Đức cố Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II trong dịp tiếp đón 400 tham dự viên của Tổng hội nghị quốc tế, được tổ
chức bởi liên đoàn thế giới của những hội y tế Công giáo và Hàn lâm viện Giáo
hoàng về sự sống, vào ngày 20-3-2004, đã khẳng định: “Con người, thậm chí dù có
bị ốm đau trầm trọng hay bị liệt cả thân thể, thì họ vẫn luôn là những con người,
và sẽ không bao giờ trở thành “những con vật” hay những “loài vật.” Nhân phẩm của
anh chị em chúng ta trong hoàn cảnh “dở sống dở chết” này phải được tôn trọng
và gìn giữ một cách trọn vẹn.
Hành
động làm cho bà Terri Schiavo chết một cách không tự nhiên này, đi ngược lại với
giáo huấn của Hội Thánh (Dựa vào Tuyên ngôn về an tử của Thánh bộ giáo lý đức
tin 1980, vào Giáo lý Công giáo và tài liệu của Hàn lâm viện Giáo Hoàng phục vụ
sự sống. Với lý do: Không ai có quyền trên sự sống con người, quyền này thuộc về
Thiên Chúa, và con người có bổn phận sống hòa hợp với tình yêu và kế hoạch của
Thiên Chúa).
25. Đàng thánh giá lạ lùng
Trong
một chuyến đi Chicago, tôi đã đặt chân vào ngôi nhà nguyện ấy.
Đó
là ngôi nhà nguyện trong một cao ốc tối tăm vùng Nam Chicago, nơi được dùng làm
trụ sở của tổ chức Catholic Charities. Mặt tiền của cao ốc này là con đường tấp
nập xe cộ; cửa sau cao ốc thông ra một khu đậu xe, với con đường đất dẫn vào, gập
ghềnh, lồi lõm. Ngay trên đầu lối xe vào là chiếc cầu xi măng, trên đó xe điện
chạy rầm rập suốt ngày đêm.
Rõ
ràng, đây không phải là một cao ốc khang trang, tráng lệ. Nó hợp với khung cảnh
của vùng Nam Chicago, nơi có nhiều người da đen và người Mễ, những người nghèo,
thuộc tầng lớp thấp kém trong xã hội. Tầng trệt của cao ốc này là trung tâm
sinh hoạt tôn giáo của những người Mễ Tây Cơ.
Có
lẽ trong tầng trệt của cao ốc này, ngôi nhà nguyện là căn phòng đẹp nhất, với
những bờ tường cẩn đá cuội to bên dưới, một bàn thờ làm bằng một phiến gỗ mộc,
một nhà tạm bên góc trái với ngọn đèn dầu leo lét, và một giàn đèn màu hắt ánh
sáng từ trên trần xuống.
Tôi
quì trong nhà nguyện, tĩnh tâm một lúc rồi ngó lên bốn bức tường tìm kiếm một
hình ảnh thân quen: mười bốn chặng đàng thánh giá. Trong bất cứ một thánh đường
hay nguyện đường Công giáo lớn nhỏ nào, đều có hình ảnh của mười bốn chặng đàng
thánh giá. Đó là những hình ảnh ghi lại những biến cố quan trọng trong đoạn đường
khổ nạn của Chúa Kitô, bắt đầu từ sự kiện Ngài bị đưa đến dinh quan tổng trấn
Philatô luận tội và kết thúc ở sự kiện xác Ngài được táng trong huyệt đá. Người
giáo dân, khi muốn tưởng nhớ đến công ơn cứu chuộc của Chúa Kitô thì đứng trước
mỗi chặng đó, đọc kinh, suy niệm, gọi là ''đi đàng thánh giá.”
Điều
làm tôi kinh ngạc là ngôi nhà nguyện trang trí theo nghệ thuật Mễ Tây Cơ này
không có mười bốn chặng đàng thánh giá. Tôi đã từng đến những ngôi nhà nguyện rất
nhỏ hẹp, rất đơn sơ nghèo nàn, nghèo đến độ không có nổi hình ảnh của mười bốn
chặng đàng thánh giá; nhưng thay vào đó, người ta đã cắt mười bốn hình thánh
giá nhỏ bằng giấy, gắn lên tường, tượng trưng cho mười bốn chặng đàng thánh
giá. Ở đây, hình ảnh không có, thánh giá bằng nhựa, bằng giấy cũng không có, tường
vách trống trơn. Thay vào đấy, họa sĩ nào đó đã dùng màu, vẽ dày đặc trên bốn bức
tường. Hình ảnh những người đa đen, người Mễ, những cảnh gồng gánh, cảnh làm việc
tại công trường... trông hết cả vẻ trang nghiêm của một nơi thờ phượng. Tự
nhiên tôi thấy giận giận trong lòng. Cái tật vẽ tùm lum tà la trên tường nhà,
đường phố, cầu cống của người Mễ xâm nhập cả vào nơi cầu nguyện.
Tại
sao lại có một sự vô ý thức đến như thế!
Vì
công việc, tôi phải ở lại trung tâm sinh hoạt tôn giáo của người Mễ này vài
ngày. Và cũng vì trách nhiệm, mỗi ngày tôi phải vào ngôi nhà nguyện đó nhiều lần.
Lần nào cũng vậy, thay vì tìm thấy sự bình an trong tâm hồn thì tôi chỉ cảm thấy...
mất bình an. Càng mất bình an bao nhiêu thì tôi càng có cảm tưởng những hình ảnh
trên tường đó càng nhảy múa, trêu ghẹo tôi bấy nhiêu. Hóa ra, thay vì được
''tĩnh tâm" thì tôi lại bị ''động tâm''. Nguyên do cũng chỉ vì ngôi nhà
nguyện không có mười bốn chặng đàng thánh giá, lại thêm nữa là tường vẽ đầy những
hình ảnh kì quái làm mất vẻ trang nghiêm.
Cho
đến buổi sáng kia, một vị hình mục đến dâng Thánh lễ trong ngôi nhà nguyện này.
Trong phần giảng thuyết, ngài khai triển chủ đề ''Chúa ở trong tha nhân''. Ngài
nói: ''Chúng ta không nhìn thấy Chúa, nhưng nhìn thấy anh em chung quanh ta
cũng chính là thấy Chúa, vì Chúa ở trong những người anh em đó. Chúng ta cũng
không trực tiếp phục vụ Chúa, nhưng khi chúng ta phục vụ những người anh em
cũng là chúng ta phục vụ chính Chúa, vì Chúa ở trong những người anh em đó.''
Tôi
ngồi nghe, hơi thờ ơ. Những tư tưởng này tôi cũng đã được nghe nhiều lần, không
có gì mới lạ. Nhưng tôi bắt đầu chú ý khi vị linh mục đề cập tới những bức tường
trong ngôi nhà nguyện. Bằng một giọng đều đặn nhưng không thiếu sự rung cảm,
ngài nói:
Anh
em thử nhìn lên bốn bức tường trong nhà nguyện này. Anh em không thấy mười bốn
chặng đàng thánh giá, cũng không thấy Chúa đâu. Nhưng có Chúa đó, và cũng có cả
mười bốn chặng đàng thánh giá đó.
Tôi
kinh ngạc, chú ý nghe. Và vị linh mục nói tiếp:
Anh
em hãy nhìn bức hình thứ nhất: một người da đen bị trói hai tay, đứng trước những
người khác. Anh em không nhìn thấy Chúa đâu, nhưng có Chúa trong người da đen ấy.
Chúa Kitô đang bị đưa ra trước tòa quan tổng trần Philatô đó... Anh em hãy nhìn
bức hình thứ hai, anh em không thấy Chúa đâu, chỉ thấy một người đang vác những
vật rất nặng trên vai, lưng anh ta còng xuống. Chúa đó, Chúa Kitô vác thánh giá
trong người anh em đang mang nặng đó... Anh em hãy nhìn bức hình thứ ba, anh em
không thấy Chúa đâu, chỉ thấy một người bị đè dưới một đống gạch. Chúa đó, Chúa
Kitô bị ngã xuống đất dưới sức nặng của cây thánh giá...
Anh
em hãy nhìn bức hình thứ tư, anh em không thấy Chúa đâu, chỉ thấy một phụ nữ đẹp
sầu muộn đang nhìn một người đang bị đánh đập. Chúa Kitô đó, trên đường khổ
giá, Ngài đã gặp Đức Mẹ sầu bi.
Lần
lượt, vị linh mục giảng giải trọn vẹn mười bốn chặng đàng thánh giá vẽ trên tường.
Tôi và những người ngồi trong nhà nguyện chăm chú lắng nghe. Nghe mà cảm thấy
trong lòng sung sướng. Đây là lần đầu tiên, tôi cảm nghiệm bài học "Chúa ở
trong tha nhân '' một cách thật mãnh liệt và sống động.
Buổi
chiều, tôi gặp vị linh mục yà tỏ ý cảm phục vì sự ngài nhìn ra ý nghĩa của những
hình ảnh ''kì quái” trên tường. Ngài cười nhẹ đáp: "Tôi nghĩ đó là sự nhạy
cảm văn hóa."
Buổi
sáng sớm nay, tôi vào nhà nguyện, ngồi suy niệm. Bất chợt, nhìn lên tường, ngắm
những bức tranh ấy, tôi tìm ra được ý nghĩa của chúng.
Tôi
không có được sự ''nhạy cảm văn hóa'' của vị linh mục kia. Nhưng qua sự giải
nghĩa của ngài, tôi học được một bài học còn quan trọng hơn sự ''nhạy cảm văn
hóa''. Chuyện xảy ra là, sau buổi sáng hôm ấy, mỗi lần vào nhà nguyện Mễ Tây Cơ
đó, tôi không còn cái tâm trạng ''giận giận'' và ''mất bình an'' nữa; trái lại,
lòng tôi thấy bình an thư thái và chan chứa yêu thương. Tôi thấy ngôi nhà nguyện
đẹp và dễ thương, những giờ cầu nguyện trong ngôi nhà nguyện ấy thật là ý
nghĩa.
Trước
đây, tôi thấy ngôi nhà nguyện dễ ghét, vì tôi không hiểu được ý nghĩa những bức
tranh vẽ trên tường.
Bây
giờ, ngôi nhà nguyện dễ thương, vì tôi đã hiểu được ý nghĩa những bức tranh ấy.
Bài học tôi học được chính là ở chỗ đó: ngôi nhà nguyện cũng y như một con người
và những bức tranh vẽ trên tường cũng giống như tâm hồn của người ấy. Có những
người, khi mới thoạt gặp, tôi đã thấy ''mất cảm tình'' ngay, nơi họ có cái gì
kì cục, khó ưa và tôi tìm cách xa tránh họ, không muốn tiếp xúc với họ. Tình cờ
gặp họ, dù họ không làm gì đụng chạm đến tôi, tôi cũng thấy ghét, thấy bực
mình. Thế nhưng, nếu có cơ hội nào, tôi đi được vào cõi lòng của người ấy, tôi
biết được tâm trạng, sự suy nghĩ, niềm vui nỗi buồn, niềm đau và sự hạnh phúc của
người ấy, tôi sẽ thấy người ấy có những điểm dễ thương và tâm hồn người ấy có
nhiều điều đáng quí.
Hi
vọng rằng từ nay, khi tiếp xúc với một người, tôi sẽ không vội ưa hay không ưa,
mà cố gắng tìm hiểu tâm hồn họ. Và tôi tin rằng nơi tâm hồn bất cứ một ai cũng
có những điểm đáng quí, dễ thương.
Nhà
văn Quyên Di
26. Giết Chúa thời nay
Tháng
8/1963 Martin Luther King dẹp qua một bên bài diễn thuyết được soạn sẵn, để nói
thẳng với hàng trăm ngàn người nghe ông: “Hôm nay, tôi mơ ước rằng một ngày nào
đó người da đen sẽ nắm tay người da trắng và cùng nhau sánh bước như anh em.”
Khi ông nói như thế , một số người đã nhạo báng: “Nào chúng ta giết hắn đi…để
xem những ước mơ của hắn sẽ ra sao?”
Thái
độ của tôi như thế nào đối với những mơ ước của Martin Luther King? Tôi đang
làm gì về điều đó một cách cụ thể? Tôi có để cho sự sợ hãi (sợ thất bại, sợ dư
luận) giết chết những ước mơ của tôi không?
Khi
bạn thấy thực chất của vấn đề, bạn hỏi: “Tại sao như vậy?” Nhưng khi bạn mơ ước
những điều xa vời, bạn lại hỏi: “Tại sao không xảy ra chứ?” (George Bernard
Shaw).
CNTN 27B -
Lời
Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
CNTN 27C -
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ HAI - NGƯỜI SAMARITANÔ
NHÂN HẬU
Lời
Chúa: Lc 10, 25-37
Khi
ấy, có một người thông luật đúng dậy hỏi thử Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy,
tôi phải làm gì để được sự sống đời đời?" Người nói với ông: "Trong Lề
luật đã chép như thế nào? Ông đọc thấy gì trong đó?"
Ông
trả lời: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn,
hết sức và hết trí khôn ngươi, và hãy thương mến anh em như chính mình."
Chúa Giêsu nói: "Ông trả lời đúng, hãy làm như vậy và ông sẽ được sống."
Nhưng người đó muốn bào chữa mình, nên thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Nhưng
ai là anh em của tôi?"
Chúa
Giêsu nói tiếp: "Một người đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, và rơi vào tay
bọn cướp; chúng bóc lột người ấy, đánh nhừ tử rồi bỏ đi, để người ấy nửa sống nửa
chết. Tình cờ một tư tế cũng đi qua đường đó, trông thấy nạn nhân, ông liền đi
qua. Cũng vậy, một trợ tế khi đi đến đó, trông thấy nạn nhân, cũng đi qua.
Nhưng một người xứ Samaria đi đường đến gần người ấy, trông thấy và động lòng
thương. Người đó lại gần, băng bó những vết thương, xức dầu và rượu, rồi đỡ nạn
nhân lên lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, lấy ra hai quan tiền,
ông trao cho ông chủ quán mà bảo rằng: "Ông hãy săn sóc người ấy, và ngoài
ra còn tốn phí hơn bao nhiêu, khi trở về tôi sẽ trả lại ông."
"Theo
ông nghĩ, ai trong ba người đó là anh em của người bị rơi vào tay bọn cướp?"
Người
thông luật trả lời: "Kẻ đã tỏ lòng thương xót với người ấy."
Và
Chúa Giêsu bảo ông: "Ông cũng hãy đi và làm như vậy."
TRUYỆN KỂ
1. Có khổ mới có cảm thông
Một
phóng viên nọ muốn biết cách đối xử với con người thế nào, ông đã giả vờ làm
người bị thương nằm bên vệ đường cùng với chiếc xe bị hư của ông. Nhiều người
đã đi qua..., cuối cùng có một người dừng xe lại xem xét và đến trạm gọi điện
thoại cho cảnh sát.
Người
phóng viên đã cẩn thận ghi các số xe đã chạy qua, sau đó, ông đến tận nhà họ để
phỏng vấn. Mỗi người đều nói lên lý do của mình, nhưng không ai nghĩ mình một
ngày kia có thể rơi vào hoàn cảnh như thế: bàn tay của mình đưa ra để mong tìm
được sự nâng đỡ của người khác mà không gặp được.
2. Chén thánh bữa tiệc ly
Sir
Launfal, một hiệp sĩ trẻ hào hùng. Một ngày nọ chàng hiệp sĩ lên đường đi truy
tìm chiếc chén thánh mà Chúa Giêsu đã sử dụng trong bữa tiệc ly. Khi chàng bắt
đầu rời khỏi thành phố ra đi thì gặp ngay một người cùi đang ngồi ăn xin bên vệ
đường. Chạnh lòng thương, chàng đã giúp cho người cùi một đồng, rồi ra đi.
Chàng tìm mãi chẳng thấy chén thánh đâu!
Thất
bại, chàng hiệp sĩ bèn lên ngựa quay trở về nhà. Lúc này chàng đã già hơn xưa
sau cuộc hành trình tìm kiếm thật gian khổ. Còn người cùi vẫn ngồi ăn xin ở chỗ
cũ. Chàng hiệp sĩ chẳng còn tiền bạc gì nữa để cho, anh chia sẻ với người cùi mảnh
bánh vụn còn lại của anh. Ăn xong, họ chẳng có gì để uống. Chàng hiệp sĩ bèn lấy
cái tô của người cùi đi tìm nước cho người cùi uống. Khi chàng bưng tô nước
quay trở lại đưa cho người cùi thì người cùi đã biến thành Chúa Giêsu và tô nước
hoá nên chén thánh mà chàng đang đi tìm kiếm.
3. Tình yêu vượt qua hận thù
Trong
thế chiến vừa qua, một sĩ quan Anh thấy một sĩ quan Đức bị trọng thương, đang oằn
oại bên hàng rào kẽm gai. Bom đạn ầm ầm, khói lửa ngút trời, nên không thể đưa
người thương binh vào chỗ an toàn. Cuối cùng, người sĩ quan Anh tự nhủ: “Mình
không đành lòng nhìn một người đau đớn khốn khổ như vậy!
Thế
là anh phóng ra giữa lửa đạn, vác người thương binh trên vai và đưa sang phần đất
mà quân Đức chiếm đóng. Khi trận chiến tạm dừng, một sĩ quan Đức bước ra khỏi
chiến hào, tháo chiếc thánh giá bạc đeo trước ngực và gắn cho người sĩ quan
Anh.
4. Tình yêu gầy dựng
Một
hôm, Thầy Antôn dẫn Thầy Amôna ra khỏi chòi tu và chỉ vào tảng đá giữa hoang địa
mà nói:
-
Thầy hãy mắng tảng đá và đập cho nó một cái đi.
Thầy
Amôna làm theo. Lúc đó Thầy Antôn hỏi: - Tảng đá có nói gì không?
Thầy
Amôna đáp: - Không.
Thầy
Antôn nói: - Thầy cũng vậy, thầy sẽ đạt tới mức độ này.
Ý
thầy Antôn muốn nói là thầy Amôna phải tập sao cho mình không còn biết đến hai
chữ giận dữ, không còn biết đến nóng nảy là gì nữa.
Và
quả thực sau này đã xảy ra như thế. Thầy Amôna càng ngày càng tiến bộ, lòng
nhân hậu của Thầy càng ngày càng tăng trưởng tới mức thầy không biết tới sự ác
độc, dữ dằn là gì nữa. Về sau, khi thầy lên chức Giám Mục, có một lần các tu sĩ
trong miền dẫn tới Toà Giám Mục một thiếu nữ mang bầu và xin Ngài ra hình phạt.
Ngài đã ứng xử như thế nào? Đức Cha đã đưa tay vẽ hình Thánh Giá lên bụng cô
gái, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm drap bằng lanh mịn và nói:
- Sợ
rằng, khi cô ta sinh con, cô ta hay đứa con có thể chết, mà không có gì tẩm liệm
chăng?
Nhưng
những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại
sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài
ôn tồn bảo:
-
Xin anh em coi, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi còn phải làm gì hơn nữa?
Nói
thế rồi Ngài cho cô ta về. Từ đấy, không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
5. Trở nên người thân cận
Giám
mục Myriel, nhân vật trong cuốn tiểu thuyết “Những người cùng khổ” của Victor
Hugo, đã cứu anh J. Valjean khỏi rắc rối với cảnh sát khi anh ăn trộm bộ muỗng
đĩa của toà giám mục, lại còn tặng anh thêm mấy chân đèn bạc và nhắn nhủ: “Thôi
con đi, đừng bao giờ quên lời cha. Con hãy hứa với cha là con sẽ dùng số tiền
bán các đồ vật này để làm lại cuộc đời, sống lương thiện giúp ích cho xã hội.”
Cảm kích trước tấm lòng nhân hậu như thế, Valjean đã được biến đổi từ một người
tội phạm thành một thị trưởng gương mẫu. Lòng trắc ẩn của vị giám mục coi phạm
nhân như người thân cận, minh hoạ hình ảnh người Sa-ma-ri coi nạn nhân bị cướp
trên đường Giê-ri-khô như người thân cận của mình, không tiếc công sức, thời giờ,
tiền bạc để cứu giúp nạn nhân trong tình huống cấp bách.
“Tránh sang bên kia đường” là cám dỗ không phải
chỉ của thầy tư tế hay thầy Lê-vi, mà cũng có thể là cám dỗ cho chính bạn khi bạn
dửng dưng trước những người lâm cảnh khốn cùng vì cho rằng mình không có bổn phận
giúp người xa lạ hay không thân thiết với mình. Lời Chúa hôm nay mời gọi bạn đổi
lại thái độ: khi giúp đỡ chia sẻ với ai đó bằng lời nói hay việc làm bác ái, bạn
làm cho người ấy trở nên người thân cận với bạn.
6. Hãy làm như vậy
Tạp
chí Glamour số ra tháng 12/1991 có bài xã luận về một phụ nữ trong chiếc xe hơi
màu đỏ. Bà ta lái xe đến trạm thuế qua cầu Bay và đưa cho nhân viên bảy chiếc
vé và nói: “Tôi trả cho sáu chiếc xe sắp tới.” Khi các xe sau ngừng lại, người
tài xế đều được bảo cho biết là người phụ nữ đi xe hơi màu đỏ đã trả phí qua cầu
cho ông và chúc một ngày tốt lành. Người phụ nữ đó đã được đẩy bởi câu nói của
Anne Herbert: “Hãy thực hành lòng tốt cách ngẫu nhiên và làm những nghĩa cử cao
đẹp một cách gàn dở.” Anne tin rằng “lòng tốt ngẫu nhiên” có khả năng phát sinh
cơn sống thần, cũng như sự hung bạo ngẫu nhiên vậy. Có lẽ đó là lý do tại sao
câu nói của Anne đang xuất hiện khắp nơi. Nó đánh thức một cái gì đó sâu lắng
trong tâm hồn con người.
Tôi
có thể “đi và làm như vậy” không?
Như
trong mọi cuộc cách mạng, ưu thế của du kích có kết quả nhờ những hành động đơn
lẻ. Bạn cũng hãy làm như vậy (Tạp chí Glamour).
7. Bức tường thù ghét
Đưa
người Samaritanô nhân hậu như mẫu mực trong dụ ngôn của Ngài, Chúa Giêsu đã gây
khó chịu cho những thính giả Do Thái, những người rất thù ghét người Samari. Sự
thù ghét này đã có từ ngày quân Assyri chinh phục phía Bắc Israel (Samari) vào
năm 722 trước công nguyện. Những người Samari còn sống sót thông gia với những
kẻ đã chinh phục họ, và điều này khiến cho những người Do Thái khác giận dữ.
Vào thời Chúa Giêsu, người Samari bị cấm vào Đền thờ và Hội đường (dành cho người
Do Thái). Ngược lại, người Samari cũng không cho người Do Thái đến gần thị trấn
của họ.
Tôi
sẵn sàng tới mức nào trong sáng kiến phá bỏ bức tường của thù ghét, để xây dựng
nhịp cầu yêu thương? Tôi có thể thực hiện điều này ra sao?
Tình
anh em, trước kia chỉ là một giấc mơ, giờ đây đã trở nên vô cùng cần thiết
(Louis L.Mann).
8. Tình yêu đòi hy sinh
Sáng
ngày 13-07-1970, ông Đinh Văn S., một cảnh sát viên ở Bảo Lộc – Lâm Đồng, đang
chạy chiếc xe vespa đến nhà thờ dự lễ Chúa nhật (XV năm C). Ông có thói quen đọc
Phúc Âm ở nhà trước khi dự Lễ, trên đường đi, ông đang suy nghĩ về đoạn Phúc Âm
“Người Samari nhân hậu”(Lc 10,25-37), chiếc xe ông đang đổ dốc, thình lình ông
nhìn thấy một cô gái nằm bất tỉnh cạnh chiếc xe đạp bên vệ đường! Ông sợ quá rồ
ga chạy nhanh hơn, nhất là gần đến giờ Lễ rồi, mà Nhà Thờ chỉ có một Lễ sáng.
Chạy một quãng dài, hình ảnh “Người Samari nhân hậu” tra vấn lòng ông. Thế là
ông quay xe trở lại chỗ cô gái lúc nãy, ông tiến lại gần và thấy cô nằm bất động,
máu me đẫm ướt quần cô gái. Ông vội vực cô đưa lên xe chở vào nhà thương cấp cứu.
Người
ta chẳng biết nguyên nhân thế nào, cứ tạm giữ ông để điều tra, vì biết đâu
chính ông là người đã gây ra?!
Từ ở
bệnh viện ông nhắn tin về nhà cho vợ biết. Bà nghe tin, vội đi ngay đến xem sự
gì đã xảy ra với chồng? Khi nghe ông kể đầu đuôi câu chuyện, thay vì an ủi, bà
lại xỉa xói:
-
Sao ông ngu thế! Ông làm thế bây giờ người ta cứ cột tội vào cổ ông. Nếu cô ta
chết, ai làm chứng cho ông đây? Ở nhà tôi đã đủ thứ việc, bây giờ lại mắc của nợ
này, ông giết tôi cho rồi!
Ông
chỉ còn biết cắn răng với nhân đức chịu vậy suốt ba ngày, trước sự cằn nhằn của
vợ về sự “dại dột” của mình!?
Nhưng
rất may, cô gái ấy tỉnh lại và kể rõ mọi việc: “nguyên nhân là vì hôm ấy tôi
đang đổ dốc với chiếc xe đạp đi hái trà, chẳng may xe bị đứt thắng sau, chiếc
xe lao xuống quá nhanh, tôi hoảng hốt bóp thắng trước, tức thì chiếc xe lộn ngược
quật tôi xuống đất, chiếc ghi-đông đâm vào háng tôi, từ bấy giờ tôi không biết
gì nữa!Tôi rất biết ơn người đã đưa tôi vào bệnh viện.”
Lúc
ấy người vợ cảm thấy ân hận vì đã đay nghiến chồng! Và dĩ nhiên sau đó người ta
cho ông S. tự do.
Một
tháng sau, gia đình cô gái đem quà đến nhà hậu tạ ông, vì nhờ ông mà cô gái giữ
được mạng sống! Nhưng ông nói với gia đình cô gái:
-
Có chi đâu, tôi chỉ chịu một chút phiền hà để cứu một mạng người; còn thua xa
Chúa Giêsu đã chết để cứu tôi khỏi tội, và Ngài đã dạy tôi là phải bắt chước
“Người Samari nhân hậu."
Vậy
“Ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa Đấng nó không thấy!” (1 Ga 4,20b).
9. Chúa ở trong anh em
Trong
dân gian vùng Cận Đông còn truyền tụng câu chuyện sau đây về ông Abraham. Họ kể
rằng, ông Abraham tốt bụng đến nỗi: ông luôn luôn dời bữa ăn sáng lại, để chờ
cho đến khi nào có một người đói đến, để chia sẻ bửa ăn với ông thì ông mới
dùng bửa.
Nhưng
một ngày kia, có cụ già đi ngang qua và được ông Abraham mời vào chia sẻ bữa ăn
sáng. Nhưng ngay trước khi dùng bữa, ông nghe cụ già thì thầm lời kinh của người
ngoài đạo Chúa. Ông Abraham vội vàng ngưng bữa ăn lại và mời cụ già đi nơi
khác.
Cụ
già chưa khuất thì Abraham nghe tiếng Chúa trách:
-
Abraham, Abraham, Ta đã cung cấp lương thực nuôi cụ già này trong vòng 80 năm
qua, mặc dù ông không phải là kẻ tin thờ Ta. Phần con, con không đủ kiên nhẫn
và nhân từ để chia sẻ chỉ một bữa ăn với cụ hay sao?
10. Tình yêu tỏa sáng
Biến
cố toà tháp đôi của Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Hoa Kỳ bị tấn công và sụp
đổ vào ngày 11/9 năm 2001 đã làm cả thế giới phải lặng thinh trong đau khổ.
Nhưng chính trong bóng tối mà vẻ đẹp của pháo bông được tôn vinh, chính trong cảnh
huống đau khổ này mà tình liên đới lại làm sáng lên một giá trị không gì so
sánh được cho tâm hồn con người, từ những trái tim biết chia sẻ, biết cảm
thông.
Vâng,
đang khi ai cũng thấy bất lực trước cái chết không thể tránh khỏi của rất nhiều
người đang bị nhốt trong toà tháp đôi, thì cha Mychal Judge, linh mục tuyên uý
của lính cứu hoả New York, và anh em cứu hoả New York lại xông vào toà nhà để cứu
người bị nạn.
Dù
biết rằng việc xông vào lúc đó là rất nguy hiểm, nhưng việc cứu người bị nạn được
đặt lên trên. Thế nên mấy trăm lính cứu hoả và cha Judge vẫn xông vào toà tháp
đôi. Đang lúc cha Judge ban các bí tích sau cùng cho các nạn nhân thì toà tháp
đôi sụp xuống chôn vùi cha và mấy trăm anh em cứu hoả đã xông vào bên trong.
11. Nghe thấy lòng tốt
Mẹ
Têrêsa thành Calcuta kể chuyện: Tại Calcutta, cách đây một thời gian, mỗi đêm
chúng tôi ra đường đem bốn năm người hấp hối về Nhà Vĩnh Biệt của chúng tôi. Có
một bà ở trong tình trạng thật bi đát nên tôi muốn tự tay mình chăm sóc. Tôi gởi
hết tình yêu thương vào công việc này. Khi tôi đặt bà lên giường, bà nắm lấy
tay tôi và môi bà nở một nụ cười tuyệt diệu. Bà chỉ nói có một tiếng: “Cám ơn”,
rồi bà chết.
“Bà
đã cho tôi nhiều hơn tôi cho bà, rất nhiều. Bà đã tặng tôi tấm lòng biết ơn của
bà, và tôi thầm nghĩ: “Ở hoàn cảnh bà tôi sẽ làm gì nhỉ? Rồi tôi tự trả lời: Hẳn
là tôi sẽ cố gắng lôi kéo sự chú ý về mình; hẳn là tôi sẽ bảo: Tôi đói hay tôi
lạnh hay tôi sắp chết.
“Nhưng
phần bà, bà thật cao cả, bà thật tuyệt vời qua hành động trao tặng của mình.”
Chúa
nghe người cơ khổ, và không chê bỏ con dân của Ngài… người xứ Samaria trông thấy
người bị nạn và động lòng thương,…
Còn
tôi, tôi có nghe không, tiếng lon múc gạo cạo vào đáy thùng, và có thấy không,
người mẹ gầy gò bới thùng rác tìm ve chai?
THỨ BA - CON ĐƯỜNG YÊU CHÚA
Lời
Chúa: Lc 10, 38-42
Khi
ấy Chúa Giêsu vào một làng kia, và có một phụ nữ tên là Martha rước Người vào
nhà mình. Bà có người em gái tên là Maria ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người.
Martha bận rộn với việc thết đãi khách. Bà đứng lại thưa Người rằng: "Lạy
Thầy, em con để con hầu hạ một mình mà Thầy không quan tâm sao? Xin Thầy bảo em
con giúp con với."
Nhưng
Chúa đáp: "Martha, Martha, con lo lắng bối rối về nhiều chuyện (quá). Chỉ
có một sự cần mà thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất."
TRUYỆN KỂ
1. Chọn phần tốt hơn
Nếu
ở Việt Nam mỗi năm có khoảng mười hai ngàn người chết vì tai nạn giao thông,
thì ở Nhật có ba mươi ngàn người tự sát trong năm qua. Tai nạn giao thông lắm
khi do vội vã, không làm chủ được tốc độ. Tự sát do áp lực của công việc quá lớn,
do căng thẳng, do sợ bị khiển trách. Xem ra cuộc sống hối hả đã dẫn đến nhiều
cái chết thương tâm. Nhiều người chết bất ngờ vì bệnh tim mạch.
Con
người hôm nay có nhiều tiện nghi hơn, nhiều thú vui hơn ngày xưa, nhưng lại thiếu
sự thanh thản, bình an, trầm lắng.
Trong
bài diễn văn ngày 20-08-2006 tại Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha đã cảnh báo về
nguy hiểm khi làm quá nhiều công việc. Ngài trích lời thánh Bênêđictô: bị quá tải
thường dẫn đến sự chai đá của con tim, tinh thần bị thương tổn, trí khôn bị mất
và ơn Chúa bị phân tán.
Ngài
khẳng định lời nhắc nhở này cũng áp dụng cả cho ngài và cho mọi người. Không được
đánh mất mình trong công việc: đó là tâm niệm của người lãnh đạo trên một tỉ
người Công Giáo khắp thế giới.
Bài
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một giây phút thư giãn của Đức Giêsu. Trên con đường
nay đây mai đó của một người rao giảng, Đức Giêsu cũng có lúc dừng chân. Một
ngôi làng quen thuộc, một mái nhà ấm cúng, một bữa ăn ngon, tất cả như một ốc đảo
xanh tươi đem lại cho Thầy trò hạnh phúc sau những vất vả, nhọc mệt, hiểm nguy
và thiếu thốn.
2. Chứng tá bởi lời cầu nguyện
Trong
một bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:
"Cuộc
sống của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy
tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một
thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị
lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống
cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu
nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người
ngày nay."
3. Lòng hiếu khách
Lòng
hiếu khách của gia chủ Việt Nam được thể hiện qua câu:
“Ai
kêu cửa ngõ thì vô / Nước trà đang quạt, cá khô đang lùi."
Khi
nghe chuông, chủ nhà nhanh nhẹn mở cửa mời khách vào. Mời khách ngồi và rót nước
mời, chủ nhà phải tỏ ra ưu ái đối với khách qua nét mặt vui tươi và cử chỉ:
“Ra
đi chân bước nhẹ nhàng / Là người hiếu khách, rõ ràng yên vui."
Mời
cơm khách đến chia sẻ chung vui, người hiếu khách luôn lo lắng chuẩn bị làm bữa,
dành của ngon đãi khách như tục ngữ có câu: “Khách đến nhà chẳng gà thì vịt."
Hay như câu ca dao diễn tả:
“Gỏi
nào bằng gỏi cá kìm, Dọn ra đãi bạn trọn niềm thủy chung”
Hình
ảnh ẩn dụ tượng trưng cho những của ăn ngon nhất để đãi khách, cũng như trân trọng
người khách qua việc chuẩn bị bữa ăn:
“Năm
tiền một khứa cá buôi, Cũng mua cho đặng đãi người khách sang…”
Cá
buôi dù đắt cũng mua cho được để đãi khách quý, hình ảnh nói về tấm lòng chủ với
khách: Luôn dành cho khách những của ăn ngon nhất.
4. Giá trị của tình yêu
Bác
sĩ Elizabeth Couplaros là giáo sư về môn tâm lý trị liệu tại đại học Chicago,
Hoa Kỳ. Một trong những tác phẩm bán chạy nhất của bà có tựa đề “Sự chết và Chết."
Cuốn
sách ghi lại sự phỏng vấn của tác giả với hàng trăm người đã từng bị bác sĩ
tuyên bố là chết nhưng bỗng dưng sống lại. Có thể nói người chết sống lại này đều
cho biết rằng trong khoảnh khắc mà bác sĩ gọi là chết ấy họ như sống lại cả
quãng đời của họ, cứ như thế họ xem lại cuốn phim về cuộc đời của họ. Khoảnh khắc
ấy có nghĩa gì không?
Bác
sĩ Couplaros đã nhận định như sau: “Khi bạn trải qua khoảnh khắc ấy, bạn chỉ thấy
có hai điều quan trọng trong cuộc đời: một là bạn đã phục vụ, hai là bạn sống
yêu thương; còn tất cả những điều mà chúng ta xem trọng như danh tiếng, tiền của,
uy tín và quyền lực đều vô nghĩa."
5. Cần tinh thần phục vụ
Những
thuộc viên cao cấp của Bà-la-môn ở Ấn Độ không bao giờ cúi xuống làm việc của
người đầy tớ. Vì thế Shirman Naraayan sốc làm sao khi ông được giao nhiệm vụ mà
ông thấy như mình bị hạ thấp khi ông dành thời gian làm tại trung tâm Gandhi
(là một trung tâm tĩnh tâm của người Hindu).
Tốt
nghiệp tiến sĩ tại trường Kinh tế Luân Đôn, chàng thanh niên này đã đến tìm hướng
đi cho tương lai. Chàng không biết rằng mọi người tại trung tâm này đều được
giao nhiệm vụ cụ thể, và Shirman phải chùi nhà vệ sinh. Thấy bị xúc phạm ghê gớm,
anh đi thẳng đến chỗ Gandhi và phàn nàn: “Tôi có bằng tiến sĩ. Tôi có thể làm
được nhiều điều lớn lao hơn, tại sao lại bắt tôi phải phí thời gian và tài năng
vào việc lau chùi phòng vệ sinh vậy?” Gandhi trả lời: “Tôi biết anh có thể làm
được nhiều việc lớn, nhưng tôi cũng phải xem thử anh có đủ năng lực để làm những
việc nhỏ không đã."
6. Marta và Maria đều nói về Chúa
Cô
giáo môn tiếng Anh của tôi không phải là người công giáo. Một hôm cô nói với lớp:
“Không hiểu vì sao cô rất thích nghe nhạc của đạo công giáo. Những bài hát ấy
có một sức lôi cuốn nào đó, mỗi lần nghe cô cảm thấy tâm hồn thanh thoát vui
tươi và cuộc sống thật hạnh phúc.” Nói xong cô hỏi lớp: “Lớp mình có bạn nào
người công giáo không? Hãy nói cho cô và các bạn nghe về Chúa!” Cả lớp vẫn im lặng.
Tôi muốn nói nhưng khổ nỗi vào giờ này không ai được nói tiếng Việt. Tôi biết
Chúa nhưng nói về Chúa bằng tiếng Anh thì không thể, vì tôi không có đủ vốn từ
và cũng không biết phải nói làm sao.
Tôi
buồn vì đã bỏ qua một cơ hội để nói về Chúa cho cô và các bạn chỉ vì thiếu khả
năng ngoại ngữ. Từ đó bên cạnh việc học hỏi và chia sẻ Lời Chúa, tôi sẽ nói bằng
tất cả lòng yêu mến và kiến thức sẵn có của mình.
Lạy
Chúa! cả hai thái độ của Mác-ta và Maria đều cần thiết cho con trong cuộc sống
hôm nay. Xin cho con vừa là Maria vừa là Mác-ta để con xứng đáng là chứng nhân
đích thực của Chúa.
7. Các thánh gặp Chúa
Người
ta thuật lại, thánh Phanxicô Xavie vì phải mải mê rao giảng Tin Mừng cho lương
dân, nên mỗi khi đêm về, ngài thường quì gối trước Chúa Giêsu Thánh Thể, có lắm
lúc quá mệt mỏi phải ngủ gục trên bục bàn thờ. Lúc ấy, ngài thường cầu nguyện:
“ Lạy Chúa, nếu linh hồn con không tỉnh thức được với Chúa thì ít nữa xác con
đây muốn ở gần Chúa."
Còn
thánh Vincent Ferrier thì có những cách ứng xử đặc biệt hơn. Những lúc gặp các
tội nhân cứng lòng, khuyên bảo mãi cũng chẳng chịu trở lại, ngài gia tăng việc
ăn chay, hãm mình, cầu nguyện để kéo ơn Chúa xuống cho họ nhiều hơn. Nếu như thế
vẫn chưa có kết quả thì lúc đêm về, ngài lại ra trước bàn thờ để than thở cùng
Chúa và nhiều khi ngài còn táo bạo mở cửa nhà chầu ra để nói chuyện cùng Chúa.
Gần
đây, chúng ta có tấm gương của Đức Thánh cha Gioan XXIII. Người ta kể lại rằng:
Mặc dù công việc Hội Thánh rất bề bộn, Ngài vẫn sống một cuộc sống nội tâm dồi
dào. Đặc biệt ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp hết mọi công việc và dọn một
phòng riêng ở Vatican để sống những giờ khắc âm thầm bên Chúa, nghe lời giảng dạy.
Trước
khi khai mạc công đồng Vaticanô II, ngài đã đi tĩnh tâm một thời gian, rồi tới
Lorette, một nơi tục truyền có nhà Đức Mẹ, để cầu nguyện cùng Mẹ ban ơn cho
công đồng được thành công.
8. Xin cho có thời giờ để gặp Chúa
Lạy
Chúa, con thường thấy mình không có giờ cầu nguyện, không có giờ để trò chuyện
với Ngài.
Thực
ra, mỗi ngày con có biết bao giây phút có thể gặp Chúa mà con đã bỏ mất:
Khi
chờ một người bạn, chờ đèn xanh ở ngã tư, Khi lên cầu thang, lúc bị kẹt xe, khi
bị cúp điện bất ngờ.
Lúc
con chờ gặp một người thân ở bến xe, ở phi trường, Khi chờ để lên máy bay, hay
xuống một con thuyền xin cho con biết tìm ra sự hiện diện của Chúa bên con.
Amen.
9. Nếu như Marta
Chúa
đã nói qua miệng ngôn sứ Hôsê: “Ta muốn tình yêu chứ không muốn lễ vật, Ta ưa
việc học biết Thiên Chúa hơn là của lễ toàn thiêu!” (Hs 6,6).
Do
đó, nếu cô Matta phục vụ bữa ăn tiếp đón Đức Giêsu mà cô tỏ ra yêu thương Thầy
cũng như em mình, thì chắc chắn cô không bị Đức Giêsu trách. Bởi lẽ:
- Nếu
cô Matta bắt chước bà Sara làm bánh đãi ba người khách mà miệng vẫn nở nụ cười,
thì chắc chắn được Thiên Chúa chúc lành hơn bà Sara trong tuổi già được Chúa
cho sinh con (x St 18).
- Nếu
cô Matta biết sống đơn giản như Đức Giêsu dạy: “Chỉ có một điều cần thiết mà
thôi” (Lc 10,42a), điều cần ấy là: bất cứ làm việc gì cũng do tình yêu Chúa
thúc đẩy (x 2Cr 5,14), đó cũng là chọn phần tốt nhất như cô Maria ngồi nghe Lời
Chúa (Lc 10,42:Tin Mừng).
Thế
nên sống yêu là hãy sống đơn giản trong việc hưởng dùng của cải vật chất: “Một
điều đã đủ” mới có điều kiện để nghe Lời Chúa như cô Maria đã được Đức Giêsu
khen: “Đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai giựt mất” (Lc 10, 42b).
- Nếu
cô Matta đừng kết án Chúa: “Cả Thầy không biết quan tâm tới tôi? Hãy bảo em tôi
xuống bếp giúp tôi?” (Lc 10,40) Mà cô Matta lại lên tiếng nói với em: “Chị đã lớn
tuổi, học khó nhớ hơn em, em để chị lo việc bàn ăn đãi Thầy, còn em cứ ngồi
nghe Thầy giảng dạy, sau bữa ăn em nói lại cho chị nghe”, thì như vậy cô Matta
mới phục vụ vì yêu. Nhưng rất tiếc cô tự mãn cho việc bếp núc của mình quan trọng
hơn việc Thầy giảng Lời, quan trọng hơn cô em cứ ngồi nghe Lời Chúa. Và như thế
thâm tâm của Matta muốn nói: “Có thực mới vực được đạo”, Thầy và em sống không
thực tế.
10. Chính mình là món quà
Văn
học Việt Nam ghi lại giai thoại cụ Dương Khuê đến chơi nhà ông bạn vong niên
Nguyễn Khuyến. Nhà cửa thanh đạm, không có gì tiếp đãi bạn:
Ao
sâu nước cả khôn chài cá
Vườn
rộng rào thưa khó đuổi gà
Cụ
Nguyễn Khuyến dí dỏm dành cho bạn điều quí giá hơn hết, đó là một tình bạn chân
thật:
Bác
đến chơi đây, ta với ta.
11. Hoạt động và cầu nguyện
Năm
1973, khi Mẹ Têrêxa Calcutta được trao tặng trao tặng bằng tiến sĩ danh dự về
thần học của đại học Kempet, Anh quốc, một ký giả đã hỏi mẹ: “Đâu là động lực
thúc đẩy Mẹ bắt tay vào việc phục vụ người nghèo?” Người ta chờ đợi câu trả lời
dài với rất nhiều lời giải thích. Thế nhưng, Mẹ Têrêsa chỉ đáp lại bằng một tiếng
vắn gọn: “Chúa Giê-su." Vâng, “tất cả vì Chúa và cho Chúa”; con người lăn
xả hoạt động như Mác-ta nhưng với một động lực thâm sâu của cầu nguyện như
Ma-ri-a, đó là mẹ Têrêxa Calcutta.
Mác-ta
và Ma-ri-a, mỗi người đón tiếp Chúa theo cách của mình. Mác-ta tất bật phục vụ
lo chuẩn bị bữa ăn. Ma-ri-a ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Người. Ngài
không đề cao thái độ này để hạ thái độ kia, nhưng Ngài muốn chúng ta nhớ rằng
việc ưu tiên số 1 là lắng nghe Lời Ngài trong tâm tình cầu nguyện, và tâm tình
đó không được thiếu vắng ngay cả khi bạn lăn xả vào hoạt động tông đồ.
Đời
sống của bạn đã có sự thống nhất chưa? Nghĩa là việc cầu nguyện có chiếm địa vị
ưu tiên nhất và có thấm nhuần vào mọi hoạt động khác trong một ngày sống của bạn
không?
12. Chuyện cần thiết
Nhà
vật lý học lừng danh người Pháp André-Marie Ampère dù rất thành công trong lĩnh
vực khoa học phục vụ nhân loại, nhưng ông không coi đó là tất cả cho cuộc đời.
Ông có “một chuyện cần thiết” nhất và suốt đời trung thành với nó, đó là cầu
nguyện. Ông đã để lại một phương châm cho những ai sống niềm tin vào Thiên
Chúa: “Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi.” Ampère đã hiểu thấu đáo câu
nói của Chúa Giêsu với Mácta: ..."Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.
Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi” (Lc 10,42).
Cách
sống của ông có thể nói thực hiện lời dạy của Thầy Giêsu: vừa nhiệt thành phục
vụ như Mácta, lại vừa dành thời gian để trung thành “ngồi bên chân Chúa” như
Maria. Đây chính là điều Chúa Giêsu muốn nhắc nhở cô Mácta, và qua đó, nhắn nhủ
với những ai muốn làm môn đệ Ngài.
Trong
cuộc sống đầy những ồn ào và lo toan như hiện nay, sự tĩnh lặng cầu nguyện luôn
rất cần thiết cho đời sống người tín hữu. Nhưng tìm đâu ra những giây phút quý
báu đó nếu chúng ta không tự mình tìm về nội tâm của chính mình?
Hôm
nay Chúa đến thăm nhà bạn, bạn sẽ tiếp đãi Ngài thế nào?
Trong
ngày, ngay trong những lúc làm việc, bạn dừng lại một vài giây, để tâm sự với
Chúa.
13. Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình
Trong
cuốn sách “Đời tôi không có Chúa”, William Murray cho biết ông đã trở lại Kitô
giáo như thế nào ở tuổi 33. Cũng như thánh Phaolô, ông bắt đầu rao giảng Tin mừng
mà trước kia ông từng chế diễu. Chẳng hạn, ông đã viết hai thư ngỏ: lá thư thứ
nhất gửi cho tạp chí ở Austin, Texas để xin lỗi vì đã góp phần xây dựng trung
tâm vô thần Mỹ. Lá thư thứ hai gửi tạp chí Baltimore Sun để xin lỗi vì đã đi kiện
ở tòa tối cao vào năm 1963 nhằm cấm cầu nguyện và đọc Kinh thánh trong các trường
công ở Baltimore.
Tôi
đã cố gắng làm gì để đền bù tội lỗi?
Hoán
cải mà không tu chỉnh thì cũng giống như trả nợ bằng cách viết chi phiếu lên mặt
nước.
14. Tiền bạc không mua được sự hiện diện
Một
người cha nọ đang nói chuyện với thầy giáo của con trai ông, đột nhiên ông bật
khóc và nói: “Tôi không còn sống với con tôi, nhưng tôi yêu thương nó.” Sau khi
lấy lại bình tĩnh, ông giải thích rằng vợ và gia đình ông đã bỏ ông. Ông là một
chủ thầu và thường phải làm việc mười tám giờ một ngày. Ông nói: “Tôi muốn mua
cho gia đình tôi tất cả những gì chưa từng có, nhưng lại quên điều mà họ mong
muốn nhất, đó là một người cha luôn sẵn sàng khi họ cần đến tình yêu và chỗ dựa.”
Tôi
có mải mê mua sắm đến nỗi quên đi những điều quý giá hơn, những thứ mà không tiền
bạc nào có thể mua được chăng?
Thước
đo của giàu có không phải là những gì bạn có, nhưng là những thứ bạn có mà
không tiền bạc nào có thể mua được.
15. Maria, Giáo dân xuất sắc
1/
Học trò gương mẫu của Thầy Giêsu:
Hình
ảnh chị Maria cứ ngồi dưới chân Đức Giêsu mà nghe giảng dạy, gợi cho ta nhớ đến
ông Phaolô là học trò xuất sắc của tôn sư Gamaliel, ông Phaolô cũng ngồi dưới
chân thầy Gamaliel mà thụ giáo (x. Cv 22,3).
2/
Là con chiên ngoan đạo.
Đức
Giêsu đã xác định: “Chiên tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo
tôi, tôi ban cho chúng sự sống đời đời, không phải qua tòa phán xét, nhưng bước
qua sự chết mà vào cõi sống” (Ga 10,27a; 5,24).
3/
Là Hiền Thê của Đức Kitô.
Như Đức Giêsu đã nói về chị Maria: “Maria đã
chọn phần tốt nhất và không bị ai giựt mất” (Lc 10,42b).
“Maria
không bị giựt mất”: Đức Giêsu có ý muốn xác nhận Ngài là Hôsê mới, “đã kết duyên”
với chị Maria là Gômơ mới: Xưa kia ngôn sứ Hôsê quyết tâm không rẫy từ cô Gômơ,
một gái điếm bất trung với chồng để lấy vợ khác, dù ông biết người vợ luôn ruổi
theo tình lang, thế mà ông nói: “Bây giờ ta sẽ lột trần cái đĩ già của nó trước
mặt các gã tình lang, và sẽ không đứa nào giựt nó khỏi tay ta được” (Hs 2,12: Bản
dịch NTT).
4/
Chị Maria là người khôn ngoan.
Như Lời Kinh Thánh đã nói: “Khởi điểm đích thực
nhất của khôn ngoan là thực lòng ham muốn học hỏi, còn lo lắng học hỏi là mến
chuộng khôn ngoan” (Kn 6,17).
5/
Chị Maria diễn tả người trong Nước Trời .
Thánh Phaolô được Chúa nhấc lên tới tầng trời
thứ ba, khi trở lại trần gian, ông nói: “Vào Thiên Đàng tôi được nghe những Lời
khôn tả, người phàm không được phép nói lại” (2 Cr 12,4). Như thế chị Maria được
nghe những Lời khôn tả xuất phát từ miệng Đức Giêsu, chị đã không nói lại một lời,
dù người chị phản đối em cứ ngồi dưới chân Thầy, mà không xuống bếp giúp chị
(x. Lc 10,40: Tin Mừng).
16. Cầu nguyện và hoạt động cần đến nhau
Có
một tu sĩ trẻ thắc mắc về chăm ngôn của Dòng mình “Cầu nguyện và làm việc.” Rồi
một ngày kia, Viện phụ bảo anh chèo thuyền qua hồ với ngài. Viện phụ chèo trước,
nhưng chỉ với một mái chèo và kết quả là thuyền chỉ xoay tròn mà không đi được.
Tu sĩ trẻ nói: “Thưa cha, nếu không chèo hai mái, chúng ta sẽ chẳng đi được.”
Viện phụ trả lời: “Đúng, mái chèo bên phải là cầu nguyện, mái chèo bên trái là
làm việc. Nếu không hài hòa được chúng, con vẫn chỉ ở trong vòng xoáy.”
Tôi
có luôn cố gắng giữ cân bằng giữa công việc và cầu nguyện không? Tôi nhận thấy
thế nào khi có sự cân bằng?
Mỗi
kitô hữu cần cầu nguyện nửa giờ mỗi ngày khi bận rộn. Nếu không bận lắm, cần cầu
nguyện một giờ mỗi ngày (Thánh Phanxicô Salêsiô).
17. Miếng da lừa
Văn
hào Honoré de Balzac viết một tác phẩm nổi tiếng tên là ‘Miếng da lừa’. Tác phẩm
đó kể về một chàng trai sống vào thế kỷ 19 tình cờ gặp một miếng da lừa có phép
thần trong tiệm đồ cổ, trên đó có một dòng chữ: “Mi có ta, mi sẽ có hết thảy.
Nhưng đời mi sẽ thuộc về ta. Mỗi lần ước, ta sẽ co lại như đời mi!”
Có
miếng da đó, anh có được mọi điều mình ước muốn, quyền lực, tiền bạc, vợ đẹp,
và dễ dàng trả được mối thù xưa… Nhưng mỗi khi anh ra một điều ước thì miếng da
lại nhỏ đi một chút.
Anh
ước ao đủ chuyện nhưng khi thấy miếng da nhỏ hẳn lại thì hoảng sợ. Lúc nó chỉ
còn một chút xíu, anh không dám ước mơ, không dám hy vọng điều gì nữa, để nó
thôi co thêm.
Trái
lại, “những người cậy trông Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ
tung cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi mệt, và đi mãi mà chẳng chùn chân.” (Tv
40,31)
18. Đời trong đạo
Ở
một giáo xứ kia vẫn có thông lệ là 8 giờ sáng thứ năm, cha xứ giải
tội và tập nghi thức cho các đôi bạn trẻ sẽ cử hành hôn lễ vào
sáng thứ bảy. Lần kia, có đôi bạn sắp cử hành bí tích Hôn Phối, họ
đã xin cha xứ cho họ xưng tội và tập nghi thức vào chiều thứ sáu,
lý do, công ty chỉ cho phép họ nghỉ từ trưa thứ sáu. Cha xứ đồng ý
và dăn họ 16 giờ đến nhà thờ. Cha xứ chờ mãi đến 17 giờ 20 họ mới
đến, vì sát giờ lễ nên ngài nói họ ở lại dự lễ, sau lễ, khoảng 18
giờ, ngài sẽ giải tội và tâp nghi thức cho. Lễ xong, gần 30 phút sau,
đôi bạn trẻ mới đến. Cha xứ trách nhẹ nhàng:
-
Các con đi đâu, giờ mới đến?
Cặp
hôn nhân cười cười trả lời:
-
Thưa cha, chúng con đi thử mấy cái áo cưới và tìm thợ chụp hình.
Thế
đấy, đi thử áo cưới và tìm thợ chụp hình quan trọng hơn việc chuẩn
bị xưng tội và lãnh bí tích Hôn Phối! Trong giáo xứ, trong mỗi gia
đình và mỗi người cũng thế, khi mừng bổn mạng của giáo xứ, giáo
họ hay các hội đoàn, người đi tham dự tiệc mừng nhiều hơn người đi
dự tĩnh tâm và tham dự thánh lễ. Xin lễ “đưa chân” cho người thân mới
qua đời, nhưng nhiều khi con cháu của họ không tham dự thánh lễ, có
lễ vì bận sắp xếp nhiều việc ở nhà! Ai đó dự bữa tiệc vài giờ
đồng hồ vẫn thấy là bình thường, nhưng dự thánh lễ một giờ thì
cảm thấy mệt mỏi vì quá dài, hoặc lại không dành được dăm ba phút
để nhớ đến Chúa mỗi ngày.
THỨ TƯ - CHÚA GIÊSU DẠY LỜI
CẦU NGUYỆN
Lời
Chúa: Lc 11, 1-4
Ngày
kia, Chúa Giêsu cầu nguyện ở một nơi. Khi Người cầu nguyện xong, có một môn đệ
thưa Người rằng: "Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện như Gioan đã dạy
môn đệ ông."
Người
nói với các ông: "Khi các con cầu nguyện, hãy nói: "Lạy Cha, nguyện
danh Cha cả sáng. Nước Cha trị đến. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng
ngày. Và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha mọi kẻ có nợ chúng con. Xin
chớ để chúng con sa chước cám dỗ."
TRUYỆN KỂ
1. Cần cầu nguyện
Khi
tương quan giữa Mỹ và Irak căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi
Annan đã tới Bagdad để thuyết phục phía Irak ký vào bản thoả thuận.
Lúc
trở về, ông nói: “Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều. Ðừng bao giờ đánh thấp sức
mạnh của sự cầu nguyện.”
2. Lạy Cha chúng con...
Có
một Giám mục trên đường kinh lý giáo phận, ghé thăm một bà lão. Người ta nói bà
là tấm gương cho cả làng soi chung. Trong khi thăm, vị Giám mục hỏi:
-
Bà thường đọc sách đạo đức nào nhất?
-
Thưa Đức Cha, con không biết đọc – bà cụ trả lời. Nghe thế vị Giám mục hỏi:
“Nhưng bà hay cầu nguyện cơ mà”? Thấy vị Giám mục muốn biết bí quyết của mình,
bà thật thà thưa:
-
Thưa Đức Cha, con chỉ biết tràng hạt thôi: kinh Lạy Cha, kinh Kính mừng và kinh
Tin kính. Mỗi ngày con khởi sự đọc tới 10 lần, nhưng thường thì con không đọc
xong.
- Tại
sao thế? – Bà cụ thưa: “Tại vì khi bắt đầu đọc: Lạy Cha chúng con... con không
hiểu tại sao Chúa có thể tốt lành đến mức cho phép một bà già hèn mọn như con
được gọi Ngài là Cha. Điều đó làm con bật khóc và rồi con không thể nào đọc tiếp
hết chuỗi được." Nghe thuật lại kinh nghiệm trên, vị Giám mục khuyến
khích:
-
À, này bà cụ, đó là lời cầu nguyện giá trị bằng tất cả những lời cầu nguyện của
chúng tôi. Bà cứ tiếp tục cầu nguyện theo câu đó nhé!
3. Chúa là cha
Một
cậu bé bệnh nặng sắp chết. Cha cậu bé hỏi:
-
Con sợ chết không con?
-
Thưa ba, không, nếu như Thiên Chúa cũng giống như ba, cậu đáp.
4. Tình Cha
2
Sam 18,33: Thái tử Absalom nổi loạn định lật đổ cha là Đavít. Nhưng quân đội của
Đavít đã phản công và giết chết Absalom. Khi một người lính từ chiến trường trở
về vui mừng báo tin cái chết của kẻ phản loạn, Đavít đã xé áo mình ra và kêu
lên thảm thiết “Absalom con ơi, Absalom con ơi. Phải chi cha được chết thay cho
con!”
5. Sức thuyết phục của Tình Cha
“Người
con gái của Karl Marx có lần tâm sự với một người bạn: “Tôi lớn lên mà không hề
biết đến bất cứ tôn giáo nào. Tôi cũng không tin tưởng Thiên Chúa. Thế rồi tình
cờ tôi đọc được một quyển sách trong đó có lời kinh khác lạ. Tôi đọc hết lời
kinh ấy và tự nhủ: nếu quả thật Thiên Chúa của lời kinh đó hiện hữu, tôi nghĩ rằng
tôi có thể tin Ngài được." Người bạn hỏi cho biết đó là lời kinh nào. Người
con gái của Karl Marx mới từ từ đọc lại Kinh Lạy Cha (...) Tình cha con và tình
anh em được Chúa Giêsu mặc khải qua kinh Lạy Cha. Sống với Cha trong tình phó
thác, với anh em trong tình bác ái”
6. Cầu nguyện và làm việc
Một
bác chèo đò chở một thanh niên trên chiếc thuyền của mình. Chiếc thuyền có hai
mái chèo. Trên một mái chèo có chữ “cầu nguyện”, trên mái chèo kia có chữ “làm
việc." Chàng thanh niên nói với giọng châm biếm:
- Nếu
đã làm việc thì cần gì phải cầu nguyện nữa.
Bác
lái đò chẳng nói gì, buông tay không chèo mái “cầu nguyện” nữa, chỉ chèo bằng
mái chèo “làm việc." Chiếc thuyền cứ quay vòng vòng chẳng tiến được chút
nào cả. Khi ấy chàng thanh niên hiểu rằng ngoài mái chèo “làm việc” còn cần
thêm mái chèo “cầu nguyện” nữa thì thuyền đời mới tiến được.
7. Kinh lạy Cha và đời sống con người
Một
lần kia cùng dự Thánh lễ với một nhóm sinh viên, tôi cầm lòng cầm trí đọc chung
Kinh Lạy Cha với họ, và bỗng cảm thấy những điều Chúa Giêsu bảo tôi xin chứa đựng
rất nhiều ý nghĩa:
- Lạy
Cha chúng con…: tất cả chúng tôi đang ở đây đều có một người Cha chung.
-
Nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đền, ý Cha thể hiện…: nhưng chỉ có một
nhóm nhỏ này được biết Cha, còn biết bao nhiêu sinh viên học sinh khác nữa…
-
Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày: tôi nghĩ đến những bạn
chung quanh. Họ ăn cơm tháng, mỗi tháng chỉ hơn 100 ngàn, đồ ăn rất đạm bạc, buổi
sáng thường nhịn đói.
-
Và tha nợ chúng con: họ là những người trẻ, nhiều sai sót lỗi lầm, nhiều tội..
-
Xin cớ để chúng con sa chước cám dỗ: có biết bao cám dỗ vây quanh họ, trong trường
học, ngoài xã hội, ở chợ đời…
8. Nhà và mái che
Một
thanh niên Scotland làm mướn cho gia đình khá giả, nhưng hai tuần sau, anh xin
nghỉ. Một người bạn hỏi:
-
Có phải công việc quá nặng không?
-
Không.
-
Hay lương thấp?
-
Không, lương cao.
-
Có lẽ thức ăn không hợp với anh?
-
Thức ăn rất ngon.
-
Thế sao anh nghỉ việc?
- Tại
vì "Nhà đó không có mái che."
Ở
Scotland, thành ngữ đó ám chỉ không có sự cầu nguyện trong gia đình.
9. Đức tin cần biết
Một
nhà truyền giáo đến kiểm tra trình độ giáo lý một bà già 73 tuổi để bà được nhập
đạo
- Đức
Kitô là ai?
-
Là người đã chết cho con.
-
Người chết thế nào?
-
Con không biết.
-
Ai là môn đệ đức Kitô?
-
Con không nhớ. Con không biết chữ.
-
Bà có biết một cuốn sách Thánh Kinh nào không?
-
Thưa không. Với người mù chữ...
Đức
Kitô sống ở nước nào ?
Bà
không trả lời được.
Nhà
truyền giáo dừng lại. Bà già tỏ vẻ đau khổ vô cùng.
Người
hướng dẫn cho bà nói: "Bà này là người rất vững tin luôn có mặt trong các
buổi phụng vụ, dù ở cách xa đó 3 dặm. Bà luôn sẵn lòng cho đi những gì có thể.
Trước đây tính khí thất thường, nhưng từ ngày học đạo, bà trở nên hiền hoà và rộng
lượng. Mọi người đều thấy thế." Nhà truyền giáo nhìn người đàn bà 73 tuổi.
Bà chẳng còn sống bao lâu nữa, một năm cũng khó. Và ngài quyết định tiếp tục:
-
Thiên Chúa là ai ?
-
Thiên Chúa là Cha trên trời.
-
Thiên Chúa ở đâu?
-
Con ở đâu, Ngài ở đó.
-
Bà có hay thưa chuyện với Ngài?
- Rất
thường. Làm việc ngoài đồng hay làm bữa trong nhà lúc vui cũng như lúc buồn,
con đều thân thưa với Chúa. Lúc có nhiều chuyện, con nói lâu. Khi có ít, con
nói vắn hơn. Có gì trong lòng, con đều trình bày với Ngài hết. Và lòng con thấy
rộng mở.
10. Nước Cha trị đến
Trong
cuốn “Những suy tư về an bình tâm trí”, Maurice Nassan kể lại viên thị trưởng
trước kia của New York là Fiorello La Guardia đôi khi đã chủ tọa phiên tòa như
thế nào. Một lần nào, trong những năm khủng hoảng, một người thất nghiệp bị đưa
ra tòa vì tội ăn cắp bánh mì cho gia đình. La Guardia nói: “Thưa ông, rất tiếc
là pháp luật không loại trừ ai. Tôi phạt ông 10 đô la.” Rồi La Guardia mở ví,
đưa cho người đàn ông 10 đô la, giảm phạt cho ông, nhưng là phạt mỗi người
trong phòng xử án 50 xu vì sống trong một thành phố mà người ta phải ăn cắp
bánh mì để nuôi gia đình. Người đàn ông xúc động rời khỏi phòng xử án với 47,50
đô la trong túi.
Tôi
có năng động để bảo vệ những người túng thiếu không?
Khi
cho người nghèo là bạn cho Thiên Chúa vay (Cn 19, 17)
11. Gọi Thiên Chúa là Cha
Một
linh mục hỏi một nữ tu 40 năm phục vụ người cùi tại sao giữa bao công việc vất vả
nặng nề mà chị vẫn luôn vui vẻ tươi cười, chị trả lời rằng: “Sau 25 năm sống đời
tu trì, con mới bất ngờ khám phá ra rằng Thiên Chúa thật sự yêu thương con.
Kinh nghiệm đó đã thay đổi tất cả cuộc đời con… Nếu cha biết con trước đây, cha
sẽ thấy con khác xưa biết chừng nào!”
Khi
dạy chúng ta cầu nguyện, Chúa Giê-su muốn chúng ta gọi Thiên Chúa là “Cha.”
Ngài muốn chúng ta nhận ra Thiên Chúa thật sự yêu ta; từ đó, lời cầu nguyện
cũng như toàn bộ cuộc sống giữa ta với Chúa và tha nhân phải được xây dựng trên
mối tương quan Cha-con này.
12. Xin cho chúng con lương thực hằng ngày
Bà
Heidemarie (Hai-đi-me-ri) 69 tuổi, được mệnh danh là “người sống không cần tiền”
vì từ 15 năm nay bà đã cho đi tất cả số tài sản đủ để bà có một cuộc sống sung
túc ở miền đông bắc nước Đức; ngay cả tiền bản quyền cuốn sách bà viết ra, bà tặng
tất cả cho người nghèo. Bà nói: “Tôi sống trong nhà của người khác, giúp họ làm
việc nhà, đổi lại, họ cho tôi đồ ăn và chỗ ngủ” (Tuổi Trẻ ngày 18/09/2011).
Với
những người lòng tham không đáy “được voi đòi tiên” chỉ muốn chiếm hữu và hưởng
thụ với bất cứ giá nào, kể cả bằng những phương tiện bất chính, thì việc làm của
bà Heidemarie bị coi là khùng điên; nhưng phải chăng bà đang minh hoạ bằng
chính cuộc sống mình lời kinh Chúa dạy chúng ta sống tín thác vào Thiên Chúa là
Cha: “Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy”?
THỨ NĂM - HIỆU LỰC CỦA LỜI
CẦU NGUYỆN
Lời
Chúa: Lc 11, 5-13
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai trong các con có người bạn,
giữa đêm khuya đến nói với người ấy rằng: "Anh ơi, xin cho tôi vay ba chiếc
bánh, vì tôi có anh bạn đi đường ghé lại nhà tôi, mà tôi không có gì thết đãi
anh ấy." Và từ trong nhà có tiếng người ấy đáp: "Xin đừng quấy rầy
tôi, vì cửa đã đóng, các con tôi và tôi đã lên giường nằm rồi, tôi không thể chỗi
dậy lấy bánh cho anh được." Thầy bảo các con, dù người đó không dậy vì
tình bạn để lấy bánh cho người bạn, người đó cũng sẽ dậy, ít nữa là vì sự quấy
rầy của người kia mà cho anh ta tất cả những gì anh ta cần.
"Và
Thầy bảo các con: Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ
mở cho. Vì hễ ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho. Người
cha nào trong các con có đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ư? Hay nó xin cá
lại cho nó con rắn thay vì cá sao? Hay nó xin quả trứng, lại cho nó con bọ cạp
ư? Vậy nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt,
phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người."
TRUYỆN KỂ
1. Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện
Một
tác giả kể lại câu truyện như sau: Một hôm ông theo đoàn đánh cá ra khơi, trời
thật đẹp, nhưng đến trưa, gió thổi mạnh và cơn bão rất lớn ập tới. Ðoàn người
chống chọi quyết liệt nhưng vô ích, nước đã tràn vào đầy tàu. Lúc ấy, viên thuyền
trưởng ra lệnh: "Các bạn hãy cầu nguyện." Người phụ tá bảo: "Sao
lại cầu nguyện? Mây che kín cả bầu trời rồi, Chúa chẳng nghe thấy đâu."
Nhưng viên thuyền trưởng dứt khoát: "Chúng ta cứ cầu nguyện."
Tất
cả đều sốt sắng cầu nguyện, bỗng từ đám mây đen nghịt ấy lóe ra một tia sáng xanh
trong vắt. Viên thuyền trưởng la lên: "Cửa trời đã mở, Chúa đã nghe lời của
chúng ta, và tia sáng đó là ánh mắt nhân từ Ngài nhìn xuống chúng ta. Hãy tiếp
tục cầu nguyện." Và rồi sau đó, sóng gió im lặng và trời càng sáng rõ, các
thủy thủ tạ ơn Chúa và đã cập bến an toàn.
2. Vững tin vào tình yêu của Cha
Một
người giàu có Millwankee có một đứa con trai duy nhất mười hai tuổi. Thường ông
cho con mọi cái nó muốn. Có một điều người con ao ước hơn hết, là có một người
anh em cùng lứa tuổi để chia sẻ, để cùng chơi. Người cha quyết định nuôi một bé
trai nghèo nhỏ hơn con trai ông sáu tháng. Cả hai đứa trẻ đều sung sướng. Đứa
con trai có bạn, đứa con nuôi có những món đồ chơi mà nó chưa bao giờ biết đến.
Một
bữa nọ, hai đứa trẻ đang thảy banh qua lại trong sân. Đứa con nuôi ngỏ ý: “Gee,
em ước mong Kenny có một trái banh như thế này. Nó thích đá banh lắm, nhưng cha
mẹ nó không thể mua cho nó một trái banh như thế này” và em tiếp tục nói về
Kenny, một người bạn lối xóm cũ. Người con ruột nói: “Sao em không xin ba cho
nó một trái banh?" Người con nuôi trả lời: “Ba đã quá tốt với em rồi, em
không dám làm phiền người nữa." Nhưng người con ruột nài nỉ: “Em đừng quên
ba anh là ba em. Người cho anh mọi cái anh xin. Người cũng làm cho em như vậy.
Nếu người cho rằng cái đó không tốt cho em, người sẽ nói, nhiều khi người cho
em những cái tốt hơn nữa. Hãy xin đi, Kenny sẽ có trái banh”
3. Sức mạnh của lòng tốt
Một
ngày nọ, thánh Clément Hofbauer vào một quán ăn để xin tiền giúp trẻ mồ côi. Thấy
vậy, có một người chửi bới và nhổ vào mặt ngài. Ngài lặng lẽ lau mặt và nói: “Đấy
là phần ông cho tôi, còn phần cho các em cô nhi đâu”? Cảm phục trước sự kiên
trì của thánh nhân, ông xin lỗi và dốc hết túi tiền tặng ngài.
Thiên
Chúa không bao giờ mệt mỏi vì bị con cái quấy rầy bằng những lời van xin khẩn
nguyện. Bởi vì, Ngài là Thiên Chúa yêu thương nhân từ. Thiên Chúa biết chúng ta
cần gì là tốt cho chúng ta. Ngài luôn sẵn sàng ban những ơn cần thiết để nâng đỡ
và giúp chúng ta vượt thắng cám dỗ. Vì vậy, chúng ta hãy chạy đến với Ngài,
kiên trì cầu nguyện để xin Ngài cứu giúp. Nhờ đó, chúng ta có những ân sủng cần
thiết để đi trọn hành trình theo Chúa và gắn bó mật thiết hơn với Ngài.
4. Một em bé cầu nguyện.
Một
đứa bé nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia bị bệnh nặng phải
vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết em phải qua một cuộc phẫu thuật. Trước khi
cho thuốc mê, các bác sĩ cho em biết em sẽ ngủ một giấc dài. Nghe đến ngủ, em
bé đã xin quì gối cầu nguyện và kết thúc bằng lời “Xin Chúa cho con chóng lành
bệnh." Sau đó em nằm xuống và xin bác sĩ tiến hành giải phẫu..
Hôm
sau thức dậy câu hỏi đầu tiên của em là “Thưa bác sĩ, cháu có lành bệnh không?”
Bác sĩ nhìn em bé cảm động nói “Cháu hãy để cho Chúa liệu.... Điều bác tin chắc
là lời cầu nguyện của cháu có hiệu nghiệm: cháu đã cứu được một người là chính
bác. Từ lâu bác không còn đến nhà thờ, không nhớ đến Chúa. Nhưng hôm qua khi
cháu cầu nguyện sốt sắng, Chúa đã đánh động bác. Sáng nay bác đã đến nhà thờ
xưng tội, rước lễ...”
5. Kiên trì cầu nguyện
Nhà
văn Nga Maxime Gorki đã thuật lại một câu chuyện rất đẹp để dạy con người về việc
này:
Thuở
ấy, có một vị sĩ quan cao cấp nhưng rất độc ác tên là Gordien. Ông ta thường
tróc nã và tàn sát những người ngay lành. Người mà Gordien ghét nhất là nhà tu
hành Mirone, một ẩn sĩ đầy bác ái, làm việc thiện mà không bao giờ sợ hãi và
luôn cầu nguyện.
Vị
tướng Gordien gọi tên đầy tớ trung thành của ông là Yvan Le Guerrier, sai anh
này đi sát hại nhà ẩn sĩ Mirone, chặt đầu vị ẩn sĩ đem về cho chó của vị tướng
đánh chén.
Yvan
đến gặp nhà ẩn sĩ, rút gươm ra khỏi bao da và chùi thanh gươm vào áo choàng của
mình.
- Hỡi
đạo sĩ Mirone, tôi đến đây để giết ông. Thế nhưng, trước khi lưỡi gươm của tôi
chạm vào ông, tôi cho ông cầu nguyện với Thiên Chúa lần chót. Ông hãy cầu cho
ông, cầu cho tôi, cầu cho cả nhân loại. Sau đó tôi sẽ chặt đầu ông!
Nhà
tu hành Mirone liền quỳ xuống trước một gốc cây sồi và mỉm cười nói với Yvan:
-
Yvan, anh sẽ phải đợi lâu lắm đó, vì lời cầu nguyện cho nhân loại sẽ rất dài.
Hay hơn cả, là anh hãy giết tôi ngay bây giờ đi, để khỏi phải chờ lâu vô ích.
Nghe
vậy, Yvan chau mày và đáp:
-
Không được, tôi đã nói gì là không được rút lời lại. Tôi đợi cho đạo sĩ cầu
nguyện xong cho dù có lâu một thế kỷ cũng được!
Nhà
ẩn sĩ cầu nguyện cho đến chiều tà. Rồi từ chiều tà cho đến bình minh hôm sau.
Người tiếp tục cầu xin, rồi từ bình minh đến hoàng hôn ông vẫn say sưa cầu khẩn.
Rồi mùa hè qua đến mãi mùa xuân, lời cầu của ông không hề ngưng một phút. Rồi
mùa này đến mùa nọ, năm này đến năm khác, Mirone vẫn cầu xin. Cây sồi mọc lên
cao gần tới chân mây. Một khu rừng rậm mọc lên từ những hạt sồi rụng xuống.
Nhưng lời cầu xin của nhà tu sĩ vẫn chưa ngừng. Cho đến ngày hôm nay, vị ẩn sĩ
vẫn mấp máy những lời xin cứu độ, xin Thiên Chúa thương xót nhân loại, xin Đức
Nữ Đồng Trinh cứu giúp loài người.
Thời
gian trôi qua, Yvan vẫn đứng nguyên bên cạnh nhà ẩn sĩ. Thanh gươm của y đã rỉ
sét hết và sắp tan thành cát bụi. Áo mũ của y rơi từng mảnh. Xuân qua đông lại,
Yvan vẫn đứng đó. Các bầy chó sói và gấu đi ngang qua cũng chẳng thèm nhìn đến
anh.
Vâng, phải xin, phải tìm, phải
gõ cửa. Xin một cách kiên trì, tìm một cách kiên trì, gõ cửa cũng phải kiên
trì.
6. Hãy đẩy
Có
câu chuyện kể về chàng trai nọ được Chúa yêu cầu đẩy (tiếng Anh: push) một tảng
đá. Anh ta ‘push’ nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm.
Tảng
đá không nhúc nhích, vì nặng quá. Cuối cùng, anh trách Chúa: “Sao con ‘push’
hoài mà không được, thật vô ích!” Chúa trả lời: “Ta chỉ yêu cầu con ‘push’ thôi
mà. Và con đã ‘push’ thật tốt đó chứ. Còn tảng đá nhúc nhích hay không là việc
của Ta. Không vô ích đâu con ạ. Nhờ ‘push’ tảng đá hằng ngày mà thân thể con trở
nên mạnh hơn trước nhiều đấy; cơ bắp con khoẻ hơn, xương cốt con rắn chắc hơn.
Vậy mà không tốt sao?”
Sứ
điệp của câu chuyện là: chúng ta hãy PUSH luôn luôn, hãy cầu nguyện cho đến khi
điều gì đó xảy ra (PUSH: Pray Until Something Happens!) Trong Tin Mừng hôm nay,
Đức Giêsu năn nỉ chúng ta cầu nguyện bền bỉ như vậy.
7. Ai xin thì sẽ được
...
Ông Giuseppe Zaccari làm nghề gác-dan một tòa nhà nơi khu chung cư. Người trong
khu phố không ai là không biết ông. Họ âu yếm gọi ông bằng tên Peppe. Lý do là
vì ngoài công việc canh gác tòa nhà ông luôn luôn sẵn sàng ra tay giúp đỡ bất cứ
ai cần đến. Ông rất tháo vát và khéo léo trong các công tác sửa chữa những vật
dụng bị hư hỏng. Ông giúp mà không bao giờ đòi hỏi thù lao. Biết bao nhiêu gia
đình không khá giả đã hưởng nhờ bàn tay ông cứu giúp khi có bất trắc nào đó xảy
ra trong nhà. Đôi khi các sửa chữa đầy khó khăn và nguy hiểm đến tính mạng.
Nhưng ông Peppe không bao giờ từ chối khi ông có thể làm được.
Một
ngày trong tháng 9 năm 2009, một gia đình trong tòa nhà có cánh cửa sổ bị hư
không mở được. Họ nhờ ông Peppe đến xem và sửa dùm. Ông vui vẻ nhận lời. Nhưng
trong lúc loay hoay sửa thì ông bị ngã từ nơi cửa sổ ở lầu thứ hai. Ông bị hôn
mê. Bác sĩ cho vợ của ông biết là ông bị gãy xương chậu và có nhiều nơi trong
cơ thể bị hư hại. Trong vòng một tháng, mạng sống ông Peppe như treo lơ lửng
trên một sợi chỉ.
Khi
nghe tin ông Peppe gặp tai nạn và đang trong tình trạng thập tử nhất sinh, tôi
tức tốc dâng lời khẩn cầu lên THIÊN CHÚA. Đặc biệt tôi van xin thánh Luigi
Orione (1873-1940) cầu bầu cùng THIÊN CHÚA cho ông Peppe thoát chết. Bởi vì đối
với tôi, cứ mỗi lần gặp gian nan khốn khố, tôi thường kêu cầu thánh Luigi
Orione cứu giúp. Và tôi luôn luôn được thánh nhân đáp lời. Bây giờ thì tôi hướng
lời cầu cho ông Peppe, vị ân nhân của chúng tôi đang gặp khốn khó.
Tôi
quyết định đến Viện Dưỡng Lão Piccolo Cottolengo di Don Orione ở Monteverde tại
thủ đô Roma để xin Cha Giancarlo - Giám Đốc Trung Tâm - một di tích của thánh
Luigi Orione và mang đến cho ông Peppe. Nhưng không may là Cha Giancarlo đi vắng.
Tôi trở lại Viện Dưỡng Lão ngày hôm sau để xem có ai giúp được việc tìm ra một
di tích của thánh Luigi Orione không. Nhưng cũng vô hiệu. Thấy thế, tôi liền gởi
cho ông Peppe di tích thánh Luigi Orione mà tôi luôn luôn mang theo trong mình
từ 5 năm qua. Tôi để di tích thánh trong ví-tay hoặc trong va-li mỗi khi tôi ra
khỏi nhà hay phải di chuyển đến nơi nào đó. Tôi rất quí trọng di tích thánh và
hơi tiếc-tiếc khi phải nhường di tích thánh này cho ông Peppe. Tôi chỉ hơi tiếc-tiếc
thôi nhưng vẫn vui lòng trao di tích thánh cho ông Peppe cùng với tha thiết
nguyện xin thánh Luigi Orione ra tay cứu giúp ông Peppe tai qua nạn khỏi.
Một
thời gian sau đó tôi gặp bà vợ của ông Peppe. Bà cho biết là ông Peppe khá hơn.
Bà âu yếm ôm hôn tôi và nói:
-
Ông Peppe khá hơn nhờ di tích của thánh Luigi Orione. Tôi cẩn thận đặt di tích
thánh nơi người ông. Tôi cũng tha thiết đọc không biết bao lời kinh dâng lên
thánh Luigi Orione!
Bà
cám ơn tôi và vô cùng sung sướng vì bỗng nhiên tình trạng sức khoẻ của ông
Peppe xoay chiều và khá hơn.
Từ
đó có thể nói rằng ông Peppe đã thoát hiểm nguy. Ông tiếp tục các cuộc chữa trị
cho đến ngày 25-3-2010 thì ông rời nhà thương trở về nhà. Ông có thể tự mình đi
đứng bình thường và khi tình trạng sức khoẻ ổn định ông có thể trở lại với công
việc như trước. Thật là tin vui rất lớn.
Đối
với tôi, tôi tin tưởng vững chắc rằng việc ông Peppe thoát chết và trở về với đời
sống thường nhật quả là ơn lành THIÊN CHÚA ban nhờ lời chuyển cầu của thánh
Luigi Orione. Muôn vàn cảm tạ hồng ân THIÊN CHÚA và tri ân Thánh Luigi Orione.
Chứng
từ của bà Sabrina Conti tín hữu Công Giáo Ý.
...
Khi ấy Đức Chúa GIÊSU nói với các môn đệ rằng: ”Ai trong anh em có một người bạn,
và nửa đêm đến nhà người bạn ấy mà nói: ”Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì
tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả”;
mà người kia từ trong nhà đáp lại: ”Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi,
các cháu lại ngủ cùng giường với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được!”
Thầy nói cho anh em biết: Dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn,
thì cũng sẽ dậy để cho người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ đứng
lì ra đó .. Thế nên Thầy bảo anh em: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ
thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai
gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì
thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu
anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành,
phương chi CHA trên Trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người
sao?” (Lc 11,5-13).
(”Don
Orione oggi”, Rivista mensile della Piccola Opera della Divina Provvidenza,
Anno CV, n.10, Novembre 2010, trang 12)
Sr.
Jean Berchmans Minh Nguyệt
8. Lời nguyện của Mẹ Teresa Calcutta
Lạy Chúa, Chúa đã chịu chết và sống lại, xin dạy chúng con biết
chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy những thất bại trong cuộc
đời cũng như mọi đau khổ của Thập Giá, xin biến mọi đau khổ cũng như mọi thử
thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội giúp chúng con thăng tiến
và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng chúng con không thể nên hoàn thiện nếu
như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm cho chúng con khổ đau và
khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa Phục Sinh. Amen. (Mẹ Têrêsa Calcutta).
THỨ SÁU - QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA
Lời Chúa: Lc 11, 15-26
Khi ấy, (lúc Chúa Giêsu trừ quỷ), thì có mấy người trong dân
chúng nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ." Mấy kẻ
khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống.
Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ,
sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự
chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ
Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các
ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng
nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa
các ngươi rồi.
"Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà
mình, thì của cải người đó được an toàn. Nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến
đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tán hết những
gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với
Ta là phân tán.
"Khi thần ô uế ra khỏi người nào, thì nó đi dông dài những
nơi khô ráo, tìm chỗ nghỉ ngơi, nhưng không tìm được, nên nó nói rằng: "Ta
sẽ trở lại nhà ta, nơi ta đã ra đi." Khi đến nơi, nó thấy nhà đó đã được
quét sạch và sắp đặt ngăn nắp. Bấy giờ nó đi rủ bảy tà thần khác hung ác hơn
nó, chúng vào cư ngụ ở đó. Và tình trạng sau cùng của người ấy trở nên tệ hại
hơn trước."
TRUYỆN KỂ
1. Không được vu khống
Có một thời người ta đổ xô đi mua cuốn sách: “Cơn cám dỗ cuối
cùng” của tác giả Nikos Kazantzakis, và trong những năm gần đây, đạo diễn
Martin Scoresse đã hiện thực hóa trong bộ phim cùng tên. Khi phim được trình
chiếu, nhiều người đã tỏ ra bức xúc vì những lời lẽ và hành động được tác giả
gán cho Đức Giêsu xem ra có vẻ tầm thường và đôi khi không được tốt đẹp cho lắm!
Đó là câu chuyện thời nay, còn thời xưa, những người Pharisêu đã
không ngần ngại gán cho Đức Giêsu rằng: Ngài đã nhờ Tướng Quỉ để mà trừ quỉ.
Đây là một sự xúc phạm nặng nề đến bản tính của Thiên Chúa.
2. Con ốc neo
Vào tháng 2 năm 2014, cầu treo Chu Va 6 bị lật khiến 8 người thiệt
mạng và hơn 20 người bị thương nặng. Các chuyên gia cho rằng, lỗi kỹ thuật
không nằm ở trụ cầu hay cáp treo mà ở một con ốc neo. Một sai lầm nhỏ cũng đủ
làm lật cây cầu treo dài hơn 50 mét. Cũng thế, chỉ một sự chia rẽ nhỏ trong tập
thể cũng có thể đem lại hậu quả khôn lường. Vì thế, hôm nay, Chúa Giêsu dạy
chúng ta giá trị cần thiết của sự đoàn kết: ”Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu
tàn, nhà nọ đổ xuống nhà kia”; ngược lại, đoàn kết làm cho một tập thể thêm
huynh đệ, yêu thương, tha thứ.
Đức Giáo hoàng Phanxicô cũng mạnh mẽ lên án việc chia rẻ bên
trong các cộng đoàn. Ngài phê phán bệnh xầm xì nói xấu nhau. Căn bệnh này có thể
phá hủy tình thân hữu trong bất kỳ cộng đoàn nào. Đó là thứ tội lỗi xấu xa,
phát xuất từ lòng ghen tị, thù hận, và là hoạt động trực tiếp của ma quỷ, nhằm
phá hoại sự hiệp nhất của cộng đoàn.
3. Phải biết chọn lựa.
Ngày kia, trong khi đến rao giảng cho các tù nhân tại trại tù nọ,
cha Gioan nhìn thấy trong số cử tọa một người với gương mặt có vẻ quen quen.
Sau khi kết thúc bài giảng, cha liền tìm đến gặp người đó tại xà
lim nơi giam giữ anh ta. Gặp lại người quen của mình từ nhỏ, người tù nhân đó
nói:
- Thưa linh mục, tôi còn nhớ rất rõ về ông. Cả hai chúng ta đều
lớn lên ở cùng một khu phố, chúng ta cùng đi học với nhau tại một ngôi trường;
ngồi cùng một bàn bên cạnh nhau; và tôi cũng có những triển vọng tươi sáng giống
như ông. Nhưng đến khi lớn lên, ông chọn lựa con đường làm linh mục, phục vụ
Thiên Chúa. Còn tôi, tôi lại khước từ việc đến với Đức Kitô, và đã chọn đi theo
thế gian và tội lỗi. Hiện nay, ông là một người rao giảng Tin Mừng, có cuộc sống
hạnh phúc và được mọi người kính trọng, trong khi tôi lại là một con người tồi
tệ, bị gạt ra ngoài lề xã hội. Tôi đã sống trong trại tù này từ 10 năm nay, và
tôi sẽ còn phải sống ở đây cho đến mãn đời!
4. So sánh với thập giá
Người hạnh phúc nhất mà tôi từng được biết, đó là một người Ái
nhĩ Lan tên Dundee. Ông bị té gãy lưng từ năm 15 tuổi, sau đó phải nằm trên giường
bệnh rất đau đớn trong suốt 40 năm. Nhưng lúc nào ông cũng tươi cười. Tôi hỏi:
- Có khi nào ông bị quỷ cám dỗ không, chẳng hạn nó nói với ông rằng
nếu Chúa thương ông thì chẳng để ông phải liệt giường như vậy?
- Có chứ, rất nhiều lần. Nó thường dẫn trí óc tôi nhìn đến cảnh
sung sướng của người khác và nói với tôi như thế. Nhưng tôi cũng dẫn nó tới đồi
Canvê, chỉ cho nó thấy Chúa Giêsu đang chết trên Thập giá. Và tôi hỏi lại nó
“Thế Chúa không thương tôi sao?" Kết quả là lần nào nó cũng vội vàng rút
lui.
5. Ganh tỵ là tự sát
Có một con đại bàng ganh tị với một con đại bàng khác vì con này
bay cao hơn nó. Một hôm con đại bàng ganh tị gặp một xạ thủ. Nó xúi anh bắn hạ
đối thủ của nó. Chàng xạ thủ đáp: “Được. Nhưng tôi không có tên."
Con đại bàng nhổ một cọng lông cánh đưa cho chàng xạ thủ làm
tên. Nhưng chàng bắn hụt. Vì quyết tâm hại đối thủ của mình, con đại bàng ganh
tị lại nhổ thêm một cọng nữa, rồi một cọng nữa... cho tới khi hai cánh nhỏ trụi
nhẵn. Nó không bay được nữa. Chàng xạ thủ không bắn được con kia nên bắt lấy
con đại bàng trụi cánh về làm thịt. Nếu bạn ganh tị muốn hại ai thì rốt cuộc bạn
chỉ tổ hại chính bản thân mình
6. Dấu hiệu của chiến thắng
Trong lịch sử của thánh Martino, giám mục thành Tour (Pháp) có
chép:
Một hôm, ma quỉ muốn cám dỗ thánh nhân đi vào con đường trụy lạc.
Hắn liền hiện hình một vị vua oai phong huy hoàng đến với thánh nhân: - Martino
hỡi con, cha cám ơn con về lòng tin của con đối với cha. Con cũng phải biết rằng,
cha luôn thành tín đối với con. Từ nay, con sẽ mãi mãi cảm thấy ở bên cạnh cha,
con có thể hoàn toàn tín nhiệm ở cha.
Thánh nhân chăm chú nhìn ông vua kia hồi lâu rồi ngài hỏi: -
Nhưng thưa ngài, ngài là ai vậy?
Tên quỉ đội lốt vua đáp: - Ta là Giêsu Kitô đây.
Thánh nhân lại hỏi: - Vậy thì vết thương bị đóng đinh ở chân tay
ngài đâu?
Tên quỉ trả lời: - Ta từ vinh quang trên trời xuống, nơi đó chẳng
còn có thương tích nữa.
Thánh nhân đáp lại ngay: - Tôi không muốn nhìn Đức Kitô không
thương tích. Tôi không thể tín nhiệm Đức Kitô không qua dấu hiệu Thập Giá.
Thấy mưu đồ bại lộ, tên quỷ lủi mất.
7. Quỷ trở lại
Ông Leonardo da Vinci là một danh họa, kể lại câu truyện như
sau:
Tôi muốn thực hiện bức họa Bữa Tiệc Ly của Chúa Giêsu, việc khó
nhất của tôi là đi tìm một khuôn mặt nào thật dễ mến, đầy nghị lực, nhất là
toát ra sự thánh thiện để làm mẫu vẽ Chúa Giêsu. Cuối cùng tôi đã tìm được một
thanh niên tên là Pietri Bandielli! Các Tông Đồ của Chúa Giêsu thì rất dễ đối với
tôi, tôi cứ tưởng tượng thế nào thì vẽ như vậy. Trừ có khuôn mặt của Giuđa, tôi
chưa tìm được mẫu người để diễn tả về một kẻ tham tiền, đểu cáng…! Tôi đi khắp
nơi: vào các quán rượu, xuống tận hầm mỏ, và phải mất một thời gian dài, cuối
cùng thì tôi cũng gặp được một người tôi ưng ý ngay. Tôi liền ngỏ lời với anh
ta: xin ngồi làm mẫu cho tôi vẽ…! Đang khi vẽ, tôi chợt cảm thấy anh này tôi đã
nhìn ở đâu rồi, trông quen quen! Tôi liền hỏi anh:
- Này anh, hình như tôi đã gặp anh ở đâu rồi thì phải.
Người ấy đáp:
- Ông không nhớ tôi sao, cách đây khá lâu, chính ông đã nhờ tôi
làm mẫu để vẽ Chúa Giêsu, tên tôi là Pietri Bandielli. Sau ngày tôi gặp ông,
tôi đã sa đà vào con đường trụy lạc, vì bị bạn bè lôi kéo, giờ tôi sống rất khổ
sở…!
8. Ma quỷ trở lại
Một người kia lui về ở ẩn đã trải qua một cuộc hoán cải. Bà ta
nói với vị linh sư: “Con phải làm gì bây giờ? Về mặt thiêng liêng, con không đủ
nghị lực để trở về chốn cũ và với bạn bè cũ của con. Làm sao có thể lắp đầy chỗ
trống này?” Lý luận của người phụ nữ này thật là đúng đắn. Nếu chúng ta loại một
cái gì đó ra khòi cuộc sống, chúng ta phải thay thế nó bằng một cái gì khác. Nếu
không thì trong những giây phút bị cám dỗ, chúng ta có nguy cơ trở lại đường
cũ, thiếu can đảm và rốt cuộc tệ hơn trước.
Tôi đã bao giờ kinh nghiệm một cái gì tương tự khi cố gắng theo
Chúa, gần gũi Chúa hơn trong quá trình cầu nguyện chưa? Làm sao tránh khỏi mất
can đảm khi gặp thử thách hoặc sa vào đường cũ?
Ta chỉ thật sự thất bại khi ta bỏ cuộc.
9. Sợi xích không ai phá nổi!
Thời Trung Cổ, có một bác thợ rèn rất giỏi. Bác luôn tự hào về
những giây xích do bác làm ra: đó là những sợi xích tuyệt hảo, không ai phá nổi!
Ngày kia, bác bị bắt đi tù. Người ta xích bác lại bằng một sợi
xích sắt. Bác ngồi quan sát giây xích, tìm cách bẻ gãy để thoát thân. Nhưng bác
chợt nhìn thấy dấu hiệu của mình trên sợi xích, bác thở dài, thất vọng khi biết
rằng giây xích nầy là do bác làm ra, rất tốt, chẳng ai phá nổi!
Các tính xấu là những sợi xích ràng buộc tôi. Khi nó mới ló ra
mà tôi không sửa đổi ngay thì càng ngày nó càng kiên cố, càng bền chắc, cho đến
ngày nó ghìm chặt lấy tôi, nuốt sống tôi, và làm cho tôi phải chết.
Các tính xấu giống như bầy chó rất dữ bà hoàng hậu độc ác
Giêsaben đã nuôi. Ai cũng sợ bầy chó này. Nhưng chính bầy chó dữ mà bà hoàng hậu
nuôi đã ăn thịt bà. Khi bà chết, xác bà bị vất ra cánh đồng, và chính bầy chó nầy
đến ăn thịt xác bà.
Một nết xấu không bị trừ khử thì sẽ lớn lên, lớn lên hằng ngày.
Nó ăn thịt tôi mà lớn lên cho đến ngày tôi không còn là tôi nữa mà trở nên hiện
thân của thói xấu đó.
"Khi thần ô uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những
nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi. Mà vì tìm không ra, nó nói: "Ta sẽ trở về
nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi." Khi đến nơi, nó thấy nhà được quét tước, dọn
dẹp hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt
cuộc tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước." (Lc 11,24-26)
THỨ BẢY - ƯU TIÊN LÀ TUÂN GIỮ LỜI CHÚA
Lời Chúa: Lc 11, 27-28
Khi ấy, Chúa Giêsu đang giảng cho dân chúng, thì từ giữa đám dân
chúng, có một phụ nữ cất tiếng nói rằng: "Phúc cho dạ đã cưu mang Thầy và
vú đã cho Thầy bú!"
Nhưng Người phán rằng: "Những ai nghe và giữ lời Thiên Chúa
thì có phúc hơn."
TRUYỆN KỂ
1. Cây tốt sinh trái tốt
Có
người hỏi thi sĩ François Coppée, người Pháp: “Ai làm cho ông nên tốt lành như
thế?" Ông trả lời ngay, không chút do dự: “Đó là mẹ tôi!"
Mẹ
Maria khi được sứ thần loan tin cho biết Mẹ sẽ là Mẹ của Con Đức Chúa Trời, Mẹ
xưng mình là tôi tớ của Đức Chúa Trời và luôn làm theo thánh ý Ngài.
2. Thực hành Lời Chúa dạy.
Có
người nô lệ da đen kia đạo đức và trung thành, do được chủ mến chuộng, mỗi khi
cần có thêm đầy tớ trong nhà, chủ thường dẫn theo người nữ tì da đen này để cô
chọn cho chủ.
Một
hôm, cô đã chọn một ông già có tật. Chủ nhất định không chịu mua vì nghĩ rằng hắn
chẳng được việc và chẳng đáng giá. Nhưng vì cô nữ tì cứ nài nỉ mãi nên buộc
lòng ông chủ phải mua người nô lệ già này bị bệnh nặng. Cô nữ tì săn sóc ông với
tất cả tình của người con hiếu thảo. Ông chủ ngạc nhiên hỏi:
- Bộ
ông ấy là cha mày, sao mày chăm sóc ông ấy kỹ như thế?
Người
nữ tì trả lời:
-
Thưa ông, người kia không phải là bố cháu, cũng không phải là bà con của cháu,
trái lại còn là kẻ thù của cháu nữa. Bởi vì khi cháu con nhỏ, hắn đã bắt cóc
cháu khỏi vòng tay cha mẹ của cháu, bán cháu như một đứa nô lệ. Nhưng vì cháu
là người Công giáo nên cháu luôn thực hành lời dạy của Chúa Giêsu: “Hãy tha thứ
thì sẽ được thứ tha."
3. Đọc với trái tim
Một
bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì
bà dùng một thí dụ để giải thích:
Hôm
qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất
chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong
thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương
tôi và tôi cũng rất thương người đó
4. Tôi tớ Chúa lắng nghe
Truyện
kể rằng, khi ông Ađam và bà Evà bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng, họ phải dựng lấy
nhà để ở trên mặt đất khô cằn và phải đổ mồ hôi sôi nước mắt làm lụng mới kiếm
ra miếng ăn. Ađam làm rẫy và Evà dệt vải. Mỗi năm họ cho ra chào đời một đứa
con.
Năm
tháng trôi qua, lũ trẻ mười bốn đứa lớn dần. Một hôm, chợt nghe tiếng gõ cửa,
Ađam mở then gài cho một cụ già quắc thước bước vào. Với con mắt tinh đời, Evà
nhận ra ngay cụ già đó chính là Đức Chúa. Bà vội vàng mời Chúa ngồi. Bà lấy nước
ra mời Ngài dùng. Ngài cám ơn và hỏi:
-
Lũ trẻ có nhà không?
Ađam
vội gọi các con ra và bảy đứa trẻ tiến đến trước mặt Chúa, lễ phép chào Ngài.
Chúa đứng lên, mỉm cười và nói với chúng: - Ta sẽ ban cho các con mỗi đứa một
ơn.
Lũ
trẻ quỳ xuống để Ngài đặt tay trên đầu. Ngài phán bảo với đứa đầu tiên:
-
Con sẽ trở nên một vị hoàng đế đầy quyền thế.
Quay
sang đứa kế bên, Ngài phán: - Con sẽ là công Chúa.
Đứa
thứ ba nghe Ngài truyền: - Con sẽ làm quận công.
Và
bốn đứa còn lại cũng được ban cho làm học giả và nhà buôn giàu có.
Sau
khi nghe những lời chúc phúc tuyệt diệu của Thiên Chúa ban cho con mình, ông
Ađam và bà Evà vội vàng chạy đi tìm những đứa con khác đang làm việc ở bên
ngoài. Cả lũ bảy đứa bé còn lại cũng hớt ha hớt hả chạy về trình diện Chúa.
Ngài lại mỉm cười hiền từ và phán bảo:
-
Ta cũng sẽ ban phúc lành cho chúng con.
Ađam
và Evà tươi cười trông chờ và lắng nghe Lời Chúa.
Thiên
Chúa phán bảo đứa thứ nhất: - Con sẽ trở nên một người giúp việc mẫn cán.
Ngài
nói với đứa thứ hai: - Con sẽ là người nông dân.
Và
đến đứa thứ ba, Ngài cho nó làm bác thợ giày. Những đứa còn lại trở thành thợ
rèn, thợ thuộc da và thợ may.
Vừa
nghe dứt lời chúc lành của Thiên Chúa ban cho những đứa về sau, Evà khóc oà
lên:
- Lạy
Chúa, Ngài thật là bất công. Ngài ban phát những lời chúc lành không công bằng
chút nào. Chúng đều là những đứa con do vợ chồng con sinh ra, sao Ngài lại cho
chúng đứa được làm vua làm quan, còn đứa thì lại làm kẻ hầu người hạ.
Thiên
Chúa nghe xong, bèn giải thích rằng:
-
Evà, con chẳng hiểu gì cả. Ta cần phải ban phát mọi ngành nghề cho thế giới này
thông qua con cái của con. Giả sử tất cả bọn chúng đều là vua thì ai sẽ là người
nông dân làm ra lương thực. Giả như tất cả đều làm quan thì ai sẽ làm ra y phục?
Mỗi người phục vụ ở những vị trí và giữ vai trò khác nhau, và trong mắt Ta mọi
ngành nghề đều quan trọng như nhau. Giống như những bộ phận trong cùng một thân
thể, chúng kết hợp lại để hỗ trợ lẫn nhau.
Lúc
đó, Evà mới hiểu ra và thành khẩn xin Chúa tha thứ: - Lạy Chúa, xin tha tội cho
con. Con đã vội vàng cãi lại Ngài. Con cầu xin cho ơn Ngài được thực thi trên
con cái chúng con.
Chúng
ta hãy bắt chước Samuen thuở xưa mà thưa: "Lạy Chúa, xin hãy phán vì tôi tớ
Chúa đã sẵn sàng lắng nghe" (1Sm 3,9). Amen.
5. Mối phúc thứ chín
Tám
mối phúc thật được Chúa gồm tóm vào một mối: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ
Lời Chúa.” Lắng nghe chưa đủ, còn phải thực hành. Không thể thực hành đúng, nếu
không lắng nghe và hiểu cho đúng. Nêu lên “mối phúc thứ chín” này Chúa Giê-su
ngầm tôn vinh Đức Mẹ không chỉ vì đã “cưu mang và cho Ngài bú mớm” mà còn vì Mẹ
nêu gương sống khiêm nhu đón nhận Lời Chúa, suy niệm trong lòng, và thực hành.
Mẹ đúng là người có phúc.
Gia
đình bạn, cá nhân bạn đã dành những thời gian nào để đọc, nghe Lời Chúa? Và đã
có những quyết tâm cụ thể để thực hành Lời Chúa chưa?
6. Thiên Chúa ở ngay bên
Một
phụ nữ thánh thiện bị ma quỷ cám dỗ. Bà luôn cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa dường
như không nghe tiếng bà. Cuối cùng, cơn cám dỗ cũng giảm cường độ. Khi Thiên
Chúa hiện ra, người phụ nữ hỏi: “Lạy Chúa, Ngài ở đâu khi con bị cám dỗ?” Thiên
Chúa trả lời: “Ta ở bên cạnh con.” Khi bị thù địch dầy xéo, dân Israel cảm thấy
như mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, và hỏi: “Lạy Chúa, Chúa ở đâu?” Nhưng ngôn sứ
Gioel trấn an rằng: “Thiên Chúa ở bên các ngươi.”
Lần
cuối cùng tôi cảm thấy bị Thiên Chúa bỏ rơi là khi nào? Tại sao?
Đừng
sợ hãi: có Ta ở với ngươi. Đừng nhớn nhác: Ta là Thiên Chúa của ngươi Ta cho
ngươi vững mạnh và trợ giúp ngươi Ta bảo vệ ngươi và cứu thoát ngươi. (Is
41,10)
7. Bản dịch của mẹ
Có
hai chủng sinh đang thảo luận về bản dịch Kinh thánh. Chris nói: “Tôi thích bản
dịch New American, vì rõ ràng và dễ đọc hơn.” Pat thì nói: “Tôi thích bản dịch
Kinh thánh Giêrusalem, vì có chất thơ và dễ cầu nguyện hơn.” Một vị linh mục
nghe thấy thế liền nói: “Tôi lại thích cách dịch của mẹ tôi hơn. Bà ta dịch nó
thành hành động, khiến nó sống động và dễ hiểu hơn.” Cách phiên dịch của người
mẹ, đó là điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: Ngài muốn
nói về cách phiên dịch “sống động.”
Maurice
Zundel có ý gì khi nói: “Bạn chỉ có thể hiểu Kinh thánh bằng chính con người bạn?”
Điều
tôi bắt đầu bằng việc đọc phải được hoàn tất bằng hành động (Henry David
Thoreau).
8. Phúc của mình hay phúc ăn theo?
“Chị
Bảy” Phương Mỹ Chi với giọng hát dân ca ngọt ngào cuốn hút đã trở thành “hiện
tượng gây sốt” của cuộc thi Giọng Hát Việt Nhí trong mùa hè 2013. Đến cả gánh
chè của mẹ “chị Bảy” cũng trở thành nổi tiếng đến độ “chị Bảy” phải lo lắng “sợ
mẹ không đủ chè để bán!” Mối liên hệ gia đình khiến người ta chung chia thân phận
với nhau trong niềm vui cũng như nỗi buồn: “một người làm quan cả họ được nhờ”,
hay một người được vinh danh, cả nhà cũng được “thơm lây."
Trong
xã hội Do thái cũng thế, Chúa Giêsu được thán phục vì lời giảng dạy của Ngài
thì Đức Maria cũng được ca ngợi là người có phúc. Chúa Giêsu cho thấy để được
“phúc đức” và để trở nên người thân trong gia đình Thiên Chúa không hệ tại ở mối
liên hệ huyết thống tự nhiên. Nhưng chỉ những ai nghe và giữ Lời Thiên Chúa mới
đích thực là anh em bà con với Chúa và mới thật là có phúc.
Đức
Ma-ri-a, là “Đấng đầy ơn phúc” không chỉ vì Mẹ đã “cưu mang và cho Thầy bú mớm,”
mà trước tiên bởi vì Mẹ đã lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa từ lời thưa
“xin vâng” trong ngày truyền tin cho đến thái độ xin vâng khi đứng dưới chân thập
giá.
Hằng
ngày bạn vẫn đang tìm kiếm thứ hạnh phúc nào? Bạn có quan tâm tìm kiếm hạnh
phúc qua việc thực thi Lời Chúa không?
9. Tự hào với tấm lòng của người mẹ
Quan
tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu có lần gởi một tấm lụa quý về làm quà cho mẹ ở đất
Quảng Nam. Bà mẹ già xứ quê gởi trả lại tấm lụa, kèm theo một cây roi dâu, để
nhắc nhở con mình về sự thanh liêm. Người mẹ này đáng được ca ngợi, do công
sinh thành dưỡng dục khi con còn nhỏ, cũng như do tiếp tục giáo dục con cái
cách hữu hiệu khi con đã trưởng thành.
Chúng
ta liên tưởng đến một người mẹ đáng được ca tụng khác là Đức Maria. Mẹ có phúc
không chỉ do sinh hạ, cho Đức Giêsu bú mớm, nhưng còn do Mẹ nỗ lực “lắng nghe
và tuân giữ Lời Chúa.” Tin Mừng Luca nói với chúng ta rằng Đức Maria luôn “ghi
nhớ và suy niệm trong lòng” những sự kiện xảy ra trong đời mình, để nhận ra ý
Chúa và mau mắn đáp lại bằng tiếng xin vâng.
LỄ KÍNH - LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Thiên Thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Đavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào Trinh Nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Trinh Nữ." Nghe lời đó, Trinh Nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì. Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này Trinh Nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Đavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.
Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"
Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Đấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Đấng trinh nữ sinh ra sẽ là Đấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được."
Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền." Và thiên thần cáo biệt trinh nữ. Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Gốc tích kinh Mân Côi
Căn cứ vào các nguồn tài liệu đáng tin nhất của Thánh Louis Marie Grignion de Monfort, trong cuốn “Bí Mật Kinh Mân Côi”, thì chính Đức Mẹ đã ban Kinh Mân Côi và dạy Kinh Mân Côi cho thánh Đaminh. Vào thế kỷ XV, Đức Mẹ đã hiện ra với thánh Đa Minh năm 1206 sau khi thánh nhân cầu nguyện và sám hối vì đã không thành công trong việc chống tà thuyết Anbi, thuyết cho rằng đồng hiện hữu của hai quy luật đối nghịch là Thiện và Ác.
Đức Mẹ đã khen ngài về sự chiến đấu anh dũng chống lại tà thuyết và trao cho ngài Chuỗi Mân Côi làm vũ khí phi thường, đồng thời giải thích cách sử dụng và hiệu quả của Chuỗi Mân Côi. Đức Mẹ bảo thánh Đa-Minh rao truyền Chuỗi Mân Côi cho những người khác. Từ đó, thánh Đaminh đã là sứ giả của Đức Mẹ và là tông đồ tiên khởi truyền bá Kinh Mân Côi từ năm 1214.
Và sự kiện cuối cùng, ngày Chúa nhật 07/10/1571, hải quân Công Giáo thắng hải quân Thổ nhĩ kỳ một trận thủy chiến oanh liệt ở vịnh Lepante. Tin chiến thắng được báo về Rô-ma vào Chúa nhật đầu tháng Mười, giữa lúc các hội viên Mân Côi đang rước kiệu trong thành phố. Để tạ ơn Đức Mẹ đã nghe lời cầu khẩn của các tín hữu, Đức Giáo Hoàng Pi-ô V, ngày 5.3.1572 truyền mỗi năm phải làm một lễ kính Đức Bà chiến thắng.
Ngày 1.4.1573, Đức Giáo Hoàng Ghê-go-ri-ô XIII đặt tên cho lễ này là lễ Mân Côi và truyền phải cử hành trong các nhà thờ có bàn thờ dâng kính Đức Mẹ Mân Côi vào Chúa nhật đầu tháng Mười. Năm 1716, Đức Giáo Hoàng Clément XI truyền cho toàn thể Hội thánh phải long trọng mừng lễ này. Đến năm 1913, Đức Thánh Piô X ấn định mừng lễ Mẹ Mân Côi vào ngày mồng 7 tháng 10.
Rồi năm 1917, trong cả sáu lần hiện ra tại Fatima với ba em thiếu nhi Lucia, Phanxicô và Giaxinta, Đức Mẹ đã kêu gọi các em hãy lần hạt Mân Côi hằng ngày. Trong lần hiện ra cuối cùng Mẹ đã tự xưng “Ta là Đức Mẹ Mân Côi."
2. Trọng lượng của kinh Mân Côi
Alphonso từ ngày được tôn lên làm vua nước Galicia, đã tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Nhà vua đi đâu cũng có các quan văn võ tả hữu theo hầu. Thần dân của vua hầu hết là những người công giáo ngoan hiền đạo hạnh. Biết thế nên muốn lấy lòng dân, vua luôn tỏ ra mình là người đạo đức, có lòng kính mến Đức Mẹ Mân Côi, để triều đình và thần dân bắt chước. Cho nên dụng ý nhà vua là làm thế nào cho thần dân biết mình là người năng lần chuỗi Mân Côi. Vua cho đặt một cỗ tràng hạt thật dài để quấn vào thắt lưng, mỗi khi vua đi ra ngoài. Dân chúng ai cũng trầm trồ khen ngợi nhà vua rất ngoan đạo. Cho nên để lấy lòng vua, các quan cũng như thần dân, ai cũng mang tràng hạt, và cũng bắt chước vua năng lần chuỗi Mân Côi kính Đức Mẹ. Nhưng than ôi, thực tế phũ phàng thay! Vua chỉ giả hình vậy thôi, chứ chẳng bao giờ ông đọc kinh cầu nguyện gì cả, chỉ lo ăn chơi trác táng.
Một ngày kia, vua lâm bệnh nặng, trong một thị kiến vua thấy mình bị đưa đến toà phán xét. Ma quỷ vây chung quanh tố cáo vua các tội tầy đình, và chúng chực sẵn để đầy vua xuống hoả ngục. Đang lúc Chúa Giêsu Đấng Thẩm Phán Tối Cao, sắp sửa luận phạt vua, thì Đức Mẹ xuất hiện biện hộ cho vua. Mẹ nói với Chúa Giêsu: Con hãy thư thả để Mẹ xem xét lại vụ này.
Đức Mẹ liền truyền cho các thiên thần đem các tội vua đã phạm khi còn sống để trên một bàn cân, và cỗ tràng hạt vua luôn luôn đeo bên mình, cùng các kinh Mân Côi đã được đọc do gương sáng đeo tràng hạt của vua, trên một bàn cân khác. Kết quả là cỗ tràng hạt nặng hơn các tội vua đã phạm.
Rồi Đức Mẹ nhìn vua một cách trìu mến và nói: để tưởng thưởng một chút công của con đã dành cho Mẹ, bằng cách đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ đã xin Con Mẹ cho con được ơn rất lớn lao là khỏi sa hỏa ngục. Con sẽ được sống thêm mấy năm nữa để làm việc đền tội. Nhà vua tỉnh lại kêu lên: “Ngợi khen chuỗi hạt Mân Côi của ĐứcTrinh Nữ Maria! Nhờ đó trẫm được giải thoát khỏi sa hoả ngục." Sau khi bình phục, nhà vua đã sốt sắng truyền bá kinh Mân Côi, và lần chuỗi Mân Côi suốt ngày.
3. Thần lực kinh Mân Côi
Ngoài những ơn lạ Đức Mẹ ban nhờ thần lực của kinh Mân côi về phần hồn cũng như phần xác, * Mẹ Maria phán dạy Chân phước Alanô: “Bất cứ ai trung thành đọc kinh Mân côi và suy ngắm những mầu nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết. Điều đó rất dễ đối với Mẹ, vì Mẹ là Mẹ Vua Trời và Người gọi Mẹ là Đấng đầy ơn. Và vì đầy ơn, Mẹ có thể ban phát ơn phúc cho các con cái dấu yêu của Mẹ."
- Thánh Đaminh: Sau thánh lễ và kinh Phụng vụ, không có sự tôn kính nào đẹp lòng Chúa Giêsu và Mẹ Thánh Người bằng sốt sắng đọc kinh Mân côi.
- Chân phúc Alanô: Kinh Kính mừng là một cầu vòng trên trời, là một dấu chỉ lòng thương xót và ân sủng Thiên Chúa ban cho thế giới. Mẹ muốn dân chúng có lòng sùng kính kinh Mân côi được ơn thánh và phúc lành của Con Mẹ torng cuộc sống và trong giờ họ chết. Mẹ muốn họ thoát khỏi mọi ràng buộc, để họ nên giống các vua đội triều thiên, cầm phủ việt và hưởng phúc vinh quang vĩnh cửu.
- Thánh Anphong: Nhờ kinh Mân côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trong nẻo trọn lành. Biết bao người nhờ kinh Mân côi đã được ơn chết lành và hưởng phúc trường sinh.
- Đức Gioan XXIII: Chớ gì kinh Mân côi gia đình là một hương thơm sự an bình cho gia đình các con. Ước chi con cái của các con chạy đến với Mẹ maria để gìn giữ sự trong trắng thơ ngây. Ước chi các bạn thanh thiếu niên học được nơi Đức Mẹ sự phấn khởi làm việc thiện và bảo đảm sự thanh khiết của họ. Ước chi người đau khổ hy vọng được niềm an ủi nơi Đức Nữ Trinh.
- Đức Phaolô VI: Kinh Mân côi đạo đức và phổ cập hiện ra như một chuỗi cứu độ treo trên cánh tay Chúa Cứu Thế và Mẹ Thánh Người, và do đó phát ra mọi ơn lành cho chúng ta và mọi niềm hy vọng đến với chúng ta.
- Đức Gioan Phaolô II: Trong những chục kinh Mân côi, tấm lòng chúng ta có thể hái lượm được những sự kiện làm thành đời sống cá nhân, gia đình, dân tộc, giáo hội và thế giới. Đó là những vấn đề cá nhân hay người thân cận, người thân quyến chúng ta. Như vậy, kinh Mân côi hoà nhịp đời sống con người.
4. Đến với Chúa Giêsu nhờ Mẹ Maria
Dưới thời Hitler, Đức quốc xã đã bắt không biết bao nhiêu giáo sĩ, tu sĩ nam nữ và giáo dân tập trung vào các trại, mà người ta gọi là “lò sát sinh." Linh mục Tito Brandsma, dòng Camêlô cũng bị bắt tập trung taị trại Dachau, gần Muechen, Tây Đức. Ngài đã bị án hành quyết ngày 26/7/1942. Biết mình sắp chết, do một cô y tá Đức quốc xã, chuyên môn làm cai nghề độc ác là chích thuốc độc cho tử tội. Cha đã chuẩn bị sẵn, lợi dụng lúc cô đang chích thuốc độc cho mình, thì ngài đưa cho cô xâu chuỗi Mân Côi, mà cha đã làm trong tù để kỷ niệm, hoặc sau này, nhờ cô là nhân chứng, để đem chuỗi hạt gửi lại cho người thân trong gia đình..
Cha nói với cô y tá: cô hãy dùng xâu chuỗi này để cầu nguyện. Cô ta đáp: “Tôi không cần, vì tôi không biết cầu nguyện.” Cha nói: “Cô cứ thử xem đi. Ít là cô hãy đọc câu: “Cầu cho chúng tôi là kẻ có tội khi nay và trong giờ lâm tử.” Đó là những lời cuối cùng của Linh Mục Brandsma trước khi chết. Dù vậy, cô cũng cứ cầm lấy chuỗi hạt Mân Côi mà vị tử tù cho để làm kỷ niệm.
Sau khi chế độ Đức quốc xã sụp đổ, cô ý tá phải đổi tên, đổi họ, đi sinh sống tại một vùng xa xôi hẻo lánh khác, để khỏi bị cảnh sát quốc tế lùng bắt, vì cô đã góp phần sát hại hàng ngàn tù nhân dưới chế độ Đức quốc xã. Chính nhờ xâu chuỗi Mân Côi của linh mục Brandsma, mà cô ý tá tìm lại được đức tin.
Năm 1955, khi Tòa Thánh lập hồ sơ phong Chân Phước cho cha Brandsma, cô cảm thấy hối hận, và quá cảm động, cô đã tự ý ra trình diện với chính quyền sở tại, thuật lại tất cả những gì đã xảy ra 10 ngày cuối cùng của cha Bradsma, để bổ túc vào hồ sơ phong Chân Phước.
5. Kinh Mân Côi, lời kinh của nhà bác học
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gia bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi: “Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris."
6. Phương thuốc cho cả xác lẫn hồn
Cha Patrick Joseph Gillard-Peyton là vị Linh Mục tông đồ của Tràng Chuỗi Mân Côi. Cha chào đời ngày 9-1-1909 tại County Mayo trong gia đình Công giáo nghèo bên nước Ái-nhĩ-lan. Năm 18 tuổi, Patrick cùng với bào huynh Tom sang Hoa Kỳ tìm kế sinh nhai. Nhưng rồi Chúa gọi, Patrick từ giã anh, gia nhập chủng viện.
Lúc gần chịu chức Linh mục, thầy Patrick bỗng lâm bệnh lao phổi trầm trọng. Các bác sĩ cho biết vô phương cứu chữa! Giấc mơ Linh mục trong phút chốc tan thành mây khói.. Thầy Patrick chán nản buông tay bỏ cuộc. Một vị Linh Mục lão thành bất ngờ đến thăm và nói với Thầy: Hãy kêu xin Đức Mẹ MARIA chữa lành bệnh. Đức Mẹ là nguồn sự sống. Hãy tin tưởng nơi Đức Mẹ và yêu mến Đức Mẹ như Người Mẹ thật. Hãy kiên trì van nài và tin chắc chắn Đức Mẹ sẽ chữa lành. Đức Mẹ sẽ tỏ ra vô cùng nhân hậu với Thầy. Chính vì chúng ta tin tưởng quá ít nơi Đức Mẹ nên Đức Mẹ không ban cho chúng ta nhiều ơn!
Nghe vị Linh mục lão thành nói thế, Thầy Patrick bỗng nhớ lại chuỗi ngày niên thiếu nơi quê hương Ái-nhĩ-lan thân yêu. Thầy cũng nhớ đến “liều thuốc thần” hiền mẫu Thầy vẫn dùng trong cơn gian nan khốn khó. Đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Cứ chiều đến, cả gia đình tụ họp và cùng nhau sốt sắng lần hạt Mân Côi.
Giờ đây, vì hết hy vọng nơi các phương thuốc chữa trị trần gian, Thầy Patrick hướng về Trời Cao và kêu van Hiền Mẫu MARIA Thiên Quốc qua Kinh mân côi. Và Thầy được lành bệnh thật.
Năm 1941 - 32 tuổi - Thầy Patrick Peyton hân hoan lãnh thiên chức Linh mục trong dòng Thánh Giá. Từ đó Cha xác tín rằng: Thế giới cầu nguyện là thế giới hòa bình. Gia đình cầu nguyện là gia đình hiệp nhất. Nếu mỗi người, mỗi gia đình dành ít thời gian trong ngày để đọc Kinh mân côi thì các tổ ấm sẽ trở thành vườn địa đàng.
7. Sự tích kinh Mân Côi
Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
8. Lời kinh của tuổi thơ
Mừng lễ Mẹ Mân côi, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về những tình cảm Mẹ đã dành cho tuổi thơ. Trước hết chúng ta sẽ đưa ra một vài sự kiện lịch sử.
Sự kiện thứ nhất, đó là biến cố Lộ Đức.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với một cô bé mười bốn tuổi, tên là Bernadette. Mẹ bảo cô bé lần hạt và Mẹ cùng đọc với cô bé kinh Lạy Cha và kinh Sáng Danh. Đồng thời, Mẹ còn tỏ cho chúng ta thấy Mẹ là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Sự kiện thứ hai, đó là biến cố Phatima.
Tại đây Mẹ đã hiện ra với ba em nhỏ: Lucia mười tuổi, Giaxinta bảy tuổi và Phanxicô bảy tuổi. Đồng thời, qua ba em nhỏ này, Mẹ đã gửi đến mỗi người chúng ta ba mệnh lệnh: Hãy tôn sùng trái tim Mẹ, hãy cải thiện đời sống và hãy siêng năng lần hạt Mân côi.
Nếu ngày xưa Chúa đã yêu thương các trẻ nhỏ, bởi vì các em vừa đơn sơ và trong trắng, lại vừa tin tưởng và phó thác, thì bây giờ Mẹ cũng đã dành cho các em một tình yêu thương đậm đà, bởi vì các em đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời khuyên nhủ của Mẹ.
Bernadette đã lần hạt với Mẹ và sau này vào tu trong một nhà dòng, sống một cuộc đời đạo đức và thánh thiện. Còn ba em nhỏ ở Phatima cũng thế.
Mẹ bảo:
- Phanxicô sẽ được lên thiên đàng nhưng phải lần hạt nhiều trước đã.
Và Phanxicô đã thưa lên:
- Lạy Mẹ, Mẹ muốn con lần hạt bao nhiêu cũng được.
Từ đó, không những lần hạt với hai em kia, mà cậu bé còn lần hạt riêng một mình nữa.
Lắm khi đang chơi với bạn, cậu bé lẻn đi lần hạt. Được hỏi tại sao thì cậu bé trả lời:
- Đức Mẹ bảo em phải lần hạt nhiều cơ mà.
Còn Giaxintha cũng vậy. Sau khi được Đức Mẹ hiện ra, em đã về nhà và nói với má:
- Má à, hôm nay con đã được nhìn thấy Đức Mẹ.
Bà mẹ bảo:
- Con đã là thánh đâu mà được nhìn thấy Đức Mẹ.
Rồi em xin phép má đi lần hạt với anh Phanxicô, bởi vì Đức Mẹ bảo:
- Chúng con phải lần hạt mỗi ngày.
Nhất là Lucia, em thường đứng lên lần hạt mỗi khi Đức Mẹ hiện ra. Sau khi được ơn nhìn thấy Đức Mẹ, em gia nhập phong trào Phatima để cùng với mọi người chống lại với những kẻ ghét đạo. Em cũng thường lần hạt chung với mọi người để suy gẫm về Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Sau cùng, em đã dâng hiến trọn cuộc đời mình trong dòng kín.
9. Mẹ thắng con rồi
Giovanni Tomasi là một người vô thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ nơi mấy người đồng hương nước Ý.
Khi biết mình bị ung thư nan y, anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người bạn thân rủ anh qua Lộ đức hành hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi dù chẳng tin một chút nào.
Anh trở về chẳng hề thuyên giảm, càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh hãy thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ khác. Sau nhiều lần uống nước ở chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.
Ngày 14.11.1987, anh mua một khẩu súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang Lộ đức, hét to lên một lời thách thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư của tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng này để tự sát ngay tại đây, để cho cả thế giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì, rằng đây chỉ là một trò bịp.”
Thinh lặng… căng thẳng, ai cũng thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.
Anh đưa súng vào màng tang và bóp cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy mọi sự bình thường. Sao lại không nổ vậy?
Rồi anh lại lên đạn và đưa súng lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn vẫn không nổ. Lúc đó anh không còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay buông rơi khẩu súng. Anh ngước nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã thắng con rồi!”
Tomasi mang căn bệnh trở về nhà nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi khắp nơi để diễn thuyết, viết thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như mình để khích lệ, ủi an và mời gọi họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria.
Tình yêu của Đức Mẹ đã chiến thắng và đem lại niềm vui và bình an cho một tâm hồn. Tình yêu đó cũng không thể ngồi yên nhìn cả thế giới hôm nay ngụp lặn trong hận thù, máu lửa, bóng tối của tội lỗi.
10. Lời kinh chiến thắng sợ hãi
Đức Cha Dupanloup, một viện sĩ thời danh của Pháp, tác giả cuốn ‘Lettres sur l’éducation des filles’, thường hay nhắc lại câu chuyện này:
Khi mới làm linh mục, ngài thường dạy các em nhỏ chuẩn bị rước lễ lần đầu là nếu mỗi ngày đọc ba kinh Kính Mừng dâng mình cho Đức Mẹ, và giữ cho đến chết, thì Đức Mẹ sẽ không bỏ rơi trong giờ phút sau cùng.
Sau này khi ngài làm Giám mục thì có cô con gái duy nhất của một vị tướng bị mắc bịnh ung thư lúc còn trẻ. Cô đã phát bệnh sau khi sinh đứa con đầu lòng, năm 20 tuổi. Cả gia đình không biết phải báo tin này như thế nào cho cô nên mới nhờ Đức Cha báo tin và giúp cô dọn mình chết lành. Ngài nhận lời nhưng cũng thấy bối rối vì không biết phải bắt đầu như thế nào. Bước vào phòng bệnh nhân, ngài hỏi:
- Chúa định cho con phải đau đớn quá nhỉ?!
Nhưng bệnh nhân tươi cười và hỏi lại:
- Đức Cha có tin chắc con được lên thiên đàng không?
Đức Cha trả lời:
- Cha hy vọng Chúa sẽ cho con lên thiên đàng.
Bệnh nhân lại nói:
- Đức Cha thì hy vọng, còn con thì tin chắc là con sẽ được lên thiên đàng.
- Làm sao mà con lại dám tin chắc là con được lên thiên đàng?”
- Thì chính Đức Cha đã dạy con mà.
Đức Cha ngạc nhiên:
- Cha đã dạy con khi nào?
Cô trả lời:
- Khi con học lớp giáo lý chuẩn bị xưng tội rước lễ lần đầu, Đức Cha đã dạy chúng con nếu mỗi ngày đọc ba kinh Kính Mừng, và dâng mình cho Đức Mẹ và giữ thói quen này cho đến chết thì chắc chắn là Đức Mẹ sẽ không bao giờ bỏ chúng con.
Con đã giữ thói quen đọc ba kinh Kính Mừng mỗi ngày; đặc biệt, từ ngày lập gia đình, con còn đọc thêm mỗi ngày năm chục kinh. Mỗi ngày con nói với Đức Mẹ năm mươi lần ‘Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử’ thì làm sao mà Đức Mẹ bỏ con được?
Và Đức Giám mục Dupanloup kết luận:
- Thay vì tôi yên ủi cô thì cô lại yên ủi tôi.
Đúng thế, khi đọc kinh Mân côi, tôi còn gì phải lo âu khi ở bên tôi có ‘Đấng toàn năng bởi lời cầu nguyện’.
11. Lời kinh chữa lành tâm hồn
Ở nước Tây Ban Nha, có một người phạm tội như uống nước lã! Không kể tội rối đạo, tội nào cũng là môn sở trường của ông. Tệ hơn cả, ông lại thích phạm những tội mà ông biết rõ là làm đau lòng Chúa nhất!
Ðến tuổi già lụ khụ, ông lâm trọng bệnh, nhưng tuyệt nhiên không hề có một ý nghĩ nào trở lại cùng Chúa….
Trong một đêm thức trắng, ông thấy Ðức Nữ Vương trên trời hiện ra gần giường ông, nhìn ông bằng đôi mắt thùy mị, nhân từ và thương xót, rồi biến đi mà không nói nửa lời.
Lúc đó, bệnh nhân mới nhớ cuộc đời đầy tội lỗi của mình. Nhìn về dĩ vãng đen tối, ông phiền sầu lo lắng nước mắt trào ra, nếu không vì yếu liệt, ông đã hối hả chạy đi gặp linh mục để xưng tội.
Sáng hôm sau, ông vội cho người đi mời linh mục. Chính cha Nieremberg, linh mục Dòng Tên, là tác giả chuyện này, đã được cử đến giúp ông. Tội nhân đã xưng thú một cách rõ ràng tỉ mỉ hết mọi tội lâu tới 3 giờ. Cha giải tội phải sửng sốt vì linh hồn ông được ơn soi sáng và lòng thống hối tuyệt vời như vậy.
Xưng tội xong, ông khấn hứa với Chúa trước mặt cha:
- Nếu Chúa cho con bình phục, con sẽ đi tu dòng để đền tội.
Nhưng ông lại thêm: “Nếu Chúa muốn cho con ra khỏi đời này, thì xin cha cầu nguyện cho con được làm trọn ý Chúa.”
Thánh ý Chúa đã được thực hiện. Năm ngày sau đó, đầy tâm tình thống hối và yêu mến, ông đã từ trần giữa những thương tiếc cũng như hoan hỉ của mọi người chứng kiến.
Trước khi chết cha Nieremberg có hỏi ông:
- Ông có quen làm việc để tôn kính Ðức Mẹ không?
Ông trả lời:
- Thưa cha con chỉ làm một việc rất nhỏ: hằng ngày đọc một kinh Kính Mừng. Hôm nay, con xin cha một điều là, để làm vinh danh Mẹ Thiên Chúa, xin cha hãy rao giảng mọi nơi về tình thương đặc biệt Ðức Mẹ đã đoái thương đến một kẻ rất tội lỗi, khốn nạn là con đây.
12. Lời kinh nâng đỡ
Nhớ lại hơn ba trăm năm, khi các Kitô hữu cha ông chúng ta bị ngược đãi và bách hại vì đức tin, có rất nhiều người trong số họ một chữ bẻ đôi cũng không biết, họ cũng chẳng thuộc được một đoạn Kinh Thánh, nhưng nhờ tràng chuỗi mân côi, lời kinh của niềm hy vọng, họ đã có được sức mạnh để trung kiên với đức tin cho đến hơi thở cuối cùng.
Một vị linh mục đến thăm người đàn ông bị bại liệt đã hơn ba năm. Giữa những lời trao đổi, ngài hỏi người bệnh:
- Không đi lại được, nằm một chỗ, ông có buồn không?
- Thưa Cha, nhiều lúc buồn lắm!
- Vậy ông làm gì những lúc rảnh để vơi nỗi buồn?
- Thưa cha, đây là niềm hy vọng và sức mạnh của con, vừa nói ông vừa cầm xâu chuỗi đưa lên trước mặt ngài.
Đau ốm, thất bại, yếu đuối và lỗi lầm trong cuộc sống dễ làm cho chúng ta chán nản buông xuôi. Nhưng là người tín hữu Công Giáo, chúng ta được nâng đỡ nhờ dòng suối ân sủng là các bí tích, ánh sáng của Lời Chúa, giáo huấn của Hội Thánh và phương thức đạo đức bình dân là kinh mân côi. Trong Tông Thư Kinh Mân Côi ở số 1, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng quả quyết với chúng ta: “Qua kinh mân côi các tín hữu lãnh nhận vô vàn ơn thiêng, hầu như qua chính đôi tay của Mẹ Đấng Cứu Thế.”
Năm 1917, khi hiện ra tại Fatima, một trong những lời Đức Mẹ căn dặn là: “Hãy siêng năng lần hạt mân côi."
13. Lời kinh của gia đình
Trong cuốn “Năm chiếc bánh và hai con cá”, Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể: “Mẹ tôi đã đổ vào tim tôi lòng kính mến Đức Mẹ từ tuổi ấu thơ. Bà nội tôi, mỗi buổi tối, lúc gia đình đọc kinh xong rồi, bà còn ngồi lần thêm một tràng hạt. Tôi hỏi, bà trả lởi:
- Mệ lần một chuỗi cầu nguyện cho các cha.
Bà tôi không biết đọc biết viết, nhưng chính những người bà, người mẹ như thế, đã vun trồng hạt giống ơn thiên triệu trong lòng chúng tôi.”
Thấy rõ tầm quan trọng của việc lần chuỗi Mân Côi và giờ kinh trong các gia đình, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư Kinh Mân Côi đã nhắc nhở và khẩn thiết mời gọi: “Là lời kinh cầu cho hoà bình, Kinh Mân Côi cũng là và luôn luôn là lời kinh của gia đình và cho gia đình. Lời kinh này đã một thời hết sức thân thiết với các gia đình Kitô giáo, và hẳn đã làm cho các gia đình xích lại gần nhau hơn. Điều quan trọng là đừng đánh mất gia sản quý báu đó. Chúng ta cần phải quay lại với thói quen cầu nguyện trong gia đình và cầu nguyện cho gia đình, khi tiếp tục sử dụng Kinh Mân Côi.” (số 41)
14. Chuỗi kinh ơn lành
Hoàng hậu Blanche xứ Castille nước Pháp đã phải đau buồn cùng cực vì bà thành hôn mười hai năm rồi mà vẫn không có con. Khi đến thăm thánh Đaminh, Ngài khuyên hoàng hậu đọc kinh Mân Côi hàng ngày để xin Thiên Chúa ban diễm phúc được làm mẹ. Hoàng hậu trung thành theo lời khuyên của thánh nhân. Năm 1213 hoàng hậu hạ sinh hoàng nam đầu lòng. Đó là hoàng tử Philip. Nhưng con trẻ chết ngay khi còn trong trứng nước.
Trước nỗi bất hạnh này, hoàng hậu vẫn không ngã lòng, không chút nao núng niềm tin. Trái lại, bà tha thiết van xin Đức Mẹ cứu giúp. Hoàng hậu cũng phân phát nhiều tràng hạt Mân Côi cho các triều thần cùng dân chúng trong cả nước, và xin tiếp lời cầu nguyện cho bà.
Năm 1215, qua sự bầu cử của Đức Mẹ, Chúa đã nhận lời cầu xin của bà, một vị hoàng tử chào đời. Hoàng tử này đã trở thành vinh quang cho nước Pháp, và là gương mẫu cho tất cả các hoàng đế Công giáo. Vị hoàng đế này sau đã trở thành một vị thánh. Đó là vua thánh Louis.
Kể sao cho hết những ơn lành Mẹ Maria đã ban xuống cho nhân loại qua kinh Kính Mừng. Bởi vì kinh Kính Mừng là kinh mà Chúa Giêsu và Đức Mẹ rất ưa thích.
Có thể nói với bài Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca đã trình bày cho chúng ta hai bức tranh khác hẳn nhau về Đức Maria:
1. Bức tranh thứ nhất: Một Đức Maria tầm thường.
- Maria chỉ là một thiếu nữ nhà quê. Chắc chắn là cuộc sống chẳng có gì nổi bật. Ngay cái tên Maria cũng chỉ là một tên gọi bình dân mà rất nhiều người có. Trong Tân Ước chúng ta thấy ít nhất đã có 4 người mang tên đó: Maria Mẹ của Đức Giêsu, Maria, Mẹ của Giacôbê và Giuse, Maria Mađalêna và Maria chị của Matta và Ladarô.
- Nagiareth, nơi Maria sinh sống cũng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, một thị trấn hầu như vô danh. Cựu Ước không lần nào nhắc tới và trong Tân Ước có lần người ta đã nhắc tới nhưng nhắc tới với một thái độ chẳng mấy thiện cảm: “Ở Nagiareth làm gì mà có những điều hay ở đó”(Ga 1,40).
Đó là bức tranh thứ nhất.
2. Bức tranh thứ hai: Một Đức Maria cao sang.
- Thiên sứ gọi Đức Maria bằng những tước hiệu rất cao sang: Bà đầy ơn sủng, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà là người đẹp lòng Thiên Chúa.
- Con của Bà sẽ sinh ra là Đấng Cao cả: Ngài là Con Đấng tối cao, Con Thiên Chúa, Ngài sẽ trị vì trong nhà Giacob đến muôn đời, triều đại Người vô cùng vô tận...
Toàn là những lời mà một người nhà quê như Đức Mẹ khó mà có thể tưởng tượng được. Thế nhưng đó lại là sự thật.
3. Do đâu mà một thiếu nữ nhà quê tầm thường như thế bỗng trở nên cao trọng như vậy?
Câu trả lời: Do sự khiêm tốn của Đức Mẹ.
Khi Đức Mẹ thưa: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa. Xin cứ làm cho tôi như lời thiên sứ nói”(Lc 1,38) thì Đức Mẹ đã ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa “làm” mọi sự nơi ngài rồi. Đức Mẹ hiến dâng cuộc đời của mình cho Thiên Chúa, không cản trở, không đòi Thiên Chúa phải làm bất cứ một điều gì theo ý riêng của mình nữa.
Đối với một Thiên Chúa Toàn năng: “Đối với Người, không có gì là không thể làm được”(Lc 1,37), Đức Mẹ không còn một chút sợ hãi nào nữa. Tin tưởng phó thác tất cả đời mình trong bàn tay của Thiên Chúa: Đó là một quyết định dứt khoát và trọn cả cuộc đời.
Và đó cũng là con đường làm nên sự cao cả của Đức Mẹ.
16. Giá trị của tiếng xin vâng
Vào một ngày đẹp trời, các phóng viên thiên thần được diện kiến “người nữ có phúc hơn mọi người nữ” là Đức Maria. Các ngài làm một cuộc phỏng vấn chớp nhoáng:
- Chào Bà! Bà đã từng làm người.Vậy theo Bà, sứ mệnh của nhân loại là gì?
- Là sống cho Chúa.
- Người nữ “chân yếu tay mềm” phải làm gì để có thể hoàn tất vai trò của mình trong gia đình, xã hội và Giáo hội?
- Hãy trung thành với ơn gọi cao cả mà Thiên Chúa trao ban qua nữ tính của họ”
- Nhưng càng nhu mì, càng hiền dịu càng bị đối xử bất công, làm sao tìm được bình đẳng mà không đánh mất nữ tính?
- Mỗi người có một bản sắc riêng. Hãy thể hiện trọn vẹn nét độc đáo ấy.
- Như vậy là sẽ không có sự bình đẳng tuyệt đối?
- Chỉ có sự bình đẳng hoàn hảo nhất. Đó là sự bình đẳng trước mặt Thiên Chúa!
Và Đức Maria đã minh chứng điều này qua sự cộng tác của Mẹ vào công cuộc cứu chuộc của Đức Giêsu với bí quyết rất nữ tính: “Xin vâng”
Thông qua hai tiếng “Xin Vâng” Mẹ như thầm nhắn nhủ: Hạnh phúc và sự bình đẳng của phận người tùy thuộc vào sự đáp trả của mỗi người trước tiếng gọi của Thiên Chúa chứ không phải là những khả năng của phái tính mà mỗi người mang trong mình. Biết nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong từng giây phút của cuộc sống như Mẹ Maria. Đó là cách tốt nhất để sống ơn gọi làm người và cũng là cách tốt nhất để làm nên sự cao cả cho cuộc sống của mình.
17. Sự tích Kinh Mân Côi
Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:
- Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?
Thánh Đaminh đáp:
- Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.
Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:
- Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.
Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.
Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại.
Lời Chúa Tuần 27 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch