Lời Chúa tuần đầu mùa chay _ gia vị cho Lời Chúa

 

LỜI CHÚA TUẦN ĐẦU MÙA CHAY
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

 

THỨ TƯ LỄ TRO - HOÁN CẢI NỘI TÂM

Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.

Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con."

TRUYỆN KỂ

1. Ăn chay hãm mình đẹp lòng Chúa

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.

Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.

Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

2. Khởi đầu của nghi thức xức tro

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.

Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.

Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi” (St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.

3. Con chỉ nghe.

Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:

- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.

 - Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?

 - Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!

Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:

- Tôi nói, Chúa nghe.

- Chúa nói, tôi nghe.

- Không ai nói, cả hai cùng nghe.

- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệt đối.

4. Ý nghĩa của việc ăn chay

Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:

- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt."

- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.

- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc."

Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái."

5. Cho đi tất cả.

Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:

- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.

Người hành khất đáp:

- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.

Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.

Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần

Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa."

Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.

6. Đừng phô trương

Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và quy tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thấy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi."

Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta”và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.

7. Rượu chè

Khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:

- Ông đang trồng cây gì thế?

- Cây nho.

- Nó có lợi gì không?

- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.

- Vậy thì để tôi giúp ông.

Satan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Noe lấy trái nho làm rượu.

Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; Nếu chưa ngưng mà còn uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu lại uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).

8. Chỗ ở của chuột

Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một toà giải tội. Nhưng chẳng được yên thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi.”

Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm. “Ô thế bạn ở đâu vậy?”- “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo.”

9. Ăn chay

Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Ăn uống là nhu cầu sơ đẳng của con người. Làm chủ được nhu cầu sơ đẳng là bước đầu tiến đến làm chủ bản thân. Chế ngự được cơn đói dẫn ta đến chế ngự dục vọng. Quen nói không với bản năng thấp hèn, ta sẽ biết mạnh dạn từ chối những cám dỗ xấu. Quen tự chế ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Biết từ bỏ ý riêng ta sẽ vươn lên cao trên bậc thang thánh thiện.

Cùng một ngày Darwin sinh ra (12/02/1809), một túp lều không ai biết đến, ở khu rừng rậm thuộc tiểu bang Kentucky, một đứa nhỏ khác cũng cất tiếng chào đời. Cha đứa nhỏ này là lão tiều phu nghèo khó Lincoln, và đứa nhỏ được đặt tên là Abraham. Chính đứa nhỏ này cũng vì khổ cực mà đã cố gắng tự rèn luyện để trở nên người. Nếu Abraham Lincoln sinh vào một gia đình quý phái, được vào học tại Đại học đường Harvard, được hưởng một lạc thú gia đình hoàn toàn, có lẽ ông đã chẳng thốt ra những lời nhiệt thành, tự đáy lòng, khi ông tái cử Tổng Thống Hoa Kỳ: “Tôi sẽ cố không xử ác với bất cứ ai và sẽ đại lượng, bác ái với mọi người."

10. Cầu nguyện

Cầu nguyện là phương thế không thể thiếu cho người muốn nên thánh. Nếu nên thánh là sống thân mật với Chúa thì cầu nguyện giúp ta đạt được điều này. Cầu nguyện càng sâu xa ta càng thân thiết với Chúa. Chúa là nguồn sức mạnh. Ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Chúa là nguồn thánh thiện. Ai thân thiết với Chúa sẽ có tâm hồn nhẹ nhàng siêu thoát mọi dính bén trần tục.

Dale Carnegie thuật lại: “nam tử võ sĩ”Jack Dempsey: không bao giờ quên tụng niệm trước khi ngủ; không bao giờ ăn mà không cám ơn Thượng Đế; trong khi thao luyện chờ lên võ đài, không ngày nào chàng không cầu nguyện và lúc sắp ra đấu, luôn luôn đọc kinh chờ tiếng chuông rung để mở hiệp đấu. Chàng nói: “Cầu nguyện giúp cho tôi có can đảm và tự tin."

“Nam tử”Commie Mark cũng tụng kinh trước khi ngủ.

“Nam tử”Edward R. Steltinus, trước là nhân viên cao cấp của hãng General Motors và hãng United States Steel, lại có lần làm bộ trưởng nữa, nói rằng ông tụng kinh sáng và tối để được sáng suốt trong hành động.

“Nam tử”J. Pierpont Margan, một trong những nhà tài chánh đại tài, buổi chiều thứ bảy thường một mình lại nhà thờ Trinity ở đầu đường Wall Street quỳ gối cầu nguyện.

Khi “Nam tử”Eisenhower bay qua Anh để thống lĩnh liên quân Cường quốc chống Đức, chỉ mang theo một cuốn sách, cuốn Thánh Kinh.

Tưởng Giới Thạch và Đại tướng Montgomery cũng vậy. Nelson trong trận Trafagar cũng vậy. Đại tướng Washington, Robert E. Lee, Stonewall Jackson và cả chục quân nhân có danh tiếng khác cũng vậy, cũng vậy hết.

Tụng niệm tức là cầu ở Thượng Đế nguồn khí lực vô biên để tăng khí lực của ta… Nhờ vậy, tinh thần lẫn cơ thể của ta được trong sạch, mạnh mẽ hơn. Chẳng có người nào, đàn ông hay đàn bà, dù chỉ tụng niệm có một lát, mà không được kết quả tốt."

Mẹ Têrêsa nói: "Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.

11. Ăn chay bằng việc xây dựng hòa bình

Ngày 22/01/2008, O-mar O-sa-ma Bin La-den, người con trai thứ tư của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den đã nhắn tin yêu cầu cha hãy chấm dứt bạo động mà ông là người xướng xuất. Loại bạo động của Al-Qaeda là thực hiện hàng loạt vụ khủng bố trên khắp thế giới. Các vụ khủng bố này đã giết chết rất nhiều thường dân vô tội, bao gồm cả trận tấn công nổi tiếng ngày 11-9-2001 bằng việc cướp phi cơ và buộc phi công lái đâm vào toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Hoa Kỳ.

O-mar nói rõ: “Bom là không tốt để sử dụng với bất cứ ai. Cha hãy thay đổi cách hành động." Ðó chính là thông điệp mà con trai của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den muốn gửi đến cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này tiếp tục nhuốm máu người dân vô tội. Anh muốn cha anh hãy cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá làm người.

12. Đại gia không tiền

Một ngày nọ, có người đàn ông chạy đến trước mặt lão hòa thượng, vừa khóc vừa kể lể: “Thưa ngài, vì sao con làm việc gì cũng đều không thành? Số con thật khổ!”

Lão hòa thượng điềm tĩnh trả lời anh rằng: “Đó là vì con không học được cách bố thí mà thôi.”

Người đàn ông nước mắt giàn giụa, nói: “Nhưng thưa ngài, con chỉ là một kẻ nghèo đói, ngày ăn không đủ bữa, lấy gì để bố thí đây ạ!”

Lão hòa thượng nghe xong, mỉm cười hiền từ nói với anh ta rằng: “Không phải thế! Này con, một người dù chẳng giàu sang, không tiền bạc, dù nghèo khổ mấy cũng vẫn có thể cho người khác được 7 thứ này. Để ta giảng cho con nghe. Đó là:

Thứ nhất, bố thí bằng vẻ mặt. Con có thể tặng người khác vẻ mặt tươi cười, niềm nở.

Thứ hai, bố thí bằng lời nói. Con có thể cho người khác những lời cổ vũ, an ủi, động viên, lời khiêm tốn và lời ấm áp.

Thứ ba, bố thí bằng tấm lòng. Con hãy mở rộng lòng mình và đối xử chân thành với người khác.

Thứ tư, bố thí bằng ánh mắt. Con hãy dùng ánh mắt trìu mến, cái nhìn thiện lương dành tặng mỗi người mà con gặp trên đường đời.

Thứ năm, bố thí bằng hành động. Con hãy thật lòng giúp đỡ người khác, làm điều tốt cho người.

Thứ sáu, bố thí bằng chỗ ngồi. Khi đi xe hay thuyền, có thể đem chỗ ngồi của mình tặng cho người khác.

Thứ bảy, bố thí bằng nơi ở. Con có thể đem phòng trống, không sử dụng để cho người khác nghỉ nhờ một đêm.

Dù giàu hay nghèo, bất luận là ai, chỉ cần học được 7 loại bố thí ấy thì cuộc đời của con sẽ mãi ngập tràn hạnh phúc, có đâu còn đau khổ, buồn bực nữa đây con của ta!"

Người đàn ông nghe xong chợt như bừng tỉnh cơn mê, cúi rạp người xuống, run rẩy nói: “Thưa đại sư, giờ thì con đã hiểu. Trên đời, người cho đi nhiều nhất chính là người hạnh phúc nhất!”

13. Hoán cải

Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.

Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:

- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.

Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:

- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.

- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.

14. Cầu nguyện với hãm mình

Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.

Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:

- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.

Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.

15. Lỗi tại tôi

Vua Hoàn công nước Tề đi săn, đuổi con hươu chạy vào trong một cái hang, thấy có một ông lão bèn hỏi rằng: “Hang này tên gọi là hang gì?” Ông lão thưa: “Tên là hang Ngu công”

- Tại sao mà đặt tên như thế?

- Tại kẻ hạ thần đây mới thành có tên ấy

- Coi hình dáng lão không phải là ngu, sao lại đặt cái tên như thế?

- Hạ thần xin nói: Nguyên hạ thần có con bò cái đẻ được một con. Khi bò con đã lớn, hạ thần đem đi bán, rồi lấy tiền mua một con ngựa con đem về cùng nuôi với bò cái. Một hôm có một chàng thiếu niên đến, lấy lý ‘bò không đẻ ra ngựa được’ bèn bắt con ngựa con đem đi. Hạ thần chịu mất, không cãi được. Vì thế xa gần đâu cũng cho hạ thần là ngu, mới gọi hang hạ thần ở đây là hang Ngu công.

Hoàn công nói: “Lão thế thì ngu thật."

Chiều hôm sau, Hoàn công đem câu chuyện kể lại cho Quản Trọng nghe. Quản Trọng nói: “Đó chính là cái ngu của Di Ngô này. Nếu được vua giỏi như vua Nghiêu, bầy tôi minh như Cao Dao, thì khi nào lại có kẻ dám ngỗ ngược, lấy không ngựa của người ta như vậy. Ngu công mà đành để mất ngựa, chắc là biết rõ hình pháp ngày nay không ra gì. Xin nhà vua kíp chỉnh đốn các chính sự lại."

Đức Khổng nghe thấy, nói: “Đệ tử ta đâu, ghi lấy việc ấy. Hoàn công là bá quân, Quản Trọng là hiền thần. Tuy đã vào bậc khôn ngoan, mà còn tự cho là ngu dại.” (Khổng tử tập ngữ)

Quản Trọng tuy sống cách đây đã nhiều ngàn năm mà vẫn còn được ca tụng, chính là vì Quản Trọng biết nhận tội.

Dale Carnegie có viết: “Trì trích, cáo trách người, buộc lỗi cho người thì kẻ điên nào cũng biết, nhưng hiểu người và tha thứ cho người thì đòi hỏi phải có một tâm hồn cao cả, một sức tự chủ mạnh mẽ”

Nhân dịp khai mạc Năm Thánh 2010, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã gửi Giáo hội Việt Nam một sứ điệp (17/11/2009) có những lời nhắn nhủ quí giá: “Năm Thánh là một thời điểm chứa chan ân sủng, thuận lợi cho việc hòa giải với Thiên Chúa và anh em đồng loại. Trong ý tưởng đó, chúng ta (GHVN) nên nhìn nhận những sai lỗi chúng ta đã phạm trong quá khứ và hiện tại, đối với anh em đồng đạo và đồng bào, và xin mọi người tha thứ …”

16. Tha thứ là công trình của Thiên Chúa

Trong Thế chiến thứ nhất, có một nữ hộ tá người Anh tên là Edith Cavell. Chị bị quân Đức bắt và bị buộc tội chứa chấp, chạy chữa, và nuôi một số lính Anh, Pháp tại nhà chị ở Bruxelles và giúp họ trốn sang Hòa Lan. Ngày 12.12.1915, chị bình tĩnh đứng trước đội lính hành hình của Đức như một nữ thần.

Buổi sáng ngày chịu hành hình, một mục sư người Anh bước vào phòng giam của chị, chị đã thốt ra câu nói mà người ta sau này khắc vào pho tượng đá của chị, câu nói chị để lại cho mọi người: “Bây giờ tôi mới biết, tôi phải bỏ hết oán hận, hết ý nghĩ chua chát với bất cứ ai, thì tâm hồn tôi mới được thư thái trước khi chết.”

Một trong những ngọn núi đẹp nhất Mỹ châu ở Canada đã được đặt bằng tên của chị: Edith Cavell.

Edith Cavell đã tìm gặp được hạnh phúc thật khi thoát khỏi sự điều khiển của cái tôi vị kỷ, mà để chính Chúa điều khiển cuộc đời mình, để Chúa thần linh hóa một chút bụi tro trong chị.

Đó cũng là công trình chúng ta bắt đầu hôm nay.

17. Đất sét thơm hương hoa hồng

Chuyện ngụ ngôn về miếng đất sét kể: Có người tình cờ nhặt được miếng đất sét có màu sắc và hương thơm của hoa hồng. Vô cùng kinh ngạc, ông ta hỏi:

- Đất sét ơi, hãy nói cho ta biết mi là gì, một viên ngọc đáng giá, là viên kim cương quý hiếm hay viên đá kỳ diệu nhất trên đời?

Đất sét trả lời:

- Tôi chỉ là miếng đất sét tầm thường như bạn bè của tôi.

- Thế sao mi có hương thơm và vẻ đẹp kỳ diệu như vậy?

- Tôi sẽ nói cho ông biết điều bí mật đó: Vì tôi sống gần một bông hồng.

Con người cũng là nắm đất sét được Thiên Chúa chạm đến, nên trở nên cao quí nhờ thấm đẫm tình thương và ân huệ của Người. Sách Sáng Thế viết: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật.”

18. Khiêm nhường để được bình an

Dag Hammarskjold làm Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1953 cho đến năm 1961 khi ông bị chết trong một tai nạn máy bay. Trong nhật ký của ông được tìm thấy trong căn hộ của ông sau khi ông chết, có lời dẫn nhập như sau: “Bất an, bất an, bất an - tại sao? Vì quan tâm đến những ý nghĩ tốt của người khác… bạn đã hạ thấp mình để tò mò muốn biết kết quả những gì mình đã làm.” Rồi ông viết thêm: “Cầu chúc cho sự bất an của bạn, vì đó là dấu chứng tỏ sự sống vẫn tồn tại trong bạn.”

Tôi bị điều khiển nhiều tới độ nào bởi khát vọng được người khác nhìn nhận và kính trọng?

Lạy Chúa, xin giúp con đừng bao giờ thực hiện lẽ phải vì một động lực không đúng đắn.

19. Biết Đức kitô

Mặc dù rất đau khổ khi nghe tin cậu con trai yêu quí Jacques vừa tử trận, nữ bá tước Littry vẫn không quên việc phục vụ các bệnh nhân trong bệnh viện do bà sáng lập năm 1870 ở thung lũng Marne, xứ Eperny.

Một hôm, người ta chở đến bệnh viện một thương binh người Đức. Dù anh ta là đồng đội của những người đã làm con mình chết, bà vẫn vui vẻ tiếp nhận và săn sóc. Nhưng thật bất ngờ là trong đồ đạc của anh ta bà đã bắt gặp chiếc ví và đồng hồ của con trai mình.

Ai có thể diễn tả được tâm trạng đau đớn của một người mẹ khi gặp kẻ giết chết người con thân yêu của mình. May thay! một mảnh giấy trong cái ví của Jacques rơi xuống. Bà cúi xuống nhặt lên. Những nét chữ thân quen như mang theo cả giọng nói của người con thân yêu mới qua đời vừa an ủi vừa thêm sức mạnh cho bà: “… Mẹ yêu quí, con luôn nhớ đến mẹ và cầu nguyện cho mẹ. Nếu chẳng may con bị tử trận, xin mẹ đừng quá bi lụy, nhưng hãy can đảm, quảng đại chịu đau khổ để cầu nguyện cho con …”

Thế là bà lại cúi xuống tiếp tục săn sóc anh lính Đức, dù rất đau lòng.

Không ai mà không có những cảm nghiệm đau đớn về một sự mất mát. Mỗi cái mất có một nỗi đau riêng: Ai cũng thấy cảm thương và đau xót cho các nạn nhân của một thiên tai hay một cuộc khủng bố nào đó; nhưng có sự khác biệt đáng kể giữa nỗi đau nơi một người xem tin thế giới và nỗi đau nơi thân nhân của một nạn nhân. Nỗi đau này thực sự chạm đến và làm thay đổi cuộc sống của họ; nỗi đau không để cho họ ngồi yên.

Khi đến để cứu độ con người, Đức Kitô chỉ có một công việc là nói cho mọi người về Thiên Chúa, vì ơn cứu độ được bắt đầu khi người ta biết Chúa. Khi biết Chúa, người ta biết được tình yêu, và thấy được hạnh phúc thật của mình: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa."

20. Để tình yêu Chúa điều khiển

Cuộc đời thánh Têrêxa Hài đồng Giêsu rất bình dị nhưng cũng rất vĩ đại, nhiều đau khổ nhưng tất cả đều mang lại hạnh phúc, vì ngài đã hoàn toàn để tình yêu Chúa hướng dẫn và nâng đỡ, như lời ngài kể lại:

“Một lần tại nhà giặt, con ngồi giặt ở đằng trước một chị. Chị này giặt khăn tay, chốc chốc lại làm bắn nước bẩn vào con. Thoạt đầu, con muốn lùi ngay ra lau mặt cho chị ấy biết để giúp con một điều là đừng làm bắn nước bẩn vào con nữa. Nhưng nghĩ lại, con thấy thế là dại, vì bỏ mất những hạt ngọc người ta tặng mình một cách rất đại lượng, và con đã thôi không tỏ vẻ khó chịu gì hết. Hơn nữa con lại cố nén mình để ước ao nước bẩn ấy bắn lên con nhiều hơn. Qua nửa giờ, con đã cảm thấy sự vui thú được vấy nước bẩn. Con định bụng hễ sau này có dịp, lại đến chốn đất lành ấy để làm giàu một cách không mấy khó khăn.”

Thập giá là tình yêu hiến mạng vì người mình yêu, tình yêu tác sinh, tình yêu giải thoát. Đấng Cứu Chuộc tôi đã không ngần ngại vác lấy nó. Tại sao tôi lại ngại ngần?

21. Cầu nguyện khi bình yên

Có câu chuyện về một đại úy hải quân, khi về hưu làm thuyền trưởng trên một chiếc tầu đưa khách đến đảo Shetland tham quan trong ngày. Trong một chuyến đi chơi, tầu chở toàn thanh niên. Họ cười nhạo ông đại úy gìa khi thấy ông này cầu nguyện trước lúc ra khơi, bởi vì đó là một ngày trời đẹp và biển êm.

Nhưng biển không êm lâu khi một trận cuồng phong bất ngờ thổi tới và chiếc tầu bắt đầu chồm lên chồm xuống dữ dội. Các hành khách hoảng sợ chạy đến ông đại úy thuyền trưởng để yêu cầu ông cùng cầu nguyện với họ. Nhưng ông đáp: “Tôi đã cầu nguyện lúc trời êm bể lặng. Khi sóng gió nổi lên, tôi phải lo cho con tầu của tôi."

Đó là một bài học cho chúng ta. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn tìm đến Thiên Chúa trong những lúc yên tĩnh của đời mình thì chúng ta có lẽ sẽ không tìm thấy Người khi cơn rối loạn chụp xuống. Có lẽ chúng ta hoảng sợ nhiều hơn. Nhưng nếu chúng ta đã biết tìm đến Người và phó thác nơi Người trong những lúc bình yên thì hầu như chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy Người khi sóng gió nổi lên.

 22. Đừng khua chiêng đánh trống

Cuốn phim “Những người thợ chạm khắc đá” đoạt được giải Hàn lâm viện năm 1984 cho bộ phim tài liệu hay nhất với chủ đề ngắn. Bộ phim mô tả một nhóm nghệ nhân đã dành nhiều năm để khắc chạm đồ tranh trí cho nhà thờ chánh tòa ở Washington. Các sử gia kể lại rằng những thợ khắc đá của ngôi thành đường danh tiếng thời Trung cổ đã không bao giờ ký tên dưới những tác phẩm của họ. Họ thích làm việc một cách âm thầm vì danh dự và vinh quang của Thiên Chúa.

Câu chuyện những người thợ chạm khắc đá và lời nói của Chúa Giêsu về việc đừng nên khoe khoang việc mình làm mời gọi tôi kiểm điểm động lực thúc đẩy tôi làm việc hoặc cho đi một cái gì đó.

Những điều duy nhất ta còn giữ lại được là những gì ta cho đi.

THỨ NĂM SAU LỄ TRO - THEO CHÚA GIÊSU

Lời Chúa: Lc 9, 22-25

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Con Người phải đau khổ nhiều, bị các vị Kỳ lão, các Thượng tế, và các Luật sĩ khai trừ và giết chết, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống lại."

Chúa nói với mọi người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Vì chưng, ai muốn giữ mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống vì Ta, sẽ được sống. Vậy nếu con người được lời lãi cả thế gian, mà phải thiệt mất mạng sống, thì được ích gì?”

TRUYỆN KỂ

1. Lời ca của đức tin

Một số nhà truyền giáo đến thăm M. Gandhi, vị lãnh đạo phong trào giải phóng Ấn Độ khỏi thực dân Anh bằng phương pháp bất bạo động. Ông đề nghị các ngài hát một bài thánh ca.

“Bài nào?"

“Bài nào mà quý vị thấy là diễn tả đức tin sâu sắc nhất."

Tất cả đồng thanh hát bài Suy tôn Thánh giá.

2. Mất để được

Trần Bình, vốn là một mưu thần của nhà Hán, thời Hán Sở tranh hùng. Một hôm, khi trốn Sở về đầu Hán, Trần Bình phải đi qua một con sông lớn. Người lái đò đưa khách qua lại vốn là một tay cướp giật, giết người khét tiếng. Hắn nghĩ Trần Bình là người giầu có, định ra tay hãm hại để trấn lột tiền của.

Biết ý định của tên lái đò, trước khi xuống thuyền, Trần Bình đã cởi bỏ hết quần áo, mình trần như nhộng, và đến xin tên lái đò cho chèo phụ giúp hắn. Nghĩ rằng một người trần truồng như thế không phải là một người giầu có, tên lái đò để yên cho Trần Bình. Thế là ông đã thoát nạn.

3. Cách vác Thập giá cho đỡ nặng.

John Newton đã đề nghị chúng ta cách vác thập giá cho có hiệu quả: Chúng ta biết rằng những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi.

Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi.

Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của ngày hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi.

4. Nhờ đau khổ mà thoát nạn

Người ta kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn. Lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết ngồi chờ thần chết đến.

Lũ khỉ qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau lấy đá, lấy đất và bẻ cành cây ném xuống đầu con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây vứt xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra ngoài hố được.

5. Cây thập giá ưng ý nhất

Có một người kia được Chúa cho vác một cây thập giá. Nhưng anh ta không chịu nổi, anh đến xin Chúa cho đổi cây thập giá khác. Chúa bằng lòng: “Ngoài nghĩa địa có vô số thập giá đủ loại. Con cứ ra đó muốn chọn cây nào tuỳ thích."

Dưới ánh trăng mờ trên nghĩa địa, anh ta đã thở phào nhẹ nhõm vất cây thập giá của mình và loay hoay chọn cây khác. Nhưng anh tìm mãi vẫn không được: cây thì quá dài, cây thì quá ngắn, có cây nhẹ nhàng nhưng sù sì khó vác, có cây trơn tru nhưng nặng quá... Và rồi đêm nào cũng thế… cho đến một lần kia anh tìm được cây thập giá vừa ý nhất, nhẹ nhàng và êm ái nhất, vác về nhà.

Nhưng ôi khi nhìn kỹ lại thì ra đó chính là cây thập giá đầu tiên mà Chúa đã trao cho anh ngày nào!

6. Lời lãi cả thế gian mà mất thiên đàng nào có ích gì

Một hôm, thánh nữ Têrêsa Avila được Thiên Chúa cho thấy Thiên Đàng lâu bằng đọc một kinh Kính Mừng. Thị kiến này làm cho thánh nữ vô cùng hoan hỷ. Kể từ đó, mọi lạc thú trên trần gian không còn ý nghĩa đối với mẹ nữa. Mẹ viết: “Trí khôn nhân loại không thể tưởng tượng ra được điều gì gần giống với vinh quang Thiên Đàng. Mặt Trời chỉ là u tối so với sự sáng nơi các thánh đang yên nghỉ.

Một hôm, đang lúc tôi lên cơn đau quá mức, có một bà sang trọng muốn an ủi tôi. Bà đem đồ nữ trang của bà đến cho tôi xem, đặc biệt là viên kim cương quí báu mà bà hết sức trân trọng. Thái độ của bà làm tôi cảm động, nhưng rồi tôi lại thương cho bà, vì tôi thấy nó không là gì so với điều tôi đã chứng kiến. Nếu cho tôi chọn: Một đàng là phải chịu đau khổ cho đến tận thế để được thêm một chút vinh quang trên trời, và đàng khác là không phải đau đớn nhọc nhằn gì, nhưng phải chịu mất đi một phần nhỏ vinh sáng trên trời, thì chắc chắn tôi sẽ chọn ngay con đường khổ đau hôm nay, nghĩa là tôi sẽ sẵn sàng bỏ tất cả mọi sự, bỏ cả mạng sống tôi để theo Chúa."

Chúa còn nói “Người nào được lời lãi cả thế gian mà mất chính mình hay là thiệt thân, thì có ích gì?” (câu 25). Thánh Ignatiô đã lặp đi lặp lại mãi bên tai Phanxicô Xaviê câu này. Cuối cùng, Phanxicô Xaviê đã hoán cải. Hôm nay, chúng ta cũng hãy lặp đi lặp lại câu này nhiều lần. Hy vọng Chúa sẽ giúp chúng ta hoán cải như Phanxicô Xaviê.

7. Để tâm hồn được tư do hơn

Một lần kia, có một người đàn bà giàu có người Hindou đến thăm mẹ Têrêsa. Bà ta nói với mẹ:

- Thưa mẹ, con ước ao được chia sẻ với mẹ và cộng tác với mẹ trong các hoạt động từ thiện.

- Tốt lắm! - Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.

Rồi bà ta thú thực với mẹ là bà ta có một điểm yếu rất khó bỏ, đó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xa-ri, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc một bộ áo xa-ri giá trị 65 đô-la, trong khi chiếc áo xa-ri của mẹ Têrêsa đang mặc chỉ trị giá 65 xu, chưa đầy một đô-la. Như được ơn trên soi sáng, mẹ Têrêsa bỗng nảy ra được tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:

- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ áo xa-ri giá 65 hoặc 100 đô-la, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đô-la thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari khác dành cho người nghèo khó.

Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của mẹ. Dần dần bà ấy cũng đã biết dùng những bộ áo xa-ri rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà cũng đã thú nhận với mẹ Têrêsa rằng:

- Thưa mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng và vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng, chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn thứ con cho đi và chia sẻ với anh chị em nghèo khổ!

8. Được hết mọi sự mà đánh mất chính mình

Bộ phim “Tiếp cận” nói về một người đàn ông có mọi của cải vật chất như ông có thể muốn và mơ ước. Nhưng cuộc đời của ông lại ở trong tình trạng bi đát: Ông bị suy sụp về tinh thần. Bộ phim kết thúc với cảnh ông ta đứng trên đỉnh tòa nhà chọc trời do ông sở hữu, nhìn xuống ánh sáng của thành phố Los Angeles lấp lánh ở phía dưới. Rồi đột nhiên màn ảnh hiện lên những lời Chúa Giêsu: “Người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình, thì nào có lợi gì?”

Bộ phim trên có thể đưa ra sứ điệp gì ở giai đoạn hiện tại của đời tôi? Tôi có thể thuộc lòng sứ điệp đó không?

Tôi không thể đo lường của cải bằng cách liệt kê những gì tôi có trong ngân hàng. Tiêu chuẩn hoàn chỉnh nhất, đó là liệt kê những gì tôi có trong tâm hồn.

9. Câu trả lời hay cho câu hỏi không thể tránh né

Đôi khi các phóng viên truyền hình đặt ra những câu hỏi thiếu tế nhị đối với những người đang phải chịu thảm kịch trong đời. Chẳng hạn John Cogan, một nạn nhân ung thư được hỏi: “Ông cảm thấy thế nào khi sắp chết?”, John đã làm phóng viên ngạc nhiên khi trả lời: “Có một niềm vui sâu kín trong tôi, nhưng tôi không sao diễn tả được. Tôi cảm thấy hoàn toàn tự do. Tôi muốn giang rộng đôi tay ôm cả vũ trụ này.” Thảm kịch đã đặt ra trước mắt John Cogan một chọn lựa giữa sự sống và sự chết theo đúng nghĩa của từ ngữ. Ông đã chọn sự sống – sự sống vĩnh cửu.

Khi thảm kịch tấn công tôi, cái gì ngăn cản tôi ôm lấy nó như một cơ hội chọn lựa sự sống theo đúng nghĩa của từ ngữ?

Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta. (Rm8,18)

10. Chọn lựa của mọi chọn lựa

Mihailo Jihajlov là một tù nhân chính trị người Nam Tư. Trong cuốn sách “Những ghi chép dưới lòng đất” ông thuật lại rằng khi các tù nhân bị buộc phải chọn lựa giữa sự cứu rỗi linh hồn và thể xác, những người chọn linh hồn cảm ngiệm được an bình, thanh thản và mạnh mẽ. Còn những người chọn thân xác thì kết thúc bằng việc mất cả hồn lẫn xác.

Những lời nói của Jihajlov mời gọi tôi nhớ lại thời gian tôi cảm ngiệm được an bình thanh thản và mạnh mẽ sau khi có một quyết định khiến tâm hồn phải đau đớn.

Biết việc sắp phải làm là khôn ngoan.
Biết phải làm thế nào là khéo léo.
Và nhân đức là làm việc ấy. (Thomas Jefferson)

THỨ SÁU SAU LỄ TRO - Ý NGHĨA CỦA VIỆC ĂN CHAY

Lời Chúa: Mt 9, 14-15

Khi ấy, Chúa Giêsu sang miền Gêsarênô, các môn đệ Gioan đến gặp Người mà hỏi: “Tại sao chúng tôi và những người biệt phái thì giữ chay, còn môn đệ của Ngài lại không?”

Chúa Giêsu nói với họ: “Làm sao các khách dự tiệc cưới có thể buồn rầu khi tân lang đang còn ở với họ? Rồi sẽ có ngày tân lang ra đi, bấy giờ họ mới giữ chay."

TRUYỆN KỂ

1. Để hết tâm hồn vào đó

Bên Trung quốc, có một nhà điêu khắc được giao cho thực hiện một cái giá treo chuông bằng gỗ quí. Sau khi hoàn thành công việc, mọi người nhìn ngắm đề khen ngợi và cho đó là kỳ công của bậc thần thánh. Ngày nọ, vị công tước đã mướn nhà điêu khắc thực hiện công việc này cho gọi đến và hỏi:

- Nhà ngươi có bí quyết nào mà hoàn thành một kiệt tác như thế?

Nhà điêu khắc trả lời:

- Tôi chỉ là một thợ thủ công và chẳng có bí quyết nào cả. Công việc diễn ra rất đơn giản: khi bắt đầu nghĩ đến công việc được giao, tôi tập trung tư tưởng vào đó, tôi đã giữ chay để tâm hồn được lắng dịu, quên đi tất cả những lời khen chê, có thể nói, mọi sự được tốt đẹp là do tinh thần tập trung của tôi được huấn luyện nhờ việc giữ chay nghiêm ngặt, để chỉ chú ý vào đối tượng duy nhất là cái giá chuông mà thôi.

Chay tịnh là khám phá hình ảnh Thiên Chúa trong chúng ta và trong lòng mọi người, ngõ hầu cuộc sống đức tin chúng ta là một công trình ngày càng tỏ lộ và chúng ta có khả năng yêu mến hình ảnh Thiên Chúa nơi người khác.

2. Để nên một với Thiên Chúa

Tại Giáo phận Taytay – Philippines, có một thầy ẩn sĩ tu rừng. Thày từ bỏ thế giới náo động, nhộn nhịp bên ngoài để vào rừng sâu ăn chay, cầu nguyện và sống thân tình với Thiên Chúa.

Thi thoảng, mỗi dịp lễ lớn, thày thường đi bộ trên đôi chân trần, không giày, không dép, đi hàng chục kilômét để về nhà thờ chính tòa hiệp thông cùng Giáo Hội. Trông thấy thày, ai cũng thấy toát ra một vẻ hồn nhiên, thánh thiện, thanh thoát, vui tươi và bình an.

Có lẽ vì nơi thày có được vẻ đẹp của Tin Mừng và đời sống chay tịnh cũng như cầu nguyện thường xuyên, nên nhìn mọi người, mọi vật dưới con mắt của Chúa!

3. Bàn tay khác nhau

Cha Ira Gillett, nhà truyền giáo ở miền Tây Phi Châu, kể rằng: những người dân bản địa thường đi bộ những đoạn đường dài, qua bệnh viện nhà nước để đến bệnh viện của các nhà truyền giáo chữa trị. Khi được hỏi tại sao mà phải vất vả như thế, trong khi ở bệnh viện nhà nước cũng có những y sĩ giỏi, họ đáp: “Các y sĩ có thể tài năng như nhau, nhưng bàn tay khác nhau!"

Thật thế, khác ở tấm lòng…

4. Tội lỗi gặp tình yêu

Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.

Ngày ngày, các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều cho mỗi người.

Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi. Một người thì lại ốm o, buồn phiền.

Cả hai người được đưa đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, để xem họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không.

Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã Suy Niệm về những gì.

Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp:

- Trong suốt năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội tôi đã phạm. Từng giây, từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.

Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau:

- Suốt một năm qua, từng giây, từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.

Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi, vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa.

5. Lý do cho việc ăn chay

Người Do Thái có ba lý do ăn chay:

1) bắt buộc (vào ngày lễ đền tội);

2) tự nguyện (vào dịp lễ chung, như để cầu mưa);

3) riêng tư (vì lòng đạo đức, như nhóm Pharisêu hai lần/tuần).

Trước sự chất vấn của các môn đệ Gioan, Đức Giêsu mở ra một cái nhìn mới về việc ăn chay: Ngài đặt việc ăn chay trong mối tương quan với sự hiện diện của Ngài. Ngày nào “chàng rể” Giêsu đang ở giữa tiệc cưới, đồng hành với các môn đệ là bạn hữu chàng rể, thì họ sống trong niềm vui, không thể ăn chay được. Chỉ khi chàng rể bị đem đi, nghĩa là trong cuộc Khổ Nạn, họ mới ăn chay trong sự thiếu vắng, khắc khoải và mong ước được gặp lại Thầy mình.

Tiệc cưới mà Đức Giêsu nói với chúng ta chính là Nước Trời đã khai mở qua con người của Ngài.

6. Ăn chay như Chúa muốn

Trong mục quảng cáo đặc biệt của cuốn danh bạ điện thoại Illinois mô tả một lữ quán dành cho súc vật như sau: “Căn phòng sang trọng với hệ thống FM. Phòng khách lịch sự. Được chăm sóc phục vụ tận tình bởi những người có kinh nghiệm." Khi tính hài hước ban đầu giảm đi, chúng ta dần dần nhận ra rằng chúng ta quan tâm săn sóc đến súc vật hơn là những người nghèo. Đây là thói quen xấu được Thiên Chúa nói với dân Israel trong bài đọc hôm nay:

"Gục đầu như bông sậy, mặc áo thô, nằm trên đống tro, có phải đó là ăn chay, là ngày làm cho Chúa hài lòng không? Nào ăn chay như Ta mong muốn không phải như thế này sao, là huỷ bỏ xiềng xích bất công, tháo gỡ ách nặng, trả tự do cho kẻ bị áp bức, dẹp bỏ mọi gánh nặng; hãy chia cơm bánh cho kẻ đói, tiếp rước những kẻ phiêu bạt không nhà; nếu ngươi gặp một người trần truồng, hãy cho họ áo mặc, ngươi đừng khinh bỉ người cùng xác thịt như mình."

Điều gì tôi có thể làm trong Mùa Chay để có thể tiếp cận hình thức ăn chay Thiên Chúa muốn?

Một xã hội tự do không thể giúp đỡ nhiều người nghèo, nó cũng không thể cứu số ít người giàu. (John F.Kennedy)

7. Khi chàng rể còn ở với họ

Một tuần sau lễ cưới thời xưa, những đôi hôn nhân Do thái được bạn bè, láng giềng, họ hàng đối xử như vua và nữ hoàng. Việc ăn chay lúc này là không hợp lý. Chúa Giêsu so sánh sự hiện diện của Ngài giữa các môn đệ với khoảng thời gian đại tiệc vui vẻ này. Ngược lại, mùa chay tập trung vào sự kiện Chúa Giêsu bị đem đi khỏi chúng ta. Đó chính là thời gian ăn chay Chúa Giêsu nói đến trong bài đọc hôm nay. Đó là khoảng thời gian “chuẩn bị” cho việc Ngài trở về trong vinh quang vào cuối đời.

Tôi có thể ăn chay để tránh một số điều gì trong thời gian này?

Kiêng bớt chỉ trích… kiêng bớt phật lòng… kiêng bớt sợ hãi. (Arthur Lichtenberger)

8. Biết mình để thắng mình

Sự nguy hiểm của tội lỗi không phải ở chỗ tôi đã phạm tội này hay tôi đang phạm tội kia, mà là:

- Tôi không nghĩ là có tội

- Tôi không biết là có tội

- Tôi không sợ là có tội

- Tôi không nhìn ra hậu quả của tội.

Muốn thắng trận, trước hết phải tôi biết mình, biết địch; muốn nhổ hết cỏ thì phải nhổ cỏ tận gốc. Muốn nhổ cỏ phải biết phân biệt đâu là lúa, đâu là cỏ. Cũng thế, muốn từ bỏ, diệt trừ tội lỗi phải biết tội lỗi của mình, nhận ra những tội nào mình đang vấp phạm. Khi đã nhận ra tội rồi, thì bước kế tiếp là tìm ra nguồn gốc, nguyên nhân của tội lỗi. Muốn từ bỏ tội lỗi thì chẳng có gì hữu hiệu cho bằng loại bỏ nguyên nhân của nó. Thí dụ, nếu tôi biết mình hay nói xấu người khác trên điện thoại, thì hãy bớt nói chuyện trên điện thoại hay biết cúp điện thoại đúng lúc và nếu can đảm thì... không dùng diện thoại nữa. Nếu tội của tôi xuất phát từ say rượu thì bớt đi việc nhậu nhoẹt, bớt uống rượu, và nếu can đảm hơn... bỏ rượu. Nếu tội của tôi đến từ việc "chat" trên internet, liên lạc email, thì tôi không vào "chát" nữa, không liên lạc email nữa.

Khi tôi chặt bỏ được nguyên nhân, gốc rễ sinh ra tội, thì tội... không còn đất để sống nữa. Lẽ dĩ nhiên, mọi sự đều phải nhờ vào cầu nguyện và sức mạnh của Chúa. Không có Chúa, tôi và bạn không diệt được tội.

THỨ BẢY SAU LỄ TRO - TIN MỪNG CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT

Lời Chúa: Lc 5, 27-32

Khi ấy, Chúa Giêsu trông thấy một người quan thuế tên là Lêvi đang ngồi ở bàn thu thuế, Ngài bảo ông: “Hãy đi theo Ta." Ông liền bỏ mọi sự đứng dậy theo Người. Lêvi đã dọn một bữa tiệc linh đình thết đãi Người tại nhà ông. Có đông người thu thuế và nhiều người khác cùng ngồi ăn với các ngài.

Những người biệt phái và các luật sĩ của họ lẩm bẩm với các môn đệ của Người rằng: “Sao các người lại ăn uống với những người thu thuế và tội lỗi như vậy?” Chúa Giêsu trả lời họ rằng: “Những ai mạnh khoẻ không cần tới thầy thuốc, chỉ những người đau yếu mới cần thôi. Ta đến không phải để kêu mời người công chính, nhưng để gọi kẻ tội lỗi ăn năn hối cải."

TRUYỆN KỂ

1. Lượng giá tấm lòng

Vua thánh Louis IX của Pháp nổi tiếng là khôn ngoan, ứng biến tài tình.

Có một nông dân nọ được mùa củ cải. Để đánh dấu thành công, ông chọn củ cải lớn nhất trong vụ mùa và đem dâng kính Đức vua. Ông đến cung điện và xếp vào hàng những người ngày ngày đến dâng tặng vật cho đức vua. Ai cũng mang đến một lễ vật cao quí và cũng chuẩn bị xin vua một đặc ân.

Người nông dân nghèo trái lại chỉ có một tâm tình duy nhất, là nói lên niềm vui được trúng mùa của mình. Mọi người không ngờ rằng đây là tặng vật đã làm vua hài lòng nhất.

Nhà vua sai các cận vệ đem đến một cái cân và truyền lệnh hãy cân số lượng vàng bằng củ cải này và trao cho người nông dân. Hành động này của vua đã khơi dậy lòng ham muốn của các đình thần. Một tuần sau, một nịnh thần giầu có lựa con ngựa đẹp nhất đem tặng vua với hy vọng được tưởng thưởng. Thế nhưng, khi đón nhận con ngựa, nhà vua cám ơn và truyền cho các cận vệ: “Các khanh hãy mang tặng người này một củ cải, đó là phần thưởng dành cho những người suốt ngày chỉ biết nói những lời xu nịnh và chờ chực đặc ân."

2. Gặp gỡ và biến đổi

Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế, mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:

- Đúng, anh ta nhập đạo thật.

- Sao anh biết?

- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với quy cách ta đặt, không thiếu nữa.

Người nào tiếp nhận Đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.

3. Tình yêu Chúa luôn chờ đợi

Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Hãy xuống những con đường tồi tàn này." Tác phẩm thuật lại viêc ông cải tà qui chính từ một người bị kết án tù vì nghiện ma túy và cố tình giết người, cuối cùng đã sám hối để trở thành một tín hữu Kitô gương mẫu.

Một đêm kia, Piri đang nằm trong phòng giam chuẩn bị ngủ. Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng tai hại xấu xa mà anh đã gây ra trong đời mình. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt cần phải cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm chung với một tù nhân khác tên là Chicô. Nên anh phải đợi cho Chicô ngủ đã, anh mới quì gối trên sàn nhà và cầu nguyện. Anh kể lại rằng: ”Tôi bầy tỏ với Chuá những gì có trong trái tim tôi... Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi, những hy vọng và thất vọng... Tôi cảm thấy dường như có thể khóc được... đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm được."

Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói đáp lại: ”Amen." Đó là tiếng của Chicô. Rồi Chicô nói nhỏ với Piri: ”Tôi cũng tin Chúa." Thế là hai người bạn tù dốc cạn quá khứ tội lỗi xấu xa và cùng chia sẻ quyết tâm sám hối trở về. Không biết họ đã tâm sự với nhau bao lâu, nhưng trước khi đi ngủ lại, Piri đã nói: ”Chúc Chicô ngủ ngon nhé! Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không ở với Ngài thôi."

4. Biết mình

Nhà truyền giáo giảng đạo giữa rừng già Phi châu, dưới ánh trăng đêm và trong hoang lạnh của núi rừng. Ngài kể về đời sống và các phép lạ của Chúa Giêsu, cuối cùng là cái chết trên thánh giá. Ngồi trước bục giảng là viên tù trưởng. Ông chăm chú nghe lời nhà truyền giáo.

Khi ngài tả việc Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thánh giá, vị tù trưởng bổng đứng phắt dậy nói: ”Ngừng lại! Hãy đem Ngài xuống khỏi thánh giá! Tôi mới là người đáng phải đóng đinh trên đó, chứ không phải Ngài!”

Vị tù trưởng nghĩ rằng mình mới là tội nhân, còn Chúa Giêsu vô tội.

5. Yêu thương và nhẫn nại đợi chờ

Ngày 17/7/1990, cả thế giới thương tiếc vì sự ra đi của bà Peggy Mann. Bà đã an bình ra đi để lại bao luyến nhớ cho gia đình cũng như cho nhiều người trên toàn thế giới. Lý do vì bà là một người đã có những cống hiến và những hoạt động không biết mệt mỏi cho việc chống ma túy. Bà đã mang lại rất nhiều lợi ích cho nhiều người. Trước khi nhắm mắt từ giã cõi đời, nhìn thấy bên giường có chồng và con gái thân yêu, bà đã thầm nói với người con gái: “Mẹ mãn nguyện, con gái của mẹ, về những bài mẹ viết để chống lại ma túy." Kéo ông đến gần hơn, bà nói rất rõ bằng một giọng xúc động: “Em yêu anh biết bao!” Đó là câu nói cuối cùng của bà.

Sau khi bà Peggy nằm xuống, con gái bà là cô Jenifer Mann đã kể lại câu chuyện sau đây, một mặt như bổ sung vào công trình của mẹ một phương pháp nữa trong nỗ lực đẩy lùi tệ nạn nghiện ngập ma túy, và mặt khác cũng để cho mọi người biết, nguyên nhân nào đã thúc đẩy và tạo quyết tâm cho bà, để bà nỗ lực làm việc không biết mệt mỏi chống lại với ma túy để bảo vệ gia đình.

Cô nói “Khi mẹ tôi biết tôi dùng ma túy, bà rất khổ tâm nhưng chưa vội nói gì. Từ hôm ấy, bà bắt đầu đọc các sách báo nói về ma túy để tìm hiểu tính chất độc hại và các hậu quả mà ma túy gây ra. Bà đọc một cách cặn kẽ, chính xác và đầy đủ. Hai tuần sau, mẹ tôi gọi tôi lại và nói:

- Mẹ biết là con không muốn mẹ giảng giải dài dòng về tác hại của ma túy. Thôi thì từ nay mỗi tối, khi nghe đồng hồ đổ “binh binh” báo hiệu giờ đi ngủ, mẹ sẽ nói cho con biết một điều rất ngắn về ma túy thôi.

Tôi không phản đối gì. Đêm đầu, khi đồng hồ đổ “binh binh”, mẹ tôi nói: “Con có biết không, chỉ hút 3 điếu thuốc có ma túy là làm hại phổi bằng 20 điếu thuốc lá bình thường không?" Đêm thứ hai: “binh binh” “Con có biết là hút ma túy liên tục thì hệ thống miễn nhiễm trong cơ thể bị hủy hoại không?" Đêm thứ ba “binh binh”, “Con có biết ma túy có hại đến đời sống tính dục, làm phụ nữ có thể sinh ra quái thai không?” Tất cả những điều mẹ tôi nói đều rất chính xác và có những số liệu chứng minh rõ ràng. Bà nói với tôi bằng một giọng thật bình tĩnh và tràn đầy yêu thương với mong ước cho tôi hiểu tác hại khôn lường của ma túy và can đảm đứng lên làm lại cuộc đời.

Một đêm, tôi ngồi trên giường, hai tay ôm đầu suy nghĩ. Lòng tôi dâng tràn tình yêu dành cho mẹ, Tôi khóc và chạy sang phòng bà. Hình như đêm đêm bà đều chờ đợi tôi như vậy. Tôi ngã vào vòng tay mẹ tôi trong dòng nước mắt và lời nói nghẹn ngào, tôi thì thầm trên ngực bà: “Con nhất định từ bỏ ma túy." Hai tay bà nâng mặt tôi lên và nhìn thẳng vào mắt tôi. Tôi thấy nụ cười rạng rỡ, ánh mắt vui mừng của mẹ và cả hai hàng nước mắt đầm đìa trên má. Bà ôm chặt tôi vào lòng và khẽ nói vào tai tôi: “Ôi! Con yêu.... con yêu." Và từ giây phút đó cuộc đời tôi hoàn toàn đổi khác.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ lòng bao dung của Chúa. Xin cho chúng con một quả tim rộng lớn bao dung, để chúng con cũng biết tha thứ và cảm thông với mọi người. Amen.

6. Sống vị tha hữu ích cho mình nhiều nhất

Linda một bệnh nhân trong một bệnh viện tâm thần, cô không tin vào Thiên Chúa cũng không tin vào tương lai. Một hôm, cô đáp ứng dấu hiệu này: “Người tình nguyện giúp người luống tuổi." Linda nói sau đó: “Tôi không biết vì sao tôi đã đáp trả lời mời gọi đó." Nhờ phục vụ những người luống khổ, không những niềm tin vào Thiên Chúa, mà niềm tin vào tương lai của cô đã được phục hồi. Cô nói: “Mỗi ngày trôi qua… đánh thức một cái gì đó trong tôi."

Tại sao khi giơ tay giúp đỡ người khác, rốt cuộc chính tôi được giúp đỡ nhiều hơn?

Khi đưa người khác ra khỏi hố phiền toái, tôi tìm được chỗ để chôn chính phiền toái của tôi.

7. Người được Chúa mong đợi

Một tội nhân ở nhà tù Kentucky gửi một lời cầu nguyện đầy cảm động do anh viết đến bản tin nội bộ Dòng Tên. Một phần của lời cầu nguyện như sau: “Lạy Cha trên trời, con đến với Ngài trong tư cách một người đau khổ và không trung thực. Con đến với Ngài từ nhà tù, từ nơi được gọi là chỗ chết để xin Ngài thương xót linh hồn sa lầy tội lỗi của tội nhân. Xin Ngài lau khô nước mắt, chúc lành và lắng nghe tiếng rên xiết của một con người khủng khiếp." (Jack Joe Holland)

Chính nhờ những người thành thật và hối cải như Jack Joe mà Chúa Giêsu đã đến.

Điều gì ngăn cản tôi không viết ra lời cầu nguyện từ sâu thẳm tâm can như Jack Joe đã viết?

Chẳng vị thánh nào không có quá khứ, và chẳng tội nhân nào không có tương lai.

8. Sự sống trở nên mạnh mẽ trong thời gian chờ chết

Một tội nhân ở nhà tù Kentucky gửi một lời cầu nguyện đầy cảm động do anh viết đến bản tin nội bộ Dòng Tên. Một phần của lời cầu nguyện như sau: “Lạy Cha trên trời, con đến với Ngài trong tư cách một người đau khổ và không trung thực. Con đến với Ngài từ nhà tù, từ nơi được gọi là chỗ chết để xin Ngài thương xót linh hồn sa lầy tội lỗi của tội nhân. Xin Ngài lau khô nước mắt, chúc lành và lắng nghe tiếng rên xiết của một con người khủng khiếp." (Jack Joe Holland)

Chính nhờ những người thành thật và hối cải như Jack Joe mà Chúa Giêsu đã đến.

Điều gì ngăn cản tôi không viết ra lời cầu nguyện từ sâu thẳm tâm can như Jack Joe đã viết?

Chẳng vị thánh nào không có quá khứ, và chẳng tội nhân nào không có tương lai.

Lời Chúa Đầu Mùa Chay
Thường niên V GS C PS Ngoại lịch

Lời Chúa Đầu Mùa Chay
Thường niên V GS C PS Ngoại lịch