Lời Chúa tuần 5 mùa chay - câu truyện minh họa

 

CNMC 5A

CNMC 5B

CNMC 5C

THỨ HAI

THỨ BA

THỨ TƯ

THỨ NĂM

THỨ SÁU

THỨ BẢY

LỄ KÍNH THÁNH GIUSE

LỄ TRUYỀN TIN 

 

CNMC 5A

Lời Chúa: Ga 11, 1-45

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt.” Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển.” Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày.

Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa.” Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" Chúa Giêsu đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng.” Người nói thế, rồi lại bảo họ: "Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông.” Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại.” Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông.” Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn: "Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người.”

Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy.” Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại.” Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại.” Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.”

Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em.” Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ.

Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết.” Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Ðã an táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem.”

Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra.” Martha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày.” Chúa Giêsu lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra.

Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con.” Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi.”

Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.

TRUYỆN KỂ

1. Mở cửa mộ

Tai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới.

Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè.

Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng.

Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người.

2. Chúa mang đến điều cao trọng nhất

Chị ấy tuổi gần bốn mươi, có 5 người con, cháu lớn ở độ tuổi 15, gia đình được xếp vào hàng khá giả trong làng. Không may, chị bị bệnh ung thư ở giai đoạn cuối. Có lần một cụ già hàng xóm đến thăm, bất ngờ chị nắm chặt tay vị khách cao tuổi và nói trong nghẹn ngào: “Cụ đổi sự sống cho con, cụ muốn bao nhiêu tiền-vàng, con cũng sẵn sàng.”

Thế mới biết sự sống quí giá là chừng nào! Có tiền muôn bạc vạn cũng chẳng kéo dài cuộc sống thêm được vài giây đồng hồ, chẳng thế mà cổ nhân đã nói: “Mạng sống hơn đống vàng.” Điều mà tiền bạc không mua được thì những ai tin vào Đức Giêsu sẽ được Người ban cho: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.” (Ga 11, 24-26)

3. Lazarô đang ngủ

Nhà văn Pháp Charles Perrault đã viết cuốn “Truyện Thần Tiên” (Contes de Fées) rất nổi tiếng. Trong cuốn sách ấy có câu chuyện sau đây:

Ngày xưa, có nàng công chúa xinh đẹp mắc phải lời nguyền của một bà tiên độc ác: ngày nào nàng bị mũi kim quay sợi đâm vào tay, ngày ấy nàng sẽ chết. Nhưng một bà tiên nhân hậu kia vì thương nàng công chúa, đã hóa giải lời nguyền ấy, để nàng không phải chết mà chỉ ngủ một giấc ngủ trăm năm, cho đến khi có một hoàng tử đến đánh thức nàng dậy.

Vua cha liền ra lệnh cấm dân trong nước không được quay sợi, để tránh cho công chúa khỏi chết. Nhưng trớ trêu thay, một hôm công chúa đi thăm một tòa lâu đài cổ. Tại đây có một bà cụ già đang ngồi quay sợi. Vì già nua, lại không đi đến đâu, nên không biết lệnh cấm của nhà vua. Vì tò mò, công chúa thử quay sợi, không may mũi kim đâm vào tay, nàng liền ngã xuống đất và chìm vào giấc ngủ mê man. Công chúa được đặt vào một căn phòng lộng lẫy trong tòa lâu đài. Rồi mọi sự chìm trong quên lãng…

Một trăm năm sau, có vị hoàng tử đi săn ngang qua tòa lâu đài. Nghe biết câu chuyện về nàng công chúa đang ngủ, chàng đã vào lâu đài, cầm tay công chúa để đánh thức nàng dậy. Sau đó, hai người đã kết duyên và sống bên nhau thật hạnh phúc.

Hôm nay, trong bài Tin Mừng theo thánh Gioan, khi nghe tin Lazarô, em của cô Matta và Maria, đang đau nặng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Lazarô đang ngủ, chúng ta đi đánh thức anh dậy.” Thật ra, Lazarô đã chết và Chúa muốn ám chỉ cái chết giống như một “giấc ngủ” mà chính Ngài là người đi “đánh thức” kẻ chết sống lại.

4. Chúa gọi Lazaro

Ngày kia, có bác nông dân từ thôn quê lên thăm người bạn ở thành phố. Người bạn dẫn bác nông dân đi dạo phố. Đang đi, bỗng bác nông dân dừng lại, lắng tai nghe rồi nói với bạn: “Anh có nghe gì không? Có tiếng chim hót đâu đây!” Người bạn phì cười nói với bác nông dân: “Giữa phố phường ồn ào như vậy, làm sao anh nghe được tiếng chim hót?”

Nhưng bác nông dân vẫn quyết tâm tìm cho ra tiếng chim hót từ đâu. Cuối cùng, bác đã dẫn người bạn đến ngôi nhà có bụi kiểng trước cửa và chỉ cho bạn thấy một chú chim nhỏ đang hót trong bụi cây. Người bạn rất phục bác nông dân thính tai. Nhưng bác ta nói: “Không phải tôi thính tai, nhưng vì tôi quen nghe và thích nghe tiếng chim hót nơi đồng quê. Còn các anh thì quen nghe và thích nghe những tiếng động khác.”

Để chứng tỏ điều ấy, bác nông dân lấy ra một đồng xu và ném xuống mặt đường. Tiếng leng keng của đồng xu đã khiến cho nhiều người đi đường quay lại nhìn.

Cúi xuống lượm đồng tiền lên, bác nông dân nói: “Giữa tiếng ồn ào của đường phố, các anh vẫn nghe thấy tiếng đồng xu, vì các anh quen nghe và thích nghe tiếng động của đồng tiền.”

5. Sự sống siêu nhiên

Thời Pháp thuộc, có ông Tổng thanh tra giáo dục Đông Dương đi săn ở Di Linh. Khi đó Di Linh còn là một khu rừng lớn với nhiều thú rừng như cọp, nai, chồn, mễn… và một ít người thuộc sắc tộc K'Ho.

Ông đến gần làng cùi Di Linh do cha Cassaigne (Sanh) thành lập mà không biết. Nghe tiếng súng săn nổ, cha Sanh chạy ra gặp ông tổng thanh tra, và cho ông biết là không ai được lai vãng tại khu vực này. Ông thanh tra rất khó chịu: “Ông lấy quyền nào mà ngăn cấm chúng tôi?” Nghe thế, cha Sanh dẫn ông đến làng cùi do ngài coi sóc.

Vị tổng thanh tra đó vốn có ác cảm với đạo. Tuy được rửa tội ngày còn nhỏ nhưng ông đã bỏ đạo từ lâu. Vừa thấy những người cùi, ông ghê sợ bỏ đi, nhưng trong cơn giận ông đã nói cho cha Sanh biết là ông có quyền giải tán làng cùi đó.

Mấy tuần lễ sau, cha Sanh đột nhiên nhận được một bưu kiện lớn với nhiều thuốc men và dụng cụ y tế, kèm theo một lá thư ký tên vị tổng thanh tra: “Tôi tặng cha món quà này để trả lời cho câu hỏi mà những người cùi Di Linh này luôn đặt ra trong tâm trí tôi.”

Bốn năm sau, ông qua đời tại Nam Vang. Trước đó, ông đã gửi một bức điện cho cha Sanh (lúc đó ngài làm giám mục Sài Gòn) để xin gặp. Khi nhận được bức điện, dù lúc đó đã 10 giờ tối, Đức Cha Sanh cũng lên xe đi thẳng một mạch qua Nam Vang. Tại đó, ngài đã giải tội và ban các phép sau hết cho ông trước khi từ giã cuộc đời.

Câu hỏi mà những người cùi Di Linh luôn đặt ra trong tâm trí ông không chỉ là câu hỏi về những vui buồn, sướng khổ của đời thường, mà là câu hỏi về sự sống siêu nhiên, một sự sống vượt trên cuộc sống bình thường này, một sự sống mà ai cũng thấy là cao quý vì cái giá hy sinh mà cha Sanh và các nữ tu đã bỏ ra vì nó.

6. Mở cửa mồ

Niềm tin bắt đầu cho một sự sống vượt qua mọi cái chết. Sự sống đó là điều Mẹ Têrêxa tìm kiếm khi dành cả cuộc đời chăm sóc cho những thân phận bất hạnh.

Đối với Mẹ Têrêxa, “Sự nghèo khó cùng cực của nhân loại là không biết Đức Kitô… Người ta đói Thiên Chúa, người ta đói tình yêu. Chúng ta có nhận thức về điều này không? Chúng ta có biết, có thấy, có mắt để nhìn đến điều này không? Chúng ta thường nhìn chằm chằm mà không dừng lại ở một điều gì cả… Dường như chúng ta hiện diện ở đây không để làm gì hơn là trôi qua thế giới này. Chúng ta phải mở mắt chúng ta ra, hãy mở mắt chúng ta ra và hãy nhìn.”

Sự sống thần linh là điều thánh Phaolô quan tâm: “Anh em thân mến, những kẻ sống theo xác thịt thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em.” (Rm 3,8-9)

Vâng, cuộc sống của tôi là gì nếu mọi ngày suốt đời tôi chỉ là tìm kiếm những điều sẽ phải chôn lấp dưới đáy huyệt thời gian?!

Chúa phán: “Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở cửa mồ các ngươi.”

7. Phục sinh

Trong kho tàng thơ của đại thi hào Virgil, có lời kể về một vị vua cổ đại, người đã dùng hình phạt một cách tàn ác bất thường theo cách ông ta thường xích một người chết vào một tên tội phạm còn sống. Người khốn khổ đáng thương không thể tách mình ra khỏi gánh nặng ghê tởm của mình. Cái xác bị trói chặt vào người anh ta, tay của nó với tay anh; mặt nó đối mặt với anh ta; toàn bộ cơ thể của người chết với cơ thể sống của anh.

Sau đó, anh ta bị đưa vào ngục tối để chết ngạt bởi khí thải hôi thối của xác chết bị phân hủy. Nhiều người cho rằng chính vì điều này mà Phaolô đã kêu lên: “Khốn nạn cho tôi!”

* Các bài đọc hôm nay mời gọi chúng ta quay lưng lại với tội lỗi và đến với Bí tích Hòa giải để phục hồi Sự Sống của Thiên Chúa, nhờ đó chúng ta được hưởng sự phục sinh vinh hiển mà Chúa Giêsu đã hứa với các tín hữu tại mộ Lazarô .

8. Không sợ chết

Lee Trevino đang ngồi dưới gốc cây khi bị sét đánh. Anh nhớ lại: “Nó trói chặt tay và chân tôi, giật tôi khỏi mặt đất, và giết chết tôi. Tôi biết mình đã chết. Không đau đớn. Mọi thứ chuyển sang một màu cam nhẹ nhàng và ấm áp.

“Tôi thấy hình ảnh mẹ tôi đã chết nhiều năm trước. Tôi nhìn thấy những người khác từ cuộc sống quá khứ của tôi. Như là một bộ phim thời sự đang diễn ra – cuộc sống của tôi trôi qua trước mắt tôi. Nhưng nó thật dễ chịu, thật tuyệt vời, tôi cảm thấy lâng lâng. Tôi nghĩ, cậu bé này chết thật vui! Đó là khi tôi tỉnh dậy trong bệnh viện trong tình trạng bỏng nặng và đau đớn, tôi biết mình đã sống lại vì một lý do nào đó.”

Cuộc sống vĩnh cửu có nghĩa là chúng ta không phải sống trong sợ hãi trước cái chết.

Lee Trevino đã nói sau trải nghiệm của mình, “Không có lý do gì phải sợ chết.” [Willie: Tự truyện. Willie Nelson with Bud Shrake. (New York: Simon & Schuster, 1988), trang 218-219.]

9. Hiến máu

Một cậu bé được yêu cầu truyền máu cho người anh bị thương của mình vì cậu bé có cùng nhóm máu hiếm. Biết rằng anh mình sẽ chết nếu không có loại máu này, cậu đã đồng ý. Khi truyền máu xong, người hiến máu trẻ tuổi hỏi bác sĩ: “Vậy khi nào cháu sẽ chết?”

Chúng ta cảm động trước lòng dũng cảm ngây thơ của một em bé hiến máu mình cho người anh vì nghĩ rằng mình sẽ phải trả giá bằng mạng sống. Tuy nhiên, Chúa chúng ta biết chắc rằng máu cần thiết để cứu nhân loại là sự hiến máu hoàn toàn. Để cho Lazarô và chúng ta được sự sống đời đời, Chúa Giêsu đã phải đổ máu đến chết vì chúng ta theo đúng nghĩa đen.

Để ban sự sống cho chúng ta, Người phải hy sinh mạng sống vì chúng ta.

10. Đang di chuyển

Tôi nhớ đến câu chuyện về ba người bạn đều thiệt mạng trong một vụ tai nạn ô tô và họ ngay lập tức được lên thiên đàng. Tất cả họ đều được đặt câu hỏi: “Khi bạn nằm trong quan tài, bạn bè và gia đình rất thương tiếc bạn, bạn muốn nghe họ nói gì trong đám tang của mình?”

Chàng thứ nhất nói: “Tôi muốn nghe họ nói: ‘Anh ấy là một bác sĩ tài giỏi và một người đàn ông tuyệt vời của gia đình.’” Chàng thứ hai nói: “Tôi rất muốn nghe họ nói: ‘Anh ấy là một người chồng tuyệt vời, một giáo viên tốt của trường và đã tạo ra sự khác biệt to lớn cho con cái chúng ta trong tương lai.’”

Người cuối cùng nói: “Tôi muốn nghe họ nói: ‘Hãy nhìn xem, anh ấy đang di chuyển!’”

* Lazarô đang di chuyển, bởi vì Lazarô đã được sống lại một lần nữa.

11. Trên thiên đàng

John và Jim là những cầu thủ chuyên nghiệp của câu lạc bộ Atlanta Braves, những người đã sống và hít thở bóng chày. Những người này thở, thảo luận, ăn và ngủ với bóng chày.

Một trong những mối quan tâm lớn của họ là liệu có bóng chày trên thiên đàng hay không. Họ yêu bóng chày đến nỗi họ không chắc mình có muốn sống vĩnh viễn trên thiên đàng trừ khi họ có thể chơi bóng chày ở đó. Họ đã thỏa thuận với nhau rằng, nếu một người chết trước sẽ gửi một tin nhắn trở lại trái đất, cho người kia biết liệu có bóng chày ở trên thiên đàng hay không.

Vâng, điều này đã xảy ra. John chết, và Jim rất đau buồn. Anh ấy ưu sầu trong nhiều ngày – vô cùng đau buồn trước cái chết của người bạn John. Khoảng hai tuần trôi qua, và rồi chuyện đã xảy ra. Jim bị đánh thức vào lúc nửa đêm bởi tiếng gọi tên mình: “Jim, Jim, Jim, dậy đi! Đây là John.”

“John, anh đang ở đâu?”

“Tôi đang ở thiên đàng – và tôi có một số tin tốt và tin xấu. Thật thú vị, Jim. Chúng ta có bóng chày trên thiên đàng. Thật tuyệt vời. Chúng ta có thể chơi hàng ngày và có những đội tuyệt vời, và sự cạnh tranh gay gắt, thú vị.”

“Thật tuyệt,” Jim nói. “Nhưng tin xấu là gì?”

John nói: “Chà, bạn được sắp đặt để chơi vào thứ ba tới.”

12. Được mở ra

Robert McAfee Brown là một cha tuyên úy trong Thế chiến II. Ngài đang ở trên một con tàu chở quân với 1500 lính thủy đánh bộ trên đường trở về quê hương sau khi phục vụ tại Nhật Bản. Trước sự ngạc nhiên của ngài, một nhóm người lính đã đến gặp ngài và yêu cầu ngài hướng dẫn một lớp học hỏi Kinh Thánh trong chuyến hải trình.

Một ngày nọ, sau khi cả nhóm nghiên cứu đoạn văn nói về việc Lazarô sống lại, một người lính đã đến gặp cha Brown và nói: “Câu chuyện đó kể về tôi!” Chàng trai trẻ đã gặp rất nhiều rắc rối trước khi nhập ngũ. Anh không thể chịu được ý nghĩ phải đối mặt với gia đình mình.

Câu chuyện về Lazarô đã cho anh hy vọng và can đảm để đối mặt với những hậu quả khi anh trở lại quê nhà. Anh đã được “mở ra, cởi trói.” [William Barclay, The Gospel of John, Revised Edition (Philadelphia: The Westminster Press, 1975), tr. 102-103.]

* Đó là những gì Chúa Kitô làm cho chúng ta. Người ban cho chúng ta sức mạnh để bắt đầu lại, để sống lại. Người bảo Lazarô: “Hỡi Lazarô, hãy ra đây!” Rồi nói với những người có mặt: “Hãy cởi bỏ khăn liệm và để anh ta đi.”

13. Chúa gõ cửa

Có một cô y tá, trước khi nghe nhịp tim của trẻ em, đã cắm ống nghe vào tai chúng và để chúng tự nghe nhịp tim của mình. Một ngày nọ, cô nhét ống nghe vào tai một cậu bé mười tuổi. Sau đó, cô đặt mặt đĩa lên trái tim cậu. Cô ấy nói: “Nghe này, cháu nghĩ đó là gì?” Thình thịch, thịch, thịch.

Cậu nhíu mày khó hiểu và nhìn lên như thể lạc vào điều bí ẩn của tiếng gõ đều đều lạ lùng sâu trong lồng ngực mình. Sau đó, khuôn mặt của cậu ta nở một nụ cười tuyệt vời. Cậu hỏi: “Đó có phải là Chúa Giêsu đang gõ cửa không?”

* Chà, có lẽ vậy. Có thể hôm nay Chúa Giêsu đang gõ cửa lòng bạn. Có thể Chúa Giêsu đang ra lệnh mở cánh cửa ngôi mộ của bạn. “Lazarô, hãy ra đây!”

14. Chuyện ma

Có bài viết về một vị thẩm phán ở Nam Tư bị điện giật khi với tay lên bật công tắc đèn khi đang đứng trong bồn tắm. Ông ta bị cứng đờ và rơi ra khỏi bồn tắm. Vợ ông gọi cho bác sĩ, người tuyên bố ông đã chết.

Theo quy định về sức khỏe của chính phủ, thi thể của thẩm phán ngay lập tức được đặt trong một căn hầm bên dưới một nhà nguyện tại nghĩa trang. Nửa đêm thẩm phán tỉnh lại. Ông không biết mình đang ở đâu hay chuyện gì đã xảy ra. Khi ông thực sự nhận ra mình đang ở đâu, ông chạy đến cánh cửa hầm đã đóng và bắt đầu lắc nó và hét lên để được giúp đỡ. Người bảo vệ ở đó đã vô cùng sợ hãi và bỏ chạy.

May mắn thay, người bảo vệ đã được giúp đỡ, đã quay lại, mở cửa cho thẩm phán mới được hồi sinh. Thẩm phán gọi điện cho vợ ông rằng ông sẽ về nhà. Chị ta hét lên và cúp điện thoại.

Tiếp theo, ông ta cố gắng đến nhà của một số người bạn. Họ nhìn qua ông một cái, tưởng ông là ma và đóng sầm cửa trước mặt ông. Cuối cùng, ông tìm được một người bạn chưa từng nghe tin ông đã chết. Ông thuyết phục người bạn đó làm trung gian. Dần dần, vị thẩm phán đã có thể thuyết phục bạn bè và gia đình rằng ông thực sự còn sống!

* Anh Lazarô từ Tin Mừng Gioan có thể cũng giống với vị thẩm phán đó.

15. Lái xe tang

Một ngày nọ có một anh chàng đi trong một chiếc taxi. Anh ta là người mới đến thành phố và muốn tìm một địa điểm ăn uống ngon, vì vậy anh ấy cúi người về phía trước, vỗ vào vai người lái xe và nói: “Này, Buddy.” Người lái xe hét lên một tiếng thất kinh và mất kiểm soát chiếc taxi. Anh ta suýt đâm vào một chiếc xe buýt, lao vào lề đường và dừng lại chỉ vài mét trước khi lao qua một cửa kính lớn và đâm vào một nhà hàng đông đúc.

Trong vài phút, có một sự im lặng chết người trong xe taxi. Tất cả những gì bạn có thể nghe thấy là hai trái tim đang đập như tiếng trống bass dồn dập trong một cuộc diễu hành nhanh. Tài xế cuối cùng cũng quay lại và nói: “Anh bạn, anh làm tôi sợ chết khiếp.”

Người hành khách mặt vẫn còn trắng như tờ giấy và dương đôi mắt to nói: “Tôi xin lỗi, tôi không biết rằng việc vỗ vào vai bạn sẽ khiến bạn sợ hãi đến vậy.”

Người lái xe nói: “Chà, đó không phải là lỗi của bạn. Đây là ngày đầu tiên tôi lái xe taxi. Bởi vì trong 25 năm qua, tôi chỉ lái một chiếc xe tang.” (Patricia Ridpath, Tiếng cười là liều thuốc tốt nhất, Reader’s Digest).

* Chỉ cần hỏi cô Maria hoặc đám đông. Nếu tôi đang tập trung vào điều gì đó thì không khó để làm tôi giật mình. Nói rằng Maria, Martha, các môn đệ và những người đưa tang tập trung tại mộ Lazarô đã sửng sốt, là nói quá nhẹ.

15. Carpe diem

Trong bộ phim Dead Poets’ Society, Robin Williams đóng vai John Keating, một giáo viên trong một trường tư thục nghiêm khắc và uy tín có tài biến đổi học sinh. Vào ngày đầu tiên của lớp văn học, Keating đưa học sinh của mình xuống sảnh trường, nơi có hộp đựng các huy chương trưng bày những hình ảnh của các lớp tốt nghiệp trước đó.

Keating nói: “Hãy nhìn vào những bức ảnh này, các chàng trai. Những chàng trai trẻ mà bạn nhìn thấy cũng có ngọn lửa trong mắt họ giống như bạn hôm nay vậy. Họ đã lên kế hoạch chiếm lĩnh thế giới bằng sự cuồng nhiệt và tạo nên điều gì đó tuyệt vời cho cuộc sống của họ.

“Đó là hơn 70 năm trước. Bây giờ tất cả họ đang bón phân cho hoa cúc. Nếu bạn chịu lắng nghe, họ có một thông điệp dành cho bạn.”

Khi các sinh viên nhìn chằm chằm vào những bức ảnh của lớp, Keating bắt đầu thì thầm: “Carpe Diem, Carpe Diem” (tiếng La tinh: hãy nắm bắt cơ hội, hãy nắm bắt cơ hội.)

* Cuộc sống là một hồng ân ở đây và bây giờ. Hãy tận hưởng nó như ý Chúa muốn và luôn sẵn sàng chia sẻ sự sống vĩnh cửu của Ngài.

16. Hồng ân sự sống

Đôi khi phải mất một khoảnh khắc đau thương để đánh thức chúng ta về hồng ân sự sống. Jane Marie Thibault là giáo sư về Y học Gia đình và Cộng đồng tại Đại học Louisville. Jane được cả nước biết đến với công trình nghiên cứu về lão khoa lâm sàng. Trong cuốn sách A Deepening Love Affair, Jane viết: “Tôi bắt đầu thấy cuộc sống là một món quà khi tôi sống sót sau một vụ va chạm với một chiếc xe 18 bánh vào ngày 2 tháng 10 năm 1990.

“Sau khi bò ra khỏi chiếc ô tô nát bươm của mình, tôi lảo đảo quanh một cánh đồng trong một sự đê mê. Điều tôi nhớ nhất là hoàn toàn nhận thức được màu xanh của cỏ, màu xanh của bầu trời, một vài đám mây bồng bềnh trên đầu và vài chú chim hót líu lo trên cây. Tôi đã sống! Thật là một phước lành!

“Mọi thứ vào lúc đó thật là một hồng ân quý giá biết bao!”

17. Niềm tin

Huber Mates, một giáo viên và nhà báo, đã bị bỏ tù vào năm 1959 khi Castro cố gắng tiêu diệt Giáo hội tại Cuba. Trong một lá thư Huber lén lút gửi cho vợ con trong tù có những lời này: “Anh biết rằng mình sẽ chết trong tù. Anh rất buồn khi không gặp lại em. Nhưng anh vẫn cảm thấy bình an. Họ có kiếm, chúng ta có bài hát.”

Những người của biến cố Chúa Phục sinh có những bài hát để hát. Tay chơi gôn chuyên nghiệp Paul Azinger, đã nói như thế này trong khi chiến đấu với căn bệnh ung thư: “Chúng ta không ở vùng đất của người sống mà đến vùng đất của người chết. Chúng ta đang ở vùng đất của người chết đi đến vùng đất của người sống. Có một sự phục sinh cho bạn. Hãy tận hưởng cuộc sống!

“Trong nụ huệ có một bông hoa,/ trong hạt có một cây táo, / trong kén có một kho báu ẩn giấu,/ bướm sẽ sớm được tự do. /Trong tuyết lạnh của mùa đông/ có một mùa xuân đang chờ đợi.”

* Nếu sự hồi sinh vang lên khắp thiên nhiên, lẽ nào không có sự phục sinh cho tôi?

18. Ý nghĩa cuộc sống

Đại học Harvard được coi là một trong những tổ chức học thuật vĩ đại và uy tín nhất ở Mỹ và trên thế giới; học sinh của nó có điểm SAT cao nhất, trí tuệ sáng suốt nhất.

Cách đây vài năm, Hiệu trưởng của Đại học Harvard được hỏi: “Vấn đề lớn nhất mà ngài thấy ở trường đại học của mình là gì?”

Ông nói: “Sự trống rỗng! Người ta không thấy ý nghĩa hay niềm đam mê cho cuộc sống. Nhiều người cảm thấy buồn chán – không thỏa mãn.”

Những chức tước cao sang và bằng cấp uy tín không bảo đảm ngay cả một người có đầu óc thông minh sẽ có một cuộc sống có ý nghĩa, trừ khi họ được kết nối với Thiên Chúa hằng sống. Khi Chúa Giêsu đưa ra lời tuyên bố mạnh mẽ này: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”, Người đã kết nối chúng ta với Thiên Chúa hằng sống, bởi vì Người là Thiên Chúa.

Sự tồn tại của chúng ta không được lấp đầy bởi một số kỳ vọng nhất thời, nhưng bởi quyền năng Phục sinh. Chúng ta được kêu gọi để sống.

19. Can đảm

Đại úy quân đội David Roselle bị mất bàn chân phải khi chiếc Humvee mà anh đang lái trúng phải một quả mìn chống tăng ở Iraq. Roselle được trực thăng đưa đến một bệnh viện ở Đức và sau đó đến Walter Reed, nơi ông đã cố gắng tập đi lại một cách chăm chỉ.

Sau khi được nghỉ phép để chung vui sự ra đời của con trai mình ở Colorado, Đại úy David Roselle đã trở lại sở chỉ huy của mình ở Iraq để hoàn thành công việc mà anh đã bắt đầu. Các quân nhân bị thương khác cũng làm như vậy. Họ đang quay trở lại để hoàn thành công việc mà họ đã khởi sự. Hình thức dũng cảm cao nhất thuộc về những người không bỏ cuộc.

Can đảm thực sự có nghĩa là hoàn toàn nhận thức được điều tồi tệ nhất có thể xảy ra, nhưng vẫn làm điều đúng đắn.

* Chúa Giêsu trở lại Giêrusalem. Khi cho Lazarô sống lại từ ngôi mộ, Chúa Giêsu đã bắt đầu việc đóng đinh và chôn cất chính Người. “Từ ngày đó, họ lập mưu giết Người” (Câu 53). Khi hướng mặt về Giêrusalem, Người hướng mặt về thập giá và sự chết. Dietrich Bonhoeffer, mục sư của thế kỷ 20, người đã hy sinh mạng sống của mình để chống lại Adolph Hitler ở Đức, đã mở đầu cuốn sách của mình, Cái giá phải trả của vai trò người môn đệ, với những lời này: “Khi Chúa kêu gọi một người, Ngài bảo người ấy hãy đến và chịu chết.”

20. Giúp đỡ

Leo Buscgalia kể về một đứa trẻ tám tuổi nhà ở gần người hàng xóm lớn tuổi vừa mất vợ. Thấy ông cụ khóc, đứa bé đi tới, trèo vào lòng ông cụ và ngồi đó.

Sau đó, mẹ của cậu bé hỏi: “Con đã nói gì với ông Jones trong lúc ông ấy đau buồn?” Đứa bé trả lời: “Con không nói gì, con chỉ giúp ông khóc thôi.”

Một số điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm là giúp bạn bè của mình khóc trong nỗi buồn của họ. Mỗi khi một trái tim tan vỡ, mỗi khi một ngôi mộ được mở ra, mỗi khi một cuộc ly dị xảy ra, mỗi khi một đứa trẻ đau khổ, mỗi khi nỗi đau đến, Chúa Giêsu đều khóc.

Người khóc vì Người quan tâm. Khi các tòa nhà bị đánh bom, và chiến tranh không ngừng, khi sóng thần quét qua những người vô tội, Chúa Giêsu đều khóc; trái tim của Người xúc động với nỗi đau của chúng ta.

Nhà thờ Công giáo St. Joseph nằm đối diện ngay với địa điểm xảy ra vụ đánh bom ở Thành phố Oklahoma. Chưa đầy một năm sau ngày bi thảm đó, nhà thờ đã dựng lên một bức tượng Chúa Giêsu khóc. Khi nỗi kinh hoàng ập đến, khi sự dữ ngự trị, khi sự sai trái lên ngôi, Chúa Giêsu khóc. Chúa Giêsu vô cùng lo lắng vì sự chết vẫn đang cầm giữ chúng ta.

21. Giữ cái nĩa

Có một phụ nữ trẻ được chẩn đoán mắc bệnh nan y và chỉ còn sống được ba tháng nữa. Vì vậy, chị đã gặp cha xứ của mình để trao đổi về một số công việc trong di nguyện cuối cùng của chị ta. Chị nói với cha xứ những bài hát chị muốn hát trong tang lễ và những bài đọc Kinh Thánh nào chị muốn đọc. Mọi thứ đã ổn thỏa và cha xứ đang chuẩn bị ra về thì người phụ nữ trẻ chợt nhớ ra một điều rất quan trọng đối với mình.

Chị hào hứng nói: “Còn một điều nữa, cái này rất quan trọng; con muốn được chôn với một cái nĩa trong tay phải. Điều đó làm cha rất ngạc nhiên phải không?”

Người phụ nữ trẻ giải thích: “Bà con đã từng kể cho con nghe câu chuyện này và từ đó trở đi, con luôn cố gắng truyền tải thông điệp của nó đến những người con yêu thương và những người đang cần sự động viên.

“Trong tất cả những năm bà tham dự các bữa tiệc giao lưu và ăn tối tại nhà xứ, bà luôn nhớ rằng khi các món ăn chính đã được dọn sạch, chắc chắn ông chánh trương sẽ lưu ý mọi người: ‘Hãy giữ nĩa của bạn.’

“Đó là điều bà thích nhất vì bà biết rằng một cái gì đó ngon hơn đang đến… như bánh sô cô la mềm hoặc bánh táo. Một cái gì đó tuyệt vời, và có chất lượng nhất! Vì vậy, bà chỉ muốn mọi người nhìn thấy bà trong chiếc quan tài của bà với chiếc nĩa trên tay và bà muốn họ tự hỏi ‘Ủa tại sao có cái nĩa?’ Sau đó, bà muốn nói với họ: ‘Hãy giữ lấy chiếc nĩa của bạn… điều tốt nhất vẫn chưa đến.’”

Đôi mắt của cha xứ rưng rưng nước mắt vì vui mừng khi ngài chào tạm biệt người phụ nữ trẻ. Ngài biết rằng người phụ nữ trẻ cảm nhận Thiên đàng tốt hơn ngài. Chị ấy biết “điều gì đó tốt hơn đang đến.”

Tại đám tang, mọi người đi ngang qua quan tài của người phụ nữ trẻ và họ nhìn thấy chiếc váy xinh đẹp mà cô ấy đã mặc, và chiếc nĩa được đặt trên tay phải của chị. Cha xứ lặp đi lặp lại câu hỏi “Ủa tại sao có cái nĩa?” Và hết lần này đến lần khác ngài đều mỉm cười. Trong bài giảng của mình, ngài kể cho mọi người nghe về cuộc trò chuyện của ngài với người phụ nữ trẻ ngay trước khi chị qua đời.

Ngài cũng nói với họ về cái nĩa và ý nghĩa của nó đối với chị ấy. Cha xứ nói với mọi người rằng ngài không ngừng suy nghĩ về cái nĩa và nói với họ rằng có lẽ họ cũng nên nghĩ về nó.

* Cha xứ đã đúng. Vì vậy, lần tới khi bạn bỏ chiếc nĩa của mình xuống, hãy nhớ rằng điều tốt nhất vẫn chưa đến.

CNMC 5B

Lời Chúa: Ga 12, 20-33   

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu.” Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh.

Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.

Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha.”

Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa.” Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài.” Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta.” Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.

TRUYỆN KỂ

1. Nghịch lý của tình yêu

"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"

Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên. Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ, nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.

Tại sao tôi phải chết để người khác được sống? Chết để sinh nhiều bông hạt ư? Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ?

2. Chết để sống và sống để chết

Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa.” Và nó đã mọc lên xanh tốt.

Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn.” Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.

3. Ông đóng khố cởi trần.

Người ta kể rằng: Tin mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật bản từ hồi thế kỷ 16 do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ.

Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật bản đã bị xoá sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa: ”Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá”!

4. Chết đang khi sống

Nhiều người coi sống và chết là hai sự việc nối tiếp nhau: khi không còn sống nữa thì chết. Nghĩ như thế là vì người ta chỉ biết có mỗi một sự sống, là sự sống của thể xác, và cũng chỉ biết có mỗi một sự chết, cũng là sự chết của thể xác.

Thực ra, sống và chết là hai việc đi song song với nhau trong cùng một đời người. Bởi vì có tới hai sự sống và hai sự chết: sự sống chết của con người thể xác và sự sống chết của con người đích thực. Câu nói của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này hàm chứa hai sự sống chết đó: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: ai cố bám víu vào sự sống của con người thể xác thì sẽ đánh mất sự sống của con người đích thực; còn ai dám để cho sự sống của con người thể xác chết đi thì đồng thời bồi dưỡng cho sự sống của con người đích thực.

Bởi đó, có người dám nói: "Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn.” Thực vậy,

mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.

mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.

mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung bạo chết đi.

mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.

Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh. (Viết theo Flor McCarthy)

5. Thánh Maximilien Kolbe.

Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi.”

Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dẫy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:

- Anh muốn gì?

- Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.

Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đo chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982.

Người tù nhờ Cha Kolbe thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kolbe tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh muc đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.

6. Thập giá chỉ đường.

Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.

Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉûnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tầu cập bến an toàn.

“Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng con khó hiểu, và đứng trước mầu nhiệm này, tình cảm chúng con hoảng sợ và khước từ. Xin Chúa ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con nghị lực chấp nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa, ngõ hầu Nước Cha trị đến trong chúng con và khắp trần gian đến muôn thuở muôn đời.” Amen.

7. Người có khả năng quản lý

Một đêm giông bão gió thổi mọi hướng, mưa rơi như thác đổ. Một người đàn ông đứng tuổi, cùng bà vợ ghé tới một bàn giấy một khách sạn nhỏ ở Philadephia. Như biện hộ cho mình, ông ta hỏi: “Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng? Mọi khách sạn lớn đều hết phòng rồi.”

- Thưa ông tất cả các phòng đã có người thuê. Người thư ký trả lời – Nhưng tôi không nỡ để ông bà đi mưa vào lúc một giờ sáng.

- Anh nói chi?

- Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi .

- Nhưng anh ngủ ở đâu? Ông khách hỏi.

- Ôi, tôi sẽ tìm được - Người thư ký trả lời, đứng lo lắng về tôi.

Sáng hôm sau khi ông khách trả tiền phòng, ông nói với người thanh niên đã dành phòng cho ông khách: “Anh là một người quản lý có khả năng làm chủ một khách sạn lớn nhất Hoa Kỳ. Có thể một ngày nào đó tôi sẽ xây một cái cho anh.

Hai năm sau, người thư ký trẻ nhận được một bức thư có kèm một vé khứ hồi đi Newyork và một danh thiếp của người khách trong đêm giông bão khi xưa, mời người thư ký đến gặp ông tại thành phố lớn Newyork. Người khách năm xưa dẫn người thư ký đến góc phố giữa đại lộ số 5 và đường phố số 34. Chỉ ngôi nhà lầu cao, mới, ông nói: “Đây là khách sạn tôi đã xây để anh quan lý.” Không nói nên lời, người thanh niên Gheorge C. Boldt, ấp úng câu cám ơn. Mạnh thường quân của anh là ông William Waldorf Astoria. Khách sạn này là khách sạn chu đáo nhất thời đó, mang tên Waldorf Astoria.

8. Điểm yếu trở thành ưu điểm

Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ Judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học judo với một võ sư Nhật. Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyện mà thầy chỉ dạy cho mình mỗi một thế võ duy nhất.

Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:

- Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học được các thế võ khác sao?

Ông trả lời:

- Đây là thế võ duy nhất thầy dạy con, và đây cũng chính là thế võ duy nhất mà con cần phải học.

Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.

Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đến tham dự một cuộc thi Judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thể võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.

Lần này đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hoàn toàn bị đối phương áp đảo. Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:

- Cứ để cậu bé tiếp tục. - Võ sư yêu cầu.

Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thể võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đoạt chức vô địch.

Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra điều ám ảnh trong đầu mình bấy lâu nay:

- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thế võ như thế?

- Con chiến thắng vì hai lý do. - Người thầy trả lời - Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con phá được thể võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại - mà con lại không có tay trái.

Trong cuộc sống đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Chúa Giêsu đã biết biến thất bại của cây Thập Giá thành chiến thắng vinh quang. Ngài đã nhìn thấy ở nơi cây Thập Giá ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha và Ngài đã đón nhận cây Thập Giá với tất cả tấm lòng của người con thảo để từ đó Ngài mở ra cho Thiên Chúa Cha một dân tộc mới, dân tộc được cứu rỗi.

9. Giá đắt phải trả cho thái độ vô cảm

Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn "vui vẻ" với cô. Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.

Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.

Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường...

"Này ông kia, ông xuống xe đi!" cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.

Người đàn ông sững sờ, nói:

"Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?"

Cô gái nhăn mặt nói: "Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy."

Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Thậm chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.

Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.

Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.

Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:

"Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?"

Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.

Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn.” Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.

Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!

10. Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.

Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng cầu nguyện ket hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:

- Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi mình.

- Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.

- Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.

- Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.

- Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói năng hách dịch làm thất nhân tâm.

- Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn bớt thù.” Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở mang Nước Chúa.

11. Tay vị kỷ thua kém tay vị tha

Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.

Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.

Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.

Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số không!

Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.

12. Mất là được

Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.

Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!"

Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!

Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.

13. Chết là trở về với cha

Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào.

Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng.”Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng.”

Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống.” Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu.”

Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.

14. Chết đi để sinh nhiều bông hạt

Vài hôm trước ngày bị hạ sát, Tổng Giám Mục Oscar Romero phát biểu với một phóng viên nhà báo: "Ông có thể nói với dân chúng rằng, nếu họ thành công trong việc ám hại tôi, tôi sẽ tha thứ và ban phép lành cho những ai làm điều ấy. Hy vọng họ sẽ nhận ra rằng họ đã phí uổng thời giờ. Một vị Giám mục sẽ chết, nhưng Giáo Hội của Thiên Chúa, tức là Giáo Hội của dân chúng sẽ chẳng hề bị hủy diệt."

Vào lúc 6 giờ 25 chiều ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của Bệnh Viện Chúa Quan Phòng, một bệnh viện dành cho bệnh nhân ung thư, Tổng Giám Mục Romero cử hành Thánh Lễ cầu hồn cho thân mẫu của một ký giả bạn thân, vừa mới qua đời. Đức Cha Romero đọc đoạn Phúc Âm Thánh Gioan: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”(Gioan 12, 23-24) Đức Cha triển khai chủ đề ấy trong bài giảng ngay sau đó, áp dụng nó vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt.

Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: "Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh, mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta... Kẻ nào né tránh sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình. Nhưng bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài.”Ngài còn nói: "Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong dân Salvador của tôi."

Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị bánh và rượu để dâng hy lễ Chiên Thiên Chúa, thì tiếng súng nổ, một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện bay vèo lên. Tổng Giám Mục Romero trúng đạn, máu chảy lai láng. Người ta vội đưa ngài đi cấp cứu, nhưng ngài đã tắt thở.

Giết chết Tổng Giám mục Oscar Romero, thế lực quân phiệt, tài phiệt bạo ngược chưa thỏa lòng. Họ còn cho binh lính mai phục trên nóc nhà thờ, đặt chất nổ và xả súng bắn vào đoàn người đang dự lễ an táng Đức Cha, ngay trước tiền đường nhà thờ chánh toà, khiến thêm 37 người nữa bị tử nạn và hàng trăm người bị thương. Nhưng ai là thủ phạm các vụ tàn sát trên thì "chỉ có Chúa biết.” (Theo Romero: A life của James A. Brockman)

15. Thuốc bất tử

Thời Chiến quốc, có một người đem dâng cho vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, đi ngang qua một viên quan canh cửa. Viên quan này hỏi:

- Vị thuốc này có ăn được không?

Người kia đáp:

- Ăn được.

Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện đến tai vua. Vua truyền bắt viên quan đem giết.

Viên quan kêu:

- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc là có ăn được không. Người ấy bảo: “ăn được”, nên thần mới dám ăn. Như thế là thần vô tội mà lỗi là ở người dâng thuốc. Hơn nữa, người đem dâng thuốc nói là thuốc “ bất tử”, nghĩa là thuốc ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải chết; vậy là thuốc “tử” chứ đâu phải thuốc “bất tử”? Nhà vua giết thần, thực là oan uổng cho một người vô tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà nhà vua vẫn tin.

Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha chết cho viên quan.

Phương thuốc bất tử mà Chúa Giêsu muốn mang đến cho con người là: sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).

Trước tiên, phải sám hối, chịu “thối đi”, chịu “mất mạng sống mình” mới chỉ là những thứ chúng ta phải kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm mình như người mắc bệnh tiểu đường phải kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng ăn mặn.

Kế tiếp, là tin vào Tin Mừng như lời Chúa đã phán: “Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ cõi chết mà qua cõi sống.” (Ga. 5,24); hay “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời.” (Ga. 6,55)

Tóm lại, bài thuốc bất tử mà Chúa muốn ban cho chúng ta là Thập gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại được nhìn lên Ngài và được sống.

16. Sống mãnh liệt

Ngày 30/01/1938, một chuyến xe lửa chạy từ miền bắc xuống miền nam Columbia, bất ngờ bị trật đường rầy, tai nạn đó đã làm cho nhiều người chết và bị thương. Trong số những người quần quại nằm đó, có cha Phênisê thuộc dòng Thánh Gioan. Ngài bị thương nặng, một phần ruột lòi ra ngoài.

Nhận ra cha, các y tá ân cần chăm sóc. Nhưng ngài ra hiệu, hãy lo cứu giúp những nạn nhân khác. Rồi lấy hết sức bình sinh, ngài nhét ruột vào, dùng khăn buộc lại và đi tìm những hành khách bị thương nặng để giải tội cho họ.

Được một lúc ngài ngã xuống. Các y tá chạy lại, ngài thều thào nói trong đau đớn tột cùng: "Cám ơn Chúa đã cho tôi thì giờ để làm điều cần thiết cho anh em. Bây giờ các cô có thể mang xác tôi đi.”

Chiếc xe cứu thương vội chở Cha Phênisê tới bệnh viện gần đó. Nhưng chỉ vài giờ sau ngài trút hơi thở cuối cùng khi tuổi đời mới ba mươi sáu.

Được dựng nên để sống nên chẳng ai muốn chết, nhưng chẳng khi nào người ta sống mãnh liệt hơn khi sẵn lòng chết cho một lẽ sống.

17. Chết cho ý riêng để hồi phục

Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo:

Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa.” Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng. Mặc dù được điều trị bằng vô số thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện cho, bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.

Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời. Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!” Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.

Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên. Câu chuyện kỳ lạ ấy khiến bà bối rối. Bà nói: "Dẫu sao tôi vẫn không quên được câu chuyện ấy!” Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con đã mỏi mệt quá rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật đi!” Về sau, Catherine kể lại rằng, vào lúc ấy, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.

Câu chuyện của nữ tu truyền giáo và của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu Lời Chúa trong Tim mừng Chúa nhật hôm nay: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó chẳng đem lại hoa trái nào.” Nếu chúng ta không chết cho ý riêng mình, chúng ta cũng chẳng sinh được bông trái…”

18. Còn thiếu sự sống

Trong một cuộc triển lãn nghệ thuật, điêu khắc gia Michel Angelos đã mất ngủ để suy nghĩ về câu nói của một nhà phê bình trứ danh, khi ông ngắm nhìn pho tượng đá Môsê: "Pho tượng tuyệt tác, linh động, sắc sảo như người, nhưng thiếu một điều......” Ba đêm trời suy nghĩ không ra, Michel Angelos xin đến gặp nhà phê bình để hỏi cho ra lẽ. Nhà phê bình cười rồi bảo: "Bức tượng đá đẹp, nhưng tiếc một điều là nếu nó có thêm chút sự sống nữa thì toàn vẹn.” Angelos nghe xong lời ấy có vẻ bất mãn, liền nói lên cách tự nhiên: "Sự sống ai mà tạo nên được.”

19. Ham sống

Một trong những chuyện hay của Lã Phụng Tiên có kể: Ngày đó một gã tiều phu già luống tuổi, đang ngồi nghỉ mệt bên lề đường. Ông than cho kiếp con người ông bạc phước, đày đọa kiếp thân tàn, làm ăn cực nhọc cả đời. Ông muốn chết cho xong kiếp sống lầm than. Bỗng thần chết xuất hiện giúp ông thực hiện ý muốn. Vừa trông thấy thần chết cầm hái từ thần, ông nhanh trí đánh trống lảng: "Xin nhờ Thần đưa giúp tôi bó củi lên vai, nghỉ lâu quá rồi.” Bước đi mau chân ông lão không dám ngoái cổ lại nhìn sự thật đàng sau.

20. Lẽ sống – chết

Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên, được nghe biết về Chúa Giêsu, anh đã xin rửa tội theo Kitô giáo, sau đó tình nguyện ở lại Ấn độ làm thừa sai, chứng tá cho niềm tin của mình.

Một chiều kia, Sundar cùng với một tu sĩ Phật giáo phải băng qua vùng núi Himalaya để đi đến một tu viện. Trời lạnh buốt và màn đêm như sắp bao phủ không gian. Sundar và nhà tu kia được báo cho biết họ sẽ bị lạnh và có thể mất mạng nếu không kịp về đến tu viện trước khi trời tối.

Đang lúc đi vào một đoạn đường hiểm trở, với những vách đá cheo leo, thì chợt, họ nghe có tiếng cầu cứu. Một người đàn ông đã trợt chân rơi xuống khe núi từ khi nào. Chân anh ta bị gãy, không thể nào leo lên được, và đang nằm chờ chết.

Người tu sĩ kia lên tiếng nhắc nhở Sundar:

- Chớ dừng lại. Ý trời đã định cho hắn như vậy rồi, ta không nên can dự vào làm chi. Phần chúng ta, phải đi gấp lên nếu như không muốn bỏ mình nơi này.

Sundar đáp lại:

- Theo tôi, ý Trời đã định cho ta đi ngang qua đây để cứu giúp kẻ không may này đấy. Tôi không thể bỏ rơi anh ta.

Nói xong Sundar tìm cách trèo xuống khe núi. Vị tu sĩ kia vội vã tiếp tục cuộc hành trình.

Nơi khe núi, nhìn đôi chân bị gãy, biết nạn nhân không thể tự bước đi được, Sundar phải dùng tấm mền bó anh lại, cõng lên lưng, nặng nhọc lần mò trèo khỏi khe núi, tìm trở lại con đường lúc nãy.

Sau mấy tiếng đồng hồ vất vả, Sundar và nạn nhân đến được lối mòn dẫn về tu viện. Lúc này tuyết rơi mỗi lúc một dày. Trời tối. Cóng lạnh. Sức lực hầu như khô cạn. Đang lúc tưởng chừng không còn bước thêm được nữa thì Sundar chợt thấy có ánh lửa phát ra từ một cánh cửa sổ của tu viện.

Mừng quá! Sinh khí dường như được phục hồi. Sundar hăng hái dấn bước về phía có ánh lửa. Chợt anh vấp té, bổ nhào trên tuyết lạnh.

Không phải anh đuối sức. Nhưng vì vấp phải một vật gì đó nằm chắn ngang đường đi. Sundar quì xuống, lấy tay gạt lớp tuyết phủ bên trên thì nhận ra đấy là xác của người tu sĩ đã cùng đi với mình ban chiều. Thương cho người bạn đồng hành xấu số, Sundar âm thầm dâng lên Chúa một lời nguyện…. Và rồi từ thẳm sâu của tâm hồn, anh chợt nghe vang vọng một câu Phúc Âm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời.”(Theo lời kể của William Bausch)

21. Giao ước Chúa ký kết với con người

Một anh chàng giật mình khi nghe một giọng nói khàn khàn, run run. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

– Ăn hộ tôi mớ rau…!

Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người để tới chỗ làm sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh:

– Dạ, con không ăn, bà ạ!

Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi gã quên rất nhanh cái cảm giác ấy.”Mình thương người thì ai thương mình?” – ý nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.

– Ăn hộ tôi mớ rau, cô ơi! – Tiếng bà cụ yếu ớt.

– Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn! – Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.

Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày, đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:

– Rau này bà bán bao nhiêu?

– Hai nghìn một mớ – Bà cụ mừng rỡ.

Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.

– Sao chú mua nhiều thế?

– Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!

Rồi gã nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy lòng mình vui vui...

Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, và gã nghĩ đến bà cụ…

– Nghỉ ngơi thế đủ rồi đấy!

Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.

Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ rồi.

Chiều Chúa Nhật, gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy, có lẽ gã thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang “buôn chuyện.”

Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:

– Bà bán rau chết rồi.

– Bà cụ hay đi qua đây hả chị? – chị bán nước khẽ hỏi.

– Tội nghiệp bà cụ! Cách đây mấy tuần, bà cụ giở chứng, cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng bà nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh mà... chết!

Câu chuyện khiến lòng chúng ta chùng xuống, nỗi bâng khuâng rất lạ, rất khó tả. Bà cụ là người chân thật, trọng chữ tín. Mấy mớ rau chẳng đáng gì, nhưng với bà cụ, lời hứa rất đáng giá. Lời hứa nào cũng vô giá – dù lớn hay nhỏ, và phải được thực hiện bằng mọi giá!

Giữa Thiên Chúa và con người cũng có những lời thề hứa, chúng ta gọi là giao ước.

22. Con chưa bị chết hay sao?

Có hai anh em nhà kia, cậu bé trai 8 tuổi và cô em gái của cậu 6 tuổi. Cả hai đều gầy yếu và thường đau ốm luôn. Một hôm cậu bé bị một cơn đau gan cấp tính, được cha mẹ đưa vào cấp cứu tại bệnh viện gần nhà. Sau thời gian hai tuần lễ điều trị, cậu bé đã thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và đang nằm viện thêm ít ngày để hồi sức.

Nhưng sau đó, lại đến lượt cô em gái bị chứng xuất huyết nội và được mang đi cấp cứu tại cùng bệnh viện với anh. Cô bé bị mất máu khá nhiều cần được mau chóng tiếp máu. Thế nhưng bệnh viện lại không có sẵn máu cùng nhóm để truyền.

Rất may là máu của cậu bé cùng nhóm máu với cô em. Khi được hỏi có muốn cho máu để cứu sống em gái không, thì lúc đầu cậu bé hơi ngần ngại và lo lắng một chút. Nhưng ngay sau đó, cậu ta đã lấy lại bình tĩnh và trả lời bác sĩ rằng: “Vâng, con bằng lòng hiến máu cho em con. Xin bác sĩ hãy cố gắng cứu sống nó. Vì con thương em con lắm.“

Sau đó bác sĩ đã lấy máu của cậu truyền cho cô em. Một lúc sau tỉnh dậy, cậu bé đã làm cho mọi người trong phòng ngạc nhiên và buồn cười khi nói: “Ô hay! Con chưa bị chết hay sao? Vậy bác sĩ đã tiếp máu cho em con chưa? Em con bây giờ ra sao rồi?”

Thì ra cậu bé đã tưởng lầm rằng khi bằng lòng hiến máu cho em, là cậu phải cho em tất cả số máu trong con người mình! Nhưng vì quá thương em và không muốn cho em bị chết, nên sau khi ngần ngại một chút, cậu đã quyết định hy sinh chịu chết để cho em gái mình được sống!

23. Yêu thương là cho đi

Yêu thương là cho đi, là chia sẻ, là dám chấp nhận những hy sinh cho nhau và vì nhau. Hoa hồng nào mà chẳng có gai, tình yêu nào mà chẳng có những hy sinh gian khổ của nó.

Mẹ Têrêsa thành Calcutta kể lại rằng: Hồi đó, nhằm lúc thiếu đường trong thành phố, thì ngày kia có một cậu bé bốn tuổi, đem đến cho mẹ một chén đường và nói: Thưa mẹ con đã nhịn đường suốt cả một tuần lễ nay, xin mẹ dùng ít đường này cho các trẻ mồ côi của mẹ. Một cử chỉ thật anh hùng biết bao đối với một em bé 4 tuổi. Em đã học biết yêu thương kẻ khác đến mức hy sinh tất cả những gì mình cần thiết.

Một dịp khác, đang lúc mẹ đang vo gạo thì có một người đàn ông đến gặp mẹ và nói: Thưa mẹ, gần đây có một gia đình người Hindu gồm tám đứa con, nhưng đã cả tuần lễ nay họ không có gì để ăn. Lập tức mẹ bưng rá gạo đi theo người đàn ông đó đến nhà người Hindu kia. Bước vào túp lều xiêu vẹo, mẹ đã gặp được trên những nét mặt xanh xao đó cơn đói đang hành hạ. Không cầm lòng được, mẹ đã đưa cả rá gạo cho người đàn bà. Bà này cảm động cầm lấy rá gạo rồi lập tức chia làm hai phần, bưng nửa ra đi, lát sau mới trở lại. Mẹ thấy vậy bèn ngạc nhiên hỏi: Bà đi đâu vậy và đem gạo cho ai?

Không chút do dự người đàn bà trả lời: Họ cũng đói lắm. Nhưng họ là ai? Là những gia đình Hồi giáo, cũng có những người con đói khổ như con. Họ ở bên kia đường và cả tuần lễ nay họ cũng chẳng có gì để ăn.

24. Trần Minh khố chuối

Nói về tình yêu, trong chúng ta, ai cũng nhớ đến mối tình cao đẹp trong câu chuyện xưa có tên: "Trần Minh Khố Chuối.”Ngày nay được các nghệ sĩ đỗi tên là: "Bên cầu dệt lụa.” Câu chuyện diễn tả mối tình cao đẹp của đôi bạn Trần Minh và Nguyệt Nga. Hai người đã vượt qua không biết bao nhiêu khó khăn gian khổ, để tìm hạnh phúc cho nhau.

Tôi thiết nghĩ: Nếu Trần Minh vì quá tự ái, nuôi mối hận riêng tư trong lòng, tìm cách trả thù thì cũng không được một kết cuộc tốt đẹp như thế. Còn nếu Nguyệt Nga cứ giữ mãi danh phận của một tiểu thư đài cát, không dám hy sinh cho tình yêu thì họ cũng không thấy được bông hoa tình yêu. Nhưng vì họ đã biết vun trồng, biết chấp nhận những nghịch cảnh, biết vượt qua chính mình, biết cùng góp sức từ bỏ đi những gì là riêng tư, nên họ nhận được phần thưởng tốt đẹp và xứng đáng.

"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không tối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi,thì sẽ trổ sinh nhiều bông hạt.”

25. Chúa phải chờ

Một chàng thanh niên nọ khao khát được nhìn thấy Chúa. Và rồi Chúa đã đến với anh qua vóc dáng của một con người đẹp đẻ, uy quyền và dễ mến. Ngài đề nghị với anh:

- Con hãy đi theo Ta một đoạn đường.

Chàng thanh niên cảm thấy hạnh phúc khi cùng bước đi với Chúa. Được một lúc, Chúa bảo:

- Ta khát, con hãy đi tìm cho Ta một chút nước.

Chàng thanh niên hăm hở đi tìm. Đi mãi đi hoài mà chẳng thấy. Cuối cùng anh cũng đến được bên dòng sông. Anh đang chuẩn bị múc nước thì một cô gái xuất hiện. Cô gái đẹp đến độ làm cho chàng thanh niên mê mẩn tâm thần, thậm chí quên cả việc đem nước về cho Chúa. Anh làm quen, trò chuyện với cô gái và hai người lấy nhau, sinh con đẻ cái.

Thế rồi một năm kia, lũ lụt xảy ra. Mưa đổ xuống và nước dâng lên. Chỉ một mình anh may mắn bám vào cành cây là được cứu thoát. Còn tất cả vợ con, nhà cửa và sản nghiệp anh đã chắt chiu vun trồng và tích lũy, đều bị dòng nước cuốn trôi. Giữa lúc anh đang tiếc nhớ khóc thương cho số kiếp bẽ bàng và cay đắng của mình, thì Chúa hiện ra và nói với anh:

- Con có mang nước về cho Ta không đó. Con làm gì lâu thế, bắt Ta phải chờ hoài.

26. Chúa tìm con

Trong cuốn sách, Tình Yêu Vô Điều Kiện, cha John Powell kể lại một câu truyện về Tommy, một trong những học sinh của cha.

Tommy là một người tự xưng là vô thần. Anh không tin bất cứ một sự kiện gì cả. Anh đặc biệt lên án ý tưởng rằng Thiên Chúa có thể yêu thương nhân loại một cách vô điều kiện.

Sau cùng, mùa học đã tới lúc mãn khóa. Khi Tommy nộp bài thi cuối năm, anh nói với cha một cách nhạo báng, "Cha thử nghĩ coi, tôi có thể tìm thấy Thiên Chúa không?" Cha đáp lại, "Không, Tommy ơi, anh không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa sẽ tìm thấy anh. “Anh chỉ nhún vai và bỏ đi.

Vài năm sau, cha được tin là Tommy đang sắp sửa chết vì bệnh ung thư. Trước khi cha có thể liên lạc với Tommy, Tommy đã liên lạc với Cha.

Khi Tommy đến gặp cha, cha nhận thấy thân xác của anh đã rã rời và bộ tóc của anh đã rụng hết do các thuốc chữa ung thư mà anh uống. Tommy nói:

"Con đến với Cha, vì những gì Cha đã nói với con trong buổi học sau cùng. Cha nói, con không thể tìm thấy Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ tìm thấy con.

"Đúng thế, khi bác sĩ cho con biết con chỉ còn một thời gian ngắn để sống, con đã làm một việc mà con không bao giờ nghĩ là con sẽ làm. Con đã bắt đầu cầu nguyện rất nhiều với Thiên Chúa. Thế nhưng không có chuyện gì xảy ra cả. Không một ai trả lời con.

"Con cố gắng nhiều hơn nữa! Thế nhưng cũng vậy, không gì xảy ra cả. Không ai trả lời con cả. Sau cùng, sau khi đã cố gắng thêm một vài lần nữa, con đã đầu hàng bỏ cuộc.

"Con nghĩ rằng, thật là bất hạnh cho một người chết đi mà không có tình yêu; thật là bất hạnh cho một người chết đi mà chưa nói với người mình yêu thương rằng mình thật sự thương yêu họ. Con đã quyết định làm việc đó.

"Con bắt đầu từ một người khó chịu nhất: chính là ba con. Một đêm nọ, trong khi chúng con ở nhà một mình, con đã nói với ba về việc con cảm nghĩ thế nào về ông. Sau đó, ông đã làm việc mà con không thể ngờ. Ông đã khóc và ôm con vào lòng. Chúng con đã nói chuyện suốt đêm, mặc dù ba con phải dậy đi làm sáng hôm sau.

"Khi nói với mẹ con và các anh em con rằng con yêu mến họ thì thật dễ dàng hơn. Giống như ba con, họ cũng khóc và ôm chầm lấy con.

"Sau đó, một sự kiện bất ngờ xảy ra. Không biết từ đâu, Thiên Chúa đã đến với đời sống của con. Ngài đến với một sức mạnh và quyền lực mà con không thể nào không nhận thức được. Đúng thế, thưa Cha, Ngài đã tìm thấy con! Ngài đã thật sự tìm thấy con!"

Ít lâu sau, Tommy đã qua đời, nhưng anh đã khởi sự một cuộc sống trong một phương thức khác. Anh khởi sự sống trong cách thức mà Chúa Giêsu đã nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống."

27. Làm chứng bằng cuộc sống

Tại vùng Đông Bắc Ấn Độ, các thừa sai Don Boscô đã phái một giáo lý viên đến dạy giáo lý cho thổ dân nọ trong một vùng núi sâu.

Ít lâu sau, do sự xúi dục của các thầy mo, họ đã ngược đãi và tìm cách hất hủi giáo lý viên, dù anh đã cố gắng nói với họ về một Thiên Chúa nhân lành. Họ chế nhạo xua đuổi anh ta ra khỏi làng. Vì vậy, anh đã phải làm một căn lều nhỏ ở ngoài làng để trú. Anh nói với dân làng: “các thừa sai đã sai tôi đến đây, tôi không thể bỏ nơi đây mà đi nơi khác. Bao lâu còn ở đây tôi còn giảng đạo cho dân làng.”

Tức bực, họ đã nhờ phù thuỷ yểm bùa. Do bị đói khát hành hạ và bùa ngải của phù thuỷ, người giáo lý viên cuối cùng đã qua đời trong căn lều hiu quạnh.

Về sau, cảm kích về sự quảng đại, can đảm của giáo lý viên, dân làng xin trở lại đạo và dựng tại nơi túp lều hiu quạnh kia một nhà nguyện, để làm nơi các tín hữu hội họp cầu nguyện.

28. Giờ của lòng xót thương

Ngày xưa, có một vị ẩn tu sống ẩn dật bên một khu rừng hoang vắng. Vị ẩn tu này rất thánh thiện đạo đức, đêm ngày ăn chay cầu nguyện và có lòng thương người.

Ngày nọ, một cô gái giang hồ sống ở ngôi làng gần đó quyết tâm đến cám dỗ vị ẩn tu thánh thiện kia. Thế nhưng, lần nào đến cám dỗ, cô gái cũng bị vị ẩn tu cự tuyệt một cách mạnh mẽ. Sau nhiều lần thất bại, một ngày nọ, cô gái đã kêu lên:

- Ông không phải là người đàn ông sao? Ông không biết yêu ư?

Vị ẩn tu đáp:

- Có chứ! Nhưng chưa đến giờ!

Thế rồi, một ngày nọ, trên đường trở về túp lều của mình, vị ẩn sĩ bắt gặp cô gái giang hồ kia bị bọn cướp đánh dở sống dở chết bên lề đường, sau khi cướp sạch tiền bạc và tư trang. Vị ẩn tu vội vàng vác cô gái lên vai đưa đi cấp cứu. Trên đường đi, vị ẩn tu nói nhỏ vào tai cô gái:

- Đã đến giờ rồi đó! Giờ của lòng xót thương!

Câu nói đầy ý nghĩa của vị ẩn tu đã dẫn đưa chúng ta vào sứ điệp lời Chúa hôm nay. Bài Tin Mừng theo thánh Gioan thuật lại lời Chúa Giêsu: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh.”

29. Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay

Đức Cố Hồng Y F.X Nguyễn Văn Thuận đã gọi cha Charles de Foucauld là “hạt giống trong sa mạc.” Ngài sống suốt đời ở giữa lòng sa mạc Sahara để tu thân tích đức, chiêm niệm, chầu Thánh Thể và sống bác ái với dân tộc Touareg. Suốt đời, ngài tha thiết cầu xin Chúa gửi đến một ai đó để cùng sống một lý tưởng với ngài. Cầu nguyện mãi mà chẳng thấy ai, nhưng ngài vẫn bền chí cầu nguyện. Đến khi ngài qua đời, thân xác chôn vùi giữa lòng sa mạc mênh mông. Nhưng vẫn không thấy một bóng người như ngài hằng mong ước. Xét theo khía cạnh con người, thì quả là một thất bại!

Thế nhưng, sau một thời gian chôn vùi, hạt giống ấy đã nảy mầm vươn lên. Hội dòng theo tinh thần của cha Charles de Foucauld đã mọc lên khắp nơi. Ngài chỉ xin một người, thì Chúa đã cho hàng trăm, hàng nghìn Tiểu Đệ, Tiểu Muội có mặt trên khắp thế giới.

Bài học của “hạt lúa mì” hôm nay thật quý giá cho đời sống đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy trở thành hạt lúa mì được gieo vào lòng trần thế, biết thối mục đi trong hy sinh quên mình, để vươn lên, sinh bông hạt và hoa trái tốt tươi cho cuộc đời. Hạnh phúc vĩnh cửu của cuộc sống mai sau tùy thuộc vào cuộc sống hiện tại. Cuộc sống mai sau ấy phải được bắt đầu từ bây giờ. Vì thế, chúng ta hãy sống như lời bài hát “Hát về cây lúa hôm nay”:

“Đường lên đã mở, đi tới tương lai, ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay… ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay…”

30. Phục vụ nhân loại

Nobel là một trong những giải thưởng được đánh giá cao trong thế giới hôm nay. Thế nhưng giải thưởng đó đã có một lịch sử đặc biệt.

Giải thưởng đó mang tên nhà phát minh nổi tiếng người Thụy Điển, ông Alfred Nobel. Ông là một nhà phát minh có tài, đặc biệt trong lãnh vực chất nổ. Nửa cuối thế kỷ 19, chất nổ được nghiên cứu chế tạo để phục vụ cho nhiều công trình lớn, cũng cho cả vũ khí. Chết nổ rất nguy hiểm, ngay cả em trai của Alfred Nobel cũng tử nạn khi nghiên cứu chất nổ.

Sau cùng, năm 1866, Alfred Nobel đã chế tạo thành công Dynamite, một loại thuốc nổ nitroglycerin an toàn. Ông đã nhận bằng sáng chế từ hai nước Anh và Thụy Điển vào năm 1867. Sáng chế này đã mang lại cho ông rất nhiều lợi nhuận và danh tiếng.

Thế nhưng năm 1888, anh trai ông, Lugvic Nobel, đã qua đời. Một tờ báo Pháo đã nhầm lẫn Alfred Nobel với anh của ông và đã đăng cáo phó với tựa đề “nhà buôn cái chết đã chết” trong đó có mấy lời bình luận: “Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có sau khi phát minh ra cách thức giết chết con người nhanh hơn bao giờ hết đã qua đời ngày hôm qua.”

Alfred Nobel như bị sét đánh khi đọc bản tin. Những lời bình luận cho ông thấy trước ông sẽ bị coi như một kẻ sát nhân đáng kinh sợ khi ông qua đời dù ông không dùng thuốc nổ để chế tạo vũ khi.

Ông đã sống trong phiền muộn những năm cuối đời. Thế nhưng, một năm trước khi qua đời, ông đã quyết định thành lập giải thưởng Nobel, và đã dành 94% tài sản mình nhằm đề cao và khích lệ mọi hoạt động sáng tạo cống hiến cho hạnh phúc chung của nhân loại.

31. Giờ Con Người được tôn vinh

Năm 1846 đã xảy ra cuộc chiến tranh Mexicô, Henry Thoreau, một văn sĩ kiêm triết gia, đã cực lực phản đối cuộc chiến, vì ông tin rằng đó là biện pháp để mở rộng lãnh thổ chiếm giữ nô lệ.

Ông cương quyết, không chịu đóng thuế, bởi vì cho rằng số tiền ấy, sẽ được sử dụng vào cuộc chiến phi nghĩa. Sau cùng, ông thà chịu giam vào tù, còn hơn là chấp nhận đóng thuế.

Waldo Emerson, cũng là một văn sĩ kiêm triết gia, bạn thân của Thoreau và cũng là một nguoời kịch liệt chống đối cuộc chiến tranh và chế độ nô lệ, đã đến nhà tù để thăm ông.

Emerson hỏi Thoreau, "Này ông Henry, tại sao ông phải ở tù thế này?" Thoreau nhìn thẳng vào mắt của Emerson và hỏi: "Waldo, còn ông tại sao không ở trong này?"

Trước giờ tử nạn, Chúa công bố rõ ràng về chọn lựa của Chúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

32. Tiêu diệt đau khổ bằng tình yêu

Thi sĩ người Anh Francis Thompson đã viết “Không có gì bắt đầu và kết thúc mà không phải trả giá bằng gian khổ. Vì chúng ta được sinh ra trong đau khổ của kẻ khác và chết trong đau khổ của mình.”

Nhiều người kêu trách Thiên Chúa vì đã để những đau khổ xảy ra trên trái đất. Tuy nhiên, theo Kinh thánh, đau khổ bắt đầu từ tội lỗi đầu tiên của ông bà nguyên tổ. Chính đau khổ do bởi tội lỗi này, Chúa Giêsu đã chấp nhận chết trên Thánh giá để cứu rỗi nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Ngài” (Rm 8,28).

Đau khổ nào sinh ích cho tôi trong cuộc sống?

Chúa Giêsu không đến để khử trừ đau khổ, nhưng đổ đầy nó bằng sự hiện diện của Ngài (Paul Claudel).

CNMC 5C

THỨ HAI

Lời Chúa: Ga 8, 1-11

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất.

Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi.” Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất.

Nghe nói thế họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó.

Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai.” Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.”

TRUYỆN KỂ

1. Khả năng chinh phục

Đức cha Bossuet là một văn hào và một nhà hùng biện Pháp đã tuyên bố: “Ai muốn tranh luận giáo lý, hãy đến với tôi, tôi sẽ làm cho họ thua lý.” Còn Đức cha Salêsiô thì lại chinh phục những người lạc giáo bằng cách đón tiếp, lắng nghe, tìm hiểu và giải quyết những thắc mắc của họ.

Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta xét lại thái độ sống đức tin của chúng ta: biết bao lần Chúa Giêsu đã thực hiện những dấu lạ trong đời sống cá nhân chúng ta cũng như trong sinh hoạt cộng đoàn để nhắc nhở chúng ta rằng Ngài là Đấng Cứu Thế, là Ánh Sáng, là Chân lý, nhưng chúng ta đã nhìn nhận ánh sáng và chân lý Ngài đem đến với tất cả chân thành và khiêm tốn chưa? Tác giả tập sách Đường Hy vọng đã viết:

“Đối với người kitô hữu tin trước hết là chấp nhận được cứu rỗi, được tha thứ, được yêu thương. Chúa không phải là Đấng bắt con kính mến, nhưng đúng hơn Ngài là Đấng con phải để cho Ngài yêu thương. Nhân loại cảm thấy mình làm được mọi sự, nhưng không biết tại sao mình sống, mình đi về đâu, tương lại thế nào. Nhân loại đang trải qua cơn khủng hoảng hy vọng, nhưng có thể chính cá nhân chúng ta cũng đang gặp cơn khủng hoảng đó, vì chúng ta không có đức tin trọn vẹn, không chấp nhận sự thật mà Chúa mạc khải… Ta là Ánh sáng thế gian, ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ được ánh sáng ban sự sống. Đó là bí quyết của niềm hy vọng.”

2. Cần lòng thương xót.

Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin hoàng đế Napoléon tha thiết cho con trai của bà. Anh thanh niên đó đã phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ năn nỉ:

- Thưa bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý.

Hoàng đế Napoléon trả lời:

- Nhưng hắn ta không đáng được xót thương.

Bà mẹ nói:

- Tâu bệ hạ, nếu nó xứng đáng thì không cần gọi là lòng thương xót nữa.

Hoàng đế Napoléon đáp:

- Thôi được. Ta rủ lòng thương xót nó.

3. Ai cũng là tội nhân

Một Mục Sư giảng về chiếc thang Giacóp. Cậu con trai ông rất cảm động. Mấy ngày sau, cậu nói với cha là mình vừa mơ về câu chuyện đó.

- Sao, con mơ thấy gì ?

- Con mơ thấy một chiếc thang lên tới tầng mây. Ở dưới chân thang có rất nhiều phấn, và mỗi người phải lấy phấn viết hết tất cả các tội của mình ở trên đó thì mới lên được.

- Hay thật! Rồi con thấy gì nữa ?

- Con thấy con leo lên, nhưng chưa được bao xa thì con thấy có người leo xuống.

- Ai vậy ?

- Ba chứ ai!

- Ba ? Thế ba leo xuống để làm gì ?

- Ba lấy thêm phấn! (Winnder, London)

4. Mỗi tội nhân đều có một tương lai

Victor Grignard vì được bố mẹ nuông chiều, không thích học, chỉ biết ham chơi. Lớn lên, Grignard trở thành một anh chàng tuấn tú, cuộc sống xa hoa, đi khắp nơi tán tỉnh các cô gái, trở thành kẻ chơi bời trác táng ai ai cũng biết.

Trong một buổi dạ hội, Grignard nhìn thấy một cô gái xinh đẹp, đoan trang. Anh hí hửng đi tới trước mặt cô gái và mời cô khiêu vũ. Thật không ngờ, cô gái ấy lại trách mắng anh: “Tôi không bao giờ khiêu vũ với những kẻ chơi bời trác táng, vô công rồi nghề, hãy tránh xa tôi ra.” Câu nói ấy chẳng khác nào gáo nước lạnh dội vào đầu. Anh cảm thấy vô cùng xấu hổ.

Một người bạn thân đã bước lại, nói với Grignard: “Cô gái này chính là nữ bá tước đến từ Paris.” Grignard xin lỗi nữ bá tước.

Thế là Grignard quyết định bỏ nhà ra đi, thay đổi môi trường sống.

Grignard đến Lyon, dùng thời gian hai năm để học lại những bài học mà mình bỏ lỡ, sau đó theo học trường đại học Lyon. Dưới sự dẫn dắt của giáo sư, Grignard bắt đầu học tập và nghiên cứu.

Năm 1901, Grignard phát hiện thuốc thử Grignard. Năm 1912, ông được trao giải Nobel Hóa học. Về sau Grignard nhận được một bức thư. Bức thư chỉ có một câu: “Tôi mãi mãi yêu kính ngài.” Người viết bức thư ấy chính là nữ bá tước năm xưa.

5. Ai biết mình chẳng dám trách người

Vào thời Vua Henry VII của Anh, ở Luân Đôn nạn trộm cắp thật nhiều. Quan Chưởng ấn Thomas More nhận thấy vị thẩm phán già hay khiển trách những người đến khiếu nại vì bị móc túi ngoài đường, ông quan tòa già quả quyết rằng nếu mấy nạn nhân đó cẩn thận giữ túi tiền của mình thì làm sao mà mất được.

 Nhân một cuộc họp các thẩm phán, Thomas More bí mật cho gọi một tên móc túi chuyên nghiệp đang ở tù và dặn rằng:

- Ta sẽ thưởng cho nhà ngươi, nếu ngươi móc được túi tiền của ông quan tòa già kia.

Tên móc túi xin phép được tới nói chuyện với vị quan tòa già và đưa tay khéo léo móc được túi tiền của ông ta rồi hiên ngang về chỗ ngồi .

Thomas More bấy giờ mới lên tiếng xin các vị thẩm phán làm phúc bố thí cho một người nghèo ở đó. Vị nào cũng rờ túi tiền của mình. Vị quan tòa già kia giật mình vì không thấy túi tiền mình đâu nên la lớn:

- Bớ ăn cắp! Có tên nào ăn cắp túi tiền của tôi rồi!

Thomas nói:

- Sao ? Ông nói chúng tôi ở đây đã ăn cắp túi tiền của ông sao ?

Ông quan tòa mặt đỏ bừng vì giận. Bấy giờ Thomas More mới gọi tên lưu manh kia và bảo trả lại túi tiền cho đương sự. Thomas nói với vị thẩm phán già:

- Tôi khuyên ông hãy bớt nghiêm khắc với những người đã bị móc túi ngoài đường phố, vì chính ông cũng đã để cho người ta cuỗm mất túi tiền ngay giữa đại hội như thế!

6. Tình yêu có sức hoán cải

Tại một làng miền nam nước Ý, có luật dân làng trở thành truyền thống: ai bắt được một người phụ nữ ngọai tình khi chồng còn sống, thì dân làng sẽ báo cho chồng biết trước một ngày. Ngày hôm sau, dân làng dẫn cô vợ mất nết ấy lên một triền núi và xô xuống vực thẳm cho chết, để làm gương răn dạy các phụ nữ khác trong làng.

Không may cho bà Cathérine Margot đã bị dân làng bắt quả tang ngoại tình với một người làm công lúc chồng vắng nhà. Người ta đã báo tin cho anh chồng Auguste Maquet, và cứ theo luật của làng, cô vợ sẽ bị xử! Thế là anh chồng đi mua ngay một chiếc lưới rộng, đưa giăng trước dưới chân núi. Lúc dân làng xô cô vợ xuống, anh vội đỡ lấy và đưa về nhà, vì anh muốn “yêu vợ như Đức Kitô yêu Hội Thánh” (Ep 5,25), và phải nên giống Đức Giêsu “đã yêu thì yêu đến cùng” (Ga 13,1).

Từ ngày ấy, vợ anh luôn tỏ ra biết ơn chồng cách đặc biệt, cụ thể cô luôn làm vừa lòng chồng, hăng say làm mọi việc trong nhà, nên không cần phải mướn ai đến làm công nữa, mà công việc nhà chu đáo hơn trước.

7. Chúa Giêsu viết những gì, với mục đích nào?

Có ba ý kiến:

a- Ông Manson cho rằng: Đức Giêsu viết hai lần trên đất gợi đến luật Roma thời ấy là muốn kết án ai thì viết bản án trước, như ông Philatô viết bản án trên đầu thập giá của Đức Giêsu (x Ga 19,19); cũng thế, Đức Giêsu viết hai bản án, một cho những người tố cáo, một cho phụ nữ ngoại tình.

Án thứ nhất cho người tố cáo: “Ai trong các ngươi vô tội, thì hãy lượm đá ném trước đi!” (Ga 8,7: Tin Mừng)

Án thứ hai cho người phụ nữ: “Chị hãy về và đừng phạm tội nữa!” (Ga 8,11: Tin Mừng)

Như vậy họ hỏi ý kiến Ngài xử trí người phụ nữ như thế nào, thì Ngài đã viết hai bản án ấy cho họ xem, nhưng họ cố hỏi Ngài, nên Ngài đọc cho họ nghe, vì quá xấu hổ, họ lần lượt kéo nhau bỏ đi!

b- Giáo sư Derris giải thích: Chúa viết trên đất là đối chiếu trường hợp này với vụ bà Susanna (x Dn 13), nghĩa là:

Lần thứ nhất Đức Giêsu viết (Ga 8,6): “Không phao tin đồn nhảm; đừng giúp kẻ ác làm chứng gian; không hùa theo số đông để làm trái,” (x Xh 23,1-2)

* Lần thứ hai Đức Giêsu viết (Ga 8,8): “Hãy tránh xa lời gian dối!” (Xh 23,7)

Và như vậy,những kẻ tố cáo cũng thuộc loại gian dối như hai lão gìa trong truyện bà Susanna (x Dn 13). Những kẻ tố cáo đọc những lời Đức Giêsu viết như trên, quá xấu hổ nên rút lui hết; dân chúng thấy không còn ai tố cáo nên mọi người cũng bỏ ra đi.

c- Thánh Giêrônimô lại cho ý kiến: Đức Giêsu viết:

- Lần thứ nhất để ứng nghiệm lời ngôn sứ Giêrêmia (17,13): “Lạy Chúa, kẻ bỏ Ngài sẽ phải xấu hổ, và những ai tráo trở với Ngài, tên nó sẽ viết trên đất!”

- Lần thứ hai, để ứng nghiệm Lời Kinh Thánh Hc 1,28: “Đừng hai lòng đến với Ta.” Bởi vì người như thế sẽ bị loại trừ giống như “muối lạt bị đổ xuống đất cho người ta dẵm đạp!” (Mt 5,13) Và “bị xóa tên khỏi Sổ Hằng Sống,” (x Xh 32,33) Kẻ tố cáo vẫn chưa chịu xét mình mà tháo lui, nên Đức Giêsu bảo chúng: “Ai thấy mình vô tội, thì lượm đá ném trước đi” (Ga 8,7:Tin Mừng), thế là ai cũng thấy mình có tội, nên lần lượt rút lui hết thảy!

8. Thấy điều cần thấy

Có vị Rabbi già bị mù, không thể đọc sách được, cũng chẳng nhận ra được khuôn mặt của những người đến gặp ông.

- Nếu Thầy chấp nhận để tôi săn sóc, tôi sẽ chữa lành chứng mù cho thầy.”, một thầy lang nói với vị Rabbi.

- Không cần đâu. Tôi thấy được mọi thứ mà tôi cần thấy.

Chúa luôn ở bên tôi và nói với tôi, cả khi Ngài thinh lặng; tôi có thấy được mọi thứ mà tôi cần thấy nơi Ngài không?

9. Sống giây phút hiện tại

Nếu ai có dịp ngồi máy bay tới Greenland, thì phi cơ sẽ có dịp đáp xuống phi trường Evans, phi trường mang tên một người, người đó là Edward S. Evans. Ông gần tự hủy đời ông cho tới khi ông học được rằng: đời sống ở trong giây phút hiện tại, ở trong ngày đang sống, trong giờ đang sống!

Sinh ra trong một gia đình nghèo, nghề đầu tiên của ông là bán báo, sau ông giúp việc cho một thư viện, để nuôi một gia đình bảy người. Lương ít mà không dám bỏ sở. Sau tám năm do dự, ông mới quyết định tạo lại cuộc đời, mới ra với số vốn là 55 mỹ kim mượn của bạn, ông phát đạt ngay và mỗi năm kiếm được 20.000 mỹ kim. Rồi thì ông gặp một chuyện rủi, tai hại tới nỗi giết ông được. Ông cho một người bạn vay một số tiền lớn, và người bạn đó vỡ nợ. Rồi họa vô đơn chí, nhà ngân hàng ông gửi tiền cũng vỡ nợ. Sự nghiệp tiêu tan hết, ông còn mắc thêm món nợ 16.000 mỹ kim nữa. Đau đớn quá, ông chịu không nổi.

Ông nói: “Tôi ăn không được, ngủ không được. Tôi đau một chứng kỳ dị, nguyên nhân là ưu phiền chứ không có chi khác. Một hôm đương đi, tôi té xỉu trên lề, từ lúc đó tôi không cất chân được nữa. Tôi phải nằm liệt giường, mục mọc đầy mình, những mụn đó sưng mà không vỡ, nhức nhối quá, nằm không được. Mỗi ngày mỗi yếu, sau cùng bác sĩ nói rằng chỉ sống được hai tuần nữa thôi. Tôi lo sợ lắm, viết chúc thư rồi nằm đợi chết. Từ lúc đó tôi hết phải lo lắng, phấn đấu nữa, tôi bỏ tất cả, nghỉ ngơi. Rồi thì yên trí đợi chết, tôi ngủ được luôn hai giờ; nhưng lúc ấy biết chắc sẽ giũ sạch nợ đời, tôi ngủ li bì như một em bé. Hết lo sợ tôi cũng hết mệt, ăn được và lên cân.

“Vài tuần sau, tôi chống nạng đi được. Rồi sau sáu tuần, tôi đi làm việc. Trước kia tôi kiếm 20.000 mỹ kim một năm, bây giờ mỗi tuần kiếm được có 30 mỹ kim, tôi thấy hài lòng.

“Tôi đã học được một bài mới, không còn lo lắng, không còn tiếc thời phong lưu trước, không lo về tương lai nữa. Tôi đem hết thời giờ, nghị lực và hăng hái để làm nghề mới của tôi.”

Chỉ trong vài năm sau ông Evans được làm hội trưởng một công ty. Đến năm 1945, khi ông mất, thì ông đã là một trong những nhà doanh nghiệp mau phát đạt nhất của Mỹ. Bí quyết thành công của ông là:

“Đời sống ở trong giây phút hiện tại, ở trong ngày đang sống, trong giờ đang sống!”

10. Bí quyết trồng lựu

Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên, trổ sinh hoa quả chỉ trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiếc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi theo cái chết của anh ta, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.

Viên cai ngục chịu ấn tượng rất mạnh đến nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại ra trước mặt vua. Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra và nói “Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được.” Thế rồi anh ta quay sang một trong những viên quan của nhà vua và nói “Ngài có thể trồng hạt giống này được chứ ạ?”

Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng “Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi.” Sau đó, người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói “Vậy ngài có thể trồng hạt giống này chứ?” Nhưng người canh giữ kho tàng cũng từ chối “Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi.”

Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói “Có lẽ bệ hạ sẽ vui lòng trồng hạt giống này.” Nhưng nhà vua nói “Ta xấu hổ mà phải nói rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta.”

Sau đó, người ăn trộm nói “Tất cả các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết án treo cổ.”

11. Ghét tội nhưng thương tội nhân

Peter Koch, một sĩ quan mật vụ Đức, là người đã giết hại không biết bao nhiêu mạng người trong Thế chiến II, đã bị bắt sau chiến tranh và bị lên án tử hình. Anh viết thư xin Đức Thánh Cha Piô XII tha thứ. Ngài đã sai một linh mục đến thăm và tặng anh chuỗi hạt Mân côi.

Anh nói: “Tổ quốc con nguyền rủa con, đó là điều hợp lý. Toà án kết án con, điều này cũng rất công bình. Còn Đức Thánh Cha lại tha thứ, và đã cho con một bài học cao quí. Giả như con đã luôn nghĩ đến việc tha thứ, thì con không phải ra pháp trường như thế này.”

Rồi anh bật khóc: “Con không đáng chạm đến tràng hạt của Đức Thánh Cha bằng đôi tay vấy máu của con. Xin Cha đeo tràng hạt cho con.”

Ít phút sau, Peter Koch chịu xử tử, khi đang lần hạt Mân côi: .”..xin cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay trong giờ lâm tử …”

12. Sách cũ

Ở lớp, tôi luôn dặn các em không được ghi lời giải vào sách.

Một hôm, phát hiện một quyển sách đầy nét bút, tôi quát: "Sao em gian dối với thầy?”

Nó không nói, òa khóc.

Đứa bạn nó bảo: "Nhà nó nghèo, nó phải mua sách cũ đó thầy!”

Tim tôi như rạn nứt.

Ở trường sư phạm tôi đâu có học điều này.

Lòng nhân hậu không biết lên án, mà chỉ biết yêu thương.

13. Không chỉ nói bằng miệng

Trong cuốn sách “Bây giờ tôi đã thấy”, Arnold Lunn lưu ý rằng trong nhiều thế kỷ, người ta luôn tự hỏi Chúa Giêsu đã viết gì trên đất? Tác giả viết: “Nếu Tolstoi đã phát minh ra lối viết đó, thì chắc hẳn Chúa Giêsu phải viết một điều quan trọng… nhưng không gì quan trọng như sự yên lặng của Gioan.”

Hành động yên lặng của Chúa Giêsu trong bài đọc hôm nay đôi khi được gọi là ngụ ngôn “hành động”: Chúa Giêsu đưa ra một ý quan trọng bằng hành động hơn là bằng lời nói. Những ngụ ngôn loại này bao gồm việc Chúa Giêsu đồng bàn với các tội nhân và việc Ngài rửa chân cho các môn đệ (x. Lc 5,29. Ga 13,5).

Bài đọc hôm nay mời gọi tôi tự hỏi: tôi sẽ nói lên điều gì với người khác bằng hành động? Nó có nói “đây là một kitô hữu” không?

Chúng ta không chỉ rao giảng bằng lời nói, mà còn phải rao giảng bằng chính cuộc đời của mình nữa (Martin Luther King).

14. Lòng nhân

“Sáng ngày 5.2.2007, cảnh sát Đức phát hiện một vụ thảm sát tại nhà hàng Lin Yue, miền Bắc Sittensen. Bảy người thiệt mạng, trong đó có hai người Việt, chỉ một em bé 6 tuổi sống sót. Động cơ giết người được cho là vì thủ phạm muốn trả thù ông chủ người Hoa.” Những bản tin thấm đẫm bạo lực, hận thù và máu me như thế ngày càng trở thành rất thường trên các tờ báo hằng ngày.

Đúng là “người với người như lang sói.” Trong một thế giới như thế, người môn đệ Đức Ki-tô càng phải khẩn thiết trình bày chứng tá của lòng nhân, theo gương Thầy chí thánh của mình. “Tôi không kết án chị đâu!” Người phụ nữ ấy thay vì bị ném đá đến chết, đã được tha bổng với lời khuyến cáo hãy trở về và cải thiện đời sống.

Ai cũng cần được cảm thông và tha thứ, vì ai cũng có lúc phạm sai lầm. Vì thế, chúng ta cần sống và quảng bá lòng nhân hậu, thứ tha. Mỗi người biết nhân hậu hơn, thế giới này sẽ bớt căng thẳng hơn, sẽ hòa bình hơn và dễ sống hơn.

15. Bãi bỏ án tử hình

Người ta đã mở một cuộc thăm dò dư luận về việc có nên bãi bỏ án tử hình hay không. Trên thực tế, nhiều nước trên thế giới vẫn duy trì án tử hình. Tại sao người ta lập ra án tử hình? Có lẽ án tử hình không có sức răn đe, làm người ta sợ không dám phạm tội ác, cho bằng lý do trả thù. Vua tru di tam tộc kẻ thua, phe đảng này giết phe đảng kia, chỉ để chiếm quyền độc tôn thống trị, lợi lộc. Thượng tế và kinh sư chỉ vì ghen tương, tranh giành quyền bính khi thấy “toàn dân đến với Người” nên họ gài bẫy để đánh gục Chúa Giêsu. Họ có đủ quyền thế để xử tử người phụ nữ ngoại tình, nhưng họ cố ý dùng chị để kết án tử hình Chúa Giêsu.

Trái lại, Chúa Giêsu hiền từ, lặng lẽ ngồi xuống, âm thầm bãi bỏ án tử hình, với lý do: “Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi.” Chúa đã cứu mạng người phụ nữ, đồng thời cứu các thượng tế và kinh sư thoát khỏi cái tâm gian ác của họ.

Bạn, nhóm bạn làm gì đáp lại lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng về việc tôn trọng sự sống, đó cũng là thao thức của Đại Hội Dân Chúa vừa qua?

Cả nước có khoảng 2 đến 2,4 triệu ca phá thai mỗi năm. Phải chăng bạn là người ích kỷ, thờ ơ trước sự sống? Hay bạn đã trực tiếp hoặc gián tiếp cộng tác vào việc hủy diệt sự sống?

“Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn và được sống” (Ed 33,11).

THỨ BA

Lời Chúa: Ga 8, 21-30

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người biệt phái rằng: "Ta ra đi, các ông sẽ tìm kiếm Ta và sẽ chết trong tội của các ông. Nơi Ta đi các ông không thể tới được.”

Người Do-thái nói với nhau rằng: "Ông ta sắp tự vẫn hay sao mà lại nói "Nơi Ta đi các ông không thể tới được?”"

Chúa Giêsu nói tiếp: "Các ông thuộc về hạ giới; còn Ta, Ta bởi trời cao. Các ông thuộc về thế gian này; còn Ta, Ta không thuộc về thế gian này. Ta đã nói: Các ông sẽ chết trong tội các ông. Vì, nếu các ông không tin Ta, các ông sẽ chết trong tội của các ông.”

Vậy họ liền hỏi: "Ông là ai?" Chúa Giêsu trả lời: "Là Nguyên thuỷ đang nói với các ông đây! Ta có nhiều điều phải nói và đoán xét về các ông, nhưng Ðấng đã sai Ta là Ðấng chân thật, và điều Ta nói ra trong thế gian đây, chính là điều Ta đã nghe biết ở Ngài.”

Nhưng họ không hiểu là Người nói về Chúa Cha, vì thế Chúa Giêsu nói: "Khi nào các ông đưa Con Người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai. Ta không tự mình làm điều gì. Ðiều Ta nói, chính là điều Chúa Cha đã dạy Ta. Ðấng đã sai Ta đang ở với Ta; Ngài không để Ta một mình, bởi vì Ta luôn luôn làm điều đẹp lòng Ngài.” Khi Người nói những điều ấy thì có nhiều kẻ tin vào Người.

TRUYỆN KỂ

1. Tin Nhận Chúa.

Cụ Alexis đã viết thư cho mình 35 năm trước. Đúng ngày được 60 tuổi, cụ mở thư ra đọc: “Bạn thân mến, mừng kỷ niệm 60 năm sinh nhật của bạn, kể từ hôm nay, bạn bắt đầu bước đi trên một đoạn đường mới. 60 năm đã qua và kể như đời bạn đã xế chiều, dù bạn vẫn còn khỏe, nhưng sức dẻo dai đã kém hơn trước nhiều.

Bạn hãy bảo vệ sức khỏe để còn đóng góp sức lực vào phúc lợi chung. Bạn hãy biết ra đi, biết rút lui cách nhẹ nhàng và nhường chỗ cho đàn em có khả năng thể xác và tinh thần hơn bạn.

Nhưng không phải rút lui để tìm nhàn hạ. Bạn hãy chia sẻ kinh nghiệm của 60 năm đầy nụ cười và nước mặt của bạn cho đàn em, và bạn hãy sung sướng khi thấy họ thành công hơn bạn, vì nhờ họ Thiên Chúa được vinh danh hơn. Bạn hãy tiếp tục dấn thân cho đến hơi thở cuối cùng theo sức bạn, theo tuổi bạn.

Bạn hãy chuộc lại những thời gian bạn đã lãng phí trong suốt 60 năm qua. Hãy kiểm điểm trước mặt Chúa, hãy rút kinh nghiệm từ quá khứ, hãy cảm tạ Chúa và sám hối trước mặt Ngài.

Bạn hãy dành quãng đời còn lại để làm một việc gì cho Chúa, một việc mà giờ đây Chúa đang mời gọi bạn cộng tác. Bạn đừng quên rằng bạn đang tiến về Nhà Cha mỗi phút một gần hơn. Bạn hãy sẵn sàng thoát ly địa vị và của cải trần gian.

Hãy sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời bạn. Hãy sống đẹp lòng Chúa, vui lòng gia đình và bạn bè. Hãy quyết tâm mãnh liệt, hãy thực hiện nghiêm túc, hãy kết hiệp với Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse. Ân sủng và bình an của Chúa ở cùng bạn.”

Thành tâm thiện chí của cụ Alexis đáng chúng ta suy nghĩ. Thực hiện thánh ý Chúa từng giây phút hiện tại là gì, nếu không phải là tin nhận Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, để đừng chết trong tội lỗi.

2. Nếu các ông không tin

Đức Giêsu lại nói với họ:

“Tôi ra đi, các ông sẽ tìm tôi, và các ông sẽ mang tội mình mà chết.

Nơi tôi đi các ông không thể đến được.”

Người Do-thái mới nói: “Ông ấy sẽ tự tử hay sao mà lại nói: Nơi tôi đi các ông không thể đến được?

Người bảo họ: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới.

Các ông thuộc về thế gian này; Còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này. (Ga. 8, 21-23)

Một Tin mừng đầy nghịch lý đối với bản chất loài người như trong đoạn văn của Thánh lễ hôm nay.

Chỉ cần chúng ta biết tiếp nhận Người, dù không thể giải nghĩa và thực hiện được theo nhãn quan con người. Chỉ cần chúng ta đừng bỏ qua những lời yêu sách của sứ điệp Phúc âm, dù có trái nghịch với bản chất con người chúng ta. Chỉ cần chúng ta bắt lý trí con người bái phục chân lý đức tin. Chỉ cần chúng ta biết cảm nghiệm sâu xa mầu nhiệm Đức Kitô bằng con tim trong đau khổ thập giá cũng như vinh quang phục sinh.

3. Tin nhận Chúa Giêsu - Tin nhận Chúa Cha

Vào thời thập tự viễn chinh, nhằm bảo vệ thánh địa và đảm bảo an ninh cho khách hành hương, vua Philipphê của nước Pháp đã làm một cử chỉ lạ thường. Trước mỗi lần lên đường, ông tháo gỡ triều thiên đang đội trên đầu, rồi đặt nó lên một chiếc bàn và ghi dòng chữ như sau: “Dành cho người nào xứng đáng nhất.”

Sau đó, ông quy tụ tất cả tướng lĩnh, các hiệp sĩ, những người hầu cận lại trước mặt ông và yêu cầu họ hãy quên ông là vua và là người chỉ huy của họ. Ông nói với mọi người rằng chiếc vương miện được dành cho người nào tỏ ra xứng đáng nhất trong cuộc chiến đấu.

Cuộc viễn chinh đã hoàn tất một cách vẻ vang, mọi người hát khúc khải hoàn trở về quê hương. Họ tụ tập chung quanh vương triều và một tướng lĩnh tiến lại cầm lấy triều thiên đội lên đầu của Philpphê và nói: “Tâu bệ hạ, bệ hạ là người xứng đáng nhất.”

Trong cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái, Ngài mạc khải cho họ biết: Ngài là Thiên Chúa xuống thế làm người, nên giống chúng ta hoàn toàn, chịu đóng đinh và chết trên thập giá để cứu độ con người, đem sự giao hòa giữa con người với Thiên Chúa Cha.

4. Đừng trở thành phản chứng.

Trong chương trình buổi tối của một đài truyền hình Hoa kỳ, một cô gái điếm đã được mời phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của một phóng viên truyền hình.

Cô gái ấy trang điểm thật diêm dúa và tỏ ra không những bình tĩnh mà còn có thái độ khiêu khích trước những câu hỏi của người phóng viên.

Chợt nhìn thấy trên cổ của cô gái có đeo một dây chuyền bằng vàng với một cây Thánh giá nhỏ, người phóng viên thay đổi đề tài để hỏi cô gái.

Anh ta hỏi: “Tôi thấy cô có đeo một Thánh giá nhỏ ở trên cổ. Hẳn cô là người có tôn giáo đúng không?”

Khán giả thấy rõ sự bối rối của cô gái điếm. Có lẽ đây là một vấn đề mà cô không bao giờ nghĩ tới. Sau một chút do dự, cô ta liền trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả.”

Người phóng viên hỏi dồn: “Thế tại sao cô lại mang Thánh giá trên người mình như dấu chỉ của người có đạo?

Cô gái điếm thinh lặng cúi nhìn xuống sàn nhà một hồi khá lâu, rồi cô trả lời với những lời lẽ thú tội: “Lúc còn nhỏ tôi có đạo. Nhưng đó là chuyện rất lâu rồi.”

5. Lương thực đời đời

Người ta hỏi ông Napoléon, vua nước Pháp: “Đời vua biến cố nào, giây phút nào làm ngài sung sướng hạnh phúc nhất?”Vua đáp: “Ngày tôi được Rước Lễ Lần Đầu.” Thế mà ngày nay nhiều người chỉ háo hức được Rước Lễ Lần Đầu, sau đó lại lạnh nhạt không muốn đến dự Lễ! Đâu còn mấy người nhớ đến hạnh phúc trong ngày trọng đại đó như vua Napoléon!

Ngày nay, nhiều người tự xưng là tín hữu Công Giáo, nhưng lại sống Đạo theo kiểu Do Thái giáo, chỉ vì tin “có thực mới vực được đạo”, nên dốc toàn lực đi tìm kiếm thực tại đời này, mà coi nhẹ hay không muốn thực hành Lời Chúa dạy:

- Của ăn nuôi sống con người không phải chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ thi hành mọi Lời Thiên Chúa phán (Mt 4, 4; Ga 4, 34).

6. Thập giá cứu độ

Đức Cha Fulton Sheen, một diễn giả nổi tiếng trên các đài truyền thanh và truyền hình Hoa Kỳ đã tưởng tượng ra một cuộc gặp gỡ như sau:

Tôi ra khỏi nhà để hưởng chút ánh sáng mặt trời, tôi gặp một người đang quằn quại trên Thập Giá, tôi dừng lại và đề nghị:

- Xin cho phép tôi được giúp ông xuống khỏi Thập Giá

Nhưng người ấy trả lời:

- Hãy để cho tôi yên. Hãy để nguyên những cái đinh trong lòng bàn tay và bàn chân của tôi. Hãy để nguyên những gai nhọn trên đầu và lưỡi dòng trong trái tim tôi. Tôi không tự mình xuống khỏi Thập Giá, bao lâu những người anh em tản mác khắp nơi của tôi chưa hợp nhất với nhau.

Tôi liền hỏi người ấy:

- Ông muốn tôi làm gì cho ông?

Người ấy trả lời:

- Hãy đi khắp thế giới, và bắt gặp bất cứ ai hay nói với họ rằng: “Có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá.”

Vâng, có một người đã chịu đóng đinh trên Thập Giá. Người đó chính là Chúa Giêsu, Chúa của chúng ta.

Trong thư thứ nhất gửi cho Giáo đoàn Côrinthô, Thánh Phaolô đã nói về Thập Giá rất hay: “Thật thế, lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng tôi là những người được cứu độ, thì đó lại là sức mạnh của Thiên Chúa.” (1Cr 1,18)

7. Tình thương cứu độ

Trong tuyển tập ngụ ngôn của hai anh em người Đức vào thế kỷ thứ 19, người ta đọc được câu chuyện có nội dung như sau:

Hai cha con nọ đã thỏa thuận ngầm với nhau là người con được tự do làm bất cứ điều gì nó muốn. Chỉ có điều là mỗi khi nó làm một hành động xấu thì nó phải đóng một cây đinh vào cánh cửa. Ngược lại, khi làm được một hành động tốt thì nó có quyền nhổ một cây đinh đi.

Chưa đầy một năm, cánh cửa không còn một chỗ nào trống để đóng đinh vào được nữa. Người con chợt nhận ra cuộc sống quá xuống dốc của mình. Nó mới hồi tâm và quyết định tu sửa. Không đầy một năm sau, mọi cây đinh đều lần lượt được gỡ ra khỏi cánh cửa. Ngày cây đinh cuối cùng được tháo gỡ khỏi cửa người cha sung sướng chạy đến ôm lấy đứa con của mình. Ông vui mừng đặt trên trán đứa con những nụ hôn hạnh phúc. Thế nhưng, thật là lạ lùng, không những đứa con không tỏ ra một cảm xúc vui sướng nào mà còn đẩy người cha ra và khóc òa lên. Người cha ngạc nhiên thốt lên:

- Tại sao con khóc? Tất cả mọi cây đinh đã được nhổ ra khỏi cánh cửa, con không cảm thấy hạnh phúc vì đã sống tốt đẹp hơn sao?

Đứa con thổn thức:

- Thưa cha đúng thế, nhưng cho dầu những cây đinh đã nhổ đi rồi, nhưng chúng vẫn còn để lại những cái lỗ trên đó.

Trong cuộc sống, nhiều người trong chúng ta cũng như thế. Chúng ta đã chạy đến tòa cáo giải. Chúng ta đã tin là Chúa đã tha thứ cho chúng ta. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta không thể vượt qua được những “Mặc cảm tội lỗi.” Chính những mặc cảm này nhiều khi dày vò chúng ta. Mỗi lần như thế chúng ta hãy nhớ lại tình thương của Chúa.

THỨ TƯ

Lời Chúa: Ga 8, 31-42

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do-thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi.” Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói "Các ngươi sẽ được tự do"?”

Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi.” Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Ðiều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!"

Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến.”

TRUYỆN KỂ

1. Nô lệ và tự do

Người Do thái cho rằng mình tự do. Thực sự họ sống trong nô lệ. Vì họ không sống trong sự thật. Họ bị lầm lạc.

Họ lầm tưởng mình tự do. Nhưng họ đã phạm tội. Phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. Sống dưới ách ma quỉ. Bị dục vọng trói buộc. Chỉ có Chúa Giê-su tự do. Vì Chúa là Đấng Thánh. Chỉ khi nào người Do thái được Chúa giải phóng khỏi tội lỗi họ mới có tự do. “Thật, tôi bảo thật các ông: hễ ai phạm tội thì làm nô lệ cho tội…Vậy nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thật sự là những người tự do.”

Họ lầm tưởng mình là con cháu Áp-ra-ham. Nhưng thực sự không phải. vì Áp-ra-ham luôn lắng nghe và tuân hành ý Chúa. Còn họ thì không: “Giả như các ông là con cái ông Áp-ra-ham, hẳn các ông phải làm những việc ông Áp-ra-ham đã làm. Thế mà bây giờ các ông lại tìm giết tôi, là người đã nói cho các ông sự thật mà tôi đã nghe biết từ Thiên Chúa. Điều đó, ông Áp-ra-ham đã không làm.”

Họ lầm tưởng họ là con Thiên Chúa. Nhưng không phải. Vì họ không yêu mến Chúa Giê-su là Đấng Cha sai đến: “Giả như Thiên Chúa là Cha các ông, hẳn các ông phải yêu mến tôi, vì tôi phát xuất từ Thiên Chúa và bởi Thiên Chúa mà đến.”

Sống trong lầm lạc. Họ nô lệ cho sự lầm lạc. Họ ở ngoài Thiên Chúa. Cần phải có sự thật giải phóng họ mới được tự do. Chúa Giê-su chính là sự thật. Vì Người luôn ở trong Thiên Chúa.

2. Chân Lý Sẽ Giải Thoát.

Khi thi hành nhiệm vụ khâm sứ Tòa thánh tại Bulgari, Đức cha Roncali nhận được một bức thư của một linh mục chỉ trích ngài về mọi mặt. Đọc thư xong, Đức cha Roncali không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị linh mục kia. Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Hồng Y, rồi đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Nhân dịp về Rôma yết kiến vị Tân Giáo Hoàng, vị linh mục cũng ghi tên đi theo phái đoàn và được đặc ân tiếp kiến riêng Giáo Hoàng. Vị linh mục đó thuật lại như sau:

Trong lúc đứng ở phòng khách đợi phiên vào triều yết Đức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ đến bức thư năm xưa và thầm nghĩ mấy chục năm qua rồi, chắc giờ đây Ngài không còn nhớ nữa đây. Đang suy nghĩ miên man thì cánh cửa mở ra, cha thư ký dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha niềm nở bắt tay và mời tôi ngồi. Ngài ân cần thăm hỏi công việc mục vụ của tôi, của Giáo phận, và nhắc đến các bạn ở Bulgari. Câu chuyện vẫn diễn ra trong bầu khí thân tình. Bỗng Đức Thánh Cha đưa tay lấy cuốn Kinh Thánh và từ từ mở ra và trong đó có bức thư của tôi, ngài dịu dàng nói: “Con đừng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Kinh Thánh và hàng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế, cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con.”

Tác giả tập sách Đường Hy vọng khuyên: “Lòng mến Chúa phải tuyệt đối. Chúa dạy không ai có thể làm tôi hai chủ. Con làm tôi mấy chủ? Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để sống đời nội tâm.

Con chỉ có một việc quan trọng nhất, Maria đã chọn phần tốt nhất. Nếu con không sống nội tâm, nếu Chúa Giêsu không phải là linh hồn của các hành động của con, thì sẽ thế nào? Con chỉ có một của ăn là Thánh ý Thiên Chúa, nghĩa là con sống và lớn lên bằng ý Chúa. Ý Chúa như thức ăn làm con sống mạnh sống vui, ngoài ý Chúa con sẽ chết.

Con chỉ có giây phút đẹp nhất, đó là giây phút hiện tại. Đời con sẽ tuyệt đẹp nếu từng giây phút con tin vào Lời Chúa và thực hiện thánh ý Ngài.”

Ý Chúa muốn cho mỗi người chúng ta trong hiện tại là trở thành những người con thảo, hãy để lời Chúa thấm nhập và hướng dẫn cuộc sống chúng ta.

3. Muốn có đời sống đẹp.

Một sinh viên Nhật Bản đến văn phòng của một linh mục ở Boston, và nói: “Thưa cha, con đang đi tìm một đời sống đẹp, cha có thể chỉ cho con biết phải tìm ở đâu?”

Linh mục đáp: “Chắc anh muốn trao đổi về tôn giáo?”

Anh trả lời: “Thưa không, con không muốn trao đổi về lý thuyết. Việc đó con thấy nhan nhản rồi. Con cần thứ khác. Cha biết không, khi con ở ký túc xá Đại học Cambridge con ở chung phòng với một anh thợ mộc, người mà con cho là anh có đời sống rất đẹp. Anh không bao giờ nghĩ về mình, mà luôn nghĩ về người khác. Sinh viên tụi con nhiều khi sống cẩu thả, chén đĩa lung tung, đồ ăn vứt bừa bãi. Thấy thế, anh không nói gì. Nhưng khi mọi người ra khỏi phòng ăn, một mình anh đi thu dọn, sắp xếp lại cho ngăn nắp.

Nghe thế, cha đưa cho anh cuốn Thánh Kinh và nói: “Hãy cầm lấy. Nếu anh muốn tìm một đời sống đẹp, anh hãy tìm trong đó.”

... Hai năm sau, người sinh viên Nhật ấy đến gặp cha cười cười nói: “Cha có nhận ra con không”? Cha nói: “Hình như tôi đã gặp anh ở đâu, nhưng không nhớ rõ.”

Anh đưa cuốn Thánh Kinh ra và nói: “Con đã tìm thấy đời sống đẹp. Con đã tìm thấy đời sống đó nơi Đức Kitô.”

4. Mình lừa mình

Hồi học ở Đại chủng viện, cha giáo Phụng vụ có kể cho chúng tôi nghe một câu chuyện có thật:

Một thanh niên bỏ xưng tội rước lễ nhiều năm, vào dịp Mùa Chay ngài khuyên anh ta nên dọn mình xưng tội. Anh nói:

- Con chẳng có tội gì.

Ngài hỏi anh ta có chơi gái hay không? Anh ta trả lời cách tỉnh bơ:

- Thưa cha, chuyện đó là chuyện bình thường.

Ngài nói:

- Anh có biết là tội lỗi điều răn thứ sáu không?

Anh ta cãi lại:

- Sao lại là tội được. Con trả tiền đàng hoàng mà!

5. Sự thật giải thoát

Tạp chí kinh tế Viễn Đông mới đây có ghi lại chuyện tự nộp mình rất đáng khâm phục của một tên cướp như sau: Một đêm nọ, vì quá mỏi mệt với cuộc sống chui lủi, tên cướp khét tiếng đã ra đầu thú.

Trước thái độ hồ nghi của viên công an trực, tên cướp đã chỉ vào vết sẹo để khẳng định rằng, chính mình đã từng bị lực lượng an ninh tầm nã trong mấy tháng qua. Mặc dầu làm thế nhưng viên công an vẫn tiếp tục nghi ngờ, nhất định không cho anh vào khám, còn kẻ cướp thì dứt khoát không chịu bỏ đi.

Phải đợi đến sáng hôm sau, các viên chức công lực mới nhận diện được người mà họ đã truy nã trong mấy tháng qua. Tên cướp cho biết, anh đã kiệt sức vì cuộc chạy trốn. Hằng đêm anh không thể ngủ yên. Dù chỉ là tiếng chó sủa, hay ngay cả tiếng gà gáy cũng làm anh phải giật mình. Bước vào phòng giam, tên cướp nhìn vào viên công an trực của đêm hôm trước với vẻ đắc thắng.

Muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, thì điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về mình.

6. Chỉ muốn bán thịt dê

Đời Chiến Quốc, có vua nước Sở là Chiêu Vương gặp loạn phải trốn ra nước ngoài. Lúc ấy có người hàng thịt dê tên Duyệt chạy theo.

Khi Chiêu Vương trở về lấy lại được lãnh thổ, nhà vua tưởng thưởng cho những người đi theo, trong đó có cả anh hàng thịt dê nữa.

Trong lúc ai cũng vui mừng nhận lãnh, thì anh chàng bán thịt dê lại từ chối. Anh khiêm nhường tâu với vua rằng:

- Khi đức vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê. Nay đức vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là đủ rồi, đâu dám mong thưởng gì hơn nữa.

Chiêu Vương cố ép, người bán hàng thịt dê lại cố từ.

- Đức vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết. Đức vua lấy lại được nước, không phải là do công của tôi, nên tôi không dám nhận phần thưởng.

Chiêu Vương bảo:

- Vậy thì để ta sẽ đến chơi nhà ngươi.

Người hàng thịt dê nói:

- Theo phép nước, người nào có công to thì mới được trọng thưởng, vua mới đến nhà. Nay tôi tự xét mình không đủ trí mưu giữ được nước, không đủ dũng cảm để làm cho giặc phải lui. Quân giặc vào nước, tôi phải lánh nạn chạy theo vua, như vậy đâu phải chủ ý theo vua. Nay vua bỏ phép nước đến nhà tôi, tôi e thiên hạ chê cười chăng?

Chiêu Vương nghe nói, ngoảnh lại bảo quan đại phu Tư Mã Tử Kỳ:

- Anh này tuy làm nghề ti tiện mà giải bày nghĩa lý rất cao. Nhà ngươi làm thế nào mời được anh ta ra nhận chức Tam Công cho ta.

Thấy vậy người bán hàng thịt dê nói:

- Tôi biết chức Tam Công là quý, quý hơn cửa hàng thịt dê, bổng lộc lại nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê, nhưng tôi đâu dám nhận để nhà vua mang tiếng gia ơn không phải nghĩa. Vậy xin cứ cho tôi được giữ nghề cũ.

Nói xong, người bán hàng thịt dê lui ngay.

7. Sự thật giải thoát

Đảng cộng sản vô thần Nga khai sinh tháng 10 năm 1917, nhưng đã tự “thắt cổ” ngày 25 tháng 12 năm 1991, mới thọ được 74 tuổi, chưa tới tuổi hưu (75) đã chết một cách nhục nhã. Sự cố thê lương này đã được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II tiên báo 15 tháng trước đó: Vào tháng 9 năm 1990, dịp Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ tại Pháp, trong một bữa tiệc thân mật, ông André Frossard thuộc Hàn Lâm Viện Pháp đặt câu hỏi với Đức Giáo hoàng:

- Thưa ngài, nếu ngài chỉ muốn dùng một Lời Kinh Thánh để nói với thế giới hôm nay, thì ngài dùng câu nào?

Câu hỏi đó đặt ra thì ai cũng đoán trước thế nào Đức Giáo hoàng cũng lấy Lời Đức Giêsu dạy: “Anh em hãy thương yêu nhau như Thầy yêu thương anh em” (Ga 13, 34).

Thế nhưng Đức Giáo hoàng nói:

- Tôi chỉ muốn nhắc lại với thế giới hôm nay Lời Đức Giêsu đã nói: “Các ngươi sẽ biết Sự Thật (Lời Chúa) và Sự Thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8, 32).

Ngờ đâu vào đúng ngày lễ Chúa Giáng Sinh (25-12-1991), Tổng Bí Thư của Đảng cộng sản quốc tế là ông Gorbachov tuyên bố từ chức và giải tán Đảng. Tức khắc cả khối cộng sản Đông Âu sụp đổ. Đúng như lời Đức Giáo hoàng đã nói: “Sự Thật sẽ giải phóng con người.”

Thật “hạnh phúc thay người thành tâm thiện chí, hằng ấp ủ Lời Chúa trong lòng, nhờ kiên nhẫn mà sinh hoa kết quả” (Lc 8, 15: Tung Hô Tin Mừng), như Lời đã lưu lại trong tâm hồn ông Gorbachov, xứng đáng là môn đệ của Chúa Giêsu.

8. Ơn gọi làm con Thiên Chúa là sự thật

Năm 1970, một câu chuyện làm cho nhiều người tại Saigon chú ý nhất:

Ông Bô-cát-xa là Tổng thống Nam Phi, vào năm 1950 ông là lính đánh thuê của Pháp tại Việt Nam, thời điểm này ông có ăn ở với một phụ nữ và sinh một bé gái, da vừa vàng vừa đen, người ta thường gọi là cô Ba Xí. Sau này thời thế tạo anh hùng, ông được làm Tổng thống, ông nhớ lại tình xưa nghĩa cũ ở VN, ông nhờ Bộ ngoại giao liên lạc với mẹ con cô Ba Xí để ông đón về xum họp. Lúc ấy, có rất nhiều bà dẫn con đến tòa Đại sứ Nam Phi nhận là vợ - con ông Bô-cát-xa. Nhưng nhờ khoa học người ta đã xác định ai là con thật của vị Tổng thống này. Đó là mẹ con bà bán hàng rong bên Khánh Hội. Thế là mẹ con bà từ kiếp sống bần cùng, xã hội không ai quan tâm, nghiễm nhiên trở thành hoàng hậu và công chúa. Khi cô Ba Xí được đón sang Nam Phi, một người giàu có đến cầu hôn, trong đám cưới ấy, VN phải cử đại diện sang chúc mừng.

Truyện này không thể so sánh với chúng ta là phàm nhân tội lỗi lại được Chúa thương cho làm con Thiên Chúa trong Chúa Giêsu, được Cha trên trời là Vua vũ trụ muốn ngỏ lời với ta làm Hiền thê của Con Một Ngài. Ngôn sứ Isaia đã báo trước niềm vui này: “Như trai tài sánh duyên cùng thục nữ, Đấng tác tạo ngươi đã cưới ngươi về, như cô dâu là niềm vui cho chú rể, ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ” (Is 62,4-5). Vì thế mà thánh Phaolô nói: “Tôi đã đính hôn anh em với một người độc nhất là Đức Ki-tô, để tiến dâng anh em cho Người như một trinh nữ thanh khiết” (2Cr 11,2).

9. Chân lý của niềm tin

Một nữ sinh viên gọi mẹ: “Làm sao mẹ có thể chắc là lời Chúa Giêsu là sự thật.” Câu trả lời của mẹ cô làm cô ngạc nhiên: “Con chỉ có thể tin bằng cách sống thực hành. Nếu con sống lời Chúa dạy, lời đó sẽ nói với lòng con và cho con biết lời đó là sự thật.” Người mẹ giải thích: “Chẳng hạn, nếu con tha thứ cho kẻ thù, con sẽ khám phá ra rằng đó là điều con nên làm. Và nếu con không vội xét đoán người khác, con sẽ khám phá ra đó là sự thật cần phải thật hiện.” Câu trả lời đầy ấn tượng của người mẹ trên đây cũng thực sự là ý Chúa Giêsu đưa ra trong bài đọc hôm nay.

Tôi có bao giờ kinh nghiệm lời dạy của Chúa Giêsu là sự thật không? Khi nào? Như thế nào?

Muốn xác tín những chân lý vĩnh cửu, đừng cố đặt thêm ý kiến, nhưng hãy loại ra những đam mê của bạn (Blaise Pascal).

10. Nô lệ cho lòng kiêu ngạo

Charles Colson là phụ tá đắc lực nhất của Nixon. Ông bị bỏ tù vì dính dáng vào vụ Watergate. Sau đó, ông cảm nghiệm một sự biến cố. Ông bị tác động sâu xa bởi đoạn văn trong cuốn: “Kitô giáo thuần khiết” của C.S.Lewis: “Kiêu ngạo là cội rễ của mọi tội lỗi. Đó là tình trạng tinh thần hoàn toàn chống lại Thiên Chúa. Bao lâu bạn còn kiêu ngạo, bấy lâu bạn không thể nhận biết Thiên Chúa. Một người kiêu ngạo luôn coi khinh mọi sự. Chừng nào bạn còn nhìn xuống, bạn không thể thấy được những gì bên trên bạn.” Sau khi đọc đoạn này, Colson nói: “Đột nhiên tôi cảm thấy mình trần trụi và dơ bẩn. Những lời của Colson đang mô tả chính con người tôi.”

Sự thật này đã giải phóng Charles Colson.

Có điều gì trong đời sống của tôi biến tôi thành nô lệ, như sự kiêu ngạo đã nô lệ hóa Colson?

Kiêu ngạo dập tắt mọi năng lực của tình yêu, sự hài lòng và ngay cả lương tri (C.S. Lewis)

11. Không sợ hãi là tự do đích thực

Ngày 31.07.07, báo chí đưa tin: Ahmed Belbacha, tù nhân ở trại giam Guantanamo, xin được ở lại nhà tù thay vì hồi hương về Algeria. Anh sợ rằng khi được tự do, thì mạng sống của mình bị đe doạ. Anh ra khỏi tù, nhưng chưa thật sự tự do, vì con người chỉ tự do thật sự khi không có nỗi sợ hãi nào ám ảnh, cũng chẳng bị giam hãm trong sự mê muội hay nỗi đam mê nào. Người môn đệ Đức Giêsu là người suốt đời học tập Thầy mình -Đấng là Sự Thật- cũng như luôn ở lại trong lời Thầy, suy ngắm sự thật là mạc khải của Ngài về Thiên Chúa và con người. Qua việc đón nhận sự thật, ta “ngộ” được điều gì thật sự là giá trị trong đời, điều gì thứ yếu, để rồi dành mọi nỗ lực sống theo sự thật ấy. Như vậy, sự thật trong mạc khải của Đức Giêsu đưa ta đến tự do thật.

Hãy ở lại trong Lời Chúa Giêsu, bạn sẽ thấy Ngài rất tự do: thắng cám dỗ ma quỷ trong hoang địa, bình tâm trước những ghen tức, chế giễu của các phe nhóm chống đối… Ngài đã sống sự thật “Người Con Một” của Thiên Chúa cho đến chết trên thập giá. Ngài đã phục sinh vinh hiển để tất cả ai tin nơi sự thật mạc khải của Ngài được ơn làm nghĩa tử.

12. Sự thật giải thoát anh em

Một phóng viên đã có lần hỏi Đức Gioan-Phaolô II ngài thích câu nào nhất trong sách Tin Mừng. Người ta cứ ngỡ ngài sẽ trả lời: Anh em hãy yêu thương nhau, hay một câu tương tự. Thế nhưng, Đức Thánh Cha đã trả lời: Sự thật sẽ giải thoát anh em. Vậy thì sự thật nào sẽ giải thoát chúng ta? Thưa, đó là sự thật về Thiên Chúa và sự thật về con người. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu, Đấng yêu thương nhân loại đến nỗi ban Con Một cho thế gian; còn người Con Một, Đức Giêsu Kitô, đã loan báo Tin Mừng về Thiên Chúa, hiến thân chết cho nhân loại, phục sinh để đưa nhân loại đến hạnh phúc muôn đời, và cử Thánh Thần đến hướng dẫn nhân loại đêm ngày. Do đó, sự thật về con người có liên hệ mật thiết với sự thật về Chúa: chúng ta được Chúa yêu thương hơn mức độ mình nghĩ nhiều.

Nhận diện đúng sự thật về mình: được Chúa yêu thương quá cỡ như vậy, bạn đã đáp trả thế nào? hiện nay bạn đang sống trong tình trạng nào trong tương quan với Chúa và anh em?

Mỗi ngày tôi sẽ dành vài phút lượng giá lại những việc tốt, xấu mình làm trong ngày để ngày mai sống đẹp lòng Chúa hơn nữa.

Tôi có bao giờ nhận diện sự thật về mình chưa? Nhận diện rồi, tôi sẽ làm gì để đổi mới?

13. Nô lệ của thời nay

Ngày nay, người ta đang nói đến một tệ nạn nô lệ mới: "nô lệ tình dục (sex slave)". Những cô gái ở các nước nghèo, trong đó có Việt Nam bị bán hay bị dụ dỗ đi bán thân cho người mua vui. Nhiều cô gái còn rất trẻ đã phải đi làm nô lệ tình dục. Các cô gái này không thể tự mình giải thoát được vì thiếu "đô la" chuộc thân. Muốn giải thoát các cô gái này, cha mẹ các cô phải nhờ tới người có lòng bác ái cứu giúp hay phải đi vay mượn tiền. Khi nghe những tin tức như thế ai cũng cảm thấy đau lòng và xót thương cho số phận của họ.

Thế nhưng trong khi tôi tưởng mình đang hạnh phúc được tự do, thì Chúa nói: "Hễ tôi phạm tội thì tôi đang làm nô lệ cho tội". À, thì ra chính mình cũng đang làm nô lệ dưới một hình thức khác. Tội là nhà tù vẫn đang giam cầm, trói buộc tôi. Tôi không thể tự mình cứu thoát mình như những cô gái kia, mà tôi phải nhờ đến "ơn cứu chuộc" của Chúa Giêsu. Chỉ có một Chúa Giêsu mới có thể cứu tôi khỏi tội lỗi và sự chết đời đời. Ngày nào tôi không có "Giêsu" thì tôi vẫn đang làm nộ lệ, ngày nào tôi có "Giêsu" thì chính Ngài giải thoát tôi được tự do. Vì thế, con biết con cần Chúa là vậy. Vì thế, con biết con cần cám ơn Chúa là vậy.

14. Ở lại trong lời

“Nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi!”

Hudson Taylor, ‘một Phaolô của thế kỷ 19’, truyền giáo 51 năm tại Trung Hoa lục địa; ông đem về cho Chúa hàng vạn linh hồn. Những ngày cuối đời, ông nói với một người bạn, “Tôi rất yếu, tôi không thể đọc Thánh Kinh; thậm chí, không thể cầu nguyện. Tôi chỉ có thể nằm yên trong vòng tay Chúa như một em bé, và hạnh phúc ‘ở lại trong lời’ Ngài!”

Lời Chúa hôm nay cho thấy, ‘Ở lại trong lời’ - trải nghiệm của Taylor - cũng là trải nghiệm của những bạn trẻ thời Đaniel hoặc ngay cả trải nghiệm của chính Chúa Giêsu.

THỨ NĂM

Lời Chúa: Ga 8, 51-59

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do-thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết." Người Do-thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: "Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết." Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"

Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Ðấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng."

Người Do-thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi."

Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.

TRUYỆN KỂ

1. Niềm tin và lý trí

Trong cuốn tiểu thuyết được dịch sang tiếng Việt với nhan đề Chàng Hải Âu Kỳ Diệu, tác giả kể về một chàng hải âu kiên cường đã thực hiện được ước mơ lướt cánh tung trời. Chàng bay tới những vùng mà các con chim khác trong bầy chưa bao giờ biết tới. Sau chuyến bay mở rộng chân trời đó, chàng hải âu trở lại với bầy, chàng kể cho bầy chim nghe về những gì mình đã tai nghe mắt thấy. Cả bầy chim từ già đến trẻ đều chế nhạo chàng, họ kết án chàng là con chim khoác lác. Chàng vẫn không nản lòng, cứ tiếp tục nói về vùng trời rộng mở. Có một số chim nghe chàng nói, lòng chợt dậy lên khát vọng bay xa. Họ bắt đầu kiên trì luyện tập để thực hiện ước mơ mà chàng hải âu kỳ diệu đã gợi lên cho họ.

Khi Chúa Giêsu nói với người Do Thái về thế giới của Thiên Chúa, họ đã chế nhạo Người, cho rằng Người bị quỉ ám nên mới ăn nói lung tung như thế. Chúa Giêsu vẫn không nản lòng, và vẫn tiếp tục nói về nguồn gốc thần linh của mình, một lần nữa. Người dùng danh xưng Hằng Hữu để khẳng định rằng mình từ Thiên Chúa mà đến.

2. Xét đoán mù quáng.

Khi mới về xứ Ars chỉ vỏn vẹn 300 người, cha Vianney đã khởi sự xây dựng giáo xứ bằng cầu nguyện, hy sinh, hãm mình. Dần dần giáo dân từ nhiều xứ tuôn đến để nghe Ngài dạy giáo lý và để xưng tội với Ngài.

Các linh mục đồng nghiệp đều biết cha Vianney trước đây rất tầm thường và học hành rất dốt, cho nên vì ghen tương đã trình lên Đức cha địa phận rằng nhiều lần cha Vianney đã giải sai các nguyên tắc thần học luân lý.

Nghe thế, Đức cha cho gọi cha Vianney đến và giao cho cha một số trường hợp tội khó giải để cha giải trên giấy tờ rồi nộp lại cho Đức cha. Vài ngày sau, cha làm xong đem nộp và được các nhà chuyên môn khen là giải đáp đúng và khôn ngoan.

Các linh mục đồng nghiệp của cha Ars đã xét đoán theo tiêu chuẩn tự nhiên của lý trí, cộng thêm lòng ghen tỵ. Những xét đoán sai lầm đó càng làm cho các ngài mù quáng tinh thần nhiều hơn.

3. Dạy bằng đời sống

Ngày nọ, Đức Giám Mục Jonh Selwyn thấy một người con trai người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, Ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trận. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng ra và lặng lẽ bỏ đi.

Nhiều năm sau, một vị truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính Ngài đã dậy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài."

Vâng, John Selwyn đã làm cho một người được biết Chúa không phải do lời ngài giảng, cũng không phải do tài năng của ngài nhưng là do chính cuộc sống của mình. Chính cách cư xử tử tế quảng đại, không oán giận, không trả thù đối với một kẻ đã đánh ngài đã làm cho kẻ đó phải suy nghĩ và rồi cuối cùng ông ta đã trở về với Chúa.

4. Đức tin là hồng ân Chúa ban

Thời Giáo Hội sơ khai, người Rôma thường đem các nghi thức của Giáo Hội ra làm trò đùa, và dĩ nhiên có những người chuyên làm trò cho thiên hạ cười.

Một bữa tối nọ, hoàng đế Dioclétiano đến một quảng trường để tham dự những trò đùa phạm thánh này. Lúc đó có một tên hề nổi tiếng tên là Ghênesiô. Anh đã cùng với các bạn của mình chuẩn bị một nghi lễ rửa tội để trình diễn cho hoàng đế xem. Khi bắt đầu, Ghênesiô hô lớn:

- Hỡi các bạn, xin hãy đến giúp tôi. Tôi muốn trở thành Kitô hữu.

Tức khắc, một tên hề khác mặc phẩm phục linh mục bước ra, và tên thứ ba đem nước đến. Bắt chước công thức quen thuộc của Giáo Hội, họ hỏi Ghênesiô:

- Hỡi Ghênesiô, ngươi muốn xin gì ở chúng tôi ?

Ghênesiô bập bẹ nói: - Thưa xin phép rửa.

Nhưng kìa, khi tên hề Ghênesiô chưa đọc dứt câu, thì bỗng như có sức mạnh vô hình nào đó uốn lưỡi anh, bắt anh phải đọc trọn cả một câu: “Thưa, tôi xin phép rửa để được lãnh nhận ơn của Đức Giêsu Kitô."

Tên hề đóng vai linh mục không chút nghi ngờ, bèn đổ nước trên đầu của Ghênesiô và đọc công thức của bí tích Rửa tội.

Hoàng đế Dioclétiano và cử tọa vỗ tay hoan hô màn kịch. Thế nhưng, tiếng vỗ tay chưa dứt thì Ghênesiô đã đứng lên ra hiệu cho mọi người thinh lặng, rồi trịnh trọng tuyên bố:

- Tâu hoàng đế và quí vị vừa xem tôi. Chúng ta đến đây để cười nhạo những người Kitô hữu bằng những nghi thức phạm thánh của chúng ta, nhưng xin quí vị biết cho rằng: nước vừa đổ trên đầu tôi, đã biến tôi thành một Kitô hữu thực sự. Giờ đây, tôi đã là một tín hữu Kitô, và tôi tin Đức Giêsu Kitô là “Con Thiên Chúa."

Khi Ghênesiô vừa dứt lời thì đám đông nhốn nháo lên. Tức giận, vị hoàng đế ra lệnh trói chân tay Ghênesiô lại cho đánh đòn và phân xẻo thân thể anh. Trong cơn đau đớn cùng cực, Ghênesiô không ngừng lập đi lập lại:

- Tôi là người Kitô hữu, tôi tin Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa độc nhất của chúng ta.

Để cho anh câm miệng, hoàng đế đã ra lệnh chém đầu anh.

5. Sự sống con người có tính đời đời

Mục sư Thomas Dewilt Talmage có một niềm tin mạnh mẽ vào lời hứa của Chúa Giêsu rằng ai tuân giữ lời Ngài sẽ không phải chết. Kết quả là ông đã không bao giờ xóa tên những người đã quá cố trong giáo xứ khỏi sổ sinh tử của giáo xứ. Ông liệt kê họ một cách đơn giản là đã chuyển chỗ ở.

Từ một quan điểm thực tế, đâu là cách thế mà niềm tin vào đời sống vĩnh cửu tác động đến việc giao tiếp hàng ngày của tôi? Nói khác đi, mối quan hệ của tôi với tha nhân khác với một người vô thần tốt lành như thế nào?

Điều người ta tin tưởng có thể bị lung lay, không phải do tín ngưỡng, mà do sự chấp nhận những gì người ta thường làm. (George Bernard Shaw)

6. Mọi người là anh em với nhau

Jimmy Carter là một người kitô hữu sùng đạo đã tổ chức một cuộc gặp gỡ cấp cao ở trại Đavit, nhằm liên kết Anwar Sadat của Ai cập, một người Hồi giáo nhiệt thành, và Menachim Begin của Israel, một người Do thái mộ đạo với nhau. Người Do thái, Kitô giáo và Hồi giáo xem Abraham là tổ phụ trong đức tin. Người Do thái và Kitô giáo truy tổ phụ của họ về Isaac, trong khi người Hồi giáo truy về Ismael. Nếu giao ước của Thiên Chúa với Abraham sinh hoa trái, thì người Do thái, Kitô giáo và Hồi giáo phải bắt đầu đối xử với nhau như anh em, chứ không như kẻ thù.

Tôi hòa hợp lời dạy của Chúa Giêsu với người Do thái và người Hồi giáo như thế nào?

Tôi mong đến ngày tất cả chỉ là một trong Chúa Kitô.

7. Bất tử

“Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”

Năm 125 sau Công Nguyên, Aristides giải thích sự thành công lạ thường của ‘một tôn giáo mới’: “Bất kỳ một Kitô hữu chân chính nào rời khỏi thế giới, họ đều hân hoan dâng lời cảm tạ Chúa; họ mang theo thân xác những ca khúc tạ ơn! Như bất tử, họ đang đi từ một nơi này đến một nơi khác gần đó; một sự dịch chuyển không thể phi thường hơn!”

Lời Chúa hôm nay nói đến sự ‘bất tử’ Aristides đề cập! “Chim sắp chết, chim kêu thống thiết; người sắp chết, người nói lời thiệt!” Biết mình sắp chết, Chúa Giêsu đưa ra một tuyên bố ‘rất thiệt’ về sự ‘bất tử’ của Ngài, “Trước khi có Abraham, thì tôi, Tôi Hằng Hữu!”

Ghi lại lời này của Thầy - “Tôi Hằng Hữu!” - tác giả về lại lời tựa Phúc Âm của mình; ở đó, ‘phượng hoàng Gioan’ chấp cánh bay lên tận mút cùng của tạo thành, “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa; và Ngôi Lời là Thiên Chúa.” Cùng Chúa Cha, Ngôi Lời có trước cả Abraham, trước bất cứ ‘nguyên tổ’ của bất kỳ thọ tạo nào! Tuy nhiên, Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, hạ cố làm người để ở với con người, cứu lấy nó dù vẫn ở với Chúa Cha. Và dẫu đã về trời bên Cha, Ngài vẫn ở với loài người. Đây là sự hiện diện tất yếu của một tình yêu ‘bất tử’ nơi một Thiên Chúa ‘bất tử’, một sự hiện diện ‘bất tử!’.

Chúa Giêsu còn nói, “Ai tuân giữ lời tôi, sẽ không bao giờ phải chết!”  

THỨ SÁU

Lời Chúa: Ga 10, 31-42

Khi ấy, người Do-thái lượm đá để ném Chúa Giêsu. Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?"

Người Do-thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa.”

Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: "Ta đã nói: các ngươi là thần"? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Ðấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng "Ông nói lộng ngôn", vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha.”

Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả.” Và có nhiều kẻ tin Người.

TRUYỆN KỂ

1. Sống theo Chúa.

Có người hỏi chị Lubich: “Làm sao chị có thể theo dõi hàng trăm ngàn người trên thế giới? Làm sao chị có thể hướng dẫn những người theo cùng một linh đạo?” Chị mỉm cười trả lời: “Tôi không theo dõi ai cả. Tôi chỉ theo Chúa từng giây phút và nếu tôi sống theo Chúa thì những người khác sẽ theo tôi.”

Bí quyết sống của chi Lubich thật ra được gợi hứng từ nếp sống của chính Chúa Giêsu. Ngài đã không nói suông, nhưng đã hành động, đã thi ân cho những ai thành tâm, tìm đến với Ngài. Ngài đã sống điều Ngài giảng dạy và luôn sống kết hiệp với Thiên Chúa. Ngài đã như nài nỉ những kẻ không tin Ngài rằng: “Nếu các người không thể tin những lời Ta nói thì ít ra hãy tin những việc Ta làm.”

2. Xem quả mà biết cây

Truyện cha Đắc Lộ: Qua những người dân trong vùng đến làm phu, dựng nhà cho lính tráng và các cung nữ, tiếng đồn có tây dương đạo trưởng đến thuyết pháp được lan truyền ra. Dân chúng đến nghe giảng mỗi ngày một đông, và số người trở lại mỗi ngày một nhiều. Trong hai tháng trời chờ đợi ở An Vực, hai cha đã rửa tội được hơn 200 người.

Người thứ nhất được ơn trở lại là một sư cụ danh tiếng trong vùng. Cụ rất chăm học đạo, hàng ngày luôn ở bên cạnh các cha để nghe giảng giải các mầu nhiệm trong đạo. Không dám phiền cụ, cha Đắc Lộ nhờ một thanh niên biết chữ chép ra chữ Nôm, những kinh cha đọc cho, để những người tân tòng theo đó mà học.

Thấy thế, cụ liền xin cho cụ hân hạnh được làm công việc đó “vì trước kia, cụ đã làm thầy dạy người ta những sự lầm lạc, thì lúc này, cũng xin nhận việc đó để dạy lại người ta những điều chân thật.”

Chưa đủ, nhận thấy gian nhà của hai cha ở chật chội, dân chúng đến nghe giảng phải chen chúc nhau, cụ liền dâng cho hai cha một khu đất bên cạnh, để hai cha làm một nhà thờ rộng rãi và xứng đáng hơn.

3. Người nghèo mau nên giàu có

Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả năm sau mới nhập đạo. Trong một buổi phụng vụ, người da trắng hỏi:

- Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế? Người thổ dân đáp:

- Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình, tự nhủ: áo mình còn đẹp, để mai sau hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm chăn cũ kĩ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn còn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu

4. Tình yêu không điều kiện

Năm 1970, một câu chuyện làm cho nhiều người tại Saigon chú ý nhất:

Nước Cộng hòa Trung Phi được Pháp trao trả độc lập vào ngày 13/8/1960. Đây là một nước nghèo, đất rộng người thưa, tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là các mỏ, quặng kim cương, coban, sắt… với diện tích khoảng 662. 984 km2. Từ khi được Pháp trao trả độc lập, Cộng hòa Trung Phi do Tổng thống D. Đacô lãnh đạo. Năm 1966, trung tá Jean Beldel Bokassa đứng đầu một binh đoàn, dẫn quân về lật đổ Tổng thống D. Đacô để nắm quyền lãnh đạo, tự phong đại tá rồi vọt lên… đại tướng chỉ trong vòng có mấy ngày và lên cầm quyền. Trước khi làm Tổng thống,rồi Hoàng đế nước Trung Phi, Jean Beldel Bokassa đi lính cho Pháp. Trong chiến tranh Thế giới lần thứ II, Bokassa theo đội quân lê dương đi đánh thuê nhiều nước như Ma rốc, Algierie và vào năm 1953 có mặt ở miền Nam Việt Nam. Lúc bấy giờ Bokassa mang cấp bậc trung sĩ nhất, đóng quân tại Chánh Hưng, Sài Gòn.

Thời gian ở Việt Nam, Bokassa có yêu và làm đám cưới với cô Nguyễn Thị Huệ. Việc lấy được một người lính lê dương làm chồng đã giúp bà Huệ có một cuộc sống khá thoải mái. Tuy nhiên, khi Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ, phải ký hiệp định đình chiến ngày 20/7/1954, rồi rút quân đội về nước, thì Bokassa lúc này cũng phải theo đoàn quân thua trận của Pháp lên tàu về nước, để lại cái thai trong bụng bà Huệ, không biết là gái hay trai!

Sau khi chồng về nước, bà Huệ phải một thân một mình tự bươn chải, sống một cuộc sống nghèo khổ. Martine lớn lên cũng chỉ biết mặt bố mình qua một số bức ảnh kỷ niệm mà bà Huệ còn giữ lại. Vào thời điểm ngay trước khi có thông tin Tổng thống Bokassa đi tìm người con rơi ở Sài Gòn thì Martine đang làm… bốc vác cho nhà máy xi măng Hà Tiên, gần Thủ Đức. Những lúc rảnh thì lại đi làm… phu thợ hồ để kiếm thêm thu nhập!

Khi lên làm Hoàng đế Bokassa của nước Trung Phi, và bằng con đường ngoại giao ông nhờ tìm đứa con lạc loài, đã thể hiện tinh thần trách nhiệm, một người đàn ông có đạo đức, khiến cho mọi người xúc động, cảm kích. Lúc ấy, có rất nhiều bà dẫn con đến tòa Đại sứ Trung Phi nhận là vợ - con ông Bokassa. Nhưng nhờ khoa học người ta đã xác định ai là con thật của vị Hoàng đế này. Đó là bà Huệ và cô con gái Martine ở Tân Thuận Đông. Thế là mẹ con bà từ kiếp sống bần cùng, xã hội không ai quan tâm, nghiễm nhiên trở thành hoàng hậu và công chúa. Khi cô Maritne được đón sang Trung Phi, thời gian sau được người giàu có đến cầu hôn, trong đám cưới ấy, Việt Nam phải cử đại diện sang chúc mừng.

Cha trên trời là Vua vũ trụ muốn ngỏ lời với ta làm Hiền thê của Con Một Ngài. Đâu là câu đáp trả của tôi?

5. Dấu chứng đáng tin

Trước đây, công việc phục vụ của các nữ tu tu hội Nữ Tử Bác Ái tại trại cùi Di Linh đã được xã hội tuyên dương qua việc trao tặng huân chương cho nữ tu Mai Thị Mậu. Việc tuyên dương như thế không chỉ có ý nghĩa công nhận sự hiện diện của các nữ tu, và xác nhận tính chất “tử tế” của công việc họ làm hằng ngày giữa những anh chị em đang bị bệnh phong tàn phá.

Họ đã âm thầm phục vụ như thế từ đã lâu vì họ được thôi thúc bởi tình yêu mãnh liệt đối với Thiên Chúa và tha nhân, cách riêng với những anh chị em bất hạnh nhất. Họ đang lặp lại sự chọn lựa của Chúa Giê-su nơi cuộc đời mình: Cùng với Đức Giê-su “làm các việc của Thiên Chúa” để nếu như người đời chưa tin thì ít ra cũng cảm nhận được Ngài qua những “việc-của-Thiên-Chúa” đó.

Hẳn bạn đang tự hỏi đâu là tiêu chí xác định một việc là việc của Thiên Chúa. Gương sống của các nữ tu trên đây minh hoạ cho Lời Chúa và trả lời cho bạn câu hỏi đó: Tình yêu mãnh liệt đối với Chúa và tha nhân đến độ “hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên.” Bạn chỉ trở thành một chứng nhân đáng tin cậy khi bạn làm “việc-của-Thiên-Chúa” theo cũng một tiêu chí đó.

6. Vẻ đẹp và sức mạnh đến từ tình yêu

Trong cuốn tiểu thuyết “Vượt cực” của Edna Ferber có nhân vật Dirk Dejong, một kiến trúc sư trẻ yêu nghệ sĩ Dallas O`Meara. Dallas thích Dirk, nhưng không yêu anh ta. Một hôm, cô nói với anh: “Cuộc đời anh thật suôn sẻ, chẳng bao giờ phải phấn đấu. Tôi chỉ thích những người từng trải.” Dallas giải thích rằng sự phấn đấu đem lại cho người ta một vẻ đẹp phong sương, tỏa ra từ ánh mắt, từ khuôn mặt của họ. Ngôn sứ Giêrêmia cũng có một vẻ đẹp phong sương. Ông đã phấn đấu cả đời, nhưng không hề mất đi niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa.

Ai trong các bạn tôi có vẻ đẹp phong sương? Nó tỏa ra từ họ như thế nào?

Tôi mắc nợ bạn bè, nhưng xét kỹ, tôi nợ kẻ thù nhiều hơn, vì đó là người thực sự mang lại mùa xuân cho cuộc sống bằng sự đắng đót hơn là sự ngọt ngào (Andre Gide).

7. Niềm tin cần việc làm

Sử gia người Anh H.G.Wells không phải là kitô hữu, đã xem Chúa Giêsu như một bậc thầy vĩ đại nhất thế giới. Nhà thần học người Anh C.S.Lewis cho sự đánh giá của Wells vào Chúa Giêsu mâu thuẫn với niềm tin của ông ta vào Chúa Giêsu. Ý của Lewis là bạn không thể mời gọi một người tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa là một bậc thầy vĩ đại nhất thế giới được. Bạn có thể gọi đó là thằng ngốc, thằng khùng, ma quỷ, nhưng không thể gọi là bậc thầy vĩ đại được.

Đề cập đến Chúa Giêsu, Lewis nói: bạn không thể vừa có chiếc bánh lại vừa ăn nó. Bạn chỉ có bốn cách lựa chọn: Chúa Giêsu hoặc là một thằng ngốc đáng thương lại, hay là một người điên cần xa tránh, hoặc tên quỷ phải ném đá, hay một người đáng được ngưỡng mộ.

Tại sao tôi không bao giờ gọi Chúa Giêsu là đồ ngốc, khùng hay ma quỷ?

Khi chúng ta đi hết mọi nẻo đường, chúng ta sẽ đến Điểm Cuối Cùng của mọi con đường, là Đấng đã nói: “Thầy là con đường.” (Thánh Ambrôsiô)

8. Thế gian không hiểu và lên án Chúa Giêsu

Leopol Stokowski đang chỉ huy dàn nhạc giao hưởng Philadelphia. Khúc nhạc dạo đầu dành cho kèn trumpet chơi trong hậu trường. Cả hai lần đến phiên, nhưng tiếng kèn không cất lên nơi hậu trường, Stokowski tái mặt đi. Sau khúc nhạc dạo, ông lao vào hậu trường tìm người thổi trumpet. Anh ta ở đó, hai tay bị bẻ quặt sang hai bên bởi người bảo vệ. Người này nói: “Thằng gàn này cứ đòi thổi kèn trong khi buổi hòa nhạc của ông đang diễn ra.”

Cũng như người bảo vệ đầy nhiệt tình đã làm hỏng công việc của Stakowski, những người thiện chí cũng phá hỏng công việc của Chúa Giêsu. Một cách vô thức, tôi đã làm điều này như thế nào?

Như trời cao vượt trên đất thế nào, đường lối và tư tưởng của Ta cũng vượt trên các ngươi như thế (Is 55,9).

9. Chuẩn mực của Chúa Giêsu

Cả thế giới ngưỡng mộ dân Nhật đang nỗ lực khắc phục hậu quả động đất sóng thần. Người ta mến phục nhất là những người thợ và kỹ sư cứu nguy lò phản ứng hạch nhân ngăn chặn nguy cơ nổ lò và rò rỉ tia phóng xạ ra bên ngoài. Họ là những người anh hùng đầy tinh thần trách nhiệm. Trước thảm họa là khổ đau và tội lỗi, Đức Giêsu đã được Đức Chúa Cha sai đến trần gian làm người cứu chữa và đem lại sự sống mới cho nhân loại. Chúa Giêsu ý thức rất rõ sứ mệnh với tất cả những gì mà Ngài phải gánh chịu Ngài đón nhận với tất cả tâm tình yêu mến, phó thác toàn thân cho Chúa Cha, hoàn toàn để cho Chúa Cha hành động và hoàn tất kế hoạch cứu rỗi của Ngài.

Toàn bộ đời sống trần thế của Chúa Giêsu là hướng về Cha và để chu toàn thánh ý Cha… Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta chia sẻ với Ngài mối thân tình thâm sâu với Cha và công việc mà Cha giao phó.

THỨ BẢY

Lời Chúa: Ga 11, 45-56

Khi ấy, trong những người đến thăm Maria và đã chứng kiến việc Ngài làm, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giêsu. Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm. Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ. Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta.” Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả! Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.” Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân, và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.

Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do-thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do-thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.

TRUYỆN KỂ

1. Chết cho dân được sống

Hồi Đệ nhị thế chiến, một trại tù của Đức Quốc xã có lệnh: “Các tù nhân có nhiệm vụ coi lẫn nhau. Nếu một tù nhân nào trốn trại, thì sẽ có 10 tù nhân khác thế mạng!”

Một buổi sáng kia, khi kiểm điểm các tù nhân, viên cai tù phát giác thiếu một người! Thế là tất cả các tù nhân hôm ấy phải đứng phơi nắng suốt ngày ngoài sân! Mãi đến chiều, người sĩ quan Đức có trách nhiệm nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ, tay chắp sau lưng, bước chân chậm rãi trên đôi giày bốt-đờ-xô nện trên nền đá nghe “cộp, cộp” đến lạnh người! Mắt ông trừng trừng nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh thoảng ông dừng lại chỉ vào một người và buông lời cộc lốc: “Mày!” Cứ như thế ông đã chỉ đến người thứ 9, khi ông dừng lại người tù xấu số thứ 10, thì anh tù bật khóc nức nở kêu than: “Ôi em ơi, các con ơi!” Trong số tù nhân có Linh mục Maximiliano Kolbe liền giơ tay:

- Xin ông cho tôi được chết thay cho người này!

Viên sĩ quan quát:

- Con heo Ba Lan kia, mày có điên không?

Cha Maximiliano Kolbe ôn tồn đáp:

- Thưa không, tôi là Linh mục chỉ có một mình, anh này còn vợ con, cần được sống.

Trước sức mạnh của tình thương, viên sĩ quan đứng lặng người trong giây lát, lạnh lùng buông lời:

- Thuận.

Thế là cả 10 người “được chọn” bị đẩy vào hầm cho chết đói!Trong hầm, cha Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu nguyện, cha đã cảm hóa được 9 người kia xin theo Đạo. Sau một tháng người ta mở cửa ngục ra xem, thấy cha Maximiliano Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy tên cai ngục đã chích cho ngài mũi thuốc độc kết thúc cuộc đời…!

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 14-10-1982. Hôm đó có cả gia đình anh tù được cha Kolbe chết thay cũng có mặt.

Quả thực: “Không có tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình!” (Ga 15,13).

Cha Kolbe đã nối dài và mở rộng Lời Kinh Thánh nói: “Thà một người chịu chết cho mọi người được sống, chứ đừng để mọi người bị tru diệt” (Ga 11,50).

2. Chết thay cho dân

Trong thời thế chiến II, quân đội phát xít Ðức đã chiếm đóng Ba Lan, thấy cha Maximilianô Kolbe có ảnh hưởng mạnh trên quần chúng, nên đã bắt giam cha vào ngục.

Một ngày nọ, trại giam của cha có một tù nhân vượt ngục. Sáng hôm sau, lúc điểm danh viên sĩ quan cai tù phát giác ra thiếu mất một người, viên sĩ quan liền áp dụng ngay luật lệ của phát xít Ðức: “Hễ một tù nhân trốn thoát thì mười tù nhân khác phải đền mạng.” Viên sĩ quan cai tù đang rảo bước gọi tên chọn mười tù nhân sẽ phải chết, chợt có tiếng kêu thất thanh: “Khốn cho tôi, tôi còn vợ và một đàn con nhỏ.”

Giữa bầu khí thinh lặng và rùng rợn ấy, một tù nhân đứng ra khỏi hàng, đứng im một cách nghiêm chỉnh. Viên sĩ quan Ðức quát lớn và hỏi: “Mi là ai?” Người đứng ra khỏi hàng ấy trả lời: “Tôi là Maximilianô Kolbe, linh mục Công giáo.”

“Mi muốn gì?” Cha Maximilianô Kolbe trả lời: “Tôi xin tự nguyện chết thay cho anh bạn tù này.” Viên sĩ quan nói tiếp: “Vào xếp hàng thế chỗ đi.”

Mọi tù nhân có mặt trên sân đều ngơ ngác ngạc nhiên và thán phục. Cha Maximilianô Kolbe đã chấp nhận chết thay cho người bạn tù…

3. Cái giá tình yêu sẵn lòng trả

Một nông dân đi xe ngựa ra phố. Đến một cửa tiệm, ông dừng xe vào mua đồ. Ông vừa tới cửa thì con ngựa hí lên và bỏ chạy. Ông vội vàng chạy ra xiết chặt dây cương.

Con ngựa càng hoảng sợ hơn và chạy tứ tung trên đường, kéo theo người nông dân tội nghiệp. Dân chúng đổ xô ra, đến khi ghìm được ngựa thì người nông dân bê bết máu và thoi thóp thở. Một người hỏi: “Sao mà ông dại dột hy sinh đời mình vì con ngựa và chiếc xe như thế”?

Ông thều thào: “Cứ nhìn vào trong xe thì biết”!

Họ nhìn vào và thấy đứa con nhỏ của ông còn đang ngủ.

4. Chính lúc chết đi là khi được sống muôn đời

Ngày kia giáo trưởng Alihamet dõng dạc tuyên bố với các đệ tử của ông:

- Ta thấy đã đến lúc chúng ta lại phải lên đường. Ta không biết những gì sẽ xảy ra. Các ngươi hãy tuân giữ những điều ta đã truyền dạy. Và các ngươi hãy nhớ kỹ điều này: Trong bất cứ cảnh huống nào, hễ ta giơ tay lên trời thì các ngươi hãy hô lớn: “Tôi chết thay cho thầy tôi!”

Đám môn sinh nhận thấy không thể chấp nhận được một lệnh truyền điên rồ như thế. Tất cả đều rút lui. Chỉ có một người dám chấp nhận và quyết tâm đi theo thầy.

Hai thầy trò lên đường và không biết sẽ đi về đâu. Họ đi mãi cho đến lúc tới một thành phố do một bạo chúa cai trị. Bạo chúa này đã ra lệnh cho binh lính: “Các ngươi phải bắt tên du thủ du thực đầu tiên nào mà các ngươi gặp và điệu tới cho ta. Ta muốn treo cổ hắn để làm một bài học cho bọn vô lại trong thành phố này.”

Thế là, khi vừa đặt chân tới cổng thành, người đệ tử của vị giáo trưởng liền bị lính bắt và điệu tới trước mặt bạo chúa.

Lúc cuộc hành quyết sắp bắt đầu thì vị giáo trưởng mới xuất hiện giữa đám đông và hô lớn:

-Thưa ngài, xin hãy giết tôi. Vì chính tôi đã dụ dỗ người thanh niên này bỏ nhà ra đi để sống cuộc đời lang thang như tôi.

Nói xong, ông giơ tay lên trời.

Vừa thấy cử chỉ ấy của thầy mình, người đệ tử liền hô lên:

- Thưa quan lớn, tôi muốn chết thay cho thầy tôi.

Nghe thế, bạo chúa lấy làm lạ, ông mới hỏi các viên cố vấn:

- Chúng là ai mà lại sẵn sàng chết thay cho nhau như thế ?

Các cận vệ đều ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ bạo chúa đòi điệu giáo trưởng đến và yêu cầu giải thích lý do.

Vị giáo trưởng bình thản trả lời:

- Thưa quan lớn, chúng tôi có nghe nói rằng, bất cứ ai bị giết trong thành phố này đều được phúc trường sinh bất tử. Vì thế mà thầy trò chúng tôi đã hăm hở tới đây để được chết.

Nghe thế, bạo chúa mỉm cười và ra lệnh thả tự do cho hai người. Cũng lúc ấy, người đệ tử chợt hiểu rằng, ai dám hy sinh mạng sống vì người khác thì sẽ tìm lại được.

5. Mẹ chết thay con

Bác sĩ Duan Cortez viết một bức thư cho tờ báo y học Medimundo ở Nam Mỹ.

- Tôi không thể giải thích được hiện tượng này, tôi đã khám nghiệm và tuyên bố đứa bé đã chết, nhưng vài giờ sau em bé này đã sống lại và mẹ em đã chết, cứ như là bà ta đã hút căn bệnh ung thư ra khỏi xác chết của con gái qua cơ thể bà.

Bé Argelina sống ở thành phố Darila, Argelina, đã can đảm chấp nhận chịu đựng chứng bệnh ung thư bao tử hơn hai năm nay (trường hợp ung thư rất hiếm xảy ra cho người dưới 30 tuổi). Sau nhiều cuộc giải phẫu và nhiều cách điều trị với tất cả mọi cố gắng, Bác sĩ Cortez đã phải báo tin buồn cho bà Maria rằng: ông ta đã bó tay và bé Argelina đã chết!

Theo lời Bác sĩ Cortez, bà Maria đã hóa điên cuồng khi nghe tin. Bức thư viết tiếp:

“Bà không cho bất cứ ai đụng đến thi thể con gái, bà chỉ quỳ bên giường đứa bé đã chết và cầu nguyện. Chúng tôi nghe bà cầu nguyện xin Thượng Đế để cho bà chết thay cho con. Tôi nghĩ nên tránh đi một lát để mặc bà một mình với đứa bé đáng thương đó. Tôi bảo các y tá cùng ra khỏi căn phòng với tôi, khi trở lại tôi không tin vào mắt mình nữa: Argelina đang đứng cạnh giường, trông rất rực rỡ và khỏe mạnh. Bà mẹ đang gục đầu trên giường, hầu như không thể cử động! Bà thều thào nói với tôi:

- Thưa Bác sĩ, Thượng Đế đã đáp lại lời cầu nguyện của tôi.

Bác sĩ Cortez nửa kinh ngạc, nửa hoài nghi. Ông cho khám nghiệm bé Argelina và thấy rằng, cô bé hoàn toàn khỏe mạnh, không dấu vết nào của bệnh ung thư còn sót lại trong cơ thể. Một loạt những xét nghiệm tiếp theo, ông thấy bà Maria sắp chết vì chứng bệnh ung thư bao tử mà nó đã giết chết con gái bà. Các thân nhân của bà Maria cũng kinh hoảng, họ đến bên giường để trấn an bà, hứa sẽ nuôi nấng dạy dỗ bé gái nên người. Bà Maria chết sau đó vài giờ.

Bác sĩ Cortez nói:

- Tôi không thể giải thích hiện tượng này trên phương diện y học. Thực sự đây là một phép mầu, vì rõ ràng là bé Argelina đã chết. Có lẽ, tôi chưa hiểu hết sức mạnh của tình mẫu tử hoặc một thế lực siêu-tự-nhiên nào đó!

Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu lời thánh Phanxicô: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Amen.

6. Chết vì yêu dù không được yêu

Lịch sử xưa nay từng ghi nhận nhiều trường hợp người sống phải chết theo người khác vì đạo trung quân như các võ sĩ Nhật, vì nghĩa vợ theo chồng như trường hợp Huyền Trân Công chúa (may mà được cứu sống).

Nếu những cái “chết theo” được đánh giá cao vì lòng trung thành, thì những cái “chết thay” cho người khác chỉ có thể giải thích vì Tình Yêu, như trường hợp cha Maximilian Kolbe chấp nhận chết thay cho một người tù trong trại giam thời Đức quốc xã. Đó chính là khuôn mặt của Đức Giêsu. Đấng vì quá yêu con người, đã chấp nhận lấy cái chết của mình để đền tội cho chính những kẻ thù của mình, để cái chết ấy mang lại sự sống cho người khác.

Không ai có thể yêu người khác, nếu không hề cảm nghiệm mình được yêu. Bước vào Tuần Thánh, bạn hãy chiêm ngắm và cảm nghiệm Tình Yêu của Đức Giêsu dành cho mình, dù chúng ta không đáng được như thế, để có thể dám sống và dấn thân cho Tình Yêu của Ngài.

“Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8)

7. Cùng chết với Chúa

Ngày 8/3/2014, chuyến bay MH 370 của Malaysia Airlines mất tích. Những gì xảy đến cho chiếc MH370 đó vẫn còn là bí ẩn, nhưng hiển nhiên là một hoặc một vài người trong tổ lái đã đóng vai trò định mệnh đối với số phận của 239 sinh linh trên chuyến bay này. Suy rộng ra số phận của nhân loại cũng không khác. Chỉ vì tội của A-đam mà cả nhân loại phải mang án tử. Và nay, qua miệng của giới lãnh đạo Do-thái, Chúa Giêsu cũng đóng vai trò người cơ trưởng trong chuyến bay của nhân loại tiến về cõi sống vĩnh cửu; tuy nhiên khác điều này là Chúa “chịu chết thay cho toàn dân,” và khi sống lại, Ngài “quy tụ con cái Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”, và mối đó chính là hạnh phúc vĩnh cửu bên Thiên Chúa là Cha của Ngài.

Nhờ một người chết đi mà muôn người khỏi phải chết; nhờ một người sống lại muôn người được sống hạnh phúc mãi mãi (Rm 5,15-17).

Tôi quyết tâm đóng đinh những gì thuộc về con người cũ nơi tôi: tội lỗi, tham lam, ích kỷ kiêu căng, giả dối... để sự sống của Chúa Ki-tô ngày càng được hiển hiện nơi tôi.

8. Phẩm giá con người

Một nhà văn bảo rằng: “Biết bao triệu người chết để César có thể trở nên vĩ đại.” Ta cũng có thể nói thêm: biết bao triệu người nằm xuống để bạo chúa Tần Thủy Hoàng dựng lên Vạn Lý Trường Thành; biết bao xương máu đổ ra để vua Tự Đức xây lăng Vạn Niên. Trong lịch sử nhân loại, nhiều người hy sinh để cho một người được thành công, để cho một công trình được hoàn tất.

Với Thiên Chúa thì ngược lại, Con Một của Ngài là Đức Giêsu hy sinh mạng sống để cứu muôn người. Chỉ cần mình Ngài đổ máu ra để tất cả nhân loại nên vĩ đại, để công trình lớn nhất trong lịch sử con người là công trình cứu độ được hoàn tất.

Phẩm giá con người vốn cao quý vì được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh Ngài. Phẩm giá đó càng cao cả hơn nữa là nhờ Chúa Giêsu hiến thân chịu chết trên thập giá ngày nào mà mọi người được mời gọi không phải chỉ sống cho bản thân, mà còn phải sống cho anh chị em chung quanh nữa.

9. Chúa không bỏ rơi dân Chúa

Êdêkiel sống trước Chúa Giêsu sáu thế kỷ. Suốt thời ông, Giêrusalem sụp đổ và dân Chúa bị đày sang Babylon, nơi đó họ phải sống xa nhà và phải chịu một thời kỳ khó khăn thiêng liêng. Nhuệ khí của họ suy giảm và họ bắt đầu tự hỏi liệu họ có mất ơn của Chúa mãi mãi không. Về điểm này, Êdêkiel trấn an họ rằng Thiên Chúa không bỏ rơi họ. Một khi họ thống hối tội lỗi, Ngài sẽ tha thứ và phục hồi cho họ vinh quang trước đây.

Tôi có thể nhớ lại thời kỳ khó khăn thiêng liêng khi đức tin của tôi gặp trở ngại không?

Cho dù vất vả leo đồi, cho dù máu, mồ hôi và bụi bặm, trái tim tôi vẫn hát bài ca tạ ơn, vì đó là những điều làm tôi lớn mạnh.

10. Toát lược chương trình cứu độ

Nhận định của Caipha được coi là câu nói mỉa mai nhất trong Kinh thánh. Điều Caipha nói rất đúng, nhưng theo cách hoàn toàn khác với những gì ông ta thực sự muốn nói. Theo ý ông, thà để Chúa Giêsu phải chết còn hơn là để người La Mã tàn phá đất nước. Nhưng câu nói của ông đúng theo một ý nghĩa sâu xa hơn: nếu Chúa Giêsu không chết, cả nhân loại sẽ bị diệt vong vì tội lỗi.

Tôi đã bao giờ quỳ gối cảm tạ Chúa Giêsu tận thâm tâm vì Ngài đã cứu rỗi tôi không?

Tất cả thần học được rút gọn trong câu nói: Chúa Giêsu đã đến thế gian để cứu rỗi những kẻ tội lỗi (Archibald Alexander).

11. Thế nào là tình yêu?

Trong cuốn sách “Người phụ nữ đáng yêu của tôi”, Eliza Doolittle cảm thấy chán ngấy những lá thư mỗi ngày của Freddy bày tỏ tình yêu của chàng đối với nàng. Trong cơn giận dữ, nàng hát lên bài ca: “Hãy tỏ cho em”, trong đó nàng đã cho thấy đã phát bệnh vì những từ ngữ, những lời nói về những ánh sao bừng sáng trên cao. Eliza hát: “Nếu thực sự có một tình yêu bừng cháy trong tim anh, hãy tỏ ra cho em.”

Chúa Giêsu đã làm mọi cách để bày tỏ tình yêu của Ngài đối với con người. Nhưng nhiều người đã chối bỏ những nỗ lực của Ngài. Kinh nghiệm của Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: Tôi phản ứng ra sao khi người ta chối bỏ tình yêu của tôi đối với họ?

Tình yêu thì kiên nhẫn… Tình yêu không bao giờ buông xuôi… Tình yêu thì bất tận. (1Cr 13,4.7.8).

12. Nên một trong thánh lễ

Đã có 26 nhà truyền giáo Công Giáo bị giết chết trong năm 2011, trong số đó có 18 linh mục, 4 nữ tu và 4 giáo dân. Các nhà truyền giáo này đã can đảm loan báo Tin Mừng qua đời sống phục vụ người nghèo, thăng tiến xã hội trong những hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm. Các ngài phải trả giá bằng cái chết như Thầy mình, để đem lại sự sống cho nhiều người. Đức Giêsu đã vui lòng trao ban sự sống mình, vì biết rằng cái chết của Ngài không chỉ thay cho dân Do Thái mà thôi, nhưng còn có sức qui tụ nhân loại đang bị phân rẽ, chia cắt khắp nơi trên thế giới về một mối. Ngài mong mọi người sẽ qui tụ trong gia đình của Thiên Chúa, nơi mọi chia rẽ, đối nghịch sẽ tiêu tan.

Nhân loại được liên kết thành một mối trong thánh lễ khi họ tham dự vào hiến tế của Đức Giêsu: “Đây là Mình Thầy sẽ bị nộp; đây là Máu Thầy sẽ đổ ra.” Vì thế, ước mong mỗi lần tham dự thánh lễ sẽ giúp bạn thêm ý thức về sự liên đới trong yêu thương giữa những người anh em, chị em trong gia đình của Thiên Chúa.

13. Thầy và trò

Một ngày trước vụ hành quyết Saddam Hussein, Ramsey Clark, một trong những luật sư biện hộ cho cựu tổng thống Iraq, đã cảnh báo: “Hậu quả của vụ hành quyết này sẽ là những cuộc bạo động lớn hơn.” Quả nhiên trong vòng ba tháng sau đó, hầu như ngày nào tin tức từ Iraq cũng tường thuật những vụ đánh bom gây tử vong cho hàng chục người. Cũng trong bối cảnh một án tử hình, Lời Chúa mời gọi chúng ta nhìn cuộc tử nạn của Đức Giêsu dưới một viễn tượng khác. Người chấp nhận một cái chết bất công để đền bù tội lỗi, để xoá bỏ hận thù ghen ghét, và nhất là để đoàn tụ muôn người dưới chân thập giá.

Những người đầu tiên đoàn tụ dưới chân thập giá Đức Ki-tô là ai? Đó là những người đã theo Người, đã sống với Người như người thân thiết nhất. Đó có thể là Si-mong, người đã cộng tác với Đức Giêsu vác thập giá cho đến nơi; đó có thể là người cùng chịu đóng đinh với Chúa, từ trên thập giá của chính mình lên tiếng biện hộ cho Chúa; đó có thể là những người như Ni-cô-đê-mô, có lẽ đang quanh quẩn đâu đó gần thập giá của Đức Giêsu với sự đồng cảm và chọn lựa đứng về phía những người nghèo, bị áp bức bất công.

LỄ THÁNH GIUSE

Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:

Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

TRUYỆN KỂ

1. Thánh Giuse, Người Cha Tuyệt Vời

Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau: Trong gia đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh v.v…

Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.

Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía cô.

Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm này.

Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là cô thoát nạn!

Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.

Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse.

2. Người thợ tuyệt diệu cho mái ấm tình yêu

Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc. Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là Mái Ấm Tình Yêu.

Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền Hình Bình Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất Tiếng Hát.” Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận An.

Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn tay lại thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia đình.

Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.

Không phải chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo dựng một mái ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành “mái nhà” đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.

3. Cha tôi

Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.

“Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’.

Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”

Người con đã có được tình thương đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý giá nhất.

4. Những nụ hôn yêu thương

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không, yêu con mà kết quả lại làm hại con, như câu chuyện dưới đây:

“Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp.

“Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.

“Ông mắng đứa con gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.

Người cha giật thót tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!

Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.”

Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân thành như thế!

5. Con còn tiền lẻ không?

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!… ”

Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên.”

6. Thánh Giuse, Người Chồng Tốt, Người Cha Hiền

Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ về sự trợ giúp của thánh Cả Giuse như sau:

Tại một giáo xứ miền quê, vào một đêm kia, có ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh nhân là một người đàn ông trong làng.

Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục nhanh chóng đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì không có ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn lo cho người bệnh đang hấp hối.

Không kịp tìm hiểu, vị linh mục ban những bí tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người đàn ông ra đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.

Khi xong xuôi mọi việc, vị linh mục đi tìm ông cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ ra một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy khốn. Con tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con trong cơn nguy tử.”

Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình và nhớ lại: ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!

Câu chuyện trên là một lời minh chứng hùng hồn cho thấy: Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho những ai chạy đến với Người. Tất cả những ai đến với thánh Giuse, đều được Người ra tay cứu vớt, phù hộ.

7. Thánh Giuse là con người nhỏ bé được Chúa chọn

Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần.

Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”

Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.

8. Chúa yêu thích sự công chính đạo đức.

Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức”

rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định “Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức.”

Đây là lời của sách Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.

9. Sống đời công chính

Thánh Augustinô nói: “Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”… “Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).

Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.

Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.

Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.

Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.

Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng.

10. Thánh Giuse, quan thầy giáo hội hoàn vũ, giáo hội Việt Nam

Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…

Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse 19.3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền giáo: vào chính ngày nầy, 19.3.1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.

12. Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh

Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh.” Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.

Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 $ một tháng.

Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.

Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…

Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa.

”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)

13. Mối tình của Dolores và Donald

Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood, tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm nay (2023) mẹ Dolores đã 87 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.

Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21, đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã hết lòng yêu Dolores.

Ông Donald là một trong những người thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phới một cách dễ dàng không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu!

Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!

Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ công ích.

Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa: một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.

LỄ TRUYỀN TIN

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo biệt Bà.

TRUYỆN KỂ

1. Khiêm nhường đón nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu.

Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta.” Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn.

Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.” Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế.

Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông.

Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

2. Ơn Chúa cần được cộng tác

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.

Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.

3. Khiêm nhường là sống theo sự thật

Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…

- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.

"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)

"Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)

"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).

Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.

4. Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich

Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.

Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.

Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.

Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền.”

5. Tờ giấy và cây viết

Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.

Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”

Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người.”

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.

Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.

6. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được

Cha Giuse Lê Quang Uy kể: Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: “Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giêsu muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi… Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ… ”

Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ…

Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác…

Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…

Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.

Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những “sứ giả”, những “thiên thần” được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta…

Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền Tin” của Thiên Chúa thông qua một “sứ giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”

7. Câu Thánh Kinh đẹp nhất

Có một bà mẹ đã hỏi đứa con nhỏ của mình như sau:

-Theo ý con, câu nào trong Kinh thánh đã làm cho con thích thú hơncả?

Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình cờ lật phải ngay trang nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt long lanh, đứa bé đã nói với mẹ:

-Thưa má, hai tiếng xin vâng của Đức Maria là hai tiếng đã làm cho con thích thú hơn cả.

Đúng thế, không gì đẹp bằng hai chữ xin vâng trên cặp môi của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng thời, cũng không gì đẹp bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi người chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa được chu toàn.

8. Người mẹ được chọn

Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:

Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.

Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.

Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.

Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.

Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”

Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như qua những lời giáo huấn của Hội Thánh.

9. Món quà tình yêu người mẹ

Có một người con gọi về cho mẹ:

– Alô, Mẹ đó ạ?

– Ừ, con đó hả?

– Dạ…

– Có chuyện gì không con?

– … Dạ, không Mẹ… hôm nay sinh nhật con…

– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.

– Không sao đâu Mẹ ạ. Con… con chỉ muốn nói với Mẹ rằng… hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.

Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ.

10. Mẹ thưa xin vâng để trở nên người mẹ

Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.

Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.

Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.

Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.

Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế.

Lời Chúa Tuần 5 Mùa Chay
Thường niên  V-GS  C-PS  Ngoại lịch