Lời Chúa tuần 22 thường niên _ câu truyện minh họa

 

LỜI CHÚA TUẦN 22 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA 

CNTN 22A - TỪ BỎ MÌNH

CNTN 22B – GIỚI RĂN THIÊN CHÚA – TẬP TỤC PHÀM NHÂN

CNTN 22C -

THỨ HAI - TIN MỪNG CỦA CHÚA GIÊSU

THỨ BA - CHÚA GIÊSU GIẢI PHÓNG NGƯỜI BỊ QUỶ ÁM

THỨ TƯ - TIẾP TỤC RAO GIẢNG TIN MỪNG

THỨ NĂM - KẺ CHINH PHỤC CON NGƯỜI

THỨ SÁU - VUI TƯƠI VÌ CHÚA ĐỒNG HÀNH 

THỨ BẢY - Ý NGHĨA CỦA NGÀY SABBAT

LỄ SINH NHẬT ĐỨC MẸ - BÀ SINH CON TRAI

 

CNTN 22A - TỪ BỎ MÌNH

Lời Chúa: Mt 16, 21-27

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu bắt đầu tỏ cho các môn đệ thấy: Người sẽ phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ bởi các kỳ lão, luật sĩ và thượng tế, sẽ bị giết và ngày thứ ba thì sống lại. Phêrô kéo Người lại mà can gián Người rằng: "Lạy Thầy, không thể thế được! Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu."

Nhưng Người quay lại bảo Phêrô rằng: "Hỡi Satan, hãy lui ra đàng sau Thầy, con làm cớ cho Thầy vấp phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa, mà chỉ hiểu biết những sự thuộc về loài người."

Bấy giờ Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu ai muốn theo Thầy, thì hãy từ bỏ mình đi, và vác thập giá mình mà theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sự sống. Nếu ai được lợi cả thế gian mà thiệt hại sự sống mình, thì được ích gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi được sự sống mình? Bởi vì Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ trả công cho mỗi người tuỳ theo việc họ làm."

TRUYỆN KỂ

1. Qui luật muôn đời của sự sống

Lời mời gọi “Ai muốn đi theo Thầy” mang lại cho lời và cho ngôi vị của Đức Giêsu giá trị qui chiếu tuyệt đối, vì tuy đây là lời mời gọi ngỏ với tự do của mỗi người: “ai muốn đi theo tôi…”, nghĩa là ai không muốn thì thôi, nhưng lời mời này lại liên quan tất yếu đến sự sống, liên quan đến chuyện sống còn, nghĩa là cứu sự sống hay mất sự sống, liên quan đến con đường dẫn đến sự sống, và như thế liên quan đến lòng khao khát sự sống có nơi mỗi người chúng ta:

Ai muốn cứu sự sống của mình thì sẽ mất;nhưng ai chịu mất sự sống của mình vì tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được.

Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “Hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài." Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.

* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác; đó con đường của tấm bánh, phải được bẻ ra và nghiền nát để nuôi sống, thậm chí trở thành sự sống cho con người.

* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.

* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các linh mục, tu sĩ nam nữ để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.

2. Từ bỏ chính mình.

Đức thánh Cha Phaolô VI trong buổi triều yết chung cho giáo dân ngày 11.03.1970 đã nói:”Đối với chúng ta những người thời nay, một trong những khía cạnh ít được hiểu biết nhất và cũng có thể nói ít được thiện cảm nhất trong đời sống Công giáo: đó là sự từ bỏ.

Từ bỏ mình tức là từ bỏ ý riêng mình mà chấp nhận thánh ý Chúa. Người ta nói: 3 với 4 là 7, có đúng không? Chưa đúng. Muốn thực hiện 3 với 4 là 7 thì phải làm sao cho tan rã hai con số 3 và 4, rồi đúc nó lại thành con số 7 mới được. Chớ cứ để 3 với 4 kề nhau mãi thì làm gì thành 7 được, mà vẫn là 3,4. Cũng thế, muốn từ bỏ chính mình là phải làm tan rã ý riêng của ta cho hòa vào ý Chúa, lúc đó chúng ta mới thực sự là từ bỏ chính mình.

Một hình ảnh nữa để chúng ta suy nghĩ: Quan sát các nhà điêu khắc tạc tượng, họ chọn một phiến đá cẩm thạch, rồi họ kiên nhẫn đục đẽo, khoét dần mài đi, cho tới khi thành một cỗ tượng mỹ thuật. Không bao giờ thấy nhà điêu khắc lại đắp thêm vào. Cũng thế, trong việc từ bỏ mình, chúng ta phải dẹp lòng ham muốn, để mình sống xả thân thuộc trọn về Chúa.

Chúng ta phải cố thi hành việc đục khoét bỏ bớt những gì bận rộn không cần thiết, gạt chúng ra một bên, nếu có bận tâm thì chỉ bận tâm vào việc nhà Chúa:”Sự sốt sắng việc nhà Chúa làm tôi hao tổn tinh thần”(Tv 68,10).

3. Không chiến mà thắng

Trong cuốn “Một tâm hồn”, thánh nữ Têrêsa Hài đồng có kể:”Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này: Chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay... Nhưng con bảo mình: nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại một vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “Dĩ đào vi thượng sách” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41).

Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc... nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra, con phải cưỡng bách ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh tạo hưởng cái thú không chiến mà thắng.

4. Thánh giá vừa sức mình.

Có một người đàn ông kia tuy có đức tin vào Chúa nhưng lại hay than trách Chúa để mặc mình phải mang cây thánh giá quá sức chịu đựng là bà vợ luôn “lắm điều nhiều lời” của ông. Lúc nào bà vợ này cũng càm ràm chê trách ông chồng đủ điều. Vào một đêm kia, ông ta nằm mơ gặp một thiên thần hiện ra phán bảo: “Ta thấy con hay than thân trách phận vì phải mang vác thánh giá nặng nề vượt quá sức con. Vậy hôm nay con hãy theo ta vào trong nghĩa trang, nơi mà những người chết được chôn cất đều để lại cây thánh giá đời họ ngay trên phần mộ. Con hãy chọn một cây thánh giá khác phù hợp thay cho cây con đang phải mang."

Ông ta liền vui vẻ mang theo cây thánh giá theo thiên thần vào nghĩa trang cách chỗ ở không xa, hy vọng sẽ kiếm ra cây thánh giá khác nhẹ hơn. Đến nơi, ông ta lần lượt đi đến các phần mộ người chết để thử hết cây này đến cây khác nhưng mãi vẫn không tìm ra cây thánh giá ưng ý. Vì cây nào nhẹ thì lại dài quá khổ; cây vừa vặn thì lại xù xì gớm ghiếc; còn cây trơn tru láng đẹp thì lại quá nặng nề… Cuối cùng ông đành thưa với thiên thần: “Thưa ngài. Con tìm mãi mà chẳng thấy cây thánh giá nào hợp với con cả. Con xin chọn lại cây thánh giá con đã mang từ nhà ra đây."

Trên đường về nhà thiên thần đã nói với ông rằng: “Thiên Chúa luôn trao thánh giá cho mỗi người phù hợp với sức của họ và Người luôn ban ơn giúp họ vác thánh giá cuộc đời đến cùng." Có điều lạ là từ ngày chấp nhận vác cây thánh giá là chịu đựng các thói hư của vợ, ông lại thấy bà không còn xấu tính khó ưa như trước. Nhờ đó cuộc sống chung giữa hai người hòa hợp hạnh phúc trở lại như hồi mới cưới.

5. Biến bại thành thắng.

Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.

Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ các cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.

Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói: cái khó bó cái khôn. Nếu ta biết từ bỏ mình, vác thập giá mình thì chính những cái ấy có lợi cho ta. Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm về vấn đề này: Thập giá đã nói lên chân lý ấy, và “hạt giống có mục nát ra thì mới sinh hoa kết quả được. Có lẽ chúng ta không bao giờ hiểu được mầu nhiệm của đau khổ trong thế giới này, nhưng đây là điều chắc chắn: Một khi về trời chúng ta sẽ hiểu được điều ấy.

6. Mục đích của đời sống

Vào khoảng 3 giờ sáng ngày 17 tháng Tám, 1999, một trong những trận động đất kinh hoàng nhất đã xảy ra trong lịch sử Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đã san bằng hàng trăm công trình kiến trúc và làm thiệt mạng hàng ngàn người.

Khi động đất xảy ra, một kế toán viên 40 tuổi người Thổ Nhĩ Kỳ là Yuksel Er vừa mới đi ra từ phòng vệ sinh ở lầu ba trong khu chung cư sáu tầng lầu.

Bỗng dưng, mọi thứ bắt đầu quay cuồng. Chính ông cũng lảo đảo và bị rơi vào dòng thác cuốn của đồ vật. Trong 45 giây tiếp đó tai ông như điếc vì tiếng động mạnh.

Và rồi, bỗng dưng mọi sự im lặng một cách ghê sợ.

Khi Yuksel tỉnh dậy, ông thấy mình bị kẹt dưới đống gạch vụn trong một vùng thật tối.

Trong khoảng cách nhỏ bé đó, ông không thể nào cựa quậy được, chỉ có thể nằm yên ở đó.

Trên mình ông và chung quanh ông là những vụn vỡ của tòa chung cư sáu tầng lầu.

Lúc đầu ông tưởng là tận thế. Nhưng khi nghe thấy tiếng rên rỉ ở xa xa, ông biết là một điều gì khác đã xảy ra.

Trong bốn ngày liền, ông không ăn uống gì. Ông dùng thời giờ để cầu nguyện, suy nghĩ về đời sống và tự hỏi đời sống sau khi chết sẽ như thế nào.

Lúc đầu, ông còn la lớn kêu cứu. Nhưng thấy vô ích ông im lặng dưỡng sức.

Ông bắt đầu nhớ đến gia đình, và nhất là đứa con trai 13 tuổi mà ông vừa mới la rầy nó chỉ vài giờ trước trận động đất-vì nó cứ dành máy computer của gia đình để chơi "game."

Sau đó vào ngày thứ tư, khoảng một giờ sáng, ông nghe có tiếng gọi quen thuộc. Chỉ trong vài phút, ông nhận ra tiếng của đứa cháu và thằng con 13 tuổi. Chúng đào xới đống vụn để lôi ông lên.

Khi đứa con trai lôi được ông ra khỏi đống gạch vụn, điều đầu tiên nó nói là, "Bố ơi, con sẽ không bao giờ làm bố giận nữa." Ông Yuksel trả lời, "Bây giờ thì không còn quan trọng nữa, vì bây giờ mọi sự sẽ khác biệt."

Sau này, khi ở trong bệnh viện, Yuksel nói với gia đình và bạn hữu: "Đây là cuộc đời thứ hai của tôi. Tôi sẽ cố gắng tận dụng cuộc đời ấy." Và rồi ông khóc. Giống như tiếng khóc của đứa bé mới lọt lòng mẹ.

Trước trận động đất, Yuksel sống với những ưu tiên và mục đích, không khác gì những ưu tiên và mục đích của chúng ta. Sau cảm nghiệm ấy, các ưu tiên và mục đích của ông thay đổi cách đáng kể.

7. Hai cách đi theo Chúa:

Chính Thánh Don Bosco đã tưởng tượng chuyện sau đây: Một hôm Chúa Giêsu bảo Phêrô và Gioan theo Ngài lên núi. Ngài dặn mỗi ông mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc rồi nhặt một hòn đá nhỏ bỏ vào túi; còn Gioan, do lòng quảng đại, vác cả một tảng đá to. Dĩ nhiên, đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển và lên đến nơi sau cùng. Phêrô bước thảnh thơi và còn nói với Gioan: “Sao anh nhọc công vác tảng đá to như thế !" Tới nơi, Chúa Giêsu bảo hai môn đệ ngồi xuống. Ngài đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá thành bánh. Dĩ nhiên, Phêrô chỉ được một chiếc bánh nhỏ xíu không đủ cho cơn đói cồn cào của ông.

Lần khác, Chúa lại bảo hai ông theo Ngài lên núi và cũng mang theo đá. Rút kinh nghiệm lần trước, Phêrô mang một tảng đá thật to. Đến nơi, ông ngồi chờ phép lạ. Nhưng Chúa Giêsu chỉ nói “Nào, mỗi người hãy ngồi lên tảng đá mà mình mang theo. Không phải lúc nào Thầy cũng biến đá thành bánh đâu." Rồi Ngài nói riêng với Phêrô: “Lòng quảng đại thật không phải là lòng quảng đại tính toán."

Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại, biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích, và không chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã làm theo ý Chúa.

8. Quên mình

Thượng úy Tô Đức Thắng, người mới được đài truyền hình Vtv1 ca ngợi về lòng can đảm, hy sinh quên mình vì những người hàng xóm. Vừa thấy tên cướp có súng vượt rào vào nhà bà hàng xóm, anh đuổi theo không chút sợ hãi, đồng thời báo cho những công an khác. Anh đã bị thương vì trúng đạn. Anh đã quên đi sự an bình của mình để lo an bình cho người khác. Ngay lúc ấy, anh đã thể hiện trọn vẹn con người và phẩm chất của mình. Phẩm chất ấy, ai cũng phải trân trọng.

Chính lúc hủy mình ra không, Chúa Giêsu cho thấy Ngài là thế đó, là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài đã hủy mình vì Tình yêu, tình yêu với Cha và tình yêu với con người.

Lạy Chúa, xin dạy con hiểu được: Chính lúc quên mình là lúc con gặp lại được bản thân, vì khi cho đi là lúc con nhận lãnh.

9. Sức mạnh của cây Thánh Giá

Một người đàn bà đạo đức kia phát hiện mình có khối u ở ngực nhưng lại không dám đến bệnh viện mổ vì sợ mình không thể chịu nổi cơn đau khi mổ. Đến khi khối u phát triển nhanh thì bà đâm hoảng mới chấp nhận mổ, hy vọng sống thêm được một thời gian. Bà có một cậu con trai trong tuổi thanh niên. Khác hẳn bà mẹ, anh con trai này tỏ ra khô khan các việc đạo đức và đã bỏ đến nhà thờ từ khá lâu. Hôm ấy, trước khi vào phòng mổ, bà mẹ yêu cầu bác sĩ cho phép con trai bà được đứng bên giúp bà thêm sức chịu đựng cơn đau lúc đang mổ và yêu cầu của bà đã được bác sĩ chấp thuận. Thời đó, vì chưa có thuốc tê, nên bệnh nhân phải trải qua cơn đau khủng khiếp mỗi lần bị mổ xẻ. Nhưng bà mẹ này đã can đảm cắn răng chịu đựng. Đến khi con dao mổ đụng đến giây thần kinh thì bà mới oằn người lên và kêu to: “Chúa ơi con đau quá, xin thương cứu con!" Trườc cảnh tượng mẹ bị đau đớn như vậy, anh con trai đã thốt ra những lời phàn nàn trách móc Chúa. Nghe vậy, bà mẹ liền nghiêm nét mặt và nói với con rằng: “Con hãy câm miệng lại ngay! Con có biết là con đang làm cho mẹ phải chịu đau đớn nhiều hơn mấy ông bác sĩ này hay không? Vì con đã sỉ nhục chính Đấng đã ban sức mạnh và luôn nâng đã an ủi mẹ." Nói rồi, bà mở bàn tay ra cho con thấy một cây thánh giá nhỏ mà bà đã luôn nắm chặt từ đầu ca mổ đến giờ. Cây thánh giá đó chính là thứ thuốc gây mê, làm dịu đi cơn đau khủng khiếp mà bà đã và đang phải chịu đựng.

Sau mấy tháng quằn quại trong đau đớn, bà mẹ đạo đức ấy đã an nghỉ trong Chúa. Trước lúc lâm chung, bà đã trao cây thánh giá nhỏ cho con trai và dặn rằng: “Con ơi! Hãy giữ lấy cây thánh giá này. Đó là vật đã giúp mẹ chịu đựng được biết bao gian khổ trong cuộc đời mẹ. Hy vọng rằng nhờ cây thánh giá này, con cũng sẽ tìm thấy niềm an ủi và cậy trông ơn Chúa giúp mỗi khi gặp gian nan thử thách sau này." Anh con trai rất xúc động trước đức tin và tình thương của mẹ dành cho mình. Từ ngày đó anh đã luôn đeo cây thánh giá trên cổ, để nhắc nhở anh về người mẹ thân yêu. Từ đây cây thánh giá đã trở thành vật hộ mệnh, giúp anh can đảm vượt qua các sóng gió trong cuộc đời, giống như người mẹ thân yêu của anh.

10. Sao lại tôn thờ một phạm nhân

Sau năm 1975, Việt Nam hết chiến tranh, một chú bộ đội, vốn từ hồi còn thanh niên sống trong núi rừng, bây giờ mới về thành thị. Chú vào nhà một gia đình Công giáo. Chú ngạc nhiên trợn mắt khi thấy ngay trên bàn thờ phòng khách một thánh giá to lớn. Chú hỏi: “Ông này có tội gì nặng mà bị hành hình dữ tợn như vậy. Ông bị treo lên, bị đóng đinh chân tay vào cây gỗ; đầu ông lại bị gai đâm sâu vào nữa chứ!” Vị chủ nhà trả lời: “Đó là Chúa Giêsu, chúng tôi tôn thờ." Chú bộ đội hỏi lại hỏi: “Đạo gì mà lại tôn thờ một người bị xử tội như thế?”

Thế gian, sẽ thấy chúng ta mê tín, khi đi tôn thờ cây Thánh Giá. Chúng ta, thật ra, tôn thờ Thiên Chúa vì ơn cứu độ của Ngài thực hiện qua cuộc tử nạn trên thập giá. Chúng ta nhận ra vì yêu thương, Chúa Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá. Ngài đã chịu đau khổ đến tận cùng, trong sự chịu sỉ nhục tận cùng.

11. Tiền của

Năm 1923, bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn của một nhà hàng tại một thành phố ở miền tây nước Mỹ. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh doanh, và dường như họ nói đến một câu châm ngôn: "Có tiền mua tiên cũng được."

Nhưng 20 năm sau, điều gì đã xảy đến cho bảy nhà kinh doanh giàu có này? Người thứ nhất là giám đốc một trong bảy công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị phá sản. Trong những năm cuối đời, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay của người khác. Người thứ hai là giám đốc một công ty chuyên sản xuất vật dụng trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương cầu thực. Người thứ ba là giám đốc một hãng gas lớn, cũng đã bị phá sản và trở thành một nhân viên quèn. Người thứ tư là giám đốc hãng xuất nhập cảng, cũng chết ở nước ngoài, không một đồng xu dính túi. Người thứ năm là giám đốc một phòng hối đoái lớn tại Niu-Gioóc, vừa bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Người thứ sáu là một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tù trong một vụ dính líu về tội phạm tham nhũng mang tai tiếng. Người cuối cùng trong danh sách bảy nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ trong thập niên hai mươi, cũng tự kết liễu cuộc sống của mình.

12. Trong họa có phúc

Xưa có một ông già sống ở vùng biên giới phía bắc. Ông rất giỏi việc nuôi ngựa. Một hôm ông phát hiện ra rằng con ngựa của ông đã chạy mất sang nước Hồ láng giềng. Hàng xóm cảm thấy tiếc cho ông nhưng ông già nói, “biết đâu nó lại là mang đến một điều phúc?”

Vài tháng sau, con ngựa đã mất tích của ông đột nhiên quay trở về cùng với một con ngựa quý nữa. Hàng xóm đến chúc mừng ông vì điều may đó. Nhưng ông nói “biết đâu nó lại mang đến tai họa?”

Con trai ông thích cưỡi con ngựa quý, và rồi một hôm anh ta bị ngã ngựa gãy chân và bị què. Hàng xóm đến an ủi ông nhưng ông lại trả lời “biết đâu nó lại mang đến điều phúc?”

Một năm sau, nước Hồ láng giềng đưa quân sang xâm lược, và tất cả thanh niên trai tráng đều phải tòng quân ra trận – kết quả là cứ 10 người đi thì 9 người tử trận. Con trai ông bị què nên được ở nhà và thoát chết.

13. Dấu chứng của người môn đệ Chúa

Khởi đầu sứ vụ Giáo hoàng 14/3/2013, Đức Phanxicô nói: “Thánh Phêrô, người đã tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, thưa cùng Người rằng: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Con sẽ theo Thầy, nhưng đừng nói đến Thánh Giá! Ðiều này không có gì liên quan với nó. Con sẽ theo Thầy với các khả năng khác, mà không có Thánh Giá. Khi chúng ta đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá, và khi chúng ta tuyên xưng Ðức Kitô mà không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta thuộc về thế gian, chúng ta là Giám Mục, Linh Mục, Hồng Y, Giáo Hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa."

Lạy Chúa, xin Chúa giúp chúng con biết từ bỏ chính mình, vác thánh giá đời chúng con mỗi ngày để theo Chúa. Amen.

14. Từ bỏ vì Yêu Chúa

Ngày 04/09/2016, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức giáo Hoàng Phanxicô long trọng tuyên phong Chân Phước Teresa Calcutta lên bậc hiển Thánh, vì chưng, trong tâm hồn Thánh Teresa Calcutta luôn tràn đầy ánh sáng Chúa Kitô, một tâm hồn bừng cháy tình yêu thương xót thôi thúc Thánh Nữ một điều duy nhất là bỏ tất cả theo Chúa và "Đem tình yêu thương xót của Thầy đến cho người khốn khổ nhất trong xã hội."

Vâng, đúng thế, Mẹ Teresa sinh ngày 26/8/1910 tại Nước Albanie. Ðủ 18 tuổi, Mẹ Teresa gia nhập Dòng Nữ Vương Ðức Bà Loreto ở Ái Nhỉ Lan. Năm 1928, Sơ Teresa bắt đầu một cuộc hành trình dài đến Ấn Ðộ. Không lâu sau đó, Sơ Teresa đến Calcutta, thủ đô Bengal (Ben-ga), Ấn Ðộ, để dạy học. Trong thời gian tại Calcutta, điều đánh động Sơ Teresa nhiều nhất đó là tận mắt trông thấy các bệnh nhân ốm liệt, nghèo đói và hấp hối, các trẻ em bơ vơ và người khuyết tật trên đường phố, Sơ Teresa nhận ra được tiếng mời gọi của Chúa thúc dục Sơ phục vụ cho những người bệnh tật, nghèo đói khốn khổ.

Và năm 1948, Mẹ Teresa, với chiếc áo dòng cũ kỷ và một vài đồng lẻ trong túi đã đến sống giữa những người Ấn Ðộ như một người Ấn Ðộ. Năm 1952 Mẹ Teresa cùng với Hội Dòng Nữ Tu Bác Ái của Mẹ đã được bản quyền Calcutta cho phép xử dụng ngôi đền Kali đã bị bỏ hoang của Ấn Giáo. Mẹ Teresa đã biến nó trở thành Hội Quán cho những người nghèo đói đau khổ, bệnh tật. Mẹ đã cùng với các cộng tác viên tìm kiếm những người bệnh tật, hấp hối thất thểu ngoài đường phố, đem về săn sóc cho đến ngày họ qua đời. Ðối với những người bệnh tật, Mẹ đã tìm kiếm thuốc thang săn sóc cho họ, đối với những người khổ đau, Mẹ là một nguồn ủi an đem bình an và tình yêu của Chúa đến với họ.

Mẹ Thánh Teresa Calculta đã nên thánh được là nhờ thi hành Lời Chúa Giêsu dạy hôm nay một cách triệt để nhất, hùng hồn nhất: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi."

15. Tình yêu được đo bằng đau khổ

Tại Lộ Đức, hàng năm có cuộc hành hương của nhóm “Tự nguyện chịu đau khổ” do Đức Cha Novarese sáng lập. Họ đặt dưới chân Đức Mẹ những bó hoa đỏ để nói lên ý chí muốn thông phần vào cuộc tử nạn của Chúa. Và phép lạ lớn lao hơn cả mà Đức Mẹ đã làm cho bệnh nhân, không phải là 64 phép lạ được công nhận trong số 6000 được ghi nhận, mà là việc Đức Mẹ ban cho họ biết vui lòng lãnh nhận thánh giá.

Văn hào Mauriac nói: “Chúa Giêsu không đến để xóa bỏ đau khổ, nhưng Ngài đã đến để cùng hiện diện với người đau khổ."

Lạy Chúa, xin cho con biết sống mầu nhiệm Thánh giá.

16. Bỏ mình, bỏ mình, bỏ mình

Một linh mục tâm sự: “Khi tôi mới chịu chức, tôi được nghỉ một tháng. Sau khi nghỉ, tôi đến dòng Thiên An, ở Huế tĩnh tâm ba ngày để chuẩn bị lãnh sứ vụ. Sau ba ngày yên lặng, tôi xin gặp cha tập sư là một cha người Pháp để xin ngài vài lời khuyên. Ngài ngồi trước mặt và hỏi: “Cha ở đâu và cha muốn gặp tôi để làm gì?” Tôi xin cha cho tôi một vài lời khuyên. Ngài nhìn thẳng vào mặt tôi một lúc rồi nói: “Cha sẽ được nhiều người thương mến… Bỏ mình! Bỏ mình! Bỏ mình!” Rồi ngài đứng dậy lẵng lặng ra đi. Ba tiếng đó đã khắc ghi trong tôi suốt bao nhiêu năm làm linh mục, và nó đã giúp tôi vượt qua nhiều khó khăn trong cuộc sống.

Chỉ cần bỏ mình vâng theo ý Chúa thì mọi sự sẽ tốt đẹp. Chỉ một điều khó là chúng ta ngại bỏ mình.

17. Mất và được

Một cô gái sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.

Ngày kia, cô sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.

Cô thẫn thờ nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao. Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần được thưởng thức trong đời.

Qua tiếng hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.

Cô gái chỉ được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được nghe tiếng chim thánh thót.

18. Anh phải sống

Có lẽ một số người trong chúng ta còn nhớ câu chuyện mà Khái Hưng và Nhất Linh, trụ cột trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn đầu bán thế kỷ 20 đã kể về đôi vợ chồng nghèo tên Thức và Lạc, Hai người phải đi vớt củi kiếm sống. Chẳng may gặp dòng nước lũ xoáy, cuốn luôn bè chìm. Người chồng cố dìu vợ vào bờ, nhưng rất khó khăn, có nguy cơ chết cả hai. Người vợ chợt nghĩ tới thằng Bò, cái Bé, cái Nhớn đang trông ngóng bố mẹ trở về, nên đã từ từ buông tay ra không bám lấy chồng nữa để chồng có thể đủ sức bơi vào bờ một mình, còn mình thì chìm dần, chìm dần rồi mất hút.

Đầu đề của truyện ngắn này là: “Anh Phải Sống.” Anh phải sống, đồng nghĩa với Em phải chết!

19. Mackeno trong gia đình

Một gia đình nọ về đời sống kinh tế khá vững vàng, đời sống danh vọng tạm gọi là có tiếng và nhìn bên ngoài có vẻ đạo đức lắm vì vẫn còn trong vòng lễ giáo của cha mẹ hai bên, vẫn còn tham gia ban hát, ca đoàn nhưng bên dưới của nó đang dần dần rạn nứt và có thể đi đến chuyện ly hôn bất cứ lúc nào.

Nguyên nhân? Nguyên nhân là vì hai vợ chồng chẳng còn ai sống cho nhau nữa, không còn hiến mình cho nhau nữa. Chồng đổ cho vợ, vợ đổ cho chồng. Chồng đổ cho vợ là suốt ngày chỉ ham đi kiếm tiền, cắm cúi đi kiếm tiền còn chồng thì đổ cho vợ là không lo cho gia đình, không lo cho vợ cho con. Xét ra thì ai cũng có cái lý cả, ai cũng cho mình là đúng cả nhưng thực tế thì vấn đề của gia đình này quá căng thẳng vì họ không biết hiến mình cho nhau. Đi sâu hơn một chút: họ không hiến mình cho con cái theo đúng nghĩa của nó. Đành biết đồng tiền rất cần cho cuộc sống nhưng đâu phải có tiền là có tất cả để rồi người vợ cứ cắm cúi đi tìm tiền mà không lo cho hạnh phúc gia đình.

Lẽ ra hai vợ chồng phải tạm gọi là "dừng lại cuộc chơi" tìm tiền để mà lo cho hạnh phúc gia đình, lo hiến mình cho gia đình của mình. Không phải chị không biết hậu quả của việc lao đầu vào kiếm tiền, không phải anh không biết hậu quả của việc sống thờ ơ với việc bổn phận gia đình nhưng hình như hai người đã không tìm được tiếng nói chung: tiếng nói của sự hiến dâng cho nhau thật sự.

Nhìn vào hai đứa trẻ của gia đình ấy, tôi thật sự e ngại. Nếu như cha mẹ chúng không thay đổi lối sống, không thay đổi lập trường thì tương lai của chúng không biết sẽ đi về đâu khi cha mẹ chúng chia ly?

20. Mackeno trong nhà dòng

Một vị nữ tu tuổi đời mới ngoài ba mươi, được lợi thế hơn các "sơ già" một chút là được ăn được học và được học cái ngành "thầy cãi" nữa nên cãi lý rất hay. Chuyện đáng tiếc đã xảy đến đó là khi nghe "tin hành lang" là vị nữ tu ấy sẽ thay thế vị trí của vị bề trên đương nhiệm để rồi từ đó cách hành xử của vị nữ tu trẻ chẳng ra làm sao cả. Chịu không thấu, vị phụ trách đã trình bày với vị hữu trách và cuối cùng hậu quả vị nữ tu trẻ ấy phải rời cộng đoàn để về nhà Mẹ của Tỉnh Dòng!

Chắc có lẽ vị nữ tu ấy đã quên đi lời khấn hứa trong ngày khấn dòng, lời khấn hứa vâng phục bề trên, lời hứa sẽ cộng tác với chị em để phục vụ, để hiến mình cho người nghèo. Chính vì đánh mất tâm tình dâng hiến nên mới có trục trặc, có đổ vỡ trong cộng đoàn.

21. Những giọt máu thắm tình

Trận động đất xảy ra cách đây hơn chục năm ở Ácmênia thuộc Liên Xô cũ chắc chúng ta còn nhớ, sau trận động đất tan thương đấy người ta lại phát hiện ra tình mẫu tử thật tuyệt vời. Dưới đống gạch vụn đổ nát bi thương của một toà nhà bị sập, người ta nghe được tiếng của một đứa trẻ oe oe khóc.

Gỡ đống gạch vụn đó lên người ta thấy được một đứa bé đang ngậm tay mẹ của nó, nó đang mút từng giọt máu từ ngón tay của mẹ nó. Hoá ra là trước khi chết, mẹ nó đã khứa tay của mình vào mảnh chai để cho con mình bú những giọt máu từ tay của mình. Chính những giọt máu ấy đã cứu đứa bé sống sót cho đến lúc đội cứu hộ tìm thấy cháu. Một kỳ tích của tình người, một thiên tình sử của tấm lòng mẹ con.

22. Lý thuyết mà không thực hành

Cha Jean Weslay là một nhà giảng thuyết nổi tiếng. Một hôm, có một bác nông phu người Anh đến nghe cha giảng. Hôm đó cha giảng về đề tài ‘cách dùng của cải’. Ông rất chăm chú nghe.

Trong bài giảng có bốn phần: 1. Hãy tìm kiếm cho được nhiều của cải. Bác nông phu rất hài lòng và nói: Hay quá, tuyệt quá. 2. Hãy tiết kiệm. Ông sung sướng ngồi thẳng lên, chăm chú nhìn cha. Ông nghĩ thật đúng quá, chính ông cũng chủ trương như thế mà. 3. Đừng xài hoang phí. Ông gật gù vui trong lòng. Ông nghĩ mình phải thầm cám ơn Chúa vì ông luôn hành động như thế. 4. Hãy rộng rãi làm phúc và làm việc bác ái.

Ông nhăn mặt khó chịu. Ông thở dài đứng lên bỏ về. Ở đời, nhiều người hành động giống như bác nhà quê này: Lý thuyết nhiều và thực hành ít. Chỉ mong tìm lời và thu quén cho mình.

23. Vườn nho

Một con chồn muốn vào một vườn nho, nhưng vườn nho lại được rào dậu cẩn thận. Tìm được một chỗ trống, nó muốn chui vào nhưng không thể được. Nó mới nghĩ ra một cách: nhịn đói để gầy bớt đi.

Sau mấy ngày nhịn ăn, con chồn chui qua lỗ hổng một cách dễ dàng. Nó vào được trong vườn nho. Sau khi ăn uống no nê, con chồn mới khám phá rằng nó đã trở nên quá mập để có thể chui qua lỗ hổng trở lại. Thế là nó phải tuyệt thực một lần nữa.

Thoát ra khỏi vườn nho, nó nhìn và suy nghĩ: “Hỡi vườn nho, vào trong nhà ngươi để được gì? Bởi vì ta đã đi vào với hai bàn tay không, ta cũng trở ra với hai bàn tay trắng."

Khi bước vào trong trần thế này, con người muốn mở rộng bàn tay để chiếm trọn mọi sự. Khi nhắm mắt xuôi tay, cũng đành phải ra đi với hai bàn tay trắng mà thôi.

CNTN 22B – GIỚI RĂN THIÊN CHÚA – TẬP TỤC PHÀM NHÂN

Lời Chúa: Mc 7, 1-8a. 14-15. 21-23

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, những người biệt phái và mấy luật sĩ từ Giêrusalem tụ tập lại bên Chúa Giêsu, và họ thấy vài môn đệ Người dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch, nghĩa là không rửa trước. Vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do-thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước. Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng.

Vậy những người biệt phái và luật sĩ hỏi Người: "Sao môn đệ ông không giữ tập tục của tiền nhân mà lại dùng bữa với những bàn tay không tinh sạch?"

Người đáp: "Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người'. Vì các ngươi bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người.”

Và Người lại gọi dân chúng mà bảo rằng: "Hết thảy hãy nghe và hiểu rõ lời Ta. Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế. Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế. Vì từ bên trong, từ tâm trí người ta xuất phát những tư tưởng xấu: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng. Tất cả những sự xấu đó đều ở trong mà ra, và làm cho người ta ra ô uế.”

TRUYỆN KỂ

1. Từ trái tim con người--‘Manna’

Đoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các môn đệ không rửa tay trước khi ăn.

Đối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ, người ta thường trở nên ô uế do đụng chạm. Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế, và đồ ăn ô uế sẽ khiến cả con người ô uế.

Đức Giêsu đã long trọng khẳng định: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế" (c.15).

2. Hành vi và tâm hồn

Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa.”

Câu chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không xét đến nội tâm của mình.

3. Niềm tự hào của người Do Thái

Lịch sử dân tộc Do Thái có nhiều điều kỳ diệu. Chiến tranh Do Thái đã nổ ra vào năm 70 sau Công nguyên, hậu quả là Đền thờ bị tàn phá bình địa, người Do Thái phải tản mác khắp nơi. Nhà nước Israel chỉ tuyên bố độc lập và được Liên hiệp quốc công nhận chính thức vào ngày 14-5-1948, tức là sau 19 thế kỷ bị xoá tên trên bản đồ thế giới. Một điều kỳ lạ, 19 thế kỷ tha hương và phân tán, thậm chí bị diệt chủng trong thời Đức Quốc Xã, Đức tin vào Thiên Chúa vẫn tồn tại nơi những người con cháu Abraham. Nơi đâu có người Do Thái, nơi đó có Hội đường và các buổi tập hợp vào ngày Sabát để lắng nghe Lời Chúa và tôn vinh Ngài.

Những gì ông Môisen nói về dân tộc này đã được thực hiện trong suốt bề dày của lịch sử: “Có dân tộc nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta, mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như tất cả Lề Luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?” Đây là niềm tự hào của mọi thế hệ người Do Thái. Bất kỳ đi đến đâu và trong hoàn cảnh nào, người Do Thái không quên niềm tự hào ấy.

4. Cái nào quan trọng

Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la lên: “Tôi tưởng ông ngoại qua đời.” Vì chỉ cách 2 căn phố. Cha Murray đi bách bộ, khi ngài qua một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng bước tới truyền lệnh: “Đưa tiền đây!” Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví của tôi để ở trong túi áo khoác.”

Khi ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ chiếc cổ áo Roma. Kẻ cướp ấp úng: “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi.” Bình tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu thuốc xì gà, nhưng y lắc đầu: “Không, cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc.”

5. Pháp luật vị pháp luật

Người ta kể một luật sĩ nổi tiếng tên là Aquila đã chịu chết đói trong tù, chứ không chịu ăn vì không có nước rửa tay. Thời nay coi luật sĩ đó là cuồng tín, khùng điên, nhưng người Do thái thời đó đã tôn vinh ông như một đấng thánh tử đạo.

Thời nào cũng có hạng người cuồng tín như thế. Có hàng ngàn hàng ngàn người cuồng tín theo những giáo phái, những chủ nghĩa, những chế độ để rồi lao mình vào chỗ chết như con thiêu thân. Con thiêu thân đã lao mình vào lửa, tưởng đó là ánh sáng vinh quang của nó.

Những người Phát xít Đức, Phát xít Nhật đã cuồng tín theo chủ thuyết chủng tộc thống trị thế giới, đã lao mình vào lửa chiến tranh, và thiêu thân hàng chục triệu người. Bao nhiêu người đã hy sinh chết cho những bạo chúa như Tần thủy Hoàng, Nerôn, cho những kẻ độc tài dã man như Hít-le, Stalin, Pôn-pốt … Họ đã nắm giữ những giáo điều, những giới luật của phàm nhân.

6. Lề luật và truyền thống

Trong Cựu ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành thì người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật:

a. Luật thành văn

Trong hai thứ luật này có cái cổ hơn và quan trọng hơn là Lề luật thành văn. Lề luật này căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít quy tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.

b. Luật truyền khẩu hay truyền thống

Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống.

Các luật lệ và quy tắc ấy không hề được viết ra cho đến sau thời Chúa Giêsu một thời gian dài. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.

7. Nhịn uống để rửa tay

Có một thầy tiến sĩ luật Do thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước.

Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra bí mật. Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.

8. Ý nghĩa việc rửa tay

Ngày nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường – với chất lượng của nước uống, thực phẩm và không khí. Điều đó không phải là quan trọng. Chỉ có một điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn: môi trường đạo đức. Điều xấu là ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm (Flor McCarthy).

Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong thánh lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tôi con phạm xin Ngài thanh tẩy.” Nhưng tiếc thay, nhiều người Do thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình.

Vì thế, nhà thần học William Barclay nói: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy, vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác.”

9. Tốt mã dẻ cùi

Chim dẻ cùi là một giống chim đẹp, mỏ đỏ, đuôi dài, lông mã, lông đuôi sặc sỡ ngũ sắc, coi giống chim phượng. Người ta đã gọi là phượng hoàng Nam (phượng hoàng của nước Nam) hay phượng hoàng đất. Nhưng chim dẻ cùi phải cái tật hay ăn cứt chó, cứt lợn. Người ta đã có câu:

Dẻ cùi tốt mã dài đuôi,

Hay ăn cứt chó, ai nuôi dẻ cùi.

Dẻ cùi tiếng hót lại không hay, vì vậy dẻ cùi tuy đẹp mã thật, song người ta không quý mà lại khinh. Người ta thường dùng câu “Tốt mã dẻ cùi” để diễu người bề ngoài đẹp đẽ sáng sủa, ăn bận diêm dúa mà bụng dạ bẩn thỉu không tốt mà lại vô tài. (Văn Hoè, Tục ngữ lược giải, 1957, tr 198)

10. Sư máy

Tuần báo Newsweek số ra ngày 10.08.1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư máy.” Vị sư máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi giơ lên, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật.

Sáng kiến này đưa ra nhằm đáp ứng cho ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận: những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương.

11. Tôn kính ngoài môi miệng hay trong lòng

Chuyện kể rằng: Một ngày nọ, Đức Giám Mục địa phận cho mời vị mục tử trẻ đang chăm sóc họ đạo đến để gặp gỡ. Sau những lời chào hỏi xã giao, Đức giám mục ôn tồn nói:

“Tôi nghe bà con giáo dân phản ảnh qua thư từ, cũng như lời nói về cha rằng: “Cha thường xuyên tiếp xúc với phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ trẻ và đẹp, cha nghĩ sao về điều này? Vị mục tử thưa với Đức Giám Mục:

“Thưa Đức Cha tất cả những gì họ nói về con đều đúng. Nhưng con thiết nghĩ, khi con đứng trước người phụ nữ mà tâm trí con luôn hướng về Chúa thì vẫn tốt hơn là con đứng trước thánh nhan Chúa mà lòng trí con lại hướng về người phụ nữ phải không thưa Đức Cha?!”

Vâng! Theo lẽ thường, người đời thường xét đoán, nghi kỵ lẫn nhau qua dáng vẻ và những hành vi bên ngoài như những người biệt phái trong bản văn Tin Mừng mà thánh sử Máccô trình thuật cho ta hôm nay, khi họ chất vấn Đức Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?”

12. Dân này kính Ta bằng môi miệng

Một bà cụ năng đến Nhà thờ cầu nguyện. Một cậu bé lấy làm ngạc nhiên liền theo dõi. Cậu nấp sau bàn thờ nghe bà cầu nguyện lớn tiếng: “Lạy Chúa, con đã già và sống đủ. Bất cứ lúc nào Ngài gọi, con sẵn sàng.”

Bà cầu nguyện suốt ba ngày cũng những lời ấy. Ngày thứ tư, sau khi bà cầu nguyện, cậu bé giả giọng nói vọng ra từ sau bàn thờ: “Ta đã nghe lời cầu xin của con, Ta sẽ đến đón con lúc chín giờ sáng mai.”

Bà về nhà, không sao ngủ được vì lo lắng về điều đã nghe. Bà không chấp nhận nổi những gì bà đã cầu nguyện.

13. Giữ luật cực đoan

Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Giêrusalem bị thất thủ, nước Do Thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần dà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lội, với những gì gọi là ô uế xấu xa.

Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mỉ. Thí dụ:

Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.

Ðàn bà tới chu kỳ kinh nguyệt thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.

Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Ðụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: 1 lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.

Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải

14. Nguyên nhân của giữ luật cách cực đoan

Năm 336 trước Chúa Giáng Sinh, nước Hy Lạp nổi lên một vị anh hùng, đó là Alexandre đại đế. Mới có 20 tuổi, ông đã chứng tỏ tài thao lược của mình khi nổi lên bẻ gãy ách đô hộ của đế quốc Ba Tư lúc đó đang đè nặng trên nước Hy Lạp. Chẳng những thế, ông còn quật ngược lại tình hình, biến Ba Tư trở thành một nước chư hầu và đưa Hy Lạp lên ngôi bá chủ.

Ông đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng, xâm chiếm nhiều nước khác, đế quốc Hy lạp trải rộng cho tới Ấn Ðộ,. Nước Do thái bé nhỏ cũng rơi vào vòng thống trị của đế quốc Hy Lạp. Loé mắt trước nền văn minh Hy Lạp, nhiều người Do Thái đua nhau học đòi kiểu sống Hy Lạp: nói tiếng Hy Lạp, mặc theo kiểu Hy lạp, ăn uống theo kiểu Hy Lạp và thờ các thần Hy Lạp. Mặt khác các quan thái thú Hy Lạp dùng sức mạnh để buộc người Do thái bỏ đạo Chúa để thờ đạo Hy Lạp, họ bắt đầu ăn thịt heo và đốt nhang trước các tượng thần. Ai không làm theo thì bị xử tử.

Văn hóa dân tộc và đức tin vào Chúa có nguy cơ bị huỷ diệt. Vì thế, những nhà lãnh đạo tinh thần của dân đã hết sức cố gắng giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân. Họ đặt ra những khoản luật buộc dân giữ mình khỏi bị lây nhiễm nọc độc của ngoại bang, trong đó có những luật về ăn uống, về cách giữ các lễ nghi. Từ đó dấy lên một phong trào đề cao lề luật.

15. Ðức Kitô và Karmeliuk

Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga: khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man.

Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nỗi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo.

Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi "Anh là ai?" và Karmeliuk trả lời "Tôi là Karmeliuk", thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.

Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nỗi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết.

Ðoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Ðức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và dành lại được quyền sống cho mình. Còn Chúa Giêsu thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác Thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.

16. Nhân danh Giáo Hội xử tử Chúa Giêsu

Văn hào Dostoevski trong tác phẩm "Anh em nhà Karamazov" có kể lại câu chuyện sau đây: "Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Ðức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Ðức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo "Ad majorem Gloriam Dei.”

Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Ðức hồng Y giáo chủ. Ðức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: "Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người.” Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.

Ðức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: "Con bà sẽ hồi sinh.” Người mẹ tha thiết: "Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con.” Ðức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: "Talitha Kum" và em bé ngồi lên.

Ðúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Ðức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng "Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá.” Ông tuyên bố "Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Ðức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa.”

17. Ðầu và tim

Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim, vì người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt, vì công việc và nghề nghiệp sau này của đứa trẻ đòi hỏi hiệu năng hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục trên là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.

Tuy nhiên trong trường đời thì trái tim lại quan trọng hơn, vì sống ở đời và giao tiếp với người đời, "được việc" mà thôi chưa đủ, còn phải "được người" nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.

Hàng ngày xem TV, chúng ta thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa v.v. Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể... nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống... Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.

Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội... và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra.

18. Một trái tim tốt

Một sư phụ hỏi các đệ tử của mình: "Cái gì ta phải lo tránh nhất trong cuộc đời?" Sau đây là những câu trả lời của các đệ tử:

Một con mắt xấu
Một người bạn xấu
Một người láng giềng xấu
Một trái tim xấu.

Sư phụ đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, bởi vì một trái tim xấu chứa đựng tất cả những sự xấu khác.

Sau đó sư phụ lại hỏi: "Và cái gì ta cần bồi dưỡng nhất trong cuộc đời?" Cũng có những câu trả lời tương tự:

Một con mắt tốt.
Một người bạn tốt.
Một người láng giềng tốt
Một trái tim tốt.

Vị sư phụ cũng đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, vì một trái tim tốt chứa đựng tất cả mọi thứ tốt khác.

Nhưng sư phụ lưu ý thêm: Một trái tim tốt không chỉ là một trái tim sạch mà còn phải là một trái tim đầy, bởi vì một trái tim sạch có thể chỉ là một trái tim trống rỗng, còn một trái tim đầy thì chan chứa tình thương.

19. Thánh giá là món trang sức

Trong một chương trình buổi tối trên một kênh truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời đến phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của những phóng viên. Cô trang điểm diêm dúa và mặc một chiếc váy cực ngắn. Cô đã tỏ ra không những bình tĩnh, mà còn khiêu khích trước những câu hỏi của phóng viên.

Chợt có một phóng viên nhìn thầy trên cổ của cô có đeo một sợi dây chuyền vàng với một cây Thánh giá thật đẹp, anh ta liền thay đổi một đề tài. Anh ta hỏi cô: "Tôi thấy cô đeo Thánh giá trên cổ, hẳn cô là người có tôn giáo.”

Khán giả thấy rõ sự bối rối xuất hiện trên khuôn mặt cô, vì đây là vấn đề mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Sau một hồi do dự, cô trả lời: "Tôi không theo đạo nào cả.”

Người phóng viên hỏi dồn: "Vậy tại sao cô lại mang Thánh giá trên người?”

Cô thinh lặng cúi xuống sàn nhà một hồi lâu, rồi trả lời: "Lúc nhỏ tôi có đạo, nhưng đó là chuyện xưa rồi.”

20. Tại sao lại có những nghịch lý trong thời đại chúng ta?

Chúng ta có những tòa nhà cao hơn, nhưng tư cách những người cư ngụ trong đó thì lại nhỏ hơn. Những con đường cao tốc rộng hơn, nhưng quan điểm của con người thì lại hẹp hòi hơn.

Chúng ta nói quá nhiều, yêu quá ít và ghét quá thường xuyên.

Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường để gặp một người hàng xóm mới dọn đến.

Chúng ta làm trong sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm tâm hồn của nhau.

Chúng ta viết lách nhiều hơn, nhưng học hành thì ít hơn.

Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, mà không biết chờ đợi.

Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng đạo đức thì lại thấp hơn.

Chúng ta trở nên thừa về số lượng, nhưng lại quá thiếu về chất lượng.

Đây là thời cơ có tới hai nguồn thu nhập từ cả hai vợ chồng trong gia đình, nhưng ly dị thì nhiều hơn; Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm thì tan vỡ nhiều hơn.

Vâng nếu cuộc sống chỉ là như thế thì thật là tủi nhục cho Thiên Chúa khi Chúa đã cho chúng ta được làm người .

21. Vẻ đẹp của tâm hồn

Trong mẩu truyện ngắn với tựa đề Đồng vọng được đăng trong tuyển tập bốn mươi truyện rất ngắn do hội Nhà văn xuất bản, tác giả Lã Thế Khanh đã kể lại cuộc gặp gỡ cảm động giữa hai người mù: một bà lão ăn xin và một bé gái cũng ăn xin.

Bên một đống rác lớn, bà lão van vỉ xin khách qua đường giúp đỡ nhưng không có một hồi âm nào ngoài tiếng vo ve của mấy con nhặng xanh đang tranh ăn trên một chiếc lá bánh. Bà lão vẫn tiếp tục van vỉ điệp khúc cũ, nhưng càng về sau càng thống thiết, những câu nói rời rạc như rãi chảy ra từ khuôn miệng dúm dó, xệch xạc của bà.

Trong khi đó, tại một gốc cây sếu già, một bé gái ăn xin mù lòa đang thiu thiu ngủ, nó gối đầu trên một cái túi khâu bằng nhiều loại vải cũ, một cái bát sắt hoen gỉ thủng đáy nằm lăn lóc bên cạnh. Từ sáng sớm đến giờ chưa có gì trong bụng, cho nên cô bé đói rũ người, nó hy vọng giấc ngủ xua tan cái đói. Cô bé bỗng giật thót người: có một bàn chân nào đó dẫm lên người nó. Đang lúc đói mệt, cô bé gầm lên:

- Mù à, người ta nằm đó mà dẫm lên!

Bà lão ăn xin lại van vỉ:

- Bà mù, bà mù thật cháu à. Thôi bà đã trót, cho bà xin.

Lặng đi một lát, cô bé đưa hai tay sờ mặt mình, từ hai hốc mắt của nó những giọt nước mắt mặn chát chảy ra, nó ngập ngừng:

- Cháu... Cháu xin lỗi bà, cháu không biết bà như thế.

Bà lão ngúc ngoắc đầu như thể chấp nhận, rồi tiếp tục đi về phía có đông người. Ngẫm nghĩ điều gì đó, cô bé lấy trong túi áo ra tờ giấy bạc hai trăm đồng mất góc, quả quyết:

- Bà ơi? Cháu biếu bà này!

Nhưng gió thổi lá rơi vào nón, bà lão ngộ nhận cô gái dối mình, còn cô gái thì chờ mãi mà vẫn không thấy bà lão nhận tiền.

Cha hỏi chúng con cô bé mù trong câu chuyện trên thế nào? Có đẹp không? Bên trong hay bên ngoài.

- Dạ thưa cha…bên trong.

- Rất đúng! Ước gì chúng con cũng đẹp như thế. Cha thấy có nhiều thiếu nhi chúng con rất nghèo, nhưng chúng con lại sống rất tốt. Xin Chúa chúc lành cho chúng con.

22. Người đẹp, người xấu

Trong một khuôn viên nhà thờ, một chàng thanh niên ăn mặc bảnh bao, đi giày láng cóng, miệng phì phào điếu thuốc lá.

Người ta để ý xem sau khi hút thuốc anh bỏ tàn thuốc ở đâu. Người ta ngạc nhiên thấy anh thản nhiên vất tàn thuốc ngay xuống sân nhà thờ!

- Kenneth là một học sinh lớp 6. Cậu rất vui và hồi hộp khi được chọn tham dự ngày hội thao của trường. Cậu bé đã vượt qua các bạn và về nhất trong lần thi chạy đầu tiên. Phần thưởng là dải ruy băng choàng chéo vai và sự hoan hô của khán giả khiến cậu rất hãnh diện - với bố mẹ và với các bạn cùng lớp.

Cậu bé tiếp tục thi lần chạy thứ hai. Ngay khi gần đến đích, chỉ cần thêm vài bước nữa thì Kenneth sẽ lại là người chiến thắng, nhưng cậu bé bỗng chạy chậm lại và bước ra khỏi đường đua. Bố mẹ cậu vô cùng thắc mắc:

Tại sao con lại làm như vậy, Kenneth? Nếu con tiếp tục chạy, chắc chắn con sẽ giành chiến thắng nữa đấy.

Kenneth ngước đôi mắt trong veo nhìn bố mẹ và trả lời:

Nhưng, mẹ ơi, con đã có một dải ruy băng rồi, còn bạn Billy của con lại chưa có.

23. Con thật, con giả

Một nhà triệu phú kia trước khi chết đã viết di chúc để lại toàn bộ gia tài lớn lao cho đứa con do đã đi du học nước ngoài từ nhỏ, nên không ai trong dòng họ còn nhớ được khuôn mặt của anh này. Sau khi tin tức về cái chết của nhà triệu phú được đăng trên báo thì có ba chàng thanh niên đến tự nhận là con trai duy nhất của nhà triệu phú, để yêu cầu được lãnh phần sản nghiệp.

Sau khi suy nghĩ, viên quan tòa đã cho phóng lớn bức hình chụp chân dung của nhà triệu phú, rồi trao ba khẩu súng cho ba chàng thanh niên kia và bảo: Ai trong ba người bắn trúng mắt của nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần gia nghiệp của ông để lại. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn đều bắn gần trúng mắt của bức hình.

Đến phiên anh chàng thứ ba cầm súng với vẻ mặt u buồn. Anh ta im lặng suy nghĩ và cuối cùng nói: “Tôi chịu thua vì tôi không thể cầm súng nhắm bắn vào mắt của ba tôi.” Viên quan tòa liền tuyên bố: “Chính anh thứ ba mới thực sự là con trai duy nhất của nhà triệu phú, vì suy nghĩ và hành động của anh chứng tỏ lòng hiếu thảo của một đứa con đích thực.”

24. Mẹ thật, mẹ giả

Có hai thiếu phụ, mỗi người sinh được một mụn con trai. Chẳng may đêm hôm đó bà này nằm ngủ đè chết con mình, bà bèn đánh tráo con chết lấy lấy đứa con còn sống của bà kia. Sáng dậy bà kia nhận ra đứa con đã chết nằm bên mình không phải là con đẻ của mình. Thế là hai bà cãi lộn nhau.

Nội vụ được đưa tới vua Salomon. Nhà vua bèn truyền phân đôi đứa nhỏ còn sống để chia cho mỗi bà một nửa cho công bằng. Bà đã đánh tráo con sẵn sàng chấp nhận, đang khi bà kia xin nhường đứa con để nó khỏi phải chết. Thế là nhà vua đã phân biệt được ai là mẹ ruột của đứa con nhờ tình thương của bà dành cho con và đã trao đứa con còn sống cho bà.

25. Đọc kinh quan trọng hơn

Barclay kể một câu truyện như sau: Có một người Hồi Giáo kia tìm cách giết một kẻ thù để giành quyền kết hôn với một cô gái đẹp. Một hôm, gặp kẻ thù ở chỗ vắng vẻ và nhân lúc kẻ kia không đề phòng, hắn ta rút dao chém một nhát khiến người kia bị thương và sau đó bỏ chạy.

Người Hồi Giáo đã đánh lén kia tiếp tục truy đuổi, quyết tâm tiêu diệt tình địch cho bằng được. Trong lúc đang hăng hái đuổi theo thì nghe thấy một hồi chuông nhà thờ Hồi giáo gần đó báo giờ kinh ban chiều, hắn ta lập tức nhảy xuống khỏi mình ngựa, trải chiếc chiếu luôn mang theo bên mình, quỳ hướng mặt về thủ đô Méc-ca đọc bài kinh chiều thật mau, rồi sau đó lại leo lên mình ngựa tiếp tục cuộc truy đuổi kẻ thù!!!

26. Con heo và vị thánh

Cha Anthony De Mello, một tu sĩ dòng Tên đã viết một câu chuyện khá ý nghĩa.

Một ông vua nọ luôn chơi bời tác tráng, cả ngày chỉ biết nhậu nhẹt và lao đầu vào những cuộc ăn chơi trụy lạc, chẳng lo gì cho dân. Khuôn mặt của vua lúc nào cũng đỏ gay và sặc mùi rượu. Một bữa nọ, nhà vua cưỡi ngựa đi ra ngoài thành. Ông gặp một tu sĩ già khuôn mặt nhợt nhạt xanh xao, áo quần lôi thôi lếch thếch. Nhà vua dừng lại và trịch thượng chào vị tu sĩ với giọng điệu mỉa mai: “Xin chào ông tu sĩ. Nhìn áo quần nhàu nát và khuôn mặt cáu bẩn của ông, tôi thấy ông chẳng khác gì một con heo.” Vị tu sĩ cúi đầu lắng nghe, gương mặt bình thản và cũng chẳng tỏ vẻ khó chịu chút nào.

Một lát sau, ngài ngẩng đầu lên, nhìn chăm chú vào đức vua và đáp: “Thần xin cám ơn đức vua, còn thảo dân thì thấy khuôn mặt đức vua giống như một vị thánh.” Nhà vua kinh ngạc hỏi lại: “Ta miệt thị ngươi, ngươi đã không buồn cũng chẳng giận, lại còn khen ta có khuôn mặt giống một vị thánh là sao ? Vị tu sĩ điềm nhiên trả lời: “Tâu đức vua, một người sống với trái tim và tâm hồn của loài heo, thì nhìn thấy ai cũng thấy giống như con heo. Ngược lại, một người có tâm hồn và trái tim của một vị thánh, sẽ nhìn thấy mọi người giống các vị thánh. Nói xong vị tu sĩ lặng lẽ bỏ đi, còn nhà vua thì đứng chết lặng.

27. Giữ đạo bề ngoài

Trong một câu truyện có kể về một người Hồi Giáo không chỉ tuân giữ luật đọc kinh 5 lần mỗi ngày của đạo Hồi, nhưng lại không ngần ngại phạm tội ác to lớn là giết chết kẻ thù.

Rồi tên cướp công giáo trong câu chuyện thứ hai đã quyết tâm bỏ thói quen hút thuốc lá trong Mùa Chay để tỏ lòng sám hối tội lỗi, nhưng lại đi trấn lột tài sản của kẻ khác.

Rồi các người Pha-ri-sêu và kinh sư Do thái tuy giữ nghiêm ngặt tập tục thanh tẩy bàn tay bằng nước trước khi dùng bữa, nhưng lại coi thường điều răn quan trọng của Thiên Chúa là “thảo kính cha mẹ”, khi họ cho phép con cái lấy của cải lẽ ra phải dùng để nuôi dưỡng cha mẹ già yếu, dâng hiến của cải đó biến thành “Cô-ban”, nghĩa là “Của Thánh hiến dâng cho Thiên Chúa.” Rồi họ cho phép đứa con kia không cần phải hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ già yếu nữa!

Cũng vậy, ngày nay có những người chỉ chú trọng thực hiện một số việc đạo đức theo luật như đọc kinh, dự lễ Chúa Nhật, ăn chay kiêng thịt, bố thí... mà không chú trọng việc thanh tẩy tâm hồn, không giữ luật công bình bác ái trong cách ứng xử với tha nhân. Giữ đạo như thế chỉ là cách giữ đạo giả dối, mang tính hình thức bề ngoài mà thôi.

28. Người xưa và người hôm nay

Ngày xưa người ta quan niệm: cái nết đánh chết cái đẹp. Ngày nay quan niệm đó được thay thế ngược lại. Cái đẹp đè bẹp cái nết.

Quả thế hàng hoá phẩm chất tốt được nhiều người ưa chuộng nhưng thiếu khách hàng. Thị trường tràn lan, tràn ngập hàng trông bắt mắt, giá rẻ mạt. Người mua thưởng thức cái đẹp, hào nhoáng bề ngoài nhưng khi xử dụng lại than phiền, bực dọc.

Thực tế cho thấy hầu như thế hệ trẻ ngày nay quan tâm đến cái vẻ đẹp bên ngoài nhiều mà không mấy quan tâm đến phẩm chất bên trong. Nếu đây là một thực thể xã hội thì chúng ta có thể khẳng định là lối suy nghĩ của con người đã thay đổi. Bằng chứng thể hiện qua lối sống, qua hàng hoá, cách trưng bày trên các sạp chợ. Đó là bằng chứng cho thấy con người chấp nhận thay đổi, coi trọng vẻ đẹp, hào nhoáng bề ngoài mà ít quan tâm đến phần phẩm chất đồ vật.

Không còn phải nghi ngờ gì nữa, cách nhìn, lối sống, cách suy nghĩ và quan niệm sống đã thay đổi. Lối sống thích chưng diện, hào nhoáng, sài xong dục bỏ phần nào đó xung khắc quan niệm sống ngàn xưa thích bền, trọng tốt.

Hai cách nhìn, hai lối sống hoàn toàn trái ngược nhau, mặc dù không tỏ ra xung khắc đến bạo động, tranh giành thế đứng, nhưng thực sự có xung khắc. Xung khắc nhẹ nhàng bằng cách từ từ loại bỏ. Nó âm thầm gẵm nhấm, thay đổi lối suy nghĩ, cách nhìn, cách phán đoán và ngay cả nhận xét của con người.

29. Cội nguồn của sự ác

Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu người ta hô: "đả đảo bom giết người!"

Sau đó, trong đám đông tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: "Làm gì có bom giết người! Bom đạn có giết ai đâu? Chỉ có những con người ác tâm tạo ra bom đạn, rồi đem bom bỏ lên đầu người khác mới gây nên tội giết người."

Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: "Đả đảo những kẻ giết người!"

Nhưng rồi lại có người bàn thêm: "Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có chuyện giết người. Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người?" Nhiều người đáp lại: "Chí lý! Chí lý!"

Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: "Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo lòng hận thù!" (dựa theo Cha Anthony de Mello)

30. Cain và Aben

Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn thường yêu mến nhau, vui đùa với nhau, hoà thuận với nhau.

Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của Cain.

Thế là từ đó, trong lòng Cain phát sinh một mối ghen tị, hận thù. Lòng ghen tị lớn dần lên lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.

Chính lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.

31. Vua Sao lê và Đavít.

Thời ấy, Gô-li-át là kiện tướng của quân Philitinh, một con người khổng lồ lại có sức mạnh vô địch khiêu chiến với người Israel. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en không ai có thể đương đầu được với con người khổng lồ ấy.

May thay, Đavít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Thừa cơ hội tốt, quân Israel xông lên đánh tan quân địch không còn manh giáp.

Dân chúng Israel tuôn ra đường tung hô ca tụng vị anh hùng trẻ tuổi Đavít. Họ ca lên rằng: "Vua Sao-lê giết được một ngàn, còn Đavít giết được hàng vạn.”

Lời ca tụng đó vẳng đến tai vua Sao-lê. Lòng ghen tị xuất hiện và nung nấu tâm hồn ông. Thế là vua thay lòng đổi dạ: trước đây vua yêu thương Đavít bao nhiêu thì giờ đây vua căm thù Đavít bấy nhiêu. Nhà vua bất thần lấy giáo phóng vào Đavít khi cậu gảy đàn cho vua nghe. Đavít lách mình tránh thoát cái chết trong gang tấc. Sau đó vua đem quân truy lùng tận những hang núi sâu để tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.

Đúng là những gì xấu xa bên trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế.

32. Luật vị luật

Nhà thần học William Barclay kể lại một câu chuyện như sau: Có một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi này ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám bệnh. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước.

Báo cáo của y sĩ khiến các viên cai ngục bối rối. Họ không hiểu tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ cho mỗi người. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát vị Rabbi ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra một điều bí mật. Vị Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay trước khi cầu nguyện và ăn cơm.

Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà không chịu rửa tay theo đúng nghi thức.

33. Đường hay pháo đài?

Đây là tựa đề của một quyển sách do Nguyễn Ngọc Lan biên soạn. Ông là một cựu tu sỹ Dòng Chúa Cứu Thế, đã suy tư và viết cuốn sách này năm 1972. Trong tác phẩm, ông đặt vấn đề với tất cả chúng ta, đạo Công giáo là đường hay pháo đài?

Pháo đài là một thứ lô cốt cứng ngắc chúng ta chui vào đó để cố thủ, để ôm giữ. Nếu chúng ta chỉ giữ đạo một cách khô cứng với những lề luật hình thức bên ngoài, chẳng khác nào chúng ta đang khăng khăng ôm giữ một pháo đài. Điều đó cũng giống như những anh chàng Hồi giáo IS quá khích ngày nay quyếtgiữ bom trong mình để liều chết. Còn nếu chúng ta không phải giữ đạo mà sống đạo, thì đạo đích thực là một con đường. Con đường trước mắt luôn mở rộng thênh thang để chúng ta bước đi, đi đến gặp gỡ Thiên Chúa và đi đến gặp gỡ anh em.

Nếu bình thản đọc lại bộ giáo luật 1983, chúng ta thấy ngay từ lời tựa đầu tiên, Giáo hội đã đưa ra những tiêu chí chung cho tất cả 1752 khoản luật viết trong đó. Tiêu chí đó là: “ Để giúp việc chăm sóc các linh hồn, không chỉ là đức công bằng, nhưng luôn phải dành chỗ cho đức ái, tiết độ, nhân đạo...Vì thế, các mục tử nên loại bỏ các khoản quá cứng ngắc. Hơn nữa, mỗi khi không cần những khoản luật nhằm phục vụ công ích và kỷ luật chung của Giáo hội, chỉ nên sử dụng lời khuyên hay khuyến cáo mà thôi.” Chúng ta hãy đọc kỹ lại những hướng dẫn này.

Đạo công giáo của Chúa Giêsu là đường, chứ không phải pháo đài.

34. Bài giảng thứ ba mươi hai.

Trong một buổi cấm phòng, vị linh mục 72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang Kentucky, không xa một chỗ chạy đua Churchill Downs cho mấy:

Vào ngày Chúa Nhật đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình.

Sau Thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng giáo xứ liền gọi cha xứ lại và bảo rằng những người dâng cúng cho nhà thờ đa số là những người đua cá ngựa và cờ bạc.

Vào Chúa Nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư phổi và chết sớm.

Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây thuốc lá, và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này.

Vào Chúa Nhật thứ ba kế tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa.

Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.

Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: "Vậy tôi có thể giảng về vấn đề gì?" Ông chủ tịch liền trả lời: "Hãy giảng chống lại các nhà chính trị lừa đảo, mà trong giáo xứ chúng ta không có những hạng người này."

35. Chúng tôi cần cái tâm

Buổi trưa, tại sân ga của một thành phố lớn, một người phụ nữ tầm ngoài 30 tuổi đang mướt mồ hôi để vác lên vai túi hành lý lỉnh kỉnh của mình. Trên khuôn mặt của người phụ nữ ấy hằn lên sự vất vả, cực nhọc của một người lao động từ xa đến tỉnh này. Chị đang đưa ánh mắt dường như vô vọng của mình khắp sân ga như để tìm kiếm một thứ gì đấy nhưng sau đấy lại tỏ vẻ thất vọng. Trông chị rất đáng thương.

Trên sân ga, người qua lại tấp nập. Ai đi qua người phụ nữ ấy đều ném về phía chị những cái nhìn ái ngại và thương cảm. Không ai có ý định dừng lại để giúp đỡ chị. Đặc biệt là những người ăn mặc sang trọng, họ đều đi qua chị với tốc độ rất nhanh, dường như là họ nghĩ nếu đi chậm lại thì chắc chắn người đàn bà đó cũng kéo họ lại để lạy lục, nhờ vả việc gì đó.

- “Anh để ý đấy nhé, không biết chừng chị ta sẽ nài nỉ xin tiền hoặc sẽ hồ hởi kết bạn với mình để bị chị ta tra tấn trên suốt chuyến đi bằng những câu chuyện vừa dài vừa vô duyên, hoặc như chị ta sẽ mượn mình chiếc khăn mùi xoa để lau mồ hôi mà lau xong thì mình không dám xin lại hay như mượn bình nước uống rồi tu ừng ực thì vài ngụm đã hết veo. Đúng là người nhà quê”- Một người phụ nữ ăn mặc trông có vẻ sang trọng bĩm môm đánh thượt một cái và nói với người đàn ông cũng có vẻ sang trọng bên cạnh mình.

- Xin chào.. xin….

Quả nhiên người phụ nữ tiến lại gần đám đông đang đứng đợi tàu. Nhưng dường như không đợi chị nói hết câu, mọi người đều xua tay và lắc đầu và nhanh chóng lảng ra chỗ khác. Không nản chí, người phụ nữ này lại men theo các cánh cửa sổ của các toa tàu rồi nhảy hẳn lên các toa chưa đến giờ xuất phát. Đi đến toa nào chị cũng mang một khuôn mặt như muốn cầu cứu, trông thật đáng thương và câu duy nhất thốt ra từ miệng người phụ nữ đáng thương này là: “Xin mọi người giúp đỡ cho tôi”

Những người ngồi trên tàu tỏ ra rất khó chịu với người phụ nữ này. Có người thì xua tay ra hiệu xua đuổi, có người vừa thấy bóng dáng chị ở đầu toa vội lấy tờ báo che mặt giả vở ngủ. Trên khuôn mặt của người đàn bà ấy lộ rõ vẻ thất vọng, chán nản. “Mình đâu phải là thằng ăn trộm mà sao mọi người lại xử sự như thế nhỉ?” - Người phụ nữ xót xa nghĩ.

Chị ta lại đi qua các toa tàu nhưng không ai muốn nghe chị trình bày hoàn cảnh của mình. Đúng lúc đó, chị nhìn thấy một chàng trai có dáng vẻ rất thư sinh đang ngồi đọc báo. Chàng trai đang đọc báo rất chăm chú và dường như cậu ta không để ý đến mọi thứ xung quanh. Nhẹ nhàng đi về phía chàng thanh niên, người phụ nữ cất tiếng nói.

- Xin lỗi cậu, cậu có thể giúp đỡ tôi được không?

Chàng trai bỏ tờ báo xuống, nhìn quanh một lúc rồi nhìn người phụ nữ nông thôn nọ:

- Xin lỗi, chị đang hỏi tôi ạ?

Người phụ nữ gật đầu.

- Xin anh giúp đỡ tôi với, tôi lên thành phố để tìm người bà con, nhưng tìm không ra, tiền bạc lại bị kẻ gian móc hết rồi. Muốn về quê nhưng không biết làm thế nào, cậu có thể mua giúp một tấm vé để tôi về quê không?

Sau khi nghe xong người phụ nữ đáng thương nói xong, nét mặt chàng thanh niên trông rất lưỡng lự. Dường như anh ta vừa muốn giúp, vừa lại không muốn giúp người đàn bà đáng thương đó. Sau một thời gian im lặng, chàng trai bèn đưa tay vào túi quần của mình, khó khăn lắm mới móc ra được một đống tiền lẻ, ngại ngùng đưa cho người phụ nữ.

- Chị cầm lấy đi. Tôi… tôi chỉ còn có chừng này, không biết đủ hay không. Tôi cũng vừa mua vé để về quê nên không còn nhiều. Tôi lên thành phố này để kiếm việc, hy vọng tìm được một công việc kiếm được kha khá, nhưng khi lên thành phố, với tấm bằng trung cấp trong tay thì tôi không thể tìm ra được một việc gì để làm. Chị cầm tạm vậy.

Người phụ nữ rưng rưng cầm lấy những đồng tiền lẻ của chàng trai, khó khăn lắm chị mới thốt lên được hai tiếng “Cám ơn.”

Vừa quay gót đi về phía cuối toa thì chị nghe tiếng gọi với theo của chàng thanh niên nọ. Cậu ta hớt hải đi về phía chị và nói:

- Như thế này vậy, chị cùng quê với em, hay chị lấy tấm vé của em đi vậy.

- Thế còn cậu thì sao? Người phụ nữ ngạc nhiên hỏi.

- Số tiền em vừa đưa cho chị có thể mua đủ tấm vé xuống ga thứ ba xuất phát từ ga này, như vậy cách nhà em cũng không xa lắm, em có thể đi bộ mà. Chị cứ cầm lấy vé đi, em là con trai, thế nào mà chẳng được. Còn phụ nữ như chị thì không thể đi bộ về nhà trong đêm tối được. Thôi, chúc chị thuận buồm xuôi gió. Nào, đưa cho em đống tiền lẻ nào!

Nói xong, không kịp để người phụ nữ phản ứng gì, chàng trai vội cầm lại số tiền lẻ trong tay người phụ nữ và đưa lại cho chị tấm vé của mình. Sau đấy anh vội vàng đi ra khỏi tàu và đến quầy bán vé.

Rất nhanh sau đó, chàng thanh niên lại lên tàu. Người phụ nữ tiến lại gần phía chàng trai và cất tiếng hỏi:

- Sao cậu lại làm như thế, cậu không hối hận à?

Chàng trai lắc đầu

- Không, chị ạ.

Trong ánh mắt của người phụ nữ đáng thương nọ ánh lên một niềm vui khôn xiết. Chị cầm tay chàng trai và nói:

- Anh bạn trẻ, xuống đây với tôi một lát.

Người phụ nữ kéo chàng trai ra khỏi nhà ga, vẫy một chiếc taxi, tự động mở cửa xe và quay lại nhìn chàng trai:

- Cậu lên xe đi. Hôm nay cậu chính thức là nhân viên của tôi.

Hoá ra, người phụ nữ này là con gái của một ông chủ tập đoàn sản xuất đồ chơi nôỉ tiếng. Để đi tìm một người trợ lý đáng để tin cậy, chị đã phải hoá trang và đứng ở sân ga suốt 3 ngày qua.

Chị nói rằng: “Các bạn cho rằng tôi thật ngốc nghếch khi phải làm khổ mình như thế, nhưng thật ra nó thật sự xứng đáng. Khi đứng ở sân ga trong 3 ngày đó, tôi mới nhận ra rằng: Tìm được một người thực sự tốt trong cuộc sống xô bồ này quả là khó.

Có thể, chàng thanh niên đó không có trình độ, hiểu biết nhiều như những người tốt nghiệp đại học hoặc cao hơn nữa. Nhưng điều đáng quý nhất và đáng trân trọng nhất là cậu ấy có cái ‘tâm’. Có cái ‘tâm’ trong cuộc sống thì mới có cái ‘tâm’ trong công việc được. Đấy là thứ mà công ty tôi cần.”

36. Giữ luật hay tinh thần của luật?

Người ta kể rằng: Hồi trước năm 1960 ở Sàigòn, các tiệm ăn thường có tấm bảng đề mấy chữ sau đây: "Cấm không được khạc nhổ xuống sàn nhà.”

Một hôm, có một chàng thanh niên ngang tàng đọc bảng cấm đó, tức bực lắm, anh ta đã ngạo nghễ khạc nhổ lên vách tường quán ăn trước mặt mọi người. Các thực khách tại các bàn ăn khác xôn xao khó chịu. Chủ tiệm vội chạy tới, định cảnh giác anh ta, nhưng anh ta giơ tay chỉ vào tấm bảng và nói: "Tôi đâu có nhổ xuống sàn nhà.”

Người chủ tiệm rất tức bực, nhưng cũng đành chịu vậy, bỏ đi. Khi nhìn luật lệ như những điều trói buộc, thì người ta sẽ tìm ra những kẽ hở để phá luật.

37. Bên ngoài và bên trong

Một người kia nằm mơ thấy mình được đem lên thiên đàng. Anh ta đang ngớ ngác nhìn chỗ này chỗ kia, thì gặp Chúa Giêsu. Ngài cho anh ta thấy một hình ảnh ở dưới trần gian.

Hôm đó là ngày Chúa Nhật, và thánh lễ đang được cử hành tại một giáo xứ. Anh ta thấy người đánh đàn lắc qua lắc lại rất là có hồn. Ngón tay lướt trên phím đàn trông rất là hấp dẫn, nhưng đáng tiếc là anh ta không nghe được gì cả. Rồi anh lại thấy ca đoàn mở miệng lớn và hát tất cả những lời rất ý nghĩa, nhưng anh cũng không nghe thấy tiếng gì cả.

Anh chăm chú nhìn vị linh mục, những người tham dự thánh lễ đứng lên, ngồi xuống, mở sách, mở miệngđể đọc thưa tất cả những lời nguyện, nhưng một lần nữa, không nghe được tiếng gì cả. Anh ta mới thắc mắc quay sang Chúa Giêsu và hỏi tại sao lại có sự im lặng như vậy? Chúa Giêsu trả lời: "Con thấy không, chỉ khi nào những người ở dưới trần gian cầu nguyện hay hát với hết tâm hồn, thì ở trên này mới nghe được."

38. Sĩ diện thật đáng sợ

Cách đây chừng hơn một tháng, dư luận cả nước xôn xao về một vụ hãm hại người khác mang tính cách gia đình mà mới nghe qua, người ta khó lòng tin đó là sự thật. Cùng lắm nó chỉ có thể xuất hiện trong tiểu thuyết được trí tưởng tượng phi thường của ai đó hư cấu mà có. Có ai ngờ chuyện như tiểu thuyết ấy lại xảy ra thật. Bởi thế, hình như ai nghe cũng sửng sốt, bàng hoàng.

Chuyện tưởng không mà có ấy, chính là câu chuyện về người mẫu Võ Thị Thu Trâm bị chính mẹ ruột của mình đổ dầu sôi vào mặt. Theo báo Công an, sáng hôm ấy, trong khi Thu Trâm còn đang ngủ, mẹ của cô đã đi mua một chai dầu ăn cỡ một lít, mang về nhà nấu sôi khoảng 5 phút, sau đó đem nguyên chảo dầu sôi ấy tưới vào mặt con gái mình.

Mẹ mà rắp tâm hãm hại con đã là chuyện quá sức bi đát. Nhưng bên cạnh còn một điều đáng lưu ý hơn, bởi một thái độ quá tàn nhẫn, và thái độ tàn nhẫn đó, lại chính là thái độ của một người mẹ dành cho con mình. Nó làm cho ta nhói đau: Sau khi tưới dầu sôi vào mặt con, bà đã ung dung ra khỏi nhà mua một lố dầu nhị thiên đường, để chuẩn bị khi vào tù, bà có dầu xức vì bà thích xức dầu nhị thiên đường.

Người ta tự hỏi, vì lý do nào, một người mẹ rứt ruột sanh ra đứa con của mình nuôi cho nó lớn, nên vóc, nên hình, bây giờ lại tàn nhẫn đến mức không còn một chút lương tâm như thế. Mẹ của Thu Trâm trả lời: Vì tức giận con đã cư xử tệ bạc, vô ơn. Bà buồn con mình đã quên mất người mẹ nghèo tần tảo đã từng lặn lội khắp nơi với gánh ve chai trên vai bất kể mưa nắng, bất kể sự mệt nhọc để nuôi chị em Thu Trâm thành tài: chị cả làm giáo viên, anh hai làm tài xế, và Thu Trâm, một người đẹp đến nỗi có thể bước chân vào nghành người mẫu. Nghe đâu, Thu Trâm còn được đề cử tham dự cuộc thi "Hoa hậu liên lục địa.” Vậy mà đã có lần, bạn bè tới nhà chơi, Thu Trâm xấu hổ không dám giới thiệu mẹ của mình.

39. Phariseu hiện đại

Một Pharisêu thời đại như Ted Turner, vua truyền thông Mỹ, mới đây cũng phê bình Kitô giáo "không có lòng khoan dung" và không chấp nhận tự do tín ngưỡng.

Ông tự cho mình đạo đức hơn người khác và lên giọng kẻ cả phê bình những nguyên tắc Kitô giáo. Cô Judie, đại diện cho một giáo phái Tin lành đã phản pháo mãnh liệt: "Tôi cho rằng tiền bạc có thể làm cho người ta có địa vị trong xã hội, dám bạo mồm bạo miệng. Tuy nhiên, tiền không làm cho người ta khôn hơn và không che đậy được sự dốt nát." (VietCatholic 1/9/2000)

Ông Mikhail Gorbachev, cựu tổng bí thư đảng Cộng sản Liên sô nhận định: "Ong Turner không có tư cách gì để nói về lòng khoan dung. Trong khi trẻ con Iraq chết dần mòn vì suy dinh dưỡng và thiếu thuốc men cũng như những điều kiện y khoa cần thiết" vì lệnh cấm vận của Mỹ, thì "chỉ có Vatican là dám mạnh mẽ tố cáo chính sách diệt chủng của Mỹ ở Iraq." (VietCatholic 1/9/2000)

40. Bên trong là những gì đáng kể

Vào một buổi chiều nơi sân bóng rổ, một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa trẻ đã không bỏ mũ của mình ra. Một người đàn ông vạm vỡ đứng ngay đằng sau đứa bé đã nói: “Này chú bé, hãy lấy mũ ra chứ.”

Cha của đứa bé là một người có bộ râu rậm nhưng ông đã chờ đợi cho đến khi kết thúc bài hát, cố gắng với sự tự chủ và giọng run run, ông nói một cách nhỏ nhẹ với người đàn ông: “Con trai của tôi đang hóa trị vì bệnh ung thư và nó không còn chút tóc nào!”

41. Giết người không dao

Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại.”

Mỹ nữ tưởng thật nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại sao vậy? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi hám, nên mới có cử chỉ như vậy.” Vua Sở nổi giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi.

42. Quên điều cốt yếu

Một người đàn bà bồng con trên tay đi ngang qua một cái hang. Bỗng có tiếng từ trong vọng ra “Con hãy vào và lấy tất cả những gì con muốn, nhưng đừng quên rằng con được tự do chọn lựa mà không được quên mất điều cốt yếu.” Tiếng vọng lại nhắc thêm một chi tiết: “Con hãy nhớ một điều nữa: Sau khi con ra khỏi cái hang, cánh cửa sẽ tự động đóng lại vĩnh viễn. Song hãy tận dụng cơ hội mà đừng quên mất điều cốt yếu.”

Người đàn bà tò mò bước vào và thấy chung quanh mình toàn là vàng bạc, châu báu và những món trang sức lấp lánh hấp dẫn. Bà vội đặt đứa con xuống và bắt đầu chọn những gì bà ưa thích nhất. Tiếng nói lúc nãy lại vang lên: “Con chỉ có 8 phút thôi, đừng chậm trễ!”

Tám phút mau mắn trôi qua, người đàn bà ôm đầy vàng bạc và đủ thứ trang sức quý giá chạy vội ra khỏi hang và cửa hang đóng lại. Bấy giờ bà ta mới sực nhớ rằng mình đã bỏ quên đứa con lại trong hang. Bà quăng tất cả mọi thứ đã chọn xuống đất, than khóc kêu la như điên như dại trong tuyệt vọng…

Người đàn bà khốn khổ này đã có được đủ thứ nhưng lại quên mất điều cốt yếu nhất đối với bà (Theo Internet).

43. Sạch mà trống rỗng

Vào tháng 7 năm 2006, các cấp lãnh đạo thành phố Đà Lạt đã mở một chiến dịch lớn nhằm làm cho bộ mặt thành phố được sạch đẹp để đón du khách. Họ đã cho treo lên những tấm panô với nội dung: “Chúng ta hãy nói không với những người bán vé số dạo, đánh giầy dạo và ăn xin...” Sau khi những tấm panô được treo lên, các cấp lãnh đạo của thành phố đã bị dư luận báo chí và quần chúng khắp nơi phản ứng một cách kịch liệt. Công chúng cho rằng không nên có thái độ và lời lẽ xúc phạm đến những người nghèo. Thậm chí có người còn nói: “Chúng ta có thể nói không với ma túy, nhưng lẽ nào chúng ta lại nói không với con người?” Có người còn cho rằng: để làm cho thành phố được sạch đẹp, chúng ta không chỉ làm sạch bên ngoài, nhưng hãy làm sạch cả những tệ nạn xã hội, thói “cửa quyền”, hối lộ và tham nhũng đang tác hại từ bên trong.

Trước làn sóng phê bình của công luận, các cấp lãnh đạo thành phố Đà Lạt liền cho hạ các tấm panô xuống và tuyên bố sẽ điều chỉnh lại sự việc trên.

Câu truyện thời sự trên đây đã dẫn đưa chúng ta vào sứ điệp lời Chúa hôm nay. Qua nội dung của lời Chúa trong Tin Mừng theo thánh Marcô, Chúa Giêsu muốn nhắc nhở chúng ta đừng quá quan tâm đến hình thức bên ngoài mà quên mất đời sống nội tâm, đừng chú trọng rửa tay chân nhưng hãy chú tâm tẩy rửa tâm hồn.

44. Chồn có bộ lông trắng

Tại những khu rừng ở Bắc Âu, có một loài chồn mang bộ lông trắng rất đẹp. Loài chồn này cố giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình luôn sạch sẽ bằng mọi giá. Chúng không bao giờ để bộ lông của mình dính bụi đất dơ bẩn.

Biết được đặc tính kỳ lạ này, các thợ săn thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ tìm những khe đá hoặc gốc cây, nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để săn đuổi. Những con chồn bị đuổi bắt vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị dơ bẩn, chúng không vào ẩn núp. Chúng chấp nhận bị bắt hoặc bị giết hơn là để bộ lông bị hoen ố.

Chỉ có loài chồn khờ dại mới coi trọng bộ lông hơn mạng sống như thế. Tuy nhiên, nhiều lúc chúng ta cũng sống giống như vậy, khi chúng ta chỉ quan tâm sống đạo hình thức mà quên sống đạo nội tâm, chỉ chú trọng đến bộ áo đẹp đẽ hơn là tâm hồn đạo đức.

45. Tâm tư rất quan trọng

Đời vua Trang Công nước Tề, có một chàng tên là Tân Ti Tụ, đêm nằm mơ thấy một người to lớn mặc quần gai, áo vải, đội mũ trắng, đi giầy mới, đeo thanh gươm, tự dưng vào tận nhà, rồi nhổ vào mặt.

Chàng ta giật mình, sực tỉnh dậy, tuy biết là chuyện chiêm bao, nhưng chàng ta vẫn tức, ngồi suốt đêm, lấy làm bực bọc khó chịu.

Sáng hôm sau, chàng ta mời một người bạn thân đến và nói rằng: “Bác ơi! Từ thuở bé đến giờ tôi vẫn là người hiếu dũng, đến nay đã 60 tuổi, chưa hề phải đứa nào làm nhục bao giờ. Thế mà đêm qua bị một đứa nó làm nhục, tôi định tìm kỳ được đứa ấy, báo thù mới nghe. Nếu tôi tìm thấy nó thì hay, nếu tôi không tìm thấy, thì tôi chết mất.”

Rồi từ hôm đó, sáng nào chàng ta cũng cùng người bạn ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình đã ba ngày mà không thấy, chàng ta về nhà uất lên mà chết.

46. Làm chủ tinh thần

J. Frank Whaley đã thuật truyện của Ông như sau:

Vì ưu phiền quá, ông bị bệnh thần kinh suy nhược và ông đâm ra lo lắng sợ sệt tất cả mọi hoàn cảnh của đời ông. Ông ngờ rằng, ông mắc trăm ngàn chứng bệnh: đau bao tử, đau tim, ung thư, và kết cục ông phải bỏ sở làm. Ông coi như mọi người đã bỏ ông, ông định đi tự vẫn, nhưng sau ông đã bỏ ý định quyên sinh và tới Floride đổi gió, hy vọng tình trạng sẽ khá hơn. Trước khi ông đi, ba ông trao cho ông một bức thơ, bảo tới Floride hãy mở ra coi. Tới Floride, ông vẫn cảm thấy ưu phiền, đau khổ, bệnh tình coi như không thuyên giảm, mà càng tầm trọng thêm.

Mở bức thư của ba ra xem, ông đọc thấy mấy dòng chữ:

“Con, con đang ở xa nhà tới 1.500 dặm, bệnh tình không thấy khác chi! Ba biết vậy, chính con đã làm cho con bệnh… Thân xác cũng như tâm hồn con không có bệnh gì. Tình thế và hoàn cảnh cũng không khiến con đau, con đau là vì con đã tự tạo ra ý nghĩ đó, hễ con nhận thức được sự thực sau đây, thì con sẽ hết bệnh: Trong lòng ta suy nghĩ làm sao thì ta như vậy.”

Đọc thư của ba ông, ông càng tức giận, vì chẳng những ba ông không an ủi mà còn thuyết giáo viển vông. Ông giận tới mức quyết định không khi nào trở về nhà nữa.

Thế rồi ông đi lang thang ban đêm trong các đường phố, và rồi ông tới một nhà thờ, đang cử hành lễ. Tò mò, ông vào nghe giảng, trong bài giảng có câu: “Chinh phục được tinh thần mình, còn quan trọng hơn là chinh phục được một châu thành.” Câu nói đó hoàn toàn phù hợp với tư tưởng diễn tả trong bức thư của ba ông. Và ông bắt đầu nhận thức sự quan trọng của tư tưởng. Phải thay đổi đầu óc mình, đừng bắt mọi vật trong vũ trụ thay đổi theo ý nghĩ của mình. Đầu óc ta có gì khác chiếc máy chụp, nếu nó hư thì hình ảnh của mọi vật đều hư, thật ra vạn vật ở ngoài có gì khác đâu.

Nghĩ thế, sáng hôm sau, ông vội vàng thu xếp về nhà. Ông cố gắng xua bỏ những ý nghĩ bi quan, nuôi dưỡng những ý nghĩ lạc quan, luyện tập cách làm chủ tinh thần mình, bệnh tình ông biến mất, và nhờ việc huấn luyện lại tư tưởng, ông bắt đầu sống khỏe mạnh, sung sướng.

47. Điều cần thay đổi

Ngày xưa, có một ông vua đi ngao du sơn thủy. Sau một chuyến đi dài trên những con đường gồ ghề, lởm chởm đá, vua thấy rất đau chân. Khi trở lại hoàng cung, vua ra lệnh trải da trên mọi con đường cả nước, một công việc cần đến hàng ngàn bộ da bò và rất nhiều công của.

 Vợ của một anh lính hầu đề nghị với nhà vua: “Xin nhà vua dùng một miếng da nhỏ mà bọc chân ngài lại, để khỏi tốn kém một số tiền lớn và nhiều công sức của toàn dân như thế.”

Nhà vua ngạc nhiên nhưng rồi cũng đồng ý, và đôi giày ra đời.

Hạnh phúc không ở đâu xa mà đã được Chúa đặt ngay nơi bản tính con người khi dựng nên họ giống hình ảnh Ngài. Vì thế, điều cần thay đổi không phải là cả thế giới hay bất cứ một điều kiện sống nào mà là chính tâm hồn con người, để nên phù hợp với thánh ý Chúa: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2).

48. Lịch sự một cách bất lịch sự

Một người da trắng bị bắt bởi một nhóm thổ dân ăn thịt người. Ông bị điệu tới trước mặt tù trưởng của họ trước khi bị đem đi nướng. Rất bất ngờ khi nghe vị tù trưởng nói tiếng Anh lưu loát với các dấu nhấn hoàn hảo theo phong cách Harvard, ông hỏi:

“Thưa ngài, chắc chắn là ngài đã từng học ở Harvard, thế những năm đó đã không đem lại sự thay đổi nào nơi ngài sao?”

“Ồ, có chứ. Họ đã làm ta thành người văn minh hơn. Sau khi nướng ngươi, ta sẽ vận y phục ăn tối vào và sẽ xơi ngươi bằng dao và nĩa.” (Anthony de Mello)

Các việc đạo đức, các bài giáo lý và Lời Chúa đem lại thay đổi gì trong tâm hồn tôi?

49. Cội nguồn của sự dữ

Có một trò chơi trẻ em thật giản dị nhưng cũng thật ý nghĩa: cầm một củ đậu phộng đoán thử bên trong hạt đậu chắc hay lép. Đối với hạt đậu non, vỏ bên ngoài còn trơn láng thì thật dễ đoán. Còn đối với hạt đậu già, vỏ bên ngoài đã sần sùi lên thì chỉ có bóc vỏ ra mới biết được.

Con người cũng vậy, nhìn từ bên ngoài thì không thể đánh giá đúng phẩm chất của họ, phải thấy được động lực thúc đẩy chúng từ cõi thâm sâu của tâm hồn. Chính vì thế, những hạt đậu dù vỏ bọc bên ngoài đẹp đẽ nhưng hạt giống bên trong lép xẹp thì nếu có mọc lên thì cũng chỉ là những cây đậu èo uột mà thôi. Và cũng tương tự như thế mọi sự xấu xa, tội ác trên đời này như đố kỵ, tham lam, thù ghét, kiêu ngạo… đều từ những dục vọng đen tối ở tận đáy tâm hồn người ta xuất phát ra.

50. Lòng người phát sinh điều xấu

Tổng thống Franklin Delano Roosevelt rút tỉa được nhiều điều hữu ích từ câu truyện sau: Có hai người culi Trung quốc tranh cãi lớn tiếng với nhau trên một đường phố đông người. Sau khi quan sát một lúc, một du khách tỏ ra ngạc nhiên vì không thấy họ đánh nhau. Người hướng dẫn giải thích: “Đó là vì kẻ tấn công trước nhận rằng anh ta hết ý. Và cả hai đã quá kiêu hãnh không muốn nhìn nhận điều đó.”

Đâu là điển hình của sự kiêu hãnh tốt hoặc không tốt trong đời tôi?

Cũng như mặt trăng, sự kiêu hãnh của con người có hai mặt, mặt sáng và mặt tối. Mặt sáng hệ tại nhìn nhận danh dự bản thân một cách trung thực. Mặt tối hệ tại đề cao giá trị bản thân một cách quá đáng, không đáng trọng.

51. Giữ luật bởi lòng mến - Tôi Không Bao Giờ Nói Dối

Mahamat Gandhi là người luôn tự hào: “Tôi không bao giờ biết nói dối”. Quả thực, dù là một nhà chính trị, đối với phe nghịch, ông không hề nói dối để thủ lợi cho mình. Khi ông hứa điều gì thì kể như đã được thực hiện.

Người ta kể rằng sở dĩ Gandhi có được đức tính ấy là nhờ sự dạy dỗ khéo léo của người Mẹ. Một hôm Gandhi ở trường về, vì sợ mẹ quở mắng, ông nói dối mẹ một việc nhỏ. Nhưng bà mẹ biết, nên ngày hôm đó bà nhất định bỏ cơm. Gandhi đã hết lời cầu khẩn nhưng mẹ vẫn nhất định không chịu ăn. Cuối cùng mẹ ông giải thích:

– Thà mẹ thấy con chết còn hơn là thấy con nói dối. Vì nói dối là tỏ ra con có một tâm hồn khiếp nhược. Sinh ra con như thế là một nỗi nhục cho mẹ. Mẹ không muốn sống nữa. Gandhi liền dũng cảm đi vào nhà bếp lấy một cục than hồng để trên bàn tay và nói:

– Con thề với mẹ, suốt đời con sẽ không bao giờ nói dối nữa. Bà mẹ mừng quá, ôm con vào lòng, vừa khóc vừa nói:

– Có như thế mẹ mới đủ can đảm để sống với con.

Từ  đó, Gandhi không bao giờ thất hứa với mẹ. Ông thường kể: Vết sẹo trên tay tôi là hình bóng của mẹ tôi, nó không bao giờ rời khỏi tôi. Ðó là vị thần phù hộ cho tôi luôn sống ngay thẳng và trọng danh dư.

52. Nhà thờ cho người da màu

Trong quyển tự thuật, Mahatma Gandhi, cha đẻ của chủ trương tranh đấu bất bạo động và là người đã giải phóng Ấn Ðộ khỏi ách thống trị của người Anh, đã kể lại rằng: Trong những ngày còn làm sinh viên, ông đã đi lại khá nhiều tại Nam Phi. Ông đã say mê đọc kinh thánh và vô cùng cảm kích về bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Chính Tám Mối Phúc Thực đã gợi hứng cho chủ trương tranh đấu bất bạo động của ông.

Mahatta Gandhi xác tín rằng Kitô giáo là giải pháp cho mối ung nhọt phân chia giai cấp đang đục khoét xã hội Ấn từ bao thế kỷ qua. Ông đã nghĩ đến chuyện gia nhập vào Giáo Hội. Thế nhưng, ngày nọ, khi đến nhà thờ để dự lễ và đón nhận một vài lời chỉ dẫn, ông đã thất vọng: Ông vừa vào đến cửa nhà thờ thì những người da trắng chận ông lại và nói với ông rằng nếu ông muốn tham dự thánh lễ thì hãy tìm đến một nhà thờ dành riêng cho người da màu.

Mahatma Gandhi đã ra khỏi nhà thờ và ông đã không bao giờ trở lại bất cứ nhà thờ nào nữa.

Câu chuyện trên đây của Mahatma Gandhi đáng cho chúng ta suy nghĩ: vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta cũng có thể là một chướng ngại vật ngăn cản nhiều người muốn tìm đến với Giáo Hội. Một lời nói, một cử chỉ, một cách sống, nếu đi ngược lại với tinh thần của Tin Mừng, đều có thể là một cách xua đuổi người khác ra khỏi nhà thờ.

CNTN 22C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ HAI - TIN MỪNG CỦA CHÚA GIÊSU

Lời Chúa: Lc 4, 16-30

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về Nadarét, nơi Người sinh trưởng, và theo thói quen của Người, thì ngày Sabbat, Người vào hội đường. Người đứng dậy để đọc sách. Người ta trao cho Người sách tiên tri Isaia. Mở sách ra, Người gặp ngay đoạn chép rằng: "Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì Ngài xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, thuyên chữa những tâm hồn sám hối, loan truyền sự giải thoát cho kẻ bị giam cầm, cho người mù được trông thấy, trả tự do cho những kẻ bị áp bức, công bố năm hồng ân và ngày khen thưởng."

Người gấp sách lại, trao cho thừa tác viên, và ngồi xuống. Mọi người trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói với họ: "Hôm nay ứng nghiệm đoạn Kinh Thánh mà tai các ngươi vừa nghe." Mọi người đều làm chứng cho Người và thán phục Người về những lời từ miệng Người thốt ra, và họ nói: "Người này không phải là con ông Giuse sao?"

Và Người nói với họ: "Hẳn các ngươi sắp nói cho Ta nghe câu ngạn ngữ này: "Hỡi thầy thuốc, hãy chữa lấy chính mình"; "điều chúng tôi nghe xảy ra ở Capharnaum, ông hãy làm như vậy tại quê hương ông." Người nói tiếp: "Ta bảo thật các ngươi, không một tiên tri nào được đón tiếp tại quê hương mình. Ta bảo thật các ngươi, đã có nhiều bà goá trong Israel thời Êlia, khi trời bị đóng lại trong ba năm sáu tháng, khi nạn đói lớn xảy ra khắp trong xứ; dầu vậy, Êlia không được sai đến cùng một người nào trong các bà đó, nhưng được sai đến bà goá tại Sarepta thuộc xứ Siđon. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Êlisêô, thế mà không người nào trong họ được lành sạch cả, ngoại trừ Naaman, người Syria."

Khi nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy căm phẫn, họ chỗi dậy và trục xuất Người ra khỏi thành. Họ dẫn Người lên triền núi, nơi xây cất thành trì của họ, để xô Người xuống vực thẳm. Nhưng Người rẽ qua giữa họ mà đi.

TRUYỆN KỂ

1. Tình yêu giải thoát

Một linh mục truyền giáo tại Uganđa ở châu Phi, kể chuyện việc đi dự thánh lễ ngày Chúa nhật một cách kỳ lạ như sau: Hai vợ chồng Benedetto và Filomena bị mù. Họ sống cạnh một thiếu nữ bị bại hai chân, tên là Formosa. Mỗi sáng Chúa nhật, ba người này đi dự thánh lễ tại nhà thờ cách xa hai cây số.

Cách họ đi dự lễ như sau: Formosa thấy đường nhưng không đi được, nên phải bò hai tay. Filomena đui, đi sau Formosa, cầm chân của Formosa lên. Còn Benedetto thì vừa vịn vào vai vợ, vừa đi. Cả ba người, hai đui, một bại, giúp nhau đi dự thánh lễ mỗi ngày Chúa nhật như vậy!

2. Tránh thành kiến với người khác

Một hôm cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh tỏ vẻ khinh và nói: “Dở lắm." Hôm sau, cậu bé lại đem cho cha một sáng tác mới. Ông thân sinh cũng bĩu môi nói: “Thơ mày là thơ thẩn."

Tagore mới nghĩ ra kế sách. Cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và ghi xuất xứ là trích trong cuốn thơ cổ. Cậu ta lại quên đề tên của cuốn thơ cổ đó. Nhưng lần này ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt! Tuyệt!” Rồi đem khoe tíu tít với con trai lớn của ông hiện đang làm chủ nhiệm một tờ báo văn học: “Ba đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này."

Ông con trai chủ nhiệm đọc xong, cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen ngợi là hay đáo để và muốn trích đăng lên mặt báo của ông... Bấy giờ ông anh cũng như thân sinh đòi Tagore phải đem cuốn thơ cổ kia, để đối chiếu chứng minh và cũng dễ bề ghi xuất xứ khi đăng báo.

Đến đây câu chuyện mới vỡ lẽ ra: Có ai ngờ trên đây là một cách dàn cảnh bịa đặt của cậu Tagore. Ông thân sinh giận sôi máu lên. Nhưng rồi cũng phải nhìn con với ánh mắt thán phục và hối hận cho thái độ thành kiến của mình.

3. Hoàn cảnh không phải là số phận

Hai thanh niên lớn lên trong gia đình với một người cha nghiện rượu. Vì còn trẻ, mỗi cậu sống theo ý riêng mình.

Nhiều năm sau, một cậu trở nên người nghiện rượu không thể cải thiện. Cậu kia là người chống uống rượu. Một tâm lý gia tìm hiểu hậu quả của việc nghiện rượu gây cho những đứa trẻ trong gia đình hỏi cậu thứ nhất: “Tại sao anh trở nên người nghiện rượu?” và cậu thứ hai: “Tại sao anh trở nên người chống rượu?”

Cả hai có cùng câu trả lời: “Ông có thể mong đợi điều gì khác khi ông có người cha như tôi?”

4. Bản chất giải quyết vấn đề

Một tín đồ Ấn giáo xuống dòng sông Hằng để thanh tẩy và cầu nguyện.

Ông đang ngụp lặn giữa dòng sông, thì bỗng đâu rác rưởi tụ đến. Trong đống rác có con bò cạp đang chao đảo, chơi vơi giữa dòng nước. Sẵn lòng khoan dung, ông chìa tay ra để cứu vớt con vật. Cánh tay ông vừa đưa ra đã bị con vật chích. Nhưng ông không mất kiên nhẫn. Con vật càng hung hăng, ông càng chịu đựng để nó chích liên tiếp, miễn là cứu sống được nó.

Có người theo dõi cảnh tượng đó mới trách ông:

- Ông thật là mất thời giờ vô ích. Nó là con bò cạp, bản chất của nó chỉ là dùng nọc độc để chích thôi.

Người tín đồ Ấn giáo điềm nhiên trả lời:

- Bản chất của con bò cạp là dùng nọc độc để chích, nhưng bản chất con người là cứu vớt.

5. Vượt trên lẽ thường

tướng quân Naaman, sau khi đem quân sang đánh nước Do Thái, ông bắt được một tớ gái đem về phục vụ tại nhà ông. Thời gian sau ông bị bệnh cùi, tìm thày chạy thuốc khắp nơi nhưng tiền mất tật mang! Lúc ấy đứa tớ gái nói với ông chủ:

- Ngài cứ sang xứ chúng tôi, đến gặp vị ngôn sứ, ông ấy sẽ có lời chữa bệnh cho ngài.

Ông Naaman không chịu đi, vì ông đã đến với các thày thuốc đại tài mà còn bó tay, liệu đến với ông ngôn sứ nào chỉ nói lời mà chữa được bệnh tật sao?! Nhưng đứa tớ gái ngày ngày cứ thúc ông chủ, nghe mãi ông cũng mủi lòng đi thử coi cho biết. Mà muốn sang xứ cầu ân, thì phải làm hòa với vua ấy đã, do đó ông Naaman đến xin vua Aram cấp cho một bức thư, ông sẽ cầm qua cho vua Israel để xin chữa bệnh.

Ông Naaman lên đường cùng với lá thư và đoàn tùy tùng chở vàng bạc châu báu. Khi vua Israel đọc thư xong, ông thịnh nộ xé áo mình ra và truyền lệnh tống khứ Naaman về nước. Vì chỉ có Thiên Chúa mới chữa được bệnh cùi, chứ người phàm làm sao được? Và cho đó là âm mưu của Naaman muốn hại vua…!

Ông Naaman ra về với nỗi thất vọng, mà lòng nặng trĩu nỗi buồn miên man, những người đi theo ông, có kẻ nói:

- Thưa tướng quân, ngài đến lầm địa chỉ rồi, con bé ấy nói ngài đến nhà ông ngôn sứ nào đó.

Ông Naaman quay trở lại tìm đến nhà ngôn sứ Êlysa, ông lên tiếng xin được gặp vị ngôn sứ, nhưng đứng đợi mãi, chỉ có một đứa đầy tớ gái đi ra hỏi:

- Ông có việc gì mà đến đây.

- Tôi bị cùi, nghe nói ở đây có vị ngôn sứ chữa được bệnh đó phải không?

- Ông vui lòng chờ ở đây để con vào nhà hỏi ông chủ đã.

Một lúc sau, nó chạy ra và nói:

- Ngôn sứ bảo là: Nếu ông muốn khỏi cùi cứ đến sông Giođan ngụp xuống rồi trồi lên 7 lần là khỏi.

Nghe nói thế, ông Naaman tức cuồng lên cho quay xe về. Trên đường đi, ông nói với những người tùy tùng:

- Tưởng ông ngôn sứ cho ta toa thuốc, lại bảo đi tắm sông Giođan. Bộ quê mình không có nước sông nào sạch bằng ở đây sao?

- Thưa ngài, nếu vị ngôn sứ đó bảo ngài phải làm một việc vất vả, tốn kém gì để chữa bệnh,thì ngài vẫn phải làm, đằng này chỉ là đi tắm sông, có khó khăn gì đâu? Những người tháp tùng ông nói.

Nghe có lý, ông liền quay lại đến tắm sông Giođan, và quả nhiên sau khi ngụp, trồi 7 lần, da thịt ông trở nên trắng nõn như da con nít. Ông mừng quá, trở lại nhà ngôn sứ với vàng bạc châu báu để tạ ơn, nhưng vị ngôn sứ không nhận và bảo:

- Chúa đã chữa bệnh cho ông chứ không phải tôi.

Ông Naaman thưa với ngôn sứ Êlysa:

- Tôi quyết từ nay chỉ thờ Thiên Chúa của ngài, vậy xin ngài cho tôi ít đất để tôi lập bàn thờ kính Thiên Chúa! (x 2 V 5).

6. Tác động của Tin Mừng

“Tin Mừng đem lại sự tha thứ cho quá khứ, đời sống mới cho hiện tại, và hy vọng cho tương lai” (J. Sentamu). Một kinh nghiệm ta có thể đã trải qua: quá khứ mình đầy những lỗi lầm; đời sống hiện tại thường là những bổn phận, việc làm đơn điệu, buồn tẻ; tương lai lại là những gì bấp bênh, mờ mịt, nằm ngoài tầm với của mình. Tin vào Đức Giê-su, đón nhận Tin Mừng của Ngài không làm thay đổi hoàn cảnh sống ngay lập tức, nhưng đem lại cho ta một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời. Rồi từ cái nhìn mới mẻ ấy, đời sống ta sẽ dần dà chuyển biến tích cực. Máu Đức Giê-su đổ ra để tẩy xóa tội ta; sự sống lại của Ngài đem lại ý nghĩa cho cuộc sống hiện tại của ta; và sự sống vĩnh cửu là niềm hy vọng của ta.

 “Xin các bạn ghi nhớ điều này: không thể loan báo Tin Mừng của Đức Giê-su nếu không là chứng tá có thể đụng chạm được trong cuộc sống” (ĐGH Phanxicô).

7. Sống theo Thần Khí

Một nhóm bạn trẻ ở giáo xứ Fairbanks (Mỹ) đi dự WYD08 (Đại hội Giới Trẻ thế giới) ở Sydney (Úc). Điều lệ của nhóm là bỏ điện thoại di động và ipod (máy nghe nhạc cá nhân) ở nhà. Anh trưởng nhóm nói: “Chúng ta phải bỏ những thứ kỹ thuật cao ấy ở nhà, để có thời gian suy nghĩ xem chúng ta đến Sydney để làm gì.”

Một thành viên 16 tuổi chia sẻ: Điều lệ này như cơn ác mộng với em, nhưng sau vài ngày sinh hoạt chung vui vẻ, em cảm thấy không cần những vật dụng ấy nữa. Để đón nhận Thần Khí, cả nhóm phải chấp nhận từ bỏ và mở rộng cõi lòng để Thần Khí có đất dụng võ. Cơ bản của việc từ bỏ là loại trừ cung cách sống theo tính xác thịt vốn đối nghịch với Thần Khí. Mở rộng cõi lòng qua thái độ tích cực sẵn sàng vâng theo sự hướng dẫn của Ngài.

8. Đức tin nhận biết

Trong tác phẩm nổi tiếng “Anh em nhà Karamazov” của Feodor Dostoievski có đoạn mô tả một phụ nữ già. Người này tự hỏi: “Có Thiên Chúa không? Có cuộc sống đời sau không?” Khi bà thổ lộ những nghi ngờ của mình cho cha Zossima, cha cố bảo bà: “Không có cách nào chứng minh, nhưng con có thể khẳng định những điều đó.” Bà ta kêu lên: “Nhưng bằng cách nào?” Cha cố đáp: “Hãy yêu thương anh em tự đáy lòng. Càng yêu thương anh em con càng chắc chắn về sự hiện hữu của Thiên Chúa và cuộc sống đời sau. Càng yêu thương, niềm tin của con càng mạnh mẽ và sự nghi ngờ của con càng yếu đi. Đó là điều chắc chắn. nó đã được thử và đã ứng nghiệm.”

Tôi giải thích thế nào về lời khuyên của cha Zossima? Tôi theo lời khuyên đó ra sao?

Lạy Chúa, xin cho con niềm tin để con giúp người khác tìm thấy nó. (Leo Tolstoi)

THỨ BA - CHÚA GIÊSU GIẢI PHÓNG NGƯỜI BỊ QUỶ ÁM

Lời Chúa: Lc 4, 31-37

Khi ấy, Chúa Giêsu xuống thành Capharnaum, xứ Galilêa, và ở đó Người giảng dạy họ trong các ngày Sabbat. Người ta bỡ ngỡ về giáo lý của Người, vì lời giảng dạy của Người có uy quyền. Bấy giờ trong hội đường, có một người bị quỷ ô uế ám, thét to lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, giữa chúng tôi và Ngài có chuyện chi đâu? Ngài đến tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết Ngài là ai rồi, là Đấng Thánh của Thiên Chúa." Nhưng Chúa Giêsu trách mắng nó rằng: "Hãy câm đi và ra khỏi người này." Và quỷ vật ngã người đó giữa hội đường và xuất khỏi nó, mà không làm hại gì nó.

Mọi người kinh hãi và bảo nhau rằng: "Lời gì mà lạ lùng vậy? Vì Người dùng quyền năng mà ra lệnh cho các thần ô uế, và chúng phải xuất ra." Danh tiếng Người đồn ra khắp nơi trong xứ.

TRUYỆN KỂ

1. Lời nói và cuộc sống

Ðược bầu làm Bề trên cộng đoàn, một tu sĩ nọ đến hỏi một vị ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và thánh thiện: - Thưa cha, thế nào là một bài giảng hay?

Vị ẩn sĩ trả lời: - Một bài giảng hay phải là bài giảng có nhập đề và kết luận hay, nhất là phần nhập đề và kết luận càng gần nhau càng tốt.

Phép lạ của Chúa Giêsu cũng là một lời giảng dạy. Thật thế, sứ điệp trọng tâm trong lời rao giảng của Chúa Giêsu chính là sự giải phóng. Ngài không chỉ nói về sự giải phóng, mà còn chứng thực cho những người nghe Ngài biết được thế nào là giải phóng. Phép lạ người câm được giải thoát mang một ý nghĩa đặc biệt đối với Chúa Giêsu: giải phóng trước tiên là giải phóng con người khỏi xiềng xích của dối trá. Chúa Giêsu đã có lần nói với người Do thái: "Sự thật sẽ giải phóng các ngươi."

2. Đấng giảng dạy đầy uy quyền

Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu có lập trường rõ ràng khi nghe giảng Lời Chúa: “Chúng ta chỉ có một việc là chăm chú nghe linh mục giảng."

Đức Giáo hoàng, Đức Giám mục, Linh mục là những người thay mặt Chúa để giảng Lời Chúa. Vì thế, khi nghe giảng Lời Chúa, chúng ta đừng để ý đến ai giảng, nhưng hãy chú tâm vào việc nghe Lời Chúa được rao giảng mà thôi.

3. Giảng bằng đời sống

Một lần nọ, khi đi ăn với vài người bạn ở nhà hàng, tôi làm Dấu Thánh Giá theo thói quen. Hành động của tôi lọt vào mắt của họ. Ngay tức khắc, họ xôn xao bàn tán và hỏi: “Bạn làm gì đó, vẽ bùa hả?” Tôi cười và đáp: “Mình làm Dấu Thánh Giá." Sau đó, tôi giải thích cặn kẽ ý nghĩa và giá trị cao quí của Dấu Thánh Giá. Thế là họ hiểu ra và không bàn tán nữa. Từ đó, mỗi lần đi ăn với họ, khi tôi làm Dấu Thánh Giá, họ im lặng tôn trọng.

Nhiều người tín hữu hôm nay xem nhẹ những kiểu tuyên xưng đức tin đơn giản như thế. Có lẽ vì họ ngại ngùng trước cái nhìn soi mói của người khác, hoặc sợ bị coi là lạc hậu, cổ hủ, hay mê tín, thậm chí, họ sợ bị “khen” là con chiên ngoan đạo nữa.

Tuy nhiên, với người yêu mến Thiên Chúa đích thực, việc tuyên xưng danh Chúa lại là một niềm tự hào: Tự hào vì có Chúa trong mình, tự hào vì là con cái Chúa (Học viện Đa Minh).

4. Tìm người để phụng sự

Christophe là một người có vóc dáng cao lớn vạm vỡ. Vốn dĩ sinh ra trong một gia đình không Công giáo. Chàng chỉ ấp ủ một hoài bão lạ lùng là tìm cho được một vị quân vương cao cả nhất để tuyệt đối tuân lệnh và phụng sự suốt đời.

Thế rồi chàng tìm gặp được một vị vua có tiếng là oai phong lẫm liệt nhất trong vùng. Chàng vui mừng vì ngỡ đã tìm được minh chủ theo ước nguyện. Nhưng rồi không ngờ, một hôm, chàng đã vô tình bắt gặp nhà vua ấy đang run rẩy quỳ lạy tại một đền miếu thờ quỷ thần.

Chàng liền bỏ đi ngay lập tức, với quyết tâm sẽ tìm được một ma vương quỷ thần nào đó có đủ quyền phép để theo làm nô lệ. Tức khắc, ma quỷ hiện ra và dẫn dụ chàng rảo bước khắp cánh đồng mênh mông rộng lớn.

Bất chợt, ma quỷ giáp mặt với một cây Thập Giá dựng lên sừng sững ở một ngã tư đường ruộng theo phong tục của người dân Công giáo vùng ấy. Ma quỷ hoảng sợ, lấm lét nhìn Thập Giá rồi bỏ chạy mất dạng!

Chàng trai thấy vậy, liền dứt khoát từ bỏ không thèm theo ma quỷ nữa, mà đứng lại trước Thập Giá, ngắm nhìn pho tượng Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đó thật lâu, rồi chàng quyết tâm từ nay sẽ đi theo.

Tình cờ có một Linh Mục quản xứ nhà quê đi qua, Ngài dừng lại, cảm động trước lời thề nguyền ngây thơ và hồn nhiên của một chàng trai vạm vỡ to cao như thế, cha bước lại gần và bắt chuyện hỏi han sự tình.

Sau một thời gian ngắn, chàng trai chất phác mộc mạc ấy đã xin cha cho học đạo và chịu bí tích Thánh Tẩy. Sau này, Christophe đã phụng sự Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, để rồi khi cuộc bách đạo tràn đến, chàng đã được phúc chết vì đạo để chứng minh cho mối tình thắm thiết và thủy chung của mình với Thiên Chúa.

Ngày nay, Giáo Hội tại một số quốc gia Châu Âu vẫn mừng lễ Thánh Christophe vào ngày 25 tháng 7 hằng năm, để nêu một tấm gương theo Chúa và phụng sự Chúa trọn vẹn cả cuộc đời.

5. Rao giảng bằng cả cuộc sống

Nhận thấy rằng rao giảng bằng lời nói suông chưa đủ, Weizemann, thần học gia, mục sư, nhạc sĩ, bác sĩ đã dấn thân phục vụ những người nghèo nhất ở Châu Phi. Làm việc không biết mệt mỏi, trải qua bao nhiêu khó khăn, nhưng Weizemann vẫn không bao giờ mãn nguyện vì những hy sinh của mình.

Năm 1952 khi được trao giải thường Nobel hòa bình, ông đã tuyên bố: “Không ai có quyền tự phụ mình đã phục vụ cho hòa bình quá nhiều, cũng không ai có quyền nói rằng mình đã mãn nguyện." Gương phục vụ của Weizemann là một cố gắng họa lại cuộc đời Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ rao giảng chỉ bằng lời nói, nhưng luôn kèm theo hành động, gương sáng và cả cái chết nữa.

6. Uy quyền trong lời giảng

Ngài không cần dựa vào một uy quyền nào khác để nâng đỡ Ngài. Ngài không sử dụng một loại uy quyền ủy nhiệm nào. Chính ngài là uy quyền nhập thể. Đây là một sự mới mẻ. Đây là một người nói điều mình chắc chắn biết rõ.

Trong mọi lãnh vực của đời sống, nhà chuyên môn bao giờ cũng tỏ ra có uy quyền. Một nhạc sĩ kể rằng khi Toscanini bước lên bục chỉ huy, dường như uy quyền toát ra từ ông và cả dàn nhạc cảm thấy uy quyền đó. Khi cần một lời chỉ giáo chuyên môn thì chúng ta tìm đến một chuyên gia và chúng ta tin lời ông ta nói. Chúa Giêsu là một nhà chuyên môn về đời sống. Khi Ngài nói, người ta biết rằng lời Ngài vượt quá sự khôn ngoan của loài người vì Ngài chính là Thiên Chúa.

7. Chấm đỏ uy quyền

Ngày xưa, có lần Napoléon cầm tấm bản đồ, chỉ tay vào nước Anh, nói với đám thủ hạ:

- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục trọn thế giới rồi.

Ma quỷ cũng chỉ tay vào Thập Giá và nói:

- Nếu không có chấm đỏ này, ta đã chinh phục cả thế giới rồi.

Như vậy, muốn thắng ma quỉ, chúng ta phải chạy đến với Chúa.

8. Quyền lực của Chúa Giêsu

Một chương trình truyền hình bàn luận về việc thực hiện bộ phim “Siêu nhân.” Một thành viên trong đoàn làm phim nổi giận khi nghe tài tử Marlon Brando đòi quá nhiều tiền thù lao, mặc dù anh ta chỉ xuất hiện giây lát trong một tập thơ của bộ phim. Nhưng sự giận dữ đã trở nên lời ca ngợi khi nhìn thấy ngay sức tác động của Brando trên cử tọa. Chúa Giêsu cũng có một sức mạnh tương tự và còn mạnh mẽ hơn để lay chuyển lòng người và khử trừ những xấu xa ra khỏi con người.

Đâu là khuynh hướng xấu trong tôi mà tôi muốn được Chúa Giêsu chữa trị hặc khử trừ khỏi tôi?

Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Thiên Chúa sẽ đến cứu anh em.”

9. Sức mạnh của Tin Mừng

Một linh mục kể câu chuyện thú vị như sau: “Mới hôm nào ở chợ Bến Thành Sài Gòn, có một người phong xin ăn. Anh này dữ lắm, không vừa ý ai là anh cắn. Riết rồi ai cũng sợ và không dám đến gần anh. Cuối cùng, cảnh sát báo trạm Da liễu. Được tin ấy, dì đến tận nơi và nhận ra đó là một người bệnh bỏ trại. Dì đến nắm tay anh nói: “Trời ơi, sao anh lại ở đây? Lên xe rồi về với dì!” Anh ngoan ngoãn như một chú chiên con. Mọi người thấy vậy hỏi nhau: “Bà này là ai vậy?” Bà ấy chính là nữ tu Maria Regina Phạm Thị Ngọc Loan (+21.7.93) mà các bệnh nhân phong thân thương gọi là Dì Hai Bến Sắn. Ngày xưa người ta cũng đã kinh ngạc về Đức Giêsu: “Ông này là ai vậy?” Người đương thời ngạc nhiên về Lời nói đầy uy quyền của Đức Giêsu, về chính Ngài, Đấng là Tin Mừng, cũng như người ta ngạc nhiên về chị Maria Ngọc Loan, âm vang của Tin Mừng.

Cũng hãy có thái độ kinh ngạc về Lời nói đầy uy quyền, đầy sức mạnh của Đức Giêsu. Bạn hãy để Lời Ngài biến đổi đời bạn, khiến người lân cận cũng ngạc nhiên về lối sống của bạn, lối sống âm vang của Tin Mừng.

Để là âm vang của Tin Mừng, tôi sẽ tập sống hiền hoà và nhiệt thành trong việc phục vụ anh em.

THỨ TƯ - TIẾP TỤC RAO GIẢNG TIN MỪNG

Lời Chúa: Lc 4, 38-44

Khi ấy, Chúa Giêsu chỗi dậy ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon. Nhạc mẫu ông Simon phải cơn sốt nặng, và người ta xin Người chữa bà ấy. Người đứng bên bà, truyền lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến khỏi bà. Tức thì bà chỗi dậy, và dọn bữa hầu các ngài.

Khi mặt trời lặn, mọi người có bệnh nhân đau những chứng bệnh khác nhau, đều dẫn họ đến cùng Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân, và chữa họ lành. Các quỷ xuất khỏi nhiều người và kêu lên rằng: "Ông là Con Thiên Chúa." Nhưng Người quát bảo không cho chúng nói, vì chúng biết chính Người là Đức Kitô.

Đến sáng ngày (hôm sau), Người ra đi vào hoang địa, dân chúng liền đi tìm đến cùng Người, họ cố cầm giữ Người lại, kẻo Người rời bỏ họ. Người bảo họ rằng: "Ta còn phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa cho những thành khác, bởi chính vì thế mà Ta đã được sai đến." Và Người giảng dạy trong các hội đường xứ Giuđêa.

TRUYỆN KỂ

1. Mến Chúa Và Yêu Người

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm thủ đô San José của Costa Rica để thánh hiến Vương cung thánh đường Đức Mẹ Nữ Vương Hoà Bình do Tổng thống nước này xây cất và dâng tặng Toà thánh. Vương cung Thánh Đường này được mô phỏng theo mô hình Vương cung Thánh Đường Thánh Phêrô ở Rôma. Ngôi giáo đường vĩ đại này có thể chứa được 8000 chỗ ngồi và 10.000 chỗ đứng. Người ta không biết để xây cất ngôi thánh đường này kinh phí phải tốn bao nhiêu? Nhưng Tổng thống cho biết mọi chi phí đều do gia đình ông đài thọ.

Nhiều người ca tụng gia đình ông là hào hiệp đạo đức nhưng cũng không ít người đặt vấn đề: giữa lúc dân chúng Costa Rica sống trong cảnh nghèo nàn lạc hậu như thế mà gia đình ông giàu có đến như vậy thì việc làm của gia đình ông có đúng hay không? Thậm chí còn có người chất vấn ông:

- Tại sao không dùng số tiền ấy để xây trường học, đẩy mạnh công cuộc phát trển có lợi cho dân nghèo?

Ðức Thánh Cha đã đến thánh hiến Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình nhưng đồng thời cũng kêu gọi tổng thống Kufues quan tâm tới công tác giáo dục và xã hội cho dân nghèo. Do đó, tổng thống Kufues đã tặng cho Giáo Hội một khu đất gần nhà thờ để thiết lập một bệnh viện cho người nghèo.

Ðức Thánh Cha đã thánh hiến ngôi giáo đường nguy nga nhưng đồng thời cũng đặt viên đá đầu tiên để xây cất bệnh viện. Cử chỉ này mang một ý nghĩa tượng trưng cao độ, nó nói lên mối quan tâm của Giáo Hội đối với vấn đề phát triển toàn diện con người.

2. Chữa Trị Bệnh Tật

"Chúng ta hãy làm một cái gì tốt đẹp cho Thiên Chúa" đó là lời phát biểu của Mẹ Têrêsa Calcutta để gián tiếp chấp nhận lời yêu cầu của một số ký giả và những người làm phim muốn làm một cuốn phim tài liệu trình bày những công việc từ thiện do Mẹ và các Nữ tu Dòng Thừa sai bác ái thực hiện. Từ mấy chục năm nay, tinh thần và tình yêu của Mẹ Têrêsa đối với những người đau khổ bệnh tật đã được lan ra khắp nơi trên thế giới, như một tiếp tục công tác chính Chúa Giêsu đã thực hiện mà chúng ta có thể đọc thấy trong Tin Mừng hôm nay.

Thuật lại biến cố Chúa Giêsu chữa bệnh bà mẹ vợ ông Simon và nhiều người khác, thánh sử Luca ghi lại: "Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người nhà đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, tật nguyền, đều đưa tới Ngài. Ngài đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa lành họ."

3. Được chữa lành và phục vụ

Soeur Marie Simon Phêrô, dòng Tiểu Muội bảo sanh viện (Công giáo Congrégation des Petites Soeurs des Maternités) tại nước Pháp mang bệnh Parkinson, cùng một loại bệnh mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II mắc phải. Soeur đã không đi đứng được, thân mình đau nhức và hai tay bị run đến nỗi không cầm bút viết được nữa. Mẹ bề trên đề nghị chị hãy cầu nguyện và viết tên của Đức Gioan Phaolô II lên một mảnh giấy, theo bà “vì ngài cũng mắc chứng bệnh Parkinson này, nên soeur cảm thấy có một mối liên hệ mật thiết với ngài." Soeur đã cố gắng nhưng chữ viết chỉ nguệch ngoạc không đọc được. Các chị em trong dòng đã cầu nguyện không ngừng cho Soeur qua lời bầu cử của Đức Gioan Phaolô II.

Hai tháng sau khi Đức Gioan Phaolô trở về nhà Cha, một buổi sáng chị thức dậy lúc 4h30 sáng, đi ra khỏi giường thì không còn đau đớn. Chị rất ngạc nhiên khi thấy những chữ mình viết ra rất dễ đọc. Buổi sáng hôm sau, Soeur nhảy ra khỏi giường: Bệnh Parkinson đã biến mất, một việc kỳ lạ được kiểm chứng và xác nhận bởi một nhóm các bác sĩ y khoa tại địa phương. Soeur Marie Simon Phêrô, bây giờ đang làm việc tại một bệnh xá ở Paris…

4. Phải cộng tác với Chúa

Đức cha Tihamer Toth kể: Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư hơn, nhưng càng bớt cầu nguyện đi. Khi được hỏi lý do thì người học trò đáp:

- Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng vĩnh cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.

Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã, người học trò hỏi:

- Tại sao thầy buồn thế?

- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.

- Bộ ông ta khùng ư?

- Không đâu. Ông còn khôn nữa là khác. Ông nói: Thiên Chúa yêu thương vô cùng, Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần, thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu dư đầy.

- Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?

- Thì con cũng thế thôi.

5. Bây giờ con đã tin là có Chúa

Tại một xứ nhỏ ở miền quê nước Pháp, có một người đàn ông ngoài 50 tuổi bị chứng bất toại. Chân không đi đứng gì được và hai tay cũng không làm gì được hơn. Suốt ngày ông chỉ biết than thân trách phận. Mặc dù ông không phải là người công giáo nhưng cha sở thỉnh thoảng đến thăm ông và mời gọi nhiều người đến thăm, chia sẻ và giúp đỡ ông. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện đến chăm sóc ông. Mỗi chúa nhựt có một thiếu nhi đến đọc truyện cho ông nghe, kể chuyện vui cho ông bớt cô đơn. Sau một thời gian, ông xin lãnh bí tích Thánh Tẩy. Ông nói: “Thưa cha, trước đây con không tin có Chúa, nhưng từ ngày con được cha đến thăm, được bác sĩ giúp đỡ, các em giúp vui, con cảm thấy như mình đã gặp được Thiên Chúa, và chính Chúa đã gởi cha, bác sĩ và các em đến với con và bày tỏ tình thương đối với con. Con tin như thế."

Lạy Chúa, xin cho con biết đem niềm vui của Tin Mừng đến với mọi người, luôn cảm thấy được thôi thúc, được sai đi. Xin cho con biết sẵn sàng lên đường khi được Chúa mời gọi.

6. Nhà truyền giáo vô danh

Một buổi họp mặt sống động được tổ chức trong một ngôi nhà thờ làng. Qua những buổi họp mặt, nhiều người đã được ơn giải thoát.

Một lần kia, sau khi giảng, vị linh mục nói:

- Ở đây có người nào gây ảnh hưởng nhất cho anh chị em trong việc giúp người khác thành một người Kitô hữu không? Có thể đó là bà mẹ, là người rao giảng, là giáo viên, là người hàng xóm của anh chị em. Tôi mong rằng, bây giờ anh chị em sẽ đứng lên và tiến đến bắt tay người nào có ảnh hưởng nhất đối với anh chị em trong việc nhận ra Đức Kitô như là Đấng cứu Độ của mình.

Ngồi bên phải vị linh mục là một bà cụ đã ngoài 75 tuổi. Bà cụ chưa bao giờ nói trước công chúng. Bà cũng không phải là một nhà giảng thuyết, hoặc một người làm việc trong nhà thờ, bà cụ chỉ là một người mẹ, một người vợ Công giáo đầy lòng tin, hết lòng tận tụy với bổn phận hằng ngày mà thôi.

Thế mà cả một chuỗi dài người cứ nối tiếp nhau tiến đến bắt tay cụ, họ nói:

- Cuộc sống âm thầm, tận tụy, đầy lòng tin của cụ, những hành động và chứng từ của cụ đối với Đức Kitô đã đưa dẫn chúng tôi đến với Đức Kitô Đấng cứu Dộ.

Thật là một đời sống tươi đẹp, thánh thiện, mà nhờ đó qua bao năm tháng, người phụ nữ Công giáo này đã đưa nhiều người đến với Chúa.

7. Chúa ra nơi thanh vắng

Catharine de Hueck Doherty đến Canada với tư cách một người tị nạn Nga. Sau khi chồng chết, bà sắp xếp việc học hành cho đứa con trai, bà đã bán đi mọi thứ và đến sống trong khu ổ chuột Toronto. Tại đây, bà phục vụ những kẻ vô gia cư bị xã hội ruồng bỏ. sau đó bà viết một cuốn sách với tựa đề “Sa mạc.” Sa mạc không có nghĩa là một nơi nào đó, nhưng là một nơi cô tịch, ở đó con người có thể cầu nguyện liên tục trong thanh vắng. Cũng như Chúa Giêsu, Catharine đã tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy gẫm.

Nhà thơ hiện đại Carl Sandburg nói: “Một trong những điều cần thiết nhất ở Mỹ, đó là khám phá ra những nơi thanh vắng tưởng tượng.” Nhận xét này khiến tôi tự hỏi: Sandburg có ý gì khi nói thế?

Cô tịch giúp chúng ta nhận ra mình là ai, còn xã hội cho ta thấy mình là gì. (Josh Billings)

8. Trái tim rộng mở

“Kitô giáo không bàn về ý tưởng, nhưng bàn về hành động được gợi hứng do tình thương” (Chân phước Ozanam). Sau khi rao giảng, Đức Giêsu rời hội đường, đi vào nhà ông Phêrô để tìm chút nghỉ ngơi, yên tịnh. Thế nhưng, khi nghe thấy tiếng kêu van nài của con người, Ngài đáp trả không chút đắn đo hay do dự. Với Ngài, nhu cầu cấp thiết của đồng loại không bao giờ là sự quấy rầy. Với Ngài, tình thương dành cho tha nhân phải được ưu tiên hàng đầu, trên cả thói quen hay sức khỏe của mình. Bà mẹ vợ của Phêrô cũng đáp trả không kém nhiệt tình: ngay sau khi được chữa lành, bà liền lo cơm nước phục vụ các ngài và gia đình. Bà hiểu rằng mình được phục hồi sức khỏe quý hơn vàng là để dùng sức khỏe ấy phục vụ những người thân cận.

Mời Bạn: “Được cứu để phục vụ” cũng phải là châm ngôn sống của bạn. Nhìn lại đời mình, bạn có thể nhận ra bao ân huệ Chúa ban: sức khỏe quý giá, khả năng quý báu, tư cách quý trọng... mời bạn tạ ơn Chúa bằng thái độ cụ thể là sử dụng chúng để phục vụ người chung quanh, noi gương mẹ vợ ông Phêrô.

9. Sử dụng món quà thời gian

Mỗi ngày ai cũng được tặng một món quà là 24 giờ hay 86.400 giây. Vấn đề là ta sử dụng món quà ấy như thế nào cho hợp lý?

Nhìn vào một ngày sống tiêu biểu của Đức Giê-su ngày xưa, ta thấy phong phú, ý nghĩa quá! Buổi sáng đến hội đường dự nghi thức, khử trừ quỷ ám cho một người. Buổi trưa về nhà ông Si-mon, chữa trị cơn sốt cho mẹ vợ của ông, rồi dùng bữa. Buổi chiều và tối tiếp tục chữa lành cho tất cả các bệnh nhân và người bị quỷ ám. Sáng sớm, đi ra nơi hoang vắng, cầu nguyện với Chúa Cha, rồi rảo đi khắp các thành phố, làng mạc loan báo Tin Mừng Nước Trời. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt ngày sống của Ngài là tấm lòng hiếu thảo với Cha, là lòng thương xót với con người.

Cha H. Nouwen mời bạn mỗi ngày đặt câu hỏi này: Ngày hôm nay tôi có đem lại an bình không? Tôi có làm cho khuôn mặt người khác nở nụ cười không? Tôi nói những lời có sức chữa lành hay để mặc cơn giận và oán thù bộc phát? Tôi có tha thứ và yêu thương không? Đây là những câu hỏi đáng nêu ra. Tôi phải tin tưởng rằng một chút tình thương tôi gieo hôm nay sẽ sản sinh nhiều hoa trái, ở đây trên thế giới này và sự sống của thế giới mai sau.

Tôi sẽ điều chỉnh lại cuộc sống, để tâm tình hiếu thảo đối với Chúa, và tấm lòng yêu thương người lân cận chi phối đời sống mình.

THỨ NĂM - KẺ CHINH PHỤC CON NGƯỜI

Lời Chúa: Lc 5, 1-11

Khi ấy, dân chúng chen nhau lại gần Chúa Giêsu để nghe lời Thiên Chúa, lúc đó Người đứng ở bờ hồ Ghênêsarét. Người trông thấy hai chiếc thuyền đậu gần bờ; những người đánh cá đã ra khỏi thuyền và họ đang giặt lưới. Người xuống một chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông đưa ra khỏi bờ một chút. Rồi Người ngồi trên thuyền, giảng dạy dân chúng.

Vừa giảng xong, Người bảo ông Simon rằng: “Hãy đẩy thuyền ra chỗ nước sâu và thả lưới bắt cá." Ông Simon thưa Người rằng: “Thưa Thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết; nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới." Các ông đã thả lưới và bắt được rất nhiều cá; lưới các ông hầu như bị rách. Bấy giờ các ông làm hiệu cho các bạn đồng nghiệp ở thuyền bên cạnh đến giúp đỡ các ông. Những người này tới, họ đổ cá đầy hai chiếc thuyền, đến nỗi những thuyền chở nặng gần chìm.

Thấy thế, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là người tội lỗi." Ông kinh ngạc và tất cả mọi người ở đó với ông cũng kinh ngạc trước mẻ cá mà các ông vừa mới bắt được; cả ông Giacôbê và Gioan, con ông Giêbêđê, bạn đồng nghiệp với ông Simon cũng thế. Nhưng Chúa Giêsu phán bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta." Bấy giờ các ông đưa thuyền vào bờ, và đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.

TRUYỆN KỂ

1. Chấp nhận chính mình

Triết gia hiện sinh Pháp Albert đã có lần nói rằng: "Con người là tạo vật duy nhất không chấp nhận là mình." Ông có ý nói rằng con người không chấp nhận những giới hạn và bất toàn của mình.

Con người luôn muốn nổi loạn để vượt qua chính mình. Sự nổi loạn ấy rõ ràng nhất là trong lĩnh vực khoa học. Những khám phá khoa học và những ứng dụng kỹ thuật ngày càng làm cho chính con người chóng mặt. Chúng ta thử nhìn vào dự tính sản sinh con người theo phương pháp vô tính mà hiện một số nhà khoa học đang muốn lao mình vào. Những hệ lụy của một cơn cám dỗ như thế là vô cùng khủng khiếp. Chính tính cách không dự đoán và không lường trước được ấy của những hệ lụy là cho thấy những giới hạn và bất toàn của trí khôn cũng như khả năng của con người. Con người càng tiến bộ lại càng nhận ra giới hạn của mình. Ðây phải là thái độ tự nhiên của con người. Muốn hay không, con người không thể chối cãi được những giới hạn của mình.

Con người chỉ là người khi nhận ra những giới hạn của mình và chấp nhận chính mình. Tin Mừng không ngừng lập lại chân lý ấy. Càng khiêm hạ, con người càng được nâng cao. Càng nhận biết những giới hạn của mình, con người càng nhận ra mối giây liên kết và lệ thuộc của mình với Ðấng Tạo Hóa, con người càng thấy được sự cao cả đích thực của mình. Ðây là lý tưởng mà Tin Mừng hôm nay có thể gợi lên cho chúng ta.

Sau một đêm vất vả, các môn đệ không bắt được một con cá nào. Hơn ai hết, những người đánh cá có kinh nghiệm về thời tiết, về sóng nước và có lẽ cũng hơn ai hết, lênh đênh giữa đại dương mênh mông, họ dễ cảm nhận được thân phận nhỏ bé bất toàn của con người. Nhưng thánh Phêrô chỉ thực sự ý thức được thân phận ấy khi chứng kiến mẻ cá lạ do Chúa Giêsu thực hiện.

2. Từ bỏ mọi sự mà theo Chúa

Trong đời sống đức tin, Thiên Chúa thường đòi ta thực hiện những việc làm có vẻ kỳ dị và vô lý. Nhưng nếu làm theo Thánh Ý Chúa, chắc chắn ta sẽ đạt được nhiều kết quả thật bất ngờ.

Lạy Chúa Giêsu, con xác tín rằng tất cả mọi nỗ lực, cố gắng của con đều trở thành vô ích nếu không có ơn Chúa phù trợ. Chúa đã trở thành điểm tựa vững chắc cho đời sống con.

Nhưng Chúa thường đòi con làm những việc có vẻ kỳ dị vô lý, như các tông đồ lại ra khơi đánh cá khi không bắt được con nào suốt một đêm vất vả. Chúa muốn con tin vào Chúa, chứ không tin vào những suy luận của riêng con.

Đối với con hôm nay, việc có vẻ kỳ dị và vô lý là sống hy sinh giữa thế giới đang lao mình vào hưởng thụ sung sướng, hoặc chấp nhận bị thiệt thòi giữa một xã hội mà ai cũng lo thu quén cho chính mình. Việc có vẻ kỳ dị và vô lý là tự chủ khước từ những đam mê cờ bạc, để dùng tiền của và thời giờ mà phục vụ lợi ích gia đình và xã hội. Việc có vẻ kỳ dị và vô lý là đi đến với bạn bè lối xóm để thăm viếng, nối lại tình thân ái yêu thương.

3. Kêu gọi môn đệ

Tổng thống Abraham Lincoln đi đến thành phố Charleston, tiểu bang South Carolina. Khi đi ngang qua trung tâm thành phố, ông trông thấy người ta đang tổ chức một cuộc đấu giá buôn bán nô lệ. Chứng kiến cảnh buôn bán người, tận đáy linh hồn ông cảm thấy bị khuấy động lên cơn giận dữ của Thiên Chúa, và một nỗ lực phải làm để cứu những người nô lệ. Do đó ông đã làm một điều độc đáo và bất thường nhất.

Ông bước vào trong đám đông, khi cuộc trả giá bắt đầu, trước tiên là một em gái nô lệ rất nghèo, ông đã bước ra trả giá trước. Cuộc đấu giá càng lúc càng sôi động, ông tham gia rất tích cực, và sau cùng đã trúng giá, đánh hạ tất cả mọi người. Ông trao tiền để lấy người nô lệ. Cô bé gái được đem đến cho ông. Cô bé sợ hãi hỏi ông sẽ làm gì đối với nó. Abraham Lincoln trả lời: “Tôi sẽ để cho cô được tự do." “Tự do? Tự do để làm gì?”, cô bé kinh ngạc hỏi. Ông trả lời: “Tự do để làm bất cứ cái gì cô muốn." Cô bé thắc mắc có phải mình được tự do đi đến bất cứ chỗ nào cô muốn, làm bất cứ điều gì cô thích, nói bất cứ điều gì cô nghĩ và làm bất cứ nghề nào cô ước muốn. Sau cùng cô bé mỉm cười và nói: “Cháu sẽ đi theo ông."

Abraham Lincoln đã chứng tỏ cho chúng ta thấy, ông là một con người gương mẫu và biết cách “kêu gọi” dân chúng “theo ông." Ông đã gọi họ bằng chính gương sáng của mình. Đức Giêsu kêu gọi Phêrô, rồi Giacôbê, Gioan và Anrê cũng đi theo Ngài. Đức Giêsu đã cho họ biết Ngài là ai qua việc giảng dạy, chữa lành và bằng các đức tính tốt lành, nhân từ và tha thứ của Ngài

4. Ngài đã chọn ngươi

Trong tập lễ nhận chức của Đức Tổng Giám Mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giáo phận Sài Gòn, người ta đọc được bài thơ này:

“Khi Thiên Chúa cần người cha cho dân tộc của mình, Ngài đã chọn một cụ già. Thế là cụ Abraham đứng lên.

Thiên Chúa cần một người phát ngôn cho mình, Ngài lại chọn một anh chàng vừa nhút nhát, lại vừa có tật nói ngọng. Thế là ông Maisen đứng lên.

Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân của mình, Ngài lại chọn cậu thanh niên nhỏ nhất và yếu nhất trong nhà. Thế là Đavít đứng lên.

Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền tảng cho ngôi nhà Giáo hội của mình, Ngài đã chọn một anh chàng chối đạo. Thế là thánh Phêrô đã đứng lên.

Thiên Chúa cần một khuôn mặt để diễn tả tình yêu thương của Ngài cho nhân thế, Ngài lại chọn một cô gái điếm. Đó là cô Maria Mađalena.

Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô vang sứ điệp của mình, Ngài lại chọn một kẻ bắt bớ đạo của mình. Đó là ông Phaolô, gốc thành Tắcxô.

Thiên Chúa cần một ai đó để dân Ngài được qui tụ và đi đến với những người khác, Ngài đã chọn ngươi. Cho dù run sợ, lẽ nào ngươi không dám đứng lên đáp lại lời của Ngài."

5. Vâng lời là sức mạnh của người có lòng tin

Một trung sĩ đang huấn luyện các tân binh: “Các đồng chí hãy nhớ khi một sĩ quan trao cho công việc dù nặng nề đến đâu, bổn phận dù khó khăn đến đâu, các đồng chí luôn phải nhớ tiếng nói cuối cùng.”

Trong lúc các lính mới còn đang ngơ ngác nhìn, ông thêm: “Tiếng đó là: Tuân lệnh.”

6. Có Chúa làm điểm tựa

Ông Simon nói: ‘Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không ắt được gì cả. Nhưng dựa vào Lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5)

“… Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nhấc bổng trái đất này lên." Nếu như Archimède dám khẳng định như vậy thì tại sao tôi lại không dám xác tín rằng: Dựa vào Chúa Giêsu, Đấng đã dám hiến mạng vì tình yêu, tôi có thể chinh phục mọi tâm hồn? Như Simon đã dựa vào Lời Chúa mà thả lưới và bắt được mẻ cá lớn, thì tôi cũng có thể trở thành người chinh phục các tâm hồn cho Chúa một khi tôi biết dựa vào quyền năng của Chúa hơn là sức riêng của mình.

Lạy Chúa, xin cho con biết vâng theo lời Chúa, biết dựa vào lời Chúa và thực thi lời Ngài trong cuộc sống.

7. Tin thì vâng lời

Trong tập truyện các thánh ẩn tu Ai Cập vào những thế kỷ đầu Kitô giáo, người ta đọc được giai thoại sau:

Có một người đàn ông kia đến xin gia nhập một tu viện. Tu viện trưởng cho người đó biết luật cơ bản nhất của đời tu là vâng lời. Người đàn ông hứa sẽ vâng theo tất cả những gì bề trên truyền lệnh. Để thử lòng người đó, tu viện trưởng dẫn ông ra vườn và cắm một cây gậy xuống đất. Ngài bảo người đàn ông hãy múc nước tưới cho đến khi nào cây gậy đó đâm chồi nảy lộc trổ bông trở lại.

Vâng lời bề trên, mỗi ngày người tu sĩ đi bộ hai dặm ra bờ sông Nil gánh nước tưới cho cây gậy khô ấy. Một năm qua rồi mà cây gậy vẫn còn trơ trơ. Lại một năm nữa qua đi, cây gậy vẫn là cây gậy khô. Nhưng người tu sĩ không nản lòng. Sang năm thứ ba, lạ lùng thay, cây gậy khô tự nhiên đâm chồi để rồi trở thành một cây tươi tốt trong vườn.

8. Sự chọn lựa của Thiên Chúa

Vào dạo tháng 12 năm 1987, Đức Hồng Y Jean Marie Lustiger cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề: “Sự chọn lựa của Thiên Chúa." Qua tựa đề này, ai cũng đoán được đây là một quyển tự thuật ghi lại cuộc hành trình ơn gọi của ngài.

Sinh ra trong một gia đình Do Thái sùng đạo, ông ngoại là một thầy Rabbit uyên thâm, Jean Marie Lustiger đã tự ý trở lại với Đức Tin Công giáo vào năm 14 tuổi. Hành động này của Jean Marie Lustiger dĩ nhiên đi ngược lại, với xác tín của gia đình, nhất là mẹ của cậu. Trước khi bị đưa lên xe chở qua trại tập trung Đức quốc xã ở Auschwitz, bà còn nói với các con: “Các con hãy giữ mình, chớ theo đạo Công giáo. Đây là một cơn bệnh hiểm nghèo."

Nhưng tiếng Chúa còn mạnh hơn sự cảnh cáo của người mẹ. Jean Marie Lustiger đã nghe được tiếng gọi thầm kín ấy vào một ngày thứ năm tuần thánh nọ khi cậu bước vào nhà thờ chính toà Orleans. Dân chúng đứng chen chúc đông nghẹt trong nhà thờ. Nhưng ngày hôm sau, khi cậu trở lại, nhà thờ bỗng trống vắng… Nhưng chính trong nỗi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh đó mà Jean Marie Lustiger đã nhận ra tiếng gọi của Chúa.

Qua quyển tự thuật trên đây, Đức hồng y Jean Marie Lustiger tuyên xưng rằng “Ơn cứu rỗi và sự hiện diện thầm kín của Đấng Cứu Thế trong nhân loại là một mầu nhiệm của lòng thương xót." Thiên Chúa yêu thương con người một cách lạ lùng. Ngài mời gọi con người trên muôn vạn nẻo đường của con người. Do đó, theo Đức hồng y Lustiger, hy vọng, chính là tin rằng, Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người.

9. Thiên Chúa ngỏ lời

Nói như thi sĩ Paul Claudel, Thiên Chúa viết bằng những đường cong. Những đường cong mà Thiên Chúa không ngừng viết để ngỏ lời với chúng ta chính là cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Mỗi biến cố, mỗi cuộc gặp gỡ là một lời ngỏ của Thiên Chúa. Chính qua trung gian của biến cố đó mà Thiên Chúa ngỏ lời với chúng ta. Do đó, người Kitô sẽ không ngừng thức tỉnh để lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Trong giấc ngủ say như cậu bé Samuel, trong một buổi trống vắng của ngày thứ sáu tuần thánh như trường hợp của Jean Marie Lustiger, trong niềm vui của gặp gỡ, của thịnh đạt, trong đau khổ của bệnh tật: tiếng nói của Thiên Chúa vẫn vang dội trong lòng người.

Chúng ta biết rằng, cuộc đời của mỗi người trong chúng ta là lịch sử của một ơn gọi. Thiên Chúa yêu thương tôi và chỉ mình tôi mà thôi… Trong muôn ngàn đau khổ của cuộc sống, mỗi người chúng ta hãy lập lại lời tuyên xưng của thánh Gioan tông đồ: “Thiên Chúa là tình yêu, Ngài đang yêu thương tôi."

10. Việc nhỏ trở thành lớn

Ngôi nhà thờ chính toà nguy nga vừa được hoàn tất. Một vị dáng vẻ đạo mạo đứng ngắm nghía với vẻ thán phục. Chợt một bé gái khoảng sáu, bảy tuổi đứng gần đó hỏi ông:

- Bác thích ngôi nhà thờ này lắm hở bác?

- Phải, ngôi nhà thờ này đẹp thật, cháu ạ.

- Bác biết không, cháu đã giúp xây dựng nên nó đấy!

- Sao? Cháu giúp xây dựng nó? Còn bé thế thì cháu giúp cách nào?

- Dạ, bố cháu là thợ nề. Bố cháu giúp xây nhà thờ từ lúc bắt đầu cho đến khi hoàn tất, còn cháu thì ngày nào cháu cũng đem cơm trưa cho bố cháu.

Còn gì lớn lao hơn một việc làm nhỏ bé được làm với tình yêu Thiên Chúa! Đó là công trình tạo dựng đang được bắt đầu lại mỗi ngày: “Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người."

11. Tình yêu là động lực

Nancy Powell 19 tuổi, bị chết trong một tai nạn xe hơi gần Houston. Cái chết bi thảm của cô đã khiến những người quen biết cô vô cùng xúc động. Một thanh niên nói về cô: “Sự trong trắng, tươi trẻ, nhiệt tình, nhất là khả năng yêu thương của cô chan hòa tất cả chúng tôi, những người ở quanh cô. Cô ấy thực sự là niềm vui. Bản chất của Nancy là dù biết con người thực sự là gì, cô vẫn yêu thương họ như thể họ tốt nhất. Tình yêu thương đặc biệt của cô ấy sẽ là động lực cho cả cuộc đời tôi”

Liệu tôi có được người khác nói về tôi như thế không?

Các ngọn hải đăng không thổi còi ầm ĩ, chúng chỉ chiếu sáng (Dwight L.Moody).

THỨ SÁU - VUI TƯƠI VÌ CHÚA ĐỒNG HÀNH

Lời Chúa: Lc 5, 33-39

Khi ấy, những người biệt phái và luật sĩ nói với Chúa Giêsu rằng: “Tại sao môn đồ của Gioan năng ăn chay và cầu nguyện, cả môn đồ của những người biệt phái cũng vậy, còn môn đệ của Thầy lại cứ ăn uống?” Người đáp lại rằng: “Các ông có thể bắt các bạn hữu đến dự tiệc cưới, ăn chay, đang khi tân lang còn ở với họ chăng? Nhưng sẽ đến những ngày mà tân lang phải đem đi khỏi họ, bấy giờ họ sẽ ăn chay trong những ngày ấy.”

Người còn nói với họ thí dụ này rằng: “Không ai xé miếng vải áo mới mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, áo mới đã bị xé, mà mảnh vải áo mới lại không ăn hợp với áo cũ. Cũng chẳng ai đổ rượu mới vào bầu da cũ; chẳng vậy, rượu mới sẽ làm vỡ bầu da, rượu chảy ra và bầu da hư mất. Nhưng rượu mới phải đổ vào bầu da mới, thì giữ được cả hai. Và không ai đang uống rượu cũ mà lại thèm rượu mới, vì người ta nói: 'Rượu cũ thì ngon hơn'.”

TRUYỆN KỂ

1. Thời đại mới, tinh thần mới

Trung Quốc có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quý. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đều khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc đó cho gọi ông đến và hỏi: “Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?”

Nhà điêu khắc trả lời: “Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, việc gì xảy ra là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.”

2. Con mắt dò xét, khe khắt và hẹp hòi

Nếu cha giảng lâu quá 10 phút thì họ bảo cha chỉ thao thao bất tuyệt.

Nếu cha nói về mầu nhiệm Thiên Chúa thì họ bảo cha nói trên mây trên gió

Nếu cha đề cập đến các vấn đề xã hội, cha sẽ bị kết án là khuynh tả

Nếu cha đi làm việc ở nhà máy, họ nghĩ ngay là vì cha không có gì làm

Nếu cha ở lại trong giáo xứ, có người sẽ nói cha xa rời quần chúng, cắt liên lạc với thế gian.

Nếu cha hay mỉm cười: cha quá dễ dãi!

Nếu vì đãng trí hay bận tâm, cha không nhìn thấy, người náo đó sẽ nói: cha khinh người!

Nếu cha còn trẻ: cha thiếu kinh nghiệm!

Nếu cha có tuổi: cha nên về hưu thì vừa! …

Giêsu ơi! Không thua gì các kinh sư và biệt phái, con vẫn thường nhìn anh em con bằng con mắt dò xét, khe khắt và hẹp hòi. Con luôn muốn họ phải như con nghĩ chứ không được như họ là.

3. Chiều theo ý người đời

Hai cha con một bác nhà quê dắt con lừa đi ra tỉnh. Mới đi được một quãng thì gặp một người hỏi:

- Chà, sao ông không để cho con ông cỡi con lừa?

- Ồ! tôi chưa nghĩ tới điều đó.

Nói xong, ông bồng con cho ngồi lên lưng lừa. Đi được một lát lại gặp người khác nói:

- Sao mày ngồi trên lưng lừa mà để cho ông già đi bộ? Mày xuống ngay đi cho cha mày cỡi

- Phải đấy.

Đứa con vội nhảy xuống đất đỡ cha mình lên lưng lừa. Đi thêm một đỗi nữa họ gặp một mụ bán cá, mụ kêu lên.

- Ông không mắc cỡ à, sao lại để thằng bé phải đi bộ dưới trời nắng như thế?

- Chị nói phải đấy.

Ông già xuống khỏi lưng lừa và hai người tiếp tục đi bộ như trước. Khi sắp vào thành phố, có mấy người nhìn chăm chăm và nói:

- Sao hai cha con không biết cỡi lên lưng lừa mà đi cho khỏe?

Hai cha con nghe nói chí lý liền leo lên. Nhưng con lừa mới đi được mấy bước đã quị xuống vì không chịu nổi sức nặng. Hai cha con lại vội vã xuống đi bộ và dắt lừa đi như trước...

4. Niềm vui chính của tiệc cưới

Hơn mười năm về trước quốc vương xứ Brunei đã tổ chức tiệc cưới vô cùng linh đình cho công chúa. Cô dâu xinh xắn với bó hoa có một không hai: cành bằng bạch kim, lá bằng vàng, và hoa được trang điểm bằng kim cương và đá quý. Người ta đã có nhiều sáng kiến để đám cưới được tổ chức cách long trọng. Điều này không lạ bởi vì trong các tiệc tùng của con người, tiệc cưới là tiệc vui vẻ nhất. Đức Giêsu cũng muốn dùng hình ảnh tiệc cưới để diễn tả hạnh phúc Nước Trời mà Ngài đem đến cho nhân loại, một hạnh phúc trọn vẹn và kéo dài vĩnh viễn. Trong tiệc cưới ấy, chú rể là Đức Giêsu và cô dâu là tất cả nhân loại. Sống trong tiệc cưới Nước Trời, với sự hiện diện của chàng rể Giêsu, nhân loại được mời gọi phải có tâm tình xứng hợp: vui tươi, hạnh phúc của người được yêu và đang yêu.

5. Ăn chay để làm gì?

Người Hy Lạp thời xưa ăn chay để đạt được sự tinh tế trong tâm trí. Người Âu Mỹ ăn chay để có thể tỏ ra mình can đảm. Nhà họa sĩ Nga vẽ tranh thánh ăn chay để có thể vẽ đẹp hơn. Người Do Thái ăn chay để thúc đẩy Nước Chúa mau đến. Lời đáp của Chúa Giêsu cho câu hỏi của con người chứng tỏ lý do của việc ăn chay không còn nữa, bởi vì Nước Chúa đã ở kề bên và Đấng Mêsia đã đến. Dù vậy, Chúa Giêsu cũng nói sẽ đến ngày các côn đệ sẽ lại ăn chay (x. Lc 5,35)

Tôi quảng đại thế nào trong việc ăn chay vì động lực tôn giáo, như để gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu hơn?

Tôi không biết mình đã hòa nhịp được với bản chất thần linh thế nào, nhưng tôi biết rằng việc ăn chay dập tắt đam mê mãnh liệt nhất. (Mahatma Gandhi)

6. Ngôi Lời vẽ Thiên Chúa

Adlai Stevenson rất thích cậu truyện này: Có một cô bé đang ngồi trên sàn bếp. Cô có một hộp chì màu và đang bận vẻ hình người. sau một lúc mẹ cô hỏi: “Con đang vẽ ai thế?” Cô bé trả lời một cách rất tự tin: “Hình Thiên Chúa mẹ ạ.” Mẹ cô nói: “Nhưng mà không ai biết được Thiên Chúa như thế nào!” cô bé đáp: “Họ sẽ biết được Ngài khi con vẽ xong.”

Có một điều gì tương tự xảy ra nơi Chúa Giêsu. Trong Ngài, Thiên Chúa vô hình được thể hiện trong thân xác hữu hình.

Điều gì gây ngạc nhiên nhất cho tôi về dung mạo của Thiên Chúa trong Chúa Giêsu?

Thiên Chúa vĩ đại đến nỗi con người không thể dò thấu được Ngài. Chính những hồ nghi đè nặng con người khiến con người không thể hiểu được Thiên Chúa là thế nao. (Calvin Miller)

7. Vội lên án

Trong cuốn “Cuộc phiêu lưu đến xứ sở thần tiên của Alice” của tác giả Lewis Carroll, có một cảnh phán xét. Khi tất cả đã sẵn sàng thì nhà vua phán: “Hãy đọc lời buộc tội chống lại kẻ bị cáo, kẻ bịp bợm.” nghe thế, Thỏ Trắng thổi ba hồi kèn, mở cuộc giấy lớn, đọc lời buộc tội rồi cuộn giấy lại. Sau đó nhà vua quay về bồi thẩm đoàn và nói: “Phán quyết của các ông ra sao?” Thỏ Trắng đáp: “Thưa Ngài, chúng tôi chưa sẵn sàng. Có nhiều điều chúng tôi phải làm trước khi đưa ra phán quyết.”

Tôi có khuynh hướng vội vàng lên án người khác không? Đặc biệt là ai?

Đấng quyền năng thấu suốt tất cả. ngài có thể thấu tận những linh hồn tăm tối và thấy được những hoa trái trong cõi sâu thẳm bị vẻ bề ngoài che đi. (John Greeneap Whitter)

8. Biến đổi nhờ ơn Chúa

Một vị truyền giáo kể lại: Phải qua nhiều thủ tục tôi mới được phép vào thăm một tử tù. Khi đến phòng giam, tôi thấy anh đang quì, hai tay ghì chặt cây Thánh Giá mà khóc. Tôi yên lặng ngồi cạnh anh như muốn nói lên sự đồng cảm. Khi nỗi xúc động lắng xuống, người tử tù nói:

- Thưa Cha, con khóc không phải vì sợ chết, nhưng vì 40 năm qua, con đã bỏ Chúa để chạy theo những đam mê và đám bạn bè. Hôm nay sợ liên lụy, chúng làm như không hề biết con. Gia đình cũng không muốn nhìn mặt, vì phải nhục nhã và xấu hổ do những tội ác con đã làm. Giờ đây con rất hối hận và chỉ biết hoàn toàn trông cậy vào Đấng đã chết trên thập giá để tẩy xóa tội con.

Kể đến đây, vị linh mục ấy nói:

- Tôi tin rằng ơn Chúa đã biến đổi tâm hồn người tử tội và anh sẽ được hưởng lòng thương xót của Chúa như người trộm lành năm xưa.

9. Hơi thở của Thiên Chúa

Hơi thở của Thiên Chúa

Trong kho tàng văn chương Ấn giáo có ghi lại câu chuyện như sau: Có một đệ tử đến thưa với vị linh đạo của mình: “Thưa thầy, con muốn gặp Chúa.” Vị linh đạo chỉ đáp trả bằng một cái mỉm cười thinh lặng.

Ngày hôm sau, người môn sinh trở lại và bày tỏ cũng một ước muốn. Vị linh đạo vẫn mỉm cười tiếp tục giữ sự im lặng cố hữu của ông. Một ngày đẹp trời nọ, ông đưa người thanh niên đến một dòng sông. Thầy trò cùng trầm mình xuống nước. Chờ cho người đệ tử cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong dòng nước mát, bất thần vị linh đạo túm lấy anh và dìm xuống nước hồi lâu. Người thanh niên cố gắng vùng vẫy đế trồi lên mặt nước. Lúc bấy giờ vị linh đạo mới hỏi anh: “Khi bị dìm xuống nước như thế, con cảm thấy cần điều gì nhất?” Không một chút suy nghĩ, người đệ tử đáp: “Thưa thầy, con cần có không khí để thở”.”

Lúc bấy giờ vị linh đạo mới dẫn giải: “Con cảm thấy cần gặp Chúa như con cần khí thở không? Nếu con cảm thấy cần như thế, con sẽ gặp được Ngài tức khắc. Ngược lại, nếu con không hề cảm thấy cần như thế thì cho dù con có vận dụng tất cả tài trí và cố gắng, con cũng sẽ không bao giờ gặp được Ngài.”

10. Luật mới

Có hai vợ chồng thường hay cãi nhau. Một hôm khi hai người đang cãi nhau rất hăng say, thì người chồng đề nghị với vợ: “Thôi, chúng ta đừng cãi nhau nữa. Bây giờ mỗi người hãy lấy giấy, viết ra tất cả những lỗi lầm, những tật xấu của người kia, rồi trao cho nhau.” Người vợ đồng ý. Người chồng cầm lấy tờ giấy, nhìn người vợ và cúi mặt xuống bắt đầu viết. Người vợ thấy chồng bắt đầu viết, liền hối hả viết liên tục. Người chồng chỉ viết một câu rồi dừng lại nhìn vợ. Sau vài phút, trang giấy của người vợ đầy những dòng chữ kể ra tất cả những tật xấu của người chồng, và người vợ xem ra hả dạ, vì đã viết nhiều hơn.

Đến lúc không còn gì để viết nữa, hai người trao cho nhau tờ giấy kể tội của nhau. Sau khi nhìn vào tờ giấy của chồng, nét mặt của người vợ bỗng biến đổi vì xúc động. Bà vội vàng đòi lại tờ giấy của mình đã đưa cho chồng. Vì trong tờ giấy của người chồng, bà chỉ đọc được một câu duy nhất: “Anh yêu em!”

11. Ta đổi mới mọi sự

Đức Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, trong một bài giảng, đã kể chuyện gia đình một ông trùm xứ Long Châu, giáo phận Nam Ninh, Trung Quốc: “Trước đây, chỉ có gia đình ông tin Chúa. Gia đình ông tích cực rao giảng Lời Chúa. Kết quả là 20 năm sau hầu như cả làng gần 500 khẩu đã tin theo Chúa… Tôi hỏi ông nhờ bí quyết nào mà việc truyền giáo của ông có kết quả tốt đẹp như thế. Ngẫm nghĩ một lát, ông trả lời: ‘Nhờ đời sống gia đình’. Bên Trung quốc, đời sống gia đình trong thời đại mới đang gặp khủng hoảng. Vợ chồng bất hoà với nhau. Con cái không vâng lời cha mẹ, có khi còn hành hung cả cha mẹ. số gia đình tan vỡ ngày càng tăng lên. Trong khi đó, gia đình ông trùm vẫn trên thuận dưới hoà, vợ chồng yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Thấy thế, người trong làng bảo nhau: ‘Đây là đạo tốt vì có thể gìn giữ được hạnh phúc gia đình’.

Những khủng hoảng của cuộc sống hôm nay khởi đi từ cuộc khủng hoảng đầu tiên khi Ađam và Eva gạt Chúa ra khỏi cuộc sống, từ đó họ bắt đầu lên án lẫn nhau. Rất nhiều đau khổ trong cuộc sống đã đến và sẽ đến từ việc lặp lại sự bất tuân xưa, … nhưng “Thiên Chúa ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông tự chốn cao vời viếng thăm ta" (Lc 1,78). Cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới: “Tôi là Gioan đã thấy trời mới và đất mới.”

12. Rượu mới bầu da mới

“Rượu mới bầu da mới” đã thành một qui luật tồn tại. Qua mọi thời, Giáo Hội vẫn luôn đi tìm những hình thức mới chuyển tải sứ điệp Phúc Âm để người đương thời có thể tiếp nhận được. Cũng trong ý hướng đó mà vào ngày 25/01/1959, khi được bầu làm Giáo Hoàng mới chỉ có ba tháng, đức chân phước Gioan XXIII đã triệu tập công nghị giáo phận Rôma, rồi công đồng chung của Giáo Hội toàn cầu và canh tân giáo luật.

Ngài muốn cập nhật (aggiornamento) đời sống Giáo Hội cho thích hợp với một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Đây cũng chính là ý hướng chủ đạo của công đồng chung Vatican II mà chúng ta sắp cử hành kỷ niệm 50 năm ngày khai mạc.

13. Đổi mới quan trọng

Một ông vua giàu có nọ rất keo kiệt và hà khắc đối với thần dân. Thành ra, tất cả mọi người đều oán ghét ông.

Một hôm ông ra lệnh cho quan tể tướng tiến hành việc thu thuế hằng năm. Nhưng quan tể tướng cho biết: "Năm nay mùa màng hư hại, dân chúng đang chết đói, họ không thể nào nộp thuế được.”

Nhưng nhà vua vẫn một mực cho tiến hành việc thu thuế và yêu cầu quan tể tướng dùng tất cả tiền thuế để sửa sang cung điện và nội thành. Quan tể tướng đi một vòng xung quanh cung điện, nơi nào cũng có sự rạn nứt, nhưng sự rạn nứt sâu xa hơn vẫn là sự bất mãn và ta thán của người dân.

Thế là, năm đó, thay vì tiến hành lệnh của vua, quan tể tướng đã cho người đi khắp nơi và loan báo như sau: "Năm nay, nhà vua miễn thuế cho tất cả mọi người.” Nghe thế, ai cũng vui mừng vỡ lở. Khắp nơi, tuy đói kém, ai ai cũng làm tiệc ăn mừng.

Trở lại triều đình, quan tể tướng thông cáo với nhà vua rằng với số tiền thu thuế được, ông đã cho làm những tu sửa cần thiết nhất.

Ngày hôm sau, quan tể tướng mời nhà vua và đoàn tùy tùng đi tham quan một vòng xung quanh những nơi mà ông báo cáo đã được tu sửa. Vừa ra khỏi cung điện, nhà vua đã được dân chúng tung hô vạn tuế không dứt lời. Nhìn đám đông vui mừng phở lở, nhà vua mới quay sang quan tể tướng để hỏi lý do của ngày hội này. Quan tể tướng mới giải thích như sau: "Tâu bệ hạ, ngày lễ hôm nay được tổ chức là để đánh dấu những tu sửa quan trọng trong cung điện. Trước khi tiến hành việc thu thuế, hạ thần đã đi tham quan một vòng, hạ thần nhận thấy rằng những rạn nứt đáng kể nhất không phải là những rạn nứt trên tường thành của cung điện mà chính là trong lòng người dân. Người dân không thể vui mừng được vì từ bao lâu nay, họ không còn thấy được lòng tốt nữa. Ðó là lý do đã khiến hạ thần tuyên bố miễn thuế cho họ trong năm nay.”

Nghe thế, nhà vua mới sực tỉnh lại và nhận ra thái độ keo kiệt hà khắc của ông. Ông nhìn xuống đám đông dân chúng đang hân hoan vẫy chào, lòng ông cảm thấy xúc động. Lần đầu tiên, người ta thấy nụ cười của vui tươi và yêu thương nở trên môi ông.

14. Xé vải mới vá áo cũ

Cái chết của ông Y. Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo.

Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?

15. Biết mình ngu

Vua Hoàn công nước Tề đi săn, đuổi con hươu chạy vào trong một cái hang, thấy có một ông lão bèn hỏi rằng: “Hang này tên gọi là hang gì?” Ông lão thưa: “Tên là hang Ngu công”

- Tại sao mà đặt tên như thế?

- Tại kẻ hạ thần đây mới thành có tên ấy

- Coi hình dáng lão không phải là ngu, sao lại đặt cái tên như thế?

- Hạ thần xin nói: Nguyên hạ thần có con bò cái đẻ được một con. Khi bò con đã lớn, hạ thần đem đi bán, rồi lấy tiền mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với bò cái. Một hôm có một chàng thiếu niên đến, lấy lý ‘bò không đẻ ra ngựa được’ bèn bắt con ngựa con đem đi. Hạ thần chịu mất, không cãi được. Vì thế xa gần đâu cũng cho hạ thần là ngu, mới gọi hang hạ thần ở đây là hang Ngu công.

Hoàn công nói: “Lão thế thì ngu thật.”

Chiều hôm sau, Hoàn công đem câu chuyện kể lại cho Quản Trọng nghe. Quản Trọng nói: “Đó chính là cái ngu của Di Ngô này. Nếu được vua giỏi như vua Nghiêu, bầy tôi minh như Cao Dao, thì khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược, lấy không ngựa của người ta như vậy. Ngu công mà đành để mất ngựa, chắc là biết rõ hình pháp ngày nay không ra gì. Xin nhà vua kíp chỉnh đốn các chính sự lại.”

Đức Khổng nghe thấy, nói: “Đệ tử ta đâu, ghi lấy việc ấy. Hoàn công là bá quân, Quản Trọng là hiền thần. Tuy đã vào bậc khôn ngoan, mà còn tự cho là ngu dại.” (Khổng tử tập ngữ)

16. Sống là chọn lựa

Một người kia kể lại giấc mơ khủng khiếp như sau: Tôi thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga. Bước vào trong, tôi thấy hai hành lang với hai hàng chữ: Bên phải dành cho người Công giáo, bên trái dành cho kẻ ngoại đạo. Theo bảng chỉ dẫn, tôi đi theo hành lang bên phải dành cho người Công giáo.

Đi được một lúc, tôi thấy mình đứng trước một ngã rẽ khác. Lần này tôi đọc thấy bảng chỉ dẫn như sau: Bên phải dành cho kẻ có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ có đức tin yếu kém. Và tôi lại đi bên phải.

Đến một ngã rẽ khác, tôi lại thấy một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những người có lòng bác ái, bên trái dành cho những người ích kỷ. Tôi lại chạy qua bên phải mà đi.

Cuối cùng tôi gặp một bảng chỉ dẫn: Bên phải dành cho những ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những kẻ tội lỗi. Một lần nữa tôi cứ chọn bên phải mà đi. Nhưng tôi đang hân hoan rảo bước, thì bỗng một cảnh tượng hãi hùng khủng khiếp hiện ra ở cuối hành lang ấy: cảnh hỏa ngục với muôn vàn hình khổ không lời nào tả xiết. Tôi hoảng hốt kêu rú lên và giật mình thức giấc.

Sau một phút tôi hoàn hồn và tự hỏi: “Phải chăng đời sống đạo của tôi cũng chỉ là một giấc mơ hãi hùng?”

17. Đổi mới nhờ thập giá

Một thanh niên tuổi ngoài 20 bị ung thư gan. Chứng bệnh hiểm nghèo cùng với cơn đau đã nhiều lần làm anh hoảng loạn, những lúc ấy anh không tiếc lời kêu trách Thiên Chúa, nguyền rủa các bậc sinh thành và bản thân. Sau khi lãnh nhận bí tích xức dầu, anh sống thêm được gần ba tháng nữa, nhưng thái độ hoàn toàn đổi khác. Có người hỏi:

- Làm thế nào anh chịu được những cơn đau như thế?

Chỉ vào cây Thập Giá treo trước mặt, anh trả lời:

- Nhờ nhìn lên Đấng chịu chết treo trên kia.

Nhờ chiêm ngắm Đức Giêsu trên thập giá, chàng thanh niên được ơn đổi mới cõi lòng, nên cũng thay đổi cách đón nhận đau đớn, thử thách và cái chết. Hai ngàn năm qua, nhờ Đấng chịu đóng đinh trên khổ giá mà biết bao tâm hồn được nâng đỡ trong những cơn gian nan, và tìm ra lẽ sống giữa những bế tắc của cuộc đời. Điều ấy không lạ, vì đọc các trình thuật kể lại cuộc thương khó của Đức Giêsu, chúng ta thấy nhiều người được ơn hoán cải nhờ gặp Đấng đã chết để muôn người được sống.

18. Chọn điều tốt nhất

Đức Cha Bossuet cho làm một hang đá trong nhà nguyện của tu viện. Chiều hôm Giáng Sinh, ngài trả lương cho các người thợ. Rồi ngài nói với họ:

- Chờ một tí, tôi sẽ cho các anh quà “Giáng sinh.”

Nói xong, ngài mở khăn trải bàn. Người ta thấy trên bàn, nằm kề nhau, 4 đồng tiền vàng và 4 cuốn sách “Hạnh các thánh.” Bossuet nói với các người thợ là họ có thể chọn, hoặc một đồng tiền hoặc một cuốn sách. Ba người đã chọn 3 đồng tiền vàng, còn người thứ tư tuyên bố:

- Ở nhà, mẹ già của tôi cũng rất cần tiền, nhưng bà cũng thích những cuốn sách tốt. Tôi lấy cuốn “Hạnh các thánh.”

Tuy nhiên, khi vừa mở cuốn sách ra thì ông tìm thấy 6 đồng tiền vàng dán sát bìa cuốn sách. Hãy tưởng tượng xem niềm vui của ông và nỗi hối tiếc của ba người kia như thế nào.

THỨ BẢY - Ý NGHĨA CỦA NGÀY SABBAT

Lời Chúa: Lc 6, 1-5

Trong một ngày Sabbat, khi Chúa Giêsu đi qua đồng lúa, thì các môn đệ bứt bông lúa miến, vò xát trong tay, rồi ăn. Có mấy người biệt phái nói với các ông rằng: “Tại sao các ông làm điều không được phép làm trong ngày Sabbat?”

Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Các ông chưa đọc điều Đavit đã làm khi ông và các người tuỳ tùng bị đói sao? Ngài đã vào đền thờ Thiên Chúa, lấy bánh dâng hiến mà ăn và cho các người bạn tuỳ tùng ăn, bánh đó họ không được phép ăn, nhưng chỉ dành cho các trưởng tế mà thôi." Và Người bảo họ rằng: “Con Người làm chủ cả ngày Sabbat."

TRUYỆN KỂ

1. Ý nghĩa của lề luật

Một hôm, quận công Ressen hỏi triết gia David Hume:

- Theo ông thì đối tượng của luật pháp là gì?

Triết gia David Hume trả lời:

- Là để phục vụ cho lợi ích lớn nhất của số lớn nhất.

Quận công Ganh Ressen hỏi lại:

- Vậy thì theo ông số lớn nhất là gì?

Triết gia liền trả lời:

- Số lớn nhất là số một.

Thực tế trong rất nhiều quốc gia, chúng ta thấy luật pháp được làm ra là chỉ để phục vụ cho một thiểu số. Số lớn nhất thường là số một, chỉ là một thiểu số.

2. Con người làm chủ ngày sabát

Trả lời phỏng vấn trước ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2005 tại Kohn, nước Đức, Đức Thánh Cha Bênêđictô 16 cho biết Ngài sẽ nói với các bạn trẻ khắp thế giới rằng: được làm người Kitô hữu thật tốt đẹp biết bao, bởi vì đây đó vẫn phổ biến một quan niệm rằng Kitô giáo chỉ gồm những luật lệ cấm đoán mà ta phải tuân giữ.

Vị Đại Diện Đức Kitô cho thấy đời sống Kitô hữu có những luật lệ, nhưng đó là đôi cánh để đưa ta lên cao.

3. Giữ luật một cách máy móc

Một người Do thái nọ qua đời. Sau khi đã khám nghiệm, các bác sĩ xác nhận người đó đã thực sự chết theo đúng nghĩa y học và đã cấp giấy chứng thực để chôn cất.

Giữa lúc đang chuẩn bị hạ huyệt người ta bỗng nghe có tiếng kêu trong quan tài. Mở nắp quan tài ra, mọi người rất đỗi ngạc nhiên khi thấy kẻ chết đã sống lại.

Thế nhưng vị giáo trưởng chủ trì tang lễ ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi nói với kẻ chết sống lại như sau:

- Chúng tôi không biết rõ ông đang sống hay chết. Nhưng căn cứ theo giấy chứng thực của các bác sĩ, ông quả thực là người đã chết. Vậy chúng tôi cứ thi hành theo đúng nhận định của các bác sĩ.

Nói xong ông truyền cho ban tang lễ đóng nắp quan tài lại và tiếp tục nghi thức an táng.

4. Hoa trái của luật vị luật

Có người kia lúc sinh thời rất tự hào về đời sống luân lý, liêm sỉ, chính trực của mình. Rồi một hôm ông bị bệnh nặng và qua đời, linh hồn ông bay thẳng đến trước cửa Thiên Đàng và xin được trình diện trước tòa Chúa.

Tới nơi, ông phủ phục thưa:

- Lạy Chúa, Chúa quá biết rõ đời con, suốt đời con luôn trung thành tuân giữ luật Chúa, không hề bỏ sót hoặc lỗi phạm điều gì bất lương bất chính cả. Này đây con xin Chúa thương nhìn xem bàn tay trong trắng của con.

Thiên Chúa nhân từ nhìn ông và nói:

- Con ơi, con nói đúng, hai bàn tay con trong sạch, không vướng mắc tội gì cả. Nhưng đáng tiếc con chỉ có hai bàn tay trắng, còn ngoài ra thì không có một việc lành phúc đức nào cả.

5. Mắt đền mắt

Một người thợ xây đang ở trên giàn giáo cao bị xảy chân rơi xuống, chẳng may trúng phải một người đang đi bộ ngang qua phía dưới. Điều oái oăm là anh thợ chỉ bị xây xát qua loa, còn người khách bộ hành thì bị chấn thương nặng, hôn mê rồi chết khi người ta đưa vào bệnh viện.

Chiếu theo luật “Mắt đền mắt, răng đền răng”(Mt 5,38) của miền này, gia đình nạn nhân đưa nội vụ ra tòa đòi anh thợ xây phải đền mạng. Vị quan tòa vốn từ lâu đã thấy những cái vô lý trong bộ luật địa phương, nhưng truyền thống và hủ tục xưa rất khó thay đổi. Cuối cùng, để cứu người thợ xây oan ức, ông tuyên bố:

- Việc gia đình nạn nhân đòi mạng người thợ xây theo truyền thống là chính đáng, nhưng tôi thấy phải nói rõ rằng: Nếu anh ta đã giết người nhà của các ông bằng cách nào, thì các ông cũng phải giết anh ta đúng bằng cách ấy, nghĩa là một người trong gia đình các ông phải trèo lên giàn giáo, nhảy xuống đúng vào đầu anh thợ xây lúc anh đang đi ở phía dưới.

Nghe tòa phán xử, bên gia đình kiện cáo bèn vội vàng xin bãi nại. Anh thợ xây được tha bổng. Sau đó, nhận thức được sự tàn nhẫn phi lý và mù quáng của bộ luật địa phương mình, dân trong vùng quyết định loại bỏ hẳn tính cách “mắt đền mắt răng đền răng” trong quan hệ xử thế giữa con người với nhau.

6. Lề luật thì giết chết

Có hai người kia thường xuyên cãi nhau trong giờ lần hạt chung mỗi tối. Cứ gần hết một chục thì người này bảo rằng mới đến kinh thứ chín, người khác lại cho là đã dư ra và sang đến kinh thứ mười một rồi. Hầu như cứ mười hôm đọc kinh chung thì đã hết bảy bữa bất đồng, và giờ kinh tối của họ trở thành… giờ cãi nhau! Một cách nào đó, những người Pha-ri-sêu trong đoạn Tin Mừng hôm nay cũng vậy. Thay vì thánh hiến ngày Sabbát để thờ phượng Thiên Chúa và để sống giao ước giữa Ngài và dân thánh, họ lại biến ngày hưu lễ thành một gánh nặng, biến những tiểu tiết thành những điều trọng cấm – như trường hợp các môn đệ hôm nay: vò mấy hạt lúa để ăn cho đỡ đói mà bị coi như vi phạm điều luật cấm gặt lúa trong ngày sabbát. Và như vậy, lẽ ra là ngày để sống trong thanh thoát, an bình và hiệp nhất như Chúa muốn, họ lại dùng ngày của Chúa để xoi mói, dùng Luật Chúa để làm khó dễ người khác.

7. Tôn thờ lề luật

Một số binh sĩ Do Thái phải chiến đấu vào rạng sáng ngày Hưu lễ. Họ thà trốn trong hang còn hơn vi phạm ngày Hưu lễ vì chiến đấu. Kẻ thù gặp thấy và đã giết chết họ mà họ cũng không giơ tay lên đầu hàng. Việc tôn trọng lề luật đã có mặt tiêu cực. Một số người Do Thái coi trọng mặt chữ hơn tinh thần của luật. Một số kinh sư Do Thái còn đi quá xa trong việc tuân giữ luật đến nỗi có ai đó bị một bức tường đè lên, họ cũng chẳng ra tay cứu giúp, vì sợ vi phạm ngày Hưu lễ.

Trong việc thờ phượng, tôi thường có khuynh hướng theo sát mặt chữ hơn là tinh thần lề luật chăng? Tại sao?

Tuân theo nghi thức mà không có lý trí, thì không phải là thờ phương mà chỉ là sùng bái ngẫu tượng.

8. Ý nghĩa của lề luật

Nguyên nhân ban đầu của ngày Sa-bát hoàn toàn mang tính nhân đạo, nó cho phép con người nghỉ ngơi để dưỡng sức (Xh 23,12). Vì thế ngày Sa-bát được tạo ra vì con người; nhưng dần dà những nhà thông luật Ít-ra-en đã ‘tán’ luật nghỉ ngày Sa-bát thành nhiều điều cấm và thay vì nghỉ ngơi, cho ngày Sa-bát trở nên gánh nặng, khiến con người trở thành nô lệ cho ngày hưu lễ.

Chúa Giê-su đòi chúng ta phải thay đổi não trạng này: trong khi những người Pha-ri-sêu quan tâm tới những điều không được phép làm, thì Chúa Giê-su chú ý đến việc cần làm trong ngày Sa-bát. Chúa Giê-su đến để kiện toàn lề luật: Ngài không bảo chúng ta dừng lại ở chỗ “đừng làm” điều này điều kia; trái lại Ngài kêu gọi “hãy làm” để chúng ta đi xa hơn, cao hơn và đạt đến sự trọn hảo của tình yêu: “Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc 6,31).

Ngày hưu lễ của Ki-tô giáo là ngày Chúa Nhật thay vì thứ Bảy (Sa-bát) của người Do thái. Theo tinh thần mới của luật yêu thương, hưu lễ là ngày nghỉ, nhưng nghỉ không phải là không làm gì mà là “hãy làm." Vậy bạn sẽ làm gì để chu toàn luật Ngày hưu lễ?

LỄ SINH NHẬT ĐỨC MẸ - BÀ SINH CON TRAI

Lời Chúa: Mt 1, 1-16. 18-23

Sách gia phả của Chúa Giêsu Kitô, con vua Ðavít, con của Abraham.

Abraham sinh Isaac; Isaac sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuđa và các anh em người. Giuđa sinh Phares và Zara; Phares sinh Esrom; Esrom sinh Aram; Aram sinh Aminadab; Aminadab sinh Naasson; Naasson sinh Salmon; Salmon sinh Booz do bà Rahab; Booz sinh Giobed do bà Rút. Giobed sinh Giêsê; Giêsê sinh vua Ðavít.

Ðavít sinh Salomon do bà vợ của Uria; Salomon sinh Roboam; Roboam sinh Abia; Abia sinh Asa; Asa sinh Giosaphát; Giosaphát sinh Gioram; Gioram sinh Ozia; Ozia sinh Gioatham; Gioatham sinh Achaz; Achaz sinh Ezekia; Ezekia sinh Manasse; Manasse sinh Amos; Amos sinh Giosia; Giosia sinh Giêconia và các em trong thời lưu đày ở Babylon.

Sau thời lưu đày ở Babylon, Giêconia sinh Salathiel; Salathiel sinh Zorababel; Zorababel sinh Abiud; Abiud sinh Eliakim; Eliakim sinh Azor; Azor sinh Sađoc; Sađoc sinh Akim; Akim sinh Eliud; Eliud sinh Eleazar; Eleazar sinh Mathan; Mathan sinh Giacóp; Giacóp sinh Giuse, là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô.

Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây: Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse, chồng Bà, là người công chính, không muốn tố giác Bà, nên mới định tâm lìa bỏ Bà cách kín đáo. Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; Bà sẽ sinh hạ một Con trai mà ông đặt tên là Giêsu, vì chính Người sẽ cứu dân Mình khỏi tội." Tất cả sự kiện này đã được thực hiện để làm trọn lời Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng:

"Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa-ở-cùng-chúng-ta."

TRUYỆN KỂ

1. Cái máng chuyển nước

Một nông dân trồng bụi tre nơi góc vườn. Thân tre mỗi ngày mỗi cao lớn, thẳng đuột. Ngày kia, người ấy đến nói với cây cao nhất: “Này bạn, ta cần bạn. ”Cây tre nói: “Thưa ông, tôi sẵn sàng, ông cứ sử dụng tôi theo ý ông”

- Được, ta sẽ xẻ anh ra làm đôi.

Nghe thế, cây tre phản đối:

- Xẻ tôi? Sao vậy? Trong vườn có cây nào đẹp hơn tôi đâu? Xin ông đừng...Ông dùng tôi thế nào cũng được, nhưng xin đừng xẻ tôi ra...

- Nếu không xẻ anh ra thì anh chả được việc gì.

Một làn gió nhẹ thổi qua, cây tre cúi đầu thở dài: “Thưa ông, nếu chỉ còn cách đó, thì xin ông cứ làm theo ý ông."

Người nông dân nói tiếp: “Ta sẽ tước bỏ hết các cành của ngươi”

- Ông tước cành tôi? Như vậy còn gì là vẻ đẹp của tôi? Lạy Chúa, xin ông thương đừng làm thế...

- Nếu không tước cành, anh chả được việc gì.

Gió thổi mạnh hơn. Cây tre quằn quại trong gió và nắng. Rồi nó mạnh dạn thưa: “Thưa ông, xin ông chặt tôi đi."

Ông chủ nói: “Bạn thân mến, thực thì ta buộc lòng phải làm bạn đau, phải tước cành, khoét đốt bạn; nếu không, ta không thể dùng bạn."

Cây tre cúi rạp xuống đất nói: “Thưa ông, xin ông cứ việc chặt, dùng tôi theo ý ông."

Người nông dân chặt tre, tước cành, xẻ đôi và lóc ruột làm thành cái máng chuyển nước từ dòng suối vào cánh đồng. Và sau đó, người nông dân có một vụ mùa bội thu.

2. Lễ mừng sinh nhật Đức Mẹ

Khi đi hành hương kính viếng Đất Thánh, khách hành hương thường được mời đi thăm viếng Vương Cung Thánh Đường Thánh Anna ở Giêrusalem, trên một thửa đất gần Giếng Bêsaiđa (x. Ga 5,1-9). Nơi này, theo truyền thống, vẫn được coi là nơi ở của thánh Gioakim và thánh Anna, và cũng là nơi Đức Maria được sinh ra.

Giáo hội Đông phương cũng như Tây phương đã cử hành lễ mừng kính sinh nhật Đức Mẹ từ thế kỷ VI. Đến thế kỷ X, lễ được phổ biến khắp nơi và trở thành một trong các lễ chính mừng kính Đức Mẹ. Vào thế kỷ XII, lễ này còn kéo dài thành tuần bát nhật, theo lời hứa của các Đức Hồng y họp mật nghị để bầu giáo hoàng. Các ngài hứa sẽ thiết lập tuần bát nhật để tạ ơn Đức Mẹ nếu có thể vượt qua được các chia rẽ vì cuộc vận động của vua Frédéric và sự bất mãn của dân chúng. Đức Giáo hoàng Célestinô V đắc cử, cai quản có 18 ngày, nên chưa thực hiện được lời hứa. Giữa thế kỷ XIII, Đức Innocentê đã hoàn thành lời hứa này… Khi canh tân phụng vụ, Đức Piô X bỏ lễ vọng và tuần tám ngày và truyền lễ sinh nhật Đức Mẹ như hiện nay.

3. Để sống đời đời

Vào thứ bảy 19/09/1989, ông John Ivan mừng lễ sinh nhật thứ 112, và người con trai duy nhất của ông lúc đó cũng đã 78 tuổi. Hai cha con sống yên lành tại một thành phố nhỏ Lancashire, miền tây Anh Quốc. Và nhân dịp mừng sinh nhật thứ 112 này, trả lời cho hãng thông tấn ASB đến phỏng vấn, ông John Ivan đã trình bày bí quyết sống lâu của ông bằng một bảng lề luật "bốn không một có." Bốn không là:

- Không hút thuốc.

- Không uống rượu.

- Không giận ghét chửi rủa kẻ khác.

- Không bài bạc gian tham.

Và một có là: Có tinh thần hòa hợp với mọi người.

Trước đó không lâu, ông John Ivan cũng đã lãnh được giải thưởng "người có quả tim vàng" vì lòng tốt đại độ của ông đối với mọi người xung quanh.

Nếu để kéo dài cuộc sống trên trần gian này dài thêm thì ông John Ivan vẫn phải thực hiện bí quyết sống "bốn không một có" như ông đã làm. Vậy thì thử hỏi nếu cuộc sống trên trần gian mà còn phải có những quy luật như vậy thì để được có sự sống đời đời chúng ta càng phải có những quy luật khắt khe như thế nào?

4. Cuốn sách một chữ

Người ta kể chuyện rằng: ngày kia một văn sĩ bỗng nảy sinh ra một ý kiến ngộ nghĩnh. Ông ta muốn viết một cuốn sách. Mà cuốn sách ấy, ông muốn làm sao cho nó không được dài quá một trang. Cuốn sách một trang này lại phải làm sao cho nó không được dài quá một dòng. Dòng ấy phải làm sao cho nó chỉ vỏn vẹn có một chữ.

Chữ độc nhất ấy, cố nhiên, phải làm sao diễn tả được hết mọi tư tưởng cao xa, tốt đẹp của văn sĩ.

Ý nghĩ ấy ngày đêm ám ảnh ông ta, làm cho ông ta mất ăn, mất ngủ. Làm thế nào viết được cuốn sách một chữ ấy?

Cuối cùng nhà văn kia đành ngồi khoanh tay bó gối, thở dài thất vọng... Tất cả những danh từ trên thế giới, không đủ cung cấp tài kiệu, và ý nghĩa cho công việc ông ta dự định thực hiện.

Nhưng, cuốn sách một chữ ấy Thiên Chúa đã viết được. Chữ độc nhất, hàm súc mọi ý nghĩa, vừa hùng hồn, sâu rộng, vừa nhẹ nhàng ý nhị để diễn tả được những kỳ công kiệt tác trong vũ trụ. Tất cả những gì là tươi mát, là xinh đẹp, tất cả những gì là đáng quý chuộng, đáng yêu thương, đáng đòi hỏi, đáng tìm kiếm, đáng ước ao, đáng khát vọng.

Chữ ấy là: Maria, tên của người Trinh Nữ đã được thiên Chúa tuyển chọn và tô điểm cho cân xứng với thiên chức làm Mẹ Ngôi Hai Nhập Thể, cân xứng để trở nên vườn địa đàng thật hoàn hảo, thật sặc sỡ, thật kiều diễm để trong cung lòng của Maria, Thiên Chúa sẽ cử hành một lễ cưới long trọng, không phải giữa một người với một người, nhưng là giữa Thiên Chúa và nhân loại.

5. Giá trị của một đóa hoa

Một ngày nọ, thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, gặp trong nhà thờ một người đàn bà có vẻ đang đau khổ nhiều. Bà ta vừa trở thành góa phụ. Ông chồng đã rơi từ cầu xuống sông và bị chết đuối. Ông ta đã chết khi chưa kịp ăn năn thống hối. Do đó, đối với bà, ông chồng chắc chắn đã mất linh hồn.

Cha Vianney đã nhẹ nhàng đến gần, và được Chúa soi sáng, cha đã nói:

- Chồng bà đã được cứu thoát.

Quá ngạc nhiên và tỏ vẻ không tin, bà ta lại hỏi:

- Thưa cha, làm sao lại có thể như vậy?

Cha Vianney cắt nghĩa:

- Có Chúa ở giữa chiếc cầu và dòng sông. Chồng bà đã cùng rơi với Chúa và khi rơi, ông đã làm hòa với Ngài.

- Nhưng làm sao có thể như vậy được? Bà vợ hỏi lại:

- Ðó là một ơn của Ðức Mẹ. Cha Vianney trả lời và cắt nghĩa tiếp:

- Vì một hôm, trên đường từ đồng về nhà, chồng bà đã hái một đóa hoa đem chưng trước tượng Ðức Mẹ ở bên đường. Ðức Mẹ có thể quên được cử chỉ tốt đẹp này sao?

Mừng ngày sinh nhật của Mẹ Maria hôm nay, chúng ta hãy quyết hái nhiều chiếc hoa xinh đẹp dâng kính Mẹ. Nhất là chúng ta hãy tiếp tục làm những việc đạo đức thông thường dâng kính mẹ, như: lần hạt Mân Côi, đọc kinh truyền tin, nguyện kinh cầu. Nhưng chúng ta hãy làm những việc đạo đức thông thường ấy một cách phi thường. Có nghĩa là: miệng đọc, lòng suy và cố gắng đem ra thực hành trong đời sống, để cuộc đời của Ðức Mẹ, vốn đã trở nên một với cuộc đời của Chúa Giêsu, cũng được thể hiện trong cuộc sống của mỗi người trong chúng ta.

6. Cây tốt sinh trái tốt

Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong năm 1987 và năm 2002 khi về thăm quê hương Ba Lan của Ngài, thì cử chỉ đẹp nhất, đáng trân trọng nhất là việc Ngài viếng mộ song thân của Ngài. Viếng mộ song thân, Ðức Thánh Cha muốn gióng lên tiếng nói thâm sâu hãy hiếu thảo với cha mẹ, hãy bảo vệ gia đình. Có cha mẹ, mới có con cái. Thế cho nên, bảo vệ gia đình, làm cho gia đình hạnh phúc là điều Ðức Thánh Cha kêu gọi. Qua cử chỉ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II, mọi người Kitô hữu trên thế giới hãy tỏ lòng biết ơn cha mẹ, đấng sinh thành nên mình và hãy bảo vệ gia đình, vì gia đình là nền tảng của xã hội và là Giáo Hội nhỏ. Con cái là hoa quả của tình thương yêu của cha mẹ. Cây tốt sinh trái tốt. Maria là hoa quả đầu mùa và quí giá nhất của hai thánh Gioakim và Anna.

Ngày sinh của Mẹ Maria là niềm vui, hạnh phúc của toàn thể nhân loại, mặc cho nhân loại ý nghĩa cứu độ và hồng phúc.

7. Món quà Chúa tặng

Có lần các du khách đang thăm viếng các hang động Carlsbad nổi tiếng ở Mexico thì đèn đuốc bỗng nhiên tắt ngúm. Trong đám người quờ quạng trong bóng tối có hai em bé khóc thét lên vì khiếp sợ. Lúc đó người mẹ của hai em lên tiếng bảo: “Các con đừng sợ. Sẽ có người bật đèn sáng trở lại cho chúng ta…”

Trình thuật của sách Sáng Thế về tội nguyên tổ tiên báo một người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn. Đó là tia sáng an ủi và hy vọng cho nhân loại đang chìm trong bóng tối tội lỗi đầy sợ hãi và thất vọng. Tia sáng đó trở thành chùm sáng trong ngày sinh của Đức Ma-ri-a báo hiệu hừng đông của kỷ nguyên ơn cứu độ đang đến gần. Mẹ là tặng phẩm tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho toàn thể nhân loại “bởi Mẹ sinh ra Mặt Trời Công Chính là Chúa Ki-tô, Người đã chiến thắng sự chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời” (Đức Gioan Phaolô II).

Mừng sinh nhật Mẹ Ma-ri-a là dịp để tạ ơn Chúa về kỳ công Chúa làm nơi Mẹ để thực hiện chương trình cứu độ chúng ta.

8. Gia phả

Nhờ còn giữ được gia phả, một gia đình người Hàn Quốc đã tìm được nguồn gốc của mình là nhà Lý ở Việt Nam. Họ hãnh diện về dòng dõi hoàng gia của họ. Thánh Kinh vẫn dùng từ “gia phả” để chỉ tính liên đới của nhiều người thuộc nhiều thế hệ phát sinh từ một gia đình, một nguồn cội. Khi thuật lại gia phả Đức Giêsu, Thánh Kinh muốn nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa loài người từ thời A-đam đến Chúa Ki-tô. Nếu vì liên đới với A-đam và chịu hậu quả bởi tội của A-đam, thì nay, trong Đức Ki-tô, dòng dõi con người cho đến ngày tận thế được ban phúc trở nên dòng dõi các kẻ tin, dòng dõi được Chúa chọn. Hiểu như thế, Mẹ Ma-ri-a không khỏi vui mừng hân hoan, vì Mẹ được thuộc về dòng dõi Đức Ki-tô.

Qua bí tích Thánh Tẩy, bạn thuộc về gia đình Thiên Chúa, là dòng dõi các thánh. Có niềm hạnh phúc và tri ân nào nơi tâm hồn bạn, khiến cuộc đời bạn nhảy mừng ngợi khen Thiên Chúa như Đức Ma-ri-a không?

9. Xin vâng

Bài Tin Mừng hôm nay về màu nhiệm Nhập thể, gồm ba tiếng Xin Vâng.

Tiếng Xin Vâng thứ nhất của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, được thụ thai bởi quyền năng Thánh Thần, để cứu dân mình khỏi tội.

Tiếng Xin Vâng thứ hai của Đức Maria, cô trinh nữ làng Nadarét. Maria đã đón lấy Đấng Cứu thế bằng cả tâm hồn và thân xác mình.

Tiếng Xin Vâng thứ ba của Thánh Giuse, người bạn đời của Đức Maria. Nghe lời trong giấc mơ, và vâng lời khi thức dậy.

Nhờ tiếng Xin Vâng này mà Con Thiên Chúa có chỗ dựa của người cha, và Maria được tiếp nhận như một người vợ đàng hoàng.

Mỗi lần mừng sinh nhật của mình, chúng ta lại nhớ đến ước mơ của Chúa về ta. Vẫn cần những tiếng Xin Vâng của tôi để Thiên Chúa cứu cả thế giới.

Lời Chúa Tuần 22 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch