LỜI CHÚA TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 14A – Hiền lành và khiêm nhường
CNTN 14B - Chúa Giêsu tại quê nhà Nazaret
THỨ BA - Cánh đồng truyền giáo
THỨ NĂM - Rao giảng về Nước Thiên Chúa
THỨ SÁU - Số phận người môn đệ Chúa
THỨ BẢY - Đừng sợ…, nhưng hãy sợ ….
CNTN 14A – Hiền lành và
khiêm nhường
PHÚC ÂM: Mt 11, 25-30
Lời Chúa:
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu lên
tiếng nói rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã
giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại
mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. - Mọi sự đã
được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con, trừ ra Cha. Và cũng không ai
biết Cha, trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho.
"Tất cả hãy đến với Ta,
hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy
mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong
lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và
gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Làm hết sức
Trong
những ngày họp Công đồng Vatican II, Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII thường trao mọi
lo lắng của mình cho Chúa bằng lời cầu nguyện này mỗi đêm: “Lạy Chúa Giêsu, con
đi ngủ. Đó là Giáo hội của Chúa. Chúa hãy chăm sóc nó!” Tổng thống Mỹ Dwight
David Eisenhower biết về sự nghỉ ngơi nội tâm bắt nguồn từ việc dâng cuộc sống
hàng ngày cho Chúa. Ông đã có được sự nghỉ ngơi như vậy ngay cả khi đang là
lãnh đạo của các lực lượng vũ trang trong Thế chiến thứ hai. Mọi quyết định của
ông trong cuộc xung đột khủng khiếp đó đều có những hậu quả to lớn. Ông đã đối
phó với áp lực như thế nào? Ông không cố gắng gánh vác gánh nặng một mình. Có
những đêm khi quá căng thẳng, Eisenhower chỉ đơn giản cầu nguyện: “Lạy Chúa, nhờ
ơn Chúa, con đã làm hết sức có thể; con trao phó cho Chúa tất cả. Và ông hiểu rất
rõ lời khuyên của Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay: “Hỡi những ai khó nhọc và
gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11, 28).
2. Đến với chúa
Hầu
hết những nhân cách vĩ đại đều có ảnh hưởng mạnh và áp đảo đối với những người
mà họ tiếp xúc. Tuy nhiên một số người lại thích giữ khoảng cách với những người
ngưỡng mộ họ. Trong cuốn tiểu sử về George Washington, Richard Brookhiser nói:
“George Washington ở bên chúng ta hàng ngày, trên các tờ đô la và trên các khu
vực của chúng ta. Tại thủ đô quốc gia mang tên ông, ông có đài tưởng niệm nổi bật
nhất. Nhiều trường học, đường phố và thành phố mang tên ông hơn bất kỳ người Mỹ
nào khác, và các nhà sử học xếp ông vào số những Tổng thống vĩ đại nhất mà nước
Mỹ từng có. Tuy nhiên, sự hiện diện khắp nơi của Washington không chuyển thành
sự quen thuộc. Ông ấy ở trong sách giáo khoa và trong ví của chúng tôi, nhưng
không ở trong trái tim của chúng tôi. Lỗi một phần là của chính Washington, vì
ông ấy có xu hướng xa rời mọi người.”
*
Nhưng Chúa Giêsu để cho người ta, nhất là những người nghèo khó đơn sơ, đến với
Người! (Flor McCarthy in New Sunday and Holy Day Liturgies; do cha Botelho
trích dẫn)
3. Thư giãn
Một
lần kia, ẩn sĩ Antôn đang thư giãn với các đệ tử bên ngoài túp lều của mình thì
một người thợ săn đi ngang qua. Người thợ săn ngạc nhiên và hơi sốc khi thấy vị
ẩn sĩ có những thái độ và lời nói dễ dãi. Ông không nghĩ một tu sĩ có thể làm
như thế, và ông đã trách vị thánh. Nhưng Antôn nói: “Hãy giương cung và bắn một
mũi tên.” Người thợ săn đã làm như vậy. Antôn nói thêm: “Bẻ cong nó lần nữa và
bắn một cái khác." Người thợ săn đã làm như vậy – lặp đi lặp lại. Cuối
cùng người thợ săn nói: “Cha Antôn, nếu tôi cứ kéo dài cây cung của mình, nó sẽ
gãy mất.” Antôn trả lời: “Đời sống của một tu sĩ cũng vậy. Nếu chúng ta thúc ép
bản thân quá mức, chúng ta sẽ gục ngã; đôi khi chúng ta nên nới lỏng những nỗ lực
của mình.”
*
Chúa Giêsu cho chúng ta cùng một sứ điệp trong Tin Mừng hôm nay.
4. Cái ách
Vào
thời Chúa Giêsu, một cặp bò được nối với nhau bằng một cái ách gỗ vắt ngang cổ.
Từ điển Kinh Thánh cho biết điều này về cái ách: “Người thợ mộc có lẽ đã làm cả
cái ách và cái cày. Chắc hẳn ông Giuse và Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong việc
làm ra những cái ách." William Barclay đưa ra lời phát biểu sau đây trong
bài chú giải của ông về Mátthêu: “Có một truyền thuyết kể rằng Chúa Giêsu đã
làm ra những cái ách tốt nhất trong khắp xứ Galilê, và rằng người ta từ khắp
nơi trong nước đã đến với Ngài để mua những cái ách tốt nhất mà kinh nghiệm và
tài năng một người có thể làm được. Vào thời đó cũng như bây giờ, các cửa hàng
đều có biển hiệu treo phía trên cửa; và có ý kiến cho rằng tấm biển phía trên cửa
xưởng mộc ở Nazareth rất có thể đã ghi là: “Ách của tôi rất vừa vặn.” Rất có thể
Chúa Giêsu đã sử dụng một hình ảnh từ xưởng mộc ở Nazareth, nơi Ngài đã làm việc
trong suốt những năm thầm lặng.”
5. Hạnh phúc
Chuyện
kể về một vị vua bị bệnh và được một nhà chiêm tinh khuyên rằng ông sẽ khỏi bệnh
nếu người ta mang đến cho ông chiếc áo của người mãn nguyện. Mọi cận thần đã đi
khắp vương quốc để tìm kiếm một người như vậy, và sau một thời gian dài tìm kiếm,
họ đã tìm thấy một người đàn ông thực sự hạnh phúc…nhưng ông ta không có ngay cả
một cái áo. Đó là lý do tại sao văn hào Oscar Wilde đã viết: “Trên thế giới này
chỉ có hai bi kịch: một là không đạt được điều mình muốn; và hai là đạt được
nó.” Ông muốn cảnh báo chúng ta rằng dù chúng ta có nỗ lực thế nào để đạt được
thành công thì thành công cũng sẽ không làm chúng ta hài lòng. Vào chính lúc
chúng ta đạt được, sau khi đã hy sinh rất nhiều để đạt được thành công, chúng
ta sẽ nhận ra rằng thành công không phải là điều chúng ta mong muốn.
6. Là chính mình
Soren
Kierkegaard là một triết gia người Đan Mạch, đã phải chịu đựng những cơn u sầu
tột độ, chắc chắn là do quá trình giáo dục nghiêm khắc. Một ngày nọ, ông viết
trong nhật ký của mình: “Và giờ đây, với ơn Chua trợ giúp, tôi sẽ trở thành
chính mình.” Thật là một suy nghĩ tự do: “Và bây giờ, với sự giúp đỡ của Chúa,
tôi sẽ trở thành chính mình.” Không phải là những gì người khác mong đợi tôi trở
thành. Không phải một số hình ảnh phi thực tế mà tôi có về bản thân mình.
Không, với ơn Chúa giúp, tôi sẽ trở thành con người thật của mình. Không còn cố
gắng phải căng thẳng. Không còn những phấn đấu sai lầm. Tôi sẽ thư giãn và là
chính tôi.
*
Khi chúng ta cảm thấy được Chúa chấp nhận, thì lần đầu tiên trong đời chúng ta
được tự do. Khi chúng ta mang ách với Chúa Giêsu, chúng ta không còn phải chứng
tỏ với thế gian rằng chúng ta thuộc về Người nữa.
7. Nghỉ ngơi
Đài
Phát thanh quốc gia có một câu chuyện về một câu lạc bộ được thành lập tại một
trường trung học ở Greenwich, Connecticut. Câu lạc bộ này được gọi là Câu lạc bộ
Power Nap (giấc ngủ ngắn)! Một nhóm sinh viên đến một căn phòng vào cuối ngày học,
nơi họ tắt đèn, gục đầu lên bàn, bật một cuộn băng nhạc cổ điển êm dịu và ngủ một
giấc mà họ gọi là “giấc ngủ ngắn” trong khoảng nửa tiếng. Dòng chữ trên áo
phông là phiên bản mới của một phương châm cổ bằng tiếng Latinh, “Veni, vidi,
dormivi: Tôi đã đến, tôi đã thấy, tôi đã ngủ!” Câu lạc bộ được thành lập không
phải vì đây là những học sinh lười biếng, mà hoàn toàn ngược lại. Những bạn trẻ
này đã đi học cả ngày, tham gia các môn thể thao, làm tình nguyện viên trong cộng
đồng, đến nhà thờ hoặc hội đường Do Thái và làm các công việc bán thời gian. Họ
đang kiệt sức. Và họ đã học được rằng chỉ một giấc ngủ ngắn cũng tạo nên sự
khác biệt trên thế giới”
*
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta và với họ: “Hỡi những ai mệt
mỏi và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho các ngươi được nghỉ ngơi."
8. Ách nặng nề
Dụ
ngôn người Do Thái về gánh nặng của Luật pháp Môisen: “Có một bà góa nghèo có
hai con gái và có một thửa ruộng. Khi bà bắt đầu cày, ông Môisen nói với bà qua
lề luật: ‘Ngươi không được cày bằng bò và lừa cùng với nhau.’ Khi bà ấy bắt đầu
gieo giống, luật nói: ‘Ngươi không được gieo giống lẫn lộn vào ruộng của mình.’
Khi bà ấy bắt đầu gặt và gom lúa thành đống, lề luật nói: ‘Khi ngươi gặt hái
ngoài đồng và bỏ sót một bó lúa trong ruộng mình, ngươi không được quay lại lấy’
(Đnl 24,19), và ‘Ngươi sẽ không gặt lúa của ngươi sát bờ ruộng’ (Lv 19,9). Khi
bà ấy bắt đầu đập lúa, luật pháp nói: ‘Hãy dâng cho Chúa của lễ đầu múa, phần
mười thứ nhất và thứ hai.’ Bà ấy đã chấp nhận pháp lệnh và dâng tất cả cho
Chúa.
9. Nhầm lẫn
Mẹ
Têrêsa Calcutta, một nữ tu gốc Albania, người đã chăm sóc người nghèo và bệnh tật
ở Ấn Độ trong hơn 30 năm, được vinh danh là người đoạt giải Nobel Hòa bình, giải
Nobel Hòa bình 1979. Ủy ban Nobel cho biết họ quyết định tôn vinh bà vì kỹ năng
tổ chức và quản lý cũng như lòng trắc ẩn và sự cống hiến của bà đối với người
nghèo. Mẹ Têrêsa đã thành lập dòng của mình, Dòng Thừa sai Bác ái, trong khu ổ
chuột của Calcutta vào năm 1948 khi bà mở trường học đầu tiên với sự cho phép đặc
biệt của Vatican để sống bên ngoài một tu viện. Công việc của Mẹ giữa những người
nghèo ở Calcutta, nơi các thành viên trong dòng của bà thu thập những người hấp
hối và cơ cực trên đường phố, đã lan rộng đến 50 thành phố của Ấn Độ và hơn 25
quốc gia, từ Papua, New Guinea đến Hoa Kỳ, với một chi nhánh cũng ở miền Nam
Bronx. Nhưng các viên chức nhà nước không biết đón tiếp Mẹ như thế nào! Họ cho
hai chiếc limousine đến sân bay để đón bà, một chiếc cho bà và một chiếc chở
hành lý! Mẹ tươi cười xuất hiện, với đồ dùng cá nhân của mình chỉ trong một chiếc
túi nhỏ, và ban đón tiếp hoàn toàn không biết phải làm gì. Họ chuyên môn trong
việc đón tiếp các nguyên thủ quốc gia và các chức sắc quan trọng khác, nhưng với
người phụ nữ nhỏ bé yếu đuối này có một loại hào quang phi thường nào đó xung
quanh Mẹ, điều này khiến họ cảm thấy bối rối, và họ cảm thấy sợ hãi trước sự hiện
diện của một uy quyền và một sức mạnh mà họ hoàn toàn xa lạ. Đó là điều Chúa
Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay.
10. Âm thanh ngọt ngào
Có
một câu chuyện mà các gia đình Hibri thường kể cho con cháu của họ để giúp
chúng hiểu điều răn thứ ba. Điều răn thứ ba dạy: “Sáu ngày ngươi sẽ lao động
nhưng đến ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ ngơi.” Câu chuyện có tên là “Âm thanh ngọt
ngào nhất." Nhân vật chính trong truyện là vua Ruben. Chuyện kể như thế
này. Nhà vua hỏi các thần dân của mình: “Giai điệu ngọt ngào nhất trong tất cả
là gì?” Sáng sớm hôm sau, người ta tập hợp đủ các nhạc sĩ. Âm thanh đánh thức
nhà vua và suốt buổi sáng, ông lắng nghe giai điệu của họ. Nhưng sau khi nghe tất
cả, ông không thể phân biệt đâu là âm thanh ngọt ngào nhất. Cuối cùng, một thần
dân đề nghị tất cả họ cùng nhau chơi các nhạc cụ. Âm thanh ồn ào đến nỗi nhà
vua không thể suy nghĩ được. Vào lúc đó, một người phụ nữ mặc bộ đồ đẹp nhất của
ngày Chúa nhật, chen lên phía trước đám đông và bước lên phía trước. Bà ấy nói:
“Thưa đức vua, thần có câu trả lời cho câu hỏi của ngài.” Nhà vua rất ngạc
nhiên vì bà không có nhạc cụ nào. Vua hỏi: “Sao bà không đến sớm hơn?” Bà ấy trả
lời: “Tôi phải đợi cho đến khi mặt trời lặn.” Các nhạc công vẫn đang chơi, và
nhà vua bảo tất cả họ dừng lại. Sau đó, người phụ nữ lấy hai ngọn nến và đặt
chúng trên lan can ban công của nhà vua. Bà thắp chúng lên ngay khi mặt trời tiếp
tục lặn. Ngọn lửa rực sáng trong bóng đêm. Sau đó, bà cất cao giọng và nói:
“Chúc tụng Ngài, lạy Chúa, Thượng Đế của chúng con, Vua của vũ trụ, Đấng đã
thánh hóa chúng con bằng các Điều Răn và truyền lệnh cho chúng con thắp sáng những
ngọn đèn trong ngày Sabát.” Sau đó, bà ấy nói: “Ai có tai, hãy nghe.” Mọi người
hoàn toàn tĩnh lặng. Nhà vua hỏi: “Đó là gì?” Ông không thể nghe thấy một âm
thanh. Người phụ nữ trả lời: “Những gì ngài nghe thấy là âm thanh của sự nghỉ
ngơi, giai điệu ngọt ngào nhất trong tất cả.”
*
Chúa Giêsu nói: “Hỡi những kẻ khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho
các ngươi được yên nghỉ." Đây cũng là âm thanh ngọt ngào nhất mà bất kỳ ai
trong chúng ta có thể nghe thấy. [Keith Wagner, True Freedom; được trích dẫn bởi
cha Kayala]
11. Đức khiêm nhường
Thánh
Bênêđictô Nursia, người sáng lập nền đan tu Tây phương, đã đặt ra trong Luật sống
nổi tiếng của ngài mười hai bước để một đan sĩ lớn lên trong nhân đức khiêm nhường.
Dưới đây là một vài điều trong số đó, được tóm tắt và điều chỉnh cho bậc giáo
dân. Hãy chủ ý tuân theo mọi điều răn của Thiên Chúa và bất cứ điều gì bạn cho
là ý muốn của Ngài. Hãy ngoan ngoãn phục tùng những người có thẩm quyền đối với
bạn. Chịu đựng những khó khăn mà không phàn nàn bên trong hay bên ngoài. Hãy
thú nhận tội lỗi và lỗi lầm của bạn trong bí tích Sám Hối. Hãy nhìn nhận với bản
thân rằng bạn có nhiều lỗi lầm và thiếu sót. Hãy hạn chế nói và chỉ nói những
gì cần thiết. http:
//www.catholicculture.org/culture/library/dictionary/index.cfm?id=34023 (L/20)
12. Lo lắng
(Chuyện
vui)
Nam
về nhà sau khi đi khám nơi bác sĩ tâm lý, trông anh rất lo lắng. Vợ anh hỏi:
“Có vấn đề gì vậy?” Anh giải thích: “Bác sĩ nói với tôi rằng tôi sẽ không phải
lo lắng và hoàn toàn yên tâm nếu tôi uống một viên thuốc mỗi ngày trong suốt
quãng đời còn lại của mình.” Chị ta hỏi: "Vậy thì sao? Rất nhiều người phải
uống một viên thuốc mỗi ngày trong suốt cuộc đời của họ.” Nam nói: “Tôi biết,
nhưng bác sĩ chỉ cho tôi bốn viên thuốc thôi!”
13. Khiêm nhu
Một
vị quan tể tướng đời Đường rất lừng danh và có lòng mộ đạo chân thành. Thầy của
ông là một bậc cao tăng. Hai thầy trò rất tâm đồng ý hiệp với nhau, không phân
biệt địa vị hay chức quyền. Ngày kia quan tể tướng bèn hỏi: Xin thầy giải thích
kiêu căng nghĩa là gì? Thầy liền đổi sắc mặt, trợn mắt hỏi với một giọng khinh
miệt: Mi hỏi ta gì đó, đồ ngu. Cử chỉ và lời nói bất ngờ ấy làm cho gương mặt
quan tể tưởng đỏ bừng lên. Bấy giờ vị cao tăng mới ôn tồn nói: Thưa, đó chính
là sự kiêu căng đấy.
Câu
chuyện trên như muốn vạch trần cái gốc rễ của tính kiêu căng. Đó là không chấp
nhận những giới hạn của mình, không sẵn sàng đón nhận sự thật. Và tệ hơn nữa, sự
kiêu căng còn là nguyên nhân làm cho con người không còn biết mở rộng cõi lòng
để đón nhận Thiên Chúa.
14. Gió và mặt trời
Trong
tập “Những ngụ ngôn của Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi
giữa mặt trời và gió. Hai nguồn năng lượng này cãi nhau xem ai mạnh hơn ai.
Ngày
nọ, một cơ hội xảy đến giúp cả hai dàn xếp được cuộc tranh cãi. Hôm đó, có một
người mặc áo choàng đang đi trên một con đường quê hoang vắng. Mặt trời liền
thách thức với gió: “Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng ra mau hơn thì
người ấy là người thắng cuộc." Gió ta chẳng những đồng ý mà con quyết định
ra tay trước. Chàng gió bèn thổi tới tập, nhưng càng thổi thì người kia càng giữ
chặt lấy chiếc áo choàng, sợ nó tung bay mất. Cuối cùng, kiệt sức, gió ta đành
phải chịu thua. Lúc đó mặt trời mới ra tay. Ông mặt trời chiếu toả hết vinh
quang của mình ra. Chỉ trong mấy phút, người nọ nóng quá phải cởi bỏ chiếc áo
choàng ra.
Cuối
câu chuyện ngụ ngôn, Ê-xốp bàn luận: “Bạn có thể thành công nhờ sự dịu hiền dễ
thương hơn là nhờ bạo lực."
15. Con lừa được Chúa
dùng
Thánh
Jean Vianney, lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần
học thừa lệnh Đức giám mục, đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để
tiến tới chức linh mục không. Vianney không thể trả lời xuông sẻ câu hỏi nào cả.
Vị giáo sư nổi nóng đập bàn nói: Vianney, anh dốt đặc như con lừa. Với một con
lừa như anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì? Vianney khiêm tốn bình tĩnh
trả lời: Thưa Thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại
3 ngàn quân Philistin. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc
gì sao?
16. Liêm Pha và Lạn
Tương Như
Vua
Triệu phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại
đứng dưới nên tức giận, hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.
Tương
Như nghe nói thế thì tìm cách lánh mặt Liêm Pha mãi.
Một
hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh
xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.
Bọn
xa nhân thấy thế tức giận, bèn họp nhau hỏi Tương Như:
“Chúng
tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu
nên yêu mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại
ở trên. Liêm tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại
tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ,
vậy xin đi thôi, không ở nữa.”
Tương
Như nói: “Các ngươi xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?”
Bọn
xa nhân thưa: “Không."
Tương
Như nói: “Lấy như cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy
một mình dám mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu
hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh
Triệu là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không
cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh
Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy
thôi."
Bọn
xa nhân quỳ mọp tâu rằng: “Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của
tướng công."
Liêm
Pha hay được tin nầy, cả thẹn than rằng: “Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm”,
bèn trần vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: “Tính tôi thô bạo, đội ân tương
quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!”
Tương
Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết bạn sống chết có nhau.
17. Hãy cầm lấy và đọc
Augustinô
là một thanh niên có tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện
trí thức, Augustinô ỷ mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những
học thuyết uyên bác. Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý,
Augustinô sống buông thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống
tội lỗi. Thế rồi một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng
nghe một tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” (hãy cầm lấy và đọc).
Augustinô thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay
đoạn thư Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy
sống theo Thánh Thần." Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự
cầu nguyện và hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh kinh
này là yếu tố quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. Trở nên một giáo phụ, một
triết gia, một thần học gia, một vị thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo
hội, Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh kinh.
Chúng
ta cũng hãy học với Thầy Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời
Chúa để Lời Chúa biến đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
18. Hiền lành và khiêm
nhường
Người
hiền lành (meek)
Vậy
người hiền lành là ai? Trước hết người hiền lành là người có đức độ, lương thiện
(good); có lòng thương người (helpful); người tỏ ra kiên nhẫn (patient), dễ
tùng phục (submissive), tử tế và hòa nhã với người khác (kind). Người ở hiền
thì sẽ có hậu: “Ở hiền gặp lành”, “Cha mẹ hiền lành thì để đức cho con” (ngạn
ngữ Việt nam).
Trái
nghịch với hiền lành là người độc ác, ích kỷ, nóng tính (nóng tính thì hỏng việc!);
người thích mệnh lệnh, ưa “ăn trên ngồi trốc”; người “giận cá bằm thớt”; người
hay gây lộn “thượng cảng chân hạ cẳng tay!”; người hay “bới lông tìm vết”; người
hay nói xiên nói xỏ, nói móc nói me, gây chia rẽ trong gia đình, cộng đoàn, xã
hội, vv và vv…!
Người
khiêm nhường (humble)
Còn
người khiêm nhường là ai? Người khiêm nhường là người biết mình, biết người, biết
sự vật đúng như nó là; người không khoe khoang, không phô trương, dù có thành
công (not proud or arrogant although successful); người biết tôn trọng người
khác và nhường – nhận người khác hơn mình.
Ngược
với khiêm tốn là người kiêu ngạo: người tự coi mình là hơn người, khoe khang,
nói quá sự thật, hay “vơ đũa cả nắm”, kiểu “cả vú lấp miệng em!”, lúc nào cũng
cho mình đúng còn người khác thì sai vv…!
Gương
khiêm nhường
Khi
nói về những vị thánh đã học được gương của Chúa Giêsu, ta nhớ tới câu chuyện về
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII: Tên thật ngài Roncalli, trước khi làm giáo hoàng,
ngài là khâm sứ ở Bungari và Thổ. Trong khi thi hành công vụ, ngài nhận được một
bức thư của một linh mục chỉ trích ngài đủ mọi thứ. Ngài đọc thư và không nói
gì. Sau đó ngài làm Hồng Y, rồi làm Giáo Hoàng (1958). Về sau vị linh mục đó
cùng với giáo dân sang Rôma để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Vị linh mục này kể lại
buổi yết kiến này: trong khi đứng chờ, đầu óc của ngài cứ nghĩ tới bức thư đó
và vừa hối hận vừa lo sợ. Thời gian lâu rồi chắc Đức Thánh Cha đã quên. Không
ngờ tới liền, Đức Thánh Cha kéo lá thư trong cuốn sách kinh ra. Cha hoảng sợ,
chuyện gì sẽ xảy ra cho tôi? Nhưng Đức Giáo Hoàng ôn tồn nói: “Con đừng sợ, Cha
cám ơn Con. Cha để lá thư trong sách để mỗi ngày đọc và xét mình. Hầu dứt khoát
với những khuyết điểm còn tồn tại và tránh những lầm lỡ có thể xảy ra trong
tương lai. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con."
19. Thánh Phanxicô
Salêsiô.
Thời
còn trai trẻ, ngài là một người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi
sùng, hơi một chút là quát tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới
trở thành một vị thánh hiền dịu và dễ thương.
Ngày
kia, có một người đang tức giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám
mục để chúng sủa vang. Còn ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi
bới om xòm. Chính ông ta đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn
yên lặng, bình tĩnh rút khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm
hóa được ông ta, khiến ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.
Như
vậy, hiền lành không phải là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta
và chúng ta đánh trả lại, thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật.
Trái lại, kẻ khác đánh chúng ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ,
thì đó mới là thái độ anh hùng, xứng đáng với địa vị của con người.
Hơn
thế nữa. sự hiển lành còn là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người
khác, bởi vì chỉ với một giọt mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một
thùng dấm chua.
20. Hãy mang lấy ách của
Ta
Báo
Văn Học số 193 tháng 5 năm 2002, trong mục Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng
tin về em bé Mattie Stepanek 11 tuổi, hiện sống với mẹ ở Upper Marlboro, bang
Maryland. “Mới sinh ra, em đã mang một căn bệnh di truyền quái ác có tên là
“dysautonomic mitochondrial myopathy”, một hình thức khá hiếm hoi của bệnh yếu
cơ – muscular dystrophy. Bệnh này đã giết chết ba anh chị em của Mattie, còn bản
thân em thì đời sống bị dính liền vào chiếc xe lăn với một bình ốcxy thường
xuyên bên cạnh. Nhỏ nhắn, yếu ớt, thiếu sức khỏe và mang một căn bệnh vô phương
cứu chữa như thế, nhưng em luôn vui vẻ, lạc quan. Em rất ham học và sáng tạo.
Em bắt đầu làm thơ và viết văn vào lúc 3 tuổi. Em đọc và mẹ em đánh máy lại.
Lúc 5 tuổi, em đã có mấy trăm bài thơ và đến nay đã có hàng ngàn bài thơ."
“Em
có ba ước mơ: thứ nhất là xuất bản một tập thơ của riêng em, thứ hai là được diện
kiến với “model” của em là cựu tổng thống Jimmy Carter và cuối cùng là được xuất
hiện trong chương trình truyền hình của Oprah. Năm 2001, cả ba ước mơ của em
không những đã thành đạt mà còn thành đạt ngoài ý muốn. Tháng 7 năm 2001, hai
nhà xuất bản “VPS Books” và “Hyperion Books” hợp tác nhau xuất bản thi tập đầu
tiên của em, tựa đề là “Heartsongs." Ngay lập tức, nó trở thành
“bestseller” trên toàn quốc. Tháng 10 năm 2001, em được diện kiến cựu tổng thống
Carter trong chương trình truyền hình “Good Morning America." Và ngày 19
tháng 10 năm 2001, em xuất hiện trong chương trình truyền hình Oprah.
Tối
ngày 17 tháng 4 năm 2002, Mattie xuất hiện trong chương trình “Lary King Live”
của hệ thống truyền hình CNN. Trong cuộc trò chuyện này, bằng một giọng nói lưu
loát, cử chỉ sống động, em trả lời nhiều câu hỏi về cuộc sống, việc học, việc
làm thơ và những mơ ước của em một cách thông minh, chân thành và đôi khi còn
pha chút dí dỏm. Trả lời câu hỏi liên quan đến căn bệnh nan y của em, Mattie
nói: “Các bác sĩ không tin rằng cháu sẽ sống nổi một ngày. Nhưng cháu đã sống
được. Rồi họ lại bảo “OK, thằng nhỏ sống đến 6 tháng là cùng." Cháu đã sống…
Khi cháu lên 2, họ nói “OK, 10 tuổi thôi." Bây giờ đây cháu đã được 11 tuổi.
Họ sẽ có thể nói “đến mười mấy thôi, quá lắm là đến hết tuổi thiếu niên, nhưng
cháu dự tính sẽ sống đến 101 tuổi lận."
Đề
cập đến sự kiên trì phấn đấu của mình để tồn tại và sáng tác, em phát biểu:
“Đôi khi, cháu tự hỏi: Tại sao lại là cháu? Tại sao cháu lại có một đời sống
khó khăn như thế này? Tại sao mấy anh chị em của cháu lại chết? Tại sao bệnh
không lành? Nhưng rồi cháu nghĩ lại và tự hỏi: Tại sao không phải là cháu chứ?
Cháu có thể chịu đựng được tốt hơn một đứa trẻ khác đã phải chịu những khó khăn
trong đời của nó. Hoặc là cháu có thể chịu đựng tốt hơn một đứa nhỏ chẳng hiểu
gì chuyện đó cả và có thể còn đau khổ hơn."
21. Ách tình yêu
Có
một câu chuyện cổ kể về một người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một
em bé trai đang cõng một em bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên
lưng. Người đàn ông đó nói với bé trai rằng: “Đó quả thật là một gánh nặng cho
em phải mang." Nhưng em bé trai đã trả lời rằng: “Đó không phải là một
gánh nặng. Đó là đứa em nhỏ của cháu." Gánh nặng được trao ban trong tình
yêu và mang lấy bằng tình yêu sẽ luôn nhẹ nhàng!
Trong
chuyện “Ngụ ngôn về những con chim” kể rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài
súc vật, tất cả đều bước đi bằng chân loanh quanh trên mặt đất, trừ những con
chim! Nhưng những con chim này chẳng chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng
Thiên Chúa bắt chúng phải mang trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào
phải mang cả. Thoạt đầu, đối với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và
luộm thuộm nhất chúng phải mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên
Chúa phạt vì một lý do nào đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng
vít gây cản trở và khó khăn mỗi khi cất bước? Tại sao? Tại sao lại là chúng
mình? Sau cùng có hai hay ba con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ
phận phụ thuộc này. Chúng bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng
cái mà chúng coi như một gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất
cánh bay lên cao được. Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.
Con
người sinh ra đời kèm theo với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời!
Và chúng ta cũng không thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng
là cuộc đời! Chúng ta muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi.
Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và
gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các người." Chúng ta không mang vác một
mình, nhưng với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng
sẽ nên nhẹ nhàng.
22. Ta sẽ nâng đỡ bổ sức
cho các ngươi
Có
một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc
đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta
ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra
nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy,
đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là
xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác
với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc
sống chúng ta còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì
tại sao chúng ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở
chúng ta: trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay khổ
đau, chúng ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.
23. Trong tình yêu
không có đau khổ
Thánh
giáo phụ Âugustinô đã nói: “ Hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm." Khi đã yêu
thì sẽ không còn đau khổ. Dù cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được
yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không
còn là sự điên rồ hay nổi ô nhục mà trở thành niềm vinh dự.
Đau
khổ phát sinh, có thể là do lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù
sao đi nữa vẫn có đó nhiều nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau
khổ là một huyền nhiệm. Chúa Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về
nguyên nhân của khổ đau, nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân
mình để thể hiện tình yêu. Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ,
nhưng nó sẽ chẳng là gì trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong
Đức Kitô đã biến khổ đau thành ân phúc.
24. Khiêm nhường phục vụ
bởi lòng tin
Trên
chuyến xe lửa tiến về Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già.
Sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ
từ chìm đắm trong việc cầu nguyện.
Anh
sinh viên nhìn cụ già với vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: – Thưa ông, ông vẫn
còn tin vào những chuyện nhảm nhí à?
Cụ
già thản nhiên đáp:
–
Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Anh
sinh viên cười ngạo nghễ rồi nói:
–
Lúc còn con nít tôi có tin. Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi
không thể tin được nữa. Ông hãy quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám
phá mới, ông sẽ thấy những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ
già khiêm tốn hỏi:
– Cậu
vừa nói về những khám phá khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những
khám phá ấy?
Anh
sinh viên hăng hái trả lời:
–
Được chứ. Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học
rồi ông sẽ thấy sự phong phú kỳ diệu của nó.
Cụ
già rút trong túi ra một tấm danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm
danh thiếp, anh thanh niên tái mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì
trên tấm danh thiếp có ghi: Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông
Louis Pasteur là một nhà bác học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học
và sinh vật học. Chính ông đã tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông
thái như thế, nhưng ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn
nỗ lực tìm kiếm Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng
Chúa và đón nhận được những mặc khải của Người.
25. Nhẫn nhục chịu đưng
Lạn
Tương Như được phong làm tướng quốc nước Triệu. Liêm Pha cậy mình có nhiều công
hơn mà lại bị vua Triệu xếp đứng bên dưới, nên cảm thấy bực tức và hăm hễ gặp mặt
Tương Như là sẽ giết. Tương Như vì thế cứ phải lánh mặt… Một hôm Tương Như có
việc phải ra ngoài, gặp phải toán lính tiền đạo của Liêm Pha từ xa đi tới, liền
sai mấy người đánh xe tránh vào trong ngõ, đợi cho kiệu của Liêm Pha đi qua rồi
mới ra đường. Bọn xa nhân của Tương Như thấy thế rất căm giận thay cho chủ và họp
nhau lại chất vấn Tương Như rằng:
–
Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây để hầu ngài, tức coi ngài là bậc
trượng phu nên mến mà đi theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng quan nhất
phẩm mà hạng thứ của ngài còn ở trên ông ta. Liêm Pha dọa, ngài đã không đáp
nên tránh mặt ở triều đình. Nay lại còn tránh cả ở ngoài đường nữa ! Sao ngài lại
tỏ ra nhát sợ ông ta quá như vậy? Chúng tôi là bề tôi cảm thấy xấu hổ, nên xin
phép từ giã ngài, không tiếp tục theo ngài nữa.
Tương
Như liền nói: – Các ngươi xem tướng quân ta có hơn vua nước Tần không?
Bọn
xa nhân đáp: – Thưa không.
Tương
Như lại nói: – Trước cái oai của vua nước Tần, thiên hạ nào ai dám ra mặt chống,
mà Tương Như này dám mắng ông ta ngay giữa triều đình nước Tần, lại làm nhục cả
quần thần của vua Tần nữa. Tương Như ta dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng quân
hay sao? Nhưng ta nghĩ sở dĩ nước Tần hiện nay không dám tiến đánh nước Triệu
chúng ta là vì e sợ có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ đấu nhau, thề
không sống chung với nhau. Nếu nước Tần nghe tin được, tất sẽ thừa cơ mang quân
sang đánh nước Triệu ta thì sao? Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì
lấy việc nước là trọng và coi thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn
xa nhân liền quỳ mọp bái lạy Tương Như mà rằng:
–
Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
Về
phần Liêm Pha, khi nghe thuật lại lối ứng xử của Tương Như thì cả thẹn mà rằng:
”Ta thật còn kém Lạn Tương Như xa lắm." Rồi Liêm Pha còn đến tạ tội với
Tương Như, qùi mọp mà rằng: ”Tôi tính tình thô bạo, đội ơn tướng quân đã bỏ
qua, tự nghĩ lấy làm hổ thẹn quá !" Tương Như đến đỡ dậy, và sau đó cả hai
kết làm bạn thân thiết sống chết có nhau.
26. Dụ ngôn về kiêu
căng
Văn
hào Nga Tolstoi đã kể một câu chuyện ngụ ngôn cho thấy sự hiền lành là nguyên
nhân của niềm vui và hạnh phúc như sau: Một hôm sói hỏi sóc nâu: “Tại sao họ
sóc nhà mi luôn vui vẻ nhảy nhót, còn bọn sói chúng ta lại luôn ủ rũ buồn rầu vậy?”
Sóc liền trả lời rằng: “Ông buồn rầu vì trong lòng ông chứa đầy sự độc ác.
Chính sự độc ác ấy đã bóp nghẹt trái tim ông, không cho ông được an bình hạnh
phúc. Còn sở dĩ lũ sóc chúng tôi luôn vui vẻ vì chúng tôi hiền lành, không làm
hại ai cả."
– Một
câu chuyện khác về một con nhái bén kiêu căng: Ngày nọ một con nhái bến kiêu
căng lên tiếng thách đấu với một con bò mộng. Nhái ta cố phình bụng sao cho to
hơn bụng con bò. Nhưng to đâu không thấy, chỉ thấy con nhái bén kiêu căng kia
đã bị nổ bụng chết thảm. Câu chuyện nhái bén này dạy loài người chúng ta bài học
như sau: “Đừng trèo cao để khỏi bị té đau”, đừng “xưng hùng xưng bá” khi không
có thực tài: “Có tài mà cậy chi tài. Chữ tài liền với chữ tai một vần."
Người xưa cũng có câu: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” (Một người tài giỏi chắc
sẽ có người khác tài giỏi hơn đánh bại mình).
27. Khiêm nhường dẫn đến
hòa hợp
Khi
thành lập chính phủ Pháp năm 1944, trong ngày lễ lớn đầu năm, tướng De Gaulle
nước Pháp đã yêu cầu Toà Thánh phái vị sứ thần sang gấp để kịp đọc diễn văn,
như là niên trưởng của ngoại giao đoàn thay mặt cho các nước Âu Mỹ. Lúc đó, các
thế lực chính trị đã chia thành hai cực Đông và Tây, tuy cùng chống phát-xít
nhưng cũng không khỏi tranh giành ảnh hưởng, thế lực. Vatican lúc đó không ngả
theo phe nào cả nên giải pháp tối ưu để tránh hiềm khích là nhờ sứ thần Toà
thánh thay mặt cho ngoại giao đoàn các nước Âu Mỹ. Nhưng khi Đức Cha Roncalli,
sau này là ĐTC Gioan XXIII, đến Paris thì ngài hay biết sứ thần Liên sô, niên
trưởng năm ấy, đã dọn sẵn một bài diễn văn để phòng khi ngài qua không kịp. Thật
là khó xử! Phải làm gì đây trong tình huống này?
Khi
gặp đại sứ Liên sô, ngài liền hỏi thăm về bài diễn văn của ông:
-
Thưa đại sứ, theo thông lệ thì… tôi phải đọc diễn văn, thế mà tôi nghe đại sứ
đã chuẩn bị một diễn văn rồi, phải không, thưa đại sứ.
-
Đúng vậy, sợ ngài đến không kịp, tôi phải soạn sẵn, kẻo nhỡ ra…
-
Tôi vừa chân ướt chân ráo đến Paris, chưa quen người quen việc… Xin đại sứ cho
phép tôi xem diễn văn của ngài.
Xem
xong bài diễn văn, Đức Cha Roncalli đã hỏi xin đại sứ Liên sô cho phép ngài
dùng bài diễn văn đó trong ngày lễ, và xin thêm vào đó một câu vắn “xin ơn trên
phù hộ Tổng thống.”
Khi
mọi người khen ngợi bài diễn văn, Đức Cha Roncalli trả lời: “Đó là công lao của
đại sứ Liên sô. Tôi mượn bài của ông. Phần tôi, chỉ có câu cuối cùng.”
Đại
sứ Liên sô rất hân hạnh và từ đó về sau ông có nhiều thiện cảm với Sứ thần Toà
thánh.
28. Răng và lưỡi
Ngày
kia, vào lúc nhà hiền triết vĩ đại của Trung Hoa là Lão Tử đang hấp hối trên
giường bệnh, các môn đệ của ông vây quanh, xin ông dạy bài học cuối cùng trước
khi ông lìa đời. Lão Tử há miệng ra, rồi hỏi các học trò:
–
Răng ta còn không?
Các
học trò đồng thanh đáp:
–
Thưa thầy, răng thầy đã rụng hết!
Lão
Tử lại hỏi:
–
Lưỡi ta còn không?
Các
học trò đáp:
–
Thưa thầy, lưỡi thầy vẫn còn!
Lão
Tử nói:
–
Răng cứng thì mất, lưỡi mềm thì còn. Như thế, nhu luôn thắng cương. Hãy lấy sự
hiền lành mà đối lại với sự hung dữ.
Nói
xong, Lão Tử nhắm mắt lìa đời.
29. Bản lĩnh của người
khiêm nhường
Truyện
cổ Ba Tư kể câu chuyện về vị tể tướng xuất thân là người chăn chiên. Vì là kẻ
thấp hèn trong xã hội được đặt lên địa vị cao, nên các quan trong triều đình
ghen tức, họ vào trình với vua:
-
Tâu bệ hạ, quan tể tướng xuất thân là kẻ chăn chiên, thế mà đức vua đặt lên chức
cao quyền trọng, e rằng thần dân không phục và là tai họa cho quốc dân.
Nhà
vua đáp:
-
Đó là người tài đức mà trẫm rất tín nhiệm và mến phục, nhưng nếu các khanh có bằng
cớ chính xác về sự bất xứng của ông, trẫm sẽ xét lại.
Được
lệnh, các quan chia nhau để dò xét vị tể tướng. Ít ngày sau họ vào trình với
vua:
-
Thưa đức vua, các bề tôi đều nhận thấy cứ chập tối thứ bảy, tể tướng vào căn
phòng nhỏ trong tư dinh, đóng kín cửa và ở đó rất lâu. E rằng việc làm này có
gì mờ ám.
Vua
cho phép các quan lục soát căn phòng mà họ cho là có những bí ẩn và mờ ám,
nhưng họ chỉ tìm thấy một chiếc áo rách và đôi giày cũ. Sự việc được trình báo
với đầy đủ chứng cớ và chi tiết. Vua mời chủ nhân của các vật dụng đó vào và hỏi
trước mặt bá quan văn võ. Quan tể tướng trả lời:
-
Thưa bệ hạ, giày và chiếc áo cũ đó là của hạ thần. Kẻ bề tôi này đã dùng chúng
lúc còn hàn vi, nên muốn giữ như một kỷ niệm để mỗi tuần nhìn lại và nhớ đến
thân phận hèn kém của mình mà sống khiêm tốn, biết cư xử khoan dung với mọi người
và khắc ghi ơn mưa móc của bệ hạ.
Vượt
xa các bậc hiền nhân, Đức Giêsu là thầy dạy cho muôn người về lòng khiêm tốn và
sự hiền lành. Người tha thiết mời gọi những ai muốn nên trọn lành: “Hãy học với
tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.” (Mt 11, 29a)
30. Vừa vặn thì êm
Theo
William Barclay, Chúa Giêsu nói, “Ách của Ta thì êm ái.” Chữ “êm ái”, tiếng Hy
Lạp là “chrestos” có nghĩa là vừa vặn. Trong xứ Palestine những cái ách của con
bò được làm bằng gỗ; con bò phải được dẫn đến tiệm thợ mộc để đo kích thước phù
hợp với từng con. Sau đó cái ách phải được thợ mộc đẽo gọt, điều chỉnh, sửa chữa
cẩn thận cho thật vừa vặn để không làm trầy da hay tổn thương đến con vật.
Có
một huyền thoại cổ kể lại rằng Chúa Giêsu là người thợ mộc sản xuất ra những
cái ách vừa vặn vào loại hạng nhất ở xứ Galilêa, và trong khắp cả nước người ta
ùn ùn kéo đến với Người để mua những cái ách hạng nhất do Người làm ra. Thời ấy,
các cửa tiệm cũng có những nhãn hiệu dán trên cửa, và cái nhãn hiệu của tiệm thợ
mộc ở Nagiarét nổi tiếng với hàng chữ: “My yokes fit well” – “Ách Ta rất vừa vặn.”
Chúa
Giêsu nói: “Ách của Ta thì êm ái”, có nghĩa là: “Cuộc sống Ta ban cho con không
phải là gánh nặng làm tổn hại đến con; bổn phận của con đã được đo lường thích
hợp với con rồi.” Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đã được làm để
phù hợp chính xác với những nhu cầu và khả năng của chúng ta.
Chúa
Giêsu nói: “Gánh của Ta thì nhẹ nhàng.” Đúng như lời của một thầy Rabbi đã nói:
“Gánh của tôi đã trở nên bài ca của tôi.” Điều này không có nghĩa là gánh nặng
thì dễ dàng mang vác; nhưng có nghĩa rằng nó được đặt trên vai chúng ta bằng
tình yêu. Nó sẽ được mang vác trong tình yêu. Và tình yêu sẽ làm cho những gánh
nặng nề nhất cũng trở nên nhẹ nhàng như thánh Augustinô đã nói: “Ở đâu có tình
yêu, ở đó hết khó nhọc.”
Trong trận đánh Nga, hoàng đế Napoléon đã mơ tưởng
thu phục cả Ấn độ, và với lòng kiêu căng vô biên, nhà vua đã cho đúc một thứ
huy chương có dòng chữ này: ”Thiên đàng là của Chúa, trái đất là của tôi."
Nhưng rồi nhà vua đã mất ngôi báu vì trận Nga này.
Sau trận thất bại của nhà vua, một viên đại tướng Nga cũng cho đúc một huy
chương khác, trên mặt có một hình bàn tay đưa ra đám mây và cầm roi đánh vào
lưng Napoléon cùng với lời này: ”Cái lưng là của mày, cái roi là của ta."
Và như thế, vị hoàng đế kiêu ngạo, sau này trong nơi
vắng vẻ bị tù đầy ở đảo Sainte Helène có thể suy nghĩ về chân lý về những lời
này của Chúa: ”Kẻ nào đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn kẻ nào hạ mình xuống sẽ
được nâng lên” (Mt 23,12).
32. Anh chàng Tân Ti Tụ.
Đời Trang Công nuớc Tề có người tên là Tân Ti Tụ đêm
nằm mơ thấy một chàng cao lớn đội mũ trắng đi giầy mới, mặc quần gai, áo vải,
đeo gươm tự dưng đến nhà mắng, nhổ vào mặt mà đi.
Tân Ti Tụ giật mình thức dậy, tuy biết chiêm bao
nhưng vẫn tức tối, suốt đêm bực rọc khó chịu, không ngủ được.
Sáng dậy, Tân Ti Tụ mời một bạn thân đến nói rằng:
- Bác ạ, tôi từ nhỏ đến giờ vẫn là kẻ hiếu dũng, nay
sáu mươi tuổi rồi mà chưa hề chịu ai làm nhục, thế mà đêm qua bị một đứa, tôi
phải đi tìm để báo thù, nếu thấy thì hay, còn không tôi chết mất.
Thế rồi từ hôm ấy, sáng nào Tân Ti Tụ cũng cùng bạn
ra đứng ngoài đường cái để rình. Rình mãi ba ngày không thấy, rút cục Tân Ti Tụ
phải uất lên mà chết.
33. Đại dũng thì hiền lành
Ngược lại với thái độ của những kẻ tầm thường chỉ biết
hành động theo tình tư dục, những bậc thánh nhân, hiền nhân quân tử có cái nhìn
khác hẳn. Những kẻ tầm thường không có cái suy nghĩ và hành động như các vị đó.
Thánh Francois de Sales nói: ”Tất cả đều được chinh
phục bởi hiền dịu chớ không phải bạo lực."
Nhà hiền triết Mạnh Tử nói: ”
Thiên đạo vô thân. Thường dữ thiện nhân
Đạo trời không riêng một người, Luôn gia ân cho kẻ
hiền lành.
Ông Tô đông Pha, một văn sĩ Trung hoa thời xưa nói rất
chí lý:
“Chỗ mà người xưa gọi là hào kiệt, ắt phải có khí tiết
hơn người. Nhưng, nhân tính có chỗ không thể nhịn được. Bởi vậy, kẻ thất phu gặp
nhục, tuốt gươm đứng dậy, vươn mình xốc đánh. Cái đó chưa đủ gọi là dũng. Kẻ Đại
dũng trong thiên hạ, trái lại, thình lình gặp những việc phi thường cũng không
kinh, vô cố bị những điều ngang trái cũng không giận. Đó là nhờ chỗ hoài bão của
họ rất lớn và chỗ lập chí của họ rất xa vậy."
34. BEN HUR
Nhà văn Lewis Wallace trong tác phẩm BEN HUR cũng
nói lên tâm tư sững sờ trước sự khiêm nhường sâu thẳm của Đức Kitô:
Ben Hur khi chứng kiến cảnh Đức Kitô bị Giuda phản nộp
và bị các tên lính bắt trói, chàng hăm hở tiến đến gần Chúa Giêsu và hỏi:
- Lạy Thầy, hãy nghe tôi, có phải Thầy tự ý muốn đi
theo bọn lính và các giáo sĩ hay không ?
Đức Giêsu lặng thinh.
- Lạy Thầy, tôi có một binh đoàn quân Galilê trong
thành phố này. Hãy ra lệnh đi, họ sẽ phục tùng Thầy. Thầy có thuận không ?
Đức Giêsu vẫn một mực cúi nhìn đăm đăm xuống đất.
- Lạy Thầy, một lời thôi, một lời của Thầy thôi, tất
cả sẽ theo Thầy...
Đức Giêsu vẫn im lặng, đến nỗi Ben Hur ngã vật xuống
bờ sông Cédron và thốt lên:
- Người Nazareth, hỡi người Nazareth, thế thì thông
điệp của Người mang ý nghĩa gì ?
Mang một ý nghĩa gì ư ? Đó là “Hãy học cùng Ta vì Ta
hiền lành và khiêm nhường trong lòng." Đó là thông điệp mà Đức Giêsu gửi
cho mọi người chúng ta. Ngài đã làm gương trước, chúng ta chỉ việc học đòi bắt
chước Ngài thôi.
35. Yêu thương là lẽ sống
Trong quyển nhật ký của ông, mục sư Martin Luther
King, người đã hy sinh mạng sống để tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da
đen, đã viết:
“Tôi rất hãnh diện nếu ngày tôi qua đời ai đó kể lại
rằng Martin Luther King là người đã cố gắng sống vì yêu thương. Ngày đó tôi
mong muốn các bạn sẽ có thể nói rằng tôi đã cố gắng sống cho công lý, rằng tôi
đã đồng hành với những ai thực thi công lý, rằng tôi đã dấn thân để đem lại cơm
bánh cho những người đói khổ, rằng tôi đã luôn luôn cho kẻ rách rưới ăn mặc.
Tôi mong rằng ngày đó các bạn sẽ nói tôi đã xả thân để thăm viếng những người
tù tội và yêu thương phục vụ mọi người… Còn tất cả những thứ khác, như giải
Nobel hoà bình 1964 không có gì quan trọng…”
Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng chúng con theo hình ảnh
Chúa. Chúa đã phú bẩm cho chúng con một trái tim để yêu thương. Xin cho chúng
con luôn biết tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong yêu thương và phục
vụ, nhất là yêu thương và phục vụ những người nghèo khổ chung quanh chúng con.
36. Trở nên hèn mọn
Năm 1979, trên đường trở về từ Oslo, sau khi nhận giải
Nobel Hòa Bình, mẹ Têrêsa Calcutta dừng lại tại Roma. Các ký giả chen chúc chờ
đợi gặp mẹ trong khuôn viên nhỏ bé của ngôi nhà cộng đoàn các nữ tu Thừa Sai
Bác Ái ở Monte Celio. Mẹ Têrêsa không để cho các ký giả tấn công. Trái lại, mẹ
tiếp họ như những người con. Mẹ nhẹ nhàng đặt vào tay mỗi người một ảnh đeo Đức
Mẹ Vô Nhiễm. Các ký giả ráo riết bao vây mẹ để chụp hình và để phỏng vấn. Một
ký giả táo bạo hỏi:
- "Thưa mẹ, năm nay mẹ 70 tuổi. Khi mẹ qua đời
thế giới cũng sẽ như trước! Vậy đâu có gì thay đổi sau bao nhiêu cực nhọc?"
Mẹ Têrêsa đăm đăm nhìn chàng ký giả trẻ tuổi và nở một nụ cười thật tươi, nụ cười
như một cái vuốt ve trìu mến, rồi mẹ từ tốn nói:
- "Anh thấy đó, tôi không bao giờ nghĩ rằng mình
có thể thay đổi thế giới. Tôi chỉ tìm cách trở thành một giọt nước trong, một
giọt nước lóng lánh rạng ngời Tình Yêu Thiên Chúa, thế thôi. Anh cho là quá ít
sao?" Chàng ký giả trẻ tuổi lúng túng. Các ký giả khác đứng im không nhúc
nhích. Mẹ Têrêsa thản nhiên tiếp tục cuộc đối thoại:
- "Anh cũng nên cố gắng trở thành một giọt nước
trong, như thế, sẽ có hai giọt nước trong. Anh lập gia đình chưa?"
- “Dạ rồi,” chàng ký giả đáp.
- "Vậy anh cũng nên nói với vợ và như thế chúng
ta sẽ là ba giọt nước trong. Anh có con chưa?"
- Thưa mẹ, ba đứa!
- "Tốt lắm. Vậy anh cũng nên nói với các con
anh, và như thế, tất cả chúng ta sẽ là 6 giọt nước trong!
37. Mặc khải cho kẻ bé mọn
"Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha,
vì Cha đã giấu không cho những ngưòi hiền triết khôn ngoan biết những điều ấy,
mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn."
Một nguời giầu kia luôn luôn đầy nỗi lo lắng. Tuy
ông có tất cả mọi cái mà những nguời trên thế gian này muốn có, lòng của ông vẫn
không đuợc vui. Ngược lại, ông có một nguời đầy tớ biết đặt niềm tin vào Thiên
Chúa. Một hôm, khi nguời đầy tớ này thấy chủ mình qúa lo lắng buồn rầu tuởng chừng
chết đi được, anh liền đến nói với ông chủ, "Thưa ông, có phải Thiên Chúa
đã là người cai quản cái thế giới này trước khi ông được sinh ra không ạ?"
"Đúng như thế!" Ông chủ đáp.
Nguời đầy tớ lại hỏi tiếp, "Thưa ông, có phải
chính Thiên Chúa sẽ tiếp tục cai quản thế giới này sau khi ông qua đi không ạ?"
Ông chủ lại trả lời, "Đúng như thế!"
Người đầy tớ hỏi lại, "Như vậy không lẽ không
thể để cho Thiên Chúa cai quản cái thế giới này trong khi ông đang sống hay
sao?"
38. Hãy làm rỗng chiếc ly của mình
Vào thời Minh Trị Thiên Hoàng ở Nhật (1860-1912), có
một vị thiền sư tên là Nan-in đón tiếp một giáo sư đại học đến hỏi về thiền.
Nan-in mang trà đãi khách. Ông rót trà đầy tách của khách nhưng vẫn tiếp tục
rót thêm. Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách trà tràn ra cho đến khi không
kìm mình được nữa nên thốt lên: “Thưa thầy, tách trà đầy quá rồi, xin đừng rót
nữa.”
Vị thiền sư trả lời: “Thưa ngài, đầu óc của ngài
cũng đầy ắp những quan niệm, những tư tưởng… làm sao tôi có thể bày tỏ thiền
cho ngài được, trừ phi ngài làm cạn cái tách của ngài trước đã.”
Lạy Chúa Giêsu,
Nếu tâm hồn chúng con như chiếc ly đầy cát, đó là
tính kiêu căng tự phụ, tự cho mình khôn ngoan thông thái, thì xin giúp chúng
con đổ hết thứ cát bẩn này ra, để được Chúa đong đầy ân phúc.
Nếu tâm hồn chúng con như ao nước đục ngầu vì bị ô
nhiễm bởi nhiều loại rác rến như đam mê tội lỗi, ước vọng thấp hèn… thì xin
giúp chúng con gạn sạch tâm hồn để hình bóng Chúa được in sâu.
Nguyện xin Chúa giúp chúng con dứt khoát trút bỏ tất
cả những gì làm cho tâm hồn trở nên hẹp hòi, khô cứng… để tâm hồn chúng con như
chiếc ly rỗng, như tách trà không… nhờ đó, được Chúa rót đầy ân sủng và tình
yêu.
39. Đức Gioan 23 và bức thư
Lúc được phong chức Tổng Giám Mục, Đức Cha Roncalli
là khâm sứ toà thánh kiêm đại diện tông tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và
Thổ Nhĩ Kỳ.
Công việc của ngài rất khó khăn, vì phải trông coi một
vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo, Công
Giáo với Tin Lành, Chính Thống, Hồi Giáo, và các linh mục triều lại chia rẽ với
các tu sĩ.
Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Đức Tổng Giám Mục
Roncalli nhận được một bức thư nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do một
linh mục trong giáo phận. Đọc xong, Đức cha Roncalli không nói một lời, nhưng
lòng vẫn tha thiết yêu thương vị linh mục ấy.
Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức sứ thần toà
thánh tại Paris, rồi hồng y giáo chủ Vênêcia, và cuối cùng đắc cử Giáo Hoàng với
danh hiệu Gioan 23 năm 1958. Linh mục bất mãn viết thư năm nào vẫn còn sống. Một
ngày kia vị linh nmục này sang Rôma và xin được yết kiến Đức Giáo Hoàng. Linh mục
này đã thuật lại cuộc tiếp kiến riêng với Đức Giáo Hoàng như sau:
“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican,
đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thư bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi
trộm nghĩ, đã mấy chục năm rồi, giờ đây chắc hẳn Đức Thánh Cha không còn nhớ nữa...
Nhưng ai ngờ, sau khi tiếp chuyện thân mật, Đức Thánh Cha mở cuốn Thánh Kinh và
lôi ra trước mặt tôi bức thư khốn nạn ấy.
Đang khi tôi lo âu lúng túng, Đức Thánh Cha đã cầm lấy
tay tôi và dịu dàng bảo ”Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha
cám ơn con. Cha cũng là con người, cũng còn những yếu đuối, cha ngăn bức thư
con viết vào cuốn Thánh Kinh để hằng ngày cha đọc mà xét mình, hầu có thể dứt
khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xẩy
đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho
con.”
40. Dấu hiệu nhận dạng của Chúa Cứu Thế
Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ Têrêsa Avila có kể một
câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống lại hiện ra với thánh
nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay. Trước khi ra đi, Satan hỏi:
“Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi
vì mày không có những vết thương." Trong bài suy niệm của thánh nữ về đời
sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm – thánh nữ Têrêsa đã nói
đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến hơn 40 lần. Thánh nữ thường
xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ, hình ảnh Chúa Kitô mang
thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích của chúng ta là chìa
khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng.
Mầu nhiệm đau khổ là mầu nhiệm mà mỗi người kitô hữu
được mời gọi thông phần, suy niệm và sống trong mọi giây phút của cuộc sống
mình. Cuộc đời kitô hữu của chúng ta không thể nào vắng bóng cái ách, đau khổ,
thập giá... đó chính là một phần trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và là
con đường dẫn chúng ta đến mầu nhiệm phục sinh. Phải qua thập giá mới đến vinh
quang.
41. Mối liên lạc giữa trời và đất
Tại một bệnh viện, một bé gái được đưa vào phòng giải
phẫu. Sau khi chuẩn bị dụng cụ phẫu thuật đầy đủ, trước khi chính thức bắt tay
vào việc. Bác sĩ nói với cháu bé: “Công việc làm cho cháu đầu tiên bây giờ là
phải chích thuốc để cháu ngủ mê." Cháu gái dịu dàng thưa bác sỹ: “Cháu xin
phép bác sỹ trước khi cháu đi ngủ, cháu cần ít phút cầu nguyện với Chúa của
cháu, vì đây là thói quen mà má cháu đã dạy cháu phải cầu nguyện trước lúc đi
ngủ." Thế rồi em bé quỳ gối lên, cầu nguyện một cách thật sốt sắng, cầu
nguyện xong, em nói với bác sỹ: "Thưa bác sỹ, bây giờ cháu đi ngủ được rồi."
Sau đó, chính lúc em bé được giải phẫu thì vị bác sỹ
cũng trong tư thế tâm sự và cầu nguyện với Thiên Chúa của ông, đây cũng là lần
đầu tiên ông cầu nguyện sau hơn 30 năm tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với Chúa chẳng
khác một người vô đạo.
Cầu nguyện chính là sức mạnh, là mối giây liên lạc mật
thiết giữa Thiên Chúa và chúng ta. Sự đơn sơ, chân thành qua việc cầu nguyện của
cháu bé bệnh nhân đã không chỉ đem lại cho em niềm vững tin chịu đựng, chấp nhận
đau khổ, mà còn phát sáng niềm tin, thu hút đánh động lòng người khác trở lại
sau một thời gian dài" lãng quên" Thiên Chúa.
42. Gánh yêu thương
Roger Bolduc chết ở Waterville, Maine, sau một cơn bệnh
ung thư kéo dài. Anh xem căn bệnh như một món quà Thiên Chúa gửi đến. Ngay trước
khi chết, anh viết: “Có nhiều thứ tôi đã từng xem là quan trọng, giờ đây dường
như chỉ là những điều vặt vãnh… Thiên Chúa trở nên quá hiện thực và tôi luôn cảm
thấy gần Ngài, nhưng giờ đây tôi cảm thấy gần Ngài hơn nữa. Tôi có cảm tưởng
Ngài yêu tôi hơn bao giờ hết. Tôi có thể cảm nhận quyền năng của Ngài luôn hiện
diện. Tôi cảm thấy Ngài nghe lời tôi cầu nguyện. Tôi cảm thấy mình được Ngài
yêu."
Thập giá hay gánh nặng nào tôi phải mang trong đời?
Có cái nào trở thành một đặc ân không?
Có thể bạn không nhận ra điều gì đó khi nó xảy đến,
nhưng một sự bất ngờ đôi khi lại là điều tốt nhất đối với bạn (Walt Disney).
43. Ách êm ái và gánh nhẹ nhàng
Ngày kia, chị thánh Têrêxa đố các chị em trong dòng:
- Các chị có biết ngày lễ vui mừng của em là ngày
nào không?
Vừa hỏi xong, chị thánh đã mau mắn trả lời ngay:
- Đó là ngày Chúa thử thách em nhiều nhất. Đó là
ngày Chúa để cho em chịu nhiều đau khổ nhất.
Một hôm kia, bà bề trên hỏi chị:
- Sáng nay, sao em vui thế?
Chị thành thật thưa lại:
- Dạ, con vừa làm được hai việc hy sinh.
Chị thánh Têrêxa thú nhận là chị đã tập được một
thói quen rất anh hùng, đó là luôn mỉm cười. Chị nói:
- Tôi đã tập được thói quen mỉm cười trong mọi lúc,
trong mọi nơi, trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh.
Tình yêu chân thật được đo lường bằng sự quên mình
vì người khác. Chúa Giêsu đã dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)
44. Nghỉ ngơi nơi Trái Tim Chúa
Đã từ lâu, người ta vẫn dùng trái tim như là biểu tượng
của tình yêu. Việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, được Đức Piô IX đưa vào phụng
vụ chính thức của toàn Giáo Hội năm 1856, và ngày 11/6/1899, Đức Lêô XIII đã
dâng hiến loài người cho Thánh Tâm, càng diễn tả mạnh mẽ tình yêu của Thiên
Chúa dành cho nhân loại qua con người Chúa Giêsu Kitô. Thật vậy, nơi trái tim bị
đâm thâu với những giọt nước và máu cuối cùng chảy ra, Chúa Giêsu chứng thực rằng
Ngài đã yêu nhân loại và Ngài yêu đến cùng; Ngài đã hiến thân chịu chết để cho
nhân loại được sự sống đời đời, và trái tim Ngài là chỗ cho chúng ta dung thân
trong những khi hoạn nạn mệt nhọc trên đường đời.
Hãy chiêm ngắm tình yêu của Đức Giêsu Kitô, Đấng chịu
đâm thâu trái tim trên thập giá để cảm nhận được tình Ngài yêu thương tất cả và
từng người chúng ta. Và bạn cũng xin Ngài uốn nắn trái tim mình để ngày càng
nên giống trái tim của Chúa để Ngài dùng trái tim bạn làm chốn nghỉ ngơi cho những
ai đó đang lao nhọc, vất vả trong cuộc đời.
CNTN 14B - Chúa Giêsu tại quê nhà Nazaret
Lời
Chúa: Mc 6, 1-6
Tin Mừng
Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy,
Chúa Giêsu trở về quê nhà và các môn đệ cùng theo Người. Đến ngày Sabbat, Người
vào giảng trong hội đường, và nhiều thính giả sửng sốt về giáo lý của Người,
nên nói rằng: "Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy?
Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? Ông này chẳng phải bác thợ mộc
con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse, Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở
với chúng ta đây sao?" Và họ vấp phạm vì Người.
Chúa
Giêsu liền bảo họ: "Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê
hương, gia đình họ hàng mình.”
Ở đó
Người không làm phép lạ nào được, ngoại trừ đặt tay chữa vài bệnh nhân, và Người
ngạc nhiên vì họ cứng lòng tin.
Người
đi rảo qua các làng chung quanh mà giảng dạy.
TRUYỆN KỂ
1. Bụt nhà
không thiêng
Trong
truyện cổ Trung hoa có kể rằng: Dương Phủ lúc còn nhỏ nhà nghèo, nhưng hết sức
cấy cầy để phụng dưỡng cha mẹ. Một hôm ông nghe bên đất Thục có ông Võ Tề đại
sư rất nổi tiếng, ông liền xin song thân đến tầm sư học đạo. Đi được nửa đường,
ông gặp một vị lão tăng bảo ông rằng:
- Được
gặp Võ Tề đại sư, chẳng bằng gặp Phật.
Dương
phủ hỏi: Phật ở đâu?
Lão
tăng bảo rằng: ngươi cứ quay trở về, gặp người nào quấn vải trên người, đi dép
ngược, là chính Đức Phật đó.
Dương
phủ nghe lời quay về, đi đường chẳng gặp ai cả. Về tới nhà, đêm khuya, trời tối,
ông gọi cửa. Mẹ ông nghe tiếng con mừng quá, chạy vội ra, quấn vội chiếc mền
vào người, đi đôi dép ngược ra mở cửa cho ông. Bấy giờ ông nhìn kỹ, giống như
hình dáng Đức Phật mà lão tăng đã mô tả.
Từ
đó, ông mới hiểu ra rằng: Phật chẳng ở đâu xa, mà là chính cha mẹ ở trong nhà.
Đúng như cha ông ta vẫn nói:
“Tu
đâu cho bằng tu nhà –
Thờ
cha kính mẹ mới là đạo con.”
Thế
nhưng, thói đời thì vẫn thường: “Bụt nhà không thiêng” hay “Gần Chùa, gọi Bụt bằng
anh.”
Người
ta xem thường những con người đang chung sống với mình. Ít ai nhận ra điều hay,
cái đẹp mà những người thân nhất đang cống hiến cho chúng ta. Có khi còn dửng
dưng, xem thường và cư xử thiếu kính trọng với những con người đang sống vì
chúng ta.
2. Thèm
khát.
Có một
lực sĩ, trong cuộc tranh tài quốc tế đã đoạt chức vô địch với tấm huy chương
vàng. Các bạn bè hâm mộ anh, đã dựng một tượng đài để tỏ lòng khâm phục anh. Điều
đó đã làm cho một lực sĩ khác tỏ ra thèm khát. Anh này, ban đêm đã hì hục trong
bóng tối để đào bới với hy vọng phá đổ tượng đài ấy. Trong lúc anh này đang cố
gắng xô đẩy bức tượng, người ta nhận thấy bức tượng lắc lư trên chiếc đế, rồi bỗng
dưng đổ nhào xuống trên đầu và đè chết anh lực sĩ thèm khát này.
3. Đừng để
lỡ cơ hội
Truyện
cổ tích Trung Quốc kể về sự tích “Con Thỏ Ngọc” trên mặt trăng như sau: Thuở ấy,
Ngọc Hoàng Thượng Đế, muốn biết dân cư dưới trần gian sinh sống ra sao, sai một
ông tiên xuống để quan sát. Ông tiên giả dạng làm một người ăn mày già yếu, ăn
mặc rách rưới, đi lang thang vào một buổi chiều mùa đông mưa lạnh. Ông lão đi
ăn xin và xin chỗ trọ.
Nhà đầu
tiên mà ông gõ cửa là nhà con chó sói. Hé cửa nhìn ra, thấy ông lão già nua
rách rưới, chó sói nhe nanh đe dọa để xua đuổi. Ông lão sợ hãi vội chạy đi. Nhà
thứ hai mà ông gõ cửa là nhà con cáo. Con cáo chửi mắng ông thậm tệ nhưng chẳng
cho gì. Buồn tủi, ông lại tiếp tục đi dưới trời mưa lạnh.
Sau
cùng ông gõ cửa một căn nhà bé nhỏ. Đó là nhà con thỏ trắng. Thấy ông lão run rẩy
dưới trời mưa, Thỏ trắng vội vàng mở cửa mời ông vào. Thỏ đưa ông đến ngồi gần
bên đống lửa, đem quần áo ướt hong bên đống lửa cho khô. Ông lão rên rỉ: “Cậu
thỏ ơi, tôi đói quá, cậu có gì cho tôi ăn không? Nếu không tôi chết mất.” Thỏ vội
vàng thưa: “Thưa ông, mùa đông năm nay kéo dài quá, nên rau cỏ dự trữ cháu đã
ăn hết cả rồi. Nhưng cụ yên trí, thế nào cháu cũng tìm được thức ăn đãi cụ.” Thỏ
chất thêm củi cho lửa cháy to hơn. Giữa lúc ông lão còn ngạc nhiên chưa biết thỏ
định làm gì thì thỏ đã nhảy vào giữa đống lửa ngùn ngụt cháy. Chẳng mấy chốc, một
mùi thơm tỏa lan cả căn nhà bé nhỏ. Thì ra thỏ đã tự nguyện hy sinh thân mình,
làm một món ăn cho ông lão ăn mày.
Ông
lão về trời tường trình mọi sự với Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng Thượng Đế
liền cho triệu sói, cáo và thỏ tới. Sói và cáo bị trừng phạt nặng nề. Còn thỏ
thì được khen thưởng cho ở trên Cung Trăng như một vị thần. Nên người Trung Quốc
cũng gọi mặt trăng là Ngọc Thố.
Đây
chỉ là một câu chuyện cổ tích, không có thực. Nhưng ý nghĩa của câu chuyện đáng
cho ta suy nghĩ. Sói và cáo rất ân hận vì đã bỏ lỡ cơ hội. Phải chi chúng biết
đó là ông tiên thì chúng đã tiếp đãi ân cần rồi. Nhưng bây giờ thì đã muộn.
Chúng chẳng hy vọng gì chuộc lại được lỗi lầm để trở thành thần tiên. Cơ hội chẳng
bao giờ trở lại nữa.
4. Đánh giá
theo lý lịch.
Năm
1958, sau khi Đức Giáo Hoàng Piô XII qua đời, các báo chí mô tả ngài như một
ngôi sao sáng chói đã lịm tắt, vì ngài xuất thân từ một gia đình quý tộc, hấp
thụ một nền văn học uyên thâm và đã để lại bao nhiêu công trình lớn lao cho hậu
thế, cho Giáo Hội.
Cơ Mật
Viện đã bầu Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII lên kế vị. Giáo Hoàng này xuất thân từ một
gia đình nông dân nghèo, với hình dáng mập mạp, quê mùa, chất phát. Người ta bảo,
đây chỉ là vị Giáo Hoàng chuyển tiếp cho một vị Giáo Hoàng khác có tầm cỡ như vị
tiền nhiệm của ngài. Nhưng có ngờ đâu con người khiêm tốn, bình dân, giản dị và
vui tươi ấy đã thu hút mọi người. Và nhất là với Cộng đồng Vatican II mà ngài
đã triệu tập, Giáo Hoàng Gioan XXII đã trở thành một “siêu sao”của thời đại, trổi
vượt hơn các vị tiền nhiệm của mình.
5. Chúa ngạc
nhiên vì họ thiếu lòng tin
Thánh
Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về
Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
-
Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh
nhân trả lời:
- Tin
Mừng đã dạy: “Ai tát vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó.”
Họ
thưa:
-
Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh
Antôn nói:
- Nếu
không, ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến
mình.
Nhóm
giáo dân thưa:
- Việc
này vẫn quá khó, không thể để yên những người xúc phạm đến mình được.
Thánh
Antôn nghe xong, quay bảo người môn đệ:
- Con
hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện
cho họ.
6. Bụt nhà
không thiêng
Tagore
(1861-1941) là một đại thi hào của Ấn Độ, đoạt giải Nobel về văn chương năm
1913, có tài làm thơ ngay khi còn nhỏ tuổi.
Lúc
còn niên thiếu, thỉnh thoảng Tagore làm một vài bài thơ gửi đăng trên tờ báo do
thân phụ của mình đảm trách phần biên tập. Khi thấy những bài thơ gửi đến ký
tên con mình, người cha chẳng thèm đọc thơ mà quẳng ngay vào sọt rác vì cho rằng
con mình còn nhỏ dại thì biết gì thi ca.
Khi
hiểu rõ sự tình, Tagore chép lại những bài thơ mà cậu đã gửi đăng báo, không ký
tên thật của mình nữa mà lấy một bút hiệu khác rồi gửi lại cho toà báo.
Lần nầy,
thân phụ của Tagore nhận thấy đây là những bài thơ có giá trị và cho đăng ngay
lên báo mà không hề hay biết đó là những bài thơ của con trai mình, những bài
thơ mà trước đây ông đã quẳng vào sọt rác.
7. Giá trị
đảo lộn
Có
giai thoại kể rằng một người thù ghét chủ tiệm buôn lớn, đã lợi dụng sơ hở của
chủ nhân nên lẻn vào cửa tiệm giữa đêm khuya. Y tháo gỡ miếng giấy ghi giá bán
của những mặt hàng có giá trị cao, đem dán vào những mặt hàng rẻ mạt, rồi gỡ miếng
giấy ghi giá bán những mặt hàng rẻ mạt gắn vào những món hàng quý báu. Thế là
các món hàng quý báu bị mất giá nghiêm trọng còn những món hàng rẻ mạt thì được
nâng cao giá trị gấp trăm lần. Hành động quái ác nầy khiến khách hàng không thể
nhận ra đâu là giá trị đích thực của các món hàng nên đã mua lầm một cách tai hại
(ý tưởng của Frère Phong trong cuốn "mắm muối cho bữa ăn hằng ngày")
Ngày
nay, các giá trị của đời sống con người cũng đang bị đảo lộn y hệt như thế, khiến
nhiều người đua đòi chạy theo những điều phù phiếm mà rời xa những giá trị tinh
thần và văn hoá cao đẹp.
Vì đề
cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên giới trẻ ngày nay đua đòi
ăn mặc hợp thời trang, dù phải mặc những loại y phục thiếu nết na và kỳ quái,
và cho rằng có như thế mới khẳng định được giá trị của mình!
Vì đề
cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên nhiều người sẵn sàng hiến
thân làm nô lệ cho tiền bạc, cố tìm cách trở nên giàu sang bằng mọi giá, cho dù
phải bán rẻ lương tâm, danh dự và ngay cả thân xác mình!
Vì đề
cao giá trị vật chất và xem nhẹ giá trị tinh thần nên người ta đánh giá con người
dựa theo số lượng của cải mà người đó sở hữu chứ không dựa vào phẩm chất cao đẹp
bên trong.
Trước
thực trạng đó, Công Đồng Vaticano II nhắc nhở mọi người: "Giá trị con người
không hệ tại những gì người ta sở hữu nhưng tuỳ thuộc phẩm chất của mỗi người"
8. Thiên kiến.
Cổ học
tinh hoa có thuật chuyện “Mất búa”, đại khái như sau: Một người thợ mộc làm việc
trong vườn. Thằng bé con nhà hàng xóm sang ngồi xem. Mải làm, lúc cần đến búa,
ông tìm mãi không thấy. Ông nghi thằng bé đã ăn cắp búa. Nhìn mặt nó đúng là mặt
thằng ăn cắp búa. Nghe lời nó nói đúng là giọng điệu của thằng ăn cắp búa. Hỏi
thì nó chối đúng là tâm địa gian manh. Được một lúc, ông lại thấy cái búa nằm
khuất đâu đó.
Nhìn
lại mặt thằng bé thì thấy mặt mũi nó hiền lành dễ thương, khác với mặt thằng ăn
cắp búa. Nghe lời nó nói, đúng là con nhà gia giáo, khác với lời ăn tiếng nói của
thằng ăn cắp búa. Hỏi nó thì nó thưa, đúng là con nhà lương thiện, khác hẳn với
thằng ăn cắp búa.
9. Thật giả
lẫn lộn
Một
gánh xiếc đi lưu diễn đóng trại bên ngoài một ngôi làng. Một buổi tối nọ, không
lâu trước giờ trình diễn, ngọn lửa bùng lên trong một chiếc lều. Ông giám đốc
gánh xiếc sai một anh hề, lúc đó đã mặc trang phục cho buổi diễn đi vào làng kế
cận để xin được giúp đỡ. Nếu ngọn lửa lan tràn qua cánh đồng chỉ còn những gốc
rạ khô thì ngôi làng có nguy cơ bị hỏa hoạn.
Anh hề
vội vã chạy vào làng. Anh xin người ta ra ngoài làng càng nhanh càng tốt để
giúp đỡ dập tắt đám cháy. Nhưng không ai cho rằng anh nói nghiêm túc. Người ta
nghĩ đó là một màn quảng cáo khéo léo của giám đốc gánh xiếc. Anh càng cố làm
cho họ biết rằng thật sự có hỏa hoạn, thì họ càng cười anh. Sau cùng lửa đã lan
đến ngôi làng và thiêu rụi.
Lý do
chính mà dân làng không nghe lời cảnh báo là vì họ nhìn người đưa tin chỉ như một
anh hề. Điều này làm cho họ hầu như không thể xem xét sự thật trong lời nói anh
ta nói với họ.
10. Sức mạnh
trong yếu đuối.
Trong
cuốn sách tựa đề The Inner Game of Tennis (Cuộc Chiến Bên Trong Của Môn Tennis)
Timothy Gallwey đã tả lại cái cảnh vào một đêm tối mùa đông khi ông đang lái xe
trên con đường vắng lặng từ tiểu bang Maine đến tiểu bang New Hampshire
Bất
chợt, chiếc xe Volkswagen ông đang lái gặp phải chỗ đường đóng đá nên đã trượt
đi đâm vào đống tuyết ở bên lề đường. Cùng một lúc thì chiếc xe cũng bị chết
máy. Gallwey đã cố gắng tìm đủ mọi cách để nổ máy xe lại nhưng không có kết quả
gì.
Lúc
đó, khí trời lạnh buốt tới âm 20 độ và ông chỉ có một chiếc áo lạnh thể thao
đang mặc trên mình.
Gallwey
mới chỉ có ra khỏi một thành phố độ khoảng chừng 20 phút. Trong 20 phút qua,
ông không nhớ là đã nhìn thấy một chiếc xe nào cả. Ông cố gắng tìm xem có nhà
nào ở ngoài đồng vắng hay có cột điện thoại nào không, nhưng ông không nhìn thấy
một cái gì hết. Ông cũng không biết ông còn cách xa thành phố kế tiếp bao xa.
Gallwey
liền xuống xe và chạy đi tìm người giúp. Khí lạnh đã xâm nhập vào cả người ông
và dần dần ông cảm thấy đuối sức và ông không còn có thể nào chạy được nữa
nhưng phải bước đi.
Sau
khi đi bộ được hai phút thì hai cái tai lạnh ngắt và ông tưởng rằng chúng sẽ
rơi xuống bất cứ lúc nào. Lại một lần nữa, ông lại bắt đầu chạy, nhưng khí lạnh
lại làm cho ông kiệt sức và ông lại phải bước bộ.
Bất
chợt, trong tâm trí ông, ông tưởng tượng ra thân xác của ông sẽ nằm trên con đường
này và nó bị đóng đá và bị tuyết bao phủ. Nghĩ đến đây, ông rùng mình lo sợ.
Sau
đó một vài phút, Gallwey la lớn lên: "OK, nếu sự việc đã định, thì tôi xin
sẵn sàng." Sau đó, Gallwey không còn lo ngại gì đến số mạng của ông nữa,
và ông lại bắt đầu chạy tiếp.
Sau một
vài phút chạy bộ, nhìn lên bầu trời, Gallwey cảm thấy ngạc nhiên về vẻ đẹp của
những ngôi sao lấp lánh và những cánh đồng xung quanh ông đều bao phủ tuyết trắng.
Ngoài
sức tưởng tượng của ông, Gallwey đã chạy được 40 phút mà không cần nghỉ ngơi. Bất
chợt, ông dừng lại bởi vì đằng xa xa, ông nhận ra một ánh đèn phát ra từ một
nhà nông trại. Diệu kỳ thay, ông đã qua khỏi cơn thử thách đầy gian nguy này.
Sau
cái kinh nghiệm khủng khiếp đó, Gallwey đã tự hỏi mình rằng đâu là nguồn gốc của
sức mạnh đã giúp ông để có thể chạy được một quãng đường dài như thế. Rồi, ông
nhớ lại rằng chính ông đã biết tự phó mặc đời mình theo thiên mệnh và qua đó,
ông đã lãnh nhận được một sức mạnh giúp ông chạy một lèo 40 phút như thế.
Khi
biết phó mặc sự sống của mình, Gallwey đã để cho một sự sống thần linh chiếm đoạt
con người của ông. Phó mình trong tay Chúa định đoạt về mình, ông mở ra một lối
cho một sức mạnh thần linh mà ông không bao giờ hay biết.
Kinh
nghiệm của Gallwey giúp chúng ta hiểu được những điều bí nhiệm của Thánh Phaolô
trong bài đọc thứ hai hôm nay.
11. Mạnh và
yếu
Câu
chuyện sau đây có thể giúp chúng ta hiểu được lời của Thánh Phaolô trong bài đọc
II hôm nay: "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh" (2 Cr 12,10)
Hai
người nghèo đi từ thành phố này đến thành phố khác để xin ăn. Một người rất vạm
vỡ khoẻ mạnh và không bao giờ đau yếu, còn người kia thì ốm tong teo và hầu như
lúc nào cũng bị bệnh. Anh chàng khoẻ mạnh thường cười chê anh chàng ốm yếu khiến
chàng này rất buồn, anh cầu xin Chúa trừng phạt anh kia.
Khi
hai người đến thủ đô thì vừa gặp lúc trong triều đình có chuyện buồn, là hai vị
quan thân cận nhất của nhà vua vừa mới chết. Một người là cận vệ của nhà vua,
người khoẻ mạnh nhất nước; người kia là thái ý của nhà vua, người chữa bệnh giỏi
nhất nước. Nhà vua sai người đi khắp nước để tìm hai người thay thế, và cuối
cùng người ta cũng tìm được.
Nhưng
trước khi bổ nhiệm hai người ấy vào chức vụ, nhà vua bảo họ hãy đưa ra bằng chứng
về tài năng của mình. Người ứng cử vào chức cận vệ thưa: "Muôn tâu thánh
thượng, hãy mang đến cho hạ thần người nào khoẻ mạnh và to lớn nhất. Thần sẽ giết
chết hắn ngay lập tức chỉ bằng một cú đấm.” Người ứng cử vào chức thái y thưa:
"Xin hãy mang đến cho hạ thần người nào ốm yếu bệnh tật nhất. Thần sẽ chữa
người đó hết mọi thứ bệnh chỉ trong vòng một tuần lễ."
Người
ta lại đi tìm đối tượng cho hai ứng cử viên ấy thi thố tài năng. Và thật là bất
ngờ, chính hai người ăn mày trên được chọn. Chỉ bằng một cú đấm, người ứng cử
vào chức cận vệ đã giết chết người ăn mày to khoẻ. Và chỉ trong một tuần lễ,
người ứng cử vào chức thái y đã chữa người ăn mày ốm yếu hết mọi thứ bệnh. Thế
là sức mạnh của người ăn mày to khoẻ lại khiến anh phải chết, còn sự ốm yếu của
người ăn mày bệnh tật lại giúp anh khoẻ mạnh!
Thánh
Phaolô đã nói rất đúng: "Khi tôi yếu chính là lúc tôi mạnh.” Người ta thường
không té ngã vì yếu, nhưng vì tưởng mình mạnh.
12. Dụ ngôn
sống động về chung hiệp đại kết
Năm
1940 một thanh niên Tin Lành người Thụy Sĩ dừng xe đạp trước một ngôi làng hẻo
lánh trong cảnh hoang tàn. Một bà cụ khẩn khoản nói với người thanh niên ấy:
"Xin ở lại đây với chúng tôi vì anh thấy rõ chúng tôi sống trong cảnh cô lập."
Người thanh niên ấy nay được cả thế giới biết đến với danh xưng thân thương là
Thầy Roger. Đối với thầy Roger, lời mời của bà cụ nói lên ý Chúa dành cho thầy.
Khi ấy nước Pháp đang trong tình trạng chiến tranh, đất nước bị chia đôi, ranh
giới giữa khu chiếm đóng và khu tự do xuyên qua làng Taizé. Thầy Roger đã kiếm
cho mình một nơi ở và bắt đầu một đời sống cầu nguyện và suy niệm. Nhưng hoàn cảnh
đặt thầy trước những con người cụ thể bị Đức Quốc Xã truy lùng để tiêu diệt.
Thầy
đã đón tiếp và che giấu những người Do Thái đáng thương ấy. Một mình thầy đứng
ra săn sóc an ủi những người nam và nữ chạy trốn quân đội Hít-le. Nhưng vì quân
Đức Quốc Xã truy lùng đối tượng gắt gao nên thầy buộc phải trở về quê hương Thụy
Sĩ. Năm 1944, thầy Roger trở lại Taizé, lần nầy với 3 đồng chí quyết tâm gầy dựng
nên cộng đoàn tu sĩ đại kết rộng mở. Mục tiêu mà cộng đoàn này nhắm thể hiện là
trở nên như "bài dụ ngôn sống động về một đời sống chung hiệp.” Cộng đoàn
chủ tâm dâng lời cầu nguyện để góp phần làm cho các Giáo Hội Kitô được hòa giải.
Hai chủ đích ở tâm điểm của sứ mạng theo thầy Roger là: Phải dám liều thân dấn
mình vào việc giúp đỡ những người nghèo nhất và hoà giải với đức tin công giáo.
Ngay
từ ban đầu thầy Roger đã nối kết với Roma bằng những mối dây của niềm tin tưởng.
Thầy đã kết thân với 3 vị Giáo Hoàng là Đức Gioan XXIII, Đức Phaolô VI và Đức
Gioan Phaolô II. Thầy nói: "Đức Gioan XXIII đã là cha linh hướng đích thực
cho chúng tôi. Chính ngài đã ủng hộ để cộng đoàn Taizé mà ngài gọi là mùa xuân,
được chào đời."
Ngày
nay cộng đoàn Taizé có cả trăm thành viên Công Giáo cũng như Tin Lành thuộc nhiều
truyền thống khác nhau, đến từ hơn 25 quốc gia trên thế giới. Họ không nhận quà
tặng nhưng tự mình lao động để góp phần nuôi sống cộng đoàn và chia sẻ với người
khác. Họ cũng không nhận cho mình tài sản kế thừa nhưng chỉ nhận làm quà tặng
cho người nghèo mà thôi. Kể từ những năm 50, cộng đoàn Taizé đã phái thành viên
của mình đến sống nơi những môi trường nghèo trên thế giới. Riêng về nữ tu, có
hội dòng thánh Anrê từng được thiết lập trong Giáo Hội Công Giáo đã 7 thế kỷ
nay. Kể từ 1966, hội dòng này đã phái người đến ở một làng kế cận Taizé để tham
gia việc đón tiếp khách từ thập phương.
Ảnh
hưởng của Taizé về đại kết nhất là với người trẻ ở Âu Châu, thật là rõ nét. Để
nâng đỡ người trẻ, cộng đoàn này đã khơi động một cuộc hành trình về tin tưởng
lẫn nhau trên toàn cầu. Taizé không tổ chức người trẻ thành phong trào qui về
Taizé, nhưng khuyến khích họ mang lại bình an, hoà giải, niềm tin tưởng lẫn
nhau ngay nơi những thành phố, những đại học, những sở làm việc, những giáo xứ.
Và như vậy, người trẻ được khuyến khích sống chung hiệp với mọi thế hệ. Về cuối
mỗi năm dương lịch, Taizé có tổ chức một cuộc tập họp người trẻ tương đối lớn
trong 5 ngày. Cuộc họp giới trẻ đại kết vào cuối năm 1994, thu hút hơn một trăm
ngàn người trẻ từ nhiều nước tới họp tại Paris của nước Pháp.
13. Bệnh thành
kiến
R.
Tagore là một thi sĩ nổi tiếng của Ấn độ và cả Đông phương nữa. Ông có khiếu
làm thơ ngay lúc còn thơ ấu.
Một
hôm, cậu bé Tagore làm một bài thơ và đưa lên cho cha xem. Ông thân sinh lắc đầu
chê:
- Thơ
mày là thơ thẩn!
Tagore
mới nghĩ ra một mưu: cậu đem bài thơ của mình mới làm, chép lại thật kỹ và chua
xuất xứ là trích sao trong một cuốn thơ cổ. Cậu ta lại không quên đề tên cuốn
thơ cổ ấy cẩn thận.
Lần
này, ông thân sinh đọc xong, mắt sáng rực lên, vỗ đùi khen: “Tuyệt, tuyệt.” Rồi
đem khoe tíu tít với đứa con trai lớn của ông, hiện đang làm chủ nhiệm một tờ
báo văn học. Ông nói:
- Ba
đã đọc rất nhiều thơ cổ, nhưng chưa thấy bài nào hay như bài này.
Ông
con trai chủ nhiệm đọc xong cũng hết mình đồng ý, xoa tay khen là hay đáo để,
và muốn trích đăng lên mặt tờ báo văn học của ông.
Bấy
giờ ông anh cũng như ông thân sinh đòi Tagore phải đưa cuốn thơ cổ kia ra đối
chiếu chứng minh và cũng để dễ bề chua xuất xứ trong khi đăng.
Đến
đây câu truyện mới vỡ lở ra. Có ai ngờ trên đây là một cuộc dàn cảnh bịa đặt của
thằng bé Tagore! Ông thân sinh giận sôi máu lên, nhưng rồi cũng phải nhìn con với
cặp mắt thán phục và hối hận cho thái độ mâu thuẫn của mình xưa nay. (Vũ minh
Nghiễm, Sống sống, 1971, tr 333-335)
14. Những
tài năng bị coi thường.
Nhiều
người có tài năng cao vời bị coi thường trước khi được chấp nhận. Chúng ta có
thể đưa ra mấy trường hợp để làm chứng:
-
Giám mục Fulton Sheen, một nhà thuyết giáo vĩ đại, đã từng bị giáo sư môn biện
luận trường đại học chê: “Anh đúng là diễn giả tồi nhất mà tôi từng gặp.”
- Ernest Hamingway, một tiểu thuyết gia cự
phách, đã từng bị các thầy giáo chê: “Hãy quên việc viết lách đi! Anh không đủ
tài để làm việc đó đâu.”
-
Richard Hooker, tác giả quyển sách nhan đề “Mash”, đã từng thấy quyển sách của
ông bị đến 6 nhà xuất bản từ chối in để rồi cuối cùng quyển ấy đã trở thành một
trong những quyển sách bán chạy nhất.
15. Chú chồn
Pepe LePew.
Cách
đây nhiều năm, các rạp chiếu bóng thường chiếu phim hoạt hoạ. Có một bộ phim được
nhiều người ưa thích tên là Looney Tunes. Một vai được nhiều người hâm mộ trong
phim là chú chồn lãng mạn tên là Pepe LePew.
Pepe
luôn luôn yêu mến mọi người nhưng vì chú có mùi hôi, nên mọi người đều từ chối
tình thương của chú. Nhưng Pepe không nản lòng. Chú vẫn tiếp tục yêu thương dù
có bị từ chối nhiều lần. Pepe không bao giờ từ chối yêu thương bất cứ một ai.
Đó chính là lý do tại sao rất nhiều người coi phim này càng quí mến Pepe.
16. Thánh Alêxù
Thánh
Alêxù là con của một thượng nghị sĩ Rôma vào thế kỷ thứ năm. Vì sợ những cám dỗ
của trần gian quyến rũ, ngài đã từ bỏ gia đình, vinh quang, tiền của, và cả người
vợ trong ngày cưới, để trốn đi sang Tiểu Á. Ở đấy ngài sống cuộc đời nghèo khó
và đền tội trong 17 năm.
Khi sự
thánh thiện của ngài vang dậy khắp nơi, ngài lại trốn đi một lần nữa, và những
cơn gió trái chiều đã đẩy con thuyền của ngài trở về Rôma. Nhờ ơn Chúa trợ
giúp, ngài cải trang về trú tại nhà cha mẹ mình. Ngài sống ở chân gác suốt 17
năm trời, xin của bố thí để sinh sống. Sau khi ngài qua đời, người ta tìm thấy
trong túi áo ngài một miếng giấy ghi lại tông tích và lý do ngài tự ẩn giấu
mình. Bấy giờ, thân mẫu ngài mới khóc to: “Ồ, con ơi, người con lưu lạc lâu
ngày của mẹ ơi, sao đến bây giờ mẹ mới nhận ra con.”
Vâng!
Suốt 17 năm trời! Một con người với hai dáng vóc, một con người đã từng sống ở
cùng một nơi, với những con người đã từng quen thuộc vậy mà họ đã không nhận ra
nhau chỉ vì cái dáng vẻ bên ngoài không giống nhau! Thật là một điều đau lòng.
17. Trọng
con người hay đồng tiền?
Có một
cặp vợ chồng tuổi đã cao, người vợ mặc một chiếc áo bông đã ngả màu, còn chồng
bà ấy thì bận một bộ quần áo vét rẻ tiền. Họ không hẹn trước nhưng bất ngờ đến
và đòi trực tiếp gặp hiệu trưởng trường Đại học Harvard, là một trong những trường
đại học có thế giá và nổi tiếng nhất nước Mỹ.
Cô
thư ký của hiệu trưởng nhận thấy 2 người này có vẻ quê mùa nên chắc cũng chẳng
có chuyện gì quan trọng để bàn với ngài hiệu trưởng, nên tỏ thái độ coi thường.
Người
chồng khẽ nói:
- Tôi
muốn gặp ngài hiệu trưởng.
Cô
thư ký lễ phép đáp lại:
- Xin
thứ lỗi, ngài hiệu trưởng bận rộn suốt cả ngày.
Người
vợ nói:
-
Không sao, chúng tôi có thể chờ đợi.
Trong
suốt mấy tiếng đồng hồ, cô thư ký không thèm để ý đến họ. Cô cố ý để cho họ thấy
khó khăn rồi sẽ tự động rút lui. Nhưng họ vẫn ngồi ỳ ở đó chờ đợi.
Cuối
cùng, cô thư ký quyết định phải báo cho ngài hiệu trưởng:
- Có
lẽ họ chỉ muốn nói một vài câu với ngài rồi đi ngay.
Ngài
hiệu trưởng bất đắc dĩ phải đồng ý.
Người
vợ nói:
-
Chúng tôi có một đứa con trai từng học ở Harvard được một năm. Nó rất thích
Harvard. Nó sống ở Harvard rất vui vẻ. Nhưng năm ngoái, nó đột ngột qua đời. Chồng
tôi và tôi muốn xây một vật tưởng niệm cho con trai tôi trong khuôn viên của
trường.
Ngài
hiệu trưởng chẳng hề xúc động. Ông chỉ cảm thấy buồn cười, ông nói nhát gừng:
-
Thưa bà, chúng tôi không thể nào dựng một tấm bia cho những người trước kia học
ở Harvard mà giờ đây đã qua đời. Nếu chúng tôi làm như thế, thì ngôi trường của
chúng tôi sẽ thành một nghĩa trang mất.
Người
vợ nói:
-
Không phải thế, chúng tôi không lập một tấm bia đâu, mà chúng tôi muốn xây cho
Harvard một tòa nhà.
Ngài
hiệu trưởng nhìn kỹ vào chiếc áo bông đã ngả màu của người phụ nữ và bộ áo vét
rẻ tiền của chồng bà ta, rồi ông xẵng giọng:
- Ông
bà có biết rằng xây một tòa nhà tốn bao nhiêu tiền không? Mỗi tòa nhà trong trường
đại học của chúng tôi đều trị giá trên 7.5 triệu đôla.
Lúc
này, người phụ nữ im lặng không nói gì. Ngài hiệu trưởng rất vui mừng, cuối
cùng thì ông cũng đã làm cho họ phải tự động rút lui. Người phụ nữ quay sang và
nói với chồng:
- Chỉ
cần 7.5 triệu đôla mà có thể xây được một giảng đường lớn sao? Thế thì tại sao
chúng ta lại không xây một ngôi trường đại học để làm vật kỷ niệm cho con trai
chúng ta nhỉ?
Và
như thế, hai vợ chồng ông bà Stanford đã rời Harvard, đến California, thành lập
trường đại học Stanford.
Thế
là Harvard đã mất đi một cơ hội có được 7.5 triệu USD. Thật là một mất mát
không đáng xảy ra chỉ vì sự đánh giá sai lầm của một người.
18. Cái bật
lửa
Để kỷ
niệm một trận chiến, một quận công bên Anh quốc đã làm một bữa tiệc, khoản đãi
một nhóm cựu sĩ quan đã từng chiến đấu sát cánh bên ông. Trong bữa tiệc, ông
đem khoe với họ cái bật lửa rất đẹp mà Nữ Hoàng Anh đã tặng cho ông. Cái bật lửa
được truyền từ tay người này đến người nọ và họ trầm trồ khen ngợi.
Sau bữa
ăn, mọi người được mời ra phòng khách để uống trà. Ông quận công đem thuốc lá
ra mời mọi người nhưng bỗng mặt ông biến sắc, vì ông đã lục lọi mãi trong các
túi áo mà không thấy cái bật lửa đâu. Ông mới hỏi quan khách xem có ai thấy nó ở
đâu không? Mọi người chia ra đi tìm khắp nơi trong nhà, nhưng tuyệt nhiên không
hề thấy. Lúc đó, một viên sĩ quan mới đề nghị tất cả mọi người hãy bật túi áo
mình ra xem có thấy chiếc bật lửa quý đó chăng? Ai cũng làm. Duy chỉ có một người
không chấp thuận đề nghị này. Mọi người đưa mắt nhìn nhau. Ai cũng đoán chắc rằng
chính người này đã lấy chiếc bật lửa của quận công, bởi vì dáng vẻ của ông ta
tiều tụy, áo xống rách rưới. Ông đã lấy danh dự của cựu sĩ quan ra mà thề thốt
và nhưng nhất định không mở túi áo ra cho mọi người xem.
Vài
tuần sau, quận công lại tổ chức một bữa tiệc khác và lần này, ông khám phá ra
cái bật lửa lại ở ngay trong túi áo ông. Cảm thấy xấu hổ vì đã nghi oan cho người
bạn đã từng chiến đấu với mình trên chiến trường, ông bèn quyết định sẽ đến
thăm người bạn để xin lỗi.
Nhà của
viên sĩ quan này nằm trong khu phố nghèo nàn. Sau khi xin lỗi, quận công mới hỏi
người này:
- Tại
sao hôm đó anh đã khước từ không mở túi áo cho mọi người cùng xem?
Lúc
này, viên cựu sĩ quan mới giải thích:
- Hẳn
ngài đã thấy căn nhà của tôi ở tồi tàn như thế nào. Từ lâu, tôi thất nghiệp và
phải nuôi nhiều miệng ăn trong nhà. Ngài đâu biết hôm đó tôi đã nhét tất cả thức
ăn thừa vào túi của tôi, để đem về cho vợ con tôi ăn.
Sau
khi đã hiểu được tình cảnh đáng thương của người đã từng vào sinh ra tử với
mình, ông quận công mới tìm cách đền bù bằng cách tìm một việc làm xứng đáng
cho viên cựu sĩ quan này.
19. Hạnh phúc
đến từ trái tim
Moses
Mendelssohn là tổ phụ của nhà soạn nhạc nổi tiếng người Đức Felix Mendelssohn.
Bề ngoài của ông rất bình thường, ngoại trừ cái tướng ngũ đoản (tức là mình và
tứ chi đều ngắn). Hơn nữa ông còn là một người có cái lưng gù kì quái rất buồn
cười.
Một
ngày nọ, Moses Mendelssohn đến Hamburg để viếng thăm một người làm nghề buôn
bán giàu có. Người này có một cô con gái “rượu’ tên là Fossey rất xinh đẹp.
Nhìn thấy cô là Moses thấy yêu liền. Tình yêu rất chân thành. Ông cảm thấy muốn
yêu một cách mãnh liệt thế nhưng cô này nhất quyết từ chối. Lý do vì thấy cái vẻ
bên ngoài xấu xí của ông. Moses không biết làm sao đành phải im lặng mặc dầu
trong lòng vẫn yêu tha thiết.
Rồi
những gì phải đến cũng đã đến. Đã đến lúc Moses phải rời xa nơi đó. Trước khi
đi, ông lấy hết dũng khí có được, đi lên phòng của Fossey, để nói những lời cuối
cùng hy vọng cô sẽ đổi ý và chấp nhận. Nhưng khi đối diện trước vẻ thánh thiện
của cô, ông trở nên rụt rè. Và cô Fossey đã thẳng thừng cự tuyệt.
Qua
nhiều lần thử tìm cách để bày tỏ tình yêu cùng cô ấy, nhưng không thành. Cuối
cùng ông xấu hổ nói:
-
Nàng có tin vào duyên trời định không?
Cô
nhìn thẳng vào ông và nói:
- Có
chứ! Tôi tin. Sau đó cô hỏi lại ông: “Còn ông, ông có tin vào điều đó không?”
Ông
đáp: “Tôi nghe nói, mỗi người con trai trước khi được sinh ra thì Thượng Đế gọi
đến và hỏi cho biết xem anh ta muốn một người vợ tương lai của mình như thế
nào? Khi tôi sinh ra, tôi chưa được lựa chọn người vợ tương lai cho mình mà chỉ
được Thượng Đế nói cho biết là người vợ tương lai của tôi là một cô gái gù.”
Khi
đó tôi mới van xin Thượng Đế rằng:
-
Thưa Thượng đế, một người phụ nữ mà lại mang trên mình cái lưng gù thì quả là
bi kịch. Xin Người hãy chuyển cái lưng gù ấy sang cho con. Hãy để cho người vợ
của con là một người phụ nữ xinh đẹp.
Lúc ấy
Fossey nhìn thẳng vào đôi mắt của Moses, quên đi hết những suy nghĩ lúc trước về
ông và như từ trong sâu thẳm trái của tim mình thôi thúc, cô đưa đôi tay ra về
phía ông, sau đó. Sau đó cô trở thành người vợ chân thành nhất của ông và hai
người sống hạnh phúc bên nhau suốt đời. Đẹp quá phải không chúng con? Amen.
20. Có tin
mới thấy
Tại một
vùng của nước Pháp, dân chúng có tập tục rất lạ. Đó là vào sáng sớm Chúa Nhật
Phục sinh khi hồi chuông đầu tiên của nhà thờ vang lên, tất cả mọi người đều trổi
dậy chạy ra giếng làng để rửa mắt với giòng nước mát lạnh.
Nhiều
bạn trẻ không hiểu vì sao lại chạy ra giếng rửa mắt, trong khi ngày nay gia
đình nào cũng có các vòi nước trong nhà.
Lúc ấy
các vị bô lão mới giải thích: Đó là hình thức cầu nguyện bằng hành động, qua đó
dân làng cầu xin Thiên Chúa ban cho họ đôi mắt đức tin mới, để họ thấy Đức
Giêsu Phục sinh đang hiện diện sống động giữa họ.
21. Lòng
nhiệt thành mù quáng
Nước
Ethiopia Kitô giáo đã bị cắt đứt liên lạc với Kitô giáo Châu Âu do sa mạc, vị
trí xa xôi và Hồi giáo. Chỉ tới giữa thế kỷ 15, Châu Âu mới biết được thật sự về
nước này. Năm 1441, do kết quả đàm phán của Giáo Hoàng với Thượng phụ Copte ở
Alexandria và cộng đồng người Ethiopia ở Giêrusalem, mà một phái đoàn Ethiopia
được gửi đi tham dự công đồng Florence. Đầu thế kỷ 16, một nhóm thừa sai dòng
Phan sinh được gởi từ Giêrusalem đi Ethiopia nhưng không thành công được bao
nhiêu, khi mà Châu Âu đang trong thời kỳ Cải Cách đau đớn.
Đến
thập niên đầu tiên của thế kỷ tiếp theo, mới có một tu sỹ Dòng Tên được gửi đến
Ethiopia trong một phái đoàn, và đó là Pedro Paez. Ông đến vào năm 1607. Nhà thừa
sai Tây ban nha này hết sức khoan dung đối với văn hóa Kitô giáo Ethiopia. Ông
chấp nhận phụng vụ Ethiopia và đã thuyết phục thành công người Negus tuyên xưng
hai bản tính của Đức Kitô, đồng thời hợp thức hóa sự hiệp nhất Giáo hội
Ethiopia với Rôma. Ngày Sabát của người Dothái cũng bị bãi bỏ và hàng ngàn người
Ethiopia chịu phép rửa, xưng tội và rước lễ từ tay các thừa sai.
Tất cả
những thành tựu của Paez đã bị thiêu rụi bởi người kế nhiệm ông, thượng phụ
Dòng Tên Bồ đào nha tên là Mendez. Ông này đến đây năm 1625 với tám thừa sai
khác. Mendez là một người chủ trương Latinh-hóa không khoan nhượng. Ông không
chỉ nhấn mạnh đến tiếng Latinh, mà cả lịch La-mã và chủ trương chỉ một lối hiệp
thông Kytô hữu thôi. Thêm vào đó, ông còn ra lệnh rửa tội lại tất cả các tín hữu
Ethiôpia, phong chức lại cho các linh mục, rửa lại các bàn thờ và đưa ra khỏi
các nhà thờ thánh tích của các thánh Ethiôpia.
Kết
quả của sự xúc phạm không thể tin được đối với văn hóa cổ xưa và nghi lễ của
Giáo hội Ethiopia này, là họ lập tức quay lại với ly giáo và khôi phục lòng thù
ghét cực độ đối với Rôma và tất cả những gì mà Rôma bảo vệ. Tiếp đó, các thừa
sai Latinh bị thảm sát, và chỉ đến thế kỷ 19 các nhà thừa sai Công giáo mới nhận
lại nghi tiết Ethiôpia và sau đó tiến hành truyền chức linh mục và giám mục.
(Hoành Sơn, QM và DS, Ayward Shorter, Ba cuộc Hội Nhập Văn Hóa thất bại trong lịch
sử)
22. Bụt nhà
vẫn thiêng
Claude
Monet là học sĩ bậc thầy, cha đẻ của trường phái Ấn tượng, hiện vẫn là họa sĩ
Pháp được thế giới biết đến nhiều nhất. Cảnh trí thiên nhiên trong các bức
tranh của ông có sức ám ảnh, mê hoặc lạ. Nó được thể hiện, phản chiếu bởi một
thứ màu sắc, ánh sáng đặc biệt bắt mắt. Danh họa Paul Cézanne không hề quá lời
khi nhận xét: "Người ta không thể chỉ xem tranh của Monet bằng hai mắt vì
Monet còn nhìn đời bằng một con mắt khác.”
Tuy
nhiên, trong khi vị thế của tranh Monet trên thị trường tranh quốc tế ngày một
lên cao, thì tại chính quê hương ông, giới nghiên cứu mỹ thuật lại không mấy
"mặn mà" với tác phẩm của Monet. Có lẽ, đó chính là lý do để Giám đốc
Bảo tàng d’Orsay, ông Guy Cogeval, đứng ra tổ chức tại Paris một cuộc triển lãm
lớn về Monet (bắt đầu từ ngày 22/9/2010 tới ngày 24/1/2011) nhằm góp phần điều
chỉnh thái độ "bụt chùa nhà không thiêng" của những người yêu nghệ
thuật ở "kinh đô ánh sáng."
23. Lòng tự
trọng không sợ bị coi thường
Một
trong những lãnh tụ quan trọng của phong trào công nhân nước Anh là Will
Crooks. Ông ta được sinh ra trong một gia đình rất nghèo. Ký ức đầu tiên của
ông ghi nhận là hình ảnh mẹ ông đang khóc vì không biết lấy gì để ăn trong bữa
sau.
Ông bắt
đầu làm việc trong một lò rèn, lương hàng tuần là 5 hào. Ông trở thành một tay
thợ giỏi, dũng cảm và ngay thẳng nhất thời bấy giờ.
Ông
tham gia việc chính trị ở ngay thị xã Luân đôn. Nhiều người rất bất mãn khi
Will Crooks thành chủ tịch Polar. Ngày nọ, trong đám đông, một mệnh phụ dè bỉu
ông: “Người ta bầu Crooks làm chủ tịch à, anh ta chỉ là dân thợ tầm thường mà
thôi.” Một người trong đám đông, chính là Crooks, đã quay lại bỏ nón ra và nói:
“Hoàn toàn đúng, thưa bà, tôi chỉ là một dân lao động.”
24. Bản
hương khinh bỉ
Ngày
kia, có một anh chàng tên là Dương Bố, lúc ra khỏi nhà để đi thăm bạn bè, thì mặc
bộ đồ trắng, nhưng dọc đường, chẳng may gặp cơn mưa to, áo quần bị ướt đẫm, anh
ta phải ghé vào nhà người quen, mượn tạm được một bộ đồ đen mặc đỡ. Khi trời hết
mưa, anh ta trở về nhà, thì bị con chó bông nhà anh ta, xổ ra sủa ầm ĩ, xông tới
muốn đớp anh ta, vì coi anh ta như một người xa lạ, khiến anh ta nổi xung đùng
đùng, bèn vớ lấy cây gậy toan đập chết con chó một trận nên thân. May nhờ người
anh ruột từ trong nhà bất ngờ bước ra, biết được sự thể công việc, nên khuyên
can, Dương Bố mới dừng tay không rượt theo để đập chết con chó nữa.
Dương
Bố nổi giận với con chó, đó là một điều nông nổi chẳng nên làm, vì nó là loài vật
đâu có trí khôn, làm sao nó biết phân biệt người nhà với khách lạ, khi anh ta
đang mặc bộ đồ mầu trắng lại đổi ra mầu đen. Nó là con vật, chỉ có thể phân biệt
được người này với kẻ kia, qua cách phục sức của họ bên ngoài: Người ra đi, mặc
bộ đồ trắng là người quen, còn người trở về đổi bộ đồ đen chắc là người lạ, có
thế thôi.
25. Thánh Germaine
Cousin
Germaine
Cousin (1579-1601) là một thiếu nữ quê mùa ở làng Pibrac, gần Toulouse, Pháp. Mẹ
mất sớm, cô phải lớn lên trong hoàn cảnh bị cha ghét bỏ và dì ghẻ đối xử tàn tệ.
Do không muốn Germaine chung đụng với con riêng của mình, bà bắt cô phải ngủ
trong chuồng vật hoặc dưới gầm cầu thang, lúc nào cũng phải làm việc trong khi
ăn uống rất kham khổ.
Ngay
khi chín tuổi, Germaine đã phải đi chăn cừu. Mặc những lao nhọc và bất công như
thế, cô vẫn luôn vui vẻ chấp nhận. Cô cũng rất đạo đức và siêng năng tham dự
Thánh Lễ. Mỗi sáng nghe chuông đổ, dù đang chăn cừu, cô cũng vội vã cắm cây gậy
xuống đất và chạy đến nhà thờ, phó thác đàn cừu cho các thiên thần chăm sóc.
Germaine
quá nghèo để có thể chia sẻ vật chất cho người khác. Nhưng tình yêu tha nhân của
cô luôn thể hiện qua sự giúp đỡ bất cứ ai cần đến cô, nhất là các trẻ em trong
làng. Cô thường dạy cho chúng biết kính sợ Chúa · Sự thánh thiện của Germaine bắt
đầu được dân làng chú ý. Nhưng điều này cũng chẳng thay đổi gì tình trạng của
cô trong gia đình. Cô vẫn hay bị trừng phạt vì chia sẻ lương thực cho kẻ ăn
xin. Có lần vào mùa đông, vì nghi ngờ cô giấu miếng bánh trong vạt áo, bà dì ghẻ
đã giật ra nhưng chỉ thấy những bông hoa mùa hè thật đẹp.
Gia
đình bắt đầu nhận ra sự thánh thiện của cô và mời cô vào sống ở trong nhà,
nhưng Germaine xin được tiếp tục cuộc sống như trước. Năm cô 22 tuổi, người ta
tìm thấy cô nằm chết trên đống rơm dưới gầm cầu thang. Cô được Đức Piô IX phong
thánh năm 1849 và đặt làm quan thầy các thiếu nữ thôn quê.
26. Thành
kiến
Bs.
Charles Drew là anh cả trong năm người. Ông tốt nghiệp từ McGill ở Gia Nã Đại với
bằng Bác Sĩ Y Khoa và Tiến Sĩ Phẫu Thuật.
Tại Đại
Học Columbia ở Nữu Ước, ông tìm ra một phương cách để gìn giữ máu trong một thời
gian dài, sử dụng trong việc tiếp máu.
Trong
Thế Chiến II, ông là giám đốc của ngân hàng máu quốc gia, cung cấp máu cho các
quân nhân.
Trong
khả năng của mình, ông đã đặt nền tảng cho thủ tục lấy máu và dự trữ máu của Hồng
Thập Tự. Thật cay đắng, ông là người da đen và vì thế ông không được phép hiến
máu cho Ngân Hàng Máu Hồng Thập Tự.
Vào
năm 1944, ông trở thành trưởng phòng nhân viên và giám đốc y tế tại bệnh viện
Freedman tại Hoa Thịnh Đốn. Ông được rất nhiều giải thưởng và được nhiều người
trong ngành y khoa nhìn nhận ông là một trong những y sĩ hàng đầu thế giới.
Vào
năm 1950, ông bị tai nạn xe hơi trầm trọng và mất rất nhiều máu. Một bệnh viện
kỳ thị chủng tộc ở Burlington, North Carolina, đã từ chối không tiếp máu cho
ông. Ông từ trần trên quãng đường dài để đến một bệnh viện khác mà họ chấp nhận
người da đen.
Và vì
vậy điều xảy ra là vị bác sĩ trẻ tuổi, thông minh đã từ trần khi mới 45 tuổi - ở
đỉnh cao sự nghiệp – chỉ vì một bệnh viện kỳ thị chủng tộc đã từ chối không cho
ông được hưởng kết quả của chính sự khám phá của ông.
27. Sự thật
và tình thương
Vào
năm 1861, Jefferson Davis, tổng thống của Liên Bang Hoa Kỳ, đang tìm kiếm ai đó
để giữ chức vụ then chốt trong nội các. Do đó ông hỏi Tướng Robert E. Lee về một
người nào đó tên là Whiting. Tướng Lee rất khen ngợi người này.
Một
trong những sĩ quan của Tướng Lee mời ông ra ngoài và hỏi ông có biết về những
nhận xét mà Whiting đã xúc phạm đến ông không. Tướng Lee trả lời, “Tôi hiểu rằng
Tổng Thống muốn biết ý kiến của tôi về Whiting, chứ không phải ý kiến của
Whiting về tôi.”
Tướng
Lee đã không để sự cám dỗ làm chủ ông vì những tổn thương, thay vào đó ông đã
nhìn đến sự thật và tình thương.
28. Chúa ngạc
nhiên vì họ thiếu lòng tin
Thánh
Antôn, người khởi xướng cuộc sống ẩn tu trong Giáo Hội, một hôm sau khi giảng về
Bài Giảng Trên Núi, có một số giáo dân tới hỏi:
-
Thưa cha, chúng con phải làm gì để nên trọn lành?
Thánh
nhân trả lời:
- Tin
Mừng đã dạy: “Ai tát vào má phải ngươi, hãy giơ má trái cho nó.”
Họ
thưa:
-
Chuyện này khó quá, chắc làm không nổi.
Thánh
Antôn nói:
- Nếu
không, ít ra cũng không được báo thù. Phải tha thứ cho những người xúc phạm đến
mình.
Nhóm
giáo dân thưa:
- Việc
này vẫn quá khó, không thể để yên những người xúc phạm đến mình được.
Thánh
Antôn nghe xong, quay bảo người môn đệ:
- Con
hãy đi nấu cháo cho những người này ăn, vì họ quá yếu đuối, ta hãy cầu nguyện
cho họ.
CNTN 14C -
TRUYỆN KỂ
1.
truyện
THỨ HAI - Chạm đến
Lời
Chúa: Mt 9, 18-26
Khi
ấy, Chúa Giêsu đang nói, thì có một vị kỳ mục kia đến lạy Người mà thưa rằng:
"Lạy Ngài, con gái tôi vừa mới chết, nhưng xin Ngài đến đặt tay trên nó,
thì nó sẽ sống lại."
Chúa
Giêsu chỗi dậy, và cùng với các môn đệ, đi theo ông ấy.
Và
này có người đàn bà bị bệnh loạn huyết đã mười hai năm, tiến lại đàng sau Người
và chạm đến gấu áo Người. Vì bà nghĩ thầm rằng: Nếu tôi được chạm đến áo Người
thôi, thì tôi sẽ được khỏi. Chúa Giêsu ngoảnh lại, trông thấy bà ta, liền phán
rằng: "Này con, hãy vững lòng. Đức tin của con đã cứu thoát con." Và
người đàn bà được khỏi bệnh.
Khi
Chúa Giêsu đến nhà vị kỳ mục, và thấy những người thổi kèn và đám đông đang xôn
xao, thì bảo rằng: "Các ngươi hãy lui ra, con bé không có chết đâu, nó ngủ
đó thôi." Họ liền nhạo cười Người. Và khi đã xua đám đông ra ngoài, Người
vào cầm tay đứa bé và nó liền chỗi dậy. Tin này đồn đi khắp cả miền ấy.
TRUYỆN KỂ
1. Niềm tin
Các
nhà nghiên cứu tại Israel đã theo dõi tình trạng sức khỏe của 3900 người sống
trong các hợp tác xã 16 năm trời.
Kết
quả cuộc nghiên cứu cho thấy tỉ lệ chết vì bệnh tim và ung thư của những người
có niềm tin tôn giáo thấp hơn 40% so với người không có niềm tin tôn giáo.
2. Lòng khiêm nhường của
thánh Đaminh
Thánh
Đaminh một hôm nói cùng những người đang có mặt trong phòng bệnh của ngài:
-
Tôi không hiểu được tại sao Thiên Chúa không khiến lửa trên trời xuống thiêu huỷ
cái làng này đi, vì nó chứa chấp một người tội lỗi nhất trong thiên hạ.
Họ
nhìn nhau ngơ ngác:
-
Phải chi chúng con biết được kẻ tội lỗi ấy là ai, để tìm cách cho họ được cải
thiện.
-
Người tội lỗi ấy chính là tôi.
-
Phải, bởi vì nếu một người tội lỗi nhất trong thiên hạ được ơn Chúa dồi dào như
tôi đã được, thì người đó đã nên thánh thiện hơn tôi đây gấp ngàn vạn lần rồi.
Chính
vì khiêm nhường có một giá trị to lớn như thế nên các nhà tu đức mới gọi khiêm
nhường là nhân đức nền tảng của đời sống đạo đức. Và có người còn gọi là nhân đức
mẹ của các nhân đức. Nhờ khiêm nhường, người môn đệ có thể dễ dàng nhận ra được
tiếng nói của Chúa và gặp được Ngài trong cuộc đời của mình. Kẻ kiêu ngạo không
bao giờ gặp được Chúa.
3. Đời là bể khổ
Thánh
Ambrôsiô kể rằng dân chúng xứ Thrace khóc và thốt lên những tiếng kêu thảm thiết
khi có một người sinh ra, và trái lại họ vui mừng hát những bài hát hân hoan
khi có người qua đời. Họ tin- và họ có lý- rằng tất cả những ai đi vào trong thế
giới này, một thế giới tràn đầy đau khổ đều đáng thương hại; và khi họ thoát khỏi
nơi lưu đày buồn khổ này, người ta phải vui lên mừng cho họ. Melior est dies
mortis die nativitatis, ngày chết là ngày đáng ưa thích hơn ngày sinh ra.
4. Lòng tin
Alexander
đại đế của Hylạp thời xưa hoàn toàn tin cậy vị y sỹ riêng của ông. Ông tin ngay
cả khi ông có lý do nghi ngờ lòng trung thành của vị y sỹ này. Một ngày kia khi
Alexandre đại đế lâm bệnh, có kẻ viết thư nặc danh tố cáo vị y sỹ đã bỏ thuốc độc
vào thuốc cho ông uống. Nhưng khi vị y sỹ đem thuốc đã bào chế lại, Đại đế nói
“Ta hoàn toàn tin tưởng nơi y sỹ." Nói xong ông cạn chén.
Như
Alexandre đại đế đã hoàn toàn tin tưởng vào y sỹ ngay cả khi ông có lý do nghi
ngờ, người đàn bà trong đọan Tin Mừng này cũng hoàn toàn tin vào Chúa Giêsu, niềm
tin của bà thật mãnh liệt.
5. Nên tin ai
Đức
tin là một yếu tố rất cần thiết để Chúa thực hiện những việc lạ lùng cho chúng
ta. Nhưng đức tin chỉ có khi chúng ta hoàn toàn biết ký thác cuộc đời của chúng
ta cho Chúa.
Có
hai thanh niên da đen làm nô lệ cho một ông chủ Hồi giáo ở Bắc Phi. Ông thường
hay dạy hai đứa phải tin lời tiên tri Mahomed. Ông cũng kể cho hai đầy tớ biết thi
hài của Mahomed hiện đang được lưu giữ trong một chiếc hòm ở thành Mecca bên xứ
Ả-rập.
Một
ngày kia, hai anh em được nghe một nhà truyền giáo nói về sự chết và sự sống lại
của Đức Giêsu. Đêm hôm đó hai người bàn với nhau:
-
Anh nghĩ sao, ông chủ chúng ta nói Mahomed đã chết và xác vị tiên tri này đang
được giữ trong một chiếc hòm. Còn vị giáo sĩ da trắng lại dạy chúng ta rằng: Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đến trần gian chịu chết cho chúng ta và đã sống lại,
hiện đang ngự bên hữu Thiên Chúa Cha trên trời, như vậy biết tin bên nào?
Anh
kia trả lời:
-
Tôi nghĩ, chúng mình nên tin vào người đang sống hơn là tin vào một kẻ đã chết.
6. Khiêm nhường là biết
mình
Ngày
xưa Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi thi hành việc quan, có tên đánh xe theo
hầu. Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng mình tay cầm cái dù, tay cầm
giây cương, mặt vênh váo ngước mặt lên trời, dương dương tự đắc. Lúc chồng về đến
nhà, nàng liền xin với chồng để bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi:
- Tại
làm sao?
Nàng
nói:
-
Án Tử, người vừa gầy vừa thấp bé nhỏ nhoi làm đến chức tể tướng của nước Tề,
danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông ấy vẫn có ý khiêm nhường
như chưa bằng ai. Còn như chàng, cao lớn đẫy đà như thế mà cũng chỉ mới làm được
một tên đánh xe tầm thường, hèn hạ, thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm
vinh hạnh tưởng không ai bằng nữa. Nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi.
Từ
hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chữa được cái tính nông nổi. Án Tử
thấy thế lấy làm lạ liền hỏi. Tên đánh xe đem việc nhà kể lại, Án Tử bèn cất
cho làm đại phu.
7. Chúa thấy lòng tin
Một
video clip của Reuters ghi cảnh Tổng Thống Bush gặp gỡ dân chúng hâm mộ ông ở
Anbani hồi tháng 6/2007. Xem đoạn băng, ta thấy thật rành rành, chiếc đồng hồ
màu đen trên cổ tay trái vị tổng thống đã bị tụt mất giữa rừng cánh tay vồ chụp
lấy ông mà có vẻ như trong nhất thời cả ông lẫn những người cận vệ đều không hề
hay biết. Câu chuyện Tin Mừng hôm nay mô tả Đức Giêsu trong một cảnh tương tự:
Người bị xô lấn bởi đám đông dân chúng hâm mộ Người. Chỉ khác một điều là giữa
vô số sự đụng chạm đó, Đức Giêsu biết rõ một sự đụng chạm rất nhẹ vào tua áo
Người từ phía sau do một phụ nữ băng huyết đã 12 năm! Người biết rõ, bởi vì đó
là sự đụng chạm của một đức tin đặc biệt. Và có một năng lực chữa trị đã phát
ra từ nơi Người.
Nhiều
người đến với Mẹ Lavang, hay các đền thánh, các trung tâm hành hương trên khắp
thế giới để xin ơn lành bệnh, nhưng chỉ một số ít nhận được ơn. Vì sao? Chắc hẳn
vì thiếu lòng tin. Đức Giêsu xác quyết rằng đức tin bằng hạt cải có thể chuyển núi
dời non (x. Mt 17,20). Không chỉ lần này, mà trong nhiều trường hợp khác nữa,
Người nói với bệnh nhân được ơn chữa trị: Này con, lòng tin của con đã cứu chữa
con! Chúng ta hãy biết tin vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhất là khi gặp bệnh
hoạn thể lý và tâm linh. Chính lòng tin của ta sẽ đem lại cho ta điều tốt đẹp
nhất.
8. Chạm đến Chúa
Trước
khi được hoán cải và bắt đầu công việc giữa những người nghèo, Dorothy Day trải
qua nhiều đêm trong những quán rượu ở Nữu Ứơc. Trên đường về nhà, cô thường dừng
lại tham dự thánh lễ sớm ở giáo đường St. Joseph trên đại lộ số 6. Điều thu hút
cô là những con người quỳ gối cầu nguyện. Cô viết trong cuốn “Từ quảng trường
Hiệp Nhất tới Rôma”: “Tôi dường như cảm nhận được niềm tin của những người đó
và tôi mong muốn có được niềm tin như họ… Vì vậy, tôi thường đi vào nhà thờ… và
có lẽ ngay cả tôi cũng xin Thiên Chúa khoan dung đối với một tội nhân như tôi.”
Câu
truyện về đức tin của người phụ nữ bị băng huyết và của Dorothy Day mời gọi tôi
suy nghĩ lại về đức tin của chính mình. Đâu là những mốc quan trọng của nó?
Tôi
tin, nhưng xin trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi (Mc 9,24).
9. Tình yêu nhạy bén
Nhà
văn Công giáo lão thành người Pháp là Jean Guitton nói rằng: “Nhạy bén trước
nhu cầu của người khác, đó là nét tinh tế nhất của tình yêu." Nhìn vào
cách ứng xử của Đức Giê-su, ta thấy Ngài đã nhiều lần bày tỏ nét tinh tế nhất của
tình yêu ấy, chẳng hạn qua Tin Mừng hôm nay. Một người đàn bà bị bệnh hoại huyết
đã 12 năm lẫn trong đám đông như bao người vô danh khác, thế nhưng, Ngài nhận
ra nhu cầu cấp bách của bà, để rồi cho bà lành bệnh. Hơn thế nữa, Ngài còn ban cho
bà niềm tin, để bà không còn tiếp xúc với Ngài một cách vô danh, ẩn mặt, nhưng
mặt đối mặt, trái tim đến trái tim, giữa hai bên: Đấng Cứu Độ và con người cần
được cứu độ. Ngài không muốn bà chỉ dừng lại ở việc chữa lành thân xác, nhưng
đi đến tận nguồn: ơn cứu độ, sự sống đời đời, là chính Ngài.
Hãy
tập sự nhạy bén trước nhu cầu của những người bên cạnh bạn: họ cần lời an ủi, sự
quan tâm, sự ân cần, lòng dịu dàng, sự kiên trì, một sự nâng đỡ vật chất. Bạn
hãy tỏ ra nét tinh tế nhất của tình yêu, như Giê-su.
Tại
sao tôi chưa hoặc ít nhạy bén trước nhu cầu của người lân cận?
10. Đức tin và lòng
khiêm nhường
Trường
hợp ông trưởng hội đường cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong
dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường
của ông trước mặt Chúa Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa, ông đã quì mọp xuống dưới
chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt
tay trên cháu, để nó được cứu chữa và được sống." Như vậy ông này phải tin
Chúa Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm
nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được
toại nguyện.
11. Đức tin và thử
thách
Khi
Chúa Giêsu đang giảng dạy thì ông trưởng hội đường đến bái lạy xin cứu chữa con
gái ở nhà. Chúa Giêsu lên đường đi với ông về nhà. Quãng đường không biết bao
xa, nhưng vì đám đông đi theo chen lấn, và xuất hiện một bà loạn huyết chen vào
“phá đám” nên chưa đến nơi thì có người đến báo là con ông đã chết. Có lẽ lúc
này đức tin của ông trưởng hội đường bị đặt trước một thử thách rất lớn, bởi lẽ
ra Chúa Giêsu có thể đến sớm hơn để “bệnh nhân không chết nếu bác sĩ Giêsu đến
kịp." Thế nhưng Chúa Giêsu đã vội trấn an: “Ông đừng sợ, cứ vững
tin." Và vì vững tin mà con gái ông đã được Chúa cho hồi sinh.
Cũng
vậy, hành trình đức tin của một Kitô hữu chúng ta là một chặng đường dài, đôi
khi còn bị gián đoạn với bào yếu tố ngoại cảnh mà chúng ta không lường trước được,
thậm chí có lúc tưởng chừng như tuyệt vọng. Nhưng nếu chúng ta vững chí như ông
trưởng hội đường trong Tin mừng hôm nay thì sẽ được cứu độ.
12. Thiên Chúa yêu
thương hết mọi người
Tin
mừng hôm nay ghi lại một vài cử chỉ của Chúa Giêsu đối với con người: một vị kỳ
mục đến xin Ngài cứu đứa con vừa chết, người đàn bà mắc bệnh loạn huyết chỉ khấn
thầm và sờ đến gấu áo Ngài, cả hai đại diện của đủ mọi tầng lớp mà Chúa Giêsu gặp
gỡ hằng ngày. Ngài không loại trừ bất cứ hạng người nào, bất cứ giai cấp nào
trong xã hội, bởi vì tất cả đều là đối tượng của Tình yêu Thiên Chúa. Vị kỳ mục
tìm đến với Chúa, người đàn bà đã len lỏi giữa đám đông để sờ vào áo Ngài, đó
là hình ảnh của sự tìm kiếm mà con người không ngừng thực hiện để đến với Chúa.
Nhưng
thật ra, chính Thiên Chúa mới là Đấng đi bước trước để đến với con người. Phép
lạ đã diễn ra như một kết quả của lòng tin: “Đức tin của con đã cứu chữa con”,
nhưng cũng chính niềm tin đã giúp con người khám phá ra phép lạ Thiên Chúa
không ngừng thực hiện vì yêu thương con người.
THỨ BA - Cánh đồng truyền
giáo
Lời Chúa: Mt 9, 32-38
Khi ấy, người ta đem đến Chúa
Giêsu một người câm bị quỷ ám. Khi đã trừ quỷ, thì người câm nói được, đám đông
dân chúng kinh ngạc và nói rằng: "Chưa bao giờ thấy xảy ra như vậy trong
dân Israel." Nhưng các người biệt phái nói rằng: "Ông ta đã nhờ tướng
quỷ mà trừ quỷ."
Và Chúa Giêsu đi rảo khắp các
thành phố làng mạc, dạy dỗ trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời,
và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền. Thấy đoàn lũ dân chúng, Người động lòng
xót thương họ, vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn.
Người liền bảo môn đệ rằng:
"Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Các con hãy xin chủ ruộng sai thợ
đi gặt lúa."
TRUYỆN KỂ
1. Phiên dịch Lời Chúa
Một công nhân hầm mỏ được một
anh bạn hỏi:
- Anh làm gì trong Hội Kinh
Thánh Hải Ngoại vậy?
- Tôi làm việc dịch thuật.
- Anh mà đòi dịch thuật?
- Đúng, tôi lo dịch Lời Chúa
trong Kinh Thánh vào đời sống hằng ngày của tôi.
2. Người hành khất bất đắc dĩ
Cha Anthony de Mello thuật lại một
câu chuyện có thật.
Chuyện xảy ra tại đất nước Bangladesh,
một trong những nước nghèo nhất thế giới.
Có một người đàn ông nọ đi bộ về
nhà sau một ngày làm việc cực nhọc tại xưởng thợ. Vì quá mệt mỏi, ông dừng lại
ngồi nghỉ dưới một bóng cây ven đường và thiếp ngủ đi lúc nào không biết. Khuôn
mặt tiều tuỵ của ông khiến người đi đường ngỡ ông là người hành khất kiệt sức
và ngất xỉu. Và người ta chạnh lòng thương, ai đi qua cũng bỏ vào chiếc mũ của
ông vài đồng xu.
Khi thức giấc, người công nhân
già hết sức ngạc nhiên, vì thấy chiếc mũ cũ kỹ của mình đầy những đồng xu, số
tiền đếm được còn nhiều hơn một ngày công của ông. Ông mỉm cười tự nghĩ mình đã
là một người hành khất bất đắc dĩ.
Trên đường về, ông nhìn thấy nhiều
người ăn xin đui mù tàn tật, ông chạnh lòng thương, rồi ông lặng lẽ chia đều
cho họ số tiền vừa mới nhận được. Và hơn ai hết, người công nhân nghèo hèn ấy
hiểu: được nhận lãnh và được chia sẻ cũng đều là niềm hạnh phúc không gì có thể
sánh bằng.
3. Dấu ấn của quỷ
Cuốn phim “Dấu ấn của quỷ” kể một
câu chuyện rất thương tâm.
Một ngôi làng nhiều mê tín dị
đoan, một bé gái sinh ra mang sẵn một dấu ấn trên ngực. Dân làng nói đó là dấu ấn
của quỷ nên bỏ cô vào thúng rồi thả xuống biển. Một ông lão cùi đã vớt được cô
đem về nuôi. Lớn lên cô gặp một chàng trai, hai người yêu nhau, lấy nhau và sống
hạnh phúc bên cạnh ông lão cùi. Giữa lúc dân làng tìm thấy cô gái và bắt lại.
Và trớ trêu thay cũng giữa lúc ấy người phụ nữ trẻ sinh con, và đứa con cũng có
một dấu ấn y như thế trên ngực. Người mẹ lấy bó đuốc cố đốt sạch dấu ấn trên ngực
con nhưng vô ích. Cuốn phin kết thúc với cảnh người mẹ đau khổ gục chết, ông
lão cùi tuyệt vọng đốt rụi túp lều của mình, và đứa trẻ sơ sinh ngơ ngác không
hiểu số phận mình sẽ ra sao…
Đối với Chúa Giêsu không ai mang
dấu ấn của quỷ, mà chỉ có hình ảnh cao quý của Thiên Chúa trong mỗi người
4. Theo đạo và sống đạo
Sau hơn 200 năm (năm 1784) có mặt
tại Triều Tiên, người Công giáo miền nam nước này đã vượt qua con số 5 triệu,
chiếm tỉ lệ 10,1% dân số cả nước. Nhìn sự thăng tiến vượt bực của Giáo Hội bạn,
người Công giáo Việt Nam cũng nên suy nghĩ về cung cách sống đạo và bổn phận
loan báo Tin Mừng. Rõ ràng mùa màng không thể thu hoạch nếu không có thợ gặt;
anh em lương dân không thể biết Tin Mừng nếu không có người Công giáo giới thiệu,
trình bày cho họ. Trong khi ấy, với anh em lương dân, lối sống đạo của ta chưa
có sức thuyết phục về giá trị Tin Mừng Nước Trời mà Đức Giêsu đem đến cho con
người. Vì thế, thiết tưởng điều chỉnh lối sống đạo là một nhu cầu cấp bách của
Giáo Hội Việt Nam hiện nay.
Mời Bạn: Có một sự “li dị” giữa
việc thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ và việc sống Lời Ngài ngoài nhà thờ.
Có thể bạn chú trọng đến việc lãnh nhận các bí tích và thực hành việc đạo đức
bình dân, nhưng chưa quan tâm đủ đến chiều kích sống những giá trị Tin Mừng nơi
phố chợ. Mời bạn xem xét và sửa đổi lại cung cách sống đạo để thật sự là thợ gặt
của Chúa Kitô.
5. Đi tìm chén thánh
Theo một câu chuyện cổ nước Anh,
thì chén thánh mà Chúa Giêsu dùng trong bữa tiệc ly đã được đem về thành
Cas-tân-bơ-ry. Nhưng vì lòng dạ độc ác của dân thành cho nên chén thánh này đã
được đưa về trời, và chỉ những ai có tâm hồn trong sạch, quảng đại mới được
nhìn thấy chén thánh.
Một người quí tộc trong thành phố
này ước ao được nhìn thấy chén thánh một lần trong đời mình. Ông lên đường tiến
về lâu đài trước kia đã cất giữ chén thánh.
Trong cuộc hành trình, ông gặp một
người phong cùi ngồi ăn xin bên vệ đường. Ông ném cho kẻ khốn khổ một đồng tiền
mà không thèm ngó đến anh ta. Và dĩ nhiên ông đã không bao giờ nhìn thấy được
chén thánh.
Mấy chục năm sau, người quí tộc
giờ đây đã trở thành một cụ già cũng quyết chí trở lại lâu đài một lần nữa. Lần
này ông gặp lại người phong cùi cũng ở chỗ cũ, bên vệ đường.
Vừa thấy kẻ khốn cùng, nhà quí tộc
liền mở hành trang, Ông rút ra một ổ bánh mì thơm ngon và một chiếc cúp bạc sang
trọng. Ông chia cho người phong cùi nửa ổ bánh và ăn phần còn lại. Rồi ông dùng
chiếc cúp bạc múc nước nơi dòng suối bên cạnh. Ông đưa cho người phong cùi uống
trước rồi uống phần còn lại.
Vừa lúc ấy mắt ông bỗng thấy người
phong cùi biến dạng. Rồi ông nghe có tiếng nói như sau:
"Chính Ta đây. Ngươi đã cho
Ta ăn và uống. Bởi vì ai trao ban là trao ban cho ba người: cho bản thân mình,
cho kẻ đói khát và cho chính Ta.”
6. Vô cảm
Năm 2011, báo chí đăng tải hình ảnh
bé Duyệt Duyệt 2 tuổi đang bị một xe hơi cán lên phần đầu của bé. Tài xế dừng lại
vài giây rồi thản nhiên cho xe chạy tiếp để bánh xe sau nghiền nát một phần
thân thể bé. Bé nằm bất động trên vũng máu. Trong bảy phút, có tám người đi qua
nhưng đều thản nhiên bỏ đi. Cuối cùng người thứ chín, một người nhặt rác, đã cứu
em. Con người ngày nay lo mải mê chạy theo lối sống thực dụng đến nỗi chỉ biết
có mình, không cần quan tâm đến ai. Chúa Giê-su hôm nay nêu cao bài học thương
cảm. Ngài chạnh lòng thương đám đông dân chúng bơ vơ, vất vưởng. Chạnh lòng
thương là cảm thấy nhói đau ở chỗ sâu nhất bên trong lòng của mình. Vì tấm lòng
chạnh thương ấy, Ngài đi khắp nơi loan báo Tin Mừng, chữa lành mọi bệnh hoạn tật
nguyền cho dân chúng và nhất là hiến thân mình trên thập giá để cứu độ muôn người.
Lý do làm chúng ta vô cảm là
không quan tâm đến Lời Chúa dạy, cũng như coi thường tiếng lương tâm.
7. Nhu cầu truyền giáo
Một tấm ảnh trong tạp chí Chúa
Nhật cho thấy một cánh đồng dâu đang chín nẫu, với dòng thuyết minh như sau:
“Hàng tấn dâu sẽ bị thối rữa vì không tìm đủ công nhân để hái.” Hình ảnh những
quả dâu thối rữa làm ta liên tưởng đến một bi kịch lớn hơn: Hàng triệu người
trên thế giới này đang chờ đợi được mang đến chân lý và hướng dẫn về Tin Mừng.
Nếu Chúa Giêsu phải viết thuyết minh cho bi cảnh này, thì đó phải là: “Ta không
có đôi chân, nhưng đôi chân các con sẽ đưa Ta vào thế giới. Ta không có miệng
lưỡi, nhưng có miệng lưỡi các con sẽ loan báo cho mọi người tại sao Ta chết cho
họ.”
Đâu là lời đáp trả của tôi cho
những lời thuyết minh của Chúa Giêsu?
Suy nghĩ có thể cao xa, nhưng
hành động thì phải thực tế.
THỨ TƯ - Chọn gọi 12 tông
đồ
Lời
Chúa: Mt 10, 1-7
Khi
ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai môn đệ Người lại, và ban cho các ông quyền hành
trên các thần ô uế để các ông xua đuổi chúng và chữa lành mọi bệnh hoạn, tật
nguyền.
Đây
là tên của mười hai Tông đồ: Trước hết là Simon cũng gọi là Phêrô, rồi đến Anrê
em của ông, Giacôbê con ông Giêbêđê và Gioan em của ông, Philipphê và
Bartôlômêô, Tôma và Matthêu người thu thế, Giacôbê con ông Alphê và Tađêô, Simon
nhiệt tâm và Giuđa Iscariô là kẻ nộp Người.
Chúa
Giêsu đã sai mười hai vị này đi và truyền rằng: "Các con đừng đi về phía
các dân ngoại và đừng vào thành của người Samaria. Tốt hơn, các con hãy đến
cùng các chiên lạc nhà Israel. Các con hãy đi rao giảng rằng: 'Nước Trời đã gần
đến'."
TRUYỆN KỂ
1. Sứ mệnh loan báo nước
Trời
Một
cậu bé thăm bạn nằm trong bệnh viện. Họ nói chuyện về sinh hoạt ở bệnh viện
Công giáo. Cậu bé hỏi: “Tại sao một số nữ tu mặc đồ trắng và một số khác lại mặc
đồ đen?"
Bạn
cậu bé trả lời: “Ồ, những người mặc đồ trắng cho bạn thuốc uống, còn những người
mặc đồ đen cầu nguyện cho bạn khi thuốc hết công hiệu."
2. Chúa chọn họ làm
Tông đồ
Có
một tác giả đã tưởng tượng ra việc Chúa chọn các Tông đồ như sau: Sau những đêm
dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài
đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện, Ngài không chọn
được một ai.
Ngài
đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: Nhiều người biểu diễn cầu
nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng,
cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán
nản vì mất thời gian vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường để ra bờ biển hóng
gió và ở đây Ngài thấy đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số
người để hết tâm hết lực vào công việc họ đang làm. Ngài nghĩ thầm trong lòng,
họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm Tông đồ của Ngài.
3. Thắp lên ngọn lửa
yêu thương
Sáng
thứ bảy, 13/9/97, tại Sân Vân Ðộng Netaji của thành phố Calcutta, với sức chứa
khoảng 15 ngàn người, Ðức Hồng Y Angelo Sodano, quốc vụ khanh Tòa Thánh, và là
Ðặc sứ của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II cầm đầu phái đoàn Tòa Thánh, đã chủ sự
thánh lễ An Táng Mẹ Têrêsa thành Calcutta, cùng với 3 vị Hồng Y, 30 vị Giám Mục
và khoảng 170 linh mục đến từ 14 quốc gia. Ba vị Hồng Y cùng đồng tế với Ðức Hồng
Y Sodano, là Ðức Hồng Y Lourdusamy, người Ấn Ðộ, cựu tổng trưởng bộ Giáo Hội
Ðông Phương; Ðức Hồng Y Pimenta, cựu Tổng Giám Mục Bombay; và Ðức Hồng Y Jean
Claude Turcotte, Tổng Giám Mục Montreal, Canada.
Trong
bài giảng thánh lễ, phần kết, Ðức Hồng Y Angelo Sodano đã nói: “Mẹ Têrêsa đã thắp
lên ngọn lửa tình yêu thương, mà những người con tinh thần của mẹ, nam cũng như
nữ, những nhà truyền giáo của tình bác ái, từ nay cần tiếp tục giữ cho ngọn lửa
đó cháy sáng mãi. Thế giới ngày nay đang hết sức cần ánh sáng và sự nồng ấm của
ngọn lửa này."
Lạy
Chúa, xin cho chúng con trở thành dụng cụ của tình yêu thương. Amen.
4. Nên thánh để thánh
hoá
Trong
giờ kinh chiều thứ sáu 19/06/2009, lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu cũng là ngày Thánh
hoá các Linh Mục, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã khai mạc Năm Thánh Linh Mục.
Ngài đúc kết những phẩm chất và yêu cầu đối với chức vụ linh mục mà Tin Mừng đã
nhắc đến trong trình thuật Chúa Giêsu chọn nhóm Mười Hai Tông đồ:
1.
Chính vì chạnh lòng thương xót dân chúng bơ vơ như chiên không có người chăn mà
Chúa Giêsu chọn gọi các tông đồ trong số các môn đệ đã theo Ngài từ ban đầu (x.
Cv 1,21-22); Đức Thánh Cha nhấn mạnh: các linh mục phải là “những thừa tác viên
giúp các tín hữu cảm nghiệm lòng từ bi thương xót của Chúa và là những chứng
nhân đầy xác tín về tình yêu này.”
2.
Các tông đồ được trao quyền trừ quỷ và chữa bệnh, nói một cách tận căn, là quyền
thánh hoá để tẩy trừ tội lỗi. Để thực thi tác vụ đó, Đức Thánh Cha nói: “Giáo Hội
đang cần những linh mục thánh thiện”
5. Tất cả để loan báo
tin mừng
Thánh
Phanxicô Assisi một hôm gọi một thầy cùng với mình đi giảng đạo. Hai người rảo
qua các đường phố rồi trở về nhà. Thầy đó hỏi thánh nhân vì sao ngài nói đi giảng
đạo mà không giảng dạy gì. Thánh Phanxicô trả lời: ngay trong lúc đi đường ngài
đã giảng đạo rồi.
Chúa Giêsu dạy các môn đệ đến với “các chiên lạc nhà Ítraen” thế mà chưa đến “nhiệm sở,” các ông đã phải rao giảng ngay khi đi dọc đường. Và Chúa còn truyền lệnh cho dù người nghe có đón nhận Lời hay không thì cũng phải nói với họ: “Triều đại Thiên Chúa đã đến gần” (Lc 10,11). Các ông phải sẵn sàng bỏ lại mọi thứ hành trang cồng kềnh, giã từ những mối quan hệ vô bổ để có thể tập trung tất cả cho việc loan báo Tin Mừng.
Tất
cả cho việc loan báo Tin Mừng nghĩa là từ việc bạn mua sắm, ăn mặc, hay làm
công việc nghiệp vụ chuyên môn của bạn cho đến việc bắt tay chào hỏi một người
quen, thậm chí việc bạn nhai một miếng cơm, uống một ngụm nước, v.v… tất cả đều
có thể biến thành một hành động loan báo Tin Mừng nếu như những việc đó chuyển
tải sứ điệp “Nước Thiên Chúa đã đến gần.”
6. Lấy thiện mà thắng
ác
Trong
cuốn phim “Cậu bé Karatê” ông Miyagi hỏi Daniel vì sao lại muốn học Karatê,
Daniel đã trả lời: “Để báo thù có phải là lý do đủ không ạ?” Ông Miyagi nói:
“Những kẻ tìm kiếm sự thù hận, nên đào hai nấm mồ: một cho kẻ thù và một cho
chính bản thân.”
Gương
của Giuse và lời khuyên của ông Miyagi mời gọi tôi kiểm điểm lại cách phản ứng
của tôi đối với những người làm tôi bị thương tổn.
“Đừng
để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12,21).
7. Rao giảng cho mọi
dân tộc
Một
họa sĩ nọ vẽ một bức tranh để minh họa những dòng thánh ca: “Quanh ngai tòa
Chúa trên Thiên đàng, có hàng ngàn trẻ em đang đứng.” Sau nhiều ngày làm việc,
bà đã hoàn thành bức tranh. Vì kiệt sức, bà đã ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ bà
nghe thấy tiếng động. Một người lạ mặt đang sửa lại bức tranh của bà. Bà thét
lên: “Dừng lại, ngươi đang làm hỏng bức tranh.” Người lạ mặt đáp: “Nó đã bị làm
hỏng rồi, bởi vì tôi muốn vẽ khuôn mặt những đứa trẻ với những màu sắc khác nhau.”
Sau đó họa sĩ thức dậy. Bà ta nhận ra rằng chính Chúa Giêsu đã nói với bà trong
giấc mơ. Nước Chúa khởi đầu ở Palestina chỉ như một hạt cải nhỏ bé, nhưng ý định
của Ngài là rao giảng cho khắp mọi dân tộc.
Tôi
đã rao giảng Nước Chúa bằng cách nào?
Tôi
chỉ là một cây viết chì nhỏ bé trong tay Chúa. Người đang muốn gửi một là thư
tình cho thế giới (Mẹ Têrêsa)
THỨ NĂM - Rao giảng về Nước
Thiên Chúa
Lời Chúa: Mt 10, 7-15
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
Tông đồ rằng:
"Các con hãy đi rao giảng rằng
"Nước Trời đã gần đến." Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết
sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã
lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền
nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang
giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
"Khi các con vào thành hay
làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi.
Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: "Bình an cho nhà này." Nếu
nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai
không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay
thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán
xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy."
TRUYỆN KỂ
1. Chỉ thị truyền giáo
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên quan đến việc thi hành sứ
mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng Tin Mừng: Hãy đi rao giảng
Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại,
cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma quỷ. Vì là người được Chúa ủy
thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài: rao giảng Nước Trời, cứu vớt những
người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.
Liên hệ đến tâm thức và cách sống
của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng không của việc hiến
thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón nghe lời rao giảng
cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng
không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay
cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy chào thăm và
chúc lành cho nhà đó.
2. Rao giảng bằng sự quên mình
Hôm ấy là lễ thánh Têrêsa Avila,
dòng kín Carmêlô tại Lisieux mở cửa cho giáo dân và du khách viếng thăm. Có một
người du khách không hiểu lý do đời sống khắc khổ của các nữ tu đã thầm nghĩ:
chỉ có những người không đủ ăn đủ mặc mới dấn thân vào đây. Gặp một nữ tu tại
hành lang, ông nói: “Này chị, giả như chị có toà nhà sang trọng như toà nhà ở
ngoài cổng đối diện với nhà Dòng, chị có thể hy sinh chôn mình trong bốn bức tường
Dòng Kín này không?” Chị nữ tu mỉm cười trả lời: “Thưa ông, nhà ấy chính là nhà
của tôi." Quả thật, đó là nhà của chị thánh Têrêsa Hài Đồng mà người du
khách hiếu kỳ vừa chất vấn.
Đối với chúng ta ngày nay, mỗi
người chúng ta khi nhận phép Rửa tội và phép Thêm sức, chúng ta đều được Chúa mời
gọi và sai đi rao giảng Nước trời, tức là rao giảng về Chúa Giêsu, về tình
thương của Ngài và những hồng ân của Thiên Chúa, có người bằng việc làm, có người
bằng lời nói, nhưng tất cả đều rao giảng bằng chính đời sống của mình.
3. Nhạc sĩ phó tế Vũ Thành An
Mới đây, với chủ đề nhạc thính
phòng, trung tâm ca nhạc Thuý Nga có trụ sở tại Paris đã giới thiệu một số nhạc
sĩ quen thuộc, trong đó nhạc sĩ Vũ Thành An được chú ý tới một cách đặc biệt.
Người ta chú ý đến người nhạc sĩ này không phải vì những “Bài ca không tên” bất
hủ của ông hồi năm 1975. mà vì cuộc hành trình đức tin mà ông đã chia sẻ trong
cuốn băng.
Như một linh mục đứng trên bục
giảng trong nhà thờ, nhạc sĩ Vũ Thánh An cho biết ông đã gặp gỡ Chúa Kitô. Với
tất cả niềm vui và xác tín của mình, ông đã kể lại cho mọi người nghe tại sao
ông đã trở lại với đức tin Công giáo? Tại sao ông đã chuyển hướng để chỉ sáng
tác thánh ca và hiện đang phục vụ Giáo hội trong chức phó tế vĩnh viễn.
Với những khán thính giả ngoài
Kitô giáo, những điều chia sẻ của nhạc sĩ Vũ Thành An hẳn là một trong những
bài giảng hay nhất và có sức thuyết phục nhất. Dù có dửng dưng và lạnh lùng đến
đâu có lẽ không ai mà không bị đánh động bởi cung cách tuyên xưng và rao giảng
Tin mừng một cách vô cùng đơn sơ và cũng vô cùng can đảm của người nhạc sĩ này.
4. Nhận và cho:
Một hôm, có một vị bá tước đến
cho Thánh Gioan Thiên Chúa số tiền là 25 đồng vàng để Ngài giúp những người
nghèo khổ. Ngay chiều hôm ấy ông ta giả trang đến xin thánh nhân bố thí. Thánh
Gioan Thiên Chúa động lòng thương liền lấy 25 đồng vàng đem cho người ấy kèm với
những lời khích lệ an ủi.
Ngày hôm sau, vị bá tước đích
thân đến thú nhận tất cả với thánh nhân và xin lỗi vì đã thử lòng Ngài. Khi giã
từ, ông ta tặng thêm 150 đồng nữa ngoài số 25 đồng ông xin hoàn lại. Từ đó cứ mỗi
tuần ông lại gởi tới bệnh viện của Thánh nhân một số tiền lớn, một số thuốc
men, lương thực và quần áo để thánh nhân giúp đỡ những người nghèo.
5. Niềm vui siêu thoát
Roberto de Vicenzo, người
Argentina, tên tuổi nổi tiếng nhất trong bộ môn côn cầu. Sau khi thắng trận đấu
và nhận được một tấm ngân phiếu tiền thưởng, anh tươi cười bước vào phòng thay
quần áo và chuẩn bị ra về. Giữa đường, một người thiếu phụ chặn anh lại chúc mừng
và kể lể về đứa con đang phải nằm bệnh viện trong cơn ngặt nghèo, và bà không
có tiền để trả viện phí.
Xúc động về câu chuyện đứa trẻ bất
hạnh ấy, anh đã ký tên vào tấm ngân phiếu tiền thưởng và trao cho người thiếu
phụ.
Một tuần sau, một người bạn cho
anh biết người đàn bà đó là kẻ lường gạt, bà ta không hề có gia đình, cũng
không có con cái gì, và cũng chẳng hề có đứa bé nào hấp hối trong bệnh viện cả.
Roberto de Vicenzo hỏi lại:
- Anh bảo là không có một đứa bé
nào hấp hối trong bệnh viện phải không? Đó chính là tin vui lớn nhất mà tôi nhận
được trong tuần này.
6. Lời nguyện của người truyền giáo
Lạy Chúa, xin cứ dùng con theo ý
Chúa, làm chân tay cho những người què cụt, làm đôi mắt cho ai phải đui mù, làm
lỗ tai cho những người bị điếc, làm miệng lưỡi cho người không nói được, làm tiếng
kêu cho người chịu bất công.
Lạy Chúa, xin cứ gởi con ra đồng
lúa, để đem cơm cho người đói đang chờ, và đem nước cho người họng đang khô,
đem thuốc thang cho người đang đau ốm, đem áo quần cho người đang trần trụi,
đem mền đắp cho người rét đang run.
Lạy Chúa, xin cứ dùng con làm tất
cả cho mọi người được hạnh phúc yên vui; còn phần con xin gởi hết nơi Ngài là
Thiên Chúa, Tình Yêu và Lẽ Sống của con. Amen.
7. Tình cho không
Trong cuốn “Chút này làm tin”, đức
cha Nguyễn Thái Hợp thuật lại hành trình gặp Chúa của chị Thu Thủy, một câu
chuyện thật cảm động. Theo chị kể, hành trình Thiên Chúa dắt dìu chị đi từ một
người vô thần đến làm người Ki-tô hữu là một hành trình dài, có bàn tay Thiên
Chúa hướng dẫn. Ngài dùng nhiều người chỉ lối dọc theo đường chị đi.
Khởi đầu, khi đang tuyệt vọng,
có người giới thiệu chị đến cầu xin với thánh Giu-se, dù bấy giờ chị chưa phân
biệt thánh Giu-se với Chúa Giê-su; người thì dẫn chị đi vào nhà thờ lần đầu;
người giới thiệu chị vào học khoá giáo lý; người giảng giải giáo lý cho chị;
các học viên cùng khóa tỏ lòng thân thiện với chị…
Điều đáng nói, tất cả mọi người
đều giúp chị cách “miễn phí.” Dễ hiểu thôi, bởi họ đã “được cho không, thì cũng
phải cho không như vậy.” Những chứng nhân này sẵn sàng “miễn phí” cho mọi thì
giờ, miễn sao Đức Kitô được “nối mạng” với hết mọi người.
Lời Chúa đây vẫn còn hiệu lực
cho mỗi Ki-tô hữu hôm nay, để không ai được viện bất cứ lý do gì làm gián đoạn
hành trình gặp Chúa của tha nhân hay miễn chước cho mình sứ mạng “đem Tin Mừng
biếu không” này.
8. Phản chứng
Cha Ngô Phúc Hậu kể chuyện truyền
giáo ở một giáo điểm: hai cô giáo mới của giáo điểm gây một đống chuyện ghen
tuông; bà dự tòng thì than phiền thầy B. uống rượu với đám thanh niên, “say xỉn
quá coi không được cha ơi!” Cha than thở: “Chúa ơi… ở đây công cuộc truyền giáo
đầy gian khổ… thiếu tiện nghi, thiếu người, bây giờ lại thiếu đạo đức nữa!”
Thiếu đạo đức là chuyện dài nhiều
tập trong đời sống người kitô hữu, thợ gặt của Chúa Kitô. Thiếu đạo đức vì lòng
họ chỉ gắn bó với chuyện hưởng thụ trần thế, dường như quên mất Nước Trời đã đến
gần. Thiếu đạo đức vì không phó thác tin tưởng nơi Chúa, mà chỉ tin tưởng nơi đống
tiền, đống của, hoặc tài năng riêng của mình.
“Người ta bước vào Nước Trời, chứ không phải
Nước Trời đi vào lòng người. Nước Trời ấy là tình trạng những công việc, chứ
không phải tình trạng tâm hồn” (Verhey).
9. Điều kiện siêu thoát
Dịp hội nghị G8 năm 2007, Chương
Trình Lương Thực Thế Giới cho biết rằng cứ 3 giây rưỡi thì có một người chết vì
đói hoặc vì thiếu dinh dưỡng. Để chấm dứt tình trạng bi đát này, thế giới cần
195 tỉ đô la (con số không quá lớn, so với 530 tỉ đô la Mỹ đổ vào cuộc chiến
Iraq cho tới nay).
Chỉ cần 22 nước giàu nhất chịu bỏ
ra 0,7% thu nhập hằng năm của mình thì sẽ có được con số 195 tỉ nói trên. Nhưng
cho đến năm 2015 thì chỉ tiêu ấy vẫn sẽ chưa đạt được. Lý do? Vì một số nước…
không dám đăng ký, trong đó có Mỹ.
Càng giàu xem ra người ta càng
khó móc hầu bao! Nghĩa là không phải ‘lực bất tòng tâm’ mà đây là chuyện ‘tâm bất
tòng lực’: người ta thiếu một tấm lòng, người ta không siêu thoát đủ, người ta
quá bám víu vào mối bảo đảm vật chất cho mình!
Chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu
gắn liền sứ mạng với tinh thần siêu thoát. Người sai các môn đệ vào sứ mạng với
hành trang nhẹ tênh, thậm chí không có cả tiền dằn túi. Người tập cho các môn đệ
biết cậy dựa vào một mình Thiên Chúa thôi.
10. Bàn tay của Chúa
Nhà báo Anh Douglas Hyde thường
tìm cách bôi nhọ Giaó hội Công giáo. Vì vậy ông ta đã tìm đọc cuốn “Giaó hội
Công giáo đối nghịch với thế kỷ 20” của Avro Manhattan. Khi đọc cuốn sách, một
cái gì bất ngờ đã xảy đến với ông. Ông viết: “Thay vì nhận được một số lý lẽ,
tôi nhận ra một điều gì đó về lời dạy mang tính xã hội của Giaó hội. Cuốn sách
được viết để tạo ra những người chống đối Kitô giáo. Còn tôi, nó lại làm cho
tôi trở thành người ủng hộ Giaó hội.”
Điều tương tự như thế cũng đã xảy
đến với các anh của Giuse. Ban đầu, họ nghĩ sai về em mình, nhưng kết cuộc họ lại
yêu thương em.
Nếu có điều xấu xảy đến cho tôi,
có thường nghĩ rằng Thiên Chúa sẽ rút ra được điều tốt đẹp từ đó không?
Không có nỗi đau nào mà thiên
đàng không thể chữa lành được (Thomas More)
11. Món quà của tình yêu
Geraldine Marshall nói rằng kỷ
niệm về ngày sinh nhật đáng ghi nhớ nhất, không phải là kỷ niệm của chính cô,
mà là của cha cô. Một ngày nọ khi cô còn bé, cha cô cho cô một con cọp nhồi
bông. Cô nhảy lên vì vui sướng. Chợt cô khựng lại và hỏi: “Nhưng bố ơi, đó là
sinh nhật của bố, chứ đâu phải của con. Tại sao bố lại tặng quà cho con? Lẽ ra
con phải tặng bố mới phải chứ?” Cha cô trả lời: “Con đã tặng cho bố một món quà
tuyệt vời, đó là niềm hạnh phúc con có được khi nhận quà của cha.” Geraldine vẫn
còn giữ con cọp nhồi bông ấy. Nhưng món quà quý giá nhất mà cha cô đã cho cô
trong ngày đó, là sự hiểu biết sâu sắc niềm vui được cho đi.
Gần đây, món quà nào có ý nghĩa
nhất đối với tôi? Tại sao? Món quà nào gần đây có ý nghĩa nhất đối với người
tôi tặng?
Bàn tay tặng hoa hồng vẫn còn
vương lại hương thơm (Hada Bejar).
THỨ SÁU - Số phận người môn
đệ Chúa
Lời
Chúa: Mt 10, 16-23
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Này, Thầy sai các con đi như
những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và
đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho
công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến
nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết.
Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào
và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải
chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
"Anh
sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho
cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền
đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này,
thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết
các thành Israel cho đến khi Con Người đến."
TRUYỆN KỂ
1. Vì Danh Thầy
(Lm.
Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Tháng
8 năm 2008, tại vùng Orissa ở đông bắc Ấn độ, có một người theo chủ nghĩa dân tộc
thuộc Ấn giáo, bị bắn chết.
Một
tờ báo địa phương đã qui tội cho các Kitô hữu. Lập tức một làn sóng bạo động nổi
lên từ những người Ấn giáo cực đoan. Kết quả là hàng chục người chết, hàng ngàn
người bị thương, 50 nhà thờ bị đốt, 4000 nhà người Kitô hữu bị phá hủy, hàng chục
ngàn người không cửa không nhà, phải sống trong các trại cứu trợ.
Nhiều
Kitô hữu thuộc giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn độ, giai cấp của những người
Dalit, những kẻ bị coi là tiện dân. Người Dalit đã bỏ Ấn giáo để theo Kitô
giáo, và họ đã lấy lại được nhân phẩm, cùng những quyền lợi về kinh tế xã hội.
Họ được giáo dục tử tế, nên giai cấp thống trị không lợi dụng họ được nữa.
Chính
vì thế mà họ bị phân biệt đối xử và bị bách hại. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức
Giêsu đã tiên báo về các bách hại đó.
Những
gì Ngài phải chịu thì các môn đệ cũng sẽ phải chịu, vì tôi tớ không hơn chủ,
môn đệ không hơn thầy.
2. Số phận của người
Kitô hữu
Trong
chuyến hành hương Lộ Ðức tháng 8/1981, Ðức Gioan Phaolô II nhắc đến những hình
thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới, Ngài nói:
"Có
những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn
giáo của họ không được phép hoạt động. Có những Giám mục, Linh mục, Tu sĩ, bị cấm
thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị
phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng
đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả
quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái.
Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền
giáo dục dựa trên niềm tin của mình..."
Tin
Mừng hôm nay một lần nữa cho chúng ta hiểu được thế nào là ơn gọi và số phận của
người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã được cụ già Simêon gọi là dấu chỉ gợi lên chống đối.
Cái chết của Ngài trên Thập giá là cao điểm của những chống đối mà con người
dành cho Ngài. Tiếp tục sứ mệnh của Ngài, Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời, không
thể thoát khỏi số phận bị chống đối ấy. Hình thức và mức độ của những cuộc bách
hại có khác nhau, nhưng tựu trung ở đâu và lúc nào Giáo Hội cũng bị bách hại.
3. Mầu nhiệm Thập giá của
sứ vụ
(Lm
Nguyễn Vinh Sơn SCJ)
Trong
chuyến hành hương Lộ Ðức tháng 8/1981, Ðức Gioan Phaolô II nhắc đến những hình
thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới, ngài nói:
“Có
những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn
giáo của họ không được phép hoạt động. Có những giám mục, linh mục, tu sĩ, bị cấm
thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị
phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng
đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả
quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái.
Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền
giáo dục dựa trên niềm tin của mình..".
4. Cái bạt tai tôi xin
vui lòng lãnh nhận
Năm
1227, bá tước Schavenbourg nguyên là thiếu tướng trong quân đội hoàng gia Phổ,
đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Ông xin vào tu Dòng Anh Em Hèn Mọn của thánh
Phanxicô. Bề trên trao cho thầy một bộ quần áo nghèo hèn, một chiếc bị và một
cái bát để khất thực ngay giữa nơi thành thị đông đúc cho người nghèo và cũng
là để tự nuôi sống.
Một
hôm, đang trên đường đi xin ăn, ông gặp một vị hoàng thân quí tộc đang dạo phố.
Ông đến ngửa tay xin bố thí, nhưng vị hoàng thân chẳng màng lưu tâm. Nhà tu
hành tiếp tục theo sau nhỏ nhẹ nài van một cách kiên trì nhẫn nhục. Bực quá, vị
hoàng thân quay phắt lại, tát cho thầy tu vốn là cựu bá tước một cái tát nảy lửa.
Thầy
thấy bị xúc phạm ghê gớm, lòng tức giận chỉ chực trào lên như trong những ngày
oai phong xưa kia. Thế nhưng, thầy đã kịp bình tĩnh lại và khiêm hạ nói, tay vẫn
ngửa ra: “Vâng, thưa ngài, phần cái bạt tai thì tôi xin vui lòng lãnh nhận,
nhưng còn phần dành cho những người nghèo khổ đáng thương hơn tôi, thì xin ngài
đừng quên bố thí."
5. Đức tin luôn bị bách
hại
Một
học sinh Nhật là Kitô hữu duy nhất trong ngôi trưòng có 150 học sinh. Trước mỗi
bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu Thánh Giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố
cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật." Nghe thấy thế, thầy gọi em
lên đứng giữa lớp và hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng, em chỉ cám
ơn Chúa đã ban cho lương thực hàng ngày. Nghe vậy, thầy giáo ngục xuống bàn, nước
mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Kitô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra
cho mọi người biết. Giờ thì cám ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm
gì."
6. Thật lòn thì đơn sơ
Quận
công Philipphe d’Anjeau, sau khi lên ngôi hoàng đế của cường quốc Tây-Ban-Nha,
đi kinh lý đến đâu cũng đều được thần dân tung hô vạn tuế vang trời dậy đất đến
đó. Nhà vua vốn là người bình dân, ngoan đạo và khiêm tốn. Đã nhiều lần Ngài tỏ
ra bực bội khi phải nghe những bài diễn văn chúc mừng quá dài dòng và quá văn
hoa chải chuốt đến mức giả tạo, của những kẻ nịnh thần chỉ mong thủ lợi.
Một
lần nọ, nhà vua đến thăm một họ đạo nhỏ nọ, cha sở đã tổ chức nghi thức nghênh
đón ngài một cách đơn sơ nhưng không kém phần trang trọng. Khi đức vua đến, cha
tiến ra và đọc lời chào mừng thật giản dị và ngắn gọn:
“Tâu
hoàng đế, thay cho những bài diễn văn chúc tụng như ở mọi nơi, tôi chỉ xin phép
thay mặt toàn thể họ đạo để hát mừng ngài 2 câu thơ, nói đúng hơn, là một lời cầu
nguyện với Thiên Chúa như sau:
“Nguyện
xin Thiên Chúa độ trì,
Đức
vua trường thọ trị vì muôn dân”
Nghe
những lời như thế, nhà vua cảm thấy vui sướng vô cùng. Với một khuôn mặt rạng rỡ,
ngài hô lên như truyền một mệnh lệnh: “Nào, hãy thêm một lần nữa!” Cha sở lập lại
bài thơ một lần nữa, giọng ngân nga trầm bổng.
Sau
đó, nhà vua liền gọi cận thần tùy tùng đến và ra lệnh trao cho họ đạo một món
tiền thưởng lớn, để cho cha sở có thể dùng vào việc từ thiện bác ái giúp những
người nghèo trong họ đạo.
Lần
này thì đến lượt cha sở. Cha cũng kêu lên thật to: “Thêm một lần nữa chứ ạ!”
Thật
hết sức thâm ý. Nhà vua tủm tỉm cười, và quyết định trao tặng thêm gấp đôi số
tiền định ban cho toàn họ đạo. Một kết quả hết sức bất ngờ nhưng không phải là
không có lý do.
7. Ai tin thì sẽ được
Thánh
Hiêrônimô nói: “Người nào không biết nhìn nhận Đấng tạo thành nó, kẻ đó chỉ là
một con vật.”
Ngày
nọ, ở Clervaux hết muối, vị tu trưởng - thánh Bernađô - gọi một thầy Guibert và
bảo:
- Con
hãy lấy con lừa (vì đây là con vật duy nhất mà tu viện còn sở hữu) và đi ra phố
mua muối.
- Xin cha cho con tiền để trả - Guibert nói.
-
Con ơi - thánh Bernađô trả lời, - đã khá lâu cha không còn tiền, không còn
vàng. Nhưng trên cao kia có Đấng giữ túi tiền và kho tàng của cha!
Nghe
nói thế thầy Guibert suýt nữa phì cười, nhưng thầy không thể không lưu ý cha
thánh điều này:
-
Thưa cha nếu con đi với hai bàn tay trắng thì chắc chắn con cũng trở về với hai
tay không.
- Đừng
sợ con ạ, hãy tin tưởng. Đấng giữ kho báu của cha sẽ ở với con và người sẽ tìm
cách giúp con có những gì cần thiết để làm xong công tác.
Thầy
Guibert cúi đầu nhận phúc lành từ tay vị tu viện trưởng và dẫn con lừa ra đi.
Các mối nghi ngờ của thầy vẫn còn đó làm thầy lo lắng. Nhưng khi thầy sắp băng
qua cửa thành thì có một vị linh mục đến gần và hỏi:
-
Thầy từ đâu đến vậy và đi đâu vậy?
Thầy
Guibert không do dự thú nhận sự túng thiếu tột cùng của tu viện cũng như chính
sự bối rối hiện nay của thầy. Nghe xong vị linh mục rất cảm động, ngài dẫn thầy
về nhà, cho thầy nửa thùng muối cộng thêm một số tiền là 30 xu (tương đương với
300 quan Pháp.)
Chúng
ta hãy tưởng tượng xem niềm vui của thầy Guibert như thế nào. Thầy trở về lại
tu viện và chỉ còn việc là phải kể lại câu chuyện đó cho cha bề trên biết ngay.
-
Cha đã nói rõ với con, thánh Bernađô đáp, và cha lập lại với con điều đó: Đối với
người Kitô hữu không có cái gì khác ngoài đức tin!
Mẹ
Têrêsa nói: “Ðức Tin là Quà Tặng của Thiên Chúa."
8. Thánh Thần soi sáng
Thực
vậy, nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn các chủ chăn trong Hội Thánh Công
Giáo Việt Nam, đặc biệt sau ngày 30 tháng 04 năm 1975. Vì khi Đảng Cộng sản VN
đã giành quyền lãnh đạo đất nước, thì Giám mục nào muốn phong chức Linh mục cho
ai, phải được Đảng cộng sản duyệt. Thế mà Đức cha Nam Giám mục Phó địa phận Mỹ
Tho tự ý phong chức cho 30 Linh mục. Công an biết được mời Đức cha đi làm việc:
- Tại
sao ông phong chức Linh mục mà qua mặt chúng tôi?
- Ấy
tôi mới phong chức cho các Phó Linh mục.
-
Thế ra chưa phải là Linh mục ư?
-
Ông cứ đi điều tra những người tôi mới phong chức, toàn làm Phó cho các cha xứ.
-
Thế thì được, chứ ông phong chức Linh mục mà không có phép thì đi cải tạo.
Ta
biết kiểu nói của “Đảng ta” gọi “Phó Tiến sĩ” chưa phải là Tiến sĩ. Do đó công
an hiểu Phó Linh mục chưa phải là Linh mục, nhờ thế Đức cha Nam ra về bình an!
9. Rắn và bồ câu
Các
thánh Tử Đạo chịu mất mạng chứ không để mất Đức Tin và lòng Mến, nên các ngài vẫn
sống dồi dào, vì các ngài đã sống chân lý rắn và bồ câu khi bị tấn công:
- Rắn
khi bị tấn công, nó khôn giấu đầu đi, vì mất đầu là chết ngay, còn đầu mà mất
đuôi nó vẫn sống. Vậy khi bị tấn công ta đừng để mất Đức Tin và lòng Mến.
- Bồ
câu hiền lành, nó không biết báo thù. Đặc biệt bồ câu là biểu tượng cho hòa
bình, vì đây là loài vật duy nhất chỉ đẻ hai trứng mỗi lần, khi nở thành con, một
trống một mái, chúng sống trung tín lứa đôi: khi một trong hai con chết đi, người
ta không thể ghép con còn lại với con khác được. Bởi vì, bình an là hoa quả của
lòng trung tín và lòng mến, nên nếu có bất hòa “thì như con nít thôi” (1Cr
14,20).
10. Sẵn sàng cho cả hai
Đồng
tiền thời La Mã cổ có hình con bò đang chăm chú nhìn vào bàn thờ và cái cày.
Bên dưới hình này có khắc chữ: “Sẵn sàng cho cả hai.” Vào thời La Mã, bò không
những là con vật để chuyên chở, mà còn là vật hiến tế. Nó phải sẵn sàng, dù cuộc
sống ngắn ngủi kết thúc bằng cái chết hay một cuộc sống lâu dài cực khổ. Những
kitô hữu La Mã đầu tiên rất giống với con bò La Mã. Họ phải sẵn lòng cho dù cuộc
sống ngắn ngủi kết thúc bằng cái chết (tử đạo) hoặc một cuộc sống lâu dài cực
khổ (chứng nhân cho Chúa).
Số
phận của những Kitô hữu La Mã thời xưa cũng dễ dàng trở thành số phận của các
kitô hữu thời nay. Tôi đã chuẩn bị sẵn sàng để chấp nhận số phận đó chưa?
Tai
họa cơ bản duy nhất có thể xảy đến, đó là chúng ta cảm thấy rằng thế gian này
là nhà của mình. (Malcom Muggeridge)
THỨ BẢY - Đừng sợ…, nhưng
hãy sợ ….
Lời
Chúa: Mt 10, 24-33
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Môn đệ không hơn thầy, và tôi tớ
không hơn chủ mình. Môn đệ được bằng thầy, tôi tớ được bằng chủ mình thì đã là
khá rồi. Nếu họ đã gọi chủ nhà là Bêelgiêbul thì huống hồ là người nhà của
Ngài. Vậy các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị
thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Điều Thầy nói với các
con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao
giảng trên mái nhà.
"Các
con đừng sợ kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Các con
hãy sợ Đấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán
hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha
các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi.
Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.
"Vậy
ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha
Thầy là Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ
chối nó trước mặt Cha Thầy là Đấng ngự trên trời."
TRUYỆN KỂ
1. Ðừng sợ người đời
Mahatma
Gandhi, nhà tranh đấu bất bạo động cho quyền con người và nền độc lập của Ấn Ðộ,
đã có lần nhắn nhủ các môn sinh như sau: "Sự thật và tình thương sẽ chiến
thắng. Hãy suy nghĩ điều đó và hành động theo sự thật và tình thương. Ðừng bao
giờ dùng bạo lực đáp trả bạo lực, vì làm như thế là bắt chước lối sống man rợ của
những người dùng bạo lực. Khi dùng bạo lực, những người đó cho thấy nỗi thất vọng
và trạng thái thú hóa của họ. Chúng ta hãy sống như con người.
Những
người dùng bạo lực có thể đánh đập và giết chết thân xác chúng ta, nhưng không
thể giết được tinh thần và quyền lợi của chúng ta, họ không thể giết được sự thật.
Sự thật và tình thương sẽ chiến thắng. Hãy suy nghĩ kỹ và hãy sống theo sự thật
và tình thương, bởi vì nếu sống theo bạo lực và hận thù, thì thế giới sẽ trở
thành mù lòa."
Ðã
từng vào tù ra khám, đã từng bị đánh đập hành hung, con người đã nói những lời
trên đây chưa một lần tỏ ra sợ sệt. Ngày 30/01/1948, ông ngã gục vì nhát gươm của
một người quá khích. Cái chết của ông là một cụ thể hóa của chính chủ trương bất
bạo động mà ông đã đề ra.
Sẵn
sàng chết để làm chứng cho sự thật và tình thương với niềm tin vào sự bất tử của
linh hồn con người, Mahatma Gandhi dù chưa phải là Kitô hữu, nhưng đã sống theo
lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay, đó là sống hiên ngang, không sợ hãi trước
các cường lực sự dữ, không sợ hãi những người chỉ giết được thân xác, nhưng
không làm gì được linh hồn; sống trung thực với phẩm giá của con cái Chúa,
không để mình rơi vào tình trạng hóa thú và nô lệ cho bạo lực: "Các con đừng
sợ những kẻ giết được thân xác, mà không giết được linh hồn."
2. Đừng sợ và tin vào Chúa Kitô
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi
những làn khói trắng tại thành Vatican Rôma bay lên, cả Rôma đổ xô về đền thờ
thánh Phêrô và tất cả thế giới hướng về thủ đô của Giáo hội Công giáo.
Vị Giáo hoàng của Giáo hội Công
giáo sau Mật Nghị Hồng y đã được bầu lên ngôi. Chuông của các Giáo đường ở Rôma
vang rền chào đón một triều Giáo hoàng mới bắt đầu. Ít phút sau, tên của vị
Giáo hoàng - Đức Karol Wojtyla với tước vị Gioan Phaolô II được xướng lên, vị
Giáo hoàng đến từ sau bức màn sắt, đất nước Balan.
Ngài đã bước ra ban công để chúc
lành cho thế giới với trách nhiệm kế vị thánh Phêrô, một trong những lời mà
Ngài đã ngỏ lời với thế giới: “Đừng sợ và tin vào Chúa Kitô."
Lời của Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II xác định rõ tinh thần của Đức Kitô: “Anh em đừng sợ” (Mt 10,26) mà
trước đó Đức Kitô nói đến viễn cảnh những người tin sẽ phải đối diện với sự
bách hại và thử thách niềm tin (x. Mt 10,17-25). Hãy sống với niềm tin vào Thầy,
vào Cha Thầy. Niềm tin biểu lộ bằng sự vượt qua sợ hãi, sợ hãi do những cơn
bách hại, sợ hãi do từng cụ thể hoàn cảnh gây cho con người bối rối lo âu...
3. Tại sao lại sợ?
Một sỹ quan người Anh có đức tin
mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến vài ngày
thì gặp bão. Mọi người rất sợ, người vợ viên sỹ quan thì lại sợ hơn cả. Phần
ông thì ông cứ bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách ông là đã không
quan tâm gì đến an nguy của vợ con.
Trước thái độ hoảng hốt của người
vợ như thế, ông không nói một lời. Ông vào phòng rồi quay trở ra với một thanh
kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt đi nhưng ngay
sau đó thì bà phá lên cười thật lớn tiếng như không biết sợ hãi là gì. Thái độ
đó làm cho vị sĩ quan thắc mắc:
- Làm sao em có thể cười khi anh
dí mũi kiếm vào ngực em?
- Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm
trong tay một người rất thương em!
- Vậy thì tại sao em lại muốn
anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng, nó ở trong tay Cha anh là người hằng yêu
mến anh?
4. Trò không hơn Thầy
Một lần kia tôi đang loay hoay
tìm cách đưa một em trai độ lớp 8 đang bị bệnh về nhà, thì một chú xích lô đến
can ngăn và kể rằng chú cũng có một người bạn chạy xích lô, lần nọ gặp một
thanh niên bị xe đụng và đưa về nhà dùm. Vừa về đến nhà, anh thanh niên ấy nằm
ngay đơ ra. Thế là cả nhà xúm lại đổ tội cho chú. Và chú bị tóm đưa vào đồn.
Làm ơn mắc oán. Thật xót xa!
Chúa Giêsu cũng đã bị xử tệ như
thế, và còn hơn thế nữa. Vậy tại sao tôi lại phải sợ, vì “Trò không hơn Thầy, tớ
không hơn chủ. Trò được như Thầy tớ được như chủ là đã khá lắm rồi."
Lạy Chúa Giêsu, cuộc đời này có
lắm cái xấu và những người xấu, nhưng bên cạnh đó còn có biết bao nhiêu người
đang cố gắng xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Xin cho con đừng bao giờ vì sợ
người xấu mà chỉ cộng tác với người lành.
5. Cây ngay không sợ chết đứng
Trong một ngôi làng kia có một
nhà sư rất mực đạo đức được mọi người mến chuộng. Nhưng rồi một ngày kia có một
cô gái trong làng lỡ mang thai với tình nhân. Vì sợ hãi, cô đã đổ thừa cho nhà
sư kia là tác giả của bào thai đó. Nghe vậy, cả làng phỉ nhổ ông và khi đứa bé
chào đời thì người ta đem đến trao cho ông, bắt ông phải nuôi. Người ta đã
không tiếc lời mắng nhiếc ông một cách thậm tệ. Nhưng ông vẫn bình tĩnh trả lời
họ:
- Thế à!
Rồi ông vui vẻ nhận đứa bé, rồi
hằng ngày đi xin sữa mà nuôi nó.
Sau một thời gian vì hối hận, cô
gái kia thú nhận sự thật. Cả làng hốt hoảng đến xin lỗi và xin nhận đứa bé trở
lại. Nhà sư cũng chỉ nói:
- Thế à! Rồi giao lại đứa bé cho
mẹ của nó.
6. Kính sợ Chúa thì hết sợ đời
Một giáo sư đại học Văn khoa xác
quyết với các sinh viên: “Thế giới này còn an bình là nhờ tôn giáo. Tôi quan
sát một lớp học, có nhiều em học nghiêm túc và có những phát biểu rất sâu sắc,
hỏi ra mới biết, đa số các em là người Công giáo. Người Công giáo sống nghiêm
túc, vì đời sống tâm linh của họ còn biết kính sợ Chúa.”
Hôm nay Tin Mừng nhắc ta đừng sợ
những người chỉ giết được thân xác, mà hãy kính sợ Chúa, vì Ngài là chủ đời ta,
đời này và đời sau, thân xác lẫn linh hồn. Chính lòng kính sợ Chúa ấy giúp con
người sống thật với lương tâm của mình.
“Ơn kính sợ Chúa đánh thức lương tâm tôi. Nhờ
đó tôi sẽ nhận ra mình có nhiều lầm lỗi để biết khiêm nhường thống hối, xin
Chúa giàu lòng thương xót xóa tội cho tôi. Lúc đó lòng kính sợ Chúa trở thành
lòng kính yêu gắn bó thiết tha.” (G.M. Bùi Tuần).
7. Tha thứ không còn sợ hãi
Corrie ten Boom sống sót từ trại
tập trung của Đức Quốc Xã trong thế chiến thứ hai. Sau thế chiến, bà đi khắp
Châu Âu diễn thuyết về sự tha thứ cho kẻ thù. Một đêm nọ ở Munich, bà gặp một cai
tù từng bị mọi người trong trại tập trung của bà ghét bỏ. Bà đã cầu nguyện khi
không thể cầm tay ông ta để bày tỏ sự tha thứ. Chính lúc đó, một sức mạnh kỳ diệu
sẽ giúp bà giang rộng cánh tay để tha thứ cho ông ta. Hình ảnh đó dạy cho
Corrie một sự thật: Chính Chúa Giêsu, Đấng đã dạy chúng ta tha thứ sẽ giúp ta
tha thứ, chỉ cần chúng ta biết mở rộng tâm hồn.
Ai là người đã làm thương tổn đến
tôi? Cái gì ngăn cản tôi tha thứ cho họ và xin Ngài chúc phúc cho họ một cách đặc
biệt?
“Chúa đã tha thứ cho anh em, thì
anh em cũng phải tha thứ cho nhau” (Cl 3,13).
8. Sợ Chúa thì không sợ người
Một Chúa Nhật kia, vua nước Anh
xuất hiện trong thánh lễ tại nhà thờ của một linh mục người Anh rất nổi tiếng,
nhưng ông không tuyên bố trước. Khi thấy nhà vua, vị linh mục hơi hốt hoảng, bởi
vì trong bài giảng ông định sẽ đưa ra nhận xét thẳng thắn về những người giàu
có, quyền thế, những kẻ làm ngơ trước người nghèo, trong đó có cả nhà vua.
Vì vậy, trước khi bắt đầu giảng,
ông ngừng lại và nói với chính mình: “Ngươi hãy cẩn thận điều ngươi nói, vua nước
Anh đang hiện diện ở đây ngày hôm nay.” Rồi ông nói thêm: “Nhưng cũng hãy cẩn
thận điều ngươi nói, vì Vua các vua cũng đang hiện diện ở đây ngày hôm nay.”
Chúa Giêsu tuyên bố mạnh mẽ chống
lại điều ác. Không ai đe dọa Ngài. Tôi có can đảm tuyên bố chống lại điều ác
không?
Lòng can đảm thực hiện điều bạn
sợ không dám làm. Sẽ không có lòng can đảm, nếu không có sợ hãi. (Eddie
Rickenbacker)
9. Đừng để mất linh hồn
Thế giới không khỏi ngưỡng mộ
người phụ nữ gan dạ của đất nước Myanmar, bà Aung San Suu Kyi. Vì dân tộc, vì
lý tưởng, bà chấp nhận dấn thân, dù phải chịu nhiều năm tháng bị giam cầm không
được nhìn thấy con cái lớn lên, không chứng kiến được nhịp sống xã hội của dân
mình. Nói đúng hơn, vì muốn sống nên người, bà không sợ hãi sự đe dọa nào.
Vậy thì lòng mến Chúa nơi mỗi
Ki-tô hữu còn khích lệ họ dám sống đến cùng niềm tin của mình hơn. Vì mến Chúa,
Ki-tô hữu chấp nhận sống cho sự thật bất chấp mọi thiệt thòi. Vì mến Chúa,
Ki-tô hữu sẵn sàng chịu mọi gian nan, miễn sao Tin Mừng được rao giảng. Vì mến
Chúa, Ki-tô hữu nỗ lực bảo vệ gia đình trong đức tin, mặc người đời tránh xa.
Người đời có thù ghét cũng chỉ giết được thân xác chứ không giết được linh hồn.
Và nếu sự kiên trì sống nên người của người phụ nữ Myanmar kia lúc này được đáp
đền, thì sự kiên tâm chịu đựng vì đức tin và lòng mến Chúa chắc chắn được Thiên
Chúa bảo đảm như Ngài đã hứa.
Điều gì khiến bạn ngần ngại
không dám bày tỏ và sống đức tin trước mặt mọi người? Phải chăng vì bạn chỉ
nghĩ đến đời này mà quên đời sau, nơi linh hồn và thân xác bạn phải được vui hưởng
trong Chúa, Đấng có quyền trên hồn và xác của bạn?
Lễ kính thánh Tôma tông đồ
Lời Chúa: Ga 20, 24-29
Bấy giờ trong Mười Hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không ở cùng với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa." Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi không tin."
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà, và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con." Đoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin." Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin."
TRUYỆN KỂ
1. Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin.
Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau:
- Em có bằng lòng lấy anh không?
- Bằng lòng.
- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp “kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế?
- Vì em yêu anh!
Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin.
2. Đức tin lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
3. Chúa ở đó nhưng không ai thấy
Trong một vụ tai nạn xe hơi, thầy của tôi bị thương trầm trọng tưởng chừng như không qua khỏi. Ấy vậy mà sau hai tháng điều trị, Thầy đã chóng bình phục và trở về với cuộc sống thường ngày. Khi tôi vào thăm, Thầy đã đón tôi với nét mặt tươi vui và thái độ hân hoan lạ thường. Tôi thắc mắc không hiểu sao với vết thương như thế mà Thầy có thể chịu đựng nổi trước những lưỡi dao len lỏi vào từng tớ thịt, cắt xén, thêm bớt… Thầy vui vẻ trả lời: “Cứ mỗi lần như thế, Thầy lại nhớ đến hình ảnh Chúa Giêsu bị đóng đinh trên Thánh giá, và nỗi đau của Thầy như tan biến hết." Tôi đã làm cho Thầy chưng hửng khi hỏi lại: “Thầy có thấy Chúa đâu mà lại tin như vậy?"
Tâm trạng và thái độ của tôi lúc ấy cũng giống như tâm trạng của Tôma trong Phúc Âm. Đã có lúc tôi tự hỏi: Chúa ở đâu? Sao tôi chẳng thấy? Và tôi không còn thiết nghĩ đến Chúa nữa. Tôi đi lễ chẳng qua vì tôi “lỡ” chịu phép Rửa Tội. Đến nhà thờ mà tâm hồn cứ để tận đâu đâu.
Lời Chúa nói với Tôma đã làm tôi bừng tỉnh, mắt như mở ra. Và tôi thấy Chúa đang mỉm cười với chính mình.
Chúa Giêsu ơi, đức tin của con như hạt sương mai đậu trên nhành cây, để nguyên thì còn mà đụng vào thì sẽ mất. Xin thêm niềm tin cho con, để con dù không thấy Chúa nhưng vẫn tin Ngài đang hiện diện bên con trong cuộc đời.
4. Hành trình truyền giáo của thánh Tôma
Từ ngày ấy, thánh Tôma luôn luôn sống đoàn tụ với các tông đồ chờ đợi Chúa Thánh Thần hiện xuống. Và khi đã được đầy ơn Thánh Linh rồi, Ngài cùng với các môn đệ chia tay nhau đi rao giảng Phúc âm. Thánh nhân giảng đạo tại những nơi nào chúng ta không biết. Theo sử gia Eusèbe thì hình như Ngài giảng đạo tại xứ Parthie. Nhưng theo một truyên thuyết khá kỳ cựu thì thánh nhân đem tin lành đến cho những xứ của mấy nhà bác học, trứơc kia đã đến thờ lạy Chúa Giêsu tại hang Bêlem. Ngoài ra, nhiều văn kiện khác lại cho rằng: Thánh Tôma giảng Phúc âm cho dân Ấn Độ, đã gặp thấy ở đó nhiều người Kitô giáo xưng mình là đồ đệ của thánh Tôma. Hơn thế, các tín hữu Ấn Độ có truyền tụng lại rất nhiều phép lạ mà họ cho rằng: Chúa đã làm vì lời cầu nguyện của thánh Tôma. Dưới đây là một trong nhiều tích truyện.
Lần kia, vua Sagame và các tăng ni Bàlamôn tìm mọi cách ngăn cản, không cho thánh tông đồ cất ngôi nhà thờ như đã định, họ viện lý rằng khu đất ấy dành riêng để xây tư dinh cho nhà vua.
Thế rồi một hôm bể động, nhiều đợt sóng to đổ vào bờ đem theo một cây gỗ quý rất lớn. Nhà vua muốn đem cậy gỗ ấy về làm vật liệu xây cung điện. Nhưng vì cây gỗ quá nặng đến nỗi hàng trăm con voi kéo không nổi. Trong lúc các quan triều lúng túng chưa biết tìm kế nào đưa trọn cây gỗ về triều cho vua, thì thánh Tôma được Chúa soi sáng, Ngài đến thẳng đền vua và mạnh dạn tâu: “Nếu đức vua bằng lòng cho tôi xây ngôi nhà thờ dâng kính Thiên Chúa, tôi sẽ giúp vua, một mình kéo cây gỗ về thành không cần đến một người lính hay một con voi nào."
Nhà vua ngỡ ngàng, cho rằng thánh nhân nói khoác. Nhưng sau, theo lời bàn của giới chư tăng, nhà vua đồng ý và định ngày kéo gỗ. Đến ngày đã định, vua và các quan triều đến chứng kiến công việc. Dân chúng cũng kéo đến xem chật ních. Thánh tông đồ, bình tĩnh bước ra chào vua rồi quỳ xuống cầu nguyện. Đoạn Ngài đứng dậy buộc giây vào đầu cây gỗ, giơ tay làm dấu thánh giá và kéo đi một cách nhẹ nhàng, trước con mắt kinh hoàng của mọi người.
Dầu vậy, đến nay lịch sử vẫn chưa xác quyết thánh Tôma có giảng đạo tại những xứ sở nào. Và cũng chưa rõ thánh nhân chết ở đâu và bằng cách nào. Nhiều người cho rằng: thánh nhân qua đời tại Eusèbe hay một thành nào gần đó. Nhưng ý kiến khác lại cho rằng: thánh tông đồ chịu tử đạo tại Ấn độ.
5. Tôma không thích nửa vời
Hồi đó, dưới hỏa ngục, các tướng quỷ tranh luận với nhau về đề tài: “Đâu là phương pháp hữu hiệu nhất để chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa?” Trên khán đài nồng nặc mùi diêm sinh và bên dưới là các tướng lãnh tranh luận sôi nổi với nhau.
Tên thứ nhất đứng lên tuyên bố:
Đối với tôi, lòng ham mê ăn uống là thù địch số một của Chúa. Thử hỏi vì lý do gì mà Ađam và Evà sa ngã phạm tội ở vườn địa đàng? Thưa cũng chỉ vì thèm ăn một trái táo. Rồi đến Esau mất quyền trưởng nam cũng chỉ vì một bát cháo đậu xanh.
Một tràng pháo tay vang dội.
Kế đó tên quỷ thứ hai cứng rắn phản đối tên thứ nhất. Hắn cho rằng lòng tham của cải mới chính là thù địch số một của Chúa. Giuđa là một thí dụ.
Tên quỷ thứ ba tiến lên. Theo hắn thì lòng kiêu ngạo chính là chủ của mọi tính hư nết xấu.Sự sa ngã của các thiên thần là thí dụ.
Tên quỷ thứ tư bước lên khán đài ngang nhiên tuyên bố:
Không, thù địch số một của Chúa chính là lòng ham mê nhục dục và mọi thú vui giác quan.
Nghe những lời đó quỷ vương phân vân không biết phải trao chiến thắng về cho ai, bởi vì ai cũng có lý cả. Sau cùng, từ chỗ quan khách đang ngồi chăm chú theo dõi, tên quỷ thứ năm dõng dạc chậm rãi tiến ra. Với giọng vừa mỉa mai vừa cứng rắn, hắn lên tiếng đả kích tất cả các lý luận trên và phủ nhận mọi bằng chứng đã được đưa ra. Sau đó hắn nói dằn từng tiếng:
Kẻ thù số một của Chúa không hẳn là lòng ham mê, tham lam cũng không phải là tính kiêu ngạo, tất cả những thói xấu đó đứng riêng rẽ một mình chẳng khác nào con dao cùn, nhưng nếu tổng hợp tất cả những thói xấu đó lại thành một hợp chất khác tuy không tên tuổi, không ai để ý tới, nhưng chúng sẽ là một khí cụ lợi hại và hiệu nghiệm nhất. Đó là lòng lạnh nhạt, không nóng cũng không lạnh. Những kẻ lạnh nhạt không hẳn là những người thù địch chống lại Chúa một cách trắng trợn, nhưng chúng cũng không phải là những người thân thiện gì với Chúa, đó mới chính là kẻ thù tai hại hơn cả.
Đây chúng ta hãy nghe lại những lời mạnh mẽ Chúa nói trong sách Khải Huyền với dân Laodiciae: “Ta biết các việc ngươi làm. Ngươi chẳng nóng mà cũng chẳng lạnh. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi nhưng vì ngươi hâm hâm chẳng nóng chẳng lạnh nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng ta (Kh 3, 15-16)
Ngày hôm nay chẳng thiếu những người giữ đạo cho có, chỉ hình thức, lạnh chẳng ra lạnh, nóng cũng chẳng ra nóng. Những người như thế đang là mối nguy cho Chúa hôm nay.
6. Vị tiên tri cô độc
Người Ấn Ðộ có kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
“Vì tội lỗi của loài người, Thượng đế doạ sẽ trừng trị họ bằng một trận động đất. Ðất sẽ nứt nẻ và nước sẽ rút hết vào trong lòng đất... Một thứ nước độc sẽ tràn ngập mặt đất. Ai uống vào sẽ trở nên bất bình thường.
Một vị tiên tri nọ đã không xem thường lời đe doạ của Thượng đế. Ông chuẩn bị đương đầu với biến cố bằng cách từng ngày đem nước lên một ngọn núi cao. Số nước dự trữ đủ cho ông sống đến ngày tàn của cuộc đời...
Ðộng đất đã xảy đến, bao nhiêu sông nước trên mặt đất đều bốc hơi, một thứ nước khác được thay thế vào.
Một tháng sau, vị tiên tri trở lại đất bằng để xem những gì đang xảy ra cho loài người. Ðúng như lời đe doạ của Thượng đế, mọi người sống trên mặt đất đều hoá ra điên dại. Nhưng kỳ lạ thay, loài người không ý thức được tình trạng điên dại của mình. Trái lại, ai cũng muốn ra đường để chế diễu vị tiên tri vì họ cho rằng ông mới là người điên dại...
Buồn tình, vị tiên tri trở lại chốn núi cao của mình. Ông sung sướng vì nước dự trữ vẫn còn và ông vẫn là người duy nhất còn có một tâm trí lành mạnh, bình thường...
Nhưng ngày qua ngày, ông cảm thấy không chịu nổi sự cô đơn của mình. Ông khao khát được sống một cách bình thường với những người đồng loại. Thế là một lần nữa, ông trở lại đồng bằng. Và một lần nữa, ông lại bị dân chúng ruồng rẫy, vì họ cho rằng ông không còn giống họ nữa.
Không còn chịu được sự hắt hủi của những người đồng loại, vị tiên tri đã đổ hết số nước dự trữ của mình và ông uống lấy nước mới của người đồng loại để cũng trở nên điên dại như họ...”
Con đường dẫn đến chân lý không phải là con đường rộng thênh thang. Người đi tìm chân lý thường là người cô độc...
7. Những tương truyền về hoạt động tông đồ của Thánh Thomas
Cuốn Didache, tức cuốn Giáo lý của các Thánh Tông Đồ - một trong những tác phẩm Kitô giáo cố nhất ngoài 27 cuốn sách của Tân Ước – xuất hiện vào khoảng năm 100 sau Chúa Kitô, chứa đựng những bằng chứng cổ nhất bằng văn bản về hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại Ấn-độ. Theo cuốn sách này, Ngài đã thành lập Giáo hội tại Ấn-độ và tại những khu vực lân cận.
Khoảng một trăm năm sau, những tài liệu được gọi là những văn kiện về Thánh Thomas mới xuất hiện. Những tác phẩm này đã tường thuật lại một cách khá giống nhau về những công việc của Thánh Thomas, nhưng được thêu dệt thêm bởi rất nhiều những tình tiết giầu tính tưởng tượng, và có vẻ như bị ảnh hưởng nhiều bởi ngộ đạo thuyết.
Giáo phụ Ô-ri-gen cho biết rằng, trước tiên Thánh Thomas đã đến loan báo Tin Mừng tại Irak và Iran. Sau đó Ngài mới đến miền Nam Ấn-độ để hoạt động Tông Đồ, và vì những hoạt động truyền giáo của mình, nên Ngài đã bị giết tại Mailapur – một khu vực thuộc miền Nam Ấn-độ - vào năm 70 của thế kỷ thứ nhất. Người ta vẫn còn giữ được nhiều văn bản nói về những hoạt động của Thánh Thomas tại Ấn-độ, nhưng những văn bản đó xuất hiện sau thời Ô-ri-gen. Trong đó có những bản văn của Thánh Hieronymô (347-420), và của những người sống cùng thời với Ngài là Thánh Gaudentiô thành Brescia và Thánh Paulinô thành Nola (354-431).
Thánh Grêgôriô thành Tours (538-594) đã không chỉ cho chúng ta biết rằng, Thánh Thomas Tông Đồ đã hoạt động và chết tại Ấn-độ, nhưng còn cho biết thêm là, Ngài đã được mai táng tại đó trong một thời gian dài, và sau đó, các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển tới Edessa, nhưng nơi có ngôi mộ nguyên thủy của Ngài vẫn còn được tiếp tục tôn kính tại Ấn-độ. Thánh Isidor thành Sevilla (560-636) cũng nói tương tự như thế về Thánh Thomas, và cũng nói về cách thức lãnh nhận ơn Tử Đạo của Ngài tại Ấn-độ.
Một truyền thống khác phát sinh tại Nam Ấn-độ, và có nguồn gốc từ thời các Thánh Tông Đồ, và luôn tồn tại từ đó tới nay, đã cho biết về những hoạt động truyền giáo của Thánh Thomas tại đó, và cho biết rằng, Ngài đã thành lập 7 giáo đoàn đầu tiên tại vùng duyên hải Malabar, cũng như cho biết về cuộc Tử Đạo của Ngài tại Mailapur nằm đối diện với vùng duyên hải Coromandel. Ngay cả truyền thống có tính địa phương của Ấn-độ về Thánh Thomas cũng xác nhận về việc các Thánh Tích của Ngài đã được chuyển một phần lớn về Edessa, mà tại đây, trong các cuộc khai quật sau sau này, người ta đã phát hiện ra một ít Thánh tích vẫn còn sót lại của Ngài.
Ibas Edessa đã cho xây dựng một ngôi Thánh Đường tại quê hương của ông để tôn kính các Thánh Tích của Thánh Thomas. Còn hộp sọ được cho là của Thánh Thomas thì hiện tại đang được bảo quản trong Nhà Thờ Chính Tòa Sioni tại Tiflis, Giorgia, và được tôn kính tại đó bởi Giáo hội Tông Truyền Chính thống Giorgia như là Thánh Tích. Trong cuộc Thập Tự Chinh vào năm 1258, phần lớn Thánh Tích của Thánh Thomas đều được chuyển từ Edessa về Ortona, Ý, và những Thánh Tích đó vẫn đang được bảo quản tại đó cho tới tận ngày nay, trong một hòm đựng Thánh Tích đặt trong Nhà Nguyện nằm bên dưới Vương Cung Thánh Đường Ortona. Ngôi mộ nguyên thủy của Thánh Thoams tại Ấn-độ hiện đang là một điểm hành hương có sức lôi cuốn rất mạnh. Ngoài Vương Cung Thánh Đường kính Thánh Thomas được xây dựng ngay trên ngôi mộ trước đây của Ngài tại Mylapore, thuộc thành phố Chennai, thì tại khu vực phía Nam Ấn-độ cũng còn vô số những điểm hành hương khác, mà những điểm hành hương này đều có liên quan đến Thánh Thomas cũng như liên quan tới những hoạt động truyền giáo của Ngài tại đó. Sau đây là một số địa điểm nổi tiếng nhất:
1. Thánh Đường kính Thánh Thomas trên núi Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Ngài đã Tử Đạo tại đó;
2. Thánh Đường kính Thánh Thomas nằm trên một ngọn núi nhỏ khác tại Chennai: đây là nơi mà theo tương truyền, Thánh Thomas đã đến ẩn náu tại đó trước khi chịu Tử Đạo;
3. Núi và Thánh đường Malayattoor tại Kerala: đây là nơi được cho là Thánh Thomas đã đến sống ẩn dật tại đó trong một thời gian dài để cầu nguyện và suy niệm;
4. Thánh Đường Codungallur: theo tương truyền, nơi đây đã từng là một thành phố cảng nổi tiếng, và vào năm 52, Thánh Thomas đã cập bến tại đây, và là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy do Thánh Thomas thành lập. Một cánh tay của Thánh Nhân đang được tôn kính tại đây. Cánh tay này đã được chuyển đến từ Ortona, nước Ý, như là một món quà của Đức Piô XII nhân dịp mừng kỷ niệm 1900 năm Ngày thánh Thomas đặt chân tới Ấn-độ.
5. Thánh Đường Palayur: đây là một trong bảy cộng đoàn nguyên thủy tại vùng duyên hải Malabar, và nguyên là một đền thờ của người Ấn giáo. Sau khi hầu hết các Giáo sĩ Bà-la-môn gia nhập Giáo hội Công giáo, Thánh Thomas đã biến ngôi đền này thành một ngôi Thánh Đường.
Theo một số truyền thống khác, mà những truyền thống này có lẽ có nguồn gốc từ ngộ đạo thuyết và từ phái Manichê, Thánh Thomas được coi là người anh em song sinh của Chúa Giêsu.
Thánh Thomas còn bị gán là tác giả của một cuốn Tin Mừng và của nhiều tác phẩm khác. Nhưng tất cả các tác phẩm này đều bị liệt vào số các sách Ngụy Thư.
8. Việc tôn kính Thánh Thomas
Tại Châu Âu, ngoài việc được tôn kính với tư cách là Thánh Tông Đồ Tử Đạo, Thánh Thomas còn được tôn kính với tư cách là vị Bổn Mạng của những người làm nghề thợ nề và thợ mộc. Bên cạnh đó, Ngài còn được tôn kính là Bổn mạng của các Thần học gia.
Trước đây Giáo hội mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12, nhưng từ năm 1969, với cuộc cải tổ Phụng Vụ, Giáo hội đã mừng kính Ngài vào ngày mồng 03 tháng 07 với bậc Lễ Kính, tức Lễ Bậc II. Ngày mồng 03 tháng 07 được coi là ngày di chuyển các Thánh Tích của Thánh nhân từ nơi Ngài được phúc Tử Đạo, tức từ Kalamina về Edessa hồi thế kỷ thứ III.
Giáo hội Chính Thống giáo mừng kính Thánh Thomas vào ngày mồng 06 tháng 10.
Còn các Giáo hội Tin Lành thì vẫn tiếp tục mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.
Và Giáo hội Anh giáo cũng mừng kính Thánh Thomas vào ngày 21 tháng 12.
9. Thấy bằng trái tim
Con Chồn trong truyện Hoàng Tử Bé của nhà văn St. Exupéry nói rằng với đôi mắt trần, người ta chỉ nhìn thấy những điều bình thường; còn trong những gì hệ trọng, người ta phải nhìn bằng đôi mắt của con tim.
Gio-an chỉ thấy ngôi mộ trống, băng vải liệm và khăn che đầu xếp riêng gọn ghẽ, nhưng bằng đôi mắt của trái tim ông đã tin Thầy mình phục sinh. Đức Giê-su phục sinh quảng đại đáp ứng đòi hỏi của Tô-ma; đồng thời Ngài cũng nhắc nhở ông và chúng ta rằng từ nay không thấy Chúa bằng đôi mắt thường, nhưng bằng đôi mắt đức tin và bằng tình yêu mến. Nói cách khác, với người Ki-tô hữu, vì tin nên thấy Chúa, thấy Ngài do yêu Ngài. Vì tin nên ta thấy Chúa Giê-su hiện diện trong Thánh Thể, nơi người anh em.
“Tin Chúa, không phải là hướng mắt về Ngài để chiêm ngưỡng, nhưng đồng thời cũng là nhìn trần gian với ánh mắt của Đức Ki-tô” (M. Quoist). Người đời nhìn đời sống trong nền kinh tế thị trường theo nhãn quan hưởng thụ, chiếm hữu; người Ki-tô hữu nhìn với ánh mắt Đức Ki-tô: chia sẻ, thông hiệp.
Câu chuyện bắt đầu vào năm 1975, sau khi cử hành hôn lễ ông Giuseppe Dolfini và bà Silvia Terranera từ Milano chuyển đến Rôma sinh sống. Ông Giuseppe kể lại: “Đêm đó, khi chuẩn bị đi ngủ chúng tôi nghe tiếng cãi nhau của một cặp vợ chồng trong một canh hộ gần bên. Chẳng có ai can thiệp và tất nhiên cả chúng tôi cũng chẳng muốn liên can đến họ. Nhưng rồi đêm đó chúng tôi không yên giấc. Ngày hôm sau chúng tôi quyết định đến gia đình đó để tìm hiểu.
Chúng tôi gõ cửa và một người đàn ông ra mở cửa. Sau những lời thăm hỏi ông cho chúng tôi biết sau cuộc cãi vã tối qua vợ ông đã đi xa, bỏ lại ông cùng với hai đứa con, một đứa 2 tuổi và đứa còn lại 5 tuổi. Ông rất thất vọng vì ông không biết phải làm gì cho chúng. Ông cho biết buổi sáng ông thức dạy sớm để chuẩn bị cho công việc. Ngay lập tức tôi trả lời ông một cách tự nhiên rằng tôi có thể đến nhà ông vào buổi sáng để chuẩn bị mọi thứ cho hai đứa con như cho chúng ăn sáng và đưa chúng tới trường và chiều đến đưa chúng về nhà. Như thế công việc này của chúng tôi diễn ra khoảng 1 năm rưỡi cùng với sự sẵn sàng trợ giúp của những gia đình khác.
Ngôi nhà Bêtania được khai sinh 20 năm sau đó khi ông Giuseppe về hưu và bà Silvia sinh được 4 người con. Qua việc này ông xác tín rằng Thiên Chúa kêu gọi con người cộng tác với Ngài trong kế hoạch cứu rỗi nhân loại bằng nhiều cách thức khác nhau. Thiên Chúa cũng chỉ cho thấy con đường để đáp trả tiếng Chúa, đôi khi không được rõ ràng.
Đối với ông rõ ràng không có gì xảy đến tình cờ. Gia đình của hai ông bà được xây dựng dựa trên một một nền tảng đức tin của đời sống hàng ngày và hoạt động bác ái, loan báo Tin Mừng. Bởi thế, không ngạc nhiên từ tình yêu hôn nhân, sau nhiều sáng kiến trong lãnh vực mục vụ gia đình, trong việc hổ trợ các hoàn cảnh khó khăn ở Milano và Rôma, một kinh nghiệm đã được mở ra cho tha nhân.
Mở lòng, mở cửa trước hết cho trẻ em, giao phó chúng cho các gia đình chăm sóc và tiếp theo là kinh nghiệm mời các gia đình tham gia, kêu gọi sự trợ giúp của tình nguyện viên. Tại Nhà Bêtania nhiều người đã tìm được một cộng đoàn, nơi đây họ sống trải nghiệm sự đón tiếp và tình liên đới. Chính Giáo hội Italia đã mời hai ông bà chia sẻ kinh nghiệm về Ngôi nhà Betania tại Hội nghị năm 1995 và chính ông Mattarella, Tổng thống Italia đã trao cho hai ông bà một vinh dự cao quý của Cộng hòa. Nhưng đối với hai ông bà một vinh dự cao quý hơn đó là trong Ngôi nhà này họ được phép có một không gian nhỏ dành cho Chúa Giêsu Thánh Thể, một “đặc ân” không phải ai cũng được. Chính nơi đây hai ông bà tìm được sức mạng và niềm tin vững bước
Ngày 30 / 4 năm 2019 ông Giuseppe Dolfini đã ra đi khi vừa mới tổ chức sinh nhật lần thứ 90. Trước đó mặc dù phải chịu đựng những cơn đau thể xác nhưng ông vẫn cố gắng mừng sinh nhật cùng với những người bạn trong Nhà Bêtania.
"Kẻ nào cho một trong những người bé mọn này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy nói với các con, người ấy không mất phần thưởng đâu.” (Mt 10:42)
Lời Chúa Tuần 14 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch