LỜI CHÚA TUẦN 17 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 17B
- PHÉP LẠ BÁNH HÓA NHIỀU
THỨ SÁU
- TIN NHẬN HAY KHÔNG TIN NHẬN
CNTN 17A - KHO TÀNG, NGỌC QUÝ
Lời
Chúa: Mt 13, 44-52
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Tôi đã hiểu một người trở thành xấu như thế nào và một người trở
nên tốt như thế nào.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng
chôn giấu trong ruộng, người kia tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về
bán tất cả những gì anh có mà mua thửa ruộng ấy.
Nước
trời cũng giống như người buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý,
anh về bán mọi của cải mà mua viên ngọc ấy.
"Nước
trời lại giống như lưới thả dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta
kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném
ra ngoài. Trong ngày tận thế cũng vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ
ra khỏi người lành, rồi ném những kẻ dữ vào lò lửa, ở đó sẽ phải khóc lóc và
nghiến răng. Các ngươi có hiểu những điều đó không?" Họ thưa rằng: "Có."
Người
liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống
như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái mới, cũ trong kho mình."
TRUYỆN KỂ
1. Kho báu
Có
một vị đạo sĩ Ấn Độ đang ngồi tịnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu
sang đến xin làm đệ tử. Ông rón rén đến bên vị đạo sĩ và đặt dưới chân nhà tu
hành hai viên ngọc quý nhất để làm lễ ra mắt. Vị đạo sĩ không cần nhìn kỹ vào
món quà, cầm lấy một viên ngọc và ném xuống dòng sông. Vì tiếc của, người đàn
ông bèn lặn xuống để tìm lại cho bằng được viên ngọc. Nhưng lặn suốt cả một
ngày mà cũng không tài nào tìm thấy.
Chiều
đến, vừa mệt mỏi vừa chán chường, người đàn ông mon men đến gần vị đạo sĩ và
năn nỉ: Ngài là người ném viên ngọc xuống dòng sông, xin ngài hãy chỉ cho biết chỗ
nào để tôi lặn xuống hầu tìm lại. Vị đạo sĩ liền cầm lấy viên ngọc thứ hai và
ném xuống dòng sông rồi nói: Đó, ta ném vào chỗ đó. Ngươi hãy lặn xuống mà tìm.
Cử chỉ của vị đạo sĩ biểu lộ một đòi hỏi gắt gao đối với những
ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả.
2. Thế vận hội
Giả
như Chúa Giêsu sống vào thời buổi hiện giờ, thì có lẽ đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay đã có những hình ảnh khác. Thay vì nói về tay lái buôn đã hy sinh tất cả để
mua cho được viên ngọc quý, hay bác nông dân bán cả gia sản để mua miếng đất cất
giấu kho tàng, thì Ngài sẽ nói về một lực sĩ bơi lội, đang tham dự thế vận hội,
bởi vì anh ta cũng đã phải sẵn sàng hy sinh tất cả, chấp nhận một chế độ kiêng
khem và tập luyện nghiêm khắc, với hy vọng chiếm được tấm huy chương vàng.
Tại
sao tôi đưa ra hình ảnh của anh chàng lực sĩ, bởi vì anh ta cũng có một điểm
chung với tay buôn ngọc hay bác nông dân; đó là cả ba đã sẵn sàng hy sinh tất cả
cho một mục đích mà họ đã đặt ra ở phía trước.
Điểm
chung này dẫn chúng ta tới ý muốn của Chúa. Đó là muốn trở nên công dân Nước Trời,
chúng ta phải dấn thân triệt để, chứ không thể thực hiện mục đích ấy như một việc
ngoài giờ, như một việc phụ thuộc hay như một việc có tính cách tiêu khiển.
Chúng ta phải đầu tư, phải dấn thân vào đó 100%, phải xem đó như nỗi ưu tư số một
của cuộc đời chúng ta. Người Kitô hữu phải giống như tay buôn ngọc, bác nông
dân hay anh chàng lực sĩ, bởi vì nó đòi hỏi một sự dấn thân trọn vẹn.
3. Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người
ta kể rằng khi thư viện lớn nhất tại thành phố Alexandre bên Ai Cập bị đốt
cháy, chỉ có một quyển sách còn nguyên vẹn. Nhìn bên ngoài thì đây chỉ là một
quyển sách tầm thường như bao quyển sách khác. Nhưng có lẽ đây là quyển sách
quí giá nhất thế giới, vì bìa lưng của nó chứa đựng bí mật về một viên đá quí.
Viên
đá này chạm đến đâu thì tất cả đều biến thành vàng. Hàng chữ viết trên bìa lưng
của quyển sách cho biết thêm viên đá quí này nằm lẫn lộn trong muôn nghìn viên
đá khác tại bờ Bắc Hải. Về hình thù nó giống như mọi viên đá khác. Chỉ khác có
điều là trong khi những viên đá khác sờ vào thấy lạnh, thì viên đá quí này lại
nóng.
Một
nông dân nghèo đã tình cờ mua được quyển sách và khám phá ra bí mật ấy. Ông ta
bán tất cả tài sản và lên đường đi tìm cho bằng được viên đá quí. Ông cắm lều
bên bờ biển Bắc Hải và ngày ngày ông nhặt từng viên đá lên xem. Cầm lên viên đá
nào là ông ném xuống biển. Nguyên một năm ròng rã, mỗi ngày ông lặp đi lặp lại
cùng một động tác ấy. Nhặt một viên đá rồi ném xuống biển. Nhưng ông vẫn chưa
tìm được viên đá nóng. Viên đá nào cũng lạnh cả. Ông lại tiếp tục công việc ấy
một năm nữa, nhưng vẫn chưa tìm được viên đá quí, thế rồi một buổi chiều nọ,
bàn tay của ông bỗng rực nóng lên khi chạm đến viên đá.
Nhưng
thói quen nhặt đá để ném xuống biển đã trở thành một thứ bản năng, không chống
lại nỗi nữa. Vì thế người nông dân cũng ném luôn viên đá ấy xuống biển. Ông đã
để kho tàng tuột khỏi tay ông.
Có
một lúc nào đó chúng ta sẽ tự hỏi mình sống để làm gì? Cuộc sống này có ý nghĩa
gì với tôi? Có lẽ câu trả lời hoàn chỉnh nhất đó là sống để đi tìm hạnh phúc. Hạnh
phúc là gia tài quý báu nhất mà cả nhân loại này hằng khao khát tìm kiếm hằng
ngày, hằng giờ. Cả nhân loại hằng đổ xô đi tìm. Có những người mất cả đời để đi
tìm hạnh phúc nhưng vẫn không bao giờ toại nguyện. Có những người dám đánh mất
cả tiền tài, công sức để đạt cho bằng được hạnh phúc mình mong đợi, thế rồi lại
thất vọng chán chường và lại tiếp tục tìm kiếm.
4. Điều thực sự có giá trị
Trên
mạng Internet, người ta đang truyền nhau lời tâm sự của một bác sĩ trẻ bị ung
thư. Anh đã viết trên dòng thời gian mình, những lời trần tình để lại cho bạn
bè và đặc biệt, là cho giới trẻ. Đó là Bác sĩ Richard Teo Keng Siang, 40 tuổi.
Một triệu phú ngành giải phẫu thẩm mỹ ở Singapore. Anh đã phát hiện bị ung thư
phổi giai đoạn cuối khi ở đỉnh cao nhất của tiền tài, danh vọng.
Richard
Teo qua đời ngày 18/10/2012. Những chia sẻ của anh khi đưa lên mạng, đã gây một
xúc động rất lớn.
-
“Chào tất cả các em. Giọng tôi hơi bị khàn một chút, mong các em chịu khó nghe.
Tôi xin tự giới thiêu, tôi tên là Richard và là một bác sĩ. Từ lúc trẻ, tôi là
một sản phẩm đặc trưng của xã hội ngày nay, một sản phẩm khá thành công mà xã hội
đòi hỏi. Hồi nhỏ, tôi lớn lên trong một gia đình có mức sống dưới mức trung
bình. Tôi được bảo ban bởi người chung quanh và môi trường rằng thành công thì
hạnh phúc. Thành công có nghĩa là giàu có. Với suy nghĩ này, tôi trở nên cực kỳ
ganh đua ngay từ nhỏ. Nhưng thật trái ngược, chỉ khi sắp chết thì mình mới biết
nên sống như thế nào. Tôi biết điều này nghe qua thật mơ hồ, nhưng đó là sự thật
và tôi đang trải qua.
Sự
thành công, xe cộ, nhà cửa, những thứ mà tôi nghĩ đã đem hạnh phúc đến cho tôi,
khi tôi xuống tinh thần, tuyệt vọng, không mang đến cho tôi niềm vui. Mà nếu được
chọn lựa, tôi sẽ sống, là làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là tôn chỉ cao nhất.”
5. Viên ngọc quý
Chuyện
kể rằng có một thầy khổ tu vào rừng để hành xác, mong được lên cõi thiên đàng.
Ngày ngày có một cô gái nhân đức tới để cung cấp trái cây và nước suối cho thầy.
Nhiều
năm trôi qua, đã đến lúc thầy phải rời bỏ khu rừng vào hang núi sâu, hoàn thành
cuộc hành xác khắc nghiệt. Người con gái chặt củi nước mắt lưng tròng van xin:
- Tại
sao thầy không cho con được diễm phúc hầu hạ thầy?
Và
thầy tu đã ngồi lại, ở nguyên chỗ cũ.
Thầy
ngồi một mình, tháng này qua năm nọ, cho đến khi cuộc hành xác hoàn thành. Vị
chúa tể của những con người bất tử xuống báo cho thầy biết rằng thầy đã được
lên cõi thiên đàng. Nhưng thầy tu nói:
-
Đã lâu rồi tôi không cần thiên đàng nữa!
Vị
chúa tể kia liền hỏi:
- Vậy
thầy muốn được phần thưởng nào quí giá hơn thiên đàng?
Thầy
tu chắp tay nhắm mắt điềm nhiên trả lời:
-
Tôi muốn được cô gái chặt củi?
6. Kho báu - Viên ngọc quý
Một
hôm, có một người kia gặp một nhà tu hành đi qua làng, ông vội chạy theo kêu
lên: "Xin ông cho tôi viên ngọc quý trong cái bị của ông." Nhà tu
hành ngạc nhiên hỏi "Viên ngọc quý nào?" Ông ta nói: "Đêm qua
tôi nằm mơ thấy có ông tiên bảo là nếu tôi được viên ngọc quý của nhà tu hành sẽ
đi qua làng hôm nay, tôi sẽ là người giàu có nhất trên đời. Vậy xin ông cho tôi
viên ngọc quý đó." Nhà tu hành tốt bụng móc trong bị ra và nói: "Có
phải cái này không? Tôi mới nhặt được ở cánh đồng bên kia bờ suối. Nếu ông muốn
thì tôi biếu ông."
Người
ấy sung sướng cầm lấy viên ngọc quý, cám ơn rồi đi ngay về nhà, trong bụng nghĩ
thầm: "Từ nay mình sẽ là người giàu có, không phải vất vả gì nữa." Thế
nhưng tối hôm ấy tâm trí ông áy náy, tâm hồn ông bồn chồn, trằn trọc không sao
ngủ được. Sáng hôm sau, ông cầm viên ngọc đi tìm nhà tu hành và gặp thấy nhà tu
hành ấy đang ngủ ngon lành dưới gốc cây. Ông rón rén đến gần đánh thức dậy và
nói: "Thưa ông, tôi xin trả lại ông viên ngọc quý này, xin ông ban cho tôi
viên ngọc quý khác, tức là sự phong phú của tâm hồn, đã làm ông có đủ can đảm
cho tôi viên ngọc quý này mà không tiếc xót."
Viên
ngọc quý thực sự của tâm hồn là gì để cho nhà tu hành kia có được nghị lực khước
từ mọi giàu sang thế trần mà không biết tiếc xót chi cả? Đó là điều Chúa Giêsu
nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
7. Ông già xứ Ba Tư
"Ông
già xứ Ba Tư", xứ ngàn năm lẻ một hay ngàn lẻ một năm. Câu chuyện như sau:
ông già ấy có một nông trại rộng lớn, vườn rộng ao sâu, nhiều hoa quả và cá
quý, ông ta nghe lời một vị đạo sĩ bán hết ruộng vườn để đi tìm kim cương.
Ông
lặn lội đi tìm hết nước nầy sang nước khác, nhưng không tìm thấy kim cương đâu
cả, cuối cùng, hết tiền, đói khổ, quần áo rách rưới, cùng đường, ông đâm đầu xuống
sông tự tử.
Trong
khi đó, người mua lại nông trại của ông đã tìm ra một mỏ kim cương khổng lồ
ngay trong nông trại đó.
Chúng
ta thấy ông già Ba Tư ấy ngồi ngay trên mỏ kim cương, sở hữu mỏ kim cương kia
mà không hề hay biết gì.
8. Truyện cổ Do Thái
Dụ
ngôn “Kho báu chôn dấu trong thửa ruộng” là một câu chuyện không có gì xa lạ với
dân chúng Do Thái, bởi vì họ vẫn thường kể cho nhau nghe về một câu chuyện cổ
tích tương tự như thế.
Ngày
hôm ấy, Abba Giuđa đang cố gắng cày nốt thửa ruộng còn lại, thì bỗng con bò của
anh ta bị ngã qụy và gãy mất một chân vì gặp phải một cái hố nhỏ. Bực mình, anh
ta dừng lại vuốt những giọt mồ hôi trên trán, rồi qùy xuống nâng chân con bò
lên. Đột nhiên, Đức Giavê mở mắt cho anh ta và anh ta đã nhìn thấy một kho tàng
quí giá ngay trong cái hố nhỏ ấy. Anh ta tự nhủ: - Chính vì chú bò này mà mình
được lợi đây.
Kho
tàng ấy là của một ai đó đã chôn dấu, có lẽ từ lâu lắm, vì sợ trộm cắp, giặc
giã hay chiến tranh. Anh ta cẩn thận vùi đất lại, trở về nhà, thu góp tiền bạc,
bán tất cả những đồ đạc, để gom cho đủ số tiền hầu mua thửa ruộng đó, bởi vì
anh ta chỉ là một nông dân nghèo đi cày thuê cuốc mướn mà thôi.
Dĩ
nhiên, anh ta mua được thửa ruộng ấy, dù với một giá hơi mắc, nhưng anh ta trở
thành triệu phú, bởi vì luật pháp đã qui định: kể từ ngày làm chủ mảnh đất, anh
ta cũng làm chủ tất cả những gì có trong mảnh đất ấy.
Có
lẽ Chúa Giêsu đã lấy chính câu chuyện bình dân này để nói về Nước Trời.
9. Khôn ngoan thế tục
Từ
Hi Thái Hậu vốn là người yêu thích các loại đồ vàng ngọc, trân châu đá qúi. Năm
1895, bà đã khôn ngoan khéo léo cho xây một công trình lăng tẩm ở Đông Lăng,
thuộc thành phố Tuân Hoá, tỉnh Hà Bắc, Trung Hoa. Từ Hi đã kín đáo cất tất cả
vàng bạc châu báu vào trong lăng tẩm ấy, đề phòng khi chết, chúng vẫn thuộc quyền
sở hữu của bà. Sau 13 năm xây dựng, ngày 18/10/1908, lăng được hoàn tất: điều độc
đáo là 4 ngày sau đó, Từ Hi Thái Hậu cũng qua đời, thọ 74 tuổi. Mọi vòng vàng
được chôn theo với bà. Kho tàng trong lăng tẩm tưởng rằng được ẩn giấu mãi với
thời gian.
Nào
ngờ 10 năm sau đó, tháng 7 năm 1928, Tôn Điện Anh, một sĩ quan quân đoàn 12 của
Quốc Dân Đảng đã dùng pháo binh mở đường khai quật lăng mộ Từ Hi Thái Hậu. Khi
nắp quan tài được mở ra, ánh sáng chói loà, binh sĩ thấy vàng vòng ngọc qúi đầy
dẫy. Cấp lớn đua nhau lấy thứ lớn, quân lính mon men lấy thứ nhỏ. Ai cũng giàu
to, thậm chí Tôn Điện Anh còn hạ lệnh lột long bào của Từ Hi, lấy sạch châu báu
trên người bà.
Tin
đồn binh lính Tôn Điện Anh trộm báu vật của Tứ Hi Thái Hậu đến tai Thống chế Tưởng
Giới Thạch. Ông ban lệnh điều tra kẻ chủ mưu, Tôn Điện Anh khôn ngoan nhờ cấp
trên đi đêm với phu nhân Tống Mỹ Linh: tặng cho vợ Tưởng Giới Thạch nhiều báu vật,
trong đó có chiếc mũ phụng quán gắn viên trân châu cực lớn của Từ Hi Thái Hậu.
Tôn Điện Anh còn biếu riêng Tưởng Giới Thạch một thanh Cửu Long bảo kiếm cùng
nhiều báu vật khác của các bậc vua chúa triều đình Trung Hoa. Nhờ đó, ông bình
an vô sự thoát khỏi án phạt hình sự.
Có
người dùng khôn ngoan để đoán xét công minh chính trực, ích dân lợi nước như
Vua Salomon, nhưng cũng không thiếu những kẻ sử dụng khôn ngoan như một thủ đoạn
gian lận, chiếm hữu như Tứ Hi Thái Hậu, như viên sĩ quan Tôn Điện Anh của vệ
binh Quốc Dân Đảng Trung Hoa.
10. Chiếc quan tài nhỏ
Tại
Chùa Tô Châu bên Tàu có một nhà sư tên gọi là Viên Thủ Trung, nổi tiếng là nhà
tu hành đắc đạo. Nhà sư thường bày trên trên án thư, trước chỗ ngồi, một cái
quan tài nhỏ làm bằng gỗ bạch đàn, dài độ 3 tấc, có nắp đậy, mở ra được.
Khách
đến chơi trông thấy thường tò mò tra hỏi, nhà sư trả lời: "người ta sống tất
có chết, mà chết là vào ngay cái này. Tôi thật lấy làm lạ, người đời ai cũng chỉ
biết phú quí, công danh, tài sắc, thị hiếu, lo buồn, vất vả suốt đời, chẳng biết
đến cái chết là gì... Mỗi khi có việc không được như ý, tôi liền lấy cái quan
tài này mà ngắm, tức khắc tôi cảm thấy được yên ổn ngay.
11. Kho báu Nước Trời
Aman
là một làng chài lưới. Không có dấu hiệu vật chất bên ngoài chứng tỏ dân làng
Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất
không ngăn cản họ sống hạnh phúc thật sự.
Phải,
tất cả mọi người trong làng đánh cá này đều sống trong an vui.
Nhưng
rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sô-Pốt và Sô-Pa lưới lên một
thùng rất nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ tò mò mở nhanh thùng ra và rất đổi ngạc
nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quý. Hai anh em không biết làm
gì với kho tàng, bèn bàn nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết A-ki-an sống gần
bên.
Sô-pốt
hỏi:
-
“Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này?" Số lượng đủ để
phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hạt và như thế mỗi người
chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe
thế nhà hiền triết liền trả lời cách khô khan:
-
Hãy đem đổ lại xuống biển!
12. Ông hoàng Vladimir Ghyka.
Ông
hoàng Vladimir Ghyka là một người thuộc hoàng tộc, được ăn học đến nơi đến chốn
và được thừa hưởng nhiều của cải vật chất. Ông có thể sống một cuộc sống nhàn hạ
và sung sướng, cũng như có một địa vị cao sang ngoài xã hội.
Thế
nhưng, ông đã từ chối những quyến rũ trần gian, những vui thú mà cuộc sống
vương giả đem lại. Ông đã chọn cho mình viên ngọc quý của Phúc Âm. Ông sẵn sàng
từ bỏ tất cả để chiếm lấy viên ngọc quý ấy.
Từ
bỏ tất cả, ông đã sống một cuộc sống nghèo túng giữa những kẻ nghèo túng. Đời
ông kể từ nay thuộc hẳn về Thiên Chúa và những người bất hạnh. Ông đã qua đời
vào năm 80 tuổi trong ngục thất, nơi mà kẻ thù đã giam giữ ông.
Dưới
cặp mắt của người đời, thì ông đã thất bại hoàn toàn, cũng như Chúa Giêsu đã thất
bại hoàn toàn khi bị treo trên thập giá. Thế nhưng, chính cái kết thúc bi
thương ấy lại mở ra con đường vinh quang mà chúng ta không thể nào mường tượng
nổi.
13. Nghiệp chướng
Trong
một ngôi chùa nọ bên nước Nhật, lúc nửa đêm, vị thiền sư đang tụng giờ kinh đêm
một mình.
Bỗng
ông thoáng thấy một bóng người vụt qua, vừa lúc nghe có tiếng sau lưng: - Tiền
đâu? Đưa đây?
Nhà
sư định thần ra là tên trộm, ông thong thả trả lời: - Thiện tai thiện tai; chùa
nghèo làm gì có tiền!
-
Chùa lớn thế này mà không có tiền à? Nhà sư vẫn tụng kinh, vừa trả lời: À mà
quên! Trong hộc tủ bên trái, ta còn ít tiền. Nếu muốn cứ lấy; nhưng nhớ chừa lại
cho ta ít trăm để mai ta còn tiền đi đóng thuế cho nhà nước.
Rồi
nhà sư tiếp tục tụng kinh. Tên trộm thấy ít tiền quá, nên cởi luôn chiếc cà sa
nhà sư đang mặc. Ông chỉ còn độc chiếc quần xà lỏn mà vẫn tụng kinh.
Khi
tên trộm bỏ đi, ông nhìn theo mỉm cười: nghiệp chướng nặng quá! Nghiệp chướng!
14. Kho tàng bị mất
Vào
thế kỷ thứ 18, vua Charles IV nước Tây Ban Nha đã đoán trước sự xâm lược của
hoàng đế Napoleon, nên quyết định đem dấu toàn bộ sưu tầm những chiếc đồng hồ cổ
và những ngọc thạch trang sức quí giá trên chiếc vương miện của chánh thể quân
chủ Tây Ban Nha. Nhà vua đã yêu cầu một người đầy tớ trung tín chôn giấu bộ sưu
tầm đồng hồ vào một vách tường của một căn phòng trong 365 căn phòng nơi triều
đình. Nhà vua cũng đã ra lệnh cho ông chôn cất kho tàng ngọc thạch trong một bức
tường khác.
Người
đầy tớ khôn ngoan và trung tín đã cẩn thận đánh dấu căn phòng chôn giấu kho
tàng bằng cách cắt một miếng vải nhỏ trên bức màn của mỗi căn phòng chứa kho
tàng, để khi chánh thể quân chủ Tây Ban Nha nắm chính quyền trở lại, họ có thể
tìm thấy dễ dàng.
Năm
1814, vua Ferdinand VII, con của vua Charles IV, lên ngôi phục quyền cho nền
quân chủ. Dĩ nhiên là ông muốn tìm lại kho tàng của mình, nhưng có một vấn đề.
Ông vua bù nhìn mà hoàng đế Napoleon đã đặt lên cai trị hoàng cung Tây Ban Nha
trong thời gian ngoại xâm lại rất thích việc trang trí nội cung. Ông đã thay đổi
toàn bộ tất cả những bức màn trong mỗi căn phòng! Do đó vua Ferdinand phải đối
diện với một sự chọn lựa hoặc là phải gỡ tất cả gạch trên mỗi bức tường xuống,
hay là để y như vậy.
Nhà
vua đã chịu mất kho tàng và để y như vậy. Mọi người đã nghĩ rằng đây chỉ là một
câu chuyện hoang đường của người Âu Châu, cho đến thời gian gần đây, khi người
thợ phải sửa lại những ống dẫn nước trong một căn phòng của hoàng cung, đã khám
phá ra bộ sưu tầm những chiếc đồng hồ cổ. Có lẽ, một ngày nào, sẽ có người lại
tìm thấy một kho tàng khác gồm những đồ trang sức bằng ngọc thạch trên vương miện
còn đang bị mất ở hoàng cung trong một căn phòng nào đó.
15. Quý hơn kim cương
Có
một tu sĩ nổi tiếng là khôn ngoan đi đến một làng quê và ngồi nghỉ qua đêm dưới
một gốc cây. Một người dân làng đi qua thấy ngài bèn hỏi: “Hòn đá! Hòn đá! Xin
ngài hãy cho tôi hòn đá quý!” “Hòn đá gì?” tu sĩ hỏi. “Đêm hôm qua Thiên Chúa
đã hiện ra với tôi trong giấc mơ”, ông dân làng nói, “Và bảo với tôi rằng nếu
tôi đi ra ngoài làng vào lúc ban tối, tôi sẽ gặp một vị khôn ngoan cho tôi một
hòn đá quý. Nó sẽ làm cho tôi giầu có vĩnh viễn."
Vị
tu sĩ lục lọi trong túi sách, lấy ra một hòn đá. “Có lẽ ông muốn hòn đá này phải
không?” vừa hỏi ngài vừa đưa cho ông dân làng hòn đá, “Tôi đã thấy nó trên lối
đi vào rừng cách đây mấy ngày. Ông có thể cầm lấy nó đi." Người đàn ông ngạc
nhiên nhìn hòn đá. Đó là cục kim cương. Có lẽ là cục kim cương lớn nhất trên thế
giới, vì nó to bằng cái đầu người. Ông ôm lấy cục kim cương và bước đi.
Suốt
đêm hôm ấy, ông lăn lộn trên giường, không cách nào ngủ được. Ngày hôm sau,
ngay lúc tảng sáng, ông đi ra đánh thức vị tu sĩ đang ngủ dưới gốc cây thức dậy
và nói, “Xin trả lại cho ngài cục kim cương này, tôi muốn xin ngài cái điều đã
làm cho ngài có thể cho đi cục kim cương này một cách dễ dàng."
16. Giá của bức hình
Chuyện
kể một phú ông kia chẳng may bị chết vợ trong ngày bà sinh hạ đứa con đầu lòng.
Ông buồn phiền quá sức nhưng cũng phải kiếm vội người vú nuôi để chăm nom đứa
bé và coi sóc cửa nhà.
Rủi
thay, đứa bé kia cũng thiệt mạng trong một tai nạn giao thông khi chưa tới tuổi
trưởng thành. Người giàu có cũng chết sau đó vài năm vì một cơn đau tim bất ngờ.
Vì
không có ai là họ hàng thân thích và bởi không tìm thấy một tờ di chúc nào nên người
ta chẳng biết gia tài khổng lồ sẽ đi về đâu. Cuối cùng, toàn bộ gia sản được
giao cho chính quyền giải quyết.
Theo
lệ thường, người ta cho trưng bày và đấu giá trứơc một số vật dụng. Sau đó vài
tháng sẽ cho đấu giá toàn bộ.
Ngày
đấu giá sơ khởi diễn ra. Các con buôn tụ tập rất đông. Người vú nuôi ngày xưa
cũng đến tham dự, không phải để được mua sắm với giá lời, nhưng vì lòng thương
nhớ gia đình chủ xưa khiến bà tìm đến để nhìn lại lần cuối các vật chứa đầy kỷ
niệm.
Trong
số các thứ được đem ra đấu giá, người vú nuôi chợt thấy tấm hình con ông chủ được
lồng trong một khung kính đơn sơ. Bà chợt thương nhớ da diết cậu bé ngày xưa!
Nước mắt bà rơi xuống. Thế rồi khi thấy chẳng ai thèm chú ý đến tấm hình, người
vú nuôi liền giơ tay mua nó với giá sơ khởi là một đồng.
Bà
mang tấm hình về, tháo khung ra, dự tính đặt ba tấm hình vợ chồng và đứa con của
gia đình chủ xưa vào chung một chiếc khung. Nhưng lúc vừa gỡ mặt sau tấm hình cậu
bé, bà thấy có mấy tờ giấy rơi ra. Xem có vẻ quan trọng, bà bèn mang chúng đến
một luật sự nhờ xem giúp.
Vị
luật sư sau khi quan sát kỹ các giấy tờ đã tươi cười nói với bà: “Xin chúc mừng
bà! Người chủ của bà đã viết rằng: ông ta muốn giao lại toàn bộ tài sản cho người
nào yêu mến đứa con của ông đến nỗi chịu mua bức hình đó, và như thế, bà được
quyền thừa hưởng di chúc này.”
Thật
hạnh phúc muôn lần hơn cho những ai yêu mến Đức Giêsu, Con Thiên Chúa!
17. Ba người bạn
Người
kia có 3 người bạn. 2 người trước là bạn rất thân, người thứ ba thường thường vậy
thôi. Ngày kia ông bị tòa bắt xử liền xin 3 người bạn đi theo để biện hộ. Người
bạn thứ nhất từ chối ngay, viện cớ bận việc quá không đi được. Người thứ hai bằng
lòng đi đến cửa quan nhưng lại không dám vào. Chỉ có người thứ ba tuy không được
ông yêu thích nhưng tỏ ra trung thành vào tận tòa án biện hộ cho ông ta không
những trắng án mà còn được thưởng nữa.
Người
bạn thứ nhất là Tiền bạc. Khi ta chết, tiền bạc bỏ rơi ta, chỉ để lại cho ta một
chiếc chiếu và một cái hòm. Người bạn thứ hai là Bà Con Bạn Hữu. Họ khóc lóc
đưa ta tới huyệt rồi về. Người bạn thứ ba là các Việc Lành. Chúng theo ta đến
tòa phán xét và đưa ta vào cửa thiên đàng.
18. Tìm lại được kho báu của mình
Một
viên chức kia luôn cố gắng vươn lên ngày càng cao trên chiếc thang danh vọng,
vì thế mà ông bỏ hết thời giờ và công sức vào việc tạo dựng sự nghiệp, chẳng
còn thời giờ chăm sóc vợ con, cũng chẳng có giờ để giải trí. Nhìn cách sống của
ông, ai cũng biết kho báu mà ông tìm nằm ở đâu.
Thế
rồi ông bị một cơn đau tim quật ngã, phải vào bệnh viện, nằm ở đấy nhiều ngày
trong tình trạng hôn mê. Trong những cơn mê, ông thấy lại cuộc sống của mình,
những công việc của mình và những người mình gặp gỡ. Và ông cảm thấy mọi sự, mọi
người đều như xa lạ quá. Cảm giác ấy khiến ông rất cô đơn và chán nản. Một ngày
kia ông bắt đầu tỉnh lại, ông thấy một số khuôn mặt mờ mờ hiện ra trước mắt. Một
lúc sau nhìn rõ hơn thì đó là những khuôn mặt của vợ con ông, những người duy
nhất ngày đêm túc trực bên giường bệnh của ông, trong khi các bạn bè đồng nghiệp
đều biến đâu mất hết.
Biến
cố ấy đảo ngược lại mọi giá trị đời ông. Nó giúp ông hiểu rằng gia đình chính
là mục tiêu ông phải nhắm tới và cũng chính là kho báu của đời ông.
19. Kho tàng chôn dưới đất
Một
anh thợ may nằm mơ gặp một vị thần cho biết là có một kho báu chôn dưới đất
trong sân của hoàng cung. Anh liền lên đường tìm đến hoàng cung. Tuy nhiên anh
không vào được vì ở đó lính gác đông quá. Nhưng anh không bỏ cuộc. Anh nán lại
đấy nhiều ngày và tìm cách kết thân với vị chỉ huy. Khi đã thân thiết với nhau
rồi, anh thành thật bày tỏ ý định của mình là vào hoàng cung đào lấy kho báu.
Anh đề nghị vị chỉ huy hợp tác và hứa sẽ chia đôi.
Vị
chỉ huy nghe xong phì cười và cũng chia xẻ lại : Tôi cũng vừa có một giấc mơ,
trong đó tôi cũng thấy một vị thần cho biết là có một kho báu đang chôn trong
sân nhà của một người thợ may giống hệt như anh vậy.
Nghe
xong, người thợ may vội vàng trở về nhà và đào bới mảnh đất sau vườn. Quả thật ở
đó có một kho vàng.
Lời
bàn : Kho báu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người được chôn dấu không phải ở đâu
xa, mà ngay trong con tim người đó.
20. Kho tàng bị quên lãng
Vincent
Van Gogh là một họa sĩ nổi tiếng thế giới. Một hôm ông bệnh nặng, và dĩ nhiên
phải gọi bác sĩ đến. Sau một thời gian điều trị lâu dài, ông khỏi bệnh. Nhưng
vì không có tiền trả cho bác sĩ nên Van Gogh đã cố gắng vẽ một bức tranh để tặng.
Tuy nhiên ông bác sĩ này không thích hội họa nên cũng chẳng biết thưởng thức bức
tranh. Ông lấy nó làm tấm chắn cửa sổ. Với thời gian, nắng mưa đã làm cho bức
tranh ấy hư hao dần và cuối cùng mục nát.
Về
sau, người ta tìm thu thập những bức tranh của Van Gogh. Mỗi bức trị giá hàng
trăm ngàn đôla. Nhưng có một bức không ai tìm lại được. Đó chính là bức tranh
nhà danh họa đích thân vẽ tặng cho vị bác sĩ nọ.
Lời
bàn : Thiên Chúa cũng tặng cho mỗi người chúng ta một kho tàng vô giá là phẩm vị
làm con của Ngài. Đừng để nó bị tàn phai hủy hoại như bức tranh kia.
21. Thấy mục đích
Đức
Hồng Y Martini thường hay kể câu truyện sau đây mà Ngài rất tâm đắc: Có một người
đến gặp một vị ẩn sĩ ẩ tu ở trong sa mạc và hỏi:
-
Thưa Cha, cha là người có nhiều kinh nghiệm, xin cha giải thích cho con rõ tại
sao có nhiều người trẻ vào tu trong sa mạc này nhưng sau đó lại có nhiều người
bỏ về và chỉ có một ít người bền đỗ?
Vị ẩn
sĩ trả lời. Ngài không trả lời trực tiếp như một khẳng định nhưng như một câu
chuyện. Ngài nói: "Chuyện này giống như chuyện một con chó đuổi theo con
thỏ, vừa đuổi vừa sủa inh ỏi. Nhiều con chó khác thấy nó sủa và thấy nó chạy liền
chạy theo. Nhưng chẳng bao lâu sau những con chó này thấm mệt và bỏ cuộc không
còn con nào chạy theo nữa chỉ có con chó đầu tiên lúc nào cũng bám sát con thỏ
cho đến khi chộp được nó. Chỉ có con chó này thấy được con thỏ còn những con
khác thì không. Cho nên mới có sự bền đỗ hay bỏ cuộc.”
Như
vậy vấn đề là ta có thấy được nước trời như một kho báu và Chúa Giêsu như một
viên ngọc quí hay không. Nếu ta thấy được Ngài như một kho báu hay như một viện
ngọc qui thực sự thì vấn đề từ bỏ sẽ không có gì khó lắm. Ngược lại chúng ta sẽ
chẳng bao giờ dám.
22. Cái giá của linh hồn
Phaolô
Mợi ở Hoài Yên Thanh hóa bị điệu ra trước Pháp trường. Quan bản Ngài:
-
Anh đạp ảnh đi tôi sẽ cho ah một nén bạc.
+ Bẩm
quan lớn, một nén ít quá.
- Vậy
cho anh một ném vàng.
+ Một
nén vàng cũng chưa đủ.
- Vậy
anh muốn bao nhiêu?
+ Bẩm
quan lớn, quan lớn muốn tôi quá khóa thì quan phải cho tôi đủ bạc vàng để có thế
mua được một linh hồn khác.
Chúng
ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta có được cặp mắt khôn ngoan và sáng suốt để biết
nhìn thấy những gì có gì quí giá thực sự cho cuộc sống của chúng ta
CNTN 17B -
PHÉP LẠ BÁNH HÓA NHIỀU
Lời Chúa: Ga 6, 1-15
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên
kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ
đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi
đó với các môn đệ.
Lễ Vượt Qua là đại lễ của người
Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến
với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này
ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp
làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một
chút." Một trong các môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng
Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con
cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người."
Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người
ta ngồi xuống." Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm
ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh, và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các
kẻ ngồi ăn, và cá cũng được phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích.
Khi họ đã ăn no nê, Người bảo
các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi." Họ thu lại
được mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà
còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm,
người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng tiên tri phải đến trong thế
gian." Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua,
nên Người lại trốn lên núi một mình.
TRUYỆN
KỂ
1. Đào
tạo trái tim--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim
truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm." Nhân vật chính trong phim là Gary
Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago."
Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có
người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn
nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm hồn người thanh niên dũng cảm
và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy
những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương.
2. Phép
lạ của lòng quảng đại
Một vị linh mục kia đã giảng rằng:
phép lạ hóa bánh ra nhiều là phép lạ của lòng quảng đại. Trước hết là lòng quảng
đại của em bé đã hiến năm chiếc bánh và hai con cá cho Đức Giêsu. Số bánh và cá
đó không nhiều. Nhưng với em bé thì nó nhiều lắm vì đó là tất cả những gì em
có. Có rất nhiều người sẵn sàng cho đi từ cái có nhiều của mình, nhưng rất ít
người chịu cho đi từ cái có ít của họ. Vì thế, việc em bé cho hết năm chiếc
bánh và hai con cá là một phép lạ của lòng quãng đại. Kế đến là lòng quảng đại
của Đức Giêsu. Chẳng những Ngài cho mọi người được ăn, mà còn muốn ăn bao nhiều
tuỳ thích, rồi còn dư lại 12 thúng nữa.
Giảng xong, vị linh mục rất hài lòng,
nghĩ rằng mình đã giảng một bài rất hay. Khi vị linh mục vào phòng áo, một bà cụ
già cũng vào và hỏi xem có ai thấy cái túi xách của bà để quên trong nhà thờ
không. Cậu bé giúp lễ trả lời là không ai thấy cả. Vị linh mục cứ tưởng bà sẽ mỉa
mai, đại khái như "Cái hạng người đã đến nhà Chúa mà còn ăn cắp thì hết nước
nói." Nhưng bà cụ không nói thế, bà chỉ nhỏ nhẹ: "Chắc là người lấy
cái túi đó cần đến nó hơn tôi." Vị linh mục hỏi tiếp: "Thế trong túi
có gì vậy?" Bà đáp: "Chỉ có hai chiếc bánh."
Câu trả lời khiến vị linh mục
vui vui vì thấy câu chuyện hơi trùng hợp với bài giảng của mình. Nhưng đồng thời
ngài cũng thấy xấu hổ, vì nếu ở vào hoàn cảnh của bà thì chắc ngài không thể quảng
đại như vậy. Ngài cũng còn xấu hổ khi nghĩ rằng ngài chỉ giảng bằng miệng, còn
bà cụ thì thực hành điều ngài giảng. Quả thực bà rất có lòng quảng đại.
3. Những
người thiện nguyện
Hàng năm, cứ vào ngày 5- 12 toàn
thế giới mừng ngày "Những Người Thiện Nguyện Quốc Tế." Đây là ngày
dành để tri ân những con người hiến thân phục vụ không công cho đồng loại, và
cũng là ngày mời gọi mọi người dấn thân phục vụ tha nhân.
Được thành lập từ năm 1986, đến
nay tổ chức đã có khoảng 35 cơ quan thiện nguyện chiêu mộ và gửi người đi khắp
nơi để phục vụ mọi tầng lớp trong xã hội.
Từ một thanh niên làm việc tại
các nước nghèo cho đến chuyên viên tổ chức các cuộc lạc quyên. Từ một cán sự y
tế phục vụ thổ dân Châu Phi cho đến các chuyên gia phục vụ dự án phát triển các
nước thuộc Thế giới thứ ba. Tất cả đều được thúc đẩy bởi một tinh thần phục vụ yêu
thương, một tấm lòng nhân ái vị tha.
Ngày Quốc Tế Những Người Thiện
Nguyện là bài ca dành cho một nhân loại đang nỗ lực vươn tới một thế giới đầy
tình nhân ái.
Năm 1999 Giải Nobel Hòa Bình đặc
biệt dành cho tập thể những con người thiện nguyện. Đó là "Tổ Chức Các Thầy
Thuốc Không Biên Giới." Những con người này suốt đời hiến thân cho tha
nhân không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, chính trị. 980.000 đôla tiền
thưởng của họ cũng sẽ được dành cho những con người bất hạnh trên toàn trái đất.
4. Phải
biết thế nào là đói
Dưới triều vua Salomon, ở
Giêrusalem có một người tên là Simeon rất giàu nhưng rất keo kiệt. Hắn đối xử rất
tệ với các đầy tớ, bắt họ làm việc thật vất vả nhưng chỉ cung cấp lương thực ở
mức tối thiểu. Bởi đó con cái họ thường đói.
Thế rồi trong nước xảy ra nạn
đói. Những người nhà giàu khác mở kho lúa của mình phân phát cho người nghèo.
Nhưng Simeon thì không, hắn còn lấy thêm khóa để khóa chặt các kho lúa của hắn.
Việc làm của Simeon đến tai vua
Salomon. Nhà vua nghĩ ra một diệu kế: ngài sai sứ giả đi mời Simeon đến dùng bữa
với ngài tối hôm sau. Hắn rất hãnh diện. Và để có thể ăn uống no nê những thức
ăn hoàng gia, cả ngày hôm sau hắn nhịn không ăn vì cả nên đói rát cả ruột. Đến
tối hắn vội vàng vào cung. Một người hầu mời hắn vào phòng khách và thông báo một
vài quy định: thứ nhất không được xin nhà vua hoặc các người hầu bất cứ điều gì
cả; thứ hai không được hỏi cũng không được than phiền một câu nào cả; thứ ba, nếu
nhà vua có hỏi ăn ngon không thì phải trả lời là ngon vô cùng. Sau khi giải
thích rõ 3 điều đó rồi, người hầu hỏi: "Ông có đồng ý những điều kiện ấy
không?" Hắn đáp "Đồng ý." Người hầu nói: "Vậy thì ông hãy
ngồi đợi ở đây. Khi tới giờ ăn thì tôi sẽ gọi ông."
Trong khi hắn ngồi đợi, mùi thức
ăn thơm phức từ nhà bếp bay lên khiến hắn đang đói lại càng đói thêm, đến nỗi
chảy cả nước miếng. Và rồi giờ ăn cũng đến. Vua Salomon bảo hắn: "Hãy ngồi
xuống và muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý." Simeon ngồi xuống. Một người hầu mang đến
cho nhà vua một con cá chiên đựng trong một đĩa bằng vàng. Nhà vua vừa ăn vừa
nói "Món cá này ngon tuyệt." Sau khi vua ăn xong, người hầu mang đến
cho Simeon một đĩa cá y như vậy. Nhưng hắn chưa kịp đưa tay ra thì người hầu đã
vội vàng rút đĩa cá lại mang xuống bếp. Simeon tức quá định phản đối, nhưng nhớ
lại những quy định mà mình đã đồng ý nên phải ngậm miệng.
Tiếp đến, người hầu mang tới cho
nhà vua một tô canh thơm phức. Nhà vua uống cách rất ngon lành. Sau khi vua uống
xong, người ta cũng mang cho Simeon một tô y như thế, và cũng vội vàng rút lại
mang xuống nhà bếp y như thế. Khi đến món tráng miệng, sự việc lại tiếp tục giống
như vậy. Simeon ức vô cùng nhưng cũng chẳng dám làm gì.
Cuối bữa ăn, vua Salomon hỏi:
"Hy vọng là ông đã ăn ngon miệng." Tên nhà giàu vội vàng đáp:
"Vâng tâu bệ hạ, ngon vô cùng." Và hắn vội vàng đứng dậy cáo từ để sớm
về nhà giải quyết cơn đói đang cồn cào trong bụng. Nhưng nhà vua ngăn lại:
"Còn sớm chán mà. Hãy ở lại nghe các nhạc công của trẫm. Họ muốn trình diễn
cho ông thưởng thức." Buổi hòa nhạc kéo dài tới mấy tiếng đồng hồ. Hắn lại
đứng dậy định ra về, nhưng nhà vua lại bảo "Đã khuya quá rồi ông bạn ạ. Ta
cho phép ngươi ngủ lại đêm nay trong hoàng cung." Chẳng thể làm cách nào
khác, tên nhà giàu keo kiệt đành phải ở lại.
Nằm trên giường mà bụng đói cồn
cào, hắn không tài nào ngủ được. Hắn cứ suy nghĩ: "Sao nhà vua mời mình
dùng bữa mà lại chẳng cho mình ăn cái gì cả?" Và hắn đã tự tìm được câu trả
lời: Nhà vua muốn hắn có dịp cảm thấy đói thì khổ như thế nào. Từ đó, Simêon
quyết định sẽ không bao giờ để các đầy tớ của mình bị đói nữa. (Viết theo Flor
McCarthy)
5. Mẹ
Têrêsa Calcutta.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung
niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ. Nhìn thấy tình trạng bi đát trước mắt,
bà nhủ lòng: ”Ta phải làm điều gì mới được." Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc
của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ dáy bẩn thỉu. Tuy căn nhà
không khang trang lắm nhưng có thể dùng được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân
cận tìm lũ con nít đem về dạy dỗ chúng.. ..
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho
người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà ấy ? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học
trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người
cùi, 30 viện săn sóc người hấp hối, 30 viện săn sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000
tình nguyện viên khắp thế giới sẵn lòng giúp bà. Người phụ nữ đó không ai khác
chính là Mẹ Têrêsa Calcutta, ngày nay đã được phong lên hàng chân phước
6. Thánh
Vinh Sơn
Năm 1634, thánh Vinh Sơn họp một
số các bà đạo đức để cùng nhau sống đức ái như lời Chúa dạy. Họ ngồi lại với
nhau bàn cãi để tìm phương cách hành động. Tuy nhiên, sau nhiều buổi họp bàn
sôi nổi mà chẳng đi đến kết quả cụ thể nào.
Một hôm, trong lúc họ đang hội họp
như vậy, thì thánh Vinh Sơn từ bên ngoài buớc vào phòng họp, trên tay mang theo
một vật gói trong khăn vải. Ngài đặt chiếc khăn xuống giữa bàn họp. Thì ra đó
là một bé gái khoảng mới sinh được ba ngày, bị bỏ rơi bên cạnh đống rác công cộng,
mà ngài mới lượm được.
Thánh nhân nói:”Các bà muốn làm
việc bác ái thì không cần nói nhiều nữa mà hãy làm việc cụ thể. Các bà hãy bắt
tay mà làm ngay”! Dòng bác ái Vinh Sơn ra đời từ đó.
7.
Lòng quảng đại không tính toán
Để dạy các thiếu niên lòng quảng
đại. Thánh Don Boscô đã kể lại câu chuyện sau đây:
Một hôm Chúa Giêsu gọi Phêrô và
Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Ngài.
Dọc đường Ngài bảo hai ông mỗi
người hãy mang theo một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc đã rồi mới nhặt một viên
đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, vác cả một tảng đá lớn. Đường
dài vác nặng. Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông
nói với Gioan:
- Sao anh nhọc công vác một tảng
đá lớn như thế?
Chúa Giêsu nghe hết tất cả nhưng
Ngài giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Ngài muốn dạy cho Phêrô một bài học
về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến
hai viên đá ra thành bánh mì.
Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của
ông chỉ biến thành mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.
Lần khác, Chúa Giêsu cũng gọi
hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông
mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ
để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi
phép lạ Chúa Giêsu sẽ làm để thưởng ông. Thế nhưng, Chúa Giêsu chỉ nói với họ:
- Nào chúng ta hãy ngồi lên những
viên đá chúng ta vừa mang đi theo. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành
bánh mì cả đâu!
Phêrô thấy xấu hổ, ông trách
Chúa:
- Thì ra Thầy đã chơi khăm con!
Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:
- Lòng quảng đại đích thực không
có sự tính toán.
8. Góp
phần làm nên phép lạ
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa
đề “Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm
nọ ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm
đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay
Kesler liền hỏi người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô
gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm
cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên
xe buýt về thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống
con phố hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ
dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch,
lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa
hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc nạng
bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền cho nó
tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được thêm
quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại nhìn
thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi
nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho chúng những
đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt ngủ
được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung
niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước
mắt, bà tự nhủ lòng: “Tôi phải làm một điều gì mới được." Thế rồi bà dồn tất
cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà
không khang trang lắm, nhưng có thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận
tìm lũ con trẻ đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù
không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn,
bà dùng tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học.
Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà
và là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho
người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học
trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người
cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và
40.000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ
đó không ai khác, chính là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai
Bác Ái.
9.
Phép lạ trong cuộc sống
Một vị ẩn sĩ nọ, sau 60 năm sống
khắc khổ giữa sa mạc, bỗng cảm thấy chán nản khi nghĩ rằng mình chưa hề làm được
phép lạ nào như các vị tiền bối. Ông quyết định rời bỏ sa mạc để trở về đô thị
sống một cuộc sống tiện nghi, bình thường như mọi người. Nhưng đôi mắt Chúa lúc
nào cũng dõi theo từng suy nghĩ, từng đường đi nước bước của ông. Biết ông đang
toan tính bỏ cuộc trở về đô thị, Thiên Chúa bèn sai một thiên thần đến với ông.
Vị sứ thần đã nói với ông như
sau:"Ngươi đang toan tính điều gì thế? Ngươi hãy thử nghĩ có phép lạ nào kỳ
diệu hơn chính cuộc sống của ngươi không? Ai đã ban cho ngươi sức mạnh để có thể
trong nơi hoang vu này trong mấy chục năm qua? Ai đã chúc lành cho cây cỏ ngươi
đã dùng trong thời gian qua mà không hề gây nguy hại cho ngươi? Ngươi hãy ở lại
đây và xin Chúa cho ngươi thêm lòng khiêm nhường…"
Được lời của sứ thần nâng đỡ,
nhà ẩn sĩ ở lại trong sa mạc và tiếp tục cuộc sống tu trì của ông với niềm tin
vững vàng rằng mỗi một giây phút qua đi trong cuộc sống là một phép lạ mà Thiên
Chúa đang thực hiện cho ông, để rồi qua ông Thiên Chúa thực hiện những phép lạ
cho những người khác. Amen.
10.
Chúa giúp ai cố gắng
Trong một bài giảng, Cha Gioan
Maria Vianney có kể một câu chuyện. Một buổi chiều nọ, Chúa Giêsu và Thánh
Phêrô cùng rảo bước trên con đường làng. Hai Ngài gặp một người nông dân đang
đánh chiếc xe bò cũ kĩ. Chiếc xe chở nặng và bị mắc lầy.
Người nông dân này khá đạo đức.
Ông ta bước xuống, sấp mình sát đất và xì sụp cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Ông
cứ sụp lạy và cầu khẩn mãi, nhưng chẳng ai đến giúp ông ta. Còn chính ông cũng
chẳng buồn đụng tay vào để lôi chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Thôi hãy đi và
mặc kệ hắn."
Đi đến cuối làng, hai Ngài cũng
gặp một tình huống tương tự. Gã đánh xe bò là một thanh niên trông nét mặt khá
bặm trợn. Khi chiếc xe bị lầy, anh ta bước xuống, mồ hôi nhễ nhãi, miệng thì
văng tục nhưng cố gắng hết sức để đẩy chiếc xe lên. Chúa nói với Phêrô “Nào hãy
đến phụ anh ta một tay." Cuối cùng, chàng thanh niên đã kéo được chiếc xe
ra khỏi vũng bùn.
Về đến nhà, Phêrô hỏi Chúa tại
sao Chúa lại hành xử như thế. Chúa trả lời: “Ta không giúp những ai lười biếng.
Phải cố gắng, rồi ta sẽ giúp." Phải tự giúp mình trước, rồi Chúa sẽ đến
giúp đỡ chúng ta sau (Aide- toi, le ciel t’aidera).
11.
Anh em hãy cho họ ăn
Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho
thấy, mỗi năm trên thế giới có khoảng 2 triệu trẻ em chết vì đói. Hàng chục triệu
trẻ em sống vất vưởng đầu đường xó chợ, không được cắp sách đến trường.
Chúng đói về thức ăn vật chất,
nhưng cũng đói cả về tình thương. Nói theo thuật ngữ của Đức Thánh Cha
Phanxicô, đây là những con người ở tận vùng ven, những con người đang bị xã hội
gạt bỏ ra bên ngoài.
Mẹ Têrêsa Calcutta cũng luôn
nghe vang vọng bên tai lời thét gào não nùng của Chúa Giêsu trên Thánh Giá trước
khi Ngài tắt thở: “Ta khát." Đức Giêsu ngày nay vẫn còn đang đói, đang
khát, giống như đám đông năm ngàn người sau những ngày lang thang đi theo Chúa.
Chúa nói với các tông đồ: “Anh em hãy cho họ ăn." Lời cầu ngỏ đó vẫn đang
được lặp lại và gởi trao đến mỗi người.
Một vị Thánh nọ sau một ngày đi
bách bộ qua nhiều dãy phố, thấy quá nhiều người đói nghèo, quần áo tả tơi, ngồi
ăn xin bên vệ đường. Buổi tối về nhà, Ngài cầu nguyện và hỏi Chúa “Tại sao trên
thế giới này còn nhiều người đau khổ như thế? Chúa không làm gì hay sao?”
Chúa trả lời “Có chứ, Ta đã làm.
Điều Ta đã làm là dựng nên con. Ta dựng nên con với đôi bàn tay để biết trao
ban, với một trái tim rung cảm để biết yêu thương và dâng tặng.
12.
Hãy cho họ ăn--Alphonse Marie Trần Bình An
Vào một đêm nọ, có một người đàn
ông đến nhà chúng tôi và nói: “Có một gia đình với tám đứa con. Họ đã chẳng có
gì ăn suốt mấy ngày nay.” Tôi đem theo môt ít thức ăn và ra đi. Khi tôi đến gia
đình đó, tôi thấy khuôn mặt của những đứa bé méo xệch đi vì đói. Không có một nỗi
buồn đau nào trên những gương mặt ấy, chỉ có vết hằn sâu của sự đói khát. Tôi
đưa gạo cho người mẹ. Bà chia túi gạo ra làm hai, rồi đi ra ngoài, mang theo một
nửa. Khi trở lại, tôi hỏi: “Chị đi đâu vậy?” Bà bình thản trả lời: “Sang những
người hàng xóm của tôi, họ cũng đang đói!” Tôi không ngạc nhiên vì bà đã san sẻ
số gạo ấy, vì quả thực những người nghèo rất hào phóng. Tôi chỉ ngạc nhiên là
bà ấy biết họ đang đói. Vì một lẽ tự nhiên, khi chúng ta chịu đựng một nỗi thống
khổ nào đó, chúng ta có xu hướng quá tập trung vào bản thân mình, đến nỗi chẳng
có thời gian cho người khác.
Cách đây một thời gian, tôi đã
có một chuyến đi đến Ethiopia. Các chị em chúng tôi đã làm việc ở đó suốt mùa hạn
kinh khủng năm ấy. Khi sắp rời đi, tôi nhận thấy có rất nhiều trẻ em vây quanh
mình. Mỗi em đều cầm trên tay một thứ gì đó, nói: “Hãy đem thứ này về cho các
em! Hãy đem thứ này về cho các em!” Chúng có nhiều món quà muốn gửi đến người
nghèo của chúng tôi. Rồi một đứa bé, vốn dĩ lần đầu tiên trong đời có được một
thỏi sôcôla, đã đến bên tôi nói: “Con không muốn ăn nó, Mẹ hãy đem nó về cho
các bạn.” Đứa bé ấy đã cho thật nhiều, vì miếng kẹo ấy là tất cả những gì quý
giá mà em có.
Một bữa nọ, tôi nhận được mười
lăm đô la từ tay một người đàn ông đã bị bại liệt trong hai mươi năm. Căn bệnh
quái ác đã khiến ông chỉ còn dùng được tay phải của mình. Bầu bạn duy nhất của
ông là thuốc lá. Ông nói với tôi: “Tôi đã ngưng hút thuốc lá một tuần nay. Tôi
gửi cho Mẹ số tiền mà tôi tiết kiệm được nhờ không mua thuốc.” Đó hẳn phải là một
hy sinh vô bờ bến của ông ta. Tôi mua bánh mì bằng tiền của ông, đem cho những
người đang đói. Thế là cả người cho và người nhận đều có được niềm vui.
13.
Quà mọn
Trận động đất kinh hoàng 8.9
Ritcher xảy ra tại Nhật Bản vào ngày 11, tháng 3, năm 2011, tiếp theo sau là những
cơn sóng thần đã quét đi những làng ven biển. Ngày hôm sau, tại Fukushima, cách
nhà máy điện nguyên tử khoảng 25 km, một cảnh sát Nhật, gốc Việt, gặp cháu bé 9
tuổi, học lớp 3, đang đứng cuối cùng hàng người rồng rắn, chờ phát chẩn. Em mất
cả cha lẫn mẹ và em trong thiên tai.
Thấy em co ro áo thun, quần đùi,
anh cảnh sát thương tình cởi áo khoác, trùm lên em. Vô tình làm rơi gói lương
khô, khầu phần ăn tối của anh. Nhặt lên, anh đưa cho bé: "Đợi tới phiên của
con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ
đói."
Tưởng em bé sẽ ngấu nghiến ăn
ngay. Nào ngờ em ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực
phẩm, và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại
xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, anh cảnh sát hỏi em, tại sao không ăn mà lại đem
bỏ vào đó. Em trả lời: "Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào
đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ."
14.
Hãy xót thương người
Trong cuộc thi viết chuyện dưới
100 chữ, có câu chuyện kể rằng: Hai đứa trẻ nghèo đói đang bới móc đống rác ở
ven đô thị. Mắt hai đứa sáng rực lên khi nhìn thấy miếng bánh kem thơm ngon của
một đứa bé ngồi trên xe hơi vất xuống lề đường.
Thằng anh chạy vội đến nhặt,
nhưng bánh quá lấm láp bởi đất bụi. Đứa con gái nuốt nước miếng bảo thằng con
trai rằng: "Anh hai thổi sạch rồi mình ăn." Thằng anh phùng má thổi.
Bụi đời đã dính chẳng chịu đi cho. Đứa em sốt ruột cũng ghé miệng thổi tiếp.
Chính cái miệng háu đói của nó
làm bánh rơi tõm xuống cống rãnh hôi hám và chìm hẳn. Con bé thút thít:
"Ai biểu anh hai thổi chi cho mạnh." Thằng anh ngậm ngùi: "Ừ, tại
anh! Nhưng kem còn dính tay nè. Cho em ba ngón, anh chỉ liếm hai ngón
thôi!"
15.
Những cái đói của nhân loại
Năm 1976, Đại Hội Thánh Thể thế
giới ở Philadelphia. Đề tài trong 8 ngày đại hội là: “Những cái đói trong gia
đình nhân loại."
Nhiều người thuộc mọi quốc tịch
đã hội thảo về cái đói của con người: Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công
lý, đói hòa bình và chân lý. Nhất là đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người
trong chúng ta có thể đến Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghĩ, cầu
nguyện và giải quyết những cái đói của trái tim con người.
Việc biết ơn Chúa tại bàn ăn có
thể là một bước đầu: Tôi có đủ đồ ăn và có dư nữa trong khi hàng triệu người
đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật bất hạnh. Tôi muốn hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi
trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng ta phải mua bánh cho họ ăn làm sao?"
Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải mua bánh chia sẻ, phải tránh hoang phí.
Chúng ta phải khuyến khích, nâng đỡ những tổ chức trợ cấp người nghèo đói như
Thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện trợ Công giáo hải ngoại. Chúng ta sẽ
xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi giá.
16.
Vương quốc của ta đã suy đồi
Một vị vua đang cai trị vương quốc
của mình. Một hôm vua rảnh rỗi nên nói với các quan cận thần:
- Hôm nay ta rảnh rỗi, ta muốn
thử lòng dân xem họ quảng đại hay ích kỷ thế nào. Ta sẽ cải trang thành người
ăn mày nghèo khổ đi khắp nơi. Ai có lòng quảng đại, ta sẽ thưởng bội hậu.
Thế là nhà vua cải trang đi khắp
nơi, nhưng không ai chú ý trợ giúp. Buồn bã trở về cung điện, nhà vua tâm sự với
các quan:
- Vương quốc ta đã đến lúc suy đồi,
vì thần dân đối xử với nhau tệ bạc quá, không biết thương yêu giúp đỡ nhau. Ai
có tiền thì trọng vọng, kẻ không tiền bị khinh rẻ bỏ bê!..
17.
Đây là cậu học sinh dễ thương
Một thương gia Mỹ, kể lại:
Lúc nhỏ tôi học rất kém, đội sổ
mãi đến khi vào trung học.
Ngày nọ nhân một lớp học nhảy,
cô giáo tôi có mời người chị đến tham dự. Vừa bước vào phòng nhảy, cô giáo dẫn
người chị đi thẳng đến chỗ tôi, đặt tay trên vai tôi giới thiệu:
- Đây là cậu học sinh có nụ cười
dễ thương nhất.
Cô đã không nói: “Đây là cậu học
sinh dở nhất lớp…”, mà cô lại bảo: “Đây là cậu học sinh có nụ cười dễ thương nhất."
Lời đó đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Từ đó tôi đạt được nhiều thành
tích khả quan: tốt nghiệp cao học, làm giáo sư, và nay đang phát đạt trong lãnh
vực kinh doanh. Tất cả đều nhờ cô giáo đó. Cô cho tôi biết tôi là người có giá
trị, tôi cũng có thể trao ban cho người khác cái gì đó, chẳng hạn một nụ cười dễ
thương…
18.
Việc làm bé nhỏ của tâm hồn lớn
Ai cũng biết Martin Porre là đứa
con rơi của một người nô lệ da đen, sống cái kiếp sống bần dân trong xã hội,
nhưng cậu có một tâm hồn rộng mở, ai xin gì cũng cho, ai nhờ vả gì cậu cũng
không từ chối. Cậu có một tấm lòng quảng đại đến độ bớt xén số tiền mẹ sai đi
mua đồ ăn, để giúp người nghèo khổ. Cậu đã cố gắng học nghề thầy thuốc để có dịp
phục vụ đồng loại. Vì hành động quảng đại đó mà Chúa đã làm bao điều trọng đại
nơi con người hèn mọn đó.
Đức cha Cassese, một vị thừa sai
có tâm hồn rộng mở, đến nỗi đang làm Giám Mục Sàigòn (1957), nhân một dịp đi
thăm và tiếp xúc với người thượng ở Lâm Đồng, ngài đã quyết định xin Tòa Thánh
từ chức Giám Mục, để đi giúp dân nghèo thiểu số không nhà không cửa, giúp những
người cùi người hủi trên cao nguyên Di Linh, Đà Lạt. Nhờ việc làm bé nhỏ của
Ngài mà Chúa đã làm biết bao sự lạ lùng nơi dân tộc thiểu số.
Và không có câu chuyện nào hay
hơn để làm sáng tỏ chủ điểm của bài đọc thứ nhất và bài Phúc Âm hôm nay. Ta hãy
suy gẫm bài Tim Mừng ấy: Một cậu bé nọ có 5 chiếc bánh và 2 con cá, người ta đã
yêu cầu cậu đem đến cho Chúa để Ngài thiết đãi dân chúng. Cậu liền trao bánh và
cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng Ngài đã thiết đãi hơn
5000 người ăn no nê và còn dư được 12 thúng đầy.
Đấy cũng là điều Mẹ Têrêsa đã
làm. Mẹ trao phó cho Chúa "công việc nhỏ mọn của Mẹ ", để Ngài thực
hiện kế tiếp. Ngài đã nhân chúng lên gấp bội vượt quá ước mơ của Mẹ. Câu chuyện
của thánh Martin, của Cha Bề Trên sáng lập Dòng Đồng Công, hay của người đàn
ông trong bài đọc thứ nhất hôm nay, cũng như câu chuyện Phúc Âm, đều nêu lên
cùng một chủ điểm giống nhau: Nếu một mình đối đầu với những thách đố khó khăn,
và lo sợ, trước viễn cảnh tương lai, thì thật là rùng rợn. Nhưng nếu: "Đặt
cả cuộc đời mình vào trong tay Chúa Giêsu thì Ngài sẽ tiếp nhận, và sẽ chúc
lành cho nó, sẽ biến đổi cuộc đời chúng ta nên tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn
lao nhất của chúng ta."
19.
Biết hợp tác với ơn Chúa
Báo Tiền Phong có đăng bài viết
" Chàng trai 'hư' trúng số tiền tỷ, mua nhà tặng mẹ" kể rằng Phan Nẵng
bỏ học lớp 9 do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải đi bán vé số, bán quán, trông
trẻ thuê...
Nhưng Nẵng buồn tủi vì bố mẹ nhiều
lần cãi cọ, Mẹ Nẵng 53 tuổi bỏ nhà đi lang thang, làm đủ nghề kiếm sống. Thế là
Nẵng theo chúng bạn chơi bời, lêu lổng, cắp cắp vặt ở chợ. Bị bắt và đưa đi trại
cải huấn. Sau thời gian cải huấn, Nẵng đổi đời quyết làm lại từ đầu.
Làm khuôn vác cho bà chủ quầy
hàng. Một lần nọ, em đang phụ bán hàng ở chợ, thấy ông lão bán vé số cầm mấy tờ
vé số năn nỉ nhiều người không ai mua, lúc này chỉ còn hơn 10 phút nữa tới giờ
sổ số. Nẵng nghĩ nếu không bán,chắc ông lỗ vốn cả ngày. Em mua dùm ông 5 vé còn
lại. Sáng hôm sau, em trúng số đặc biệt 3 vé, gần một tỷ đồng.
Người chúc mừng thì ít, người
kéo đến rủ rê chơi bời thì nhiều nhưng Nẵng một mực từ chối. Cậu dành ít tiền
giúp một số bà con nghèo, còn lại mua căn nhà nhỏ, và mời mẹ về ở.
20.
Cần có một tấm lòng
Mẹ Têrêxa Caculta kể lại câu
chuyện đầy cảm kích như thế này: Một lần kia có một người đàn ông đến tìm tôi
và nói: “Thưa Mẹ, có một gia đình Ấn Giáo, 8 đứa con, đã nhịn ăn mấy ngày rồi.
Xin Mẹ cho họ một cái gì đi." Tôi liền lấy ít gạo rồi theo ông đến thăm
gia đình ấy. Khi tới nơi, tôi thấy rõ hình ảnh cơn đói hằn trên những khuôn mặt
trẻ thơ gầy guộc.
Tôi trao gạo cho bà mẹ. Bà chia
số gạo tôi mang tới thành hai phần, và đi ra ngoài. Khi trở về, tôi bèn hỏi:
“Chị đi đâu vậy?” Chị đáp: “Họ cũng đói lắm." Họ đây là một gia đình Hồi
giáo hàng xóm bên kia đường, và cũng đông con như nhà chị.
Điều làm tôi cảm động hơn cả
không phải là việc chị đem cho gạo, mà chuyện chị ta biết họ đang đói. Vì biết
thế, nên chị mới muốn chia sẻ phần gạo của mình. Đẹp đẽ thay! Tình yêu ấy cụ thể
biết bao!”
21.
Sự biến đổi lạ lùng
Cách đây khá lâu, Earnest Gordon
thuộc trường đại học Princeton University đã viết một bài báo với tựa đề:
"Nó xảy ra bên dòng sông Kwai." Bài báo tả lại một kỷ niệm của ông
trong khi ông là một tù nhân tại Thái Lan bên dòng sông Kwai. Dòng sông này sau
này đã trở nên một bối cảnh cho một cuốn phim nổi tiếng tên "Bridge Over
The River Kwai" (Chiếc Cầu Trên Dòng Sông Kwai).
Gordon bị bắt làm việc để làm một
đường rầy xe lửa dài 250 miles, gọi là "Đường Rầy của Sự Chết" do người
Nhật xây. Gordon đã diễn tả: "Chúng tôi làm việc từ rạng đông đến mặt trời
lặn... chúng tôi lao công với đầu trần và chân không dưới ánh nắng gắt đến 120
độ. Nhiều người lính phải lảo đảo vì những cơn bệnh sốt mà vẫn phải làm công việc
của mình. Những người này khi ngã qụy thì phẳi nằm luôn ở chỗ đó và cho đến khi
mặt trời lặn mới được bạn đồng nghiệp khiêng về trại tù. Nhưng, Gordon kể rằng,
kẻ thù số một không phải là người Nhật hoặc là cuộc sống khó khăn, nhưng chính
là những tù nhân. Các tù nhân đã bị mắc chứng bệnh hoang tưởng do sự sợ hãi quá
sức đối với người Nhật. Họ đã sống bằng luật rừng. Họ đã ăn cắp đồ của nhau. Họ
không còn tin tưởng nhau. Và để lấy một chút thiện ý của người Nhật, họ đã tố
cáo nhau. Những người lính Nhật đã té ra cười khi họ nhìn thấy các tù nhân cắn
xé lẫn nhau.
Nhuệ khí của các tù nhân đã đi đến
chỗ kiệt quệ. Họ cần phải làm một điều gì đó để lấy lại nhuệ khí đó, nhưng họ
có thể làm gì trong cảnh khó khăn như thế này? Sau cùng, đã có hai người, được
coi là còn giữ được niềm tin vào Thiên Chúa, đứng lên và cố gắng làm một việc
gì. Họ có được một cuốn Thánh Kinh và tổ chức nhóm cầu nguyện vào mỗi tối. Nhóm
cầu nguyện được phát triển từ mười hai người lên đến con số một trăm.
Qua những bài đọc và chia sẻ, họ
đã dần dần biết Chúa Giêsu một cách sâu xa. Những khó khăn trong cuộc đời của họ
cũng giống như những khó khăn mà Chúa Giêsu đã từng trải qua. Chúa Giêsu cũng
đã trải qua những lúc đói bụng, mệt mỏi, bị phản bội, và những lằn roi đau đớn
in vào sau lưng. Tất cả những gì về Chúa Giêsu, việc Ngài làm, điều Ngài nói,
Con Người của Ngài, trở nên ý nghĩa và sống động. Các tù nhân đã từ từ không
còn nghĩ rằng mình là những nạn nhân trong một hoàn cảnh tàn bạo nữa. Họ ngừng
tố cáo và giết chết lẫn nhau. Từ đó, cuộc sống của họ được biến đổi hoàn toàn
thấy rõ. Họ bắt đầu cầu nguyện không cho chính bản thân cho bằng cầu nguyện cho
người khác. Và khi họ cầu nguyện cho chính họ thì chẳng phải là để lãnh một ơn
gì nhưng là để xin cho mình được biết chia sẽ những gì mình lãnh nhận được.
Họ tụ họp hát Thánh Vịnh. Những
bài Thánh Vịnh đã làm cho đêm tối trở nên sống động và hy vọng. Cái khác biệt
giữa những tiếng vui hân hoan và những ngày tháng thinh lặng ngột ngạt chính là
giữa cái chết và sống.
22.
Luật công bằng của lương tri
Từ ngày 18 tháng 06 đến ngày 18
tháng 07 năm 1994, màn hình ti vi thế giới chiếu hai cảnh trái ngược nhau. Một
cảnh hàng triệu người Rwanda tị nạn, đói khổ, đang chạy trốn cuộc tàn sát chủng
tộc đẫm máu. Một cảnh hơn ba triệu rưỡi người kéo nhau đi xem 52 trận đấu bóng
đá cúp thế giới tại nước Mỹ, họ tiêu xài cả chục tỷ dollars.
Hai phần ba nhân loại đói khổ vì
tầng lớp cường quyền tham vọng gây ra cảnh chiến tranh, đàn áp, bóc lột. Một phần
ba giàu có, không biết chia sẻ cho người nghèo, mà chỉ lo ăn chơi phung phí. Họ
lấy đâu ra tiền của đó? Không phải lấy ở loài người vì người ta sinh ra trần trụi
như ông Gióp nói: “Tôi sinh ra trần truồng." Không phải moi của trời đất,
vì trời đất vô tri vô giác, biết gì mà cho.
Phải nói như Kinh Thư của tổ
tiên các dân tộc phương Đông rằng: “Thiên sinh chư dân hữu vật, hữu tắc” – Trời
sinh muôn dân, cho có muôn vật, phép tắc. Người Việt Nam cũng nói: “Trời sinh
voi, trời sinh cỏ." Như vậy, tất cả của cải trong trời đất đều do Thiên
Chúa ban. Thế mà họ dư tiền của, họ không biết chia sẻ cho đồng loại nghèo đói.
Họ sẽ bị Thiên Chúa đòi đến mà bảo: “Tên đầy tớ độc ác kia, Ta đã tha hết nợ
cho ngươi … thì ngươi, ngươi cũng phải thương xót đồng loại như chính Ta đã
thương xót ngươi chứ?” (Mt. 18, 32- 33).
Họ chẳng khác gì như những tá điền
sát nhân, giết người cướp vườn nho của chủ (Mt. 21, 33- 41). Họ sống trái ngược
với Đức Giêsu. Đức Giêsu thấy đám dân chúng đói khát, Người liền hỏi môn đệ
Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn?” Philip đã cố gắng đáp với giọng bất lực:
“Dạ, dù có mua đến hai trăm đồng bánh cũng không đủ cho mỗi người một chút."
23.
Không chịu thua lòng quảng đại
Thánh Augustinô đã kể lại câu
chuyện về tấm lòng quảng đại xảy ra lúc ngài đang sống tại Milanô, nước Ý như
sau:
Ngày kia, một người nghèo lượm
được cái ví trong đó có 200 đồng tiền vàng. Vì là người ngay thẳng, ông muốn trả
cái ví cho người đã đánh rơi, nhưng không biết tìm đâu ra chủ cái ví tiền. Ông
ta liền viết một tấm bảng treo trước cửa nhà, mời ai mất ví đến nhận lại. Đọc
được tấm bảng, người mất ví tìm đến xin nhận lại của đánh rơi.
Sau khi tra hỏi kỹ lưỡng, người
nghèo kia trả lại cái ví cho chủ nó. Người mất ví cám ơn rối rít và ngỏ ý tặng
cho người nghèo kia 20 đồng vàng, tức 1/10 số tiền trong ví. Nhưng người nghèo
nhất quyết không nhận món tiền ấy. Người mất ví liền xin ông ta nhận 10 đồng,
nhưng ông cũng không nhận. Cuối cùng, người mất ví nài nỉ ông ta nhận cho 5 đồng,
người nghèo kia vẫn một mực từ chối.
Khổ tâm vì không thể biểu lộ
lòng biết ơn của mình, người mất của ném cái ví xuống đất và nói: “Bởi vì ông
không chịu nhận đồng nào, nên tôi tuyên bố: tôi không hề mất chiếc ví này.”
Nghe thế, người nghèo kia đành
nhận món quà, nhưng ngay lập tức, ông đem số tiền chia sẻ tất cả cho những người
nghèo khổ hơn ông.
24.
Cha Bosco hóa bánh ra nhiều
Một chủng sinh tên là Dalmazzo
xin vào tu tại chủng viện Turinô của dòng Cha Don Boscô, sau một tháng thử
thách, chú Dalmazzo thấy buồn chán, không muốn tu nữa, nên chú đã gửi thư cho
gia đình xin mẹ của chú tới chủng viện đưa chú về. Mẹ chú tới và chú sắp xếp đồ
để sáng hôm sau, bỏ tu viện cùng mẹ trở về gia đình. Sáng hôm sau, chú muốn
xưng tội lần sau cùng với Cha Don Boscô. Cha Don Boscô thường giải tội cho các
chủng sinh và cô nhi trước giờ làm lễ: Số chủng sinh và cô nhi dự lễ có khi lên
tới 300 người. Bữa đó, số người xưng tội quá đông, nên chú phải xưng tội sau
thánh lễ.
Lễ xong các chủng sinh và cô nhi
xuống phòng ăn. Khi chú Dalmazzo vào tòa cáo mình, thì một tu sĩ, tiến lại tòa
giải tội nói nhỏ với Cha Don Boscô là sáng nay nhà hết bánh. Cha Don Boscô nói:
“Sao lại thế! Hãy tìm ngay tu sĩ quản lý đến gặp cha.”
Một lát sau, tu sĩ quản lý tới,
nói với ngài: “Chúng con đã tìm, mà chỉ còn 15 chiếc bánh.”
Cha Don Boscô bỡ ngỡ nói: “Vậy
phải chạy ngay ra tiệm bánh, bảo họ mang bánh đến!”
Tu sĩ kia nói: “Thưa cha, vô
ích! Nhà còn đang nợ tiệm bánh 12.000 quan: Ông chủ tiệm bánh chỉ bằng lòng đưa
bánh tới, sau khi đã thanh toán cho ông số tiền đó.”
Cha Don Boscô nói: “Thôi được, để
15 chiếc bánh vào rổ. Thiếu bao nhiêu, Chúa sẽ liệu. Cha về ngay bây giờ, và
sáng nay chính Cha sẽ đứng phát bánh.”
Chú Dalmazzo nghe lời nói của
Cha Don Boscô, và rất tò mò về câu nói sau cùng của cha.
Khi xưng tội xong, Cha Don Boscô
vừa ra khỏi tòa, chú cũng vội vã theo cha, là vì, tuy mới sống trong chủng viện
một tháng, mà chú đã được nghe bạn bè kể lại nhiều việc lạ lùng của Cha Don
Boscô.
Trong phòng ăn, chú đứng sát kề
sau lưng Cha, và đếm kỹ lưỡng trong rổ chỉ còn 15 chiếc bánh. Phòng ăn lúc đó,
cả cô nhi lẫn chủng sinh có tới 300 người. Chú nghĩ: 300 người mà chỉ có 15 chiếc
bánh, phát làm sao cho đủ?
Tất cả sắp hàng lên lấy bánh.
Cha Don Boscô cứ cho tay vào rổ lấy bánh ra, phát cho hết người này tới người
khác, bánh vẫn cứ có hoài, lạ lùng nhất là, sau khi 300 người, mỗi người đã nhận
được tấm bánh, chú đếm số bánh còn lại trong rổ, và thấy trong rổ còn đúng 15
chiếc bánh. Cảm động về việc lạ lùng này, chú không về gia đình nữa, quyết chí ở
lại tu. Dalmazzo sau đã trở thành linh mục quản nhiệm xứ Thánh Tâm tại Rôma, và
rồi đã giữ chức Giám Đốc chủng viện Catanzanô cho tới chết. Lúc Giáo Hội mở cuộc
điều tra, để phong thánh cho Cha Don Boscô, chính Dalmazzo đã kể lại sự việc
trên, và thề trước mặt Chúa là mình nói sự thực.
25.
Paderewski hòa tấu với một em bé
Một bà mẹ dẫn cậu con trai nhỏ
tuổi đến dự buổi hoà nhạc của Paderewski, mong làm cho cậu con thêm say mê học
đàn. Vừa ngồi xuống ghế, bà thấy một cô bạn trong đám đông khán thính giả nên
đi ra gặp cô ấy. Cậu bé cũng đứng lên, đi về hội trường nhà hát, và tò mò bước
luôn qua cánh cửa ghi hàng chữ ‘Không được vào’.
Khi ánh đèn tắt đi, buổi hoà nhạc
bắt đầu, người mẹ quay lại và sửng sốt không thấy con trai mình. Ngay lúc đó tấm
màn sân khấu được mở ra và bà giật mình khi nhìn thấy cậu con trai bé bỏng của
mình đang ngồi bên cạnh phím đàn piano, ngây thơ gõ khúc nhạc “Vì sao bé nhỏ lấp
lánh, lấp lánh” dưới ánh đèn sân khấu.
Lúc Paderewski bước vào, thấy cậu
bé chơi đàn, ông bước nhanh lại và nói nhỏ với cậu bé: “Chớ dừng lại, cứ chơi
đi”, và hơi ngả mình về phía trước, choàng hai tay qua vai cậu bé và đệm nhạc
cho cậu. Một nghệ sĩ lớn và một cậu bé tập tễnh lại có khả năng hớp hồn, làm
cho mọi người mê say thưởng thức một sáng tạo tuyệt vời.
Bản đại hoà tấu của cả trời đất
này đã được bắt đầu, bản đại hoà tấu của tình yêu cứu độ có thể làm thoả lòng mọi
người! Điều kỳ diệu của bản đại hoà tấu đó là con người, dù rất nhỏ bé, lại được
đồng lao cộng tác với Chúa trong công trình của Ngài.
26.
Sống yêu thương là hợp tác với Chúa
Thời Pháp thuộc, một vị tổng
thanh tra giáo dục đi săn tại Di linh. Di linh lúc đó là một khu rừng chỉ có
người K'Ho sinh sống, với rất nhiều thú rừng. Sau khi nổ súng, ông chợt thấy một
ông tây chạy ra tự giới thiệu là linh mục Jean Cassaigne (cha Sanh) và nói với
ông là không ai được lai vãng đến khu vực này. Vị thanh tra bỡ ngỡ, ra oai hỏi:
“Ông lấy quyền gì mà ngăn cản chúng tôi?” Cha Sanh chỉ làng cùi và dẫn ông vào
coi. Vừa thấy những người cùi, ông sợ hãi bỏ đi ngay với vẻ bực bội và cho cha
Sanh biết là ông có quyền giải tán làng cùi đó.
Nhưng mấy tuần sau cha Sanh nhận
được một bưu kiện lớn của ông thanh tra với nhiều thuốc men và dụng cụ y tế,
kèm theo một mảnh giấy: “Tôi tặng Cha món quà này để trả lời cho câu hỏi mà sự
hiện diện của những người cùi Di linh luôn gợi ra trong đầu tôi.”
Bốn năm sau, Cha Sanh, lúc đó là
Giám mục Sài gòn, nhận được một bức điện: “Xin Đức Cha đến ngay bệnh viện trung
ương Nam vang: Một bệnh nhân liệt nặng muốn gặp. Có xe tới đón.”
Bệnh nhân đó là ông thanh tra.
Ông bỏ đạo từ lâu bởi nhiều ác cảm với đạo. Hình ảnh Cha Sanh sống giữa những
người cùi ở Di linh, chăm sóc băng bó cho họ, thúc đẩy ông tìm về với Chúa. Ông
xin Đức Cha giải tội cho ông trước khi thở hơi cuối cùng.
Thiên Chúa làm được mọi sự,
nhưng ân sủng chỉ được ban với sự hợp tác của con người. Tự sức tôi chẳng làm được
gì cả, nhưng phép lạ sẽ xảy ra nếu tôi đặt tất cả sự yếu hèn của tôi vào tay
Chúa, như em bé đặt năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá vào tay Chúa.
27.
Chúa lên núi một mình
Có một câu truyện cổ về một nông
dân Đan Mạch. Trên giường hấp hối, ông yêu cầu đứa con trai hứa sẽ ngồi một
mình mỗi ngày khoảng 20 phút tại căn phòng tốt nhất trong nhà. Đứa con trai đã
giữ lời hứa và khi lớn lên đã trở thành một nhà lãnh đạo được kính trọng nhất
trong làng.
Câu truyện về đứa con trai của
người nông dân và việc Chúa Giêsu lên núi để tập trung tinh thần mời gọi tôi tự
hỏi: cái gì đã giữ tôi tập trung tinh thần khi những xác tín của tôi bị những
áp lực bên ngoài tác động?
Cô tịch giúp ta nhận ra mình nên
là ai, còn xã hội cho ta thấy mình là gì? (Richard Cecil)
28. Hãy cho họ ăn
Báo Tuổi Trẻ có lần kể lại câu
chuyện một em bé nghèo vào quán xin một thực khách đang ăn phở, ông này đã hào
hiệp gọi một tô khác cho em. Chờ mãi không thấy em động đũa, ông hỏi và được em
trả lời: “Con không thể ăn được vì em con đói bụng đang đứng chờ ngoài kia.”
Đừng đợi khi lúa gạo chất đầy
kho mới nghĩ đến chuyện chia sẻ. Dù chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá Chúa
Giêsu đã “cầm lấy, tạ ơn và phân phát” cho mọi người. Ngài mời gọi chúng ta,
trong khả năng của mình, hãy luôn sẵn sàng chia sẻ. Tấm bánh sẽ được Chúa nhân
lên nhiều nếu chúng ta có tấm lòng quảng đại chia sẻ.
29.
Việc làm của niềm tin
Có hai người trên một chuyến xe
lửa ở Pháp. Người lớn tuổi hơn có quyển Kinh thánh mở tới câu truyện bánh và
cá. Tò mò, người trẻ hơn hỏi: “Xin lỗi, ông có tin chuyện đó không hay ông chỉ
đọc nó thôi?” Người kia đáp: “Tôi tin, cậu không tin sao?” Người trẻ nói:
“Không. Tôi là một nhà khoa học và câu truyện đó mâu thuẫn với khoa học.” Thế rồi,
chiếc xe lửa chậm lại, người trẻ nói: “Tôi xuống đây. Rất vui được nói chuyện với
ông, ông…?” “Pasteur”, người lớn tuổi nói, “Louis Pasteur.” Người hành khách trẻ
vô cùng sửng sốt, anh vừa nói chuyện với một trong những nhà khoa học hàng đầu
của thế giới.
Tôi giải quyết những vấn đề đức
tin thế nào khi nó xem ra mâu thuẫn với khoa học?
Càng hiểu ít, càng tin ít; càng
hiểu nhiều, càng tin nhiều.
30.
Hãy dâng mình cho Chúa
Tại một cuộc gặp gỡ giới trẻ ở
Scotland. Đức Giaó Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi các bạn trẻ hãy làm như cậu
bé. Ngài mời gọi người trẻ hãy dâng cho Chúa Giêsu cuộc đời và tài năng của họ
(bánh và cá). Ngài nói: “Các con ý thức sự yếu đuối của mình… Nhưng đây là điều
cha nói với các con: hãy đặt cuộc đời mình trong Chúa Giêsu. Ngài sẽ đón nhận
và chúc lành cho các con vượt quá những gì các con mơ ước.”
Tôi sẵn sàng tin tưởng phó thác
cuộc đời và tài năng của tôi trong tay Chúa Giêsu như thế nào?
Phúc cho ai phó mình trong tay
Chúa Giêsu. Chính Ngài sẽ đặt mình trong tay họ.
CNTN 17C -
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ HAI -
HẠT CẢI VÀ NẮM MEN
Lời Chúa: Mt 13, 31-35
Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ
ngôn khác cùng dân chúng rằng: "Nước trời giống như hạt cải người kia gieo
trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn
hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành
nó."
Người lại nói với họ một dụ ngôn
khác nữa mà rằng: "Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn
vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men."
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán
những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ
ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: "Ta sẽ mở miệng nói lời dụ
ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian."
TRUYỆN
KỂ
1.
Tất cả bột dậy men
(Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Hội nhập văn hóa là việc mà nhà
truyền giáo thời nay quan tâm. Làm sao đưa Tin Mừng vào nền văn hóa của người bản
xứ? Làm sao đưa những nét đẹp của nền văn hóa bản xứ vào việc sống Tin Mừng?
Làm sao để Kitô giáo vừa mang nét mới mẻ của ơn cứu độ có tính phổ quát, vừa mang
tinh túy của từng vùng, từng nền văn hóa, tôn giáo, xã hội?
Đó là một nỗ lực đòi hỏi nhiều
thời gian, trí tuệ và tình yêu. Nhân dịp kỷ niệm 400 năm ngày qua đời của cha
Matteo Ricci (1552-1610), Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã đề cao gương của vị tu
sĩ Dòng Tên này. Với thiện cảm sâu xa đối với văn hóa và tôn giáo của người
Trung Hoa, cha Matteo đã đem Tin Mừng đến để bổ sung những truyền thống tốt đẹp.
Cha hiểu biết về Khổng giáo như một nho gia uyên thâm, và chấp nhận việc cúi
mình để tôn kính Khổng Tử và các bậc tổ tiên. Dùng kiến thức về khoa học của
mình để phục vụ, Cha là người vẽ bản đồ thế giới đầu tiên với nước Trung Hoa nằm
ở giữa.
Mười năm cuối đời sống ở Bắc
Kinh, cha viết sách biện giáo, quen biết với nhiều học giả trong triều đình và
đưa họ vào Kitô giáo. Cách truyền giáo của cha Matteo khiến ta nghĩ đến dụ ngôn
men và bột.
2.
Hãy là men cho đời
Ở đời, người ta thường xem nhẹ
những điều nhỏ mọn và coi đó như là chuyện không cần quan tâm! Tuy nhiên, những
điều tưởng chừng như bé nhỏ ấy lại là nguyên nhân cần thiết để trở thành những
điều lớn lao.
Thật vậy, trong nhà Phật có câu:
“Hãy
nhìn một em bé
Xin
người chớ xem thường
Trong
em có chất liệu
Của một bậc đế vương”
Hay là:
“Hãy
nhìn một đốm lửa
Xin
người chớ xem thường
Dù
nhỏ bằng đầu đũa
Đốt cả rừng lẫn nương."
Hôm nay, Đức Giêsu muốn dùng dụ
ngôn“men trong bột” để ám chỉ Nước Trời. Thật vậy, được khởi đi từ những gì là
nhỏ bé, đơn sơ, âm thầm trong sự khiêm tốn.
3.
Gương sáng Kitô hữu
Đạo Công giáo không được truyền
bá bằng những cuộc tranh biện dài dòng liên tiếp diễn ra, cho bằng tấm gương
trong trắng đi ngược với tính ích kỷ, bất công, thương luân bại lý của người đời.
Trong cuốn sách thời danh
“Fabiola”, Đức Hồng y Wiseman đã đề cao hấp lực vô cùng mạnh mẽ của gương sáng
Kitô hữu lúc Giáo hội phôi thai đối với các linh hồn có ác cảm với Công giáo
hơn hết. Trong cuốn sách đó, chúng ta nhận thấy bước đi cương quyết của một
linh hồn tới gần ánh sáng. Đó là Fabiola, cô con gái của ông Fabiô.
Cô con gái của ông Fabiô hết sức
bỡ ngỡ khi thấy những tình cảm cao thượng, những nhân đức anh hùng nơi một số
người thuộc mọi tầng lớp xã hội. Nhưng cô càng đổi lòng, càng được ơn soi sáng
hơn nữa khi cô dần dần khám phá ra tất cả những người cô ca tụng là bác ái, xả
kỷ, nhã nhặn, ngọt ngào, tiết độ, tôn trọng công bình, trinh tiết kia, đều theo
thứ tôn giáo mà trước đây, người ta đã rỉ rón vào tai cô rằng: Đó là một thứ tà
đạo!
Từ giây phút đó, cô xin gia nhập
Công giáo (x. Hồn tông đồ).
4.
Thế giới chưa hoàn chỉnh
Có một phiên bản của câu chuyện
sáng thế như sau: Khi Thiên Chúa dựng nên thế giới, Ngài dựng nên từ từ. Ngài tạo
ra cây cối, sinh vật, chim cá... Khi Ngài làm ra những vật ấy, các thiên thần
liền hỏi:
“Thưa Chúa, vậy thế giới đã xong
chưa?” Thiên Chúa đáp lại với một từ “chưa” đơn giản.
Sau cùng Thiên Chúa đã tạo ra
con người và nói với họ: “Ta mệt rồi, Ta muốn các con hoàn thành thế giới. Nếu
các con đồng ý làm thế, Ta sẽ cộng tác với các con." Họ đồng ý. Sau đó, bất
cứ lúc nào các thiên thần hỏi Chúa thế giới đã hoàn thành chưa, câu trả lời vẫn
là: “Ta không biết. Các ngươi phải hỏi những người cộng tác của Ta."
Có những điều mà chúng ta có thể
làm và phải làm, Thiên Chúa sẽ không làm điều đó thay cho chúng ta. Không phải
vì Ngài không thể làm mà chỉ vì muốn chúng ta cộng tác với Ngài.
5.
Tầm nhìn
Một nhà kinh tế được mời đến nói
chuyện với một nhóm thương gia. Ông lấy một miếng giấy trắng lớn, vẽ trên đó một
chấm đen và hỏi người ngồi hàng đầu xem anh ta thấy gì. Anh mau mắn trả lời: “một
chấm đen”
Ông lần lượt hỏi từng người, tất
cả đều trả lời thấy một chấm đen. Lúc đó, diễn giả mới bình tĩnh nói: “Các anh
thấy một chấm đen. Đúng. Nhưng sao không một ai thấy cả một tấm giấy trắng lớn!”
(Góp nhặt)
6.
Nhìn thấy cây sồi trong hạt sồi
Một bà mẹ nọ cho con trai của bà
một quả sồi và nói: “Cây mà chúng ta đang ngồi dưới gốc đây, trước kia cũng chỉ
là một quả sồi nhỏ như thế này.” Cậu bé nhìn cây sồi, rồi lại nhìn quả sồi. Cậu
hỏi: “Mẹ ơi, làm thế nào Thiên Chúa có thể gói một cây cao lớn thế này vào một
quả sồi tí xíu?” Môn đệ của Chúa Giêsu cũng đã tự hỏi làm sao nhóm tín hữu nhỏ
bé đã có thể trở thành một Giaó hội rộng lớn như thế.
Tôi có khuynh hướng chỉ xét sự vật
và con người theo cái nhìn nhân loại mà quên đi cái nhìn của Thiên Chúa đến mức
nào? Đặc biệt về điều gì hay người nào?
Lạy Chúa, xin giúp con nhìn vào
hạt sồi mà thấy cây sồi. Xin giúp con nhìn vào hạt mưa mà thấy đại dương. Xin
giúp con nhìn thời gian mà thấy được vĩnh cửu.
Mẹ
Thánh Têrêsa Calcutta có kể lại câu chuyện sau: Một hôm đang đi ngoài đường, Mẹ
gặp một người đàn ông đang nằm trơ xương vì đói khát, hơi thở thoi thóp. Lúc ấy
tôi tự hỏi: Mình có thể làm gì đây? Ít nhất cũng nói với ông ta một lời gì đó
chứ! Tôi dùng hai tay âu yếm nâng đầu ông ta lên và thầm thì vào tai ông: “Tôi
yêu ông, tôi muốn điều tốt cho ông!” Ông ta mỉm cười với tôi và ra đi bình an.
Tôi không bao giờ quên nụ cười đó. Người xưa có dạy: Gieo hành vi sẽ gặt thói
quen, gieo thói quen sẽ gặt tính cách, gieo tính cách sẽ gặt số phận. Nước Trời
sẽ đến nơi mỗi người và nơi thế giới này nhờ những suy nghĩ và hành vi thuộc về
Tin Mừng. Những hành vi dù nhỏ mang tính Tin Mừng sẽ hoán cải mỗi người và làm
biến đổi thế giới này.
Đón
nhận cái chết là hành vi anh hùng của các thánh tử đạo. Quyết định ấy không đến
cách đột ngột, nhưng được kết tinh từ những hành vi lựa chọn thuộc về Chúa, dù
nhỏ và bền bỉ mỗi ngày. Bạn có sẵn sàng để noi gương các thánh tử đạo, dám thuộc
về Chúa, chấp nhận sống yêu thương và hy sinh, trong những lựa chọn mỗi ngày của
mình không?
Nghiền
ngẫm ý tưởng sau đây: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm thành một đường
dài. Phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời sống. Chấm mỗi
chấm cho đúng, đường sẽ đẹp. Sống mỗi phút cho tốt đời sẽ thánh” (ĐHV. 978)
THỨ BA -
BÀI HỌC KIÊN NHẪN
Lời Chúa: Mt 13, 36-43
Khi ấy, sau khi giải tán dân
chúng, Chúa Giêsu trở về nhà. Các môn đệ đến gặp Người và thưa rằng: "Xin
Thầy giải thích dụ ngôn cỏ lùng trong ruộng cho chúng con nghe."
Người đáp lại rằng: "Kẻ
gieo giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Còn hạt giống tốt là con cái Nước
Trời. Cỏ lùng là con cái gian ác. Kẻ thù gieo cỏ lùng là ma quỷ. Mùa gặt là
ngày tận thế. Thợ gặt là các thiên thần.
Cũng như người ta thu lấy cỏ
lùng, rồi thiêu đốt trong lửa thế nào, thì ngày tận thế cũng sẽ xảy ra như vậy:
Con Người sẽ sai các thiên thần đi thu tất cả gương xấu và mọi kẻ làm điều gian
ác khỏi nước Chúa, rồi ném tất cả chúng vào lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến
răng.
Bấy giờ kẻ lành sẽ sáng chói như
mặt trời trong nước của Cha mình. Ai có tai để nghe thì hãy nghe."
TRUYỆN
KỂ
1.
Bài học kiên nhẫn
Ngày 13/5/1917 Ðức Mẹ hiện ra với
ba trẻ mục đồng tại Fatima và cho biết Nước Nga sẽ trở lại. Cũng chính năm đó,
Lénine đã thực hiện cuộc cách mạng tháng mười để xóa bỏ mọi bất công của chế độ
quân chủ và xây dựng thiên đàng tại thế. 80 năm trước đây, lắng nghe và tin vào
những lời tiên báo của ba trẻ Fatima thật là phi lý. Nhưng thời giờ của Thiên
Chúa không phải là thời giờ của con người. Lucia, một trong ba trẻ đã được diễm
phúc chứng kiến sự ứng nghiệm của lời tiên báo; các bức tường đã sụp đổ, bạo động
và máu nhường chỗ cho sự tha thứ, lòng nhân từ, tinh thần hòa giải.
Kiên nhẫn là một trong những bộ
mặt của niềm hy vọng Kitô giáo. Con người làm lịch sử, nhưng chính Thiên Chúa mới
là Ðấng hướng dẫn mọi nẻo đường về với Ngài. Ðó là bài học mà có lẽ Giáo Hội muốn
nhắn gửi chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2.
Quyết chừa tính xấu
Không ai trọn lành thánh thiện
toàn diện được đâu. Ai ai cũng có tật xấu, không nhiều thì ít. Người lành thánh
mỗi ngày ít nhất cũng có bảy tám lần lầm lỡ, sai sót.
Chúng ta hãy học tập nơi
Benjamin Franklin. Mỗi khi đêm về, ông xét mình về từng tật xấu của ông, rồi
ông lập chương trình đánh tỉa từng tật xấu: Mỗi tuần, ông quyết thắng cho được
một tật xấu.
Chúng ta hãy quyết chừa tính xấu,
quyết diệt tính xấu, nhất là những tính xấu nổi bật nhất của mình.
Và chúng ta đừng bao giờ dại dột
để rước thêm một tính xấu mới nào vào trong cuộc đời của mình.
3.
Để thành ngọc trai
Trong tập nhật ký của một sinh
viên, người ta đọc được câu chuyện này: Tôi ở cùng phòng với một người Nhật Bản.
Cô ấy có một viên ngọc. Mẹ cô đã tặng cô ấy viên ngọc ấy trước khi lên đường
sang Mỹ du học. Gia tộc cô từ đời này sang đời khác làm nghề nuôi trai lấy ngọc.
Trước khi cô đi, mẹ đã gọi cô vào phòng, đưa cho cô viên ngọc và nói:
- Khi người ta nhét hạt cát vào
bên trong vỏ con trai biển, nó cảm thấy rất khó chịu, nhưng lại không có cách
nào đẩy hạt cát ra ngoài. Lúc đó, con trai phải đối mặt với hai sự lựa chọn, hoặc
là phải quyết một trận sống còn với hạt cát đó, hoặc là tìm cách đồng hoá nó để
hai bên có thể chung sống hoà bình với nhau. Con trai biển đã lựa chọn cách làm
thứ hai. Nó dùng cơ thể mềm mại của mình ôm lấy hạt cát, đồng thời tiết ra chất
xà cừ từng lớp lớp bao bọc lấy hạt cát. Vì thế sự hình thành của ngọc trai là
hành trình từ đau khổ đến sự tròn trịa đầy đặn.
Có lẽ nhiều người đã từng nghe
câu chuyện này, nhưng rất ít người biết dùng quan điểm của con trai biển để
nhìn nhận nghịch cảnh.
4.
Sự kiên nhẫn của Chúa
Một giám mục chúc mừng viên quản
lý gian hàng điện khí về công việc tốt đẹp của anh. Ngài nói rằng không bao giờ
hết ngạc nhiên về khoa điện năng tuyệt vời.
- Đúng, và con cũng chưa bao giờ
nghĩ về điều đó mà không ngạc nhiên về sự kiên trì của Chúa.
- Sự kiên trì của Chúa? Anh muốn
nói gì?
- Ngài có bao giờ tự hỏi sao Đấng
sáng tạo phải đợi hàng thế kỷ mới có một vài người khám phá nguồn điện phong
phú trong vũ trụ chỉ chờ được sử dụng? (Góp nhặt)
5.
Nghèo khó và ký ức ngọt ngào
Học giả Lâm Ngữ Đường nói: “Những
ký ức trong những ngày tháng gian khổ là những ký ức ngọt ngào nhất."
Mặc dù hai vợ chồng ông lúc còn
trẻ rất nghèo, nghèo đến nỗi không có tiền đến rạp xem phim, nhưng tuần nào họ
cũng đến thư viện mượn một chồng sách về. Hai người cùng nằm bên ngọn đèn dầu đọc
sách thâu đêm. Thú vui này của họ được duy trì đến lúc già. Ông Lâm Ngữ Đường
đã chứng tỏ cho mọi người thấy: khi vợ chồng chung sống hòa thuận với nhau thì
nghèo túng không đồng nghĩa với “khổ." Hai vợ chồng luôn cảm nhận được những
niềm vui mình dang có và cố gắng cùng nhau tận hưởng niềm vui đó.
Schopenhauer đã nói thật chí lý:
“Chúng ta ít khi nghĩ đến những cái chúng ta có, mà chỉ nghĩ đến những cái mà
ta không có. Đó là nguyên nhân hầu của hết những thảm trạng đời ta. Chính nó đã
gây ra nhiều sự đau khổ hơn bất cứ cuộc chiến tranh hay bệnh thiên thời nào
trong lịch sử trái đất này.”
6.
Bao dung chịu đựng người khác
Một trong những câu chuyện dân
gian hay nhất ở vùng cận Đông còn truyền tụng lại là câu chuyện về ông Abraham:
Abraham là người rất tốt bụng.
Ông thường dời bữa ăn sáng lại chờ đến khi có một người đói đến để cùng chia sẻ
bữa ăn với ông. Một ngày nọ, có một cụ già đi ngang qua và được ông mời vào và
được dùng bữa.
Nhưng trước khi dùng bữa,
Abraham nghe thấy cụ già thì thầm đọc lời kinh của người ngoại đạo, ông liền mời
cụ già đi nơi khác. Cụ già chưa đi khuất, thì Abraham nghe tiếng Chúa trách:
- “Abraham! Abraham! Ta đã cung
cấp lương thục để nuôi sống cụ già trên 80 năm qua, mặc dù cụ không phải là người
tin thờ Ta, thế mà con không đủ kiên nhẫn và nhân từ để chia sẻ một bữa ăn với
cụ sao?”
Lời của mẹ Têrêsa: “Hãy thật
chân thành khi tiếp xúc với nhau và có lòng can đảm để chấp nhận lẫn nhau. Hãy
luôn ghi nhớ cộng đồng của chúng ta không bao gồm những người đã nên thánh, mà
gốm những người đang cố trở thành thánh nhân. Vì vậy, chúng ta hãy thật kiên nhẫn
với lỗi lầm và thất bại của nhau." Amen.
7.
Đối thoại với Chúa
Trong cuốn “Sahhana”, Anthony de
Mello có một bài tập mang tựa đề “Chiếc ghế trống rỗng.” Ông khai triển nó sau
khi nghe kể về người khuyết tật, bị liệt giường trong nhiều năm và giờ đây đang
cảm thấy ngày càng khó cầu nguyện. Ngày nọ, một người bạn đề nghị đặt một chiếc
ghế trống không gần giường và tưởng tượng Chúa Giêsu đang ngồi đó. Rồi người bạn
đề nghị hãy nói chuyện với Chúa Giêsu như thể Ngài đang ngồi đó. Bệnh nhân đã
thử và thấy rất hiệu quả. Chính theo cách cá nhân này, Môsê đã thường đàm đạo với
Thiên Chúa như với một người bạn thân.
Giờ đây, khi tưởng tượng có Chúa
Giêsu ngồi đối diện, tôi sẽ nói gì với Ngài và Ngài có thể nói gì với tôi?
Ai mất liên lạc với Thiên Chúa sẽ
sống trong bóng đêm không lối thoát, cũng như kẻ vô thần không nhìn nhận Thiên
Chúa vậy (Milton A.Marcy).
8.
Lúa phải là lúa
Một nhà hiền triết Hy Lạp cầm một
chiếc đèn thắp sáng đi giữa ban ngày. Khi được hỏi tại sao lại làm thế, nhà hiền
triết nói: “Tôi đang tìm kiếm một con người trung thực.” Có lẽ tôi cũng có cảm
nhận như nhà hiền triết này. Tôi đã thấy có quá nhiều kẻ gian dối trong thế
gian, đến nỗi tôi cũng phải tự hỏi: không biết có còn người trung thực nào
không. Chúa Giêsu đã cảnh báo hiện tượng này: cánh đồng lúa của Nước Chúa cũng
sẽ bị pha lẫn cỏ lùng.
Bằng cách nào cỏ lùng trong Nước
Chúa có khuynh hướng tác động đến lòng tin?
“Đừng để cho sự ác thắng được
mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21).
9.
Biết mình
Cuốn “Chân dung của Dorian Gray”
liên hệ đến người thanh niên là người được vẽ chân dung. Anh ta nhìn nó và nói:
“Tôi sẽ bán linh hồn, nếu bức chân dung trở nên già, và tôi thì vẫn trẻ.” Và điều
này đã xảy ra. Đúng lúc đó, Dorian bắt đầu một cuộc đời đầy tội lỗi. Anh ta bị
xúc động khi nhận ra tội lỗi của anh ta đã thay đổi bức chân dung như thế nào
khi làm cho nó trở nên già và gớm ghiếc. Trong khi đó, ngoài cuộc sống, người
ta vẫn khen anh là đẹp đẽ, trẻ trung. Đến khi không còn chịu nỗi hành động đạo
đức giả của mình, anh ta đã đâm một nhát vào bức chân dung. Tức khắc, sự gớm
ghiếc của bức chân dung chuyển sang con người thật của Dorian.
Ý của cuốn tiểu thuyết thấy tội
lỗi đã hủy hoại vẻ đẹp của chúng ta đến mức nào.
Tôi có thực sự tin rằng Thiên
Chúa có thể hồi phục vẻ đẹp ban đầu của tôi không?
Thiên Chúa phán: “Tội các ngươi
dù có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết” (Is 1,18).
THỨ TƯ -
KHO TÀNG – NGỌC QUÝ
Lời Chúa: Mt 13, 44-46
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân
chúng rằng: "Nước trời giống như kho tàng chôn giấu trong ruộng, người kia
tìm được, vội chôn vùi xuống, vui mừng trở về bán tất cả những gì anh có mà mua
thửa ruộng ấy.
Nước trời cũng giống như người
buôn nọ đi tìm ngọc quý. Tìm được một viên ngọc quý, anh trở về bán mọi của cải
mà mua viên ngọc ấy.
TRUYỆN
KỂ
1.
Kho Tàng Quý Giá
Bài thơ "Viên Ngọc Quý Giá
Nhất" của thi hào Tagore có nội dung như sau:
Sanathan cầu nguyện đang lúc đi
bách bộ dọc theo bờ sông, bỗng có một thanh niên tiến đến và thành khẩn van xin
ngài bố thí. Nhà hiền triết đáp: "Ta không có gì cả. Ta đã cho đi tất cả rồi,
Ta chỉ còn cái bị ăn mày này thôi."
Người thanh niên tiếp tục nài nỉ:
- Thiên Chúa đã cho tôi đến gặp ngài, vì chỉ có ngài mới có thể giúp tôi và làm
cho tôi nên giàu có.
Nhà hiền triết mới sực nhớ ngày
nọ ông đã cất giấu bên cạnh bờ biển một viên ngọc quý mà ông đã tình cờ tìm được.
Ông nghĩ rằng biết đâu viên ngọc này một ngày nào đó sẽ giúp ích cho một ai đó.
Ông liền chỉ cho người thanh niên nơi cất giấu viên ngọc.
Người thanh niên ra đi đào bới
và đã tìm được viên ngọc quý. Cầm viên ngọc sáng ngời trong tay, người thanh
niên ngồi trên bãi biển và suy nghĩ suốt đêm. Khi bình minh vừa ló dạng, anh
tìm đến với nhà hiền triết và khẩn khoản nài xin:
- Thưa ngài, xin hãy cho tôi
viên ngọc quý hơn mọi viên ngọc quý. Xin hãy cho tôi thứ của cải vượt trên mọi
thứ của cải.
Nói xong, anh ném viên ngọc xuống
dòng sông và đứng dậy đi theo nhà hiền triết.
2.
Kho tàng và viên ngọc quý
Thánh Phanxicô X. là con một người
giàu có. Ngài thuộc thành phần quý tộc. Vì thế, không lạ gì khi còn trai trẻ,
thánh nhân ngày đêm miệt mài theo đuổi danh vọng trần gian! Tuy nhiên, nhờ người
bạn thân của ngài là thánh Inhaxiô Loyola, một hôm đã gieo Lời Chúa vào tai
Phanxicô: ..." được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi
gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?” (Mt 16,26).
Nhờ câu Lời Chúa trên mà ngài được
ơn biến đổi hoàn toàn. Từ con người ham mê của cải trần thế trở thành một tu sĩ
nghèo khó. Từ một người ham mê khoa bảng trần gian trở thành một người chỉ biết
rao giảng chân lý Tin Mừng.
Hôm nay, Đức Giêsu muốn mỗi người
chúng ta hãy xác định lại căn tính ơn gọi của mình, đó là đi theo Ngài. Đi theo
Đức Giêsu là đón nhận Ngài làm gia nghiệp, lấy lời Ngài làm kim chỉ nam hướng dẫn.
Sẵn sàng sống những giá trị Tin Mừng ấy trong cuộc đời dù gặp những khó khăn.
Quyết tâm từ bỏ những điều bất chính trái với thánh ý Chúa.
3.
Nước Trời - giá trị tuyệt đỉnh
Ignatiô sinh tại Lôyôla miền
Cantabria nước Tây Ban Nha trong một gia đình giàu sang, phú quý và đầy thế giá
vào năm 1493. Ignatiô đã nhập ngũ và bị thương khi quân đội Tây Ban Nha giao
tranh với quân đội Pháp ở Pampelune vào năm 1523.
Thời gian nằm bệnh viện dưỡng bệnh
lâu dài. Sau khi đã đọc rất nhiều sách vở, người ta đưa cho chàng cuốn sách Hạnh
các thánh. Chính gương mẫu đời sống các thánh đã thúc giục Ngài: “Hãy bỏ mọi sự
mà theo Chúa Giêsu”, ngài tự hỏi: Tôi có phải thực hiện điều mà thánh Phanxicô
và Đôminicô đã làm chăng?
Ơn trên thúc đẩy, Ignatiô bắt đầu
khám phá ra mầu nhiệm nước Trời trong ơn gọi của mình, Ngài đã bỏ thanh kiếm
quý tộc của mình ở bàn thờ Đức trinh nữ Maria tại Mont-Serrat. Ngài sống một đời
sống họa lại tình yêu của Chúa Giêsu, Ngài đã sống khó nghèo như một người ăn
mày, Ngài đã viết nhiều sách rất có giá trị về mặt đạo đức và thiêng liêng.
Cùng với các cộng sự viên ngài đã sáng lập Dòng Chúa Giêsu tức là Dòng Tên,
châm ngôn của Dòng là: “Tất cả cho vinh danh Chúa hơn."
Ignatiô thường cầu nguyện: “Xin
ban cho con tình yêu và ơn thánh Chúa, thế là con giàu rồi, con không xin gì nữa."
4.
Cần phần rỗi linh hồn
Attila xâm chiếm nước Italia với
các binh đoàn hùng hậu của ông. Khi đã chiếm đóng làm chủ khắp mọi nơi thuộc đế
quốc Rôma, ngày kia quân lính đến báo cáo với ông ta rằng: “Ở vùng ông ta đang
trú đóng có một vị ẩn tu rừng." Attila, ông vua hiếu chiến, hung dữ, rất
kiêu căng này luôn muốn mọi người run sợ sụp lạy trước mặt mình, nên ông ta nảy
ra ý định thử đến gặp vị ẩn sĩ xem sao.
Tưởng rằng vị tu hành sẽ sợ hãi
khi phải đối diện với nhà chinh phục khét tiếng này, không ngờ, người của Thiên
Chúa chẳng những không run khiếp, trái lại còn tỏ ra ung dung tự tại khiến
Attila vừa nể phục vừa cảm mến. Sau khi trò chuyện với một người khôn ngoan, có
tài đáp ứng mau lẹ, Attila bèn hứng chí nói: “Ta sẽ cho ngươi tất cả những gì
ngươi có thể ước muốn trong vương quốc của ta." Lúc đó, vị tu sĩ vừa ngửa
tay chìa về phía Attila vừa nói: “Thưa ngài, trong toàn vương quốc của ngài tôi
chỉ ước muốn một điều duy nhất: Phần rỗi của linh hồn ngài."
5.
Mất hứng về Nước Trời
Một người nông dân đang nghe
John Wesley giảng về việc sử dụng của cải. Trong phần thứ nhất, nhà giảng thuyết
quảng diễn tư tưởng ”Hãy thu hoạch (làm giàu) tối đa." Người nông dân thúc
cùi chỏ người bên cạnh và nói ”Một bài giảng tuyệt vời." Wesley khai triển
điểm thứ hai ”Hãy tiết kiệm tối đa." Người nông dân lại khen: ”Chưa bao giờ
tôi được nghe một bài giảng hay như vậy." Wesley sang điểm thứ ba: ”Hãy
chia sẻ tối đa." Người nông dân mất hứng, rút lui khỏi nhà thờ và buồn bã
về nhà.
6.
Bán tất cả để mua
Một em học sinh thuộc câu lạc bộ
Sainta Clara ở Hoa Kỳ. Mỗi ngày em thức dậy lúc 5g30 sáng ra hồ bơi luyện tập
suốt hai giờ đồng hồ rồi vội vàng lo đi học. Sau suốt ngày học ở trường, em lại
ra hồ tập luyện thêm hai tiếng đồng hồ nữa rồi mới học bài và đi ngủ đúng 9 giờ
tối. Ngày nào cũng vậy, em luôn luôn trung thành với chương trình tập luyện và
kỷ luật của mình. Em chỉ nhận tham gia một vài sinh hoạt xã giao với bạn bè khi
nào chương trình đó không cản trở việc học và tập luyện bơi lội của em. Một hôm
có người tò mò hỏi: “Tại sao em làm như vậy? ."
Em trả lời xác tín: “Tôi muốn đoạt
giải vô địch môn bơi lội trong thế vận Hội Thể thao sắp đến." Thái độ hy
sinh mọi sự cho mục tiêu duy nhất mà em học sinh kia đã nói lên: “Tôi muốn đoạt
giải bơi lội trong thế vận Hội Thể thao sắp đến."
7.
Vui mừng bán tất cả
Tất cả bắt đầu từ một sự tình cờ
may mắn. Người nông dân nghèo phải làm thuê cho điền chủ tình cờ gặp được kho
báu chôn trong ruộng. Người buôn ngọc tình cờ gặp được viên ngọc tuyệt vời, có
giá trị lớn lao mà người bán không hề biết.
Sau đó phản ứng của cả hai rất
giống nhau: ra đi, bán tất cả những gì mình có và mua... Không thấy có dấu vết
của sự nuối tiếc hay ngần ngại giằng co. Tất cả diễn ra thật nhanh và tràn ngập
niềm vui thanh thản. Ai cũng rõ họ hạnh phúc biết chừng nào khi chiếm được kho
báu và viên ngọc. Cuộc đời họ chuyển sang một giai đoạn mới. Thái độ của hai
người trên được coi là bình thường.
8.
Ngọc bích họ Hòa
Thời Xuân Thu có người nước Sở
tên là Biện Hoà tìm được viên đá có ngọc bích. Trải qua hai đời vua, Biện Hoà đến
dâng ngọc bích, nhưng không vua nào nhận biết mà chỉ cho đó là đá chứ không phải
là ngọc. Cứ mỗi lần như thế Biện Hoà lại bị chặt mất một chân vì tội khi quân lừa
dối. Biện Hoà đành ôm viên ngọc khóc mãi đến chảy cả máu mắt. Ông khóc không phải
vì mất đôi chân mà vì người đời không biết vật quý, cầm ngọc bích trên tay mà cứ
cho là hòn đá tầm thường. Trong câu chuyện dụ ngôn, người tìm được kho báu hẳn
cũng phải trải qua nỗi khổ tâm như thế. Tìm được kho báu rồi phải chôn giấu; rồi
lại phải dám chịu mất mát thiệt thòi, dám bán cả gia tài để mua cho bằng được
thửa ruộng có kho tàng ấy. Nước Trời cũng giống như viên ngọc quý đang ẩn giấu.
Muốn nhận biết phải có con mắt đức tin, rồi lại phải dám chấp nhận những chống
đối, bách hại, dám “bán hết tất cả những gì mình có” thì mới đạt được Nước Trời.
Muốn làm giàu thì phải có gan đầu
tư. Thế mà muốn đạt được Nước Trời, lắm khi chúng ta còn nhát gan hoặc tiếc rẻ
không dám “từ bỏ mình, vác thập giá theo Chúa.” Nơi bạn còn đam mê tội lỗi nào
lấn cấn mà bạn chưa dám từ bỏ không? Noi gương thánh Phaolô, chúng ta hãy “coi
tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô”
(Pl 3,8).
Cùng với thánh Phaolô, tâm niệm:
“Tôi coi tất cả như rác, để được Đức Kitô” (Pl 3,8).
9.
Phải đọc Kinh thánh
Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn
văn Bình trong dịp các Giám mục Việt Nam họp thường niên tại thủ đô Hà Nội, sau
khi đến chào thăm thủ tướng Phạm văn Đồng, Đức cha Bình về nói với các thầy ở
Chủng Viện Thánh Giuse Sàigòn năm 1976 như sau: “Tôi nhờ các vị Giám mục nhắc
nhở cho giáo dân phải chịu khó mà đọc Kinh Thánh!” Nhất là người Công Giáo đã
biết Chúa nói với mình: “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy
nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15b: Tung Hô Tin Mừng).
Lời này làm ta liên tưởng đến tình bạn giữa Gionathan và Đavid: Gionathan biết
được ý thâm độc của vua cha Saolê, nên báo cho Đavid đừng đến dự tiệc của vua,
nhờ đó Đavid thoát chết và sau này lên làm vua (x. 1Sm 20).
10.
Ánh sáng Nước Trời
“Đám mây vô danh” là một tác phẩm
cổ điển nhất về đời sống thiêng liêng. Tác giả nói rằng cầu nguyện đôi khi cũng
ảnh hưởng đến vẻ bên ngoài. Chẳng hạn, một người sống đời cầu nguyện có thể tỏ
ra một hào quang. Đó là điều đã xảy ra nơi thánh Elidabet nước Hungari. Một là
thư viết vào thế kỷ 13 nói rằng người ta thường thấy “khuôn mặt bà sáng ngời và
ánh quang phát ra từ đôi mắt.”
Bài đọc hôm nay về khuôn mặt của
Môsê xem ra muốn chứng minh cho điều người ta đã quan sát thấy như vậy. Có thể
hiện tượng này đã gợi ý cho các họa sĩ vẽ những vầng hào quang xung quanh đầu
các thánh.
Tôi đã quan sát được gì nơi những
người sống đời cầu nguyện?
Ai cầu nguyện ban đêm, khuôn mặt
người đó ngời sáng ban ngày (Ngạn ngữ Hồi giáo).
11.
Sức mạnh của thập giá
Tạp chí Time thuật lại việc một
linh mục bị tống giam trong một hầm tối ở Rumani. Một mùi hôi thối xông ra ngày
đêm, bởi vì phòng giam ở kề một ống cống thông với năm tầng nhà vệ sinh. Giuờng
ông nằm gồm hai tấm ván trên một cái sàn ẩm ướt. Vị linh mục nói rằng nguồn
sinh lực lớn nhất của ông là suy niệm về Thập giá của Chúa Giêsu. Đôi khi,
trong lúc suy gẫm, ông cảm nhận sâu sắc về sự hiện diện của Chúa và vì thế niềm
vui tràn ngập tâm hồn ông.
Tôi tìm cách chịu đựng như thế
nào khi một cái gì đó xảy đến? Tôi cố gắng che chở người khác trong đau khổ của
họ ra sao?
Chúa Giêsu không đến để khử trừ
đau khổ, nhưng đổ đầy nó bằng sự hiện diện của Ngài (Paul Claudel).
12.
Bán tất cả để mua
Một số người hỏi Ignace
Paderewski, một nhạc sĩ dương cầm danh tiếng tại sao ông vẫn cứ luyện tập hàng
ngày. Ông liền trả lời: “Nếu tôi bỏ luyện tập một ngày, chỉ mình tôi biết điều
đó. Nếu tôi bỏ hai ngày, các nhà phê bình sẽ biết. Và nếu tôi bỏ ba ngày, dĩ
nhiên khán giả sẽ nhận ra.” Việc theo Chúa cũng thế. Tôi đã tìm gặp Chúa Giêsu
là viên ngọc quý. Việc theo Chúa Giêsu đòi hỏi một sự dâng hiến trọn vẹn. Nếu
tôi do dự một ngày, chỉ mình tôi nhận thấy điều đó. Nếu hai ngày, bạn bè sẽ để
ý. Và nếu ba ngày, mọi người sẽ nhận ra điều đó.
Điều gì đặc biệt khiến tôi muốn
theo Chúa Giêsu ngày càng gần gũi hơn trước?
Thật bất hạnh cho kẻ không bao
giờ ca hát, nhưng lại chết với âm nhạc trong mình (Oliver Wendell Holmes).
13.
Tìm điều vĩnh cửu
Hôm qua Giáo Hội kính nhớ Thánh
Inhã, sáng lập Dòng Tên; hôm nay là Thánh Anphong, sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế.
Cuộc đời hai vị thánh này là những minh hoạ tuyệt vời dụ ngôn Đức Giêsu kể hôm
nay: “bán tất cả những gì mình có” để mua “kho tàng chôn giấu trong ruộng.” Mỗi
người mỗi cách, nhưng cả hai đều xuất thân từ những gia đình đầy thế giá và đều
đang say sưa săn đuổi quyền lực và danh vọng thế trần. Rồi một biến cố xảy đến
tuy tự nó không đủ để làm vỡ mộng, nhưng cả hai đã ‘tự ý’ vỡ mộng – để ôm một
giấc mộng cao hơn, giấc mộng ‘Nước Trời’, và sẽ không bao giờ phải vỡ mộng nữa.
Hãy tượng tượng rằng bạn chỉ còn
10 ngày nữa để sống. Bạn gác tay lên trán và nghĩ xem bằng cách nào mình sẽ sống
tốt nhất 10 ngày cuối cùng này. Đâu là những thứ bèo bọt mà lâu nay bạn dành
quá nhiều quan tâm, quá nhiều thời gian và sức lực, và bây giờ cần phải dứt bỏ?
Đâu là những điều thực sự giá trị và đáng nghĩ, đáng nói, đáng làm, mà lâu nay
bạn không mấy tha thiết hay thậm chí hoàn toàn dửng dưng, vì lòng trí bạn bị
xâm chiếm bởi những thứ rác rưởi khác?
Sau khi tự trả lời cho mình hai
câu hỏi trên, bạn chia sẻ cảm nghiệm ‘được giải phóng’ mà bạn nhận được.
THỨ NĂM - TỰ DO
CHỌN LỰA
Lời
Chúa: Mt 13, 47-53
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: "Nước trời lại giống như lưới thả
dưới biển, bắt được mọi thứ cá. Lưới đầy, người ta kéo lên bãi, rồi ngồi đó mà
lựa chọn: cá tốt thì bỏ vào giỏ, còn cá xấu thì ném ra ngoài. Đến ngày tận thế
cũng như vậy: các thiên thần sẽ đến mà tách biệt kẻ dữ ra khỏi người lành, rồi
ném những kẻ dữ vào lò lửa: ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Các ngươi có hiểu
những điều đó không?" Họ thưa: "Có."
Người
liền bảo họ: "Bởi thế, những thầy thông giáo am tường về Nước trời cũng giống
như chủ nhà kia, hay lợi dụng những cái cũ, mới trong kho mình." Khi Chúa
Giêsu phán các dụ ngôn đó xong, thì Người rời khỏi nơi ấy.
TRUYỆN KỂ
1. Thái Ðộ Bao Dung
Có
một Bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục cao niên và tuyên bố: "Thưa Ðức
Cha, con đến để thông báo cho Ðức Cha biết con đang nghĩ đến chuyện ra khỏi
Giáo Hội, Ðức Cha nghĩ sao?"
Vị Giám
mục yêu cầu ông cho biết một vài lý do khiến ông có ý định đó. Viên Bác sĩ nhìn
thẳng vào mắt vị Giám mục và nói: "Thưa Ðức Cha, Ðức Cha nghĩ coi: Giáo Hội
đã có mặt trên trần gian này 2,000 năm nay, thế mà con người có khá hơn
không?"
Vị
Giám mục bình tĩnh trả lời: "Bác sĩ nói thật chí lý, nhưng Bác sĩ hãy thử
nghĩ lại: nước đã xuất hiện trên mặt đất này từ bao nhiêu triệu năm nay, vậy mà
ngày nào Bác sĩ cũng như tôi, ai cũng phải rửa tay."
Nghe
thế, viên Bác sĩ thinh lặng ra về, ông không còn nghĩ đến chuyện rời bỏ Giáo Hội
nữa.
2. Các bổn đạo đầu tiên
Các
bổn đạo đầu tiên trong Giáo hội sơ khai thiếu tất cả mọi yếu tố để thành công:
thông thái, giàu sang, chức quyền, lợi khẩu… Họ chỉ có một điều: Sống đời sống
đức tin rất gương mẫu. Nhờ đó, họ đã đem được rất nhiều người ngoại giáo trở lại
đạo Chúa.
Gương
tốt đánh tan bóng tối, đem lại ánh sáng linh động và vạch rõ con đường ngay
chính.
Gương
tốt làm cho người ta tuân giữ luật Chúa và xa lánh tội lỗi.
Tertulianô
viết về các bổn đạo đầu tiên này: “Chỉ có sự hiện diện của mình, các bổn đạo đầu
tiên cũng đủ làm cho tính xấu phải hổ thẹn."
3. Lửa thử vàng, gian nan thử đức
Họa
sĩ Rembrandt sống vào khoảng thế kỷ 17 là một trong những danh họa vĩ đại thế
giới. Sau khi vợ chết, ông rơi vào tình trạng thất vọng và khả năng vẽ trở nên
tồi tệ. Nhưng rồi, ông đã vượt qua được, và sau đó, ông đã vẽ với một sức lực,
một cảm xúc và mục đích mới. Một số nhà phê bình cho rằng cái chết của vợ ông
là một bước ngoặc trong sự nghiệp của Rembrandt. Nó đưa ông tới một mức nghệ
thuật mới.
Câu
truyện về Rembrandt chứng tỏ rằng Thiên Chúa có thể dùng bi kịch để biến đổi
chúng ta thành tốt đẹp hơn.
Điều
gì thuyết phục tôi tin rằng Thiên Chúa nhân lành có thể dùng những yếu đuối, tội
lỗi tôi để đổi mới tôi?
Khi
Thiên Chúa đóng cửa chính, Ngài luôn mở cửa sổ mà người khôn ngoan có thể tìm
thấy (Gerald Horton Bath)
4. Chúa bao dung
Xem
xong truyện Tấm Cám, có người khóc xót thương cho cô Tấm hiền lành; cũng có người
tức tưởi vì sự độc ác của mẹ con cô Cám. Thật ra, thời đại nào cũng có rất nhiều
người tốt và không thiếu những kẻ xấu. Hội Thánh tự bản chất là thánh thiện.
Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta gia nhập vào Hội Thánh để được thánh hoá và được
kêu gọi để nên thánh. Nhưng chúng ta phải chiến đấu với các khuynh hướng xấu tốt
vẫn tồn tại trong con người chúng ta. Do đó, qua dụ ngôn chiếc lưới, Chúa Giêsu
hôm nay dạy chúng ta phải có thái độ bao dung và tha thứ với người tội lỗi, đồng
thời tự nhận biết mình cũng là tội nhân. Việc sàng lọc, phân định kẻ tốt người
xấu chỉ được thực hiện vào thời cánh chung mà thôi.
Đức
Kitô đang hiện diện trong Hội Thánh và trong mỗi người như dấu chỉ của lòng
kiên nhẫn và khoan dung.
THỨ SÁU - TIN NHẬN
HAY KHÔNG TIN NHẬN
Lời
Chúa: Mt 13, 54-58
Khi
ấy, Chúa Giêsu trở về quê quán Người, và giảng dạy người ta trong hội đường,
khiến người ta ngạc nhiên và nói rằng: "Bởi đâu ông này được sự khôn ngoan
và quyền làm phép lạ như vậy? Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc sao? Nào mẹ
ông chẳng phải là bà Maria, và Giacôbê, Giuse, Simon, Giuđa chẳng phải là anh em
ông sao? Và chị em ông, nào chẳng phải những người ở nơi chúng ta sao? Vậy bởi
đâu ông được những sự ấy?" Và họ vấp phạm đến Người.
Nhưng
Chúa Giêsu phán cùng họ rằng: "Không tiên tri nào mà không được vinh dự,
trừ nơi quê quán và nhà mình." Người không làm nhiều phép lạ ở đó, vì họ
chẳng có lòng tin.
TRUYỆN KỂ
1. Tâm Thức Thời Ðại
Dư
luận trong giới trí thức Âu Mỹ hiện nay đang nhắc nhiều đến cuốn sách bàn về
tương lai nhân loại với tựa đề: "Ngỡ Ngàng Trước Tương Lai", trong đó
tác giả nói về những thay đổi nhanh chóng hiện nay trên đời sống con người khiến
ông cảm thấy ngỡ ngàng.
Theo
tác giả thì tâm lý thường tình của con người thích những khuôn sẵn có cho cuộc
sống của mình nhờ đó con người dễ ổn định và dự liệu cho những gì xảy ra. Tắt một
lời, dù có khuynh hướng sống thay đổi nhưng tận thâm tâm,con người sống và suy
tưởng theo những khung sẵn có, và tệ hại hơn theo điều mà chúng ta gọi là thành
kiến.
2. Mở mắt đức tin
(TGM
Giuse Nguyễn Năng)
Sứ
điệp: Chúa Giêsu là Thiên Chúa làm người. Ngài đến với chúng ta trong những cái
tầm thường và bất ngờ nhất của cuộc sống. Muốn nhận ra Chúa, chúng ta cần có
ánh sáng của niềm tin.
Cầu
nguyện: Lạy Chúa Giêsu, những kẻ đồng hương đã khước từ Chúa vì họ chỉ nhìn
Chúa bằng con mắt tự nhiên. Họ thiếu lòng tin. Vâng, con người tự nhiên là thế
đó. Với lối nhìn hẹp hòi, con thường đánh giá người khác qua dáng vẻ bề ngoài,
qua tiền bạc, nghề nghiệp, học lực… mà không nhìn thấy giá trị thật bên trong
con người họ. Hoặc đối với những người thân, con thường đánh giá thấp, vì con sống
theo kiểu “gần chùa gọi Bụt bằng anh." Và nhiều lúc có thể con đã đánh giá
chính Chúa như vậy.
Lạy
Chúa Giêsu, xin mở mắt đức tin cho con để con nhận ra Chúa nơi vẻ bề ngoài
khiêm tốn của bí tích Thánh Thể và của Giáo Hội. Xin Chúa mở mắt đức tin cho
con, để con có thể nhìn thấy Chúa nơi những người tầm thường nhất. Cũng như những
người Na-da-rét, nhiều lúc con đâu ngờ rằng “con người tầm thường” ấy lại là
chính Con Thiên Chúa làm người.
Xin
Chúa mở mắt đức tin cho con để con nhận biết Chúa vẫn hiện diện với con trong
những bất hạnh của cuộc sống. Những khi con gặp rủi ro, những lần con thiếu may
mắn, Chúa cùng chia sẻ niềm đau với con. Chính trong những hoàn cảnh éo le ấy,
Chúa đến với con thật bất ngờ. Xin Chúa giúp con biết khám phá bóng dáng Chúa
trong cuộc đời bình thường, biết lắng nghe tiếng Chúa trong thinh lặng, biết
nhìn thấy Chúa nơi bất cứ ai và biết sống với Chúa trong cảnh đen tối nhất của
cuộc đời. Amen.
Ghi
nhớ: “Nào ông chẳng phải là con bác thợ mộc ư? Vậy bởi đâu ông được những sự ấy?”
3. Thần Vit-nu trong tất cả mọi sự
Người
ta kể rằng Vit-nu là một trong những vị thần rất được những người theo Ấn giáo
thờ kính, những người có niềm tin sâu sắc đều nhận ra thần Vit-nu trong tất cả
mọi sự. Một tín đồ kia sống rất siêu thoát, nhưng ông ta lại bị những người
khác coi như một người khờ dại. Một hôm, sau khi đi khất thực ở một làng kia,
người tín đồ thánh thiện này ra trước cổng làng và ngồi bên vệ đường để ăn những
thực phẩm người ta bố thí. Đang lúc ông dùng bữa thì một con chó đói ở đâu chạy
tới. Người tín đồ bèn dành đồ ăn của mình cho chó ăn, không mấy chốc người và vật
trở nên thân thiện với nhau. Thấy cảnh kỳ lạ, dân chúng trong làng kéo nhau đến
xem.
Nhưng
một người trong đám đông lên tiếng: “Có gì lạ khiến chúng ta phải mất thì giờ đến
xem, người này chỉ là một tên khờ khạo, bởi vì hắn không phân biệt được người với
thú vật."
Nghe
thế nhiều người phá lên cười chế giễu.
Người
tín đồ thánh thiện ấy điểm tĩnh trả lời: “Tại sao các ngươi lại cười? Các ngươi
không thấy rằng Vit-nu đang cho ăn và Vit-nu đang được cho ăn sao? Tại sao các
ngươi lại cười, hỡi Vit-nu?”
Nếu
có niềm tin thì họ nhận ra thần Vit-nu trong tất cả mọi sự. Vậy tại sao họ
không nhận ra Vit-nu nơi một người mà họ cho là khờ dại này.
4. Xin rời bỏ Giáo hội
Một
bác sĩ nọ tìm đến với một vị Giám mục và tuyên bố:
-
Con đến cho Đức Cha hay con muốn rời khỏi Giáo hội. Đức Cha nghĩ sao?
Vị
Giám mục xin ông cho biết lý do. Ông nói:
- Đức
Cha nghĩ coi: Giáo hội có mặt trên trần gian này hơn 2000 năm rồi, thế mà con
người có khá hơn không?
Vị
Giám mục bình tĩnh trả lời:
-
Bác sĩ nói chí lý. Nhưng bác sĩ cũng hãy nghĩ coi: nước đã xuất hiện trên mặt đất
này bao nhiêu triệu năm rồi. Vậy mà sao ngày nào bác sĩ cũng như tôi cứ phải rửa
tay?
Nghe
thế, vị bác sĩ thinh lặng ra về, không còn nghĩ tới chuyện rời bỏ Giáo hội nữa.
Vâng!
Hãy biết sống kiên trì, nhẫn nại và nhiệt thành để tâm hồn luôn được thanh thản
và bình an.
5. Người mở hàng
Với
tựa đề: “Người Mở Hàng”, tác giả Trọng Nhơn đã chia sẻ trong mục tạp bút của
báo Tuổi Trẻ một câu chuyện có thật như sau:
Từ
ngày khai trương, shop quần áo của tôi luôn đông khách. Sáng nay như thường lệ,
vừa mở cửa tôi đã có khách. Một cô gái khoảng 17, 18 tuổi đứng tần ngần ra đó.
Nhìn
thoáng qua bộ quần áo bà ba sờn bạc ở vai và gấu, tôi nghĩ ngay trong đầu: Ngữ
này chắc là không mua bán trao đổi gì rồi, mới sớm mai mở cửa đã bị ám. Kéo
thanh sắt lên tôi hỏi gắt:
-
Em cần gì?
Như
sợ tôi quay vào, cô gái đáp ngay giọng nhỏ nhẹ:
-
Anh gì ơi! Em dưới quê thồ rau lên thành phố bán, nhưng vừa đến đây, xe em bị nổ
vỏ mà sáng sớm dậy đi, em lại không mang theo tiền. Theo hướng cô gái chỉ, bên
mé đường là một chiếc xe đẩy rau: su hào, bắp cải, hành, hẹ, rau dền.v.v…
Bao
năm sống ở thành phố, mọi gian trá lường gạt tôi đã gặp nhiều, nên bây giờ tôi
chỉ biết có chính bản thân tôi mà thôi. Vậy mà không hiểu tại sao tôi lại đưa
em tờ giấy năm ngàn đồng.
Ngày
hôm sau không thấy em đến, các bà bán đồ bên cạnh được dịp phô đủ thứ kiểu lường
gạt cả tin để rồi cuối cùng quay lại chuyện của tôi và bảo tôi là ngu.
Bẵng
đi vài hôm, vào một buổi sáng, vừa thắp xong cho mẹ một nén hương, tôi ra cửa
và lại thấy em. Vẫn cái dáng lưng tôm, mạnh khỏe tựa vào chiếc xe rau nặng cồng
kềnh:
- Dạ
em xin lỗi, em cám ơn, xin hoàn lại anh số tiền. Rồi cùng với nụ cười tươi tắn,
em còn biếu tôi hai bó rau tươi và ngượng ngập thanh minh về lý do em không lên
như đã hứa. Vẫn cái lối gập đầu cám ơn, em thong thả đẩy chiếc xe rau đi cho kịp
buổi chợ.
Ngày
hôm đó tôi thật vui, vui với cái lối chân chất thật thà của cô gái quê. Có lẽ
gương mặt tôi toát lên niềm vui nên hôm đó tôi bán hàng đắt khách.
6. Tôi cảm thấy mình không sống uổng phí
Hôm
ấy, tôi mặc thường phục đi tuần trên phố. Tôi nhìn thấy một gã thanh niên tóc
dài đang bám theo sau một phụ nữ trung niên. Dựa trên trực giác của người cảnh
sát, tôi đoán gã kia là một tên trộm. Quả nhiên đúng như sự dự đoán của tôi, ở
chỗ rẽ gần siêu thị, hắn ta thò tay vào túi của người phụ nữ. Tôi nhanh chóng
xông đến nắm chặt cái tay đang chuẩn bị rụt lại của hắn. Khi tôi rút chiếc còng
từ phía sau lưng, thì hắn lùi lại một bước, bất ngờ dùng tay kia đấm thẳng vào
mặt tôi, rồi co chân bỏ chạy.
Tôi
vừa đuổi vừa kêu: “Cướp! Cướp!" Lúc bấy giờ, trên đường phố có rất đông
người, nhưng ai nấy đều hốt hoảng tránh ra hai bên, sau đó bàng quan đứng nhìn.
Tên trộm chạy mỗi lúc một xa, nhưng chẳng có ai chịu giúp tôi một tay. Đúng lúc
tôi bắt đầu nản chí, thì trước mặt tôi xuất hiện một cảnh tượng kịch tính. Từ
trong đám đông, một người ăn mày chạy ra, giơ ngang chiếc gậy cản đường tên trộm.
Bị tấn công bất ngờ, tên trộm ngã sõng xoài xuống đường. Người ăn mày lại xông
đến, ôm chặt lấy chân tên trộm. Tên trộm thấy vậy liền bò dậy, rút dao đâm người
ăn mày. Đúng lúc đó, tôi chạy đến, đấm thẳng vào mặt tên trộm.
Người
ăn mày được đưa vào bệnh viện. Một lúc sau, bác sỹ từ trong phòng cấp cứu bước
ra nhìn tôi, lắc đầu thất vọng. Người ăn mày được đưa ra khỏi phòng cấp cứu,
hơi thở anh ta yếu dần. Tôi nắm chặt lấy tay anh ta, nghẹn ngào nói:
-
Tôi xin lỗi anh.
Người
ăn mày mở to mắt, dùng chút sức lực cuối cùng, thều thào nói với tôi:
-
Tôi phải cảm ơn anh. Trước đây, tôi cứ nghĩ mình sẽ lặng lẽ chết đi giống như một
con chó. Chính anh đã giúp tôi có cơ hội để trở thành một người đàn ông thực sự.
Tôi cảm thấy mình không sống uổng phí.
Mọi
người có mặt ở đó đều rơi nước mắt.
7. Hãy trình bày Đức Kitô của bạn
Sau
cuộc phỏng vấn kéo dài với Hồng y J. Ratzinger, tức Giáo hoàng Bênêđictô XVI
tương lai, P. Seewald, một ký giả và là một nhà văn vô thần nổi tiếng ở Đức, đã
gia nhập Kitô giáo, và trở thành bạn thân của ngài. Ông thú nhận rằng không thể
tìm gặp ở đâu một miền đất thuận lợi cho lý tưởng của người trẻ ngoài sứ điệp của
Đức Giêsu. Cũng như Seewald, nhiều người qua các thế hệ đã được đánh động bởi lời
của Đức Giêsu và lối sống của Người, và họ đã bẻ hướng cuộc đời mình theo lý tưởng
mà Đức Giêsu đề xướng. Thế nhưng, cũng thật đáng tiếc là có không ít những người
chỉ đi có nửa đường: Họ chỉ thán phục lời giảng dạy khôn ngoan và những phép lạ
kỳ diệu của Đức Giêsu, chứ không có gì khác nữa xảy ra nơi họ. Đây là trường hợp
của dân chúng ở Nadarét, những người chỉ thích làm khán thính giả chứ không tiến
xa hơn để tin vào Đức Giêsu và trở thành môn sinh của Người.
Dựa
trên khoa Kitô học của Hội Thánh, mỗi Kitô hữu có một cách diễn tả riêng về Đức
Kitô, cho thấy Đức Kitô là ai trong cuộc đời mình. Bằng đời sống, bạn hãy trình
bày cho người chung quanh một Đức Kitô có thể đem lại hạnh phúc, an bình và ý
nghĩa đích thực cho mọi người.
Là
Kitô hữu, đời sống của tôi đang diễn tả một Đức Kitô như thế nào?
8. Gần chùa gọi bụt bằng anh
Tục
ngữ Việt Nam có câu: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh.” Chỉ vì sống gần chùa mà đến độ
linh thiêng như Bụt, cũng coi như kẻ bằng vai. Những mối liên hệ trong gia
đình, dòng tộc, xóm giềng cũng vì quen quá hoá thường đến độ đánh mất sự tương
kính phải có. Não trạng đó cũng xảy ra đối với chính Đức Giê-su. Ngài vốn dĩ là
Con Thiên Chúa, nhưng đã đến trong thế gian, nhập thể làm người, sống trong một
gia đình nhân loại. Nhưng thật đáng buồn, ngay cả người thân quen xóm giềng chẳng
những không nhận biết thần tính của Ngài mà còn coi thường, không đón nhận giáo
huấn của Ngài nữa. Chính vì thế, Chúa Ki-tô đã không thể thực hiện dấu lạ nào
ngay tại chính quê hương Na-da-rét của mình.
Hai
thái độ cực đoan có thể khiến người tín hữu đánh mất cảm thức về tính linh
thánh của những mầu nhiệm:
- cố
gắng làm thật nhiều các việc đạo đức đến độ trở thành thói quen máy móc;
-
chối bỏ những thực hành đạo đức vì cho đó là những việc làm hình thức nhàm
chán.
Để
giữ được sự quân bình nội tâm giữa hai thái cực đó, cần thực hành hai phương thế
này:
-
thường xuyên học hỏi đào sâu đức tin qua những giáo huấn của Giáo Hội;
-
dành thời giờ suy gẫm và chia sẻ Lời Chúa để thêm xác tín và tình yêu đối với
Ngài.
9. Phúc
cho ai bị bách hại
Linh
mục Joseph Girzone, trong tuổi hồi hưu, đã viết mấy cuốn chuyện giữa
đạo và đời rất hấp dẫn, trong đó có hai cuốn Joshua và Joshua and the
Children, do nhà xuất bản Macmillan New York phát hành.Qua lời văn miêu
tả duyên giáng bình dị, cha Girzone đã cống hiến độc gỉa chân dung của
một Chúa Giêsu thời đại.
Với
tên Joshua, cái tên rất thân thương trong kinh thánh và rất Do-Thái, là
hiện thân của Chúa Kitô tân thời trong bối cảnh của xã hội hiện đại.
Joshua xuất hiện trong khu phố như một người bình dị, sinh sống bằng
nghề thợ mộc. Nhưng cuộc sống thánh thiện và tư cách của anh ta đã
khiến cho người dân trong khu phố từ thán phục đến thắc mắc, nhất là
lập trường và ý kiến của Joshua về các vấn đề liên quan đến gíao
hội, xã hội, các vấn đề luân lý đạo đức! Tuy làm nghề lao động,
nhưng Joshua có tầm hiểu biết quảng bá đến mọi vấn đề, anh không
ngần ngại bày tỏ thái độ và lập trường của mình nếu có ai muốn
được soi sáng và thôg cảm! Nhiều người dân trong khu khố của anh bắt
đầu tỏ thái độ ác cảm với anh vì anh biết nhiều, đặc biệt anh can
đảm dám nói lên ý kiến và lập trường của mình chẳng hạn về những
bất công trong xã hội, những lạm dụng, những tệ đoan trong giáo hội,
những lạm dụng quyền bính của các người nắm vai trò lãnh đạo dân
chúng! Những phân tích xây dựng của anh nghe ra cơ hồ như những lời
trong kinh thánh khi Chúa Kitô phê phán lớp người Biệt phái và
Pharisiêu!
Một
ngày kia khi Joshua đang bước đi trên đường phố, bổng có nhóm người công
giáo thủ cựu chận anh lại chỉ vào mặt anh mạt sát nặng lời là họ
rất bất mãn với anh vì dám thốt ra những lời phê phán giáo hội và
các đấng các bậc lãnh đạo trong đạo. Joshua vẫn giữ nguyên thái độ
trầm tĩnh cố hữu của anh, và bằng giọng nói từ tốn khiêm cung nhẹ
nhàng, anh xác định với họ lập trường ôn hòa của anh, đồng thời
nhắc nhớ cho những người đang tức giận anh về thái độ và hành vi
của Chúa Kitô trong tân ước khi Ngài nhắc nhớ kẻ thù của Ngài về
hoạt động của Chúa Thánh Linh trong tâm hồn con người, và về thời
điểm đã đến con người tôn thờ Thiên Chúa đích thực, phải tôn thờ
Ngài trong tinh thần và trong sự thật. Đến lúc con người cần thoát ra
khỏi cái vỏ đạo đức của truyền thống luật lệ ràng buộc giam hãm
con người, nhưng hãy mở rộng tâm hồn cho Thần Linh của Thiên Chúa hoạt
động! Nhưng trong đám đông cuồng nhiệt kia, có người vẫn hung hãn kết
án Joshua là thù thịch chống đối, phê bình chỉ trích giáo hội
La-Mã. Để tả lời cho những tố cáo bịa đạt có tính cách trả thú
cá nhân kia, Joshua mạnh dạn bày tỏ lập trường của mình:
"Tôi
yêu giáo hội, như Chúa Kitô yêu thương giáo hội của Ngài, giáo hội là
món qùa qúy gía mà Thiên Chúa gửi tặng cho nhân loại! Nhưng vì giáo
hội đang trong trần thế, thế nên giáo hội có khía cạnh thế tục và
nhân loại của mình, vì thế giáo hội cần thiết liên tục tỉnh thức
đề phòng những sai quấy, liên tục canh tân đổi mới, về nguồn cho phù
với tinh thần nguyên thủy của Chúa Kitô, đấng sáng lập giáo hội,
Người kitô hữu trưởng thành không sợ bày tỏ lòng mình cũng như biểu
lộ lòng trung thành của mình đối với giáo hội trong tinh thần chân
lý của Chúa Kitô. Người tín hữu trong giáo hội không phải là đầy tớ
tôi đòi của giáo hội, nhưng thực sự họ là những phần tử sống động,
là thành phần đích thực của đại gia đình giáo hội, theo ngôn từ của
Thánh Phêrô, người tín hữu là những viên gạch sống động của toà nhà
giáo hội, họ là những phần mình của nhiệm thể mà Chúa Kitô là đầu
của thân thể giáo hội! Như thế trong giáo hội đích thực của Chúa
Kitô không có ai là tôi mọi cho ai, không có ai tự coi mình thuộc về
giai cấp thống trị! Chúa Kitô là đầu của nhiệm thể, tất cả kitô hữu
là mình mầu nhiệm là anh em trong Chúa Kitô! Trong Tân Ước đã có nhiều
lần Chúa báo động các vị mục tử của đoàn chiên phải trở thành
những người đầy tớ để phục vụ đoàn chiên. Thế nên người tín hữu
trong đoàn chiên của Chúa không nên sợ hãi khi phải nói lên sự thật
nhằm xây dựng cho đoàn chiên của Chúa Kitô. Tôi nói những gì tôi cần
phải nói vì tôi quan tâm đến giáo hội, một giáo hội mà Chúa kitô
muốn thành lập là thiên đàng của an bình, là ngọn đèn s6ng soi chiếu
cho người trần thế, vì thế giáo hội không thể là nhà tù giam hãm
tinh thần hoặc là lưỡi kiếm để đâm chém và gây thương tích cho ai”!(
New York, Macmillan Publishing Co. 1983, p.125)
Nghe
Joshua phân trần thế, có nhiều người càng căm giận anh ta, có người
nhào tới đòi đã thương anh, có người tỏ lời trách móc thậm tệ, có
người cho rằng anh ta là loại tà đạo, là giáo gian, là đạo rối! Có
kẻ thề hứa sẽ tìm cách dứt điểm anh để anh không gây ảnh hưởng đến
cọng đoàn khu phố!
Khi
đám người cuồng tín đã bỏ đi, Joshua chỉ còn biết lắc đầu chịu
thua, anh nhớ lại thái độ của những người Pharisêu và luật sĩ trong
thế kỷ thứ nhất đã cư xử với Chúa Kito thế nào! Hai nghìn năm sau,
hai nghìn năm lịch sử của Kitô giáo, trong số những tín hữu, vẫn có
những Pharisiêu tân thời, vẫn còn những tên luật sĩ mới hung hãn muốn
lên ngôi Thiên Chúa, muốn biến mình thành Đạo, và họ vẫn cho mình lên
ngai chúa tể của loài người! Hai nghìn năm lịch sử kitô giáo, ngưới
tín hữu vẫn chưa học biết Thiên Chúa muốn làm gì cho nhân loại nầy!?
Mãi
về sau, khi cuộc xung đột giữa nhóm cuồng tín và Joshua càng trở nên
trầm trọng, có người tò mò hỏi thử Joshua cái bí quyết nào giúp
anh sống được trong an bình, sống an vui được ngay trong gây cấn như
thế? Joshua mỉn cười với đôi mắt hướng về trời:
"
Sự an bình của tôi đến tự nội tâm, sự đơn giản của đời sống tôi
phản chiếu những gì tôi có trong linh hồn...Tôi không để cho lòng mình
bị thương tích bởi các biến cố xảy ra bên ngoài...càng ngày tôi càng
ý thức và xác tín rằng bản tính con người đang ở trong một tiến
trình hoàn thiện hơn..chúng ta cần trở nên hoàn thiện, đó là lý
tưởng và ơn gọi của mỗi người...nhưng dầu có tiến tới bao nhiêu,
chúng ta vẫn nguyên vẹn là những con người bất toàn, khiếm khuyết,
học biết mình là bất toàn khiếm khuyết không phải để bi quan yếm
thế nhưng là để ta trở nên khiêm tốn hơn và biết thương cảm tha nhân
hơn! Tôi hiểu biết thế và tôi chấp nhận thực trạng con người như thế!
Tôi thích dân chúng và chấp nhận họ trong thực trạng của họ. Tôi tìm
thấy trong họ có nhiều đều làm tôi vui thích vì Thiên Chúa Cha đã
sáng tạo ra họ như thế! Hãy kiếm tìm Thiên Chúa và học để yêu thương
dân chúng, rồi bạn sẽ tìm thấy sự an bình và hoà hợp với thiên
nhiên (Joshua p. 151, Macmillan , New York 1983).
Trên
đây là lý do tại sao Chúa Kitô chúc phúc cho những ai bị bách hại vì
lẽ công chính, sự chúc phúc nầy đang xảy ra hôm nay cũng như còn sẽ xảy
ra trong tương lai!
10. Bị bách hại là đặc tính của Giáo Hội
Đức
Giáo hoàng Piô XII dạy Hội Thánh có năm đặc tính:
1/
Duy Nhất, vì chỉ có một Chủ chiên và một đoàn chiên (x. Ga 10,16).
2/
Thánh Thiện, vì Đầu Hội Thánh là Chúa Kitô (x. 1Cr 12).
3/
Công Giáo, vì Chúa Giêsu sai các Tông Đồ đi khắp thế gian, ban Thánh Tẩy và dạy
Lời cho muôn dân (x. Mt 28,19-20).
4/
Tông Truyền, vì mọi Kitô hữu được mời cộng tác với Chúa Kitô cùng xây dựng Hội
Thánh trên nền tảng Tông Đồ Trưởng Phêrô (x. Mt 16,18).
5/
Đau Khổ, vì từ Đức Kitô Giêsu đến tất cả mọi người Công Giáo, đã trở nên các
chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm Chúa Kitô là Hội Thánh đều bị bách hại vì Tin
Mừng.
Đúng
như Lời Ngài đã nói với các môn đệ: “Nếu thế gian ghét anh em, thì hãy biết rằng
nó đã ghét Thầy trước anh em. Tôi tớ không hơn chủ, nếu chúng đã bắt bớ Thầy,
thì chúng cũng sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,18-19).
Giảng
Lời mà bị giết mới thực là yêu Chúa, yêu đồng loại, chứ không phải vì lợi nhuận.
Như thánh Tông Đồ nói: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục,
hoạn nạn,bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”
(2Cr 12,10).
Tác
gỉa HerbertWorkman rất có lý khi phát biểu trong cuốc sách nhan đề The
Persecution in the Early Church: "Giáo Hội có lẽ đã không bị bách
hại, nếu như Giáo-Hội đã không qúa hăng hái tích cực vâng theo mệnh
lệnh của thầy Chí Thánh rao giảng Tin-Mầng khắp nơi! Nhưng khi Kitô
giáo ngưng rao giáng Tin Mầng nhanh chóng, thì không còn là Kitô giáo nữa”
(Orford:Oxford University press, 1980, P. 20, op. cit.)
THỨ BẢY - CHẾT VÌ
SỨ VỤ
Lời
Chúa: Mt 14, 1-12
Khi
ấy quận vương Hêrôđê nghe danh tiếng Chúa Giêsu, thì nói với những kẻ hầu cận rằng:
"Người này là Gioan Tẩy Giả, ông từ cõi chết sống lại, nên mới làm được
các phép lạ như vậy."
Tại
vì Hêrôđia vợ của anh mình mà vua Hêrôđê đã bắt trói Gioan tống ngục, bởi Gioan
đã nói với vua rằng: "Nhà vua không được lấy bà ấy làm vợ." Vua muốn
giết Gioan, nhưng lại sợ dân chúng, vì họ coi Gioan như một tiên tri. Nhân ngày
sinh nhật của Hêrôđê, con gái Hêrôđia nhảy múa trước mặt mọi người, và đã làm
cho Hêrôđê vui thích. Bởi đấy vua thề hứa sẽ ban cho nó bất cứ điều gì nó xin.
Được mẹ nó dặn trước, nên nó nói: "Xin vua đặt đầu Gioan Tẩy Giả trên đĩa
này cho con." Vua lo buồn, nhưng vì đã trót thề rồi, và vì các người đang
dự tiệc, nên đã truyền làm như vậy.
Ông
sai người đi chặt đầu Gioan trong ngục, và để đầu Gioan trên đĩa đem trao cho
cô gái, và nó đem cho mẹ nó. Các môn đồ của Gioan đến lấy xác thầy và chôn cất,
rồi đi báo tin cho Chúa Giêsu.
TRUYỆN KỂ
1. Sự thật nào có giá trị thật sự?
Trong một cuộc thăm dò do viện
Galup thực hiện, sáu mươi chín phần trăm người dân Mỹ cho biết họ tin là không
có những chuẩn mực luân lý tuyệt đối. Trong một cuộc thăm dò khác, bảy mươi mốt
phần trăm nói rằng không hề có một chân lý tuyệt đối. Không có chân lý tuyệt đối,
cho nên theo họ chỉ có chân lý của số đông. Tiêu chuẩn của chân lý là số đông.
Ðiều gì đám đông nghĩ, đám đông tin, đám đông bỏ phiếu, đám đông tán thành, là
đúng. Chính vì tiêu chuẩn của chân lý là đám đông, nên có biết bao nhiêu hành động
tội ác được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã tán thành. Còn gì độc ác dã man cho
bằng hành động phá thai, nhưng nó đã được hợp pháp hóa bởi vì đám đông đã đồng
tình.
Ðấng là sự thật đã chết trơ trụi
một mình trên thập giá. Tuyên xưng mình là sự thật, sống cho sự thật, thường
cũng đòi hỏi người tín hữu Kitô phải lội ngược dòng.
2.
Sợ sự thật
Bà Eva sinh được hai con trai,
là Cain và Aben. Lớn lên, Cain làm nghề trồng trọt, còn Aben chuyên nuôi chiên
cừu. Aben dâng lên Chúa những con cừu đầu lứa béo tốt. Chúa nhận của lễ của
Aben, mà không nhìn đến lễ vật của Cain. Cain tức giận, sầm mặt xuống...
Thấy vậy, Chúa hỏi ông: “Sao
ngươi tức giận? Nếu ngươi làm điều tốt việc phải, sao chẳng ngửa mặt lên?".
Cain đã chẳng biết nhận lỗi, đã
chẳng nghe Lời Chúa dạy mà sửa mình, lại còn thêm tức giận, ghen ghét Aben và
giết hại em, lại chối và dối gạt Thiên Chúa là không biết em đâu khi Chúa hỏi:
“Em ngươi đâu?"
Cain bị phạt phải lang thang lưu
lạc trên mặt đất, cực khổ cày cấy, nhưng đất sẽ chẳng sinh hoa màu, phải đói khổ...
3.
Sự thật và tiếng lương tâm
Có lẽ nhiều người trong chúng ta
vẫn còn nhớ vụ ông Nguyễn Thanh Chấn (ở tỉnh Bắc Giang) bị kết án oan ở tù 10
năm (từ tháng 8/2003 đến tháng 11/2013). Vụ án đi vào ngõ cụt khi công an bức
cung dùng nhục hình ép buộc ông Chấn nhận tội giết chị Nguyễn Thị Hoan để cướp
của. Thế rồi sau 10 năm, anh Lý Nguyên Chung đã ra đầu thú chính anh mới là thủ
phạm giết người. Lý Nguyên Chung sau khi trốn vào Gia Lai, đã thay tên đổi họ
và không còn ai biết gì về anh nữa, nhưng rồi bỗng dưng anh lại về đầu thú, chỉ
vì lý do 10 năm trời anh không khi nào ăn ngon ngủ yên vì tội lỗi của mình ám ảnh.
Thật đúng như dân gian có câu:
Hổ giết người hổ lăn ra ngủ
Người giết người thức đủ năm
canh.
Cũng thế, vua Hêrôđê vì một chút
sĩ diện và ham mê nhục dục đã ra tay giết hại thánh Gioan Tẩy Giả. Bây giờ khi
nghe dân chúng đồn đoán Gioan đã sống lại nơi Đức Giêsu thì ông đã phân vân lo
lắng vì hành động của mình.
4.
Quyết liệt chọn ý Chúa
Năm 1028, khi thấy mình gần đất
xa trời, vua Constantin IX ở Rôma đã cho mời nhà quí tộc Romanus đến. Vua muốn
cùng một lúc vừa truyền ngôi, vừa gả công chúa Theodora cho ông.
Nhưng Romanus tâu vua, mình hết
lòng cảm ơn lòng thương của vua, song ông đã có vợ.
Không đếm xỉa gì đến lời tâu,
vua truyền cho ông, nếu không lấy con vua thì sẽ bị khoét hai con mắt, muốn chọn
đằng nào thì chọn. Rồi nhà vua cho ông một ngày để suy nghĩ.
Sau một ngày, ông Romanus vào chầu.
Hoàng đế cho gọi công chúa đến, một công chúa tài sắc vẹn toàn. Nhưng Romanus
can đảm tâu vua:
- Dây hôn phối ràng buộc hạ thần
với vợ do Thiên Chúa ràng buộc. Thế gian không ai có quyền tháo cởi.
Vua ra sức ép nhưng vô ích.
Ông Romanus cam lòng chịu khoét
mắt hơn là lỗi lề luật Thiên Chúa.
5.
Mất ngủ vì ăn trộm
Khi thấy hai con trai của mình
đã lớn, người cha bảo chúng đi học nghề để tự lực cách sinh. Ba cha con thu xếp
rồi lên đường đến một ngôi làng nọ. Người anh chọn nghề thợ rèn rồi vui sống với
nghề nghiệp của mình. Người cha và đứa em tiếp tục đi đến một ngôi làng khác. Một
hôm, hai cha con đi ngang một cánh đồng và thấy một con bò đang gặm cỏ, người
chăn ở đâu không thấy mà làng mạc thì xa. Đứa con nói với cha: “Con thích làm
nghề ăn trộm vì công việc nhẹ nhàng mà thu hoạch lại lớn." Người cha nhăn
mặt nhưng vẫn gật đầu nói “Con hãy đợi cha ở ven rừng. Cha cần vào làng có công
việc."
Người cha vừa đi khuất thì người
con đã vội lùa đàn bò về nhà trọ. Khi người cha về đến nhà hai cha con bắt tay
vào việc làm thịt bò. Nhưng trước khi thưởng thức món thịt bò, người cha nói:
“Ta hãy đoán xem ai trong chúng ta sẽ béo lên vì thịt bò này."
Hai cha con phải mất nhiều ngày
mới ăn hết thịt bò, Trong khi người cha cứ ăn thì người con cứ đứng lên ngồi xuống
không yên, chốc chốc anh lại ra ngoài xem có ai theo dõi mình không. Sau một tuần
lễ, hai cha con kiểm tra xem ai béo hơn ai. Quả thật, người cha đã lên cân thấy
rõ, còn người con ngày một gầy thêm. Lúc bấy giờ người cha mới giải thích: ”Con
biết không, thịt bò con ăn là thịt bò ăn trộm, còn thịt bò cha ăn là thịt bò
cha đã bỏ tiền ra mua hẳn hoi. Trong khi con ở ven rừng nhìn ngắm con bò thì
cha đã vào làng thương lượng với chủ bò để mua nó. Con thấy chưa, của ăn trộm
chẳng bao giờ để ta ăn ngon ngủ yên được."
6.
Tiếng lương tâm
Tờ New York Times ngày 17.3.1994
có đăng câu chuyện có thật của một phạm nhân:
Ông Ricardo Caputo, một tội phạm
nghiêm trọng của tòa án liên bang đã giết chết bốn người vợ trong thời gian 20
năm. Bằng nhiều thủ đoạn khéo léo, ông đã trốn thoát khỏi mọi mạng lưới pháp luật
bao vây lùng bắt của tòa án liên bang. Tuy nhiên, sau 20 năm, ông ta đã tự ra đầu
thú tại một sở cảnh sát ở Mineola, New York bởi vì lương tâm ông cắn rứt không
còn chịu nổi. Khi ra đầu thú, ông cho biết, ông thà bị giam cầm trong ngục còn
sướng hơn bị lương tâm cắn rứt và tội lỗi dày vò.
7.
Kim cương là than chịu áp lực
Abraham Lincoln từng nói: “Tôi
đã cố gắng làm điều mà tôi cho là tốt nhất và có ý giữ nó cho đến cùng. Vì nếu
con đường tôi đi là đúng, thì những gì chống lại tôi chẳng đáng kể. Nhưng nếu
tôi đi sai đường, thì dù có mười thiên thần cho tôi là đúng cũng chẳng thay đổi
được gì.”
Giêrêmia cũng có thái độ tương tự
đối với sứ mệnh khó khăn Thiên Chúa trao phó cho ông.
Gương của Abraham Lincoln và của
Giêrêmia mời gọi tôi tự hỏi: Tôi đã kiên tâm thực hiện những điều tôi cho là
đúng thế nào khi tôi chịu những áp bức hoặc bị người khác gây khó khăn?
Kim cương chỉ là một khúc than
được tôi luyện để trở nên tốt dưới những áp lực.
Lời Chúa Tuần 17 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch