LỜI CHÚA TUẦN 24 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 24B – ĐẤNG KITÔ CHỊU ĐAU KHỔ
LỄ THÁNH MAT-THÊU - ĐỨNG DẬY - ĐI THEO CHÚA
THỨ BA - NGƯỜI CHẾT THÀNH NAIM
THỨ TƯ - THÁI ĐỘ THIẾU NHẤT QUÁN
THỨ NĂM - YÊU MẾN NHIỀU, THA THỨ NHIỀU
THỨ SÁU - VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LOAN BÁO TIN MỪNG
THỨ BẢY - DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG
CNTN 24A - THA THỨ 70 LẦN 7
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa
Giêsu rằng: "Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ
mấy lần. Có phải đến bảy lần không?" Chúa Giêsu đáp: "Thầy không bảo
con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy.
"Về vấn đề này, thì Nước Trời
cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn
đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ
ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền
sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: "Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ
hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả." Người chủ động lòng thương, trả tự do
và tha nợ cho y.
"Khi ra về, tên đầy tớ gặp
một người bạn mắc nợ y một trăm bạc: Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: "Hãy
trả nợ cho ta." Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng:
"Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh." Y
không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong.
"Các bạn y chứng kiến cảnh
tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện. Bấy giờ chủ
đòi y đến vào bảo rằng: "Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho
ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi
như ta đã thương ngươi?" Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến
khi trả hết nợ.
"Vậy Cha Ta trên trời cũng
xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ
cho anh em mình."
TRUYỆN
KỂ
1. Tha
thứ là tuyên xưng đức tin
Trong cuộc nội chiến xảy ra tại
Tây Ban Nha vào năm 1936, có một vị linh mục bị bắt và bị tống giam. Trước khi
ra mặt trận, đoàn quân muốn giết tất cả những tù binh mà họ giam giữ. Thế là một
tốp lính được lệnh giải ngài tới một nghĩa trang để xử bắn.
Thế nhưng trước khi hành quyết,
ngài đã xin một đặc ân cuối cùng đó là được ôm hôn tất cả tốp lính sẽ bắn ngài.
Hành vi này muốn nói lên một sự chân thành tha thứ, khiến cho một tên lính đã
xúc động và sau này anh ta đã trở về với Giáo Hội. Cũng như Chúa Giêsu, trên thập
giá Ngài đã tha thứ cho tất cả bọn lý hình đã nhúng tay vào máu Ngài: Lạy Cha
xin Cha tha cho chúng vì chúng chẳng biết việc chúng làm.
Hãy tha thứ cho nhau để rồi
Thiên Chúa mới sẽ tha thứ cho chúng ta.
2. Không
ai cố tình làm điều ác.
Ngoài ra, nhà hiền triết Socrate
cũng có cùng quan điểm như thế. Ông nhận định rằng: "không ai cố tình làm
điều ác" và "sở dĩ người ta làm điều ác là vì mù quáng, thiếu hiểu biết"
Dale Carnegie, một học giả trứ
danh người Mỹ nổi tiếng với nhiều tác phẩm bán chạy nhất thế giới quả quyết rằng:
"Tôi đã bỏ ra gần 70 năm trong đời để khám phá ra chân lý nầy là dù người
ta có lỗi nặng đến đâu, thì trong 100 lần phạm lỗi, thì có đến 99 lần người ta
tự cho là mình vô tội." Phần lớn các phạm nhân cho rằng mình vô tội vì
nghĩ rằng những hành động họ làm được thúc đẩy bởi lòng tốt chứ không phải bởi
ác tâm.
Xét lại bản thân mình, chúng ta
thấy rằng dù mỗi người chúng ta đã từng phạm nhiều lầm lỗi trong cuộc sống,
nhưng chưa bao giờ chúng ta hành động vì ác tâm. Từ đó suy ra, trong phần đông
nhân loại, không mấy ai cố tình làm điều ác. Vì thế chẳng nên kết tội người
khác nhưng hãy sẵn sàng thứ tha cho họ.
Tóm lại, để có thể tuân giữ lời
mời gọi tha thứ liên lỉ, tha thứ không ngừng của Chúa Giêsu, chúng ta cần xác
tín như nhà hiền triết Socrate rằng: "Không ai cố tình làm điều ác",
"sở dĩ con người phạm phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình."
Và hãy ghi tâm lời nhận định của
Charlie Charplin: "con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của mình.
Thế nên, người khôn thì thương xót họ, người ngu thì lên án họ."
Và nhất là học theo gương Chúa
Giêsu, cảm thông sâu sắc với người tội lỗi, cầu xin Chúa Cha tha thứ cho họ vì
họ mù quáng, "không biết việc họ làm"
3.
Tình yêu dẫn đến niềm tin
Ở bên Nhật, có một tên sát nhân
khét tiếng đã từng giết hại nhiều người, hắn chẳng may bị bắt và bị tống giam
trong ngục, chờ ngày lãnh nhận bản án tử hình. Thế rồi có hai phụ nữ đạo đức đã
tới thăm viếng và trò truyện với hắn, nhưng hắn đã đáp lại bằng một cái nhìn hằn
học. Trước khi ra về, họ đã để lại cho hắn cuốn Phúc âm với hy vọng mong manh
là hắn sẽ đọc.
Quả thật, vì chẳng có việc gì
làm, nên hắn đã tò mò mở ra, và rồi hình như có một sức thu hút nào đó, khiến hắn
tiếp tục đọc, đọc mãi cho đến lời cầu của Chúa Giêsu trên thập giá:
- Lạy Cha, xin tha cho chúng vì
chúng không biết việc chúng làm.
Hắn đã dừng lại và nói:
- Sự kiện trên đã làm cho tôi
xúc động và tôi cảm thấy dường như sự hung dữ và tàn bạo của tôi đã tan biến, bởi
vì tôi đã tin.
4.
Tha thứ thật là khó
Có một lần sau khi giảng về lòng
bao dung tha thứ, vị linh mục hỏi các giáo dân của mình ai sẽ sẵn sàng tha thứ
cho kẻ thù. Khoảng một nửa trong số họ giơ tay lên. Chưa hài lòng, ông giảng
thêm 20 phút nữa và hỏi lại câu hỏi cũ. 80% giáo dân giơ tay. Vẫn chưa hài
lòng, ông giảng thêm 15 phút nữa và lặp lại câu hỏi trên. Nôn nóng về bữa ăn
trưa tuyệt vời của ngày chủ nhật, tất cả giáo dân đều đưa tay lên trừ một ông
lão.
- Ông Jones, ông không sẵn sàng
tha thứ cho kẻ thù à?
- Tôi không có kẻ thù nào.
- Thật lạ lùng. Thế ông bao
nhiêu tuổi rồi?
- 86.
- Ông Jones này, ông hãy vui
lòng lên đây và cho mọi người biết bí quyết để một người sống đến 86 tuổi mà
không có một kẻ thù nào cả.
Ông lão bước lên phía trước rồi
từ từ quay lại:
- Dễ ợt. Chẳng qua là tôi sống
lâu hơn chúng nó thôi
5.
Không biết lỗi của mình
A nói với B: "Khu nhà tôi vừa
dọn về một ông hàng xóm bất lịch sự. Tối hôm qua, đã gần một giờ sáng rồi mà
ông ta còn qua đập cửa nhà tôi rầm rầm." B hỏi: "Thế anh có báo cảnh
sát không?" A trả lời: "Không, tôi mặc kệ ông ta, xem ông ta như thằng
điên vì lúc ấy tôi đang tập thổi kèn saxophone."
Chuyện gì cũng có nguyên nhân, nếu
biết trước lỗi của mình thì hậu quả sẽ khác đi. Tuy nhiên, chúng ta lại thường
ít khi thấy mình sai, nhưng lại dễ dàng thấy người khác sai.
6. Ở
lành gặp lành
Có một bác nông dân đã quá khổ sở
vì sự thiếu trách nhiệm của những người hàng xóm. Mặc dù nhà không nuôi gà
nhưng gà hàng xóm lại bới nát và phá hoại hoa màu của bác. Vốn bản tính hiền
lành luôn "dĩ hòa vi quý", không muốn ăn miếng trả miếng như thói thường
người đời. Bác đã nhiều lần van xin láng giềng vui lòng nhốt gà lại. Nhưng chẳng
ai chú ý đến lời yêu cầu của bác. Bầy gà cứ thản nhiên sang vườn bác bới móc
tìm mồi.
Thế rồi, một buổi sáng đẹp trời,
Bác ra chợ mua một ít trứng gà để vào một cái giỏ, rồi cứ vài ngày lại đưa sang
cho những người láng giềng và giải thích rằng đó là trứng mà bầy gà của họ đã đẻ
trong vườn của bác. Bác làm như thế liên tiếp ba lần. Quả thực kết quả đã diễn
ra rất nhanh chóng. Chỉ trong một tuần lễ, người láng giềng nào cũng tự động
rào dậu thật kỹ để giữ cho gà của mình không sang đẻ ở nhà bác nông dân nữa.
Vâng, Bác nông dân chỉ mất tiền
mua ít trứng gà mà bác đã tránh được một cuộc tranh chấp vô ích có thể làm sứt
mẻ tình hàng xóm. Cuộc sống chung là vậy, nếu biết nhịn nhục và kiên nhẫn một
chút là ta có thể tìm ra nhiều giải pháp tốt nhất để gìn giữ sự hòa thuận, êm đềm
cho gia đình, cho xóm làng chúng ta.
7. Xung
đột là vô nghĩa
Theo ABC News, ông Yigal Cohen,
một người Itraen bị đau tim nặng vừa nhận được trái tim của một người Palestin
trong cuộc phẫu thuật ngày 5-6-2000, Gia đình ông Mazen Joulani, người hiến tặng
tim, cho biết ông vừa bị những người Do Thái bắn hại tại một tiệm cà phê ngoài
trời.
Gia đình này quyết định hiến tim
của Joulani vào thứ sáu tuần qua, ngay trong ngày mà cuộc nổ bom ở Tel Aviv làm
thiệt mạng 21 người. Những phần nội tạng khác của Joulani cũng sẽ được ghép cho
một số người Itraen khác.
Bác sĩ Lavie, người thực hiện ca
mổ, nói khi ông cầm hai trái tim trong tay, ông nhận ra rằng tất cả những mâu
thuẫn sắc tộc là hoàn toàn vô nghĩa.
8.
Con Chúa phải tha thứ
Liền sau Thế chiến thứ hai chấm
dứt, bà Corrie-Ten-Boom, với những vết thẹo trên thân thể, tàn tích của những
khổ hình mà bà phải chịu trong trại tập trung Đức Quốc Xã, đã dấn thân đi khắp
các nước Âu Châu để rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình. Bà rao
giảng sứ điệp tha thứ với niềm xác tín là chính mình đã thực sự tha thứ cho tất
cả những ai đã hành khổ bà trong trại tập trung.
Nhưng vào trong một ngày Chúa Nhật
kia, sau khi đã kêu gọi mọi người tha thứ cho nhau trong nhà thờ của thành phố
Munich, ở Đức, bước ra ngoài, bà Corrie-Ten-Boom bất ngờ đối diện với một gương
mặt quen thuộc, đó là dung mạo của người lính đã hành khổ bà và hàng ngàn nữ tù
nhân khác trong trại tập trung Đức Quốc Xã. Những tiếng than khóc, những cảnh
tra tấn phút chốc xuất hiện trong tâm trí bà. Những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh
mẽ trong tâm trí bà. Người đàn ông tiến lại gần khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt
lấy tay bà vừa nói: “Thưa bà, tốt rất cảm ơn những lời đẹp đẽ bà đã kêu gọi cho
sự tha thứ, xin bà tha thứ cho tôi."
Lúc đó, bà Corrie-Ten-Boom như
chết điếng người, vì trước đây nhiều lần bà đã cầu nguyện và đã nhất quyết với
Chúa là đã tha thứ thật sự cho kẻ hành khổ mình, nhưng giờ đây phải đối diện với
một người cụ thể đã từng tra tấn mình, bà Corrie-Ten-Boom đứng lặng im, hai bàn
tay không thể nào đưa ra bắt lấy đôi tay của người đến xin bà tha thứ.
Sau này, vào năm 1971, khi kể lại
biến cố trong tập sách có tựa đề: “Nơi ẩn trốn”, bà Corrie-Ten-Boom đã cho biết
như sau: “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa một lời cầu
nguyện thầm: “Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ
con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như
Chúa." Và chính trong lúc đó, bà đã hiểu là con người chỉ có thể tha thứ
cho nhau khi nhìn nhận tình thương yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa.
9.
Sức mạnh của tình yêu tha thứ
Một câu chuyện có thật, nó mang
đầy tính nhân đạo, đầy tình người trong phòng xử án của Tòa Án Nhân Dân Thành
phố HCM: Người đàn ông khoảng hơn 70 tuổi, mái tóc bạc trắng, lững thững bước lại
chiếc bàn dành cho đại diện hợp pháp của người bị hại. Đưa ánh mắt đau xót, khắc
khoải nhìn bị cáo đang cúi gằm mặt trước vành móng ngựa một hồi lâu, rồi ông cất
giọng chậm rãi: "Ngày con tôi chết, tôi bồng con trên tay, điếng người."
Cả phòng xử im lặng lắng nghe.
Không gian như ngưng đọng. Tôi có cảm giác phạm nhân đang gồng mình chờ đợi, một
cách cam chịu, những lời lẽ trách cứ đầy oán giận từ người nhà nạn nhân. Hít một
hơi thở thật sâu, cha của nạn nhân khó nhọc nói tiếp: "Hôm nay tôi đến đây
để xin tha tội chết cho kẻ đã giết con tôi. Tôi không muốn có thêm một người
cha, người mẹ phải đau khổ khi chứng kiến cái chết của con mình." Nhiều tiếng
thì thầm từ phía bạn bè, người thân của phạm nhân. Họ đang hy vọng.
Tâm sự với tôi, cha của nạn nhân
nói: "Vì tình thương yêu đối với con, tôi không bao giờ tha thứ cho kẻ đã
giết con gái mình. Con tôi chết, bao nhiêu tiền bồi thường cũng không thể trả lại
mạng sống cho nó, huống chi số tiền gia đình phạm nhân đưa không đủ để tôi nuôi
con tôi học trong một năm. Nhưng một lần nói chuyện với mẹ phạm nhân qua điện
thoại, bà ấy nói: "Không có người mẹ nào có thể chịu được hình ảnh người
ta cột con mình vào một cái cây để bắn. Như thế, thà tôi chết trước còn
hơn." Vậy là tôi quyết định, dù điều đó thật không dễ với tình cảm của tôi
cùng sự phản đối quyết liệt của gia đình."
Trước đó không lâu, Tòa Án Nhân
Dân Thành phố HCM đã đưa vụ án giết người của kẻ thủ ác ra xét xử sơ thẩm. Lần ấy,
phạm nhân bị tuyên án tử hình. Mẹ phạm nhân ngất lịm, tưởng như có thể chết
cùng đứa con trai duy nhất. Bạn bè phạm nhân khóc vì thương người bạn hiền
lành, tốt bụng, tài năng. Còn 15 ngày kháng cáo, họ chạy ngược xuôi mong tìm kiếm
những tình tiết có thể xin giảm nhẹ hình phạt cho phạm nhân. Bản thân phạm
nhân, nghĩ đến ngày phải vĩnh viễn ra đi khi nhiều mơ ước vẫn chưa thực hiện bỗng
thấy yêu da diết cuộc sống. Phạm nhân làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Đứng trước Tòa Phúc thẩm Tối
cao, phạm nhân không nói gì nhiều để biện minh cho hành vi tàn nhẫn của mình. Lời
nói sau cùng, phạm nhân xin lỗi gia đình nạn nhân, cám ơn những người đã vì phạm
nhân mà chịu nhiều đau khổ, vất vả. Trong trường hợp không được khoan hồng, phạm
nhân xin hiến toàn bộ nội tạng cho ngành y và bộ xương cho Trường Đại Học Mỹ
thuật Thành phố HCM. Nghe phạm nhân nói, nhiều người bạn của phạm nhân đã bật
khóc. Cuối cùng, phạm nhân đã trở về con người thật của mình. Yêu nghề, yêu trường
và sống vì người khác.
Để có thể dự phiên tòa hôm nay,
từ 3 giờ sáng, ông phải một mình đi xe máy từ miền quê nghèo miền sông nước lên
Thành phố HCM. Tôi bảo, ông có thể viết một lá đơn xin miễn tội chết cho phạm
nhân đến tòa vẫn được. Ông lắc đầu: "Giúp người phải giúp cho trót. Tôi phải
lên đây nói cho rõ, may ra Hội đồng Xét xử mới tin mà xem xét cho nó. Mong là
nó biết hối lỗi, biết thương mẹ mà sống có ích."
Cuối cùng, Hội đồng Xét xử cũng
chấp nhận kháng cáo của phạm nhân, tuyên phạt án chung thân. Phạm nhân sẽ tiếp
tục được sống để sửa chữa sai lầm và để có cơ hội cống hiến tài năng của mình
cho nghệ thuật. Nghe xong bản án, cha của nạn nhân vội vã ra bãi gửi xe. Trước
mắt ông là quãng đường về nhà dài dằng dặc cùng nỗi đau mất con không dễ nguôi
ngoai dù thời gian có trôi qua...
10.
Tha thứ, mùa xuân tình yêu
Văn hào Nga, Lêon Tolstoi kể câu
chuyện ngụ ngôn.
Có một người hành khách đến trước
cửa nhà một người giàu có để xin bố thí. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin,
người giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc không chịu đựng đựơc những lời
van xin đó, thay vì bố thí, người giàu có đã lấy đá ném vào người hành khất.
Con người khốn khổ ấy lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong miệng:
ta sẽ mang hòn đá này cho đến ngày nhà ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để
ném trả lại ngươi.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ
của người hành khất đã thành sự thật. Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất
cả tài sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất cũng chứng kiến
cảnh người ta áp giải người giàu có vào ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng,
ông đi theo đoàn người áp giải, tay không rời hòn đá mà người giàu có đã ném
vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa
sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên mình. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều
tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống đất
rồi tự nhủ: tại sao ta phải mang nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người
này giờ đây chỉ là một kẻ khốn khổ như ta mà thôi.
Có hai thứ mùa xuân. Xuân đất trời
và xuân tâm hồn. Xuân đất trời, mầm non nẩy lộc, cây cối xanh tươi. Xuân tâm hồn,
bình an thanh thản. Người hành khất đã tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vì biết tha thứ
nên tâm hồn mang nặng hờn căm oán ghét giờ đây đã hồi sinh, nảy mầm. Từ đây, cuộc
sống trở nên tươi đẹp. Mới mẻ của mùa xuân tâm hồn con người là sự tha thứ.
Tin Mừng tuần trước, Chúa Giêsu
dạy hãy sửa lỗi cho nhau. Tin Mừng tuần này, Chúa dạy hãy tha thứ. Góp ý xây dựng
là một nét đẹp của tình yêu. Tha thứ là mùa xuân của tình yêu.
11.
Yêu kẻ thù là yêu chính mình
Tới đây, tôi xin kể lại một mẩu
chuyện có thật xảy ra vào thời đệ nhị thế chiến. Bấy giờ quân Đức chiếm đóng nước
Pháp và bắt nhiều người đi làm tù binh, trong số đó có Đức Giám mục Théas. Ngày
kia các bạn tù xin ngài giảng phòng. Ngài bèn cho ngay đề tài: yêu thương kẻ
thù. Các bạn tù có vẻ không bằng lòng và nói với ngài: Tại sao chúng ta lại phải
tha thứ cho bọn Đức Quốc xã, là bọn mỗi ngày đã giết hại biết bao nhiêu bạn hữu
của chúng ta. Đức cha đã trả lời: Cha chỉ có thể lặp lại giới luật của Chúa
Giêsu: Hãy yêu thương kẻ thù. Rồi ngài cất cao giọng đọc kinh Lạy Cha và nhấn mạnh
tới lời van xin: Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng
con.
Ngày hôm sau được phép cử hành
thánh lễ, ngài quyết định dâng thánh lễ cầu cho những người Đức. Và cũng từ
ngày đó, ngài có một ý tưởng manh nha thành lập phong trào Pax Christi, một
phong trào quốc tế tranh đấu cho hòa bình. Sau khi chiến tranh kết thúc, ngài
được cử làm Giám mục Lộ Đức, và chính ngài đã tổ chức cuộc hành hương quốc tế của
phong trào Pax Christi. Trong cuộc hành hương này người ta nhìn thấy những người
trước đây vốn là thù địch của nhau như Đức, Pháp, Anh, Ý… cùng chắp tay cầu
nguyện cho nhau, và quên đi cái dĩ vãng đen tối. Là người Công giáo chúng ta có
bổn phận phải tha thứ cho nhau, chứ không được giữ mãi sự thù oán.
Cách thức bảo đảm nhất để thoát
khỏi sự công thẳng của Thiên Chúa và kéo được lòng thương xót của Ngài đó là
hãy tha thứ cho nhau.
12.
Sức mạnh của tình yêu tha thứ
Trong một căn nhà lụp xụp tại một
xóm nghèo thuộc vùng ngoại ô thành phố, một người đàn bà đáng thương phải sống
những ngày hẩm hiu với đàn con thơ dại. Chồng bà là một người cha tục tằn thô bạo,
chỉ biết ăn chơi nhậu nhẹt và cờ bạc, không thiết chi đến bổn phận đối với gia
đình. Ông vắng nhà suốt ngày, các con của ông chỉ thấy ông trở về mỗi buổi tối
trong cơn say mèm hoặc trong trận lôi đình đập đánh, chửi rủa. Những lúc như thế,
bà vợ chỉ biết đem các con giấu đi để bảo đảm tính mạng cho chúng. Ngày ngày bà
cực nhọc vá may, hoặc vất vả giặt giũ từ nhà này sang nhà khác để kiếm tiền
nuôi con. Trong thinh lặng, bà nhẫn nhục cam chịu mọi bạc bẽo và những trận đòn
oan ức của chồng.
Vào một buổi tối kia, ông trở về
nhà muộn hơn thường lệ, nhưng tỉnh táo và ít say sưa hơn. Vừa bước tới hè nhà,
ông nghe tiếng thì thầm từ trong nhà vọng ra. Một nỗi nghi ngờ xâm chiếm tâm hồn
ông. Máu ghen bừng bừng nổi dậy và nghĩ rằng: “thật vô phúc cho kẻ nào rơi vào
tay ta." Ông đứng lại trước cửa và ghé tai vào vách, trố mắt nhìn qua khe
hở: quanh ngọn đèn dầu leo lét, ông thấy các con nhỏ quây quần bên cạnh vợ ông,
ông nghe rõ tiếng bà nói với các con: “Các con hãy đọc thêm một kinh Lạy Cha để
cầu nguyện cho người cha tốt lành của các con."
Trước khung cảnh đầm ấm tình mẫu
tử đó, bỗng chốc lửa hung ác trong trái tim ông như tắt ngúm, tâm hồn cứng cỏi
của ông trở nên như sáp ong mềm ra trước hơi nóng, mắt ông như bừng sáng sau một
cơn mê ngủ dài, ông đã nhận ra tấm lòng tốt và tình yêu quảng đại của vợ ông,
người mà từ trước đến nay ông vẫn ngược đãi. Vợ ông không những đã tha thứ mà
còn tìm cách xoá bỏ hình ảnh xấu về ông bằng cách in vào tâm trí các con mình
hình ảnh tốt lành của ông như một người cha. Ông cảm thấy như có cục than hồng
đốt cháy trên đầu ông, và từ ngày đó ông nhất quyết trở nên một người cha tốt
lành, người chồng chung thuỷ và có tinh thần trách nhiệm như vợ con ông hằng
nghĩ tốt về ông.
13.
Không làm tù nhân cho lòng hận thù
Khi cựu tổng thống Bill Clinton
gặp cựu tổng thống Nam Phi Nelson Mandela lần đầu tiên sau khi được thả ra khỏi
tù, ông Clinton nói: “Khi ông được thả ra khỏi nhà tù, tôi đã đánh thức con gái
tôi dậy vào lúc 3 giờ sáng. Tôi muốn cô bé chứng kiến biến cố lịch sử này."
Rồi ông Clinton chuyển sang một câu hỏi đã in trong tâm trí từ lâu: “Khi ông bước
ra khỏi khu nhà tù, băng ngang qua cái sân tới cổng nhà tù, máy thu hình đã tập
trung vào khuôn mặt của ông. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy sự giận dữ và hận thù
trên khuôn mặt của bất cứ một người nào được diễn tả như trên khuôn mặt của ông
vào lúc đó. Đó không phải là Nelson Mandela mà tôi biết hôm nay”, Clinton nói.
“Điều gì đã làm ông thay đổi?”
Mandela trả lời: “Tôi ngạc nhiên
rằng ông đã nhìn thấy điều đó, và tôi tiếc rằng những chiếc máy thu hình đã chộp
được cơn giận của tôi. Khi tôi bước qua sân nhà tù ngày hôm đó tôi tự nghĩ rằng
họ đã tước đoạt đi tất cả mọi sự của tôi. Sự nghiệp đã chết. Gia đình đã mất. Bạn
bè đều bị giết. Bây giờ họ thả tôi ra, nhưng chẳng còn gì nữa cả. Và tôi thù
ghét họ vì cái họ đã tước đoạt cuộc đời của tôi. Nhưng rồi, tôi tự cảm thấy một
tiếng nói tự bên trong ngỏ với tôi: “Nelson! Ông là tù nhân của họ 27 năm,
nhưng ông đã luôn luôn là một người tự do! Đừng để họ thả ông ra làm một người
tự do, rồi lại biến ông thành tù nhân của họ qua sự hận thù."
14.
Tha thứ dễ nói nhưng khó làm
Vào thời hậu thế chiến thứ hai
bên Âu Châu, cô Corrie Ten Boom, người sống sót từ trại tập trung Đức Quốc Xã
đã đi khắp nơi để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Khi thế chiến thứ hai
bùng nổ, gia đình của cô Corrie Ten Boom sinh sống ở Amsterdam, Hòa Lan, sống
nhờ cửa tiệm làm và bán đồng hồ. Khi quân đội Đức Quốc Xã chiếm Hòa Lan thì gia
đình cô dấn thân trợ giúp người Do Thái, và hậu quả là có người chỉ điểm làm
cho toàn gia đình cô bị bắt vào trại tập trung, chỉ còn lại một mình cô sống
sót tại trại tập trung mà thôi.
Sau thế chiến thứ hai, cô đi khắp
nơi bên Âu Châu để giảng thuyết về sự tha thứ và hòa giải. Một hôm sau buổi
thuyết trình tại Munich, Miền Nam nước Đức, một người đứng lên cám ơn cô về bài
thuyết trình thật hay, nhưng cô chết điếng người khi nhận ra người đàn ông sắp
đưa tay ra bắt lấy cô chính là người lính Đức Quốc Xã trước kia canh trại tập
trung, đã giam giữ cô và gia đình. Cô bỗng chốc nhớ lại tất cả những hành động
bỉ ổi của người lính đã xúc phạm đến con người, nhất là phẩm giá của những nữ
tù nhân trong trại mà anh lính này đã làm trước mắt cô ngày trước. Cô Corrie
Ten Boom lúng túng không kịp đưa tay ra bắt lấy tay người đã hành hạ mình, và
lúc đó cô mới hiểu thấm thía nói dễ nhưng làm khó. Chính lúc bấy giờ cô khám
phá ra mình cũng chưa thật sự tha thứ cho người đã xúc phạm đến mình trước đây.
15.
Nên tha hay không?
Aba Gayles kể lại một khúc quanh
của đời bà như sau: bà nhớ lại khi nhận được hung tin là con gái yếu dấu của bà
bị kẻ sát nhân, ông Mickey, đâm tới chết, bà đã bàng hoàng và cảm thấy đau đớn
tột cùng. Trong những ngày tháng sống trong đau buồn vì mất người con gái yêu dấu
và giận ghét đối với kẻ giết con mình, bà rất muốn trả thù cho con gái bà, bà
muốn kẻ sát nhân phải chết. Chính vì sống trong tâm trạng đó, bà Aba Gayles đã
sống xa cách mọi người, bà mất đi cuộc sống vui tươi.
Nhưng rồi qua học hỏi lời Chúa
và cầu nguyện, bà đã tìm lại được cuộc sống thật của bà và cuối cùng bà đã tha
thứ cho kẻ đã giết con gái của bà. Hơn thế nữa, bà còn thường xuyên đi thăm viếng
người hãm hại con gái bà đang ở trong tù để nâng đở tinh thần ông ta. Đây là sự
tha thứ mà chúng ta không dễ tìm thấy, nhưng đó là điều mà Lời Chúa trong hai
bài đọc hôm nay mong muốn nơi mỗi người.
16.
Ban phép lành cho kẻ hành hình
Người ta kể: trong cuộc nội chiến
tại Tây Ban Nha trong những năm 1930, các phiến quân triệt hạ giáo xứ, đốt phá
nhà thờ, và giết hại nhiều linh mục, giáo dân.
Một ngày nọ, bọn phiến loạn trói
giật cánh khuỷu một linh mục già và đem ra pháp trường xử bắn. Trước khi bị
hành hình, vị linh mục thều thào với viên chỉ huy:
- "Xin anh cởi trói cho tôi."
- "Chết đến nơi rồi thì cần
gì cởi trói", viên chỉ hay quát lại.
- "Tôi muốn ban phép lành lần
sau cùng cho các anh."
Nghe thế viên chỉ huy vô thần tức
giận vung chiếc rìu lên, chém đứt không chỉ sợi dây trói, nhưng còn luôn cả đôi
bàn tay linh mục.
Mặc dù đau đớn cùng cực, vị linh
mục vẫn giơ cổ tay đầy máu lên cao, vẽ thành hình Thánh Giá như dấu hiệu ban
phép lành. Ngài nói trong hơi thở đứt đoạn: "Tôi tha thứ cho các anh. Tôi
xin Chúa tha thứ và chúc lành cho các anh."
Một loại đạn vang lên, xác vị
cha già đổ xuống. Đầy máu.
"Hãy chúc lành cho kẻ bắt bớ,
chúc lành chứ đừng chúc dữ... Nếu kẻ thù ngươi đói hãy cho nó ăn; nó khát, hãy
cho nó uống. Làm thế ngươi sẽ chất than hồng trên đầu nó. Chớ để sự dữ thắng được
ngươi, nhưng hãy lấy lành mà thắng dữ" (Rm 12,14,20-21)
17.
Tha thứ hoán cải tâm hồn
Ngày nọ, Đức giám mục John
Selwyn thấy một cậu con trai người bản địa cư xử thô bạo với các trẻ khác, ngài
gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh
vào mặt vị giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trân. Nhưng vị giám mục không
cho họ làm gì. Rồi ngài quay lưng và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một nhà truyền
giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được Rửa tội.
Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn
lấy tên thánh là gì. Anh đáp: "Xin đặt là John Selwyn, vì chính ngài đã dậy
cho tôi biết đức Kitô là ai khi tôi đánh ngài?
18.
Gương tha thứ
Cha Christian de Chergé viết
chúc thư cho một người Hồi giáo nào đó đang tìm giết ngài: “Thưa bạn của giây
phút cuối cùng, bạn không hiểu điều bạn làm, cầu xin cho chúng ta là những người
trộm lành được gặp lại nhau trên thiên quốc, vì Chúa là Cha chung của chúng
ta!”
Ali Agca - người Hồi giáo cuồng
tín – đã ám sát Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II ngày 13-05-1981. Sau đó anh bị
bắt và giam tại nhà tù Rchibba ở Roma. Năm 1984, Đức Giáo hoàng ngay sau khi được
bình phục, ngài đã đem qùa đến thăm Ali Agca tại nhà tù đang giam giữ anh! Anh
hỏi lại Đức Giáo hoàng:
- Tại sao tôi đã bắn ông mà ông
không chết?”
Hành động của Đức Gioan Phaolô
II hơn hẳn ông Khomeini, chỉ vì Đức Thánh cha đã thấm nhuần lời thánh Tông Đồ dạy:
“Đừng lấy ác báo ác, nhưng hãy lấy lành mà thắng ác!” (Rm 12,21).
19.
Thiên đường và hỏa ngục
Một thiền sư đang ngồi xếp bằng
và để tâm trí trôi theo những suy tư thì bị quấy rối bởi một giọng nói khàn đục,
thiếu lễ độ của một kiếm sĩ Samurai: “Đâu là thiên đường, đâu là địa ngục?”
Ông từ từ mở mắt ra và chậm rãi
trả lời cho tay kiếm sĩ có vẻ thiếu kiên nhẫn nọ: “Ngươi hỏi ta về thiên đường
và địa ngục ư? Hỡi kẻ ăn mặc lôi thôi, lếch thếch; đầu tóc bù xù, hơi thở sặc
mùi hôi, tay cầm một thanh gươm cùn rỉ sét.”
Anh ta sôi máu lên, rút thanh kiếm
kê sát vào cổ vị thiền sư thì nghe ông nói: “Đây là địa ngục.” Nghe thế, anh
rút tay lại, lòng cảm phục người đã khinh cả mạng sống để dạy anh một bài học;
rồi nhớ lại bao người đã ngã gục dưới lưỡi kiếm này, anh buông thanh kiếm xuống
với giọt lệ trên khoé mắt, lúc đó anh nghe ông nói: “Đây là thiên đường.”
Lạy Chúa, có những lúc máu trong
tim con sôi lên vì giận dữ, xin đổ xuống lòng con Thánh Thần của Chúa, để con hợp
một ý với thánh Phanxicô mà dâng lời nguyện hòa bình: “Lạy Chúa, xin hãy dùng
con như khí cụ bình an của Chúa, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ
tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi
lầm….”
20.
Giáo hoàng của xin lỗi và tha ,ỗi
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II
được mệnh danh là “vị giáo hoàng của những lời xin lỗi.”
Trong cuộc đời giáo hoàng, đã
nhiều lần ngài nói lời xin lỗi với mọi người nhân danh Giáo Hội. Trong một hành
vi hòa giải công khai, vào tháng 4 năm 1986, ngài đã đi qua sông Tiber tới thăm
Hội Đường Do Thái Giáo ở Rôma. Ngài đã nối lại cây cầu đã gãy giữa Do Thái Giáo
và Giáo Hội Rôma trong suốt 20 thế kỷ. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên bước vào
Hội Đường Do Thái và đã đại diện Giáo Hội xin lỗi về những hiểu lầm, những bách
hại và hận thù đã xảy đến cho Do Thái Giáo.
Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II
cũng còn được mệnh danh là “vị giáo hoàng của lời tha lỗi” nữa.
Một năm sau biến cố 11-9-2001 (tức
là vào ngày 11-9-2002), Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói một câu đầy ý
nghĩa: “Thế giới không thể có hòa bình nếu thiếu lòng tha thứ .” Chính ngài đã
thực hiện điều đó khi đến tận nhà tù nói lời tha lỗi với kẻ đã ám sát ngài –
Ali Agca – vào ngày 27/12/1983.
Phải chăng ngài luôn mang nơi
mình hình ảnh của một Giáo Hội luôn biết nói lời “xin lỗi” và lời “tha lỗi”?
21.
Mẹ con mắc nợ nhau
Có đứa trẻ kia có thói quen luôn
đòi tiền mẹ mỗi khi giúp mẹ 1 việc gì. Ngày nọ, nó gửi cho mẹ nó 1 tờ giấy ghi
nợ:
– Nấu cơm: 5.000 đồng
– Lau nhà: 2.000 đồng
– Xách nước: 5.000 đồng
– Coi em: 3.000 đồng
TỔNG CỘNG: 15.000 đồng
Người thực hiện: con.
Đi học về nó thấy trên bàn học
mình 15.000 đồng và bên cạnh là 1 tờ giấy ghi hàng chữ:
– Sinh thành: không tính tiền.
– Dưỡng dục: không tính tiền.
– Ăn học: không tính tiền.
– Chi phí chữa bệnh: không tính
tiền.
TỔNG CỘNG: không đồng nào.
Ký tên
Mẹ.
Đứa trẻ vội vàng chạy đến gặp mẹ,
trả lại tiền và nói: “Con xin lỗi mẹ, bây giờ con mới biết, con mắc nợ mẹ nhiều
quá!”
Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa quá
nhiều, nhưng Chúa đã tha nợ cho chúng ta. Chúng ta cũng hãy biết tha nợ cho
nhau, để xứng đáng với tình thương bao la của Ngài.
22.
Từ hận thù đến tha thứ
Tháng 9 năm 1940, sau khi ký kết
với quân Đức-quốc-xã, Nhật Bản bắt đầu đem quân xâm chiếm toàn vùng Đông Nam Á.
Ngày 15-2-1942, Singapour - cứ điểm quan trọng cuối cùng - rơi vào tay Nhật Bản.
Quân đội đồng minh bị bắt buộc đầu hàng. Sáng sớm hôm sau, quân Nhật chiến thắng,
hiên ngang đi vào thành phố.
Từ đó, Nhật dùng các tù binh của
họ - trong đó có trung úy Eric Lomax, thuộc ngành truyền tin quân lực hoàng gia
Anh - vào việc xây đường xe lửa dài 400 cây số nối liền hai nước Thái Lan và Miến
Điện, tức Myanmar ngày nay.
Bị cắt đứt hoàn toàn với thế giới
bên ngoài, một nhóm tù binh nghĩ ra phương thế chế tạo máy thu thanh. Trung úy
Lomax nằm trong số tù binh có nhiệm vụ ráp máy này. Công việc thành công sau
vài tuần tỉ mỉ làm việc. Các tù binh bắt đầu nhận tin tức phát đi từ New Dehli,
thủ đô Ấn Độ.
Cuộc sống tại trại tù quá khổ.
Cái chết luôn rình rập bên cạnh. Ngoài cái khổ do việc làm quá nặng, ăn không
no, ngủ không được, còn thêm cái khổ khủng khiếp do các lính cai tù Nhật mang lại.
Họ hành hạ tù nhân bằng trận đòn chí tử. Hành hạ đến chết. Chết thảm thương trước
cái nhìn bất lực và khiếp sợ của các bạn đồng tù. Ý nghĩ trốn trại nẩy sinh từ
đó. Trung úy Lomax tự nhủ:
- Nếu muốn sống, thì bằng mọi
giá phải vẽ bản đồ trong vùng để tìm đường thoát thân.
Tuy nhiên, chàng biết rõ, ngày
nào lính Nhật phát giác ra chàng có bản đồ, cũng là ngày tận số.
Và chuyện phải đến đã đến. Trong
cuộc lục soát đồ đạc, lính Nhật khám phá ra máy Radio thô sơ và cái bản đồ.
Trung úy Lomax cùng một số tù binh khác bị chuyển đến trại Kanchanaburi, nằm gần
biên giới Thái Lan. Và những cuộc hành hạ khủng khiếp nhất bắt đầu.
Kể từ giây phút này, hình ảnh một
người Nhật bắt đầu đi vào tâm tư trung úy Eric Lomax và ám ảnh suốt cuộc đời
còn lại của chàng. Đó là viên thông dịch Nhật tên Takashi Nagase.
Năm đó Takashi Nagase là sinh
viên 25 tuổi, thông thạo tiếng Anh. Chàng còn là tín hữu Kitô sùng đạo và hết
lòng yêu mến quốc gia Nhật Bản. Thế chiến thứ hai bắt buộc chàng bỏ học, gia nhập
quân ngũ, phục vụ trong ngành thông dịch. Tháng 9 năm 1943, chàng được chỉ định
làm việc tại trại Kanchanaburi, nơi trung úy Eric Lomax, thuộc quân đội hoàng
gia Anh bị giam giữ.
Một ngày, trung úy Lomax bị mang
ra hỏi cung về tội mà Nhật gán cho chàng: chống lại người Nhật và làm gián điệp.
Lý do dễ hiểu vì chàng cộng tác vào việc chế tạo máy Radio và có tấm bản đồ
trong vùng.
Trước mọi câu hỏi, Lomax hoàn
toàn giữ im lặng. Chàng tuyệt đối không tiết lộ chi tiết, danh tánh có thể làm
hại bất cứ bạn đồng tù nào khác.
Trong các cuộc hỏi cung cũng như
trong những lần bị tra tấn vì từ chối không trả lời, trung úy Lomax luôn luôn đối
diện chàng thông dịch Nagase. Vì thấy Lomax bị hành hung quá sức chịu đựng,
Nagase khuyên chàng chấp nhận lời buộc tội. Lomax chỉ đưa đôi mắt nẩy lửa nhìn
chàng thanh niên Nhật, đang đứng trước mặt chàng. Đối với Lomax, chàng thông dịch
thấp-lùn tượng trưng cho tất cả tội ác của toàn dân Nhật. Nagase đi vào ký ức
và ám ảnh Lomax suốt cuộc đời còn lại.
Cuộc hỏi cung và tra tấn kéo dài
cả tuần lễ. Lomax gần như sắp chết. Nguồn lực duy nhất giúp chàng can đảm đối
phó với cuộc hành hung là lời cầu nguyện và tình yêu gia đình. Trong giây phút
đau đớn nhất, Lomax nhớ đến mẹ cha và vị hôn thê bé nhỏ của mình. Nhất là,
chàng cầu nguyện. Chàng cảm thấy ghi ơn thân mẫu vì dạy chàng biết cầu nguyện
cùng Thiên Chúa, ngay từ khi còn là cậu bé hồn nhiên vui sống.
Tháng 10 năm 1945, thế chiến thứ
hai chấm dứt. Eric Lomax được trả tự do và trở lại Anh quốc. Chàng lập gia đình
và sống cuộc đời bình thường. Nhưng tâm hồn Lomax bị vết thương chiến tranh hằn
sâu. Chàng không thể nào quên gương mặt viên thông dịch nhỏ bé người Nhật tên
Nagase. Chàng tự hứa với lòng:
- Ngày nào gặp lại Nagase, ta sẽ
ăn tươi nuốt sống cho hả cơn hận thù, luôn nung nấu trong lòng ta!
Trong khi đó, chàng thông dịch
Nhật vô cùng ân hận vì thụ động cộng tác vào vụ hành hung dã man tàn ác! Chàng
bị mặc cảm tội lỗi dày vò. Hình ảnh viên trung úy trẻ người Anh bị hành hung
đau đớn cứ bám sát chàng. Chàng khẩn cầu Thiên Chúa cho có ngày gặp lại trung
úy Eric Lomax để xin tha thứ!
Thiên Chúa Quan Phòng thu xếp
cho hai người có cơ hội gặp nhau, để giải tỏa mối thù hận cũng như niềm ray rứt
canh cánh bên lòng.
Ngày 21-3-1993 - đúng 50 năm sau
- Eric Lomax cùng với hiền thê lấy máy bay đi Bangkok. Sau đó vợ chồng đến viếng
trại tù Kanchanaburi, giờ trở thành bảo tàng viện chiến tranh. Bất ngờ tại đây,
ông Lomax chạm trán với người đàn ông Nhật cao tuổi. Sau giây phút ngỡ ngàng, cả
hai nhận ra nhau tức khắc!
Sau nhiền lần gặp gỡ giải tỏa nỗi
lòng, ông Lomax thành thật tha thứ cho người từng thụ động chứng kiến cuộc hành
hung mình. Cả hai như trút được gánh nặng ngàn cân từng đè nặng trên vai mỗi
người!
Từ đây hai người sống trong an
bình, niềm an bình sâu xa đến từ thú nhận lầm lỗi và tha thứ cho kẻ thù. Ông
Eric Lomax cảm nghiệm thế nào là quyền lực vô biên của tha thứ.
Trên
một chuyến xe lửa chạy về Varsava có ba thương gia ở chung một toa đang chơi
đánh bài. Ðến một trạm nọ, thêm một người bước lên nữa. Ba thương gia thấy có
thêm người liền rủ người ấy cùng chơi cho đủ bốn. Nhưng người khách từ chối
khéo. Họ cố mời mãi nhưng người khách vẫn cương quyết từ chối. Thế là họ nổi giận
và chửi rủa nặng lời. Người khách cũng làm thinh. Khi tàu đến ga cuối, mọi người
đều xuống.
Ba
thương gia thấy một đám người rất đông cầm hoa đến đón người khách ấy. Họ hỏi một
trong những người đó: Ông ta là ai mà được nhiều người hâm mô thế? Người khách
trả lời: Ðó là Rabbi Salomon, một Rabbi nổi tiếng khắp nước về lòng nhân từ và
đạo đức.
Khi
ấy ba thương gia mới hối hận vì những lời chửi rủa của mình. Một người tiến đến
Rabbi Salomon ngỏ lời xin lỗi. Nhưng vị Rabbi quay mặt đi, chẳng chịu tha. Các
tín đồ của ông ngạc nhiên quá, hỏi: "Thầy vốn là một người nhân từ và đạo
đức. Nhưng sao thầy không tha cho một kẻ đã biết lỗi và xin lỗi thầy?" Vị
Rabbi giải thích: "Kẻ mà anh ta đã chửi không là một hành khách tầm thường.
Còn người mà anh ta xin lỗi là Rabbi Salomon. Anh ta đã xin lỗi lầm người rồi."
Câu
chuyện có ý nói rằng: người ta dễ xin lỗi đối với những người có địa vị cao, có
quyền lực lớn. Nếu thương gia nọ không biết người mình đã chửi là một nhân vật
nổi tiếng thì chắc chắn anh ta không xin lỗi đâu.
24. Ai là hiền nhân quân tử?
Các
hiền nhân quân tử luôn đề cao sự tha thứ, đặc biệt các vị sáng lập các tôn
giáo, trong đó ta thấy có hai khuôn mặt dạy sự tha thứ nổi bật nhất là Phật
Thích Ca và Đức Giêsu. Nhưng về phương diện thực hành thì Đức Kitô là một tấm
gương sáng chói.
.
Nhà Nho dạy thế nào? Trong vấn đề cư xử, học thuyết của Đức Khổng Phu Tử còn giống
với luật báo oán của Cựu ước, ngài dạy học thuyết:”Dĩ trực báo oán." Nhưng
sau này, các đồ đệ của ngài muốn đi xa hơn, họ thêm vào học thuyết của ngài
câu:”Dĩ đức báo oán."
.
Ông Gandhi nói:”Luật vàng của xử thế là sự tha thứ lẫn nhau." Chính ông đã
dùng thuyết bất bạo động để giải phóng dân tộc Ấn độ khỏi ách thống trị của người
Anh.
.
Ông Tertullien nói:”Kẻ bị nhục, dùng sỉ nhục để báo thù, có khác gì người sỉ nhục
họ không? Chẳng qua là những kẻ cùng làm quấy như nhau, nhưng chỉ kẻ trước người
sau mà thôi."
.
Hiền triết Marc Aurèle nói:”Biết yêu kẻ đã xúc phạm mình, đó là hạnh phúc của
quân tử. Muốn được vậy, phải biết nghĩ rằng: những kẻ ấy là họ hàng thân thích
mình – Những kẻ ấy phạm lỗi, là vì không biết, chớ không phải cố ý – Những kẻ ấy
rồi chẳng bao lâu cũng cùng với ta mà chết – mà thứ nhất, những kẻ ấy, không có
làm thiệt hại cho mình chút nào cả, bởi họ không từng làm cho tâm tính mình hư
đi được."
.
Hiền triết Épictète có một lối suy nghĩ khác, vượt trên lối suy nghĩ của mọi
người. Ông tìm cách qui lỗi vào mình và không oán giận kẻ khác nữa. Nhà ông có
một chiếc đèn khá qúi, bị thằng ăn trộm lấy mất. Ông tự trách mình có chiếc đèn
qúi đã khêu gợi lòng tham của kẻ ăn trộm, chứ ông không trách lòng tham của đứa
ăn trộm ấy. Ông cho rằng chính người gây ra căn cớ cho sự ăn trộm mới là đáng
trách, và như vậy chính ông là thủ phạm.
25. Hoàng đế Trung hoa trả thù.
Một
hoàng đế Trung hoa nói:”Một khi chinh phục quốc gia ấy rồi, ta sẽ tiêu diệt tất
cả các địch thù của ta."
Ông
đã chinh phục nước ấy, và cả đình thần của ông chờ đợi một cuộc thảm sát địch
quân. Họ mong cho những địch thủ đó sau khi bị hành hình thì đem chém đầu. Họ rất
bỡ ngỡ khi thấy tất cả các địch thù ngồi ăn với vua và lại nói cười vui vẻ nữa.
Họ
tâu vua:
-
Muôn tâu hoàng thượng, hoàng thượng nói hoàng thượng sẽ tiêu diệt tất cả địch
thù kia mà.
Hoàng
đế trả lời:
-
Ta đã tiêu diệt bọn họ rồi đó, tiêu diệt bằng cách tha thứ cho họ và biến họ
thành những người bạn của ta (Diamond, Đồng cỏ non, 1968, tr 166).
26. Trọng danh dự
Một
thi hào Ý danh lừng bốn bể, ông Le Tasse, tác giả cuốn “Thành Giêrusalem được
giải cứu” có thời bị bao nhiêu quân thù ganh tị âm mưu ám hại. Người ta loan
tin xấu về ông. Các lời lăng mạ, vu khống đổ về ông như mưa bấc có ý cho ông ở
tù. Có người thân tín cho ông biết tên đầu sỏ của vụ vu oan cáo ông đã phạm một
tội nhục nhã tầy trời và yêu cầu ông phổ biến điều ấy ra để trả đũa.
Le
Tasse nghiêm trang trả lời:
-
Tôi không muốn làm mất danh dự và sinh mệnh của người ta. Tôi chỉ muốn bài trừ ở
họ ý muốn hành ác thôi: đó là sự phục thù độc nhất của tôi.
27. Hoàng đế Othon tha thứ
Dưới
thời hoàng đế Othon I, các vương hầu nổi lên làm loạn nhiều lần. Đặc biệt chính
bá tước Henri, em ruột của hoàng đế lại là kẻ cầm đầu quân phản loạn. Nhiều lần
bị hoàng đế đánh bại, ba lần bị lên án tử hình, nhưng được ân xá nhờ lời cầu khẩn
của hoàng thái hậu Mathilde. Lần thứ tư Henri lại nổi loạn, bị bắt, lại bị xử tử
hình. Hoàng đế nổi giận không muốn nghe sự thỉnh cầu của bất cứ ai. Mặc dầu biết
mất hết mọi hy vọng, nhưng Henri cố gắng lần cuối.
Đó
là hôm áp lễ Noel năm 945, hoàng đế và các vương hầu khanh tướng đến dự lễ tại
nhà thờ chính toà Quellimbourg. Đến phần phụng vụ lời Chúa, bá tước Henri mặc
áo nhặm xuất hiện trong nhà thờ, tiến đến và xấp mình dưới chân hoàng đế xin
tha mạng, nhưng Othon nhìn bá tước nghiêm khắc và nói:”Ba lần ta đã tha chết
cho ngươi mà ngươi vẫn cố tình, đừng xin xỏ nài nỉ gì nữa, ba ngày tới đầu
ngươi sẽ rơi. Đúng lúc đó vị chủ tế mở sách Phúc âm và đọc đoạn thánh Phêrô hỏi
Chúa:”Lạy Thầy, con phải tha cho anh em bao nhiêu lần? Có phải 7 lần chăng “?
Chúa đáp:”Ta không nói với con là 7 lần mà là 70 lần 7."
Nghe
lời đó, hoàng đế rúng động tâm can đến phát khóc và không những nhà vua tha mạng
cho đứa em phản loạn, mà còn ôm vào lòng rồi ban cho em lãnh thổ Bavier nữa
(Quê Ngọc, Dấu ấn tình yêu, năm A, tr 113-114).
28. Ai cũng có lý
Cách
đây không lâu, tại nhà của một quan toà ở Milano, bên Italia, đã xảy ra một câu
chuyện như sau: Có hai người tranh chấp với nhau lâu ngày, nhưng không thể phân
thắng bại. Cuối cùng hai người đã đưa nhau đến nhà quan toà của thành phố và
nhờ ông phân xử. Người thứ nhất trình bày câu chuyện và tự biện hộ cho mình.
Anh vừa dứt lời thì quan toà dõng dạc tuyên bố:
-
Anh có lý.
Đến
lượt người thứ hai đứng lên phân trần. Anh cũng đem mọi lý lẽ ra để làm nghiêng
cán cân công lý về với mình. Sau khi nghe anh trình bày dông dài, quan toà cũng
tuyên bố:
-
Anh có lý.
Cậu
con trai nhỏ của quan toà theo dõi câu chuyện từ đầu đến giờ thấy vậy rất ngạc
nhiên. Nó thành thật nói với cha của mình:
-
Làm thế nào mà cả hai đều có lý cả được ?
Quan
toà cũng đưa ra phán quyết về nhận xét của con mình như sau:
-
Con cũng có lý.
Mỗi
người chúng ta ai cũng có lý của mình, nhưng có lẽ chúng ta không muốn nhận ra
phần có lý của người khác, cũng như chính phần lỗi của mình. Và đó chính là diềng
mối của mọi bất hoà từ xưa đến nay.
Chính
vì thế mà mỗi người chúng ta cần phải biết tha thứ cho nhau. Cuộc sống chỉ có
thể thở được nếu mỗi người chúng ta biết cư xử bằng sự cảm thông và tha thứ.
29. Phải tha thứ vì chính ta cần được thứ tha.
Con
người ai mà chẳng có những khi lầm lỗi. Chính vì thế mà con người phải biết tha
thứ cho nhau.
Thánh
Gandhi nói: “Nếu ta chỉ áp dụng luật mắt đền mắt, răng đền răng thì thế giới sẽ
chỉ còn lại toàn là người mù." Tha thứ cần thiết cho con người như khí trời.
Mẹ
Têrêsa kể: “Tôi nhớ một lần kia, tôi lượm được một bà cụ đang thoi thóp từ giữa
đống rác. Tôi ẵm bà cụ lên và đem về nhà, đặt bà trên giường.
Bà
cụ biết rõ là mình sắp vĩnh biệt trần thế. Thế nhưng cụ chỉ cay đắng lặp đi lặp
lại:
-
Chính thằng con tôi đã đối xử với tôi như thế ? Chính thằng con tôi đã đối xử với
tôi như thế ?
Bà
không kêu: Tôi đang sắp chết đói, tôi đang sắp chết khát đây.
Bà
chỉ day dứt hoài một điều:
-
Thằng con tôi đã xử với tôi thế này!
Tôi
phải đợi mất một hồi lâu mới nghe được bà cụ thều thào:
-
Tôi tha thứ cho con trai tôi
Và
gần như chính lúc ấy bà thở hơi cuối cùng.
Một
lần khác có một anh thanh niên đang hấp hối, nhưng vẫn còn giằng co với cái chết
tới ba, bốn ngày. Một chị nữ tu hỏi anh:
- Tại
sao anh vẫn tiếp tục chiến đấu ?
-
Tôi không thể chết, nếu tôi chưa xin cha tôi tha thứ cho tôi.
Khi
cha anh đến, anh đã ôm lấy cha và xin cha thứ tha.
Hai
giờ sau, người thanh niên bình an từ giã cõi đời này.
30. Tha thứ để trở nên giống Chúa.
Một
hiệp sỹ dũng cảm tên là Hidebrand bị một bạn đồng nghiệp tên là Bruno nhục mạ nặng
nề. Hidebrand thề sẽ trả thù đích đáng. Ông suy nghĩ và chuẩn bị kỹ lưỡng
chương trình hành động. Cuối cùng, ơng chọn địa điểm và thời giờ thuận lợi. Ông
thức dậy giữa đêm, một mình võ trang đầy đủ đi đến nơi thanh vắng mà ông biết
Bruno sẽ đi ngang qua. Trên đường đi ông gặp thấy một ngôi nhà nguyện còn đang
mở cửa. Ông vào đó để chờ cho đến sáng. Trong khi chờ đợi ông tiêu khiển bằng
cách ngắm nhìn các bức tranh trong nhà nguyện.
Bức
tranh thứ nhất vẽ Chúa Giêsu mặc áo choàng đỏ, đầu đội mão gai, phía dưới có
ghi một hàng chữ bằng tiếng Latinh nội dung như sau: “Bị lăng nhục, Ngài không
đáp trả lại bằng lăng nhục."
Bức
thứ hai nhắc lại cảnh đau buồn khi Ngài bị đánh đòn, với hàng chữ “Khi chịu những
khổ đau như thế Ngài không hề đe dọa."
Và
cuối cùng, bức thứ ba trình bày Chúa Giêsu trên Thập Giá, với hàng chữ “Lạy Cha
xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm."
Nhìn
liên tiếp ba bức tranh như thế, tâm hồn Hidebrand bị xúc động mạnh. Ông quỳ gối
xuống và bắt đầu cầu nguyện. Dần dần cơn hận thù giảm đi, rồi biến mất. Ông còn
ngồi lại đó chờ kẻ thù của ông đến, nhưng chờ để tha thứ tận tình và để làm hoà
lại với nhau.
31. Thánh giá với cánh tay đưa xuống
Tại
một nhà thờ ở bên Tây Ban Nha, có một tượng Thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay
trái của Chúa Giêsu vẫn còn đóng vào gỗ thánh giá, nhưng cánh tay mặt thì rời
ra và đưa ra phía trước trong tư thế ban phước lành.
Người
Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng Thánh Giá này như sau: Một hôm có một tội
nhân đến xưng tội với một vị linh mục chính xứ ngay dưới chân cây thánh giá
này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị
linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội nặng cũng như
ngăm đe nhiều điều.
Tội
nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào tật đó, không bao lâu người
đó lại sa ngã. Lần này sau khi anh xưng thú tội lỗi, vị linh mục lại đe dọa như
sau: “Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho ông."
Nhiều
tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên dưới cây Thánh
giá và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này vị linh mục đã dứt khoát.
Ngài trả lời: "Ông đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể giải tội cho ông nữa."
Nhưng
lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân, thì bỗng ông nghe một tiếng
thì thầm từ bên Thánh giá. Bàn tay phải của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi
Thánh giá và ban phép lành cho tội nhân. Và vị linh mục lại nghe tiếng thì thầm
ấy như sau: “Chính ta là người đổ máu ra cho người này, chứ không phải là ngươi."
Bên
kia của sự oán thù, của sự không thể tha thứ, Chúa Giêsu muốn chỉ cho chúng ta
thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, không ngừng
ban phát ơn huệ, một tình yêu vượt lên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán,
mọi khát vọng của chúng ta.
32. Biết mình mới dễ tha thứ
Một
hôm gà con cứ theo bám riết lấy gà mẹ. Nó vừa khóc vừa kể cho mẹ
nghe về nỗi uất ức ma nó đang phải chịu. Nó nói: “Mẹ ơi, tụi thỏ
dám nhạo con rằng tai con chỉ bằng một góc tai của chúng." Gà
mẹ trả lời: “Con đừng để tâm đến những lời bọn thỏ nói làm chi, và
hãy tha thứ cho chúng, con nhé!"
Gà
con chưa chịu thua tiếp tục tố cáo: “Nhưng bọn cò lại bảo con rằng:
con chỉ cao bằng một phần năm cẳng chân của chúng!” Gà mẹ lại an ủi
con: “Con ơi! Đừng chấp với chúng làm chi!” Nghe mẹ nói thế, gà con
uất ức khóc to lên và nói: “Mẹ! Lúc nào mẹ cũng nói là phải tha
cho chúng, đừng thèm chấp với chúng. Còn con thì cứ phải chịu đựng
bị bọn chúng cười nhạo chế diễu hoài! Tại sao vậy hả mẹ?”
Bấy
giờ gà mẹ mới ôn tồn nói với gà con: “Tại vì bọn chúng nói đúng
mà con!" Gà con hỏi tiếp: “Sao lại đúng hả mẹ?" Gà mẹ trả
lời: “Tại vì con thật ra cũng chỉ là một con gà mà thôi!"
Giống
như chú gà con kia, chúng ta thường cảm thấy bị xúc phạm và khó
lòng tha thứ cho những kẻ dám cười nhạo khinh thường chúng ta, chỉ
vì chúng ta không dám chấp nhận sự thật yếu đuối hèn kém của mình.
Lòng khiêm tốn là điều kiện giúp chúng ta dễ dàng chấp nhận bỏ qua
những lời nói hành nói xấu hay lời chế nhạo của kẻ khác đối với
chúng ta.
33. Viết lên cát hay lên đá?
Có
hai người bạn thân cùng nhau đi trên sa mạc hoang vắng. Trong suốt cuộc hành
trình, họ đã tranh cãi với nhau nhiều lần, đến một lúc, có một người trong phút
nóng giận đã tát vào mặt anh bạn của mình. Khi đó, người bị tát dù cảm thấy rất
buồn, nhưng anh ta chỉ lẳng lặng dùng ngón tay viết lên bãi cát bên cạnh: “Anh
bạn đồng hành với tôi hôm nay đã đánh tôi." Sau đó hai người tiếp tục đi.
Khi
hai người đến một ốc đảo và quyết định nghỉ chân tại đây. Chẳng may, người bị
đánh khi nãy bước vào chỗ đầm lầy bị lún, mà càng cố thoát ra thì lại càng bị
lún sâu hơn. Rất may sau đó anh đã được người bạn kia cứu thoát khỏi chỗ lầy.
Sau
khi đã bình tĩnh lại, anh đã dùng con dao đeo bên mình khắc lên phiến đá gần đó
như sau: “Cám ơn anh bạn thân, vì đã cứu sống tôi khỏi vũng lầy."
Anh
bạn đã đánh và sau đó đã giúp đỡ ngạc nhiên hỏi: “Tại sao khi tôi đánh anh thì
anh viết lên cát, còn bây giờ khi tôi cứu anh thì anh lại khắc lên đá? ."
Người
kia cười và trả lời như sau: “Mỗi khi chúng ta bị đối xử tệ bạc hoặc bị người
khác làm tổn thương, chúng ta chỉ ghi sự tức giận lên cát, để với thời gian,
gió cát sẽ xóa nhòa điều ấy. Còn khi chúng ta được giúp đỡ, chúng ta hãy trân
trọng sự giúp đỡ đó và ghi khắc nó lên đá để sau này luôn nhớ đền đáp công ơn của
họ. Chính điều này sẽ gia tăng nhân cách nơi chúng ta.
34. Người lầm lỗi thì đáng thương hơn đáng trách
Khi
thấy một người mù quờ quạng dò đường đi mà không có ai dẫn dắt, nên có khi thì
sa xuống hố bị trặc chân; khi thì xông vào bụi rậm bị gai nhọn châm chích khắp
người; khi thì vướng vào hàng rào nên bị kẽm gai móc rách cả thịt da, quần áo…
thì những người chung quanh có thái độ nào?
Trong
hoàn cảnh đó, chỉ có những người ngu dốt, thiếu đạo đức mới la mắng nhiếc móc
người đó; còn bất cứ ai có lương tri đều tỏ lòng thương xót và sẽ ân cần dìu dắt
người ấy bước đi an toàn.
Tương
tự như thế, khi có người vì bị mù, không phải là mù mắt, nhưng là mù tâm trí,
còn gọi là mù quáng, nên không thấy đường ngay nẻo chính; vì thế phải sa xuống
hố sâu lầm lạc hoặc phải đắm chìm trong vũng bùn tội ác, thì ta nên có thái độ
nào?
Trong
hoàn cảnh đó, chỉ có những người thiếu hiểu biết với tầm nhìn hạn hẹp mới lên
án hay oán ghét người ấy; còn những ai có lương tri, hiểu biết và khôn ngoan đều
tỏ lòng thương xót và sẵn sàng tha thứ cho người vì mù quáng mà phạm lỗi, vì
người mù quáng còn đáng thương hơn kẻ mù lòa.
35. Con người mắc phải lầm lỗi là vì mù quáng.
Triết
gia Socrate nhận định một cách chắc nịch rằng: “Không ai cố tình làm điều ác. Sở
dĩ con người mắc phải lầm lỗi là vì không hiểu biết”, nghĩa là vì mù quáng.
Nếu
tôi có đôi mắt tinh tường, tôi sẽ thấy rõ đường đi nước bước và tôi sẽ cứ đường
ngay nẻo chính mà đi. Nhất định tôi không dại gì để cho mình bị sa xuống hầm, sập
xuống hố, đâm vào bụi gai hay lội xuống sình lầy tanh hôi.
Tương
tự như thế, nếu tôi không bị mù quáng, tức đôi mắt tâm trí tôi còn sáng suốt,
thì tôi sẽ thấy điều hay lẽ phải và chắc chắn tôi sẽ không để cho mình sa vào hố
sâu tội lỗi hoặc đâm vào bờ bụi sai lầm.
Chỉ
khi nào đôi mắt tâm trí tôi bị mù quáng bởi lòng tham, bởi ích kỷ, bởi dục vọng
đê hèn, bởi kiêu căng tham vọng… thì tôi mới phải rơi vào những hố sâu tội lỗi
mà thôi.
36. Người lầm lỗi cần được thương xót và thứ tha.
Diễn
viên kiêm đạo diễn bậc thầy người Mỹ tên là Charlie Charplain nhận định: “Sở dĩ
con người mắc phải lầm lỗi là do sự mù quáng của họ. Vì thế, người khôn thì
thương xót họ, còn người ngu thì lên án họ.”
Chúa
Giêsu cũng nhận định như thế nên khi bị hành hình đau đớn và nhục nhã, Người thừa
biết những kẻ đóng đinh Người đều hành động vì mù quáng, không ai trong họ biết
Người là Con Thiên Chúa mà lầm tưởng Người chỉ là người phàm tự xưng mình là
Con Thiên Chúa… nên mới kết án Người. Vì thế, Chúa Giêsu không hề oán trách họ;
trái lại còn hết lòng yêu thương họ nên đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha tha thứ
cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.” (Lc
23, 34)
37. Gương tha thứ
Mục
sư Richard Wurmbrand, người Rumani, đã bị giam 14 năm vì danh Chúa. Ông đã ghi
lại nhiều câu chuyện về bác ái của những Ki-tô hữu bị bách hại. Trong trại giam
chung với ông có một linh mục; không hiểu vì sao ông ấy bị đem ra hành hạ và
đánh đập một cách dã man nhiều lần. Một hôm, sau khi bị hành hạ dã man và bị đẫy
vào phòng giam dở sống dở chết, những bạn tù tức tối chửi rủa những anh lính
kia; Nhưng vị linh mục nầy khoát tay bảo họ im đi và lấy hết sức còn lại, nói với
anh em bạn tù: “Đừng chửi rủa họ vì họ không biết họ đang làm gì. Hãy thương họ
là đúng hơn. Hãy cầu nguyện cho họ.”
Cha
Franz Stock là một linh mục người Đức và là tuyên úy lao xá trong thời Pháp bị
nước Đức chiếm đóng. Trong thời kỳ ấy, Chính phủ Đức đã ra lệnh xử bắn nhiều tù
nhân khác khi có một đồn quân Đức bị đánh, hay một lính Đức bị ám sát để trả
đũa. Cha F.Stock luôn có mặt nơi pháp trường. Có những ngày ngài phải chứng kiến
hàng trăm người bị xử bắn. Trước khibị bịt mắt, các tử tội được phép gặp cha
tuyên úy để xưng tội, hay tạo những gì cho gia đình và thân nhân. Ngài kể lại,
có lúc ngài thật cảm kích trước thái độ bác ái và bao dung của những người tù.
Có người trao cho ngài một tấm giấy nhỏ cho thân nhân trong đó viết: “Hãy an
tâm. Anh chết vì Tổ Quốc, vì Chúa. Xin đừng hận thù một ai." Có người trước
khi bị bắn, họ hô to: “Hoan hô Nước Pháp muôn năm! Lạy Chúa, con xin dâng mạng
sống con cho Chúa, cho Tổ Quốc, cho những người xử bắn con. Xin tha cho họ."
Một
sĩ quan Pháp, trước khi bị xử bắn đi đến bắt tay từng người trong tiểu đội lý
hình. Anh nói: “Các anh hãy làm nhiệm vụ của các anh. Nhiệm vụ của tôi đến đây
là hết. Cám ơn các anh. Không hận thù. Giả từ tất cả."
38. Sự bế tắc của thù hận
Phim
“Cánh Đồng Bất Tận” kể về bi kịch của sự thù hận. Phim được chuyển thể từ truyện
ngắn cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bộ phim xoay quanh 4 nhân vật, người
cha và hai đứa con, cùng cưu mang một người đàn bà làm nghề mại dâm. Bốn người
lênh đênh trên một chiếc xuồng máy, nuôi vịt chạy đồng, không nhà không cửa,
nay đây mai đó theo con nước. Đời sống của họ ngập chìm đau khổ dằn vặt xuất
phát từ sự thù hằn.
Đầu
tiên là người cha. Số là anh ta lấy vợ và có hai con. Cuộc sống cơ cực, anh phải
vất vả để lo cho ba mẹ con. Ấy vậy mà người vợ ham sang phụ khó theo một thương
lái người Hoa, bỏ lại hai đứa con cho anh. Đau khổ tột cùng vì bị chính người vợ
yêu thương phản bội, anh đốt căn nhà, đốt cái mái ấm bấy lâu nay, xuống ghe
lênh đênh, bắt đầu một cuộc sống trôi sông lạc chợ, nay đây mai đó, không tương
lai, không định hướng. Bao nhiêu hận thù, người cha trút hết lên đầu hai đứa
con.
Kế
đến là sự thù hận của cô gái điếm. Vì hận cha mẹ ly dị bỏ rơi cô, nên cô làm
gái để trả thù đời. Trong một lần đi khách, cô bị đám đông các bà vợ bắt và đổ
keo dán sắt vào vùng kín. Cô đau đớn chạy trốn và được ba cha con đưa lên ghe cứu
chữa. Cuộc sống của 4 người cứ lênh đênh trên sông nước, buồn tẻ vì mỗi người đều
mang trong mình những nỗi thù hằn, căm phẫn vì bị chính những người thương yêu
phản bội. Ông bố hận vợ, thù người bạc tình nên luôn cau có và bạo lực đánh đập
2 đứa con. Cậu con trai tuy còn nhỏ nhưng đã mang trong mình nỗi hận thù của
cha, cậu nói rằng cậu ghét cái ác, và muốn trả thù, có thù thì phải trả. Cô gái
làm điếm vì hận thù gia đình, hận thù bố mẹ…
Cũng
vì sự hận thù và lòng muốn trả thù nên 4 người trở thành thù địch của nhau. Và
họ đi đâu cũng gây thù chuốc oán ở chỗ đó, cho nên nhiều bọn giang hồ ghen
ghét. Cậu con trai vì không chịu nổi người ta ức hiếp người đàn bà nên đã phạm
tội giết người. Vì sợ, cậu đã bỏ trốn. Người đàn bà không chịu được sự thù hằn
của người bố nên cũng bỏ đi. Chỉ còn lại người cha và đứa con gái. Câu chuyện
được đẩy lên đỉnh điểm khi đứa con gái bị nhóm côn đồ hiếp dâm ngay trước mặt
ông bố. Chúng nó đánh ông bố ngã quỵ, rồi buộc ông phải nhìn cảnh bọn chúng từng
thằng hãm hiếp đứa con gái của mình trong bất lực. Không còn đau khổ nào hơn thế
nữa.
Kết
thúc bộ phim, cô gái có bầu, không biết cha đứa bé là ai. Cô đi trên một cánh đồng
mênh mông, bất tận, vừa đi vừa nói với đứa con trong bụng: Là trẻ con, nên tha
thứ lỗi lầm cho người lớn. Và mẹ sẽ đặt tên con là Thương.
39. Tha thứ để thanh thản
Ellen
Johnson Sirleaf, nữ tổng thống Liberia, nghĩ rằng, đã đến lúc bà trả thù. Tuy
nhiên, một trải nghiệm đã khiến bà thay đổi.
Ngày
nọ, khi đang ở gần một ngôi làng, đột nhiên bà nghe tiếng súng nổ; Weser, vệ sĩ
của bà đã lập tức đẩy bà xuống đất. Dù bà được cứu, nhưng viên đạn đã cướp mạng
cận vệ Weser. Sau đó, bà phát hiện kẻ bóp cò chính là hàng xóm của Weser, Asa,
người đã được thuê để ám sát bà.
Mười
ba năm sau, nữ tổng thống Sirleaf một lần nữa đến thăm ngôi làng ấy và bắt gặp
mẹ của Weser đang đem đồ ăn cho mẹ của Asa. Bà hỏi tại sao, mẹ Weser trả lời,
“Sau sự việc 13 năm trước, Asa bỏ trốn và vẫn bặt vô âm tín. Mẹ của cậu ta bị bệnh,
lại nghèo khổ, không còn gì để ăn."
Sirleaf
không nhịn được, “Nhưng bọn họ là kẻ thù! Con trai bà ấy đã giết Weser!"
Câu trả lời của người mẹ khiến bà tổng thống kinh ngạc, “Tất cả đã qua rồi. Lấy
oán báo oán, chỉ tăng thêm oán thù nhiều hơn."
Những
lời của bà mẹ đã để lại cho Sirleaf một bài học sâu sắc, Liberia bị chiến tranh
tàn phá cần sự tha thứ hơn là lòng thù hận! Kể từ đó, Sirleaf đã tha thứ cho những
cựu thù chính trị của mình và nhận được sự cảm thông, ủng hộ từ những người
Liberia.
Bà
là nữ tổng thống đầu tiên của châu Phi, bà đã tạo một tương lai bằng tha thứ và
đối xử tốt với những kẻ thù; bà được giải Nobel Hoà Bình năm 2011. Đúng như
Jonathan Lockwood Huie, mệnh danh ‘Triết gia của hạnh phúc’, từng nói, “Tha thứ
cho người khác, không phải vì họ xứng đáng được tha thứ mà bởi vì bạn xứng đáng
được thanh thản."
40. Quên hết rồi
Đức
Hồng Y Jaime Sin, nguyên tổng giám mục Manila, Philippine kể: vào một buổi chiều,
một phụ nữ tới gặp ngài và quả quyết Chúa Giê-su đã hiện ra với chị. Để trắc
nghiệm, ngài đề nghị: “lần tới gặp Chúa, con hỏi Chúa các tội cha đã phạm."
Sau
một thời gian, chị gặp lại ngài và như lần trước chị cũng nói đã gặp Chúa. Chị
cũng hỏi Chúa về các tội cha đã phạm, nhưng Chúa bảo: “Ta quên hết rồi !"
Câu
chuyện là thế. Chúng ta không bận tâm về tính xác thực, nhưng ghi nhận chân lý:
Tình yêu và tha thứ thật lòng là phải quên tất cả lỗi phạm người khác gây cho
mình. Chỉ mình Chúa Giê-su là nguyên nhân mô phạm cho chúng ta về lòng xót
thương và hay tha thứ.
41. Thiên Chúa luôn tha thứ
Một
buổi chiều trời mưa tầm tã, bà mẹ đón con đi học về đang lái xe trên đại lộ
chính của thành phố. Bà phải để hết chăm chú vào việc lái xe vì đường phố rất ướt
và trơn trượt. Thình lình, cậu con trai ngồi thoải mái bên cạnh mẹ nói lớn:
“Mom, con đang suy nghĩ điều này."
Hành
động này đối với bà mẹ thường có nghĩa là cậu con trai 7 tuổi của bà đang muốn
xin một điều gì đó và bây giờ sẵn sàng lên tiếng. “Con đang nghĩ gì vậy?” Người
mẹ hỏi. “Trời mưa." Nó nói, “giống như tội, và những cái gạt nước giống
như Thiên Chúa quét sạch tội lỗi của chúng ta đi." “Con giỏi quá,
Matthew."
Rồi
tò mò người mẹ muốn biết đứa con trai của bà hiểu được điều mạc khải này sâu xa
như thế nào. Bà mẹ hỏi: “Con có để ý thấy mưa cứ tiếp tục rơi như thế nào
không?” Mưa rơi nói với con điều gì không?” Matthew không do dự, trả lời:
“Chúng ta đã phạm tội, và Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục tha thứ cho chúng
ta."
CNTN
24B – ĐẤNG KITÔ CHỊU ĐAU KHỔ
Lời Chúa: Mc 8, 27-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn
đệ đi về phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê.
Dọc đường, Người hỏi các ông rằng:
"Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa là Gioan
tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị tiên tri.”
Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là ai?"
Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy
là Ðấng Kitô.” Người liền nghiêm cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết
Con Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật
sĩ chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố
các điều đó.
Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà
can trách Người. Nhưng Người quay lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng:
"Satan, hãy lui đi! vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc
loài người.”
Người tập họp dân chúng cùng các
môn đệ lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình
mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng
sống mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình.”
TRUYỆN
KỂ
1. Đức
Kitô là ai với bạn?
Văn hào Charles Lamb sống ở Anh
Quốc 200 năm trước đây. Suốt 30 năm, ông chỉ là một viên thư ký tầm thường
trong một xưởng đóng tầu. Thế mà ông đã trở nên một văn hào nổi tiếng vì những
bài trào phúng thanh nhã, duyên dáng và nhất là ông có một tình yêu thương hiếm
có đối với gia đình và bạn bè của ông.
Một buổi chiều nọ, các bạn hữu hội
họp tại nhà ông để thảo luận về văn chương. Một người trong nhóm đặt câu hỏi:
"Chúng ta sẽ nghĩ sao, nếu Dant, tác giả của vở hài kịch Divine Comedy, sẽ
bước vào phòng họp của chúng ta chiều này?" Một người khác lại tiếp lời:
"Giả thử Shakespeare tới họp với chúng ta bây giờ thì sao?"
Ông Charles Lamb vội vàng trả lời:
"Tôi sẽ giang hai tay vui mừng nồng hậu đón tiếp vị "Vua" của
các nhà tư tưởng danh tiếng đó.” Cuối cùng, một người khác đặt giả thiết:
"Vậy giả như Chúa Kitô bước vào phòng họp này thì chúng ta có thái độ
nào?"
Văn Hào Charles Lamb nghe vậy, vội
nghiêm nét mặt trả lời: "Dĩ nhiên, tất cả chúng ta đều cung kính quì xuống
tôn thờ Ngài.”
Đó là sự khác biệt giữa Đức Kitô
và tất cả mọi người đàn ông khác trong lịch sử. Đức Kitô là Thiên Chúa. Mọi người
khác chỉ là người.
2.
Tôn giáo của ông Lavallière Lepaux.
Lavallière Lepaux là một nhân
viên Thượng hội đồng quốc gia Pháp, ghét đạo Công giáo. Ông lập một đạo mới gồm
những triết thuyết và có vẻ khoa học. Ông cho cán bộ chữ nghĩa đi tuyên truyền
khắp nước Pháp, nhưng rất ít người theo.
Một hôm ông nói với một ông bạn
tên là Barras:
- Tôi không hiểu tại sao, tôn
giáo của tôi là một công trình triết lý và khoa học, cán bộ của tôi là người có
học, có huấn luyện, mà không được mấy người theo. Còn ông Giêsu dùng mấy người
chài lưới thất học, mà cả thế giới theo ông?
Barras trả lời:
- Thưa đồng chí, nếu đồng chí muốn
thiên hạ theo đạo mình, thì đồng chí để cho người ta đóng đinh đồng chí ngày thứ
sáu, rồi sáng ngày Chúa nhật, đồng chí cố sống lại đi.
3.
Nữ thủ tướng Golda Meir
Khi còn là một thiếu nữ, Golda
Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết: "Mãi về sau, tôi mới nhận
ra rằng không được đẹp lại là một cái may mắn ẩn chìm, bởi vì điều ấy buộc tôi
phải khai triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ
không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang
lại ích lợi cho mình hơn.
Nói cách khác, Golda Meir đã biết
chấp nhận thập giá của mình. Cô đã không kêu gào than khóc, không bẳn gắt, căm
hờn. Cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để rồi cuối cùng cô đã trở
nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel.
4.
Cưa bớt thập giá.
Anh kia được Chúa ban cho một cây
thập giá và được căn dặn rằng khi nào về thiên đàng nhất thiết phải vác theo.
Suốt ngày anh ca cẩm, phân bua
vì thập giá của mình quá dài và nặng hơn thập giá của những người khác.
Thế rồi, sẵn cưa, anh cưa bớt đi
mười phân. Và anh cảm thấy ưng ý với thập giá mới.
Ngày về thiên đàng đã đến, anh
cùng mọi người vác thập giá ra đi. Đường vào thiên đàng buộc phải vượt qua một
con suối nước chảy xiết. Những người khác có sáng kiến đặt thập giá của mình xuống
làm cầu để có thể bước qua bên kia. Anh này cũng bắt chước đặt thập giá xuống để
làm cầu. Tiếc rằng thập giá của anh lại thiếu mất mươi phân khiến vĩnh viễn anh
không thể vào thiên đàng được.
5.
Lạc thú và đau khổ
Thi sĩ Robert Browning Hamilton
tóm tắt tinh thần bài Tin mừng hôm nay bằng những lời sau:
"Tôi bước đi một dặm đường
với Nữ thần Lạc Thú,
Nàng vuốt ve tôi đủ điều,
nhưng cuối cùng chả làm tôi khôn
ngoan tí nào qua những điều nàng nói.
"Tôi lại bước đi một dặm với
Nữ thần Đau Khổ,
Nàng chả nói với tôi lời nào,
Nhưng tôi lại học được biết bao
điều
Khi nàng bước đi bên cạnh tôi….”
6.
Họa Mi và Bông Hồng Ðỏ
Wiliam Oscar Wilde kể một huyền
thoại sâu sắc: "Họa Mi và Bông Hồng Ðỏ.” Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ
trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ:
"Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội
đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi.” Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các
nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời
ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của
chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước
nài xin:
- Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng
em một bông hồng đỏ thắm không?
- Họa mi ơi! em vô tâm như những
chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?
Chị hồng rung rung cành lá giận
dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa
hàng giậu.
- Chị hồng ơi có phép mầu nào nở
cho em một bông hồng đỏ?
- Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho
thương đau?
- Sao cũng được, miễn em kết chặt
một mối tình.
- Ðược, nhưng phép màu cần phải
có màu đỏ.
- Bằng mọi giá chị ạ.
- Bằng giá sinh mạng?
- Kể cả sinh mạng em.
- Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên
gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm
thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ.
Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.
Họa mi đã hót đến giây phút cuối
cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng
bí nhiệm đỏ thắm.
Chàng trai mừng vui tiếng cười mở
hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Ðiều lạ
lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình
đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị...
Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết
bánh xe bò.
7.
Tin Tưởng Vào Chúa.
Có người kể lại giấc mơ của mình
như sau: Tối hôm qua, tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng chốc một luồng ánh
sáng xuất hiện; trong ánh sáng huy hoàng đó, tôi nhận ra Chúa Giêsu đang đứng
trước mặt tôi, Ngài mỉm cười nhìn tôi và nói:
- Con hãy đến ngồi trên tấm thảm
này với Ta.
Lòng tràn đầy vui sướng, tôi tiến
lại gần bên Chúa và ngồi xuống tấm thảm bên cạnh Ngài. Tấm thảm từ từ bay bổng
lên không trung đưa theo Chúa Giêsu và tôi ngồi trên đó. Tôi mỉm cười, lòng đầy
vui sướng và tự nhủ: thật không còn gì hạnh phúc cho bằng được ở gần bên Chúa.
Một lúc sau, tôi quay nhìn Chúa
Giêsu để bày tỏ niềm vui của tôi; thế nhưng tim tôi bắt đầu đập mạnh, vì tôi có
cảm tưởng như Chúa Giêsu không còn bận tâm đến tôi nữa, bởi lẽ Ngài đang chăm
chú rút từng sợi chỉ của tấm thảm rồi quăng chúng vào không trung. Chẳng mấy chốc
tấm thảm chỉ còn lại phân nửa. Hết sợi chỉ này đến sợi chỉ khác từ từ bay lên
theo gió, chân tay tôi bắt đầu run lên vì hoảng sợ, thế nhưng Chúa Giêsu vẫn thản
nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ. Sau cùng tôi kêu lên
- Lạy Chúa, Chúa đang làm gì thế?
Chúa không thấy là chẳng còn mấy chốc nữa tấm thảm của chúng ta sẽ tan tành hay
sao?
Chúa Giêsu mỉm cười nắm lấy tay
tôi và nói:
- Sao con lại nhát đảm và kém
lòng tin như thế? Con hãy bám chặt vào Ta, con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dù
con sẽ bị tước đoạt hết mọi sự, cả đến sợi chỉ cuối cùng.”
Chúa Giêsu vừa dứt lời, thì quả
thực sợi chỉ cuối cùng của tấm thảm cũng bị rút đi luôn, và tôi giật mình thức
giấc.
8.
Tình bạn là mãi mãi
Ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm
Hoá, tỉnh Tuyên Quang, ai cũng biết câu chuyện cảm động về em Đoàn Trường Sinh
10 năm cõng bạn đến trường. Quãng đường tư nhà Sinh đến trường dài hơn 4
ki-lô-mét, qua đèo, vượt suối, khúc khuỷu, ghập ghềnh. Thế mà Sinh không quản
khó khăn ngày ngày cõng bạn Hanh bị liệt cả hai chân đi về. Nhờ bạn giúp đỡ, lại
có chí học hành, nhiều năm liền, Hanh là học sinh tiên tiến, có năm còn tham
gia đội tuyển học sinh giỏi cấp huyện.
Tình bạn chân thật thì luôn có
nhau trong lúc khó khăn, gian nguy. Vui sướng, giầu sang ở bên nhau thì dễ. Hoạn
nạn ở bên nhau mới là tình bạn đáng quý. Cuộc đời có vay có trả. Bạn đã cho ta
niềm vui thì khi bạn gặp khó khăn ta hoàn trả cho bạn là lẽ công bằng. Bởi vì,
như ai đó đã nói:
“Lẽ nào vay mà không trả?
Sống là cho, đâu chỉ nhận cho
riêng mình.”
9.
Chúng ta – những bệnh nhân cùi
ĐGM. Louis Désiré Maigret là Vị
Đai Diện Tông Tòa (Vicar Apostolic) tại Hawaii, nhận thấy nhu cầu cần một vị chủ
chăn thường trú tại Trại Cư Trú dành cho người phong, nhưng Ngài ngại ngùng
không dám ”nhân danh Đức Vâng Lời” để chỉ định, và bắt buộc một Linh Mục nào,
chấp nhận “án tử hình.” Ngài muốn các vị chủ chăn tình nguyện cho việc tông đồ
cao cả này.
Sau khi cầu nguyện tại Nhà Thờ
Thánh Antôn, tại Đảo Maui, thì có bốn Linh Mục sẵn sàng tình nguyện thay phiên
nhau lần lượt đi giúp Trại Phong Hủi. Cha Damien tình nguyện đi xung phong,
ngày10 tháng 5/1873. Ngài còn tình nguyện ở lại luôn tại Trại để chăm sóc 816 bệnh
nhân cả hồn và xác, không phân biệt tín ngưỡng. Năm đó, Cha Damien, mới 33 tuổi,
và ngài được tiếng là “khoẻ như voi.”
Vào năm 1875, tự tay Ngài đã xây
cất được sáu nhà Nguyện nhỏ, chăm nom y tế cho các bệnh nhân. Ngài đi từng nhà
băng bó, phát thuốc và dạy cách giữ vệ sinh.. Tự tay đóng được 2000 quan tài,
và tự mình chôn cất bệnh nhân trong “Vườn Kẻ Chết.” Ngài từ chối tước hiệu do
chính quyền Hawaii ban tặng và tiền lương 10.000USD, vì cho rằng “can thiệp”
vào việc Tông Đồ của ngài. Nhưng ngài vui lòng nhận những vật liệu do chính quyền
cung cấp để xây một nhà riêng dành cho nam thanh niên và một cư xá cho nữ.
Vào năm 1876, Cha Damien, đã nhận
thấy những vết khô trên da thịt, cảm thấy sốt nóng nơi chân, và mất hẳn cảm
giác, khi đổ nước sôi trên chân trái, Ngài đã sống nhiều năm, tự chứng kiến cái
chết đến với các bệnh nhân. Ngài không sợ chết đến, cũng không ngần ngại chấp
nhận cái chết.
Ngày Chúa Nhật đầu tháng 6, năm
1885, Cha Damien dâng Thánh Lễ tại Nhà Thờ Thánh Philomena do chính ngài đã xây
cất. Sau khi đọc bài Phúc Âm, ngài quay về các bệnh nhân, và không nói những lời
chào thưa như mọi khi: “Anh Chị Em thân mến,”nhưng ngài tuyên bố một câu làm
rung động khắp Giáo hội và chấn động cả thế giới: ”Chúng Ta, những Bệnh Nhân
Phong Hủi” (WE LEPERS)
Và ngày 15 tháng tư, năm 1889,
lúc 8 giờ sáng, ngài tắt hơi thở cuối cùng, thọ 49 tuổi, nét mặt vẫn tươi vui
”như em bé đi ngủ” (*). Ngày 11 tháng 10, 2009, Đức Giáo Hoàng Bêneditô XVI, tại
Đại Thánh Đường Thánh Phêrô, Roma, đã Phong Thánh cho Cha DAMIEN và bốn Vị
Thánh khác.
Như vậy, Thánh Damien đã toàn
tâm toàn ý theo chân Chúa, hoàn toàn tuân thù và vâng phục Lời Chúa: “Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8, 35)
10.
Thần còn phải khổ nhiều
Trong một tuần lễ sinh hoạt học
hỏi và huấn luyện của các anh chị Huynh Trưởng Thiếu Nhi Thánh Thể từ các Xứ
Đoàn gửi về. Ngày cuối chúng tôi được tham dự một buổi viễn du ngoài xã hội: đi
thăm một viện dưỡng lão người già tại thung lũng Valley d'Amoure.
Trong viện có chừng 60 bệnh nhân
đủ mọi hạng người: già khớ đến, mù, đui, điếc, què và những bệnh nhân ngồi xe
lăn. Chúng tôi đến thăm viện từ sáng sớm, nhiều người còn đang ngủ, nên nhận
xét được rất nhiều: Có bà già co quắp chân tay, nằm èo ẹt trên giường còn xông
mùi nước tiểu nồng nặc. Có cụ già gù và điếc ngồi trên xe lăn, hướng mắt nhìn
ra cửa chính. Cụ là người già nhất và cô đơn nhất, ngày ngày cụ ra ngồi chỗ cửa
chính để ngóng con trai vào thăm nom.
Trong gian nhà chơi trống rỗng
vài ba ông bà già ngồi chụm quanh bàn chơi cờ tây, lâu lâu mới được nụ cười
thích thú. Trong một căn phòng kê đủ 3 chỗ ngủ, một thiếu nữ trạc độ 20 tuổi, cụt
hai chân, đang quấn trong chăn, miệng ngồm ngoàm nhai bữa điểm tâm sáng. Phòng
bên cạnh là một bà già đứng tuổi đang dương đôi mắt mờ mờ nhìn sát màn ảnh Tivi
mầu. Bà mở cho máy kêu oang oang phát ra cửa.
Đi phòng nào cũng ngửi thấy mùi
hôi ban sáng, khiến tôi bị nôn mữa, phải chạy ra ngoài để lấy không khí. Chúng
tôi giúp đỡ họ làm sạch vệ sinh ban sáng rồi tụ họp họ lại nhà hội để làm văn
nghệ mua vui cho họ.
Một buổi sáng hôm đó, chúng tôi
đã làm cho biết bao guôm mặt rạng rỡ nụ cười. Ngay chính chúng tôi cũng cảm thấy
hạnh phúc và sung sướng.
Chúa còn phải đau khổ nhiều khi
nhìn đến nỗi khổ của dân chúng, đặc biệt là những kẻ khốn cùng. Trên thế giới
này biết bao người tàn tật, bệnh hoạn về thể xác, già cả, khổ đau về tinh thần....
Cần được giúp đỡ, cần phải phục vụ . Làm cho họ chính là làm cho mình sung sướng
vì họ là hình ảnh của Chúa hiện diện nơi đám dân nghèo.
11.
Những viên ngọc giả
Truyện kể rằng vua Chosroes nước
Ba Tư, trong một cơn bệnh trầm trọng, đã suy nghĩ về cuộc sống của mình. Sau
khi bình phục, vua triệu tập các cận thần và hỏi họ: "Trẫm muốn biết những
gì các khanh đang chờ đợi nơi trẫm. Các khanh có nghĩ rằng trẫm là một quân
vương tốt không? Đừng sợ, cứ nói lên hết sự thật, trẫm sẽ thưởng cho mỗi người
một viên ngọc quí.”
Thế là các quan thay nhau lên tiếng
ca ngợi vua. Người nào cũng tìm những lời tốt đẹp nhất khen lao tâng bốc vua.
Khi đến lượt Elim, vốn là một
người khôn ngoan và chính trực, ông tâu: "Thưa bệ hạ, thiết tưởng thần nên
giữ thinh lặng thì hơn, vì sự thật không thể mua bằng tiền bạc.” Vua tuyên bố:
"Được. Trẫm sẽ không thưởng cho ngươi vật gì cả. Nào, hãy nói những gì
khanh đang suy nghĩ trong lòng.” Elim thưa: "Tâu bệ hạ, vì bệ hạ muốn biết
những điều hạ thần đang nghĩ trong lòng. Hạ thần nghĩ rằng bệ hạ cũng chỉ là
người như mọi người khác, cũng có những lầm lỗi và tật xấu. Nhưng những lầm lỗi
và tật xấu ấy lại đè nặng trên dân chúng vì sưu cao thuế nặng... Thần nghĩ rằng
bệ hạ đã tiêu xài quá nhiều để tổ chức tiệc tùng, để xây cất dinh thự, và nhất
là để theo đuổi chiến tranh.”
Nghe những lời ấy, nét mặt vua bỗng
trở nên trầm ngâm suy nghĩ. Rồi vua sai tặng cho các cận thần mỗi người một
viên ngọc như đã hứa. Riêng Elim thì được bổ nhiệm lên chức tể tướng. Ngày hôm
sau, các quan nịnh bợ trở lại triều đình tâu vua: "Tâu bệ hạ, kẻ nào bán
ngọc qúi cho bệ hạ đáng phải treo cổ. Những viên ngọc ấy toàn là ngọc giả.” Bấy
giờ vua lên tiếng: "Trẫm biết đó toàn là ngọc gỉả, cũng như những lời tâng
bốc giả dối của các ngươi.”
12.
Từ bỏ mọi sự
Một ẩn sĩ trẻ được linh sư dẫn đến
ngồi ở cổng làng, chào hỏi mọi người qua lại và mọi người cũng đáp trả niềm nở.
Ngày nọ có một người không để ý
đến sự có mặt của thầy trò, mặc cho hai tu sĩ ngã đầu chào, người đó vẫn thinh
lặng đi qua. Thấy thế, vị tu sĩ trẻ bực tức, nên linh sư giải thích:
- Con đừng thắc mắc làm chi. Có
thể ông ta điếc hoặc quá bận việc.
Nhưng vị ẩn sĩ trẻ không bằng
lòng vói lời giải thích đó. Thầy cả quyết người đó thiếu giáo dục, thiếu lễ độ.
Rồi một hôm người đàn ông đó
cũng đi ngang qua trước mựt hai ẩn sĩ và cũng vẫn không đáp lại lời chào hỏi. Bỗng
ông ta trợt chân té ngã, hai ẩn sĩ vội chạy đến đỡ dậy thì thấy hai túi áo rộng
lớn của ông chứa đầy những viên đá cụi. Và hai thầy trò đã đưa ông về tận nhà
thì được người vợ cho biết:
- Từ nhiều năm nay, ngày nào chồng
tôi cũng đến bờ sông nhặt những viên đá cụi về xây đền thờ thần của chúng tôi,
vì không muốn cho ai biết, nên chồng tôi cố giấu những viên đã đó trong người.
13.
Bỏ mọi sự theo Thầy
Trong tác phẩm: "Người
nghèo của Chúa", có câu chuyện về thánh Phanxicô Adxidi:
Tôi và bạn tôi đến một thành phố
nhỏ. Bạn của tôi chính là bạn thân với thánh Phanxicô Axidi từ thuở nhỏ. Tình cờ
gặp lại thánh nhân, anh ta mừng rỡ chạy đến ôm ngài và hỏi:
- Anh Phanxicô! Ai đã khiến anh
ra nông nỗi này?
- Chúa đã làm giúp tôi.
Bạn tôi ngạc nhiên hỏi tiếp:
- Bao nhiêu đồ dùng sang trọng của
anh, bao nhiêu áo quần đẹp đẽ của anh, cả cái lông chim đỏ gắn trên mũ của anh
thở nào, sao mất hết cả rồi? Và mấy chiếc nhẫn vàng trên tay anh nữa?
- Satan đã cho tôi, Tôi trả lại
cho nó.
Bạn tôi nhìn từ đầu đến chân vị
thánh. Anh không thể tưởng tượng được người bạn hào hoa phong nhã ngày nào của
anh, bây giờ mũ cũng không còn, giày dép cũng không. Cảm xúc đến rơi lệ, anh hỏi:
- Nầy anh Phanxicô, anh từ đâu đến?
- Từ một thế giới khác.
Chính thánh Phanxicô Axidi đã thực
hiện Lời Chúa Giêsu trong Tin mừng Luca 14, 25-33 "bỏ hết mọi sự theo Thầy"
làm môn đệ của Chúa.
14.
Gặp gỡ Đức Kitô
Ignace Lepp là một chứng nhân của
hành trình thao thức tìm kiếm và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô.”
Ignace Lepp đã viết cuốn sách “Từ
Các Mác đến Giêsu Kitô.” Tác giả kể lại đời mình và những lý do làm ông tham
gia phong trào cộng sản thế giới, để rồi sau đó trở thành tín hữu, rồi làm Linh
Mục của Giáo Hội Công Giáo.
a.
Thao thức tìm kiếm
Ignace sinh trong một gia đình
giàu có, trưởng giả, ăn mặc sang trọng, nói năng lễ độ, cư xử hòa nhã, lịch thiệp.
Giai cấp này khinh bỉ giới thợ thuyền mà họ cho là một bọn thất học, thô lỗ, cộc
cằn thiếu tư cách làm người, và đáng sống trong cảnh bần hàn.
Một hôm tình cờ Ignace đọc được
cuốn tiểu thuyết “Người Mẹ” của Marxim Gorky trong đó tác giả mô tả đời sống cơ
cực, lầm than của dân lao động Nga làm việc trong các nhà máy kỹ nghệ hồi đầu
thế kỷ 20.
Gorky không những đã tả hết những
nổi nhọc nhằn, đời sống lam lũ của giới thợ thuyền, và bằng một nhận xét sắc
bén ông cho thấy đời sống cơ cực của những người này chính là hậu quả của sư
bóc lột của giới chủ nhân, sống xa hoa trên mồ hôi và sự khổ cực của dân lao động.
Lần đầu tiên Ignace biết được chi tiết đời sống của hạng người mà bấy lâu cậu vẫn
thường khinh rẻ và chỉ nhìn thấy từ xa. Và cũng nhờ cuốn sách đó mà cậu biết rằng
chính giai cấp tư sản đã bần cùng hóa dân lao động.
Sau khi đọc thêm một vài cuốn
nói về đời sống cùng khốn của dân lao động, như những tác phẩm của Anatole
France, Victor Hugo, Tolstoi, v.v., Ignacce cương quyết từ bỏ giai cấp của mình
để hoạt động cho giới cần lao. Cậu bị thu hút bởi những hứa hẹn của phong trào
cộng sản thế giới: tạo nên một xã hội không có giai cấp, không phân chia ranh
giới quốc gia, trong đó mọi người được sống bình đẳng, không bị bóc lột và áp
chế. Từ đó, đối với cậu, tất cả những tín điều của thuyết duy vật biện chứng đều
là những chân lý tuyệt đối, hợp với khoa học.
Cậu được thu nhận vào một tiểu tổ
Thanh Niên Cộng Sản lúc vừa 15 tuổi. Trong thời gian này, Ignace đã đi phát
truyền đơn, dán bích chương, dự những cuộc biểu tình, mít tinh và diễn thuyết
nhân các ngày kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười và Lễ Lao Động.
Việc cậu lên diễn đàn phát biểu
trong một buổi lễ lao động đã được báo chí trong thành phố tường thuật chi tiết.
Hay được tin này, gia đình cậu đã rất tức giận và buộc cậu phải từ bỏ phong
trào nếu không sẽ cắt mọi yểm trợ tài chánh. Nhất quyết theo đuổi lý tưỏng của
mình, cậu bỏ nhà ra đi, không mang theo một tý gì, ngoài bộ quần áo đang mặc và
ít tiền túi.
Cậu sang ở một thành phố khác và
trở lại nhà trường học xong cấp trung học. Ở đó cậu cũng được một tờ báo cộng sản
nhận vào làm biên tập và thông tín viên. Cậu bắt đầu viết sách báo, ghi tên vào
đại học và học thêm vài ngôn ngữ khác. Vì có trình độ học vấn khá và biết nhiều
thứ tiếng, cậu được cất nhấc vào nhiều chức vụ quan trọng trong đảng, như cầm đầu
tổ chức tuyên truyền khích động trong một vùng, tổng bí thư một hội trí thức
cách mạng quốc tế. Sau đó Ignace được cử đi hầu hết các quốc gia Âu châu để
tuyên tuyền cho chủ nghĩa cộng sản và giúp thành lập những tiểu tổ địa phương.
Trong giai đoạn này, cậu theo học nhiều lớp do các giáo sư cộng sản giảng dạy
và đọc nhiều sách về lý thuyết cộng sản.
Trong lúc hoạt động cho phong
trào cộng sản trong các nước độc tài và bảo thủ, Ignace bị bắt nhiều lần. Lần
cuối cùng ông bị bắt ở Đức, lúc đó Hitler đã lên cầm quyền. Ông bị kết án tử
hình, nhưng lúc sắp bị đem ra pháp trường thì ông được cứu thoát và được bí mật
đưa sang Nga.
b.
Đỉnh cao danh vọng.
Vui mừng được đến nước cầm đầu
phong trào cộng sản thế giới, ông xin ở lại Nga để phục vụ cho cách mạng. Ông rất
được trọng vọng và được giao phó công tác đi diễn thuyết và được bổ làm giáo sư
triết học cộng sản ở nhiều trường đại học. Nhờ chức vụ đó, ông được đi hầu hết
khắp nước Nga và tiếp xúc với mọi giới. Kinh nghiệm này đã làm ông vỡ mộng một
cách ê chề.
Cái thiên đường vô sản ở Nga mà
phong trào cộng sản quốc tế thường khoe khoang với thế giới bên ngoài thật ra
là một nhà tù khổng lồ, trong đó mọi người, tù nhân cũng như cai ngục, đều sống
trong lo âu và sợ hãi. Mỗi lời nói, hành vi và thái độ đều được cân nhắc kỹ lưỡng
xem có phù hợp với đường lối của đảng không (mà đường lối thì thay đổi rất bất
thường) vì mỗi sơ suất, dù nhỏ nhặt đến đâu cũng có thể dẫn đến tù đày.
Vì được xem là một lý thuyết gia
lỗi lạc của chế độ nên đi đâu Ignace cũng được đón tiếp nồng hậu. Điều này khiến
ông càng thất vọng hơn nữa. Trong khi, vì chính sách kinh tế khắc nghiệt của
Stalin, dân chúng Nga sống trong cảnh đói rách bần cùng thì giới lãnh đạo cộng
sản sống một cuộc đời vương giả. Họ chiếm cứ những biệt thự sang trọng và những
nhà nghỉ mát của giới quý tộc và chủ nhân thời Nga hoàng. Các bữa tiệc của họ đầy
cao lương mỹ vị, rượu volka và caviar không bao giờ thiếu. Các "mệnh phụ
phu nhân" cũng khoe khoang áo quần, nữ trang với nhau như giới tư sản
trong các xã hội tư bản. Những gia đình quyền quý này cũng có kẻ hầu người hạ
mà họ sai bảo và đối xử còn trịch thượng hơn các chủ nhân tư bản Tây Âu.
c.
Thất vọng
Chàng Ignace, bây giờ đã trưởng
thành mới nhận thức được rằng xã hội Xô Viết thực chất chỉ là một xã hội phân
chia giai cấp, trong đó giai cấp công nhân, thay vì được giải phóng khỏi mọi áp
bức như đảng cộng sản rêu rao với thế giới bên ngoài, thực ra bị bóc lột tối
đa, và tất cả mọi người, có lẽ chỉ trừ Stalin, đều sống trong sự sợ hãi, nghi kỵ
lẫn nhau kể cả bạn bè thân nhất hay vợ chồng, con cái.
Ignace hoàn toàn thất vọng với
chế độ Xô Viết, mà chàng cho là đã phản bội lý tưởng cách mạng. Chàng thấy mình
không thể nào tiếp tục sống trong bầu không khí ngột ngạt, đầy nghi kỵ và lo lắng
như vậy được nữa. Chỉ trích sự sai lầm của chế độ không còn được đặt ra nữa vì
Ignace biết sẽ không mang lại lợi ích gì mà còn có thể nguy hiểm cho tính mệnh
của mình. Chàng cũng không thể xin ra khỏi đảng hay xin ra nước ngoài, vì làm
như vậy người ta có thể buột cậu tội phản đảng, hay nguy hơn nữa, bị nghi là
gián điệp của các nước tư bản trà trộn ngay từ đầu để lũng đoạn cách mạng. Với
một cáo trạng như vậy, cái chết chắc như cầm trong tay.
May thay trong thời gian đó nhiều
người vẫn được phép thư từ với bạn hữu nước ngoài. Dịp may hiếm có đó đã xảy ra
khi một "Hội nghị về Hòa bình thế giới" được tổ chức ở Luân đôn,
Ignace đã vận động để được mời dự. Với giấy mời trong tay, chàng xin xuất cảnh
và rất ngạc nhiên khi được cấp hộ chiếu. Tuy nhiên chàng chỉ thấy an toàn khi
ra khỏi biên giới Liên Bang Xô Viết.
d.
Chán nản
Khi trở về lại Tây Âu, Ignace rất
chán nản. Lý tưởng mà chàng hăng say phục vụ trong mười mấy năm trời thật ra chỉ
là môt sai lầm khổng lồ. Đem thử nghiệm vào một quốc gia, lý thuyết này chỉ đem
lại cho nhân dân lao động xứ đó một xã hội đầy bất công, áp bức, thù hận và tạo
ra một chế độ độc tài cực kỳ tàn ác. Thất vọng chua cay đó đã làm Ignace mất hết
tin tưởng vào cuộc sống mà chàng cho là vô nghĩa. Để lấp khoảng trống trong tâm
hồn, chàng đã chìm đắm vào những bê tha trụy lạc. Nhưng ngay sau những cuộc chời
bời trác táng đó chàng lại càng chán nản hơn. Có lần chàng đã nghĩ đến tự tử,
và đã dự định nhiều lần nhưng không đủ can đảm tự kết liễu đời mình.
e.
Lý tưởng huyền diệu
Một hôm đi chơi về khuya, Ignace
tình cờ thấy trên cái bàn của phòng khách, nơi chàng ở trọ, một cuốn sách có
nhan đề “Quo Vadis?” (Thầy Đi Đâu?). Vì khó ngủ, chàng tò mò mở sách ra đọc. Đó
là một cuốn tiểu thuyết tả lại cảnh những người Ki-tô hữu đầu tiên bị bách hại
dưới thời Neron. Lần đầu tiên, sau khi thất vọng về chế độ cộng sản Xô Viết,
Ignace đọc cuốn sách này một cách say mê, chàng đã đọc thẳng một mạch cho đến
sáng. Chàng thấy những nạn nhân của cuộc bách hại này chỉ vì theo đuổi một lý
tưởng mà họ cho là cao đẹp đã chịu để cọp và sư tử xé xác ăn tươi nuốt sống
mình trong các đấu trường còn hơn là chối bỏ niềm tin đó.
Để tìm hiểu thêm những lý do gì
mà những tín đồ Thiên Chúa giáo này đã dám liều chết đến như vậy, chàng tìm đọc
thêm những sách khác nói về tôn giáo này. Những sách tả về đời sống của các cộng
đồng Thiên Chúa giáo đầu tiên làm chàng thích thú. Chàng thấy họ sống một đời sống
đúng như lý tưởng mà chàng thường ấp ủ: chia sẻ của cải cho nhau, thương yêu
nhau như anh em môt nhà. Chàng tự hỏi không biết các cộng đồng Thiên Chúa giáo
tiên khởi có sống thật như vậy không, hay đó chỉ là những tài liệu tuyên truyền
như các chế độ cộng sản thường làm. Chàng tìm đọc thêm nhiều sách khác của nhiều
tác giả khác, có người theo Thiên Chúa giáo, có người vô thần. Nội dung những
sách đó có khác nhau về chi tiết, nhưng đại cương thì rất giống nhau. Tất cả đều
nói lên sự yêu mến, việc chia sẻ của cải cho nhau trong các cộng đồng đó là hợp
lẽ phải. Chàng thấy lối sống đó hợp với lý tưởng mà chàng hằng mơ ước, một xã hội
cộng sản chân chính không dựa trên hận thù và đấu tranh mà dựa trên tình yêu
thương vô điều kiện.
Tất cả những sách vở chàng đọc
được về lối sống của các cộng đồng nói trên đều dẫn đến lời giảng của một người:
Giêsu ở thành Nazareth, và một nguồn tài liệu: các sách Phúc Âm. Ignace cảm thấy
bị lôi cuốn vào những lời giảng dạy tuyệt vời của Giêsu. Bài giảng trên núi và
các dụ ngôn không những rất thi vị, mà còn chứa một học thuyết huyền diệu.
Nhưng điều gây ấn tượng mạnh mẽ nhất cho Ignace chính là con người Giêsu, một
người rất mực giản dị và nhân hậu với tất cả những người cùng khổ. Giêsu sống
hoàn toàn bình đẳng không những với các môn đệ mà với những người nghèo khó nhất.
Cách Giêsu đối xử với những người tội lỗi như bà Marie ở Magdala và những người
thâu thuế thật khác xa với các phương pháp mà công an và cảnh sát ở Liên Bang
Sô Viết đối xử với công dân của họ.
Sau khi đọc kỹ sách Phúc âm và
nhiều sách khác, Ignace cho rằng những điều viết về Giêsu là có thật.
Với một tính tình hiếu động,
chàng nhất quyết dâng hiến trọn vẹn đời mình cho lý tưởng mới cũng như trước
kia chàng đã từng hăng say hoạt động cho chủ nghĩa cộng sản. Ignace đã xin rửa
tội theo đạo Công Giáo và xin được làm linh mục để phục vụ mọi người, không
phân biệt tôn giáo, giai cấp, quốc gia hay chủng tộc trong một tình yêu tuyệt đối.
Ignace Lepp thao thức tìm kiếm
và cuối cùng đã gặp gỡ “Đức Giêsu Kitô” và đã trở nên Linh mục. Câu chuyện tuyệt
đẹp về một hành trình ơn gọi. Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Còn anh em bảo
Thầy là ai?" là thao thức cho những ai khao khát chân lý.
15.
Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất
Eugene Oneill: Mãi đến tuổi 25,
ông vẫn còn là một người thất bại, cuộc sống thì hầu như không mục đích, không
qui củ, không định hướng. Thế rồi một hôm, ông lâm trọng bệnh và được đem vào bệnh
viện. Nhờ thời gian nằm viện, ông đã có dịp may làm được điều trước đó ông chưa
bao giờ làm được; ông mới có dịp may suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình.
Nhờ đó ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông.
Cuối cùng Eugene O'Neill bình phục,
ông chọn nghề viết kịch và bắt đầu trở thành người canh tân nền kịch nghệ Hoa Kỳ.
Tất cả điều này xảy ra chính là do ông đã biết biến đổi phiền muộn khổ đau
thành phương cách xây dựng tích cực, đã biến chúng thành sức sống cho ông.
Trường hợp Golda Meir cũng thế.
Khi còn là một thiếu nữ, Golda Meir rất thất vọng về nhan sắc của mình. Cô viết:
"Mãi về sau, tôi mới nhận ra rằng không được đẹp lại là một may mắn tiềm
tàng, bởi vì điều ấy buộc tôi phải khai triển những tài năng sâu kín hơn, cuối
cùng tôi hiểu được rằng phụ nữ không thể ỷ lại vào sắc đẹp của mình, mà phải
làm việc chăm chỉ để nhờ đó… mang lại lợi ích cho mình hơn." Nói cách
khác, Golda Meir đã biết chấp nhận thánh giá của mình. Cô đã không kêu gào than
khóc, không bẳn gắt, căm hờn, cô biết cam nhận vác nó lên với lòng can đảm, để
rồi cuối cùng cô đã trở nên nữ thủ tướng đầu tiên của Israel.
Cuối cùng, chúng ta hãy xét đến
trường hợp của Oscar Wilde. Ở đỉnh cao nghề nghiệp viết lách, ông đã xác tín sứ
mạng luân lý của mình. Sau khi ở tù ra, ông không còn chấp nhận viết những vở
hài kịch phù phiếm nữa, không dành trí tưởng tượng cho ba chuyện lăng nhăng lít
nhít nữa. Ông đã sáng tác những câu thơ tuyệt vời như: "Đau khổ chính là mảnh
đất thánh", hay: "Đức Kitô đâu có thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo
đường nào khác ngoài trái tim đã vỡ nát.”
Oscar Wilde đã dùng kinh nghiệm
nhục nhã của mình như một dịp để tăng triển tốt đẹp hơn. Giống như tinh thần
bài Phúc Âm hôm nay ông đã biết biến đổi kinh nghiệm ấy thành nguồn ban sức sống
chứ không để nó thành nguồn chết chóc huỷ diệt.
Những câu chuyện về Eugene
O'Neill, Golda Meir và Oscar Wilde cho ta thấy rõ ràng điều quan trọng trong cuộc
sống không phải là những khổ đau phiền muộn xảy đến cho chúng ta, mà chính là
cách thức chúng ta đáp lại chúng, cách thức chúng ta xử lý chúng. Nếu ta từ chối
không chấp nhận khổ đau phiền muộn, không chịu cúi xuống nâng chúng lên, thì
chúng ta sẽ đánh mất chính cuộc sống của mình. Ngược lại, nếu chúng ta bắt chước
Đức Giêsu can đảm cúi xuống nâng chúng lên, thì chúng ta sẽ biến chúng thành
năng lực tích cực, thành nguồn ban sức sống giống như trường hợp Eugene
O'Neill, Golda và Oscar Wilde.
16.
Thiên hạ nói Thầy là ai?--Noel Quesson
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia
Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một
bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.” Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước
nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân
đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo,
suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không
nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước,
nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức
Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp
tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một
học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường
xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai
chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới
Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần
Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao
giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong
dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại
nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người
khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể
nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”
17.
Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất
Trong Thần thoại Hy Lạp có kể
câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp
không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với
anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần
anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh
ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha
thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để
nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không
tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi
ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi
mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của
mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ
thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.
Câu chuyện trên muốn đem đến cho
chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có
thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà
Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn
ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.”
18.
Chúa là ai với tôi
Chúng ta hãy nhìn vào ông Neil
Amstrong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng
ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi
của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” và ông đã trả lời: “Ngài là người
không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là
người gần gũi Thiên Chúa.”
Như vậy, ông Amstrong đã không
trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, nhưng
ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và
nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.
19.
Đức tin đòi phải có việc làm
Bà O’Reilly đã nhận được tin một
người láng giềng bị đau nặng. Bà nói với người đã cho bà hay tin: “Hãy nói với
bà ấy rằng tôi sẽ nhớ đến bà ấy trong lúc cầu nguyện và tôi hy vọng rằng bà ấy
sẽ sớm bình phục.”
Và bà O’Reilly cũng tốt bụng như
lời bà. Tối hôm đó, khi bà đọc kinh tối như thường lệ, bà đã cầu nguyện chân
thành và sốt sắng cho người láng giềng. Bà nói với Chúa: “Lạy Chúa, con muốn cầu
xin Chúa cho người láng giềng của con. Bà ấy bị bệnh rất nặng. Bà ấy cần được
giúp đỡ, cần được an ủi.”
Khi cầu nguyện xong, bà cảm thấy
khá hơn. Và tuy vậy, có một điều làm bà băn khoăn, áy náy. Bà ngồi xuống và
nghĩ về điều đó. Rồi bà rơi vào một tình trạng thiu thiu ngủ trong đó bà nghe
Thiên Chúa nói với bà: “Ta biết con rất quan tâm đến người láng giềng của con.”
“Vâng, thưa Chúa, con thật sự
quan tâm” bà đáp lại với không ít niềm tự hào.
“Và Ta cũng biết rằng người láng
giềng con cũng rất cần sự giúp đỡ” Thiên Chúa nói.
“Con cũng nghe nói như thế.” Bà
O’reilly nói.
“Con biết đấy, điều bà ấy cần là
một người dành cho bà ấy chút ít thời gian.” Chúa nói.
“Thưa Chúa, Chúa hoàn toàn đúng.
Con cũng nghĩ như thế.” Bà O’Reilly đáp.
“Bây giờ, con xin Ta giúp đỡ bà ấy,
con không chờ Ta từ trời xuống để thăm bà ấy đó sao?”
“Không, thưa Chúa, con không
mong Chúa làm thế. Cả người láng giềng của con cũng không mong điều đó. Thật vậy,
điều đó làm bà ấy xúc động và chết mất.”
“Vậy, bà ấy không cần ai đến
thăm sao?”
“Thưa Chúa, cần ạ”
“Ta có thể sai ai đến?”
Sau một hồi lâu thinh lặng. Bà
O’Reilly nói: “Thưa Chúa, xin Chúa hãy sai con!”
Khi bà tỉnh giấc, bà biết chính
xác điều bà phải làm.
20.
Nô lệ cho chính mình
G.K.Chesterton có một câu chuyện
về người đàn ông nhân đức được nhiều người ưa thích. Lý do chính của tính quần
chúng này là ông không thiếu những lời hài hước ý nhị. Không có một người lo lắng,
ưu phiền nào mà không hỏi ông làm thế nào để luôn luôn hạnh phúc. Họ cho rằng
ông sinh ra là một con người lạc quan.Nhưng rồi một ngày kia, người ta thấy ông
chết trong một trường hợp bí ẩn. Người ta nghi ngờ có một trò bỉ ổi. Tuy nhiên
trường hợp này làm lạc hướng điều tra của cảnh sát. Tình cờ, chính thám tử
không chuyên của Chesterton là Fr. Browne đã giải quyết vụ việc. Phán quyết của
thám tử là người đàn ông ấy đã tự tử.
Trước tiên người ta không chấp
nhận phán quyết của Fr. Browne. Người ta không thể tưởng tượng một người hạnh
phúc như thế lại có thể phạm tội tự sát. Nhưng như thế càng nổi rõ một khía cạnh
nghiêm trọng của con người vui tính ấy. Người làm cho người khác cười thực ra
là một người ưu phiền sâu xa. Nhưng ông không bao giờ có thể nói với bất kỳ ai
ông thật sự cảm thấy thế nào.
Ông ấy có hai đời sống. Một đời
sống rộng mở cho mọi người nhìn thấy và hiểu biết. Còn đời sống kia thì bí ẩn,
chỉ một mình ông ấy biết. Trong đời sống công cộng, ông ấy là một người đàn ông
mỉm cười với mọi người. Nhưng trong đời sống riêng tư, người ấy bị tổn thương
và tuyệt vọng.
Ông cảm thấy phải sống theo sự
mong đợi của những người khác để đổi lấy sự quan tâm và kính trọng. Ông không
bao giờ có thể là chính mình. Sau cùng, ông đã nhận thức rằng cả đời ông được đặt
trên nền tảng của một sự dối trá. Nỗ lực căng thẳng để duy trì một hình ảnh về
mình đối với quần chúng đã trở thành quá to lớn đến nỗi ông không thể đối phó
được nữa. Vì thế ông đã phạm tội tự sát.
21. Các con nói Đức Giêsu là ai?
Dưới triều đại của Đức Cố Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần đầu tiên đã ra đời vào năm
1984 tại Rôma. Vào ngày 15/8/2000, tức 16 năm sau, Đại Hội Giới Trẻ lần thứ 15
lại được tổ chức tại Rôma. Nhưng Đại Hội Giới Trẻ lần này để lại nhiều ấn tượng
trong lòng các bạn trẻ vì đó cũng là Năm Thánh 2000. Có 2 triệu bạn trẻ từ 159
quốc gia đã đến Rôma để tham dự Đại Hội.
Một trong những điều gây ấn tượng
là các bạn trẻ đã cử hành nghi thức bước qua cửa Đền Thánh Phêrô để nhận lãnh
ơn toàn xá. Lễ nghi diễn ra thật cảm động biết bao!
Điều gây ấn tượng khác là trong
đêm canh thức với 2 triệu bạn trẻ tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Cố Giáo
Hoàng Gioan Phalô II đã hỏi các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức
Giêsu là ai?”
22. Để vác được thập giá
Theo truyền thuyết kể lại: vào
thế kỷ thứ IV, hoàng hậu Helen đã tìm được cây Thánh Giá mà trên đó Chúa Giêsu
đã bị đóng đinh. Nhưng sau đó cây Thánh Giá đã lọt vào tay quân Persian. Vài
năm sau, hoàng đế Heraclius đã lấy lại được cây Thánh Giá quý báu đó.
Sau khi cây Thánh Giá được phục
hồi, đích thân hoàng đế Heraclius trong xiêm y sang trọng lộng lẫy vác Thánh
Giá cùng đoàn rước từ Giêrusalem đến đồi Canvê. Hoàng đế lấy hết sức mình nâng
cây Thánh Giá lên nhưng không nổi.
Thấy vậy, đức giám mục thành
Giêrusalem mới nói với hoàng đế hãy cởi bỏ xiêm y sang trọng và mặc quần áo đơn
giản, đi chân không để vác Thánh Giá như xưa Chúa Giêsu đã làm. Quả nhiên, sau
đó hoàng đế đã vác được thánh giá lên đồi Canvê.
Cũng giống như vị hoàng đế kia,
chúng ta chỉ có thể vác được thánh giá đời mình, nếu chúng ta biết cởi bỏ con
người cũ, cởi bỏ cái tôi, cởi bỏ mọi đam mê trần thế, cởi bỏ mọi của cải vật chất
và lạc thú trần gian. Lúc ấy, chúng ta mới thực sự xứng đáng là người môn đệ
chân chính của Chúa Giêsu: người môn đệ luôn trung thành theo Chúa với thập giá
vác trên vai.
23. Người hạnh phúc nhất đời
Eve Lavallière, một nữ diễn viên
duyên dáng, tài năng, thành công, giầu có, đã nổi danh một thời, khắp thế giới.
Tuy nhiên đang lúc sang trọng giầu có vào bậc nhất, thì bà lại cảm thấy không
có hạnh phúc. Sau này bà đã thú nhận: “Đang lúc tôi thành công nhất, thì mỗi lần
diễn xuất xong, tôi lại cảm thấy nỗi buồn man mác; đôi khi tôi còn khóc nức nở…
Luôn luôn có một tiếng thì thầm đeo đuổi tôi: “Eve, mục đích của đời mày không
phải thế!” Bà cũng đã thú nhận với một nữ tu, bạn thân của bà: “Luôn luôn tôi bị
dằn vặt đau khổ. Một đêm nọ, tôi trình diễn ở Luân Đôn, và có lẽ buổi trình diễn
đó, tôi được hoan nghênh hơn bao giờ hết. Sau buổi trình diễn, tôi thả bộ trong
công viên nhà hát, công viên kề liên với sông Thamise, tôi cảm thấy chán đời tới
nỗi tôi ra bờ sông, nghiêng mình trên dòng nước, tự hỏi: có nên kết thúc cuộc đời
trên dòng nước này không?”
Rồi được Chúa soi sáng, bà đã tới
sống ẩn dật tại một ngôi làng nhỏ miền Vosges. Bà sống cuộc đời cầu nguyện, thống
hối, hãm mình để sửa đổi cuộc đời không mấy tốt đẹp trước. Bà đã qua đời tại
Vosges ngày 10 tháng 7 năm 1929.
Hai năm trước khi chết, bà phải
đau đớn nhiều! Một trong những người bạn của bà là văn sĩ Robert de Flers, từ
Balê tới thăm bà đang sống ở chốn hẻo lánh. Bỡ ngỡ vì cuộc sống đau khổ và thiếu
thốn của bà lúc đó, văn sĩ Robert hỏi bà:
- Chị có cảm thấy hạnh phúc
không?
Bà đáp:
- Có.
- Chị đau khổ vậy mà lại cảm thấy
hạnh phúc ư?
- Vì chính những đau khổ đó, mà
tôi cảm thấy hạnh phúc.
Rồi Eve Lavallière tiếp:
- Khi anh trở về Balê, xin anh
nói với các bạn hữu là anh vừa đi thăm một người hạnh phúc nhất đời.
24. Quên cả mình
Vua Ai công hỏi Đức Khổng tử:
“Quả nhân nghe nói có người tính hay quên, lúc dọn nhà, quên mất vợ, có thật
không?”
Đức Khổng tử thưa rằng: “Có người
quên như thế cũng chưa lấy gì làm tệ. Còn có người tệ hơn nữa, quên cả đến cái
thân mình.”
Vua Ai công hỏi: “Thế nào mà lại
đến quên cả cái thân mình nữa?”
Đức Khổng tử nói: “Ngày xưa vua
Kiệt nhà Hạ giàu có cả bốn bể, sang làm đến thiên tử, chỉ vì xao lãng cơ đồ của
tổ tiên, hủy hoại điển pháp của nước nhà, tin dùng kẻ xiểm nịnh, ghét bỏ kẻ
trung lương, ngày ngày say đắm sắc dục, săn bắn, rượu chè, hoang vu vô độ, sau
đến nỗi bị ông Thang giết chết mà mất… Thế chẳng phải có thân mà quên cả thân
là gì?” (Cổ học tinh hoa).
25. Người bị khinh chê chối bỏ
Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia
Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một
bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ.” Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước
nhà thờ chính tòa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân
đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo,
suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không
nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước,
nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức
Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp
tục đi con đường của mình.
Ông Barclay (William Barclay), một
học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường
xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai
chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới
Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần
Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao
giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong
dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại
nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người
khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể
nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế.”
26. Điều kiện để theo Chúa
Wilfred Funk viết: “Byron có một
chân bị vẹo từ bẩm sinh. Robert Louis Stevenson và John Keats bị lao phổi.
Charles Steinmetz và Đức Giáo Hoàng Alexander bị gù lưng. Tướng Nelson chi có một
mắt, Edgar Allan Poe bị loạn thần kinh chức năng. Charles Darwin là một người
tàn tật. Julius Caesar bị động kinh. Thomas Edison và Ludwig Von Beethoven bị
điếc, Peter Stuyvesant mang một chân giả. Điều quan trọng là mỗi người trong họ
đã chiến đấu mạnh mẽ với những gì mà hầu như mọi người đều cho là thánh
giá."
Nếu Thiên Chúa yêu cầu tôi mang
một trong những thánh giá đó, tôi chọn cái nào?
Nếu bạn mang Thánh giá một cách
vui vẻ, thì thánh giá sẽ mang chính bạn (Thomas Kempis).
CNTN
24C -
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ
THÁNH MAT-THÊU - ĐỨNG DẬY - ĐI THEO CHÚA
Lời
Chúa: Mt 9, 9-13
Khi
ấy, Chúa Giêsu đi ngang qua, thấy một người ngồi ở bàn thu thuế, tên là
Matthêu. Người phán bảo ông: "Hãy theo Ta." Ông ấy đứng dậy đi theo
Người.
Và
xảy ra khi Người ngồi dùng bữa trong nhà, thì có nhiều người thu thuế và tội lỗi
đến ngồi đồng bàn cùng Chúa Giêsu và các môn đệ của Người. Những người biệt
phái thấy vậy, liền nói với các môn đệ Người rằng: "Tại sao Thầy các ông lại
ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?"
Nghe
vậy, Chúa Giêsu bảo rằng: "Người lành mạnh không cần đến thầy thuốc, nhưng
là người đau yếu! Các ông hãy đi học xem lời này có ý nghĩa gì: Ta muốn lòng
nhân từ, chớ không phải hy lễ. Vì Ta không đến để kêu gọi người công chính,
nhưng kêu gọi người tội lỗi."
TRUYỆN KỂ
1. Đức Kitô, vị thầy thuốc đến cứu chữa
Nhà
điêu khắc Donattello, một hôm từ chối không sử dụng khối đá cẩm thạch cho việc
điêu khắc vì nó rạn nứt. Người ta mang khối đá này cho điêu khắc gia nổi tiếng
Michel-Ange. Xem xét khối đá, Michel Ange cũng thấy những vết rạn nứt đó. Nhưng
ông lại coi đó là một thách thức cho tay nghề của mình.
Ông
nhận khối đá và ra công đẽo gọt. Nhờ đó mà thế giới mới có được bức tượng vua
Đavít, một công trình nghệ thuật sáng giá nhất từ trước tới nay.
2. Đồ phế thải và người phế thải
Abbé
Pierre chuyên giúp những người nghèo và vô gia cư để họ tự lực cánh sinh từ những
vật dụng phế thải. Cha kể lại câu chuyện sau đây: Có một cựu tù nhân sống lang
thang không nhà không cửa nên thất vọng dùng dao cắt mạch máu của mình. Có người
gọi điện thoại cho cha. Cha lập tức đến nơi. Cha không một lời an ủi nhưng nói
với ông như ra lệnh: “Anh đừng tự vẫn. Còn quá nhiều người kém may mắn đang cần
đến sự giúp đỡ của tôi. Tôi cũng đang bệnh và cần sự giúp đỡ của anh."
Nghe
những lời đó, đôi mắt lờ đờ của người đàn ông sáng lên, và từ đó ông trở thành
một trong những cộng sự viên đắc lực nhất của cha.
3. Theo Chúa không tính toán
Hai
người bạn ngồi nói chuyện. Một người nói:
-
Tôi không thể kể hết cho anh những gì mà Chúa đã làm cho tôi, những điều Ngài nói
với tôi… Anh đi theo Ngài nhé.
Anh
kia đáp:
-
Anh ơi, theo Ngài thì anh tính toán. Vậy anh có tính toán việc anh không đi
theo Ngài không?
Tôi
cũng vậy. đã bao lần Chúa mời gọi “Hãy theo Ta”, vậy mà tôi vẫn cứ chần chừ: “để
con tính lại đã."
Thánh
Mát-thêu đã không ngần ngại, không chút do dự bước đi theo Chúa khi được gọi
“Hãy theo Ta”
Lạy
Chúa, xin cho con sức mạnh và lòng can đảm, để con thắng được vật cất, thắng được
chính thân xác của con, để con bước đi theo Ngài luôn mãi.
4. Cảm thông và tha thứ
Một
buổi tối nọ, Thiền sư Shecchery đang ngồi thiền thì có một tên cướp xông vào
nhà, hắn dí gương vào cổ nhà tu hành và doạ sẽ giết nếu không trao hết tiền bạc
cho hắn. Vị Thiên sư không để lộ một chút sợ hãi nào, ông chỉ vào cái hộp rồi
nói với tên cướp:
-
Tiền đựng trong cái hộp kia, ngươi hãy để cho Ta yên,
Nói
xong ông tiếp tục tụng niệm.
Sau
một lúc, ông nhìn lại và nói với tên cướp:
- Đừng
lấy hết tiền của Ta, để lại cho ta một ít vì ngày mai ta còn phải đóng thuế.
Nhưng
tên cướp đã không màng gì đến lời yêu cầu của vị thiền sư, lấy hết tiền trong
cái hộp và nhét đầy túi, hắn vừa ra đến cửa nhà sư nói vọng ra:
-
Ngươi không biết nói một tiếng cám ơn khi nhận được một món quà sao?
Không
quá tiếc lời với khổ chủ tên cướp đành nói tiếng cám ơn và bỏ đi.
Vài
ngày sau, vị thiền sư được tin là kẻ gian ác bị sa lưới pháp luật. Hắn nêu đích
danh vị tiền sư là người đã bị hắn uy hiếp. Thiền sư Secchery được mời ra toà để
làm chứng. Trước mặt mọi người ông đã tuyên bố như sau:
- Đối
với riêng cá nhân tôi thì người này không phải là một tên cướp. Tôi đã cho anh
ta tiền và anh ta đã mở niệng cám ơn tôi.
Vì
có quá nhiều tiền án cho nên tên cướp đã bị tống giam. Sau khi mãn hạn tù, anh
đã tìm đến với thiền sư và xin làm đệ tử của ông.
5. Không ai là vô dụng
Truyện
cổ Trung Hoa ghi lại về danh họa Aliêu như sau:
Aliêu
xuất thân là một tiểu đồng được một người tên là Chu Nguyên Tố đem về nuôi. Cậu
tiểu đồng này vốn rất ngây ngô, không làm được việc gì cả, vậy mà ông Chu
Nguyên Tố vẫn nuôi cậu suốt đời. Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn
suốt buổi mà không sạch nổi một cái buồng con, ông giận mắng nó thì nó quăng chổi
lẩm bẩm: Ông quét giỏi thì phiền đến tôi làm gì.
Khi
đi vắng, Chu Nguyên Tố sai nó giữ nhà và đón khách, nhưng dù cho khách có quen
thuộc tới đâu nó cũng không nhớ được tên người đó là ai. Có hỏi thì nó nói:
“Người ấy lùn mà béo, người ấy gầy mà lắm râu, người ấy xinh đẹp, người ấy tuổi
cao. Đến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể thì nó đóng cửa lại không cho ai vào nữa.
Trong nhà có chứa ít đồ cổ như chén, lọ, đỉnh, khách đến chơi nó bày ra cho
xem, lúc khách về nó lẻn đến gõ các thứ ấy mà nói: Những thứ này bằng đồng mà
sao nó đen xì như thế, rồi nó đi lấy cát, lấy nước để đánh bóng. Nhà có cái ghế
gãy chân, ông Chu Nguyên Tố sai nó chặt cây có chạc để sửa lại, nó cầm búa cưa
đi khắp vườn, sau một ngày lặn lội tìm kiếm trở về, nó chìa hai ngón tay làm hiệu
rồi nói: Cành cây có chạc đều chỉa lên cả, không có cành nào chúc xuống đất. Cả
nhà đều cười. Trước nhà có vài cây liễu, chủ nhà sợ trẻ con láng giềng đến nghịch
phá, sai nó trông nom dùm, đến lúc vào ăn cơm, nó nhổ cả cây đem cất vào một chỗ.
Công việc nó làm nhiều chuyện đáng buồn cười như thế.
Ông
Chu Nguyên Tố là người có tài hội họa, một hôm ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy
Aliêu ông hỏi đùa:
-
Mày có vẽ được không?
-
Aliêu đáp: “Khó gì mà không được."
Ông bảo nó vẽ, thế là Aliêu cầm cọ vẽ, nét đậm,
nét nhạt, nét xa nét gần, như người xưa nay vốn đã biết vẽ, ông thử luôn mấy lần,
lần nào Aliêu cũng vẽ được như ý. Từ bấy giờ ông dùng đến Aliêu luôn không lúc
nào rời. Về sau Aliêu nổi tiếng là một danh họa.
6. Ơn gọi từ bỏ
Hồi
còn sống Mẹ Têrêsa đã nhận được rất nhiều bức thư do các bạn trẻ gửi đến cho mẹ
trong đó có một bức tâm thư của một thiếu nữ, nhà rất giàu có. Xin được trích một
đoạn:
“Thưa
Mẹ, đã nhiều lần con nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi con tận hiến trót đời sống
con cho Ngài qua đời sống tu trì. Con đã cầu nguyện nhiều, đã suy nghĩ kỹ và đã
bàn hỏi với nhiều vị linh hướng xem Chúa muốn con vào dòng nào. Con thấy tại
nhiều Tu Hội trong đời tu, họ không thiếu thốn gì những thứ mà con đã có và
đang có trong gia đình và trong nếp sống trưởng giả của con. Con thầm nhủ: nếu
con gia nhập những hội tu đó, thì con cũng chỉ tiếp tục nếp sống gia đình của
con thôi, con đâu có phải từ bỏ gì nữa... Con muốn chọn tu hội của Mẹ để được dịp
từ bỏ mọi sự giàu sang trần gian và ôm ấp một đời sống thật nghèo khó và hy
sinh...”
7. Vị Thánh Là Ai?
Ngày
kia một em bé được theo mẹ đi chợ. Từ nhà đến chợ, hai người phải đi qua một
thánh đường nguy nga, to lớn. Em bé ngước mắt nhìn thánh đường, chợt em giơ tay
chỉ cho mẹ và nói: "Mẹ xem kìa, những cửa kiếng màu bị đóng đầy bụi, xem
thật dơ bẩn và không đẹp tí nào."
Bà
mẹ không nói không rằng về nhận xét của con, nhưng tiếp tục nắm lấy tay dẫn em
tiến vào bên trong nhà thờ. Tại đây, những cửa kiếng bên ngoài xem ra dơ bẩn, xấu
xí lại trở nên sáng chói và rực rỡ nhiều màu sắc lộng lẫy.
Em
bé ngạc nhiên mở to đôi mắt nhìn những cửa kiếng màu diễn tả nhiều hình ảnh đẹp
mắt. Bỗng mắt em dừng lại ở cửa kiếng sau bàn thờ diễn tả hình của bốn thánh sử
viết Phúc Âm trong lúc ánh mặt trời đang chiếu rọi qua. Em bé hỏi mẹ đó là những
thánh nào và được mẹ giải thích vắn tắt về từng vị thánh.
Vài
ngày sau, trong một lớp giáo lý, tình cờ giáo lý viên hỏi các em: "Này, trong
các em có ai trả lời được: một vị thánh là ai?" Trước một câu hỏi có vẻ
không có ý nghĩa, cả lớp giáo lý thinh lặng, chỉ có em bé được mẹ dẫn vào bên
trong nhà thờ để nhìn ngắm các cửa kiếng giơ tay xin trả lời. Em nói: "Vị
thánh là một người để cho ánh sáng mặt trời chiếu thấu qua."
8. Hình ảnh cho ơn gọi của tôi
Khi
nhìn bức hoạ “Ơn Gọi Của Thánh Matthêu” được tặng cho ngài, Đức Phanxicô nhớ lại
ơn gọi của mình. Trong một cuộc phỏng vấn, ngài nói, “Ngón tay Chúa Giêsu chỉ
vào Matthêu như thể ngón tay này chỉ vào tôi. Cử chỉ của Matthêu làm tôi xúc động,
Matthêu chụp lại mấy đồng tiền, như muốn nói, “Không, không phải Ngài gọi tôi!
Không, mấy đồng xu này là của tôi." Đức Thánh Cha nói, “Và đó là tôi, một
người tội lỗi được Chúa ghé mắt. Đó là điều tôi đã trả lời khi được hỏi, tôi có
nhận việc được bầu chọn làm Giáo Hoàng không." Chúng ta không ngạc nhiên
khi khẩu hiệu của ngài từ lúc làm Giám Mục và nay Giáo Hoàng là “Miserando
atque Eligendo”, “Thương Xót và Tuyển Chọn." Đức Thánh Cha đã đáp trả lời
mời gọi của Đấng Xót Thương bằng một đời sống khiêm hạ, khó nghèo và tín thác.
Ý
thức được lòng thương xót của Chúa, Thánh Matthêu đã với tới tầm cao của ân sủng
khi được uỷ thác sứ vụ tông đồ và thánh sử; cũng thế, Đức Phanxicô đã với tới tầm
cao của ân sủng khi Thiên Chúa giao cho ngài trọng trách chăn dắt Giáo Hội; đến
lượt chúng ta, Chúa Giêsu cũng đang cúi xuống và mời gọi, “Hãy theo tôi”, Ngài
cũng ước mong chúng ta ký vào một tấm séc trống và trao cho người đã gọi mình,
để Ngài cũng có thể viết vào đó mấy chữ “Trọn cả con người." Chính Đấng
Thương Xót sẽ giúp chúng ta với tới tầm cao của ân sủng, dù chúng ta ở đấng bậc
nào và yếu hèn đến cỡ nào.
Chúng
ta có thể cầu nguyện:
“Lạy
Chúa, để có thể với tới tầm cao của ân sủng, xin cho con biết mềm mỏng với Thánh
Thần; xin đừng để con quên rằng, con đang được đối xử với lòng Chúa xót thương."
Amen.
9. Không bao giờ trở lại
Trong
“Morning Glory”, “Vinh Quang Ngày Mới”, tác giả kể lại cuộc đào thoát của Lana,
31 tuổi, con gái một của Stalin; một biến cố khiến thế giới sửng sốt, và nước
Nga vuốt mặt. Tại New York, khi vừa đáp xuống, cô tiết lộ, “Tôi cảm nhận, không
thể tồn tại nếu không có Chúa trong lòng!" Cuộc đấu tranh của cô thật khủng
khiếp. Để rời Nga, Lana phải trả một giá quá đắt, “bỏ lại hai đứa con nhỏ ở
Moscow”, như cô nói, và “buộc mình không bao giờ trở lại!"
10. Con cần Chúa
Một
cô bé đang chơi trò ú tim cùng một vài người bạn. Khi đến lượt cô đi trốn, cô
đi tìm một chỗ nấp và chờ đợi. Năm phút trôi qua, chẳng có ai đến, rồi mười
phút, cũng không. Cuối cùng cô bé phát hiện ra rằng các bạn đã quyết định ngừng
chơi. Cô bé bật khóc, bởi vì các bạn chơi không công bằng.
Một
cụ già thấy cô bé khóc liền nói: “Cháu đã học được bài học quý giá, cháu đã học
biết được rằng Thiên Chúa cũng có những cảm xuc như cháu vậy.”
Chúng
ta được tạo dựng để tìm gặp Chúa, nhưng chúng ta chơi không công bằng. Trong
khi Chúa chờ đợi chúng ta tìm gặp Ngài, chúng ta lại bỏ đi và làm việc riêng.
Trong
mức độ từ một đến mười, tôi đã chơi cuộc đời công bằng với Chúa đến mức độ nào?
Ta
chỉ cần tiến một bước đến với Chúa, Ngài sẽ chạy mười bước lại với ta.
11. Ta muốn lòng nhân
Hai
lễ sinh cùng đánh rơi và làm vỡ bình đựng rượu. Lễ sinh thứ nhất bị một bạt tai
và thề không bao giờ trở lại nhà thờ nữa. Đó là chủ tịch nước Nam Tư (cũ) J.
Tito.
Lễ
sinh thứ hai được đức cha chủ tế gợi ý đi tu và trở thành tổng giám mục nổi tiếng
của nước Mỹ Fulton Sheen.
Cùng
phạm một lỗi lầm, nhưng cách đối xử nhân hậu hay nghiêm khắc đã quyết định số
phận cuộc đời của hai lễ sinh. Đức Giêsu đã nhiều lần trích dẫn câu Kinh Thánh
trong sách Hôsê 6,6 (x. Mt 12,7) để khẳng định việc Thiên Chúa muốn con người
có lòng nhân hậu khi ứng xử với đồng loại, hơn cả việc dâng của lễ cho Ngài.
Cũng có thể nói thêm rằng của lễ đẹp lòng Thiên Chúa hơn cả là tâm tình nhân hậu
của con người với nhau.
12. Đến với người tội lỗi
Nếu
một người làm nghề lau cửa sổ mà chỉ lau những chiếc cửa sạch, thì chắc hẳn anh
ta là một thằng khùng. Thật là buồn cười, nếu một dịch vụ giải trí chỉ phục vụ
toàn những người giàu. Và cũng là một trò đùa nếu một bệnh viện chỉ chữa toàn
những người khỏe mạnh.
Đó
là điều Chúa Giêsu muốn nói trong Bài Tin Mừng hôm nay. Tại sao người ta ngạc
nhiên khi thấy Ngài chăm sóc những con người vô gia cư và tội lỗi? Vì vậy mà những
người Biệt phái ngạc nhiên cho thấy họ không làm điều mà những người lãnh đạo
Do thái thực thụ phải làm.
Ngày
hôm nay, ai là kẻ vô gia cư và tội lỗi mà Chúa Giêsu chăm sóc? Ở mức độ nào và
như thế nào tôi đã để Ngài thực hiện điều này qua trung gian của tôi?
Không
làm gì cả là lỗi lớn nhất, bởi vì bạn vẫn có thể làm một chút gì đó. Hãy làm những
gì bạn có thể (Sydney Smith).
THỨ
HAI - NIỀM TIN VỮNG MẠNH
Lời Chúa: Lc 7, 1-10
Khi ấy, lúc Chúa Giêsu đã nói với
dân chúng xong, Người vào Capharnaum.
Bấy giờ một viên sĩ quan có tên
đầy tớ thân tín bị bệnh gần chết. Nghe nói về Chúa Giêsu, ông sai vài người kỳ
lão Do-thái đi xin Người đến cứu chữa đầy tớ ông. Họ đến gần Chúa Giêsu và van
xin Người rằng: “Ông ta đáng được Thầy ban cho ơn đó, vì thật ông yêu mến dân
ta, và chính ông đã xây cất hội đường cho chúng ta."
Chúa Giêsu đi với họ, và khi Người còn cách nhà viên sĩ quan không bao xa, thì ông này sai mấy người bạn đến thưa Người rằng: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nữa, vì tôi không xứng đáng được Thầy vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh. Vì tôi cũng chỉ là một sĩ quan cấp dưới, (tuy nhiên) tôi có những lính dưới quyền tôi, tôi bảo người này đi, thì nó đi; bảo người khác lại, thì nó lại; và bảo đầy tớ tôi làm cái này, thì nó làm."
Nghe nói thế, Chúa Giêsu ngạc
nhiên và quay lại nói với đám đông theo Người rằng: “Ta nói thật với các ngươi,
cả trong dân Israel, Ta cũng chẳng thấy lòng tin mạnh mẽ như vậy." Và những
người được sai đi, khi về tới nhà, thấy tên đầy tớ lành mạnh.
TRUYỆN
KỂ
1. Sức
Mạnh Của Niềm Tin
Năm 2002, trước khi Ðức cố Hồng
Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận qua đời, trong thời gian ngài bị bệnh, không
riêng gì người công giáo Việt Nam mà có lẽ cả thế giới công giáo đều quan tâm
theo dõi và cầu nguyện cho sức khỏe của Ðức cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn
Văn Thuận, Chủ tịch hội đồng Tòa Thánh Công Lý Hòa Bình.
Trước khi lên bàn mổ lần thứ
hai, Ðức cố hồng y đã đi hành hương đến mồ thánh Piô năm dấu, người vừa được Ðức
Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong hiển thánh ngày 16/6/2002. Phép lạ về phương
diện y khoa cho tới giờ phút này vẫn chưa xảy ra nhưng nụ cười vẫn không bao giờ
tắt trên môi Ðức hồng y, đó là điều mà nhiều người xem như một phép lạ.
Ðức cố hồng y xem những tháng
ngày trên giường bệnh là một ơn đặc biệt Chúa ban cho ngài. Phải chăng đây
không là sự hoàn tất của con đường thập giá mà Ðức Mẹ đã báo trước cho ngài? Ðức
cố Hồng y Phanxicô X. Nguyễn Văn Thuận không những đã làm vẻ vang Giáo Hội và
dân tộc Việt Nam mà ngài còn là một mẫu mực đức tin cho chúng ta. Ðức tin, đó
là ơn trọng đại nhất mà chúng ta phải không ngừng cầu xin.
2.
Sức nóng từ mặt trời
Trên một rặng núi đá cao đến 800
thước có những cây lá cọ vẫn sống mạnh. Ban đầu qua nhiều năm, các nhà thực vật
nghiên cứu và không tìm được nguyên nhân vì sao mà các cây này sống được trong
bóng tối của núi đá, vì mặt trời chỉ chiếu vào chỗ các cây này chỉ trong hai tiếng
đồng hồ mỗi ngày, trong lúc cây lá cọ sống nhờ nhiều vào ánh nắng mặt trời.
Về sau các nhà thực vật đã tìm
ra nguyên nhân: Các vách đá đã thu nhận ánh sáng mặt trời cũng như hơi nóng ban
ngày rồi phản chiếu vào chỗ những cây cọ này, cung cấp cho cây hơi nóng cần thiết
tỏa ra từ trong đá. Cho nên, hàng cây cọ cứ sống mạnh, dù hoàn cảnh thật là khó
khăn cho những cây ấy tồn tại trong điều kiện khó khăn đối với họ nhà cọ như thế.
Cũng như các cây lá cọ này, người tin Chúa, luôn được nuôi sống và đứng vững
trong mọi hoàn cảnh…
3.
Lòng thương người của vị sĩ quan.
Ông thương bằng cách sẵn sàng chịu
cực đủ thứ để mong cứu nó. Theo luật pháp Rôma, một “nô lệ” được định nghĩa một
“đồ dùng”, không có quyền pháp định nào. Chủ nhân có quyền tự do sinh sát đối với
người nô lệ của mình. Một văn sĩ Rôma chuyên về quản lý gia cư có lời khuyên những
chủ trại mỗi năm nên kiểm kê các vật dụng và cũng khuyên họ ném bỏ bớt những
món gì cũ kỹ, bể nát, “kể cả” những nô lệ già yếu không sử dụng được nữa. Có biết
được như thế, chúng ta mới thấy thái độ của viên sĩ quan Rôma này đối với nô lệ
là quá phi thường.
4.
Sự khiêm nhường của vị sĩ quan.
Xét về thế giá và địa vị, viên
sĩ quan đến xin Chúa chữa bệnh cho người tôi tớ hôm nay có quyền lực đại diện
cho đế quốc Rôma để cai trị một vùng của người Do thái, ông có lính tráng và kẻ
hầu người hạ, thậm chí xét về mặt chính trị, ông còn có quyền bắt, trục xuất hoặc
ngăn cấm Chúa Giêsu truyền đạo.
Thế nhưng, ông nhận ra nơi con
người Chúa Giêsu không đơn thuần là một thầy dạy như các luật sĩ, mà là một vị
tiên tri của Thiên Chúa, nên ông cảm thấy bất xứng trước mặt Ngài. Ông nhìn nhận
mọi chức vụ và địa vị đều dưới quyền của Thiên Chúa, và ông đã khiêm tốn nói
lên: “Lạy Thầy, không dám phiền Thầy hơn nũa, vì tôi không xứng đáng được Thầy
vào nhà tôi, cũng như tôi nghĩ tôi không xứng đáng đi mời Thầy, nhưng xin Thầy phán
một lời, thì đầy tớ tôi được lành mạnh” (Lc 7,7).
5.
Hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
Một hôm, Dương Chu sang nước Tống,
vào ở trọ một nhà kia. Người chủ nhà trọ có hai nàng hầu, một nàng đẹp, một
nàng thì xấu. Để ý quan sát, Dương Chu thấy trong nhà ai cũng quí trọng người
thiếp xấu mà khinh rẻ người thiếp đẹp. Lấy làm lạ, không hiểu nổi, Dương Chu mới
hỏi thằng bé trong nhà trọ. Thằng bé tiết lộ:
- Người thiếp đẹp, tự cho mình
là đẹp nên mất đẹp. Chúng tôi chẳng ai nhìn ra cái đẹp của nàng cả. Trái lại
người thiếp xấu, tự biết mình là xấu, mà quên xấu, không còn ai nhìn thấy cái xấu
của nàng nữa.
Dương Chu liền gọi học trò đến,
dặn:
- Các con nhớ ghi lấy: giỏi mà bỏ
được cái thói tự cao mình là giỏi, thì đi đâu mà chẳng được người yêu quí tôn
trọng.
6.
Con người của đức tin và đức mến
Nhìn vào cách chăm sóc đồng loại
của vị sĩ quan Roma, ta thấy ông đã dạy mọi người phải sống Đức Tin và Đức Ái,
vì:
- Người công chính sống bởi Đức
Tin (Rm 1,17).
- Mọi sự sẽ qua đi, chỉ có Đức
Ái tồn tại muôn thuở (1 Cr13,13).
Nhưng nhìn vào cách sống Đạo của
giáo đoàn Côrinthô, ông Phaolô thấy thua xa vị sĩ quan ngoại giáo trong Tin Mừng
hôm nay, nên ông viết thư trách:
“Thưa anh em, nhân lúc đưa ra
các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không
đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây hại. Thật thế, trước tiên tôi nghe rằng khi họp
cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau. Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có,
nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn. Khi anh em họp nhau, thì
không phải là để ăn bữa tối của Chúa.Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của
mình trước, và như thế, kẻ thì đói, người lại say. Anh em không có nhà để ăn uống
sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không
có của?”
Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa,
tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng
lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: "Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình
Thầy, hiến tế vì anh em; anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
Do đó thánh Phaolô khuyên các tín hữu “trước khi đi dâng Lễ, hãy dùng bữa ở nhà
trước, và khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau” (1Cr 11, 17-26.33: Bài
đọc năm chẵn).
Đó là “anh em loan truyền Chúa
đã chịu chết cho tới khi Chúa lại đến” (1Cr 11,26b: ĐC năm chẵn).
“Loan truyền việc Chúa chịu chết”
chính là hiệp dâng Thánh Lễ, rồi đi phục vụ, thì phải đặt quyền sống của người
anh em trên quyền sống của mình, giống Chúa Giêsu đối với nhân loại. Nếu tất cả
những người Công Giáo sống được như thế thì thế giới này không còn ai ở ngoài Hội
Thánh Công Giáo.
7.
Sức mạnh của lời cầu nguyện
Nhà thần học Anh C. S. Lewis nhận
xét một cách chính xác rằng người ta không cần bác sĩ để chữa bệnh. Thiên Chúa
có thể chữa trị trực tiếp cho con người, nhưng Ngài quyết định không làm như thế.
Ngài muốn để cho các bác sĩ, với thuốc men và những cách thông thường để chữa
lành con người. Cũng vậy, Thiên Chúa không cân lời cầu nguyện để làm cho các
nhà lãnh đạo quốc gia hành động có trách nhiệm, nhưng Ngài ban cho mọi công dân
sức mạnh câu nguyện để cam hóa các vị lãnh đạo. Sự lưu ý của thánh Phaolô về việc
cầu nguyện nhắc chúng ta rằng chúng ta phải dùng sức mạnh lời cầu nguyện để tác
động giới lãnh đạo quốc gia, nếu không, Thiên Chúa sẽ bắt chúng ta phải chịu
trách nhiệm.
Lần cuối tôi cầu nguyện cho các
vị lãnh đạo quốc gia và chính quyền là khi nào?
Sự hờ hững của công dân nguy hiểm
cho công ích hơn là sự bạo ngược của một hoàng tử. (Baron Montesquieu)
8.
Sống đức tin từ việc nhỏ
Một câu chuyện cổ kể về một vị
vua mời các thần dân đến dự tiệc. Như dấu chỉ của sự đoàn kết và chia sẻ, ông
yêu cầu mỗi người mang theo một chai rượu để đổ vào chum rượu lớn. Đến lúc phục
vụ rượu, nhà vua ra lệnh cho những người đầy tớ rót rượu từ chum ra cho khách uống.
Khách dự tiệc rất sợ hãi, vì đó chỉ toàn là nước lã, bởi lẽ mọi người đều nghĩ
rằng chai rượu của mình quá nhỏ đến độ nếu có cho nước vào và đổ vào chum thì
cũng chẳng sao.
Khi họp nhau cử hành Thánh Thể,
tôi mang gì để chia sẻ với người khác?
Nếu tôi có được đức tin đến chuyển
dời núi non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì (1Cr 13, 2)
9.
Đức tin phải có việc làm
Đức tin là món quà Thiên Chúa
ban tặng. Chúng ta có thể so sánh đức tin với hạt giống mà một ai đó tặng cho
người nông dân. Anh ta có thể đổ đầy một giỏ hoặc cả trăm giỏ cũng được. Món
quà của Thiên Chúa tương xứng với sự sẵn lòng đón nhận của chúng ta. Và khi người
nông dân nhận được hạt giống, anh ta có thể gieo trồng và chăm sóc, hoặc cũng
có thể cất dấu để rồi quên lãng đi. Một chọn lựa tương tự cũng xảy ra đối với
món quà đức tin được Thiên Chúa trao tặng chúng ta.
Sự kiện trên đây gợi lên một câu
hỏi quan trọng: Tôi vun trồng chăm sóc đức tin của tôi ra sao?
Ta cho con cầm một đầu của sợi
dây vàng. Con chỉ cần cột vào quả cầu là nó sẽ đưa con tới cổng thiên đàng
(William Blake).
10.
Vĩ đại bởi lòng tin
Alexix de Tocqueville đã viết
cách đây nhiều thập kỷ: “Tôi tìm kiếm thiên tài vĩ đại nhất nước Mỹ trong những
cánh đồng màu mỡ và những cánh rừng mênh mông, mà không tìm được…, trong những
khu mỏ giàu có và trong thế giới thương mại rộng lớn, nhưng không thấy ở đó…,
trong Quốc hội dân chủ và bộ máy chính trị vô song, mà cũng chẳng gặp. Chỉ khi
tôi đi vào những ngôi thánh đường của Mỹ, tôi mới hiểu được bí quyết và sức mạnh
của thiên tài.”
Bí quyết sự vĩ đại của Mỹ được
in trên đồng tiền, đó là “In God we trust” (Chúng tôi tin vào Thiên Chúa). Tôi
có thể khắc sâu đức tin và niềm cậy trông vào Chúa như đức tin và niềm cậy
trông vào người Mỹ không?
Nước Mỹ vĩ đại vì nó tốt. Một
khi không còn tốt nữa, nước Mỹ cũng hết vĩ đại (Alexis de Tocqueville).
11.
Cầu thay nguyện giúp
Thời nội chiến, một người lính
trẻ - mất cha và anh cùng lúc - tìm đến Washington xin miễn dịch; anh hy vọng
có thể ở nhà giúp mẹ và em gái. Đến Toà Bạch Ốc, anh xin gặp tổng thống; lính
gác từ chối. Thất vọng, anh thơ thẩn ra công viên. Tình cờ, một cậu bé lại gần,
“Trông anh không vui. Chuyện gì vậy?" ‘Người bạn tí hon’ nghe anh tâm sự.
Sau đó, không một lời, cậu bé nắm tay anh đi một quãng, dẫn anh qua cửa sau, vượt
các lính gác, vào thẳng văn phòng. Lincoln hỏi, “Tad, con cần gì?”; Tad nói,
“Ba ơi, người lính này cần gặp ba!" Kết quả, binh sĩ trẻ được ở nhà giúp mẹ!
Trên bước đường rao giảng của
Chúa Giêsu, ai cũng có thể trực tiếp đến gặp Ngài. Tuy nhiên viên sĩ quan ngoại
giáo giàu có và quyền thế này không làm vậy. Lý do, “Tôi không đáng rước Ngài
vào nhà tôi”, nghĩa là ‘Tôi không xứng đáng đi mời Thầy’. Chúa Giêsu thực sự
kinh ngạc, “Tôi chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế!" Và ngay
giờ ấy, từ xa, đầy tớ của ông được lành.
“Lạy Chúa Giêsu, ‘Trung Gian của
các trung gian!’. Lạy các thánh, ‘nguyện giúp cầu thay’ cho con; giúp con cũng
trở nên ‘một trung gian’ của anh chị em con!”, Amen.
THỨ
BA - NGƯỜI CHẾT THÀNH NAIM
Lời Chúa: Lc 7, 11-17
Khi ấy, Chúa Giêsu đến một thành
gọi là Naim. Các môn đệ và đám đông dân chúng cùng đi với Người.
Khi Người đến gần cửa thành, thì
gặp người ta đang khiêng đi chôn người con trai duy nhất của một bà goá kia và
có đám đông dân thành đi đưa xác với mẹ nó. Trông thấy bà, Chúa động lòng thương
và bảo bà rằng: “Đừng khóc nữa." Đoạn tiến lại gần, Người chạm đến quan
tài và những người khiêng đứng lại. Bấy giờ Người phán: “Hỡi thanh niên, Ta
truyền cho ngươi hãy chỗi dậy." Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Rồi
Người trao lại cho mẹ nó.
Mọi người đều sợ hãi và ngợi
khen Thiên Chúa rằng: “Một tiên tri cao cả đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên
Chúa đã thăm viếng dân Người." Và việc này đã loan truyền danh tiếng Người
trong toàn cõi Giuđêa và khắp vùng lân cận.
TRUYỆN
KỂ
1. Lòng
thương xót
Ngày kia, có một phụ nữ đến van
xin tha thiết với hoàng đế Napoléon cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã
phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng
đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý.
Nhưng bà mẹ năn nỉ:
- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin
lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.
Hoàng đế Napoléon trả lời:
- Nhưng hắn ta không xứng đáng
được thương xót.
Bà mẹ nói:
- Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng,
thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.
Hoàng đế Napoléon đáp:
- Thôi được. Ta sẽ rủ lòng
thương xót nó.
Và ông sai thả người thanh niên
đó ra
2.
Biết cảm thông và chia sẻ.
Vào tháng thứ hai của một khóa học
tại trường đào tạo nghiệp vụ y tá, giảng viên cho chúng tôi làm một việc kiểm
tra về kiến thức phổ thông.
Tôi vốn là một sinh viên chăm chỉ
nên dễ dàng trả lời mọi câu hỏi trong bài kiểm tra, trừ câu hỏi cuối “Chị tạp vụ
ở trường tên là gì”? Tôi nghĩ đó chỉ là một câu hỏi cho vui. Tôi đã trông thấy
chị ta vài lần. Chị có dáng người cao, mái tóc nâu sậm và khoảng 50 tuổi, nhưng
làm thế nào mà tôi có thể biết tên chị được kia chứ? Tôi nộp bài và bỏ trống
không trả lời câu hỏi đó.
Trước khi tan học, một sinh viên
đứng lên hỏi giảng viên về cách tính điểm câu hỏi cuối trong bài kiểm tra vừa
làm. Giảng viên bộ môn trả lời:
- Tất nhiên là có tính điểm.
Trong mọi ngành nghề, các anh chị phải luôn gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người.
Tất cả những con người đó đều có ý nghĩa. Họ đáng được các anh chị quan tâm chú
ý đến, cho dù tất cả những gì ta có thể làm cho họ chỉ là một lời chào hỏi và một
nụ cười.
Tôi đã không quên bài học đó
trong suốt cuộc đời mình. Tôi cũng đã biết được tên chị tạp vụ trong trường: Chị
tên là Dorothy.
Vâng, chúng ta hãy tập cho mình
một thói quen biết cảm thông và chia sẻ. Một trái tim biết cảm thông và chia sẻ
là trái tim của con người.
3.
Hãy chỗi dậy
Bữa nay mình không muốn đến nhà
thờ… Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn
phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?
Bữa nay mình không muốn đến nhà
thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở
máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ
ràng có ai gọi mình mà!
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những
tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó
nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy
gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con.
4.
Hai Vì Sao Mỉm Cười
Một vị ẩn sĩ nọ tịnh niệm và
chay tịnh đến suốt ngày không động đến thức ăn và nước uống.Từ trên đỉnh núi
cao, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày: đó là dấu hiệu trời
cao chấp nhận của lễ hy sinh của ông.
Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo
lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đương leo
núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn
sĩ đành để cho cô bé đi theo. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc,
ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé gái đều cảm thấy khát nước.
Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô gái hãy
uống nước. Cuối cùng, không ai chạm đến nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời
thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.
Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt.
Ðến một lúc, vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong
cơn khát. Cuối cùng, ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và
lúc bấy giờ cô bé gái cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị
ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi
ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế
nhưng, trước sự ngạc nhiên vỡ lở của ông, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi,
ông thấy có hai vì sao lấp lánh như đang mỉm cười với ông.
Nói như mẹ Têrêxa Calcutta: “Khi
tôi chia sẻ, khi tôi trao ban cho người một điều gì làm tôi cảm thấy mát mát,
đau khổ, thì sự chia sẻ của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban của
dư thừa, mà chính là trao ban chính tôi.
5.
Hết lòng vì người khác
Một nhân viên hàng không đồng ý
rằng thật khó để tuyển mộ và huấn luyện con người cho nghiệp vụ hàng không. Những
người tốt ít có những đức tính như sự hòa hợp giữa tự chủ, nhã nhặn và ước muốn
phục vụ. Liên hệ đến sự hiếm hoi của những đức tính này, một nhân viên hàng
không khác nói: “Ngày nay, không ai muốn bị xem là người đầy tớ.” Nói về tầm
quan trọng của đức tính này, nhân viên nói: “Khi bạn làm đúng trọng trách, phục
vụ là điều bạn phải lưu tâm đến.”
Những lời của nhân viên hàng
không và của thánh Phaolô mời gọi tôi nhìn lại khả năng tự chủ, nhã nhặn và ước
muốn phục vụ của chính tôi.
Bạn không bao giờ thể hiện được
chính mình khi chưa hết lòng vì người khác. (Martin Luther King)
6.
Sống với nhau
Cây đại thụ Dyerville 1.500 tuổi
là cây căm xe cao thứ ba trên thế giới. Đường kính của nó là 6 mét, cao 120
mét. Nó là niềm tự hào của công viên cây căm xe ở California. Nhưng tháng 5-
1991 nó đã bị những trận mưa dữ dội quật ngã. Don Hoyle, người giám sát công
viên giải thích rằng những cây căm xe phụ thuộc vào nhau để bảo vệ nhau. Những
cây căm xe có rễ không bám sâu và không có rễ cái. Rễ của chúng tựa như một tấm
thảm và tất cả chúng giúp nhau đứng vững. Thân thể của Chúa Kitô cũng giống như
những cây căm xe. Mỗi người chúng ta cần phải giúp nhau để đứng vững.
Tôi có thể giúp các chi thể
trong thân thể Chúa Kitô đứng vững bằng cách nào?
Giáo hội không thể đứng vững
trên đôi bàn chân, nếu không dựa trên đầu gối.
7.
Trao tặng hy vọng
Mạng lưới truyền hình kể câu
chuyện về một cậu bé người Mêxicô, 12 tuổi, tên là Alfredo. Cậu mất cả gia đình
trong một trận hỏa hoạn và khuôn mặt cậu bị biến dạng một cách khủng khiếp. Chẳng
có ai tiếp nhận Alfredo đến nỗi cuối cùng cậu phải sống lang thang trên đường
phố. Một hôm, tình cờ cậu gặp một trại mồ côi, cậu tìm lối vào và tại đây cậu
đã được thu nhận. Tối hôm đó, trại mồ côi tổ chức buổi chúc mừng Alfredo. Giữa
tiệc vui, máy quay phim ghi hình khuôn mặt Alfredo. Lần đầu tiên, kể từ vụ hỏa
hoạn, khuôn mặt đó đã ánh lên nụ cười tươi tắn. Một Alfredo tưởng như đã chết
nay được tái sinh trong cuộc sống mới. Một lần nữa, cậu lại có một gia đình.
Tôi có biết nhạy cảm đối với những
con người bất hạnh không? Hiện nay ai là người như thế trong đời tôi?
Chúng ta có thể vẫn sống, dù nhịn
ăn 40 ngày hoặc thiếu không khí trong 8 phút. Nhưng chúng ta chỉ sống được một
giây, nếu không có hy vọng (Hal Lindsay).
8.
Trao cho bà mẹ
Cậu Karol Wojtyla lên 7 tuổi, đứng
bên giường mẹ đang hấp hối, cậu khóc nức nở! Người mẹ nắm tay con ôn tồn nói:
“Con đừng khóc, mẹ này chỉ là vú nuôi con, khi Chúa rước vú này về với Chúa,
thì người Mẹ thật của con là Đức Ma-ri-a xuất hiện, sẽ đích thân chăm sóc con.
”
Từ ngày ấy, cậu Karol Wojtyla tỏ
lòng sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, tưởng đó cũng là lý do quan trọng mà ngày
18-10-1978 Chúa đã chọn ngài lên ngôi Giáo hoàng (Gioan Phaolô II), đem lại nhiều
lợi ích cho Hội Thánh và cả xã hội trong mọi lãnh vực.
Vậy Đức Maria là Mẹ thật của
tôi.
9.
Đã hoàn thành trách nhiệm
Một Rabbi do thái tên là Nahman
vừa có đứa con trai bị chết. Các rabbi bạn ông đến an ủi nhưng chẳng thể nào
làm cho ông hết đau lòng. Cuối cùng Rabbi Moses kể cho ông nghe câu chuyện sau
đây:
Một ông vua kia giao cho một người
đầy tớ giữ một báu vật. Anh này ngày nào cũng than: "Khốn thân tôi ! Biết
tới chừng nào nhà vua mới lấy lại báu vật này để tôi không còn phải gánh vác
trách nhiệm to lớn này nữa."
Rồi Rabbi Moses áp dụng: Bạn
cũng đã được giao trách nhiệm gìn giữ một báu vật là đứa con rất tốt lành của bạn.
Nay nó đã được cất khỏi thế gian này mà không bị sự dữ nào làm hoen ố. Vậy bạn
phải vui mừng vì đã chu toàn trách nhiệm mà Vua các vua đã giao cho ông chứ !
Câu chuyện và lời khuyên của
Rabbi Moses đã làm vơi đi nỗi buồn ủa Rabbi Nahman.
10.
Mr. Sweetness
Walter Payton là một trong những
cầu thủ nổi tiếng của đội dã cầu Chicago Bears. Ở Chicago, ông thường được gọi
là “Sweetness” và cũng là một trong những cầu thủ giỏi nhất chơi cho đội Bears.
Về phương diện cá tính cũng như
nghề nghiệp, ông xứng đáng với cái tên “Sweetness.”
Ông mất sớm, và sau khi từ trần
không lâu, một bà trước đây ở Chicago gửi một lá thư cho tờ Dallas Morning
News. Bà kể khi tham dự một cuộc triển lãm xe hơi ở Chicago, ông Walter Payton
đang đứng trên một cái bục, ký tên lưu niệm.
Một bé trai, khoảng 12 tuổi, đưa
cho người giúp việc một trái banh dã cầu mà em đã đem theo từ nhà để được ông
Payton ký tên vào đó.
Ông Payton ký tên, ném trái banh
xuống cho bé trai này, và tiếp tục ký tên lưu niệm. Ông không thấy rằng một thiếu
niên cao lớn khác đã chụp lấy trái banh này và lẻn ra khỏi đám đông. Em bé trai
ôm mặt khóc.
Một phụ nữ đứng cạnh đó đã len
qua đám đông để lưu ý người giúp việc về sự kiện xảy ra. Ông này đã nói lại cho
ông Payton biết về sự việc và ông Payton đã gọi em bé trai đến.
Ông hỏi tên và địa chỉ của em và
cho biết ông sẽ gửi cho em một trái dã cầu có chữ ký của ông.
Người phụ nữ viết thư cho tờ báo
đó nói:
Tôi chưa bao giờ được thấy nước
mắt trở thành một nụ cười tươi rói sau khi em bắt tay ông Payton.
Bà kết luận:
Tôi tin rằng ông Payton không chỉ
là “Mr. Sweetness” ở ngoài sân banh, nhưng còn trong mọi khía cạnh của cuộc đời
ngắn ngủi của ông. (Lorraine Rukavina, Carrollton, Texas)
11.
Chúa vẫn còn làm phép lạ
Linh mục thừa sai Paul Belliveau
ở Maryknoll cai quản một trong những giáo xứ đặc biệt nhất thế giới. Giáo xứ
này gồm khoảng 11 ngàn người tỵ nạn Salvador sống trong một trại tập trung ở
Honduras. Đa số họ là phụ nữ, trẻ em và người già. Họ giống như những tù nhân bị
giam lỏng, bởi vì chung quanh trại, đám lính luôn canh chừng không cho họ trốn
chạy đi tìm tự do ở nơi khác chẳng hạn như ở Mỹ.
Đây là hai đoạn trích từ một quyển
nhật ký mà Linh mục Belliveau còn giữ lại. Đoạn thứ nhất được ghi lại vào một
ngày Chúa Nhật, nội dung như sau: Tôi để ý thấy nhiều dân tỵ nạn cứ dán mắt vào
những tấm ván hở để nhìn ra phía ngoài nhà nguyện khi có 18 người lính gác
Honduras đi ngang qua trại. Tôi cảm thấy hình như họ rất sợ hãi. Biết bao nhiêu
lần chính mắt họ đã từng nhìn thấy những toán lính vũ trang như thể tiến vào giết
chóc và tiêu diệt làng mạc của họ tại El Salvador. Tôi đã phải trấn an họ trước
khi chúng tôi tiếp tục Thánh lễ.
Đoạn thứ hai đề ngày thứ ba, nội
dung như sau: Khi đến khu trại số 5, tôi thấy có nhiều phụ nữ đang đọc kinh
trong nhà nguyện. Tôi bước vào và ngồi xuống. Khoảng 80 phụ nữ đang gẫm Đàng
Thánh Giá. Mỗi một chặng ngắm họ đều so sánh nỗi đau đớn của Chúa Giêsu với khổ
đau mà dân tỵ nạn đang gánh chịu. Hai người phụ nữ kể cho tôi rằng họ đã đặt
tên cho nhóm của mình là ‘Nhóm các bà mẹ mất con vì bạo lực ở El Salvador’.
Trong khi nói chuyện với đám phụ
nữ, Linh mục Belliveau nhìn thấy nơi khuôn mặt họ nỗi đau đớn mà Chúa Giêsu đã
nhìn thấy nơi khuôn mặt bà góa thành Naim. Cha hết lòng ao ước phải chi cha có
thể làm cho những người con đã chết của họ sống lại giống như Chúa Giêsu đã làm
cho con trai của bà góa nọ. Nhưng tiếc thay Belliveau không phải là Chúa Giêsu.
Nhưng rồi vị Linh mục chợt nhận
thấy một điều gì đó. Cha nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện
thực sự trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện nơi làng Naim
hơn 2000 năm về trước; và hơn thế nữa, Chúa Giêsu vẫn đang thực hiện nơi nhà
nguyện bé nhỏ này phép lạ còn vĩ đại hơn phép lạ tại Naim nữa; Vì nhờ lời cầu
xin của các phụ nữ góa bụa này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái
họ về mặt thể lý, vì điều này cũng sẽ chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm, trái
lại, Ngài ban cho lũ con ấy cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Đây là ý
Chúa Cha: Hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài sẽ được sự sống đời đời, và Ta sẽ
cho kẻ ấy sống lại ngày tận thế (Ga 6,40). Và bỗng dưng, Linh mục Belliveau nhận
ra rằng phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho các tín hữu còn vĩ đại hơn nhiều so với
phép lạ Ngài đã làm cho con trai bà góa thành Naim.
12.
Cái giếng cũ
Ðây là một cái giếng mà nước rất
trong sạch và dịu mát làm cho ai uống vào cũng cảm thấy khoan khoái. Một điều đặc
biệt nữa là chưa bao giờ giếng này cạn nước cho dù mùa hè có nắng hạn đến đâu
đi nữa. Chủ nhân của cái giếng này là một bác nông dân nghèo.
Nhưng đến một lúc mà hệ thống điện
nước chuyển đến nông thôn, thì cái giếng của bác xem ra cũng trở thành vô dụng.
Căn nhà của bác cũng được sửa chữa lại, hệ thống dẫn nước cũng được thiết lập.
Không ai buồn nghĩ đến chuyện phải vất vả để kéo nước từ cái giếng đó nữa. Thế
là cái giếng bị đóng lại.
Bẵng đi nhiều năm trời. Một ngày
nọ vì tò mò, người nhà của bác nông dân mở cái giếng cũ ra xem, thì lạ thay, giếng
nước đã bị khô cạn. Bác nông dân không thể hiểu tại sao cái giếng nước trong
lành của mình đã trở thành khô cạn. Mãi về sau, ông mới khám phá ra nguyên do:
cái giếng cũ của ông vốn được bao nhiêu mạch nhỏ tiếp tế, càng múc nước thì nước
càng tuôn chảy vào giếng. Nay đã nhiều năm qua, nước giếng không còn được múc
lên nữa cho nên các mạch nước bị bít kín và phần nước còn sót lại trong đáy giếng
cũng dần bị bốc hơi và khô cạn.
THỨ TƯ
- THÁI ĐỘ THIẾU NHẤT QUÁN
Lời
Chúa: Lc 7, 31-35
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Ta sẽ phải nói những người của thế hệ này giống
ai đây? Họ giống ai? Họ giống như những đứa trẻ ngồi ngoài đường phố gọi và nói
với nhau rằng: "Chúng tôi đã thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy
múa. "Chúng tôi đã hát những điệu bi ai, mà các anh không khóc."
Bởi
vì khi Gioan Tẩy Giả đến, không ăn bánh, không uống rượu, thì các ngươi bảo:
"Người bị quỷ ám."
Khi
Con Người đến có ăn có uống, thì các ngươi lại nói: "Kìa con người mê ăn
tham uống, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi."
Nhưng
sự khôn ngoan đã được minh chính bởi tất cả con cái mình."
TRUYỆN KỂ
1. Chủ quan, phiến diện
Lúc
11 tuổi, đứa bé thường bảo rằng: “Cha mẹ của tôi rất vĩ đại. Không có gì mà cha
mẹ tôi không biết. Không có gì mà họ không làm được." Lên 16 tuổi nó nói:
“Cha mẹ tôi không vĩ đại như tôi tưởng, không phải cái gì họ cũng biết hoặc
cũng có thể làm." Ba năm sau, nghĩa là khi lên 19 tuổi, học Đại học, nó
phát biểu: “Cha mẹ tôi thường cho rằng họ đúng, kỳ thực, kiến thức của họ so với
kiến thức của tôi thì thua kém xa." Sau khi lập gia đình, nó được 24 tuổi,
tốt nghiệp Đại học, nó phát biểu: “Cha mẹ tôi không hiểu tuổi trẻ; thanh niên
thì tiến bộ, còn họ lại bảo thủ."
Năm
30 tuổi, có con cái, nó khám phá ra chân lý sau: “Ở nhiều sự việc, cha mẹ thường
có lý." Đến lúc nó được 50 tuổi, khi cha mẹ nó đều đã qua đời, nó không cầm
được lòng và tuyên bố: “Cha mẹ tôi đúng là những nhân vật tuyệt vời! Họ có đầu
óc rất minh mẫn, xử sự rất hợp lý, hợp thời. Cha mẹ ơi, cha mẹ là các vị thần!”
2. Không giữ mà bắt người khác giữ
Trong
làng kia có một nông dân rất khô khan nguội lạnh, không sống đạo theo đức tin của
mình. Một sáng Chúa nhựt nọ ông bảo đứa con trai rằng:
-
Sáng nay con ra đồng làm việc với ba nhé.
Cậu
điềm tĩnh trả lời:
-
Thưa ba, hôm nay là ngày Chúa nhựt mà.
-
Chúa nhựt thì sao? Bộ Chúa nhựt không làm việc được hả? Ý con thế nào?
-
Thưa ba, con muốn nói giới răn thứ ba Chúa dạy phải thánh hóa ngày Chúa nhựt và
phải cầu nguyện.
Nghe
vậy người cha bực tức gắt lên:
-
Giới răn là cái quái gì !
Một
ý tưởng loé lên trong trì, cậu con nhanh nhẩu thưa lại:
-
Thưa ba, nếu ba nói như vậy thì con không tuân giữ các giới răn của Chúa, kể cả
giới răn thứ tư là giới răn Chúa dạy vâng lời cha mẹ !
Lạy
Chúa, xin ban cho con có được sức mạnh của lòng tin, để con đón nhận tình yêu của
Chúa. (Hosanna)
3. Lúc nào cũng có lý
Một
cha xứ gặp chị đàn bà chồng mới chết mấy tháng, ngài hỏi:
-
Chắc con còn nhớ bạn con lắm, con nên xin lễ cầu nguyện cho bạn con.
-
Thưa cha, con vẫn nhớ bạn con hằng ngày. Nếu bạn con nay đã lên Thiên Đàng rồi,
con tưởng chẳng cần phải xin lễ nữa.
-
Phải, nhưng nếu bạn con chưa lên Thiên Đàng?
- Nếu
không lên Thiên Đàng, bạn con đã phải sa hỏa ngục. Sa hỏa ngục mà xin lễ, thì
vô ích.
-
Con nói đúng, song nếu bạn con đang phải giam trong luyện tội?
-
Thưa cha, nhà con rượu chè, bê tha nếu phải giam trong luyện ngục thì cũng đáng
lắm.
Thế
là cả đời, chị ta không hề xin lễ cho chồng.
4. Coi trọng điều tầm thường
Nhà
hùng biện Démosthène trổ tài ngôn ngữ hoạt bát vốn có của mình để biện hộ cho một
bị cáo. Ông nói năng rất hùng hồn và đưa ra nhiều lý luận rất đanh thép, nhưng
những người nghe vẫn không mảy may quan tâm chú ý. Thấy thế ông bèn thuật câu
chuyện dưới đây:
Có
một du khách kia thuê một con lừa để đi ngoạn cảnh. Lối giữa trưa, mặt trời đứng
ngay đỉnh đầu, ông ta không tìm đâu ra một bóng mát để tránh nắng. Bỗng dưng,
ông ta nảy ra một ý nghĩ. Ông nhảy xuống khỏi lưng lừa và ngồi dưới bụng của
con vật. Nhưng người chủ lừa đi theo để hướng dẫn ông ta trong cuộc du ngoạn, tỏ
ý không bằng lòng, viện cớ bóng mát của con lừa không có tính trong giá tiền
cho thuê. Hai bên cãi vã, ban đầu nhỏ, sau to dần và rốt cuộc họ đánh đấm với
nhau, đến nỗi cả hai phải đưa ra trước quan án để nhờ xét xử.
Démosthène
ngưng câu chuyện tại đó và tiếp tục bào chữa cho thân chủ của ông. Những thính
giả tỏ ý phản đối. Họ nhất định đòi ông cho biết quan tòa tuyên án thế nào
trong vụ bóng của con lừa. Ông chụp ngay cơ hội ấy quở trách họ cách nặng nề rằng,
họ giống như con trẻ, chỉ thích để ý đến một câu chuyện phù phiếm về cái bóng của
một con lừa mà không chịu để ý lắng tai nghe lời bênh vực của ông đối với mạng
sống của một con người.
5. Các đức tính của người dẫn đường (lời cầu nguyện
của một linh mục)
Lạy
Chúa, xin ban cho con tính Ngay Thẳng, biết tôn trọng chân lý, để không bao giờ
con hiểu theo nghĩa xấu, điều mà có ai đó đã làm phiền lòng con.
Xin
ban cho con một tấm lòng Khiêm Tốn, để con không trở nên cứng cỏi, bất chấp những
lời chỉ dạy, những lời phê bình, những lời kết án khắt khe từ mọi phía.
Xin
ban cho con một tấm lòng Quả Cảm, chịu đựng anh em con một cách lâu bền, để
giúp họ được bình an hạnh phúc, dầu cho họ còn yếu đuối và đầy khuyết điểm.
Xin
ban cho con ơn Sáng Suốt, đừng dễ tin vào điều xấu mà người ta đã nói về kẻ vắng
mặt; và nhất là cương quyết không kể lại cho ai khác những điều xấu đã lọt vào
tai con. Amen.
6. Đi nhanh làm chi
Một
người đi chậm rãi dưới mưa, người khác thấy vậy trách anh ta chậm chạp. Anh ta
nói: “Đi nhanh để làm gì, phía trước cũng có mưa mà!”
Cũng
vậy, nhiều Kitô hữu không sợ tội vì cho rằng đời mình phía trước còn dài, chung
quanh mình thiếu gì người làm áp phe xấu, lươn lẹo như mình, tội gì mà sợ chứ!
Thế là họ cứ chầm chậm bước đi trong mưa bùn lầy lội của cuộc đời. Cuộc sống của
họ ngày càng dính bùn nhơ nhớp, đến nỗi không ai nhận ra họ là người Kitô hữu nữa.
Họ
tựa như những người Do Thái thời Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu. Dù được các ngài
nhắc bảo, cảnh tỉnh, họ vẫn cứ ngoan cố khước từ mọi con đường các ngài mở ra để
giúp họ hoán cải trở về với Chúa. Thật đáng tiếc, lại một cơ hội bị bỏ lỡ!
7. Tôi bảo
“Tôi
bảo” là tên của một trò chơi trong sinh hoạt giới trẻ. Trong trò chơi này, mọi
người tham gia đều phải làm theo bất kỳ cử điệu nào của người quản trò khi người
ấy nói “Tôi bảo… ” Những người chơi không làm đúng theo “Tôi bảo…” sẽ bị phạt
hoặc bị loại khỏi cuộc chơi.
Đức
Giêsu và các ngôn sứ cũng đã chạm trán với kiểu trò chơi “Tôi bảo” của người Do
Thái. Gioan Tẩy Giả bị cho là người “bị quỷ ám,” Đức Giêsu bị dán cho cái nhãn
là “tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi,” chỉ vì các ngài
không sống theo như những suy nghĩ của họ.
Trò
chơi “Tôi bảo” vẫn còn thịnh hành trong thế giới hôm nay. Tại Trung Quốc, vẫn
còn những giám mục, linh mục bị bắt bớ và mất tích vì không thuận theo yêu cầu
của những người “quản trò” trong xã hội. Tại Pakistan, các tín hữu vẫn còn bị
sát hại vì không theo yêu cầu của những nhà quản trò Hồi giáo cực đoan. Và đó
đây vẫn còn nhiều lệnh “Tôi bảo” khác trong các cảnh vực thông tin văn hoá, y tế,
xã hội giáo dục…
Bạn
là thành viên trong gia đình, giáo xứ, công ty, cộng đoàn… Bạn thường làm gì để
đẩy lùi nạn “Tôi bảo…” và kích thích sự tư duy tích cực nơi chính mình và cộng
đoàn?
8. Chúa làm người để biến đổi thế giới từ bên trong
Nhà
tù Kwa Noi là một địa ngục trần gian. Các tù nhân lập nên những nhóm cầu nguyện
Kinh Thánh, và một thay đổi đáng kể đã diễn ra. Một tù nhân hồi tưởng lại như
sau: Tôi đang lần bước trở về trại sau một buổi họp khá muộn. Chợt nghe người
ta hát bài: “Giêrusalem Đền Vàng.” Lời thánh ca xưa này đã làm cho đêm tối trở
nên thân thiện hơn. Sự khác biệt của âm thanh vui vẻ và không gian tĩnh mịch buồn
thảm của những tháng ngày qua là sự khác biệt giữa sự sống và sự chết.
Chúa
Giêsu đang biến đổi thế giới theo cách nào?
Chúa
Kitô cần tôi, tôi cần Chúa Kitô. (Charles Spurgeon)
9. Yêu mến là ơn gọi của mọi người
Thánh
Têrêsa là một nữ tu dòng Kín ở Lisieux, Pháp. Chị chết năm 1897 lúc mới được 24
tuổi. Trong số những bút tích của chị có một đoạn trong đó chị mô tả việc tìm
kiếm điều mà chị cảm nhận là ơn gọi duy nhất để phục vụ Giáo hội. Trong việc
tìm kiếm, chị đã nhờ đến các thư thánh Phaolô. Ở đó, chị đọc thấy rằng không phải
ai cũng được gọi làm tông đồ, làm tiên tri, làm thầy dạy. Điều này khiến chị thật
lúng túng. Nhưng chị tiếp tục đọc, và đó là những lời trong bài đọc hôm nay. Chị
viết: “Hầu như ngây ngất với niềm vui tột độ trong tâm hồn, tôi thốt lên: “Ôi
Chúa Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con.”
Tôi
đang dùng tình yêu duy nhất của tôi để phục vụ thân thể Chúa Kitô là Giáo hội,
đặc biệt là Giáo hội địa phương ra sao?
Thế
giới càng tồi tệ, chúng ta càng cần một Giáo hội vững bền hơn.
10. Tính cách của trẻ con
Vào
thời Chúa Giêsu, những đứa trẻ chơi những trò như “đám ma” và “đám cưới.” Một đứa
trẻ đóng vai người chết, còn những đứa khác khóc lóc, than van. Hai đứa trẻ
đóng vai cặp vợ chồng mới cưới, còn những đứa khác nhảy múa, ca hát. Tuy nhiên,
cũng có khi vì không thỏa hiệp được với nhau nên những đứa trẻ đó ngừng chơi.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh này để mô tả một số người ở thời Ngài, họ cư xử giống
như trẻ con.
Tôi
phản ứng thế nào khi có điều gì đó không theo ý tôi? Tại sao?
Những
đứa trẻ không hài lòng kêu la đòi nem nướng (Ngạn ngữ Ảrập).
11. Cám dỗ tìm mình
Một
hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh
thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến
đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc,
ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức
ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả.”
Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa,
mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta?”
Bấy
giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi
thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày
nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi.”
Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.
THỨ NĂM - YÊU MẾN NHIỀU, THA THỨ NHIỀU
Lời
Chúa: Lc 7, 36-50
Khi ấy,
có một người biệt phái kia mời Chúa Giêsu đến dùng bữa với mình; Người vào nhà
người biệt phái và vào bàn ăn.
Chợt
có một người đàn bà tội lỗi trong thành, nghe biết Người đang dùng bữa trong
nhà người biệt phái, liền mang đến một bình bạch ngọc đựng thuốc thơm. Bấy giờ
bà đứng phía chân Người, khóc nức nở, nước mắt ướt đẫm chân Người, bà lấy tóc
lau, rồi hôn chân và xức thuốc thơm.
Thấy
thế, người biệt phái đã mời Người, tự nghĩ rằng: "Nếu ông này là tiên tri
thì phải biết người đàn bà đang động đến mình là ai, và thuộc hạng người nào chứ:
là một đứa tội lỗi (mà)!" Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo ông rằng: "Hỡi
Simon, Tôi có điều muốn nói với ông.” Simon thưa: "Xin Thầy cứ nói.”
"Một
người chủ nợ có hai con nợ, một người nợ năm trăm đồng, người kia nợ năm mươi.
Vì cả hai không có gì trả, nên chủ nợ tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó,
người nào sẽ yêu chủ nợ nhiều hơn?" Simon đáp: "Tôi nghĩ là kẻ đã được
tha nhiều hơn.” Chúa Giêsu bảo ông: "Ông đã xét đoán đúng.” Và quay lại
phía người đàn bà, Người bảo Simon: "Ông thấy người đàn bà này chứ? Tôi đã
vào nhà ông, ông đã không đổ nước rửa chân Tôi, còn bà này đã lấy nước mắt rửa
chân Tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã không hôn chào Tôi, còn bà này từ lúc
vào không ngớt hôn chân Tôi. Ông đã không xức dầu trên đầu Tôi, còn bà này đã lấy
thuốc thơm xức chân Tôi. Vì vậy, Tôi bảo ông, tội bà rất nhiều mà đã được tha rồi,
vì bà đã yêu mến nhiều. Kẻ được tha ít, thì yêu mến ít.” Rồi Người bảo người
đàn bà: "Tội con đã được tha rồi.” Những người đồng bàn liền nghĩ trong
lòng rằng: "Ông này là ai mà lại tha tội được?" Và Người nói với người
đàn bà: "Đức tin con đã cứu con, con hãy về bình an.”
TRUYỆN
KỂ
1. Tình
yêu và lòng sám hối
Người
Hồi giáo có chuyện sau đây: Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm
xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến
trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít
máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng. Ngài bảo: “Máu đổ
ra cho Tổ quốc và tôn giáo là một điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt
đẹp nhất nơi trần gian.”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần
này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người
nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối
với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm mang về trời. Lần này Đức
Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng,
Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi
trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh.
Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường,
Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên
của sứ thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ
đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi.” Sứ thần giơ tay hứng lấy những
giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời.
Đức
Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn
thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho
bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật
có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình
yêu
2. Chiếc
đèn cũ kỹ
Một
đêm nọ trong lúc bị cúp điện, một người đàn ông tìm được một cây đèn cũ đốt bằng
mỡ từ trên tầng gác để đồ cũ. Tình trạng của đèn thật thảm hại, bóng đèn nứt và
đen thui. Dù sao, ông cũng đốt lên và nó tỏa ra ánh sáng yếu ớt. Đã vậy, bấc
đèn bốc khói toả ra một mùi khét lẹt.Thật là quá mức đối với một người thích mọi
vật hoàn hảo như ông: “Cái đèn này thật vô dụng nên vứt nó đi”, ông nói với vợ
ông. Nói xong ông tắt đèn dầu, lấy nến ra đốt.
Ba tuần
sau, lại cúp điện. Lần này, vợ ông đem lại ánh sáng. Bà lấy ra một cái đèn dầu
đẹp, đốt lên. Một ánh sáng màu hồng toả ra làm cả nhà thích thú. Ông chồng nói:
- Cái
đèn này thật tuyệt. Bà mua nó ở đâu?
Bà
đáp:
- Đó
là cái đèn mà ông muốn vứt đi đấy!
Sau
khi đến thật gần để xem xét, ông nói:
- Chắc
tốn khá nhiều tiền để tân trang nó như thế này?
Bà
đáp:
- Thật
ra chẳng tốn gì mấy. Tôi chỉ mua một cái bấc mới và một cái bóng. Nhưng tôi phải
bỏ nhiều thời gian và công sức để lau chùi và đánh bóng nó. Tôi đã nhận thấy dưới
lớp bụi bẩn là một cái đèn đẹp. Và ông không thấy rằng tôi có lý sao?
Ông
đáp:
- Tôi
hoàn toàn đồng ý với bà.
3. Bữa
tiệc của người Do Thái
Khi
có khách đến nhà, người ta thường làm ba việc sau đây:
- Trước
hết chủ nhà đặt tay lên vai khách và tặng vị khách một cái hôn hòa bình. Đó là
dấu hiệu của lòng tôn kính, nhất là trong trường hợp gặp một Rabbit danh tiếng.
- Vì
đường sá đầy cát bụi và giày chỉ là những đôi dép đơn giản, nên người ta đổ nước
lạnh lên bàn chân khách để rửa sạch bụi và làm mát chân cho khách.
- Và
cuối cùng người ta đốt lên một nhúm hương liệu hoặc đổ một giọt dầu hoa hồng
lên đầu khách cho thơm.
Những
việc đó luôn được coi như là những đòi hỏi của phép lịch sự. Thế nhưng ở đây
chúng ta thấy chủ nhà hôm đó đã không làm những việc này.
Cũng
nên biết điều này: Bên Do Thái khi ăn, thực khách không ngồi, nhưng nằm nghiêng
quanh bàn tiệc, hai chân khách duỗi thẳng về phía sau và không mang dép. Họ dựa
người trên những gối thấp, chống trên khuỷu tay trái, còn tay mặt thì tự do lấy
đồ ăn. Với tư thế nằm ăn như vậy thì người đàn bà mới có thể đứng gần chân Chúa
Giêsu.
4.
Simon thích nổi tiếng
Simon
là một đạo sĩ Do Thái, một trong những người thuộc nhóm biệt phái.
Chúng
ta không hiểu tại sao một một người như vậy lại dám mời Chúa Giêsu tới nhà
mình?
- Có
người cho rằng, rất có thể ông là người có lòng mến phục Chúa Giêsu. Nhưng khi
nhìn lại bầu không khí thiếu lịch sự của ông Simon, thì người ta không thể chấp
nhận ý kiến này được.
-
Cũng có thể Simon mời Chúa Giêsu vào nhà mình để gài bẫy ngài, mong bắt gặp một
câu nói hay một hành động nào đó để có cớ buộc tội Ngài. Nhưng giả thiết như thế
cũng không ổn vì câu 40 trong Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy ông đã tôn tặng
Chúa Giêsu danh hiệu Rabbit.
- Rất
có thể Simon là người thích nổi tiếng. Với thái độ nửa trọng nửa khinh, ông đã
mời “chàng thanh niên kỳ lạ này” đến ăn tiệc tại nhà mình. Giả thiết như thế,
ta mới hiểu tại sao lại có sự pha trộn giữa thái độ vừa có vẻ tôn kính lại vừa
có thái độ khinh khi đối với Chúa khi ông cố tình bỏ qua phép lịch sự đáng ra
phải giữ đối với Ngài. Như vậy chúng ta có thể thấy rõ ràng Simon là một người
có thái độ kẻ cả đối với Chúa Giêsu.
Khi
Chúa Giêsu đang dùng bữa, thì có một phụ nữ bỗng nhiên vào nhà, dù bà ta không
phải là khách được mời. Chắc hẳn người phụ nữ này đã có dịp được biết Chúa. Bà
muốn xức dầu cho Chúa như một cử chỉ biểu lộ lòng tôn trọng của bà. Vì quá xúc
động, bà đã khóc. Nước mắt đã làm ướt cả bàn chân Chúa trong tư thế đôi chân
đang duỗi dài ra, lúc nằm chống tay để dùng bữa theo phong tục Do Thái. Rồi bà
xõa tóc ra lau chân và hôn chân Ngài như một dấu hiệu của sự tôn trọng và lòng
biết ơn sâu xa. Những hành động như thế thường người ta không làm giữa nơi công
cộng.
Thấy
như thế, ông Simon đã thầm trách Chúa. Ông nghĩ nếu Chúa thực là một tiên tri
thì hẳn Ngài phải nhận biết đây là một phụ nữ như thế nào chứ: một người tội lỗi,
cần phải lánh xa.
Chúa
biết ý của Simon, nên Ngài mới kể câu chuyện về hai người mắc nợ, ngầm cắt
nghĩa cho ông Simon biết lý do nào người phụ nữ này đã hành động như thế và đồng
thời, cũng cho ông Simon biết dù ông là người đã mời Chúa nhưng ông đã không
đón tiếp Chúa cho phải phép và đã không rộng lòng với Chúa như người đàn bà
này.
Câu
chuyện kết thúc bằng lời của Chúa nói với người phụ nữ:
- Hãy
đi bình an.
Chúa
luôn quan tâm đối với những kẻ đặt lòng tin cậy nơi Ngài. Trong câu chuyện những
người mắc nợ Chúa Giêsu kể, chúng ta thấy tình yêu thương và sự tha thứ gắn liền
với nhau. Nếu chưa bao giờ chúng ta cảm nhận được một cách sâu xa rằng mình cần
được Chúa tha thứ thì chúng ta sẽ không thể nào yêu mến Chúa hoặc biết ơn Ngài
được. Chúng ta chỉ thật sự yêu Chúa khi nhận ra tình yêu của Ngài dành cho và
nhờ đó chúng ta được tha thứ. Đây chính là điều Gioan đã nói: “Chúng ta yêu
Chúa vì ngài đã yêu chúng ta trước” (1Ga 4,19).
5. Người
ta nhìn bề ngoài, Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng
Hai
người đứng chung lúc màn trời đang buông xuống, họ nhìn thấy hai bóng đen ở xa
xa: lúc ôm nhau, lúc đẩy ra, rồi lại thấy hai bóng ấy khi đứng khi nằm!
Người
thứ nhất nói: Hai người đang đánh nhau.
Người
thứ hai nói: Đó là cặp tình nhân lợi dụng lúc đêm tối làm tình.
Thế
là hai người vội cầm chiếc đèn chạy đến can ngăn mới ngỡ ra là hai người đang thao
diễn võ thuật. Họ buông lời: “À ra thế!”
6. Yêu
nhiều tha nhiều
Thánh
Phanxicô Salêsiô giám mục có người giúp việc bê tha rượu chè. Một đêm kia, anh
ta say mèm. Mọi người trong nhà đã ngủ hết, chỉ còn một mình thánh nhân thức
khuya đọc sách. Chính người đã dìu anh về giường và lấy mền đắp cho anh, rồi
sáng hôm sau mới nói cho anh biết lỗi.
Thánh
nhân nói: “Giả sử lúc anh đang say, sẩy chân ngã xuống giếng thì sao? Hoặc lỡ bị
gió độc mà chết thì sẽ thế nào? Linh hồn ở đâu bây giờ?” Nghe vậy, anh ta hối hận,
xin tha thứ và trước mặt người, anh xin cam đoan sẽ không còn uống một giọt rượu
nào nữa. Nhưng người bảo anh: “Đừng chừa vội quá như thế!”
Từ
đó, anh ta xin nhận thánh nhân làm cha giải tội riêng cho mình và dần dần, đã biết
chừa hẳn tội cũ, sống rất đạo hạnh tử tế.
“Tội
của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai
được tha ít thì yêu mến ít” (Lc 7,47).
7. Tình
yêu và tha thứ
John
Oglethorpe đến gặp John Wesley, một người đứng đầu của giáo phái Methodist. Sau
một hồi lâu trò chuyện, Oglethorpe nói với Wesley rằng: “Tôi sẽ không tha thứ
cho bất cứ ai trên đời!”
Wesley
nhỏ nhẹ trả lời: “Thưa ông, nếu vậy, tôi nghĩ là ông chưa bao giờ phạm tội.”
Chính
khi nhận biết tội lỗi của mình là lúc người ta nhận ra tình yêu bao la của
Chúa; và ai cũng có thể đạt tới hạnh phúc Nước Trời khi để tình yêu đó hướng dẫn
và thúc đẩy: “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và
yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền
hoà và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này
có điều gì phải trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em
cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.” (Cl 3,12-13)
“Đức
mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cr
13,7).
Tôi yếu
hèn, tôi phản bội, Chúa đã cư xử thế nào với tôi?
Trên
thập giá, Chúa tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất
cả, để tôi được sống.
Còn
tôi, với anh em?
8.
Chuyện con vịt
Mùa
hè, mẹ gửi Andrew về quê chơi với bà ngoại. Được cậu Billy cho một cái giàn
thun, Andrew khoái lắm. Nhưng nhớ lời cậu dặn, nó chỉ dám tập bắn ở trong rừng
cây phía sau nhà. Andrew lang thang suốt buổi sáng ở trong rừng, nhưng nó chẳng
bắn được chút gì cả. Buồn rầu, Andrew thất thểu về nhà ăn trưa. Vào tới sân, thấy
bầy vịt của bà ngoại đang rượt nhau kêu quàn quạc trong sân. Andrew cúi xuống
nhặt một hòn sỏi và bắn đại một phát. Chẳng may, viên sỏi trúng ngay giữa đầu một
con vịt, nó lăn đùng ra giữa sân, giãy đành đạch mấy cái rồi nằm ngay đơ.Andrew
hoảng hốt nhìn quanh, không có ai cả. Nó vội nhặt con vịt và nhét vào trong đống
củi. Yên trí với bí mật của mình, Andrew ngồi vào bàn ăn trưa, mà không biết rằng
đã có ít nhất một cặp mắt nhìn thấy chuyện xảy ra với con vịt.
Sau bữa
ăn trưa, bà ngoại vừa cất đồ ăn dư vào chạn vừa dặn Sally, chị họ của Andrew,
con gái chú Billy: Bữa nay tới lượt con rửa chén đó. - Nhưng Andrew nó hứa làm
thay con rồi. Sally vội đáp và nhìn Andrew bằng ánh mắt khiến nó đang đỏ mặt
toan cự cãi bỗng đâm ra chột dạ.
Thật
không Andrew? - Bà ngoại hỏi, không quay đầu lại. - Con à? Andrew vừa mở mồm
thì Sally hích một cái đau điếng vào sườn nó và khẽ thì thầm qua kẽ răng:- Con
vịt. Nhớ không?- Con nhận lời chị ấy rồi. Andrew đáp bằng giọng hậm hực.
Ngủ
trưa dậy, ông ngoại rủ Andrew và Sally đi câu, nhưng bà ngoại bảo:- Sally, cháu
ở nhà giúp bà nấu nồi xúp cho bữa tối. - Nhưng Andrew thích ở nhà nấu xúp hơn
là đi câu đấy chứ! Bà hỏi nó xem có đúng như vậy không? Sally trả lời bằng giọng
mát mẻ. Andrew toan cãi thì Sally tằng hắng mấy tiếng. Nó đành nghẹn ngào trả lời:-
Cháu sẽ ở nhà giúp bà.
Cứ thế,
suốt ngày hôm đó, Andrew luôn bị Sally dằn vặt bởi chuyện con vịt.Tối đến, mệt
mỏi, Andrew nằm lăn trên chiếc đi-văng trong phòng khách và ngủ thiếp đi.
Lúc
nó thức dậy, ai đó đã tắt đèn và phủ trên người nó một tấm chăn. Andrew nằm im,
đầu nó nhớ lại chuyện trong ngày. Nhiều lúc nó muốn nói thật với bà ngoại về
chuyện con vịt, nhưng nó lại sợ bà ngoại sẽ mách mẹ nó, rồi thì sang năm mẹ nó
sẽ không cho nó về chơi với ông bà nữa thì sao? Còn Sally thì quá quắt quá,
không biết bao giờ nó mới thoát khỏi bàn tay quái ác của Sally? Biết làm sao
đây? Nó chỉ muốn chết quách cho rồi. Andrew thổn thức.
Chợt
một bàn tay to mềm của bà ngoại đặt lên vai nó, giọng êm ái của bà ngoại thì thầm:-
Nói đi con. Có điều gì con cứ nói ra cho nhẹ nhõm trong lòng.- Con vịt...
Cháu... Con vịt... Andrew lắp bắp.
Bà
ngoại im lặng. Hít một hơi dài, Andrew nói một mạch:- Cháu lỡ tay bắn chết một
con vịt rồi bà ạ!
- À,
ra chuyện con vịt. Lúc đầu thấy thái độ của cháu với Sally bà hơi ngạc nhiên,
nhưng bà đã hiểu cả khi lùa bầy vịt vào chuồng và thấy thiếu một con. Nhưng bà
muốn chờ cháu tự nói ra. Câu chuyện ngày hôm nay là một bài học cho cháu đó:
Che giấu tội lỗi của mình, cháu sẽ không bao giờ có được sự thanh thản và cháu
sẽ trở thành nô lệ cho cái xấu. (x.canhdongtruyengiao.net).
9. Ta
đã đắc tội với Chúa
Sau
khi ngoại tình với Batseva, vua Đavít muốn dấu kín tội lỗi nên lại phạm thêm một
tội khác, đó là giết chết tướng Uria chồng của Batseva. Phạm tội mà không nhận
tội, lại còn muốn che giấu nó, Đavit lún sâu hơn, phạm thêm những tội khác nữa.
"Nhưng
hành động của vua Đavít không đẹp lòng Thiên Chúa.” Thế nên, ngôn sứ Nathan can
gián vua về điều ô nhục vua đã làm, điều ô nhục càng lớn hơn nữa vì Thiên Chúa
đã ban cho vua biết bao ân huệ của Ngài. Trước hết, ngôn sứ Nathan đã kể cho
vua dụ ngôn về một người giàu với đàn gia súc đông đúc, nhưng lại bắt một con
chiên duy nhất của một người nghèo mà làm tiệc đãi khách. Đavít bừng bừng nỗi
giận vì cách hành xử của người giàu này và đưa ra phán quyết "Nó đáng chết.”
Thấy tội người khác dễ hơn thấy tội của mình.
Lúc
đó, Nathan đã đáp lại: "Kẻ đó chính là bệ hạ" và kể ra biết bao ân huệ
mà Thiên Chúa đã ban cho vua: "Chính Ta đã xức dầu tấn phong ngươi làm vua
cai trị Israel, Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Saun. Ta đã ban cho ngươi
nhà của chúa thượng ngươi, và đã đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào
vòng tay ngươi. Ta đã ban cho ngươi nhà Israel và Giuđa. Nếu bấy nhiêu mà còn
quá ít, thì Ta sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao lại
khinh dể lời Đức Chúa mà điều dữ trái mắt Người?”
Ngôn
sứ Nathan nhắc cho vua Đavít hai tội của vua: tội ngoại tình và tội sát nhân,
và tiên báo cho vua một loạt hình phạt: "Gươm sẽ không bao giờ ngừng chém
người nhà của ngươi.” Vua Đavít khiêm tốn nhận ra tội của mình: "Tôi đã đắc
tội với Chúa.”
Chân
thành sám hối và sửa lỗi đã làm cho vua Đavít từ một người tội lỗi trở nên một
vị thánh. Từ đó về sau, nhà vua luôn ý thức về ơn sám hối và luôn đáp trả lòng
thương xót của Thiên Chúa. Vua Đavit được xem là tác giả Thánh vịnh. Vua Đavit
được Chúa thứ tha nên tình yêu của ông thể hiện bàng bạc trong các Thánh Vịnh,
đặc biệt là Thánh Vịnh 50.
10. Giải
thoát một thiên thần
Một
ngày kia một người bạn đến thăm Michel-Angelo. Ông thấy nhà điêu khắc vĩ đại
đang đục đẽo một tảng đá cẩm thạch lớn. Sân nhà phủ đầy những mảnh cẩm thạch vỡ
và bụi bặm. Một cảnh tượng không lấy gì đẹp lắm.
“Chúa
ơi, ông đang làm gì vậy?” người bạn hỏi.
“Tôi
đang thả thiên thần bị giam trong khối cẩm thạch này ra” Michel-Angelo đáp.
Người
Pharisêu Simon nhìn người phụ nữ chỉ thấy chị ta là tội nhân và mãi mãi là tội
nhân. Đức Giêsu nhìn người phụ nữ và thấy chị ta là một người phụ nữ tội lỗi có
khả năng trở thành một vị thánh. Nhờ có sự gặp gỡ với Đức Giêsu, người phụ nữ bắt
đầu sống một đời sống mới tốt đẹp hơn. Và chị ta có thể hành trình trên con đường
ấy xa hơn những người đã xét đoán chị. Bằng việc tiếp xúc tử tế và chấp nhận
quà tặng của chị với lòng khoan dung. Đức Giêsu đã thổi gió vào cánh buồm đời
chị.
11. Tình
yêu là tha thứ và hạnh phúc
Cách
đây vài năm, có vị Linh mục tổ chức một buổi nói chuyện với một số thanh niên.
Sau cuộc trò chuyện đó, một thanh niên tên là Matt đến chia sẻ với ngài câu
chuyện cuộc đời cậu ta. Nghe xong vị Linh mục yêu cầu cậu thanh niên phổ biến
câu chuyện ấy để chia sẻ với những người khác, Matt vui vẻ nhận lời. Sau đây là
câu chuyện của Matt được ghi lại bằng chính những dòng chữ của câu:
“Khi
tôi lên 11 tuổi, bố tôi bỏ nhà ra đi… Cả gia đình hầu như tan nát hết, ai nấy đều
khóc lóc than van suốt bao nhiêu tuần lễ trừ mỗi mình tôi… Tôi bắt đầu căm ghét
bố, chủ yếu vì ông đã làm cho bà mẹ thân yêu của tôi đau khổ… Thế là tôi bắt đầu
đi vào con đường tội phạm và ma túy vào năm 12 tuổi. Tôi đã từng bị bắt ba lần
về tội ăn trộm xe hơi… là một Kitô hữu, mẹ tôi lôi cổ tôi đến dự cuộc tĩnh tâm ở
đây… Tôi chả biết gì về việc này, nhưng cũng ghi tên tham dự để bà khỏi rầy… Một
lần, trong buổi hội thảo với một nhóm đông người, tôi bỗng mơ màng nghĩ đến
Chúa, và thấy mình đang quì gối xuống trước Chúa Giêsu đang bị treo trên thánh
giá. Vô số tội lội nặng nề để xuống trên tôi… Tôi khóc lóc van xin tha thứ.
Trong khi tôi khóc lóc, Chúa đã tha thứ cho tôi… vì Ngài yêu tôi. Ngài yêu tôi
bất chấp tất cả tội lỗi xấu xa mà tôi đã phạm… Tôi mở mắt ra đưa tay lau khô
dòng lệ… Cuối cùng, tôi biết rằng Chúa thực sự hiện diện…
Sau
khi cuộc tĩnh tâm ấy kết thúc, lần đầu tiên trong đời, tôi sống tử tế: không
thuốc lá, không cờ bạc, không uống rượu. Tôi dành luôn một ngày nghỉ tiếp theo
đó để suy nghĩ và cầu nguyện. Trong lúc đọc Thánh Kinh tôi chợt nghĩ đến bố
tôi. Tôi không muốn còn bất điều gì ngăn trở tôi được sống gần gũi với Chúa
Giêsu. Vì thế, tôi gọi điện thoại cho bố tôi…
Đêm
đó trong khi vừa đi đến căn hộ của bố, tôi vừa cầu xin Thánh Linh soi đường chỉ
lối. Khi tôi đến nơi, cả hai bố con ngồi xuống bên nhau một hồi lâu mà chẳng ai
mở miệng nói một lời nào. Cuối cùng bố tôi lên tiếng hỏi: “Mục đích con đến đây
làm gì? Tôi cảm thấy nẹ nhõm khi nghe bố hỏi, nhưng tôi chẳng biết vào đề ra
sao cả. Và tôi giải thích cho bố là cuối tuần qua tôi học biết rằng tôi không
được xét đoán ai về bất cứ điều gì. Đoạn, tôi xin bố tha thứ cho tôi về cái tội
đã căm ghét và đã có những lời chua cay kết án ông… Nghe xong bố tôi liền đứng
lên đi ra khỏi phòng một lúc, rồi trở lại, trên tay cầm một bọc giấy… đoạn ông
rút ra một mảnh giấy,hai cha con cùng đọc. (Đây là một lá thư tôi đã viết gởi
cho ông mắy năm trước). Tuồng chữ trên mẩu giấy như sau: “Bill, ông nghĩ ông là
ai và ông có biết ông đang làm gì không? Kể từ đây tôi chẳng cần ông điều gì nữa
hết – Ký tên: Matt, kẻ đã từng là con ông.” Lập tức tôi nhận ra mọi nỗi đớn đau
bố tôi phải chịu đựng trong bao năm lưu giữ mẩu giấy này… Tôi nhảy đến ôm lấy bố.
Dòng lệ yêu thương tha thứ. Lập tức tuôn trào trong mắt ông… Lúc đó tôi cảm thấy
như vừa bước qua cửa ngục… Thế là tôi không còn bị giam hãm trong niềm căm ghét
nữa. Hai bố con ngồi chuyện vãn thêm một lúc, đoạn tôi tiến đến hôn vào môi bố
nói lời tạm biệt rồi ra về… Đêm đó tôi gọi taxi về nhà, nhưng khi còn khoảng
hai dãy nhà nữa thì tới nơi, tôi liền bảo tài xế dừng lại để tôi đi bộ. Nhưng
niềm vui chan hòa trong tim khiến tôi bỗng dưng rảo bước rồi chạy thật mau. Vừa
chạy hai tay tôi vừa dang ra, miệng hét to: “Nhờ Chúa đã yêu thương bố!” Đêm ấy
quả thực Chúa đã ban cho tôi một sự kỳ diệu.”
12. Liều
mình vì yêu
Một
ngày nọ tôi được báo tin người bạn thân sắp làm đám cưới. Tò mò muốn biết người
mà bạn ấy sắp cưới là ai. Té ra đó là một người phụ nữ quê mùa lại mắc phải một
dị tật bẩm sinh. Một sự chọn lựa quả là hơi khác thường nơi người bạn của tôi.
Nhưng ở đời cái gì cũng có lý do của nó. Tìm dịp thuận tiện tôi đã đến hỏi thăm
bạn ấy: “Sao mà liều thế, dám chọn cô ta không sợ người khác chê cười sao?”
Anh bạn
chỉ trả lời một câu đơn giản: “Vì tôi yêu cô ta.” Đúng vậy, khi yêu thì người
ta dám làm tất cả, người ta dường như chẳng còn sợ gì cả.
13. Tình
yêu tác động
Ngay
trước khi chết vì căn bệnh ung thư, bác sĩ Lioyd Judd đã thực hiện những cuốn
băng để lại cho các con mà sau này chúng hiểu được. Một cuốn băng đó như sau:
“Khi đang mệt lử, các con có sẵn sàng ra khỏi nệm ấm, xông vào đêm tối giá lạnh
và lái xe suốt 20 dặm để thăm bệnh nhân, dù biết rằng họ không có tiền để trả
và rằng họ chờ đến sáng để được chữa trị không? Nếu các con có thể trả lời có,
tức là các con có thể theo học Y khoa được.” Thánh Phaolô cũng đưa ra một thách
thức tương tự đối với Timôthêô, người con thiêng liêng của Ngài: “Hãy nên gương
mẫu về đức tin và đức ái đối với những người con gặp gỡ.”
Tôi
là gương mẫu về đức tin và đức ái đối với những người tôi gặp như thế nào?
Tất cả
những việc ta làm điều ít nhiều ảnh hưởng đến người khác.
14.
Gia đình và giáo hội
Bộ
phim truyền hình nhiều tập có tựa đề “Cội rễ” ghi nhận nghiên cứu của Alex
Haley về bảy thế hệ trong cây gia phả của một gia đình Châu Phi. Bộ phim thúc đẩy
hàng ngàn người nghiên cứu về tổ tiên của họ. Haley nói: “Một trong những điều
có uy thế nhất trên thế giới này, đó là ý thức về truyền thống gia đình.” Trong
bài đọc hôm đó, thánh Phaolô đề cập tới cội rễ của niềm tin Kitô giáo: “Tôi đã
truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận đó là Chúa Kitô đã chết…
và đã chỗi dậy.” Căn tính và lịch sử niềm tin Kitô giáo đã bắt nguồn từ biến cố
này.
Tôi
có thể truy nguyên truyền thống gia đình tôi không? Niềm tin của tôi có giữ một
vai trò quan trọng trong việc hình thành căn tính của tôi không?
Gia
đình là tiền thân của Giáo hội, hay đúng hơn, gia đình là hình thức đầu tiên của
Giáo hội. (Đức Giáo Hoàng Lêo XIII)
15. Cần
biết mình để thành người
Một
thành viên của nhóm nghiện rượu nói: “Ước gì mọi người có thể trở thành kẻ nghiện
rượu một thời gian ngắn. Nếu họ có thể làm như vậy, chúng ta sẽ có một thế giới
khác. Khi bị dồn đến đường cùng, người ta sẽ thay đổi: Nếu họ càng tỏ ra tự phụ,
họ càng trở nên khiêm tốn hơn; và nếu họ càng hay xét đoán, thì họ sẽ càng dễ
tha thứ hơn, bởi vì họ nhận ra từ kinh nghiệm đau thương sự thất bại xảy ra dễ
dàng như thế nào!”
Những
lời trên đây khiến tôi tự hỏi: Tôi thường có khuynh hướng tỏ ra tự phụ hoặc xét
đoán như thế nào và về những việc gì?
Dù lớn
lao hay nhỏ bé đến đâu, ai cũng phải khiêm nhường.
16.
Tha thứ là giải thoát chính mình
Trong
cuốn “ Mặt trận phía Đông hoàn toàn yên tĩnh”, một người lính Đức trẻ nằm trong
hố để tránh đạn pháo. Đột nhiên, một người lính Pháp cũng nhảy vào hố đó để
tránh đạn. Người lính Đức đã đâm chết người lính Pháp này. Đây là lần đầu tiên
anh ta giết người và muốn biết tên người này. Thấy trong túi áo người lính Pháp
có chiếc ví, anh lấy ra. Trong đó có hình một người mẹ trẻ đang ôm một đứa con.
Người lính Đức cảm thấy nghẹn ngào. Thì ra, người chết không phải là kẻ thù,
nhưng là một người cha và một người chồng như chính anh, một con người đã yêu
và được yêu. Cái nhìn mới mẻ về người đã từng là “kẻ thù” đã tạo nên sự tha thứ
và tình yêu lớn lao nhất có thể.
Tôi
có thể làm gì để thay đổi cái nhìn đối với một ai đó mà tôi phải tha thứ, như
chính Chúa đã tha thứ cho người ấy?
Tha
thứ là phóng thích một tù nhân và khám phá ra rằng tù nhân chính là tôi.
17. Biết
mình là tội nhân
Lần
kia, vị Linh mục già nằm mơ thấy một chiếc thang nối từ trời xuống trần gian, mọi
người đều chen nhau lên trước. Nhưng Chúa ngự trên cao phán: “Ta phát cho các
ngươi mỗi người một cục phấn, ai thành tâm sám hối nhận biết tội mình thì mỗi bậc
thang bước lên vạch một gạch đánh dấu.”
Thế
là mọi người thi nhau vạch phấn bước lên thang. Lũ trẻ con lên đến đầu thang,
chúng quay lại nhìn xuống thấy vị linh mục già còn ở dưới, đang loay hoay vạch
phấn. Chúng hô lên:
- Lẹ
lên cha ơi, cửa Trời sắp đóng rồi!
Vị
linh mục ngẩng lên nói:
-
Chúng con còn phấn không, ném xuống cho cha với, cha vạch hết phấn rồi!
Rồi
ngài cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin dủ lòng thương con, mở lượng hải hà xóa tội con
đã phạm… Ngài thấy cho lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới
hoài thai…” (Tv 50,3-7).
18.
Khiêm hạ và bình an
Thánh
Vianney đã thấy được sự hiện diện khiêm hạ bởi tình yêu của Chúa trong phép
Thánh Thể: “Làm sao chúng ta có thể kiêu ngạo khi ngắm nhìn gương mẫu khiêm nhường
của Chúa Giêsu để lại cho chúng ta mỗi ngày?.. Người đã thiết lập Bí tích để
trao ban Mình Máu Người cho chúng ta, và trong Bí tích này Người đã hạ mình thẳm
sâu. Người vẫn tiếp tục ẩn mình trong Nhà Tạm, bị cô đơn, hiểu lầm bởi những kẻ
vô ơn bạc nghĩa, và Người vẫn tiếp tục yêu thương và phục vụ chúng ta trong Bí
tích này.”
Trong
phép Thánh Thể, Chúa tiếp tục yêu thương và phục vụ, âm thầm trao ban bình an
cho bất cứ ai tìm đến với Chúa, như xưa Chúa đã nói với chị phụ nữ tội lỗi, “chị
hãy đi bình an.”
19.
Nhân vô thập toàn
Một
đêm tháng 12 năm 1914, một cơn hoả hoạn ở New Jersey đã thiêu hủy toàn bộ cơ
ngơi với bao nhiêu phát minh còn dang dở trong vòng thí nghiệm của Thomas
Edison, nhà phát minh nổi tiếng của Mỹ.
Sáng
hôm sau, bước đi giữa đống hoang tàn còn âm ỉ khói. Edison, lúc đó đã 67 tuổi,
mỉm cười nói với mọi người rằng: “Cơn tai biến này rất quý giá. Nó đã thiêu hủy
hết mọi sai lầm của chúng ta. Tạ ơn Chúa, chúng ta sẽ bắt đầu lại từ đầu.”
‘Nhân vô thập toàn’. Biết mình ‘vô thập toàn’ đem lại cho người ta niềm hy vọng để dễ dàng vượt qua các gian nan và bắt tay làm lại từ đầu. Nhưng không biết mình là ‘nhân vô thập toàn’ mới là cái ‘vô thập toàn’ đáng sợ nhất, làm cho người chết vẫn tưởng mình còn sống.
20.
Giám mục tha thứ cho kẻ đâm mình
Ngày 15/4/2024,
Giám mục Emmanuel đang chủ trì buổi thuyết giảng tại nhà thờ Good Shepherd ở
Wakeley, phía tây thành phố Sydney, bang New South Wales, thì một thiếu niên mặc
đồ đen đến gần rồi liên tục đâm vào mặt và cơ thể ông. Giám mục đã ngã gục xuống
đất sau đó.
Nghi
phạm vụ tấn công là thiếu niên 16 tuổi, đã được đưa tới bệnh viện Sydney sau vụ
tấn công. Cảnh sát địa phương cho biết thời gian điều trị kéo dài vài ngày.
Jamal
Rifi, bác sĩ quen biết gia đình thiếu niên đâm dao, nói rằng họ bị sốc và không
thể tin về hành động khủng khiếp mà con trai đã làm. Rifi thêm rằng gia đình
cũng bị sốc khi vụ đâm dao bị xem là "hành động khủng bố". Mẹ của thiếu
niên nói con trai bà có vấn đề về tâm thần.
Giám mục
Mar Mari Emmanuel kêu gọi công chúng giữ bình tĩnh, sau khi vụ tấn công làm dấy
lên làn sóng phẫn nộ. Hàng trăm giáo dân và thành viên cộng đồng đã kéo đến nhà
thờ vào đêm xảy ra vụ đâm dao và gây ra tình trạng bạo loạn khiến khoảng 30 người
bị thương, trong đó có một sĩ quan cảnh sát bị gãy xương hàm, 50 xe cảnh sát bị
hư hỏng.
Ba ngày
sau, giám mục Mar Mari Emmanuel nói: "Không cần lo lắng hay bận tâm. Tôi
tha thứ cho bất kỳ ai đã thực hiện hành động này và nói với cậu ấy rằng 'con là
con trai ta, ta yêu con và sẽ luôn cầu nguyện cho con. Bất kỳ ai sai bảo con
làm điều này, ta cũng đều tha thứ cho họ'.
https://video.vnexpress.net/embed/v_396704
THỨ
SÁU - VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG LOAN BÁO TIN MỪNG
Lời
Chúa: Lc 8, 1-3
Khi
ấy, Chúa rảo qua các thành thị và xóm làng, giảng dạy và loan báo Tin Mừng nước
Thiên Chúa.
Có
nhóm Mười Hai cùng đi với Người, cũng có cả mấy người phụ nữ đã được chữa khỏi
tà thần và bệnh tật: là bà Maria cũng gọi là Mađalêna, người đã được trừ khỏi bảy
quỷ ám, bà Gioanna vợ của Chusa, viên quản lý của Hêrôđê, bà Susanna và nhiều
bà khác; những bà này đã lấy của cải mình mà giúp Người.
TRUYỆN KỂ
1. Vai Trò Của Người Phụ Nữ
Thánh
nữ tiến sĩ Hội Thánh Edith Stein trước khi trở lại công giáo đã từng là một triết
gia nổi tiếng. Thánh nữ đã trở lại công giáo sau khi đọc tiểu sử của thánh nữ
Têrêsa Avila. Và mười hai năm sau khi chịu phép rửa đã vào tu trong dòng Kín.
Không giống như thánh nữ Têrêsa, Edith Stein vốn là người đàn bà vụng về trong
công việc nội trợ trong nhà dòng. Tuy nhiên, theo chứng từ của những người còn
sống sót trở về từ các trại tập trung Ðức quốc xã, thánh nữ Edith Stein đã luôn
giữ vững được tinh thần và là người đứng ra chăm sóc cho các thiếu nhi cùng bị
giam giữ với mẹ chúng trong các trại tập trung Ðức quốc xã.
Bí
quyết để thánh nữ có thể giữ vững được tinh thần và nâng đỡ những người chung
quanh chính là luôn sống giây phút hiện tại và đặt cả niềm phó thác vào bàn tay
quan phòng của Thiên Chúa. Cũng giống như thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, thánh nữ
Edith Stein luôn sống một cách sung mãn từng giây phút hiện tại.
Tin
Mừng hôm nay nhắc tới tên của một số người phụ nữ đã được Chúa Giêsu chọn làm cộng
tác viên của Ngài trong công cuộc rao giảng Tin Mừng, đây không phải là một sự
tình cờ hay phụ thuộc trong chương trình của Ðấng cứu thế. Tuy không được chọn
làm tông đồ nhưng sự hiện diện và công việc âm thầm của những người phụ nữ này
cũng quan trọng chẳng kém gì công tác tông đồ. Vai trò của họ lại càng quan trọng
và nổi bật hơn nữa bởi vì trong những giây phút đau thương nhất của Chúa Giêsu
họ là những người duy nhất đứng kề bên Ngài. Sự hiện diện của một số người phụ
nữ trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu và nhất là trong những
giây phút cuối đời của Ngài cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của chứng tá
âm thầm của cuộc sống đức tin. Chứng tá ấy nói với chúng ta rằng trong thân thể
mầu nhiệm của Chúa Kitô dù có âm thầm và vô danh đến đâu mỗi người đều có một
chỗ đứng quan trọng và không thể thay thế được.
Nguyện
xin Chúa ban đức tin để chúng ta luôn biết tôn trọng phẩm giá con người, nhất
là thể hiện phẩm giá của mình bằng cuộc sống quảng đại, phục vụ và yêu thương.
2. Các phụ nữ theo Chúa
Khi
cảm thấy mình không thể yêu Đức Giêsu như mình muốn, thánh Têrêsa Avila đã khóc
sướt mướt và cầu xin thánh Maria Mađalêna hướng dẫn mình trên con đường hoán cải
để yêu Đức Giêsu được như ngài đã yêu khi ngài thấy Đức Giêsu chết trên thánh
giá, và để sống chiêm niệm khi không có sự hiện diện cụ thể của Đức Giêsu nữa
(Thánh Têrêsa Giêsu, “Oeuvres complètes “, éd. Du Seuil, Paris, 1949, pp. 88 và
1058).
Thánh
Têrêsa Lisieux liên tưởng tới người phụ nữ tội lỗi ăn năn ấy khi tỏ lòng thán
phục sự “liều lĩnh thật đáng yêu của thánh nhân, đã làm vui lòng Đức Giêsu”
(Ibid., p. 441) ngài cũng thông cảm với ước muốn của Maria Mađalêna là được chạm
đến Đức Giêsu. Ngài còn cảm phục sự hoán cải nội tâm nảy sinh trong tâm hồn
Maria Mađalêna, khi cô nhìn thấy mình có thể gặp thấy Đức Giêsu bằng cách bước
vào tâm hồn Thiên Chúa mà “không quanh co dối trá” (Ibid., p.1409) nhưng “nấp
vào thâm cung của thánh nhan Ngài” (Ibid., p. 814) (Theo Lm. Phêrô Đặng Xuân
Thành). Thật thế, các phụ nữ trong Tin Mừng luôn luôn là nguồn cảm hứng cho những
ai gắn bó với Đức Giêsu và muốn phục vụ Ngài.
3. Các phụ nữ trong chương trình của Chúa
Thầy
giáo giải thích cho cả lớp nghe về chuyện Chúa dựng nên Adong và Evà. Tuần sau,
thầy gọi học sinh trả bài. Một chú bé đứng lên tả việc Chúa dựng nên Adong.
Rồi
một cô bé nói tiếp: Chúa dựng nên Adong xong, Người đứng ngắm và tự nhủ: “Ta sẽ
làm đẹp hơn”, và thế là, Người dựng nên Evà.
Thiên
Chúa dựng nên người phụ nữ với những đức tính rất tốt đẹp: kiên trì, hy sinh,
quảng đại... Nhờ vậy, họ có thể chu toàn nhiều vai trò rất quan trọng: sinh sản,
nuôi dạy và giáo dục con cái trong gia đình, đồng thời cộng tác với mọi người để
xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn.
Trong
Giáo hội, người phụ nữ cũng có sứ mệnh quan trọng: cộng tác với mọi người để
loan báo Thiên Chúa cho thế giới. Câu chuyện Tin mừng hôm nay là một ví dụ cụ
thể cho điều này.
4. Phong chân phước cho hai phụ nữ
Ngày
24/4/1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong chân phước cho “Hai bà mẹ
gia đình”: bà Giana Beritta, đã chấp nhận cái chết khi sinh con để con được sống.
Và bà Elizabeth Catannory, người đã bị chồng ruồng bỏ để đi theo tình nhân và tệ
hơn nữa đã hại đứa con gái đầu lòng làm cho nó phải chết khi vừa mới chào đời.
Tuy nhiên, bà vẫn trung thành với sứ mệnh làm vợ, làm mẹ, bà đã biết chấp nhận
những hy sinh, để xin thánh hoá bản thân cũng như tha nhân theo tinh thần của
dòng Chúa Ba Ngôi mà bà gia nhập như hội viên dòng ba. Niềm mong ước của bà đã
được thể hiện sau khi bà qua đời: người chồng đã trở lại, lúc đầu cũng xin gia
nhập dòng Chúa Ba Ngôi và sau đó đã trở thành linh mục dòng Phanxicô.
Trong
bài giảng lễ phong chân phước, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhận định rằng:
“Việc làm mẹ có thể trở thành nguồn vui, nhưng thường cũng là nguồn đau khổ.
Trong trường hợp đó, tình yêu trở nên thật cần thiết ở mức độ anh hùng trong
con tim của bà mẹ. Ngày hôm nay, chúng tôi muốn tôn kính không những hai bà mẹ
phi thường này mà còn biết bao bà mẹ khác, không quản ngại hy sinh để giáo dục
con cái của mình."
5. Đức tin của người mẹ
Cha
Leonardo Bop, một nhà thần học nổi danh người Brasil thuật lại:
Ngày
kia, một người đàn bà mà tôi quen biết vài năm nay gọi tôi ra một nơi và nói nhỏ:
“Thưa cha, con muốn tiết lộ cho cha một bí mật. Xin cha đến nhà con.”
Tôi
đến nhà bà ta, vào phòng ngủ của đứa con trai bà. Đó chính là một quái thai. Đầu
đứa nhỏ to như đầu người lớn, nhưng thân mình của nó thì bé tí xíu. Đôi mắt nó
nhìn chằm chằm lên trần nhà, lưỡi nó thò ra thụt vào như lưỡi rắn. Tôi rùng
mình thốt lên: “Chúa ơi!” Nhưng bà ta nói: “Thưa Cha, từ tám năm nay con chăm
sóc đứa con này của con. Nó chỉ biết có một mình con mà thôi, và con rất hài
lòng về nó, hầu như không một người nào khác biết đến sự hiện diện của nó” - Rồi
bà ta lớn tiếng nói: “Thiên Chúa là Đấng nhân lành. Ngài là Cha." Bà ta
nhìn lên trời nói tiếp với giọng bình thản: “Xin vâng ý Cha dưới đất cũng như
trên trời."
Leonardo
Bop cho biết: “Tôi rời nhà bà ta không nói được một lời nào. Đầu tôi cúi xuống
kinh hoàng vì đứa trẻ quái thai, đồng thời ngỡ ngàng vì thái độ bình thản của
bà mẹ, Rồi bất chợt một câu Kinh Thánh xuất hiện trong đầu tôi. Lời Chúa Giêsu
nói với người đàn bà mắc bệnh hoại huyết: “Hỡi bà, đức tin của bà thật lớn lắm”
(Mt 15,28)
6. Phụ nữ xây dựng Giáo hội
Ở
Việt Nam, sau năm 1954, nửa nước VN ở phía Bắc do đảng Cộng sản cai trị, thời
gian này các tôn giáo gặp nhiều khó khăn, cụ thể địa phận Bùi Chu không được tập
họp các Chủng sinh để huấn luyện làm Linh mục. Nhưng trong tòa Giám mục Bùi Chu
vẫn lén thâu nhận nhiều thanh niên có ý chí dâng mình phục vụ Hội Thánh vào sống
trong tòa Giám mục để được cha giáo Hân huấn luyện. Như thế là trái với luật
pháp của chính quyền Cộng sản. Chính quyền nói tòa Giám mục không chịu nghe,
nên các Chủng sinh ở trong đó không ai được ra vào, cũng không cho ai lui tới.
Trong hoàn cảnh như thế các bà lợi dụng lúc đi Lễ, đã gói sẵn lương thực quấn
vào người để tiếp tay với tòa Giám mục nuôi các Chủng sinh. Kết quả được 29
Linh mục.
Hình
ảnh trên đây đã minh họa Lời Kinh Thánh: “Lời Chúa phán ra,cả một đoàn quân phụ
nữ loan đi, vua quan đào tẩu, binh lính chạy dài” (Tv 68/67,12-13).
Những
phụ nữ trong Tin Mừng lấy tiền của giúp Đức Giêsu và các Tông Đồ, cũng như các
bà trong địa phận Bùi Chu giúp các thầy, dưới mắt nhìn của người đời, đó là những
kẻ ngu dại, nhưng nhìn trong viễn tượng thế giới Phục Sinh, họ là những người
khôn ngoan, chắc chắn Chúa thưởng công hơn lòng họ mong ước, như Lời Ngài nói:
“Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ
ấy là môn đệ của Thầy,thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng
đâu.” (Mt 10,42).
7. Sỏi đá cũng cần có nhau
Một
triết lý sống mà có lẽ ở đời ai cũng có thể dễ dàng nhận ra, đó là con người sống
không thể không cần đến người khác. Thật vậy, con người sống là sống “cùng” và
sống “với” người khác; “không ai là một hòn đảo.” Nói như Trịnh Công Sơn, đến
như “sỏi đá cũng cần có nhau” huống nữa là con người. Trong những tháng ngày
rong ruổi rao giảng Tin Mừng cứu độ, Chúa Giêsu đã luôn mời gọi và luôn cần đến
sự cộng tác của nhiều người: từ các em nhỏ (chú bé với năm chiếc bánh và hai
con cá…) đến những môn đệ xuất thân là những ngư phủ mộc mạc… Ngay cả các phụ nữ
vốn chẳng có chỗ đứng trong xã hội Do Thái cũng được mời gọi tham gia: Ngài đã
đón nhận những phụ nữ thiện chí đem của cải mình có để giúp Ngài và các môn đệ.
Công
cuộc rao giảng Nước Thiên Chúa luôn cần đến sự chung tay và góp sức. Mọi tín hữu,
trong đó có bạn và tôi, vẫn đang được kêu mời chung tay, góp sức cho việc mở
mang Nước Thiên Chúa. Chúa Giêsu và Hội Thánh của Ngài cần đến con tim và khối
óc của mỗi người chúng ta.
8. Cùng đi với Người
Trả
lời cho phóng viên tờ La Croix trên chuyến bay từ Rio de Janeiro về Roma, Đức
Thánh Cha Phanxicô nói rằng không có phụ nữ, Giáo Hội mất đi sức phong phú của
mình. Vì chưng, một Giáo Hội không có các phụ nữ cũng giống như đoàn Tông Đồ
không có Mẹ Maria. Vai trò của phụ nữ không chỉ là người mẹ trong gia đình mà còn
là hình ảnh của Đức Maria, Đấng làm cho Giáo Hội sinh ra và lớn lên. Trong Tin
Mừng Luca, cùng với nhóm Mười Hai, còn có các “nữ tông đồ” đi theo Chúa “trên từng
cây số,” hỗ trợ vật chất cho các ngài. Nhờ đó, việc loan báo Tin Mừng được thuận
lợi hơn.
Hội
Thánh được khai sinh để làm cho Nước Thiên Chúa rộng mở trên khắp hoàn cầu, hầu
mọi dân nhận biết danh Thiên Chúa. Bản chất của Hội Thánh là loan báo Tin Mừng.
Cho nên, dù bạn là nam giới hay phụ nữ, giáo sĩ hay giáo dân, hãy tích cực đóng
góp công sức, thời gian, khả năng, vật chất cho sứ vụ cao quý ấy của Hội Thánh.
THỨ
BẢY - DỤ NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG
Lời
Chúa: Lc 8, 4-15
Khi
ấy, có đông dân chúng tụ họp lại, và người ta từ các thị trấn đến cùng Chúa
Giêsu. Người dùng dụ ngôn mà nói rằng: "Người gieo hạt giống ra đi gieo hạt
giống mình. Và đang khi gieo, có hạt rơi xuống bên vệ đường, bị người ta chà đạp
và chim trời đến ăn đi. Hạt khác rơi trên đá sỏi, vừa mọc lên liền héo đi, vì
không có đất ẩm. Hạt khác rơi vào bụi gai, và gai góc cùng mọc lên, bóp nghẹt
nó. Hạt khác rơi vào đất tốt, đã mọc lên và kết quả gấp trăm."
Khi
nói những lời đó, Người kêu lên rằng: "Ai có tai để nghe thì hãy nghe!"
Bấy giờ các môn đệ hỏi Người dụ ngôn đó ý nghĩa thế nào. Người nói rằng:
"Phần các con, thì cho các con biết những mầu nhiệm Nước Thiên Chúa; đối với
người khác, thì dùng dụ ngôn, để chúng xem mà không thấy, nghe mà không hiểu. Dụ
ngôn đó có nghĩa thế này: Hạt giống là lời Thiên Chúa. Những hạt rơi bên vệ đường,
tức là những người đã nghe, nhưng rồi quỷ tới và cướp lời khỏi lòng họ, kẻo họ
tin mà được cứu độ. Những hạt rơi trên đá sỏi là những người, khi nghe thì vui
vẻ đón nhận lời Chúa, nhưng họ không đâm rễ, họ chỉ tin tưởng nhất thời, và khi
đến giờ thử thách, thì tháo lui. Hạt rơi vào bụi gai, là những người đã nghe,
nhưng khi đi đường, những mối lo nghĩ, sự giàu có và thú vui của đời sống bóp
nghẹt và họ không sinh hoa kết quả. Còn như hạt rơi trong đất tốt, là những người
nghe lời với tấm lòng tốt lành và thiện hảo, họ giữ lấy và nhờ kiên nhẫn, họ
sinh được hoa trái."
TRUYỆN KỂ
1. Dụ Ngôn Người Gieo Giống
Dụ ngôn, theo tiếng Hy Lạp có
nghĩa là so sánh, là thí dụ. Trong Tin Mừng, là những câu truyện Chúa Giêsu đưa
ra dựa trên những hình ảnh quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người nghe,
để giúp họ hiểu ý nghĩa những sự thật có liên quan đến niềm tin mà Ngài muốn
trình bày.
Tin Mừng hôm nay thuật lại cho
chúng ta dụ ngôn về người gieo giống.
Trước hết, cần lưu ý đến sự khác
biệt giữa dụ ngôn và những lời giải thích dụ ngôn. Khi kể dụ ngôn, Chúa Giêsu
xem ra nhấn mạnh đến sự hiệu nghiệm của hạt giống hay đúng hơn sự thành công của
người gieo giống: có hạt rơi bên vệ đường, có hạt rơi trên đá, có hạt rơi vào bụi
gai, nhưng cũng có hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết quả gấp trăm. Còn khi
giải thích dụ ngôn cho các môn đệ, Chúa Giêsu như muốn nhấn mạnh đến thái độ cộng
tác của con người để làm cho Lời Chúa được sinh hoa kết quả. Thật ra, hai khía
cạnh này không đối nghịch nhau, nhưng được tổng hợp để diễn tả thực tại phong
phú của mầu nhiệm Nước Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa chắc chắn được phát triển,
nhưng phần cộng tác của con người trong việc phát triển Nước Chúa cũng không thể
bỏ qua được.
2.
Để Lời Chúa sinh hoa kết quả
Nhờ nghe Lời Chúa, dân thành
Ninivê ăn năn trở lại và được cứu rỗi.
Nhờ nghe Lời Chúa, vua Đavít bắt
đầu nhận thấy tội lỗi nặng nề của mình và ăn năn thống hối, trở thành một vị
vua thánh thiện.
Nhờ nghe Lời Chúa, Augustinô bắt
đầu xấu hổ về những tội mình đã phạm hồi còn trẻ, ăn năn hối cải, trở lại với
Chúa, và trở thành một vị giám mục thông thái, thánh thiện.
Nhờ nghe Lời Chúa, Phanxicô
Xaviê đã từ bỏ những đeo đuổi vinh sang trần tục, ra đi làm việc tông đồ để trở
thành một trong những nhà truyền giáo danh tiếng nhất của Giáo hội.
3.
Tâm hồn là thửa ruộng
Tâm hồn mỗi người là một thửa ruộng,
và không có thửa ruộng nào vô ích. Thiên Chúa sẽ gieo hạt giống Lời Chúa vào mỗi
tâm hồn không loại trừ. Việc gieo Lời Chúa lúc nào cũng dồi dào phong phú, còn
phía chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận Lời Chúa với thái độ nào? Theo bài Tin mừng,
Đức Giêsu đã phân chia thành 4 loại đất mà người nông phu gieo hạt giống. Bốn
loại đất ấy tiêu biểu cho 4 thái độ của con người trước Lời Thiên Chúa:
* Đất vệ đường: những kẻ chẳng
tha thiết gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao lâu thì bị quỷ dữ cướp
đi.
* Đất lẫn sỏi đá: những người
mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao nhiêu. Khi gặp chút gian
khó là bỏ cuộc.
* Đất có nhiều gai: những người
cũng đón nhận Lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là những đam mê, vui thú, của
cải... Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm cho Lời Chúa bị chết nghẹt.
* Đất tốt: những người sốt sắng
đón nghe Lời Chúa, ghi sâu vào trong tâm hồn và quảng đại đem ra thi hành trong
cuộc sống.
4.
Hạt giống bông lau
Trong số những vị anh hùng xây dựng
Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, phải kể đến Benjamin Franklin, tạ thế năm 1790. Ông là một
văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản; lại còn là một nhà phát minh, một khoa học
gia, thương gia và nhà ngoại giao.
Một hôm, ông nhận được món quà từ
Ấn độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt còn dính
lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết
hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho các bạn bè
xóm ngõ.
Tất cả đều đem gieo, và chẳng
bao lâu, Hoa Kỳ đã có một kỹ nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rác khắp nơi
trong quốc gia. Đó cũng là nhờ Benjamin đã có sáng kiến, biết lợi dụng vài hạt
giống nhỏ mọn.
5.
Giác ngộ
Một ông vua nọ có thói quen mỗi
ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita. Người phụ trách việc đọc kinh này
là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc xong một đoạn kinh, ông lại
dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích cho vua nghe. Và ngày nào
ông cũng đặt câu hỏi ”Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa dẫn giải không?"
Nhưng lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời ”Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước
đã...”
Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông
bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều là hão huyền. Thế là nhà sư quyết
từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của một người hành khất.
Trước khi ra đi, ông nói với nhà
vua ”Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được...”
Giác ngộ đích thực, hiểu biết
chân lý chính là thực thi chân lý."
6.
Cảm ơn Chúa vì bệnh cùi
Bà Scaggs, một giáo sĩ thuộc một
giáo phái Tin lành ở Nigeria, châu Phi, đã kể lại một câu chuyện thật cảm động
sau đây:
“Một ngày kia tôi được mời đến dự
lễ Giáng Sinh tại Grace Camp, một trung tâm điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên tôi
được chứng kiến một số người cùi đông như vậy dâng lễ. Buổi lễ được tổ chức
ngoài trời. Nhìn chỗ nào tôi cũng thấy người ngồi dự lễ. Gốc cây, ụ đất, bãi cỏ...
chỗ nào cũng đông nghẹt người. Tôi thấy họ thật đáng thương, Mặc dù bị bệnh tật
gậm nhấm và thân thể họ bị hủy hoại dần dần, nhưng khuôn mặt người nào người nấy
lúc nào cũng biểu lộ niềm vui khó tả. Mắt họ sáng ngời khi hát lên những bài
thánh ca Giáng Sinh.
Đến phần công bố Lời Chúa, mục
sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay lên đọc Sách Thánh. Ông ta
phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ tay. Sau bài giảng, mục sư
mời mọi người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban cho mình, người bệnh cùi
vừa đọc sách thánh giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên nhỏ nhẹ nói:
- Tôi muốn cảm ơn Đức Chúa Trời
vì Ngài đã cho tôi bị cùi.
Tôi - bà Scaggs - lấy làm lạ,
nói với người thông dịch cho tôi rằng, anh ta đã dịch sai. Không ai lại có thể
cám ơn Chúa vì “được cùi” bao giờ. Người thông dịch như không để ý đến những gì
tôi vừa nói. Anh tiếp tục dịch lại lời người bệnh đang giải thích. Người đó nói
đến nguyên do khiến anh ta nói như thế:
- Nếu tôi không bị cùi, có thể
tôi đã không bao giờ được biết Chúa Giêsu, không bao giờ cảm nghiệm được tình
yêu của Chúa dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh
cùi, có thể tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được
tình yêu của Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang săn sóc trợ
giúp tôi!
7. Tôi
là cách sống của tôi
Một người nông dân nhặt được một
quả trứng đại bàng, anh mang về bỏ vào ấp chung với ổ trứng gà. Chú đại bàng nở
ra cùng với bầy gà và đi kiếm ăn như những chú gà. Một hôm có con đại bàng bay
qua, tiếng kêu của đồng loại làm chú đại bàng con thức tỉnh, chú miệt mài tập
luyện và một ngày kia chú vỗ cánh bay cao vút lên bầu trời như một cánh đại
bàng thực thụ. Câu chuyện này còn có một cái kết khác, khi thấy đại bàng bay
ngang qua, chú đại bàng con nghĩ: “Họ là đại bàng, còn ta chỉ là gà”, và chú an
phận sống trong kiếp gà cho đến cuối đời. Câu chuyện cho thấy, chúng ta hoàn
toàn có thể chọn cho mình thái độ sống, đúng như ơn gọi dành cho chúng ta mà
Thiên Chúa mong muốn, như câu nói của người xưa “Chúng ta không được chọn nơi
mình sinh ra, nhưng chúng ta được chọn cách mình sẽ sống.”
Thánh Âu-tinh nói: “Chúa dựng
nên con không cần có con, nhưng để cứu độ con Chúa cần sự cộng tác của con.”
Không ai được tiền định sinh ra là một người tốt lành hay tội lỗi, nhưng bạn
hoàn toàn có thể làm cho tâm hồn của mình trở thành mảnh đất khô cằn hay tươi tốt,
nhờ việc biết lắng nghe và thực hành Lời Chúa trong những lựa chọn hằng ngày, để
Lời ấy biến đổi tâm hồn mình và sinh hoa kết trái. Bạn có sẵn sàng để mình trở
thành mảnh đất tươi tốt cho hạt giống Lời Chúa chưa?
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước
Thiên Chúa, còn lại những thứ khác Ngài sẽ ban cho” (Mt 6,33).
8.
Coi chừng điều tốt thứ nhì
Họa sĩ Van Gogh nói rằng: “Cuộc
đời là thời gian gieo trồng, chứ chưa phải là mùa gặt hái.” Vì thế, chúng ta
không lạ gì khi thấy Thiên Chúa, được ví như người gieo giống, đã gieo cách
kiên trì, rộng rãi đến độ hoang phí các hạt giống Lời Chúa. Hôm nay chúng ta
nói đến thân phận của hạt giống rơi vào bụi gai, tiêu biểu cho thái độ đón nhận
Lời Chúa thường gặp nơi chúng ta. Bụi gai tượng trưng cho nỗi bận tâm về chuyện
đời, về ham mê của cải, công ăn việc làm khiến cho cây Lời Chúa chết nghẹt.
Bạn thường nói rằng tôi quá bận
rộn đến nỗi không có giờ cầu nguyện, tôi phải lo công ăn việc làm, không rảnh rỗi
để đọc Lời Chúa, để lo các việc đạo đức… Coi chừng! Tâm hồn bạn đang có nhiều bụi
gai đấy! Bạn hãy nhớ rằng: không phải điều gì rõ ràng là xấu mới nguy hiểm, mà
ngay những điều tốt, hợp lý như công ăn việc làm, chuyện đời sống… cũng có thể
nguy hiểm, bởi vì “điều tốt thứ nhì luôn là kẻ thù tệ hại nhất của điều tốt nhất."
9.
Chọn điều tốt nhất
Trong một xã hội vị thế đồng tiền
đang được thượng tôn, nhiều người đã “hy sinh đời bố, củng cố đời con,” hay dám
giết người để chiếm đoạt tài sản, thì việc giáo sư Ngô Bảo Châu từ chối nhận
món quà là ngôi biệt thự ở Tuần Châu và việc chị Đỗ Thị Thanh Nga, Thái Bình từ
chối món tiền trợ giúp cho con chị đang nguy tử và đề nghị giúp cho những trẻ
em đang cần đến, là những sự kiện và những con người đáng ca ngợi.
Tuy những món quà ấy thật lớn đối
với họ trong hoàn cảnh hiện tại, nhưng lòng tự trọng và tình yêu tha nhân lớn
hơn. Giáo hội nhận ra những điều thiện hảo ấy trong lòng con người là “hạt giống
Lời Chúa.” Lời Chúa đã được gieo vào mảnh đất tốt là tấm lòng cao thượng và quảng
đại của họ. Quả thật, những “hạt giống” ấy đang trổ hạt gấp trăm không chỉ nơi
họ, mà còn nơi những người hôm nay nhạy bén nhận ra những giá trị đáng trân trọng
trong cách sống và tấm lòng cao quý của họ.
Những “hạt giống Lời Chúa” được
gieo vào Ki-tô hữu khi nghe Lời Chúa đang chờ mong nẩy mầm và trổ hạt như thế.
10.
Sống đạo và truyền đạo
Một vài số liệu cho thấy sự tăng
trưởng khác nhau giữa Giáo Hội Nam Hàn và Giáo Hội Việt Nam. Theo thống kê năm
2004, số người Công Giáo Việt Nam trên toàn quốc là 5.776.972, chiếm tỉ lệ 7,04%
dân số; vào năm 1960 tỉ lệ người Công giáo là 7,17 % dân số. Nghĩa là sau 44
năm, tỷ lệ người Công giáo có suy giảm chút ít. Trong khi ấy số giáo dân của
Giáo Hội Nam Hàn năm 2004 là 4.325.000, chiếm 8,8% dân số. Một tỷ lệ tăng trưởng
rất ấn tượng bởi vì năm 1949 người Công giáo chỉ chiếm 1% dân số.
Quả thật, con cháu các thánh tử
đạo Triều Tiên đã nối gót cha ông làm cho hạt giống lời Chúa sinh hoa kết quả,
để mảnh đất Triều Tiên thu được một mùa lúa dồi dào. Phần chúng ta, chúng ta sẽ
làm gì để nối gót các bậc tiền bối anh hùng?
Noi gương người Công Giáo Nam
Hàn, bạn hãy điều chỉnh lại lối sống cho thích hợp hơn với những đòi hỏi của
Tin Mừng. Bạn hãy tận dụng mọi cơ hội để giới thiệu khuôn mặt Đức Kitô cho người
khác, nhất là cho các đồng nghiệp trong môi trường làm việc của mình.
11.
Người bi quan chỉ thấy bụi gai
Một giáo viên đọc dụ ngôn người
gieo giống, sau đó cô bảo các học sinh viết đoạn văn giải thích xem các em thuộc
loại hạt giống nào: hạt rơi trên đường, trên đá, ở giữa bụi gai, hay trên đất tốt.
Một học sinh đã viết: “Tôi sống như hạt giống rơi vào bụi gai, bởi vì tôi sống
trong gia đình với một người cha thiếu tình cảm . Tôi đón nhận Lời Chúa nơi nhà
thờ, nhưng trở về nhà với những cãi vã. Điều này làm chết ngộp Lời Chúa trong
tôi và rốt cuộc tôi đánh mất niềm hy vọng tôi đã gầy dựng.”
Tôi nhận thức thế nào về những sầu
khổ trong cuộc đời những người xung quanh tôi? Điển hình là ai?
Mỗi người đều có nỗi sầu khổ
chôn kín mà không ai biết được, và đôi khi chúng ta gọi người đó là kẻ lạnh lùng
đang lúc anh ta chỉ buồn bã thôi. (Henry Wadsworth Longfellow)
Lời Chúa Tuần 24 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch