LỜI CHÚA CNMC 5B
CÁC BÀI SUY NIỆM
14. Giờ Con Người được
tôn vinh
20. Cho đi thì còn,
giữ lại thì mất
25. Hạt lúa mì gieo
vào lòng đất
40. Hạt giống sinh hoa
kết quả
42. Chúng ta đang sống
ở giờ nào?
90. Vượt qua sự chết
để vào cõi sống
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
“Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ
trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt”
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp
dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh nhiều
bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ? Chính vì
thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình. Tôi cô đơn với tôi, để được yên
ổn. Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau, nên tôi tìm đủ cách để giữ lại
những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả, vì
mất ý nghĩa của cuộc sống. Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của
mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng:
chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến. Tôi bắt đầu được khi
chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ ngay lúc này, ngay
ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ, tôi chỉ giàu có
và triển nở mọi mặt khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình, ra khỏi những bận
tâm, tính toán, xây đắp cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi: “Vì chính khi hiến
thân, là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…”
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ, đón lấy cái chết như
hạt lúa vùi sâu, những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
“Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin
cứu con khỏi giờ này chăng? Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. “(c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại, đã có những cuộc chiến
Vườn Dầu ở trong tôi. Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện, tôi sẽ thắng
được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát. Sau nhiều lần dám liều mất tất cả để rồi
ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều, tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt
như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài, kéo tôi lên khỏi
đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào
đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống
này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được.
Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những
hại giống đã âm thầm chịu nát tan để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay là do sự hy sinh
quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng, của
ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt
lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự
nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một
cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính
mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến
nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt Đối và
tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy Niệm
Trong Tin Mừng Gioan, khi cuộc Khổ nạn gần kề, Đức Giêsu nói về
bình an như quà tặng cho các môn đệ.
“Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho
các con” (Ga 14,27; 16,33).
Khi phục sinh và hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa, Chúa Giêsu
cũng ba lần chúc họ bình an (Ga 20,19.21.26).
Bình an thì ngược với xao xuyến, nên Đức Giêsu cũng hay dặn
các môn đệ:
“Lòng anh em đừng xao xuyến hay sợ hãi!” (Ga 14,1.27).
Những lời trấn an trên đây của Đức Giêsu dễ khiến ta tưởng Ngài
suốt đời chẳng một lần xao xuyến. Thật ra, Tin Mừng Gioan kể Đức Giêsu xao
xuyến ba lần. Ngài xao xuyến trước cái chết của Ladarô (Ga,11,33). Ngài xao
xuyến khi nói về sự phản bội của Giuđa (Ga 13,21).
Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng xao xuyến trước cái chết
sắp đến của chính mình (Ga 12,27). Ngài biết Giờ của Ngài đã đến (Ga 12,23). Giờ
Ngài được Cha tôn vinh cũng là giờ Ngài được giương cao trên thập giá.
Đức Giêsu linh cảm về cái chết sắp đến của mình (Ga 12,33). Điều
đó khiến Ngài xao xuyến, đến nỗi không biết phải nói gì. Nhưng Đức Giêsu trong
Tin Mừng Gioan có sự khác biệt.
Ngài không xin Cha cất chén đắng để tránh cho mình cái chết.
Ngài tự đặt câu hỏi và tự trả lời: “Con mà xin Cha cứu con khỏi
Giờ này ư? Không đâu!
Bởi lẽ vì mục đích này mà Con đến với Giờ này” (Ga 12,27).
Đức Giêsu đã nhiều lần nói Giờ chưa đến (Ga 2,4; 7,30; 8,20). Ngài
mong Giờ ấy đến, và nay Giờ đã đến.
Xao xuyến và sợ hãi không làm Ngài thoái lui, vì Ngài biết Cha là
chủ của Giờ này.
Không để cái chết làm mình suy sụp, không để xao xuyến lấn át, Đức
Giêsu nhìn cuộc Khổ Nạn với cái nhìn lạc quan hy vọng.
Ngài ví mình như hạt lúa, rơi vào trong đất. Cái chết của một hạt
lúa là điều kiện để tạo ra muôn hạt khác. Ngài chấp nhận cái chết và từ khước
giữ sự toàn vẹn cho mình.
Hạt lúa giống sẽ biến đi để nhiều hạt khác xuất hiện.
Thật ra, cái chết không làm Ngài bị biến đi hay mất đi.
Trái lại, đó là cách Ngài giữ được mạng sống (Ga 12,24-25).
Ai coi thường mạng sống ở đời này, sẽ giữ được nó cho đời sau.
Đức Giêsu không coi cái chết là dấu chấm hết hay chấm than. Ngài
coi đó là cửa mở vào sự sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu biết mình là Ánh sáng đến trong thế gian.
Khi Giờ đến, có lúc Ánh sáng ấy như mất đi (Ga 12,35-36; 9,4-5).
Satan thủ lãnh thế gian và bóng tối có vẻ thắng thế, kỳ thực nó
“không làm gì được Thầy” (Ga 14,30).
Hơn nữa, đã đến lúc nó “sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12,31).
Cái chết nhục nhã trên thập giá là sự giương cao lên khỏi đất.
Cái chết này có sức hút mãnh liệt vì là cái chết của Ngôi Lời.
Cái chết của Con Một Thiên Chúa có sức nâng kỳ diệu, kéo mọi người
lên với Ngài chẳng trừ ai (Ga 12,32),
vì Ngài muốn những ai theo Ngài được ở bên Ngài mãi mãi.
“Thầy ở đâu, họ cũng ở đó” (Ga 12,26).
Cái chết của Đức Giêsu cho ta được ở bên Ngài trong nhà Cha.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi những cái chết, chết mỗi
ngày như hạt lúa mục nát, nằm sâu trong đất.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi bị xao xuyến, khi đứng
trước thế lực của bóng tối, của bạo quyền.
Nhưng Đức Giêsu cho chúng ta sự kiên định, bất khuất, để luôn hy
vọng và không bao giờ bỏ cuộc vì sợ hãi.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê su,
Trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã yêu mến con.
Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa,
Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa,
Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi Chúa đòi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
chỉ vì hạnh phúc vĩnh cửu của con thôi.
Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu
mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu
xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên
những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm
nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai
trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình
chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp
đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm
sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt
lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt
hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu
xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng
đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng
với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống
xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt
giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng
chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích
lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón,
mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng
đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là
phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải
thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ
đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn
miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ.
Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được
cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để
vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ
niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng
thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời
sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài
những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy
mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội
luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong
phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt
đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống
thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa.
Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi
chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn
ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người
ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần
đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất”
hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những
“cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp
trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng
nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức
Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa
Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà
ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa
trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa.
Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống,
mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa.
Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được
thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít
khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa
trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh
quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân
tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống
cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho
chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của
mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con
phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con
phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ
cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng
Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để
chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống
này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này
thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này
thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này
thế nào?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Sự sống quanh ta thật huyền nhiệm. Từ con người đến muôn vật cỏ
cây, mỗi loài mỗi kiểu, hết thảy đều mang trong mình sự sống. Nhờ sự sống mà
muôn loài tăng trưởng và hoạt động. Tuy vậy, một điều xem ra là nghịch lý, đó
là sự sống không dừng lại khi ta chết, nhưng lúc chết đi lại là lúc khởi đầu sự
sống mới. Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.
Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là thời điểm giúp
chúng ta suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu. Chúng ta tôn vinh thập
giá là phương tiện qua đó Đức Giêsu giới thiệu tình thương yêu vô bờ bến của
Chúa Cha. Đức Giêsu đã hiến chính bản thân mình làm của lễ dâng lên Đức Chúa
Cha, xin ơn tha tội cho loài người. Sự sống và hạnh phúc của con người được
phát sinh và tuôn chảy từ cây thập giá, tức là từ sự chết của Chúa Giêsu. Ơn
cứu độ dồi dào như mạch suối trào tuôn từ chính vết thương ở cạnh sườn của
Người. Chính từ vết thương này phát sinh Giáo Hội và các Bí tích. Hai ngàn năm
nay, Đấng chịu khổ hình trên thập giá đã lôi kéo biết bao người ra khỏi tối tăm
để đến với ánh sáng, ra khỏi tội lỗi để đạt tới sự thánh thiện, ra khỏi hận thù
để thực thi đức yêu thương.
Khi nói về hạt lúa mục nát, Chúa Giêsu muốn nói về cái chết của
chính mình. Người không bị tiêu diệt do sự chết. Trái lại, như hạt lúa chấp
nhận mục nát rồi nảy mầm kết trái, Người cũng sẽ trỗi dạy từ nấm mồ để ban sự
sống cho con người. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: sự chết của Chúa Giêsu mang
ơn cứu độ cho loài người. Người đã chết để chúng ta được sống. Người đã trở nên
nô lệ để chúng ta được tự do. Người đã dùng cây thập giá để cứu độ trần gian,
xóa bỏ bản án nguyên tội. Thập giá vừa nói với ta về tình yêu Thiên Chúa, vừa
dạy ta biết sống vì người khác để đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Như thế, triết lý “hạt lúa mục nát” được đề nghị cho tất cả những
ai muốn cất bước theo Đức Giêsu. Sự hy sinh này, nhìn theo lăng kính trần gian,
lại là những nghịch lý:
– Sẵn sàng hy sinh mạng sống thì sẽ giữ được nó mãi mãi
– Khư khư giữ lấy nó, sẽ bị mất muôn đời.
– Vào giờ phút Chúa chịu khổ nạn và chết trên thập giá, cũng là
lúc Người được tôn vinh.
– Khi thủ lãnh thế gian tưởng chừng như chiến thắng, chính là lúc
nó bị đánh bại.
– Con Người bị treo trên thập giá, cô đơn đau khổ, lại có thể quy
tụ muôn dân.
Nếu hạt lúa vẫn nằm yên bất động sau khi được gieo xuống thì niềm
trông đợi của bác nông phu sẽ trở nên vô vọng. Nếu thân xác Đức Giêsu vẫn cứ
tồn tại trong nấm mồ, thì nhân vật Giêsu sẽ chẳng còn gì để nói với chúng ta.
Chính từ hạt lúa mục nát mà ta thấy sự sống mới; chính nhờ ngôi mộ trống mà
chúng ta thấy niềm hy vọng.
Hạt-Lúa-Giêsu đã mục nát để phục sinh và đâm bông kết trái. Hạt
lúa ấy đã trở nên bánh ăn để nuôi dưỡng chúng ta.
Hình ảnh hạt lúa mì cũng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về
định mệnh con người. Thiên Chúa dựng nên con người để cho họ được sống và được
hạnh phúc, chứ không phải để chấm dứt với nấm mộ cô đơn lạnh lẽo nơi đồng
hoang. Dưới nhãn quan của người Kitô hữu, sự chết là một cửa ngõ để họ bước vào
đời sau. Đó là lý do tại sao người Kitô hữu đặt cây thập giá trên mỗi nấm mồ
của người thân. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ dành cho người công chính, tức
là những ai mến Chúa yêu người.
Không phải đợi đến khi chết mới được hưởng hạnh phúc Chúa ban. Lời
Chúa hôm nay như một lời hứa phục hồi ngay ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện
tại. Ý tưởng này được diễn tả trong bài đọc trích sách ngôn sứ Giêrêmia: “Mọi
người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ
không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”. Đây là những lời an ủi của Chúa đối với
dân Do Thái trong bối cảnh gian nan và tuyệt vọng. Chúa hứa với họ sẽ giúp họ
hồi sinh. Mặc dù trong bối cảnh tăm tối, Chúa sẽ ban cho họ một tương lai sán
lạn huy hoàng.
Thời đại huy hoàng mà Chúa đã hứa qua lời ngôn sứ Giêrêmia đã được
thực hiện khi Chúa giải phóng dân Người khỏi cảnh lưu đày. Nhưng đặc biệt hơn
nữa, thời đại huy hoàng ấy, Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, qua
cái chết và sự phục sinh của Người. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Dầu là
Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn
tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng
phục Người” (Bài đọc II).
Huyền nhiệm sự sống mời gọi chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Đường,
là Sự thật và là Sự sống. Huyền nhiệm ấy cũng nhắc nhớ chúng ta, hãy biến đổi
mỗi ngày trong hành trình phụng sự Chúa, để sự sống siêu nhiên lớn dần trong
cuộc đời trần gian. Để được như thế, con người cũ phải chấp nhận chết đi. Đó
chính là thông điệp của giáo huấn qua hình ảnh hạt lúa mì.
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô Kiều công Tùng)
Trước khi bước vào Tuần Thánh, Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay
Giáo Hội lập lại nguyện ước của những người Hy Lạp ngày xưa: “Chúng tôi muốn
được gặp ông Giêsu” để nhắc nhở chúng ta đâu là đích đến của chặng đường Mùa
Chay mà chúng ta đang trải qua.
Những người Hy Lạp tìm gặp Đức Giêsu chắc không phải chỉ để chiêm
ngưỡng Người mà thôi, vì như thế họ đâu cần đến Philípphê làm người môi giới.
Rõ ràng là họ còn muốn đi xa hơn việc nhìn ngắm, họ muốn được gặp gỡ và trò
chuyện với Chúa. Có thể nói, họ đang ở trên một hành trình Đức Tin. Diễn từ của
Đức Giêsu ngay sau đó về “cái mất” và “cái được” như muốn dẫn họ đi xa hơn
trong cuộc hành trình: “Hạt lúa gieo vào lòng đất… nếu chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường
mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,
24-25). Chân lý xem ra nghịch lý ấy đã được minh chứng bằng chính cuộc đời Đức
Giêsu, Hạt Giống đem lại Mùa Cứu Độ.
Trong những câu kế tiếp, thánh Gioan như muốn đặt các yếu tố của
cả hai sự kiện Chúa hấp hối và Chúa Hiển Dung của Phúc Âm Nhất Lãm trong cùng
một trình thuật. Những lời của Chúa Giêsu “Bây giờ, linh hồn Thầy xao xuyến…
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12, 27) như đang làm vang lên những lời
Người nói với môn đệ và cầu xin cùng Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu. Tiếng vọng từ
trời “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa” (Ga 12, 28) không còn là
lời giới thiệu của Chúa Cha trên đỉnh Ta-bo mà đã trở thành lời chuẩn nhận cho
sự dâng hiến tuyệt vời của Người Con, lời tôn vinh “Hạt Lúa” đã chấp nhận chết
đi. Ở giữa những yếu tố đó, Thánh Gioan còn khéo léo xen vào một lời nguyện với
tâm tình phó thác: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh
Cha”.
Tác giả A. Marchadour nhận xét: những lời ấy vang lên như “một bản
tóm lược Kinh Lạy Cha” vậy. Lời kinh được dâng lên với một thái độ vâng phục
hoàn toàn, thái độ đã làm nên ý nghĩa cho cái chết của Đức Giêsu, như lời thư
gửi tín hữu Do Thái: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau
khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập
toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục
Người” (Dt 5, 8–9).
Rõ ràng tiến trình từ khi “hạt giống” được gieo xuống cho đến khi
đem lại mùa màng, hay từ khi là “hạt bụi” cho đến lúc trở thành “cát bụi tuyệt
vời” phải trải qua rất nhiều hy sinh, từ bỏ và cả chết đi nữa. Chính Đức Giêsu
khi ở trong hoàn cảnh ấy đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy xao xuyến!” Và Người
cũng chỉ cho chúng ta rằng tỉnh thức và kiên trì cầu nguyện lúc này thật cần
thiết. Việc kết hợp cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện sẽ đem lại cho người ta
một sức mạnh phi thường lướt thắng những nỗi sợ bị thua thiệt mất mát. Kinh Lạy
Cha mà Đức Giêsu dạy chính là bảo bối cho người Kitô hữu, là nhịp cầu giữa
“mất” và “được”, giữa “xao xuyến” và “tôn vinh”.
Qua bài diễn từ, Chúa Giêsu như muốn nói với những người Hy Lạp và
với cả chúng ta hôm nay rằng muốn gặp Người, ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng
được tôn vinh khi đã chấp nhận chết đi. Điều này có nghĩa là mọi cái nhìn về
Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo
tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng
cách mở lòng ra với Lời Chúa và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng
khuynh hướng vị kỷ muốn giữ lại tất cả cho bản thân, mà người ta mới có thể
tiến đến gần Thiên Chúa, sau khi đã nỗ lực để Danh Cha được tôn vinh bằng một
cuộc sống hoàn toàn vâng phục theo Thánh Ý Cha.
Dù muốn hay không thì cuộc sống một đời người luôn gặp những điều
trái ý, khó khăn, nghịch cảnh. Có người đã nhìn khá bi quan về cuộc sống ấy như
là “chốn bể dâu” hay “nơi khổ ải”. Còn Thánh Phaolô lại tuyên bố: “Đây là thời
Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6, 2). Phải chăng ông đã
học được cái nhìn lạc quan từ lời kinh của Đức Giêsu: “Chính vì giờ này mà con
đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Chớ gì mỗi Kitô hữu chúng ta, những
môn đệ đang lần bước đi theo Thầy Giêsu trên hành trình Đức Tin cũng có những
lời “Kinh Lạy Cha biến cách” cho riêng mình.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1.
Cựu Ước và Tân Ước
Sách Kinh Thánh của chúng ta có hai phần: Cựu Ước và Tân Ước,
nghĩa là Giao Ước Cũ và Giao Ước mới. Tuy nhiên, bài đọc I, trích sách ngôn sứ
Giê-rê-mia, là sách thuộc phần Cựu Ước, đã loan báo Giao Ước mới rồi:
Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta sẽ lập với nhà
Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới.
(Gr 31, 31)
Và lời loan báo Giao Ước mới, theo vị ngôn sứ, là lời của chính
Đức Chúa. Vậy đâu là đặc điểm chính yếu của Giao Ước mới so với Giao Ước cũ ?
Như chính Đức Chúa đã nói, đặc điểm của Giao Ước mới là Đức Chúa cam kết sẽ ghi
khắc Luật của Ngài vào trong tim của con người. Như thế, Luật của Chúa, nghĩa
là tất cả các giới răn có mục đích gìn giữ chúng ta ở trong Giao Ước, không còn
được viết trên giấy hay khắc trên đá nữa, nghĩa là ở bên ngoài con người, nhưng
là trong tim con người, nghĩa là trong chốn sâu thẳm nhất của con người. Nói
cách khác, Luật của Chúa không còn là Chữ Viết nữa, nhưng sẽ trở thành Thần Khí
hay Lời Nói sống động cư ngụ trong lòng chúng ta và trở nên một với chúng ta,
để nuôi dưỡng và làm cho chúng ta sống. Như thế, Giao Ước mới có thể được gọi
là Giao Ước tình yêu, bởi vì chỉ có tình yêu mới làm cho luật trở thành lời cư
ngụ trong lòng chúng ta mà thôi. Như Đức Giêsu, hiện thân của Giao Ước mới nói:
“Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4).
Nhưng tại sao Đức Chúa lại mời gọi Dân sống với Ngài bằng Giao Ước
mới? Bởi vì, để giữ Giao Ước cũ, người ta phải có kinh nghiệm về tình yêu Thiên
Chúa và phải yêu mến Thiên Chúa. Và điều này cũng đúng trong mọi tương quan dựa
trên lề luật của con người: để giữ luật trong gia đình, trong nhà trường, trong
xã hội, trong Giáo Hội, trong đời tu, người ta phải có kinh nghiệm và dựa trên
tương quan ơn huệ và tình thương. Tuy nhiên, con người đã không nhận ra tình
yêu Thiên Chúa, ngang những kì công của Ngài thực hiện trong sáng tạo và trong
lịch sử; vì thế, Ngài sẽ bày tỏ tình yêu đến cùng của Ngài dành cho con người
nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của Ngài, để xây dựng tương quan với con
người dựa trên Giao Ước mới, Giao Ước tình yêu. Như vậy, Đức Chúa ước ao kí kết
một Giao Ước mới với Dân của Ngài, đó là bởi vì Giao Ước đầu tiên không sinh
hoa trái như Ngài mong đợi.
Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi nhận ra rằng, ước ao Giao Ước mới
cũng có ở nơi mọi tương quan của con người dưới hình thức này hay hình thức
khác. Chẳng hạn, các bậc cha mẹ luôn ước ao những giáo huấn, những lời dạy bảo
của mình không ở ngoài tai con cái, nhưng đi vào tâm trí của con cái ; và chắc
chắn ước ao này cũng có nơi các nhà giáo, các nhà huấn luyện đối với người trẻ
trong thời gian thụ huấn ; và ở một mức độ nào đó, cũng như thế, trong tương
quan bạn bè và tương quan tình yêu nam nữ và tình yêu vợ chồng: người này ước
ao lời của mình lưu lại mãi mãi trong tim của người kia. Khởi đi từ những kinh
nghiệm nhân bản như thế, chúng ta xác tín rằng, ước ao Giao Ước mới cũng đến từ
năng động tự nhiên của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài không thể
không ước ao Giao Ước mới, là Giao Ước tình yêu.
2.
Giao Ước Mới trong Đức Giê-su Ki-tô
Nhưng Thiên Chúa sẽ làm gì và làm như thế nào, để dẫn con người
vào Giao Ước mới ? Trước hết, Ngài bày tỏ ngôi vị của mình một cách trực tiếp
cho con người:
Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia:
“Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ
biết Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
(Gr 31, 34)
Và lời hứa này sẽ được thực hiện một cách tròn đầy nơi ngôi vị của
Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, bởi vì “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính
Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Ngang qua các Tin Mừng, vốn là điểm
tới của lịch sử cứu độ được kể lại trong Kinh Thánh, được đọc, được suy niệm,
được cầu nguyện và nhất là được công bố và giải thích trong Thánh Lễ, Thiên
Chúa tiếp tục bày tỏ chính mình cho mỗi người chúng ta nơi Đức Ki-tô. Sự hiểu
biết mới về Thiên Chúa, được mặc khải bởi Đức Ki-tô, là tuyệt đối cần thiết để
yêu mến Thiên Chúa, đón nhận và sống Giao Ước mới.
Tuy nhiên, càng hiểu biết Thiên Chúa, càng nhận ra tình yêu của
Ngài, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, chúng ta càng cảm thấy mình vô ơn và bất
xứng. Chính vì thế, để dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Thiên Chúa còn bày tỏ
mình là Đấng giàu lòng thương xót:
Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng
và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
(Gr 31, 34)
Và lời hứa tha thứ cũng sẽ được thực hiện một cách quảng đại trong
máu của Đức Giê-su, nghĩa là trong cái chết của Ngài trên Thập Giá, như chính
Ngài đã nói và vẫn nói lại hằng ngày trong Thánh Lễ:
Anh em hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thấy, máu Giao Ước
mới và vĩnh cửu, sẽ đổ cho anh em và nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm
việc này mà nhớ đến Thầy.
3.
Con đường của hạt lúa mì
Thật là kỳ lạ, để tha tội cho loài người và từng người chúng ta,
tại sao Đức Ki-tô lại phải đi con đường “đổ máu” ? Con đường mà chính Ngài cũng
cảm thấy xao xuyến:
Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha,
xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.
(Ga 12, 27)
Sự “xao xuyến” của Đức Giê-su còn lớn hơn nữa, theo lời kể của các
Tin Mừng nhất lãm: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14, 34 ; x. Mt 26, 38
và Lc 22, 44), và theo thư Do thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã
lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền
năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5, 7)
Người xao xuyến, đó là vì với thân xác mỏng manh của Con Thiên
Chúa nhập thể, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha,
một khuôn mặt đã bị hiểu lệch lạc, bị bóp méo, ngay từ nguồn gốc sự sống (x. St
3, 1-7), nhưng không phải bằng những kì công lớn lao, hay những phép lạ cả thể;
bởi vì lịch sử Dân Do Thái và cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy rằng, những kì
công lớn lao và những phép lạ cả thể không những không mang lại lòng tin, nhưng
còn khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, ngoài ra còn bị Sự Dữ xen
vào khơi dậy những cách hiểu và hành động lệch lạc[1].
Vì thế, theo ý Cha, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời
của Thiên Chúa Cha theo một cách khác, “một cách điên rồ”, nhưng là sự điên rồ
của tình yêu và khôn ngoan thần linh, qua việc:
* nhận hết vào mình thân phận của loài người chúng ta,
* đảm nhận mọi số phận đầy tai họa của con người,
* gánh lấy mọi tội lỗi của loài người,
* và đối diện với chính Sự Dữ biểu dương ở mức độ tuyệt đối.
Như thế, không phải một cách trực tiếp tội của mỗi người chúng ta
làm cho Chúa bị bắt, bị kết án và chịu khổ hình, đó là Sự Dữ hành động nơi
những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, nhưng Chúa tự nguyện chịu khổ
hình để vừa chữa lành chúng ta khỏi Sự Dữ và vừa bày tỏ cho mỗi người chúng ta
tình yêu đến cùng của Chúa dành cho chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở trong
tình trạng nào. Chúng ta được mời gọi nhận ra nơi những gì Đức Giê-su mang lấy
trong cuộc Thương Khó, có chính bản thân chúng ta, như chúng ta là: nhỏ bé,
giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; mỗi người chúng ta hiện diện cách trọn vẹn, được
đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn vẹn trên đôi vai của Đức
Giê-su, trong ánh mắt của Đức Giê-su, trong trái tim của Đức Giê-su.
***
Để tái sinh chúng ta và dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Đức Giê-su
Ki-tô Con Thiên Chúa, phải cho đi sự sống của mình. Điều này thật khó hiểu và
thật khó chấp nhận, đối với người Do thái, với các môn đệ, với loài người và
với từng người chúng ta. Con đường Thập Giá không chỉ khó hiểu, mà còn là sỉ
nhục và điên rồ. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai
trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự
sống.
* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều
hạt khác.
* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được
lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng nơi những người mẹ; nhất là
khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để
chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.
Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự
sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó
chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không
đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là
con đường của hạt lúa mì:
Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
(Ga 12, 24)
Và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong
Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào. Thiên Chúa muốn dẫn chúng ta vào Giao Ước
mới, Giao Ước tình yêu trong Đức Giê-su Ki-tô, nhưng ai trong chúng ta cũng cảm
thấy, một đàng sự khao khát, nhưng đàng khác lại bất lực. Vậy chúng ta hãy nhận
lời nguyện Thánh Vịnh 51 (50) làm của mình:
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một trái tim mới.
(Tv 51, 12)
————————-
[1] Lòng tin chỉ dựa vào phép lạ: (1) Thiên Chúa chỉ ở trong những
điều lạ thường, còn những điều bình thường, là phần lớn cuộc đời chúng ta, thì
sao? Thân phận con người rốt cuộc có là ơn huệ TC không? Có là đường đi dẫn đến
Thiên Chúa hay không? (2) Không chấp nhận thân phận con người và không liên đới
với thận phận của người khác. (3) Ma quỉ sẽ lợi dụng để khơi dậy lòng ham muốn
không cùng những điều lạ, như đã làm trong Sáng Tạo (St 3) và trong Lịch Sử Cứu
Độ (Ds 21, 4-9): có điều lạ thì tin, không có thì trách móc nghi ngờ; ngoài ra,
còn có những người đã ngụy tạo ra điều lạ để lừa dối mình và lừa dối nhau.
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Để chuẩn bị tinh thần cho các Môn đệ, Đức Giêsu đã nhiều lần tiên
báo về cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài. Nhưng đi liền với lời tiên báo về
cuộc khổ nạn và cái chết thì Ngài cũng cho biết “ngày thứ ba” Ngài sẽ sống lại.
Như thế, đau khổ và sự chết như là điều kiện tất yếu để Ngài bước vào ngày phục
sinh.
Chính vì vậy, qua bài Tin mừng hôm nay, sau khi nhắc tới nguyên lý
của hạt lúa mỳ phải mục nát đi thì mới sinh bông hạt, Đức Giêsu khẳng định: “Ai
yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được
nó cho sự sống đời đời. “(Ga 12,25).
Thoạt nghe, nhiều người cho rằng lời khẳng định của Đức Giêsu có
vẻ rất nghịch lý với cuộc sống. Bởi vì, bình thường không ai ghét mạng sống
mình bao giờ, nhưng trái lại họ yêu và rất yêu mạng sống của mình. Họ chăm sóc
mạng sống ấy bằng nhiều cách thế khác nhau: ăn uống, ăn mặc, trang điểm, đi
khám bác sĩ và nhiều hình thức khác nữa. Thực ra, biết yêu mạng sống mình, chăm
sóc cho bản thân không phải là điều xấu. Nếu làm đúng cách thì đó lại còn là
một thái độ rất tốt. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở thái độ yêu mạng sống mình, chăm
sóc cho bản thân mình mà quên mất tình thân, quên mất tình người, quên mất
những bổn phận khác thì sẽ trở thành người xấu. Khi Đức Giêsu nói “ai yêu sự
sống mình thì sẽ mất” ám chỉ những người chỉ lo cho mình mà không màng chi đến
người khác. Những người chỉ muốn nhận mà không biết cho. Họ là những người ích
kỷ giống như chiếc ao tù đọng không có sự sống.
Hơn nữa, lời dạy của Đức Giêsu còn muốn chúng ta đi xa hơn. Ngài
muốn nói tới sự sống linh hồn của chúng ta. Để được sống phần linh hồn, mỗi
người chúng ta cần phải chết đi cho tội, chết đi tính ích kỷ. Để có sự sống
phần linh hồn có khi chúng ta cũng phải chấp nhận chết đi sự sống phần xác vì
phải hiến thân, phải quên mình, đúng như lời khẳng định của Thánh Phanxicô
Assisi trong lời kinh hòa bình: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh.
Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống
muôn đời. “Vì thế, giáo huấn của Đức Giêsu không nghịch lý nhưng là một chân
lý. Chân lý này đã được chính Ngài thực hiện một cách trọn vẹn trong cuộc sống.
Chính Ngài là Con Thiên Chúa nhưng đã chấp nhận mục nát đi để sinh ơn cứu độ
cho nhân loại chúng ta. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là
Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi
bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu
tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.”(Pl 2,6-9).
Thật vậy, vì vâng lời Chúa Cha và để cứu độ nhân loại, Ngài đã
chấp nhận sống mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình từ khi nhập thể cho đến khi
chịu chết trên thập giá để được sống lại vinh quang. Ngài sinh ra bởi Đức Trinh
Nữ Maria, làm con nuôi của Thánh cả Giuse, sống 30 năm với nghề thợ mộc tại
làng Nazaréth như mọi người ngoại trừ tội lỗi. Trong ba năm ra đi rao giảng Tin
mừng: Ngài rao giảng và làm phép lạ để cứu giúp nhiều người. Ngài nói: “Con
Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến
mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Cao điểm của sự phục vụ ấy là
việc Ngài rửa chân cho các môn đệ vào tối trước ngày Thứ năm tuần thánh. Cuối
cùng, Ngài đã chấp nhận bước vào cuộc khổ nạn chịu chết để cứu độ nhân loại.
Như vậy, Đức Giêsu là hạt lúa mỳ chịu mục nát đi để đem lại sự sống cho nhân
loại chúng ta. Ngài đã hy sinh mạng sống của mình để cho nhân loại được sống.
Noi gương Đức Giêsu, có rất nhiều vị thánh cũng đã chấp nhận hy
sinh, chấp nhận làm hạt lúa mỳ mục nát đi để người khác được sống. Đó là sự hy
sinh của Thánh Maximilianô Kolbê đã chấp nhận chết thay cho người tử tù được
sống. Đó là sự hy sinh của Mẹ Têrêxa Caculta và các nữ tu thuộc dòng của mẹ,
suốt cuộc đời vì những người nghèo khó, bệnh tật, những người sống bên lề xã
hội tại các khu ổ chuột. Đó là sự hy sinh của các Đức Giáo Hoàng, các Giám Mục,
linh mục, tu sĩ nam nữ đã dâng hiến đời mình vì hạnh phúc và phần rỗi của tha
nhân. Đó là sự hy sinh của những người vợ người chồng vì hạnh phúc của người
bạn đời. Đó là sự hy sinh tận tụy của những người cha người mẹ vì niềm vui và
hạnh phúc của con cái. Đó là sự hy sinh cho nhau của anh chị em ruột thịt trong
gia đình. Và còn biết bao tấm gương hy sinh khác trong đạo ngoài đời mà chúng
ta không thể kể hết ra đây. Nếu tìm kiếm trên mạng, chúng ta sẽ đọc được những
câu chuyện rất cảm động về sự hy sinh đó. Chẳng hạn: Cha lấy thân làm
“bao cát” để kiếm tiền cứu con; Đôi vợ chồng già ăn xin kiếm tiền nuôi con ăn
học; Đóng giả làm đàn ông suốt 43 năm để dễ kiếm việc làm, nuôi con khôn lớn;
Mẹ già bán cầu từ tinh mơ để kiếm tiền nuôi con; Người mẹ làm đôi chân cõng con
đi học mỗi ngày; Mẹ 90 tuổi chăm con bại não suốt 50 năm…Và câu chuyện sau đây
cũng phần nào cho chúng ta thấy sự hy sinh cao cả của một cậu bé 8 tuổi.
Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của
cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu
bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại
bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã
thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để
hồi sức. Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết
nội và được mang đi cấp cứu tại cùng bệnh viện với anh. Cô bé bị
mất máu khá nhiều cần được mau chóng tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện
lại không có sẵn máu cùng nhóm để truyền. Rất may là máu của cậu bé
cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống
em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút.
Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ
rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố
gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm. “Sau đó bác sĩ đã lấy
máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh dậy, cậu bé đã làm
cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười khi nói: “Ô hay! Con
chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây
giờ ra sao rồi?” Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi bằng lòng hiến
máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu trong con người mình!
Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị chết, nên sau khi ngần ngại
một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em gái mình được
sống! (Sưu Tầm)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã hy sinh để cứu độ chúng con. Chúng con tạ
ơn Chúa. Ngoài Chúa ra, còn biết bao nhiêu người khác cũng đã hy sinh vì chúng
con, xin Chúa trả công bội hậu cho các vị ân nhân đó. Xin cho mỗi chúng con
cũng biết chấp nhận hy sinh để đem lại hạnh phúc cho tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
NẾU HẠT LÚA CHẾT ĐI, NÓ MỚI SINH NHIỀU HẠT KHÁC
Vào dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Đền thờ mừng lễ. Dân chúng
rước Ngài long trọng và tung hô Ngài là Đấng Mêsia. Có mấy người Hy Lạp tòng
giáo cũng đi dự lễ, họ ngỏ ý muốn gặp Ngài. Họ nói với Philipphê. Ông này bối
rối không biết nghĩ sao, đến nói với Anrê. Cả hai cùng đến với Chúa và trình
bày cho Ngài biết ý định của mấy người Hy Lạp.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng nói lên những lời mang
nhiều ẩn ý. Vừa như độc thoại vừa nói với các môn đệ: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh”. “Đến giờ” là giờ nào?
Trong Tin Mừng Gioan từ giờ được nói đi nói lại nhiều lần. Từ này
chỉ có nghĩa chung chung, là lúc chương trình của Chúa Cha được thực hiện. Chúa
Giêsu không bao giờ làm gì theo ý Ngài, chính Ngài cũng đã xác nhận như thế.
Ngài đến trong trần gian là thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha vì “ý
Cha là muốn cứu rỗi mọi người”. Giờ của Ngài chính là giai đoạn mà Chúa Cha đã
ấn định. Chỉ một lần, Ngài đi trước ý Cha khi Ngài chấp nhận theo yêu cầu của
Mẹ Ngài trong tiệc cưới Cana. Vâng lời Mẹ cũng như vâng lời Cha, vì Mẹ cũng có
quyền.
Nhiều lần người Do Thái muốn bắt Ngài, nhưng vẫn không thể được vì
“giờ Ngài chưa đến”. Giờ của Ngài cũng là lúc chấp nhận chịu treo trên thập giá
và cũng là lúc phục sinh vinh hiển.
Trong giây phút này, lúc những người Hy Lạp đến xin gặp Ngài, Chúa
lại tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Có liên hệ gì với những
người Hy Lạp này?
Được tôn vinh có nghĩa là được những dân tộc khác biết đến. Tôn
vinh không thể hiểu theo nghĩa trần thế mà theo viễn tượng của Thiên Chúa.
Những người ngoại được hưởng ơn cứu độ như người Do Thái. Họ đang khao khát và
họ được no đầy. Họ muốn gặp Ngài và gặp Ngài là gặp Đấng cứu độ. Tôn vinh chính
là hồng ân cứu độ được lan tràn cho mọi người, kể cả những người ở xa.
Nhưng Chúa Giêsu đi xa hơn khi nói đến hạt lúa mì chết đi để sinh
bông hạt. Ngài chính là hạt lúa mì được gieo vào luống cày đẫm máu của nhân
loại. Tôn vinh chính là chết đi để sống lại, để sinh nhiều bông hạt. Tôn vinh
chính là chấp nhận theo ý Cha đến tận cùng, là tình yêu đã nên trọn vẹn. Ngài
chấp nhận chết đi cho mọi người, đó là cách Ngài tôn vinh Cha Ngài, là cho mọi
người biết Chúa Cha đã yêu thương trần gian như thế nào.
Và đây chính là định luật của tình yêu. Mọi người đều được mời gọi
đi vào tình yêu hiến dâng đó: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được nó cho sự sống đời đời”.
Chúng ta xem sự chết như một mất mát lớn, vì chúng ta bám vào sự sống như một
sở hữu vô giá. Chúa Giêsu ngược lại, Ngài xem cái chết như một hiến tế, như một
cử chỉ yêu thương tột đỉnh. Còn chúng ta lại ngại nói đến cái chết, chúng ta sợ
chết. Chúa Giêsu không coi trần gian này như một tài nguyên quí giá mà là dụng
cụ của tình yêu. Ngài xem mình như hạt lúa thôi, được gieo vào trần gian, lệ thuộc
vào trần gian, vào những mùa màng của nhân loại, của các nền văn minh và chờ
ngày lúa chín. Ngài chấp nhận những mùa đông của lịch sử và đợi mùa xuân để
phục sinh.
Ngài mời gọi chúng ta đi vào lối bước của Ngài: “Ai phục vụ Thầy,
hãy theo Thầy”. Theo Thầy, mục nát với Thầy để cùng Thầy mang lại hoa trái.
Ngài chấp nhận tất cả và biết rõ tất cả. Nhưng làm sao khỏi xao
xuyến khi Ngài mang lấy xác thịt như chúng ta: “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến!
Thầy biết nói gì đây? Một lời thật não nuột! Tiếng kêu thương của một con người
yếu đuối đứng trước gánh nặng của vâng phục, nhưng đầy yêu: “Lạy Cha, xin cứu
con khỏi giờ này”. Tiếng than thở như một lời cầu cứu. Một ngày nào đây, Ngài
cũng nói lại như thế: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này”.
Nhưng sau cùng vẫn là vâng phục: “Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. ““Nhưng
không theo ý con mà theo ý Cha”. Tất cả tình yêu của Chúa Con được chứa đựng
trong một vài câu ngắn ngủi này. Và hơn nữa: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
Tôn vinh Danh Cha bằng sự vâng phục trọn vẹn của con. Tôn vinh Danh Cha bằng
cách chịu giương cao lên khỏi mặt đất. Vì lúc ấy, con sẽ kéo mọi người lên với
con”. Đó là ý muốn của Cha. Đó là tình yêu của Cha đối với trần gian, đã ban
người Con Một.
Trong giờ phút ấy, cái chết ô nhục đã hiện rõ trong tâm trí của
Ngài. Mọi sự đã được quyết định và sự vâng phục đã trở nên như một dấu hiệu
tình yêu không phai tàn. Chính trong cái chết ô nhục mà “thủ lãnh thế gian này
bị tống ra ngoài”. Đây chính là cuộc chiến thắng vẻ vang làm vinh danh Chúa
Cha. Chính Cha đã xác nhận bằng một tiếng nói bởi trời: “Ta đã tôn vinh Danh
Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” Thập giá ô nhục kia trở thành vinh quang vì sự
vâng phục đầy yêu thương của Chúa Con.
Chúng ta cũng phải đi vào con đường thập giá mới chiến thắng sự dữ
và tội lỗi. Thập giá mới là vũ khí hữu hiệu nhất để diệt trừ thủ lãnh thế gian.
Tự nhiên chúng ta không thể dễ dàng chấp nhận thập giá. Chúng ta bám ghì vào
thế gian, vào cuộc sống nhàn hạ dễ dàng. Chúng ta muốn hưởng thụ hơn là hy sinh.
Chúng ta có muốn gặp Chúa như những người Hy Lạp kia không? Hay
chúng ta lại tránh né, sợ Ngài đòi hỏi chúng ta hy sinh? Hay chúng ta đã quá
quen với Ngài rồi, Ngài không còn hấp dẫn nữa? Thế gian với những sự sung sướng
của nó hấp dẫn hơn?
Chúng ta đã tin Ngài rồi, đã được gần gũi với Ngài nhiều rồi, cây
thập giá của Ngài không còn gây sự chú ý nữa. Mấy người đã nhìn đó như dấu hiệu
tình yêu tuyệt hảo, tình yêu dám liều mạng vì bạn hữu? Mấy người dám tôn vinh
Ngài như Ngài đã tôn vinh Chúa Cha bằng chính sự vâng phục tuyệt đối của Ngài?
Chúng ta sắp bước vào Tuần thánh là giai đoạn cực kỳ quan trọng
trong cuộc đời Chúa Giêsu mà cũng là cực kỳ quan trọng đối với chúng ta là
những người đã nhìn lên Đấng được giương cao, vì nơi Ngài, chúng ta được cứu
chuộc, được chữa lành, được trở thành con của Chúa Cha. Hãy nghe tiếng mời gọi
của Ngài, hãy theo Ngài đến nơi Ngài chịu giương cao, cùng với Mẹ Maria thông
phần vào đau khổ của Ngài để được sống lại với Ngài vinh quang. Chỉ khi nào
chúng ta chịu theo Ngài, chúng ta mới được ở với Ngài, vì Thầy ở đâu, anh em
cũng sẽ ở đó với Thầy.
Theo Ngài, chúng ta phải mang lấy thân phận hạt lúa mì, thối đi,
bị dìm trong lòng đất nhân loại, nhưng cây lúa sẽ mọc lên và sinh nhiều bông
hạt. “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Dù chúng ta bị chôn vùi nhưng hy
vọng vẫn không bao giờ hao hụt vì chúng ta tin vào Đấng là sự sống và là sự
sống lại. Ngài được giương cao không phải chỉ là chết mà sống lại vinh hiển. Và
chúng ta cùng chết với Ngài sẽ được sống lại với Ngài. Đó là niềm hy vọng cuối
cùng của chúng ta, những kẻ tin vào Ngài, phục vụ Ngài và Ngài ở đâu chúng ta
cũng sẽ được ở đó với Ngài, trong tình yêu của Cha muôn thuở.
Và khi chúng ta chấp nhận chết với Ngài thì chính Ngài sẽ đến với
chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta bằng thịt máu Ngài, để ngay hôm nay, chúng ta đã
được ở cùng Ngài trên thiên đàng. Thiên đàng đó chính là Ngài, hôm nay và mãi
mãi.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang – Joshepus Quang Nguyễn)
PHỤC VỤ THA NHÂN NHƯ CHÚA GIÊSU PHỤC VỤ
Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2015, Đức Thánh Cha Phaxico nói rằng:
“Mùa Chay là thời gian thuận tiện chúng ta để cho Chúa Kitô phục vụ mình – nhờ
đó chúng ta trở nên giống Ngài hơn, mỗi khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa và lãnh
nhận các bí tích, đặc biệt là bí tích Thánh Thể. Nơi đó chúng ta trở thành điều
mà chúng ta lãnh nhận: trở nên Thân Mình Chúa Kitô. Trong thân mình này, không
có chỗ cho thói vô cảm rất thường chiếm lĩnh tâm hồn chúng ta. Vì ai thuộc về
Chúa Kitô thì cũng thuộc về một thân mình duy nhất và trong Chúa chúng ta không
được dửng dưng đối với nhau. “Vì nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau;
và nếu một chi thể được vinh dự thì mọi chi thể đều được chia sẻ niềm vui ấy”
(1 Cr 12,26) (số 1). Vì thế Ngài kêu gọi Giáo Hội, giáo xứ, cộng đoàn và từng
cá nhân hãy gạt bó thói vô cảm dững dưng với tha nhân đặc biệt là những người
nghèo khổ nhất trong xã hội hôm nay thay vào đó phải sẵn sàng phục vụ, yêu
thương và chăm sóc họ vì họ là thân mình Chúa Kitô.
Vì thế, Chúa Giêsu hôm nay nói rõ: Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo
Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của
Thầy sẽ quý trọng người ấy. “(Ga 12, 26). Chúa Giêsu coi việc phục vụ là trung
tâm và chóp đỉnh của đời sống với Thiên Chúa và tha nhân. Qủa thế, Chúa Giêsu
được Thiên Chúa sai đến để thi hành ý muốn của Thiên Chúa: Mạc khải Thiên Chúa
cho nhân loại để ai tin vào Người sẽ được sống đời đời (Ga 3,31-36) và đền bù
sự chối từ phục vụ Thiên Chúa của ông bà nguyên tổ chúng ta (St 3,6) qua việc
phục vụ rửa chân cho các môn đệ, chịu nạn, chịu chết đau thương trên thập giá
(Mt 16,21). Là Kitô hữu, chúng ta trước hết rập theo Chúa Giêsu: chuyên tâm cầu
nguyện, phục vụ Lời Thiên Chúa (Cv 6,4), rồi lo việc tế tự và rao giảng Tin
Mừng của Thiên Chúa (Rm 15,16) với “tất cả lòng khiêm nhường dù có gặp nhiều
gian nan thử thách” (Cv 20,19). Điều đáng lưu ý rằng chúng ta phục vụ Thiên
Chúa như con cái của Ngài, chứ không phải người nô lệ (Gl 4,4-7) vì chúng ta
phục vụ trong sự mới mẻ của Thần Khí chứ không phải trong sự cũ kỹ của chữ viết
(Rm 7,6), ngõ hầu chúng ta được Chúa Cha chúc phúc và mời đến thừa hưởng vương
quốc dọn sẵn cho chúng ta từ thuở tạo thiên lập địa (Mt 25,34).
Chúa Giêsu là Chúa, là Thầy nhưng “Người không đến để được người
ta phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn
người” (Mc 10,45). Cho nên, cả đời Ngài là một chuỗi hành vi phục vụ con người.
Ngài phục vụ như một người nô lệ, một tôi tớ: cúi mình xuống thật sâu để mặt
mình ngang hàng với chân của học trò và thậm chí kẻ phản bội mình (Ga 13,1-15)
để rửa chân.
Còn chúng ta có làm được như thế cho mọi người nhất là những người
nghèo, người khuyết tật, bệnh nhân hay tù nhân không, chúng ta có khả năng tươi
cười, tha thứ yêu thương hay phục vụ họ như bao người khác không? Chắc chắn
Chúa Giêsu phải có một trái tim yêu thương cao thượng đến tột độ mới phục vụ
chúng ta như thế! Chúa Giêsu lại ban cho chúng ta tình yêu cao quí đó qua việc
chúng ta liên kết và hợp nhất với Ngài trong Bí tích Thánh Thể, cùng hiệp thông
với Chúa Thánh Thần. Giờ đây, chúng ta hãy cất bước vào đời thi hành tinh thần
phục vụ mọi nơi, mọi lúc và trong từng việc chúng ta làm; phục vụ là cho không,
phục vụ là quên mình, phục vụ không đòi đền đáp, phục vụ ân nghĩa không chờ, và
phục vụ tất cả vì Chúa Kitô. Vì vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta không yêu
thương người ta, không ao ước phục vụ người ta, hãy tự hỏi lòng mình rằng: liệu
Chúa Giêsu Kitô có thật sự ở trong tôi không? Và tôi có phải là môn đệ Chúa
Kitô không? Cho nên, Chúa Giêsu khẳng định: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Vì vậy, cũng trong sứ điệp, Đức Thánh Cha mời gọi: “Mỗi cộng đoàn
Kitô hữu được kêu gọi ra khỏi chính mình để dấn thân vào đời sống của xã hội
rộng lớn hơn mà mình cũng là thành phần, nhất là với những người nghèo và những
người ở xa Giáo hội. Giáo hội tự bản chất là truyền giáo, Giáo hội không co cụm
vào mình, nhưng được sai đến với mọi quốc gia và mọi dân tộc” (số 3). Ước
gì qua Lời Chúa hôm nay, trong Mùa Chay này chúng ta hãy cầu xin Chúa: Xin uốn
lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa” (Kinh cầu Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa
Giêsu) để có được một con tim mạnh mẽ và biết xót thương, ân cần và quảng đại
mà phục vụ anh chị em đang cần chúng ta giúp đỡ để đừng rơi vào cám dỗ của nạn
toàn cầu hóa thói vô cảm hôm nay. Amen.
Yêu thương là cho đi, là chia sẻ, là dám chấp nhận những hy sinh
cho nhau và vì nhau. Hoa hồng nào mà chẳng có gai, tình yêu nào mà chẳng có
những hy sinh gian khổ của nó.
Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại rằng: Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường
trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén
đường và nói: Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít
đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với
một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả
những gì mình cần thiết. Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người
đàn ông đến gặp mẹ và nói: Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám
đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn. Lập tức mẹ bưng rá gạo
đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ
đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng
được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi
lập tức chia làm hai phần, bưng nửa ra đi, lát sau mới trở lại. Mẹ thấy vậy bèn
ngạc nhiên hỏi: Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai? Không chút do dự người đàn bà
trả lời: Họ cũng đói lắm. Nhưng họ là ai? Là những gia đình Hồi giáo, cũng có
những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng
chẳng có gì để ăn.
Từ những câu chuyện trên, chúng ta nhận thấy, yêu thương chính là
cho đi, chính là chia sẻ. Không phải những gì mình dư thừa, nhưng cả những gì
cần thiết cho đời sống của mình. Sức mạnh của tình yêu chính là khả năng chấp
nhận những hy sinh gian khổ cho người khác được hạnh phúc. Trong chiều hướng
này, chúng ta nhận thấy tình yêu Thiên Chúa thực lớn lao biết bao, bởi chưng,
vì yêu thương chúng ta, Ngài đã xuống thế làm người chịu đựng mọi vất vả túng
thiếu và sau cùng chịu chết một cách ô nhục trên thập giá, để cứu chúng ta khỏi
vòng nô lệ tội lỗi và đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc vĩnh cửu: Ta đến để
hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Và rồi Ngài đã
xác quyết: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Từ đầu mùa Chay cho đến giờ, chúng ta đã chuẩn bị tham dự vào biến
cố quan trọng nhất của lịch sử nhân loại. Hôm nay chúng ta nghe Chúa Giêsu loan
báo về những gì sắp xảy đến, nhưng thay vì mở ra một cảnh tượng hùng vĩ thì
Ngài lại tỏ lộ chính những tâm tình thầm kín nhất của Ngài.
Thực vậy sau khi Chúa Giêsu vinh hiển tiến vào thành Giêrusalem,
thì có mấy người Hy Lạp đến tìm Philipphê và nhờ ông giới thiệu mình với Chúa
Giêsu. Lúc đầu có lẽ Philipphê cảm thấy hơi ngại ngùng, nhưng sau đó cũng đã
dẫn họ đến với Chúa Giêsu. Lạ thay, Ngài không tỏ ra chấp nhận hay từ chối họ,
nhưng lại mạc khải cho họ một điều khác. Và chính trong sự mạc khải này, Ngài
đã cho biết những tâm tình thầm kín của Ngài. Ngài nói: Đã đến giờ Con Người
được vinh quang.
Giờ mà Ngài đã tiên báo lần đầu tiên, khi xuất hiện trước quần
chúng tại tiệc cưới Cana. Giờ mà Ngài vẫn mong chờ trong suốt ba năm giảng dạy.
Chính vì thế, bây giờ không còn phải là lúc tiếp nhận hay từ chối những người
Hy Lạp, nhưng là lúc phải hoàn thành sứ mạng cao cả và phổ quát của Ngài.
Tuy là giờ vinh quang, là giờ Ngài hằng mong đợi, nhưng điều lạ là
Chúa Giêsu nói tới giờ đó không phải với một giọng điệu nao nức, nhưng trái
lại, hình như đượm vẻ lo âu. Ngài biết rõ con đường nào mình sẽ phải đi qua đến
tiến tới vinh quang. Như hạt lúa phải mục nát đi, thì mới trổ sinh nhiều bông
hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình, thì sẽ được sống
đời đời. Qua đó, Ngài muốn nói với chúng ta rằng: Điều kiện để tiến tới vinh
quang là phải chấp nhận thập giá.
Thế nhưng kinh nghiệm cho chúng ta thấy, thập giá không phải là
một cái gì thơ mộng, ngọt ngào, nhưng là một cái gì cay đắng ê chề. Chính Chúa
Giêsu cũng đã từng hoang mang và run sợ, nên Ngài đã lên tiếng cầu nguyện: Lạy
Cha xin cất chén đắng này cho con. Đồng thời Ngài còn thêm: Nhưng không theo ý
Con, một theo ý Cha mà thôi. Nơi khác Ngài cũng đã thốt lên: Lạy Cha, xin cứu
Con khỏi giờ này, nhưng cũng chính vì giờ này mà Con đã đến.
Đó là một sự chấp nhận thật can đảm. Lời cầu nguyện của Ngài vừa
là một tiếng xin vâng, vừa là một tâm tình phó thác cho Chúa Cha, Đấng sẽ biến
cái chết của Ngài thành sự phục sinh vinh quang. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta
có biết bước vào con đường mà Chúa đã đi qua hay không? Bởi vì có trải qua đau
khồ thập giá thì chúng ta mới tiến đến vinh quang phục sinh.
Đọc lại Phúc âm chúng ta nhận thấy Chúa Giêsu không bước vào cuộc
khổ nạn như bước lên sân khấu để trình diễn một vở kịch, trong đó cái chết sẽ
chỉ là cái chết giả vờ. Trái lại, Ngài đã từng băn khoăn lo lắng khi giờ phút
trọng đại ấy đến gần.
Mặc dù luôn vâng phục thánh ý Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn quí trọng
sự sống, Ngài vẫn muốn được sống, vẫn muốn thoát khỏi những khổ đau và cái
chết, bởi vì Ngài cũng là một người như mọi người.
Đức Hồng y Veuillet, Tổng giám mục Paris, khi biết mình bị ung thư
và sắp chết, đã nhắn nhủ các linh mục của ngài như sau: “Chúng ta nói rất hay
về sự đau khổ. Bản thân tôi cũng đã làm như vậy. Thế nhưng, giờ đây tôi xin các
linh mục đừng nói gì về vấn đề ấy nữa, bởi vì chúng ta không hề biết đau khổ là
gì. Tôi đã phải khóc lên vì nó”.
Có thể người ta sẽ chê Đức Hồng y chưa hiểu biết ý nghĩa của sự
đau khổ, chưa sẵn sàng chịu đau khổ, nên mới buồn, mới khóc và không dám nói
tới nó nữa. Nhưng Đức Hồng y đã chân thật với chính mình. Không nói hay ít nói
về sự đau khổ không có nghĩa là không sẵn sàng chấp nhận, không yêu mến đón
nhận nó như chén đắng Thiên Chúa trao cho. Chén đắng vẫn là chén đắng, chúng ta
vui nhận, nhưng không thể vui sướng coi đó như là một chén nước ngọt. Chúng ta
chấp nhận đau khổ vì yêu mến chứ không vì thích chịu khổ đau.
Chúa Giêsu yêu mến sự sống bởi vì chính Ngài đã tạo dựng ra sự
sống, Chính Ngài là sự sống nhưng lại sẵn sàng dâng hiến nó như một tặng vật
cao quí nhất, hầu đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Ngài ví mạng sống ấy
như hạt lúa vàng gieo vào lòng đất, để làm nẩy sinh trăm hạt lúa mới. Ngài biết
rằng hạt lúa ấy sẽ phải chết sẽ phải mất đi, nhưng Ngài chấp nhận sự mất mát
đó, chấp nhận cái chết đó để rồi tìm lại sự sống của mình trong trăm ngàn hạt
lúa mới khác được sinh ra từ cái chết của Ngài.
Đức Kitô mong muốn không phải là được chết nhưng là thực hiện
thánh ý Chúa Cha. Cái chết không phải là cứu cánh nhưng chính là vinh quang
Thiên Chúa và ơn cứu độ cho nhân loại, mới là cái đích mà Ngài nhắm tới. Giờ mà
Ngài mong đợi không phải là giờ chết, nhưng là giờ hoàn tất sứ mạng Chúa Cha đã
trao phó, đó là làm cho mọi người được sống nhờ cái chết của Ngài và làm cho
toàn thể nhân loại được yêu thương hợp nhất với nhau khi cùng hướng nhìn về cây
thập giá. Bởi đó Ngài nói: Phần Ta, khi nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo
mọi sự đến cùng Ta (Ga 12,32). Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng
sống mình vì chúng ta, giờ đây Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy yêu thương và
hiến dâng cuộc đời chúng ta cho anh em, để nhờ đó mọi người đều được hiểu biết,
đều được yêu thương và đều được chia sẻ phần hạnh phúc của gia đình những người
con cái Chúa.
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
Mỗi một con người, đều mang trong mình một suy nghĩ riêng, một cái
nhìn riêng, một lập trường riêng để nói lên sự cá biệt hay nói đúng hơn là sự
khác biệt của con người. Mỗi một con người có một nhân vị. Mỗi một con người là
cả một thế giới riêng biệt. Và vì vậy, đó mới là điểm lý thú của con người. Nếu
ai cũng như ai thì thế giới này thật là buồn tẻ, thật là nhàm chán vì khi ấy
chẳng còn gì để mà bàn nữa. Thế nhưng, từ cái cá tính, cá vị của con người đã
gây nên không biết bao nhiêu xáo trộn trong cuộc đời này.
Nhìn vào đời sống thường nhật chúng ta thấy rõ điều này. Hai vợ
chồng trẻ mới cưới, vì còn nồng nàn cái thuở ban đầu, cái ngày đầu của đời sống
hôn nhân nên tràn đầy hạnnh phúc. Khi ấy, anh nói em nghe, em nói anh nghe
nhưng rồi một thời gian qua đi khi đời sống hôn nhân có thời gian, có bề dày
một chút thì cái kiểu mà anh nói em nghe em nói anh nghe không còn nữa và rồi
nó gây ra xáo trộn trong gia đình. Khi ấy chồng không phục tùng vợ nữa và vợ
cũng chẳng còn phục tùng chồng nữa. Nếu nhường nhịn nhau thì gia đình sẽ ấm êm
còn nếu không nhường nhịn nhau thì sẽ đổ vỡ, sẽ chia ly. Nếu ai nào sống trong
cái bầu khí bất phục tùng sẽ cảm thấy cực kỳ nhàm chán vì lẽ nó bất an làm sao
đó. Khi đó, muốn giải quyết mọi xung đột, muốn mang bình an lại trong gia đình
thì vợ và chồng phải nghe nhau, phải nhường nhịn nhau, phải tuân phục nhau.
Khi có con cũng thế, nếu như đứa con trong gia đình dễ dạy, dễ
nghe, dễ vâng phục thì gia đình rất bình an và hạnh phúc. Nếu gia đình nào có
đứa con ngỗ nghịch hay cãi lại cha mẹ thì ắt hẳn gia đình đó bất an. Ông bà ta
vẫn thường nói “Cá không ăn muối cá ươn – con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư!”
để diễn tả lối hành xử giữa cha và con qua hình ảnh của con cá. Điều chắc chắn
và ai ai cũng biết đó là con cá, nếu không ướp muối, để ngoài gió lát sau nó sẽ
ươn, nó sẽ tanh và hôi vô cùng. Với con cái cũng vậy, khi chúng cưỡng lại lời
dạy dỗ của cha mẹ thì chắc chắn nó sẽ dẫn đến con đường của hư vong thôi.
Rộng hơn một chút, trong một gia đình, trong một cộng đoàn chắc
chắn phải có người trên, kẻ dưới. Kẻ dưới dĩ nhiên phải vâng phục người cầm đầu
của gia đình, của cộng đoàn. Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy rất rõ, gia đình,
cộng đoàn nào mà bề dưới, con cái không vâng phục thì cha mẹ, bề trên của gia
đình, của cộng đoàn ấy khổ sở vô cùng. Cha mẹ, bề trên lúc nào cũng muốn con
cái mình tốt nên có những luật này lệ kia. Con cái và bế dưới thì khác, chúng
muốn sống trong tự do để rồi không còn biết vâng phục cha mẹ, bề trên là gì cả.
Bài học vâng phục ngày hôm nay, chúng ta được xem lại một cách hết
sức rõ ràng, thực tế trong đoạn sách ngắn ngủi mà Giêrêmia để lại cho chúng ta.
Giêrêmia được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ, người phát ngôn của Chúa, người đại
diện cho Chúa, người thay mặt Chúa nói với dân Chúa những lệnh truyền của Chúa.
Thiên Chúa, Ngài vốn dĩ mang trong mình dòng máu của tình yêu thương bao dung
và tha thứ. Con người bao nhiêu lần bất tuân lệnh truyền, lẽ ra huỷ bỏ giao ước
đã thiết lập nhưng không. Thiên Chúa mãi yêu con người, tạo mọi cơ hội, mọi
điều kiện để con người bỏ đường gian ác mà quay về đường ngay nẻo chính.
Dân Israel đã huỷ bỏ giao ước. Hôm nay, qua miệng của Giêrêmia,
Thiên Chúa lập giao ước mới với dân: “Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của Đức
Chúa – Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như
giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất
Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng
– sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau
những ngày đó – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào
tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là
dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia:
“Hãy học cho biết Đức Chúa”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ
biết Ta – sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn
nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi (Gr 31, 31-35)
Với Giao Ước Mới, Thiên Chúa hứa là sẽ không nhớ đến lỗi lầm của
Israel nữa và Ngài còn hứa Israel sẽ tồn tại mãi mãi.
Thế nhưng, tiếp tục nhìn vào lịch sử Israel, mối tình giữa Israel
và Thiên Chúa nó làm sao ấy. Thiên Chúa mãi mãi yêu thương còn dân thì lại cứ
bất tuân luật Chúa, không vâng phục lời của Ngài. Dân Chúa ương ngạnh, không
vâng phục cho đến nỗi Ngài phải sai chính Con Một của mình đến để dạy do dân
bài học vâng phục. Không đơn giản để học bài học vâng phục. Chúng ta thử đặt
trường hợp của chúng ta vào Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấu được nỗi âu lo, sao
xuyến, căng thẳng của một người sắp bước ra pháp trường.
Chúa Giêsu mang trong mình sự giằng co của một con người tự do và
một con người vâng phục. Ngài hoàn toàn tự do để lựa chọn sự sống hay cái chết
của Ngài. Suy nghĩ lắm chứ! Đắn đo lắm chứ! Buồn và đau đớn để rồi Ngài mới thỏ
thẻ với Cha mình: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha,
xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến (Ga 12, 27)
“Chính vì giờ này con đã đến”! Phải! Chính vì cái giờ đau thương,
giờ quyết liệt này mà Chúa Giêsu phải đến.
Tác giả thư Do Thái đã nói với chúng ta điều ấy:
“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc
lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết.
Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã
phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản
thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả
những ai tùng phục Người (Dt 5,7-9).
Để vâng phục không đơn giản, để vượt qua những trở ngại của vâng
phục phải trải qua biết bao nhiêu đau khổ nhưng khi vượt qua đau khổ đấy sẽ
được đến vinh quang. Thánh Phaolô, trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip xác
tín với chúng ta về thái độ, về hành động vâng phục của Chúa Giêsu:
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngườivà tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. (Pl 2,
6-9)
Vì sao Thánh Phaolô nhắc tín hữu Philip gương của Chúa Giêsu. Chắc
có lẽ trong cộng đoàn Philip lúc bấy giờ có sự đụng chạm, có sự cãi vả nhau nên
Thánh Phaolô phải nêu gương vâng phục của Chúa: “Nếu quả thật sự liên kết với
Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng
ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và
biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn
vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một
ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng
khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng
mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có
những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. (Pl 2, 1-5).
Thái độ, hành động vâng phục tuyệt vời của Chúa Giêsu ngày hôm nay
quả là bài học quý giá cho mỗi người chúng ta. Hôm nay, chúng ta có cơ hội nhìn
lại chính mình. Là linh mục, là tu sĩ, là ông, là bà, là cha, là mẹ, là con, là
cháu trong gia đình, chúng ta nhìn lại xem chúng ta có vâng phục giám mục địa
phận, bề trên giám tỉnh, bề trên cộng đoàn, ông, bà, cha mẹ của chúng ta hay
không? Nếu chúng ta thật sự vâng phục bề trên, ông bà cha mẹ thì gia đình chúng
ta sẽ ấm êm, hạnh phúc.
Các đấng các bậc làm bề trên và làm cha làm mẹ ắt hẳn có kinh
nghiệm thực tế về chuyện vâng lời vâng phục của bề dưới, của con cái. Đành biết
con người có cá tính, có lý lẽ riêng của mình nhưng vì hạnh phúc chung, vì lợi
ích chung của gia đình, của cộng đoàn ta phải cố gắng bỏ đi cái ý riêng, cái lẽ
riêng của ta để gia đình, để cộng đoàn được hạnh phúc hơn.
Nhìn lại như vậy để rồi chúng ta cầu nguyện cho nhau để ngày mỗi
ngày chúng ta cân chỉnh cuộc đời của chúng ta sống sao vâng phục người trên của
chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu là thầy dạy vâng phục ban thêm ơn cho chúng
ta để chúng ta sống bài học vâng phục như Chúa đã từng vâng phục Cha.
14. Giờ Con Người được tôn vinh
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa
chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi
nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định.
Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính
là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi,
hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người
chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang
ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong
‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được
nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói
đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian,
là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào
hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn
thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã
xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu
công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao
lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.
Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn
vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ
tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người
phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không
hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng
xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc
22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính
Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos)
‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa
Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng
phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một
lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm!
Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung
cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua
trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy
Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú
sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan…
sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm:
“Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng
Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1
Cr 1:23-24)
Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng
khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có
khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính
là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận
rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập
giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng
tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho
Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng
từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc
này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự
thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang
Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng
‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu
cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người
mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính
vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi
được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính
lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi
mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết
phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho
cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”
Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho
riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang
đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết:
‘Thiên Chúa là tình yêu’?
Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá
Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin
cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và
chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo
trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho
chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con
lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng
nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm
tử. Amen.
ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH
(Suy niệm của ViKiNi – Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm – trong ‘Xây Nhà
Trên Đá’)
Đức Giêsu được tôn vinh như thế nào?
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến
gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất
cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành
Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó
đi, đóng đinh nó đi”.
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị
muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu
nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do
thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho
Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi
chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).
Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh
vọng, quyền thế vinh quang trần gian.
Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống
đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì
sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”.
Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài
không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ,
đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận
thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương
tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin
tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một
phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân
ái cao cả đó thôi.
Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi
giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã
đến”. Giờ này là gì? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra
cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra
ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc
thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn
vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế
gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào
cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời
khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận
lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).
Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài
không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến
phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài
xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong
gấp rút dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến”
như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải
biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).
Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân
loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo
dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy,
thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã
phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26
tháng 02 năm 1991).
Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã
chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô
lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.
Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn
lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì
đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ
sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó
với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.
Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra
ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống?
Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn
Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi
chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ
tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm
lề luật Ngài.
Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà
xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch,
đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều
đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái
tôn vinh danh Cha.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’ – Thiên Phúc)
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt
giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam
Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu
người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn
học tuyên bố: “Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ”. Đoàn
tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền
nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan
nói: “Mười trong số những người này phải trả nợ”. Lập tức tên sĩ quan duyệt qua
hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì
thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: “Tôi xin
chết thay cho người này”. Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến
của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: “Tại sao muốn chết?” Maximilien Kolbe điềm
tỉnh trả lời: “Tôi là linh mục Công giáo”.
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ
trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày
18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó
là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
***
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi
một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt’ (Ga.12,24) Để có
một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào.
Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều
bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết
như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực
nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải
đáp: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống
vì bạn hữu mình” (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự
chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã
không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người.
Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách
đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận
tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã
từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối
cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách
thức: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi
giờ này” (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh
Thiên Chúa và lời yêu thương con người: “Chính vì thế mà con đã đến trong giờ
này” (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha
nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả
Anthony Padovano viết: “Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của
Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết”.
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết,
Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh
nghiệm nơi Người: “Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc.22,40). Cầu
nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu
nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta
không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta
chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi
xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không
phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên
Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta,
nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa
vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm
bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp
cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
***
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu
tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt
Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng
con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen.
(Suy Niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Người đời thường nghĩ rằng: cho đi là mất. Họ tưởng rằng cho người
khác một số tiền, một tài sản nào đó… thì họ sẽ bị mất mát, thiệt thòi. Thế nên
lắm kẻ chủ trương rằng tốt nhất là đừng dại dột đem cho mà hãy khư khư giữ lấy
cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho
bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.
Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy,
Chúa Giêsu dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.
Cho đi thì còn, giữ lại là mất; chính lúc trao ban là lúc nhận
lãnh.
Để làm rõ sự thật nầy, Chúa Giêsu dạy: “Thầy bảo thật anh em, nếu
hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn
nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Quả vậy. Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì hạt
lúa đó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận
bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ
hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác.
Từ đó, Chúa Giêsu dạy rằng cuộc sống của con người ở đời nầy cũng
như thế: “Ai yêu quý mạng sống mình (tự bảo toàn mình như hạt lúa trong kho)
thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (sống xả thân như hạt
lúa chịu phân huỷ trong lòng đất) thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Khi nói: “coi thường mạng sống mình ở đời nầy”, Chúa Giêsu không
có ý dạy chúng ta coi rẻ mạng sống, nhưng là mời gọi chúng ta sẵn lòng chấp
nhận xả thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Làm như thế không phải là thiệt
thòi mất mát nhưng là cách để triển nở dồi dào phong phú.
Minh hoạ sau đây chứng tỏ sự thật nầy:
Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi
nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau.
Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị
tha.
Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của
tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi
việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái
dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó
chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.
Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay
phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi
viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay
trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.
Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn
tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu
đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi
bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số
không!
Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được
chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao
giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên
nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải
theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc,
lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó
mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.
Nhờ tự huỷ mình đi như hạt lúa, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn
vinh.
Cuộc đời của Đức Giêsu là một minh chứng cho chân lý nầy. Người là
Một Hạt Lúa chấp nhận tự huỷ đi. Dù là Thiên Chúa thật đồng hàng với Chúa Cha
nhưng Người đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Người
đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận
chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi
muôn dân. Nhờ đó, Người được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển,
được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).
Thánh Phao-lô tóm lược cuộc đời tự huỷ của Chúa Giêsu như sau: Vì
chấp nhận tự huỷ như thế, “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả
trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng
rằng: “Đức Giêsu Ki-tô là Chúa”. (Phi-líp-phê 2, 9-11)
Đón nhận bài học của Chúa Giêsu
Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một
máy bay phải tiêu hao nhiên liệu mới có thể cất cánh. Một vệ tinh, một tàu vũ
trụ phải tiêu hao một số năng lượng khổng lồ mới có thể được phóng lên không
gian…
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hi sinh,
sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa
và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
HẠT LÚA GIEO VÀO LÒNG ĐẤT
Nếu chúng ta có một lượng vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành
năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là
chuyện không thể làm được bằng những phương cách hợp pháp.
Giá như có bí thuật nào làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc
cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giêsu tặng không cho ta một bí quyết làm gia
tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết
nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của
mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn
nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận
mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp
lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những
lời ngạo mạn: “Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi
chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang
khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng,
thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn
ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm
nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối
và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi
tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!”
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp
lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng
chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót
lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong
bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi
thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không
đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng
khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật
nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá
đời mình như thế.
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh
được nhiều hạt khác.”
Rồi Ngài nói rõ hơn: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn
ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời.”
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời
ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn
đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chết treo trên
thập giá như một tên tử tội khốn nạn nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt
Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu… nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài
chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh
hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống như hạt lúa đơn độc trên vệ
đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt cuộc phải tiêu vong. Ngài muốn chúng ta
bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta hãy nên như hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa
là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì hạnh phúc người khác; hãy cùng chịu đau
khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá hằng ngày với Chúa Giêsu, chấp nhận cống
hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục vụ muôn người.
Nhưng sự việc đâu có giản đơn. Xác thịt con người vẫn nặng nề và
không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có rất nhiều can đảm mới có thể đáp lời
Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức cho con!
(Suy niệm của Lm. Quốc Toản, CRM)
CHÚNG TÔI MUỐN GẶP CHÚA GIÊSU
Trong cuộc sống có nhiều điều quan trọng mà ta không thể trông
thấy như gió, tư tưởng, lòng can đảm, tình yêu và ơn thánh Chúa. Tuy nhiên, ta
có thể biết chúng hiện hữu qua hiệu quả hay tác dụng của chúng. Thí dụ khi thấy
cây ngả nghiêng – ta biết có gió.
Trong Tin Mừng hôm nay, một số người Hy-lạp (Dân ngoại) muốn gặp
Chúa Giêsu. Tại sao họ muốn gặp Chúa? Họ là mối lo cho người Do-thái hơn cả
quân Rôma. Đối với họ, cách sống của người Do-thái thật là bất thường. Tuy
nhiên, họ lại muốn gặp Chúa. Phải có một điều gì làm cho họ muốn gặp Chúa? Có
lẽ họ đã nghe các tông đồ và dân chúng nói nhiều về Chúa. Cũng có thể họ muốn
gặp Chúa là vì họ đã chứng kiến sự biến đổi nơi cuộc sống của các tông đồ và
những người đã theo Chúa Giêsu.
Như những người Dân ngoại xưa, nhiều người ngày nay cũng muốn gặp
Chúa Giêsu; một Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc sống của những người đã theo Ngài,
một Chúa Giêsu làm cho người ta muốn dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, một
Chúa Giêsu thấu hiểu tâm hồn và biết con người phải chiến đấu khó khăn thế nào
để thi hành một việc tốt, và một Chúa Giêsu luôn sẵn sàng thí mạng sống vì phần
rỗi nhân loại.
Những sự việc này sẽ không bao giờ trở thành sự thật nếu chúng ta
không thấy những hậu quả hay tác dụng của sự hiện diện của Chúa Giêsu trong
cuộc sống của những người theo Chúa Kitô. Ta đọc hoặc nghe về những vị thánh,
những người có cuộc sống đã chiếu giãi sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa
như Phanxicô, Têrêxa, Mẹ Têrêxa Calcutta… Ta cũng biết những người có cuộc sống
thánh thiện như Tu sĩ Văn, Cha Minh Đăng, Cha Bửu Diệp… Hoặc chúng ta biết
những người thân yêu, bạn bè đang đau khổ không kém Ông Gióp trong Cựu Ước,
nhưng họ vẫn vững niềm tin cậy trông nơi Chúa cho dù đôi lúc họ cũng muốn buông
xuôi.
Việt Nam ta có câu, “Có qua có lại, mới toại lòng nhau. “Đúng thế!
Không chỉ có chúng ta muốn gặp Chúa Kitô, nhưng còn rất nhiều người khác cũng
muốn gặp Chúa Giêsu. Do đó, ta không thể chỉ ngồi để hưởng gương lành hoặc ân
sủng nhờ niềm tin của người khác. Ta cần trở nên dấu chỉ cho tha nhân nhận biết
sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống. Ta có thể bắt đầu bằng việc đồng hành và
giúp những người chưa nhận biết Chúa qua cử chỉ bác ái yêu thương và nâng đỡ;
trung thành trong đời sống cầu nguyện; giúp đỡ tha nhân không vì để được khen,
nhưng là vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa; đồng hành và cảm thông với những người
đau khổ không phải bằng lời nói nhưng bằng sự hiện diện.
Như những người Hy-lạp trong Tin Mừng, ngày nay cũng có rất nhiều
người muốn gặp Chúa Giêsu. Nhưng, ngày nay Chúa không hiện diện cụ thể để cho
họ gặp Ngài diện đối diện như thời xưa. Cách duy nhất để họ nhận ra Chúa là qua
chính những hậu quả và tác dụng của lời Chúa nơi hành động của chúng ta là những
môn đệ của Ngài. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể canh tân đức tin nơi mỗi người và
giúp ta biết chia sẻ đức tin đó cho mọi người qua lời nói và đời sống trào tràn
tình yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy tìm Chúa Giêsu nơi tha nhân và để tha nhân
nhận gặp Chúa nơi chúng ta.
20. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra một nghịch lý gay gắt
người đời khó hiểu được: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. “(Ga
12,25)
Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.
Người đời cho rằng muốn bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu
cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa
Giêsu thì chủ trương ngược lại: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!” (Ga
12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý nầy?
Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân
thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ
thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng
cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án
tử cho mình.
Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.
Người đời cho rằng: “mạng sống hơn đống vàng” nên người ta chăm
sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo
tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: “ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin
Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc
lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca
17,33.
Làm sao hiểu cho được những nghịch lý nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm
hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của
tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.
Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì
phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí
trong lành cho những phần chi thể khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là vì chúng luôn trao ban và
dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất
dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung quanh, không giữ lại gì cho
riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là
dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ
lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong
lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước
uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem
lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung túc cho bao triệu người qua
các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển sống.
Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp
thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên
là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng
nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở
thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển
nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư…
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo
quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa
chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên
phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý
Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ
thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt
người đời, Chúa Giêsu đánh mất tất cả và thất bại hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người đã phục sinh, lên trời
vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất,
Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho muôn người và cho họ
được hưởng phúc trường sinh.
Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại
dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ
mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa Giêsu gọi đó là giờ Người
được tôn vinh: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý
soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự
Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh,
để trở thành “biển sống Galilê” và không bao giờ là “biển chết”.
(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào SDB)
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ
với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc
ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi: “Mẹ ơi, chết
là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa
con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong
Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết: “Trước lễ vượt
qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với
Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người
yêu thương họ đến cùng. “Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con:
“Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái
chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường
yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định
luật của hạt lúa được gieo vào đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản
sinh nhiều bông hạt khác.
‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.
Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn
vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong
sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu
đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi,
‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép
lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên
Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ
giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha
không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong
Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp: “Giờ đã đến”. Đó
là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên
Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu
nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con
Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi
loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ: “Đã đến ‘Giờ’
con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn
mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin
vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã
viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn
cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy
và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.
Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống
tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là
nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình
ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái
chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa
khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ
trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý
cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần
lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về
cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh
giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can
đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với
Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).
Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song
song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình
vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu
đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn
cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết
đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một
Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt
người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho
mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có
một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người
đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’.
Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết
trong hành trình tự hủy cách liên tục.
Cuộc chiến nội tâm.
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết:
“Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời
nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con
người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ
hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích,
đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra
và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn
sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái
chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).
Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý
giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng
bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những
giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những
cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong
cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta
cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.
Kết luận
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các
chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về
cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái
chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm
và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình
yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác
tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng
ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự
hủy cùng với Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người xưa thường đề cao lối sống của người quân tử. Người quân tử
thấy chuyện bất bình thường ra tay cứu giúp. Người quân tử luôn sống hào hiệp,
sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản thân. Thế nhưng, con người ngày nay lại an
phận thủ thường. Người ta ngại hy sinh cho người khác. Người ta sợ “mang hoạ vào
thân”. Người ta tìm an nhàn cho bản thân nên chẳng dại gì “ăn cơm nhà đi vác tù
và hàng tổng”. Xem ra lối sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay
giúp đỡ chỉ còn trên trang giấy học trò. Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại
hôm nay.
Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy
khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới
cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn “vui vẻ” với cô. Tất nhiên là
cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba
tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn
tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai
hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp
tục lên đường…
“Này ông kia, ông xuống xe đi!” cô tài xế la lên với người đàn ông
vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
“Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai
à?”
Cô gái nhăn mặt nói: “Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy.”
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây
của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Thậm
chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai
và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống
đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn
tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:
“Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?”
Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn.
Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi
xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng
“Phục Hổ Sơn”. Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều
thiệt mạng.
Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã
khóc!
Quả thực, con người ngày xưa khi thấy chuyện bất bình, người ta
thường lăn xả để hoà giải cho nhau, nhưng xem ra hôm nay, ít ai dám can thiệp
vào chuyện người khác. Ít ai dám xông pha để bảo vệ kẻ yếu đang bị ức hiếp.
Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người khác. Xem ra con người ngày nay
thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình nhiều hơn là cho đồng loại.
Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy sinh”.
Thế mà, hôm nay Chúa Giêsu lại bảo: “kẻ nào giữ mạng sống mình thì
sẽ mất, còn ai chịu chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại”. Đó là chân lý, là định
luật tất yếu của cuộc đời. Nếu thế giới này không có những con người dám quên
đi bản thân thì làm sao có những phát minh khoa học, làm sao có những kỳ quan
để lại cho đời sau? Có lẽ thế giới hôm nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có
những người dám quên đi sự an nhàn cá nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá
nhân để sống vỉ lợi ích tha nhân! Thế giới này đang mắc nợ những con người đã
tận tuỵ làm việc quên mình để xây dựng thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Thế
giới hôm nay rất cần những con người quân tử để cuộc đời được phong phú và yên
vui hơn.
Chính Chúa Giêsu, Ngài đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để
tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu
nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám
chết vì bạn hữu. Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là
những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là
chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha “chân lấm tay
bùn” đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những
người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là
những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ
giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu
nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người
dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có
ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì
người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân.
Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy
ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để
đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp
hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở thích của mình để đem lại
niềm vui cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi
chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh
phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng
chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình
yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho
nhau. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Vài hôm trước ngày bị hạ sát, Tổng Giám Mục Oscar Romero phát biểu
với một phóng viên nhà báo: “Ông có thể nói với dân chúng rằng, nếu họ thành
công trong việc ám hại tôi, tôi sẽ tha thứ và ban phép lành cho những ai làm
điều ấy. Hy vọng họ sẽ nhận ra rằng họ đã phí uổng thời giờ. Một vị Giám mục sẽ
chết, nhưng Giáo Hội của Thiên Chúa, tức là Giáo Hội của dân chúng sẽ chẳng hề
bị hủy diệt.”
Vào lúc 6 giờ 25 chiều ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của Bệnh
Viện Chúa Quan Phòng, một bệnh viện dành cho bệnh nhân ung thư, Tổng Giám Mục
Romero cử hành Thánh Lễ cầu hồn cho thân mẫu của một ký giả bạn thân, vừa mới
qua đời. Đức Cha Romero đọc đoạn Phúc Âm Thánh Gioan: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh… Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. “(Gioan 12,
23-24) Đức Cha triển khai chủ đề ấy trong bài giảng ngay sau đó, áp dụng nó vào
tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải cam chịu dưới ách thống trị
của độc tài quân phiệt.
Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: “Điều quan trọng là
đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh, mà lịch sử
đòi hỏi nơi chúng ta… Kẻ nào né tránh sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình.
Nhưng bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ
được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài.
“Ngài còn nói: “Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi,
tôi sẽ được sống lại trong dân Salvador của tôi.”
Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ
chuẩn bị bánh và rượu để dâng hy lễ Chiên Thiên Chúa, thì tiếng súng nổ, một
loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện bay vèo lên. Tổng Giám Mục Romero trúng đạn,
máu chảy lai láng. Người ta vội đưa ngài đi cấp cứu, nhưng ngài đã tắt thở.
Giết chết Tổng Giám mục Oscar Romero, thế lực quân phiệt, tài
phiệt bạo ngược chưa thỏa lòng. Họ còn cho binh lính mai phục trên nóc nhà thờ,
đặt chất nổ và xả súng bắn vào đoàn người đang dự lễ an táng Đức Cha, ngay
trước tiền đường nhà thờ chánh toà, khiến thêm 37 người nữa bị tử nạn và hàng
trăm người bị thương. Nhưng ai là thủ phạm các vụ tàn sát trên thì “chỉ có Chúa
biết”. (Theo Romero: A life của James A. Brockman)
Trong Thánh lễ cuối cùng trước khi được Chúa thương gọi về, Đức
TGM Oscar Romero đã công bố bài Tin Mừng hôm nay. Đồng thời ngài áp dụng trung
thành Lời Chúa Giêsu phán dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai
coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.
“(Ga 12, 25). Trong tiểu sử Đức TGM Oscar Romero, không nhắc đến tâm hồn ngài
cảm thấy thế nào trước nguy hiểm đe dọa, có lẽ tác giả muốn bỏ qua sự yếu đuối
của thân xác. Còn Thánh sử Gioan không hề che đậy, cặn kẽ mô tả Đức Giêsu khủng
hoảng trước cuộc tử nạn.
Khủng hoảng
“Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” Tâm hồn
Đức Giêsu bất an, nôn nao, lo lắng, khiếp hãi, khủng hoảng vô cùng trước mối đe
dọa sống còn. Cuộc chiến giữa bản năng sinh tồn và ý chí dấn thân vâng phục vô
cùng khủng khiếp, nghiệt ngã, khiến Đức Giêsu phải đổ mồ hôi hột giữa đêm khuya
lạnh giá trong vườn Cây Dầu. (Lc 22, 44)
Dẫu vậy, Đức Giêsu luôn xác tín linh hồn quan trọng và thiết yếu
hơn thể xác, vốn yếu đuối, hèn mọn, mỏng dòn và mau hư nát. Há tiếc chi cái xác
phù du, sợ chi cái chết đe dọa, kẻ thủ ác bạo tàn? Đáng sợ là mất cả chì lẫn
chài trong hỏa ngục do Thiên Chúa phán xét công minh vào ngày chung thẩm: “Anh
em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em
hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. “(Mt 10, 28)
Thư gửi Do Thái, thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thật vậy, nếu
chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào
đền tội được nữa, mà chỉ còn sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng
tiêu hủy các đối tượng của Thiên Chúa. “(Dt 10, 26-27)
“Chúng ta phải học lấy bài học của Chúa Kitô: “Nếu ai muốn theo
Thầy, hãy từ bỏ chính mình. “(Lc 9, 23) Đúng thế hãy từ bỏ chính mình, từ bỏ
những dễ dãi, từ bỏ những quan điểm cá nhân, và hãy chỉ theo tư tưởng của Chúa
Kitô, Đấng có thể dẫn chúng ta tới cái chết, nhưng chắc chắn cũng sẽ dẫn chúng
ta tới sự phục sinh. “(ĐTGM Oscar Romero, 19.6.1977, L’Amour Vainqueur)
“Đừng nhát sợ! Hãy xem Công vụ các Thánh Tông Đồ: đói khát, rách
rưới, trộm cướp, roi đòn, đắm tầu, vu vạ, tù ngục, chết chóc,… Nếu con sợ, đừng
làm Tông đồ. “(Đường Hy Vọng, số 167)
Cầu nguyện
Trong cơn gian nguy cùng cực, chỉ có duy nhất Thiên Chúa là Đấng
ra tay cứu độ. Đức Giêsu đã hốt hoảng van nài trông cậy: “Lạy Cha, xin cứu con
khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. “(Ga 12, 27) Vừa xin cứu
giúp, vừa xác tín vâng phục sứ vụ, Đức Giêsu trở nên gương mẫu tuyệt đỉnh về
cầu nguyện cho tín hữu. Tin cậy mến hoàn toàn, không chút vấn vương hoài nghi,
bởi chưng “ không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. “(Ga 15, 5)
Cầu nguyện luôn là cầu nối mật thiết và quan trọng với Thiên Chúa,
hiệp nhất với Ngài trong tư tưởng, lời nói đến hành động. Qua lời cầu nguyện,
Ngài sẽ thông ban ơn phù trợ, sức mạnh, ơn bền vững trước cơn thử thách, trước
cuộc khổ nạn. “Cầu nguyện là một dạng năng lực mạnh nhất mà chúng ta có thể
khơi lên. “(Bác sĩ Alexis Carrel)
Đức Giêsu luôn tha thiết mời gọi các môn đệ, các tín hữu luôn sốt
sắng tỉnh thức và cầu nguyện, để chống trả cám dỗ và sự dữ, hầu được hưởng cứu
độ. “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi
điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. “(Lc 21, 36)
“Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ
và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu, quyết định
như Maisen giang tay trên núi, được tha thiết như người trộm lành, khiêm tốn
như người thu thuế. “(Đường Hy Vọng, số 135)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mình, hy sinh, hiến
thân cho Chúa, phục vụ tha nhân. Xin Chúa cho chúng con luôn tỉnh thức, nhận
biết và chế ngự những cám dỗ xác thịt, thế gian và ma quỷ. Xin Chúa ban hồng ân
Chúa Thánh thần cho chúng con sức mạnh chiến đấu với sự dữ và trung thành với
Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ đã trải qua Bảy Sự Thương Khó
đau đớn, kính xin Mẹ che chở, phù hộ chúng con trước phong ba bão táp cuộc đời
và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
24. Chúa Nhật 5 Mùa Chay
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
HẠT GIỐNG VÔ SINH HAY HỮU SINH?
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà
không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu chết đi nó mới sinh nhiều
hạt khác. “(Ga, 12, 24)
Nhưng hỡi ơi, hiện nay, đã xuất hiện loại hạt giống biến đổi gien
chỉ sống duy nhất trọn một chu kỳ. Sau khi trồng tỉa, thì sản phẩm thu hoạch
được, gọi là hạt thương phẩm, chỉ dùng chế biến tiêu thụ, chứ không thể làm
giống được nữa. Vì Công ty phát minh đã cấy vào hạt giống gien vô sinh, có tác
dụng hủy diệt mầm sống sau khi đã ra hạt (Terminator Seed). Thậm chí phấn của
nó bay qua phối hợp với giống khác, thì giống đó cũng sẽ mang gien vô sinh.
Hơn nữa, hạt giống còn được cấy ghép DNA của một loại vi khuẩn
chịu được sức nóng và độc chất của thuốc diệt cỏ cực mạnh. Nhờ dĩ dộc trị dộc
mà cây giống lai tạo ấy hoàn toàn kháng được độc dược ấy.
Rồi Cty đăng ký chủ quyền các loại gống do họ biến đổi gien, và
chủ quyền hợp pháp với tất cả vật gì, cây gì có mang DNA của họ, nếu nó di
truyền tới đâu, họ cũng có chủ quyền đến đó.
Chẳng thế, mà Cty đó mới công khai hãnh diện: “Ai làm chủ hạt
giống sẽ làm chủ thực phẩm, ai làm chủ được thực phẩm sẽ làm chủ thế giới!”
Vừa thâu tóm lợi nhuận kếch xù, vừa có quyền lực chi phối nhu cầu
sinh tồn của toàn thiên hạ, thì câu tuyên bố xanh rờn, đầy tham vọng đó chẳng
có gì quá đáng. Chỉ đáng buồn cho cả nhân loại đang bị êm ái đầu độc, đẩy vào
hố sâu diệt vong vì từ hạt giống vô sinh ấy.
Trở lại huấn dụ của Chúa Giêsu, hạt lúa gống này phải thuần chủng,
chắc mẩy, để gieo giống nào thì sẽ gặt giống nấy. Thực vật chịu mục nát để tái
sinh mầm giống mới. Nhân thân mỗi người cũng phải lột xác biết bao nhiêu lần,
mới trở nên con người trưởng thành hữu dụng. Tâm hồn cũng thế, vượt qua biết
bao hoang mạc đầy cám dỗ, mới trong sáng, hướng thượng.
“Ai yêu quý mạng sống của mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12, 25)
Bước đâu tiên, Chúa Giêsu nâng nhận thức con người lên một tầm cao
mới: Sự sống vĩnh cửu, hay tương lai mịt mờ đen tối sau phút lâm chung. Nhãn
tiền, đó chính là những thành quả hiện nay từ những giọt máu đào của các Thánh
Tử Vì Đạo Việt Nam đã minh chứng hùng hồn, không thể nào phủ nhận.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và thầy ở đâu, thì kẻ phục vụ
Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy. “(Ga 12,
26)
Bước kế tiếp, Chúa Giêsu cụ thể hóa yêu cầu theo Ơn Gọi của Người,
cùng phần thưởng dành cho kẻ tuân thủ. Hãy tuân theo giáo lý tình yêu của Người
ở bất cứ nơi nào, với bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, bới chưng nơi nào
Người chẳng hiện diện, người nào chẳng phải hình bóng Người, và môi trường nào
dù khắc nghiệt mấy đi nữa cũng chẳng thiếu Người can dự.
Lạy Chúa Giêsu xin mở nhãn quan cho con luôn biết thân phận yếu
đuối, biết chết đi những ham muốn, những ý riêng nhỏ nhen, đừng trở nên hạt
giống vô sinh, mà là hạt giống tốt, nảy chồi đâm lộc đến sự sống vĩnh cửu.
Lạy Mẹ dấu yêu, xin giúp con can đảm dập nát hạt giống tội lỗi, để
mầm giống Lời Chúa nảy nở, đơm hoa kết trái trong con. Amen.
25. Hạt lúa mì gieo vào lòng đất
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Quốc Phong)
“Hạt lúa mì gieo vào lòng đất, nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều
hạt khác” (Ga 12,24)
Có mấy người Hi-lạp đến gặp Philiphe để xin gặp Chúa Giesu, vì họ
muốn đi gặp để biết thật sự Chúa Giesu là ai, theo như những lời đồn đại của
người ta. Có lẽ họ mong đợi sẽ được gặp một người vĩ đại, một nhà triết gia
khôn ngoan, có thể chia sẻ với họ về những tư tưởng lớn lao. Nhưng ngược lại,
họ lại tìm thấy một người Giesu đang đau khổ, bối rối và sợ hãi: “Bây giờ tâm
hồn thầy xao xuyến, thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”
(Ga 12,27). Chúng ta cũng là những người đang đi tìm Thiên Chúa, đi tìm chân lý
và ý nghĩa cho cuộc đời mình, liệu rằng chúng ta có bị bất ngờ và thất vọng
không, khi Thiên Chúa mà chúng ta muốn tìm kiếm, không phải là một nhân vật vĩ
đại, nổi tiếng, hay một nhà triết học, một nhà tư tưởng lừng danh, hay là một
người giàu có, danh giá, mà Ngài lại ẩn mình trong những người bé nhỏ và nghèo
hèn nhất của xã hội, những người bệnh tật, những người bị bỏ rơi, … và có thể
đã có những lúc chính chúng ta không thèm nhìn, không tiếp nhận và thậm chí xua
đuổi Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta.
Nhưng có lẽ chúng ta lại bất ngờ và thất vọng hơn nữa, khi chúng
ta nhận được câu trả lời từ chính Chúa Giêsu cho các người hilap khi xưa và
cũng là cho chúng ta hôm nay: “nếu các ngươi muốn hiểu Thầy, hãy nhìn hạt lúa
mì kia, nếu các ngươi muốn nhìn thấy Thầy, hãy chiêm ngắm thập giá”. Ngài nói
với mỗi người chúng ta: “Các con muốn hạnh phúc ư, hãy vác thập giá như Thầy đã
vác”. Con đường mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta, cũng chính là con đường thập
giá mà chính Ngài đã đi trọn vẹn, dường như đối với chúng ta trong thế kỷ này,
hơi bị mâu thuẫn và khó chấp nhận được. Vì sao vậy? thưa là bởi vì, thế giới mà
chúng ta hay thường gọi là “thế gian” đang giới thiệu và hứa hẹn với chúng ta
một con đường “kiếm hạnh phúc” khác hẳn. Đó là một con đường “tự do tuyệt đối”
do con người làm chủ nhân độc quyền, một “khoa học kỹ thuật đỉnh cao” có khả
năng chinh phục và điều khiểnvũ trụ, một “tiến bộ vượt bậc của ngành y học và
sinh học”, một cuộc sống “hưởng thụ mọi nhu cầu”, … thế gian đang chào mời và
hấp dẫn chúng ta bằng cách tạo ra nhiều “nhu cầu” và bảo đảm với chúng ta rằng,
chúng ta sẽ hạnh phúc khi được thỏa mãn các nhu cầu đó. Và chúng ta ít nhiều bị
ảnh hưởng bởi sự hấp dẫn của nó, và nhiều người trong chính gia đình chúng ta,
trong giáo xứ chúng ta đang đi theo “lý thuyết” này. Nhưng tiếc thay cho đến
bây giờ, lý thuyết này đang mất dần đi hiệu lực và sức mạnh của nó, vì những sự
dữ đang hoành hành thế giới với sức phá hoại không tưởng nổi.
Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào một con đường hoàn toàn khác
hẳn, có vẻ đi ngược lại các xu hướng tự nhiên của con người. Nhà thần học gia
nổi tiếng Karl Rahner có nói: “để biết được Thiên Chúa là ai, chỉ bằng cách là
tôi phải qui gối xuống chân thánh giá”. Chính Chúa Giêsu đã đi vào trong con
đường này, và Ngài mời gọi mỗi người chúng ta, nếu muốn hạnh phúc, hãy đi theo
Ngài vào đó. Chúa Giesu là một hạt lúa mì, chết đi và sinh nhiều hạt mới, bước
vào con đường thập giá và đã phục sinh, Ngài đã dùng cái chết của Ngài để tiêu
diệt sự chết và tôn vinh Tình Yêu bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người.
Không có con đường rộng nào dẫn đến thiên đàng đâu, mà chỉ có con
đường hẹp mới dẫn đên Nước Trời thôi. Vấn đề là chúng ta có dám đi vào con
đường hẹp không, để được hạnh phúc với sự giúp sức và đảm bảo sẽ chiến thắng
của chính Chúa Giesu và Giáo hội của Ngài. Con đường này chính là con đường
“tình yêu” đích thật, không phải thứ tình yêu “tôn thờ cảm xúc” như một bộ phận
lớn giới trẻ đang quan niệm và tìm kiếm. Một tình yêu dẫn dắt chúng ta đến tìm
gặp Đấng là Nguồn Mạch của Tình yêu, để rồi tìm gặp được chính chúng ta trong
mầu nhiệm tình yêu đó, với tư cách là “con Thiên Chúa” và chúng ta sung sướng
gọi Thiên Chúa “Abba, Cha ơi, Bố ơi”. Một tình yêu đưa chúng ta đến gặp một
Thiên Chúa Tha Thứ, một người Cha nhân hậu không bao giờ trách tội con mình,
nhưng là tha thứ luôn luôn và quên hết mọi lỗi lầm của chúng ta.Một tình yêu
mang chúng ta đi vào một Thiên Chúa của giao ước và trung thành cho đến cùng,
Ngài đã yêu chúng ta và Ngài đã yêu chúng ta đến cùng, đó là chết thay, trả cái
nợ mà đáng lẽ chúng ta phải trả: “đó là sự chết”.
Chỉ có “Tình Yêu” này mới có thể làm chúng ta thỏa mãn cơn khát vô
tận của con tim chúng ta, và cũng chỉ có con đường “thập giá” này mới đưa chúng
ta vào trong sự “hạnh phúc” đích thật. Ước gì trong tuần cực thánh sắp tới,
chúng ta xin ơn được trở về với Thiên Chúa, trở về với chính chúng ta, để xin
Người tha thứ và ơn can đảm đứng lên, bước theo Chúa vào trong con đường thập
giá mỗi ngày, với sự đồng hành và giúp sức của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Xin cho mỗi người chúng ta dám
can đảm chết đi con người cũ, chết đi cho Chúa và cho anh em, để chúng ta có
khả năng trổ sinh bông hạt dồi dào.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
BÂY GIỜ TÂM HỒN TA XAO XUYẾN
Đức Giêsu là một người hoàn toàn như tất cả mọi người. Trong cuộc
sống trần thế, Ngài cũng sợ hãi, bồi hồi xao xuyến, khóc lóc cầu xin Thiên Chúa
giải phóng Ngài khỏi chết. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa; nơi Ngài,
con người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
1.
Tâm hồn Ta bồi hồi xao xuyến
Đức Giêsu biết những gì đang chờ đợi Ngài. Cái chết đang đến gần
khi Ngài quyết định lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua. Là người Do Thái, theo luật
phải lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua; nhưng nếu lên, chắc sẽ chết vì những người
lãnh đạo tôn giáo đang ghét, nên sẽ giết Ngài. Đức Giêsu phải chọn lựa. Các
tông đồ cũng ý thức điều này. Theo các ông thì không nên lên Yêrusalem dịp này:
“Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó
sao?” (Ga. 11,8). Nhưng nếu Thầy quyết định đi, thì các tông đồ cư xử làm sao?
Thomas khuyến khích các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết
với Thầy” (Ga. 11,16). Có những người trong chúng ta có kinh nghiệm chọn lựa
trong những tình huống tương tự, và đã chọn điều phải chọn cho dù nguy hiểm đến
cả tính mạng.
Một vài người Hylạp gốc Do Thái về dự lễ muốn gặp Đức Giêsu. Họ
cậy nhờ Philíp để được gặp Đức Giêsu. Philíp đã nói với Anrê; và cả hai đã đến
nói với Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ cứ dẫn họ đến gặp Đức
Giêsu, tuy nhiên trong hoàn cảnh này, hai môn đệ ý thức cần phải hỏi ý kiến Đức
Giêsu, vì có thể có những hậu quả xấu không lường được. “Giờ đã đến”. Giờ mà
làm Đức Giêsu lo sợ, bối rối xao xuyến. Đồng ý cho họ gặp, là dường như “chọn
chấp nhận cái chết”. Có nên xuất hiện như Đấng người ta chờ đợi không? Có nên
cho họ gặp không? Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất
mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ
sinh nhiều bông hạt” (Ga. 12, 24). Ngài chọn điều sinh lợi cho nhiều người, cho
dù phải chết.
Ông già Aleazar không muốn giả bộ ăn thịt heo để khỏi chết, vì nếu
sống mà làm gương xấu thì sống làm gì (2Mac. 6, 18-31)? Yoan Tẩy Giả phản đối
Hêrôđê khi ông lấy vợ của anh; dĩ nhiên khi phản đối những người có quyền hành
như vậy, ông biết điều gì có thể xảy tới cho mình; tuy vậy, ông đã phản đối
Hêrôđê. Yoan Tẩy Giả đã chọn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Hôm nay Đức
Giêsu cũng đã chọn lựa điều tương tự. Đứng trước chọn lựa này, Đức Giêsu bồi
hồi xao xuyến như bao người khác.
1.
Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
Đức Giêsu là người như mọi người. Ngài đã làm nghề để kiếm sống,
nuôi mình và nuôi mẹ. Ngài cũng bị cái đói hành hạ như bất cứ ai bị đói (Mt.
21, 18). Ngài bị đói khủng khiếp đến độ muốn biến đá thành bánh. Chỉ khi bị đói
cùng cực, người ta mới bị cám dỗ mơ tưởng như vậy. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ “nổi
tiếng”, vì vậy cám dỗ nhẩy từ trên đỉnh đền thờ đã đến trong đầu Đức Giêsu. Đức
Giêsu cũng bị cám dỗ có quyền hành để bắt mọi sự phải theo ý mình. Chỉ satan
mới có cách hành xử không tôn trọng tự do của con người; còn Thiên Chúa, Ngài
luôn tôn trọng tự do của con người, ngay cả khi con người dùng tự do để chống
đối Ngài.
Đức Giêsu đã phải chọn lựa liên lỉ trong cuộc sống. Ngài đã chống
lại cám dỗ, trong hoang địa (Mt. 4, 1-11) và trong cuộc sống thường ngày, cả
qua những người theo Ngài (Mt.16, 22-23; Ga.11, 8). Ngài cũng sợ toát mồ hôi,
và sợ đến độ toát mồ hôi máu: “Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn
thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc. 22,44).
Thư gởi tín hữu Do Thái nói Đức Giêsu không chỉ sợ toát mồ hôi máu, mà còn khóc
lóc rơi lệ cầu xin Thiên Chúa cứu Ngài khỏi chết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân,
Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên
Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết” (Dt. 5,7).
Đức Giêsu thật sự là người như mỗi người chúng ta. Không có cám dỗ
nào con người bị mà Ngài không bị. Không có ai bị cám dỗ mãnh liệt như Ngài.
Ngài cũng học vâng phục, và chấp nhận vâng phục ngay cả phải chết. Ngài bị cám
dỗ cả về đức tin: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc. 15,34). Khi bị cám dỗ về
đức tin, Ngài đã phó thác cho Thiên Chúa tương lai và vận mạng của Ngài. Đức
Giêsu gần và giống mỗi người hơn người ta tưởng.
III. Ta viết luật của Ta trong tim chúng
Thiên Chúa đã ký giao ước với con người, để bảo vệ con người. Qua
dấu chỉ cầu vồng, Thiên Chúa giao ước với Noe và tất cả tạo vật, để không bao
giờ dùng lụt hồng thủy tiêu diệt con người nữa; qua thập giới tại núi Sinai,
Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, để làm dân Do Thái thành dân tư tế, thành
dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa loan báo qua tiên tri Giêrêmia, Ngài sẽ ký
kết với dân một giao ước mới, và Ngài sẽ khắc ghi luật Ngài trong tim con
người, để không ai phải dạy ai về Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu chính là giao ước
mới: “Rồi cùng một thể thức ấy, Ngài cầm lấy chén đầy rượu, tạ ơn, trao cho các
môn đệ và nói: tất cả các con cầm lấy mà uống, này là chén máu Thầy, máu giao
ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giao ước ở với và yêu thương con người
mãi mãi. Đức Giêsu vừa là dấu chỉ giao ước, vừa là diễn tả tình yêu của Thiên
Chúa đối với con người, vừa là bảo đảm Thánh Thần hiện diện nơi con người. “Anh
em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự
trong anh em sao” (1Cor.3, 16)? Thánh Thần Tình Yêu đang ngự trong tâm hồn,
trong tim mỗi người.
Nhờ Đức Giêsu và Thánh Thần, con người nhận ra Thiên Chúa là tình
yêu. Con người được gọi để sống yêu thương. Chính khi yêu thương, con người trở
nên giống Thiên Chúa, và được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, cho dù người đó
ở bất cứ đâu. Chính khi yêu thương, con người gặp gỡ Thiên Chúa, và cảm nghiệm
hạnh phúc. Đây là điều có vẻ mâu thuẫn, nhưng đó là sự thật, và được biểu lộ
qua cái chết của các anh hùng tử đạo và cái chết của Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1.
Theo bạn, Đức Giêsu giống bạn ở điểm nào, và khác bạn ở điểm nào?
2.
Bạn có cảm nghiệm Thiên Chúa ở với bạn không? Nếu được xin chia
sẻ.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Người ta thường ví von: sống kể ngày, chết kể năm. Khi nói đến cái
chết người ta không nói đến ngày, tháng năm mà lại nói đến giờ chết. Nói đến
giờ chết vì nó xảy ra trong khoảng khắc, trong giờ phút nào đó. Một khi giờ đã
điểm không ai có thể chống cự, có cố gắng cũng chỉ dùng máy trợ tim, giúp tim
đập với hy vọng bập bùng theo từng nhịp tâm đập. Hy vọng bởi vì không thể dự
đoán biến chứng nào sắp xảy đến, phản ứng nào đang rình rập và giờ phút nào là
giờ phút giờ đã điểm.
Điều chắc chắn giúp các Kitô hữu vững tin vào Chúa là giờ chết của
ta không phải là bị huỷ diệt, tắt ngủm hơi thở là hết, là chết. Theo mạch văn
của Kinh Thánh, giờ con người thế gian sợ hãi lại là giờ người Kitô hữu vững
tin vào Chúa, làm Vinh Danh Thiên Chúa. Không niềm tin chết là hết, vinh quang
tàn lụi. Có niềm tin chết là bắt đầu cuộc sống mới, vinh danh bắt đầu sáng
chói. Phải chăng đây chính là giờ mà Chúa Nhật đầu mùa chay nhắc đến trên núi
thánh. Áo trắng như tuyết, mặt mày sáng rực như ánh hào quang. Cái chết của
người không có niềm tin chính là danh vọng đang có biến mất, chấm dứt. Cuộc đời
đổi trắng ra đen. Cái chết của người Kitô hữu trái lại biến đổi đời mình đang
từ không danh vọng lại được ban cho danh vọng. Rõ là đang đen ra trắng. Trắng
như tuyết, chói lọi như ánh sáng hừng đông vì họ chết trong ánh sáng Đức Kitô,
Người là sự sáng đến trong thế gian để ban ánh sáng chói lọi cho những ai tin
vào Ngài. Ánh sáng chói lọi này bắt đầu toả sáng khi giờ người đó điểm cũng
chính là lúc họ kết hợp, nên một với Đức Kitô để Ngài sống lại vinh hiển thế
nào thì chúng ta những người tin theo cũng được sống lại với Người như vậy.
Nói như thế không có nghĩa người Kitô hữu không buồn sầu khi nghe
tin người thân qua đời, hay chính mình mang bệnh nan y. Không phải thế, người
Kitô hữu không vô cảm đến phũ phàng, vô tình như thế. Đứng trước cái chết dù là
của người thân hay cái chết thương tâm của một người chúng ta không khỏi tiếc
thương bởi vì đó là dấu hiệu của chia lìa, ngăn cách. Dù là ngăn cách một thời
gian cũng là ngăn cách. Chúng ta khóc thương vì gắn bó tình cảm con người bị
chia sẻ, vì cảm thấy mất mát dù là mất tạm bợ. Chúng ta khóc thương, đau buồn
xúc động vì đó là phản ứng tự nhiên của cảm xúc con người. Cảm xúc đó cần được
bộc lộ, diễn tả thể hiện tình yêu chân thành. Bản tính thự nhiên là như thế.
Điểm khác biệt là Kitô hữu khóc, thương và nhớ nhưng không bao giờ tuyệt vọng.
Trái lại Kitô hữu luôn sống trong hi vọng, hi vọng ngày gặp lại người thân,
ngày tái đoàn tụ trên thiên quốc. Ngày mà Đức Kitô diễn tả như hạt lúa mì chết
đi để biến thành cây lúa mới với bông lúa vàng trĩu hạt, mỗi hạt vàng ươm, đầy
hạt gạo thơm, của mùa thu hoạch tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.
Nước không thể bốc hơi nếu nhiệt độ không biến thể lỏng thành thể
khí. Gió không lay động cành cây nếu không khí không chuyển động. Chúng ta
không tiến vào vinh quang Thiên Chúa nếu không có cảnh chia li giữa ta và trái
đất. Giờ phút chia li đó mang lại niềm đau nhưng cần thiết giúp ta trở về với
Đấng Sáng Tạo nên ta.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Chúng ta có cha có mẹ và cha mẹ yêu thương chúng ta, chăm sóc, bảo
vệ. Sau này khôn lớn chúng ta lại tiếp tục coi sóc con của chính mình, bảo vệ
và yêu thương chúng. Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô không có í nói
đến mối liên hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái. Đức Kitô ngụ í nói về sứ mạng
của Ngài. Sứ mạng đó là Ngài đến để phục vụ mọi người. Con Người đến để phục vụ
mọi người.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô muốn nói đến bản tính
nhân loại của Đức Kitô. ‘Con Người’ đến dậy cho người ta biết khác biệt giữa
sống làm người và sống nên người. ‘Con Người’ đến mang lại ơn an bình, mang
tình yêu Chúa đến cho tha nhân, xoa dịu vết thương, chữa lành bệnh tật, an ủi
kẻ yếu đau và kết thân cùng kẻ cô đơn cùng khổ. Biết cảm thông với nỗi khổ của
mọi người, kẻ khốn cùng, chia sẻ thống khổ của đồng loại. Sống như thế là sống
nên người. Sống như thế là hiện thân của tình yêu Chúa cho tha nhân. Tình yêu
Chúa biến đổi cuộc sống chúng ta. Tình yêu Chúa biến đổi cách nhìn, cách suy nghĩ
và hướng chúng ta đến điều tốt lành. Sống theo í Thiên Chúa không nhằm mục đích
thành công nhưng nhằm mục đích thành nhân, thành người có tư cách, có nhân, có
nghĩa.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ như mọi người điều này ngụ í nói
Đức Kitô còn một bản tính khác nữa đó chính là bản tính Thiên Chúa nơi Đức
Kitô. Ngài vừa là Thiên Chúa thật vừa là ‘con Người thật’. Tương tự như thế
chúng ta là con người nhân loại và khi tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa chúng
ta thực sự trở thành con Thiên Chúa.
Thánh danh ‘Con Người’ có nguồn gốc từ tiên tri Daniel 7,13-14 khi
tiên tri nói về hình ảnh con người có quyền trên toàn vũ trụ. Con người đó được
ban cho quyền năng trên khắp bầu trời và quyền năng trên tất cả các loài thụ
tạo dưới đất. Quyền năng đó vô cùng tận và nước cúa Ngài tồn tại muôn đời,
không thế lực nào phá nổi. Mọi ngôn ngữ đều qui phục Ngài. Điều tiên tri này
thể hiện nơi con người Giêsu Kitô, sau khi Ngài sống lại từ cõi chết. Điều này
xác định bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Khi Đức Kitô tự xưng là ‘Con Người’.
Dân Do Thái lúc đó hiểu Ngài muốn nói cho họ biết Ngài là Đấng Thiên Sai.
Ngài dùng hai hình ảnh diễn tả mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
Cả hai hình ảnh đều diễn tả một cách nhiệm mầu ơn cứu chuộc và ơn tái sinh. Đức
Kitô hay ‘Con Người’ nhân danh nhân loại hoàn thành sứ mạng qua cái chết và sự
phục sinh vinh hiển. Chết để tái sinh. Hình ảnh đầu là hình ảnh hạt lúa gieo
vào lòng đất nó thối đi, rồi nên mầm, trổ sinh bông trái gấp trăm. Hình ảnh thứ
hai là hình ảnh treo lên cây, hình ảnh của thập tự để kéo nhân loại lên cùng
Ngài. Cả hai hình ảnh đều diễn tả sự chết và cả hai hình ảnh đều diễn tả sau
chết không phải là thối nát, hư mất mà là thay hình, đổi dạng tiến vào cuộc
sống vinh quang. Kitô hữu đi con đường chính ‘Con Người’ đã đi, cuối đường cũng
thay hình đổi dạng tiến vào cuộc sống trường sinh, vui sống cạnh ‘Con Người’
vinh quang.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ và cái chết. Đó là một cản
trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn năng và thương yêu con
người, tại sao người lành phải đau khổ? Bởi đó niềm tin Thiên Chúa cũng gặp bế
tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai thông nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa,
Đấng đã đem lại cho đau khổ và cái chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa
thân phận bi đát của con người. Thân phận con người cũng như hạt giống phải
chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần
thiết cho một mùa màng lớn lao tức là ơn cứu độ muôn dân. Người chính là hạt
giống Thiên Chúa gieo xuống trần gian. Cát bụi trần gian đã vùi lấp con người
nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ trỗi dậy, vươn cao như bầu trời, đem niềm hi
vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã
có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có
nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua
cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh
quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một
sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh” (Ga 12:23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng
hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh
quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hi lạp phải ngang qua thập
giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên
bước đường theo Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở
đó” (Ga 12,26). Thầy leo lên khổ giá, môn đệ không thể đứng dưới nhìn lên như
khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá, Thầy sẽ trở thành một sức mạnh thu hút
tất cả môn đệ lên theo. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất,
tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Nghĩa là “Người sẽ kéo các tín
hữu đi theo Người lên thập giá bằng cách để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu
bách hại như Người” (Thánh Kinh Tân Ước 1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống
trần gian cho môn đệ. Nếu muốn tiếp tục làm môn đệ Thày, họ không thể không
biết đến thang giá trị giữa sự sống trần gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ:
“Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời
này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Tại sao phải hi sinh
tới mức đó? Hi sinh như thế có thực tế không? Theo Thầy làm gì cho khổ? Phục vụ
Thày có được lợi gì đâu?
Nhưng Đức Giêsu nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy” (Ga
12,26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, tức là bước vào vinh quang, sẽ chiếm
được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Đó là điều quả quyết: “Ai phục vụ Thầy, Cha
của Thầy sẽ quí trọng người ấy” (Ga 12,26). Còn gì giá trị hơn tình yêu của
Chúa Cha? Đó là nguồn suối duy nhất phát sinh mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc.
Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Đức Giêsu đã nhận được tất cả sức mạnh để xông
vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh đến nỗi “giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị
tống ra ngoài!” (Ga 12,31).
Dù sao, trong tình thế hiện tại, Đức Giêsu cũng vẫn là con người.
Đứng trước cái chết, Thầy cũng cảm thấy luống cuống. “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao
xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12,27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả
thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối
thoát. Thày thấy chóng mặt, quay cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một
tia sáng bừng lên dẫn theo một tiếng nổ long trời (Ga 12,29). “Bấy giờ có tiếng
từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’ (Ga
12,28). Đó là tiếng Chúa Cha trả lời tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28),
một sự vâng phục dẫn Đức Giêsu vào màn đêm tăm tối của đau khổ. “Dầu là Con
Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng
phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ
vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 8-9). Nhưng chính lúc đất
trời nối liền, quyền lực âm phủ tiêu tan. “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét
thế gian này” (Ga 12,31), một cuộc phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của
ác thần. Thật là khủng khiếp!
Đối với những ai vâng phục như Đức Giêsu, không hề có phán xét.
Trái lại một giao ước mới, giao ước tình thương sẽ được thiết lập (Gr 31,31).
Họ sẽ nghe những lời âu yếm: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là
dân của Ta” (Gr 31,33). Như thế một tương quan mới đã được thiết lập. “Chính
nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của Đức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân
Chúa đã bước vào một tương quan mới” (Disciples in Mission 1999:22) với Thiên
Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Đức Giêsu quả thật như “bức tranh vân cẩu vẽ người tang
thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới
thực tế đau buồn, Đức Giêsu đã trỗi dậy, “đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ
và cái chết, vì qua đó, Người đã đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới”
(Disciples in Mission 1999:23). Đó là một chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn
hứng khởi cho nhân loại. Đức Giêsu là một hạt giống đã chết đi, sinh được nhiều
hạt khác (Ga 12,24) là cộng đoàn các Kitô hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người,
Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới cả một mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác,
“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người
ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Thầy chính là năng lực, là ý
nghĩa sau cùng của mọi nỗ lực thắng vượt đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau khổ vô nghĩa. Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa
vì đó là một phương tiện để Đức Giêsu chứng tỏ tình yêu của Người với Chúa Cha
và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều môn đệ Chúa Kitô biết lợi dụng những đau
khổ như là con đường đi tới vinh quang. Dù phải vào tù hay có thể bị lây nhiễm
những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một lòng xả thân cho đồng loại. Họ là những người
đang chiến đấu cho quyền làm người, đang âm thầm hi sinh cho những người nghèo,
chăm sóc những người già, bệnh tật, những trẻ em mồ côi. Không có những gương
hi sinh như thế, không biết nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó đang nỗ lực thiết lập nền tảng giao ước
mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng “cơ hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng
một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật với Thiên Chúa” (xc. Gr 29,11;
32,38-40) (Life Application Study Bible 1991:1345). Họ đang học vâng lời như
Đức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện
toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo hay trưởng thành như Đức Kitô. Nói
khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người
vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền tảng trên Đức Kitô (Dt 8,6). Vâng lời
như thế, họ sẽ thấy phải “từ bỏ luật lệ khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình
làm trung tâm” (Life Application Study Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời
phải là Thiên Chúa, Đấng giải thoát con người khỏi những ràng buộc của cái tôi
cồng kềnh. Rời xa trung tâm đó, con người chìm vào những tham vọng ngông cuồng
của văn hoá sự chết, “phủ nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng sự sống. Khi kinh tế
thống trị, người ta đổ xô đi tìmnhững giải pháp dễ dãi như phá thai, chết êm
dịu. “(Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03) Tự do không có nghĩa là buông thả. Trái
lại, “tự do xây trên chân lý là nền tảng duy nhất bảo đảm xã hội dân chủ tự do.
“Chân lý đó là Đức Kitô. Khi xây dựng trên nền tảng đó, “cộng đoàn và gia đình
Công giáo chiếu sáng như những mẫu mực của cộng đoàn sự sống và tình yêu để
canh tân nền văn hoá hiện đại. “(Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03)
(Suy niệm của Cố Lm. Hồng Phúc)
Với Phụng vụ hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời ca
thán của tiên tri Giêremia, những lời não nuột thống thiết khi đạo quân
Babylone bao vây Giêrusalem, dân Chúa lâm cảnh lưu đày. Tuy nhiên, Thiên Chúa
vẫn là Thiên Chúa tình thương, giữa đêm tối vẫn lóe lên ánh sáng, giữa bao đổ
vỡ thất vọng vẫn tái xuất niềm hy vọng. “Đây tới ngày Ta ký kết với dân Ta Giao
ước mới, Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta… Ta sẽ tha tội ác
của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa. “Những lời ấy sẽ thực
hiện nơi Chúa Giêsu khi Ngài đến cứu độ chúng ta, sẽ cho “chúng ta uống vào
chén tân ước vĩnh cửu, chén máu của Ngài sẽ đổ ra cho chúng ta và nhiều người
được tha tội.”
Trong Thư gửi Giáo đoàn Hebrô, niềm hy vọng ấy lại được nhắc lại
cho nhóm giáo dân tiên khởi, cũng đang hoang mang run sợ khi nhìn thấy cảnh
hoang tàn đổ nát. Từng đoàn người bị phát lưu đi cùng đế quốc, sau biến cố năm
70 thành Giêrusalem bị bình địa, đền thờ bị phá hủy, “không còn hòn đá nào
chồng lên hòn đá nào. “Chúa Giêsu, Phaolô viết, “Mặc dầu là Con Thiên Chúa,
Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu và khi hoàn tất Ngài đã trở
nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho những kẻ tùng phục Ngài. “Chúa đã đi qua
con đường sự chết để vào chốn vinh quang và trở nên nguồn gốc ơn cứu độ cho
chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu là câu hỏi ngàn đời, cho người Do thái, người ngoại
bang cũng như cho chúng ta ngày nay hết thảy.
Hôm nay, Gioan cho biết có một nhóm người Hy lạp đến Giêrusalem
trong dịp lễ Vượt qua, tìm cách được gặp Chúa. Họ là những người ngoại bang,
nhưng lại có cảm tình với Do thái giáo. Họ đến nhờ hai vị Tông đồ Anrê và
Philiphê, hai Tông đồ biết chút ít ngôn ngữ, giới thiệu để được gặp Chúa Giêsu.
Gặp đây không phải là chỉ nhìn thấy, nhưng theo từ ngữ của Gioan muốn nói, là
được thấu hiểu phần nào con người bí ẩn của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không đáp ứng trực tiếp điều họ mong muốn. Nhưng Ngài
lại cho họ thấy giờ vinh quang của Ngài, giờ mà Ngài đi vào cuộc tử nạn, mọi
người đều thấy. Và để giải thích, Ngài tự ví như hạt lúa gieo vào trong lòng
đất, phải được mục nát đi, rồi mới vươn lên, sinh hoa kết quả. Thì xác thánh
của Ngài cũng bị chôn vào mồ, rồi mới phục sinh sống lại trong vinh quang.
Theo từ ngữ Thánh Kinh, giờ là cuối điểm của một sứ mạng. “Giờ của
người đàn bà” (Gio. 16,21) là giờ sinh đẻ, “Giờ của Chúa Giêsu” là giờ tử nạn
vì là giờ Ngài hoàn tất sứ mạng cứu chuộc. Hình ảnh hạt lúa vùi xuống đất, bừng
lên đầy nhựa sống là hình ảnh mầu nhiệm phục sinh thì mỗi người chúng ta cũng
có một sứ mạng phục sinh. Chúng ta trong đời, có phải là hạt giống hứa hẹn một
mùa gặt tươi tốt cho chính mình và cho kẻ khác không?
Gioan không tường thuật cuộc hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn
Giệtsêmani, mồ hôi chan hoà lẫn máu. Nhưng đã nhìn thấy cuộc ấy diễn ra trong
sân đền thờ. Chúa phán: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha,
xin cứu con khỏi giờ này? Nhưng chính vì thế mà con đã đến trong giờ này. Lạy
Cha, xin hãy làm vinh danh Cha. “Và câu trả lời của Chúa Cha đã vang vọng như
trong khi Ngài vừa chịu phép rửa và khi Ngài biến hình. Dân chúng xao xuyến.
Nhưng Chúa giải thích: “Bây giờ là lúc thế gian bị xét xử… Còn Ta khi bị đưa
lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta.”
Cây Thánh giá sẽ được tôn vinh, sẽ làm dụng cụ cứu rỗi nhân loại.
Thánh Phanxicô Xaviê khi rao giảng cho dân chúng luôn luôn cầm
trong tay một cây Thánh giá lớn. Một hôm đang giảng cho dân từng từng lớp lớp
đứng trên bãi biển, mệt quá cây Thập giá rời khỏi tay và rơi tỏm xuống biển.
Ngài buồn rầu cầu nguyện. Thì bỗng nhưng có một con cua từ dưới biển bò lên,
hai càng gậm cây Thánh giá. Ngài vui mừng cám tạ ơn Chúa. Vị Thánh Quan Thầy xứ
truyền giáo ấy đã rửa tội gần một triệu người.
“Tôi mong đợi Chúa, vì Chúa giàu ơn cứu độ
Và giải thoát Israel khỏi mọi gian ác”
(Tv. 129 – Đáp ca)
(Suy niệm của Peter Feldmeier – Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
GIAO ƯỚC VÀ NHỮNG RÀNG BUỘC
“Ai phụng sự ta phải theo ta” (Ga
12,26)
Giao ước khác với hợp đồng. Khi ký hợp đồng, bản ký kết mang tính
pháp lý, trói buộc đôi bên vào những nghĩa vụ và quyền lợi. Nếu hợp đồng xuôi
thuận, cả hai bên đều có lợi. Nhưng sự cam kết này không mang tính cá nhân
riêng lẻ, vì đã được luật pháp công khai bảo hộ. Tôi đã từng ký hợp đồng vay
tiền mua xe mà không hề gặp mặt trực tiếp nhân viên ngân hàng. Tôi cũng ký
nhiều hợp đồng khác để thuê nhà, nhưng chưa hề giáp mặt với ông chủ của những
ngôi nhà đó. Người ta không cần có mặt để ký hợp đồng, vì đã có luật lệ ràng
buộc. Nhưng ký giao ước thì hoàn toàn khác, chuyện đó rất riêng tư. Nó chỉ dựa
trên sự quen biết hay mối tương giao thân hữu mà thôi.
Khi Đức Chúa Giavê ký giao ước với dân Israel trên núi Sinai,
dường như có vẻ rất riêng tư và thân tình. Môise đã lấy máu con vật sát tế để
rảy trên dân chúng như một động thái của việc ký kết giao ước, và máu đó thanh
tẩy dân chúng. Nhiều người trong dân đã hiểu việc đó, và lề luật được ban bố sẽ
gắn kết đời sống họ với Đức Chúa Giavê (Tv 119).
Nhưng khi đọc lại sách các vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai,
chúng ta thấy các thế hệ về sau, nhiều người trong Israel và cả các lãnh đạo
tôn giáo đã dần quên giao ước ngày xưa và họ cũng chẳng bao giờ nhắc đến. Giao
ước trên núi Sinai đã không còn hiệu lực để trói cột họ với Thiên Chúa nữa.
Đó là nội dung bài đọc thứ nhất trong phụng vụ hôm nay. Giêrêmia
loan báo trước về một giao ước mới, hoàn toàn mới,sẽ được ký kết giữa Thiên
Chúa và dân Ngài, thay cho giao ước cũ. “Không giống như giao ước Ta đã ký kết
với cha ông các ngươi, khi Ta cầm tay đưa dẫn họ thoát khỏi đất Ai Cập. Vì cha
ông các ngươi đã xé bỏ giao ước, mặc dầu Ta là Chúa tể của họ”. Đức Chúa phán
như thế. Còn giao ước mới thì khác. Thiên Chúa công bố “Ta sẽ ghi vào lòng dạ
chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng, còn chúng sẽ là dân của ta. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người
lớn, sẽ biết Ta”.
Giao ước mới này đi vào nội tâm một cách sâu xa hơn. Thiên Chúa
khắc ghi giao ước vào tâm hồn, vào con tim của họ, và dân chúng sẽ nhận biết
Chúa. Ezekiel và Isaia (Ez 16,59; 36,25; Is 55,3; 59,21; 61,8) cũng nói về giao
ước mới, một giao ước diễn bày sự thông hiệp với Chúa, và Thần khí Chúa sẽ khơi
dậy nguồn sáng mới trong tâm tư của dân Ngài.
Thánh Phaolô (xem 2Cor 3.5) và tác giả thơ Do Thái (xem 8,8) đều
quy chiếu vào Đức Giêsu như là Đấng hiện thực tròn đầy lời hứa của giao ước mới
này. Bài giảng trên núi của Đức Giêsu phản ánh lời mời gọi biến đổi nội tâm
cách sâu xa, khác với giao ước cũ thời xưa. Khi Đức Giêsu công bố một cách
chính thức bản giao ước mới trong bữa tiệc ly, chúng ta sẽ thấy rõ hơn chiều
sâu và tính cách nội tâm hóa của giao ước mới. Lời tiên báo năm xưa về giao ước
mới, phải rất lâu về sau mới trở thành hiện thực, xuyên qua Đức Giêsu, và cách
thái thể hiện giao ước sẽ ngập tràn vinh quang ngời sáng vượt sức tưởng tượng
của chúng ta.
Đối với các Kitô hữu, giao ước mới này vừa khai sáng vừa gợi mở ra
những thách đố. Đức Giêsu và giao ước mới biểu thị cho lời công bố chung cuộc
của Thiên Chúa và ơn cứu độ trường cửu. Sự thách đố này được gợi lên trong tâm
khảm và cõi lòng chúng ta, vì giao ước được viết bằng chính máu cứu độ của Đấng
Cứu thế. Tôi nhớ lại trong cuốn phim “Người chết đi lang thang” (The Dead
Walking), có một mẩu đối thoại rất hay giữa hai nhân vật chính: Nữ tu Helen
Prejean và tên tử tội Matthew Poncelet. Poncelet là một con người ngạo mạn, cố
chấp không chịu sám hối và luôn tỏ ra hung tợn. Anh ta cũng biết mình là một
tín hữu, đã gây nên tội ác, nhưng hắn đã nói với nữ tu Helene là hắn không sợ
chết. Anh ta nói: “Giữa tôi và Thiên Chúa không có gì phải ầm ĩ. Tôi biết ông
Giêsu đã chết trên Thập giá cho chúng tôi, và nếu tôi có phải ra trước tòa phán
xét, thì ông Giêsu cũng sẽ ở đó để cứu tôi. Tôi chẳng cần sám hối làm gì. “Nữ
tu Helene trả lời: “Anh Mattheu, không phải thế đâu. Ơn cứu độ không phải là
một tấm vé phát không, tặng ban cho cả những ai không muốn đón nhận. Không phải
vậy, Đức Giêsu đã phải trả giá rất đắt để đem ơn cứu độ cho chúng ta. Anh phải
cộng tác, phải mở lòng ra để cộng tác và đón nhận, thì ơn cứu độ mới phát sinh
hiệu quả cho anh. Đó là việc anh phải làm.”
Câu trả lời đó hướng chúng ta đến ý nghĩa của bài Tin mừng hôm
nay. Khi gợi nhắc về mầu nhiệm Thập giá và chân tính đích thực của người môn
đệ, Đức Giêsu nói với chúng ta “Qủa thật, nếu hạt lúa mỳ rơi xuống đất không
chết đi, nó sẽ vẫn chỉ là hạt lúa. Nhưng nếu nó chết đi, nó thối đi, nó sẽ sinh
nhiều hạt khác. Ai yêu sự sống mình sẽ mất nó. Ai phụng sự ta phải theo ta”.
Bản giao ước mới này phải đi vào cuộc sống chúng ta, trở nên một
phần trong ta và biến đổi tâm hồn của ta. Đối với các Kitô hữu, chúng ta phải
tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường Thập giá, để có thể bội thu
trong mùa gặt, ngay trong cuộc sống hôm nay và cả trong cuộc sống mai sau. Ở
đây, chúng ta thấy có một nghịch lý tương phản và đối xứng nhau: Bản giao ước
mới là một quà tặng vô giá được trao ban một cách nhưng không, nhưng nó cũng
đòi hỏi chúng ta phải trả giá, bằng việc chúng ta phải trao dâng tất cả, từ bỏ
tất cả, như hạt giống mục thối trong lòng đất, để có thể chiếm hữu được món quà
cao quý này.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
HẠT LÚA MÌ MỤC NÁT TRỔ SINH HOA TRÁI
“Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga
12:24). Thoạt nghe, ta có thể cho rằng đó là lời phát biểu tầm thường, vì ai
quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Chúa Giêsu không chỉ nói đến
cái tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Cái luật đó
còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng
liêng nữa.
Phúc âm hôm nay ghi lại, Chúa cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến,
xin cho được thoát khỏi chén đắng nghĩa là được thoát khỏi án tử hình. Tuy
nhiên Người cũng cầu nguyện xin cho được vâng theo thánh ý Chúa Cha, tức là
chấp nhận cái chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Qua miệng
tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu,
để thay thế cái giao ước cũ trên núi Si-nai, cái giao ước mà dân Chúa đã không
tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá, cũng không phải bằng
máu chiên cừu, mà Môi-sen đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê
chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục
chủ tế đọc trong thánh lễ: “Đây là máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều
người được tha tội”. Theo thơ gửi tín hữu Do Thái, ta được biết vâng lời và
chấp nhận khổ giá là một phần của cái giao ước mới. Cái sứ điệp mà Đức Kitô đến
để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã
cho Người từ cõi chết sống lại. Chúa Giêsu với tư cách là Thiên Chúa, không thể
chịu đau khổ vá chịu chết. Chúa chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong cái thân
xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Chúa cũng sống lại trong
cái thân xác loài người của Ngưòi. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước
sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không
bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Để chia sẻ sự sống mới với Chúa Kitô, ta phải sẵn sàng chết đi với
Người. Đó là trường hợp các vị tử đạo đã làm, nghĩa là chấp nhận cái chết vì
đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây
theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng
như “chia ly là chết cho mình một nửa”.
Theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết
đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ,
chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi
cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức
Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết
đi một phần. Sẵn sàng trả cái giá trong cách sống, cách nói năng và hành động
để làm môn đệ Chúa cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát,
mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở
cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ vơi Chúa, cũng là chet đi cho
mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ
hình của Chúa, người ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người
(2 Tim 2:11).
Theo cái định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào,
nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Theo cái định luật cung cầu của kinh tế,
thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ.
Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ
sống cho mình, không cho đi, thì cái liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và
đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định
luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luât kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới
sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ
và trong tâm khảm loài người.
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
HẠT LÚA MỤC NÁT ĐI MỚI TRỔ SINH BÔNG TRÁI
Danh tiếng Đức Giêsu lúc này đã phải vang dội như sóng bạc đầu,
nhất là việc Người vừa làm cho ông Ladarô đã chết bốn ngày sống lại ở Bêtania
cách Giêrusalem có hai dậm. Vì thế mà một số người hành huơng Hy lạp xin ông
Phi-líp-phê, có tên Hy-lạp cho yết kiến Đức Giêsu, có lẽ với hi vọng được sự
thông cảm của người cũng có tên Hy lạp. Ông Phi-líp-phê lại hỏi ý kiến ông
An-rê cũng mang tên Hy-lạp. Nhóm người Hy lạp đây không phải là người Do thái
nói tiếng Hy lạp, nhưng là người Hy lạp sống ở Do thái, đã phải nghe đồn thổi
về việc Ladarô được Đức Giêsu cho sống lại (Ga 12,17). Trước khi đế quốc La mã
thống trị Do thái, thì đế quốc Hy lạp đã đặt chân ở đây. Người Hy lạp được
tiếng là chuộng triết học, kiến trúc và nghệ thuật. Có lẽ vì những lí do đó mà
họ đến viếng thăm Đền thờ Giêrusalem với kiến trúc đồ sộ nguy nga và xin được
gặp Đức Giêsu.
Dịp này các thượng tế và nhóm người Pharisêu đang tìm cách hạ sát
Đức Giêsu vì họ sợ ảnh hưởng của Người. Phúc âm ghi lại, họ sợ thiên hạ theo
ông ấy hết (Ga 12,19). Còn Đức Giêsu thì gián tiếp trả lời nhóm người Hy lạp
khi bảo các môn đệ rằng: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó
vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga
12,24). Thoạt nghe, người ta cho rằng đó là lời phát biểu có tính cách tầm
thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Đức Giêsu không
chỉ nói đến tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Luật
đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng
liêng nữa.
Phúc âm còn ghi lại, Đức Giêsu cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến:
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy
Cha, xin tôn vinh danh Cha (Ga 12,27-28). Khi Giuđa phản đối việc bà Maria xức
dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Đức Giêsu, Người cũng đã ám chỉ về cái chết
của Người khi bảo cứ để bà yên, hầu giữ lại dầu thơm cho ngày mai táng Người
(Ga 12,7). Đức Giêsu còn ám chỉ Người sẽ phải chết cách bị treo lên khỏi mặt
đất (Ga 12,32), nghĩa là trên thánh giá.
Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao
ước mới và vĩnh cửu, để thay thế giao ước cũ trên núi Sinai, giao ước mà dân
Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá và không
phải bằng máu chiên cừu, mà Môsê đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được
phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh
mục chủ tế tuyên xưng trong thánh lễ: Đây là máu Tân Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho
nhiều người được tha tội. Theo thư gửi tín hữu Do thái, ta được biết vâng lời
và chấp nhận khổ giá là một phần của giao ước mới (Dt 5,8-9).
Sứ điệp mà Đức Giêsu đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự
chết. Và vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Xét
theo bản tính Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết. Người
chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong thân xác loài người của Người mà thôi. Vì
thế khi sống lại, Đức Giêsu cũng sống lại trong thân xác loài người của Người.
Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một,
không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể
sống lại.
Theo định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó
phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Còn theo định luật cung cầu của kinh tế, thì
có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về
đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ
sống cho mình, không cho đi, thì mối liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và
đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định
luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luật kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới
sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ
và trong tâm khảm loài người.
Để chia sẻ sự sống mới với Đức Kitô, ta phải đi theo tiến trình
của kiếp sống con người: sinh lão bệnh tử. Trường hợp các vị tử đạo đã làm, là
chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Tuy nhiên rất
ít người được phúc tử vì đạo. Đa số loài người trải qua cái chết tự nhiên. Ta
cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng
quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như “chia ly là chết cho mình một nửa” để nói
lên sự mất mát về tình cảm và tinh thần.
Như vậy theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn
sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham
lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự
phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống
mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu
Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả giá trong cách sống, cách nói năng và
hành động để làm môn đệ Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu
mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên
làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ với Chúa, cũng là
chết đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi
sinh khổ hình của Chúa, ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với
Người (2 Tim 2,11).
Lời cầu nguyện xin cho được chết đi cho tội lỗi:
Lậy Chúa Giêsu! Chúng xin cảm tạ Chúa
đã đến thế gian, chấp nhận hi sinh thánh giá
để cứu chuộc tội lỗi loài người, gồm tội riêng con.
Xin cho con được sẵn sàng chết đi cho tội lỗi
và các thứ tính mê nết xấu
để con được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
Chúa nhật hôm nay được coi như là Chúa nhật cuối cùng của thời
gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng đại lễ Phục Sinh. Bước qua tuần tới là chúng ta
bước vào Tuần Thánh, tuần lễ quan trọng nhất đối với chúng ta là những người
sống niềm tin Kitô giáo. Và để giúp mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thánh một
cách vừa sốt sắng vừa ích lợi, Phụng vụ Lời Chúa trong ngày Chúa nhật cuối cùng
này sẽ cho chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị của cuộc khổ nạn mà mà Đức
Giêsu sẽ thực hiện trước mặt mọi người.
Nơi bài đọc thứ nhất, Lời Chúa qua miệng tiên tri Giêrêmia phán
rằng: “Đã tới ngày Ta ký kết giao ước mới với dân Israel. Giao ước này không
giống như giao ước mà Ta đã ký kết với tổ phụ chúng trong ngày Ta dẫn dắt chúng
ra khỏi Ai cập, mà chúng đã nhiều lần phản nghịch. Giao ước mới này sẽ không
còn ghi trên bia đá, nhưng là ghi vào tận đáy lòng của chúng. Cốt lõi của giao
ước này chính là tình thương và sự tha thứ, nhờ đó mà mọi người từ lớn tới nhỏ
đều nhận biết Ta. Và Ta, Ta sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa. “Vậy
thì thử hỏi rằng: Bao giờ thì Thiên Chúa sẽ thực hiện việc ký kết mà Người vừa
tiên báo? Thưa đó chính là ngày hôm nay, bằng chính cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu.
Tác giả bức thư gửi tín hữu Do thái, nơi bài đọc thứ hai khẳng
định là: “Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu chính là một biến cố đem lại ơn cứu rỗi
cho tất cả mọi kẻ tùng phục Người. “Còn nơi bài Phúc âm, Thánh Gioan như muốn
diễn tả nỗi thao thức của Chúa Giêsu về cái chết mà Người sắp phải chịu: “Khi
nào Ta được đưa lên khỏi mặt đất, Ta sẽ lôi kéo mọi người lên cùng Ta. “Và để
cho mọi người có thể hiểu được điều mà Người mới vừa tuyên bố, Đức Giêsu đã
dùng một hình ảnh quen thuộc, hình ảnh một hạt lúa được gieo trồng xuống đất,
để nói về giá trị của cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu: “Nếu hạt lúa mì rơi
xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình.
Nhưng nếu nó chết đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt. “Vâng! Đúng
là như vậy; Nếu hạt lúa được gieo xuống mà không chấp nhận chết đi, thì nó vẫn
mãi mãi là một hạt lúa khô cằn đơn độc. Trái lại, nếu nó chấp nhận chết đi,
chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ đem lại ích lợi cho mọi
người. Bởi vì nó sẽ trở thành một cây lúa tươi tốt và trổ sinh nhiều bông hạt
khác. Cho nên sự sống được từ bỏ kia không những là không mất đi cách vô ích,
mà ngược lại nó sẽ tồn tại mãi mãi. Như thế thì Chúa Giêsu hoàn toàn có lý khi
tuyên bố rằng: “Nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng
sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại
được nó cho sự sống đời đời. “Hạt lúa mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây, không ai
khác hơn là chính Người. Từ Thiên cung ngự xuống, Người đã chấp nhận chết đi
nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa”, để trổ sinh những hoa trái của ơn
cứu chuộc, đó là đem lại cho mọi người sự sống đời đời.
Quả thật, nếu nhìn lại cuộc đời của Đức Giêsu nơi các tác giả Phúc
âm, chúng ta đều thấy rằng: Người chính là Thiên Chúa quyền năng từ trời xuống
thế làm người, chấp nhận một kiếp sống nhạt nhẻo tầm thường tại làng quê
Nagiarét. Đến lúc khởi sự công việc rao giảng Nước Trời, Người lại chọn một
cách thức cũng nghèo nàn: không tiền bạc, không phương tiện, không thế lực,
cũng không có đến một lời giới thiệu hay sự bảo trợ nào của những người có uy
tín trong xã hội. Và rồi trong suốt ba năm giảng dạy, Người đã nếm trải qua mọi
hoàn cảnh, mọi tình huống, mọi tâm trạng của một con người thấp cổ bé miệng: bị
hiểu lầm chống đối, bị khước từ đánh đập và bị xử tử bằng một bản án dành cho
những tội phạm nguy hiểm nhất. Và cuối cùng trên thánh giá, Đức Giêsu gục đầu
như một kẻ thất bại hoàn toàn.
Thế nhưng đó chính là lúc Người chiến thắng, đó chính là lúc thế
gian bị xét xử khai trừ, vì đó chính là lúc mà như Người đã báo trước: “Rồi các
ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến”.
Rồi gần với chúng ta hơn nữa là nếu hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở nên
cơm bánh nuôi sống con người, thì Đức Giêsu cũng vậy, Người chấp nhận bị chôn
vùi, bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn, để trở thành tấm bánh trên bàn thờ nuôi
dưỡng đời sống thiêng liêng của chúng ta. Như thế, hạt lúa mà Đức Chúa Cha gieo
vào trần thế này đã chết; Đức Giêsu đã chết.
Thế nhưng cái chết đó không phải là vĩnh viễn, mà cái chết đó đã
được phục sinh và tồn tại mãi mãi để đem lại sự sống vĩnh cữu cho con người.
Ngày hôm nay chúng ta sống trong một bối cảnh hoàn toàn khác với những người Do
thái thời xưa. Chúa đã chết rồi và Chúa cũng đã phục sinh rồi. Chúng ta đã
biết; chúng ta đã tin điều đó, và chính vì đã tin điều đó mà bây giờ chúng ta
mới có mặt trong ngôi nhà thờ này. Vậy thì xin hỏi rằng: Việc tìm hiểu ý nghĩa
và tầm quan trọng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu có còn cần thiết nữa không?
Thưa cần! ngày hôm nay Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện này, trước khi
mừng kỷ niệm cuộc khổ nạn của Chúa, chính là để nhắc cho chúng ta nhớ lại căn
nguyên, nguồn gốc ơn cứu rỗi của mình.
Đồng thời cũng là để cho chúng ta nhìn vào đó mà suy nghĩ, chọn
lựa một nếp sống mang lại ích lợi cho phần rỗi linh hồn của mình và cho những
người chung quanh. Hạt lúa mà không chấp nhận chết đi cuộc sống riêng tư của
nó, thì nó sẽ nên trơ trọi lẽ loi. Đời sống gia đình mà không chấp nhận chôn
vùi những ý riêng, những sở thích cá nhân, thì những thành viên sống trong đó
vẫn mãi mãi là mhững hòn đá nằm cạnh nhau mà thôi. Đời sống đức tin mà không
chấp nhận nghiền nát những cái gọi là tính toán, hẹp hòi, ích kỷ, thì cuộc sống
sẽ đơn điệu nhàm chán, và dần dần việc sống đạo sẽ trở một gánh nặng cho mình.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho nhau, để mỗi người chúng ta sớm
nhận ra những điều mà mình cần phải để cho nó chết đi, để nhường chổ cho những
điều tốt đẹp được tỏ hiện. Bởi vì con người tội lỗi có chết dần đi, thì con
người vốn được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa mới dần dần được sống lại; Đó
cũng chính là cách tốt nhất để chúng ta chuẩn bị bước vào Tuần Thánh sắp tới
đây.
(Suy niệm của Lm. Trịnh Ngọc Danh)
Thời Chiến quốc, có một người đem dâng cho vua nước Sở một vị
thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, đi ngang qua một viên quan canh cửa.
Viên quan này hỏi:
– Vị thuốc này có ăn được không?
Người kia đáp:
– Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện đến tai vua.
Vua truyền bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu:
– Thần đã hỏi người đem dâng thuốc là có ăn được không. Người ấy
bảo: “ăn được”, nên thần mới dám ăn. Như thế là thần vô tội mà lỗi là ở người
dâng thuốc. Hơn nữa, người đem dâng thuốc nói là thuốc “ bất tử”, nghĩa là
thuốc ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải
chết; vậy là thuốc “tử” chứ đâu phải thuốc “bất tử”? Nhà vua giết thần, thực là
oan uổng cho một người vô tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà
nhà vua vẫn tin.
Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha chết cho viên quan.
Một khát vọng
Chẳng ai muốn chết, và ai cũng muốn sống lâu, sống trường thọ;
nhưng oái ăm thay! chết lại là số kiếp của con người, ai cũng phải một lần đi
qua kết cuộc ấy.
Sống được trên trăm tuổi đã là tuổi hiếm thấy trên thế gian; vì
thế người ta mới ghi vào sổ kỷ lục những ai sống trên trăm tuổi: cụ già sống
được 110 tuổi một tháng, đạt kỷ lục trường thọ hơn cụ già sống 110 tuổi 20
ngày! Càng về cuối đời, người ta không tính sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu
tháng nhưng tính hơn nhau từng ngày. Sống lâu trường thọ đến thế là một điều
khâm phục, một niềm tự hào. Thọ là một trong ba nguyện ước con người thường cầu
chúc cho nhau: Phúc- Lộc- Thọ.
Những mỹ phẩm mà người ta rao bán: làm trẻ mãi không già, thực ra
chỉ có thể che lấp đi được những nếp nhăn nheo cằn cỗi trên thân xác, nhưng
không thể níu kéo hay xoá đi tuổi già của thời gian. Và giả như ai đó phát minh
ra được một thứ thuốc kéo dài tuổi thọ đến 100 hay 200 năm, chắc chắn người ấy
sẽ trở thành nhà tỷ tỷ phú, và nếu chế được một thứ thuốc trường sinh bất tử
thì chắc người ấy sẽ là người giàu nhất thế giới.
Thế mới biết: làm sao cho được “trẻ mãi không già”, được “sống
lâu, bất tử” là khát vọng, nhưng đồng thời cũng là tuyệt vọng của con người.
Muốn sống, phải chết
Người đời bảo: chết là hết; thế mà có một người dám quả quyết:
muốn sống, phải chết đi để được sống mà không phải sống trường thọ 2,3 trăm năm
mà sống bất tử, sống đời đời: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi,
thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.
Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ
được nó cho sự sống đời đời”. Người ấy là Chúa Giêsu.
Nhưng chết bằng cách nào? Là tự tử? Là hủy hại thân thể? Không.
Chết là “thối đi”, là “ghét sự sống ở đời này”; đó là cái chết cho những tiêu
cực nơi tâm hồn.
Như thế, chết là hãm mình trước những cám dỗ của dục vọng, của ý
riêng, là vượt thắng 7 mối tội đầu, là hy sinh vì 10 điều răn Chúa dạy, là từ
bỏ những gì không thuộc ý muốn của Thiên Chúa; vì “Tính xác thịt thì ước muốn
những điều trái nghịch với Thần Khí; còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái
nghịch với xác thịt… Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ; đó là
dâm bôn, ô uế, phóng đảng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông,
nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những
việc khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình
an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ”. (Gl 5,
17.19-20.22-23)
Chết là canh tân đổi mới, là cải thiện tâm hồn, là thay đổi não
trạng, thay đổi cách suy nghĩ sao cho hợp với thánh ý của Thiên Chúa: “Anh em
đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng các đổi mới
tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng
Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm. 12,2)
Chết là chấp nhận hy sinh, chịu “thối đi” nơi con người thể xác để
cho hạt giống đức tin và Tin Mừng có điều kiện nẩy sinh và mang lại nhiều hoa
trái cho người và cho đời.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ờ đời
này”, là người gạt bỏ sự siêu nhiên ra khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không
còn tìm thánh ý Chúa, không còn hành động cho sáng danh Chúa; là cho rằng hy
sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp
lý, có lợi cho bản thân.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ở đời
này” là người chỉ xem hạnh phúc trần thế là cứu cánh của cuộc sống; là người
vẫn dự lễ, đọc kinh tối sáng, vẫn làm những công việc bác ái, nhưng cuộc sống
của họ lại xa lạ với Tin Mừng. Trọng tâm của cuộc đời của họ là quyền hành, lạc
thú, tiền của. Bạn hữu của họ là những người giàu sang quyền thế, ngay cả những
kẻ bóc lột, tham nhũng… Họ không nghĩ đến đời sau, bình thản như thể họ sẽ sống
muôn đời trên cõi đời này và thiên đàng đối với họ là trần gian.
Đó là những hạt giống không chịu “thối đi”, không chịu mục nát,
những hạt giống “sống trơ trọi một mình”, nên không “sinh nhiều bông trái” cho
đời, cho người, không manh ích lợi gì cho ai và như thế, cuộc sống của họ “sẽ
mất”.
Thuốc bất tử
Phương thuốc bất tử mà Chúa Giêsu muốn mang đến cho con người là:
sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Trước tiên, phải sám hối, chịu “thối đi”, chịu “mất mạng sống
mình” mới chỉ là những thứ chúng ta phải kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm
mình như người mắc bệnh tiểu đường phải kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng
ăn mặn.
Kế tiếp, là tin vào Tin Mừng như lời Chúa đã phán: “Ai nghe lời Ta
và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ cõi chết mà qua cõi sống”. (Ga. 5,24); hay
“Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời”. (Ga. 6,55)
Tóm lại, bài thuốc bất tử mà Chúa muốn ban cho chúng ta là Thập
gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại
được nhìn lên Ngài và được sống.
Hạt lúa phải chịu nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con
người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc tư nạn
đau thương để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ, đồng thời
trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thập giá đã trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống.
Ngài chết để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống đời
đời cho chúng ta.
Cách thức để đi đến chiến thắng vinh quang lại là cách thức đau
thương nhất, khốn cực nhất của trần gian.
Đáp lời kêu gọi của Thầy Chí Thánh: “Hãy đến mà xem”, “Hãy theo
Ta”, chúng ta đã “đến mà xem”, đã “theo Thầy”, nhưng còn một điều kiện nữa để
được sống bất tử là “vác thánh gía mình mà theo Thầy”, không biết chúng ta đã
thực hiện điều kiện ấy chưa! đã chịu “thối đi”, đã “ghét mạng sống mình” được
bao nhiêu!
(Suy niệm của Lm. Phạm Quốc Hưng)
Thập giá là hình ảnh được dùng nhiều hơn cả để nhắc chúng ta nhớ
đến Chúa Giêsu và tình yêu hy sinh tận tuyệt của Người, cũng như tinh thần mỗi
Kitô hữu phải có trong đời sống của mình. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
đưa ra một hình ảnh khác, dù rất đơn sơ bé nhỏ gần gũi nhưng lại giàu ý nghĩa,
để diễn tả tâm tư và lối sống của Người. Chúa Giêsu còn chỉ ra đó tất cả một bí
quyết hay một quy luật căn bản mà mỗi Kitô hữu phải theo để trở nên giống
Người, để đạt đến ơn cứu độ và vinh quang đích thực.
Đó là hình ảnh hạt lúa mì.
Người nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả
thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó
chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu
sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được
nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25). Chúa Giêsu nói những lời này khi Người
sắp bước vào Cuộc Thương Khó. Thật thích hợp khi Giáo Hội cho chúng ta được
nghe những lời này một tuần trước Chúa Nhật Thương Khó.
Thánh Sử Gioan chia Tin Mừng của người thành hai phần: sách các
dấu chỉ và sách vinh quang. Phần sách các dấu chỉ thuật lại các phép lạ của
Chúa Giêsu, và phần sách vinh quang thuật về Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của
Chúa Giêsu. Thánh nhân muốn cho mọi người nhận biết rất rõ rằng: với Thiên
Chúa, với Chúa Giêsu, vinh quang đích thực được thể hiện nơi tình yêu hy sinh
phục vụ, tình yêu xả kỷ vị tha, tình yêu thí mạng vì người mình yêu. Và chỉ có
tình yêu này mới đem lại sự sống thật, sự sống thần linh, sự sống đời đời.
Đây là một quan niệm khác hẳn lối suy tư tự nhiên của con người.
Thật vậy, con người tự nhiên bao giờ cũng sống theo bản năng sinh tồn của mình.
Với ảnh hưởng của tội tổ, con người nhiều khi sống theo bản năng rừng rú của
mình, sống theo luật rừng: mạnh được yếu thua, mạnh dùng sức yếu dùng mưu, miễn
sao đem lại ích lợi cho bản thân mình, miễn sao làm cho mình được sống sung
sướng, giàu sang, quyền lực, bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp thiệt thòi
của người khác.
Đây cũng là một quan niệm đi ngược với sự trông mong của người Do
thái về “Con Người”, về Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia. Họ nghĩ Đấng Mêsia phải là
một lãnh tụ chính trị đầy tài năng và quyền uy, và dùng tài năng và quyền uy
của mình để đánh đuổi ngoại bang, chinh phục các dân tộc lân bang, đem lại vẻ
vang cho dân tộc được tuyển chọn.
Trong Tin Mừng Gioan, mầu nhiệm nhập thể được đặt làm nền tảng cho
toàn bộ công cuộc cứu độ. Sự hiệp nhất giữa thần tính và nhân tính của Ngôi Lời
Nhập Thể được diễn tả cách tuyệt vời: Cuộc Khổ Nạn với bao đau thương nhục nhã
của Thập Giá bao giờ cũng gắn liền với Cuộc Phục Sinh đầy ánh sáng vinh quang.
Vì vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, thì cũng là lúc Người bắt
đầu bước vào Vinh Quang hay bắt đầu bày tỏ vinh quang đích thực của Người.
Với Chúa Giêsu, giờ của Chúa là giờ của Cuộc Thương Khó, giây phút
vinh quang là giây phút chịu khổ nạn trên thập giá. Với thế gian, thập giá là
hình cụ ghê sợ và nhục nhã nhất để trừng phạt những người tử tội. Chúa Giêsu đã
biến thập giá thành Thánh Giá, và Thập Giá của Chúa Giêsu chính là Ngôi Báu của
Người. Điều này đã được xác định khi Chúa Quan Phòng định cho Philatô ghi trên
thập giá hàng chữ: “Giêsu Nazareth-Vua Dân Do Thái”. Giây phút Chúa Giêsu được
treo trên thập giá là giây phút Người bước lên Ngôi Báu của Người.
Không phải Chúa Giêsu chỉ chịu đau khổ vì yêu thương khi bắt đầu
bước vào Cuộc Khổ Nạn, nhưng đó luôn là đặc nét chính trong cuộc đời Chúa
Giêsu. Tác giả Thư gửi tín hữu Do thái trong bài đọc hai đã xác định điều này
trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay: “Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã
lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi
chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa,
Người đã học vâng phục do những đau khổ Người đã chịu, và khi hoàn tất, Người
đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai vâng phục Người”
(Dt 5:7-9).
Thánh Anphong Liguori thuật rằng có một nữ tu đau đớn bệnh tật rất
nhiều năm. Một hôm đau đớn quá, Chị kêu trách Chúa Giêsu: “Xưa Chúa chỉ phải
vác thánh giá và hấp hối mấy giờ trên thánh giá, nay sao Chúa để con đau đớn
lâu năm thế?” Chúa Giêsu liền hiện ra quở trách Chị: “Con nói sao? Cha chỉ có
đau khổ ít giờ mà thôi ư? Cha đã bắt đầu đau khổ từ giây phút nhập thể!” Thánh
nhân nói rằng vì có linh hồn hoàn bị, Chúa Giêsu từ giây phút nhập thể đã nhìn
thấy và cảm nhận trước nơi linh hồn Người những đau khổ Người sẽ phải chịu trên
thân xác sau này.
Vì vậy, Đức Cha Fulton J Sheen hay nói mọi người sinh ra trên đời
để sống, nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa và là Sự Sống Đời Đời sinh ra trên
trần gian để chịu đau khổ và chịu chết để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta.
Vì vậy, cả đời Chúa Giêsu đều hướng về Đồi Canvê, đều hướng về Thánh Giá. Là
một nhà giảng thuyết thời danh, Đức Cha còn xác quyết rằng bài giảng nào càng
hướng về Thập Giá bài giảng ấy càng có tính thần thiêng.
Liền sau khi nói về quy luật chết để sống, mất để được, Chúa Giêsu
liền nói về thân phận của những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Người:
“Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó. Ai
phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga 12,26). Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy các
môn đệ đích thực của Người, những ai thực sự phụng sự Người, phải là những
người cùng bước theo Người trên con đường thập giá, là con đường chính Người đã
đi trước. Và chỉ có những người này, những người cùng ở trên thập giá với
Người, mới được cùng ở với Người trên Nước Trời để chia sẻ vinh quang đích thực
vì cùng được Chúa Cha tôn vinh.
Chính Thánh Thể nơi Bánh Thánh và Rượu Thánh-trung tâm đời sống
Công giáo cũng không ngừng nhắc chúng ta về quy luật thần thiêng này. Để trở
nên tấm bánh, những hạt lúa mì phải chấp nhận chịu nghiền tán và hòa trộn với
nước rồi chịu nướng trong lò lửa. Để hóa thành rượu nho, những trái nho chín
phải chịu vắt trong bồn đạp nho và trải qua thời lên men. Vì vậy, cùng với cầu
nguyện, việc hy sinh hãm mình là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống
Kitô hữu. Một trong những lý do chính đem lại sự suy đồi trong đời sống đức tin
của nhiều tín hữu ngày nay là sự khước từ sự khôn ngoan của thập giá, sự chối
bỏ tinh thần hy sinh hãm mình và vâng phục.
Bài thánh ca “Thân Lúa Miến” của Mi Trầm được dùng trong phần tiến
lễ có giá trị tuyệt vời vì nhắc nhớ chúng ta về lý tưởng hy sinh bác ái, xả kỷ
vị tha của đời người Công giáo đích thực.
Thánh Giuse-Maria Escriva đã giúp chúng ta sống Tin Mừng hôm nay
với những lời sau: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó không sinh hoa trái.
Bạn có muốn trở thành hạt lúa miến phải chết đi bằng những hy sinh hãm mình, để
đem lại một mùa lúa phong phú không? Xin Chúa Giêsu chúc lành cho ruộng lúa của
bạn”.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, trở
nên như hạt lúa mì, chết đi cho ý riêng và những đam mê trần thế, để sống cho
Chúa và tha nhân qua việc quảng đại hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ.
Amen.
Nói về tình yêu, trong chúng ta, ai cũng nhớ đến mối tình cao đẹp
trong câu chuyện xưa có tên: “Trần Minh Khố Chuối. “Ngày nay được các nghệ sĩ
đỗi tên là:”Bên cầu dệt lụa. “Câu chuyện diễn tả mối tình cao đẹp của đôi bạn
Trần Minh và Nguyệt Nga. Hai người đã vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn
gian khổ, để tìm hạnh phúc cho nhau. Tôi thiết nghĩ: Nếu Trần Minh vì quá tự
ái, nuôi mối hận riêng tư trong lòng, tìm cách trả thù thì cũng không được một
kết cuộc tốt đẹp như thế. Còn nếu Nguyệt Nga cứ giữ mãi danh phận của một tiểu
thư đài cát, không dám hy sinh cho tình yêu thì họ cũng không thấy được bông
hoa tình yêu. Nhưng vì họ đã biết vun trồng, biết chấp nhận những nghịch cảnh,
biết vượt qua chính mình, biết cùng góp sức từ bỏ đi những gì là riêng tư, nên
họ nhận được phần thưởng tốt đẹp và xứng đáng.
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không tối đi, thì nó chỉ trơ trọi
một mình, nhưng nếu nó thối đi,thì sẽ trổ sinh nhiều bông hạt. “Chúa
Giêsu đã nói lên một chân lý, để dạy cho con người cách sống ở đời, nhưng đặt
biệt, Ngài còn muốn kêu gọi mọi người thực hiện để tìm hạnh phúc đích thực và
vững bền. Ngài không chỉ nói suông nhưng Ngài đã thực hiện những gì mình đã
nói, đã dạy. Ngài đã để cho thân xác hay hư nát của Ngài tiêu tan đi cho đến độ
Ngài không cần gìn giữ nó cho riêng Mình nữa mà Ngài dám hy sinh nó cho những
người mình yêu thương. Sự hy sinh của Ngài làm cho những người đương thời không
thể hiểu được. Mọi người tưởng rằng Ngài đã chết thật, nhưng đang lúc đó, Ngài
đã chứng tỏ một sức sống mãnh liệt cho tình yêu. “Ai tìm mạng sống mình thì sẽ
mất…”
Nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta cũng nhìn thấy biết bao người
đã hy sinh đời sống của mình, họ đám từ bỏ tất cả để đạt cho được mục đích mà
mình muốn. Nhưng nhìn chung, tất cả những gì con người ước muốn chỉ thỏa mản
những đòi hỏi riêng tư, không có giá trị lâu dài. Con người càng đòi hỏi và
niềm khát vọng mỗi ngày càng dâng cao. Nên con người không tìm được hạnh phúc
trong những khát vọng ích kỷ cá nhân. Đáp ứng những khát vọng chỉ là đi tìm
chính mình, lo bảo vệ mình mà thôi. “Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất.”
Mỗi người chúng ta nhìn vào chính mình xem: Bao nhiêu lần vì tự
ái, chúng ta không thể nào nghe người khác khi họ chỉ cho chúng ta thấy những
thiếu sót, sai phạm, để chúng ta sửa đỗi cho tốt hơn. Đó là những lúc chúng ta
không dám chết đi cho lòng tự ái, tính kiêu căng của mình. Còn bao nhiêu lần
nữa, chúng ta thấy được những tật xấu của mình, thấy được những điều bê tha,
thấy được những điều không nên làm, thế mà chúng ta vẫn làm. Đó là chúng ta
chưa dám chết cho những ý riêng, chưa dám chết cho những dục vọng của chính
mình. Có những lần chúng ta nhìn thấy những điều không hợp lý, những điều bất
công, nhưng, chúng ta đành lánh mặt đi nơi khác cho được yên thân. Đó là lúc
chúng ta chưa dám chết cho sự hèn nhát của chính mình. Cũng có những lúc chúng
ta nhìn thấy được trách nhiệm của chính mình trong cuộc sống, nhưng chúng ta
vẫn không chu toàn được, vì thiếu sự cố gắng. Đó là những lúc chúng ta chưa dám
chết cho sự lười biếng của chính mình.
Đối với Thiên Chúa. Có những lúc chúng ta cảm nhận được sự ngọt
ngào trong những lần thành công, trong niềm hạnh phúc mà mình đạt được. Lời
Chúa dạy, chúng ta biết rất rỏ, chúng ta vẫn không thi hành. Chúng ta chưa dám
chết đi cho những gì là riêng tư của chính mình, thì làm sao chúng ta đạt được
bông hoa hạnh phúc của tình yêu bất tận. Đôi bạn tình Trần Minh, Nguyệt Nga đã
dám hy sinh những gì là riêng tư, nên họ mới đạt được hạnh phúc chung cuộc. Còn
chúng ta, Thiên Chúa đã yêu thương, đã lo lắng cho chúng ta tất cả mọi việc,
nhưng rồi, chúng ta chỉ biết lo cho những ích kỷ, những kiêu căng, sự lười
biếng; thì làm sao chúng ta có thể nhìn thấy được những bông hoa của tình yêu
bất diệt được để mà tận hưởng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết hy sinh, biết
chịu khó thêm một chút nữa, để bông hoa tươi đẹp của cuộc sống được nở rộ chung
quanh chúng ta.
Vào một đêm giông bão có một người đàn ông đứng tuổi cùng bà vợ
ghé vô một khách sạn nhỏ và hỏi viên thư ký: Xin anh làm ơn cho chúng tôi một
phòng. Viên thư ký trả lời: Thưa ông, tất cả mọi phòng đều có người thuê, nhưng
tôi không nỡ để ông bà phải ra đi vào lúc một giờ sáng như thế này. Người chồng
hỏi lại: Anh nói chi? Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi. Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu?
Tôi sẽ tìm được, xin đừng lo lắng cho tôi. Sáng hôm sau, ông khách trả tiền
phòng và nói với viên thư ký: Anh là một người quản lý có tài, khả dĩ có thể
làm chủ một khách sạn lớn. Rất có thể một ngày nào đó, tôi sẽ xây cho anh một
cái.
Hai năm sau, viên thứ ký nhận được một bức thư, kèm theo vé máy
bay khứ hồi đi Nữu Ước và tấm danh thiếp của người khách trong đêm giông bão.
Người khách dẫn viên thư ký tới một đại lộ, chỉ vào một ngôi nhà cao tầng và
nói: Đây là khách sạn tôi đã xây để cho anh quản lý. Không nói nên lời, người
thanh niên rất đỗi ngạc nhiên, ấp úng cám ơn. Mạnh thường quân của anh là
Astoria, chủ nhân của một mạng lưới khách sạn tại Mỹ. Và khách sạn ông dành cho
anh ta là một khách sạn tiện nghi nhất thời bấy giờ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào Lời Chúa phán với chúng ta qua
đoạn Tin Mừng hôm nay: Hạt lúa rơi xuống đất, có mục nát, thì mới sinh nhiều
hoa trái. Anh chàng thư ký đã chôn vùi những tiện nghi của mình, bằng cách
nhường lại căn phòng ấm cúng cho hai vợ chồng người khách lạ. Và sự hy sinh ấy
đã đem lại phần thưởng cho anh. Anh được quản lý một khách sạn sang trọng và
nổi tiếng trên thế giới.
Hạt giống phải chết đi, phải mục nát trước khi nẩy mầm, đâm bông
và kết trái. Điều đó cũng đúng cho bình diện thiêng liêng. Bởi vì, chúng ta,
những người tin theo Chúa đều biết rằng mọi cố gắng, mọi hy sinh, mọi gian khổ
của chúng ta rồi sẽ sinh hoa kết trái, nhất là khi những cố gắng, những hy sinh
và gian khổ ấy được thi hành vì lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối
với anh em đồng loại. Chính Chúa Giêsu cũng đã chấp nhận những hy sinh gian khổ
vì chúng ta, bằng cách chịu chết trên thập giá, để rồi từ đó Ngài đã có được
hoa trái của sự phục sinh vinh quang.
Mùa chay sắp kết thúc, những cũng chưa quá muộn để chúng ta chôn
vùi bản thân, từ bỏ chính mình vì Đức Kitô và vì anh em, bởi vì có cùng chết
với Đức Kitô, thì rồi chúng ta mới sẽ được sống lại trong vinh quang với Ngài.
MINH HỌA LỜI CHÚA – CN. 5 Mùa Chay
(HN sưu tầm -thanhlinh.net)
1.
Cái chết được nối dài
Ngày 30 tháng 4 năm 1938, một chuyến xe lửa chạy từ miền bắc xuống
miền nam Columbia bất ngờ bị trật đường rầy, làm nhiều người chết và bị thương.
Trong số những người quằn quại nằm đó, có Cha Phênisê thuộc dòng
Thánh Gioan. Ngài bị thương nặng, một phần ruột lòi ra ngoài.
Nhận ra Cha, các y tá đã ân cần chăm sóc. Nhưng Ngài ra hiệu cứ đi
lo cứu giúp các nạn nhân khác. Rồi lấy hết sức bình sinh, ngài nhét ruột bào,
dùng khăn buộc ại và đi tìm những hành khách Công giáo đang bị thương nặng để
giải tội cho họ. Được một lúc ngài té xuống. Các y tá chạy lại. Ngài thều thào
nói trong đau đớn:
“Cám ơn Chúa đã cho tôi có thời giờ làm những điều cần thiết cho
anh em. Bây giờ các cô có thể mang xác tôi đi”.
Chiếc xe cứu thương vội chở cha tới bệnh viện gần đó, nhưng chỉ
vài giờ sau Ngài đã trút hơi thở cuối cùng, khi tuổi đời mới ba mươi sáu.
***
Tình yêu và cái chết của Cha Phênisê là một trong muôn vàn tấm
gương sáng chói của tình yêu cao cả mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng con người.
Cái chết ấy chỉ là nối dài hay đúng hơn là một thể hiện của một
cái chết đã trở thành linh hồn của Kitô giáo. Đó là cái chết của Đức Kitô, Đấng
đã tự nguyện chết thay cho nhân loại, để nhờ đó nhân loại được cứu sống…
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi
một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai quý mạng sống
mình thì sẽ mất: còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được
cho cuộc sống muôn đời” (Ga,12,24-25).
Đó là ý nghĩa đặc biệt và cũng là chương trình hành động của người
Kitô hữu trong mùa chay. (Trích “Như lòng Chúa khoan dung”).
2.
Đau khổ sinh ích cho tôi
Thi sĩ người Anh tên Francis Thompson đã viết:
“Không có gì bắt đầu và kết thúc mà không phải trả giá bằng đau
khổ. Vì chúng ta được sinh ra trong đau khổ của kẻ khác và chết trong đau khổ
của mình”.
Nhiều người kêu trách Thiên Chúa vì đã để cho đau khổ xảy ra trên
trái đất. Tuy nhiên theo Kinh thánh, đau khổ bắt đầu từ tội lỗi đầu tiên của
ông bà nguyên tổ. Chính đau khổ do tội lỗi này, Chúa Giêsu đã chấp nhận chết
trên thánh giá, để cứu rỗi nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa làm cho mọi
sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm.8,28).
Đau khổ nào sinh ích cho tôi cuộc sống? (Trích “Viễn tượng 2000”)
“Chúa Giêsu không đến để khử trừ đau khổ, nhưng để đổ đầy nó bằng
sự hiện diện của Người” (Paul Claudel).
3.
Hạt lúa có chết đi
Mấy năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết bài báo nhan đề:
“Khi chúng ta dám tin vào Thiên Chúa”. Trong đó bà thuật lại lúc bà bị bệnh
nhiễm trùng phổi trầm trọng, nằm liệt giường suốt 6 tháng trời, không ăn uống
gì được. Bà chạy thầy chữa thuốc hết cách và nhờ nhiều người cầu nguyện, mà bà
vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Giữa lúc đó, có người tặng bà tập sách nhỏ kể chuyện một nữ tu
truyền giáo mắc một chứng bệnh suốt 8 năm trường. Ngày ngày ngoài ra việc chữa
trị, chị cầu xin Chúa cho chị khỏe lại để giúp việc Chúa. Một hôm chị khóc với
Chúa: “Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi. Nhưng nếu Chúa muốn con tàn phế, con xin
vâng theo thánh ý Chúa…” Vài tuần sau chị đượng bình phục.
Bà Catherine từ đó noi gương chị nữ tu, hằng ngày cầu nguyện: “Lạy
Chúa, con mệt mỏi quá rồi! Nhưng con xin vâng theo thánh ý Chúa…” Và sức khỏe bà
bắt đầu hồi phục.
***
Câu chuyện của nữ tu truyền giáo và của bà Catherine Marshall giúp
chúng ta hiểu Lời Chúa trong Tim mừng Chúa nhật hôm nay: “Nếu hạt lúa không
chết đi, nó chẳng đem lại hoa trái nào”. Nếu chúng ta không chết cho ý riêng
mình, chúng ta cũng chẳng sinh được bông trái…”
Câu chuyện đó cũng nhắc chúng ta nhớ câu chuyện của Chúa Giêsu
trong vườn Cây Dầu khi Người cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn,
xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý
Cha” (Lc.22,42), nhờ đó mà chúng ta được cứu rỗi, được sống muôn đời…
Nếu muốn sống và trổ sinh bông trái, chúng ta phải bắt ý riêng
chết đi như hạt lúa để sinh được bông trái là hạnh phúc phần xác và cuộc sống
vĩnh cửu phần hồn.
Phải chăng đó là điều Chúa mời gọi chúng ta thực hiện trong Mùa
Chay. (Theo “Sunday Homilies”).
4.
Hạt giống gieo vào lòng đất
Bà và cô cháu gái dang phân loại hạt giống, chuẩn bị cho vụ mùa
tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt giống trong tay:
– Những mong đợi nhỏ bé và mong manh phải không bà? Có phải mỗi
hạt là một niềm hy vọng không?
– Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có
những điều kiện để đi tới thành đạt.
***
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi đau khổ, được
sức mạnh khi thử thách, được ánh sáng cho những ngày đen tối. Nhưng chúng ta
phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới
mưa nắng, thì khả năng tốt đẹp của nó mới thành hiện thực. (Trích “Minh họa Lời
Chúa)
Hạt giống gieo xuống đất phải thúi đi mới sinh nhiều bông hạt.
Apraham tin Chúa đem sát tế con một, được Chúa cứu sống con ông và
được ban phát tràn đầy, cho dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát dưới
biển.
Chúa Giêsu chịu sát tế trên Thập giá, bao nhiêu người được cứu độ.
Mùa Chay là mùa chết cho tội lỗi, để được sống lại nên người mới,
người hoàn hảo hơn, xứng đáng làm người con Chúa hơn.
5.
Ai là hạt lúa?
Sau khi lật đổ đươc nhà độc tài là tổng thống Marcos nước
Phi-luật-Tân, dân chúng lũ lượt kéo nhau đi xem dinh tổng thống, nơi mà hai ông
bà Marcos đã sống đế vương hơn 20 năm. Mọi người đã dở khóc dở cười sau khi tận
mắt nhìn thấy cảnh giàu sang sung sướng của cặp vợ chồng bạo chúa. Nhiều người
bưng mặt khóc sướt mướt khi đứng trước cuộc sống xa xỉ của ông bà Marcos, trong
khi biết bao người phải đói khát,, không cửa không nhà, không đủ cơm ăn áo
mặc!…
***
Giàu sang tự nó không phải là một tội. Nhưng làm giàu trên xương
máu của người khác đúng là một tội ác tầy trời. Thay vì mình phải hy sinh làm
hạt lúa thúi đi để trổ sinh nhiều bông hạt nuôi sống tha nhân, thì lại bắt đồng
bào mình phải làm hạt lúa chết đi để bản thân mình được sống giàu sang xa xỉ.
Muốn trở nên Bánh Sự Sống cho nhân loại, Chúa Giêsu đã phải nghiền
nát. Chúng ta ăn bánh sự sống đó mà không biết hy sinh cho anh chị em chúng ta
sao? Chúng ta đã nhận lãnh Bánh Tình yêu, nhưng lại không muốn chia sẻ tình yêu
với anh chị em chúng ta sao?
Mùa Chay, Chúa mời gọi chúng ta noi gương Chúa trở nên hạt giống
thúi đi, để đem lại bông trái cho anh chị em chúng ta được hưởng.
(Theo “Tất cả là hồng ân”).
1) SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ BẠN TÙ ĐƯỢC SỐNG
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung
của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục
vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi
tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết
thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được
gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp
lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân
phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên
sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là
Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin
chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người
kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn
tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải
nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững
đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ
can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều
người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc
các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích
thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap
Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha
Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại
giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và
yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế… thì bây giờ họ đã đối xử với nhau
trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi
gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen
biết.
2) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ VÔ CẢM:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy
trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh
đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng
xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến
của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu
như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài
xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia
đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man
rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi
vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải
ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe
để tiếp tục cuộc hành trình… Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu
người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: “Này ông kia, yêu cầu ông xuống
xe đi!”. Người đàn ông ngạc nhiên nói: “Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất
đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?”
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: “Nếu ông không xuống, tôi sẽ không
cho xe chạy. “Điều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ
lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách
trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình.
Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi
và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun
hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai
tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không
ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: “Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế
hả?” Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một
nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề
đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc
đã xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”: Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài
xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông
đã đọc được bản tin và bật khóc!
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của
mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi
xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường.
Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô
ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong
ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau:
“Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ,
thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến
nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên
đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở
thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày
sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng
cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với
hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên
lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó
đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến
thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga
12,24-25).
40. Hạt giống sinh hoa kết quả
1.
Trong khi giảng dạy, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh quen
thuộc với dân chúng để giải thích chân lý Ngài muốn mạc khải. Đoạn Tin Mừng hôm
nay, Ngài sử dụng hình ảnh hạt giống được gieo, để cho chúng ta thấy tại sao
Ngài phải bước vào cuộc Vượt qua: “Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất, mà không
thối đi, thì nó vẫn trơ trội một mình. Còn nếu nó thối đi thì mới sinh nhiều
bông hạt”. Thậy vậy, hạt giống được gieo vào lòng đất nếu bị phân hủy (“thối”)
mới có thể đem lại sự sống mới; nếu không bị phân huỷ hẳn là trơ trội một mình,
không sinh ích gì, ai trong chúng ta cũng dễ dàng đón nhận sự thật này.
2.
Đức Giêsu, Chúa chúng ta là hạt giống đặc biệt đem sức sống mới
cho loài người. Ngài có thể cứu độ chúng ta bằng nhiều phương cách; nhưng Ngài
đã chấp nhận “bị phân huỷ” tức hy sinh đi những cái gì “là Chúa” và “của Chúa”
để cứu chuộc chúng ta. Ngài bỏ trời cao xuống gian trần, làm người như bao con
người khác, ngoài trừ tội lỗi. Hơn thế nữa, chấp nhận làm thân phận của người
nghèo. Ba mươi năm sống ẩn dật, ba năm đi rao giảng thì bị công kích, chống
đối. Cuối cùng chịu đau khổ, chịu chết trên thập giá (x. Plp 2,6-8). Biến cố
này xem ra là một thất bại nặng nề trước mặt người đời, nhưng là giờ phút quyết
định cuộc giải thoát nhân loại khỏi ách thống trị của Satan.
3.
Hình ảnh về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu được gợi lên rất rõ như một
hạt lúa mì bị tan rữa trong lòng đất, nhưng sẽ dẫn tới một mùa lúa bội thu,
phong phú. Cái chết của Đức Giêsu không dừng lại ở sự cằn cỗi, mất mát, như
người đời tưởng, mà cái chết của Ngài có sức mạnh qui tụ mọi người, mọi dân,
mọi nước: ” Khi nào Ta được treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta
“. Nếu ông Tertulianô cho rằng: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra các
tín hữu”, thì máu Đức Giêsu có giá trị tuyệt đối, là hạt giống mẹ của các hạt
giống đức tin.
4.
Đức Giêsu không chỉ là hạt giống đức tin của Thiên Chúa, mà Đức
Giêsu muốn chúng ta, những môn đệ của Ngài, cũng hãy là hạt giống đức tin.
Trước hết, hạt giống ấy phải phân huỷ để sinh hoa kết quả cho chính mình. Nghĩa
là phải theo quy luật hy sinh của hạt lúa giống ấy để đạt tới hạnh phúc đời
đời: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất; còn ai ghét sự sống mình ở đời này, thì
sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. “Sự sống” ở đây là sự sống đời này và tất
cả những gì liên quan đến nó như tiền tài, danh vọng, thú vui, nếu như chúng ta
quá bận tâm, bám víu vào nó, mà sao lãng sự sống đời đời thật là một đại hoạ!
Thánh Phanxicô Assise, trong lời kinh Hoà Bình, đã cảm nghiệm chân lý sâu sắc
này và đã ca lên:”Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên
mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Kế
đến, qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được tháp nhập vào hạt giống Giêsu, chúng ta
phải có trách nhiệm mang hạt giống đức tin đến cho tha nhân nữa.
5.
Cuộc Vượt qua của Đức Giêsu vừa như là hạt giống âm thầm, vừa là
biến cố vinh quang của Chúa, nhưng tất cả điều đem lại sức sống mới cho nhân
loại. Điều này làm cho chúng ta nhớ rằng mọi Kitô hữu trong hoàn cảnh sống của
mình đều có trách nhiệm chia sẻ hạt giống đức tin cho tha nhân. Chúng ta cùng
suy nghĩ về hai người con Chúa, Thánh Phanxicô Assise và Thánh Giáo Hoàng Gioan
Phaolô đệ nhị, sống hai thời khác nhau, địa vị khác nhau, nhưng cả hai đều là
những hạt giống đức tin nhiệt thành:
Chuyện kể rằng một ngày kia thánh Phanxicô Assise (+ 1226) rủ một
thầy dòng nữa cùng đi truyền giáo, hai người đi hết phố này sang phố khác rồi
trở về, thầy cùng đi chúng mới hỏi: Chúng ta đâu có giảng thuyết lời nào đâu mà
gọi là đi truyền giáo? Phanxicô mới trả lời: Sự hiện diện của chúng ta, cách ăn
mặc và nếp sống nghèo khó của chúng ta đó chính là một hình thức chúng ta giới
thiệu Chúa cho người khác rồi!
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị cũng là một người rất nhiệt
thành trong công việc truyền giáo, những năm đầu triều đại Giáo Hoàng của ngài,
ngài đã chọn việc đi thăm viếng nhiều quốc gia, chúng ta không biết bao nhiêu
người gia nhập đạo Công Giáo trong triều đại của ngài, nhưng lễ tang của ngài
vào những ngày của tháng 04 năm 2005 vừa qua, rất đông đại diện các quốc gia
đến tham dự, rất nhiều người tiếc xót khi vĩnh biệt người đại diện của Thiên
Chúa ở trần gian này! Chắc hẳn qua đó nhiều tâm hồn suy nghĩ về Thiên Chúa, về
Đức Giêsu mà Đức Gioan Phaolô đệ nhị và chúng ta tôn thờ.
6.
Lạy Đức Giêsu, giờ Vượt qua của Ngài, tuy âm thầm lặng lẽ, tuy xem
ra thất bại, nhưng vinh quang và đã tuôn ban nguồn ơn cứu rỗi cho muôn dân. Xin
cho mỗi người chúng con biết tích cực đón nhận hồng ân cứu rỗi, đồng thời cũng
biến chúng con thành những hạt giống đem nguồn sống thật đến cho tha nhân. Amen.
(Suy niệm của Yvon Daigneaut)
Mở đầu.
Trong khi bài Tin Mừng được tuyên bố, chúng ta đã nghe Chúa Giêsu
nói một lời khó hiểu: “Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi
người đến với tôi”. Lời này ám chỉ hai điều: việc Ngài sắp bị đóng đinh thập
giá và tầm ảnh hưởng vô biên từ cái chết của Ngài trên thập giá. Vì không có
thói quen nhắc đến những nguyên nhân trừu tượng và những ý niệm tổng quát không
thể kiểm chứng được, Chúa Giêsu mời chúng ta lưu ý đến một biến cố sắp xảy ra
liên quan đến Ngài cách tuyệt đối –bởi Ngài là người độc nhất bị nâng lên khỏi
mặt đất- và sẽ liên quan đến chúng ta một cách cũng tuyệt đối như thế bởi vì
hết thảy mọi người sẽ được lôi cuốn bởi biến cố này và sẽ dấn thân vào đó.
Biến cố thập giá.
Thập giá không phải là một biến cố anh hùng mà Chúa Kitô ao ước
đương đầu bằng tất cả bầu nhiệt huyết cách mạng. Đây là một biến cố khá nhỏ
nhen, bần tiện, với một hậu cảnh tôn giáo chính trị khó hiểu, mà Chúa Giêsu đã
tìm cách tránh trong một thời gian dài, nhưng vẫn không trốn thoát nó. Khi Ngài
thấy biến cố này đang đến và Ngài không thể hoãn lại lâu hơn nữa, Ngài đã đón
nhận nó bằng tác động vâng phục hoàn toàn tự do của một người con, sẵn sàng tự
hiến như Chúa Cha đã yêu cầu Ngài.
Vì trong cơ bản thập giá là cuộc tự hiến hoàn toàn mà Chúa Con
dâng lên Cha Ngài bằng hành vi vâng phục được thể hiện trong một vụ án bất
công, kèm theo sự ruồng bỏ của những kẻ thuộc về Ngài, trong một cái chết gây
ra bởi nỗi đau đớn tột cùng do việc bị đóng đinh thập giá. Qua hành vi vâng
phục này Chúa Giêsu hiến mình trong một niềm tin tưởng tuyệt đối vào Chúa Cha
Đấng có thể cứu Người khỏi chết và khỏi quyền lực tối tăm đang tấn công Ngài.
Chúa Giêsu không chấp nhận thập giá vì Ngài, Ngài chấp nhận nó vì
chúng ta. Chính thập giá của thế giới mà Ngài đã mang, thập giá mà sự bất tuân
của chúng ta và việc chúng ta từ chối Chúa Cha đã áp đặt cho chúng ta, nó là
công trình tay chúng ta làm ra, hoa quả trổ sinh từ những bất chính của chúng
ta. Khi chấp nhận thập giá chung của loài người, khi mang nó như thể nó thuộc
về bản thân Ngài, Chúa Giêsu đã sống nó trong một tiếng kêu hy vọng và tin
tưởng mà Chúa Cha sẽ đón nhận. Sự hiến dâng và lời khẩn cầu của Ngài đã cứu
Ngài và cứu chúng ta nữa cùng với Ngài.
Thập giá là nguồn mạch sự sống.
Sự cứu độ của chúng ta, với tư cách là cộng đồng nhân loại và với
tư cách cá nhân, chỉ nằm trong việc trở về với Thiên Chúa, trong ý muốn vâng
phục của con cái, hoa quả của một Giao Ước Mới. Và chúng ta không thể thực hiện
được điều này bằng sức riêng mình, vì việc từ chối ban đầu chống lại tình yêu
Thiên Chúa tiếp tục đè nặng trên chúng ta và áp đặt cho chúng ta một gánh nặng
ngày càng khiến chúng ta tê liệt.
Trái lại, nếu Ai Đó có thể giao hòa chúng ta lại với Thiên Chúa,
vì Ngài và vì chúng ta hết thảy, bằng việc đón nhận trọn vẹn tình yêu của Chúa
Cha, dù là trong một biến cố đầy thử thách như biến cố thập giá, lúc đó ta sẽ
tìm lại được tình thân hữu với Thiên Chúa. Lòng chúng ta sẽ có khả năng thương
yêu và giao hòa, có khả năng vui vẻ đón nhận ơn sự sống. Sự sống sẽ tuôn trào
từ thập giá cách tràn trề đến nỗi làm cho chúng ta phải ngỡ ngàng. Nhờ chấp
nhận thập giá của loài người, Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta sự sống mà Chúa
Cha đổ tràn trên Ngài trong cuộc Phục Sinh: thông ban Thánh Thần; ân sủng; sự
hiệp thông đời đời với Thiên Chúa; qui tụ loài người thành một cộng đoàn mới;
hoàn tất việc tạo dựng trong công chính, bình an và tự do.
Kết luận.
Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ lôi cuốn hết thảy mọi người!”. Ảnh hưởng
của thập giá luôn luôn lan rộng. Không nỗi đau khổ nào của loài người được tách
rời ra khỏi thập giá, không niềm hy vọng nào nảy sinh trong lòng lại bị chối
bỏ. Thập giá của Chúa Giêsu làm cho thế giới này được sống. Như từ một nguồn
suối, sự sống đang tuôn trào từ thập giá, đang thấm nhuần và biến đổi thế giới
này.
42. Chúng ta đang sống ở giờ nào?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Trong Phúc Âm của thánh Gioan, Chúa Giêsu thường hay nói đến “giờ”
của Người. Giờ của Người đây, tức là lúc Người đạt tới đỉnh sự mệnh Cứu thế của
Người, nghĩa là cuộc Khổ nạn và sự Sống lại của Người. Không nên tách rời hai
việc đó. Cái chết là sự vượt qua cần thiết do tình yêu đòi hỏi, như sự Phục
Sinh đem lại cho nó một ý nghĩa bằng cách đề cao và tăng thêm sự sống. Giờ của
Chúa Giêsu vừa là ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là ngày Chúa Nhật Phục Sinh và giờ
đó, ngày nay vẫn tiếp trong mỗi người Kitô hữu là một kẻ cũng bị đóng đinh và
Phục Sinh. Ở đây, Chúa Giêsu dùng dịp mấy người ngoại giáo đến gặp Người để nói
về Giờ của Người. Những người ngoại giáo này là những người “Hy lạp” có cảm
tình với đạo Do Thái. Họ đến Giêrusalem để hành hương, mặc dầu họ chưa thuộc về
dân của Abraham. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nói đến Giờ của Người, tức là sự Cứu
chuộc, cũng dành cho người này. Tại sao vậy? Người nói đến sự Cứu chuộc bằng
cách đem so sánh với hạt lúa gieo xuống đất chết đi trổ lên thành bông khác.
Hạt giống chết đi, chính là Người, Đức Giêsu. Những hạt lúa được tăng gấp lên
trong bông lúa là tất cả các dân tộc, hết thảy mọi người, tất cả những người
“ngoại giáo” sẽ trở thành tín hữu.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay, chúng ta nêu lên ba đề tài suy tư:
1) Hết thảy mọi Kitô hữu được kêu gọi sống “Giờ của Chúa Giêsu”. Chúng
ta phải lưu ý điểm này là trong Phúc Âm của thánh Gioan, hai tiếng Vinh quang,
và Chết rất gần nhau, hầu như nhập làm một. Điều này gợi lên cho chúng ta hai
ý: thứ nhất, người Kitô hữu không được miễn trừ việc khai tử nơi mình, những gì
chống lại sự sống thật. Phép rửa tội đã dấn thân họ trong một mầu nhiệm của sự
chết. Họ không hơn Thày họ. Họ phải chết về thể xác, song họ cũng phải qua một
cái chết tinh thần nào đó. Cái chết tinh thần được mệnh danh là sự từ bỏ chính
mình. Thứ hai, họ có được phép vì thế, mà phải tỏ ra vẻ khắc khổ và buồn sầu
không? Trái lại là khác, họ cũng đồng thời phải sống mầu nhiệm Phục Sinh-Vinh
quang và hoan lạc. Sự từ bỏ của người Kitô hữu chỉ có ý nghĩa trong sự hiệp
nhất với cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, trong việc bắt chước Chúa
Giêsu. Đức Giêsu Kitô đã liên kết trong “Giờ” của Người cái thực tại bất khả
phân của sự đau khổ và sự tôn vinh của Người. Người Kitô hữu, người của sự từ
bỏ cũng vậy, họ cùng lúc phải là người của sự hoan lạc tinh thần. Phải chăng
“Giờ” của Chúa Giêsu là đánh dấu mỗi giờ trong cuộc đời chúng ta?
2) Mỗi người Kitô hữu đều được kêu gọi trở thành hạt giống gieo
xuống đất. Điều này làm nên phần riêng của tình trạng việc cứu rỗi thế
giới. Dầu bên ngoài có được kêu gọi hay không, mỗi người Kitô hữu do sự kết
hiệp với Đức Kitô cũng có được mời gọi tham gia vào việc cứu rỗi hết mọi người
anh em mình. Nếu họ không thể hành động được, người đó hãy nuôi dưỡng ý chí tán
dương mà của lễ thầm kín của sự cầu nguyện, đau khổ và cái chết của người đó
kết hiệp cùng Chúa Giêsu dâng lên Thiên Chúa, để cứu rỗi nhiều anh em mình. Nếu
họ có sứ mệnh hoạt động thì họ phải nhớ rằng sự hiệu nghiệm của các hoạt động mình
tùy thuộc trước hết và trên hết sự hiệp thông của mình với lời cầu nguyện và
cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu.
3) Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống mình thì mất nó, còn ai ghét sự
sống mình đời này thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời!” Điều
quan trọng là phải hiểu Đức Kitô muốn nói gì. Đây không phải là chuyện tương
phản giữa yêu và ghét. Chúa Giêsu nói bằng ngôn ngữ đó, sự tương phản nhiều khi
chỉ là 1 cách so sánh. Chúa Giêsu nói: “Ai yêu sự sống đời này hơn số phận vĩnh
cửu của mình sẽ mất hết.
Vậy để được sống đời đời, phải biết từ bỏ ít nhiều thỏa mãn thế
tục. Như vậy người ta gặp lại ở đây đề tài: phải biết chết cho mình, để đạt tới
đời sống đích thật. Người Kitô hữu theo Chúa Giêsu trong sự đau khổ và trong
cái chết của Người, nghĩa là trong lễ tế của Người, và cũng theo sát Người
trong cuộc Phục Sinh và Vinh quang Người, trong lúc chờ đợi thực hiện cho mình
lời hứa của Thày Chí Thánh: Ta ở đâu, môn đệ Ta cũng sẽ ở đấy (Gio 14,3).
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm
cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp
nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung
Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma
Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị
Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha
thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin
Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng
phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của
biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết
của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến
Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống
và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời
Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái
chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã
có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại
được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài
cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với
những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như
thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết
để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên
trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu,
sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc
sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa
đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối
đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải
qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung
mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước
Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con
người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn
khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm
hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…”
Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối
hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô
cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô
đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài
khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin
cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin
Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu
thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của
Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ”
của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là
“Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý
nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục.
Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị
chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để
giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp
mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự
sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống
thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn
chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải
qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy
luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người
chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác,
phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường
coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi
mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn
đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm
chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn
trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng
đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như
một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi
để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu
chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng
quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn
ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn
đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ
cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái
chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì
tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người
đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì
chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi
con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì
người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã
thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo
Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở
thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với
Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng
2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà
đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.
(Suy niệm của Noel Quesson)
THIÊN CHÚA CỨU CHUỘC THẾ GIAN BẰNG TÌNH YÊU.
“Phần tôi, một khi được nâng lên khỏi mặt đất. Tôi sẽ kéo mọi
người lên với Tôi”.
Năm 1941, một tù nhân đã trốn khỏi nhà tù Ốt-suýt (Auschwits) của
Đức quốc xã. Đó là một nhà tù nổi tiếng khủng khiếp, và đã có quy định là nếu
một người trốn trại thì sẽ có mười người khác thế mạng. Giám thị trại giam tập
họp tù nhân lại và đếm ra 10 người. Một trong đám mười người bị tử thần điểm
danh này bỗng òa khóc: “Trời ơi, vợ tôi, con tôi! Tôi sẽ không bao giờ gặp lại
họ nữa!”. Cha Maximilianô Kônbê (Maximiliano Kolbe) cũng là tù nhân ở trại lúc
đó, nghe tiếng than của người tù. Cha động lòng thương, Ngài tiến lại kéo anh
tù ra, và đứng vào chỗ anh cho đủ mười người. Cha Kônbê và 9 bạn tù bị bỏ đói
hai tuần lễ và kết thúc cuộc sống bằng một mũi tiêm thuốc độc. Xác họ được hỏa
táng và sử dụng như phân bón.
Người tù thoát chết tên là Phanxit (Francis Gap Wniczek) kể lại
chuyện này. Anh nói sau cái chết của Cha Kônbê, tinh thần trại giam thay đổi
hẳn. Mọi người đối xử với nhau rất thân ái, chia sẻ từng mẩu bánh, từng muỗng
canh, ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị Linh mục dòng Phanxicô, đã hy sinh
mạng sống để cứu một người anh em.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phong Thánh cho Cha Kônbê vào
tháng 10 năm 1983, và đặt Ngài làm bổn mạng của thời đại khó khăn. Giáo Hội
mong ước các tín hữu noi gương Cha Kônbê, và cũng là noi gương Chúa Giêsu, sẵn
sàng hy sinh cho anh em đồng loại.
Chúa Giêsu đã chọn cái chết trên thập giá vì chúng ta. Chúng ta là
những tội nhân đáng phải chết, mà Chúa đã chết thay cho chúng ta. Chúa chết để
biểu lộ tình yêu tột đỉnh của Người đối với ta như Người đã nói: Không có tình
yêu nào lớn lao bằng hy sinh mạng sống vì người mình yêu.
Chúa Giêsu cũng có nhân tính, cũng là người như chúng ta, cũng
biết đau khổ và cái chết là tận cùng của đau thương. Chúa cũng thấy ngại ngùng
lo sợ, cơn hấp hối đã bắt đầu: “Tâm hồn Ta xao xuyến”, “Xin Cha cứu con khỏi
giờ này”. Nhưng Chúa can đảm trở lại ngay. Nhưng không, “Con tới chính vì giờ
này. Lạy Cha xin làm vinh quang Cha”.
Đường khổ giá không phải chỉ dành cho Chúa. Các Môn đệ Chúa phải
hy sinh vì anh em, để chứng tỏ mình yêu thương mọi người, có vậy mới chứng tỏ
được rằng mình yêu Chúa.
Can đảm bước theo Chúa trên đường Thánh giá là xây dựng vinh quang
cho mình mai sau. Lời Chúa và cuộc sống của Chúa đã bảo đảm điều đó.
Lạy Chúa, xin hướng dẫn chúng con trên đường theo Chúa hôm nay,
biết sẵn sàng chia sẽ cuộc sống với những người anh chị em đau khổ.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
1.
DẪN NHẬP.
Con người có nhu cầu cần phải yêu và được yêu, chỉ trừ khi chết
mới hết yêu. Sống mà được yêu thương là hạnh phúc. Con người mà được Thiên Chúa
yêu thương thì còn hạnh phúc nào bằng. Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và loài
người là một giao ước tình yêu, nhưng nhiều lần loài người đã phá vỡ giao ước
ấy, nghĩa là chối bỏ, không chấp nhận tình yêu ấy nữa. Nhưng Thiên Chúa vẫn
không nản lòng, Ngài đã nhờ các tiên tri loan báo cho loài người biết là Ngài
sẽ ký kết một giao ước mới và vĩnh cửu. Và để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn
giao ước được ký trong máu Con của Ngài đổ ra trên thập giá. Chính Đức Giêsu đã
nói:”Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của kẻ chết vì người mình yêu”.
Ngài đã chết cho chúng ta. Giờ khổ nạn của Chúa là giờ của tình yêu mà Ngài đã
loan báo trước, đồng thời cũng là giờ Ngài được tôn vinh.
Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta phải thi hành giao ước tình yêu
mà Chúa đã ký kết với chúng ta trong máu Con của Ngài trên thập giá. Đáp lại
tình yêu cao vời ấy, chúng ta hãy đón nhận “giờ” của Chúa là giờ của ta chúng
ta, nghĩa là chúng ta sẵn sàng đón nhận những gian nan thử thách, thi hành
thánh ý Chúa, chu toàn giữ lề luật Chúa như lời Chúa nói qua miệng tiên tri:”Ta
sẽ đặt lề luật Ta trong lòng chúng, Ta sẽ ghi khắc luật đó vào trái tim chúng”.
1.
TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 31,31-34.
Khi dân Do thái thoát ách nô lệ của Ai cập, Thiên Chúa đã ký kết
với dân một Giao ước ở chân núi Sinai, qua trung gian ông Maisen. Theo đó,
Thiên Chúa sẽ là Chúa của họ và bảo vệ họ, còn họ là dân riêng của Ngài, họ
phải trung thành phụng sự Ngài là Chúa tể duy nhất. Giao ước đó đã được khắc
lên hai bia đá.
Nhưng qua thời gian, dân Chúa đã phản bội Ngài, phá bỏ Giao ước đã
ký kết, và kết quả là họ bị quân địch đến tàn phá đất nước, dân chúng phải đi
lưu đầy ở Babylon.
Tuy thế, Tiên tri Giêrêmia loan báo cho họ biết Thiên Chúa sẽ lập
một giao ước mới với dân Ngài. Giao ước đó sẽ không còn ghi trên bia đá nữa, mà
khắc ghi ngay trong lòng họ. Giao ước này là giao ước tình yêu. Để cho ai nấy
được rõ, Ngài đã muốn cho giao ước này được ký kết trong máu của Con Ngài đổ ra
trên thập giá. Giao ước mới và vĩnh cửu này nói lên tình thương lớn lao và sự
tha thứ không bờ bến của Ngài:”Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ
đến lầm lỗi của chúng nữa”(Gr 31,34).
+ Bài đọc 2: Dt 5,7-9.
Đức Giêsu Kitô với thân phận làm người đã hoàn toàn tuân phục
thánh ý Chúa Cha, Ngài đã sẵn lòng chịu đau khổ đến mức tận cùng để cứu chuộc
loài người bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá. Tác giả thư Do thái hiểu
rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là “căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả
những ai tùng phục Ngài”.
+ Bài Tin mừng: Ga 12,20-33.
Nhân cơ hội có sự hiện diện của mấy người ngoại giáo gốc Hy lạp
muốn gặp Đức Giêsu để tìm hiểu về Ngài, hoặc muốn trình bầy điều gì đó, nhân
dịp này Ngài nói với họ về“Giờ của Ngài”. Giờ của Ngài tức là lúc Ngài bị treo
trên thập giá, giờ mà Ngài được tôn vinh.
Nói theo ngôn ngữ người đời thì đó là một điều nghịch lý, nhưng
với cái nhìn đức tin, thì đó lại là một niềm vinh dự vì qua cái nhục trong một
thời gian vắn, một cái nhục vô lý, Đức Giêsu sẽ chiến thắng vẻ vang nhờ cuộc
phục sinh của Ngài, cũng như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi mới sinh
được nhiều hạt khác:”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ
kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,33).
1.
THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Vinh quang trong khổ nhục
1.
ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC TÔN VINH.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”(Ga 12,22). Ngài
được tôn vinh như thế nào? Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng sự giầu
sang, danh vọng, quyền thế, vinh quang thế gian, Ngài được tôn vinh chính lúc
bị treo trên thập giá vì Ngài đã vâng theo thánh ý Cha Ngài, Ngài chiến thắng
vẻ vang trong khổ nhục.
1.
Giờ của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Cha:”Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ
này, nhưng chính vì giờ này mà con đến”. Giờ này là giờ nào? Phải chăng là lúc
ký giao ước mới trong máu của Ngài đổ ra trên thập giá? Đúng như vậy!
Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và
nhân loại, ta thấy có nhiều giao ước đã được thay đổi: Từ giao ước Adong (St
3,15), với Noe (St 9,1-17), với Abraham (St 17,1-27) đến lời hứa giao ước mới
mà Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia loan báo (Gr 31,31-34): tất cả những lời
giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong GIỜ của Đức Giêsu. Giao ước mới
quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ (St 315) đem lại chiến thắng
cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Những lần
khác, Đức Giêsu nhắc đến “Giờ chưa đến”(Ga 2,4; 7,30; 8,20), nhưng ở đây Ngài
lại nói đến “Giờ đã đến”. Vậy “Giờ” ở đây không phải là giờ vinh quang cho bằng
là “Giờ hiến tế” đem lại vinh quang cho Ngài: Giờ vinh quang của Con Người là
giờ tử nạn và phục sinh của Ngài.
2.
Sự vâng phục của Đức Giêsu.
Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc
Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hủy nơi bản
thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt
cuộc sống của Ngài. Sự tự hủy này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn
của Đức Giêsu trước thánh ý của Chúa Cha. Tâm tình tuân phục đó của Đức Giêsu
cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa
nghe trong bài Tin mừng hôm nay:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Lạy Cha,
xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy
Cha, xin làm vinh danh Cha”
Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của
một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu cũng không khỏi sợ hãi,
xao xuyến, ngần ngại. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là “một điều
điên rồ đối với dân ngoại, là cớ vấp phạm cho người Do thái”(1 Cr 1,23). Vì
thế, khi biết rằng sắp đến “giờ” của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên:”Bây giờ
linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Lắng nghe lời tâm sự tha thiết tự đáy lòng của Đức Giêsu, chúng ta
thấy rằng: sống vâng phục không phải là một điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi
hỏi Đức Giêsu một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận
các biến cố vui buồn Thiên Chúa gửi đến từng ngày trong cuộc sống; hay nói cách
khác, Đức Giêsu cũng đã phải học để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư
Do thái viết:”Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài (Đức Giêsu) đã học vâng phục do những
đau khổ Ngài chịu”. Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Đức Giêsu khi
hoàn tất”Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng
phục Ngài”.
3.
Đức Giêsu chấp nhận thập giá.
Với tư cách là con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng cảm thấy sợ
hãi trước đau khổ. Trong vuờn Cây Dầu Ngài cũng đã xao xuyến (x. Mt 26,38) và
phải kêu xin cùng Cha:”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống
chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”(Mt 26.39). Theo tính
tự nhiên, Đức Giêsu muốn trốn tránh sự đau khổ, nhưng Ngài lại muốn tuân theo
thánh ý Cha để cho Cha định liệu. Và ý của Chúa Cha là muốn cho Con Ngài chịu
chết trên thập gia để cứu chuộc nhân loại.
Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy rõ quan niệm của Chúa đối với đau
khổ, đối với mọi thánh giá trên đời.
Đức Giêsu dùng cây thánh giá như bậc thang tới vinh quang “Per
Crucem ad lucem”. Quan niệm đó mới nhìn qua là một nghịch lý, song Ngài đã giải
thích bằng một dụ ngôn vắn tắt và đầy ý nghĩa: dụ ngôn hạt giống:”Nếu hạt lúa
mì rơi xuống đất, mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó
thôi đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất và ai
ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga
12,24).
Cây thánh giá còn là phương tiện chinh phục. Ngài cho biết, Ngài
được giương lên cao thì cũng sẽ có nhiều người cùng được lên cao với Ngài:”Phần
Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga
12,32). Lịch sử đã chứng minh cho lời Chúa. Biết bao người đã tin theo Ngài vì
cái chết đau thương đầy tình thương xót của Ngài. Biết bao người đã bỏ tất cả
và cảm mến tấm lòng thương xót của Ngài. Thập giá Chúa đã in sâu vào trong lòng
người ta.
Truyện: Ông đóng khố cởi trần.
Người ta kể rằng: Tin mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật bản từ hồi
thế kỷ 16 do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ
mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục
xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức
tin cho họ. Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật bản đã bị xoá sổ vì suốt trong ba
trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được
phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về
giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì
họ đã mạnh dạn thưa:”Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá”!
1.
CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC TÔN VINH.
Những người theo Đức Kitô sẽ được tôn vinh, nhưng muốn được tôn
vinh thì cũng phải có điều kiện, phải nói được như thánh Phaolô: vinh quang của
ta là thánh giá Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được vinh quang trong sự tự hủy,
trong việc cho đi và chấp nhận thánh giá trong đời.
1.
Sống theo con đường tự hủy.
Thánh Phaolô đã vinh tụng Đức Giêsu trong bài thánh ca:”Đức Giêsu
Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời
cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chất trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã tự chọn lấy cái chết để chiếm lấy sự sống. Mới nghe
thì ai cũng cho là phi lý vì chết và sống trái ngược nhau, làm sao có thể dung
hòa được, nhưng chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều
khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống có thể sống
được là nhờ sự chết. Ta có thể đưa ra vài ví dụ:
– Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì
mới trở thành chất bổ dưỡng cho cây.
– Nơi sinh vật: các thức ăn phải “tiêu” mới “hoá” thành lương
thực.
– Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và
hoa mầu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
– Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng
lên.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự
sống cho chúng ta.
(Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 165)
Theo như Flor McCarthy thì “Chết là một phần của sống. Chúng ta
sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
– mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
– mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
– mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi.
– mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng
nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh.
Nói một cách cụ thể để áp dụng vào cuộc sống, chúng ta thử đưa ra
vài trường hợp cho việc tự hủy, tức là bỏ ý riêng của mình đi để theo ý Chúa:
– Giả sử cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự
trợ giúp ở bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều
ấy. Như vậy “bắt ý riêng chết đi” có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi
và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
– Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta
đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình
trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế “chết cho ý riêng”có nghĩa là nhìn nhận
vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
– Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm
đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người
ấy. Thì “Chết cho ý riêng mình” có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và
lại tiếp tục dùng tình thương cử xử với y. Không ai nói rằng: Chết cho ý riêng
mình là điều dễ dàng.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 97
2.
Sống là phải biết cho đi.
Với con đường tự hủy, Đức Giêsu đã chứng minh một chân lý xem ra
có vẻ nghịch lý:”Cho là nhận” và “Chết là con đường đưa tới sự sống”. Thật vậy,
với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi
chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên
phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng
đồng thời, chúng ta không có thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế chúng ta
sẽ trở nên nghèo nàn và cô đơn.
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hoá
khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy có hàng bán ra để thu tiền vào và
có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giầu có. Nếu người ấy
không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao
gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có là phải cho ra hay cho
đi.
Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu,
thánh Phanxicô Assisi, trong lời kinh Hoà bình, đã ca lên:”Chính khi hiến thân
là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc
chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Truyện: Thánh Maximilien Kolbe.
Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của
người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung
Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào.
Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ
một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa
phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dẫy tù nhân bên trái, một
người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở:
chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:
– Anh muốn gì?
– Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không,
người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà.
Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ
tình nguyện đo chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo. Cha đã được
Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982.
3.
Chấp nhận thánh giá trong đời.
Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau. Bài Tin
mừng hôm nay giúp chúng ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành
trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết:”Đã đến
giờ Con Người được tôn vinh”. Và Ngài cho biết lý do nào khiến Ngài được tôn
vinh. Hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh:”Thầy
bảo thật anh em, nếu hạt giống gieo xuống đất… “Ngài còn diễn tả chân lý ấy
theo kiểu khác:”Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của một
cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa
có thể chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho
mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết,
làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau?
Do đó, chết là điều kiện tất yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của
hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau
khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Người ta nói không sai:
Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai bỗng đem phần chia cho.
(Ca dao)
Trong Kinh thánh có rất nhiều câu nói lên sự đi đôi giữa sống và
chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó có vài câu chúng ta thường nghe như:
“Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng,
Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6).
hoặc:
“Nếu ta cùng chết với Ngài, nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với
Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8;
8,17).
Truyện: Thập giá chỉ đường.
Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn
nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây
số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay cuối một trong những phi đạo
nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.
Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp
xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên
đỉûnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi
lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng
tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con
tầu cập bến an toàn.
“Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng
con khó hiểu, và đứng trước mầu nhiệm này, tình cảm chúng con hoảng sợ và khước
từ. Xin Chúa ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con
nghị lực chấp nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con
vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa, ngõ hầu Nước Cha trị đến trong chúng con và
khắp trần gian đến muôn thuở muôn đời”. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà)
Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức
Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá
thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: “Các ông
thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy
hết!” (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay,
có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho “được gặp ông Giêsu”.
Chúa Giêsu trả lời họ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” Giờ
vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức Giêsu vâng lời Chúa
Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức Giêsu không màng tới mấy
người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người muốn trả lời với họ một
cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là qua cuộc Thương Khó của
Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân tộc trên thế giới “được
gặp Đức Giêsu”, được lãnh ơn cứu độ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật,
Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn
trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. “Đức Giêsu
chính là hạt lúa gieo xuống đất: nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn
thể nhân loại được cứu độ. Đức Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng
quan trọng hơn nữa, chính qua sự chết, Người ban sự sống: “Một khi được giương
cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Nếu trước đó tội lỗi
và sự chết lôi kéo con người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi
kéo mọi người lên và ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở thành
như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt. Không
phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của chúng
ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán… Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã
được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của Đức
Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).
Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Là
môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót Người: “Ai phục vụ Thầy,
thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ
Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy”. Theo Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi
ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay cả đến việc hy sinh mạng sống
của mình vì Đức Kitô.
Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa: biết
hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái hơn
với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.
Chuyện cổ Ấn Độ kể lại như sau:
Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa
đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài
đề nghị với anh:
– Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.
Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa.
Được một lúc, Chúa bảo:
– Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.
Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối
cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái
xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí
quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai
người lấy nhau, sinh con đẻ cái.
Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên.
Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con,
nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước
cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay
đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:
– Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta
phải chờ hoài.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó
Chúa nhắn nhủ chúng ta:
– Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó chỉ
trơ trụi một mình. Còn nếu nó chết đi, thì mới sinh nhiều bông hạt.
Lời nói này trước hết được thực hiện nơi chính bản thân Ngài. Thực
vậy, như một hạt lúa được gieo vào lòng đất, thì khi đi vào trần gian mang lấy
thân phận con người, Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh gian khổ, và nhất là đã chấp
nhận chết đi một cách nhục nhã trên thập giá, để rồi từ đó trổ sinh hoa trái
của sự phục sinh vinh hiển. Đúng như lời thánh Phao lô đã diễn tả:
– Đức Kitô đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá, vì thế
Thiên Chúa đã nâng Ngài lên, ban cho Ngài một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu.
Còn chúng ta thì sao? Nhiều lúc chúng ta cũng đã hành động giống
như chàng thanh niên, đó là chúng ta mặc dầu muốn theo Chúa, nhưng lại muốn có
một cuộc sống dễ dãi và tiện nghi. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại bắt Chúa
phải chiều theo ý riêng mình. Chúng ta muốn theo Chúa, nhưng lại dễ dàng quên
Chúa để thỏa mãn những tham vọng cá nhân, để rồi sẽ bán Chúa như Giuđa, và chối
Chúa như Phêrô. Chúng ta không còn nhớ tới lời Chúa đã phán:
– Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Hay như lời Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay:
– Hạt lúa phải chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt.
Thế nhưng, cho tới lúc này, liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho
những tham vọng bất chính hay chưa. Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những
ước muốn vẩn đục hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự chết đi cho những toan tính
gian tham và độc ác, oán ghét và hận thù hay chưa? Liệu chúng ta đã thực sự
chết đi cho con người cũ với những khuyết điểm và tội lỗi hay chưa? Trong thinh
lặng, mỗi người chúng ta hãy kiểm điểm lại đời sống và tự tìm lấy câu trả lời
cho riêng mình.
Trong cuộc sống của người Kitô hữu, người ta nhận thấy có nhiều
nghịch lý. Một trong các nghịch lý đó là chúng ta phải học biết chết đi để sống
cho người khác. Điều này nghe có vẻ chói tai nhưng lại là một sự thật. Ví dụ
hùng hồn nhất là cái chết của hàng triệu chứng nhân đã hiến dâng mạng sống mình
như những vị tử đạo vì đức tin Công giáo, trong nhiều thế kỷ vừa qua. Điều này
được nổi bật lên qua câu nói: “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín
hữu”.
Tôi muốn phản tỉnh về cách dâng hiến của cuộc sống của chúng ta.
Tôi tin việc mỗi người chúng ta sống xứng đáng là một chứng nhân Kitô giáo là
điều ngày càng trở nên cần thiết hơn. Điều này làm chứng cho khả năng của Tin
Mừng có thể trả lời cho những vấn đề của thế giới ngày hôm nay. Tôi đang nói về
giá trị làm chứng của cuộc sống hàng ngày của các thánh. Ở đây tôi không có ý
nói đến các vị được Giáo Hội phong thánh, nhưng đúng hơn là giá trị làm chứng
của cuộc sống của những ai dấn thân sống thực sự căn tính Kitô hữu của mình một
cách trọn vẹn.
Chúa Giêsu nói về một hạt giống phải chết đi để cây có thể mọc lên
và cho một vụ mùa bội thu. Điều tương tự cũng xảy ra cho mỗi người trong chúng
ta. Nếu chúng ta muốn cuộc sống của mình đem lại một vụ mùa bội thu cho Nước
Thiên Chúa, thì trước hết chúng ta phải quyết định chết đi cho chính mình,
nghĩa là làm chết đi mọi khát vọng và ước mơ không phù hợp với kế hoạch mà
Thiên Chúa đã vạch ra cho cuộc sống của chúng ta. Điều này không phải là một
việc dễ làm. Tôi nghĩ ít ai chịu hy sinh chỉ vì thích hy sinh. Tuy nhiên, việc
chúng ta đang làm thì khác. Chúng ta hy sinh chính mình là để cho Nước Thiên
Chúa ngự đến, không chỉ trong cuộc sống của chúng ta mà thôi nhưng còn trong
cuộc sống của những người khác nữa. Điều này thì đáng giá hơn cả việc chúng ta
tự hy sinh chính mình.
Chúng ta được mời gọi để trở nên những vị thánh của thiên niên kỷ
mới. Chúng ta sẽ không đáp trả được lời mời gọi này, nếu chúng ta không chấp
nhận hy sinh. Chúng ta hãy chọn lựa hy sinh với niềm vui để có thể đáp trả được
lời mời gọi này và dâng hiến tất cả cho Chúa Giêsu và Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con quảng đại trong việc dâng hiến cuộc
sống để phục vụ cho Nước Thiên Chúa. Xin giúp con đừng tính toán thiệt hơn
nhưng xin cho con cảm nghiệm được niềm vui sống trọn vẹn cho một mình Chúa mà
thôi.
Trong khi đưa chúng ta tới gần Tuần Thánh, Giáo Hội cho chúng ta
đọc bài Tin Mừng hôm nay cùng với những lời ngôn sứ Giêrêmia loan báo giao ước
mới và lời thư gửi tín hữu Do Thái nói về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá, là để bảo cho chúng ta biết: chúng ta phải nhìn vào cái chết của
Chúa, không phải chỉ như một biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ
như một biến cố đau buồn đưa tới tuyệt vọng. Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh
quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống, Chúa chịu treo lên thập giá
là để trở thành nguồn ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Trước hết, bằng một lời mạc khải long trọng, Chúa Giêsu lấy thí dụ
hạt lúa gieo xuống đất, phải qua con đường nào để sinh ra những hạt lúa khác:
hạt lúa phải chết đi, nghĩa là nó phải đánh đổi cái dạng hiện thời của nó để
trở thành cây lúa, Chúa nhấn mạnh vào sự đánh đổi cái hiện tại của hạt lúa. Ý
nghĩa của thí dụ này có lẽ chúng ta đều đã hiểu, Chúa muốn nói rằng: Ngài phải
đi vào cõi chết để đem muôn người vào sự sống mới. Tuy nhiên, Chúa không áp
dụng ngay vào bản thân Ngài mà lại nêu lên qui luật chung để áp dụng cho tất cả
những ai muốn bước theo Ngài, phục vụ Ngài: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất,
còn ai ghét mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Sự đối chọi giữa yêu và ghét ở đây, chúng ta cần hiểu cho đúng, theo kiểu nói
của văn chương Kinh Thánh, cặp “yêu – ghét” có nghĩa là khư khư giữ lấy và từ bỏ,
coi nhẹ: kẻ khư khư bám lấy mạng sống của mình, bám lấy như một cái tuyệt đối,
thì giống như hạt lúa trơ trọi một mình, không đánh đổi hiện tại để hướng tới
tương lai. Mạng sống hiện tại, chẳng ai giữ được mãi nếu không chấp nhận đánh
đổi thì mất là mất luôn, trái lại, ai không bám lấy mạng sống hiện tại, nhưng
coi nhẹ để dám đánh đổi thì sẽ giữ được, vì nó được biến đổi thành cuộc sống
vĩnh cửu. Như vậy, đánh đổi ở đây có nghĩa là qui hướng cuộc sống hiện tại về
cuộc sống mới mà Chúa Giêsu đem đến.
Gương mẫu tuyệt vời về sự đánh đổi này là Chúa Giêsu. Nhìn vào
cuộc đời Chúa, chúng ta thấy Ngài đã đánh đổi trọn vẹn, trước hết, Ngài đã từ
bỏ mọi cách thức ưu đãi, sang giàu, ngay từ giai đoạn đầu tiên của một con
người: sinh ra trong hoàn cảnh nghèo hèn nhất, thiếu thốn nhất và bị đe dọa
nhất, Ngài đã từ bỏ để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, khiêm hạ trong
một gia đình lao động ở xứ Nagiarét cũng vô danh. Vào giai đoạn công khai, Ngài
cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh, với hai bàn tay trắng, và suốt ba năm,
Ngài thực sự trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó:
bị công kích, bị từ khước, bị chụp mũ. Cuối cùng, cách thế để đi đến chiến
thắng vinh quang cũng lại là một cách thế đau thương, khốn cực nhất của trần
gian.
Hơn nữa, Ngài còn phải trải qua những giây phút giằng co, đau khổ
vì quyền tự do tuyệt đối của Ngài. Tự do của con người thường bị hạn chế bởi
nhiều yếu tố: hoàn cảnh, xã hội, thiên nhiên… nhưng tự do của Chúa thì trọn
vẹn, không bị hạn chế gì hết, chính sự tự do tuyệt đối này mà cái bi thiết nhất
của Ngài là Ngài có thể từ chối với Chúa Cha con đường thập giá, nghĩa là Ngài
có thể nhảy xuống khỏi thập giá, có thể sai thiên thần đến diệt bọn lý hình, có
thể thâu hồi về tay Ngài tất cả những bất công, bạo tàn của tòa án… nhưng Ngài
đã không làm, Ngài đã không thay đổi ý kiến vào những giờ phút cuối cùng. Thực
vậy, sau những giờ phút giằng co quyết liệt, Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha,
nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con mà chỉ theo ý Cha mà
thôi”. Tóm lại, Chúa Giêsu đã hoàn toàn hy sinh, từ bỏ, hoàn toàn đánh đổi cuộc
đời mình, đánh đổi đến cấp độ thực sự bị dìm vào cái kinh hoàng của một con
người không còn một chút gì, đến nỗi như hoàn toàn rơi vào cái trần trụi đau
thương khủng khiếp. Nhưng tất cả chỉ vì một lý do này, là Ngài muốn mình phải
chết đi, như một hạt lúa, để trổ sinh vô số bông lúa vàng.
Nhìn về chúng ta, chúng ta hãy nhớ: Thiên Chúa muốn chúng ta trong
khi sống ở đời này, một đàng chúng ta phải ân cần làm việc để tận hưởng hoan
lạc, thì đồng thời chúng ta cũng phải lo thu tích công nghiệp cho đời sau. Và
hơn thế nữa, phải nghĩ đến tương lai vĩnh cửu hơn là hiện tại chóng qua, phải
biết biến đổi những kết quả đời này thành hạt giống để gieo vào đất ở trên
trời. Như vậy là tạm thời chịu thiệt thòi, nhưng sẽ được lợi lãi vô kể và nếu
điều đó không luôn luôn bảo đảm hoàn toàn việc rỗi linh hồn dưới mọi khía cạnh,
thì ít là cũng bảo đảm số phận đời đời, bởi vì nếu hy sinh là định luật của hạt
lúa, thì nó càng là định luật của con người: hạ mình để lên cao, chết để sống
lại, hy sinh để làm ích, làm mất đời sống thấp kém, mau qua, nghèo nàn để chinh
phục đời sống cao quý, đầy đủ, vinh quang và bất diệt. Đó là bổn phận thiết yếu
của tất cả mọi người.
Mỗi người hãy tự nhủ: tôi là một giấc mơ yêu thương của Thiên
Chúa, vì thế, tôi phải trở thành một người lý tưởng, tốt đẹp như ý Chúa muốn.
Đời tôi là một tấm vải, tôi dệt đời tôi, sợi này đến sợi khác, ngày này qua
ngày khác, tôi phải dệt làm sao để trở thành tấm vải tuyệt đẹp, nghĩa là chúng
ta phải sống, làm việc, sinh hoạt, giao tiếp và chu toàn những bổn phận tầm
thường hằng ngày với một tâm hồn phi thường, một tinh thần trách nhiệm và một
lương tâm ngay lành, đồng thời trung thành cải thiện chính mình mỗi ngày một
chút, bằng cách mỗi ngày tự kiểm điểm lại những khuyết điểm, và đề ra những
quyết định cho ngày hôm sau, với châm ngôn: “Ngày hôm nay phải hơn ngày hôm
qua”, hoặc như một giám mục đã nói: “Chấm này nối tiếp chấm kia, ngàn vạn chấm
thành một đường dài, phút này nối tiếp phút kia, muôn triệu phút thành một đời
sống. Chấm mỗi chấm cho đúng, đường sẽ đẹp, sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ
thánh”.
(Suy niệm của Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL)
Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người được bắt đầu từ lúc nào?
Tại sao Chúa Giêsu không trả lời?
Nếu các bài Phúc Âm ba Chúa Nhật Mùa Chay trước Chúa Nhật Thương
Khó hay Chúa Nhật Lễ Lá, như đã nhận định ở hai bài suy niệm Chúa Nhật 3 và 4
trước đây, có một ý nghĩa đặc biệt liên hệ với nhau, chẳng những ở từng chu kỳ mà
còn ở cả ba chu kỳ với nhau nữa. Riêng chu kỳ Năm B này, chúng ta thấy các bài
Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan được Giáo Hội chọn rất hợp với những gì Chúa Giêsu
tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua bao
gồm ba phần khổ nạn, tử giá và phục sinh (x Mk 8:31, 9:31, nhất là 10:34).
Trước hết, về phần khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đã xác nhận ở bài Phúc Âm Chúa Nhật
3, khi Người thách dân Do Thái “hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày
Tôi sẽ dựng lại”. Qua câu tiên báo này, dĩ nhiên Chúa Giêsu cố ý nói đến cuộc
Vượt Qua của Người nói chung, thế nhưng, nếu so sánh với những gì Người sẽ tỏ
cho biết thêm ở hai bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 và 5, Người cũng có ý nói đến riêng
việc thân xác Người sẽ bị hành hạ bởi đòn vọt, nhục nhã v.v. Sau nữa, về phần
tử giá, Chúa Giêsu báo trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 4, khi Người cho
Nicôđêmô biết rằng Người sẽ bị đóng đanh vào thập tự giá: “Moisen treo con rắn
trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy”. Sau hết, về phần
phục sinh, Chúa Giêsu cũng bóng bẩy nói đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 5
tuần này, khi Người nói với các môn đệ của Người về hình ảnh hạt lúc miến mục
nát đi để sinh muôn vàn hoa trái, ở chỗ, Người chiến thắng quyền lực của tên
vương chủ thế gian và làm cho con người tin tưởng nhận biết Người, như Người
cho biết ở đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm.
Thế nhưng, để làm cho nhân loại nhận biết Người, tức để làm cho
cuộc Vượt Qua của Người như hạt lúa miến mục nát đi trổ sinh hoa trái, Người
cần đến những chứng nhân, thành phần sẽ được Người ban cho Thánh Linh và sai đi
rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật tới tận cùng trái đất (x Jn 20:22; Mk
16:15; Acts 1:8). Đó là lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa
Giêsu đã liên kết số phận của thành phần môn đệ chứng nhân của Người với chính
thân phận hy sinh và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Đúng thế, nếu bài Phúc Âm
tuần thứ 3 Chúa Giêsu nói với chung dân Do Thái (thành phần sau này vu oan cho
Người để Hội Đồng Do Thái viện cớ sát hại Người – Mt 26:61) về việc khổ nạn của
Người, và nếu bài Phúc Âm tuần thứ 4 Người nói với Nicôđêmô (nhân vật sau này
sẽ giúp vào việc táng liệm Người trong mồ đá – Jn 19:39) về việc tử giá của
Người, thì bài Phúc Âm tuần thứ 5 tuần này Người nói với các môn đệ (thành phần
được kêu gọi làm chứng nhân cho Người – Jn 15:27) về việc phục sinh sau khi
Người trải qua khổ nạn và tử giá. Chúa Giêsu quả thực đã liên kết thân phận của
các môn đệ với thân phận của Người trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ, ngay sau
khi nói đến thân phận của Người như hạt lúa miến là thân xác của Người được
gieo xuống và mục nát đi ở mảnh đất Do Thái, Người liền nói ngay đến nguyên tắc
chung để có thể theo Người, theo một Đấng Vượt Qua, đó là: “Ai yêu sự sống mình
sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình trên thế gian này thì giữ được nó cho sự sống
trường sinh”. Sau đó, Người áp dụng nguyên tắc hay Đường Lối Vượt Qua này vào
trường hợp môn đệ của Người, vì bấy giờ Người đang nói với các vị: “Ai phụng sự
Thày thì hãy theo Thày, để Thày ở đâu, thì tôi tớ của Thày cũng ở đó”. Vấn đề
“ở đâu” của Chúa Giêsu và “ở đó” của những ai theo Người, phục vụ Người đây,
theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, thì còn chỗ nào khác ngoài trên cây
thập giá và trong mồ đá: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào
Con Chiên tới” (Rev 14:4); “Tôi tớ không hơn chủ của mình. Họ sẽ bắt bớ các con
như đã bắt bớ Thày” (Jn 15:20). Tuy nhiên, chính nhờ thân phận trò hoàn toàn
giống Thày như thế mà thế gian mới nhận biết Thày nơi họ, nơi chứng từ đẫm máu
của họ.
Phải chăng đó là lý do, khi các môn đệ (Philip và Anrê) đến trình
với Chúa Giêsu về điều các người Hy Lạp muốn xin được gặp Người, Người đã không
trả lời với họ qua hai môn đệ này dứt khoát là Người có muốn gặp những người
dân ngoại ấy hay không, mà lại lợi dụng dịp ấy để nói với các môn đệ về cuộc
Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua sẽ được thành phần môn đệ của Người,
thành phần tôi tớ phục vụ Người, tham dự (x Jn 13:8;13:36;14:3), điển hình nhất
là trường hợp của tông đồ Phêrô như được Người cho biết trước bên bờ hồ Tibêria
(x Jn 21:18). Qua thái độ và lời lẽ của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay,
chúng ta cảm thấy hình như Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ là Người thực sự
và hết sức muốn gặp gỡ thành phần dân ngoại, thành phần chưa hề biết Người,
nhưng Người sẽ không trực tiếp gặp họ, như Người vốn trực tiếp gặp gỡ dân Do
Thái của Người với tư cách là một Đức Kitô Thiên Sai theo như những gì đã được
Thánh Kinh của dân tộc này nói tới, mà là gián tiếp qua các môn đệ, thành phần
chứng nhân của Người, thành phần có khả năng dẫn loài người đến với Người, đến
gặp Người bằng đức tin của họ. Và, nếu cuộc tử nạn của Chúa Giêsu như hạt lúa
miến mục nát đi sinh nhiều hoa trái thế nào, thành phần môn đệ chứng nhân của
Người cũng thế, cũng trổ sinh hoa trái nơi việc tái sinh các linh hồn như vậy.
“Ai phục vụ Thày sẽ được Cha tôn vinh” là ở chỗ này, như lời Chúa Giêsu nói tới
trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi Người nói đến việc Thày trò cùng ở một
nơi, chịu chung số phận Vượt Qua.
Tuy nhiên, tại sao ngay sau khi nói câu ấy, tức sau khi nói về
thân phận Vượt Qua của cả Thày lẫn trò, Chúa Giêsu liền thảm não than lên: “Giờ
đây linh hồn Thày bối rối chẳng biết phải nói sao – Chẳng lẽ Cha ơi, xin hãy
cứu Con khỏi giờ này? Thế nhưng, cũng chính vì giờ này mà Con đã đến. Lạy Cha,
xin hãy tôn vinh danh Cha!”. Phải chăng, như trong Vườn Cây Dầu Người đã đau
buồn đến nỗi chết được, đến nỗi xuất mồ hôi máu vì nghĩ đến thành phần hư đi
thế nào, thì ở đây, vào lúc ấy, Chúa Giêsu nghĩ đến một tông đồ Giuđa vô cùng
đáng thương sẽ bị hư đi (x Jn 17:12), vì người tông đồ này chẳng những ra tay
phản nộp Người mà còn tuyệt vọng tử tử (x Mt 27:5) bởi không tin tưởng vào lòng
thương xót tha thứ vô biên bất tận của Người như tông đồ Phêrô (x Mt 26:75).
Cái đau khổ tận cùng của Vị Thiên Chúa Làm Người ở đây đó là bị loài người phủ
nhận tình yêu thương toàn thiện, nhưng không, tận tuyệt và vô đối của Người, ở
chỗ, họ không tin rằng Người có thể yêu thương họ đến như thế, một tình yêu
Người giành cho từng người một, và tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc duy nhất
để mang về đàn của Người (x Lk 15:1-7). Thế nhưng, cũng như trong Vườn Cây Dầu,
Chúa Giêsu đã chấp nhận uống cạn chén đắng vô cùng đau xót ấy.
Câu trả lời của Chúa Kitô là…
Như thế, nếu nỗi đớn đau vô cùng nhức nhối này cũng là những gì
thuộc về cuộc Khổ Nạn hay Tử Giá của Con Thiên Chúa Làm Người, thì không phải
cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người chỉ được bắt đầu từ khi Người bị bắt trong
Vườn Cây Dầu (x Jn 18:12), mà là được bắt đầu ngay từ khi Lời Nhập Thể, ngay từ
khi Thiên Chúa Làm Người để Người có thể, qua nhân tính của nhân loại, cảm thấy
cái xót xa của mình bằng con tim nhân loại, khi bộ óc của Người nghĩ đến tương
lai của thành phần hư đi, và bộc lộ cái chua xót của mình nơi môi miệng loài
người “bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26; x Jn 12:27; Mk 14:36). Nói một
cách chính xác và thực tế hơn nữa thì cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô được bắt đầu
từ lần đầu tiên khi Người tiết lộ cho các môn đệ biết về Cuộc Vượt Qua của Người
(x Mk 8:31), và được bắt đầu từ chính tâm hồn của Người, một tâm hồn đã bị quằn
quại bởi những giây phút “buồn rầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), những giây
phút “linh hồn Thày hiện nay bối rối chẳng biết phải nói làm sao”, như Người đã
thú thực trong bài Phúc Âm hôm nay. Và Cuộc Vượt Qua đã xẩy ra trước tiên ngay
trong tâm hồn của Người, khi Người mong cho ý Đấng đã sai Người được nên trọn,
như Người đã ngoan ngoãn thân thưa với Cha Người trong bài Phúc Âm hôm nay:
“Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha”, một thái độ Vượt Qua của Người Con đẹp
lòng Cha đến nỗi, khi nghe thấy như vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại,
“bấy giờ từ trời có tiếng phán: ‘Cha đã tôn vinh danh Cha rồi và sẽ còn tôn
vinh danh Cha nữa’”.
Thiên Chúa “tôn vinh danh” của Ngài đây nghĩa là gì và ra sao, nếu
không phải Người muốn tỏ cho riêng dân Do Thái và chung loài người (mà đám đông
trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có cả dân Do Thái và những người Hy Lạp dân
ngoại) biết Ngài thực sự là gì và như thế nào, như Ngài đã mạc khải tên của
Ngài cho Moisen biết ở bụi cây bốc lửa song không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), một
danh xưng Ngài đã tỏ cho dân Do Thái biết tỏ tường qua cuộc vượt qua của họ, từ
tình trạng họ bị làm tôi người Ai Cập cho tới khi vào Đất Hứa. Nếu danh Thiên
Chúa là tất cả những gì diễn tả bản tính vô cùng chân thiện của Ngài, như Ngài
đã từ từ tỏ ra cho dân Do Thái biết theo giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ cho đến
khi Lời Nhập Thể là “hiện thân của bản thể Cha” (Heb 1:2) xuất hiện, thì việc
Thiên Chúa tôn vinh danh Ngài đây, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay nói
riêng, cũng chính là việc Ngài tôn vinh Con Ngài, như Con Ngài đã thân thưa với
Ngài khi mở đầu Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: “Lạy Cha, giờ đã đến
rồi! Xin Cha hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha được tôn vinh Cha” (Jn 17:1). Vậy
nếu Thiên Chúa tôn vinh danh mình là tôn vinh Con Ngài như thế thì “Cha đã tôn
vinh danh Cha rồi”, như trong bài Phúc Âm nói đên đây là lúc nào, nếu không
phải là hai lần điển hình được các Phúc Âm Nhất Lãm kể lại, lần thứ nhất ở sông
Dược Đăng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối bởi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (x
Mk 1:11), và lần thứ hai ở trên núi biến hình (x Mk 9:7). Và “Cha sẽ còn tôn
vinh nữa” đây sẽ là lúc nào và ra sao, nếu không phải lúc Cha làm cho Con sống
lại từ trong kẻ chết (x Acts 2:24), làm cho Con trở thành “hoa trái đầu mùa của
kẻ chết để Con được toàn quyền trong hết mọi sự” (Col 1:18; x Mt 28:18).
Vấn đề ở đây là tại sao Thiên Chúa cần phải tôn vinh danh Ngài?
Theo bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cho biết đó là để cho con người biết: “Tiếng
phán đó không phải vì Tôi mà là vì quí vị”. Bởi vì, có nhận biết Thiên Chúa như
Ngài là, qua Mạc Khải Thần Linh của Ngài nơi Cựu Ước cũng như Tân Ước, con
người mới được sự sống trường sinh, mới được hiệp thông với Thiên Chúa. Thế
nhưng, để con người có thể nhận biết danh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất
này, Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cần phải “tỏ Cha ra” (Jn 1:18). Ở chỗ nào,
nếu không phải bằng việc Người đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng
đã sai (x Jn 6:38), tức là “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập
giá” (Phil 2:8), “để trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho những ai tín phục
Người” như được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay xác tín (Heb 5:9),
cũng là những gì chính Người đã khẳng định tiên báo ở câu cuối cùng của bài
Phúc Âm hôm nay: “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi
người lên cùng Tôi”. “Tất cả mọi người” được Chúa Kitô Tử Giá “kéo lên” đây
nghĩa là gì, nếu không phải là tất cả mọi người, dù là kẻ dữ, thành phần hư đi
đời đời, đặc biệt trong ngày chung thẩm, đều nhìn nhận chân lý đã được Chúa
Giêsu mạc khải cho Nicôđêmô trong bài Phúc Âm tuần trước, một chân lý cũng đã
được Người chứng thực hùng hồn nhất và sống động nhất trên Thập Giá: “Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai
tin vào Con sẽ không bị chết song được sự sống đời đời. Thiên Chúa không sai
Con Ngài đến để thế để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Con mà được cứu
độ”.
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô Hồ Thông)
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B được cấu trúc theo
cùng một nét chung: ở giữa những nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy
hy vọng.
Gr 31: 31-34
Khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và Đền Thờ bị thiêu hủy,
ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: “Này sẽ đến ngày, Ta
sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại
diễn ngữ nầy khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập
bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).
Dt 5: 7-9
Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến
tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cái chết của Ngài, “Đức
Giê-su trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu” cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
Ga 12: 20-33
Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức
Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tỉnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang
của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)
Chúng ta thường nghĩ rằng thuật ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn:
“Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn
ngữ nầy vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy,
máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, thuật ngữ nầy được gặp
thấy rồi trong Cựu Ước. Thuật ngữ nầy xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích
hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một
“Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ
tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là
thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn.
Kinh nghiệm nầy được hình thành qua hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh
phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào
năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời
kỳ hưng phấn: cuộc cải cách của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công
Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách nầy, là triều đại của vua Mơ-na-se,
vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.
1.
Thời kỳ hạnh phúc:
Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta
tìm thấy “sách Luật”. Có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn
cốt yếu của sách này. Sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã
cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).
Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách
Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối
của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của
Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực
hiện cuộc cải cách tôn giáo triệt để: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu
tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự
kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống
quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ
hội bộc phát trở lại. Chính vào thời điểm nầy mà những sấm ngôn của ngôn sứ
Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa
không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến
việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự,
nghi lễ, nhưng đã không thể biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không
quên bài học nầy.
2.
Thời kỳ bi thương:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa,
không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề. Vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại
ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim
xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm nầy đã được ứng
nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh
chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu sang
Ba-by-lon; Đền Thờ bị thiêu hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị
chiếm lần thứ hai.
Qua tấn thảm kịch này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định
của Thiên Chúa: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, thành thánh hoang tàn đổ
nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá. Đây không phải là những dấu hiệu cho
thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao?
Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị
thiêu hủy, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả khi diễn tả niềm hy
vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Nầy sẽ đến những ngày,
Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới”. Đây không còn là
Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trong
cuốn sách luật như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng “Ta sẽ ghi vào tâm khảm
chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của
Ta”.
Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm
hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng
một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó
chúng và con cháu sau nầy được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước
muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân
cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta
nữa” (32: 39-40).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác
động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ người nhỏ đến người
lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo
nhau.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày tại Ba-by-lon cũng thoáng
thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả
tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá
khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt.
Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi
theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36:
26-27).
Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một
cuộc sống trong Thần Khí rồi. Với tư cách là một người đạo hạnh thường hằng đối
thoại với Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a xứng đáng được gọi là “cha của kinh
nguyện”. Chính từ môi miệng của ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được loan
báo.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)
“Thư gởi tín hữu Do thái” thật ra không là một “bức thư”, vì tác
giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan
đề: “thư gởi tín hữu Do thái”, xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).
Bức thư nầy được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ
rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không
thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế
Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt
vời, vị Thượng Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh
Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu thượng tế.
Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu
những cuộc bách hại và mang nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên
biểu, bức thư nầy chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành
Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng tự
Đền Thờ như đang hiện hành cách sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau
biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố nầy, vì biến cố
này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.
Đoạn trích ngắn nầy diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của
con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên
Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch
tính.
1.
Kiếp sống phàm nhân (5: 7):
Qua những lời này: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn
tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng
cứu Người khỏi chết” (5: 7), chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện
thống thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã
khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe
được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu của Ngài lên cùng Cha Ngài
trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên
Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27: 46). Dù thế nào, tác
giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận cùng những yếu đuối của chúng
ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời
Ngài” (5: 7), nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước.
Để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.
2.
Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9):
Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm
khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh
ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng
của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.
“Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới
học được thế nào là vâng phục” (5: 8). Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành
nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư
tưởng này vào Đức Ki-tô: “khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở
nên nguồn ơn cứu độ” (5: 9). Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà
Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà
Ngài tự nguyện chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tuyệt mức đem lại
ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người
anh em của nhân loại vừa Con Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với
chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái”
nầy.
TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).
Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường
thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc
lễ Vượt Qua sắp đến gần.
Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại
diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốn được gặp” Đức Giê-su (12: 21).
Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp của niềm tin
rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người
Hy lạp nầy đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra
cho họ con đường cứu độ.
Câu chuyện nầy thật cảm động. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm
cho Ngài xao xuyến. Dù thánh Gioan không ghi lại nỗi xao xuyến của Đức Giê-su ở
vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi
xao xuyến nầy.
1.
Niềm tin của những người Hy-lạp:
Những người Hy-lạp nầy lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ
thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công
Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên
Chúa”.
Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông
Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình.
Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài.
Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu
độ phổ quát đã điểm.
2.
Giờ của Đức Giê-su:
Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương
dân, nay Ngài biết rằng giờ của họ đã đến, Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả
họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn nầy” (Ga 10: 15-16). Những chiên
khác không thuộc ràn nầy, chính là những lương dân này, họ cầu xin được gặp
Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh!” (12: 23).
Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước
hiệu nầy quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật
huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và
vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn nầy cho phép Đức Giê-su diễn tả tính
siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm
con người Ngài.
Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Sọ. Thật ra, việc
tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và cuộc Thăng Thiên ngự bên hữu Chúa Cha, mà
bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên
mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa
được hiện thực. Chúa Giê-su diễn tả chân lý nầy bằng một sự so sánh rất giản
dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12: 24).
3.
Lời mời gọi theo Ngài:
Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của
Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai
quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì
sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9:
22-23). Chính đó là câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Hy-lạp mong ước
được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục
vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12:
26). Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con
đường với Ngài.
Viễn cảnh con đường đau khổ nầy làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba
chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp
nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con
người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút nầy, Đức Giê-su
không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại
ngay: “Chính giờ này mà con đã đến!” (12: 27). Thêm nữa, một tiếng phán từ trời
đem lại nguồn an ủi cho Ngài.
4.
Tiếng phán từ trời:
Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan
không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ
gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời (x. Ga 1:
31-34). Đoạn văn nầy là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời: “Ta
đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (12: 28). Trong Tin Mừng Gioan,
Chúa Cha đã tôn vinh Ngài qua bảy dấu lạ mà Đức Giê-su đã thực hiện, nay Chúa
Cha sẽ còn tôn vinh Ngài hơn nữa qua dấu lạ cuối cùng vĩ đại nhất, đó là Thập
Giá. Điều đó nói lên sự hiệp nhất vinh quang giữa Chúa Cha và Chúa Con trong
công trình cứu độ loài người.
Đây là dấu lạ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là
dấu lạ mà người Biệt Phái đã đòi hỏi nhưng bị từ chối (x. Mt 16: 1-4)? Đức
Giê-su chỉ ban dấu lạ nầy vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định
rồi.
5.
Cuộc chiến thắng trên Xa-tan:
Ngay khi tâm hồn xao xuyến, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc
ban đầu. Quả thật, ơn cứu độ mà Ngài đạt đến cho thế gian ở nơi Thập Giá sẽ
đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ thoát khỏi quyền thống trị của sự
Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng nầy: “Phần tôi, khi được giương
cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Động từ
“giương cao lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được nâng lên cao” vừa “được tôn
vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được siêu thăng bên cạnh Chúa Cha.
Theo cùng một cách thức như vậy, Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô:
“Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống
muôn đời” (Ga 3: 14-15) và với những lãnh đạo Do thái: “Khi các ông giương cao
Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8: 28).
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Đối với xã hội con người, đặc biệt trong Nho giáo, vai trò và thứ
bậc quan hệ: quân – sư – phụ (vua – thầy – cha [ba, bố]) được nhấn mạnh, thậm
chí được truyền tụng đến tận ngày nay. Một điều theo lẽ thường tình, rằng: vua,
con vua (hoàng tử) và hoàng tộc chẳng phải làm những gì thường dân làm, nhất
là: vua chẳng đời nào cúi xuống ‘rửa chân’ cho người dân, và chưa bao giờ gọi
dân thường là ‘bạn hữu’!
Thế nhưng, chuyện ấy lại xảy ra đối với Đức Giê-su Ki-tô đầy lòng
thương xót của chúng ta. Tuy Ngài là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa,
nhưng “đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân, sống như người trần thế” (x. Pl 2, 7). Chưa hết, Ngài “lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x.
Pl 2, 8). Nếu theo quan điểm cấp bậc trong xã hội, hoặc tư tưởng con người,
Ngài đã làm những chuyện đáng lẽ không nên làm! Đúng vậy, nhưng nếu chúng ta
nhớ lại lời Ngài phán dạy: “Ta đến không phải để được người ta phục
vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc
10, 45); hơn nữa, “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các
ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (x.
Is 55, 8), thì ắt hẳn chúng ta hiểu phần nào hành động của Đức Giê-su. Chính vì
vậy, Ngài vâng theo thánh ý, chương trình, tư tưởng của Chúa Cha, và thực hiện
chúng, hơn là bước theo lối riêng mình hoặc cách thức, quan điểm, quan niệm, tư
tưởng của con người. Mặc khác, Ngài sống đúng mực, nhất quán với những gì Ngài
giảng dạy. Ngài không hề thương thuyết, hay thương thảo, hoặc tìm con đường
trung lập dễ giải, hầu làm hài lòng mọi người. Đúng hơn, Ngài dành toàn tâm
toàn ý sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha, “dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã
phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,
8; x. Pl 2, 8). Noi gương Ngài, chúng ta biết vui tươi hoàn thành trách vụ,
phận vụ của mình, dù mức độ đòi hỏi, yêu cầu khác nhau, nhưng ở bậc sống nào đi
chăng nữa, chúng ta cũng được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, Đấng mà
chúng ta tín thác, tôn thờ, và cậy trông.
Dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng khi còn sống kiếp phàm nhân, với bản
tính con người, Ngài “đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn
nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết…” (x. Dt
5, 7). Là con người, ai mà không sợ hãi khi đối diện với cái chết, với bức
tường vô hình sau cùng của đời dương thế! Đức Giê-su cũng vậy, Ngài lo sợ, đến
nỗi lớn tiếng kêu van khóc lóc, khẩn nguyện với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu
trước khi chịu cuộc thương khó, tử nạn (x. Mt 26, 37-45). Tuy nhiên, Ngài vẫn
một lòng vâng phục, không hề quên thực thi thánh ý Chúa Cha “…xin
đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39). Chúng ta cùng
nhớ lại lời tiên tri Giê-rê-mi-a tuyên sấm trong bài đọc I hôm nay: “Ta
sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề luật của Ta. Ta sẽ là
Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 33; 24,
7; 32, 39-40; x. 2Cr 3, 3; Dt 10, 16). Như thế, với bản tính con người, Đức
Giê-su đã sống trọn vẹn giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Is-ra-el và
với chúng ta. Ngài thực hiện cách hoàn mỹ ý định, chương trình của Thiên Chúa
Cha nơi dương gian. Từ đó, soi chiếu bản thân mình, chúng ta nhận ra vô số
thiếu sót, vì biết bao lần, chúng ta không thực hiện hoặc chưa sống giao ước,
giới răn mà Thiên Chúa đã ghi tạc vào tâm khảm, vào lương tâm chúng ta, cũng
như qua lời giảng dạy của Giáo hội, qua lời nhắn nhủ, nhắc nhở của thừa tác
viên có chức Thánh!
Ngoài ra, tuy là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su Ki-tô đã
trở nên hạt lúa miến, chịu gieo vào lòng đất, chịu thối đi, hầu trổ bông, sinh
hoa, kết trái, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, cho chúng ta, cho những
ai “hy sinh mạng sống mình ở đời này để được sự sống đời đời” (x.
Ga 12, 25), và cho tất cả mọi người phụng sự Ngài (x. Ga 12, 26) như lời tác
giả thư gửi cho tín hữu Do Thái đã xác tín: “…và khi hoàn tất, Ngài
đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (x.
Dt 5, 9). Quả vậy, là những người mang danh Ki-tô hữu, những người thuộc về Đức
Ki-tô, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ‘hạt lúa miến gieo vào lòng đất, chịu
mục nát’, chết đi với biết bao tội lỗi, thói hư tật xấu, bỏ đàng ngỗ nghịch, vô
luân, bất tuân phục Thiên Chúa, v.v…, để rồi được trổ sinh kết trái là những ơn
lành, sự sống mới, ân thiêng, sức mạnh, nhiệt thành thực hiện sứ mệnh loan
truyền tình Chúa, và làm chứng tá cho Ngài trong cuộc sống thường nhật.
Giờ đây, chúng ta cùng hướng nhìn lên Thánh giá Chúa chịu treo, và
thầm thì nguyện cầu:
Dẫu là Thiên Chúa cao sang
Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm thế nhân.
Chịu cuộc thương khó, hiến thân
Hy sinh tử nạn, thánh ân tuôn tràn.
Xin cho con bước hiên ngang
Một đời theo Chúa, bình an cõi lòng.
Vai mang thập tự, cậy trông
Trung thành, tín thác, khát mong tâm hồn.
Chúa phục sinh, Đấng chí tôn
Ân ban trìu mến, thiên môn mở đường. Amen!
TA LÀ SỰ SỐNG LẠI VÀ LÀ SỰ SỐNG
Trong cuốn sách, Tình Yêu Vô Điều Kiện, cha John Powell kể lại một
câu truyện về Tommy, một trong những học sinh của cha.
Tommy là một người tự xưng là vô thần. Anh không tin bất cứ một sự
kiện gì cả. Anh đặc biệt lên án ý tưởng rằng Thiên Chúa có thể yêu thương nhân
loại một cách vô điều kiện.
Sau cùng, mùa học đã tới lúc mãn khóa. Khi Tommy nộp bài thi cuối
năm, anh nói với cha một cách nhạo báng, “Cha thử nghĩ coi, tôi có thể tìm thấy
Thiên Chúa không?” Cha đáp lại, “Không, Tommy ơi, anh không thể tìm thấy Thiên
Chúa, nhưng Thiên Chúa sẽ tìm thấy anh. “Anh chỉ nhún vai và bỏ đi.
Vài năm sau, cha được tin là Tommy đang sắp sửa chết vì bệnh ung
thư. Trước khi cha có thể liên lạc với Tommy, Tommy đã liên lạc với Cha.
Khi Tommy đến gặp cha, cha nhận thấy thân xác của anh đã rã rời và
bộ tóc của anh đã rụng hết do các thuốc chữa ung thư mà anh uống. Tommy nói:
“Con đến với Cha, vì những gì Cha đã nói với con trong buổi học
sau cùng. Cha nói, con không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ
tìm thấy con.
“Đúng thế, khi bác sĩ cho con biết con chỉ còn một thời gian ngắn
để sống, con đã làm một việc mà con không bao giờ nghĩ là con sẽ làm. Con đã
bắt đầu cầu nguyện rất nhiều với Thiên Chúa. Thế nhưng không có chuyện gì xảy
ra cả. Không một ai trả lời con.
“Con cố gắng nhiều hơn nữa! Thế nhưng cũng vậy, không gì xảy ra
cả. Không ai trả lời con cả. Sau cùng, sau khi đã cố gắng thêm một vài lần nữa,
con đã đầu hàng bỏ cuộc.
“Con nghĩ rằng, thật là bất hạnh cho một người chết đi mà không có
tình yêu; thật là bất hạnh cho một người chết đi mà chưa nói với người mình yêu
thương rằng mình thật sự thương yêu họ. Con đã quyết định làm việc đó.
“Con bắt đầu từ một người khó chịu nhất: chính là ba con. Một đêm
nọ, trong khi chúng con ở nhà một mình, con đã nói với ba về việc con cảm nghĩ
thế nào về ông. Sau đó, ông đã làm việc mà con không thể ngờ. Ông đã khóc và ôm
con vào lòng. Chúng con đã nói chuyện suốt đêm, mặc dù ba con phải dậy đi làm
sáng hôm sau.
“Khi nói với mẹ con và các anh em con rằng con yêu mến họ thì thật
dễ dàng hơn. Giống như ba con, họ cũng khóc và ôm chầm lấy con.
“Sau đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra. Không biết từ đâu, Thiên Chúa
đã đến với đời sống của con. Ngài đến với một sức mạnh và quyền lực mà con
không thể nào không nhận thức được. Đúng thế, thưa Cha, Ngài đã tìm thấy con!
Ngài đã thật sự tìm thấy con!”
Ít lâu sau, Tommy đã qua đời, nhưng anh đã khởi sự một cuộc sống
trong một phương thức khác. Anh khởi sự sống trong cách thức mà Chúa Giêsu đã
nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống.”
Trong trường hợp phép lạ của Lazarô, điểm quan trọng không phải là
việc Chúa làm cho một người bạn sống lại. Điểm quan trọng là, Chúa Giêsu muốn
dùng phép lạ này để dạy dỗ cho ta điều gì.
Chúa Giêsu muốn dùng nó để nói lên một cách tượng hình những gì mà
Ngài đã nói với Martha: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì dù
có chết, cũng sẽ sống.”
Những gì mà Chúa Giêsu đã làm cho Tommy và Lazarô, thì Ngài cũng
muốn làm cho chúng ta. Ngài muốn ban cho chúng ta một sự sống mới. Ngài muốn
chia sẻ cho chúng ta chính sự sống của Ngài. Ngài muốn làm cho chúng ta sống
lại trong đời sống vĩnh cửu.
Đây chính là sứ điệp của Mùa Chay. Nó có ý nói về việc mở rộng tâm
hồn của chúng ta với tha nhân, giống như Tommy đã làm với gia đình của anh, hầu
qua đó Chúa Giêsu có thể thực hiện cho chúng ta những gì Ngài đã có thể làm cho
Tommy.
Nó có ý nói về việc đón nhận một đời sống mới từ Chúa Giêsu trong
ngày hôm nay, hầu chúng ta có thể đón nhận đời sống vĩnh cửu từ Chúa Giêsu
trong ngày sau cùng.
Hy sinh và gian khổ là điều kiện cần thiết cho tình yêu cũng như
cho sự phát triển. Thực vậy, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra
một hình ảnh vừa sống sộng lại vừa gần gũi để nói lên sự thật trên.
Ngài nói:
– Một hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, cần phải mục nát đi thì
mới nẩy mầm, đâm bông và kết trái, bằng không thì nó chỉ trơ trụi một mình, làm
mồi cho chuột bọ mà thôi. Chính sự mục nát ấy đã làm phát sinh ra sự sống mới.
Trong lãnh vực con người cũng thế. Để chúng ta được khôn lớn cho
tới ngày hôm nay, thì cha mẹ chúng ta đã phải gánh chịu biết bao nhiêu gian
khổ. Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, rồi lại còn nuôi dưỡng chúng ta từng
giờ, từng phút. Chính vì thế mà ca dao Việt Nam đã từng ca tụng:
– Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Có lẽ chính bản thân chúng ta cũng đã cảm nhận được kinh nghiệm
ấy. Chẳng hạn như ngày hôm nay, các em nhỏ phải cắp sách tới trường. Việc học
hành đòi hỏi các em phải siêng năng, phải chăm chỉ, phải cố gắng. Tất cả những
kiến thức các em vất vả thu lượm được, sẽ là như một số vốn để các em đầu tư
cuộc đời của mình và mai ngày sẽ đem lại cho các em những thành công rực rỡ.
Từ những thí dụ cụ thể trên chúng ta đi vào cuộc sống của Chúa
Giêsu, và thấy được những gì?
Nếu đọc lại Phúc Am chúng ta thấy Chúa Giêsu bỏ trời xuống đất,
mặc lấy thân phận con người, đã sống một cuộc đời nghèo túng và nhất là đã chấp
nhận cái chết tủi nhục trên thập giá. Thế nhưng, Chúa Giêsu nhằm tới những gì
qua những hy sinh gian khổ ấy?
Tôi xin thưa, với những hy sinh gian khổ ấy Chúa Giêsu cho chúng
ta thấy tình yêu của Ngài thật bao la. Khi suy gẫm về mầu nhiệm thập giá, thánh
Phaolô đã phải kêu lên:
– Chúa đã yêu thương tôi, và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Chúng ta thường ca tụng những người dám hy sinh mạng sống mình vì
kẻ khác.
Chẳng hạn cha Maximilien Kolbe đã chết thay cho một bạn tù được
sống. Cha Đamiêng đã hy sinh đến sống với những người phong cùi ở Molokai. Chúa
Giêsu cũng thế, Ngài đến sống với chúng ta và chết vì chúng ta như lời Ngài đã
nói:
– Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Tiếp đến, Chúa Giêsu đã chấp nhận những hy sinh gian khổ ấy là để
cho chúng ta được sống và được sống vĩnh cửu. Trong Phúc Am có lần Ngài đã
phán:
– Ta đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho
nhiều người.
Trong bữa tiệc ly Ngài cũng nói với các môn đệ:
– Này là Mình Ta sẽ nộp vì các con. Này là Máu Ta sẽ đổ ra cho
nhiều người được tha tội.
Với cái chết ô nhục trên thập giá, Ngài giao hòa chúng ta với
Thiên Chúa, tẩy xóa mọi dấu vết của tội lỗi, trả lại cho chúng ta địa vị làm
con cái Thiên Chúa, cũng như quyền được thừa hưởng phần gia nghiệp nước trời.
Chính vì thế, chúng ta hãy suy nghĩ và cảm tạ tình thương của
Chúa, đồng thời chúng ta phải làm gì để đáp trả tình yêu thương bao la ấy.
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay
hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của
Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt
lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất
để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho
con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân
thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất
tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Như
vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích
kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì
nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các
bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng nó sẽ tồn
tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi
nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho
chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh
vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba
mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà
giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động
bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất
cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời
giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi
hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước
từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là
cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng
vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi
vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính
mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết
đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông
Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì
máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất
để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên
thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và
được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó
lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng
phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự
sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự
sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh
nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát
trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập
giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã
chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời
đời cho con người.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được
sống muôn đời và hữu ích cho người khác… Khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là
từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ được tiền của,
danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của
người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ
tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ
mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được
lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện
mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng
ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi
thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì
không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì
không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Kitô, không đúng với cung cách
một người con của Chúa.
Một số người cứ khăng khăng rằng vị anh hùng của họ không bao giờ
tỏ ra bất cứ dấu hiệu yếu đuối nào, không bao giờ biểu lộ sự ngập ngừng, nghi
ngờ, không chắc chắn hoặc sợ hãi gì cả. Trong mọi lúc và mọi hoàn cảnh, vị anh
hùng phải mạnh mẽ, can đảm và không hề nao núng. Nhưng những vị anh hùng thực
sự lại không hề giống như vậy.
Chẳng hạn như trường hợp của Martin Luther King, ông là một nhà
lãnh đạo phong trào quyền lợi dân sự tại Mỹ – đó là một công việc khó khăn mà
ông đã miễn cưỡng đảm nhận. Công việc này đem lại cho ông những gian khổ, bị
lăng mạ, cầm tù và đe dọa đến mạng sống của ông. Cuối cùng, công việc này đòi
hỏi cả đến sinh mạng của ông – ông đã bị ám sát chết.
Trong suốt cuộc đấu tranh đó, ông đã từng có nhiều lúc tinh thần
bị xuống dốc. Ông kể lại cảnh một đêm kia, ông xuống đến tận cùng của sự choáng
váng. Căn nhà của ông đã bị đánh bom. hậu quả là ông cảm thấy mình không thể
tiếp tục được nữa. Ông quá mệt mỏi vì những lời xỉ nhục và xúc phạm. Trong tình
trạng kiệt quệ vì thất vọng này, ông lao mình xuống quì gối trước mặt Thiên
Chúa và cầu nguyện:
“Lạy Chúa, con đã đảm nhận một vai trò mà con tin tưởng là đúng
đắn. Nhưng bây giờ, con sợ hãi quá rồi. dân chúng đang mong đợi con làm lãnh
đạo. Nếu con đứng trước mặt họ, mà không tỏ ra có sức mạnh, hoặc can đảm, thì
họ cũng sẽ bị nao núng. Nhưng con đã cạn kiệt sức lực của con rồi. Con không
còn gì nữa. Con không thể đương đầu với tình trạng này lâu hơn được nữa”.
Ông nói rằng vào lúc đó, ông cảm nghiệm được sự hiện diện của
Thiên Chúa theo một cách thế mà trước đây, chưa bao giờ ông cảm thấy. cảm
nghiệm này đã đem lại cho ông khả năng để tiếp tục cuộc đấu tranh.
Martin Luther King không được như một vị anh hùng, bởi vì ông
chứng tỏ rằng con người ông không được làm bằng đá. Vì không bao giờ tỏ ra yếu
đuối, hoặc dễ bị tổn thương, nên một điều đơn giản là chúng ta không thể tin
tưởng vào các vị anh hùng. Chúng ta cũng không thể coi họ như là những mẫu
gương cho chúng ta. Chúng ta không thể đồng nhất với họ hoặc bắt chước họ. Mặt
khác, khi gặp gỡ một người nào đó do dự, miễn cưỡng và sợ hãi, chúng ta lại cảm
thấy rằng người đó dễ tin tưởng hơn. Sự miễn cưỡng này chính là yếu tố cốt lõi
của vấn đề. Vị thánh hoặc vị tử đạo nào cứ hăm hở tìm kiếm số phận của họ, thì
không bao giờ có vẻ thật. Chúng ta thích nhìn thấy một con người thật đằng sau
vẻ anh hùng.
Chính bản thân Chúa không đến với cái chết với bất cứ sự đảm bảo
nào. Trong vườn Giệtsimani, Người cũng có giây phút xuống tinh thần tới mức
thấp nhất, khi linh hồn Người bị lo lắng quá mức, đến nỗi Người đã thốt lên
“Linh hồn Thầy buồn đến chết được”. Thánh Gioan không giải thích về nỗi thống
khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu. Nhưng chúng ta bắt gặp một tiếng vang rõ
rệt trong bài Tin Mừng hôm nay, khi Đức Giêsu nói “Tâm hồn Thầy xao xuyến”.
Trong một số khía cạnh, nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây
dầu là phần an ủi nhất trong Tin Mừng, bởi vì điều đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu
đang ở khía cạnh nhân loại nhất của Người. Cho đến lúc bấy giờ, Người vẫn kiên
quyết tiến tới số phận của Người. Nhưng bây giờ, khi giây phút khủng khiếp đến,
Người quá đau khổ, đến nỗi mồ hôi của Người rơi xuống mặt đất, giống như những
giọt máu. Người không nhìn vào nỗi đau khổ và cái chết bằng sự bình tĩnh mang
tính khắc kỷ. Người kinh sợ trước viễn cảnh đó. Nhờ đâu mà Người có được sức
mạnh để đương đầu với tâm trạng kinh hãi đó? Nhờ lời cầu nguyện, và do đó,
chính là nhờ ở Thiên Chúa. Có người định nghĩa về lòng can đảm là “Lòng can đảm
chính là nỗi sợ hãi đã được thốt ra bằng lời cầu nguyện”.
Nếu không cảm thấy sợ hãi, khi có nguy hiểm đe dọa, thì bạn không
phải là con người nữa. Lòng can đảm không phải là không abo giờ cảm thấy sợ
hãi, mà chính là có cảm giác sợ hãi, nhưng vẫn cứ tiến tới, bất chấp nỗi sợ hãi
đó. “Một người không biết sợ hãi, thì không phải là người anh hùng, nhưng người
nào chế ngự được nỗi sợ hãi, mới đích thực là người anh hùng”(Solzhenitsyn).
Nỗi thống khổ của Đức Giêsu trong vườn cây dầu ban cho chúng ta
niềm an ủi và hy vọng trong những giây phút tinh thần bị sa sút. Chúng ta không
cần phải giả vờ cho rằng con người mình được làm bằng đá hoa cương. Chúng ta
không được che giấu sự yếu đuối và nỗi sợ hãi của mình. Theo gương Đức Giêsu,
chúng ta phải hướng về Thiên Chúa, trong lời cầu nguyện bằng cảm nghiệm của tâm
hồn. Và chúng ta cũng phải tìm kiếm sự an ủi nơi con người nữa, Như Đức Giêsu
đã làm như vậy, khi Người yêu cầu Phêrô, Giacôbê và Gioan tỉnh thức và cầu
nguyện cùng với Người.
CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ MÀ CHÚA GIÊSU ĐÃ ĐI QUA
Sự chết là một phần của sự sống. Sinh vật được sinh ra để rồi chết
đi. Tuy nhiên, đối với người Công giáo, con người chết không phải là hết. Con
người chết để bước vào sự sống mới. Chính Chúa Giêsu Kitô đã mạc khải chân lý
này. Và chính Ngài chết và đã sống lại. Như thế, Ngài mặc khải cho sự chết một
ý nghĩa mới. Chết là để bước vào cõi sống.
Trong bài Phúc âm hôm nay, Thánh Gioan đã dùng hình ảnh quen thuộc
để diễn tả ý nghĩa đích thực cái chết của Chúa Giêsu. Hình ảnh của một hạt
giống bị thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú: “Nếu hạt lúa
gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu nó chết
đi thì mới sinh nhiều bông hạt khác” (Ga 12, 24). Cũng vậy con đường khổ giá
của Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không dừng lại ở cái chết mà sẽ dẫn đến sự sống
lại sung mãn nhằm mang ơn cứu độ cho con người. Tuy nhiên, trong thân phận xác
phàm, đứng trước cuộc thương khó Chúa Giêsu cũng sợ hãi và đau đớn. Ngài cũng
phải trải qua những giờ phút xao xuyến, lo âu, đau đớn khi phải đương đầu với
con đường khổ giá. Thánh Phaolo đã nói: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng
lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết” (Dt 5, 7). Nhưng
cuối cùng, Ngài không xin Cha cứu khỏi chết nhưng xin cho Danh Cha được tôn
vinh. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin cho Ngài hoàn tất, chu toàn
công trình cứu chuộc con người, đi qua cái chết và sống lại.
Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón
nhận “giờ’ của sự phục vụ cho đến cùng trên thập giá, nhưng cũng đồng thời là
“giờ” con Người bước vào vinh quang. Vinh quang đòi hỏi trải qua khổ giá. Vinh
quang của hạt lúa trổ bông, nặng trĩu và chín vàng nhưng sau khi nó bị chôn vùi
vào lòng đất rồi trở nên mầm sống mới, lại sẵn sàng sinh trưởng và tăng gấp
mãi.
Sự chết và sống lại là hai mặt của một cuộc sống. Chúa Giêsu đã
nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới
cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở
thành môn đệ của Ngài và mọi người được ơn cứu chuộc. Thế nên, chúng ta được
mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta đừng quên nguyên tắc căn bản của sự sống đó:
“Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất còn ai bằng lòng để mất sự sống mình ở đời này
vì Chúa Giêsu thì sẽ giữ lại được cho sự sống muôn đời” (Ga 12, 25). Đi theo
chúa Giêsu, đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cái chết và sự sống của
Ngài. Chúa Kitô đã chết đi để sinh ơn cứu độ cho chúng ta. Chúa Kitô chết vì
hạnh phúc vì sự sống nhân loại.
Đi vào cuộc khổ nạn là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của
trần gian. Con người, ai ai cũng sợ đánh đập, sợ tòa án và tử hình. Nhưng Chúa
Giêsu đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ
bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình
phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu
ông Tetulianô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu” thì
máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu. Như thế, Chúa Giêsu chấp
nhận mình chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát
sinh nhiều Kitô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu
độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn
toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài trở thành Đấng
phán xét cả nhân loại. Thập giá trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự
sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự
sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh
nuôi sống con người. Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong
cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá,
đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Ngài đã chết và đã phục sinh để
tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy,
nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được
tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên Chúa,
thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình. Như hạt giống phải thối đi mới
sinh trưởng và phát triển. Hạt giống phải trải qua quá trình mục nát mới sinh
nhiều bông hạt. Muốn mùa gặt, ta phải gieo trồng. Hạt giống gieo xuống cứ nằm
trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất,
hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới,
sinh nhiều hoa quả. Cũng vậy, người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải
thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cày bừa. Người học sinh muốn đỗ
đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn
miệt mài kinh sử. Do đó, đời sống con người giống như hạt giống, phải chấp nhận
được vùi sâu trong khổ luyện và hy sinh. Nó giúp cho người ta tiến thân, tiến
bộ, tiến đức và tiến bước.
Như hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt thì chúng ta
cũng phải mục nát bằng cách chết cho tội lỗi, biết từ bỏ bản thân, từ bỏ ý
riêng mình. Chết cho tội lỗi để dứt lìa những điều trái luật Chúa và Hội Thánh.
Chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lai.
Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được vĩnh
cửu”. Khi dám từ bỏ tội lỗi, chúng ta dễ dàng đến với Chúa, làm theo ý Chúa.
Tuy nhiên từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản
thân mình. Chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính
nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích
điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Ta chịu mất bản thân mình để được
chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần
gian để được Thiên đàng.
Chúng ta đã thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá.
Ngài chết là để đi vào vinh quang và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta:
“Nếu cùng chết với Chúa Kitô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài. Nếu chúng ta
chịu đau khổ vời Ngài, ta sẽ được thống trị với Ngài” (1Tm 2, 8 – 12). Ai ham
sống, sợ chết sẽ đánh mất tất cả. Người làm theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc
sống hiện tại sẽ được sống muôn đời. Chúng ta được sinh ra để rồi chết đi,
chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta được
sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, và tội lỗi. Mỗi lần
chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một giai đoạn
khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới mẻ được
sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn, đau khổ,
thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời hạn phải chết của
mình, khi chúng ta sống trong sự hận thù, và cô lập. Mỗi ngày, chúng ta đều
đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống của chúng ta. Chính khi biết
quên mình, thì chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Khi chúng ta
chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút thực sự được chết thật là
dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh quang. Chính khi chết đi,
chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.
Chúng ta phải nhìn vào cái chết của Chúa, không phải chỉ như một
biến cố đã qua trong lịch sử, cũng không phải chỉ như một biến cố đau buồn đưa
tới tuyệt vọng nhưng chính Chúa Giêsu chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha
và trở thành Đấng ban sự sống. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn
ơn cứu độ, để chúng ta nhìn lên Ngài và được cứu sống.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con dám sống cho Chúa, can đảm từ
bỏ, chấp nhận hy sinh, đi con đường mà Ngài đã đi và vui lòng vác thập giá hằng
ngày mà tiến bước theo Chúa trong niềm tin sẽ được phục sinh giống như Ngài.
Xin cho chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống.
Amen.
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất. Thật ra, không phải cứ thu vào
là được và buông ra là mất. Nhưng có khi được mà lại mất, mất mà lại được. Mất
trước để được sau. Mất ít mới được nhiều. Mất nhỏ để được lớn. Có thể nói đây
là quy luật trong đời sống hằng ngày. Lời Chúa hôm nay giúp ta hiểu rõ quy luật
này, để ta vui vẻ đón nhận tất cả những nghịch cảnh trong cuộc đời với niềm tin
tưởng, hy vọng như thánh giá trổ sinh ơn cứu rỗi.
Khi biết giờ của mình đã đến, giờ mà Đức Giêsu sắp bước lên Thập
gía. Theo cái nhìn của người đời là bi thảm, nhưng đối với Thiên Chúa là bước
vào sự sống vĩnh cữu: “Nếu hạt lúa mì rơi vào lòng đất và không chết đi, thì nó
chỉ trơ trọi, nhưng nều nó chết đi thì sẽ sinh nhiều hoa trái. “(Ga 12, 24)
Đời người không có gì đau thương và mất mát hơn là cái chết. Nhưng
may mắn cho chúng ta là những người đặt niềm tin vào Đức Kitô, Đấng đã hiến
dâng mạng sống để cứu độ chúng ta. Ngài đã cho chúng ta một niềm hy vọng đằng
sau cái chết, đó là sự sống đơì đời. Nhưng để đi vào cuộc sống vĩnh cữu, mọi
người chúng ta phải trải qua thử thách nghiệt ngã là cái chết. Nghĩa là phải
mất trước rồi mới được sau. Đây quả là một thách đố.
Bởi vì chính Chúa Giêsu cũng từng trăn trở, thổn thức và nao núng
trước giờ phút tang thương này. Nhưng sức mạnh nào đã thôi thúc Ngài đi vào
cuộc thương khó một cách can đảm? Phải chăng là động lực của tình yêu, và tin
rằng cái chết của Ngài sẽ mang lại cho nhân loại mùa ơn cứu độ: “Không có tình
yêu nào cao quý cho bằng tình yêu của người đã hy sinh mạng sống cho người mình
yêu.”(Ga 15, 12). Nghĩa là khi biết cái chết mang lại mang lại hạnh phúc cho
tha nhân thì chúng ta không còn gì phải sợ. Vì tình yêu thì cao quý và mãnh
liệt hơn sự chết. Chết cho niềm tin, cho tình yêu là cái chết tận hiến. Cái
chết này sẽ không mất nhưng là cửa ngõ dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, vào
vương quốc của Thiên Chúa. Thật là một điều khó tin, một nghịch lý của cuộc
sống. Sự sống bắt đầu bằng cái chết. Chúng ta sẽ không thể có được Đức Giêsu
Phục Sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ hình và mai táng.
Khi Chúa Giêsu nói: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi
thường mạng sống ở đời này thì sẽ giữ lại được sự sống đời đời.”, không có
nghĩa là Ngài dạy chúng ta ghét bỏ hay khinh khi sự sống thể lý. Trái lại chúng
ta phải học để biết yêu chính mình, vì chúng ta không thể yêu Chúa và yêu tha
nhân nếu như chúng ta không biết yêu mình. Nhưng yêu mình cũng không có nghĩa
là bám díu hay quá lo lắng vào sự sống của con người thể xác. Mà hãy quên đi
hay vượt lên trên cái “tôi”, là từ bỏ chính mình, chết cho chính mình, cống
hiến cuộc đời vì Tin Mừng và vì chính nghĩa là cách vượt ra khỏi vỏ ốc ích kỷ
của bản thân. Thì cuộc sống chúng ta sẽ trổ sinh hoa trái bình an, tự do và
hạnh phúc. Thế giới sẽ nghèo nàn nếu như mỗi người chỉ biết lo cho chính mình,
đặt lợi ích của mình là tất cả. Nhưng xã hội sẽ được ướp đầy hương vị yêu
thương nếu chúng ta biết chết đi cho sự hưởng thụ riêng tư.
Qua cái chết và sự Phục Sinh, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một tấm
gương mẫu mực khi Ngài hiến mạng sống mình vì hạnh phúc nhân loại. Điều này
không đơn giản, chính Ngài đã thật sự lo sợ khi giờ chết đến. Giờ đây, chúng ta
không sợ. Vì hiểu rằng:Thánh giá là cái giá phải trả cho sự nên thánh. Mọi khó
khăn vất vả chỉ là thử thách và thử luyện ta trên con đường nên thánh. Ta không
thể đổi thánh giá khác nếu ta đặt niềm tin tương vào sự quan phòng của Thiên
Chúa. Thánh giá tôi đang vác không nặng nhưng thích hợp và vừa sức của tôi. Vấn
đề là thay gì đổi thánh giá thì ta hãy đổi thái độ, đổi tâm tình. Khi yêu thì
mọi sự đều ra nhẹ nhàng, không còn cảm thấy nhọc nhằn cho dù có nặng thật.
Lạy Chúa! Xin hãy đổ đầy trái tim con tình yêu của Chúa để con sẵn
sàng đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến trong niềm an vui, tin tưởng và phó
thác.
Ít có phong cảnh nào đẹp cho bằng cảnh một cánh đồng tràn ngập
những thân cây lúa mì non. Khi nhìn ngắm những thân cây đó đong đưa trước gió,
và nhảy múa dưới ánh nắng, đem lại cho tâm hồn chúng ta một niềm vui. Nhưng quá
trình những thân cây này tồn tại được thật là lạ lùng.
Ngoài ra phải chôn hạt lúa mì vào lòng đất lạnh ẩm ướt, giống như
trong một ngôi mộ vậy. Thế rồi nó phải chết đi. Nếu nó không chết đi thì nó sẽ
không mang lại sự sống mới nào. Nhưng khi nó chết đi, thì từ ngôi mộ của hạt
giống cũ, nụ chồi của một cây lúa mì mới đâm ra một cách lạ lùng. Đó là một
nghịch lý đáng ngạc nhiên – sự xuất phát từ cái chết.
Giống như hạt lúa mì phải chết đi để mang lại hoa quả, cũng vậy,
nếu chúng ta muốn sống một cách trọn vẹn, mang lại kết quả, và nhận ra được
tiềm năng đầy đủ của mình, trong tư cách là con người, và là con cái Thiên
Chúa, thì chúng ta phải chết đi cho bản thân mình.
Sự chết là một phần của sự sống. Chúng ta được sinh ra để rồi chết
đi, chính khi chết đi, chúng ta mới có thể được sống trọn vẹn hơn. Chúng ta
được sinh ra để rồi chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả vờ, và tội
lỗi. Mỗi lần chúng ta trải qua một giai đoạn cuộc đời, để rồi chuyển sang một
giai đoạn khác, thì có điều gì đó nơi chúng ta chết đi, và một điều gì đó mới
mẻ được sinh ra. Chúng ta cảm nếm được cái chết trong những giây phút cô đơn,
bị khước từ, đau khổ, thất vọng và thất bại. Chúng ta đang chết dần, trước thời
hạn phải chết của mình, khi chúng ta sống trong sự cay đắng, hận thù, và cô
lập. Mỗi ngày, chúng ta đều đang tạo ra cái chết cho riêng mình, bằng lối sống
của chúng ta.
Khi Đức Giêsu nói “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, ai ghét mạng
sống mình ở thế gian này, thì sẽ giữ được nó”, thì Người không bảo chúng ta
phải ghét năm tháng mình, hoặc cuộc sống của mình. Chúng ta phải học biết yêu
biết chính mình. Thiên Chúa muốn chúng ta biết thương xót bản thân. Không ai có
thể yêu mến chúng ta được, nếu chúng ta không biết yêu mến chính mình. Chúng ta
sẽ không có khả năng yêu mến bất cứ ai khác, trừ phi chúng ta biết yêu mến con
người của mình. Tất nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa tình yêu chính đáng đối
với bản thân, và thói ích kỷ.
Quên mình, vượt lên trên bản thân mình – điều đó có nghĩa là đánh
mất, là khước từ, là chết đi cho chính mình. Chính khi biết quên mình, thì
chúng ta mới được tự do nhất và hạnh phúc nhất. Chính khi ra khỏi con người của
mình, tự cống hiến bản thân vì những lý do bên ngoài mình, thì chúng ta mới
phát triển và mang lại hiệu quả. Chúng ta có thể được sống lâu hơn, nếu chúng
ta coi mọi sự là thoải mái, nếu chúng ta biết tiết kiệm cuộc sống. Chúng ta sẽ
tồn tại lâu hơn. Nhưng liệu chúng ta sẽ được sống lâu hơn chăng?
Thật là một thế giới nghèo nàn, nếu mọi người đều coi sự an toàn
bản thân, được che chở, tiến thân một cách ích kỷ là yếu tố đầu tiên và sau
cùng, nghĩa là không có ai được chuẩn bị để vượt ra ngoài bản thân mình. Luôn
luôn do con người đã được chuẩn bị để chết đi cho sở thích cá nhân, nên những
điều quí giá nhất mà nhân loại được sở hữu đã được sinh ra.
Đức Giêsu đã đem đến cho chúng ta một gương mẫu. Người trao tặng
cuộc sống của Người, để phục vụ Cha của Người trên trời và cả chúng ta nữa.
Nhưng Người không hề cảm thấy đó là điều dễ dàng. Khi giờ chết thực sự đến, tâm
hồn Người tràn đầy nỗi sợ hãi.
Cuộc sống của Đức Giêsu không tách biệt khỏi Người. Người trao
tặng nó đi – trao tặng nó vì tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với chúng ta.
Tình yêu chính là chấp nhận rằng con người mình có thể chết đi bằng một cái
chết khác, trước khi người ta thực sự chết đi. Con đường yêu mến là con đường
thánh giá, nhưng chính con đường thánh giá lại đưa đến sự sống lại.
Nhưng ai chết đi cho bản thân mình, thì sẽ nhận thấy giây phút
thực sự được chết thật là dễ dàng. Giờ chết sẽ trở thành một giờ phút vinh
quang. Chính khi chết đi, chúng ta được sinh ra trong cuộc sống đời đời.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)
húa Nhật V Mùa chay năm B, chúng ta được nghe một trong những
tuyên bố mạnh mẽ nhất của Thầy Chí Thánh Giê-su: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất
mà không thối đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi thì sẽ sinh
nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời
này thì sẽ giữ được nó cho cuộc sống đời đời”. (Ga 12, 24-25).
Đọc những lời lẽ này của Chúa, tôi cảm thấy dường như Ngài đang
muốn thức tỉnh nhân loại. Nhân loại chúng ta đang ngủ mê trong một cuộc sống
hời hợt bên ngoài. Chúng ta tưởng mình sống mà thực ra không phải. Chúa muốn
giúp ta nhận ra đâu là cuộc sống đích thực, đâu là cuộc sống giả tạo. Hạt lúa
mì được gieo vào lòng đất. Sau một thời gian, nó mục nát đi rồi nảy mầm thành
một cây lúa trổ sinh nhiều bông hạt. Nếu nó không mục nát đi thì nó chỉ trơ
trọi và rồi cũng tan biến đi. Đó là quy luật tất yếu của tự nhiên. Còn con
người chúng ta thì sao?
Đôi khi tôi băn khoăn và tự hỏi: Tôi đang sống hay tôi đang chết?
Chúa bảo tôi phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Vậy đâu là những gì
tôi phải chết? Và đây là một vài điều.
Trước hết, tôi phải chết đi cho con người nhỏ
nhen ích kỷ. Là con người, tôi thường có tâm lý cạnh tranh hơn thua. Thấy
người khác hơn mình một chút, nhiều khi tôi không chịu đựng được. Tôi muốn được
giàu có, được tài giỏi, được nhiều người biết đến và nhìn mình bằng một ánh mắt
nể trọng. Tôi muốn và luôn luôn muốn một cái gì đó. Đôi khi những điều tôi muốn
chỉ nhằm thỏa mãn cái tôi huênh hoang và hống hách của bản thân mình. Tôi muốn
triệt hạ đối thủ để được nổi lên. Và Chúa bảo tôi phải giết chết đi con người
đó nếu tôi muốn sống thật.
Thứ đến, tôi phải chết đi cho những suy nghĩ của mình. Con
người tôi lúc nào cũng suy nghĩ miên man. Suy nghĩ giống như con ngựa bất kham
luôn làm tôi căng thẳng. Tôi không sao ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình.
Suy nghĩ về bản thân, về người khác, về quá khứ, về tương lai, về cơm áo gạo
tiền, về gia đình, quê hương, dân tộc, thế giới…. thôi thì đủ loại. Ôi suy nghĩ
và suy nghĩ! Dường như con người luôn ở trong dòng suy nghĩ miên man vô tận.
Chúa bảo tôi phải ngưng dứt được cái dòng suy nghĩ miên man vô tận đó thì mới
có thể tiến vào miền thinh lặng vĩnh cửu. Chỉ khi tôi ngưng dứt được dòng suy
nghĩ của mình, tôi mới thực sự kết nối được với nguồn sống đích thực đang tràn
trào trong tôi. Chỉ khi dòng suy nghĩ miên man dừng lại, tôi mới có cuộc sống
đích thực.
Sau cùng, tôi phải chết đi cho những khái niệm ảo tưởng về thời
gian. Thời gian chỉ như một tấm biển chỉ đường. Nó không có quyền gì
chi phối tôi cả. Thế nhưng, nhiều lúc tôi bị vướng vào cái vòng luẩn quẩn của
thời gian. Nhiều người bị ám ảnh về quá khứ. Quá khứ như một bóng ma lúc nào
cũng đè nặng trên cuộc đời của nhiều người. Có những người triền miên đau khổ
về quá khứ của mình. Không bao giờ họ tìm được cho mình một giây phút bình yên.
Tôi tha thiết cầu xin những người nào đang ôm ấp và ngụp lặn trong đau khổ của
quá khứ, hãy buông bỏ và tha thứ cho bản thân mình đi. Còn tương lai thì sao?
Bao người ngày hôm nay quá ưu tư về tương lai. Tôi sẽ làm gì sau khi ra trường?
Làm thế nào để kiếm tiền nhanh nhất? Tôi sẽ sống ra sao nếu…? Tất cả những điều
đó không phải là điều chính yếu của cuộc sống. Hãy chặt đứt tất cả những ảo
tưởng phù phiếm của thời gian đó đi. Hãy tiến vào và sống giây phút hiện tại
này. Hãy luôn sống trong trạng thái ý thức của hiện tại. Cuộc sống bao la vô
tận sẽ mở ra trước mắt chúng ta. Hiện tại và chỉ có hiện tại thôi mới là vĩnh
cửu.
Lạy Chúa, Chúa dạy con phải chết đi thì mới có cuộc sống đích
thực. Xin cho con biết chết đi cho tất cả những ảo tưởng mà con hay quơ góp. Và
chính khi con chết đi là khi con được vui sống muôn đời. Amen.
Không biết ở phương Tây thì sao, chứ còn ở tại Việt Nam, ở đây đó
vẫn thường xảy ra tình trạng bị cúp điện. Nhất là vào mùa khô nạn cúp điện càng
xảy ra thường xuyên hơn. Lý do có thể là mùa khô không đủ nước để cung cấp cho
nhiều nhà máy thủy điện sản xuất điện. Biết thế nên trong phòng, lúc nào tôi
cũng chuẩn bị vài cây nến phòng khi cúp điện. Và đúng như thế, vào một tối nào
đó, đang ngồi đọc sách bỗng cúp điện. Tôi vội vàng đốt ngọn nến lên để có ánh
sáng tiếp tục đọc sách. Quyển sách đang hấp dẫn không thể bỏ ngang được. Tôi
xin bắt đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay từ ngọn nến đó. Khi nhìn ngọn nến đang
cháy sáng tự nhiên tôi có vài cảm nhận:
– Muốn có ánh sáng phải có nến.
– Muốn có nến phải có sáp.
– Muốn nến đó được cháy liên tục thì sáp phải tiêu hao dần.
– Để có nhiều ánh sáng, đòi hỏi sáp càng phải bị tiêu hao nhiều.
– Và để tận dụng hết nguồn sáng, cây nến phải được đặt trên cao.
Không biết đấy có phải là một qui luật không, nhưng không thể làm khác được.
Tôi lại liên tưởng tới một ngọn nến khác có tên là Têrêsa Calcuta. Chấp nhận
tiêu hao cả thời gian, sức lực, con người để những người nghèo, cô đơn, bệnh
tật, bị bỏ rơi được chăm sóc, nâng đỡ. Tôi lại liên tưởng tới một ngọn
nến khác có tên gọi là Maximilien Kolbe: Vào năm 1941, ngài bị bắt
một lần nữa. Mục đích của Đức Quốc Xã là thanh lọc những phần tử tuyển chọn, là
các vị lãnh đạo. Cuộc đời Cha Kolbe kết thúc trong trại tập trung Auschwitz.
Vào ngày 31 tháng 07 1941, có một tù nhân trốn thoát. Sĩ quan chỉ
huy trại bắt một người khác phải chết thay. Hắn khoái trá bước dọc theo dãy tù
nhân đang run sợ chờ đợi sự chỉ định của hắn như tiếng gọi của tử thần. “Tên
này. “”Tên kia. “Có những tiếng thở phào thoát nạn. Cũng có tiếng nức nở tuyệt
vọng.Trong khi một người xấu số lê bước về hầm bỏ đói, bỗng dưng tù nhân số
16670 bước ra khỏi hàng. “Tôi muốn thế chỗ cho ông kia. Ông ấy có gia đình, vợ
con. “Cả một sự im lặng nặng nề. Tên chỉ huy sững sờ, đây là lần đầu tiên trong
đời hắn phải đối diện với một sự can đảm khôn cùng. “Mày là ai?” “Là một linh
mục. “Không cần xưng danh tính cũng không cần nêu công trạng. Và Cha Kolbe được
thế chỗ cho Trung Sĩ Francis GaGiowniczek.
Trong “hầm tử thần” tất cả bị lột trần truồng và bị bỏ đói để chết
dần mòn trong tăm tối. Nhưng thay vì tiếng rên xiết, người ta nghe các tù nhân
hát thánh ca. Vào ngày lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời (15 tháng 08) chỉ còn bốn tù
nhân sống sót. Tên cai tù chấm dứt cuộc đời Cha Kolbe bằng một mũi thuốc độc
chích vào cánh tay. Sau đó thân xác của ngài bị thiêu đốt cũng như bao người
khác. Và còn nhiều ngọn nến khác nữa vẫn đang thắp sáng cho đời. Tất cả những
ngọn nến ấy có hoàn cảnh khác nhau, màu da khác nhau, địa vị vị khác nhau,
nhưng lại có một điểm chung là tan biến, là hy sinh và từ bỏ.
Hình ảnh của những ngọn nến đó làm tôi nhớ đến một câu nói của
Chúa Giêsu trong Tin Mừng: “Nếu hạt lúa mà rơi xuống đất không chết đi thì nó
chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12,
24) Những ngọn nến như thế, những khuôn mặt như thế, những con người như thế
làm cho tôi càng hiểu thêm về điều mà Kinh thánh gọi là Kenosis (tự huỷ) của
Chúa Giêsu, mà chính thánh Phaolô đã viết nên thành lời của một ca khúc thánh
ca bất hủ. Thánh Phaolô viết thế này: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã
hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống
như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thánh tự. “(Pl 2, 6-8) Tôi nhớ một nhà tư tưởng nào đó đã nói:
“Muốn hiểu môt sự vật, bạn hãy lên cho thật cao và phải xuống cho thật sâu”.
Muốn biết chiều cao của một ngọn núi, ta phải lên thật cao trên
đỉnh của nó và đồng thời ta cũng phải xuống cho thật sâu của vực thẳm. Tương tự
như thế, Chúa Giêsu đã lên thật cao trong địa vị là Thiên Chúa và Người cũng đã
xuống thật sâu trong thân phận con người. Và còn hơn thế nữa, Người đã chấp
nhận hủy mình ra không, để từ cái không đó trở thành nguồn ơn cứu rỗi cho con
người. Đấy là Kenosis (tự hủy). Thế nhưng, chính Kenosis ấy lại trở thành một
điều gây khó hiểu cho nhiều người. Người ta không thể hiểu được: Tại sao tôi
phải chết đi để người khác được sống. Tại sao tôi phải hy sinh, phải chịu mất mát,
chịu thiệt thòi cho người khác và vì người khác? Đúng như lời một triết gia đã
nói: “Tha nhân là hoả ngục của tôi”, dại gì tôi phải hy sinh cho họ.!!! Cái khó
hiểu và cái khó chấp nhận đó tôi tưởng nó có nhiều lý do vừa khách quan vừa chủ
quan.
Xã hội hôm nay là một xã hội thực dụng và hưởng thụ trong một nền
kinh tế thị trường. Người ta chỉ biết nghĩ đến mình mà quên đi người khác.
Chính vì chúng ta đang bị nhận chìm trong một quan niệm, một lối sống thực dụng
và hưởng thụ như thế nên càng ngày người ta càng mất ý niệm về sự hy sinh, sự
cho đi, lòng quảng đại và sự chia sẻ mà chỉ lo củng cố cái tôi của mình mà
thôi. Tôi là số một, tôi là trên hết. Người ta quên mất tha nhân là ai.
Họ có nhu cầu gì, họ khao khát và ước muốn cái gì. Cho nên người
đời có thể không hiểu thế nào và cũng không thể chống lại cái gọi là Kenosis là
tự hủy, là hy sinh, là từ bỏ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta hiểu thế nào, hiểu
đến mức độ nào? Nói cách khác, tình yêu nào đòi chúng ta sống đời bác ái? Sức
mạnh nào thúc đẩy ta dám chết cho anh chị em? Động lực nào thúc giục ta hiến
thân cho đồng loại? Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu trả lời: “Không có tình yêu
nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình” (Ga
15, 12) Tình yêu cao quí hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết và cái chết của
Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương cho con người. Chính lúc gục đầu tắt thở thì
cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi con người hiến dâng cái chết
như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đàng.
Đúng như một triết gia nào đó đã từng nói: chỉ có con vật mới quay
lưng trước nổi đau của đồng loại để chăm sóc cho bộ lông của mình, còn con
người thì không như thế. Hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố: ” Nếu hạt lúa rơi vào
lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì
mới sinh nhiều bông hạt”. (Ga 12, 24). Chúng ta không ngạc nhiên khi nghe câu
này. Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ. Thế nhưng lắm khi tôi thấy khó áp
dụng cho mình. Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Vì thế, chúng ta
không muốn chết như hạt lúa. Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.
Tôi chấp nhận cô đơn để được yên thân. Tôi sợ mất mát vì mất mát
đem lại đớn đau nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi
đang là… Nhưng Chúa Giêsu còn nói thêm: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ỏ đời này, thì sẽ Giữ lại được cho sự sống đời
đời”. (Ga 12, 25) Cuối cùng, tôi xin mượn một lời cầu nguyện như một lời nhắn
nhủ đến anh chị em và các bạn. Lời cầu nguyện thế này:
“Lạy Chúa Giêsu,
Khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hại Giống
đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp
chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao Giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống
cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ
vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người,
chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con
đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố Giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra
để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân”. Amen.
(Suy niệm của Lm Gioan Phan Tiến Dũng)
Trong cuộc sống, mỗi khi chúng ta muốn trao tặng cho những người
mà mình thương mến, quý trọng thì chúng ta trao ban cái gì, điều gì và diễn tả
tình yêu thương quý mến của chúng ta ra sao? Chắc hẳn, ai trong chúng ta cũng
đã và đang có những cung cách, thái độ riêng biệt của chính mình. Vì yêu thương
chúng ta, nên Thiên Chúa trong một cách thế rất đặc biệt, Ngài đã biểu lộ và
diễn tả tình thương của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Ngài trao ban chính
tình thương của Ngài cho chúng ta, ngay khi chúng ta là những người con tội
lỗi, ngỗ nghịch, bất xứng với chính Thiên Chúa là Người Cha của mình. Các bài
đọc Lời Chúa hôm nay diễn tả cho chúng ta cách mà Thiên Chúa yêu thương và bày
tỏ, chứng minh tình yêu của Ngài cho chúng ta.
Trong bài đọc một, Tiên tri Giêrêmia đã diễn tả cho chúng ta biết
Thiên Chúa đã yêu thương dân của Ngài ra làm sao. Khi suy niệm về lời minh
chứng này của Giêrêmia, làm tôi nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Mỗi lần tôi có
lỗi phạm gì, thường thì ba mẹ tôi kêu về, bắt quỳ xuống hỏi tội; sau khi nhận
ra tội của mình, mẹ tôi thường hỏi, với tội nặng như thế này thì đáng phạt bao
nhiêu roi? Tôi thường hay trả giá, dẫu biết rằng tội mình đáng phải bị
phạt nhiều roi, nhưng chỉ nói khoảng cỡ 5-7 roi thôi. Mỗi lần như vậy, Mẹ không
bao giờ đánh hết những roi mà tôi muốn phạt, nên thường để dành lại 2-3 roi và
nói: Tội thì tạm tha, nhưng lỗi thì để dành, xem có biết ăn năn hối lỗi hay
không thì sẽ đánh tiếp. Và thế là khi giờ ăn đến, vì còn mắc nợ mẹ mấy roi, nên
tôi ngồi vào bàn ăn mà mắt không dám ngước lên nhìn mẹ và tỏ vẻ như không dám
ăn. Một lần mẹ tôi bảo: Tại sao không gắp đồ ăn mà ăn đi, hôm nay mẹ nấu cho
món ngon đó, ăn đi rồi cố gắng mà sống cho tốt. Qua chút kinh nghiệm được tha
thứ và yêu thương của bản thân; phần nào hiểu được, Thiên Chúa thể hiện tình
yêu thương của Ngài còn kỳ diệu, lạ lùng khiến tôi chỉ biết cảm tạ tri ân. Tại
sao lại như vậy? Vì Thiên Chúa yêu thương và bày tỏ tình thương cho chúng ta
ngay cả khi chúng ta thất tín, bất trung, quay ngược lại phản bội Chúa. Cách
diễn tả của Chúa rất đặc biệt đó chính là: Ngài ký kết giao ước với chúng ta,
ban lề luật và huấn lệnh cho chúng ta, để qua chính giao ước này, Thiên Chúa
muốn khắc ghi vào tâm hồn, lòng trí của chúng ta rằng: “Ta sẽ là Thiên Chúa của
chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”. Thật vậy, vì tình yêu thương, Thiên Chúa chỉ
còn biết bao dung, tha thứ, cứu sống, không còn nhớ đến tội lỗi của chúng ta,
đồng thời ban ơn để giúp chúng ta sống tốt hơn, sống đúng với phẩm giá của con
người của chúng ta mà Ngài đã tạo dựng và Chúa chỉ mong muốn rằng, chúng
ta hãy khiêm tốn để tin và chấp nhận tình thương này của Chúa dành riêng cho
chúng ta.
Thưa ACE, một khi chúng ta thấu hiểu và cảm nếm được tình yêu
thương mà Chúa dành cho chúng ta thể ấy, thì khi đó chúng ta mới có thể tái
khám phá và vững tin hơn vào điều mà trong thư gởi tín hữu Do Thái nhắn gởi
chúng ta. Thiên Chúa yêu thương mãi mãi và yêu cho đến cùng, cách thế cuối cùng
duy nhất, độc đáo nhất còn lại để diễn tả tình yêu thương và sự tha thứ đó là:
sai Con Một rất yêu dấu của Ngài đến để chịu chết mà cứu độ chúng ta. Qua Đức
Kitô, mẫu gương tuyệt vời của sự vâng phục, qua cuộc khổ hình và tử nạn của
Ngài trên Thánh Giá, Thiên Chúa lại ký kết với nhân loại một giao ước tình yêu
mới bằng giá máu châu báu của Con Ngài. Đây chính là cách mà Thiên Chúa dùng để
diễn tả tình thương và ơn cứu độ cho chúng ta, cho tất cả những ai tin, chấp
nhận Chúa và chấp nhận công cuộc cứu chuộc của Ngài.
Thánh Gioan trong Tin mừng cũng đã minh chứng về tình yêu của
Thiên Chúa dành cho chúng ta qua cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Việc
Chúa Giêsu dùng hình ảnh của hạt lúa mì rơi xuống đất, mục nát, tiêu tan, để
đem lại sự sống mới, sự sống được phát triển và sinh nhiều bông hạt. Dẫu Đức
Kitô cũng đã ý thức rằng, một khi vâng theo thánh ý của Chúa Cha, nghĩa là phải
chấp nhận những đau khổ, cực hình và một trong những điều tủi nhục, đau đớn
nhất đó chính là bị con cái loài người khinh chê, từ chối, khước từ và không
muốn chấp nhận không muốn tin vào tình thương và cách diễn tả tình thương của
Chúa. Cho dù con người vẫn còn chối bỏ, không tin hay chưa tin, nhưng Thiên
Chúa vẫn một mực trung thành, vẫn luôn tạo mọi hoàn cảnh tốt nhất để ban ơn cứu
độ theo như cách tuyệt hảo của Chúa.
Thưa ACE, tình yêu thương và cách diễn tả, minh chứng tình yêu của
Chúa là như thế đó. Vậy còn tùy thuộc vào nơi cách đáp trả của chúng ta, ai
chấp nhận, tin, sống và làm theo những gì mà Đức Ki tô đã giao ước với chúng ta
thì sẽ được hưởng ơn thánh cứu độ. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Thật
vậy, tin vào Chúa và những gì Ngài thực hiện cho chúng ta đã là khó, còn làm
theo những gì mà Chúa đã nêu gương lại càng khó gấp bội. Do đó, chúng ta hãy
xin Chúa ban cho chúng ta có con tim khiêm tốn, mở rộng, để chúng ta luôn cảm
nếm được tình thương tha thứ cứu độ của Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể mạnh
dạn dấn thân để sống tha thứ và yêu thương anh chị em mình như Chúa đã yêu
chúng ta. Amen.
Stephen Roche là một trong những tay đua xe đạp vĩ đại nhất của
Ailen. Giây phút tuyệt vời nhất của anh là trong ngày anh chiến thắng giải đua
vòng quanh nước Pháp vào năm 1980. Tuy nhiên, khi suy nghĩ về giây phút tuyệt
vời nhất của một người, chúng ta nghĩ gì về giây phút đó trong những điều kiện
rất phổ biến. Chúng ta nhận thấy đó là giây phút chiến thắng và vinh quang. Và
chúng ta có khuynh hướng nói về điều đó một cách khá thoải mái. Chúng ta chỉ
tập trung vào giây phút vinh quang, mà quên đi nhiều giây phút khác đưa đến
giây phút vinh quang này, đó là những giây phút của mồ hôi, máu và nước mắt.
Vinh quang không thể tách rời khỏi lao nhọc. Vậy thì lao nhọc là một phần của
vinh quang.
Đức Giêsu cũng nói về “Giờ của Người”. Người nói về giờ này đến
mấy lần, trong suốt sứ vụ công khai của Người. Nhưng Người luôn luôn nói như
thể giờ đó chưa xảy đến. Tuy nhiên, trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Người lại nói
rằng cuối cùng, giờ đó sắp diễn ra. Ý Người muốn đề cập đến loại giờ gì vậy? Đó
là giờ chết của Người. Đó là giờ mà Người tự trao ban chính bản thân Người, như
một sự hy sinh trọn vẹn thân mình Người vì chúng ta. Theo quan điểm trần thế,
thì đó là một giờ phút của thất bại. Tệ hại hơn, người ta còn coi như đó là
giây phút của ô nhục và đáng khinh miệt. Nhưng bằng cách cho Người sống lại từ
cõi chết, Thiên Chúa đã biến chuyển thành giây phút của chiến thắng đối với Đức
Giêsu, và một giây phút của ân sủng đối với chúng ta. Đây là giây phút cao quí
nhất của Đức Giêsu. Đây là giây phút mà tất cả những gì Người đã thực hiện trên
trần thế đều được hoàn tất. Tất cả cuộc đời của Người đều đưa dẫn và chuẩn bị
cho Người đến với giây phút này.
Thời điểm xuống thấp nhất lại chứng tỏ rằng đó là một thời điểm
biến chuyển. Đây là một nghịch lý lớn lao. Giây phút chết đi là giây phút xuống
đến tận cùng, tối tăm nhất và đau đớn nhất trong cuộc sống của một hạt giống.
Tuy nhiên, đây chính là giây phút sự sống mới được nảy sinh.
Đối với chúng ta, cũng tương tự như vậy. Những khi tinh thần của
chúng ta xuống đến mức thấp nhất, vẫn có thể chứng tỏ rằng đó là những thời
điểm biến chuyển. Những giây phút thành công vĩ đại sẽ sớm phai tàn, và thường
để lại nỗi trống trải trong tâm hồn con người. Trái lại, những giây phút tối
tăm, yếu đuối và thất bại lại có thể chứng tỏ rằng đó là những giây phút của sự
thay đổi và phát triển lớn lao – chẳng hạn như một người nghiện rượu bị sa đọa
đến tận cùng rồi, nhờ ơn Chúa đã được biến đổi cuộc đời.
Khi suy niệm về giây phút tuyệt vời nhất đối với Đức Giêsu, sẽ
giúp chúng ta biết đánh giá cuộc sống của mình một cách khác hẳn. Nhìn lại cuộc
đời mình, chúng ta sẽ nhận thấy rằng những sự kiện dường như thất bại lớn, lại
đều là những lúc hình thành nên cuộc sống mà chúng ta có hiện nay. Chúng ta
không thể tách rời những điều đụng chạm đến chúng ta với những điều giúp ích
cho chúng ta.
Để có thể tồn tại được trong lúc tinh thần bị sa sút, đòi hỏi
chúng ta phải có nhiều lòng tin. Lòng tin bao hàm việc gieo trong nước mắt.
Chúng ta sẽ không thể chịu đựng nổi, trừ phi có một niềm hy vọng âm thầm pha
lẫn trong nỗi buồn của chúng ta: đó là niềm hy vọng rằng sau những năm tháng
phấn đấu, mùa gặt sẽ đến. Vào một lúc nào đó, chúng ta không thể nhận thấy được
điều này. Chúng ta chỉ có thể thấy được khi hồi tưởng lại mà thôi.
Van Gogh nói “Việc hội họa đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì
ngay từ lúc đầu, người ta không thể biết được rằng công việc đó sẽ thành công.
Trong những năm đầu phấn đấu đầy gian khổ, công việc này thậm chí còn có thể là
một việc gieo trong nước mắt. Nhưng chúng tôi sẽ kềm chế những giọt nước mắt
đó, bởi vì chúng tôi có một niềm hy vọng âm thầm về một mùa gặt trong một tương
lai xa xôi”.
Không chỉ công việc hội họa mới đòi hỏi người ta phải có nhiều
lòng tin; cuộc sống cũng đòi hỏi phải có nhiều lòng tin, bởi vì cuộc sống
thường bao hàm việc gieo trong u sầu, trong cảnh tối tăm, và đôi khi, hầu như
trong thất vọng nữa. Nhưng nếu biết gieo vãi điều thiện hảo, thì chúng ta sẽ
được hưởng một mùa gặt, và được gặt hái trong niềm vui, một niềm vui khiến cho
tất cả nỗi đau biến thành ngọt ngào, giúp chúng ta chịu đựng được trong suốt
thời gian gieo vãi. Tác giả Thánh Vịnh nói “Ai nghẹn ngào ra đi gieo giống, mùa
gặt mai sau khấp khởi mừng. Họ ra đi, đi mà nức nở, mang hạt giống vãi gieo;
lúc trở về, về reo hớn hở, vai nặng gánh lúa vàng” (Tv 126, 5-6).
Cuối cùng, điều tốt sẽ chiến thắng. Sự sống sẽ chiến thắng. Thiên
Chúa có tiếng nói sau cùng.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Giao Ước vĩnh cửu được ký kết trong thập giá Đức Kitô.
Kính thưa quý anh chị em,
Lịch sử cứu độ được dệt bằng những giao ước giữa Thiên Chúa và
dân. Khi chứng kiến muôn vàn giao ước, người ta tự hỏi lý do tại sao lại nhiều
như vậy ? Câu trả lời rút ra từ kinh nghiệm sống của dân :
Thiên Chúa trung thành trong lời hứa và thánh thiện giữ lời giao
ước đến muôn đời. Về phía dân, bất nghĩa và bất tín trung, luôn vi phạm lời cam
kết giao ước, nên phá hỏng giao ước đã thiết lập.
Lập lại giao ước mới là bằng chứng của lòng thương xót và hay tha
thứ của Cha trên trời, không muốn con người phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám
hối và được sống.
Đếm số lượng giao ước là cách tuyên xưng tình yêu thủy chung, vững
bền Thiên Chúa “Tình yêu và sự sống” ban tặng, để thế gian được sống và sống
dồi dào.
Không có giao ước nào mà không nhằm ban tặng và phong nhiêu sự
sống.
Khởi đầu lịch sử cứu độ, Chúa giao ước với Abraham, khi ban cho
ông đất làm phần gia nghiệp, ban con cháu đông như sao trời cát biển và nhất là
được Chúa ở cùng, với điều kiện ông phải vâng giữ lời Chúa. Khi vâng phục thánh
ý Chúa, Abraham được kể là người công chính, được hưởng mọi phúc lành.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày một giao ước chung cục, “giao
ước mới” được thực hiện trong thập giá, kí kết bằng : “Máu giao ước vĩnh cửu”,
để nhiều người được cứu độ.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Gê-rê-mi-a, phác họa một viễn tượng
về thời đại Đấng cứu thế, sẽ thực hiện một giao ước mới mẻ hoàn toàn, không
giống như những giao ước cũ. Những giao ước cũ này luôn luôn bị vi phạm, bị hủy
bỏ, vì cớ tội lỗi của dân.
Giao ước mới được thực hiện trong Chúa Giê-su, là Thiên Chúa thật
và là người thật, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Cái mới mẻ của
giao ước Giê-su là sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha : “vâng lời và vâng lời
cho đến chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa siêu tôn Người, và ban danh hiệu
trổi vượt trên mọi danh hiệu” (Phl 2, 4 – 8).
Đấng thực hiện giao ước mới sẽ khắc ghi luật Chúa vào lòng dạ, vào
tâm khảm con người, sẽ đặt thần khí mới vào lòng họ, để thay thế con tim chai
đá, nhờ đó họ mau mắn nhận biết Chúa, được Người tha thứ mọi tội lỗi của chúng.
Lời sấm của Giê-rê-mi-a ứng nghiệm trọn vẹn nơi Chúa Giê-su, vị
Thiên Chúa/Người, được đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Bài Phúc Âm diễn tả cách thức Giê-su thực hiện giao ước : tự hiến
trong vâng phục. Hy tế thập giá không còn là hình phạt, mà trở thành bàn thờ
tôn vinh Thiên Chúa.
Sự tôn vinh nơi thập giá đảm bảo hai chiều kích :
Giê-su tôn vinh Cha bằng sự vâng phục cho đến chết. Cái chết trong
tư cách con người của Giê-su làm chứng : con người có thể yêu mến Chúa trên hết
mọi sự và dám chết cho Thiên Chúa. Hành động tôn vinh, trong tình yêu vâng
phục, là tuyệt đối đẹp lòng Cha hơn cả.
Chúa Cha tôn vinh Giê-su bằng cách đón nhận lễ hy sinh, cho Ngài
sống lại từ trong cõi chết, đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, đặt làm trung
gian giữa Thiên Chúa và loài người, để Giê-su ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Đó
chính là “Giờ tôn vinh” Giê-su tuyên bố trong Tin Mừng.
Giao ước thập giá trổi vượt trên tất cả, mới mẻ, trường cửu và ban
chiến thắng “chung cục” : hận thù được hòa giải, tội lỗi được tẩy sạch, thủ
lãnh thế gian bị xét sử, sự chết bị đập tan. Nhờ thập giá, mọi phúc lành thiêng
liêng trên trời được ban tặng như suối nguồn tuôn đổ ngập lút thế gian.
Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, nhấn mạnh chiều kích
vâng phục và tự hạ của Đức Giê-su, là nền tảng của ơn cứu độ. Khi còn sống kiếp
phàm nhân, Giê-su dãi dầu học cho biết vâng phục qua những đau khổ xẩy đến, đã
đạt tới mức thập toàn và nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng
phục Người.
Vâng phục trong mọi sự, đạt mức thập toàn nhất thiết phải xảy ra
nơi thập giá, vì chỉ trong thập giá, trong sự chết, mới chứng tỏ sự vâng phục
đến cùng.
Nội dung của bài đọc II là lời tuyên xưng giao ước mới, vĩnh viễn
và rộng khắp, ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Tác giả đoạn thư Do Thái giúp củng
cố đức tin vào biến cố thập giá, không phải hổ thẹn vì cớ Đấng chịu đóng đinh,
nhưng hãy luôn tự hào, vì đó là sự khôn ngoan, là ân phúc cứu độ trần gian.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy luôn vững lòng tin
tưởng cậy trông vào Thiên Chúa, Đấng giầu lòng xót thương, nhẫn nại đến kinh
ngạc trong việc giáo hóa con người. Giao ước là bằng chứng Chúa dùng mọi phương
thế để giữ gìn sự sống trần gian.
Chiều dài giao ước là sự sửa soạn tâm lòng con người đón nhận Đức
Kitô, Đấng thực hiện giao ước vĩnh cửu trong sự chết và sự phục sinh, bằng hình
thức trao đổi diệu kỳ : Chúa chấp nhận đau khổ, để chúng ta được chữa lành,
chấp nhận tù tội, để chúng ta được giải phóng, chấp nhận bị kết án, để chúng ta
được giải án tuyên công, chấp nhận cái chết thập giá, để chúng ta được phục
sinh vinh hiển.
Vậy chúng ta hãy đón nhận giáo huấn và đem ra thực hành bằng một
đời sống đượm tình mến thương, mới thực sự bước đi trong ánh sáng của mùa cứu
độ.
Nhiệt tâm làm việc thiện, chu toàn bổn phận trong vui vẻ là sống
đức tin bằng việc làm. Chỉ những ai thực hành như vậy mới được kể là người khôn
ngoan, đáng được Chúa chúc lành, cho gia nhập đoàn dân thánh hưởng tình yêu và
sự sống thật, sự sống muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Lâm Thái Sơn)
CHÚNG TÔI MUỐN ĐƯỢC GẶP ĐỨC GIÊSU
Theo như Phúc Âm hôm nay, trong số những người lên Giêrusalem thờ
phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp “muốn được gặp Chúa Giêsu”. Họ đến từ
một đất nước phát sinh những suy luận, triết thuyết, nghệ thuật và thần thánh
đa dạng, dĩ nhiên họ muốn gặp Chúa Giêsu không vì tính hiếu kỳ, nhưng có lẽ vì
không thỏa mãn trong việc tìm kiếm “chân thiện mỹ“ dựa vào triết lý, hay vì các
tín ngưỡng không giúp họ đạt đến sự tuyệt đối thỏa đáng.
Họ đến thờ phượng Thiên Chúa trong dịp đại lễ của người Do Thái.
Tuy nhiên kỳ đại lễ này đã bị khuấy rối bởi nhiều tin đồn đáng ngại cộng thêm
cuộc biểu tình của dân chúng: gần đây tin đồn Đức Giêsu đã cải tử hoàn sinh ông
Ladarô gây hoang mang cho các bậc Thượng tế trong Đền Thờ và làm cho nhiều
người bỏ họ mà chạy theo Đức Giêsu; thêm vào đó, Ngài còn được toàn dân ủng hộ
đón rước như một vị Vua với những lời tung hô “vạn tuế Vua dân Do Thái, chúc
tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!”. Các sự việc này gây phẫn nộ và tạo cơ hội
cho đám người Pha-ri-sêu thực hiện chương trình mưu sát kẻ xách động quần
chúng. Đến lúc phải chọn lựa: đối với đoàn kỳ mục, các thượng tế và kinh sư thì
vụ án này được chấp thuận; còn dân chúng thì lập trường hay thay đổi (nay ủng
hộ, mai đả đảo); và ngay cả trong giới lãnh đạo Do Thái cũng có một số người đã
tin vào Đức Giêsu, nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pharisêu khai trừ khỏi
Hội Đường, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa
(Ga 12,43).
Chính trong bối cảnh này mà có mấy người Hy Lạp đề nghị ông
Philípphê và Anrê dẫn họ đi gặp Chúa Giêsu. Đức Giêsu là ai? Vị ngôn sứ này là
người thế nào (?) mà có biết bao lời đồn đãi xấu có tốt có làm phấn khởi giới
hạ lưu và làm run chuyển giới lãnh đạo buộc những người này phải ra tay đối
phó. Cho dù tình trạng có sôi động cũng không ngăn cản đuợc ý định của những
nhà thám hiểm điều vô tận: họ muốn được nhìn tận mắt, nghe tận tai, thấu hiểu
sứ điệp cũng như những công trình và dấu chỉ xác thực kể cả bản thân của vị
ngôn sứ đó! Họ đến thật đúng lúc, vì đã đến giờ kết thúc sứ mệnh: đấy là giờ
của sự thật, giờ mà tội lỗi của trần gian dẫn đưa Đức Giêsu đến thập giá, và
cũng là giờ mà thập giá đó lại trở thành bệ ngai của vinh quang.“Đã đến giờ Con
Người được tôn vinh“. Tuy Phúc Âm không nói đến phản ứng của những người Hy Lạp
này, nhưng luận thuyết của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời mới về
sự sống vĩnh cửu: “hạt lúa gieo vào lòng đất sẽ mang lại nhiều hạt khác“ và
“khi Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất thì Ngài sẽ kéo mọi người lên
với Ngài“.
Qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại
biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu tột độ, vì “không có tình yêu
nào cao trọng bằng dâng hiến mạng sống cho người mình yêu“. Luật chủ yếu của
Thiên Chúa là luật của hạt lúa: “nếu hạt được gieo vào lòng đất mà không chết
đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác“. Chúng ta không cần suy nghĩ viễn vông mà chỉ cần đặt mình trước Thập giá
và nhìn ngắm, lúc đó ta sẽ hiểu thế nào là yêu thương thật sự, thế nào là chết
đi để phát sinh sự sống; cũng như ta cứ gieo hạt vào lòng đất và chờ đợi nó mọc
lên cây thì sẽ hiểu thế nào là đau thương trong gieo vãi và gặt hái trong hân
hoan; cũng như các Thánh nhân hoặc những anh hùng: họ hy sinh vì chân lý, tranh
đấu cho chính nghĩa, tuy chết đi nhưng vẫn sống mãi trong lòng Giáo Hội và Dân
Tộc, ngàn đời Lịch Sử vẫn truyền tụng họ. Vì thế, cái chết thật sự không phải
là cái chết thể chất mà chính là từ chối yêu thương, không biết hy sinh chỉ
sống lẻ loi ích kỷ “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường
mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời“
Muốn thật sự đứng về phía sự “sống”, ta nên hành động như những
người Hy Lạp kia luôn khát khao tìm kiếm chân thiện mỹ, tức nhiên “phải tìm gặp
Đức Giêsu”. Cần tận dụng tất cả trí khôn tâm sức để hiểu biết, yêu thương và
phục vụ, sống không vì lề luật tỉ mỉ hình thức, nhưng vì một Người, Đấng đang
kêu gọi và sai đi, đang đối thoại và sống hiệp thông. Phải thành tín và đam mê,
ta mới thiết lập được với Thiên Chúa một giây liên đới tâm đầu ý hiệp, như lời
Thánh Vịnh hôm nay: “xin Chúa dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan… xin tạo cho con
một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy”
Chúng ta có phải thuộc về nhóm người muốn đi gặp Đức Giêsu? Tuy
nhiên, ai đã tìm gặp Ngài cũng vẫn còn phải tự chất vấn, bởi vì: giới
Pha-ri-sêu đã thấy và nghe nhưng không tin theo Ngài; bậc kỳ mục đã tin nhưng
không dám nhìn nhận Ngài; dân chúng đã tin và theo Ngài nhưng không đi đến
cùng.
“Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Ta nên thường xuyên đến gặp
gở Ngài qua các Bí Tích, qua việc học hỏi Phúc Âm để khám phá điều mới lạ và
chấp nhận dấn thân trong một thế giới và thực tại mà Ngài muốn cho ta khám phá.
Bước theo Ngài là chấp nhận những nguy cơ mà chính Ngài đã đảm lấy, từ sự hiểu
lầm của những tín đồ đến sự chống đối và lên án của giới hữu trách. Dấn thân
theo Ngài là chết cho những tham vọng ích kỷ, tư lợi vật chất, dự tính phàm
trần, chết cho những gì gọi là ưu tiên của riêng mình nhưng lại quá xa cách
những hệ trọng cấp bách Phúc Âm. Ta phải chọn hoặc thủ lãnh thế gian hoặc Đấng
đã bị đóng đinh. Chắc hẳn đến một lúc nào đó, sẽ có người đến hỏi chúng ta, như
những người Hy Lạp đến hỏi Philípphê và Anrê “chúng tôi muốn được gặp Đức
Giêsu”. Vậy chúng ta sẽ có đề nghị gì cho những người đó?
Trong bài đọc 1, tiên tri Giêrêmia đã tiên báo: Chúa sẽ thiết lập
giao ước mới với nhà Israel và nhà Giuđa. Giao ước đó làm cho Ngài trở thành
Chúa của họ, và họ sẽ là dân riêng của Ngài. Giữa cảnh lưu đày biền biệt nơi
đất khách quê Người, còn thành thánh Giêrusalem thì bị hoang tàn, tiên tri
Giêrêmia đã khơi lên cho họ niềm hy vọng lớn lao, Thiên Chúa sẽ quên đi lỗi lầm
của họ, Ngài sẽ ký kết với họ một giao ước mới, giao ước tình yêu. Chúa Giêsu
chính là Đấng thiết lập giao ước mới đó.
Trong bài Tin Mừng, thánh Gioan kể lại, khi có một số người Hy lạp
đến tìm Chúa Giêsu, Ngài vui mừng thốt lên ” đã đến giờ Con Người được tôn vinh
một khi được gương lên cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi “.
Tại sao Chúa Giêsu lại vui mừng hớn hở như thế? Có phải rằng vì Chúa Giêsu biết
đằng nào mình cũng phải chết, nên chết quách cho rồi không? Không phải thế,
không phải Chúa Giêsu ” ham chết sợ sống ” như thế đâu. Tâm trạng vui mừng của
Chúa Giêsu, cho ta thấy tấm lòng của Ngài. Ngài đã chờ đợi, đã mong muốn đến
ngày này để Ngài thiết lập một Giao ước mới, Giao ước Tình yêu với nhân loại.
Để nhờ đó nhân loại được ơn cứu độ. Ơn làm cho con người trở thành con Thiên
Chúa, được thừa hưởng Nước Trời.
Nhưng trong thân phận con người, Chúa Giêsu cũng lo sợ trước cuộc
khổ nạn Ngài phải chịu ” lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ
này mà Con đến “. Tâm trạng vừa vui mừng vì ơn cứu độ sắp được thực hiện, vừa
lo sợ trước cái chết, dằn vặt tầm hồn, làm Chúa Giêsu xao xuyến trong lòng.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2, đã mô tả tâm trạng và cái chết của
Chúa Giêsu: Chúa Giêsu đã lớn tiếng và rơi lệ mà dâng lời khẩn nguyện lên Đấng
có quyền năng cứu Người khỏi chết, Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trãi
qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi bản thân tới mức
thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục
Người.
Chúa Giêsu chính là ” hạt lúa gieo vào lòng đất, có chết đi, mới
sinh nhiều hạt khác “. Chúa Giêsu không chỉ chết đi một lần trên thập giá,
nhưng thập giá chính là đỉnh cao; Chúa Giêsu vốn là Con Thiên Chúa, là Chúa
thật, nhưng đã “chết đi ” để mặc lấy thân xác con người, một người nghèo không
có một nơi đàng hoàng để sinh ra. Phải chạy trốn trước sức mạnh và uy quyền của
Hêrôđê. Vốn là Chủ tể của vũ trụ, Người đã từ bỏ mọi sự, chọn lấy sự thiếu thốn
và nguy hiểm, sống trong âm thầm, khiêm nhượng. Khi bước vào cuộc sống công
khai rao giảng, Chúa Giêsu chọn một đời hoạt động bấp bênh, Ngài đã trãi qua
mọi hoàn cảnh, bị khước từ, bị công kích, bị chụp mũ ” Ngài hoạt động với hai
bàn tay trắng con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi
gối đầu “. Cuối cùng Chúa Giêsu đã chọn cho mình cái chết đau thương, nhục nhã
nhứt làm đỉnh cao cho “sự chết đi” của Ngài.
Chúng ta đang bước theo Chúa Giêsu, chúng ta hãy cám ơn Chúa vì
tình yêu lớn lao Chúa đã dành cho chúng ta, Chúa không ngừng tha thứ cho chúng
ta dù chúng ta cứ mãi phạm tội. Trong tâm tình của Mùa chay chúng ta hãy học
nơi Chúa Giêsu bài học “chết đi” mỗi ngày với những tánh hư, tật xấu, những ham
muốn bất chính, những tội lỗi của chúng ta để mỗi ngày chúng ta trở nên giống
Chúa hơn. Để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Chúa.
(Viết theo Flor Mc Carthy)
Người ta quan niệm rằng: Người hùng là người cứng rắn không bao
giờ tỏ ra sự yếu đuối của mình, hay tỏ ra bất lực, nghi ngờ về một vấn đề quan
trọng. Họ luôn tự tin trong mọi công việc cũng như tỏ ra không bao giờ sợ hãy.
Vì họ quan niệm rằng: anh hùng thì phải mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh và dũng
cảm, không hề nao núng. Nhưng thật ra anh hùng không phải như thế.
Chuyện kể rằng Martin Luther King là một nhà lãnh đạo trong cuộc
nội chiến Mỹ. Vì chính nghĩa nên ông ta đã gặp nhiều khó khăn, đến nỗi nhiều
lần ông lưỡng lự và không còn tự tin để quyết định. Vì ông ta biết rằng, nếu
ông tiếp tục tranh đấu có thể ông ta sẽ bị tù tội, lăng nhục và có thể đe doạ
đến tính mạng. Đúng như ông dự đoán, người ta đã ám sát ông.
Trong suốt thời gian tranh đấu. Nhiều lúc, ông cảm thấy xuống tinh
thần tinh thần và chán nãn vì nhà thì bị ném bom, gia đình phải ly tan. Bản
thân ông hoàn toàn sụp đổ. Ông chán nãn và lòng tự trọng bị tổn thương. Trong
tình trạng kiệt sức và thất vọng, ông ta đã quỳ gối trước mặt Chúa và cầu nguyện:
“Lạy Chúa, con đang tranh đấu cho những gì con tin là đúng. Nhưng giờ đây con
cảm thấy sợ. Mọi người nhìn con với tư cách như là một nhà lãnh đạo. Nếu con
hiện diện trước mặt họ với một tâm thế yếu đuối và sợ hãi thì họ sẽ loại trừ
con. Nhưng giờ đây con đã kiệt sức. Con không thể bước thêm được nữa và không
thể đối mặt với bất cứ điều gì. Ông ta nói rằng: “Giây phút lắng động mà ông đã
trãi qua trước mặt Chúa đã khiến ông nói lên nnhững lời mà ông chưa bao giờ nói
được.”. Nhờ đó mà ông đứng vững và tiếp tục chiến đấu.
Martin Luter King, quả thật không kém một anh hùng. Vì ông ta đã
tỏ ra mình không phải được dựng nên bằng đá. Anh hùng, người mà không bao giờ
tỏ ra mình yếu đuối và nao núng thì không đáng tin.Và họ cũng không dáng kể ta
chiêm ngưỡng, và nhận như một tấm gương để sống. Vì chúng ta không nhận ra sự
thật về con người họ mà ta bắt chước. Trái lại, khi chúng ta gặp một người nào
mà họ luôn lo lắng trước những định mệnh, và nhận ra nơi họ sự sợ hãi, chúng ta
cảm thấy những người như vậy là đáng tin hơn. Các vị thánh cũng như các vị anh
hùng tử đạo, họ chưa bao giờ cảm thấy mình có khả năng như vậy. Chúng ta yêu
mến và thích nhìn ngắm những con người đằng sau sự anh hùng của họ.
Chính Chúa Giêsu đã không đi đến cái chết với sự tự tin và hoàn
toàn quả quyết. Có những lúc tinh thần của Người xuống đến tột đĩnh như trong
vườn Giêtsêmani khi linh hồn của người chìm sâu vào những nỗi khắc khoải khiến
Ngài phải thốt lên: “Linh hồn Thầy xao xuyến”. Thánh Gioan đã không tường thuật
sự đau đớn của Chúa Giêsu trong vườn Giếtsêmani trong Tin Mừng của Ngài. Nhưng
chúng ta bắt gặp một âm thanh vang dội trong Tin mừng ngày hôm nay khi Chúa
Giêsu nói: “Linh hồn Thầy xao xuyến.”
Đây quả thật là một sự an ủi và khích lệ chúng ta. Vì nó cho thấy
Đức Giêsu cũng là một con người thật nên Ngài cũng có những lúc yếu đuối và sợ
hãi như chúng ta. những nỗi sợ hãi ập đến làm cho Ngài vô cùng buồn bả đến nỗi
mồ hôi đã đỗ ra như những giọt máu. Ngài không nhìn cuộc thương khó và cái chết
với một con tim gỗ đá. Vì Ngài cũng khiếp sợ. Nhưng bởi sức mạnh nào đã làm cho
Ngài phải đương đầu, chấp nhận và chiến thắng nó. Phải chăng Ngài đã nhận sức
mạnh từ những phút giây cầu nguyện và từ Thiên Chúa? Người ta quan niệm: ” Can
đảm là sợ hãi được nói lên trong khi cầu nguyện.”
Chúng ta không phải là người nếu chúng ta không cảm thấy sợ khi bị
đe doạ trước những gì nguy hiểm. Can đảm không phải là không bao giờ cảm thấy
sợ hãi. Nhưng chính khi cảm thấy sợ hãi nhưng tiếp tục vượt qua mới là can đãm
thật. “Một người không biết sợ thì không phải là anh hùng, nhưng anh hùng là
người biết vượt qua nỗi sợ”. (Solzhenitsyn)
Sự đau đớn của Chúa Giêsu trong vườn cây dầu đã cho chúng ta một
lời an ủi và một niềm hy vọng trong khi chúng ta đương đầu với những khó khăn.
Chúng ta không cần phải giả vờ là chúng ta được dựng nên bằng đá. Chúng ta cũng
không cần phải dấu những yếu đuối và sợ hãi của mình. Như Chúa Giêsu, chúng ta
hãy hướng về Thiên Chúa bằng những lời cầu nguyện chân thành. Và phải nhìn nhận
rằng: chúng ta cũng cần có người để an ủi. Như Chúa Giêsu đã choọn Phêrô,
Giacôbê và Gioan để họ cùng đi cầu nguyện với Người.
(Suy niệm của Lm Nguyễn Minh Hùng)
HẠT LÚA MÌ GIEO XUỐNG ĐẤT
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi
một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sinh nhiều bông hạt”. Lời
Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới các thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để hạt
giống đức tin sinh nhiều hoa trái. Giáo Hội Việt Nam, chỉ là một Giáo Hội còn
non trẻ, đã hiến dâng bao nhiêu người con suốt ba thế kỷ bắt đạo, cho đến nay,
con số ấy vẫn không ai biết chính xác. Bất cứ ở đâu trên mảnh đất châu Á này,
nếu Đức tin được rao giảng, thì ở đó lại thấm đẫm dòng máu các anh hùng Tử đạo.
Con số các thánh Tử đạo càng tăng lên theo cấp số nhân nếu ta quay nhìn cả Giáo
Hội hoàng vũ qua mấy ngàn năm nay. Hình như không có thời buổi nào, không có
thế kỷ nào, không có Giáo Hội địa phương nào mà không bắt đầu được sinh ra từ
máu Tử đạo. Những năm gần đây, Đức Thánh Cha đã phong khá nhiều vị thánh, hầu
hết các vị thánh ấy là các thánh Tử đạo của thời đại mới. Máu các thánh Tử đạo
cứ tiếp tục đổ xuống, càng đổ bao nhiêu, đức tin càng lớn, sức sống của Giáo
Hội Chúa Kitô càng căng tràn và mạnh mẽ bấy nhiêu. Chúa Kitô, Hạt Lúa Mì Anh
Trưởng đã rơi xuống đất, làm nảy sinh vô vàng hạt lúa, và những hạt lúa từ thời
đại này sang thời đại khác cứ tiếp tục trổ sinh bông hạt. Bởi thế có một nguyên
tắc rất kỳ diệu, rất nhiệm mầu, nhưng đã trở nên rất bình thường: Giáo Hội càng
bị bắt bớ khốc liệt, người Công Giáo càng bị giết hại đẫm máu, thì Giáo Hội
càng sống mãnh liệt và mau chóng lan rộng, đức tin của người Công Giáo càng
được tôi luyện và trưởng thành bấy nhiêu.
Trong xã hội cũng có bao nhiêu vị anh hùng hiến dâng mạng sống vì
công lý, vì hòa bình. Năm 1968, cả thế giới chấn động khi nghe tin Mục sư
Martin Luther Kinh, người đã đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng của
người da đen bị sát hại. Năm 1995, cả thế giới sững sờ thương tiếc thủ tướng
Israel, ông Y Rabin, bị người Dothái quá khích giết. Họ không chấp nhận đường
lối ôn hòa của ông đối với người Palestin.
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn xúc động nhớ lại cái chết của
ông Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc An, đã từng bị một thanh niên An
giáo quá khích sát hại. Anh ta không chấp nhận việc ngài đã tha thứ và dạy hãy
tha thứ cho người Hồi giáo. Và còn biết bao nhiêu người vì tình yêu con người,
tình yêu đồng loại đã hiến dâng mạng sống như thế. Họ đã chết nhưng tên tuổi,
sự nghiệp của họ vẫn sống muôn đời.
Các thánh tử đạo và những tâm hồn xây dựng hòa bình ấy chính là
hình ảnh của hạt lúa mì được gieo trong lòng thế giới. Hoa quả của đức tin, hoa
quả của hòa bình đang tươi nỡ khắp nơi trong Giáo Hội và trên thế giới.
Ngày nay có biết bao anh chị em nhìn vào tấm gương của các ngài mà
dấn thân xây dựng, gìn giữ, bảo vệ đức tin và kiến tạo hòa bình, làm nảy sinh
tình yêu khắp nơi, quên cả sức lực, quên cả bản thân để danh Chúa rạng ngờ,
Nước Chúa trị đến, cuộc sống bình an, thịnh vượng hơn. Những năm gần đây, đa số
những vị được phong thánh là các vị tử đạo của thời đại mới. Hóa ra, những hạt
lúc mì cứ rơi xuống, rồi lại sinh hoa kết quả, hết lớp này đến lớp khác. Ngày
nào đức tin còn bị bắt bớ, thế giới vẫn tồn tại bất công, sự sống bị chà đạp,
ngày ấy vẫn còn những hạt lúa mì rơi xuống và vô vàn bông lúa mì trỗ sinh.
Chúa Kitô, Đấng đã sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, và sống
lại vì tình yêu, luôn là mãnh lực cuốn hút muôn người hiến dâng mạng sống, và
lưu danh ngàn đời. Chúa Kitô, hạt Lúa Mì cao cả làm trổ sinh vô vàn bông hạt
tươi tốt…
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Lời Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu nói đến Mầm sống lúa mới chỉ được
trổ sinh khi hạt húa thực sự bị hủy đi, khiến tôi nhớ đến một tư tưởng chi phối
khá mạnh nơi con người ngày nay là sự sống của các thai nhi mà Công đồng
Vaticanô II đã phải dùng một Thông Điệp để nói về sự sống. Vậy sự sống là gì?
Romain Rolland viết: “Sự sống là cái mà không thể dùng trí khôn và
con mắt mà nhận thức hay diễn tả. Sự sống là cái làm cho thụ tạo trở nên sống
động”. Nhìn một ngọn cây rung động, ta thấy nó chứa một sức sống mơn mởn vươn
lên. Nhìn con vật đùa dỡn trước sân cỏ, ta thấy có một sức đánh động nó ngó
ngoáy, ve vẩy. Nhìn con người ta lại thấy nó có một sức linh hoạt hơn nữa, khác
với loài cây cỏ, khác với loài động vật hay xác chết.
Các nhà bác học chỉ có thể giải thích được sự cấu tạo của vật thể,
chỉ có thể biết con người gồm có tim, óc, phèo, phổi…. Nhưng đến sự sống thì
con người bất khả thuyết minh.
Trong một cuộc triển lãn nghệ thuật, điêu khắc gia Michel Angelos
đã mất ngủ để suy nghĩ về câu nói của một nhà phê bình trứ danh, khi ông ngắm
nhìn pho tượng đá Môsê: “Pho tượng tuyệt tác, linh động, sắc sảo như người,
nhưng thiếu một điều…..”. Ba đêm trời suy nghĩ không ra, Michel Angelos xin đến
gặp nhà phê bình để hỏi cho ra lẽ. Nhà phê bình cười rồi bảo: “Bức tượng đá
đẹp, nhưng tiếc một điều là nếu nó có thêm chút sự sống nữa thì toàn vẹn”.
Angelos nghe xong lời ấy có vẻ bất mãn, liền nói lên cách tự nhiên: “Sự sống ai
mà tạo nên được”.
Ngày nay trong các phòng triển lãm đặc biệt tại Kansas City, tôi
đi tham quan, đến một gian hàng người ta chơi cái trò suy đoán “Thực hư”: Trong
gian phòng người ta trình bày 4 người đang ngồi đọc báo và mời các khách tham
quan nhận ra trong 4 người áy ai là thật ai lả giả. Nhiều người đoán cô gái tóc
đen là người thật, lại hóa ra cô là người giả. Nhiều người đoán cậu thanh niên
có đôi mắt xanh, tay có từng cái lông tơ là người giả, lại hóa ra chàng trai
thật 100%. Nhờ kỹ thuật vượt mức, người ta đã làm nên những vật không khác gì
vật thật, nhiều cái còn đẹp và tinh vi hơn cả vật thật nữa. Tôi trồng một vườn
hoa vào cuối mùa đông, có cắm xen lẫn một số bông hoa giả, nhiều người đã khen
tôi mát tay, khéo trồng hoa, đến mùa Đông rồi mà hoa còn nở tươi thật là tươi.
Có người phải rờ tay vào xem mới biết là hoa giả.
Sự sống thật là quí hóa, không ai tạo được, ngoại trừ Thiên Chúa.
Bác Sĩ, Lương Y không dám rút ngắn cơn hấp hối của bệnh nhân. Hình phạt lớn
nhất của tội nhân là tình phạt “tử hình”, cắt đứt sự sống của tội nhân. Liều
thuốc trường sinh vốn là liều thuốc tiên, là ước mơ của nhân loại. Vị
Hoàng Đế khét tiếng của Trung Quốc dạo chơi trên bờ Vạn Lý Trường Thành cùng
bày mỹ nữ và các quân thần, để ngắm nhìn công trình vĩ đại mình thực hiện, nhìn
ngắm sự hưng thịnh của đất nước được mình bảo vệ. Bỗng chốc ông òa lên khóc nức
nở. Các quan vấn an và hỏi căn do tại sao Hoàng Đế nhỏ châu lệ? Hoàng đế trả
lời: “Đất nước ta hưng thịnh, trù phú thế này, quê hương ta đẹp đẽ biết bao! và
dân ta hiền hòa thanh lịch…. Thế mà tuổi ta đã về chiều. Tiếc rằng ta không còn
sống được bao lâu để cai dân trị nước”. Một vì Đại Thần đứng phía sau cười nắc
nẻ, khiến vua bực tức hạch tội: “Tại sao ngươi cười ta?” Vị Đại Thần tâu: “Nếu
các vị Tiên Đế trước cứ sống lâu trên ngai, thì bây giờ đã đến phiên bệ hạ trị
nước chưa?”.
Được ngồi trên ngai mà ham ước sống đã đành, mà cả những người
nghèo khổ đói rách cũng ham sống nữa. Một trong những chuyện hay của Lã
Phụng Tiên có kể: Ngày đó một gã tiều phu già luống tuổi, đang ngồi nghỉ mệt
bên lề đường. Ông than cho kiếp con người ông bạc phước, đày đọa kiếp thân tàn,
làm ăn cực nhọc cả đời. Ông muốn chết cho xong kiếp sống lầm than. Bỗng thần
chết xuất hiện giúp ông thực hiện ý muốn. Vừa trông thấy thần chết cầm hái từ
thần, ông nhanh trí đánh trống lảng: “Xin nhờ Thần đưa giúp tôi bó củi lên vai,
nghỉ lâu quá rồi”. Bước đi mau chân ông lão không dám ngoái cổ lại nhìn sự thật
đàng sau.
Sự sống ai cũng nhận thức là quí, nhưng không hiểu được.
Sự sống không thuộc về trần gian, người trần gian không ai có thể
làm nên được. Cũng không ai phát sinh từ cục đá mà ra, nhưng từ ý muốn của Đấng
tạo thành. Chúa nặn con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi sinh khí vào, bỗng nó
trở nên sống động. Thân xác Lazarô chết 4 ngày đã lên mùi hôi thối, nhưng với
quyền năng của Chúa, Ngài đã cho nó trở lại trạng thái bình thường và cho sống
lại. Vật sống chính là sinh khí của Thiên Chúa, phát sinh từ Thiên Chúa. Ta
nghe tiếng “Chết” đầu tiên khi Chúa phán cùng Adam, Evà: “Khi nào các ngươi ăn
trái Ta cấm, các ngươi sẽ chết”, thế nhưng Adam, Evà ăn vô thể xác vẫn sống.
Ông bà Tổ Tông không chết theo cách ta hiểu là hết thở. Ông bà vẫn sống, vẫn
hoạt động, nhưng cái chết Chúa tuyên án đây là: Mất sự tương giao với Thiên
Chúa, là bẻ gẫy, là cách xa Thiên Chúa. Con người phạm tội đã chết trong một
hình thức sống.
Tai điếc là tai chết, mặc dù tai vẫn còn, âm thanh vẫn còn, nhưng
không còn tác dụng với tai nữa, không còn liên lạc giữa tai và âm thanh nữa.
Tai điếc là tai đã chết. Người mù cặp mắt vẫn còn, màu sắc, ánh sáng vẫn có,
nhưng ánh sáng và màu sắc không còn tác dụng với mắt. Mắt đã chết. Cũng thế,
con người là loài sinh linh hiện hữu, con người vẫn sống đầy mặt đất, Thiên
Chúa vẫn là Thiên Chúa hằng hữu, Ngài vẫn hiện hữu trên chúng ta, nhưng con
người và Thiên Chúa không còn liên lạc, không còn tác dụng với nhau nữa, vì sự
tội đã phá vỡ sự tương quan đó. Con người chết. Nhưng lòng thương Chúa không bỏ
con người, Ngài ban Con Một Ngài xuống trần làm nhịp cầu nối lại tình liên đới
cha con. Đó là ý nghĩa đích thực khi Ngài phán: “Ta là sự sống”. Do đó kẻ tin
và đón nhận thì dù có chết cũng được sống. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng
ta đã chết trong cái xác sinh động còn sống thôi. Cái chết theo chúng ta hiểu
là một sự thay đổi hình thức. Chết là cánh cửa đóng lại với bên này và mở ra
cho đời sau. Chết là con đò chở người từ bến đời này qua bến đời sau. Nếu ta
phạm tội đời này thì con đò cũng chở chúng ta về bến xa Chúa là địa ngục. Nếu
chúng ta được ân nghĩa với Chúa ở đời này, thì cửa mở ra cho đời sau là cửa ân
nghĩa thiên đàng.
Con người vốn thiết tha với cõi đời này là vì nó thực tế, nó hiển
nhiên. Con người sợ đời sau vì nó mập mờ, không biết đến bến nào. Nhưng nếu ta
chỉ sống có cái xác trên trần gian thôi, thì chưa phải là sống thực. Vậy phải
ráng có sự sống thực, có Chúa Kitô là sự sống, có lề luật là thành lũy tránh sự
dữ, có yêu thương nhau làm bảo đảm sự sống ở đời này và bảo đảm sự sống vui của
đời sau. Ước gì chúng ta luôn sống trong thể xác linh động này, sống trong bình
an của tâm hồn, sống trong ân phúc liên đới mật thiết với Chúa, để khi dù thân
xác ta chết, ta vẫn được sống đời đời. (Jn. 12:20-33) 3-2003
(Suy niệm của Lm. Minh Vận)
Vào một đêm giông bão, gió thổi mịt mù, mưa rơi như trút, một ông
già với bà vợ chạy vào văn phòng của một khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Ông già
tỏ dấu khiêm tốn nhã nhặn hỏi viên thư ký: “Anh có thể cho chúng tôi một phòng
nhỏ không? Vì tất cả các khách sạn lớn đều đã chật rồi”. Viên thư ký trả lời:
“Thưa ông, tất cả các phòng đều đã có người mướn, nhưng tôi không thể để cho
những người dễ thương và đáng kính như ông bà phải ra đi trong mưa gió vào lúc
một giờ sáng như thế này được. Ông bà có thể ngủ trong phòng của tôi”. Ông
khách vội hỏi lại: “Thế thì cậu ngủ ở đâu?” Viên thư ký đáp: “Thưa, ông đừng
lo, tôi sẽ tự liệu mà”. Vừa nói, viên thư ký trẻ vừa dẫn hai ông bà khách lên
phòng của mình. Sáng hôm sau, khi xuống trả tiền phòng, ông khách nói với viên
thư ký đã nhường phòng cho mình: “Cậu là viên thư ký quảng đại, đáng làm quản
lý một khách sạn lớn nhất của Hoa Kỳ. Có lẽ mai ngày, tôi sẽ xây khách sạn đó
cho cậu”.
Hai năm sau, viên thư ký trẻ này nhận được một bức thư, kèm theo
một vé máy bay khứ hồi đi New York, với lời ghi chú của ông khách trong một đêm
mưa gió nọ tại Philadelphia, muốn gặp chàng tại New York. Khi chàng tới gặp ông
khách cũ, ông dẫn chàng tới một góc đại lộ số 5 đường 34, chỉ vào ngôi khách
sạn mới xây nguy nga đồ sộ và nói với chàng: “Đây là ngôi khách sạn tôi đã xây
cho cậu làm quản lý”. Nghẹn ngào vì cảm động, chàng thư ký trẻ tuổi tên là
George C. Boldt đó, chỉ biết lắp bắp lời: “Xin hết lòng cảm ơn ông”. Ông khách
già chủ ngôi khách sạn đó là William Walford Astoria. Và ngôi khách sạn sang
nhất trong thời bấy giờ là Walford Astoria.
1.
NGƯỜI CÓ CÔNG MỚI ĐÁNG THƯỞNG
Một sinh viên đại học, muốn vượt qua được các kỳ thi tuyển, muốn
đoạt được mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư, luật sư, muốn được thành công trong bất cứ
nghề nghiệp nào, một chức vụ nào trong xã hội, đều cần phải chuyên chăm học
hành, phải chịu khó, hy sinh, vất vả, phải thức khuya dậy sớm.
Một quân nhân, muốn được trọng thưởng, cần phải tham dự các cuộc
chiến thắng vẻ vang nơi các trận địa, và khải hoàn trở về với danh nghĩa một vị
anh hùng dân tộc, được dân chúng ca ngợi. Một sĩ quan quân đội, muốn chiếm được
những tấm huy chương vàng bắc đẩu bội tinh, với tấm bằng tưởng thưởng; hoặc
muốn được thăng quan tiến chức, cũng cần phải lập được nhiều thành tích vẻ
vang, nhiều chiến công oanh liệt.
Không khi nào người ta lại trọng thưởng cho những kẻ lười biếng,
những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ chơi bời lêu lổng. Trái lại, những ai càng
biết chịu khó, vất vả, hy sinh, chịu tủi nhục, càng lập được nhiều thành tích,
càng đáng được trọng thưởng, được tôn trọng, được tán dương. Vì công trạng bao
giờ cũng tương xứng với huân nghiệp đã lập.
1.
ĐỂ ĐƯỢC PHỤC SINH VINH QUANG
Chúa Kitô, trong bài Tin Mừng hôm nay đã quả quyết: “Quả thật, quả
thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi, thì
nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt”.
Cũng chỉ vì muốn cho chúng ta được sự sống đời đời, mà Chúa đã phải quả quyết
với chúng ta rằng: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời
này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”.
Đây là một bài học rất thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong
thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục
thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mần sống đã vươn lên
thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một cánh đồng lúa chín vàng, ngào
ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui
dào dạt. Trái lại, nếu hạt giống gieo xuống đất mà cứ trơ trơ, không đời nào có
thể phát sinh bông hạt, khiến cho nhà nông phải thất vọng.
Chính Chúa Kitô, “Khi còn sống ở trần gian này, Người cũng đã phải
lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi
chết” và “Dầu là Con Thiên Chúa, Người cũng đã phải chịu muôn vàn thống khổ,
phải chịu chết tất tưởi để khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ
đời đời cho tất cả chúng ta” (xem Heb 5:7-9). Như thế, Người đã phải chịu chết,
Người mới đem lại cho chúng ta sự sống, sự sống siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu
của Người.
Để được phục sinh vinh hiển, Chúa Kitô đã phải trải qua sự chết.
Nếu chúng ta muốn được phục sinh vinh hiển với Chúa, được Chúa cho tham dự sự
sống thật của Người. Để được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, chúng ta
cũng cần phải chết với Chúa, đồng chung đau khổ, hy sinh, tủi nhục với Người.
Không có hy sinh đau khổ thập giá, không thể có danh dự vinh quang được. Vì:
“Per Crucem ad Lucem”-“Từ Thập Giá tới Nguồn Sáng”.
III. ĐỂ ĐAU KHỔ CÓ GIÁ TRỊ CỨU RỖI
Với cái nhìn có vẻ bi quan, người ta gọi trần gian là nơi khổ ải,
là thung lũng nước mắt; nhưng với cái nhìn lạc quan phấn khởi thì, trần gian
lại là nơi lập công, là trường tập đức. Theo Thánh Phaolô thì thời gian sống
trên trần gian, còn được mệnh danh là: “Thời cơ thuận tiện, là ngày cứu độ”.
Nhưng dù theo quan niệm nào đi nữa, thì chắc chắn: Trần gian chưa phải là nơi
an hưởng hạnh phúc, cũng chưa phải là nhà vĩnh cửu; mà mới chỉ là nơi tạm trú,
là đàng dẫn tới quê hương chân thật và vĩnh cửu là Thiên Quốc. Chúng ta sống
trên trần gian chỉ là những lữ khách đang trên đường tiến về quê hương bất
diệt, là nơi chúng ta sẽ được đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, sung mãn tràn đầy
với Chúa là Cha đầy yêu đương của chúng ta.
Dù muốn hay không thì khi còn sống trên trần gian, chúng ta còn
gặp muôn vàn điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh; nhưng nếu chúng ta biết vui
lòng lãnh nhận, vui tươi chịu đựng vì lòng yêu mến Chúa, hợp với Giá Máu Cứu
Chuộc của Chúa Kitô, thì những đau khổ đó sẽ giúp chúng ta đạt được Ơn Cứu Độ,
có giá trị đền tội và lập công, thánh hóa mình và thánh hóa tha nhân. Trái lại,
nếu miễn cưỡng, cực chẳng đã phải chịu, thì đau khổ sẽ chẳng đem lại ích gì cho
chúng ta, lại còn làm cho chúng ta phải ngã quỵ.
Kết Luận
Tấm lòng hào hiệp và quảng đại hy sinh của một viên thư ký, trong
một khách sạn nhỏ dành cho ông bà khách, giữa đêm khuya bão tố trong câu truyện
chúng ta vừa nghe, đã khiến ông bà khách cảm phục và đã ban cho cậu một phần
thưởng trọng hậu đến thế; thì những hy sinh đau khổ chúng ta vui lòng lãnh nhận
vì lòng kính mến Chúa, còn đáng được Chúa trọng thưởng chúng ta gấp trăm ngàn
lần hơn nữa. Vả nữa, phần thưởng đời này chỉ có cùng có hạn, nhưng phần thưởng
Chúa ban cho chúng ta đời sau sẽ vô cùng vô tận.
Lạy Mẹ, Mẹ đã can đảm và quảng đại lãnh nhận mọi đau thương thống
khổ của sứ mạng Đồng Công để hiệp thông với Chúa Cứu Thế Con Mẹ, lập nên Giá
Cứu Độ cho chúng con; xin Mẹ cho chúng con cũng được can đảm theo gương Mẹ,
chấp nhận tất cả mọi nỗi gian truân Chúa gởi đến, để chúng con cũng được thông
phần với Chúa và Mẹ, hầu cứu độ tha nhân như sứ mạng Chúa đã ủy thác cho chúng
con.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu An)
GIỚI THIỆU CHÚA
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới
thiệu sản phẩm, cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo
đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó
trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu
những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí
thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người
mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể
giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu
tiêu biểu:
– Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp
Ta mọi đàng”. (Mt 4, 17).
– Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha”. (Ga
14, 9)
– Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa.
Đây Đấng xoá tội trần gian… Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có
trươc tôi… Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần”. (x. Ga 1, 29-34).
Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđê đang coi Gioan như thần
tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình
lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy
nhìn vào chính Ngài. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho
người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới
thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên
Chúa.
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 12, 20-33),
Thánh Gioan Tông Đồ đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long
trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến
từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hy Lạp khi được nghe giới thiệu,
họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do Thái Giáo “Họ lên
Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua”. Việc họ tìm đến với Chúa
Giêsu mang tính biểu tượng: dấu chỉ báo trước sự lên đường đến với Đức Kitô của
muôn dân; dấu chỉ loan báo giờ Ơn Cứu Độ đã đến.
Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không phải chỉ để
trông thấy mà thôi, nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, đàm đạo với
Người. Họ đang bước tới trên con đường Đức Tin.
Họ đến gần Philípphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu.
Philípphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan
trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người
giới thiệu, người dẫn đường.
Hôm nay, trong Giáo Xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị
em Dự Tòng vào Giáo Hội. Đây là nhừng người lương dân thiện chí muốn trở nên
người Kitô hữu. Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón
nhận tình yêu của Người. Sau sáu tháng học tập về Giáo Lý, họ được tiếp nhận
vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy trong Đêm Vọng Phục Sinh
để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em
Dự Tòng, trở thành một Kitô hữu không chỉ là gia nhập một cộng
đoàn Giáo Xứ, chấp nhận Giáo Lý của Chúa và Giáo Hội mà còn quan trọng hơn là
gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô tận của Người trong chính cuộc đời
mỗi người.
Thật ra, mỗi người Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Người
hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ
nghĩ tới để nhận ra Người. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên
Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Người mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành
tựu và hôm nay chúng ta đang đối diện với Người, gặp gỡ Người.
Một cuộc gặp gỡ, một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời.
Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan
trọng. Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ
thay đổi dần. Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận
Người với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Người anh chị em hãy bắt đầu một cuộc
sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh
chị em.
Kính thưa cộng đoàn, hôm nay Giáo Xứ chúng ta tiếp nhận các anh
chị em Dự Tòng. Hạt giống Đức Tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao
nỗ lực của các Hội Đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống Đức
Tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin vào Người là nhờ lời giới
thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta. Có biết bao người trở lại vì
trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì
trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là
người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc
Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm
tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay Giáo Xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công
lao của biết bao người. Tạ Ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm
cho Giáo Hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban.
Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là
lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải
có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của
Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó
nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều
chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối.
Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng
nhất của Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con
Một của Ngài” (Ga 3, 16) và tình yêu thương ấy là: “Không có tình yêu nào cao
cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,
13).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình
thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần Thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay
hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của
Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt
lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất
để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho
con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân
thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất
tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: “Nếu nó chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Như
vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích
kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì
nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các
bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng sẽ tồn tại
mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi
nơi mình những gì “là Chúa” và “của Chúa” để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng
ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng
và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm
trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà
sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh.
Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương
tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới
thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn
cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị
mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: “Bụt nhà không thiêng”.
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là
cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng
vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi
vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính
mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết
đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông
Te-tu-li-a-nô đã nói: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu”, thì
máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất
để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Ki-tô khác. Ngài chịu treo lên
thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và
được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó
lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng
phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở
thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh
nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát
trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập
giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết,
nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho
con người.
Là Ki-tô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi,
được sống muôn đời và hữu ích cho người khác… khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ,
tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là “sống”. Có người từ bỏ được
tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý
riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà
không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được
những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại
không bỏ được lúc khác…
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện
mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng
ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi
thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì
không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không
đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Ki-tô, không đúng với cung cách một
người con của Chúa.
(Suy niệm của Jaime L. Waters – Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
Hãy tìm kiếm thiên thần trong sa mạc tâm hồn của bạn
Vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta đã nghe giao ước Noê
diễn tả mối tương quan đặc biệt của Thiên Chúa với mọi loài sinh vật. Hôm nay,
khi gần đến cuối Mùa Chay, chúng ta nghe trình bày một giao ước mật thiết hơn
trong sách ngôn sứ Giêrêmia, đó chính là giao ước được ghi khắc trong tâm hồn.
Bài đọc thứ nhất nhắc đến bản chất riêng tư trong tương quan giữa con người với
Thiên Chúa, một ý tưởng cũng được nhắc lại trong bài Tin mừng ngày Chúa nhật
này.
Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Giêrêmia nói về một mối tương quan
mới sẽ được thiết lập giữa Thiên Chúa với dân Israel và Giuđa. Bối cảnh câu
chuyện là cuộc xâm lược và hủy diệt Giuđa cùng những cuộc phát lưu trong thời
kỳ lưu đày ở Babylon. Trong khi nhiều người chịu đau khổ thì
Giêrêmia lại viết về niềm hi vọng vào tương lai. Ông thừa nhận những thất bại
trong quá khứ, khi tổ tiên đã không triệt để giữ lời cam kết trong mối tương
quan của họ với Thiên Chúa. Giêrêmia mô tả việc Thiên Chúa khắc ghi lề luật vào
tâm hồn mỗi người bằng một hình ảnh ấn tượng: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ
khắc vào tâm hồn chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng
sẽ là dân của Ta.” Trong tiếng Do Thái, từ “trái tim” (leb) không chỉ dùng cho
một cơ phận thân thể mà còn dùng để chỉ tâm trí. Trái tim được coi là nơi của
tư duy lý trí và ý thức, tương tự như cách chúng ta nghĩ về bộ não. Khi Thiên
Chúa khắc ghi luật nơi trái tim mỗi người, Ngài làm cho những đòi hỏi được thấm
nhuần nơi sâu kín ở bên trong trung tâm của trí hiểu để con người có thể hiểu
cách đầy đủ hơn ý định của lề luật, để bồi dưỡng mối tương quan tốt đẹp của con
người với Thiên Chúa và gữa con người với nhau.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu gặp lại một số môn đệ của mình,
chuẩn bị cho họ về cái chết sắp xảy đến với Ngài. Đầu tiên, chúng ta nghe nói
về việc mấy người Hy Lạp mong muốn được gặp Chúa Giêsu, có lẽ điều này cho thấy
sức hấp dẫn rộng lớn của Chúa Giêsu và hoạt động Kitô giáo trong tương lai đối
với dân ngoại. Khi các môn đệ trình với Chúa Giêsu về cuộc gặp gỡ tiềm năng
này, Ngài đáp lại bằng cách ám chỉ đến cái chết sắp xảy đến với Ngài. Tương tự
bài đọc thứ nhất, Chúa Giêsu nói về sự đau khổ và niềm hy vọng tương lai. Chúa
Giêsu báo trước việc Ngài và các môn đệ sẽ phải chịu đau khổ, nhưng Ngài nhắc
nhở họ rằng để liên kết với Cha trên trời, họ phải phục vụ và đi theo Ngài.
Trong lúc tiếp tục trò chuyện với các môn đệ, Chúa Giêsu mặc khải
mối liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha và lý do cái chết của Ngài. Chúng
ta nghe thấy những lo lắng hết sức con người của Chúa Giêsu về cái chết, về nỗi
kinh hoàng trước đau khổ mà Ngài phải gánh chịu và lời quả quyết, “bây giờ, tâm
hồn Thầy xao xuyến” (dịch sát nghĩa “tâm hồn Thầy bị khuấy động”). Khác với các
sách Tin mừng Nhất lãm, Thánh Gioan không tường thuật về cơn hấp hối trong vườn
Ghếtsêmani, nơi đó Chúa Giêsu cầu nguyện xin khỏi phải uống chén, tức là cho
khỏi sự đau khổ và cái chết mà Ngài sắp chịu (xem Mt 26,39;Mc 14,36; Lc 22,42).
Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan miêu tả nỗi lo lắng của Chúa Giêsu về
cái chết, mặc dù Ngài nhanh chóng nhắc nhở bản thân rằng Ngài không thể thoát
khỏi nhiệm vụ này.
Chúa Giêsu thưa chuyện với Cha trên trời, và dân chúng không thể
hiểu hết được điều đó, giải thích tiếng nói đó như là tiếng sấm hoặc tiếng một
thiên thần. Thay vào đó, Chúa Giêsu khẳng định rằng tiếng nói từ trời đó là
Chúa Cha, Đấng đang nói trực tiếp với những ai đi theo Ngài và khẳng định rằng
Ngài tôn vinh Chúa Cha qua cái chết của mình. Hơn nữa, Chúa Giêsu tuyên bố rằng
cái chết, sự phục sinh và lên trời của mình “kéo mọi người lên với Ngài”.
Khi bước vào những tuần cuối cùng của Mùa Chay, các bài đọc hôm
nay nhắc nhở chúng ta chú tâm suy ngẫm về mối tương quan của chúng ta với Thiên
Chúa, kêu gọi chúng ta cầu nguyện, nhìn lại nội tâm và cảm tạ ơn cứu độ của
Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia mời gọi chúng ta nhận ra mối liên hệ gần gũi cũng
như sự quan tâm của Thiên Chúa đối với tất cả chúng ta, và thánh Gioan thôi
thúc chúng ta để kết hiệp với Thiên Chúa qua mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Đề: Ý thức trước về ý nghĩa và giá trị của việc Đức
Giêsu chịu nạn
1.
Dẫn vào Thánh lễ
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay, tuần sau sẽ là Tuần
Thánh. Để giúp chúng ta vào Tuần Thánh một cách sốt sắng, hôm nay Phụng vụ Lời
Chúa giúp chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị việc chịu nạn sắp tới của Đức
Giêsu.
1.
Gợi ý sám hối
Chính vì tội lỗi chúng ta mà Đức Giêsu đã phải chịu chết cách đau
đớn và nhục nhã trên Thánh Giá.
Đức Giêsu đã lấy chính máu mình để thiết lập Giao ước mới giữa
Thiên Chúa với loài người. Thế mà chúng ta thường xuyên vi phạm Giao ước ấy.
Đức Giêsu đã dùng Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thế mà chúng ta
không yêu mến những thánh giá hằng ngày của chúng ta.
III. Lời Chúa
1.
Bài đọc I: Gr 31,31-34
Ngày xưa ở Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel,
theo đó Ngài hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng
sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên
hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu
quả là họ phải bị mất nước và bị lưu đày.
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới: Giao
ước mới này không ghi trên đá mà ghi tận đáy lòng con người; tinh thần của Giao
ước này là tình thương và tha thứ: “Mọi người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta”
và “Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”.
Đức Giêsu là Đấng thực hiện lời tiên báo đó.
2.
Đáp ca: Tv 50
Trong tâm tình chân thành sám hối, tác giả Tv 50 nài xin Chúa một
mặt tẩy sạch các tội lỗi của mình, và mặt khác tạo cho mình một quả tim mới.
Một quả tim mới để khắc ghi Giao ước mới. Đó cũng là tâm tình hợp
với lời tiên báo của Giêrêmia.
3.
Tin Mừng: Ga 12,20-33
Đức Giêsu đang nghĩ tới việc Ngài sẽ chịu nạn chịu chết để cứu độ
loài người. Việc một số người Hy Lạp – tức là người ngoại – xin gặp Ngài khiến
Ngài ý thức rằng giờ cứu độ ấy đã điểm. vì thế mặc dù tâm hồn Ngài xao xuyến
nhưng Ngài cũng hân hoan tuyên bố “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh… Khi nào
Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”. Nghĩa là Đức Giêsu
coi cái chết của Ngài là vinh quang cho Ngài và nguồn cứu độ cho mọi người.
4.
Bài đọc II: Dt 5,7-9
Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là “căn
nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài”.
1.
Gợi ý giảng
* 1. Biện chứng giữa chết và sống
Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi
chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự
chết. Vài thí dụ:
Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì
mới thành chất bổ dưỡng cho cây.
Nơi sinh vật: các thức ăn phải “tiêu” mới “hóa” thành lương thực.
Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa
màu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng
lên.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói: hạt lúa có thối đi thì cây
lúa mới nẩy mầm.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự
sống cho chúng ta.
* 2. “Đã đến Giờ Con Người được tôn vinh”
“Giờ” này không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ
trong dòng thời gian, không đo bằng đồng hồ, không tính theo toán học gồm 60
phút, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng đánh dấu bắt đầu một thời đại mới
sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Đó là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng
víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao
giữa loài người với Thiên Chúa được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống
dồi dào của Thiên Chúa được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Chính vì thế, Đức Giêsu nói “Đã đến giờ con người được tôn vinh”.
“Con người” đây vừa là Đức Giêsu mà cũng vừa là loài người, vì mọi người đều là
“con người”. Chẳng những Đức Giêsu được tôn vinh mà mọi người cũng được tôn
vinh nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
* 3. Các vai trong vỡ tuồng thập giá
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta thấy rõ những người có liên hệ trong
cái chết của Đức Giêsu.
Hai vai chính là Chúa Cha và Đức Giêsu: Đức Giêsu thưa “Lạy Cha,
xin hãy làm vinh danh Cha”; và tiếng từ trời vọng xuống “Ta đã làm vinh danh Ta
và Ta còn làm vinh danh Ta nữa”. Cuộc đối thoại bằng những lời lẽ cao siêu này
vượt quá tầm hiểu biết của những người có mặt ở đấy hôm đó. Vì thế có người cho
là tiếng sấm và có người cho là tiếng thiên thần. Cái chết của Đức Giêsu là kết
quả của một sự đối thoại và thỏa thuận giữa Chúa Cha và Đức Giêsu để thực hiện
chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người.
Nhưng loài người cũng có liên quan: Đức Giêsu nói “Tiếng đó phát
ra không phải vì Ta mà vì các ngươi” — Cuộc đối thoại trên là một mặc khải cho
loài người: Tuy họ không hiểu tại sao Đức Giêsu chết, cũng chẳng hiểu tại sao
chết mà là tôn vinh, nhưng họ được nói cho biết cái chết ấy là vì họ và cho họ.
Do đó, đương nhiên mỗi người cũng có liên hệ: “Hãy theo Ta. Ta ở
đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó”
à Thập giá là con đường dẫn đến tôn vinh. Mỗi người chúng ta có đi theo Đức
Giêsu trên con đường thập giá thì mới đến được chỗ Đức Giêsu ở và mới được tôn
vinh như Ngài.
* 4. Hạt lúa mì mục nát.
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt
giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam
Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu
người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn
học tuyên bố: “Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ”. Đoàn
tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền
nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan
nói: “Mười trong số những người này phải trả nợ”. Lập tức tên sĩ quan duyệt qua
hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì
thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: “Tôi xin
chết thay cho người này”. Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến
của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: “Tại sao muốn chết?” Maximilien Kolbe điềm
tỉnh trả lời: “Tôi là linh mục Công giáo”.
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ
trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày
18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó
là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
*
“Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi
một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt’ (Ga.12,24) Để có
một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào.
Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều
bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn
chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực
nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải
đáp: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống
vì bạn hữu mình” (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự
chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã
không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người.
Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách
đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận
tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã
từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng
giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức:
“Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ
này” (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên
Chúa và lời yêu thương con người: “Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này”
(Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha
nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả
Anthony Padovano viết: “Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của
Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết”.
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết,
Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh
nghiệm nơi Người: “Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ” (Lc.22,40). Cầu
nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu
nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta
không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta
chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi
xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không
phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên
Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta,
nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa
vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm
bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp
cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
*
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu
tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt
Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng
con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen. (Thiên
Phúc, “Như Thầy đã yêu”)
* 5. Chết đang khi sống
Nhiều người coi sống và chết là hai sự việc nối tiếp nhau: khi
không còn sống nữa thì chết. Nghĩ như thế là vì người ta chỉ biết có mỗi một sự
sống, là sự sống của thể xác, và cũng chỉ biết có mỗi một sự chết, cũng là sự
chết của thể xác.
Thực ra, sống và chết là hai việc đi song song với nhau trong cùng
một đời người. Bởi vì có tới hai sự sống và hai sự chết: sự sống chết của con
người thể xác và sự sống chết của con người đích thực. Câu nói của Đức Giêsu
trong đoạn Tin Mừng này hàm chứa hai sự sống chết đó: “Ai yêu mạng sống mình
thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho
sự sống đời đời”. Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: ai cố bám víu vào sự sống của
con người thể xác thì sẽ đánh mất sự sống của con người đích thực; còn ai dám
để cho sự sống của con người thể xác chết đi thì đồng thời bồi dưỡng cho sự
sống của con người đích thực.
Bởi đó, có người dám nói: “Chết là một phần của sống. Chúng ta
sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung bạo chết đi.
mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng
nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh. (Viết theo Flor McCarthy)
* 6. Tâm sự của Đức Giêsu
Tôi cảm động vì lời Đức Giêsu thổ lộ tâm sự: “Bây giờ tâm hồn Thầy
xao xuyến”.
Đức Giêsu đã tâm sự rất thật thà. Ngài nói thật với các môn đệ
rằng Ngài xao xuyến trước cái chết sắp tới. Không phải vì Ngài đã từng khuyến
khích họ mạnh dạn hy sinh mà nay Ngài phải che dấu cảm xúc xao xuyến của mình.
Ngài cũng không muốn làm bộ anh hùng bất khuất. Cảm thấy thế nào, Ngài nói thế
đó.
Tôi cũng muốn tìm hiểu xem vì sao mà Ngài xao xuyến.
Chắc hẳn Ngài xao xuyến vì không cam tâm chịu chết. Một con người
mới 30 tuổi đang tràn đầy sức sống mà phải chết ư?
Ngài còn xao xuyến hơn vì phải chết cách đau đớn. Chết đóng đinh
trên thập giá là khổ hình tàn bạo nhất trong các hình thức xử tử.
Nhưng Ngài xao xuyến sâu xa hơn nữa là vì sự nhục nhã khi phải
chịu xử tử như thế. Gần giống như một võ sĩ vô địch mà phải nhận chỉ thị phải
thua một võ sĩ hạng thấp hơn mình, không chỉ phải thua bằng tính điểm mà còn
phải thua bằng “knock out” nhục nhã. Ngài chết như thế thì những kẻ thù ghét
Ngài sẽ hả hê như thế nào? Và những môn đệ thân yêu của Ngài sẽ hoang mang như
thế nào?
Bởi vậy, Đức Giêsu đã thốt lên lời van xin: “Lạy Cha, xin cứu con
khỏi giờ này”. Tuy thế, Ngài mau mắn thưa tiếp: “Nhưng chính vì giờ này mà con
đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
Đức Giêsu thật tội nghiệp! mà cũng rất đáng phục!
1.
Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trước ngưỡng cửa cuộc tử nạn và tôn
vinh của Đức Giêsu, Hội thánh muốn giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã trở nên
như hạt lúa mì bị chết đi để sinh nhiều hạt khác. Chúng ta cùng dâng lên Chúa
những lời cầu sau đây:
1.
Đức Giêsu đã dạy: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì
nó vẫn trơ trọi một mình / Chúng ta cầu xin Chúa cho Hội thánh trong lòng thế
giới / không khép kín để tự vệ / nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người.
2.
Đức Giêsu đã dạy: “Khi Tôi được treo lên, Tôi sẽ kéo mọi người lên
với Tôi”. Chúng ta cầu xin Chúa cho các thủ lãnh trên thế giới đừng ai từ chối
hoặc chống lại công trình cứu độ do tình thương của Chúa.
3.
Đức Giêsu đã dạy: “Hạt lúa có chết đi, thì mới sinh được nhiều hạt
khác” / Chúng ta cầu xin Chúa cho những người tàn tật ốm đau, già yếu, bị tù
đày / biết dùng đau khổ mình đang chịu để sinh ích lợi cho nhiều người khác.
4.
Đức Giêsu đã dạy: “Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ được ở
đó” / Chúng ta cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta biết noi gương phục
vụ của Chúa / để luôn quan tâm chu toàn mọi trách nhiệm của mình trong gia
đình, trong họ đạo và trong xã hội.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống để chúng con được
sống thật. Xin Chúa đánh tan thói ích kỷ, sợ khó, và nâng đỡ sự yếu hèn của
chúng con, để chúng con trở thành môn đệ thực sự của Chúa, biết sẵn sàng hy
sinh phục vụ mọi người chung quanh chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển
trị muôn đời.
1.
Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh Lạy Cha, chúng ta sắp cầu xin cho
“Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện”. Nước Thiên Chúa đến nhờ thập giá Đức Giêsu;
Ý Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn nhất nơi Đức Giêsu và khi Ngài chịu chết
trên thập giá. Chúng ta hãy hợp một lòng một ý với Đức Giêsu trên Thập giá để
dâng lên Chúa Cha những lời cầu xin trên.
Chúc bình an: Đức Giêsu đã chịu chết để hòa giải con người với
nhau. Vậy lẽ nào chúng ta vẫn giữ mãi hận thù? Qua việc chúc bình an, anh chị
em hãy thực lòng làm hòa với nhau.
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay Đức Giêsu đã dạy “Ai phụng sự Ta hãy theo
Ta, và Ta ở đâu kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó”. Tuần này, anh chị em hãy phụng sự
Chúa, hãy đi theo Chúa, để có thể ở nơi Chúa ở.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa nhật hôm nay (Ga 12,20-22),
Thánh Gioan đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến
vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế
gian để về cùng Cha, có những người Hylạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn
tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do thái giáo “Họ lên Giêrusalem
thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua“. Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa
Giêsu không chỉ để trông thấy mà thôi, mà còn muốn gặp để chuyện trò đàm đạo
với Người. Họ đang bước tới trên con đường đức tin.
Họ đến gần Philipphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu.
Philipphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan
trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người
giới thiệu, người dẫn đường.
Những người Hy lạp năn nỉ Tông đồ Philípphê: Thưa ông, chúng tôi
muốn được gặp Thầy Giêsu. Người Hy lạp ái mộ “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21).
Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng
Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào
Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp
Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức
Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang:
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Nhưng vinh quang đó phải ngang
qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được
thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hy lạp phải
ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn
đệ về sự thật trên bước đường theo Người. (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực).
Chúng ta có ao ước gặp Chúa Giêsu không?
Để trả lời, trước hết nên tự hỏi lòng mình: tôi có yêu mến Chúa
Giêsu không? Nếu thực sự tôi yêu mến Chúa, tôi rất ước muốn, khao khát gặp gỡ
Người, và tôi sẽ tìm mọi cách để gặp Người cho bằng được. Dĩ nhiên, tôi cũng
biết rằng, không giống như khi Chúa Giêsu còn tại thế, lúc mà những ai ao ước
trông thấy Người, có thể thấy bằng mắt phàm; còn bây giờ tôi chỉ có thể thấy
Chúa bằng con mắt đức tin, gặp Chúa bằng đức tin. Và nếu tôi ao ước thấy Chúa,
gặp gỡ Chúa bằng đức tin, thì tôi sẽ toại nguyện, vì Chúa đã dạy rõ ràng : ai
xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
Thứ đến, Chúa luôn hiện diện cho chúng ta gặp Người, đặc biệt là
trong Thánh lễ. Gặp gỡ Chúa khi dâng lễ mới là quan trọng. Chính vì thế mà khi
Anrê và Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu ước nguyện của mấy người Hy lạp, thì
Chúa lại hướng các môn đệ đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh của Người. Chúa bảo, đã đến
giờ Con Người được Tôn vinh, rồi Người lại nói đến hạt lúa mì gieo xuống đất
phải chết đi mới sinh nhiều hạt khác. Và bấy giờ Người mới mời gọi ai phục vụ
Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó!. Như vậy
là Ý của Chúa Giêsu đã rõ. Người hướng tất cả những ai muốn gặp Người, trong số
đó có chúng ta, đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh. Nơi đó, lúc đó chúng ta sẽ gặp được
Chúa. Điều đó không có nghĩa là phải đợi đến ngày lễ Phục Sinh, chúng ta mới
gặp được Chúa. Chúng ta cùng nhau gặp Chúa ngay bây giờ khi cùng nhau cử hành
Thánh lễ, và đón Chúa đến với chúng ta trong lòng Giáo Hội. Với đức tin, chúng
ta gặp được Chúa trong mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh.
Chúa Giêsu đến trong Thánh lễ là Đấng đã chịu đóng đinh và chịu
chết vì chúng ta, đã mặc lấy thân phận loài người như chúng ta, đã trải qua
nhiều đau khổ, đã xin Thiên Chúa Cha cứu mình khỏi chết như lời thư gởi tín hữu
Do Thái. Nhưng cuối cùng Người đã vâng phục Chúa Cha, sẵn sàng chịu chết. Chính
vì thế mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người, cho Người sống lại từ cõi chết.Đó là
mầu nhiệm Giáo Hội tuyên xưng và cử hành trong mỗi thánh lễ, là bí tích Giao
ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với nhân loại nhờ Máu của Chúa Giêsu đổ ra
trên thập giá, làm cho chúng ta thành Dân riêng của Thiên Chúa. Thánh lễ là bí
tích của sự gặp gỡ, là bí tích của tình bằng hữu giữa Thiên Chúa và chúng ta
nhờ Chúa Giêsu. Mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, hãy nhớ câu nói của mấy
người Hylạp: Chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Philípphê và Anrê là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và
đưa những người khác đến với Chúa (1,35-46). Bổn phận người môn đệ phải chu
toàn trong đời sống là làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp gỡ Chúa
Giêsu.Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Chúa Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao
giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Chúa Giêsu nhờ Tin Mừng được rao
giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Chúa Giêsu và việc “gặp” Người
còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Chúa nữa. Chỉ khi đó họ mới bắt đầu
những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, là
những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh.
Hôm nay, Giáo xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự
Tòng gia nhập vào Giáo hội. Đây là những lương dân thiện chí muốn trở nên Kitô
hữu.Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu
của Người. Sau những ngày tháng học hỏi về giáo lý, họ được tiếp nhận vào cộng
đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở
thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em Dự Tòng.
Trở thành Kitô hữu không chỉ là gia nhập vào cộng đoàn giáo
xứ,chấp nhận giáo lý của Chúa Giêsu và Giáo hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ
Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô bờ bến của Ngài trong chính cuộc đời mỗi
người.
Thật ra, mỗi Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Ngài hiện diện
trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để
nhận ra Ngài. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực sự Thiên Chúa tìm kiếm
anh chị em trước. Nhờ Ngài mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay
chúng ta đang gặp gỡ Ngài.
Một cuộc gặp gỡ,một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời.
Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan
trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ
thay đổi dần.Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận
Ngài với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Ngài anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống
mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị
em.
Kính thưa cộng đoàn.
Hôm nay giáo xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt
giống đức tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các hội
đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống đức tin ấy để hôm nay
Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin và gặp gỡ Ngài là nhờ lời giới
thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta.
Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về
Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người
khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm
phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người
Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay giáo xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công
lao của biết bao người. Tạ ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm
cho Giáo hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa
ban.Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu.Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là
lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải
có kinh nghiệm về tình thương, ao ước và gặp gỡ Thiên Chúa tình thương. Cách
chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người
yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn ” Đây là
Chiên Thiên Chúa.Đây Đấng xoá tội trần gian“. (Ga 1,29). Điều đó nhắn nhủ rằng:
Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là
nói hay.Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về
Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là
tình yêu thương: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài” (Ga
3,16) và tình yêu thương ấy là “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương
của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình
thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: “Đã đến giờ
Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh
được nhiều hoa trái” (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy
mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát
làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài
trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên
xanh đồng lúa bát ngát.
1.
Con đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng
đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ
là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân, sống như người trần thế”. Như hạt lúa bị mục nát: “Người đã hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. Như hạt lúa
nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng
danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh
Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để
tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô
là Chúa” (Pl 2,6-11).
Phúc Âm Marcô viết: “Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết
Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư
loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại” (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói,
Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ
cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được
coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong
dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể
chấp nhận. “Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người.
Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô:
Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng
của Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt
lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa
gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: “Chúa Giêsu và các môn đệ
đang trên đường đi Giêrusalem…Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu
nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên
Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên
án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ
vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại” (Mc
10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc
nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong
cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.
2.
Con đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi “Ai
muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34). Thánh
Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc,
tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này,
là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và
gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì,
miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu,
là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (CV 20,22-24).
Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là “đựơc thông phần những đau khổ của Chúa,
nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được
sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin
mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng
ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu
mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng “Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ
sinh các tín hữu”. Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi
trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả
làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và
truyền giáo.
3.
Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông
đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một
cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình.
Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát
đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ
bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật
Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự sống là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất,
còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống
muôn đời” (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính
nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn
ngàn nét đẹp cho đời.
4.
Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết
của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì
dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách
đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan
tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình,
hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu
trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần
không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: “Bây giờ linh hồn Ta xao
xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga.12,27). Thế nhưng,
Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con
người: “Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này” (Ga.12,27).
Nếu “Hạt lúa âm thầm mọc lên” (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin
mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì “Hạt lúa phải mục nát đi” (x. Ga
12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lời Chúa trong bài đọc I hôm nay đề cập đến giao ước. Vậy, giao
ước là gì? Giao ước là do sự thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải
giữ, chẳng hạn như: giao ước hôn nhân, khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước
sẽ không còn hiệu lực nữa.
Phản bội giao ước
Nếu xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân
Israel, theo đó Thiên Chúa hứa Ngài là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần
họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước
ấy được khắc lên hai bia đá. Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước
ấy, quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng (x. Xh 32), dẫn đến hậu quả là
nước mất, nhà tan, dân chúng lâm cảnh lưu đày.
Thiên Chúa không đành rút lại lời hứa, tội thì Chúa phạt, hoán cải
thì Chúa cứu là lý do Chúa lại trao ban cho dân một giao ước mới, giao ước của
tình thương. Giêrêmia là người duy nhất nói về “giao ước mới”, ông tuyên sấm:
“Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng”. Họ đã
bất trung, lỗi lời giao ước, chạy theo các thần ngoại mà thờ, không tuân giữ
các điều Chúa truyền dạy, sống bất công và vô luân. Chúa là Thiên Chúa tình
thương, vấn vương khi tạo dựng, lòng thành tín của Chúa trải muôn ngàn đời,
không hề lỗi lời giao ước. Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên
Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm: “Này sẽ đến những ngày
Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao
ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập”.
Giao ước tình thương
Nội dung của giao ước mới là: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ
khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn
chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với
người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa,” vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến
người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi
lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi” (Gr 31,31-34).
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải
đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi
giận. Nay Chúa trao ban Luật cho dân với một cách thức và công thức mới là ghi
tạc vào lòng con cái Israel (x. Gr 31, 33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và
cá nhân với Chúa (x. Gr 31, 34) không qua trung gian: “Người này sẽ không còn
phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em ” (Gr 31, 34). Theo nghĩa Kinh
Thánh là hiệp thông với Chúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: “Ta sẽ là
Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 34), đây là nét đặc trưng
của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người
trong dân. Một giao ước “khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì
Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân” (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô
thực hiện và hoàn tất trong “giai đoạn” vượt qua.
Đức Kitô kiện toàn giao ước
Đêm Vọng Phục Sinh, có nghi thức làm phép nước rảy trên dân chúng,
nếu có dự tòng thì sẽ rửa tội họ bằng nước phép này. Phép Rửa tội, bí tích khai
tâm, cửa ngõ đức tin và là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Nước
dùng để rửa tội là nước lã như mọi thứ nước, nhưng được làm phép để rửa tội nên
nước ấy mang một ý nghĩa đặc biệt vì trong đó có giao ước giữa con người với
Thiên Chúa.
Nếu trong Cựu Ước, phép cắt được coi là “dấu chỉ giữa Thiên Chúa
và người dân của Ngài” (St 17,10-14). Thì đến thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến và
ban dấu chỉ cứu rỗi (x. Cl 2,11); (1Pr 3,11).
Ðể chứng minh giao ước này là giao ước đời đời không hề thay đổi,
Đức Giêsu đã trao ban bánh và rượu trong Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thịt và
máu của Người, làm dấu chỉ giao ước hữu hình ở lại luôn mãi với loài người
chúng ta (x. Ga 6,53-56, Mt 26,17-28). Như vậy, bằng lời hứa bất biến Thiên
Chúa đã liên kết với chúng ta, nên Kinh Thánh gọi chúng ta là con của lời hứa:
“Hỡi anh em, như Isaac, anh em là con cái của lời hứa” (Gal 4,28).
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta nhận lời hứa và phúc lành đặc biệt
của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ lời giao ước với Thiên Chúa và
không vâng phục lời Chúa, chúng ta sẽ đánh mất phúc lành ấy.
Giao ước Thiên Chúa đã ký kết dân Israel qua trung gian Môise, cứu
họ khỏi ách nô lệ Ai-cập, đưa vào đất Canaan, là xứ của lời hứa. Lúc ấy, Thiên
Chúa không đưa họ tiến thẳng vào xứ Canaan ngay lập tức mà lại dẫn họ 40 năm
trường trong sa mạc, ban cho họ các giới răn xem họ có vâng phục không (x. Đnl
8,2-16). Tuy nhiên, họ đã không tuân giữ, phần lớn trong số họ phải chết (x. Ed
20,10-13). Chỉ có hai người là Calép và Giôsuê vâng lời Thiên Chúa, và những
người sinh ra trong sa mạc mới được đi vào xứ của lời hứa (x. Ds 14,6-38).
Hành trình vào Đất Hứa của dân Israel báo trước hành trình của
người kitô hữu chúng ta về Nước Trời. Thật là bài học quí giá. Chúng ta cũng sẽ
không thể vào được nếu chúng ta bất tín (x. Dt 3,18-19, 1Cr 10,1-11). Chúng ta
hãy cỗ gắng tuân giữ luật Chúa và vâng theo lời Chúa để được vào Thiên Đàng.
Amen.
(Giải thích bản văn Tin Mừng của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang
Tiến)
Giờ của Chúa Giêsu lần đầu tiên được loan báo đã đến (12,23; x.
8,20). Bước sang chương 13 giờ của Người về với Chúa Cha bắt đầu được thực hiện
dần. Bố cục của chương 12: – Xức dầu (cc. 1-8), – Vào Giêrusalem (cc. 9-19), –
Loan báo sự chết và vinh quang (cc. 20-36), – Kết luận về sứ vụ của Người (cc.
37-50). Có thể chia 12,20-33 làm hai phần: đoạn 12,20-28 với dẫn nhập (cc.
20-22) và đoạn 12,28b-33 với kết luận (c. 33). Ngoài dẫn nhập và kết luận là
lời của thánh sử, phần còn lại của đoạn tin mừng nầy được kể là lời của Chúa
Giêsu. Có hai lưu ý: 1- Người nói theo cách trực tiếp, ở ngôi thứ nhất; 2- Có
những chỉ dẫn về thời gian như “giờ” (cc.23.27[2x]), “bây giờ” (c.27.31[2x])
liên quan đến sự chết và sống lại của Người.
Người Hy lạp tìm đến và muốn gặp Chúa Giêsu (cc.20-22).
Điều nầy ám chỉ ơn cứu độ của Người đã đến lúc mở ra cho mọi người; chỉ được
bắt đầu từ “giờ” của Người. Đoạn 12,23-28 được đóng khung bởi câu 23 và 28, nói
đến “giờ” và “sự tôn vinh” của Chúa Giêsu; đoạn nầy có thể chia thành hai: cc.
23-26 và cc 27-28. Trong cc. 23-26 Chúa Giêsu đưa ra ba quy luật về sự chết và
sự sống: – Nếu không chết đi không thể sống lại (c. 24; x. 1 Côr 15,36); – Nếu
từ bỏ sự sống đời nầy đi sẽ tìm thấy sự sống lại ngay trong đó (c. 25); – Nếu
theo Chúa sự sống lại sẽ được bảo đảm (c. 26; x. 14,3; 17,24).
Chúa Giêsu áp dụng các quy luật nầy cho chính mình trước tiên.
Thánh Gioan không thuật lại cảnh Người trong vườn Giệtsêmani, mà chỉ có các câu
12,27-28a. “Giờ” mà Người xin Chúa Cha cứu khỏi là giờ chết. Giờ nầy chính là
“chén” mà Người xin khỏi uống (x. Mc 14,36). Tuy nhiên, Người đã xin Chúa Cha
tôn vinh chính danh của Người, nghĩa là thực hiện ý định cứu chuộc nhân loại
bằng sự chết của Người (c. 28a; x. 18,11).
Đoạn 12,28b-33 ghi lại lời của Chúa Cha và kết quả sự chết của
Chúa Giêsu. Chỉ trong phúc âm Gioan mới có tiếng Chúa Cha đáp lại Chúa Giêsu
trong cơn hấp hối. Động từ “tôn vinh” được dùng hai lần, ở thể chủ động, và ở
thì quá khứ và tương lai. Chúa Cha chuẩn nhận lời cầu xin của Chúa Giêsu, và
xác nhận là Người đã tôn vinh danh của Người qua những việc Chúa Giêsu đã làm
và sẽ còn làm vinh danh Người nữa trong sự chết và sống lại của Con của Người.
Như thế, trong phúc âm nhất lãm, sự im lặng của Chúa Cha trước lời cầu xin của
Chúa Giêsu hàm ý là Người muốn Chúa Giêsu phải chết để tôn vinh danh Người.
Việc Chúa Giêsu chết có hai kết quả đối nghịch nhau: kéo những
người tin đến với Người (cc. 30.32), và loại ra ngoài những ai không tin (cc.
31-31). Xét theo thời gian, việc Chúa Cha tôn vinh danh Người (c. 28), việc
phán xét thế gian (c. 31), việc mọi người được hưởng ơn cứu độ (c. 32) diễn ra
cùng lúc khi Chúa Giêsu bị treo cao trên thánh giá, chết và được tôn vinh
(c.23.32).
Vì yêu thương và muốn cứu thế gian mà Thiên Chúa đã ban Người Con.
Đừng để Người Con ấy phán xét vì đã không tin vào tình yêu của Cha Người.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
Để mô tả một sứ mệnh, người đời thường nêu lên những chương trình,
kế hoạch to lớn mà họ sẽ thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên chẳng có ai nói
về cái chết của họ như phần cốt yếu trong sứ mệnh cả! Đối với Chúa Giêsu, cuộc
Thương khó và cái chết của Người mới là tột đỉnh của sứ mệnh. Cái chết của
Người cần thiết để chu toàn sứ mệnh, sứ mệnh của “Con Một” được Chúa Cha ban
cho nhân loại để minh chứng sự thật “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian” như thế
nào. Bài Tin Mừng tuần trước cho ta hình ảnh cái chết cứu độ của Chúa Giêsu:
“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải
giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Chúa
Nhật hôm nay, bài Tin Mừng lại đề cập đến cái chết cứu độ của Chúa Giêsu qua một
hình ảnh sống động và quen thuộc: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”
(Ga 12,24).
1.
a) Cái chết đem lại sự sống
Qua hai hình ảnh, con rắn đồng treo cao trong sa mạc và hạt lúa
gieo vào lòng đất, Chúa Giêsu đều muốn nói lên ý nghĩa và hiệu quả cái chết của
Người, là cứu sống và ban sự sống. So sánh giữa con rắn đồng trong sa mạc với
Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Gôn-gô-tha thật vô cùng ý nghĩa. Rắn lửa sa
mạc đã làm cho nhiều người Ít-ra-en phải chết. Cũng thế, trong vườn địa đàng
con rắn Xa-tan quỷ quyệt đã cắn nguyên tổ loài người và gieo nọc độc là tội lỗi
và sự chết cho nhân loại. Thiên Chúa thực hành nguyên tắc dĩ độc trị độc, đã
dùng hình ảnh con rắn đồng để cứu sống dân Ít-ra-en. Giờ đây, Người lấy chính
cái chết của Con Một Người trên thập giá để đánh bại cái chết và tội lỗi, đem
lại sự sống cho nhân loại.
Hình ảnh hạt lúa gieo xuống lòng đất cũng hết sức linh hoạt. Hạt
lúa muốn trở thành một cây lúa và sinh bông hạt cần phải trải qua một tiến
trình kỳ lạ. Trước hết nó phải nằm trong bàn tay người gieo hạt. Ông ta vung nó
xuống đất. Nằm trong lòng đất, nó phải chờ đợi những yếu tố cần thiết để bắt
đầu một cuộc biến đổi: một khoảng đất màu mỡ, hơi ẩm của đất, ánh nắng mặt
trời… Tất cả sẽ ảnh hưởng tới lớp vỏ bên ngoài, làm cho nó vỡ ra và mục nát.
Lúc vỏ trấu vỡ ra là lúc hạt lúa thấy mình sắp sửa không còn là hạt lúa nữa!
Rồi mầm sống dấu ẩn bên trong được đánh thức dậy, nảy nở, biến thành một mầm
xanh, thoát ra khỏi lớp vỏ đã vỡ và từ từ chui lên khỏi lòng đất để đón lấy ánh
mặt trời. Biến thành cây lúa, nó không còn là hạt lúa nữa. Nhưng chính nó sẽ
đem lại nhiều hạt lúa khác.
Nếu đem so sánh hình ảnh trên với cuộc đời Chúa Giêsu, ta sẽ thấy
một tiến trình y hệt. Chúa Cha đã gieo hạt lúa Giêsu xuống trần gian, đặt trong
cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Người đã sinh ra, lớn lên và sống ẩn dật tại
Na-da-rét. Người đã lên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Sau hết, qua
cái chết cứu chuộc, Người đã cứu mọi người khỏi tội lỗi, phục hồi cho nhân loại
sự sống đời đời mà ma quỷ đã cướp đi khi nguyên tổ không tuân phục Thiên Chúa.
Đặc biệt, cuộc Thương khó, cái chết trên thập giá, an táng trong mồ và sự Phục
sinh của Chúa Giêsu quả thực là những diễn tiến y hệt như tiến trình biến đổi
của hạt lúa. Như hạt lúa phải chết đi để đem lại sự sống cho những hạt lúa khác
thì Chúa Giêsu cũng phải chết đi để chia sẻ sự sống đời đời cho toàn thể nhân
loại.
1.
b) Những bài học về hạt lúa
Không phải Chúa Giêsu chỉ nói về sứ vụ của Người là chết để loài
người được sống, nhưng Người còn đưa ra những bài học vô cùng ý nghĩa về cái
chết của hạt lúa.
Bài học đầu tiên là về sự ưu tiên của sự sống đời đời,
được trình bày qua nghịch lý sống và chết, tạm bợ và vĩnh cửu. Sống ở đời này,
nếu ta chỉ lo lắng hưởng thụ mà không lấy cuộc sống để phục vụ, ta sẽ mất cuộc
sống vĩnh cửu mai sau, tức là chết muôn đời. Nếu ta lấy cuộc sống đời này như
một cơ hội để phục vụ, làm điều lành mặc dù phải chịu thiệt thòi, thì ta sẽ
được sự sống muôn đời.
Bài học thứ hai về gương phục vụ của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đã phục vụ mọi người vì Người nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi
người khác. Phục vụ người khác là phục vụ chính Thiên Chúa ở trong họ. Giờ đây,
Chúa Giêsu đã đồng hóa Người với anh chị em. Người khẳng định: “Ta bảo thật các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của
Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ta là môn đệ Chúa
Giêsu nên là người phục vụ Chúa trong anh chị em. Sống đời phục vụ, ta sẽ được
Thiên Chúa Cha “quý trọng” như Người đã quý trọng Con Một Người.
Bài học thứ ba là biết xử sự sao cho đúng khi ta cảm
thấy xao xuyến vì phải chấp nhận hy sinh. Chúa Giêsu biểu lộ hoàn toàn
những tâm tình hãi sợ, xao xuyến khi thấy cái chết tủi nhục đến gần. Cảm giác
“biết nói gì đây?” đã cho ta thấy Người như bị tê liệt, hoảng hốt. Nhưng đó
cũng chính là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn sự tín thác của Người nơi bàn tay
quan phòng của Chúa Cha. Người chỉ còn nhìn thấy một điều ưu tiên phải làm, tức
là làm cho Danh Cha được tỏ rạng. Tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa Giêsu ở trần
gian này là để tôn vinh Danh Cha. Cái chết của Người sẽ là hành vi cuối cùng
làm cho Danh Cha được chiếu sáng tột đỉnh. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với
Chúa Cha đã biểu lộ sự tuân phục tuyệt đối. Lập tức Chúa Cha nhìn nhận việc tôn
vinh Chúa Giêsu đã làm cho Người và đáp lại với lời hứa chính Người sẽ tôn vinh
Chúa Giêsu qua cuộc Phục Sinh vinh hiển.
1.
c) Cuộc phán xét thế gian này đang diễn ra
Nói đến cái chết của Người, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hướng đến một
trời mới đất mới: quyền lực ma quỷ và thế gian sắp bị đánh bại. Cái chết của
Người sẽ dứt khoát làm cho “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Sau chiến
thắng ở vườn Địa đàng, thế gian này đã biến thành lãnh thổ của Xa-tan rồi. Nó
tha hồ tung hoành và khống chế con người. Nhưng sau chiến thắng của Chúa Giêsu
nhờ cái chết, Xa-tan không còn đất đứng nữa. Con đường đi đến với Thiên Chúa đã
được nối lại để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Tuy nhiên ta nên hiểu cuộc phán xét thế gian, hoặc chiến thắng của
Chúa Giêsu là điều đang tiếp tục xảy ra và sẽ kết thúc vào ngày thế mạt khi
Người trở lại để phán xét muôn loài. Do đó, ngay bây giờ và tại thế gian này,
Chúa Giêsu mời gọi ta tham dự vào cuộc chiến thắng ấy bằng cách để cho Người
“kéo ta lên với Người”. Đừng chống cự, nhưng ta cứ theo Người, để cho Người kéo
ta vào trong mối thâm giao với Người và ngày sau được chung hưởng vinh phúc với
Người. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy để cho Người kéo ta lên với Người trên thập
giá, bắt chước Người cam chịu mọi gian nan thử thách, nhưng vẫn luôn trung
thành và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
1.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu không?
Tôi đã cầu nguyện về cái chết của Người như thế nào? Cái chết ấy ảnh hưởng gì
đến đời sống đức tin của tôi?
Bài học nào về hạt lúa Chúa dạy làm cho tôi phải suy nghĩ nhất?
Tại sao? Tôi sẽ thực hành như thế nào?
Điều gì ngăn cản tôi, không để cho Chúa Giêsu kéo tôi lên với
Người? Tôi sẽ nghe Chúa nói gì về tình trạng này?
Cầu nguyện
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
– Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật
của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm
dân của Người chính là Luật của tình yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể
đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em
hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).
Một trong những khao khát đượm tình hiện sinh của con người đó là
được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã trở thành vô vọng với cả những
người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô
vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu
quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì
sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Sự coi thường ở đây không phải
là thái độ lơ là, vô trách nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình
yêu.
Quy luật của tình yêu đã được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong
lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân
là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi
chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chắc hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng
định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Đã là quy luật thì có tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân
thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi
quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật
hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton
mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả của một quá trình nghiên
cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do
Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều
đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa
Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết thế nào là yêu thương.
Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi những gì mình có. Với quyền
năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa
Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương thực cho con người. Người
cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho
người què được đi, người mù được thấy người điếc được nghe… Người cũng đã biểu
lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng
biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu
chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa
hẳn đã là yêu đến cùng.
Yêu thương cách đích thực là cho đi những gì mình là. Phút giây
nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân
phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn
là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa
chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công
khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận
của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống, để sống kiếp “không chỗ tựa
đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau xót đến tột độ đến nỗi mồ hôi
tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người,
thân phận của vị vua trên các vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng
cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa,
thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái
thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở
cuối cùng.
Mất những tất cả gì mình có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn
chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn
gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng
sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến
trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây
lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.
Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của tình yêu. Để biết được quy
luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện
liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng
không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi dào, để sinh được hoa trái
và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi những gì mình có và tiến dần
đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình yêu, vì người yêu mình, vì cả
người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Hàng năm theo niên lịch phụng vụ, để chuẩn bị cho đại lễ Giáng
Sinh, Hội Thánh không chỉ dành quãng thời gian mùa Vọng mà còn dành một tuần
đặc biệt từ 17-24/12 như thời gian chuẫn bị gần. Tuần đặc biệt này có các bài
đọc riêng để giúp tín hữu y thức hơn. Để đón mừng đại lễ Phục Sinh, đón mừng
mầu nhiệm Khổ Nạn – Phục Sinh của Đức Kitô thì có những ngày mùa chay thánh và
tuần lễ chuẩn bị gần khởi từ chủ nhật thứ V mùa chay. Xin chia sẻ đôi nét suy
nghĩ được gợi ý từ hai bài đọc của ngày thứ hai tuần đặc biệt này: bài trích
sách tiên tri Đaniel kể về chuyện bà Suzana và bài trích tin mừng thánh Gioan
về chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang.
Thưở còn “làm chú” trong Tiểu Chủng Viện dù phải nghe một bài đọc
rất dài, bài trích sách tiên tri Daniel nhưng không ai trong chúng tôi cảm thấy
oải vì chuyện kể về bà Suzana vừa hấp dẫn vừa lôi cuốn trí tò mò của các chú
thiếu niên đang độ tuổi nhổ giò. Hơn nữa, ai cũng hể hả như vừa theo dõi một
cuốn phim hay, một câu chuyện đậm tính bi hài mà lại kết thúc có hậu: kẻ gian
ác phải chết còn người vô tội thì được cứu sống. Câu chuyện bà Suzana còn trên
môi miệng những chú tinh nghịch trong các giờ chơi những ngày sau đó: nè,cho
tao biết cây chò hay cây sồi? Sự tinh nghịch của chúng tôi cũng có phần do
thích thú trước trí thông minh của cậu bé Đanien biết phân biệt điểm khác nhau
giữa sự thật và điều dối trá. Sự thật vì chỉ có một nên phải tương đồng còn
điều dối trá thì dễ khác biệt. Đây là một trong những chìa khoá giúp các nhà
điều tra tìm ra sự thật hoặc phát giác sự giả dối. Hai người gian dối nếu không
quá lanh mưu hay lưu manh thì rất dễ lộ tẩy do những khác biệt trong lời khai
về một vấn đề hay một sự kiện. Đanien đã khôn ngoan tách hai ông lão dù tóc đã
bạc nhưng tuổi mãi ở tầm 35 riêng ra để tra xét. Và thế là sự dối trá đã lộ ra
nơi chính lời khai của hai ông. Người thì nói bà Suzana phạm tội dưới gốc cây
sồi ông kia lại bảo dưới gốc cây chò. Thú thật khi chọc ghẹo nhau, lũ mới lớn
chúng tôi đã tự thú nhận trí tò mò của mình về những chuyện ” rồi ai cũng sẽ
biết”. Tuy nhiên phải nhìn nhận điều này rằng tính có hậu của câu chuyện làm ai
ai cũng hể hả. Kẻ gian ác, dù là vị vọng hay quyền cao chức trọng cũng phải
chết, phải bị nghiêm trị còn người vô tội cần được cứu sống, người thấp cổ bé
miệng và người bị bóc lột, bị áp bức cần được giải phóng. Chúa đã thực thi điều
ấy và chúng ta đương nhiên phải làm như vậy. Phải có công bình và cần giữ công
lý nghiêm minh.
Trên núi cây dầu, trời vừa tảng sáng, một đoàn người trai gái, già
trẻ, lớn chức, bé quyền đủ cả, mặt hí hửng dẫn một chị phụ nữ ngoại tình đến
gặp Chúa Giêsu: ” Thưa thầy hạng phụ nữ này theo luật Môsê thì phải ném đá. Còn
Thầy, Thầy dạy thế nào?”. Thánh Gioan nhận ra đây chính là một mũi tên nhắm hai
mục đích mà mục đích chính là Chúa Giêsu. Những tưởng rằng trong tình trạng
tiến thoái lưỡng nan, Chúa Giêsu thế nào cũng bị sập bẫy, một cái bẫy tinh
quái, hiểm độc do các luật sĩ và biệt phái giăng ra để thực hiện âm mưu thâm
độc của mình. Các ông này không ngần ngại thức trắng đêm để bắt tại trận tội
yếu đuối, bất trung của người phụ nữ để làm mồi nhử, hãm hại Chúa Giêsu. Nếu tội
của người phụ nữ là một thì tội các ông này phải đáng mười vì đâu phải do yếu
đuối như chị phụ nữ kia mà là do lòng nham hiểm ác độc, một sự ác độc nham hiểm
tột độ đến nỗi không chừa một thủ đoạn bỉ ổi nào.
Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất và khi bị gặn hỏi
nhiều lần Ngài đã đứng lên rồi ôn tồn: “Ai trong các ngươi xét mình vô tội hãy
ném đá chị này trước đi’. Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục lấy ngón tay viết lên
đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng chắc chắn khó có ai đọc ra vì trời
vừa tảng sáng và khoảng cách giữa Ngài với đám đông chắc không thể gần vì có sự
ngăn cách của người phụ nữ, nhất là đám đông đứng đối diện thật khó mà đọc được
những gì Ngài viết. Xét theo công lý như cảm nghĩ của con người thì những người
có mặt sáng hôm ấy (trừ Chúa Giêsu), tất thảy đều phải chết, nhất là những kẻ
lòng dạ nham hiểm, ác độc.
Tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối
của ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao
nhiêu thì tư tưởng của ta và đường lối của ta vượt cao hơn tư tưởng và đường
lối các ngươi bấy nhiêu. Mạc khải của Thiên Chúa dần hé mở qua lời của tiên tri
Isaia. Mạc khải ấy nay hiện thực và nên hoàn hảo nơi chính Đức Giêsu: kẻ có
tội, người gian ác không phải chết. Đám đông hung dữ hôm ấy lẫn người phụ nữ
phạm tội ngoại tình đã được cứu sống bằng lòng nhân hậu của Chúa Giêsu. “Ta
cũng không kết tội chị hãy về và đừng phạm tội nữa”. Chúa Giêsu không chỉ khoan
dung với chị phụ nữ mà còn tế nhị đánh thức lương tri của đám đông hiểm độc bấy
giờ. Thánh Gioan đã tường thuật rằng sau khi ngẩng lên nói: “Ai trong các ngươi……
“thì Ngài lại cúi xuống viết dưới đất. Giả như lúc bấy giờ sau khi nói, Chúa
Giêsu vẫn ngước mắt nhìn chằm chằm vào đám đông thì thử hỏi có được mấy ai tự
nguyện rút lui, nhất là người rút lui đầu tiên. Hình như Chúa Giêsu không muốn
nhìn, Ngài tế nhị tạo cơ hội cho những người hôm ấy nhìn nhận tôi lỗi mình và
rút lui trong danh dự. ” Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tôi lỗi của loài
người, để họ còn ăn năn hối cải’ (Kn 11,23).Kẻ gian ác đã được cứu sống đúng
như lời Chúa đã phán: “Ta lấy mạng sống ta mà thề: Ta đâu muốn cho kẻ dữ phải
diệt vong, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống”. (x.Ed 18,23).
Lẽ công minh theo cảm nghĩ của con người, một kết cục có hậu mà
thường ai cũng thích khi xem phim hay đọc tiểu thuyết đó là kẻ gian ác phải
chết và người công chính được cứu sống. Tuy nhiên đây chỉ là lẽ công minh hay
là sở thích của đám đông dân thường. Với các hiền triết, các nhà đạo đức thì
dường như có cao hơn một bậc. Nên khoan dung với người có tội, cần lượng thứ
cho người gian ác để giúp họ hoán cải, ăn năn. “Buông đao thành Phật. Quay đầu
là bờ”. Những lời giáo huấn trong Phật giáo cho ta hay chân lý này. Các quốc
gia tiến bộ đã và dần bỏ án tử hình. Án hình giam giữ cũng là một trong những
cách thế giúp tội nhân có cơ hội ăn năn và sửa đổi. Kẻ gian ác không bị diệt
trừ ngay nhưng cần được giáo huấn để đổi thay.
Tuy nhiên để thực hiện điều này thì một người công chính, duy nhất
xứng là công chính đã không được cứu sống. “Người này đích thực là người công
chính” (Lc 23,47). Để kẻ gian ác được cứu sống thì Giêsu Kitô, người công chính
đích thực đã phải chết. Chuyện thật nghịch lý nhưng rất đượm tình. Chết cho
người công chính thì xưa nay vốn hiếm, ở đây Thiên Chúa lại tự nguỵên hy sinh
vì chúng ta là những tội nhân. Tình yêu thật khó lý giải vì Thiên Chúa chính là
Tình Yêu. Có nhiều người dễ biện minh rằng nếu ta hành xử như thế thì có thể
làm cho nhiều người lạm dụng tình yêu và không chịu đổi thay hay vươn lên. Cũng
có thể lắm nhưng ngược với khôn ngoan loài người như Tào Tháo đã quan niệm: thà
ta phụ người chứ không để người phụ ta hay thà giết lầm hơn bỏ sót thì với tình
yêu đích thật phải chăng phải là thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Dẫu có lầm thì cái
lầm trong tình yêu cũng thật đáng yêu vậy.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin Mừng Ga 12: 20-33: Quả thật “Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác”.
Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: «Thầy bảo
thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác».
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng
cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa
có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Hạt lúa mì được geo xuống lòng đất. Nó
nằm sâu trong lòng đất, nóng nực, bức bối. Rồi nó lại phải thối đi. Thối đi qua
việc hút nước ẩm trong lòng đất. Rồi phải xé rách vỏ hạt. Đau đớn lắm chứ!
nhưng nhờ đó, nó mới có thể cắm rễ vào lòng đất rồi nẩy mầm. Sau đó tiếp tục
phát triển để có thể sinh sản nhiều hoa trái khác.
Con người cũng vậy. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người
khác hạnh phúc. Do đó, chết là điều kiện thiết yếu của sống, và đau khổ là điều
kiện thiết yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không
được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác?
Theo như Flor McCarthy thì “chết là một phần của sống. Chúng ta
sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
– mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi,
– mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi,
– mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi,
– mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Quả thật “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác”.
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo: vài năm
trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo tựa đề “Khi
Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa”.
Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn
uống được vì một bệnh lao phổi. Mặc dù được điều trị bằng rất nhiều thuốc men
và được bao nhiêu người cầu nguyện nhưng bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu
truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8
năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này
đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn
công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa
nhậm lời.
Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: “lạy Chúa, con
tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là
do ý của Chúa!”. Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên nhưng bà không thể
quên được câu chuyện ấy. Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa
bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: “Con kêu xin Chúa
ban sức khoẻ cho con, con mỏi mệt lắm rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn
cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật, con cũng xin vâng!”. Về sau, Catherine kể lại
rằng, chính vào lúc đó, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine
Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin
Mừng hôm nay.
Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không
chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết
đi với ý riêng của mình, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa.
Nếu chị nữ tu không chết đi với ý riêng của mình để nói lên câu: “Lạy Chúa, con
đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!” thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế
nhân. Nhưng chị đã chết đi với ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa
trái. Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: “Lạy
Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn”, thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình
trạng bệnh tật. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà đã được lành bệnh và kết
sinh hoa trái.
Cả hai câu chuyện về chị nữ tu và Catherine Marshall đều dạy chúng
ta cùng một bài học. Chúng ta phải biết sẵn lòng làm chết đi ý riêng của mình
nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta phải biết
sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng
ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Thật thế, qua kinh nghiệm trên, mỗi người chúng ta khám phá ra
rằng: nếu lúc nào chúng ta cũng nghĩ đến sự an toàn bản thân thì chỉ tạo ra sự
sợ sệt, lo lắng và mất bình an.
Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự
sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự… sẵn sàng chấp nhận
mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ
đến.
Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất
nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an
trước đây. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ
Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi. Qua kinh
nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn
ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết
bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết.
Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả thật là một điều
cần thiết cho những ai đang bước theo Chúa trên con đường khổ giá: «Thầy
bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ
trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác».
Amen.
(Suy niệm của Gs. Phạm Văn Lưỡng)
“ĐÃ ĐẾN GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH”
1.
BỐI CẢNH BÀI TIN MỪNG
Trình thuật Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh người Do Thái
lũ lượt tiến về Giêrusalem để mừng đại lễ Vượt Qua theo luật dạy. Khi “nghe tin
Đức Giêsu cũng tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo
hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua
Israel!” (Ga 12, 12-13). Họ đâu ngờ rằng, trong đại lễ này, chính Đức Kitô, là
Chiên Vượt Qua Mới, sẽ biến thành lễ Vượt Qua Mới để cứu chuộc nhân loại.
Ngay đầu trình thuật (câu 20), tác giả Gioan kể rằng, không chỉ có
người Do Thái lên Giêsusalem thờ phượng Thiên Chúa mà còn có mấy người Hy Lạp
là những người ngoại giáo cũng đến đền thờ để tỏ lòng tôn kính thờ phượng
Người. Câu 21-22, tác giả Gioan kể tiếp, những người Hy Lạp này đã qua trung
gian các môn đệ Philipphê và Anrê mà xin được gặp Đức Giêsu. Từ “gặp” trong
Kinh Thánh có nghĩa là “tin”. Những người ngoại giáo này đã tin vào Người, Sự
kiện này cho thấy chương trình Cứu Độ là phổ quát, ơn cứu độ được mở rộng cho
tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc chứ không chỉ hạn hẹp trong dân Do Thái. Đức
Giêsu trả lời khi hai môn đệ hỏi Người:
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23) hàm ý Ơn Cứu Độ
phổ quát ấy giờ đây bắt đầu được thực hiện. Từ câu 23, tác giả Gioan không còn
nói gì đến những người ngoại giáo này nữa, cũng chẳng cho biết lời yêu cầu của
họ có được toại nguyện hay không, nhưng để tập trung bài trần thuật của mình
vào Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh nhờ mầu nhiệm khổ nạn, thập giá mà Người
sẽ phải Vượt Qua để vào vinh quang Phục Sinh.
1.
GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH:
2.
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Từ “giờ” được sử dụng hai mươi sáu lần trong Tin Mừng của Gioan,
thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được
thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, “giờ” này còn chưa đến. Chúng
ta lấy một ví dụ: Thân mẫu của Đức Giêsu, trong khi muốn cậy nhờ đến Con mình ở
tiệc cưới Ca-na, được nghe trả lời rằng: “Giờ của con chưa đến” (Ga 2, 4)… Mãi
đến đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu mới mặc khải “giờ” của Người đã đến.
2.
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ, vừa là sự chết, vừa là sự tôn vinh. Giờ, vừa là Thứ Sáu Tuần
Thánh, vừa là Chúa Nhật Phục Sinh. Để diễn tả sự phong phú từ cái chết của mình
được mời gọi tiến đến vinh quang, Đức Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen
thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái.
Đây là một bài học thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà
nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống
trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mầm sống đã vươn lên thành cây, phát sinh
bông hạt nặng trĩu và một đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho
nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt (trích bài suy niệm
của Lm. Minh Văn CMC). Cũng như hạt giống, Đức Giêsu cần phải được gieo vào
lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái là ơn cứu độ cho mọi người, kể cả
lương dân.
3.
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Cái chết của Đức Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua
để tiến đến vinh quang phục sinh, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát
triển Giáo Hội.
Cái chết của Đức Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô
hữu, bởi vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12, 26). Quả vậy,
các câu 25 – 26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Đức Giêsu:
“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thướng mạng
sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời (Ga 12, 25)… Ai
phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.
Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12, 26)… Ai yêu quý
mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, yêu thích
thế gian này và sự vinh quang riêng mình.
Ở đây vẫn còn là vấn đề Đức Tin, dù nó không rõ ràng như trong Tin
Mừng Nhất Lãm nhằm nhấn mạnh mối tương quan với Đức Giêsu: “Ai liều mất mạng
sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8, 35).
Tương quan với Đức Giêsu còn được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy
theo Thầy”. Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Đức Giêsu đi, nghĩa là cũng như
Người đi vào cái chết để dự phần vào vinh quang phục sinh. Trong trường hợp
này, Đức Giêsu đã nói: “Cha Ta sẽ tôn vinh nó”.
4.
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ khổ nạn và thập giá gần kề, tâm hồn Đức Giêsu xao xuyến! Người
đã cầu nguyện với Cha. Chúng ta cùng lắng nghe hai lời cầu nguyện của Người:
“Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” và “Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha”. Đức
Giêsu đã chọn lời cầu nguyện thứ hai. Nghĩa là Người đã chu toàn cách tuyệt hảo
sứ mệnh Chúa Cha giao phó: thí mạng sống mình để cứu rỗi toàn thế giới. Trốn
tránh giờ đó là hủy bỏ mọi giá trị của nó đã từng được gói ghém trong mầu nhiệm
nhập thể. Còn chấp nhận giờ đó là làm vinh danh Chúa Cha. Vì vậy, nhờ cuộc khổ
nạn và phục sinh của Đức Giêsu mà chương trình cứu độ phổ quát của Người được
thực hiện.
5.
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Sự chết của Đức Giêsu sẽ mang lại nhiều bông hạt. Người ta thấy
dân chúng tuốn đến với Người: Ban đầu là dân Do Thái (Ga 12, 9.12.17.18.34),
rồi đến dân ngoại làm nên hoa trái đầu mùa (Ga 12, 20 – 22). Đó cũng là điều
được nói lên ở câu 32: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi
sẽ kéo mọi người lên với tôi”. Khởi đầu của việc Đức Giêsu được giương cao là
khi Người chịu đóng đinh trên thập giá.
6.
“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23)
Giờ Con Người được tôn vinh cũng là giờ thế gian bị xét xử. Cuộc
sáng tạo cũ đến đây chấm dứt để bắt đầu cuộc sáng tạo mới. Số phận mọi người
tùy thuộc giờ Đức Giêsu là giờ phán xét, giờ phân chia: giờ này ai từ chối Đức
Giêsu thì bị xếp vào phe của Sa-tan, thủ lãnh thế gian, đối thủ lợi hại của Đức
Giêsu, và bị luận phạt như nó.
III. KẾT LUẬN:
Bản văn Tin Mừng hôm nay với những gợi ý nêu trên, nhằm gửi đến
mỗi người chúng ta tín thư sau:
Giờ của Đức Giêsu là trung tâm điểm của lịch sử ơn cứu độ. Giờ này
đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu chuộc nhân
loại. Cả cuộc sống của Đức Kitô đều qui hướng về Giờ đó. Từ Giờ đó mà có sự
phán xét nhân loại, có sự phân chia những kẻ tin hay không tin mầu nhiệm Đức
Kitô chết và phục sinh vinh quang. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống; còn ai
từ chối thì bị luận phạt và phải chết.
Để tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu và mừng Đại Lễ Phục
Sinh của Người trong những ngày sắp tới, mỗi chúng ta hãy sẵn sàng mở toang
cánh cửa lòng mình ra với tình yêu chân thật và sâu thẳm để đón nhận Đức Kitô,
Đấng đã chết khổ hình thập giá và phục sinh vinh hiển, nguồn Ơn Đức Độ của
chúng ta.
Xin được đưa ra một vài gợi ý áp dụng vào thực tế cuộc sống Kitô
hữu:
1.
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào
đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống
này để vào vĩnh cửu. Bạn và tôi, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
2.
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được.
Bạn và tôi có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
3.
Đức Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát để trở nên Thánh Thể – bánh
trường sinh cho nhân loại, cho bạn và cho tôi. Nếu lãnh nhận thứ bánh ấy mà
không có sự đồng cảm với Đức Kitô thì có nghĩa gì đâu? Cánh cửa nguồn ơn cứu độ
đã mở rộng từ lâu lắm rồi… phải chăng bạn và tôi vẫn đi vào mà lại không nhận
ra là mình đi đâu?
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
“Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian
này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:25).
Từ một câu chuyện có thật:
Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên,
được nghe biết về Chúa Giêsu, anh đã xin rửa tội theo Kitô giáo, sau đó tình
nguyện ở lại Ấn độ làm thừa sai, chứng tá cho niềm tin của mình.
Một chiều kia, Sundar cùng với một tu sĩ Phật giáo phải băng qua
vùng núi Himalaya để đi đến một tu viện. Trời lạnh buốt và màn đêm như sắp bao
phủ không gian. Sundar và nhà tu kia được báo cho biết họ sẽ bị lạnh và có thể
mất mạng nếu không kịp về đến tu viện trước khi trời tối.
Đang lúc đi vào một đoạn đường hiểm trở, với những vách đá cheo
leo, thì chợt, họ nghe có tiếng cầu cứu. Một người đàn ông đã trợt chân rơi
xuống khe núi từ khi nào. Chân anh ta bị gãy, không thể nào leo lên được, và
đang nằm chờ chết.
Người tu sĩ kia lên tiếng nhắc nhở Sundar:
– Chớ dừng lại. Ý trời đã định cho hắn như vậy rồi, ta không nên
can dự vào làm chi. Phần chúng ta, phải đi gấp lên nếu như không muốn bỏ mình
nơi này.
Sundar đáp lại:
– Theo tôi, ý Trời đã định cho ta đi ngang qua đây để cứu giúp kẻ
không may này đấy. Tôi không thể bỏ rơi anh ta.
Nói xong Sundar tìm cách trèo xuống khe núi. Vị tu sĩ kia vội vã
tiếp tục cuộc hành trình.
Nơi khe núi, nhìn đôi chân bị gãy, biết nạn nhân không thể tự bước
đi được, Sundar phải dùng tấm mền bó anh lại, cõng lên lưng, nặng nhọc lần mò
trèo khỏi khe núi, tìm trở lại con đường lúc nãy.
Sau mấy tiếng đồng hồ vất vả, Sundar và nạn nhân đến được lối mòn
dẫn về tu viện. Lúc này tuyết rơi mỗi lúc một dày. Trời tối. Cóng lạnh. Sức lực
hầu như khô cạn. Đang lúc tưởng chừng không còn bước thêm được nữa thì Sundar
chợt thấy có ánh lửa phát ra từ một cánh cửa sổ của tu viện.
Mừng quá! Sinh khí dường như được phục hồi. Sundar hăng hái dấn
bước về phía có ánh lửa. Chợt anh vấp té, bổ nhào trên tuyết lạnh.
Không phải anh đuối sức. Nhưng vì vấp phải một vật gì đó nằm chắn
ngang đường đi. Sundar quì xuống, lấy tay gạt lớp tuyết phủ bên trên thì nhận
ra đấy là xác của người tu sĩ đã cùng đi với mình ban chiều. Thương cho người
bạn đồng hành xấu số, Sundar âm thầm dâng lên Chúa một lời nguyện…. Và rồi từ
thẳm sâu của tâm hồn, anh chợt nghe vang vọng một câu Phúc Âm: “Ai yêu sự sống
mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự
sống đời đời. “(Theo lời kể của William Bausch)
“Sự sống thoát thai từ nỗi chết,” một linh mục đã nói như thế. Mà
đúng lắm, trong thực tế của đời người, để sự sống tiếp diễn, sự chết đã phải
xảy ra không ngừng. Khi chấp nhận nỗi đau thương mất mát trong cái chết, mầm
sống mới được phát sinh ra và triển nở. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết
đi, nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” là vậy.
Khi chỉ biết lo cho sự sinh tồn của mình mà làm ngơ trước nỗi khổ
đau của kẻ khác, khi chỉ chú trọng đến lợi ích riêng tư hơn là nhu cầu của tha
nhân, tôi đã tự đóng khung trong chiếc vỏ trấu để rồi cứ trơ trọi giữa giòng
đời. Nhưng nếu biết chết đi con người vị kỷ, tôi sẽ có được một mầm sống mới
làm phát sinh bao niềm hy vọng của một mùa gặt thành công.
Thói ích kỷ trong tôi càng chết đi, hình ảnh Thiên Chúa càng rạng
sáng. Càng cương quyết chiến đấu với chính mình, dung nhan Thiên Chúa càng được
hiện tỏ.
Thánh Kinh có kể lại: Trong một cuộc hành hương thánh địa nhân dịp
lễ Vượt qua, có sự hiện diện của một số người Hilạp. Họ là những người ngoại,
có lẽ đang khao khát tìm ra Lẽ Sống của cuộc đời. Khi nhìn vào Do thái giáo, họ
thấy thấp thoáng bóng hình của Lẽ Sống mà họ đang kiếm tìm. Thế rồi trong dịp
hành hương đền thờ Giêrusalem lần này, họ nghe nói về một con người có tên
Giêsu, nơi Ngài biết bao nhiêu tâm hồn đã tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống-từ
những cô gái điếm cho đến các kẻ thu thuế tội lỗi, từ những người khốn khổ bần
cùng đến các quan lính của ngoại bang…
Thế rồi những người Hilạp đã tìm hỏi và xin được “trông thấy” Đức
Giêsu. Đây không phải là một sự trông nhìn thuần tuý, vì đứng đâu mà lại không
thấy được Ngài. Song, họ muốn gặp gỡ, trao đổi, hiểu biết, và nhất là muốn bước
vào một tương quan thân thiết với Đức Giêsu.
Trong ngôn ngữ thần học của Thánh sử Gioan, sự “trông thấy” đó
luôn đi kèm với “niềm tin”. Như sau này, khi vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh,
Gioan “đã thấy và tin” (Ga 20,8).
Thế nhưng trước khao khát chân thành của người Hilạp, Đức Giêsu
lại trả lời với các môn đệ, những trung gian của niềm tin: “Giờ đã đến!”
Ngài đã chẳng trả lời “cho gặp” hay “không cho gặp”, Ngài chẳng
bảo “đang bận” hay “đợi lúc khác. “Song Ngài tuyên bố: Giờ đã đến!” Mà đây là
giờ gì nếu không phải là giờ tử nạn.
Thế ra để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời con người, để tăng thêm
sức sống cho các tâm hồn đang khát khao tìm kiếm Lẽ Sống, để trả lời cho tất cả
mọi câu hỏi của nhân loại, Chúa Giêsu lại nói đến giờ chết. Phải chăng đó chính
là giờ cao điểm của cuộc sống Ngài: bước vào sự chết để diễn tả tột cùng hình
ảnh của một Thiên Chúa yêu thương con người-yêu thương đến độ chấp nhận cái chết
“hầu thế gian được sống,” để nhân loại “thấy” được Lẽ Sống đích thật của cuộc
đời.
Nhưng chính trong cái chết của Chúa Giêsu lại mang mầm một cuộc
phục sinh vinh quang. Bởi vì đây là cái chết diễn tả tình yêu. Mà tình yêu thì
chẳng bao giờ chết. Tình yêu sẽ bất diệt. Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng những giá
trị của yêu thương lắm khi không thể đo lường hay lý giải được. “Con tim có
những tiếng nói mà lý trí không hiểu thấu” là vậy.
Thế nhưng, ai có dám chết cho yêu thương-yêu thương Thiên Chúa và
bao người đang sống bên mình-họ sẽ dần dần khám phá ra chân dung của sự
không-thể-hiểu-thấu kia. Chính khi biết tự hủy những đam mê, ích kỷ, tự mãn, tự
kiêu, tự ái…, con người sẽ cảm nhận sâu xa tại sao.
“Chính lúc trao ban lại là khi nhận lãnh,
Chính lúc quên là lúc gặp lại bản thân,
Chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muốn đời.”
Và niềm vui sống này chỉ được trao ban cho những ai biết quên mình
vì Yêu Thương.
(Suy niệm của Thom. Aq. Trầm Thiên Thu)
Trong cuộc sống có nhiều dạng thề hứa. Thế hứa là giao ước thực
hiện điều gì đó. Những người sống đời sống hôn nhân có lời hứa chung thủy phu
thê, nhưng người sống đời sống tu trì có lời hứa mà chúng ta gọi là lời khấn –
ít nhất là ba lời khấn: Vâng lời, nghèo khó, khiết tịnh. Lời thề hứa nào cũng
rất cần chữ TÍN.
Giữa các quốc gia có các hiệp ước, các công ty có hợp đồng, giữa
các cá nhân cũng có giao kèo. Trẻ em cũng thường ngoéo tay nhau mỗi khi thề hứa
với nhau. Trong nhạc phẩm “Ngoéo Tay Nhau Thề”, tác giả Vinh Sử và Cô Phượng mô
tả: “Ngoéo tay nhau thề lòng không dối lòng, ngoéo tay nhau thề tình nghĩa mênh
mông…”. Chính tình yêu cũng có lời nguyện ước giữa hai người yêu nhau.
Tuy nhiên, hứa thì dễ, giữ mới khó. Lời hứa cũng nhiêu khê. Sử gia
Thomas Fuller (1608-1661) nói: “Lời thề trong giông bão bị lãng quên lúc bình
yên”. Triết gia Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) nhận định: “Những người chậm
chạp khi đưa ra lời hứa là những người trung thành với việc thực hiện nó nhất”.
Chuyện kể rằng…
Một anh chàng giật mình khi nghe một giọng nói khàn khàn, run run.
Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là
mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
– Ăn hộ tôi mớ rau…!
Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn.
Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người để tới
chỗ làm sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh:
– Dạ, con không ăn, bà ạ!
Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi,
nhưng rồi gã quên rất nhanh cái cảm giác ấy. “Mình thương người thì ai thương
mình?” – ý nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.
– Ăn hộ tôi mớ rau, cô ơi! – Tiếng bà cụ yếu ớt.
– Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn! –
Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.
Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày, đợi cô gái đi
khuất, gã đi đến nói với bà:
– Rau này bà bán bao nhiêu?
– Hai nghìn một mớ – Bà cụ mừng rỡ.
Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.
– Sao chú mua nhiều thế?
– Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi
đến chiều con về qua con lấy!
Rồi gã nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa
rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy lòng mình vui vui…
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm
nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã
thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng
tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình
trong gió, gã nghĩ đến những phận người, và gã nghĩ đến bà cụ…
– Nghỉ ngơi thế đủ rồi đấy!
Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã
ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà
cụ.
Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang
bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình
của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ rồi.
Chiều Chúa Nhật, gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường
làm như vậy, có lẽ gã thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy
bà rỗi việc đang “buôn chuyện”.
Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang
của một bà béo:
– Bà bán rau chết rồi.
– Bà cụ hay đi qua đây hả chị? – chị bán nước khẽ hỏi.
– Tội nghiệp bà cụ! Cách đây mấy tuần, bà cụ giở chứng, cứ ngồi
dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng bà nhất quyết
không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh mà… chết!
Câu chuyện khiến lòng chúng ta chùng xuống, nỗi bâng khuâng rất
lạ, rất khó tả. Bà cụ là người chân thật, trọng chữ tín. Mấy mớ rau chẳng đáng
gì, nhưng với bà cụ, lời hứa rất đáng giá. Lời hứa nào cũng vô giá – dù lớn hay
nhỏ, và phải được thực hiện bằng mọi giá!
Giữa Thiên Chúa và con người cũng có những lời thề hứa, chúng ta
gọi là giao ước. Thời Cựu Ước, Đức Chúa đã tuyên phán: “Này sẽ đến những ngày
Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao
ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập;
chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng
đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào
lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa
của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31:31-33). Thiên Chúa đã hứa gì thì
chắc chắn được làm, làm đến nơi đến chốn.
Chúng ta chỉ là tội nhân, chẳng đáng gì để được Ngài hứa, nhưng vì
lòng thương xót mà Ngài dành cho chúng ta những giao ước kỳ diệu và vô giá:
“Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho
biết Đức Chúa’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta
sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr
31:34). Quả thật, tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như
Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3).
Thiên Chúa không đòi buộc gì nhiều, Ngài chỉ cần chúng ta thành
tâm sám hối. Thế thôi, mọi thứ sẽ ô-kê ngay! Thế nhưng chúng ta là phàm nhân,
không chỉ có máu Pharisêu mà còn có máu Cuội. Quá quắt lắm, vừa giả hình vừa
hứa lèo. Mùa Chay về, dịp thuận tiện để chúng ta nghiêm túc xét lại chính mình,
và rồi hãy sám hối: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở
lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin
Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).
Chút tro rắc trên đầu (hoặc vẽ trên trán) cũng chỉ vô ích nếu
chúng ta không “xức tro” tâm hồn và “xé lòng” vì tự cảm thấy bất xứng với Thiên
Chúa là Đấng chí thánh. Chắc chắn Ngài xót thương mà bỏ qua hết nếu chúng ta
thành tâm đấm ngực chính mình, đấm vào chỗ sâu thẳm nhất của con tim, chứ đừng
đấm ngực người khác. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải cầu xin Thiên Chúa biến
đổi chúng ta bằng cách “đại tu” linh hồn chúng ta: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho
con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin
đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí
thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh
thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai
lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:12-15). Lời cầu nguyện chân thành như thế
này là lời cầu nguyện có màu tím nhưng lại lung linh sắc hồng. Đẹp biết bao!
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Cái khổ nhiều hơn cái sướng, cái buồn
nhiều hơn cái vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười. Đời phàm nhân là thế. Khi xuống
thế làm người, Chúa Giêsu cũng phải chịu trăm cay ngàn đắng. Cay đến xé lòng,
đắng đến cứng miệng. Còn con đường nào đau thương hơn Đường Thập Giá?
Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã
lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền
năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là
Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là
vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn
cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7-9). Đức vâng lời
rất cần thiết, cần thiết hơn cả lễ tế, thế nhưng lại là bài học khó học và khó
áp dụng nhất.
Một hôm, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên
Chúa, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền
Galilê, và xin được gặp Chúa Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê, ông Anrê
cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Ngài không trả lời thẳng vấn đề
mà lại nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em,
nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình;
còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì
sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự
sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy
cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga
12:23-26).
Đó là “giao ước” mà nghe lại như không là giao ước: Nếu thế này
thì sẽ thế kia, nếu thế kia thì sẽ thế nọ. Rất bình thường mà lại rất lạ. Cũng
với tinh thần đó, Thánh Phanxicô Assisi đã xác định: “Chính lúc quên mình là
lúc gặp lại bản thân, chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc chết
đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình). Quả thật, vô cùng kỳ diệu! Người
ta phải tìm hiểu thấu đáo, rồi phải can đảm sống, nhờ đó mới có kinh nghiệm, có
kinh nghiệm rồi thì mới cảm nghiệm được dạng giao ước “ngược đời” như vậy.
Thiên Chúa đã giao ước với nhân loại sau khi Ông Bà Nguyên Tổ sa
ngã. Ngài đã hứa chắc chắn: “Một khi đã thề với danh nghĩa là Đấng Thánh, thì
cùng Đa-vít, Ta chẳng thất tín đâu” (Tv 89:36). Ngài hứa ban Con Một làm Đấng
Cứu Độ, và Ngài thực hiện đến cùng. Chúa Cha cương quyết đến mức Chúa Giêsu,
theo nhân tính, còn tưởng Ngài bị Chúa Cha bỏ rơi trong nỗi đau khổ tột cùng và
thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34).
Vâng, lời hứa phải được thực hiện, Ý Cha phải được thể hiện. Nhưng
với nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy lo sợ nên Ngài đã tâm sự với các môn
đệ: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27a). Và
rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì
giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:27b-28). Dù sợ
nhưng Ngài vẫn chỉ mong Ý Cha nên trọn mà thôi. Ngay lúc đó có tiếng xác nhận
từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga
12:29). Dân chúng đứng ở đó nghe vậy, người thì bảo đó là tiếng sấm, người thì
bảo đó là tiếng của một thiên thần. Người trần mắt thịt làm sao hiểu nổi! Và
rồi Đức Giêsu nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này
sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:30-31).
Giờ G đã điểm. Sự giằng co rất gay go. Thời đại chúng ta đang sống
cũng là thời điểm “tranh tối, tranh sáng”, Thánh Phaolô đã có lần thốt lên:
“Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Nhưng dù thế nào, Chúa
Giêsu vẫn muốn thực hiện trọn đức tuân phục, và dù đau khổ tột cùng, Ngài vẫn
hứa với chúng ta: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ
kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Ngài nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết
cách nào: Chết treo trên Thập Giá. Chúa Giêsu chịu chết để hoàn tất lời hứa của
Chúa Cha.
Chúng ta được Thiên Chúa giao ước, chúng ta cũng phải thề hứa với
Ngài và tha nhân, nhưng phải thực hiện đúng. Bằng cách nào? Đồng lao cộng khổ
với Chúa Giêsu qua những điều trái ý mình hằng ngày. Mùa Chay, Mùa Thương Khó,
chúng ta hãy noi gương Thánh nữ Faustina cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn
Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự
lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò
mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết
với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những
thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian
khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự
khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của
con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế
hoạch thất bại của con” (Nhật Ký, số 343).
Ý nguyện thật là cao đẹp vì hoàn toàn muốn tuân phục Ý Chúa, nhưng
để thực hiện thì chúng ta phải cố gắng lắm mới có thể hoàn tất lời ước nguyện,
lờ thề hứa. Thật không dễ dàng chút nào! Nhưng với ơn Chúa, người yếu đuối nhất
cũng khả dĩ thực hiện.
Hành trình giao ước rất gian khổ, đầy máu đỏ tươi và nước mắt mặn
chát, hành trình lời thề hứa là Hành Trình Thập Giá, phải qua Đường Thập Giá
mới tới được Miền Ánh Sáng – Per Crucem ad Lucem.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chọn Chúa là cùng đích
cuộc đời, xin giúp chúng con can đảm thực hiện mọi lời thề hứa với Ngài và với
tha nhân. Đã biết bao lần chúng con lỗi lời thề với Ngài, xin Ngài thương tha
thứ; đã bao lần chúng con sai lời hứa với nhau, nhưng chúng con không cho đó là
tội phạm tới tha nhân, chúng con thành tâm sám hối và quyết tâm chấn chỉnh, xin
Ngài đại lượng thương xót. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu
độ chúng con. Amen.
(Suy niệm của Thom. Aq. Trầm Thiên Thu)
Tục ngữ Việt Nam nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có
nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó
cái “tiếng” cũng có thể tốt hoặc xấu. Người Công giáo gọi là chết lành hoặc
chết dữ. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.
Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu
Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối
với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:21), và ông nói về
“Người Ấy”: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl
2:8).
SỐNG LÀ YÊU
Sống là yêu, và yêu là sống. Sấm ngôn của Chúa nói qua miệng ngôn
sứ Giêrêmia: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một
giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm
tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu
Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31:31-32). Giao-ước-mới này khác giao ước đã ký
kết với cha ông. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ít-ra-en,
chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của
Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải
dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31:34a).
Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi
người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ
tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31:34b). Là
tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống
thì phải biết yêu!
Giao-ước-mới đó gọi là Tân ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu
người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35). Khó quá!
Vâng, không dễ chút nào. Nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không
thể có cái này mà thiếu cái kia. Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì anh em
muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật
Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua,
nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy
Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con
đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv
51:3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ
chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối.
Được tha rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch, thế nên chúng ta phải
xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì
chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong
trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho
gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51:12-13).
Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên
chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài
cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho
người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:14-15).
CHẾT LÀ YÊU
Sống là yêu, sống để yêu, sống vì yêu, đó là chuyện dễ hiểu. Chết
cũng là yêu, để yêu và vì yêu lại là điều khó hiểu, thậm chí nghe chừng nghịch
lý. Nhưng đó là sự thật hiển nhiên.
Muốn gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi”? Chính
Đức Giêsu, khi còn sống kiếp phàm nhân, đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng
lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được
nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là
không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát
chết” là được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức
Kitô là để củng cố đức tin cho chúng ta.
Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải
qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Vậy đó, cái gì
cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và
biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông,
không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, văn
thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng
ngày mới có thể nấu ăn ngon,… Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm. Lười biếng thì chỉ
có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi
chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho
tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).
(Ga 12:20-33) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên
Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền
Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12:21).
Một ước muốn tuyệt vời. Người Pháp nói: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có
thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến
thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga
12:23).
Rồi Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác” (Ga 12:24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có
người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì
sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự
sống đời đời” (Ga 12: 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn
lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trút lòng ra:
“Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở
đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).
Theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên tâm sự với
các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27).
Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì
giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:28a). Ngài cảm
thấy sợ, nhưng Ngài biết trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà
thôi. Và rồi có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn
tôn vinh nữa!” (Ga 12:28b).
Nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó nghe vậy có người cứ
tưởng là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với
Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi,
mà vì các người” (Ga 12:30). Giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ
của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Thế nhưng chính
“giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian
này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà
chiến thắng!
Chúa Giêsu bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao
lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12:32). Đức Giêsu nói
thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử
– dù thân tín nhất – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là
lời-hứa-kỳ-diệu!
Có lẽ chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để chia tay.
Nói để từ giã. Nói để trăng trối. Nói như không còn dịp để nói. Nhưng Ngài muốn
nói nhiều để mọi người biết yêu thương nhau, yêu cả lúc sống và khi chết.
Lạy Chúa Giêsu, xin tái tạo trái tim chúng con nên giống Ngài hơn,
để chúng con có thể kính mến Chúa và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của
cuộc sống. Xin giúp chúng con dám chết với Ngài để xứng đáng cùng Ngài phục
sinh. Ngài hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh
Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm Mark Link, SJ)
Chủ đề: “Nếu muốn sống và phát sinh hoa trái,
chúng ta cũng phải bắt ý riêng mình chết đi tựa như hạt lúa mì bé
nhỏ.”
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo:
Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan
đề “Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa”. Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt
giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng.
Mặc dù được điều trị bằng vô số thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện
cho, bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu
truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8
năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này
đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn
công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa
nhậm lời. Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: “Lạy Chúa, con
tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là
do ý của Chúa!”. Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên. Câu chuyện kỳ lạ
ấy khiến bà bối rối. Bà nói: “Dẫu sao tôi vẫn không quên được câu chuyện ấy!”.
Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như
lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: “Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con đã
mỏi mệt quá rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay
bệnh tật đi!”. Về sau, Catherine kể lại rằng, vào lúc ấy, sức khoẻ bà bắt đầu
hồi phục lại.
Ý nghĩa của câu chuyện giúp hiểu bài tin mừng hôm nay
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine
Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin
Mừng hôm nay. Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không
chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết ý
riêng của mình đi, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa được.
Nếu chị nữ tu không chết ý riêng của mình đi để nói lên câu: “Lạy Chúa, con đã
tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!” thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân.
Nhưng chị đã chết ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái.
Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên
câu: “Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn”, thì có lẽ bà vẫn nằm lại
trong tình trạng bệnh hoạn. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà cũng được lành
bệnh và kết sinh hoa trái.
Câu chuyện của chị nữ tu và của bà Catherine Marshall khiến chúng
ta nhớ lại câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani. Trong cơn hấp hối
tại đó, Ngài đã thốt lên cùng Thiên Chúa: “lạy Cha…. không phải ý con… nhưng
xin theo ý Cha” (Lc 22: 42). Giả như Chúa Giêsu không bắt ý riêng Ngài phải
chết đi trong mảnh vườn ấy, thì anh chị em cũng như tôi sẽ không được cứu khỏi
tội lỗi mình.
Tất cả những câu chuyện về chị nữ tu, về Catherine Marshall và về
Đức Giêsu đều dạy cho chúng ta cùng một bài học. Chúa dạy ta biết sẵn lòng làm
chết ý riêng mình đi nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa
dạy ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay
Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Những câu chuyện có ý nghĩa gì đối với ta? Nói một cách cụ thể,
tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với cuộc sống thường nhật của anh chị em và
tôi?
Chúng ta hãy xem xét vài sự kiện có khả năng xảy ra:
Giả như cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự
trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều
ấy. Như vậy “bắt ý riêng chết đi” có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi
và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang
ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng
bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế chết cho ý riêng có nghĩa là nhìn nhận vấn đề
của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến
chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy,
thì “Chết cho ý riêng mình” có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại
tiếp tục dùng tình thương cư xử với y.
Chết cho ý riêng mình là điều không dễ
Chị nữ tu đã không cảm thấy dễ dàng khi nói với Chúa rằng chị chấp
nhận làm một kẻ tàn phế nếu ý Ngài muốn như thế. Catherine Marshall đã không
cảm thấy dễ dàng khi thưa với Chúa bà sẽ chấp nhận bất cứ số mệnh nào ngài
quyết định cho bà. Đức Giêsu đã không cảm thấy dễ dàng trong việc ưng thuận thi
hành bất cứ điều gì Cha Ngài muốn. Nhưng cả ba người – chị nữ tu, Marshall và
Đức Giêsu đã tin Thiên Chúa và phó mình trong tay Ngài. Họ đã chết “cho chính
mình’ và từ đó đem lại kết quả là sinh nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Kết luận:
Tin Mừng trong các bài đọc hôm nay là. chúng ta có thể làm được
như thế. Chúng ta có thể noi gương vị nữ tu, bà Catherine Marshall và Đức
Giêsu. Và chúng ta cũng có thể đem lại nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Có thể chúng ta phải chiến đấu giống như vị nữ tu và Catherine đã
làm, hoặc có thể chúng ta phải hấp hối như Đức Giêsu, nhưng nếu chúng ta làm
như họ, chúng ta cũng sẽ mang hoa trái về cho Thiên Chúa và được sống vĩnh cửu.
Điều quan trọng là biết đặt cuộc sống chúng ta vào tay Thiên Chúa
trong niềm tín thác trọn vẹn
Điều quan trọng là cứ để cho Thiên Chúa thực hiện bất cứ điều gì
Ngài muốn đối với cuộc đời của chúng ta. Và đó chính là Tin Mừng trong bài Phúc
Âm hôm nay.
Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước hạt lúa mì và biết “chết cho
chính mình”, chúng ta cũng sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tin Mừng đó là nếu chúng
ta bắt chước gương chị nữ tu, bà Catherine Marshall, và gương Chúa Giêsu, chúng
ta cũng sẽ mang lại hoa trái cho Thiên Chúa và đạt được sự sống đời đời.
Chúng ta hãy cầu nguyện để kết thúc. Xin anh chị em cùng im lặng
cầu nguyện với tôi.
Lạy Thiên Chúa là cha chúng con. Trong khi chúng con chuẩn bị cùng
bẻ bánh với nhau, xin hãy giúp chúng con nhận ra rằng.
Nếu những hạt lúa mì không bị xay thành bột và nếu những trái nho
riêng lẻ không bị ép thành rượu, chúng con sẽ không thể chia sẻ với nhau tiệc
thánh này.
Xin giúp chúng con bắt chước hạt lúa và chùm nho, biết dâng chính
đời sống chúng con cho Ngài để tuỳ Ngài định đoạt theo thánh ý Ngài.
Đức Giêsu loan báo
Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
Câu hỏi gợi ý:
1.
Trong việc buon bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ
tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là
chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước
không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?
2.
Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và
đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào
không?
3.
Lời Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi
thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” có
mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?
Suy tư gợi ý:
1.
Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra, muốn hạnh phúc
phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến
hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, ma theo kiểu hình
“sin” hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít,
để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều
khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v.
v… Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa
lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng
búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan
trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng
hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa
khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào
và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy
không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao
gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay
cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ
thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu.
Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được
nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp
nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng
nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh
phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2.
Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống,
vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu
cho biết: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” Và Ngài cho ta biết lý do nào
khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới
được tôn vinh: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không
chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác”. Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: “Ai yêu quý mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng
cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa
có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và
người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao
thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Đời sống
kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa
thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là
điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không
được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế,
hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc
của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của nhưng chiến
sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên
những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở.
Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay
người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân
chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm
thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên
làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn
ai coi thường mạng sống mình ở đời nay, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời”. Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải
chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh
phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không
chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải
tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà
không muon trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc
mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn
giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, ben dùng
những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến những hậu quả
hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp…).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và
chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như:
“Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng
vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6). “Nếu ta cùng chết với Ngài,
ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài”
(2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3.
Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau
khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an
và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời
đời”, tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi
người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an
toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy
đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo
dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách
đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an
toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy
của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến
gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương
tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không
nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương
tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an! Thế
rồi những khó khăn xảy đến… trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng tự vệ, tôi
phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi
lẩm nhẩm hát trong trí: “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì,
tôi không còn e sợ nỗi gì (…) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm
nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây
gậy Chúa khiến tôi an lòng” (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm
theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho
bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy
an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận
mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự
thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn
tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả
những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cung nghĩ
trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng,
mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự
sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự… sẵn sàng chấp nhận
mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ
đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều:
một thứ bình an hạnh phúc thường hang và bền vững, khác với thứ bình an trước
đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa,
không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm
này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng
tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc
nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu
nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và
chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau
khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con
làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin
cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
ĐỂ ĐƯỢC ƠN NGHĨA CHÚA CẦN CHẾT ĐI CON NGƯỜI TỘI LỖI
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi “Hãy Vui Lên” tuần
trước khuyến khích chúng ta tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường
ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này xảy
đến trong Mùa Chay lúc mà sự mệt nhọc không làm giảm bớt, nhưng đúng hơn gia
tăng niềm vui được đến gần mục đích.
Giao ước mới được ký kết
Kể từ khi dân Israel quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng(x.
Xh32), giao ước giữa Thiên Chúa vớidân Ngài bị nhiều lần gián đoạn, do dân lỗi
lời giao ước. Vì thế Chúa đã dùng miệng các tiên tri để phán dạy và trao ban
một điều căn bản mới.
Trong Cựu Ước, Giêrêmia là người duy nhất nói về “giao ước mới”,
nên lời của ông rất quan trọng, tại sao vậy? Vì lời ấy trình bày một sự thay
đổi căn bản trong tương quan giữa Thiên Chúa với con cái Israel.
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải
đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi
giận. Nay Chúa ban hành Luật với một cách thức và công thức mới. Thiên Chúa sẽ
ghi tạc vào lòng con cái Israel (Gr 31,33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và
cá nhân vớiChúa (Gr 31,34)không qua trung gian: “Người này sẽ không còn phải
dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em” (Gr 31,34) theo nghĩa Kinh Thánh là
hiệp thông vớiChúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: “Ta sẽ là Chúa của
chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,34), đây là nét đặctrưng của giao ước
kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một
giao ước “khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ
tội lỗi cho dân” (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và
hoàn tất trong “giai đoạn” vượt qua.
Hoán cải tận con tim
Điều cần thiết hơn cả để đi vào trong giao ước là hoán cải, hoán
cải để được Chúa thứ tha và làm mới lại giao ước. Tác giả Thánh Vịnh khơi dậy
lòng thương xót của Thiên Chúa khi thứ tha tội lỗi cho dân. Trong Kinh Thánh có
nhiều hình ảnh về sự tha thứ như:Thiên Chúa xóa, rửa và tẩy sạch, nên cũng có
nhiều cách thế diễn tả sự đổi thay nơi con người được tha thứ. Nhưng sâu xa hơn
cả là sự tái sinh: “Xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần
cương nghị trong người con” (Tv 50, 12-13). Quả tim trong Kinh Thánh không chỉ
là nơi chứa đựng cảm xúc nhưng còn là nơi chất chứa sự thông minh và đưa ra
những quyết đoán nữa. Người có lòng trong sạch thì luôn hướng trọn về Chúa.
Thần khí (trong tiếng Do Thái) là hơi thở, sự sống và nguyên lý sáng tạo. Tác giả
Thánh Vịnh thưa với Chúa khi nói về các vật sống: “Người rút lại hơi khí của
chúng, chúng liền tắt thở, chúng sẽ trở về với đất bụi! Người sai khí của
Người, chúng được tạo thành và Người đổi mới mặt đất” (Tv 103, 29-30). Giống
như các tội nhân được tha thứ, từ tội nhân, họ có thể trở thành chứng nhân của
lòng thương xót Chúa.
Hãy là hạt lúa mì rơi xuống đất
Khi những người Hy Lạp đến xin được gặp Chúa Giêsu tại Giêrusalem
trong dịp lễ Vượt Qua, họ nói với ông Philipphê rằng: “Thưa ngài, chúng tôi
muốn gặp Đức Giêsu” (Ga 12, 24). Ước muốn nơi những người Hy Lạp mong gặp Chúa
Giêsu và lắng nghe Lời Người đã nhận được câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu
như sau: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23). Thử hỏi Chúa Giêsu
muốn nhắc đến “giờ” nào đây? Khung cảnh lúc đó giúp chúng ta biết rõ rằng: Đây
là “Giờ” Mầu nhiệm và long trọng về cái chết và sống lại của Chúa.
Bằng một ẩn dụ về hạt lúa mì, Chúa Giêsu dùng với hình ảnh giầu
biểu cảm về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm của sự biến đổi từ cõi chết qua cõi
sống, tự nhiên nói lên tất cả. Chúng ta ghi nhận sự đảo ngược ý nghĩa của lễ
Phục Sinh: mất sự sống mình, để lấy lại. Đây là hình ảnh dễ hiểu, phát xuất từ
kinh nghiệm tự nhiên. Chắc chắn, “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối
đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình” (Ga12, 24). Để sinh tồn nói phải mục nát.
Tiếp theo là sự so sánh ít thuyết phục của Chúa Giêsu khi chúng ta chưa có kính
nghiệm về chính mình: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình
ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga12, 25). Nhưng nếu chúng
ta suy tư về cái chết của người khácthì sẽ thấy không ai mang được điều gì mình
đã chiếm hữu hay yêu thích khi còn sống. Sự mất mát này còn lớn hơn đối với
những người đã đặt đời mình vào mọi sự ở trần gian.
Không giống như các Phúc Âm Nhất Lãm, nơi Tin Mừng Gioan không có
cảnh Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Giệtsimani. Nhưng cảnh này cách nào đó: ở
đây Chúa Giêsu nói “xao xuyến” và nói đến “giờ” của mình. Bây giờ linh hồn Ta
xao xuyến, và biết nói gì? (Ga12, 27) Người xin Chúa Cha “cứu khỏi giờ này?”
(Ga12, 27) Người không trối giờ này, khi xin Cha tôn vinh “danh Cha”, thể hiện
vinh quang Cha, nghĩa là sự sống và quyến năng thần linh của Cha nơi Đức Giêsu.
Một dấu chỉ trao ban được Chúa Cha chấp nhận. Bản văn kết thúc với một “lời
tien tri” của Chúa Giêsu tuyên bố Người phải chết cách nào. Lời này đã có từ
câu đầu của Tin Mừng: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Mong gặp Thấy Chúa Giêsu giống như nhóm người Hy Lạp xưa kia.
Chúng ta đã nhìn thấy Chúa qua đôi mắt đức tin, nhìn nhận Người là Đấng Thiên
Sai, đã chịu đóng đinh chết và đã sống lại. Vậy chúng ta hãy để cho Chúa chiếm
lấy và đã trở thành môn đệ Người.
“Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên
cùng Ta” (Ga12, 32). Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải
cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang
cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài.
Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách
trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.
Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có
thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào
trong Vương Quốc trên trời. Amen.
90. Vượt qua sự chết để vào cõi sống
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
1.
HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giêsu vào thành
Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến
“Giờ” Đức Giêsu được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là vào trong vinh quang qua
khổ nạn thap giá, giống như hạt lúa phải chết đi thì mới phát sinh ra nhiều hạt
khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ phá hủy bức tường ngăn cách
giữa Do Thái và dân ngoại để ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, và đến
ngày tận thế thủ lãnh sự tối tăm là Xa-tan sẽ bị ném vào hỏa ngục đời đời.
CHÚ THÍCH:
– C 20-22: + Mấy Người Hy lạp:Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có
thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Ho lên Giê-ru-sa-lem dự lễ
Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem
của Đức Giêsu, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông
Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giêsu: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến
thưa Đức Giêsu điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều
sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
– C 23-25: + Đã đến Giờ:Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta
(x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30; 8,20), Đã đến Giờ Người phải
rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của
kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giêsu bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ
Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn
vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giêsu phải trải qua cuộc
khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa
gieo vào lòng đất: Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có
chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giêsu cũng phải trải
qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh
quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và phát
triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình
ở đời này…: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là
một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự
sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được
sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35; Mt 16,25; Lc 9,24).
– C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức
Giêsu thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống
lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giêsu cảm thấy
bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng,
ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ
nay, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giêsu
cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin
Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo
Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin
này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời
vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha
từ trời vọng xuống như khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình
(x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu
chỉ” do Đức Giêsu thực hiện. Từ đây, Thien Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giêsu khi
cho Người từ cõi chết trỗi dậy tại Giê-ru-sa-lem.
– C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”… “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức
Giêsu mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh
rền vang mà không hiểu nội dung nói gi? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác
lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giêsu. Sự kiện này tương tự như trường
hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ
đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp
bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu là Giờ phán xét và kết
án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên
Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giêsu thiết
lập.
– C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất:Đức Giêsu sẽ bị treo trên
thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13; 6, 62), sau khi từ
cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giêsu
sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng
phải bỏ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng
như Người đã uống (x. Mt 20,23).
CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do
thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và mot số lương dân đến xin
gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giêsu được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ
được tôn vinh” của Đức Giêsu nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này
nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giêsu xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức
Giêsu đã cầu xin với Chúa Cha thế nào để nêu gương vâng phục ý Cha cho chúng
ta? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh
bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa Giêsu cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh
quang với Người thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?
1.
SỐNG LỜI CHÚA
2.
LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được
nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
3.
CÂU CHUYỆN:
1) Sẵn sàng chịu chết để bạn tù được sống
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung
của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục
vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi
tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết
thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được
gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp
lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân
phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên
sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là
Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin
chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người
kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn
tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải
nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững
đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ
can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều
người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc
các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích
thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap
Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha
Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại
giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và
yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế… thì bây giờ họ đã đối xử với nhau
trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi
gương vị linh muc đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen
biết.
2) Giá đắt phải trả cho thái độ vô cảm:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy
trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh
đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng
xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến
của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu
như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài
xế đã lên tiếng yêu cầu têncầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh
đậptàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia
lại,nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi
rậm gan đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên
trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe
để tiếp tục cuộc hành trình…Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu
người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: “Này ông kia, yêu cầu ông xuống
xe đi!”.Người đàn ông ngạc nhiên nói: “Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã
lên tiếng bênh vực cômà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?”
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: “Nếu ông không xuống, tôi sẽ không
cho xe chạy.”Điều bất ngờ là các hành kháchtrước đó đã im lặng thì bây giờ lại
nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ
còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình.
Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi
và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun
hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai
tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không
ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: “Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế
hả?” Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một
nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề
đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, một tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc
đã xảy ra ở vùng “Phục Hổ Sơn”: Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài
xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông
đã đọc được bản tin và bật khóc!
3.
SUY NIỆM:
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của
mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi
xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường.Các
hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo,
đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhão nhét trong ruộng.
Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: “Các
bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì
các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến
nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên
đường và một cơn gió ào tơi thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở
thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnhkia chỉ ít ngày
sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng
cáp. Cây lúa lớn dầnvà không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúavới
hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên
lương thực nuôi sống loài người.Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã
biến thành trămhạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến
thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất
không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được
nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi
thường mạng sống mình ơ đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga
12,24-25).
2) Con đườnghạt lúa của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra một con đường cứu
độ cho loài người chúng ta là “Phải qua đau khổ để vào vinh quang”.
Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm hạt lúa Giêsu qua ba giai
đoạn như sau:
+ Mầu nhiệm Nhập Thể giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất:
“Đức Giêsu Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).
+ Mầu nhiệm Tử Nạn giống như hạt lúa phải trải qua giai đoạn bị
mục nát: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết
trên cây thập tự”(Pl 2,8).
+ Mầu nhiệm Phục Sinh giống như hạt lúa đã được biến đổi gia tăng
gấp bội:”Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu,
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả
trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh
Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Ki-tô là
Chúa” (Pl 2,9-11).
Tin Mừng Mát-thêu cũng trình bày mầu nhiệm hạt lúa của Đức Giêsu
như sau: “Từ lúc đó, Đức Giêsu Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải
đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh
sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy,
các môn đệ không muốn chấp nhận. “Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu
trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Nhưng Đức Giêsu
quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì
tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”
(Mt 16,22-23).
3) Con đường hạt lúa của các môn đệ.
Đức Giêsu đã mời gọi mọi người đi con đường thập giá của Người:
“Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt
16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận đi theo con
đường hạt lúa của Đức Giêsu. Phao-lô Tông Đồ dân ngoại đã bày tỏ với các kỳ mục
ở Ê-phê-sô như sau: “Giờ đây,bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà
không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành
nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ
đợi tôi” (Cv20,22-23).
Sau các Tông đồ, đến lượt các Ki-tô hữu cũng đã chọn đi con đường
của hạt lúa là chấp nhận bị mục nát, chịu chết vì danh Chúa để từ đó Hội Thánh
không ngừng được phát triển như lời ông Téc-tu-a-nô đã nói: “Máu các vị tử đạo
là hạt giống trổ sinh các tín hữu”.
4) Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.
Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải
được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng
cầu nguyện ket hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng
việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:
– Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm
giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi
mình.
– Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để
diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.
– Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ
thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.
– Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan
tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.
– Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay
từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói
năng hách dịch làm thất nhân tâm.
– Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn
bớt thù”. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở
mang Nước Chúa.
4.
THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày
Mùa Chay này, để noi gương Đức Giêsu, giống như Cha Kôn-bê xưa đã làm, đó là:
hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay
những người gặp cảnh đáng thương?
5.
LỜI CẦU:
– Lạy Chúa Giêsu, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu
mục Do Thái tưởng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không
phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có
chết đi mơi sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết trên thập giá, Chúa đã
được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi
Hội Thánh cũng noi gương Chúa để chấp nhận bị đế quốc Rô-ma bách hại suốt 300
năm, và cuối cùng đã được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả Đế quốc tin
theo Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.
– Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng
con sẵn sàng đón nhận những đau khổ thập giá với thái độ tin yêu và hy vọng,
noi gương Chúa xưa. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường duy
nhất để nhờ đó chúng con xứng đáng nên hoàn thiện noi gương Chúa, và ngày sau
còn được Chúa tôn vinh lên Quê Trời hưởng hạnh phúc đời đời.
1.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
ÁNH SÁNG CỦA THẬP GIÁ
Đã đến “giờ”. “Giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và
cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện.
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học là tuần lễ
cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1;
18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến
thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người. Việc xức
dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi của Maria,
chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo
việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên chân một người
sống như thế, mà thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta
ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức
Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai làm vua và
tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng đã
tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành
lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân
chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc.
Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong các
TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứ
Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị
nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thương Khó, cái Chết, cuộc Phục
Sinh, sẽ cho thấy rõ ràng kiểu “vinh quang” Người đang theo đuổi. Chỉ sau kinh
nghiệm này các môn đệ mới nắm được bản chất đích thực của cuộc khải hoàn của
Đức Giêsu (c. 16).
Đám đông thì vẫn không hiểu (cc. 17-18). Nhưng những lời hoan hô
của họ khiến người Pharisêu phải phản đối và tranh luận với nhau: “Các ông thấy
chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!” (c.
19b). Ở đây, tác giả TM IV vẫn vận dụng khả năng khôi hài quen thuộc của ngài.
Nỗi lo sợ của người Pharisêu là thật hơn họ tưởng: cả người ngoại cũng đã xuất
hiện (cc. 20-23).
Nhận định của người Pharisêu (c. 19b) khiến ta nghĩ ngay đến nhận
định của thượng tế Caipha: “Các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông
là: thà một người chết thay cho dân…” (11,50). Chính ông này cũng đã nói tiên
tri mà không biết: trong tư cách là thượng tế, ông đã nói tiên tri là Đức Giêsu
phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ
con cái Thiên Chúa đang tản mác (11,52).
Sự kiện mấy người ngoại đến xin gặp Đức Giêsu là một đỉnh cao
trong cấu trúc văn chương và thần học của các ch. 11–12 của TM IV: kế hoạch cứu
độ phổ quát, thậm chí ra ngoài biên giới dân tộc Do Thái, đang bắt đầu được
thực hiện, ít nhất ở dạng mầm mống. Tất cả những điều đó chứng tỏ rõ ràng là
giờ của cuộc Thương Khó đã được loan báo, giờ đưa tới vinh quang.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Người Hy Lạp đến gặp (12,20-22);
2) Đức Giêsu công bố về Giờ và dạy về thân phận của Người và của
các môn đệ ([“Đã đến giờ”], 12,23-26);
3) Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 12,27-30);
4) Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 12,31-33).
3.- Vài điểm chú giải
– mấy người Hy Lạp (20): Những lời mỉa mai ở
c. 19 được ứng nghiệm tức khắc. Đây không phải là những người Do Thái Hải ngoại
(diaspora; x. Ga 7,35), đã di cư ra khỏi Paléttina và bị phân tán trong các
vùng dân ngoại, nhưng là những người ngoại giáo không cắt bì, thuộc về hạng
người “kính sợ Thiên Chúa” (x. Cv 10,2.22.35; 13,16.26), tin vào vị Thiên Chúa
duy nhất và tuân giữ đức công bình. Họ đã đến Giêrusalem không phải để du lịch
mà là để hành hương, vì bị thúc đẩy bởi thao thức tìm ra chân lý.
– Họ đến gặp ông Philípphê (21): Họ ngỏ ý muốn với
Philípphê bởi vì ông này nói tiếng Hy Lạp (tên Philípphê và tên Anrê là hai tên
Hy Lạp), và cũng như họ, ông là người Bếtxaiđa, là vùng có đa số dân cư là
người ngoại.
– Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu (21):
dịch sát là “muốn được thấy”, có nghĩa là “nói với Đức Giêsu”, trò chuyện với
Người, để biết Người, khám phá ra chân tính của Người.
– Giờ (23): Đây là giờ Thương Khó, Chết và Phục Sinh, để Con Người
được tôn vinh. “Giờ” đây là đỉnh cao của sứ mạng của Người và cũng là lúc kết
án “thế gian” này với thủ lãnh của nó.
– tôn vinh (23): “Vinh quang” (doxa) là sự tỏa rạng sự hiện diện của
Thiên Chúa, là ánh huy hoàng, vừa đáng sợ vừa thu hút, của Hữu thể thần linh.
Vinh quang này ở trong Ngôi Lời nhập thể, nhưng tính khiêm hạ của mầu nhiệm
Nhập Thể đã chế giảm đi ánh huy hoàng của vinh quang này, cho dù các lời nói và
các công việc của Đức Giêsu lại là “dấu chỉ” đầu tiên của vinh quang này (x.
2,11). Cuộc Thương Khó, thay vì che phủ vinh quang này, lại vén mở cho thấy
vinh quang này ở mức viên mãn: kể từ khi cái vỏ bọc nhân loại bị phá vỡ, sự
hiện diện thần linh, như được giải phóng, mới xâm nhập tất cả nhân tính của
Ngôi Lời để làm cho nhân tính nay sống lại và lên trời.
– nếu hạt lúa gieo vào lòng đất (24):
Câu này được vọng lại trong 1 Cr 15,36. Rất có thể đây là một câu tục ngữ quen
thuộc tác giả đã dùng để áp dụng cho trường hợp Đức Giêsu: chỉ cái chết của Đức
Giêsu mới có thể đưa lại ơn cứu độ cho người khác.
– Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất (25):
Câu này trở đi trở lại ở nhiều dạng (x. Lc 9,24 so sánh với Mc 8,35 và Mt
16,25; Mt 10,39 so sánh với Lc 17,33). Các TMNL ap dụng câu này cho những đau
khổ và mất mát của đời môn đệ. Hẳn là tác giả TM IV cũng đang nghĩ tới những
đau khổ của cộng đoàn của ngài (x. 15,18-21).
– Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó (26):
Sự đồng nhất giữa Đức Giêsu và các môn đệ sẽ được nêu bật hơn trong các diễn từ
cáo biệt (x. 13,13.16; 15,20). Phần kết “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý
trọng người ấy” lại xuất hiện trong ngôn ngữ tình yêu trong các diễn từ cáo
biệt (14,23; 16,27). Xem Mc 8,38; Mt 10,32 so sánh với Lc 12,8.
– Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến (27):
Tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Đức Giêsu hấp hối tại Vườn Ôliu, nhưng
đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ
chết đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (tetaraktai, c. 27a).
“Tâm hồn” (psychê) đây cũng có nghĩa là bản thân, là mạng sống; mạng sống ấy
đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công nó. Sự xúc động trong lòng
(tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm
tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
– Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha (28):
x. Lc 11,2. Câu này diễn tả sự duy nhất trong kế hoạch của Đức Giêsu với ý muốn
của Thiên Chúa. Đức Giêsu sẽ tôn vinh Thiên Chúa trên thập giá và cũng sẽ được
Chúa Cha tôn vinh (x. 13,31-32; 17,4).
– có tiếng từ trời (28): Dân chung không thể
“nghe” được lời Thiên Chúa đáp lại Đức Giêsu, nên họ nghĩ đó là tiếng một thiên
thần. Giống như trong truyện Ladarô, việc Đức Giêsu cầu nguyện cũng là một tấm
gương cho họ.
– Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa (28):
Hành vi “tôn vinh” đầu quy về những “dấu lạ” Đức Giêsu đã làm và nhờ đó đã làm
chứng về Chúa Cha, khi tôn vinh Ngài nơi Đức Giêsu. Hành vi “tôn vinh” thứ hai
quy về cái chết và cuộc tôn vinh Đức Giêsu.
– mà vì các người (30): Như thế, tác giả đã
biến truyền thống về “cơn hấp hối riêng tư” của Đức Giêsu thành một cuộc bày tỏ
công khai công việc phục vụ vì vâng lời của Đức Giêsu.
– Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này (31):
Cuộc phán xét (x. 3,18-19) lên cao điểm với cuộc đóng đinh. Tiếng sấm trong lời
Thiên Chúa nói trong câu trước báo trước việc Thiên Chúa sẽ đến uy hùng mà tống
“thủ lãnh của thế gian này” ra ngoài. Ở đây, tác giả dùng từ ngữ “thế gian”
không phải để chỉ đối tượng được Thiên Chúa yêu thương, như trong 3,16, nhưng
như một biểu tượng cho tất cả những gì là không tin và thù nghịch với Thiên
Chúa (x. 8,24; 15,18-19; 16,8-11). Satan như là thủ lãnh của “thế gian” ở trong
thế đối lập với Thiên Chúa, là một hình ảnh quen thuộc của nền văn chương khải
huyền Do Thái. Nhưng tác giả chỉ dùng hình ảnh Satan để giải thích việc Giuđa
phản bội thôi (6,70; 13,2.27) và trong những câu nói loan báo chiến thắng của
Đức Giêsu (14,30; 16,11).
– một khi được giương cao lên khỏi mặt đất (32):
Các truyền thống Kitô giáo tiên khởi coi việc Đức Giêsu bị đóng đinh như là
việc Người được tôn lên bên hữu Thiên Chúa và coi đây là nền tảng cho quyền chủ
tể của Người trên vũ trụ (x. Pl 2,9-11). Rất có thể cặp từ ngữ “được tôn vinh –
được giương cao” của tác giả được lấy từ Is 52,13, nơi mà Người Tôi Tớ của Đưc
Chúa được “vươn cao”, và “được suy tôn”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Câu chuyện chúng ta đọc hôm nay xảy ra chỉ vài ngày trước các biến
cố thuộc lễ Vượt Qua cuối cùng của Đức Giêsu.
* Người Hy Lạp đến gặp (20-22)
Một vài người Hy Lạp đã muốn gặp Đức Giêsu, không phải chỉ để nhìn
thấy Người, nhưng là để biết Người, khám phá ra “căn cước” của Người. Câu 20
dường như cho hiểu rằng những người ngoại quốc kia đang thực hiện một hành
trình thiêng liêng dài, và bây giờ cần “gặp” Đức Giêsu. Hành trình vào dịp lễ
Vượt Qua đã đưa họ đến Giêrusalem không phải như du khách, mà là để cầu nguyện,
để gặp Thiên Chúa, để khám phá ra điều Thiên Chúa muốn họ làm. Họ cảm thấy là
Thiên Chúa muốn họ đến nói chuyện với Đức Giêsu. Họ không đến gặp Đức Giêsu
trực tiếp, trước hết họ đến gặp các môn đệ, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để
có thể gặp Đức Giêsu. Họ ngỏ lời với Philípphê, ông này lại nói với Anrê, và cả
hai đã đến thưa với Đức Giêsu. Những người kia đã ngỏ lời với Philípphê vì ông
(cũng như Anrê) có tên gọi Hy Lạp và phát xuất từ vùng giáp ranh của Galilê với
thế giới Hy Lạp. Philípphê và Anrê đã ở trong số những môn đệ đầu tiên, vì muốn
biết Đức Giêsu, đã đến với Người và đã là những người đầu tiên chia sẻ kinh
nghiệm và đưa những người khác đến với Người (1,35-46). Trong truyện này, ta
thấy được bổn phận họ phải chu toàn trong đời sống: làm trung gian để cho nhân
loại có thể gặp Đức Giêsu.
Chúng ta không biết là sau đó chuyện gì đã xảy ra, những người Hy
Lạp đã gặp Đức Giêsu, hay đã về nhà mà vẫn chưa được gặp Người. Bản văn chỉ cho
thấy Đức Giêsu không ngỏ lời trực tiếp với họ. Nhưng bây giờ, chỉ còn ít ngày
nữa trước khi Người chịu chết và bởi vì những người này đã đến với Người, Người
xác định tầm quan trọng và hiệu năng của cái chết của Người trên thập giá và
gửi đến dân Do Thái lời kêu gọi cuối cùng.
Như vậy, ta hiểu việc người ngoại đi tìm một trung gian dường như
có một ý nghĩa biểu tượng. Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Đức
Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Đức
Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Đức
Giêsu và việc “gặp” Đức Giêsu, tức đi vào Vương quốc nhờ lơi rao giảng của các
tông đồ, còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Đức Giêsu, tức “giờ” của
Người (c. 23). Chỉ khi đó mọi hàng rào được dựng lên bởi các chủ trương đặc thù
bè phái mới đổ hết. Cũng chỉ khi đó mới bat đầu những kinh nghiệm đầu tiên về
niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, vào Đức Kitô “Đức Chúa” (x. Ga
20,18.20.28.29; 21,7.12.17), là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục
Sinh (Vượt Qua).
Lời thỉnh cầu của những người ngoại vô tình lại là một cử chỉ đón
tiếp khải hoàn. Đức Giêsu sẵn sàng chấp nhận, như trong cuộc đón tiếp của người
Do Thái khi Người vào Giêrusalem. Nhưng trước hết, Người phải điều chỉnh ý
tưởng lệch lạc đám đông Giêrusalem có về vinh quang và cuộc khải hoàn của Người
(x. 12,12-16). Việc người Hy Lạp đến như thế giống như một bài học biểu tượng,
bổ túc cho truyện đi vào Giêrusalem. Lời Đức Giêsu nói (cc. 23-26) là một trả
lời gián tiếp cho nguyện vọng được những người ngoại ấy diễn tả ra: chính là
nhờ cuộc Thương Khó của Người mà Đức Kitô, một khi đã bị sát tế, sẽ dễ dàng cho
họ gặp được.
* Đức Giêsu công bố về Giờ và về thân phận của Người và của các
môn đệ (“đã đến giờ”, 23-26)
Kể từ câu 23, tác giả TM IV chẳng còn nói gì đến những người ngoại
kia nữa, hay đến thỉnh nguyện của họ có được thoả mãn hay không nữa. Ta gặp
kiểu viết tương tự trong cuộc gặp gỡ Nicôđêmô: đến một lúc nào đó, bài tường
thuật thôi nói về ông, để nhường chỗ cho những lời nói của Đức Giêsu và những
suy tư của tác giả.
Sự xuất hiện của những người ngoại giáo và thỉnh nguyện của họ
khiến Đức Giêsu hiểu rằng giờ mà Người hằng mong đợi, mà TM IV cho thấy đang
đến gần (2,4; 7,6.8.30; 8,20), thực sự đã đến. Đây là giờ của “Con Người”, giờ
Đức Giêsu chiến thắng bằng cách đi qua thập giá, giờ Người được “ton vinh” (x.
3,14; 8,28; 12,32). Cái chết của Đức Giêsu không phải chỉ là kết quả của sự tàn
bạo của loài người và cũng không phải là kết thúc ô nhục của Đức Giêsu. “Giờ”
của Người đã được Chúa Cha quyết định.
Đức Giêsu, Con Người, sẽ được tôn vinh bằng chính cái chết của Người.
Cái chết này minh chứng một cách sáng ngời và thuyết phục rằng Con Thiên Chúa
được liên kết với Chúa Cha bằng một dây vâng phục dù phải trải qua thử thách
nao và rằng Người hiến mình cho chúng ta không dè giữ. Cái chết của Người cho
thấy tình yêu vô biên của Người, bởi vì Người sống hoàn toàn cho Chúa Cha và
hoàn toàn cho loài người chúng ta.
Sự phong phú của công trình của Người tùy thuộc cái chết của
Người; và Người buộc các môn đệ Người hành động như chính Người đã hành động.
Đức Giêsu nhắc lại kinh nghiệm sống mỗi ngày: thiên nhiên không sản sinh ra gì
cả nếu trước đó không có một cai chết nào đó. Chỉ khi một hạt lúa mì bị hủy đi,
nó mới trở thành một khối lượng lúa lớn. Chính là vì Người đã chịu cái chết và
đã tỏ chính mình ra trong cái chết, mà Đức Giêsu sẽ quy tụ lại quanh Người một
đoàn người đông đảo (x. 12,32). Đã chết rồi, Người không biến mất khỏi loài
người, nhưng lại trở thành trung tâm của một cộng đoàn mênh mông. Người không
ra sức bám lấy cuộc sống của Người. Cuộc sống trần thế đối với Người không phải
là một sự thiện tối cao phải cứu lấy bằng mọi giá. Chỉ những ai liên kết với
Người khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này. Chỉ kẻ nào đã theo
Đức Giêsu trong cuộc sống, mới sẽ đạt tới mục tiêu và mới có phần phúc khi được
Chúa Cha nhìn nhận.
* Đức Giêsu trước cái chết (“bây giờ”, 27-30)
Phân đoạn này nhắc tới hoạt cảnh Vườn Ghếtsêmani trong các TMNL
(chẳng hạn Mc 14,34-36). Rõ ràng tác giả TM IV đang cảm hứng hoạt cảnh Vườn
Ôliu. Tuy nhiên, ngài đăt hoạt cảnh ấy trong một bối cảnh khác, ngài giải thích
hoạt cảnh ấy và sửa chữa đôi chút. Cũng như trong các TMNL, khi thấy giờ chết
đến gần, Đức Kitô run sợ: “Tâm hồn Thầy xao xuyến” (27a). “Tâm hồn” đây cũng có
nghĩa là bản thân, là mạng sống, mạng sống mà người ta phải “ghét” và chịu mất
để cứu được; mạng sống ấy đang chao đảo khi đứng trước cái chết sắp tấn công
nó. Sự xúc động trong lòng (tô pneumati) mà Đức Giêsu cảm thấy khi đứng trước
mộ Ladarô, bây giờ xâm chiếm tất cả bản thân Người (so sánh với Lc 22,43-44).
Nhưng rồi từ đó tác giả triển khai các điểm theo cách riêng. Câu
hỏi: “Thầy biết nói gì đây?” cho thấy là Đức Giêsu bị đăt vào thế lưỡng nan là
xin Cha Người: “Xin cứu con khỏi giờ này” hay là: “xin tôn vinh Danh Cha”. Và
Người chọn tức khắc cách cầu nguyện thứ hai. Ngoài ra, trong TM IV, Đức Giêsu
luôn “năng động [tích cực]” trong cuộc Thương Khó của Người. Người làm chủ tình
hình (x. Ga 18,6), Người ý thức trọn vẹn về vai trò Người đảm nhận, Người hoàn
tất tuyệt vời sứ mạng Cha Người đã giao: hy sinh mạng sống để cứu độ toàn thể
thế giới. Ở tại ngưỡng cửa cuộc Khổ Nạn, ta không thể tưởng tượng ra một lời
cầu nguyện nào khác trên môi Đấng được Thiên Chúa sai đến, ngoài lời này: “Xin
tôn vinh Danh Cha” (x. Ga 17,4). Nếu Người trốn “giờ” này (hiểu là “những gì sẽ
xảy ra vào lúc ấy”)[1], giờ mà Người hết sức mong mỏi và cuối cùng nay đã tới,
hẳn sẽ là phá hủy tất cả tầm mức gồm tóm trong mầu nhiệm Nhập Thể: khi đó Chúa
Con đã nhận lấy nơi mình cuộc sống trần thế vơi tất cả chiều sâu của nó và đặc
tính bi thảm của nó, để sống trọn cuộc sống này cho tới chết, không phải cho
bản thân Người mà là cho những người khác. Khi Đức Giêsu chấp nhận “giờ” này,
Người đã tôn vinh Chúa Cha, bởi vì như thế, dự phóng cứu độ toàn thế giới cuối
cùng được bày tỏ trọn vẹn, và dự định đó, cuộc Thương Khó, cái Chết và cuộc
Phục Sinh của Con Cha sẽ thực hiện.
Cũng như trong tất cả các Tin Mừng, ở đây cũng vậy, khi đứng trước
cái chết, Đức Giêsu quay ra cầu nguyện với Chúa Cha (x. Mc 14,32-42). Người ý
thức về ý nghĩa của cái chết của Người, nhưng không vì thế mà Người đi đến đó
hoàn toàn vô cảm. Cũng như mọi con người, chính Người cũng sợ hãi tránh né cái
chết, cũng bị rúng động bởi định mệnh phải chết của mình. Vì Người có sự nhạy
cảm của loài người, hẳn là Người cầu xin Chúa Cha cất cho Người bước đường này.
Nhưng Người không chịu thua ước muốn của riêng mình, Người muốn tuân theo sự
hướng dẫn của Chúa Cha, nên đã cầu nguyện: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (c.
28). Như thế Người đồng ý về ý nghĩa của định mệnh của Người, như Thiên Chúa đã
thiết định, nên Người lấy điều này làm mục tiêu của lời cầu nguyện.
Như thế, cái chết của Đức Giêsu cho thấy rõ những gì nằm ở trong
tên “Cha” và cho thấy Chúa Cha đã nghiêng quá mức thế nào về phía con người,
nên mới ban cho chúng ta chính Con Một của Ngài (x. 3,16). Đức Giêsu không thua
Chúa Cha trong tình yêu, Người cầu xin để tình yêu của Chúa Cha có thể trở nên
hiển nhiên, cho dù Người biết rằng điều này đòi hỏi cái giá là mạng sống Người.
* Giá trị của cái chết của Đức Giêsu (“bây giờ”, 31-33).
Cái chết của Đức Giêsu trên thập giá cũng là chiến thắng vĩnh viễn
của Người trên ma quỷ. Nó sẽ bị tống ra ngoài, và không còn có một vị trí quyền
lực nào nữa. Công việc ma quỷ làm là nhắm chia lìa con người khỏi Thiên Chúa,
làm mờ tối cái nhìn của họ khiến họ không thấy được Thiên Chúa. Cái chết của
Đức Giêsu lại là mạc khải cao độ nhất về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài
người va về dây vâng phục nối kết bất khả phân ly Đức Giêsu với Thiên Chúa. Như
thế, ý đồ của ma quỷ hoàn toàn thất bại. Với cái chết của Người, Đức Giêsu cũng
khởi sự hoạt động phổ quát của Người, liên hệ tới toàn thể nhân loại. Được
giương cao trên thập giá như là biểu tượng của tình yêu của Thiên Chúa (x.
3,14-17) và được nâng lên đến Chúa Cha trong quyền lực thiên đình của Người,
Đức Giêsu tới với cả nhân loại, đón nhận họ vào trong tình yêu huy hoàng của Người.
Như thế, Người cũng được giương cao cho người Hy Lạp nữa, là những người muốn
gặp Người.
+ Kết luận
Trong bản văn này, tác giả nêu bật điểm chú ý là “giờ” của Đức
Giêsu, cả trên bình diện lịch sử lẫn thần học. Theo quan điểm Kitô học, “giờ”
này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người
thực hiện. Sứ mạng này tiêu biểu cho trọn cuộc sống của Đức Kitô, vì cuộc sống
của Người hướng về đó. Khi đó sẽ xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại. Khi
đó sẽ xảy ra giữa loài người một cuộc “tách biệt” (krima) do người ta tin hay
không tin vào mầu nhiệm Đức Kitô chịu chết và được tôn vinh. Sự chon lựa này
đảm bảo cho một số người được cứu độ và được sống muôn đời, và lôi kéo án phạt
và cái chết đến cho những người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Như Philípphê và Anrê, chúng ta cũng có nhiệm vụ làm trung gian
giúp kẻ khác gặp được Đức Giêsu. Nhưng muốn thế, chính chúng ta đã phải gặp Đức
Giêsu và có kinh nghiệm về Người rồi. Chúng ta cũng ghi nhận những tương quan
giữa các môn đệ để giúp người ta gặp Đức Giêsu: người Hy Lạp đến gặp Philípphê,
có lẽ vì quen biết ông hơn. Nhưng Philípphê lại cần có Anrê để có thể mạnh dạn
đi gặp Đức Giêsu…
2.
Những người Hy Lạp đây đại diện cho tất cả những người ngoại ước
muốn biết Đức Giêsu. Không ai có the trở thành Kitô hữu mà lại không có một môn
đệ của Đức Kitô nói cho biết về Người, và giới thiệu với Người về họ.
3.
Vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu, tuy vẫn là một ân ban
nhưng-không của Thiên Chúa, vẫn cần có sự cộng tác của chúng ta. Chỉ những ai
đã liên kết với Đức Giêsu khi phục vụ, mới sẽ được liên kết với Người sau này
trong vinh quang thiên quốc. Có trung thành bước theo Người hôm nay, sau này
chúng ta mới mong được thông phần gia nghiệp với Người.
4.
Đức Giêsu đã đến thế gian như là ánh sáng cho mọi người (1,9). Khi
Người đã được giương cao trên thập giá, từ nơi Người sẽ phát ra ánh sáng chói
chang huy hoàng nhất, cho thấy mọi sự trong tính chân thật nhất: Thiên Chúa
trong tình yêu vô biên của Ngài; Con Người trong việc hiến mình không dè giữ và
trong hoạt động bao trùm toàn nhân loại; ma quỷ bị thua trong quyền lực của nó.
Trong ánh sáng này, chúng ta phải chọn lựa cuộc sống chúng ta như là con đường
bước theo Đức Kitô.
5.
Tất cả những ai muốn đưa lại ơn ích cho người khác, cũng phải chấp
nhận thân phận “hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi”. Mọi Kitô hữu đều được
kêu gọi sống Giờ của Đức Giêsu: trước tiên, người Kitô hữu không thể tránh giết
chết trong mình những gì chống lại sự sống đích thực (= sự từ bỏ chính mình);
đồng thời phải sống một mầu nhiệm phục sinh, tôn vinh và hân hoan (= niềm vui
thiêng liêng).
———————————————-
[1] Phép métonymie: gọi một điều bằng một từ khác.
(Chú giải mục vụ của Alain Marchabour)
GIỜ CỦA CHÚA GIÊSU (12,20-36)
Đoạn này kéo dài điều đã được nói về Chúa Giêsu từ chương 11. Giờ
tôn vinh của Chúa Con được loan báo trong 11, 4 đang trở thành hiện thực. Trong
11,51-52 Gioan tuyên bố rằng cái chết của Chúa Giêsu sẽ dẫn tới việc mở rộng sứ
vụ của Chúa đến với mọi người. Đó là ý nghĩa sự kiện mấy người Hy Lạp đến gặp
Chúa Giêsu.
Phần dẫn: Những Người Hy Lạp (12, 20-22)
Những người Hy Lạp ở đây không phải là những người Do Thái sinh
sống ở Hy Lạp hay nói tiếng Hy Lạp. Từ ngữ này chỉ những người ngoại giáo mới
theo đạo (những người thiện cảm với đạo Do Thái nhưng không muốn chịu phép
rửa). Lần đầu tiên những người không phải Do Thái này tiếp cận Chúa Giêsu được
khéo léo sắp xếp như là dấu hiệu loan báo giờ đã đến. Những người xuất thân từ
đa thần giáo này trước hết đã chọn Thiên Chúa của Israel. Họ chuẩn bị cho một
bước chuyển tiếp mà theo thánh sử là đi từ Do Thái giáo đến Chúa Giêsu là đích
điểm. Họ muốn “gặp” Chúa Giêsu, chắc chắn theo nghĩa mạnh của việc “tin vào
Người” (12,45; 14,9). Ông Philipphê, một môn đệ thường được Gioan nhắc đến (12
lần), làm người trung gian (như trong 1,45; 6,5). Sự môi giới của ông có liên
quan gì đến tên Hy Lạp của ông không? Xuất thân từ một miền đất đa phần còn
ngoại giáo, ông có khả năng nói tiếng Hy Lạp. Việc ông đi nói với ông Anrê
(người cùng làng Betsaiđa với ông) càng tăng thêm tầm quan trọng của sự môi
giới để đến gặp Chúa Giêsu.
Theo thói quen của mình, Gioan tăng nhiều chi tiết kể chuyện ở
phần đầu bài trần thuật, như là để níu chân độc giả. Sau đó tất cả đều dừng
lại: còn kết quả việc mấy người Hy Lạp gặp Chúa Giêsu như thế nào, chúng ta
không biết gì hết. Từ nay thánh sử tập trung bài trần thuật của mình vào Chúa
Giêsu.
Giờ (12, 23-26)
Giờ, còn trì trệ cho đến lúc này, cuối cùng đã đến. Việc anh
Ladarô sống lại biểu hiện trước giờ này: việc mấy người Hy Lạp tìm đến tỏ rõ
giờ được thực hiện. Các người Hy Lạp không được Chúa Giêsu trả lời trực tiếp.
Người nói với các môn đệ và điều Người nói bao gồm trước hết các môn đệ được
gọi sau này nên truyền đạt cho người ngoại giáo hiểu rằng trong cái chết của
Chúa Giêsu, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người.
Sự mặc khải được long trọng nhấn mạnh bằng hai lần: “Thật, Thầy
bảo thật anh em”. Giờ, vừa là sự chết vừa là sự tôn vinh. Để diễn tả từ sự
phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Chúa Giêsu đi
từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát
đi để mang lại nhiều hoa trái. Sự tương phản mà Chúa Giêsu đưa ra, ở giữa chết
hoặc sống ít hơn là ở giữa chết hay mang lại nhiều hoa trái. Cũng như hạt
giống, Chúa Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa
trái cho mọi người.
Cái chết của Chúa Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua
để tiến đến vinh quang, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo
Hội. Cái chết của Chúa Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi
vì “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12,26). Quả vậy các câu 25-26
nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Chúa Giêsu. Ai yêu quý mạng
sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, thế gian này, sự
vinh quang riêng mình.
Ở đây nữa vẫn là vấn đề đức tin, dù nó không rõ ràng như trong
Nhất Lãm, ở đó nhấn mạnh mối tương quan với Chúa Giêsu: “Ai liều mất mạng sống
mình vì Tôi và Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Tương quan
với Chúa Giêsu được nêu rõ qua câu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Môn
đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Chúa Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái
chết để dự phần vinh quang. Trong trường hợp này, Chúa Giêsu đã nói: “Cha Ta sẽ
tôn vinh nó”.
*****
GIỜ
Từ “giờ” được sử dụng 26 lần trong Tin Mừng của Gioan, thường
thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực
hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, giờ này còn chưa đến. Thân mẫu của
Chúa Giêsu, khi muốn cậy nhờ đến con mình, được nghe trả lời rằng “Giờ của con
chưa đến” (2,4). Việc tìm bắt Chúa Giêsu không thực hiện được cũng vì lý do đó
(7,30; 8,20). Nhiều lần Chúa Giêsu tiên báo tình trạng sắp xảy ra vào một giờ
mà từ đó mọi sự sẽ trở nên rõ ràng hơn (16,25). Việc thờ phượng sẽ ở trong Thần
Khí (4,21-23), sự sống sẽ chiến thắng sự chết (5,25).
Sự hồi hộp được khéo léo khơi dậy khi, đối diện với những người
ngoại giáo muốn gặp Người. Chúa Giêsu loan báo rằng cuối cùng giờ đã đến
(12,23). Bước vào cuộc Thương Khó, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cuối cùng giờ tôn
vinh đã đến (13,1; 17,1). Dụng ngữ này cũng xuất hiện trong các Tin Mừng Nhất
Lãm (Mc 14,35.41). chỉ có mình Gioan đã gieo vãi xuyên suốt Tin Mừng của mình
những quy chiếu vào một biến cố của lịch sử. Chúa Giêsu chịu đóng đinh vào thập
giá. Thời điểm này không thuộc vào niên đại kỷ. Một lần xảy ra, nó luôn luôn
hiện thực và kéo dài hiệu quả nhằm lợi ích của tất cả những ai gắn bó với Lời.
*****
Tâm trạng xao xuyến, tiếng từ trời và lời mặc khải (12, 27-36)
Giờ đang xảy đến cùng với sự chôn vùi trong cái chết, tất phải có
sự kinh qua đau thương mà nỗi xao xuyến và sầu não không thể không có. Trong
khi trình thuật cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu, Gioan loại bỏ những gì quá chú
ý của Người, như cơn hấp hối. Thế nhưng ông lưu giữ lại một vài yếu tố và phân
tán chúng đây đó trong Tin Mừng của mình. Ở đây ông trích dẫn những từ ngữ và
những dụng ngữ như nhắc lại sự xao xuyến của Chúa Giêsu, hoặc lời Người nói về
Giờ: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”, cần xuất phát từ đó (ta có thể so
sánh đoạn này với Mc 14,33-36). Việc Chúa Giêsu vâng phục Chúa Cha được đặc
biệt nhấn mạnh và lời Người: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” vang dội như lời
tóm tắt “kinh Lạy Cha” (không có trong Gioan). Chúa Giêsu là người đầu tiên, từ
bỏ mình để lắng nghe Chúa Cha.
“Có tiếng từ trời vang xuống” (c. 28). Lần đầu tiên trong Gioan
(trái với hai lần trong Nhất Lãm, vào lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa và biến
hình, x. Lc 9,28-36), Chúa Cha lên tiếng nói cùng Chúa Con. Hơn nữa đoạn của
Gioan không có liên quan gì đến biến cố biến hình ở đó sự biểu lộ vinh quang
của Chúa Giêsu đi kèm với cuộc đối thoại về cuộc Xuất hành của Chúa Giêsu
(nghĩa là cái chết của Người). Luca cũng nghĩ đến sự tiếp gần cơn hấp hối khi
“một thiên sứ từ trời hiện đến tăng sức cho Người” (Lc 22,43). Trong cả hai
trường hợp, có thể có những điểm giống nhau giữa hai truyền thống Tin Mừng. Thế
nhưng Gioan hành xử cách sáng tạo, tuyển chọn và tái tạo các dữ kiện của truyền
thống cho mục tiêu thần học của mình.
Do đặc tính duy nhất và vị trí ở vào cuối năm phần thứ nhất của
Tin Mừng, sự can thiệp này của Chúa Cha xuất hiện như sự long trọng chứng thực
của Chúa Cha về Chúa Giêsu như là Chúa Con và là Đấng Thiên Sai. Đó là cách phê
chuẩn đầy vinh quang, được ban cho một phần ngay từ lúc này đây còn một phần
nữa được hứa trong tương lai. Cuộc Thương Khó đối với Người quả là một thử
thách đầy vinh quang.
(Chú giải của Noel Quesson)
Cũng như Chúa nhật trước, thánh Gioan đề nghị chúng ta suy niệm về
thập giá.
Trong số những người lên Giêrusalem thờ phụng Chúa, có mấy người
Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philipphê, người Bétsaiđa, miền Galilê, và thưa rằng:
“Thưa ông chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu”.
Đây là Lễ Vượt Qua cuối cùng Đức Giêsu tham dự. Xét theo bản văn
thánh Gioan, trang Tin Mừng mà ta đọc hôm nay, đi liền sau trình thuật tiến vào
thành Giêrusalem vinh hiển của Đức Giêsu, ngày Lễ Lá. Sau sự thành công trước
quần chúng trên đây, các người Pharisêu đã nói với nhau. “Các ông thấy không,
các ông sẽ chẳng làm được gì hết. Hãy coi đó, thiên hạ bắt đầu theo hắn cả
rồi!”. Nhận xét của nhóm Pharisêu được minh chứng ngay, qua sự kiện những người
“Hy Lạp”, xa lạ nhưng lại có thiện cảm với dân tộc Do Thái, đến xin “gặp” Đức
Giêsu. Như thế, đang khi những người quyết định giết hại Người, cố gắng xiết
gọng kìm và bầu khí chống đối của nhóm Pharisêu đang trở nên nặng nề, thì đột
nhiên, vào đầu tuần lễ cuối cùng của Người tại dương thế, Đức Giêsu có thể nhìn
thấy sứ vụ cứu độ của Người đang bành trướng rộng khắp.
Những người “Hy Lạp” này đang báo trước, các dân ngoại sẽ gia nhập
Giáo Hội, và thực ra công cuộc cứu độ đang lan rộng, vượt qua ranh giới của
Israel: Đức Giêsu sắp nói, Người nhìn thấy cái chết của Người sẽ mang lại sự
phong phú phi thường như thế nào! “nó mang lại nhiều hoa trái”; “Nó lôi cuốn
mọi người”. Chúng ta lưu ý thêm, những người nước ngoài đang trao đổi với
Philipphê. Ong này mang một tên gọi Hy Lạp ông xuất thân từ Bétsaiđa (miền vãng
lai, có nhiều người nước ngoài cư trú!). Ong Philipphê này hẳn là biết được một
ít tiếng Hy Lạp đủ để ông tiếp xúc trao đổi. Chúng ta có chú ý đến những người
xa lạ, để hướng dẫn họ đến với Đức Giêsu không?
Đức Giêsu trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”.
Chúng ta có thể chấp nhận lời mạc khải đó không?
“Giờ của Đức Giêsu”, đó là giờ thập giá của Người: Và cũng chính
là giờ vinh quang của Người? Thật là đáng tiếc, chúng ta vẫn tiếp tục chờ đợi
một giờ khác, một biểu lộ khác của Thiên Chúa. Ta cần phải thú nhận rằng, chúng
ta thường mơ tưởng một thứ vinh quang khác cho Thiên Chúa cũng như cho chúng
ta. Thế mà, Đức Giêsu cứ lập lại cho ta: “Này đây, giờ đã đến” (Ga
12,23.27-31). Cho tới lúc này, giờ đó chưa đến, nhưng Đức Giêsu thường nói về
giờ đó (Ga 2,4; 4,21-23; 5,25; 7,30; 8,20). Giờ “ưu việt” đó chính là giờ thập
giá: Giờ “tôn vinh” Chúa Cha và Chúa Con (Ga 23-28); giờ “xét xử và cứu độ” thế
gian (Ga 13, 1-2). Một vài ngày nữa, Đức Giêsu sẽ bước vào Cuộc Thụ Khổ của
Người.
Bề ngoài, hình như Đức Giêsu không lạ việc các người “Hy Lạp” đến
xin “gặp” Người. Nhưng thật sự, Người đã thỏa mãn ước muốn của họ: “Đã đến giờ
Con Người sắp được tôn vinh”; ‘giờ cho tôi gặp Người’ tới gần; giờ giúp ta nhận
ra Thiên Chúa. Ta không thể gặp được Thiên Chúa, Đức Giêsu, dưới ánh sáng nào
khác, ngoài ánh sáng của thập giá: Đó là giờ của tình yêu tuyệt đối. Lạy Chúa,
xin giúp con biết nhìn lên thập giá, luôn chiêm ngắm thập giá: Đó là giờ mạc
khải quan trọng nhất về Thiên Chúa. Tất cả những gì triết gia bàn đến, tất cả
những gì các tôn giáo dò dẫm kiếm tìm, thì không đáng kể gì và chưa đủ: “Và đây
xuất hiện thập giá”. Vượt qua những lời nói, những suy luận, tôi hãy chiêm ngắm
những hình ảnh đó, “hình tướng” về Thiên Chúa.
Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không
chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác.
Vâng, giờ của Đức Giêsu, chính là giờ “chết” của Người, nhưng cũng
đồng thời là giờ sự sống của Người, được nhân thừa lên. Đức Giêsu sắp ở một
mình trên thập giá. Nhưng trên đó, một cách vô hình Người đang được bao quanh
bởi hàng tỷ người nam nữ được cứu độ, nhờ sự hy sinh của Người. Con người thuộc
mọi thời đại, thuộc mọi nền văn hoá minh tinh màn bạc về cái chết và cố khám
phá ra mầu nhiệm của nó. Còn Đức Giêsu, qua một câu nói hoàn toàn đơn giản trên
đây, Người đã nói cho ta niềm xác tín riêng của Người. Người không lý luận. Một
cách đầy hiện thực. Người nói, Người đương đầu trước cái chết như thế nào: Đó
là cách gieo hạt giống. Suốt mùa đông dài hạt giống bị vùi sâu trong lòng đất
tưởng như chết mục, bỗng đâu mùa xuân đến nó đã mọc cao và trở thành bông lúa
trĩu hạt trong một vài tuần sau, hứa hẹn một mùa gặt phong phú. Đức Giêsu đã
nhìn thấy mùa gặt.
Ai quý trọng mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng
sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời.
Như thế theo Đức Giêsu, cần phải chết đi để có sự sống đích thực!
Và Người không nói điều gì, chỉ vì thích diễn tả nghịch lý. Nhưng trong một
kiểu nói bí ẩn, Người cố gắng gợi lên cho ta một chân lý không tất nhiên rõ
ràng, nhưng hiển nhiên cho mọi tâm hồn yêu mến: Cái chết thật không phải là cái
chết thể lý, nhưng là sự từ chối hiến thân, là tự đóng kín nơi mình không mở
rộng đến kẻ khác! Để bước vào sự sống đích thực, cần phải chết đi. Đó là điều
Thiên Chúa thể hiện vì chúng ta; bởi vì Người là “Tình yêu tuyệt đối”. Người
mất mạng sống vì chúng ta! Luật của đời sống, là tình yêu; một hạt lúa nhỏ nhất
cũng nhắc cho ta điều đó.
Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi tính vị kỷ khô cằn mà có
khi chúng con đã gọi là “sống” cuộc đời mình. Xin dạy chúng con biết hiến mạng
sống như Chúa.
Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy và Thầy ở đâu, kẻ phục Thầy cũng
sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy.
Cuộc phiêu lưu của hạt lúa mì, lúc đầu không đáng kể gì nhưng tới
mùa gặt mang kết quả dồi dào phong phú: Đó là cuộc phiêu lưu của nước Thiên
Chúa (Mc 4,1-20).
Nhưng đối với thánh Gioan, tất cả mầu nhiệm của nước Thiên Chúa
đều tâp trung nơi con người Đức Giêsu: Cuộc phiêu lưu của hạt lúa chìm ẩn dưới
lòng đất, để lại mọc lên thành cây, cũng là cuộc phiêu lưu của Đức Giêsu, chịu
chết để sinh sản ra nhiều hoa trái.
Nhưng cuộc phiêu lưu đó không chỉ có Đức Giêsu thực hiện, nó còn
được trao ủy cho chúng ta. Chính trong cuộc sống mạo hiểm này, Đức Giêsu đã
được vinh quang của Người, vinh quang của tình yêu “phục vụ” đến cùng, thì
chúng ta cũng có thể sống cuộc mạo hiểm đó. Số phận của “hạt lúa” cũng trở nên
số phận của chúng ta: Chết đi để mang lại hoa trái: “Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy
sẽ ban cho họ vinh quang”.
Rồi Đức Giêsu thưa cùng với Chúa Cha: “Bây giờ tâm hồn con xao
xuyến. Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Niềm xác tín vào hiệu quả phong phú nhờ sự hy sinh của mình, không
tránh cho Đức Giêsu khỏi phải cảm nghiệm sự lo âu trước cái chết. Tư tưởng về
số phận hạt lúa chết đi để sống lại, đã làm Đức Giêsu thổn thức không nguôi.
Vào những thời điểm khác, ba thánh sử kia đều nói cho ta biết rằng Đức Giêsu bị
“thử thách” muốn sử dụng thần tính của mình để khỏi phải chấp nhận thân phận
con người: Đó là cơn cám dỗ lúc đầu đời công khai của Chúa. Tại hoang địa (Mt
4,11), đó là cơn cám dỗ lúc Chúa hấp hối ở vườn cây Dầu (Mc 14,32). Nhưng trước
mỗi cơn thử thách, Đức Giêsu đều kiên quyết thoát khỏi để luôn trung thành với
Chúa Cha trọn tình con thảo. Cũng như Đức Giêsu, chúng ta có thể phải giao động
trước nỗi khổ đau.
Nhưng không, chính vì giờ này mà Con đã đến đây, lạy Cha, xin tôn
vinh Cha.
Đối với chúng ta cũng vậy, việc tuân phục đức tin hệ tại thái hộ
chấp nhận thân phận con người phải chết của chúng ta, và gán cho nó một ý nghĩa
dưới ánh sáng Cuộc Thụ Khổ và vinh quang của Đức Giêsu: Chết đi để trao ban hoa
trái. Thư gửi tín hữu Do Thái, mà ta đọc Chúa nhật hôm nay, cũng cho rằng thái
độ vâng phục của Đức Giêsu đã tạo cho cái chết của Người có một ý nghĩa sâu
sắc: ”Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà vâng lời khẩn nguyện nài xin
lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người, vì
Người đã tôn kính Thiên Chúa. Dầu là con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua
nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục, và khi chính bản thân tới lúc
thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai tùng phục Người
(Dt 5, 7-9).
Cái chết vẫn là một sự dữ. Đau khổ vẫn còn là một sự dữ. Và Đức
Giêsu không phải mất công trả lời những vấn nạn thuộc phạm vi triết học mà là
vấn đề về sự ác đặt ra. Một cách đơn giản, Người đón nhận cái chết như một sự
vâng phục thân phận làm người, vì tình yêu. Và như thế, Người đã thay đổi ý
nghĩa của cái chết.
Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta
sẽ còn tôn vinh nữa”.
Thánh Gioan không thuận lại cuộc Biến Hình, cũng như bất cứ một
cuộc Thần hiện vinh quang nào. Đối với ông, như ta đã thấy Chúa Nhật vừa qua,
thì “Giờ của thập giá” là giờ Vinh Quang. Trên Thập Giá Người được “giương
cao”, nghĩa là vừa “bị đóng đinh”, vừa “được tôn dương”: Loài người làm việc
thứ nhất, còn Thiên Chúa thực hiện thứ hai.
Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh
thế gian này sắp bị tống ra ngoài.
Đó là hai mặt của cùng một thực tại: “Phán xét” và “Cứu độ”.
Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi
người lên với tôi. Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người phải chết cách nào.
Đó là lúc sự dữ bị đánh bại, “thủ lãnh của thế gian này” bị tống
ra ngoài, và con người được cứu độ! Phải, chính thập giá đã tạo nên một sự hấp
dẫn mới, lôi cuốn mọi người! Đó là lời nói mầu nhiệm, cần phải đón nhận trong
đức tin và chúng ta phải tạ ơn vì lời nói đó. Cuối cùng đó cũng là cách trả lời
đích thực cho những người “Hy Lạp” đã xin “gặp gỡ “ Đức Giêsu. Lời nói này là
một trong những lời nói cuồi cùng mà Đức Giêsu đã thốt ra trong thời gian thử
thách sứ vụ cách công khai của Người. Và không ai đã hiểu lời đó (Ga 12,34).
Thánh Gioan tường thuật tiếp: Lúc đó “Đức Giêsu lánh đi, không cho họ thấy” (Ga
12,36). Người không còn gì để nói nữa.
(Chú giải của Fiches Dominicales)
CÁI CHẾT CỦA ĐỨC GIÊSU
SINH NHIỀU HOA TRÁI TỐT ĐẸP…
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Dân ngoại tiến đến
Bài Phúc âm Chúng ta đọc hôm nay nằm trong chương bản nối hai chủ
đề lớn của Sách Tin Mừng Gioan: chủ đề “những dấu chỉ” (từ phép lạ Cana cho đến
phép lạ Lagiarô sống lại) và chủ đề “Giờ của Chúa” (tức là cuộc khổ nạn, chết
và sống lại).
Đức Giêsu đã long trọng tiến vào thành đô Giêrusalem để mừng lễ
Vượt Qua lần cuối cùng mà cũng sẽ là chuyến từ giã thế gian này mà về cùng Cha
Người.
Trong khuôn viền Đền thờ, “có mấy người Hy lạp” muốn tìm gặp Chúa.
Họ không phải là những người Do thái nói tiếng Hy Lạp nhưng là dân ngoại có cảm
tình với Do Thái giáo. Họ lên Giêrusalem thờ phụng Thiên Chúa dịp lễ Vượt Qua?
Việc họ tìm đến với Chúa mang giá trị biểu tượng: là dấu chỉ báo trước sự lên
đường của những người thuộc muôn dân sẽ đến với Đức Kitô sau này, là dấu chỉ
loan báo giờ ơn cứu độ ban tặng cho hết thảy mọi người đã điểm.
Họ tìm “gặp Đức Giêsu”, không phải chỉ để trông thấy Người mà
thôi, muốn vậy họ đâu cần nhờ đến ai. Nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với
Người, để đàm đạo với Người. Họ đang trên con đường đức tin rồi đấy.
Họ “lại gần ông Philipphê”, chắc bụng vì ông này với cái tên Hy
Lạp, sinh trưởng ở một vùng đông dân ngoại nói tiếng Hy Lạp có thể giúp làm môi
giới cho họ được.
“Ông Philipphê đi nói với ông Anrê” cùng sinh trưởng như ở ông
Bétsaiđa và cũng mang tên Hy lạp như ông.
”Và hai Ông đến thưa với Đức Giêsu”. Như vậy, cũng giống như ở 1,
35-51 (Phúc âm Chủ nhật 2 Thường niên) Gioan, một lần nữa, nêu bật tầm quan
trọng trong vai trò môi giới của con người giúp đi đến với Đức Giêsu.
2) Dấu chỉ loan báo giờ của Chúa
Thay cho câu trả lời, Đức Giêsu tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh? Giờ mà việc hồi sinh của Ladarô đã báo trước Giờ báo hiệu những
người Hy lạp tìm đến đã gần kề: đó là giờ Chết-Sống Lại của Đức Giêsu sẽ mở ra
cho mọi người ơn cứu độ.
Để diễn tả cái chết sắp tới của mình là nguồn ơn phong phú đem lại
muôn vàn hoa trái, Đức Giêsu nhập đề cách trịnh trọng: “Thật Thầy bảo thật anh
em” cho một dụ ngôn nhỏ mà giới nhà nông hiểu dễ dàng: dụ ngôn hạt lúa mì với
hai ý đối chọi nhau “trơ trọi một mình” và “sinh được nhiều hạt”. Để có thể
sinh nhiều bông hạt, hạt lúa mì nhất thiết phải chết đi: đó là quy luật của sự
sống. Đối với Đức Giêsu cũng vậy: cái chết của Người là quá trình bắt buộc để
Người tiến vào vinh quang, là điều kiện để Hội Thánh được sinh ra, nhân lên gấp
bội. Với các môn đệ Chúa cũng sẽ như vậy thôi: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì
sẽ mất, Chúa Giêsu nói tiếp, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ
giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở
đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”.
1.
Léon-Dufour quảng giải thêm: “Cuộc sống có thể được coi như là
“của tôi”, và tôi có thể dập tắt đi hay giữ nó lại như thể sự tồn tại hay tàn
lụi của nó là tuỳ ở tôi, cái báu vật duy nhất cần phải bảo vệ bằng mọi giá ấy,
cái tài sản chỉ tuỳ thuộc vào tôi ấy. Nếu thế cuộc sống sẽ như giòng nước đang
chảy xiết sẽ vuột khỏi tay tôi, khi tôi cố giữ nó lại mà không chế ngự được
dòng chảy của nó. Ngược lại nếu tôi không cố bám víu vào cuộc sống này, nếu tôi
chấp nhận mở ra với AI đó, cũng là chết đi cho những gì khiến tôi co cụm lại,
thì này đây sự “chết” ấy không có gì khác là một sự “xuất thần”, và một khi
cuộc sống tôi mở ra như thế sẽ giữ lại được như lời Chúa nói, cho sự sống đời
đời”. Như ta biết theo thánh Gioan, sự sống đời đời là sự hiệp thông với chính
Thiên Chúa vậy” (Lecture de l’evangile selon Jean”, quyển II, Seuil, trang
464).
3) Giờ chôn vùi xuống cũng là giờ nâng cao lên.
Vẻ nghịch lý mà từ đầu trình thuật vốn nối kết giờ chết với giờ
vinh hiển, còn diễn ra ở phần hai. Trong phần này, Gioan chỉ mượn và sử dụng
theo chủ đích của mình một số yếu tố trong những câu chuyện kể lại trong Phúc
âm nhất lãm như: một bên là cảnh Chúa hấp hối trong vướng Giếtsêmani, và bên
kia là sự kiện Chúa Hiển dung trên núi Taborê.
Thực vậy, Gioan sẽ không tường thuật lại cơn hấp hối của Đức
Giêsu, nhưng ở đấy Gioan có ý báo trước rằng Giờ bị chôn vùi trong sự chết đang
đến, giờ ấy sẽ phải là một quá trình đau thương mà nỗi xao xuyến và buồn sầu sẽ
choán hết. Thế nên lời “Thầy xao xuyến” cũng như lời nguyện cùng Cha “Lạy Chúa,
xin cứu con khỏi giờ này” được tiếp theo ngay bằng tâm tình hoàn toàn phó thác
nơi Cha của Người: “Nhưng không, chính vì Giờ này mà Con đã đến! Lạy Cha, xin
tôn vinh danh Cha!”. Một kinh nguyện, như A. Marchadour nhận xét: vùng lên như
một bản tóm lược “kinh Lạy Cha” vậy (kinh này không có trong Tin Mừng Gioan).
Đức Giêsu quả là người đầu tiên từ bỏ chính mình để vâng nghe lời Chúa Cha”
(O.C. trang 169).
Gioan cũng chẳng kể lại câu chuyện ‘Chúa Hiển Dung’, nhưng ở đây
ngài nhắc đến “có tiếng phán từ trời”. Một tiếng nói mà những người chứng kiến
giải thích khác nhau: Người thì cho rằng “đó là tiếng sấm”, người khác lại bảo:
“Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy”. Tiếng nói đó tuyên bố cho mọi người
biết rằng lời Đức Giêsu cầu xin cũng như việc dâng hiến mạng sống Người đã được
Chúa Cha đoái nghe và đón nhận, sẽ sinh nhiều hoa trái. Tác giả kết luận: “Bởi
tính chất độc đáo của sự việc, lại nằm cuối phần thứ nhất của sách Tin Mừng,
nên sự can thiệp này của Chúa Cha coi như Đức Giêsu được Cha Người long trọng
xác nhận là Con và là đang được sai đi. Đó là một sự phê chuẩn có tính tôn vinh
một phần cho lúc này, một phần hứa cho tương lai. Cuộc khổ nạn đối với Đức
Giêsu đúng là một thử thách vinh quang vậy” (idem).
Buổi đầu khi thi hành sứ vụ, ở Cana, Đức Giêsu đã nói với Mẹ Người
rằng: “Giờ Con chưa đến”, thế mà Người cũng “đã tỏ vinh quang” Người cho các
môn đệ. Giờ đây, “Giờ đã đến” lúc vinh quang này sẽ được tỏ ra trên khắp thế
giới. “Khi làm những dấu lạ đầu tiên” ở Cana, các môn đệ “đã tin vào Người? Từ
nay khi được “giương cao lên khỏi đất”, một kiểu nói ám chỉ cùng một trật,
Người sẽ phải chết cách nào và được Chúa Cha đem lên vinh quang, Đức Giêsu sẽ
“kéo mọi người lên theo với Người” và sẽ mở cho họ con đường đến với Chúa Cha.
1.
Léon Dufour hỏi để kết luận Đức Giêsu có đã đáp ứng lòng mong đợi
của những người Hy lạp muốn “gặp” Người không?
Không có lời đối đáp nào được kể lại, ông trả lời, thế nhưng bài
diễn từ đã cho thấy rằng muốn gặp Đức Giêsu, thì ta phải hướng mắt nhìn lên
Đấng-bị-đóng-đinh-được-tôn-vinh. Nói một cách tổng quát, ta đã được tỏ cho biết
rằng, người ta chỉ có thể đến với Đức Giêsu tại thế, nhờ nhận ra Đức Giêsu được
nâng lên cao, có nghĩa là mọi nhận thức, mỗi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người
chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc
đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ta ra với
Lời và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng muốn hoàn
toàn tự lập, mà người ta tiến đến “sự sống”. Đi theo Đức Giêsu là phải có tinh
thần phục vụ. Phục vụ cốt tại ở cái gì, thì bài diễn từ giã biệt sẽ nói cho ta
hay. Điều cốt yếu là để cho Chúa Con lôi kéo ta đi. (O.C. trang 478).
BÀI ĐỌC THÊM.
1) “Người thời nay mải mê với những vấn đề căn bản”
(Các Giám mục Pháp, trong trình bày đức tin trong xã hội hiện nay.
Thư gởi các tín hữu Pháp. Cerf, trang 40-41).
“Nhiều dấu chỉ cho thấy rằng người thời nay nếu không đang đi tìm
tòi những điều cốt lõi, thì cũng đang mải mê với những vấn đề căn bản, như:
Kinh nghiệm yêu thương trong thời điểm nóng bỏng của Sida, ý nghĩa của hiện hữu
con người, nhất là khi cuộc sống bị thử thách, đâu là cái giá của nhân vị con
người đứng trước vô vàn những vận dụng kỹ thuật hay kinh tế mà đối tượng là
nhân vị con người.
Sẽ không có cơ may đối thoại với người thời nay nếu chúng ta không
phải là những người có đầu óc cấp tiến. Vậy chúng ta có điều cốt lõi nào để
trao đổi với người ta?
Phải xuất phát từ đòi hỏi đi đến cốt lõi ân ban của Thiên Chúa
trong Đức Giêsu Kitô, mới hiểu được điều chúng tôi gọi là đề nghị đức tin trong
xã hội hiện nay.
Chúng tôi không có tham vọng trình bày điều gì mới lạ, mà: chỉ
muốn nhìn nhận những điều kiện mới mà ta phải sống và loan báo Tin Mừng. Trong
những điều kiện mới này, mặc dầu vẫn là những người có quyền thụ hưởng gia sản
mà ta đã lãnh nhận, ta phải trở thành những “người đề nghị” đức tin. Để đạt mục
đích đó, chính chúng ta đều được mời gọi phô diễn sự mới lạ của ân huệ Thiên
Chúa, như được tỏ ra trong Đức Giêsu Kitô, nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Bởi vậy hai điều không thể tách biệt nhau là ta vừa phải chửng tỏ tính thời sự
của mầu nhiệm đức tin, vừa phải tạo nên một Hội Thánh rao giảng Tin Mủng bằng
cách sống mầu nhiệm ấy và bằng cách đáp lại lời mời gọi của Chúa mình: “Ánh
sáng của anh em phải chiếu giãi ra trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công
việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,
16).
2) Phục vụ đời sống con người theo cách thế của Đức Giêsu, người
Tôi Tớ (idem trang 95-96).
Không thể cử hành mầu nhiệm đức tin đúng theo chân lý, nếu chỉ
quan tâm đến hành vi phụng tự. Bởi lẽ Thiên Chúa cứu độ đến với ta trong Đức
Giêsu Kitô đã đồng hoá mình với người nghèo khổ và kẻ bé mọn. Vì thế có một mối
tương quan không thể tách rời giữa phượng tự Kitô giáo và đời sống con người,
không gì mong manh và bị de doạ hơn đời sống ấy. Ta không thế phục vụ và yêu
mến Thiên Chúa Đấng ta không trông thấy mà lại không tôn kính Người hiện diện
trong những anh em hẩm hiu nhất của ta. Tác vụ của các phó tế đặc biệt nhắc nhở
ta mối tương quan cơ bản này, tương quan giữa việc phục vụ Thiên Chúa và phục
vụ con người.
Giới Công giáo Pháp hôm nay có sự quan tâm đặc biệt đối với những
người nghèo và người bị loại trừ được coi như “bí tích của Đức Kitô”. Sự quan
tâm có tính Tin Mừng này khơi gợi nên rất nhiều dấn thân cá nhân cũng như cộng
đoàn. Những con người đang bắt tay vào việc được tăng thêm xác tín rằng họ đang
chu toàn ơn gợi Kitô hữu và đang rao giảng Tin Mừng bằng cách phục vụ con người
như thế.
Để tôn vinh sứ mạng cao cả này, Hội Thánh đang tìm cách gởi những
thành viên có những hoàn cảnh sống cụ thể, khuyến khích họ nhận lãnh trách
nhiệm đối với giới được uỷ thác cho họ, giúp họ biết sống tinh thần liên đới và
sáng kiến cần có theo tinh thần ấy. Để làm công việc này, các phong trào, đặc
biệt là phong trào Công giáo Tiến hành đều phải chuẩn bị cho các thành viên của
mình biết sống và hành động theo tinh thần Tin Mừng khi họ phải chăm lo cho đời
sống cá nhân và xã hội của con người, giúp họ gây một ảnh hưởng tập thể trên
nếp sống của con người.
– Cùng lúc đó, Hội Thánh cũng sử dụng những phương tiện của riêng
mình để khơi gợi, nâng đỡ và ngay cả điều phối hoạt động của giới công giáo
trong việc phục vụ cộng đồng nhân loại, nhờ vào các cơ quan như Tổ chức Cứu trợ
Công giáo (secours Catholique) hoặc CCFD (tổ chức chống đói và giúp phát
triển), cũng nhờ vào những tổ chức y tế và học đường hoặc những phong trào giáo
dục và từ thiện nữa.
3) Sức năng động của lời Chúa
(Kỷ yếu của CCFD)
Ngày nay ở Pháp cũng như trên toàn thế giới, người ta nhận thấy
LỜI CHÚA có tính năng động và khả năng biến đổi lòng người.
Lời Chúa mở rộng trí khôn để biết phải hành động ở đâu và thế nào
hầu giúp cho các xã hội được công bằng hơn (lấy các dự án-đèn pha làm thí dụ).
Lời Chúa giải phóng óc sáng tạo để tìm ra những con đường mới (cứ
nhìn vào con số những hiệp hội được thành lập mỗi năm). Điều này không phải
không gặp trắc trở khó khăn trong một số quốc gia.
Lời Chúa kích thích những con người mà người ta nghĩ là quá nghèo
và trình độ quá kém, biết đảm nhận lấy những trách nhiệm.
Mọi người đều không biết rằng tính năng động kia, sự phát triển
kia, và tinh thần liên đới ấy đều xuất phát từ Đấng là “chủ tể của thế gian này
đã bị ném ra ngoài”. Họ vui sướng hành động, nhưng không nhận ra Đấng ban sự
sống. Họ hân hoan hoạt động cho sự hoà giải, nhưng lại không biết gì về Mầu
nhiệm Thập giá.
Hiệp cùng với các anh em dự tòng; những người đã nhận ra Đấng đang
lôi kéo mọi người đến với Ngài, Đấng đang khắc ghi lề luật của Ngài vào đáy
lòng người, Đấng hứa cho những tôi tớ Ngài sẽ được ở bên cạnh Ngài, chúng ta
hãy cảm tạ vì đức tin đã được lãnh nhận và vì những tấm lòng đang rộng mở.
Trong bánh và rượu đã kết hợp lao công, đau khổ và sướng vui của mọi người.
Quyền năng Chúa Thánh Thần đang tác động trên lễ vật của chúng ta như Người
đang tác động trên khắp thế giới, đó là: thánh hoá mọi sự, quy tụ dân Người,
ban sự sống và biến chúng ta thành của lễ thực sự làm vinh danh Chúa (xem PE số
3).
(Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
CHÚA GIÊSU LOAN BÁO NGƯỜI SẼ
ĐƯỢC TÔN VINH NHỜ CÁI CHẾT
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Ai ghét sự sống mình nơi thế gian này”: Có lẽ
phải dịch như bản TOB: ai thôi bám chặt sự sống mình đời này. Vì theo cách nói
sêmita, động từ đùng ở đây, khi đối lại với chữ yêu, thì thường có nghĩa là yêu
mến ít hơn, là không xem như một giá trị tuyệt đối (St 29,31-33; Đnl 21,15; Mt
6,24; Lc 16,13; 14,26).
“Ta đã tôn vinh Danh Ta và sẽ còn tôn vinh nữa”: Chữ
“tôn vinh” thứ nhất ở đây quy về các “dấu chỉ” Chúa Giêsu đã thực hiện để làm
chứng cho Chúa Cha. Chữ “tôn vinh” thứ hai ám chỉ đến cái chết và việc giương
cao Chúa Giêsu (vì tôn vinh Ngài trong chính mình).
“Dân chúng bảo đó là một tiếng sấm”: Khó mà
hiểu được tại sao một tiếng nói lại có thể phát ra vì lợi ích của những kẻ đã
không hiểu nó cũng như không biết ai đã nói ra nó (“tiếng ấy phát ra không phải
vì Ta mà vì các ngươi”). Có thể Gioan đã nghĩ đến một nhóm thứ ba (các môn đồ
chẳng hạn) là những người, trong thực tế, đã nhận ra được nguồn gốc và ý nghĩa
của tiếng nói trên.
“Chính bây giờ là cuộc phán xét thế gian này”: Giờ của
Chúa Giêsu đánh dấu một giai đoạn quan trọng và quyết định đối với toàn thể
nhân loại. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt, cuộc sáng tạo mới bắt đầu (Việc
đi từ cuộc sáng tạo cũ sang sáng tạo mới không phải và một hiện tượng vật lý
đơn thuần, nhưng là một sự tiến triển luân lý và thiêng liêng). Số phận mỗi
người tùy thuộc vào biến cố này và vào việc người ta có chấp nhận nó bằng đức
tin hay không. Giờ Chúa Giêsu là giờ phán xét (krisis), giờ phân chia: ai từ
chối Chúa Giêsu vào “giờ” này thì bị liệt vào phe của “đầu mục thế gian”, đối
thủ lợi hại của Chúa Giêsu, và bị luận phạt như nó (x. 3,18).
“Chính bây giờ đầu mục thế gian này sẽ bị đuổi ra ngoài”: Chúa
Giêsu nói đến Satan như nói đến một bạo chúa thất trận, bị truất phế. Nhiều bản
văn mà một số có nguồn gốc Kitô giáo (Ep 2,2; 6,12) đồng ý gán cho Satan tước
hiệu “đầu mục thế gian này”. Các giáo sĩ cũng gọi nó là “sar ha olam”
Chính ma quỷ gán cho mình quyền thống trị trên mọi sự “thế gian”
(Mt 4,9). Khi nói như thế, nó chỉ khoe khoang hão, tuy nhiên hãy biết rằng
trong Tin Mừng, tội nhân bị gọi là tội và ngay cả con cái của nó (Ga 8,34.44;
Cv 8,10), rằng Thiên Chúa đã đặt nó thi hành các việc công lý của Ngài (Mt
5,25-26; G 2,6; Dcr 5,5), rằng kinh nghiệm xưa nay cho thấy ma quỷ rất khéo léo
trong việc phỉnh gạt, làm khổ nhân loại. “Và Ta, một khi Ta được giương cao
khỏi đất”: Hãy so sánh với lối chơi chữ của St 40,13 và St 40,19 về chữ “nâng
đầu lên”: đầu của viên chánh chước tửu sẽ “được nâng lên cao” và ông sẽ được ân
xá; còn đầu của viên chánh ngự thiện cũng “được nâng lên cao” nhưng ông ta sẽ
bị treo cổ. Trong Is 52, 13 thì bảo người Tôi tớ Gioan “được nhắc cao” và “được
tôn dương”. Có lẽ đây là nguồn gốc chữ “được tôn vinh” và “được giương cao”
trong Gioan.
KẾT LUẬN
Trong đoạn này, chính “giờ” của Chúa Giêsu là trọng tâm xét trên
bình diện lịch sử lẫn thần học. Về phương diện Kitô học, “giờ” này đánh dấu
việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mệnh mặc khải và cứu chuộc thế gian. Nó đặc
trưng tất cả cuộc đời Chúa Kitô, vốn luôn quy hướng về nó. Vì chính lúc bấy giờ
xảy ra cuộc “phán xét” (krisis) nhân loại, xảy ra sự phân chia (krisml) những
kẻ tin hay từ chối tin mầu nhiệm Chúa Kitô tử nạn và được tôn vinh. Ai tin thì
được cứu rỗi và được sống, còn ai từ chối tin thì bị luận phạt và phải chết
muôn đời.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Trong Tin mừng Gioan, Chúa Giêsu thường nói đến “giờ” của
Người. Đó là lúc người đạt đến cao điểm sứ mệnh cứu chuộc, tức là Chết và Phục
sinh. Không nên tách rời hai yếu tố này. Cái chết là cuộc vượt qua cần thiết do
tình yêu đòi hỏi, nhưng sự phục sinh sẽ ban cho nó một ý nghĩa khi tôn dương và
làm nẩy sinh sự sống. Giờ Chúa Giêsu vừa là thứ Sáu thánh vừa là Chúa nhật phục
sinh, và giờ này hôm nay cứu tiếp tục trong mỗi Kitô hữu là con người vừa chịu
đựng đinh vừa được sống lại.
2) Ở đây Chúa Giêsu lợi dụng dịp vài người ngoại giáo đến gặp để
nói đến giờ của Người. Lương dân “Hy lạp” này là những kẻ có cảm tình với đạo
Do thái. Họ hành hương đến Giêrusalem dù không phải là con dân Abraham. Chúa
Giêsu bảo Giờ của người, nghĩa là ơn cứu chuộc, cũng liên hệ tới họ. Liên hệ
như thế nào? Người giải thích bằng cách đưa ra hình ảnh hạt lúa mì chết đi
trong lòng đất và mọc lên sai hoa lắm quả. Hạt lúa mì mục nát chính là Người.
Các hạt sinh sôi là tất cả mọi dân tộc, tất cả loài người, tất cả “lương dân”
sẽ trở thành tín hữu.
3) Mọi Kitô hữu đều được mời gọi sống Giờ của Chúa Giêsu. Cần lưu
ý là trong bản văn thánh Gioan, các chữ “vinh quang” và “sự chết” rất gần nhau
và hầu như được liên kết với nhau. Điều này cho thấy hai điểm. Trước hết Kitô
hữu phải biết tiêu diệt trong mình những gì chống lại với sự sống đích thực.
Phép rửa của họ đưa họ vào mầu nhiệm chết. Họ không thể ở trên Thầy của họ. Họ
phải chết về phương diện thể lý, nhưng cũng phải vượt qua bằng một cái chết
thiêng liêng: cái chết này gọi là sự từ bỏ chính mình. Nhưng phải chăng vì thế
mà họ phải tỏ ra khắc khổ và buồn bực? Không, vì họ còn phải sống mầu nhiệm
phục sinh, tôn vinh, một mầu nhiệm vui tươi của sự từ bỏ của Kitô hữu chỉ có ý
nghĩa trong sự kết hiệp với cái chết và phục sinh của Chúa Kitô cùng bắt chước
Người. Thế mà Chúa Kitô, trong giờ của Người, đã sống thực sự đau khổ và hiển
vinh cùng một lúc. Nên Kitô hữu, người của từ bỏ, phải đồng thời là người của
sự vui mừng thiêng liêng.
4) Cũng như Thầy mình, mỗi Kitô hữu đều được kêu lời trở nên hạt
lúa gieo vào lòng đất. Điều này liên hệ tới phần của họ trong việc cứu rỗi thế
giới. Dù có được kêu gọi hoạt động bên ngoài hay không, thì mỗi Kitô hữu, qua
việc kết hợp với Chúa Kitô đều có ơn gọi tham gia vào việc cứu rỗi anh chị em
mình. Nếu không thể hoạt động bên ngoài, thì họ hãy ấp ủ tư tưởng phấn khích
này là: việc âm thầm dâng lời cầu nguyện, đau khổ, cái chết, trong sự kết hiệp
với Chúa Giêsu cũng có khả năng cứu rỗi nhiều người. Nếu có sự hoạt động, họ
phải nhớ rằng hiệu năng hành động của họ trước tiên tùy thuộc việc họ hiệp
thông vào kinh nguyện và khổ giá Chúa Giêsu.
5) Chúa Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc khổ nạn để trở
nên bánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực
nuôi ta trong bí tích Thánh Thể nhiệm mầu. Chúng ta hãy mau mắn đến bàn tiệc
rước lấy Mình Thánh Chúa để được tăng thêm sự sống của Người, để Người biến đổi
ta nên thân xác Người, hầu một ngày nào đó ta có thể nói: “Không phải tôi sống,
nhưng chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
(Chú giải của William Barclay)
Người Hy Lạp tìm Chúa (Ga 12,20-22)
Chỉ có Phúc Âm Thứ Tư mới kể lại sự kiện này, đó là điều thích hợp
hết sức tự nhiên. Chúng ta vẫn nhớ Gioan viết sách này nhằm trình bày chân lý
cho người Hy Lạp, để họ hiểu và tiếp nhận được. Mục tiêu như thế, thì phải có
chỗ cho những người Hy Lạp đầu tiên đến với Chúa Giêsu.
Chúng ta không ngạc nhiên khi thấy người Hy Lạp tại Giêrusalem
trong ngày lễ Vượt Qua. Đây không hẳn là họ đã nhận đạo Do Thái. Dân Hy Lạp vốn
là những kẻ thích đi lang thang đây đó, họ bị thúc đẩy bởi đam mê muốn đi tìm
cái hay, cái lạ, cái mới mẻ. Một người xưa đã nói: “Dân Athène (thủ đô Hy Lạp)
các ông chẳng bao giờ chịu nghỉ ngơi, cũng chẳng chịu để ai nghỉ ngơi cả”. Một
người khác thì bảo: “Dân Hy Lạp các ông giống như trẻ con, lúc nào tâm hồn các
ông cũng trẻ trung cả”. Năm trăm năm trước đó, Herociotus đã đi du lịch thế
giới, theo lời của ông là tìm cho ra mọi sự việc. Tận trên thượng nguồn sông
Nile còn sừng sững một bức tượng cổ của người Ai Cập, trên đó một du khách Hy
Lạp đã khắc tên mình, như các du khách ngày nay vẫn làm. Dĩ nhiên có người Hy
Lạp du hành để giao thương buôn bán, nhưng trong thế giới thời cổ, dân Hy Lạp
là những người đầu tiên thích đi đây đi đó, chỉ để phiêu lưu cho thỏa chí mà
thôi. Cho nên chúng ta không ngạc nhiên khi thấy một phái đoàn người Hy Lạp tại
Giêrusalem.
Hơn thế nữa, đặc điểm của người Hy Lạp là chuyên đi tìm chân lý.
Chẳng có gì bất thường, khi chúng ta thấy một người Hy Lạp hết theo triết
thuyết này lại chạy theo triết lý khác, hết theo đạo này lại theo đạo khác, tôn
thờ hết giáo sư này đến thầy khác, để tìm chân lý. Dân Hy Lạp là những con
người có đầu óc khao khát tìm tòi.
Những người này được nghe về Chúa Giêsu và để ý đến Ngài như thế
nào? J. H. Bernard đã đưa ra một gợi ý thú vị. Chúa Giêsu đã dọn sạch Đền Thờ,
xô bàn ghế của những kẻ đổi bạc và bán bồ câu trong sân Đền thờ. Gian hàng của
những người mua bán đổi chác đó vốn nằm trong sân dành cho người ngoại là sân
đầu tiên trong Đền Thờ. Người ngoại chỉ được phép vào trong sân ấy chứ không
được phép vượt qua khỏi đó. Vì thế, nếu số người Hy Lạp ấy đến Giêrusalem, tất
nhiên họ phải đến viếng Đền Thờ, và đứng tại sân dành cho người ngoại. Có lẽ họ
được chứng kiến cảnh phi thường lúc Chúa Giêsu đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi
sân Đền Thờ, và họ muốn biết thêm về con người đã làm những việc như thế.
Dù thế nào đi nữa, đây cũng là một trong những giờ phút trọng đại
trong câu chuyện, vì đây là tín hiệu đầu tiên về việc Phúc Âm sẽ lan tràn khắp
thế giới.
Những người Hy Lạp đã đến đặt vấn đề với Philipphê. Tại sao lại
chọn Philipphê? Không ai có thể nói chắc chắn cả, nhưng có thể vì Philipphê là
tên Hy Lạp, họ nghĩ rằng một người có tên Hy Lạp hẳn sẽ có thiện cảm với họ.
Nhưng Philipphê không biết làm gì nên đến với Anrê. Anrê chẳng cần nghĩ ngợi gì
cả, ông đưa ngay họ đến với Chúa Giêsu.
Anrê khám phá được một điều là, chẳng hề có ai đến với Chúa Giêsu
mà làm cho Ngài cảm thấy phiền hà. Ông biết Chúa Giêsu chẳng bao giờ xua đuổi
bất cứ ai muốn tìm kiếm Ngài.
Điều nghịch lý lạ lùng (Ga 12,23-26)
Không có đoạn Kinh Thánh nào làm cho người nghe lần đầu tiên ngạc
nhiên bằng đoạn Kinh Thánh này. Nó bắt đầu bằng một câu mà ai cũng mong được
nghe. Nhưng lại kết thúc bằng một loạt những câu mà chẳng ai muốn nghe cả.
Chúa Giêsu bắt đầu: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Rõ ràng,
mọi sự được xây dựng đưa dẫn đến điểm quyết liệt, và bây giờ, thời điểm quyết
liệt ấy đã đến. Nhưng ý của Chúa Giêsu về giờ phút này quyết liệt này khác hẳn
với ý nghĩ của bất cứ ai. Khi Ngài nói đến “Con Người”, Ngài không nói theo
nghĩa người khác này, chúng ta phải biết người Do Thái hiểu thế nào khi nghe
đến chữ: “Con Người”. Chữ này bắt nguồn từ Đaniel 7,13. Trong đó nói rằng:
“Này, có một người giống như Con Người đến với những đám mây trên trời; người
đến Đấng Lão Thành và được dẫn đến trước mặt Ngài. Người được ban cho quyền
thế, vinh hiển và các nước, hầu cho hết thảy các dân, các nước, các thứ tiếng
đều phụng sự Người”.
Đaniel 7,1-8 mô tả các cường quốc cầm quyền trên thế giới, đó là
các dân Syri, Babylon, Mêđi và Ba Tư. Họ vốn hung ác, bạo tàn, thích gây đau
khổ cho kẻ khác, nên chỉ có thể mô tả bằng hình ảnh của những dã thú, như sư tử
có cánh, chim ưng, con gấu và ba xương sườn giữa các hàm răng, con heo có bốn
cánh và bốn đầu, con thú hung dữ có răng bằng sắt và mười sừng… đó là biểu
tượng của các cường quốc từng cai trị từ trước đến giờ. Thế nhưng trong giấc
mơ, vị ngôn sứ còn thấy một thế lực mới sẽ đến thế gian, thế lực ấy hiền dịu,
nhân hậu, được mô tả bằng biểu tượng “con người” chứ không phải con thú. Trong
cả đoạn đã ngụ ý thời kỳ đã mãn sẽ qua đi, thời kỳ đầy nhân đạo sắp đến.
Và đó là giấc mơ của dân Do Thái. Họ mơ ước thời đại hoàng kim,
bấy giờ cuộc sống sẽ tươi đẹp ngọt ngào, và họ sẽ làm bá chủ thế giới. Nhưng
thời đại đó sẽ đến như thế nào? Càng ngày, càng thấy rõ quốc gia của họ quá nhỏ
bé, thế lực họ quá yếu kém, hoàng kim thời đại sẽ chẳng bao giờ đến do các
phương tiện, quyền lực của loài người. Nó phải đến do sự can thiệp trực tiếp từ
Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ sai người vô địch đó là Con Người? Câu nói đó trước
kia vốn chỉ là biểu tượng, bấy giờ trở thành một câu mô tả. Trong khoảng thời
gian giữa Cựu Ước và Tân Ước, có hàng loạt sách đề cập đến hoàng kim thời đại,
việc đó sẽ đến như thế nào. Giữa hoạn nạn và đau khổ, trong lúc phải sống dưới
ách nô lệ và đô hộ, người Do Thái chẳng bao giờ quên đi, hoặc từ bỏ giấc mơ của
họ. Một trong những quyển sách gây ảnh hưởng đặc biệt là sách của Hênóc, cứ
nhắc đi, nhắc lại về Con Người ấy. Trong sách Hênóc, Con Người, một nhân vật
phi thường bị Thiên Chúa cầm giữ. Nhưng đến ngày Thiên Chúa buông Con Người ấy
ra, Ngài sẽ đến với quyền năng siêu phàm mà chẳng ai có thể chống lại, và chẳng
có một vương quốc nào có thể đứng nổi, và dọn đường cho người Do Thái làm bá
chủ thế giới.
Với người Do Thái, thì Con Người là chữ tiêu biểu cho Đấng chinh
phục vô địch bởi Thiên Chúa sai đến. Cho nên, khi Chúa Giêsu nói: “Đã đến giờ
Con Người được tôn vinh” thì tất cả những người nghe Ngài đều hiểu. Họ tin
tiếng kèn kêu gọi của cõi đời đã vang lên, sức mạnh của các tầng trời đang
chuyển động, và chiến dịch toàn thắng đang bắt đầu. Nhưng chữ “được tôn vinh”
Chúa Giêsu nói ở đây không có ý nghĩa như họ hiểu, là các vương quốc trên đất
này sẽ bị chà đạp dưới chân Đấng chinh phục. Khi nói “được tôn vinh”, Chúa
Giêsu ngụ ý rằng Ngài sẽ bị đóng đinh. Khi nói đến Con Người, dân Do Thái nghĩ
ngay đến các đạo quân chiến thắng của Thiên Chúa, còn Chúa Giêsu nghĩ đến quyền
năng chinh phục của thập giá.
Vì thế, câu đầu tiên Chúa Giêsu nói đã làm náo nức những kẻ nghe,
nhưng tiếp theo là một loạt những câu khiến họ ngỡ ngàng, choáng váng, kinh
ngạc, khó tin nổi, vì không phải là những câu đề cập chiến thắng, mà chỉ nói về
sự hy sinh và sự chết. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ hiểu Chúa Giêsu, và thái độ
của dân Do Thái đối với Ngài, nếu chưa hiểu Ngài đã làm đảo lộn các ý niệm của
họ như thế nào, Ngài đã lật ngược giấc mơ chiến thắng của họ thành mặc khải về
thập giá. Do đó chúng ta không ngạc nhiên khi thấy họ đã không hiểu nổi Ngài,
thảm kịch ở đây là họ từ chối không chịu tìm hiểu Chúa.
Vậy, phần nghịch lý lạ lùng mà Chúa Giêsu dạy ở đây là gì? Chúa
nói đến ba điều, là ba mặt của cùng một chân lý, tất cả đều là trung tâm của
đức tin và sinh hoạt Kitô giáo.
1) Ngài dạy chỉ do sự chết mới có sự sống. Bao
lâu hạt lúa mì được gìn giữ an toàn thì nó không thể kết quả được. Chỉ khi nào
nó được gieo xuống đất lạnh, bị chôn vùi như bị nằm trong mồ mả, nó mới có thể
sinh hạt. Chính nhờ sự chết của các thánh tử đạo mà Hội Thánh đã tăng trưởng
“Máu của các vị tử đạo là hạt giống của Hội Thánh”.
Nhờ những người sẵn sàng chịu chết mà những việc làm cao cả, vĩ
đại mới sống. Nhưng sự kiện trên còn có tính cách cá nhân nhiều hơn nữa. Khi
một người chịu chôn vùi những mục đích, những tham vọng cá nhân, thì người ấy
bắt đầu hữu dụng cho Chúa. Comos Lang, Tổng Giám Mục Canterbury, có một thời,
ông mang nhiều tham vọng rất lớn của trần gian. Ảnh hưởng của một người bạn tin
Chúa đã khiến ông từ bỏ các tham vọng đời này, gia nhập Kitô giáo. Lúc đang
theo học tại Cuddesdon để chuẩn bị cho chức vụ, một hôm đang con người trong
nhà nguyện, ông nghe rõ có tiếng phán với mình: “Ta cần ngươi”. Chính lúc đó
ông bằng lòng chôn vùi tham vọng cá nhân, và ông đã trở nên người có ích cho
Chúa và cho các linh hồn.
Do cái chết mà có sự sống. Bởi lòng tận trung cho đến chết mà nhân
loại có được, và còn giữ được những di sản quý báu hơn hết. Nhờ làm chết các tham
muốn và dục vọng cá nhân mà người ta trở thành tôi tớ của Thiên Chúa.
2) Ngài dạy chỉ bằng cách sử dụng sự sống, chúng ta mới giữ được
sự sống. Người tham sống bị hai điều tác động, một là vị kỷ, hai là ước
muốn được yên thân. Không chỉ một hai lần nhưng nhiều lần, Chúa Giêsu nhấn mạnh
kẻ nào giữ mạng sống thì cuối cùng sẽ mất, còn ai chịu từ bỏ nó cuối cùng sẽ
được lại. Có một nhà truyền giáo nổi tiếng tên là Christmas Evans luôn luôn
xông xáo rao giảng về Chúa Kitô. bạn bè khuyên ông nên sống thư thả, ông luôn
luôn đáp: “Thà làm việc kiệt sức còn hơn là để gỉ sét ăn mòn”. Lúc Jeanne d’Arc
cảm thấy kẻ thù quá mạnh, thì giờ còn lại quá ít, cô đã cầu nguyện với Chúa:
“con chỉ còn sống được một năm nữa thôi, vậy Chúa có thể dùng con được bao
nhiêu, xin Chúa cứ dùng”. Chúa Giêsu đã nêu định luật ấy nhiều lần (Mc 8,35; Mt
10,39; 16,25; Lc 19,24; 17,33).
Thế giới này sẽ thiệt biết bao, nếu không có người đã quên đi an
toàn, yên vui vị kỷ, những lợi lộc, thăng tiến cá nhân. Thế giới này đang mắc
nợ, chịu ơn những người đã tận lực làm việc, quên mình, hiến thân cho Chúa và
cho người khác. Dĩ nhiên, chúng ta có thể kéo dài đời mình lâu hơn nếu tìm lối
sống thoải mái, dễ dàng, trốn tránh mọi căng thẳng, nếu cứ ngồi bên bếp lửa gia
đình, làm chồng, làm vợ, nếu chúng ta chỉ lo chăm sóc sức khỏe của mình như một
kẻ mắc bệnh u uất, có lẽ chúng ta sẽ tồn tại lâu hơn, nhưng sẽ chẳng bao giờ
chúng ta thật sự sống cả.
3) Ngài dạy chỉ do con đường phục vụ chúng ta mới trở thành vĩ
đại. Những nhân vật mà loài người giữ kỷ niệm trìu mến là những
người đã phục vụ tha nhân. Bà Berwick hoạt động tích cực trong Cứu Thế Quân ở
Liverpool. Bà về hưu ở London. Khi chiến tranh xảy ra, bị máy bay ném bom, dân
chúng xảy ra ý nghĩ kỳ dị là đến núp ở nhà bà Berwick thì sẽ được an toàn. Bà đã
già quá rồi, nhưng bà nghĩ mình cũng phải làm một cái gì giúp đỡ mọi người. Bà
bèn gom góp những dụng cụ cứu thương, bỏ vào một hộp cấp cứu, rồi để nơi cửa sổ
một hàng chữ: “Ai cần giúp đỡ, cứ gõ cửa”. Đó là thái độ yêu thương đối với
đồng bào mình.
Sự thật đáng buồn là trong thế giới này, ý niệm phục vụ đang gặp
nguy cơ bị tiêu diệt. Ngày nay, có quá nhiều người chỉ lăn vào đời sống, vào
việc làm ăn với mục đích duy nhất là khai thác, rút tỉa lợi lộc. Rất có thể họ
sẽ trở nên giàu có, nhưng chắc chắn họ chẳng bao giờ được ai yêu thương cả, mà
được yêu thương trìu mến mới là sự giàu có đích thực ở đời.
Chúa Giêsu đã đến với dân Do Thái bằng một quan điểm mới mẻ về đời
sống. Họ cho rằng được danh, lợi, quyền là vẻ vang, vinh hiển. Nhưng Ngài xem
thập giá là vinh quang. Ngài dạy họ, chỉ từ sự chết mới có sự sống, chỉ bằng
cách hy sinh mạng sống, chúng ta mới giữ được sự sống, chỉ nhờ phục vụ, người
ta mới trở thành vĩ đại. Điều lạ lùng khi chúng ta suy gẫm những điều đó, điểm
nghịch lý của Chúa Kitô không gì khác hơn là chân lý của lương tri ở đời.
Từ căng thẳng đến chắc chắn (Ga 12,27-34)
Trong đoạn này, Gioan ghi lại tình trạng căng thẳng lẫn chiến
thắng khải hoàn của Chúa Giêsu, và ông cho chúng ta thấy điều gì đã biến tâm
trạng căng thẳng thành chiến thắng.
1) Gioan không kể giờ phút đau đớn tại vườn Giệtsimani. Chính
tại đây, ông ghi rõ cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu với phần nhân tính trong Ngài
muốn tránh né thập giá. Chẳng ai muốn chết cả, chẳng ai muốn chết ở tuổi ba
mươi ba, mà cũng không ai muốn chết trên thập giá. Nếu sự việc xảy ra dễ dàng,
chẳng phải trả giá gì cả, thì sự vâng phục Thiên Chúa của Chúa Giêsu đã không
có giá trị gì. Can đảm đích thực không có nghĩa là không sợ hãi gì cả. Can đảm
đích thực nghĩa là có sợ hãi khủng khiếp, nhưng vẫn làm điều đáng phải làm. Đó
là can đảm của Chúa Giêsu. Bengel đã nói: “Ở đây sự chết và nhiệt tâm muốn vâng
phục đã gặp nhau”. Tại đây, chúng ta thấy cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu nhằm
vâng phục ý Thiên Chúa. Ý Chúa muốn Ngài chấp nhận thập giá, và Chúa Giêsu tự
buộc mình chấp nhận điều đó.
2) Nhưng kết cuộc của câu chuyện không phải là tình trạng căng
thẳng, mà là chiến thắng khải hoàn và chắc chắn. Chúa
Giêsu biết chắc, nếu Ngài tiến tới thì việc xảy ra sẽ đập tan quyền lực của
điều ác. Nếu Ngài vâng phục cho đến chết trên thập giá thì Satan, kẻ cầm quyền
trên thế gian tội lỗi, sẽ bị một đòn trí mạng. Chính trận đánh cuối cùng, khi
Ngài bị treo lên khỏi mặt đất, mọi người sẽ chạy đến với Ngài. Chúa Giêsu cũng
muốn chinh phục con người. Ngài biết phương pháp duy nhất để thu phục vĩnh viễn
trái tim con người, là bày tỏ chính mình cho họ thấy trên thập giá. Ngài đã bắt
đầu với căng thẳng, nhưng kết thúc bằng chiến thắng khải hoàn.
3) Vậy, giữa tình trạng căng thẳng và chiến tranh đã có gì xảy ra? Điều
gì đã biến căng thẳng thành chiến thắng? Có tiếng nói của Chúa. Đằng sau tiếng
nói của Chúa là một điều trọng đại và sâu nhiệm.
Đã có một thời dân Do Thái hoàn toàn tin Thiên Chúa trực tiếp phán
dạy loài người. Chúa đã trực tiếp phán dạy cậu bé Samuen (1Sm 3,1-14). Chúa đã
trực tiếp phán dạy Elia lúc ông chạy trốn vì Giêsabên trả thù (1V 19,1-18).
Elipha người Thêman từng tuyên bố mình đã trực tiếp nghe tiếng phán từ Thiên
Chúa (G 4,16). Nhưng vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái không còn tin Thiên Chúa
trực tiếp phán dạy con người nữa. Những ngày tốt đẹp đã qua rồi, bây giờ Thiên
Chúa ở quá xa, tiếng nói từng phán dạy các ngôn sứ giờ đây im lặng. Từ nay trở
đi, họ chỉ còn tin vào điều họ gọi là Bath qol. Bath qol có nghĩa là một câu
trích dẫn kinh điển. Đó không phải là tiếng phán trực tiếp của Chúa, mà chỉ có
thể là tiếng vang, tiếng dội của lời, một tiếng nói xa vời, mơ hồ, thì thầm,
chứ không phải một lệnh truyền trực tiếp, sống động của Chúa.
Nhưng ở đây với Chúa Giêsu thì khác. Tiếng Ngài nghe không phải là
tiếng dội lại của lời Chúa, đó chính là lời của Thiên Chúa. Tại đây có một chân
lý quan trọng. Với Chúa Giêsu, lời của Thiên Chúa đến với loài người khôngphải
là một lời thì thầm xa xôi, không phải là vài tiếng vang, tiếng dội yếu ớt nào
từ trời vọng xuống, nhưng là lời của Thiên Chúa trực tiếp đến với loài người,
bằng một giọng không thể lầm lẫn được.
Hơn nữa, điều đáng chú ý là lời của Thiên Chúa đến với Chúa Giêsu
vào đúng những giây phút quan trọng trong đời Ngài. Tiếng ấy đã đến với Ngài
khi Ngài chịu phép rửa, chuẩn bị cho công tác Thiên Chúa Cha muốn Ngài thực
hiện (Mc 1,11). Tiếng phán ấy đã đến với Ngài trên Núi Cao, khi Ngài quyết định
đi Giêrusalem để lên thập giá (Mc 9,7). Giờ đây tiếng đó lại đến với Ngài, khi
thịt và máu Ngài cần được trợ giúp, củng cố, tăng cường, để nhận chịu thử thách
đau đớn trên thập giá. Điều Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu, Ngài cũng làm cho
tất cả mọi người. Khi Chúa sai chúng ta lên đường, Ngài không sai chúng ta đi
mà không chỉ bảo và hướng dẫn. Khi Chúa giao cho chúng ta một công tác, Ngài
không bỏ mặc chúng ta đơn độc với sự yếu đuối và sức riêng của chúng ta. Chúa
không hề im lặng. Mỗi khi có căng thẳng của đời sống lên cao quá sức mình, sự
cố gắng đi theo con đường Ngài vượt quá các nguồn năng lực của loài người, nếu
chịu lắng tai, chúng ta sẽ luôn nghe được lời của Ngài, chúng ta sẽ tiến lên
với sức mạnh của ngài nảy sinh trong ta. Vấn đề trở ngại khó khăn của chúng ta,
không phải là Chúa không phán dạy, không nói chi, nhưng là chúng ta không chịu
chú ý lắng tai, để có thể nghe được tiếng Ngài.
Từ căng thẳng đến chắc chắn (Ga 12,27-34)
Chúa Giêsu tuyên bố khi Ngài được giương lên cao, Ngài sẽ kéo mọi
người đến với Ngài. Có người cho câu này ám chỉ thăng thiên, và nghĩ rằng khi
Chúa Giêsu được tôn lên cao do quyền năng Phục Sinh, Ngài sẽ kéo mọi người lên
với Ngài. Thế nhưng sự thật không phải vậy. Chúa đang nói về cây thập giá của
Ngài. Dân chúng cũng biết như vậy, và một lần nữa, họ lại vô cùng kinh ngạc,
sửng sốt. Làm sao có thể liên kết Con Người với thập giá được, Con Người há
không phải là vị lãnh tụ bách chiến bách thắng cầm đầu tất cả các đội thiên
binh hay sao? Quyền thế Người là quyền thế đời đời, chẳng qua đi, và nước Người
sẽ không bao giờ hủy phá (Đn 7,14). Không có lời nói về Nhà Vua của thời đại
hoàng kim rằng: “Tôi tớ Ta là Đa vít sẽ làm vua chúng nó mãi mãi” (Ed 37,25)
sao? Isaia há đã không nói về vị Vua cai trị thế giới mới rằng: “quyền cai trị
và bình an Ngài sẽ thêm mãi không thôi” (9,6) hay sao? Tác giả Thánh vịnh đã ca
ngợi vương quốc vô cùng, vô tận đó rằng: “Ta sẽ lập dòng dõi ngươi đến đời đời”
(89,4) sao? Người Do Thái kết hợp Con Người với một vương quốc tồn tại vĩnh
viễn, thế mà ở đây, Ngài tự xưng là Con Người, nhưng lại nói về việc mình sẽ bị
treo trên thập giá. Thế thì Con Người này là ai mà vương quốc Người lại chấm
dứt trước khi bắt đầu?
Nhưng bài học lịch sử đã cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã nói đúng.
Chúa Giêsu đã gắn những hy vọng của Ngài vào quyền lực sẽ tiêu tan, còn tình
yêu sẽ tồn tại mãi. Thành Tia, Siđôn chỉ còn lại cái tên, nhưng Chúa Giêsu Kitô
vẫn sống. Một tuyệt tác của Shelley nói về Ozymandias, vị vua của các vua:
những gì ông còn để lại là một bức tượng tả tơi của ông nằm giữa sa mạc. Các
cường quốc được dựng lên bằng bạo lực đều đã tiêu tan, chỉ còn lại trong ký ức
con người, và năm tháng qua đi, ký ức ấy ngày càng lu mờ. Nhưng vương quốc của
Chúa Giêsu xây dựng trên thập giá ngày càng mở rộng thêm mãi. Sự chết của Ngài
trên thập giá đã đưa Ngài vào lòng mọi người mãi mãi.
Trong vở kịch của Shaw, khi Jeanne d’Arc biết mình bị các lãnh tụ
dân mình phản bội, nàng quay lại nói với họ: “bây giờ tôi sẽ đi đến với người
dân, để được tình thương trong mắt họ yên ủi, thay cho thù hằn trong mắt các
ông. Các người sẽ hài lòng khi thấy tôi bị thiêu sống, nhưng nếu tôi đi qua lửa
của các người, tôi sẽ đi thẳng vào lòng dân chúng mãi mãi”. Đó là ví dụ về
những gì đã xảy ra cho Chúa Giêsu. Đấng Mêsia chinh phục thế giới mà dân Do
Thái mong chờ, chỉ là một nhân vật mà các học giả đã dùng để viết sách, nhưng
vị Vua yêu thương trên thập giá đã đặt ngai của Ngài vĩnh viễn trong lòng
người. Nền tảng duy nhất bảo đảm cho bất cứ vương quốc nào phải là tình yêu hy
sinh.
(Suy niệm của Huệ Minh)
Cuộc sống quanh ta chuyện sinh nở là chuyện của tự nhiên, của quy
luật cuộc sống.
Như hạt lúa rơi vào trong lòng đất không thối đi thì làm sao nó
sinh mầm và sinh cây khác để cho ta được lúa để ăn?
Và rồi, trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng chỉ
dùng những hình ảnh hết sức gần gụi, hết sức bình dị như thế để nói về Nước
Trời, để nói về kho tàng trên trời … và để nói về chính mình. Có khi Chúa Giêsu
ví mình như con chiên hiền lành bị mang đi làm thịt nhưng có khi Chúa Giêsu ví
mình như hạt lúa như trang Tin Mừng hôm nay.
Hết sức giản đơn, Chúa nói: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không
thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều
bông hạt”.
Nói như thế vẫn sợ các môn đệ không hiểu để rồi Ngài lại
giải thích thêm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời
này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta
ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó.
Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ
này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh
danh Cha”. Lúc đó có tiếng từ trời phán: “Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm
vinh danh Ta nữa”. Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác
lại rằng: “Một thiên thần nói với Ngài”. Chúa Giêsu đáp: “Tiếng đó phán ra
không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử,
bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao
khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta”.
Chúa Giêsu không còn úp mở gì nữa. Nói như thế nghĩa là Chúa cho
biết rằng Chúa phải chết cách nào.
Cả cuộc đời Chúa Giêsu và nhất là cái chết của Chúa Giêsu đó chính
là cuộc đời và cái chết của sự vâng phục.
Trong thư Do Thái, chúng ta vừa nghe: Khi còn sống ở đời này, Chúa
Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Ðấng có thể cứu
Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên
Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất,
Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục
Người.
Trong thư Philip, Thánh Phaolô đã nói rõ:
Đức Giêsu Kitô
vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự. (Pl 2, 6-8)
Vâng phục chính là đặc tính, là căn cốt của cuộc đời Chúa Giêsu.
Hạt lúa mục nát nơi đời Chúa Giêsu đã vào trần gian sống cả cuộc đời bằng đời
sống vâng phục.
Ta, là những người đi theo Chúa, ta cũng được mời gọi sống như hạt
lúa mì đàn anh, hạt lúa mì anh Trưởng, anh Cả của ta đó chính là Chúa Giêsu.
Thật sự mà nói, thử thách nhất đời con người đó chính là sự vâng
phục, vâng lời Thiên Chúa.
Nhìn suốt chiều dài lịch sử cứu độ, thấp thoáng đâu đó cho ta hình
ảnh, cách sống vâng phục Thánh ý Thiên Chúa trên đời mình. Các vị chứng nhân
anh dũng đã sống đời vâng phục trong mỗi cảnh sống của mỗi người.
Thấp thoáng ta vẫn thấy hình ảnh của Abraham. Abraham đã trọn đời
vâng lời Thiên Chúa để lên đường mà đi và chẳng biết mình đi đâu cả. Cứ đi và
cứ đi theo lời của Thiên Chúa. Và bi đát, đỉnh điểm nhất đời ông đó chính là
việc sát tế đứa con đầu lòng và là đứa con duy nhất của đời ông. Dẫu thử thách
đến tột cùng như thế nhưng ta thấy Abraham đã vâng lời Thiên Chúa để sát tế đứa
con yêu của mình.
Ta vẫn thấy hình ảnh của một Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở bên đời. Sống
trong 4 bức tường của đan viện đầy dẫy những khó khăn thử thách nhưng Têrêsa
vẫn hoàn toàn tin tưởng và phó thác đời mình trong lòng bàn tay của Chúa.
Hay gần ta, ta thấy một hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Ngài đã sống trong thân phận tù đày và đặc biệt là biệt giam nhưng Ngài đã
không hề một tiếng kêu ca phàn nàn ai oán. Sống như thế, Ngài không những đã
rèn luyện mình nhưng Ngài đã làm cho những người cai ngục cảm nhận được một
Thiên Chúa vâng phục trên đời của Ngài.
Thật sự không phải dễ sống đời vâng phục chịu đựng như thế bởi lẽ
ta cũng là con người. Là con người. ai ai cũng mang trong mình yếu đuối của
phận người để rồi ta muống chứng tỏ mình với người khác. Ta muốn chứng minh
rằng ta tự do, ta có quyền trên người khác và rồi ta muốn làm gì thì làm và
không cần biết cũng như chẳng cần vâng phục ai cả. Đó cũng chỉ là cái lý của ta
nhưng ta vẫn còn đó một Đấng để ta vâng phục đó chính là Thiên Chúa.
Bình gốm làm sao qua khỏi bàn tay của thợ gốm đó chính là Thiên
Chúa. Cuộc đời của ta từng phút từng giây ở trong lòng bàn tay của Chúa nhưng
đôi khi ta bé cái lầm, ta tưởng rằng ta định đoạt được cuộc đời của ta. Thế
nhưng, thật sự trong sâu lắng của cuộc đời, chỉ cần một cơn gió thoảng, dù làn
gió biến đi cũng không còn mang vết tích. Thân phận mong manh mỏng dòn của đời
ta là thế đó nhưng mấy ai chân nhận ra sự mong manh mỏng dòn của đời ta.
Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đã gợi lên cho ta thân phận của Ngài. Dù
Ngài là Thiên Chúa đó nhưng Ngài đã sống vâng phục và vâng phục cho đến bằng
lòng chịu chết và chết trên thập giá.
Đời của ta một ngày nào đó cũng trở về với lòng đất mẹ. Thế nhưng,
chuyện quan trọng là ta có phải là hạt giống biết vâng phục thánh ý của Thiên
Chúa như Chúa Giêsu hay ta tự cao tự đại.
Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta biết học thế
nào là bài học vâng phục mà chính Chúa Giêsu đã học và đã sống. Có như thế, khi
ta nằm xuống ta mới sinh được hoa quả của cuộc đời vâng phục.