CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: G 7,1-4.6-7; 1Cr
9,16-19.22-23; Mc 1,29-39
12. Đức
Giêsu rao giảng và trừ quỉ
17. Cầu
nguyện trong đời thường
30. Cúi
xuống với người khổ đau
33. Tiếp
xúc với Cha trên trời
38. Con
người luôn cần Thiên Chúa
52. Niềm
vui vì được chữa lành
81. Cầu
nguyện trong đời thường
82. Kiếp
sau xin chớ làm người
1.Chiều và sáng
(Trích
trong ‘Manna’ – Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Sốt không phải là một bệnh nan y. Nhưng người bị sốt cao
không dậy nổi, chỉ nằm thôi. Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến thăm nhà ông Simon
thì bà mẹ vợ ông đang sốt, nằm trên giường. Đức Giêsu đem niềm vui đến cho gia
đình ông. Ngài lại gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cơn sốt lui ngay
khiến bà có thể đi lại phục vụ.
Một cơn bệnh đơn giản, một cách chữa bệnh đơn giản.
Đức Giêsu chẳng nói một lời, chỉ làm một cử chĩ thân ái.
Ngài cầm lấy tay bà và nâng dậy, như sau này Ngài cầm tay đứa con ông trưởng
hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (x. Mc 5,41), như
sau này Ngài cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu
đứng lên (x. Mc 9,27).
Cầm tay, nâng dậy, để một người nằm có thể đứng lên. Sức
sống nào truyền qua cử chỉ cầm tay ấy? Quyền năng nào nâng con người chỗi dậy? Chúng
ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi, cần được Chúa đưa tay ra nắm
lấy khi gần chìm như Phêrô.
Khi mặt trời lặn là lúc kết thúc ngày sabát. Người ta đem
đến cho Đức Giêsu bao người yếu đau đủ loại. Căn nhà ông Simon hẹp quá khiến
nhiều người phải đứng ngoài. Không rõ bao nhiêu người được chữa lành chiều tối
hôm đó. Nhiều người đã có thể tự về nhà một mình... Đức Giêsu đụng chạm đến
biển khổ của nhân loại. Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong
cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa. Thế giới hôm nay vẫn phải đối đầu với
bệnh tật. Những bệnh nan y như ung thư, tim mạch, sida (aids), siêu vi... Cần
có những người làm vơi nhẹ nỗi đau như Đức Giêsu.
Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Đức Giêsu.
Sau một ngày bận bịu và mệt mỏi, Đức Giêsu đã thức dậy
sớm, khi các môn đệ còn ngủ say. Ngài tìm được một chỗ cầu nguyện khá kín đáo. Ngài
cần có thời gian rút lui, sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha, tâm sự
về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống
Satan. Đức Giêsu thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và
nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cần gặp Cha vì Ngài là Con, và vì Ngài được
Cha sai.
Ngài sống hết mình cho con người, cho đám đông, nhưng
Ngài cũng say sưa cầu nguyện và hoạt động. Cầu nguyện đưa Ngài đến với con
người, hoạt động đưa Ngài đến với Cha. Thành công ở Caphácnaum không làm Ngài
dừng chân.
"Mọi người đang tìm Thầy", mọi người vẫn cần
Thầy. Nhưng Ngài biết còn nhiều chỗ khác cũng đang rất cần. "Hãy đi nơi
khác", Tin Mừng cần được gieo vãi ở mọi nơi. Giữ được tính tự do và cơ
động, Đức Giêsu lại lên đường.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Theo ý bạn, thế nào là một đời sống quân bình? Cần hội đủ những
yếu tố nào để được coi là một đời sống Kitô hữu quân bình?
·
Mẹ Têrêxa Calcutta đã trở nên khuôn mặt rạng ngời của lòng bác
ái, nhờ khả năng nhìn thấy Chúa Kitô nơi người nghèo khổ. Bạn thường làm gì để
giúp đỡ những người cùng khốn ở gần nhà bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích
sự thinh lặng,
xin dạy chúng con thinh lặng để
ở một mình với Ngài,
trò chuyện, lắng nghe và thấm
nhuần Lời Hằng Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng
nơi con mắt,
biết nhắm lại trước những vấp
váp của tha nhân,
biết quay đi truớc những dịp
tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng
nơi đôi tai,
để nghe được tiếng kêu của người
nghèo đói,
để khép lại trước những mời mọc
của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng
nơi miệng lưỡi,
để biết ca tụng Chúa và đem lại
an vui cho muôn người,
tránh mọi lời nói gây đớn đau,
đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng
nơi trí khôn,
để mở ra trước sự thật và khép
lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con
thinh lặng nơi quả tim,
để tránh xa mọi ích kỷ, thù
hằn, ghen ghét,
để yêu mến và ước ao Thiên Chúa
trên mọi sự. Amen.
(theo
Mẹ Têrêxa Calcutta)
2. Bà phục vụ các ngài
(Suy
niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy niệm:
Sau khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum,
Đức Giêsu trở về một căn nhà của một gia đình quen biết, gia đình của hai anh
Simon và Anrê, những người mới bỏ nhà để theo ngài. Không may bà mẹ vợ của
Simon lại đang lên cơn sốt. Đức Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà
và nâng bà dậy. Lập tức cơn sốt lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài. Đây là phép
lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm, nhưng
cũng đủ để làm người bệnh không hoạt động được, gây cản trở những sinh hoạt
bình thường trong gia đình. Đức Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức
sống. Khi người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại. Bếp lại có lửa, bàn
lại có thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả. Hạnh phúc gia đình có
khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé. Hạnh phúc bị sứt mẻ lắm khi chỉ vì
những chuyện không đâu.
Hãy nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này.
Thật gần gũi và thân tình, ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt. Khi nắm tay
người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế. Nhưng Đức Giêsu chẳng
hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an. Ngài đã nâng bà dậy (êgeiren),
có nghĩa là ngài làm bà phục sinh. Sau khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các
vị khách. Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn. Các thiên
thần cũng đã phục vụ Đức Giê su sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1, 13).
Tuy nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều. Sau
khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng. “Họ đã đi
theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê và họ đã cùng ngài lên
Giêrusalem” (Mc 15, 40-41). Như vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người
phục vụ (Mc 10, 43). Các bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng, phục vụ như
Thầy Giêsu, Đấng đã đến để phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin cho mọi người biết nhìn nhận vai trò quý báu của
người vợ, người mẹ trong nhà, và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng
như ngoài xã hội.
Cầu nguyện:
Giữa một thế giới đề cao quyền
lực và lợi nhuận,
xin dạy con biết phục vụ âm
thầm.
Giữa một thế giới say mê thống
trị và chiếm đoạt,
xin dạy con biết yêu thương tự
hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái
chia rẽ,
xin dạy con biết cộng tác và
đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào
kỳ thị,
xin dạy con biết coi mọi người
như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu
tinh ròng,
xin cho các Kitô hữu chúng con
trở thành tình yêu
cho trái tim khô cằn của thế
giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như
Ngài,
biết sống nhờ và sống cho tha
nhân,
biết quảng đại cho đi
và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
xin cho chúng con tin vào sự
hiện diện của Chúa
ở sâu thẳm lòng chúng con,
và trong lòng từng con người bé
nhỏ.
3. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy
niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.)
Suy Niệm:
Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối bài tuần trước, cho
ta thấy Đức Giêsu đã sống một ngày sabát như thế nào. Ngài đã đến hội đường
Caphácnaum, đọc Sách Thánh. Bỗng nhiên có chuyện xảy ra (Mc 1,23-27). Một người
bị thần ô uế nhập, la to trong hội đường. Đức Giêsu quát mắng nó và bắt nó phải
xuất ra. Nó vâng lời nhưng đã thét lên một tiếng lớn trước khi xuất.
Chuyện ồn ào náo động xảy ra ở đây là chuyện bất ngờ, bất
ngờ với mọi người, và cả với Đức Giêsu. Khi việc phục vụ ở hội đường đã hoàn
tất, Đức Giêsu và bốn anh môn đệ ngư phủ về lại nhà của Simôn. Có lẽ mọi người
chờ một bữa cơm trưa. Tiếc thay bà mẹ vợ của Simôn lại đang sốt, nằm trên
giường.
Sau khi nghe về tình trạng sức khỏe của bà, Đức Giêsu quyết
định làm phép lạ chữa bệnh đầu tiên. Ngài lại gần, chẳng nói gì, chỉ cầm lấy
tay bà và nâng dậy. Lạ thay, cơn sốt lui đi, bà khỏe lại và lo dọn bữa cho cả
nhóm. Chữa bệnh cho bà mẹ vợ ông Simôn cũng là chuyện bất ngờ, nằm ngoài dự
kiến của Thầy Giêsu.
Thầy có biết rằng khi ngày sabát đã kết thúc thì có cả
một đoàn người chờ đợi Thầy ngoài cửa không? Họ đau đủ thứ bệnh tật, họ bị hành
hạ bởi quỷ ô uế. Họ cần một người chữa lành, cần một người trừ quỷ. Họ từ nhiều
nơi kéo đến vì đã nghe danh Thầy. Thầy Giêsu hẳn đã phục vụ họ từ khi mặt trời
lặn đến khuya. Nhưng số người chờ đợi vẫn còn nhiều, mà sức thì có hạn. Trước
mắt Thầy là cả một thế giới khổ đau mênh mông đến độ Thầy cảm thấy bất ngờ và
quá tải.
Có ai nâng đỡ Thầy trong sứ vụ này không? Đức Giêsu không
chỉ bị bất ngờ bởi những chuyện xảy ra, Ngài còn có thể vô tình hay cố ý tạo ra
những bất ngờ. Sau một giấc ngủ tương đối ngắn, Ngài đã thức dậy sớm, ra khỏi
nhà khi trời còn tối mịt. Ở nơi vắng vẻ, Ngài gặp Đấng đã sai mình, để được
nâng đỡ.
Các môn đệ thức dậy, không thấy Thầy, hốt hoảng đi kiếm. Phải
một thời gian sau họ mới tìm được nơi Thầy cầu nguyện. Họ chỉ mong ép Thầy về
nhà, để tiếp tục công việc tối qua. Thầy Giêsu đã làm môn đệ bất ngờ khi từ
chối trở về. Lần đầu tiên, Thầy không chiều theo ý họ. “Chúng ta hãy đi nơi
khác, đến các làng mạc xung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (Mc 1,38).
Thầy Giêsu kéo họ ra khỏi ngôi nhà ở Caphácnaum. Có thể
đây là ngôi nhà của Simôn và gia đình ông đang ở. Thầy đòi họ ra đi, dù đám
đông bệnh nhân vẫn đang chờ. Sứ mạng Cha giao không cho phép Thầy dừng lại, nên
các môn đệ cũng phải đi theo Thầy.
Một ngày sa bát của Đức Giêsu ở Caphácnaum đã trôi qua. Một
ngày với những bất ngờ không tính trước được. Nói cho cùng, ngày nào của Ngài
cũng đầy bất ngờ. Mỗi bất ngờ là một cuộc hẹn của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã bình
an đón lấy những bất ngờ mỗi ngày. Ngài không cứng nhắc trong chương trình do
mình ấn định, nhưng để Cha từ từ dẫn đi từng bước. Chúng ta có chấp nhận những
bất ngờ khó chịu, những điều làm vỡ kế hoạch mỗi ngày của ta không?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu,
Mỗi
ngày con gặp bao chuyện bực mình.
Có
những chuyện xảy ra làm con không vừa ý,
khiến
ngày sống của con vắng bóng niềm vui.
Làm
sao con có thể đón nhận mọi sự
với
nụ cười bao dung,
và
coi những trắc trở
như
chuyện bình thường của cuộc sống?
Làm
sao con dám tin rằng
Chúa
vẫn giúp con tìm thấy ý Chúa
qua
những chuyện không vui,
đòi
con từ bỏ cái tôi,
qua
những chuyện không may,
làm
con giật mình tỉnh ngộ?
Xin
cho con bình an trước vấp váp của con,
và
nhẹ nhàng trước vấp váp của người khác.
4. Đi gieo Tin Mừng
(Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đoạn
Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động
của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi
gieo Tin Mừng.
Chỉ dẫn thứ nhất:
Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào
Hội đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một
phần quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời
Chúa phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở
thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động
của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt
được Sự Sống.
Chỉ dẫn thứ hai:
Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho
lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm chứng về điều đó. Ra khỏi Hội
đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu
đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa có quyền năng chỉ
cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa bệnh cho bà nhạc ông Simon.
Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ thọ thọ bất thân, việc cầm
tay phụ nữ có gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã đến tận giường cầm tay bà.
Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa không chỉ chữa bệnh mà còn
muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với người bệnh và cả sự kính
trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ dẫn thứ ba:
Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma
quỉ trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm được việc lành, chỉ có thể
làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người. Giải
phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi những mặc cảm. Giải phóng
khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ đó con người có thể vươn
lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc lành phục vụ Nước Chúa. Bà
nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được khỏi bệnh, bà liền đi đứng và
làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ dẫn thứ tư:
Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa Giêsu đến nơi
vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu phải dành buổi sáng
sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu nguyện là quan trọng
biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Chúa
Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự hướng dẫn sáng suốt
cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa cầu nguyện với Đức
Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.
Người
môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra
ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức
mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của
hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm
Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm
chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương
kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể lam những việc tốt đẹp, góp phần
vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy Chúa là Đường, là Sự Thật
và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường của Chúa Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Bạn hãy thử tóm tắt những việc
Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2. Bạn tha thiết với việc rao
giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng Tin Mừng có kết quả tốt
đẹp?
3. Lời nói phải đi đôi với việc
làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời sống đạo của bạn.
5. Hành trình hạnh phúc
(Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Một tác giả đã viết: “Hạnh phúc không phải là đích đến.
Nó là một hành trình kết thành từ nhiều lựa chọn. Trên con đường đời, bạn có
thể chậm rãi bước trên những lối đi êm mát với bao hoa cỏ xinh tươi quấn quýt
bên mình; hoặc bạn có thể băng băng tiến về phía trước để đuổi theo những sắc
mầu lấp lánh ở cuối chân trời, nơi bạn thấy hiển hiện ánh cầu vồng mê hoặc,
nhưng thực ra chỉ là một khoảng không vô định. Tất cả tùy thuộc vào sự lựa chọn
của bạn” (Tìm về sức mạnh vô biên, nxb Văn Hóa, tr. 7). Với những dòng trên,
tác giả muốn nói với chúng ta: hạnh phúc chẳng phải ở đâu xa, mà ở bên cạnh và
trong tầm tay của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ coi hạnh phúc như một mục đích,
chúng ta sẽ dồn hết sức lực để đi kiếm tìm, như thể mục đích đang ở xa xa phía
chân trời. Nhưng tiếc thay, khi đi kiếm tìm hạnh phúc như vậy, chúng ta quên
mất hạnh phúc đang ở xung quanh mình. Mặt trời vẫn luôn hiện hữu, nhưng những
người khiếm thị lại không nhìn thấy mặt trời. Không ai dựa vào sự kiện những
người khiếm thị để khẳng định mặt trời không tồn tại. Dù cuộc đời còn nhiều
gian nan thử thách, những niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào vẫn luôn hiện diện
bên ta. Một cách cụ thể, trong cuộc sống, chúng ta có bao niềm vui nơi bạn bè,
gia đình và môi trường xã hội. Hãy có cái nhìn lạc quan và trân trọng những giá
trị đang hiện hữu xung quanh. Đối với người tin Chúa, mỗi giây mỗi phút trong
đời đều là những cơ hội để chúng ta nhận ra tình thương bao la của Ngài. Mỗi
hoàn cảnh đều có thể là cơ hội để ta thực thi lòng mến Chúa yêu người. Thời
gian là một quà tặng vô giá của Thiên Chúa. Biết trân quý thời gian và sử dụng
thời gian để làm những việc có ý nghĩa là nỗ lực đạt tới sự hoàn thiện.
Ông Gióp trong Cựu ước là một người đạo đức và sống đẹp
lòng Chúa. Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy
đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp. Ông lâm vào
cảnh bất hạnh chỉ trong vài ngày. Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ
ông mà đi. Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa
nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi:
bao giờ chiều buông. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”.
Tâm trạng của ông Gióp cũng là tâm trạng của một số người
trong cuộc sống của chúng ta hôm nay. Họ luôn cảm thấy cuộc đời này vô vị. Họ
bất mãn và nhìn cuộc đời với lăng kính u buồn. Thay vì quan tâm đến người khác,
họ chỉ muốn người khác quan tâm đến mình. Họ phàn nàn trách Chúa, trong khi
Ngài ban cho họ biết bao cơ hội để cải thiện đời sống. Tuy vậy, nếu ông Gióp
nhìn cuộc đời với cái nhìn bi quan, thì ông lại không bao giờ xúc phạm Chúa.
Ông tin Ngài sẽ giải cứu ông và cuối cùng, Chúa đã phục hồi cho ông những gì đã
mất, đem lại cho ông danh dự và niềm vui. Sau những tháng ngày gian truân, ông
được bù đắp xứng đáng. Tài sản có được tăng gấp nhiều lần so với trước đó. Lòng
kiên trì phó thác nơi Chúa đã giúp ông ta nhận được muôn hồng ân Chúa ban.
Như thế, mỗi người cần nhận ra những điều tốt đẹp Chúa
ban, đồng thời chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống. Chúng ta hãy nghe
thánh Phaolô nói về chính mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin
Mừng! tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công”. Dù bất kỳ
hoàn cảnh nào, thánh nhân cũng không quên sứ mạng quan trọng là giới thiệu Chúa
Giêsu cho mọi người. Ông luôn tận dụng thời gian tối đa để thực thi sứ vụ loan
báo Tin Mừng, vì ông coi đó là một bổn phận Chúa trao. Kể cả trong lao tù,
thánh Phaolô cũng không quên nhiệm vụ quan trọng này. Nhờ việc rao giảng Lời
Chúa mà ông tìm được niềm vui và nghị lực, bởi ông thấy những hiệu quả của công
việc ông đã làm, đó là những cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập và phát triển
(Bài đọc II).
Nếu chúng ta cảm thấy cuộc sống lặng lẽ trôi một cách vô
nghĩa, là vì chúng ta chưa biết sử dụng thời gian một cách đúng đắn, nhằm để
đem lại hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Thời gian vẫn lặng lẽ trôi, mặc
chúng ta có để ý hay không. Dòng sông cuộc đời vẫn âm thầm chảy, dù con người
thánh thiện hay tội lỗi. Nếu chúng ta biết trân trọng thời gian như một quà
tặng của Thiên Chúa, thì thời gian sẽ mang lại biết bao điều tốt đẹp, và mỗi
ngày sống đều đong đầy ý nghĩa. Thánh Máccô kể lại một ngày sống và làm việc
của Chúa Giêsu. Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất
bận rộn. Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm
sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả
người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với
Chúa Cha. Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu
luôn là một cuộc lên đường. Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi
đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng. Lộ trình của Chúa không có điểm kết
thúc. Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh
phúc cho hết mọi người. Những việc làm của Chúa Giêsu tập trung ở ba khía cạnh:
thứ nhất là rao giảng Tin Mừng; thứ hai là chữa lành các bệnh nhân đủ mọi tật
nguyền; thứ ba là cầu nguyện. Ba khía cạnh này đã tạo nên sự quân bình trong
đời sống. Đó cũng là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu của chúng ta. Cần phải kết
hợp khía cạnh “động” và khía cạnh “tĩnh” để tạo nên một thế quân bình. Những
giây phút tĩnh lặng trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta nhìn lại công việc chúng
ta đang làm. Những hoạt động hằng ngày là hoa trái của những suy tư và cầu
nguyện trước nhan Chúa.
“Lương thực của Thày là thi hành ý muốn của Đấng đã sai
Thày” (Ga 4, 3). Noi gương Chúa Giêsu, mỗi chúng ta hãy chuyên cần làm việc,
tùy theo khả năng và địa vị của mình. Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì
người khác và đem cho họ niềm vui. Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta
càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm
vui. “Nhàn cư vi bất thiện”, cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy
đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục.
Chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Tân Sửu. Thời điểm cuối
năm nhắc chúng ta nhìn lại những việc đã làm. Cuối năm cũng là lúc nhìn lại
chặng đường đã đi. Có những con đường lệch lạc được tô vẽ bằng những màu sắc
hấp dẫn nhiều người muốn đi. Có những con đường ngay chính nhưng phải ngang qua
cửa hẹp ít người muốn vào. Người tin Chúa cần phải cẩn trọng, vì có những ngã
rẽ làm chúng ta đau khổ suốt đời.
Năm Canh Tý sắp qua có biết bao biến động, do thiên tai
và nhất là do đại dịch Covid-19. Phải chăng đây là những dấu chỉ thời đại, nhắc
nhở chúng ta suy tư về sự mỏng giòn của kiếp con người. Những dấu chỉ thời gian
này cũng mời gọi chúng ta có trách nhiệm hơn đối với tha nhân, với môi trường
và với thiên nhiên vũ trụ. Đừng đổ lỗi cho Chúa như một số người vô thần. Trái
lại, hãy nhận ra quyền năng của Ngài xuyên qua những hiện tượng xảy đến trong
cuộc sống.
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn tích cực về
cuộc sống hôm nay. Bởi lẽ giữa những thử thách chông gai và bon chen tính toán,
tình yêu Chúa vượt lên trên tất cả. Những nhỏ nhen sẽ qua đi và tình yêu tồn
tại mãi. Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm. Bạn
hãy tự xét mình xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không. Đừng quá chú
trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành
công nho nhỏ bạn đã đạt được. Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì
xung quanh ta có biết bao bạn thân. Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được
Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời.
Hãy yêu mến cuộc sống hiện tại và hãy chuyên tâm làm việc
thiện, vì tất cả những gì tốt lành chúng ta làm ở đời này, sẽ theo chúng ta đến
cõi trường sinh. Ước gì ngay ngày hôm nay, chúng ta biết quý trọng những người
xung quanh, vì họ là những người Chúa gửi đến cho chúng ta để đồng hành cùng
chúng ta trên đường về quê trời. Như thế, hạnh phúc chẳng ở đâu xa mà ở bên
cạnh và xung quanh chúng ta. Hạnh phúc không phải là một đích điểm, mà là một
hành trình.
6. Giải phóng đau khổ
(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của ViKiNi - Lm. Giuse Vũ
Khắc Nghiêm)
1. Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ
dịch... Là chuỗi ngày làm thuê... Số phận tôi là những đêm đau khổ... ngay từ
chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”. Lời than thở đó diễn tả đủ loại đau
khổ chồng chất trên đời người: Đau khổ thể chất thì ít, đau khổ tinh thần thì
quá nhiều.
Cuộc sống thể chất là “một khổ dịch”. Khổ dịch vì bao
nhiêu công việc nặng nhọc. Con người sống như nô lệ, không còn thời giờ hóng
mát. Mệt mỏi về làm lụng, mệt mỏi về ăn uống, mệt mỏi về chơi bời giải trí! Còn
biết bao nhiêu khổ dịch của bệnh tật, già cỗi, nghèo đói, loạn lạc, chiến
tranh, thiên tai luôn vùi dập con người.
Đau khổ thể chất còn đổ lỗi cho trời đất. Những đau khổ tinh thần ghê sợ
gấp bội, lại do chính con người gây ra. Đó là những đau khổ tâm lý, đau khổ đạo
đức, đau khổ siêu hình (siêu nhiên).
Đau khổ tâm lý là những mặc cảm về “cuộc sống chỉ là chuỗi ngày làm
thuê”, mặc cảm về thân phận hèn hạ tôi đòi, ở đậu. Không đâu là nhà, luôn luôn
bị trôi dạt, bị chao đảo, bị o ép, nên dễ bất mãn, chống đối người khác, chống
đối xã hội, chống đối Thiên Chúa, cuộc sống đầy những tâm trạng nổi loạn, ghen
ghét, hận thù, phản bội, chứng tỏ một tâm lý ấu trĩ, tự ti mặc cảm, thiếu tự
tin, tự chủ, cái đau khổ của Ađam Evà thân phận bùn đất nhưng lại muốn bằng
Thiên Chúa, thân phận là con ếch dưới đáy giếng lại đòi bằng con bò để căng da
phình bụng nổ tan bành mà chết, như trong ngụ ngôn của Lafontaine. Chừng nào ta
thấy được vinh phúc Thiên Chúa đã ban cho mình từ bùn đất nên con người và từ
con người nên con Thiên Chúa, ta mới được hạnh phúc thật.
Đau khổ đạo đức: “Ngay từ chiều tối, tôi trằn trọc đến hừng đông”. Con
người bối rối âu lo, bị ray rứt về những dục vọng đen tối. Những đam mê sai
trái, những dằn vặt ấy đã làm thánh Phaolô phải kêu lên: “Điều tôi không muốn,
tôi lại làm!”. Bao nhiêu thiếu sót, bê trễ bổn phận cũng là những tác nhân gây
ra đau khổ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. “Nỗi ray rứt hàng
ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh” (2Cr. 11, 28). Sau
cùng, thứ đau khổ cùng cực nhất của con người là thấy “số phận của tôi là những
đêm tối đau khổ”, đêm tối là số phận tôi, không ánh sáng, không tương lai,
không hy vọng. Tất cả gia tài, sự nghiệp ky cóp, bon chen, giành giựt, chèn ép,
chạy chọt như con thoi, đều tan ra như mây khói: “Đời con chỉ là một hơi thở”,
một cái thở hắt ra là chấm dứt cuộc đời, con người câm lặng nhắm mắt lìa đời.
Thật ghê sợ, rợn rùng “Mắt con sẽ không được thấy hạnh phúc bao giờ”. Đó là thứ
đau khổ siêu hình, thứ đau khổ về hư vô. Thứ đau khổ mất niềm tin vào Thiên
Chúa hằng sống, mất hy vọng vào Đấng Cứu Độ đời đời.
2. Ai ai có thể cứu
chữa tôi thoát khỏi những thứ đau khổ này? Tất cả nhân loại đều bó tay, chỉ còn
có Đức Giêsu thôi. Chính vì để giải phóng đau khổ này, Đức Giêsu đã đến trần
gian. Người đến để chữa lành đau khổ thể xác và tinh thần. Cụ thể, hôm nay, Đức
Giêsu đến nhà hai ông Simon và Anrê. Họ liền nói cho Người biết bà nhạc mẫu của
ông Simon đang đau liệt. Đức Giêsu đến gần, cầm tay nâng bà dậy. Bà liền hết
sốt. Một cử chỉ thân tình xoa dịu mọi lo âu thống khổ của gia đình. Người đến
làm cho cảnh gia đình sầu khổ được sống lại hân hoan.
Cơm chiều đã dọn sẵn, chỉ vài món ăn thanh đạm, nhưng vị
thượng khách chẳng kể chi. Cùng ngồi quây quần với mọi người, Người thanh thoát
niềm nở kể chuyện. Câu chuyện trong sáng, giản dị. Mọi người đón nghe Tin mừng
chan chứa niềm vui và hy vọng vào tương lai vinh phúc bất diệt của con người.
Mọi xao xuyến, sầu khổ biến tan. Những nụ cười tươi nở, những ánh mắt sáng lên.
Họ nhìn Người xiết bao trìu mến và đầy tin tưởng. Hoàng hôn buông xuống, chấm
dứt ngày nghỉ lễ Sabbat, cả thành ùn ùn kéo đến nhà ông Simon. Ông mở rộng cửa,
dọn dẹp sân vườn đón tiếp bà con xa gần. Simon mở cửa nhà càng rộng, Đức Giêsu
càng giang rộng đôi cánh tay âu yếm, thương mến đón tiếp mọi hạng người: nghèo
hèn, sang giàu, đau khổ, bệnh tật, đủ loại quỷ ám và tội lỗi. Nhà Simon thành
đại gia đình tình thương của Chúa. Suốt tối hôm đó, Người chữa lành mọi vết
thương tâm hồn và thể xác. Người luôn tay chúc phúc cho tất cả toàn dân. Trời
về đêm cũng không cản nổi giòng thác người sầu khổ tuôn đến với Người. Người
không biết mệt, tay vẫn giơ lên chạm đến từng người, miệng luôn đọc lời chúc
lành bình an. Trái tim Người rung động cảm thương dân chúng vô biên, không gì
có thể làm tê liệt được, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Người coi bệnh
hoạn của chúng ta như của riêng Người. Người mang hết mọi tai ương của chúng
ta” (53, 4).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã gánh
lấy mọi khổ dịch của loài người và đưa Tin mừng nước Trời cho khắp mọi nơi, từ
thánh đường đến gia đình, từ thành phố đến mọi nẻo đường xã ấp. Xin cho muôn
dân mau mau đến xum họp chung quanh Chúa đoàn tụ thành đại gia đình tình thương
vinh phúc của Chúa. Amen.
7. Ngôn hành hợp nhất
(Suy
niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Kinh
nghiệm của những lần đi thăm viếng bệnh nhân tại bệnh viện cho tôi thấy: Nhiều
lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện
gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm thế là ta đã
làm được điều mà người bệnh muốn và cần đó là sẻ chia, cảm thông và cầu nguyện.
Bởi vì, để cho bệnh nhân nói hết là họ đã giải tỏa được những tâm sự buồn ấy,
họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống vì còn có người đồng hành
với họ. Chúa Giêsu hôm nay đã làm được điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu
vào nhà ông Simon. Bà nhạc mẫu của ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường,
cầm tay và chữa bà khỏi bệnh. Thực ra Chúa chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời
cũng có thể chữa bệnh cho bà. Hơn nữa, vào thời phong kiến với quan niệm “nam
nữ thọ thọ bất thân”, việc cầm tay phụ nữ có thể bị dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu
đã đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa
không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm, sự kính
trọng đối với phụ nữ nhất là đồng hành với người bệnh những lúc bệnh tật gây ra
những cơn đau xé lòng.
Người
ta nói: “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo”. Quả thế, lời nói phải luôn đi
đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục nhất.
Các Sách Phúc âm cũng như bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Chúa Giêsu là con người
nhất quán, vì việc làm của Chúa luôn song hành với lời Ngài rao giảng; Ngài
chữa trị cho người bị quỷ ám giữa cử tọa đông đúc ở hội đường, cũng như chữa
lành cho bà nhạc mẫu ông Simon trong căn nhà nhỏ bé, ban ngày đi rao giảng,
chiều tối người chữa lành bệnh cho biết bao nhiêu kẻ ốm đau đến với người. Chúa
Giêsu làm được như thế bởi vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng và là Người
đầy lòng nhân ái. Còn với chúng ta thì sao?
Dĩ
nhiên chúng ta không thể làm phép lạ để cứu chữa lành bệnh cho bệnh và cho
người khác. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa
Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của bệnh nhân bằng cách
thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực
hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta. Chúng
ta còn nhớ, Lời Chúa mô tả về ngày phán xét rằng đến ngày ấy, Ngài phán với
những người bên hữu: "Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng
Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói,
các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi
đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã
thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han" (Mt 25,34-26).
Trong
kinh “Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối”, chúng ta đọc: “Thứ
bốn: viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc”. Đọc mãi kinh này, có bao giờ chúng ta đã
viếng thăm một bệnh nhân nào đó chưa? Nếu có, chúng ta thăm bệnh nhân ấy vì cái
gì? Vì trách nhiệm và bổn phận hay vì “hòn đất ném đi hòn chì ném lại”? Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu siêng năng thăm viếng,
an ủi, trao bình an và tình yêu Tin Mừng của Chúa đến người bệnh nhân hầu chúng
ta được chúc phúc ngay đời này và đời sau. Cho nên, Lời Chúa trong bài đọc hai,
Thánh Phaolô quả quyết: “Khốn cho thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Đây
quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng,
nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần về bệnh
tình, đau khổ và buồn khổ. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin
vui, một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm
sóc. Bên cạnh đó, chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng như trái cây và
các loại đồ ăn thức uống cũng giúp bệnh nhân phần nào vơi đi cơn đau và nỗi sầu
trong lúc chờ đợi bệnh bình phục. Thêm vào đó, một cú điện thoại, một bức thư,
một tin nhắn thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân cảm thấy phấn khởi và vui vẻ
hơn nhiều.
Ước gì
qua Lời Chúa hôm nay vào những ngày cuối năm, chúng ta thường lo sắm sửa đủ thứ
cho gia đình mình thì cũng nhớ để dành chút thời gian thăm viếng, biếu quà nếu
được cho người ông bà cha mẹ hay bà con của chúng ta đang trong tuổi già yếu
đau. Và nếu được trong phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ ngay
những người đau yếu khác như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm. Anh chị em ơi, Đừng
để: 1) “Khi tôi lầm lỡ, mới biết sớt chia với người lỡ lầm. Khi tôi nghèo đói,
tôi sẽ hiểu nỗi đau người lầm than. Khi tôi gian nan mới biết sớt chia với
người khốn cùng. Khi tôi đau khổ, đời tôi mới biết cảm thông”. Như vậy, khi tôi
thánh thiện, tôi giàu, tôi sung sướng, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ
với việc bác ái này. Anh chị em ơi, đừng để: 2) “Khi tôi buồn chán mới biết nỗi
đau nơi người thất vọng. Khi tôi mù lòa tôi sẽ hiều bóng đêm bao sợ hãi. Khi
tôi cô đơn mới biết xót xa với người cô hoạnh. Khi tôi thất vọng đời tôi hay
nỗi chờ mong”. Như vậy, khi tôi vui, tôi sáng đôi mắt, tôi hạnh phúc, tôi chưa
làm được cho họ, tôi quá hỡ hờ với việc bác ái này. Anh chị em ơi, đừng để: 3)
“Khi tôi quỵ ngã mới biết đỡ nâng những người sa đọa. Khi tôi òa khóc tôi sẽ
hiểu nước mắt sao buồn quá. Khi tôi lang thang mới biết đắng cay với người
không nhà. Khi tôi đơn độc thì thương ai mất mẹ cha”. Như vậy, khi tôi đứng
vững, khi tôi hạnh phúc và đầy đủ nhà cửa, tôi chưa làm được cho họ, tôi quá hỡ
hờ với việc bác ái này
ĐK:
Lạy Chúa ban yêu thương vào trái tim con, đã bao lần con đây hờ hững. Lạy Chúa
dạy con yêu thương, dạy con yêu thương cho hòa binh sáng ngời muôn phương.
Lạy Chúa, xin mở trí con, mở
miệng con, mở tim con, mở tay và đôi chân con để con đến với anh chị em yếu đau
để họ nhận được sự tình thương Chúa và của chúng con bây giờ và mãi mãi. Amen.
8. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Hiếu
Nguyễn sưu tầm -thanhlinh.net)
CHÚA GIÊSU LÀ TÔI TỚ ĐAU KHỔ
CỦA THIÊN CHÚA
MINH HỌA LỜI CHÚA
1. Bài giảng biết đi
Một chiều năm 1953, một số ký giả và nhân viên chính phủ
Hoa Kỳ đến ga xe lửa Chicagô đón người được giải thưởng Noben Hoà bình năm
1952.
Người vừa xuống xe lửa là một người đàn ông cao lớn, vạm
vỡ. Các máy ảnh chớp lia lịa, các nhân viên cao cấp của thành phố đưa tay cao
đón chào vị thượng khách. Bỗng vị thượng khách đưa mắt nhìn về sân ga, rồi xin
lỗi mọi người đi thẳng về hướng đó. Ai nấy tưởng là ông còn quên hành lý, nhưng
ông băng qua đám đông, đến với một người đàn bà da đen đang khệ nệ hai chiếc va
li nặng trên tay. Ông cầm lấy hai chiếc va li, mỉm cười nói với người đàn bà và
đưa bà lên chiếc xe bus gần đó. Khi quay lại với những người đón rước, ông xin
lỗi họ vì đã bắt họ chờ lâu.
Người được giải thưởng Noben Hòa bình đó không ai khác
hơn là bác sĩ Ampere Soiyer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hy sinh trọn đời cho
người nghèo Phi châu. Chứng kiến cử chỉ của ông, một người trong ban tổ chức
đón tiếp ông nói với các ký giả: “Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài giảng
biết đi…”
***
Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu chính là lời tỏ
tình trọn vẹn và sau cùng của Thiên Chúa đối với con người. Cái chết đó là lời
loan báo Tin mừng sống động nhất.
Tình yêu luôn mời gọi đáp trả bằng tình yêu. Nhưng tình
yêu đích thực không chỉ được nói lên bằng môi miệng mà còn phải được diễn tả
bằng hành động cụ thể, bằng tất cả cuộc sống.
Cảm nhận tình yêu của Thiên Chúa qua cái chết của Chúa
Giêsu, người Kitô hữu chúng ta cũng được mời gọi loan truyền và san sẻ tình yêu
ấy cho mọi người. Chúng ta không chỉ loan truyền bằng lời nói suông mà bằng cả
cuộc sống yêu thương của chúng ta, như Chúa Giêsu qua cái chết của Người, qua
các lần chữa bệnh trừ quỷ của Người mà Tin mừng hôm nay kể lại cho chúng ta
biết; và như bác sĩ Ampere Soiyer qua cuộc đời hy sinh phục vụ người nghèo và
kẻ yếu thế của ông. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”, tập III).
2. Cầu nguyện
Frédéric Ozanam, một nhà hoạt động xã hội nổi tiếng của
Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin lúc còn là sinh
viên đại học.
Một hôm, để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào
một ngôi nhà thờ cổ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang
quỳ cầu nguyện một cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong gốc nhà
thờ theo dõi cử chỉ của người này. Và khi người đó vừa đứng lên để ra khỏi giáo
đường, chàng sinh viên nhận ra người đó chính là nhà bác học vĩ đại Ampere.
Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy
chàng sinh viên đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
“Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý chăng?”
Chàng sinh viên nhỏ nhẹ đáp: “Thưa ông, tôi là sinh viên
khoa văn, tôi dốt khoa học lắm. Xin ông cho tôi hỏi một số vấn đề có liên quan
đến đức tin.”
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn: “Đức tin là môn tôi
yếu nhất. Nhưng nếu giúp anh được gì, tôi sẵn sàng”.
-
Thưa ông, có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là tín hữu nhiệt
thành cầu nguyện không?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Nhưng ông
cũng gượng gạo trả lời: “Anh ơi! Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện
thôi”.
***
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu
thời danh: “Con người vĩ đại khi họ cầu nguyện”. Cầu nguyện tức là đi vào tương
quan mật thiết với Thiên Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể
hiện đúng đắn đạo làm người. Con người chỉ nhận ra phẩm giá cao cả của mình khi
nó thấy được thân phận thụ tạo và mối dây liên kết nó với Đấng Tạo Hóa.
Được tạo dựng bởi và cho Thiên Chúa, con người chỉ nhìn
thấy ơn gọi và định mệnh của mình trong Thiên Chúa. Biết mình bởi đâu mà ra,
biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu, đó chẳng phải là sự vĩ đại
của con người sao? Nhưng chỉ trong cầu nguyện nghĩa là trong sự kết hợp mật
thiết thâm sâu với Thiên Chúa, con người mới có thể cảm nhận được ơn gọi và
định mệnh ấy.
Trong Tin mừng hôm nay, chúng ta đọc thấy: “Sáng sớm lúc
trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”
(Mc.1,35). Đó là một trong những nét nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người
đã không ngừng bày tỏ sự kết hợp Ngài với Thiên Chúa Cha. Đó chính là cách Ngài
dạy cho con người sống thế nào cho phải đạo làm người. Sự cao cả của con người,
sức mạnh vĩ đại của con người chính là sự cầu nguyện, nhất là cầu nguyện đi đôi
với việc làm, như Chúa Giêsu vừa cầu nguyện vừa loan báo Tin mừng, vừa “chữa
nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ khử nhiều quỷ” (Mc.1,34). Nhờ cầu
nguyện mà việc truyền đạo được kết quả phong phú hơn. Chính đời sống cầu nguyện
của các nhà truyền giáo đã chứng minh điều đó. (Trích “Sám hối và canh tân”).
3. Tìm nơi thanh vắng cầu
nguyện
Tiếng động và sự ồn ào ảnh hưởng đến sức khỏe con người.
Một giáo sư Hy lạp cố vấn tổ chức y tế thế giới quả quyết: “Tiếng ồn ào là một
trong những tác nhân chính làm con người mắc bệnh thần kinh”. Các nhà nghiên
cứu người Hòa Lan đã khám phá: “Những người sống trong các khu phố ồn ào thường
bị áp huyết cao”. Không chỉ người già mới phàn nàn khó chịu về sự ồn ào mà ngay
cả tuổi trẻ cũng không thoát khỏi anh hưởng của tiếng ồn. Một nghiên cứu của
đại học Rhusdho bên Đức cho thấy học sinh học trong những trường ồn ào bị áp
huyết cao hơn học sinh ở các trường trong nơi yên tịnh. Nhất là kinh nghiệm cho
chúng ta biết chúng ta thường dễ cau có nóng giận khi sinh sống trong những
vùng có nhiều tiếng động.
***
Sa mạc được xem là nơi ưu biệt của Kinh Thánh. Chính
trong sa mạc mà lòng tin của dân Do thái được thanh luyện. Chính trong sa mạc
mà các ngôn sứ thường nhận được sứ điệp của Thiên chúa. Chính trong sa mạc mà
Chúa Giêsu ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày để chuẩn bị cuộc đời công khai rao
giảng Tin mừng. Và Tin mừng hôm nay thuật lại, sau khi Người trừ quỷ chữa bệnh
cho nhiều người: “Sáng sớm trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi hoang vắng
và cầu nguyện ở đó” (Mc.1,35). Người thường lui tới nơi vắng vẻ để cầu nguyện.
Người cũng khuyên các môn đệ tìm nơi vắng vẻ nghỉ ngơi.
Sự cầu nguyện đòi hỏi sự thinh lặng. Thinh lặng của cõi
lòng mới là điều quan trọng. Một cõi lòng thinh lặng cốt yếu là cõi lòng đầy
tràn sự hiện diện của Chúa. Khi con người được Chúa ngự trong tâm hồn thì họ
luôn cảm nghiệm được sự thinh lặng. Dù sống giữa chốn ồn ào náo nhiệt con người
được Chúa hiện diện trong tâm hồn luôn cảm thấy an vui thanh thản. Như thế, qua
bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện, cầu nguyện trong
thinh lặng bằng cách tiếp xúc thân mật với Chúa, để Người hiện diện trong chúng
ta. Người ban cho sống an bình hạnh phúc. (Theo “Phút cầu nguyện cuối ngày”,
tập II).
4. Niềm vui được chữa lành
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh
có tên ngộ nghĩnh: bệnh bò điên. Người mắc bệnh này vì ăn nhằm bò điên. Khi mắc
phải bệnh, bộ não họ bị hư hoại dần, tay chân run rẩy và đi lần đến cái chết. Lúc
đầu người ta phát hiện có 10 người mắc bệnh tại Anh quốc, 8 người trong số đó
đã chết…
Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò
của Anh quốc. Các nước Âu châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu châu
khuyến cáo Anh quốc phải triệt hạ tất cả các con bò mắc bệnh. Việc này đã làm
cho Anh quốc thiệt hại cả tỷ đô la.
***
Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Xóa sổ
được bệnh này thì bệnh khác xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn,
và có những thứ bệnh hiện đang bất trị!...
Trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc
gia ông Simon-Phêrô. Bà bị cơn sốt liệt giường. Chúa cầm tay bà dậy, bà liền
khỏi bệnh và đi tiếp đãi Chúa.
Theo quan niệm của Người Do thái, bệnh tật là hình phạt
của Thiên Chúa đối với kẻ tội lỗi và do ma quỷ gây ra. Việc Chúa Giêsu chữa
bệnh cho bà nhạc gia ông Simon-Phêrô và các bệnh nhân khác biểu lộ quyền năng
Thiên Chúa trên ma quỷ và tội lỗi. Đó là sứ mạng Thiên sai của chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma
quỷ đến đó. Người đem đến cho họ niềm vui và hạnh phúc. Người tín hữu Kitô cũng
hãy đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường sinh sống. E. Lamy
khẳng định: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc mà ta sẽ cứu vớt được
nhiều linh hồn. Vì niềm tin tự nó là một lời rao giảng” (Trích “Như Thầy đã
yêu”).
5. Chúa chữa người quỷ ám
Ngày 29 tháng 08 năm 1999, người dân Don Timor đã đi bỏ
phiến để quyết định về tương lai của xứ sở họ. Thế giới không những quan tâm
đến số phận của 800.000 dân sống trên đảo này, mà còn đặc biệt chú ý đến vai
trò của Giáo hội tại đây. Giáo hội tại Don Timor được xem là sức mạnh thống
nhất giúp cho dân chúng ở đây.
Quả thực, trong 23 năm dưới quyền cai trị của Inđônêsia,
Giáo hội đã lãnh đạo cuộc tranh đấu nhân quyền và đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo lập hòa bình cho người dân. Ảnh hưởng của Giáo hội được nhìn nhận qua
sự kiện hầu như người dân Don Timor nào cũng sinh ra trong bệnh viện do Giáo
hội điều khiển, được giáo dục trong trường của Giáo hội, cưới hỏi trong nhà
thờ, được chữa bệnh trong bệnh viện Công giáo, cuối cùng cũng được an nghỉ
trong nghĩa trang của đạo. Nhất là mỗi khi gặp tai biến, người dân Don Timor
không có nơi nào an toàn hơn là nhà thờ. Đối với 90% dân Don Timor. Hội thánh
có uy tín hơn hết. Như thế, khi Hội thánh sống đúng với sứ mệnh của mình. Hội
thánh là sức mạnh tinh thần vững chắc cho con người.
***
Tin mừng hôm nay ghi lại phản ứng của dân chúng khi Chúa
chữa bệnh trừ quỷ cho họ. Họ thán phục Người, tìm kiếm Người, vì họ tin vào
quyền năng và đức độ của Người. Người quyền năng và đức độ thì lời nói và việc
làm thường đi đôi với nhau, sẽ thuyết phục và lôi cuốn người khác.
Chúa Giêsu chỉ giảng dạy những gì Người đã sống và sống
những gì Người đã rao giảng. Lời nói của Người củng cố bằng việc làm của Người.
Đây chính là sứ mạng Người đã lãnh nơi Chúa Cha và Người cũng trao sứ mạng đó
lại cho Hội thánh là tất cả các Kitô hữu chúng ta. Chúng ta chỉ thực hiện được
sứ mạng đó khi chúng ta sống và rao giảng những gì Người đã sống và rao giảng.
Nói thể khác, chúng ta chỉ có thể chu toàn sứ mạng Chúa phú giao bằng cách hy
sinh phục vụ mà thôi. Điều đó chính các Kitô hữu ở đảo Don Timor đã thực hiện
và kết quả thật tốt đẹp. Phải chăng đó là gương mẫu cho chúng ta? (Theo “Lẽ
sống”, tập 2).
9. Hãy tìm kiếm Chúa
(Suy
niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Nếu như Chúa nhật thứ Bốn Mùa Thường niên, Chúa Giêsu đã
thi hành sứ mạng ngôn sứ của mình tại Capharnaum, thì bước vào Chúa nhật thứ
Năm Mùa Thường niên, sứ vụ Thiên sai của Người được tiếp tục thi hành. Là Thiên
Chúa quyền năng trong lời nói cũng như trong hành động. Chúa chữa lành những
người bị quỉ ám, Danh tiếng Người nhanh chóng lan truyền khắp mọi nơi. Uy quyền
của một Vì Thiên Chúa được tỏ lộ trong hành động, Chúa mở mắt cho người mù,
làm cho kẻ què đi được, người điếc nghe được, nói chung là họ sung sướng vui
mừng; mọi người đều...thán phục ; các thần ô uế phải vâng lệnh. Cụ thể hơn,
Chúa Giêsu hiện diện ở đâu thì ở đó người ta ngỡ ngàng và thán phục. Họ hỏi
nhau: Người này là ai vậy, mà ngay cả thần ô uế cũng phải tuân lệnh? Quyền năng
của Chúa xác nhận thẩm quyền lời Người giảng. Người không chỉ nói mà còn làm.
Công trình của Thiên Chúa được thể hiện cả bằng lời nói lẫn việc làm nơi Chúa
Giêsu. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thực thi sứ mạng, bày tỏ tình
yêu của Thiên Chúa Cha qua việc rao giảng và các hành động quan tâm, giúp đỡ
người đau bệnh, người nghèo đói, các trẻ em và người tội lỗi.
Hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang ở Capharnaum,
trung tâm thi hành sứ vụ của Chúa, đúng hơn là nhà ông Simon Phêrô: "Chúa
Giêsu ra khỏi hội đường, Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và
Anrê" (Mt 1,29). Ở đây, chúng ta khám phá ra một gia đình lắng nghe và
thực hành Lời Chúa (Lc 8,21). Bà nhạc gia ông Phêrô bị cảm sốt đang nằm trên
giường, Chúa Giêsu tiến lại gần, Người cầm tay bà, một cử chỉ vượt quá những gì
mà sách Tin Mừng đã trình bày như: Chúa đưa tay ra và đụng lên người bệnh, tại
nhà ông Simon Phêrô, Chúa cầm tay bà và nâng đỡ bà dậy.
Cử chỉ này khiến mọi người phải thốt lên: Thiên Chúa
thật quá đỗi hạ mình xuống để tìm kiếm chúng ta, và vì thế mà phẩm giá con
người được tìm kiếm được nâng lên!... "Con người là chi mà Chúa cần nhớ
đến, phàm nhân là gì mà Chúa để ý lưu tâm? " (G 7,17). Tôi muốn biết tại
sao Thiên Chúa lại muốn đích thân đến với chúng ta và tại sao chúng ta không
phải là những người đến với Thiên Chúa trước? Việc Chúa Giêsu làm trong Tin
Mừng hôm nay, không phải là thói quen của người giàu đi đến người nghèo, ngay
cả khi họ có ý tốt lành.
Phần chúng ta, chúng ta đến với Chúa Giêsu. Nhưng có một
trở ngại ngăn cản chúng ta: mắt chúng ta bị mù lòa, không thể tiếp cận được
Chúa là Áng Sáng; chúng tôi đã bị liệt trên giường bệnh, khiến chúng ta không
thể đạt tới sự vĩ đại của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao Đấng Cứu Độ chúng ta,
một lương y tốt lành và là bác sĩ của tâm hồn chúng ta đã từ trời cao hạ mình
xuống, đến với con người, làm cho đôi mắt ốm yếu của con người thấy được ánh
vinh quang huy hoàng của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu, hiện thân của Thiên Chúa Cha đã đến gần với
người nghèo và những người đau khổ mà người ta đưa đến với Chúa để được chữa
lành. Bằng cử chỉ đưa bàn tay, Chúa đụng chạm tới họ, nguồn mạch sự sống tuôn
trào, họ được giải thoát và được cứu.
Hết thảy mọi người đều tìm kiếm Chúa Giêsu, chỉ có một số
người bị buộc đưa đến, vì "lòng chúng ta còn khắc khoải cho tới bao giờ
được nghỉ ngơi trong Chúa" (Thánh Augustinô).
Nhưng, cùng một cách thức chúng ta tìm kiếm Chúa vì chúng
ta cần đến với Chúa để Người giải thoát chúng ta khỏi sự ác và Sự Xấu, Người
đến với chúng ta và đến gần hơn để có thể làm điều mà chúng ta không thể làm
được một mình. Người đã trở nên yếu đuối để cứu chuộc chúng ta là những người
yếu đuối, "Tôi đã tự cứu mình bằng mọi giá" (1Cr 9,22).
Vẫn có một bàn tay đầy sức mạnh vô hình đang chìa về phía
chúng ta, những người đang bị bủa vây bởi muôn điều xấu, chúng lôi kéo chúng ta
và giữ chân chúng ta lại. Chúng ta có thể "vươn lên và bước tới" bằng
lời cầu nguyện, cụ thể như Chúa: "Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra
khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó"(Mc 1,35).
Hơn nữa, mỗi Thánh lễ Chúa nhật là một cuộc gặp gỡ với
Thiên Chúa, Đấng đến đưa tay ra để nâng chúng ta khỏi giường tội lỗi và chán
nản, làm cho chúng ta sống vui, sống hạnh phúc trong Chúa và với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con kêu
cầu Chúa, xin Chúa đưa tay ra nâng đỡ và lôi kéo chúng con lên. Amen.
10. Ma quỷ
Nghĩ tới ma quỷ, chúng ta thường mường tượng ra một thằng
người, vừa đen đủi lại vừa xấu xa, vừa có sừng lại vừa có đuôi. Nhưng đó chỉ là
một hình ảnh ấu trĩ mà thôi. Trong bức thư gởi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã
vẽ về nó bằng một đường nét khác, ngài gọi nó là quyền lực của đêm tối, quyền
lực của tội ác.
Đúng thế, nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy nó
đang mở rộng ảnh hưởng, đang bành trướng thế lực trong mọi lãnh vực. Từ khoa
học kỹ thuật, cho đến sách báo phim ảnh. Chúng ta hãy nghĩ đến sách báo phim
ảnh khiêu dâm, trình bày những tình cảm bệnh hoạn cùng với những vụ giết chóc
dã man. Chúng ta hãy nghĩ tới những cuộc chạy đua vũ trang. Chỉ nguyên chương
trình phòng thủ không gian của Mỹ, cũng đã tốn tới hằng tỉ mỹ kim, trong khi đó
trên thế giới biết bao nhiêu người túng đói, chén cơm không có mà ăn, manh áo
không có mà mặc. Chúng ta làm được những gì để ngăn chặn làn sóng tội ác, hay
là chúng ta để mặc cho quyền lực của đêm tối cứ mỗi ngày một lan rộng.
Tội ác đã có từ lâu, nhưng ngày hôm nay, nó được tăng lên
với một vận tốc kinh khủng, khiến cho con người như không còn ý thức về nó nữa.
Người ta huỷ bỏ án tử hình vì cho đó là một hình phạt quá nặng nề. Thế nhưng
khi được hỏi về những vụ phá thai, thì họ lại bảo đó là chuyện khác. Rồi khi
được hỏi về những vụ ngoại tình, và ly dị, thì họ lại bảo con người có quyền
được sống hạnh phúc. Dường như là cái nền văn minh vật chất, chỉ đem lại cho
chúng ta một cái bộ mặt bên ngoài hào nhoáng, nhưng lại đánh mấy cái ý nghĩa,
cái nền tảng bên trong. Vậy thì phải chăng quyền lực của đêm tối cứ tiếp tục
trải dài. Và ai sẽ chiến thắng được nó?
Tôi xin thưa, người duy nhất đã chiến thắng được nó là
Đức Kitô. Còn chúng ta, muốn chia sẻ phần chiến thắng, thì chúng ta phải mang
lấy vũ khí của Ngài. Vũ khí ấy là gì? Tôi xin thưa đó là đức tin. Không phải
chỉ là một đức tin được thực hành ở trong nhà thờ, nhưng là một đức tin mạnh mẽ
và sống động, một đức tin vô điều kiện có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc,
gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn chấp nhận Thiên Chúa là Chủ tể tuyệt đối,
đồng thời cố gắng biểu lộ đức tin ấy bằng những việc làm cụ thể.
Ma quỷ không thể tác động trên chúng ta nếu như chúng ta
đã không giao nộp cho nó tâm hồn và thể xác. Đồng thời niềm tin vào Đức Kitô sẽ
là sức mạnh duy nhất làm cho ma quỷ phải khiếp sợ và bỏ chạy. Nhờ đó mà chúng
ta được giải thoát khỏi quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
11. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành)
Nếu
sắp xếp cho có thứ tự, chúng ta sẽ có một ngày sống của Đức Giêsu được Tin mừng
Thánh Marcô hôm nay tường thuật lại. Từ một ngày sống của Đức Giêsu, chúng ta
nhìn lại một ngày sống của chúng taphải như thế nào?
1. Một ngày sống của Đức Giêsu
Thứ nhất, Ngài
cầu nguyện:
Đức Giêsu bắt đầu ngày sống của mình bằng việc cầu nguyện. Tin mừng hôm nay cho
biết: “Sáng sớm tinh sương, Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh
vắng và cầu nguyện tại đó.”(Mc 1,35).Ngài cầu nguyện để sống thân mật với Chúa
Cha. Ngài cầu nguyện để lắng nghe và thực hiện ý Chúa Cha muốn. Việc Ngài cầu
nguyện nói lên sứ mạng của Ngài phát xuất từ Thiên Chúa và luôn có Chúa Cha
đồng hành. Đọc Tin mừng chúng ta thấy, đây không phải là lần duy nhất Đức Giêsu
cầu nguyện, mà Ngài cầu nguyện luôn, cả sớm mai và chiều tối, có khi Ngài cầu
nguyện suốt đêm. Cách riêng, Ngài cầu nguyện trước những biến cố quan trọng,
như trước khi Ngài chọn các Tông đồ, trước khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều,
trước khi bước vào cuộc khổ nạn, trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập
giá. Ngài cầu nguyện cho Ngài, cầu nguyện cho các môn đệ, cho những người nhờ
Ngài mà tin và cho thế gian. Ngài không những cầu nguyện mà còn dạy cho các
Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha và Ngài khuyên bảo các Tông đồ và mọi
người chúng ta hôm nay: Hãy cầu nguyện luôn kẻo phải sa chước cám dỗ; Cầu
nguyện như vũ khí để xua trừ quỷ dữ: “Giống quỷ đó chỉ có cầu nguyện mới trừ
được thôi.” (Mc 9,29).
Thứ hai, Ngài rao
giảng Tin mừng:
Tại Caphácnaum, vào ngày sabát, Ngài vào hội đường giảng dạy. Thiên hạ sửng sốt
về lời giảng dạy của Ngài, vì Ngài giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ
không như các kinh sư. (x. Mc 1,21-22). Tại Nazarét, là nơi Ngài sinh trưởng.
Ngài vào hội đường như Ngài vẫn quen làm trong ngày sabát, và đứng lên đọc Sách
Thánh. Sau đó, Ngài cắt nghĩa cho dân chúng về ý nghĩa của đoạn Kinh thánh mà
họ vừa nghe (x. Lc 4,16-30). Ngài không chỉ rao giảng trong hội đường mà còn
rao giảng nhiều nơi khác nữa: tại tư gia (x. Mc 2, 2), ngoài bờ biển (Mc2, 13),
trên núi (x. Mt 5,1-12). Rồi Ngài đi giảng khắp mọi nơi vì Ngài đến là để làm
công việc đó. Cho nên, khi các môn đệ đi tìm Ngài, Ngài nói với họ rằng: “Chúng
ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó
nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.”(Mc 1,38).
Thứ ba, Ngài chữa
lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ: Tin mừng hôm nay cho biết, ra khỏi hội đường, Ngài cùng
với ông Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê, Ngài chữa cho bànhạc gia của
Simon khỏi bệnh cảm sốt (x. Mc 1,29-31). Không dừng lại ở đó, đọc Tin mừng
chúng ta biết, Ngài dành nhiều thời gian để chữa bệnh và trừ quỷ. Ngài chữa
lành hết tất cả các người bệnhđược đưa đến với Ngài: Bệnh phong cùi, bệnh bất
toại, bệnh loạn huyết, bệnh mù, bệnh câm điếc, bệnh què quặt…Ngài dùng nhiều
cách thế để chữa bệnh nói lên quyền phép của Ngài trên bệnh tật: chữa bệnh từ
xa, phán một lời, Ngài lấy nước miếng trộn vào đất bôi lên mắt bệnh nhân được
khỏi, người bệnh đụng đến Ngài, Ngài đụng đến người bệnh thì người bệnh được
khỏi... Tin mừng hôm naylàm chứng cho chúng ta biết điều đó: “Lúc mặt trời đã
lặn, người ta dẫn đến với Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị
quỷ ám: và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những
chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết
Người.” (Mc 1,32-34).
Đức
Giêsu không giới hạn việc chữa lành vào một số người bệnh hay một số vùng miền,
nhưng đối tượng được Ngài cứu chữa là hết tất cả mọi người bệnh và các vùng
miền. Như thế, chúng ta thấy một ngày sống của Đức Giêsu thật ý nghĩa: cầu
nguyện, rao giảng, chữa lành. Còn một ngày sống của chúng ta thì sao?
2. Một ngày sống của chúng ta
Nếu
một ngày sống của chúng ta giống như ngày sống của Đức Giêsu thì tốt biết mấy,
nhưng có lẽ khó có ai thực hiện được như Ngài.Vậy, để ngày sống của chúng ta có
ý nghĩa và phần nào họa lại ngày sống của Đức Giêsu, xin được gợi ý một số thực
hành sau đây:
Thứ nhất, chúng
ta hãy bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện: Tùy vào hoàn cảnh cho phép,
sau khi thức dậy chúng ta có thể đi tham dự thánh lễ hoặc đọc kinh chung với
cộng đoàn hay với các thành viên trong gia đình. Những hoàn cảnh đặc biệt khác,
chũng ta có thể cầu nguyện, đọc kinh riêng hay đọc và suy gẫm Lời Chúa một
mình. Nghĩa là phải cố gắng bắt đầu ngày sống bằng việc cầu nguyện. Cầu nguyện
để xin ý Chúa. Cầu nguyện để kết hợp với Chúa trong công việc. Cầu nguyện để
dâng tất cả các công việc trong ngày cho Chúa để Chúa lo liệu, nhờ đó, mọi công
việc chúng ta làm trong ngày mang lại lợi ích hồn xác. Thực tế, trong cuộc sống
hôm nay do công ăn việc làm và nhiều nguyên nhân khác nên rất nhiều kitô hữu đã
không cầu nguyện đầu ngày, thậm chí bỏ cầu nguyện trong ngày. Theo gương Đức Giêsu,
chúng ta đừng quên cầu nguyện đầu ngày, thậm chí còn cần phải dành thời gian để
cầu nguyện trong ngày và kết thúc ngày sống cũng phải bằng việc cầu nguyện.
Thứ hai, chúng ta
làm việc trong ngày theo bổn phận trao phó với ý thức làm sáng danh Chúa: Có người làm việc đời, có
người làm việc đạo; Có người làm việc tri thức, có người làm việc chân tay; Có
người đi chợ bán hàng, có người đi chợ mua hàng; Thầy cô đi dạy, học sinh đi
học; Có người đi cày, có người đi cấy; có người làm bác sỹ, có người là bệnh
nhân; có người làm kỷ sư, có người làm công nhân…và biết bao nhiêu công việc
khác. Nhưng dù làm bất cứ việc gì cũng không được gian dối, không được lỗi công
bằng, không được lỗi bác ái yêu thương. Trái lại, hãy làm trọn phận vụ, hãy làm
việc cho sáng danh Chúa. Thánh Phaolô nhắc nhở: “Bất cứ làm việc gì, hãy làm
tận tâm như thể làm cho Chúa, chứ không phải cho người đời.” (Cl 3,23). Ngài
còn khuyên: “dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để
tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10,31).
Thứ ba, chúng ta
cần dành thời gian nhiều hơn để quan tâm chăm sóc các bệnh nhân: Hiểu theo nghĩa chặt thì bệnh
nhân là những người mắc các chứng bệnh về phần xác nhưng hiểu theo nghĩa rộng
thì bệnh nhân là những người đau khổ cả về phần xác lẫn tinh thần: đói, khát,
trần truồng, tù đày... Đó là đối tượng chúng ta cần phải quan tâm. Vì trong
ngày phán xét, Đức Giêsu sẽ phán xét và thưởng phạt chúng ta dựa vào việc chúng
ta có quan tâm hay không đối với các đối tượng trên.
Bài
Tin mừng cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã dành nhiều thời gian để chữa lành bệnh
tật và vì thể Ngài đã đem đến niềm vui và niềm hy vọng cho họ. Ngược lại, Bài
đọc I, kể lại câu chuyện ông Gióp. Mặc dầu, ông là người thánh thiện, nhưng khi
ông bị bệnh tật, thiếu sự quan tâm của người thân, ông vẫn cảm thấy bi quan.
Ngày
hôm nay, những trường hợp như ông Gióp hay như bà nhạc mẫu Simon cũng đầy dẫy
trong xã hội chúng ta đang sống. Họ ở bên cạnh chúng ta, có thể họ là người
thân của chúng ta. Họ đang cần sự quan tâm giúp đỡ của chúng ta. Nếu không giúp
họ được khỏi bệnh thì chúng ta có thể góp phần làm xoa dịu họ bằng cách quan
tâm giúp đỡ, thăm hỏi, động viên khích lệ, không được để người mắc bệnh phải cô
đơn, thất vọng.
Nếu một ngày sống của chúng ta
bắt đầu bằng việc cầu nguyện, sau đó làm tốt việc bổn phận với ý thức làm sáng
danh Chúa, nhất là biết quan tâm giúp đỡ các bệnh nhân thì chúng ta đang họa
lại ngày sống của Chúa Giêsu. Lạy Chúa Giêsu, xin cho ngày sống của chúng con
giống như ngày sống của Chúa. Amen.
12. Đức Giêsu rao giảng và trừ quỉ
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)
1. Từ Hội Đường đến nhà ông Phêrô
Rời khỏi hội đường của người Do-thái, Đức Giêsu đi thẳng
tới căn nhà của ông Simon Phêrô. Chúng ta hãy hình dung và chiêm ngắm hành
trình mang đầy ý nghĩa này của Đức Giê-su:
·
Đó là hành trình từ Cựu Ước sang Tân Ước; từ Israen sang Dân Mới
của Đức Chúa, là Giáo Hội. Với hành trình hướng tới mầu nhiệm Vượt Qua và được
hoàn tất bởi mầu nhiệm Vượt Qua này, Đức Giê-su làm cho lịch sử cứu độ được
hoàn tất, nghĩa là đạt tới sự sống mới và sáng tạo mới, ngang qua và bất chấp
bệnh tật, tai họa, những thăng trầm, tội lỗi, sự dữ và cuối cùng là chính sự
chết.
·
Ngoài ra, hành trình này của Đức Giê-su còn diễn tả hành trình
từ nơi phượng tự sang ngôi nhà của đời sống bình thường, ở đó diễn ra mọi vấn
đề của cuộc sống, của thân phận con người, sinh lão bệnh tử; và chính nơi ở
đây, niềm tin và ơn gọi của mỗi người được thử thách và qua đó lớn lên, trở nên
đích thực, trở nên kinh nghiệm thực sự.
Cũng giống như trong đời sống thánh hiến, từ nhà tập đến
môi trường tông đồ và sứ mạng, từ lúc tuyên khấn đến đời sống ơn gọi cụ thể,
với biết bao mới lạ và thách đố. Nhưng đó lại là môi trường làm cho lòng ước ao
dâng hiến và phục vụ trở nên đích thực, và làm cho chúng ta lớn lên trong ơn
gọi đi theo Đức Ki-tô trong đặc sủng của một của Hội Dòng.
Vì thế, chúng ta được mời gọi suy niệm và nhất là chiêm
ngắm thật lâu những gì diễn ra trong nhà ông Simon: những gì diễn ra thật đơn
sơ, nhưng mang nhiều ý nghĩa cho hành trình đi theo Đức Ki-tô của chúng ta hôm nay,
trong đời sống thánh hiến cũng như trong ơn gọi và hoàn cảnh chúng ta đang
sống.
2. Chữa lành và phục vụ
Trong nhà, có sự hiện diện của người mẹ, bà nằm đó và
đang bị sốt nặng; và như bài Tin Mừng kể lại, ngay tối hôm đó, người ta lũ lượt
kéo đến nhà: đó là những người bệnh, những người bị quỉ ám, những người đau khổ
vì sự dữ đủ loại; và rốt cuộc cả làng kéo đến đứng trước cửa nhà.
Đó là một hình ảnh thật cụ thể diễn tả nhân loại chúng
ta: nhân loại có quá nhiều người bệnh. Nhưng trong thực tế, còn có một thứ bệnh
không phải thể lí, nhưng lại làm chúng ta tê liệt hơn là bệnh thể lí: chán nản,
mất niềm tin, mất hướng đi, thấy cuộc sống vô nghĩa, bi quan về mình, về hoàn
cảnh, về người khác, bị hiểu lầm, bỏ rơi, không được lắng nghe hay tin tưởng…
Ngoài ra, và ở một mức độ hay một nghĩa nào đó, cũng có nhiều người bị “quỉ
ám”, nghĩa là bị Sự Dữ chi phối và làm chủ.
Các môn đệ nói với Đức Giê-su về bà mẹ. Điều này nói lên
sự quan tâm chúng ta dành cho nhau trong thực tế và trong lời nguyện, và đó
chính là nét thiết yếu làm nên Dân Mới do Đức Giê-su qui tụ. Đức Giê-su đi đến
bên bà, cầm tay bà và giúp bà ngồi dậy. Ở đây, chúng ta còn được mời gọi cảm
nhận sự thân mật trìu mến. Ơn chữa lành đến từ cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Đức
Giê-su và người bệnh. Hình ảnh này còn nói đến ơn phục sinh, nói đến tình yêu,
lòng thương xót, lời hằng sống và chính Mình và Máu Ngài làm chúng ta đứng dậy
tiếp tục đi, tìm lại hướng đi, ý nghĩa, lòng ước ao phục vụ, ơn gọi. Đó thực là
sự sống mới, hình bóng của ơn tái sinh.
Cơn sốt biến mất và bà bắt đầu phục vụ họ, nghĩa là Đức
Giê-su và cả nhà. Bà khỏi bệnh và lấy lại sức sống, không chỉ là sức sống thể
lý, nhưng là sức sống mới, sự sống mới, vì sự sống này hướng tới việc phục vụ
quên mình. Kinh nghiệm của bà cũng phải là kinh nghiệm của chúng ta, của mọi
Kitô hữu.
3. Rao giảng và trừ quỉ
Hôm sau, khi mọi người đi tìm Đức Giê-su, Người nói với
các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn
rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (c. 38). Chúng ta được
mời gọi nhận ra sự tự do của Đức Giêsu đối với nhu cầu của chính mình và của
con người. Người không muốn khơi ra nhu cầu và tìm cách đáp ứng (như nền kinh
tế thị trường trong đó chúng ta đang sống); nhưng, Ngài chỉ khơi dậy lòng ước
ao Thiên Chúa, có nơi sâu thẳm của con người, như chính Người sống điều này,
khi: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và
cầu nguyện ở đó” (c. 35)
Vì thế, trong thực tế, Ngài đã không làm hết việc, Ngài
chỉ chữa nhiều người nhưng không chữa hết mọi người. Do đó, vẫn còn nhiều người
nữa đang tìm Ngài, họ còn nhờ các môn đệ đi tìm dùm! Nhưng Đức Giê-su rời nơi
đó để đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, và khắp miền Galilê để rao
giảng và trừ quỉ (lưu ý: hoạt động chữa bệnh không được nêu ra).
Về sự sống của loài người và của từng người chúng ta.
Chúng ta thường bị ấn tượng và ưa thích những phép lạ chữa bệnh, vì bệnh tật
làm cho con người khốn khổ. Tuy nhiên, bệnh tật lại thuộc về thân phận con
người, đã là người thì phải trải qua, không tránh được: sinh lão bệnh tử; nhưng
sự sống của con người còn bị quấy phá, bị chi phối bởi ma quỉ, bởi thần dữ,
trong mức độ ma quỉ gieo vào lòng con người và vào tương quan giữa người với
người sự nghi ngờ, loại trừ, bạo lực, ham muốn, ghen tị, dục vọng… Và ai trong
chúng ta cũng có kinh nghiệm, những sự dữ này còn phá hoại sự sống của chúng ta
hơn cả bệnh tật. Chỉ có Lời Chúa, và tuyệt đỉnh là Lời Thập Giá (x. 1Cr 18, 1)
mới có thể chữa lành, giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và những gì thuộc về Sự
Dữ.
Đức Giê-su dường như chỉ muốn đi lướt qua lịch sử con
người, và chỉ dừng lại ở một số thân phận. Bởi vì Ngài chỉ muốn vạch ra cho
chúng ta con đường phải đi, con đường dẫn đến ơn chữa lành triệt để và đích
thực, đó là ơn chữa lành bởi Thập Giá, như thư Do Thái mặc khải cho chúng ta:
Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên
lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết
mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.
(Dt 2,
14-15)
***
Ơn này sẽ dành cho mọi người thuộc mọi thời và mọi nơi.
Và Ngài vẫn cần chúng ta nói cho con người hôm nay về Ngài, và ơn chữa lành
triệt để của Ngài, và cách nào đó, chúng ta cũng cần nói cho Ngài về con người
hôm nay, như các môn đệ đã làm trong “Nhà ông Phêrô”.
13. Xoa dịu nỗi đau khổ
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi nhận thấy cuộc đời của
Chúa Giêsu là một sự dung hoà tốt đẹp giữa đạo và đời. Thực vậy Ngài không phải
chỉ hăng say rao giảng Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của chúng ta mà hơn thế nữa,
bằng những hành động bác ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu những nỗi đớn đau và
thống khổ của chúng ta. Ngài đã đẩy lui cơn sốt cho bà mẹ vợ của Phêrô, Ngài đã
chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và dân chúng tuốn đến với Ngài thật đông
đảo. Phải chăng đây cũng là điều chúng ta cần noi gương bắt chước và thực hiện
trong cuộc sống của chúng ta, để nhờ đó bản thân chúng ta trở nên những chứng
nhân sống động của Chúa và mọi người cũng nhờ đó mà nhận biết tình thương của
Ngài.
Tại một trung tâm y tế thuộc
mạn đông nam bang Carolina bên Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân ghi
nhận được, đó là nụ cười của cụ bà Florence. Từ 6 giờ sáng, bà cụ lái xe khoảng
10 cây số đến bệnh viện và ở lại đó 8 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một
tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh nhân để chăm sóc họ và an ủi những thân nhân
của họ. Còn những lúc rảnh rỗi, bà cụ lại cặm cụi đan những đôi vớ cho các bệnh
nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan được 395 đôi. Bà cụ không phải là một người có
trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc còn nhỏ, thân phụ bà cụ không muốn cho các con
gái của mình được học hỏi nhiều. Lập gia đình, bà cụ có 7 người con và làm việc
trong một tiệm thuốc tây. Tháng 4 năm 1983, sau một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt
đầu xuất hiện trong bệnh viện với chiếc nạng gỗ nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi
bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365 ngày bà đã có mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà
nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu được khoẻ mạnh thì tôi vẫn còn đến đây với nụ
cười trên môi.
Từ câu chuyện trên chúng ta thấy nỗi đau khổ của bản thân
sẽ được vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế,
đau khổ không được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa
cử chúng ta làm cho người khác. Bà cụ trong câu chuyện hẳn không phải là người
không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, có ai mà lại thoát khỏi phần số đâu.
Thế nhưng với nụ cười trên môi, với đôi chân khập khiễng bà cụ đã ra khỏi chính
mình để đến với người khác. Ra khỏi chính mình đó là bước đầu tiên giúp chúng
ta thắng vượt nỗi khổ đau riêng tư. Có ai sống mà lại không có khổ đau, không có
thập giá, thế nhưng sức nặng của thập giá sẽ vơi nhẹ nếu như chúng ta biết ra
khỏi chính mình để đến với tha nhân, giúp đỡ và xoa dịu nỗi khổ đau của người
khác. Không ai quá nghèo để không thể cho đi. Một nụ cười cảm thông, một ánh
mắt khích lệ, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm nhỏ bé được chia sẻ với tất cả
tấm lòng yêu thương, phải chăng đó là những cái chúng ta có thể cho đi, phải
chăng đó là những cái mà nhiều người đang mong đợi nơi chúng ta. Chính trong
lúc cho đi như thế chúng ta cảm nghiệm được một niềm vui trong lành, vì cho đi
thì vui sướng hơn là lãnh nhận và lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô còn vang
vọng như một câu kết luận: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính
lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha
thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
14. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)
ĐỨC GIÊSU CHỮA NHIỀU KẺ ỐM ĐAU
Chúng
ta hãy theo dõi Chúa Giêsu trong ngày sống của Ngài ở Capharnaum. Ngài đến nhà
của Phêrô và chữa cho bà mẹ vợ của ông khi bà đang lên cơn sốt. Chiều đến, khi
mặt trời lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những kẻ bị quỷ ám đến xin Ngài
chữa cho họ.
Sáng
hôm sau, Ngài thức dậy thật sớm, tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Các môn
đệ đi tìm Ngài vì mọi người đến tìm Ngài. Nhưng Ngài không ở lại và đi đến các
vùng khác để rao giảng và trừ quỷ.
Tường thuật của
thánh Maccô cho chúng ta thấy gì? Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ của Ngài bằng những việc chữa
bệnh và trừ quỷ. Ngay trong chương đầu mà thôi, thánh sử đã kể cho chúng ta
nhiều phép lạ chữa bệnh và trừ quỷ, và hình như thánh sử chú trọng đến việc trừ
quỷ. Đối với người Do Thái thời bấy giờ, bệnh tật cũng là do ma quỷ gây nên.
Như thế, chúng ta thấy vẽ lên sứ mệnh chính yếu của Chúa Giêsu là diệt trừ ma
quỷ và những ảnh hưởng của nó.
Ngài
chữa cho bà mẹ vợ của Simon bằng một cử chỉ đơn thường: Ngài đỡ bà dậy và cơn
sốt biến mất. Ngài không đòi hỏi im lặng, vì ngoài người nhà và các môn đệ,
không có ai khác. Nhưng đây cũng chứng minh cho mọi người trong nhà thấy quyền
năng độc đáo của Ngài và cũng cho thấy một nét của nhân cách Ngài. Ngài luôn
giúp đỡ mọi người khi cần. Đi đến đâu, Ngài cũng ban bố ơn lành.
Cả ngày hôm ấy,
Chúa Giêsu làm gì? Thánh Maccô không nói, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng
Ngài dùng cơ hội đó để dạy dỗ các môn đệ đầu tiên của Ngài. Trong khung cảnh ấm
cúng đó, Thầy trò có thể dễ dàng bàn luận với nhau.
Chiều
đến, cả làng tập trung trước nhà, họ mang đến cho Ngài nhiều thứ bệnh nhân, kể
cả những người bị quỷ ám. Ngài chữa lành nhiều người, và trừ nhiều quỷ và cấm
không cho quỷ nói vì chúng biết Ngài là ai. Ngài cấm quỷ nói vì Ngài không muốn
người ta hiểu sai về sứ mệnh của Ngài. Tại sao người ta lại đem bệnh nhân đến
cho Ngài? Phải chăng vì Ngài đã chữa bệnh và trừ quỷ trong Hội đường và danh
tiếng Ngài đồn ra khắp miền đó. Ngài không muốn cho người ta nhìn Ngài như một
thầy chữa bệnh hay một người có ý đồ chính trị. Đám đông là một thứ rơm dưới
ánh nắng, dễ tin và thường phản ứng một cách đột xuất và mù quáng. Sứ mệnh của
Ngài sâu xa hơn. Chữa bệnh hay trừ quỷ chỉ là một dấu hiệu ban đầu mà thôi.
Ngài đến để khai mở Nước Trời, mang lại ơn cứu độ cho con người, giải thoát con
người khỏi ách nô lệ tội lỗi.
Sáng
sớm, Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng và cầu nguyện. Điều này như một việc làm
thường xuyên của Chúa. Có lúc Ngài cầu nguyện suốt đêm. Nhiều người tự hỏi, tại
sao Ngài là Thiên Chúa lại cần phải cầu nguyện? Nhiều cách trả lời, nhưng đa số
các nhà chú giải đều cho rằng, Ngài đã nhập thể và là người thật, Ngài mang lấy
sự yếu đuối của con người, Ngài cũng cần sự thân mật với Chúa Cha như mãnh lực
cần thiết để thi hành ý Cha Ngài. Trước những lúc phải quyết định một điều gì
quan trọng, các thánh sử đều kể lại là Ngài luôn cầu nguyện. Ngài cũng muốn cho
thấy rằng Ngài với Cha Ngài là một. Ngài không làm gì mà không theo ý Cha. Đó
cũng là một gương sáng cho chúng ta, và chính Ngài cũng dạy chúng ta cầu nguyện
không ngừng. Chúng ta có thích cầu nguyện như thế không? Chúng ta có cảm thấy
cần cầu nguyện không? Hay chúng ta chỉ tin vào sự khôn khéo của mình mà không
cần đến Chúa?
Mọi
người đi tìm Ngài. Dân trong thành muốn giữ Ngài lại vì Ngài có thể giúp họ
nhiều hơn nữa, còn biết bao bệnh nhân chưa được chữa lành. Thế nhưng Chúa Giêsu
không dừng lại để tìm sự ủng hộ của dân chúng. Ngài còn một công việc lớn và
quan trọng hơn là rao giảng Nước Trời cho mọi người. Còn biết bao nhiêu người
cần đến ơn cứu độ: “Chúng ta hãy đi nơi khác… để Thầy còn rao giảng ở đó nữa,
vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Chúng ta cũng thấy có một mối liên hệ giữa việc
rao giảng và cầu nguyện. Ngài cầu nguyện rồi mới ra đi. Ngài cầu nguyện vì cuộc
hành trình của Ngài còn dài, rất dài và cũng không kém gay go. Ngài cũng xác
quyết rõ ràng, sứ mệnh của Ngài là rao giảng: “Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Việc đó chính là
rao giảng Nước Trời, Nước tình yêu, nước sự sống. Con người tìm đâu ra sự sống?
Con người có giới hạn và sự chết là giới hạn cuối cùng, không ai thoát được.
Chỉ có một lối thoát duy nhất là Ngài, Ngài là sự sống và là sự sống vĩnh cửu.
Ngài rao giảng để mọi người biết và tìm được sự sống qua cái chết. Ngài cũng
qua cái chết để sống lại và đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người.
Ngài
đã đăng trình rao giảng Tin Mừng không mõi mệt, bận bịu với đám dân bơ vơ như
đàn chiên không người chăn, đến nỗi Ngài và các môn đệ không có giờ dùng bữa.
Những con đường nắng cháy của vùng Palestine đã quen thuộc với bước chân Ngài.
Và bài giảng cuối cùng kết thúc trên đỉnh đồi Canvê thống khổ.
Theo vết chân
Ngài, Phêrô và các Tông đồ, cũng như Phaolô đã không mỏi mệt rao giảng khắp
cùng thế giới thời bấy giờ, và bài giảng cuối cùng cũng kết thúc bằng cái chết. Chết cho Tin Mừng họ rao
giảng, như Thầy chí thánh của họ.
Thánh
Phaolô dám nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” Không ai bó
buộc Ngài cả, Ngài cũng nói: “Tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai,
nhưng tôi trở thành nô lệ cho mọi người…” Tại sao? Chỉ vì tôi yêu mến Đấng đã
yêu thương và đã liều mạng cho tôi, vì tôi không để ơn Chúa ra vô ích, vì tôi
cũng muốn cho mọi người được hạnh phúc với Đấng đã chết để cứu vớt họ.
Và từ
hơn hai mươi thế kỷ cho đến hôm nay, Tin Mừng vẫn được rao giảng qua những người
đã đón nhận, giáo sĩ cũng như giáo dân. Và Giáo hội luôn kêu mời mọi
tín hữu không trừ ai, tất cả những người đã đón nhận Tin Mừng phải công bố trên
mọi mái nhà kho tàng Tình Yêu của Thiên Chúa.
Nhưng
cho đến hôm nay, số người biết Chúa vẫn còn là thiểu số. Ở Việt Nam người Công
giáo chỉ chiếm được ba phần trăm. Chỉ có ba con chiên ở trong chuồng và còn
chín mươi bảy con chiên ở ngoài. Chúng ta nghĩ sao?
Theo vết chân của
Chúa Giêsu, của các tông đồ và các thánh, chúng ta cũng ra đi, rao giảng Tin
Mừng cho anh em chúng ta, những người chưa được phúc như chúng ta. Có lẽ chúng ta còn
ngại ngùng, nhưng với ơn Chúa và thiện chí, chúng ta cố gắng hơn. Chúa đang chờ
những tâm hồn thiện chí, những người dám ra đi, vì Chúa, vì anh em. Thánh Thần
Chúa sẽ hỗ trợ, Ngài không để chúng ta một mình.
Có lẽ
chúng ta chưa biết làm gì, hay làm thế nào, nhưng khi chúng ta dám bước ra, đi
vào công việc, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta biết phải làm gì.
Nhưng trước hết phải cầu nguyện như Chúa
Giêsu đã cầu nguyện. Phải cùng một ước muốn như Chúa, ước muốn cho danh Cha cả
sáng, muốn mang lại hạnh phúc cho anh em. Và trên hết, hãy ăn lấy Chúa để được Ngài nuôi dưỡng bằng chính Thịt Máu
Ngài, để cùng với Ngài ra đi. Chúng ta mới có can đảm loan báo Tin Mừng dù
lúc thuận lúc nghịch, dù sẽ bị nhạo cười hay từ chối. “Tình yêu Chúa thôi thúc
chúng ta”. Chỉ có tình yêu Chúa mới giúp chúng ta dám nói lên những gì phải
nói, không phải chỉ bằng lời mà bằng cả cuộc sống với những lao nhọc của nó.
“ Đừng
sợ! Ơn Ta đủ cho ngươi”.
15. Cứu vớt con người
Quang cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa
Giêsu muốn đi vào cuộc sống con người biết mấy. Thực vậy, Ngài vừa mới rao giảng
ở hội đường xong, liền đi về nhà của Phêrô và Andrê. Không một hoàn cảnh đau
thương nào mà không gởi lên nơi cõi lòng Ngài một nỗi cảm thông chia sẻ. Vì
thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm tay và chữa lành cho bà mẹ vợ của Phêrô đang lên
cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người trong thành đã tuốn đến với Ngài, xin Ngài cứu
chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở những ốm
đau phần xác, mà hơn thế nữa, Ngài còn muốn cứu chữa những tật bệnh phần hồn.
Đây mới là điểm quan trọng trong sứ mạng của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã phán
với các môn đệ: Chúng ta hãy đi tới những nơi khác để Thầy còn rao giảng Tin
Mừng ở đó nữa.
Trải qua dòng thời gian Giáo Hội đã noi gương bắt chước
Chúa Giêsu, đẩy mạnh hai cố gắng, hai hoạt động, đó là xoa dịu những đớn đau
cho những người bất hạnh và dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Để xoa dịu những đớn
đau phần xác Giáo Hội đã lập nên biết bao nhiêu nhà thương; biết bao nhiêu viện
dưỡng lão, biết bao viện cô nhi. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng ý thức bổn phận chính
yếu của mình là đem Chúa đến cho mọi dân tộc. Vì thế, từ xa xưa cho đến ngày
hôm nay, Giáo Hội không ngừng gởi các môn đệ, các thừa sai, các tông đồ của
mình tới những vùng đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho tất cả những ai chưa
nhận biết Chúa. Chữa lành những tật bệnh phần xác đã là điều tốt, huống nữa là
chữa lành những tật bệnh phần hồn, bởi vì chính linh hồn mới là một kho tàng
quý giá, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ, phải bảo toàn, phải cứu độ như lời
Chúa Giêsu đã nói: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi gì?
Ringhoff là một thuỷ thủ người
Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp đến thăm viếng và gởi
lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có Bộ trưởng Công Chánh.
Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ thủ già, bởi vì trong
suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được tất cả 126 người khỏi
chết đuối.
Câu chuyện này hẳn phải làm cho chúng ta suy nghĩ. Đúng
thế, cứu vớt người khỏi chết về phần xác là một hành động cao cả và tốt đẹp.
Vậy thì cứu vớt người khỏi chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết
chừng nào? Và trong ngày sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản
thân họ. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta làm được những gì để xoa dịu những đớn
đau của người khác và hơn thế nữa, chúng ta đã làm được những gì để góp phần
vào công việc truyền bá Phúc Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng Chúa.
16. Ơn chữa lành
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Đức
Kitô mang lại nhiều an ủi, hy vọng và tình thương lại cho những ai may mắn đón
nhận lời Ngài mời gọi trong cuộc sống. Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rất nhiều
trường hợp Ngài gặp gỡ, an ủi và chữa lành họ. Một người trong số đó là bà nhạc
gia của ông Phêrô mắc bệnh sốt rét, nằm trên giường.
Người
lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài c.31
Tiếng
đồn lan nhanh, ngay tối hôm đó người ta kéo đến đông đảo xin Người chữa bệnh.
Đức
Kitô chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không
cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai c.34
Đức
Kitô chữa lành không phải chỉ khỏi bệnh mà còn ban cho họ ơn đặc biệt, biết
mình không những được bình phục và còn khoẻ hơn trước, tự tin hơn trước. Chương
thứ hai Phúc Âm thánh Marcô ghi lại câu chuyện một người bị liệt giường nhiều năm,
không thể di chuyển được phải nhờ bốn người bạn thương khiêng cả giường đến cho
Đức Kitô chữa bệnh. Đến nơi người ta ngồi đông không thể chen vào được. Bốn
người bàn nhau dỡ mái nhà thả chiếc giường có người bại liệt nằm trên đó. Đức
Kitô chữa lành người bại liệt bằng cách ra lệnh cho anh đứng dậy vác chõng mà
về. Ngay sau câu nói của Đức Kitô anh không cần thời gian hồi phục, lập tức
đứng ngay dậy vác chõng ra về trước mặt mọi người chứng kiến. Anh không những
được khỏi bệnh mà còn sạch tội trước mặt Chúa. Anh cảm thấy một sức mạnh nội
tâm vươn lên như suối nguồn vô tận đến từ trong tâm hồn.
Không
cần thời gian hồi phục đó cũng là kinh nhgiệm của bà nhạc gia ông Phêrô. Bà yếu
liệt do sốt rét hành hạ, ngay sau khi được chữa khỏi bà đứng dậy phục vụ các
ông, thực hành nhân đức bác ái. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong Phúc Âm thánh
Marcô thực hành nhiệm vụ tông đồ - phục vụ người khác. Có nhiều thứ bệnh không
phải chỉ làm cho con người suy nhược mà có khi nguy hiểm đến tính mạng, làm mất
tự tin, bế tắc sinh hoạt bình thường trong cuộc sống, tự mình không thể tiếp
tực công việc kiếm sống, không tự lo cho mình mà phải nhờ đến người khác giúp
đỡ. Bệnh tật cắt đứt mọi sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong cộng đoàn. Đức
Kitô chữa không những cho họ khỏi bệnh mà còn giúp họ nối kết lại với những gì
trước đây bị gián đoạn, ngăn trở. Tiếp tục lại công việc, tự mình lo cho mình
và lo cho tha nhân, nối lại sinh hoạt với cộng đoàn đức tin mà có thời họ tích
cực sinh hoạt.
Đức
Kitô có thói quen tốt lành là sau một ngày làm việc mệt mỏi sáng sớm hôm sau
Ngài luôn tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện. Ngài bắt đầu một ngày mới bằng việc cầu
nguyện, liên kết với Chúa Cha, hội í với Chúa Cha về chương trình cứu độ nhân
loại. Nhớ lại trước khi bắt đầu rao giảng công khai Đức Kitô cũng đã ở trong
hoang địa một thời gian lâu. Thời gian trong hoang địa là thời gian cầu nguyện.
Thời gian trong hoang địa để nhìn lại mối liên kết với Chúa Cha, nhìn lại bước
đường đã qua và hoạch định cho bước đường kế tiếp, là thời gian chuẩn bị cho
chương trình chữa lành và quan trọng hơn là chương trình cứu độ.
Khác
với các thế lực trần thế, họ dựa vào sức mạnh của vũ khí, vũ khí càng tân tiến,
sức công phá càng mạnh họ càng có lợi thế trong cuộc chiến. Đức Kitô không nhờ
vào sức mạnh của vũ khí chiến tranh. Vũ khí của Ngài chính là tình yêu, cải hoá
con tim người ta bằng tâm tình yêu mến, và thực thi bác ái với tha nhân. Ngài
thắng con tim người ta và ban cho con tim đó một sức sống mới, sức sống phát
xuất tự tâm, thay đổi lối suy nghĩ và tìm nguồn vui trong phục vụ.
17. Cầu nguyện trong đời thường
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 1:
29-39: Đoạn
Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu: Ban ngày giảng
dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi
thanh vắng để cầu nguyện”...
Mấy năm trước đây tạp chí Thế
Giới Ngoài Trời (Outdoor World) có đăng một bài của Barry Lopez như sau:
"Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng
trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương.
Barry vừa nhớ lại một buối sáng
y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một
mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội
trở về chú bé Barry hỏi ông nội đã đi đâu và làm gì.
Ông nội mỉm cười, ôm choàng
Barry rồi nói: "Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa
phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên
mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với
toàn thể vũ trụ.
Barry nhớ lại lời ông nội đã
từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên
tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì
gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về
nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu
được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry
có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện.
Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé
rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.[1]
Đoạn
Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu:
Ban
ngày giảng dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi
đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện”.
Lý do
khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm, đó là tự đổi
mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Chúng
ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể
tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống,
chúng ta cần có một nơi yên tĩnh.
Chúng
ta cần phải học nơi Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm.
Ra đi
cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam
kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có
được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống
trên.
Sau
một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà
thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh
Thể trong nhà tạm.
Ngày kia, một người bạn trẻ chờ
cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có
nghe Chúa nói gì với cụ không?
- Cụ già chậm rãi trả lời:
- Chúa không nói gì hết, Ngài
chỉ nghe thôi.
- Vậy thì cụ nói những gì với
Chúa?
- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ
nghe thôi.
Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ
ngàng, cụ nói tiếp:
- Lão thấy có bốn giai đoạn
trong đời sống cầu nguyện.
Thời gian đầu thì lão nói, Chúa
nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe.
Giai đoạn kế tiếp thì không ai
nói hết vì cả hai cùng nghe
và giai đoạn cuối là lúc không
ai nói mà cũng không ai nghe.
Tất cả
chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối.
Lạy Thiên
Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
- Xin
dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm
nhuần Lời Hằng Sống.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha
nhân, biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo
đói,
để
khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui
cho muôn người, tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước
dối trá.
- Cuối
cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn,
ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.[2]
------------------
[1]
Cha Mark Link, SJ, CN 5B TN
[2]
Lời nguyện của Mẹ Têrêxa Calcutta
18. Đời sống thường nhật
(Suy niệm của An Phong, OP)
Thánh Máccô trình bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu,
một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh, rao giảng Tin mừng, nhưng vẫn dành
thì giờ cho việc cầu nguyện; một ngày lo chuyện "gia đình" của những
người thân thuộc, nhưng không quên ra đi "đến các làng xã chung
quanh". Một bản văn tóm tắt như thế cho ta thấy những khía cạnh chính yếu
của cuộc đời Đức Giêsu. Cuộc đời phong phú của Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía
cạnh: chiêm niệm và hoạt động, việc nhà và việc nước, với Chúa Cha và với con
người... Đời sống đó trở nên nguồn mạch mẫu mực cho nhiều lối sống khác nhau,
những ơn gọi khác nhau.
Ngày nay, trong Hội thánh, chúng ta thấy có nhiều ơn gọi
khác nhau: ơn gọi gia đình, đơn gọi tu trì, ơn gọi giáo sĩ; chúng ta cũng thấy
có nhiều linh đạo khác nhau, linh đạo chiêm niệm, linh đạo hoạt động, linh đạo
bác ái, linh đạo rao giảng Tin mừng.... Tất cả những bậc sống và những linh đạo
ấy đều bắt nguồn từ chính đời sống của Chúa Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu
làm mẫu mực cho mình. Như thế, nếu ta có nhận ra một ơn gọi, một tác vụ nào
được Chúa kêu gọi và trao phó cho mình, thì đồng thời ta cũng phải hiểu rằng
còn có nhiều ơn gọi và linh đạo khác trong Hội thánh của Chúa. Nhất là ta phải
hiểu rằng những bậc sống ấy gắn bó chặt chẽ với nhau, những tác vụ khác nhau ấy
tương tác lẫn nhau cách mật thiết. Do vậy, những con đường khác nhau ấy cần tìm
thấy mối liên đới hữu ích và sung mãn trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.
Hội thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, chính Thánh Thần của
Đức Kitô là nguyên lý sống của Hội thánh và Thánh Thần làm cho Nhiệm Thể cũng
được liên kết, thống nhất với Đầu là Chúa Kitô, trong cách thức hiện hữu cũng
như trong hoạt động. Như thế, có thể nói được rằng một bậc sống nào mà muốn
loại trừ hoặc khinh thường bậc sống khác là không có Thánh Thần của Chúa; một
linh đạo nào không thể chấp nhận hoặc không liên kết với một linh đạo khác thì
chẳng thể xuất phát từ Thánh Thần của Chúa Kitô được.
Trong "một ngày sống" của Chúa Giêsu Kitô, có
tất cả đời sống và hoạt động của Hội thánh Chúa; có tất cả mọi hoạt động và
linh đạo của mỗi người và mỗi đoàn thể của Hội thánh hôm nay.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã sống một cuộc đời phong
phú
và hữu ích cho con người biết
bao.
Ngày hôm nay, Chúa ngự vào lòng
con,
Chúa ở với con và làm việc
trong con,
xin cho con được cùng với Chúa
để sống, sống phong phú
và hữu ích cho anh chị em của
con
như Chúa đã từng sống.
19. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
SỐNG HẾT MÌNH VÌ MỌI NGƯỜI
Chúa
Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha
và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
"Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa" nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi
nhân loại, Người đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô
lệ" (Pl 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại
lầm than.
Người
hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng
Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
"Máu
các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian,
Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân
thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa:
Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài." (Dt 10, 4-7)
Sở
thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực
hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
"Ta
từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta"
(Ga 6, 38)
Người
coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người.
Người nói với các môn đệ: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta
và chu toàn công việc của Người" (Ga 4, 34)
Người
quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy
sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài
đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ
hôi máu:
"Abba,
lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một
theo ý Cha mà thôi." (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không
chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình
vì nhân loại là anh em của Người.
Tin
Mừng Máccô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những
lầm than khốn khổ của kiếp người:
"Vừa
ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê.
Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang
lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài.
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ
thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là
ai."
Và khi
trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian
tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
"Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó."
Cầu
nguyện chưa được bao lâu, "Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp
Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Chúa
Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn
vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu
số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế
nên "Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã
chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó." Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của
họ, và trừ quỷ."
***
Người
đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt
động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái
lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới;
chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người
làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết
sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng
sống mình.
***
Là một
bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân,
không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử#cũng không sống cho
mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để
phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể
con người đều như thế cả.
Nếu
một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi# không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ
quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi chúng
ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân loại.
Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình, phải
cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống
hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi
gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình,
nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật
sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
20. Chúa Nhật 5 Thường Niên
ĐỨC GIÊSU MẪU GƯƠNG TUYỆT VỜI
Trong cuộc sống, con người luôn phải vất vả khó khăn chỉ
nhằm mục đích đơn giản chính là đi tìm hạnh phúc. Nhiều khi hạnh phúc đó không
tìm được mà lại bị đau khổ, vì "sinh - bệnh - lão - tử" không ai có
thể thoát được trên cõi đời này. Đặc biệt là thời Đức Giêsu y học chưa được
phát triển, mỗi căn bệnh có thể nói là một "cực hình" về thể xác lẫn
tinh thần. Cực hình về thể xác làm cho họ đau khổ, không thuốc men, bị bệnh tật
hành hạ. Nhưng so với đau khổ về tinh thần thì chưa thấm vào đâu. Vì quan niệm
của người Do Thái cho rằng những người bị bệnh chính lò do họ tội lỗi, do bị
phạt... cho nên bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Bài Tin Mừng hôm nay cho
thấy Đức Giêsu đã làm việc thật vất vả, chỉ nhằm cho con người được hạnh phúc,
Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau.
Ngài đã làm việc và cầu nguyện từ sáng sớm đến chiều hôm. Do đó, có thể nói Đức
Giêsu là con người của công việc và cầu nguyện:
1. Con người làm việc.
Trong bài Tin Mừng hôm nay chúng ta dễ dàng nhận ra các
mốc thời gian trong ngày mà Đức Giêsu sử dụng, Người không để một phút giây nào
trôi qua mà không có ý nghĩa, không có ích lợi. Một điều hay là chính Đức Giêsu
không phải sử dụng thời gian nhằm lợi ích cho mình nhưng Ngài đã sử dụng cho
người khác. Ngài làm việc chỉ nhằm đem lại hạnh phúc cho con người, tiêu biểu
chính là đem lại hạnh phúc cho bà mẹ vợ ông Simon "Lúc đó, bà mẹ vợ ông
Si-mon đang lên cơn sốt, nằm trên giường". Chắc chắn bà sẽ rất đau khổ.
Lúc khách đến nhà bà rất muốn để phục vụ nhưng không thể phục vụ, bà bị một lực
cản bệnh hoạn không thể làm cho bà đến được với Chúa, để phục vụ Người. Đức
Giêsu không những đã phá tan lực cản đó mà qua công việc làm của mình Ngài còn
làm tăng thêm lòng tin và động lực cho bà mẹ vợ ông phêrô, để chính khi hết
bệnh bà cũng đã biết làm việc như chính Đức Giêsu đã làm "Người lại gần,
cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài". Bà đã
cộng tác với Chúa qua việc làm của bà để đem đến chút lợi ích nào đó cho người
khác. Việc làm của đó nếu chỉ nhằm trả công cho Đức Giêsu thì nó thật không ý
nghĩa. Điều mà Đức Giêsu muốn chính là phải biết phục vụ và làm trong tình yêu
chứ không phải đặt trên bàn cân để so đo, để trả công, đó chỉ là những công
việc tiêu cực chưa có ý nghĩa cao thượng. Vì trên trần gian này rất hiếm khi
chúng ta gặp người nào lại tự ôm lấy vất vả, đón nhận vất vả, và làm bạn với
vất vả. Cuộc đời người ấy từ lúc sinh ra đến khi nhắm mắt lìa đời được dệt bằng
những vất vả triền miên. Đó là Chúa Giêsu, Đấng Thánh của Thiên Chúa, Đấng Cứu
Chuộc nhân trần. Định mệnh của ngài là sinh ra và chịu vất vả như chính Ngài đã
nói: "Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người." (Mc10,45)
Hơn nữa, ông bà ta thường hay dạy con cháu "Nhàn cư
vi bất thiện", khi mà người ta ở không thì dễ nghĩ đến điều xấu, từ đó sẽ
đưa đến hành động xấu. Chắc chắn điều này không phải hoàn toàn đúng, nhưng phần
lớn ai cũng chấp nhận nó. và chính chúng ta những người Kitô hữu lại càng phải
theo gương Đức Giêsu vì Người chính là mẫu gương tuyệt vời trong công việc.
"Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc". Do đó,
theo gương Chúa Giêsu. Vâng! Chỉ khi nào chúng ta biết nhìn lên Chúa Giêsu để
bằng lòng với cuộc sống của mình, thánh hóa nó và cho nó một giá trị cứu độ,
thì lúc đó con người mới nhận được giá trị và yêu mến những vất vả của mình. Và
lạ lùng thay, chính khi con người biết nhận ra những vất vả của mình, thì cũng
là lúc những vất vả ấy biến thành niềm vui và hạnh phúc. Vì nó đã được thánh
hoá và ban cho một giá trị cứu độ nhờ vào những vất vả của Chúa Giêsu.
2. Con người cầu nguyện.
Khi còn rất nhỏ, tôi vẫn còn nhớ như in câu giáo lý trong
sách "Bổn đồng ấu" dành cho các em chuẩn bị rước lễ:
Hỏi:
Đức Giêsu cầu nguyện khi nào và ở đâu?
Thưa:
Đức Giêsu cầu nguyện mọi lúc và mọi nơi.
Thú thật ngày đó tôi vẫn chưa hiểu gì về việc cầu nguyện,
nhưng chính cái hiểu đơn sơ đó đã khắc ghi vào trong tâm trí tôi hình ảnh cầu
nguyện của Đức Giêsu rất đẹp. Tôi biết Ngài cầu nguyện là nói chuyện luôn mãi
với Chúa Cha, mà ngày nay tôi tôi nhận ra sự cầu nguyện liên lỉ của Ngài với
Chúa Cha. Thánh Marcô đã tường thuật: "Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt,
Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó". Đó là một nét
nổi bật trong cuộc đời Chúa Giêsu. Người luôn luôn cầu nguyện với Thiên Chúa
Cha. Người cầu nguyện để cho các việc làm của Người đạt được nhiều kết quả tốt
đẹp, trong việc loan báo Tin mừng, trong việc "chữa nhiều kẻ ốm đau bệnh
tật, trong việc xua trừ ma quỷ". Vì vậy, mỗi người chúng ta cũng hãy biết
cầu nguyện như Chúa Giêsu đã từng làm, Ngài cầu nguyện trước mỗi công việc xin
Thiên Chúa ban ơn nâng đỡ, soi sáng. Trong công việc cầu nguyện xin Thiên Chúa
ban sức mạnh, sự kiên trì. Và cuối cùng khi hoàn thành thì cầu nguyện tạ ơn.
Đúng là một bài học cầu nguyện tuyệt vời mà không có nơi đâu chúng ta có thể
học được.
Lạy Chúa, khi bước theo Chúa
Giêsu chúng con nhận ra được mẫu gương làm việc và cầu nguyện, xin cho mỗi
người chúng con nhận ra sự vất vả trong công việc chính là ơn Chúa ban, để từ
đó chúng con luôn biết cầu nguyện và làm việc phục vụ Chúa và tha nhân. Amen.
21. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP.)
CON NGƯỜI TRỞ NÊN VĨ ĐẠI NHỜ
CẦU NGUYỆN
Pascal
là một nhà bác học nổi tiếng và cũng là một nhà triết gia lỗi lạc, ông đã có
một câu nói thời danh để đời như sau: “Con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện”.
Thật
vậy, con người là loài thụ tạo cao quý nhất mà Thiên Chúa dựng nên. Con người
có giá trị trổi vượt trên các loài thụ tạo khác. Tuy nhiên, con người chỉ có
thể trở nên vĩ đại nhờ có một mối tương quan mật thiết với Đấng là chủ tể của
mình ngang qua đời sống cầu nguyện. Bởi vì cầu nguyện là chiếc cầu nối liền
giữa Thiên Chúa và con người. Cầu nguyện làm cho con người tìm ra được nguồn
cội, cùng đích của cuộc đời. Cầu nguyện cũng giúp cho con người biết mình phải
làm gì và khước từ điều gì.
Hôm
nay, Tin Mừng thuật lại việc Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, người lánh sang một
nơi thanh vắng để cầu nguyện sau một ngày làm việc mệt nhọc với sứ vụ và tiếp
tục với hành trình rao giảng Tin Mừng mới. Điều này cho thấy: cầu nguyện là
việc vô cùng cao quý và quan trọng trong hành trình loan báo Tin Mừng của Đức
Giêsu cũng như người môn đệ.
1. Cầu nguyện không ngừng
Đã có
lần, Đức Giêsu nghe các môn đệ của mình kể về thành tích mà các ông đạt được
sau những ngày vất vả vì sứ vụ. Các ông trở về trong hân hoan và khoe với Ngài
về thành tích đạt được, nào là: thành công trong việc chữa lành bệnh tật, nhiều
người nghe lời các ông giảng và ngay cả ma quỷ cũng phải khuất phục (x. Mc 6,
30-31).
Tuy
nhiên, Đức Giêsu đã không khen ngợi các ông, Ngài cũng chẳng đề nghị các ông
tiếp tục thi hành. Và hoàn toàn không mở tiệc linh đình để tuyên dương kết quả!
Nhưng Ngài nói với các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh
vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6, 31). Nghỉ ngơi ở đây có nghĩa là trở về với
Thiên Chúa và với bản thân trong sự thinh lặng nội tâm sâu xa.
Còn
khi dạy các Tông đồ cầu nguyện, Ngài nói: “Phải cầu nguyện luôn mãi không ngừng
nghỉ” (Lc 18,1); chỗ khác Ngài truyền lệnh: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc
14,38). Hơn nữa, khi nói về giới hạn của con người và tầm quan trọng của cầu
nguyện, Ngài mặc khải: “Không có Thầy, chúng con không thể làm được gì” (Ga
15,5) Hay để khơi lên niềm tín thác vào Thiên Chúa là Đấng xót thương, Đức
Giêsu khẳng định: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì
sẽ được mở cho” (Mt 7,7).
Như
vậy, đời sống cầu nguyện là nền tảng để xây dựng đời sống Tông đồ nơi người môn
đệ. Cầu nguyện chính là hồn sống, là thước đo để biết được người Tông đồ thi
hành sứ vụ vì ai, cho ai và mục đích gì! Cầu nguyện còn để xác định rõ: “Mưu sự
tại nhân, thành sự tại Thiên”. Nói cách khác, đời sống cầu nguyện được ví cá
cần nước, cây cần ánh sáng, con người cần hơi thở.
2. Mẫu gương cầu nguyện nơi Đức
Giêsu
Khi
thấy được tầm quan trọng không thể thiếu của đời sống cầu nguyện, nên Đức Giêsu
không chỉ dạy các môn đệ cầu nguyện, nhưng chính Ngài đã làm gương về đời sống
cầu nguyện.
Thật
vậy, Ngài luôn luôn cầu nguyện trước, trong và sau khi làm bất cứ việc gì. Ngài
cầu nguyện trong sa mạc; nơi hội đường; trên triền núi; ngoài bãi biển....
Hôm
nay, thánh Máccô một lần nữa cho ta thấy Đức Giêsu coi trọng và ưu tiên hàng
đầu trong việc cầu nguyện, tác giả viết: "Sáng sớm lúc trời còn tối, Người
đã dậy đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó" (Mc l,35).
Khung
cảnh “sáng sớm” cho chúng ta thấy một đêm dài đã kết thúc và một ngày mới khởi
đầu. Thái độ cầu nguyện ngay từ khi trời còn tối báo cho chúng ta biết, Đức
Giêsu chắc chắn tạ ơn, chúc tụng quyền năng của Thiên Chúa qua những việc Ngài
đã làm trong ngày hôm trước như: thăm viếng, chữa bệnh, trừ quỷ…. Mặt khác,
trải qua một đêm có lẽ nhiều thao thức, trăn trở và lựa chọn để làm trong ngày
mới, nên ngay từ sáng sớm, Ngài đã xin ý của Thiên Chúa qua việc cầu nguyện, để
mọi việc được diễn ra trong thánh ý của Người. Chính vì điều này mà mọi hoạt
động của Đức Giêsu đều quy hướng về Thiên Chúa và mang lại vinh quang cho
Người.
Như
vậy, giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa có một sự gắn kết mật thiết đến độ không thể
tách rời đến nỗi đã có lần Đức Giêsu tuyên bố: “Ta và Cha ta là một”; hay
"lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất
công trình của Người” (Ga 4,34 ).
3. Cầu nguyện là nền tảng cho
mọi hoạt động
Ngày
nay, chúng ta thấy có rất nhiều sự rạn nứt qua các mối tương quan như: rất
nhiều cuộc hôn nhân đổ vỡ, vợ chồng không còn tin tưởng nhau, thiếu sự chung thủy.
Nạn phá thai diễn ra như cơm bữa. Lương tâm, chân lý không còn được lưu tâm hay
bị lệch lạc. Con cái vô cảm, bất hiếu và hỗn xược với đấng sinh thành. Anh chị
em trong gia đình loại trừ nhau. Hàng xóm láng giềng không còn chuyện “tối lửa
tắt đèn có nhau”! Thầy cô giáo và học trò ít quan tâm đến chuyện: “Tiên học lễ,
Hậu Học văn”; vì thầy chẳng ra thầy, trò chẳng ra trò! Bạn bè với nhau không
còn tính trung thực, mà thay vào đó là lợi dụng nhau, thanh toán nhau bằng nắm
đấm, song sắt, lưỡi lê….
Nguyên
nhân lớn nhất đó là thiếu hay coi thường hoặc không có đời sống cầu nguyện. Bởi
vì, không cầu nguyện, con người sẽ không nhận ra Thiên Chúa là ai cũng như
không biết coi trọng nhân phẩm của mình và của nhau. Không có đời sống cầu
nguyện, người ta cũng không tìm ra lý tưởng và không thể trả lời được về mục
đích của sự hiện hữu nơi mình trên trần gian. Đàng khác, khi đời sống cầu
nguyện bị sao nhãng, người ta cũng chẳng cần quan tâm đến sự thật và lòng trung
thành, từ đó, họ có thể làm bất cứ điều gì mà không sợ áy náy! Họ sẵn sàng
“dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt”; hay cả phương tiện và mục
đích đều xấu, nhưng lương tâm đã bị trai lỳ, vô cảm nên họ vẫn sẵn sàng làm cho
kỳ được để thỏa mãn điều mong muốn một cách bất nhân.
Hơn
nữa, nhiều người có cầu nguyện, nhưng sự hời hợt, qua lần chiếu lệ đã làm cho
họ chẳng khác gì như hạt giống gieo nơi vệ đường, trên bụi gai và nơi đá sỏi.
Hãy nhớ lại câu chuyện Tổ Tông sa ngã chỉ vì hiểu có một nửa sự thật!
Chính
vì thiếu đời sống cầu nguyện sâu xa như thế, nên việc sống đạo của chúng ta bị
nhàm chán, hờ hững và hình thức bên ngoài, khiến cho những công việc chúng ta
làm bị phản tác dụng khi nó quy chiếu về bản thân mình chứ không hướng về Chúa.
Muốn
khắc phục tình trạng trên, chúng ta cần chuẩn bị tinh thần thật minh mẫn, sốt
sắng, vui tươi như thể mình đang chuẩn bị đi gặp “người yêu”. Phải thực sự có
kinh nghiệm cá vị về Thiên Chúa. Mặt khác, chúng ta phải tin tưởng chắc chắn
rằng, chúng ta đang ở bên Chúa, Chúa đang ở bên ta, vì thế, cần có thái độ của
đức tin để phó thác, thái độ khiêm tốn để lắng nghe. Bởi vì: “Cầu nguyện là hô
hấp của tâm hồn”.
Chỉ có
thế, chúng ta mới có thể xóa đi cái “tôi” ích kỷ, hư ảo, kiêu ngạo, để thay vào
đó là sự khiêm tốn, hiền lành và khiêm nhường như Chúa. Như vậy, nhờ đời sống
cầu nguyện, chúng ta mới nhận ra: “Con người vĩ đại nhờ cầu nguyện”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con
biết đặt mình bên cạnh Chúa, được sống với Chúa, được nhìn ngắm Chúa, được lắng
nghe tiếng Chúa, được gặp gỡ Chúa, và được chìm sâu trong Chúa, Đấng cứu độ
chúng con ngang qua đời sống cầu nguyện. Amen.
22. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
CẦU NGUYỆN, YÊU THƯƠNG VÀ PHỤC
VỤ
Tháng
8 năm 1995, Liên Hiệp Bệnh Viện Phong Quốc Tế (International Leprosy Union) của
Ấn Độ bầu chọn Bác Sĩ Trần Hữu Ngoạn lãnh giải thưởng quốc Tế Ghandi. Bộ Trưởng
Y Tế liền lệnh cho Bác Sĩ và các cơ quan nhanh chóng làm hồ sơ để kịp đi. Bác
Sĩ Ngoạn trả lời trong một bức thư đề ngày 9 tháng 10 năm 1995: “Tôi công tác
phục vụ bệnh nhân phong đã lâu, thấy người bệnh đang còn bao nỗi khổ mà bản
thân mình vì nhiều lý do cũng chưa phục vụ họ được nhiều lắm. Từ nay đến cuối
đời, tôi sẽ để tâm trí phục vụ họ nhiều hơn nữa. Khi nào thấy mình xứng đáng
với giải thưởng lấy tên là Gandhi, lúc đó được Bộ cho phép làm hồ sơ nhận giải
thưởng thì tôi vô cùng sung sướng và thanh thản.” Sau đó qua các cơ quan y tế
và Vụ Hợp Tác Quốc Tế, Bác Sĩ Bộ Trưởng gởi kèm ít chữ sau đây cho Bác Sĩ
Ngoạn: “Rất thông cảm với sự khiêm tốn của anh. Đề nghị anh làm hồ sơ để nhận vì
vinh dự của đất nước, ngành và cá nhân. Sau này anh dùng số tiền đó cho cá nhân
hoặc cho sự nghiệp đều có lợi cả. Nên làm sớm cho kịp.” Với bức thư này, Bác Sĩ
đã rất ưu tư, tìm đến gặp tôi mong được soi sáng. Tôi chân thành góp ý nên đi,
để nhiều bệnh nhân được nhờ. Bác Sĩ bèn nổi nóng, cho tôi biết: “Quỳnh Giao có
biết Bộ Trưởng nói gì với tôi không? Anh nhận đi, một phần dành cho anh và phần
còn lại cho Bộ.” (Giải thưởng là 30.000 USD). Tôi buộc phải trả lời: “Người
đáng nhận giải thưởng này nhất, là các Nữ Tu Phan Sinh và các bệnh nhân của
họ.” Và Bác Sĩ đã không làm hồ sơ nhận giải thưởng trên. Nhiều nhà báo sau đó
đến phỏng vấn Bác Sĩ và muốn biết vì lý do gì mà Bác Sĩ không nhận. Bác Sĩ trả
lời: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh những người tu hành của dòng tu này
mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện
làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh. Họ không
muốn những lời ca tụng. Cuộc sống của họ tuân theo một nguyên tắc thật đơn giản:
“bàn tay trái không được biết việc làm của bàn tay phải và ngược lại.” Nhiều
tấm gương của dòng tu này đã được nhiều bệnh nhân truyền tụng. Họ kể về soeur
Charles Antoine, nguyên là giám đốc trại, có lần đến thăm nơi ăn ở của bệnh
nhân, thấy một hố xí bị tắc mà không ai dám dọn, Bà liền thọc tay xuống và moi
từ dưới lên những mảnh giẻ mà họ đã vô ý vứt xuống. (Trần Thị Quỳnh Giao – FMM,
Một con người, một bác sĩ, một tín hữu)
Trích
đoạn trên thuật lại thời gian Bác sĩ Trần Hữu Ngoạn bỏ tương lai, bỏ phố xá, bỏ
cả gia đình, vợ con, để chuyên tâm phục vụ trại phung xa xôi, hẻo lánh. Tin
Mừng hôm nay, Thánh sử Marcô tường thuật một ngày trong đời rao giảng của Đức
Giêsu. Vừa chữa xong nhạc mẫu ông Phêrô khỏi cơn sốt rét, Người còn tiếp tục
chữa nhiều bệnh nhân và trừ quỷ. Sáng sớm hôm sau, Người đã ra nơi thanh vắng
cầu nguyện. Rồi mời gọi các môn đệ tiếp tục lên đường rao giảng Tin Mừng.
Cầu nguyện
Suốt
cuộc đời Đức Giêsu luôn kết hiệp mật thiết, gặp gỡ Thiên Chúa Cha, luôn lắng
nghe Thánh Ý qua những giờ cầu nguyện hằng ngày. Để chuẩn bị cho sứ mạng loan
báo Tin Mừng, Đức Giêsu đã vào hoang mạc trọn 40 ngày đêm chay tịnh và cầu
nguyện (Mt 4, 2). Bước vào cuộc đời công khai rao giảng, Người cũng thường
xuyên sớm tối cầu nguyện cùng Thiên Chúa Cha. “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt,
Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” (Mc 1, 35)
Người
còn sốt sắng cầu nguyện nhiều đêm liền trước khi quyết định chọn các Tông Đồ:
“Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm
cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười
hai ông, gọi là Tông Đồ.” (Lc 6, 12-13)
Sau
khi làm phép hóa năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người đàn ông no nê,
“lập tức, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia, về phía thành
Betsaiđa trước, trong lúc Người giải tán đám đông. Sau khi từ biệt các ông,
Người lên núi cầu nguyện.” (Mt 6, 45-46) Vì thế, Người luôn làm đẹp lòng Chúa
Cha: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con.” (Mc 1, 11) Đức Giêsu hiệp
nhất với Chúa Cha đến nỗi Người đã phán: "Bất kỳ ai thấy Ta là thấy Cha
Ta" (Ga14, 9).
“Con
hãy cầu nguyện luôn, bất cứ ở đâu. Chúa Giêsu đã nói: “Hãy tỉnh thức và cầu
nguyện.” (Đường Hy Vọng, số 123)
Yêu thương & khiêm tốn phục vụ
Đức
Giêsu không chỉ ân cần giảng dạy, mà còn thương yêu, gần gũi, chữa trị, phục vụ
những ai đau yếu, bệnh hoạn tìm đến, hoặc chính Người tìm thấy: “Lập tức họ nói
cho Người về tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn
sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.” (Mc 1, 30-31) Không cần lời van xin,
không chần chừ e ngại đụng chạm, cứu nhân như cứu hỏa, Đức Giêsu hành động
ngay, bằng một cử chỉ thân thương, gần gũi, nhân ái, giải thoát bà nhạc mẫu của
ông Phêrô khỏi cơn sốt rét. Người cũng giải thoát mọi người khỏi ma quỷ ám hại,
khỏi sự dữ, khỏi tội lỗi và sự chết: "Này con, con đã được tha tội
rồi." Người đã phán khi chữa lành người bất toại ở Capharnaum. (Mc 2, 5)
Hoàn
toàn xả kỷ, vị tha, hy sinh, hiến mình cho tha nhân, Người chẳng nề hà liên tục
chữa bệnh, trừ quỷ cho tất cả bệnh nhân nào tìm đến cả suốt buổi chiều cho đến
tận tối khuya: “Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và
những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa
nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói,
vì chúng biết Người là ai.” (Mc 1, 31-34) Khiêm tốn ẩn mình đằng sau những phép
lạ, Đức Giêsu tránh khoa trương tự mãn theo thói đời. Cũng như không muốn các
môn đệ nhiễm thói kiêu căng, tự phụ, tự đắc, Người bắt các môn đệ xuống thuyền
qua bờ bên kia, ngay sau phép lạ hóa bánh ra nhiều.
“Con
đừng nghĩ dấn thân là lao mình vào những hoạt động hăng say náo nhiệt. Con hãy
hiểu dấn thân sâu hơn: “Theo gương Chúa, yêu thương đến mức độ quên mình hoàn
toàn vì người khác, hiến mình hoàn toàn, hiến mình nhưng không, để hiệp nhất
với kẻ khác, hầu họ được phong phú và công việc Chúa nơi họ được thành công.”
(Đường Hy Vọng, số 605)
Quảng đại đi gieo
Ơn cứu
độ vốn phổ quát cho mọi người, Không dành riêng độc quyền cho ai hay nhóm nào,
cộng đoàn nào, hoặc dân tộc nào, Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ nhanh chóng tiếp
tục lên đường đến các cánh đồng mới. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng
mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và
trừ quỷ. (Mc 1, 38-39)
Ơn gọi
truyền giáo là trách nhiệm, nghĩa vụ của toàn thể Dân Chúa. Hồng ân nhận biết
Chúa được lãnh nhận nhưng không, thì cũng phải cho đi nhưng không.“Vậy anh em hãy
đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,” (Mt 28, 19)
“Chúa
bảo con: “Hãy đi rao giảng Phúc Âm.” Chúa không ra thời khóa biểu, không vạch
kế hoạch, Chúa để con sáng kiến thực hiện, niễn là con mang Phúc Âm.” (Đường HY
Vọng, số 74)
Lạy Chúa Giêsu, xin cứu chữa
bệnh tật chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi tội lỗi, xin dạy chúng con
cầu nguyện liên lỷ và xin ban chúng con can đảm rao giảng Tin Mừng đến với mọi
người, mọi nơi và mọi lúc.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ cầu bầu
chúng con biết ăn năn, sám hối, canh tân cuộc đời. Xin Mẹ nhắc nhở chúng con
siêng năng cầu nguyện, để luôn được sống bên Chúa, cũng như được trở nên ngọn
đuốc giữa thế gian đen tối. Amen.
23. Cầu nguyện và đi gieo
(Suy niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Bài Tin Mừng hôm nay tuy vắn gọn, nhưng rất rành mạch và
súc tích, để mô tả khái quát một ngày tất bật và vất vả trong sứ vụ của Chúa
Giêsu. Những ai tình nguyện đi theo Người, thì không thể không tuân thủ theo
thời khóa biểu khít khao và tận tụy đến như thế.
Việc đầu tiên: Cầu nguyện.
Ngay sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra
một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó. (Mc 1, 35) Khởi đầu cho môt ngày rao
giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu lặng lẽ cầu nguyện, để kết hợp mật thiết với Chúa
Cha., để tìm hiểu và đón nhận Thánh Ý nhiệm mầu, để bổ sung nguồn lực yêu
thương, để bù đắp thêm sức mạnh Thánh Thần.
Khi siêng năng chạy đến cùng Chúa Cha mỗi sáng sớm tinh
mơ, Người muốn nhắn nhủ và dạy bảo các môn đệ, giờ phút cầu nguyện quan trọng
biết dường nào trong sứ vụ Đi Gieo. Không cầu nguyện thì tựa như đánh mất mối
giao hảo thánh thiêng với Thiên Chúa, các môn đệ sẽ dần xa cách Chúa, sẽ dần xa
rời nguồn lực nuôi dưỡng và bổ sung quan trọng cho Ơn Gọi.
Việc thứ nhì: Đi Gieo
Sau khi đã thỉnh Thánh Ý, gia tăng thần lực, Chúa Giêsu
mới đến với con người, tận tâm rao giảng Tin Mừng. Người không chỉ dùng lời nói
xuông, mà còn cả thái độ khiêm tốn và hành vi ân cần, để gần gũi chăm sóc đoàn
chiên. Khi được biết bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường,
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài. (Mc 1, 31)
Như thế, Đi Gieo còn có ý nghĩa là tri hành hợp nhất.
Dùng ngay hành động để minh chứng cho lời nói. mới phù hợp với nhu cầu cấp bách
hiện đại. Thời nay, người ta cần những chứng nhân hơn thầy dạy, hoặc nếu cần
thầy dạy thì trước tiên người ấy phải là chứng nhân. (Đức Phao-lô đệ lục)
Việc thứ ba: Phục vụ
Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, chẳng kịp nghỉ ngơi Chúa
Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. (Mc 1, 34)
Chúa Giêsu luôn quên cả bản thân, luôn lắng nghe, luôn đáp ứng và phục vụ những
nhu cầu của mọi người, để giúp đỡ, an ủi, chữa lành những vết thương thể xác
lẫn tinh thần. Noi gương Người, thánh Phaolô sau này, đã chia sẻ với tín hữu Cô
rin tô: Phải, tôi là người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành
nô lệ cho mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu
với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho
mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả
những điều đó, để được thông chia phần phúc của Tin Mừng. (1Cr 9, 19, 22-23)
Lạy Chúa Giêsu giàu lòng thương
xót, xin giúp con luôn gần gũi với Chúa hằng ngày bằng lời cầu nguyện, để con
được thêm sinh lực theo đuổi Ơn Gọi mà Chúa trao phó.
Lạy Mẹ chí ái, xin đốt lửa mến
trong lòng con, để con siêng năng tâm tình với Chúa, cũng như ban cho con thêm
đức ái, để luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
24. Sống vì mọi người
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nhìn vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai
hạng người mang hai tính cách khác nhau rõ rệt: một là hạng người vị kỷ, hai là
hạng người vị tha.
Người vị kỷ
Người vị kỷ là hạng người chỉ biết sống vì mình, đặt bản
thân mình làm trung tâm cho cuộc sống. Tất cả mọi hoạt động của họ đều quy về
bản thân, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình mà không hề quan tâm giúp đỡ
người khác, thậm chí còn làm hại người khác để kiếm lợi cho mình.
Người vị tha
Người vị tha là người quên mình để quan tâm chăm lo, phục
vụ người khác. Chúa Giêsu là tiêu biểu cho hạng người nầy. Ngài chọn tha nhân
làm trung tâm cho tình yêu của Ngài hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho
sự phục vụ tận tuỵ của Ngài và Ngài làm tất cả những gì có thể, để mưu cầu hạnh
phúc cho nhân loại. Ngài chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác
đến độ hiến trao cả mạng sống mình.
Tin Mừng Mác-cô (1, 29-39) hôm nay phác hoạ lại chân dung
Đức Giêsu, một người hoàn toàn vị tha, luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm
than khốn khổ để giúp đỡ cứu vớt họ.
Hôm ấy, “Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có
ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên
cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài
lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Ngài. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ
bệnh tật và trừ nhiều quỷ.”
Sáng hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra
một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó.” Cầu nguyện chưa được bao lâu, “Ông
Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang
tìm Thầy đấy!”
Chúa Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Ngài trong phạm
vi nhỏ hẹp. Ngài muốn vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu
của Ngài cho một thiểu số, nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Ngài bảo
các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn
rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Ngài đi khắp miền
Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ.”
Nói tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa
Giêsu mà không được Chúa quan tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa
mà chẳng được Chúa dủ lòng thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người,
yêu thương hết mọi người và hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.
Sống vị tha theo gương Chúa Giêsu
Mỗi người là một tế bào, là một bộ phận trong một Thân
Thể lớn lao là nhân loại. Mỗi cá nhân được tồn tại và tăng trưởng là nhờ xã hội
và xã hội được phát triển cũng là nhờ vào từng cá nhân. Vì thế, mỗi người không
thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân
theo gương Chúa Giêsu.
Một cây cam được xem là đáng quý khi nó cống hiến nhiều
quả ngon trái ngọt cho chủ vườn. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp
cho đời sẽ làm cho bản thân mình trở nên cao quý hơn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa luôn vị tha và đã sống hết
mình vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi
gương Chúa, đừng ích kỷ chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho
mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho người khác.
Nếu hôm nay chúng con chỉ biết
chăm lo phục vụ bản thân mình mà không dấn thân phục vụ người khác, thì vào lúc
từ giã đời này, chúng con sẽ cùng chịu án phạt đời đời với lão phú hộ không
biết thương xót La-da-rô khốn khổ (Lu-ca 16, 19-31), hoặc như những người bị
Chúa lên án trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng” vì đã không yêu thương phục vụ
tha nhân chung quanh mình. (Mt 25, 31-46).
25. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
SỐNG HẾT MÌNH VÌ MỌI NGƯỜI
Chúa
Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha
và vì nhân loại.
Chúa Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
“Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân
loại, Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Philip 2,
6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người
hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng
Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
“Máu
các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian,
Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân
thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa:
Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.” (Do-Thái 10, 4-7)
Sở
thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực
hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
“Ta từ
trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta” ( Ga 6,
38)
Người
coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người.
Người nói với các môn đệ: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và
chu toàn công việc của Người” (Ga 4, 34)
Người
quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy
sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài
đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ
hôi máu:
“Abba,
lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một
theo ý Cha mà thôi.” (Mt 26, 39)
Chúa Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không
chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình
vì nhân loại là anh em của Người.
Tin
Mừng Mác cô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những
lầm than khốn khổ của kiếp người:
“Vừa
ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê.
Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang
lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài.
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ
thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là
ai.”
Và khi
trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời gian
tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
“Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó.”
Cầu
nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp
Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa
Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn
vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu
số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế
nên “Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi
khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
***
Người
đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt
động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái
lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới;
chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người
làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết
sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng
sống mình.
***
Là một
bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân,
không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử…cũng không sống cho
mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để
phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể
con người đều như thế cả.
Nếu
một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi… không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ
quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi
chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân
loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình,
phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống
hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin cho chúng con biết noi
gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh phúc cho mình,
nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì hạnh phúc chỉ thật
sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc cho nhiều người.
26. Nỗi niềm phàm nhân
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Không ai lại không có nỗi niềm. Đó là mối tâm sự riêng,
đôi khi khó nói ra. Nỗi niềm còn gọi là “khúc
nhôi” (*). Là phàm nhân, mỗi chúng ta có nhiều nỗi niềm lắm, bởi vì “đời là
bể khổ” mà!
Đã đành người đời cảm thấy đời người đầy gian khổ, mà
Kinh Thánh cũng công nhận như thế. Thật vậy, sách Huấn ca gọi kiếp phàm nhân là
“kiếp khốn khổ”: “Kể từ khi từ lòng mẹ sinh ra cho đến lúc trở về lòng đất mẹ,
mang thân phận con người, ai cũng canh cánh bên lòng một nỗi lo, là con cháu
Ađam, nợ phong trần đương nhiên phải trả. Điều không ngừng ám ảnh khiến lòng
người sợ hãi âu lo là cứ phải nghĩ rằng mình đang chờ chết. Từ bậc vua chúa
trên ngai vinh hiển đến kẻ cùng đinh chân lấm tay bùn, từ người cân đai áo mão
đến kẻ khố rách áo ôm, ai cũng đều giận dữ, ghen tương, băn khoăn, lo lắng, rồi
sợ chết, rồi hận thù cãi cọ” (Hc 40:1-4).
Ôi
chao, nghe sao mà “não lòng” quá! Tuy nhiên, “Chúa vẫn xót thương, thứ tha, không
tiêu diệt, nén giận đã bao lần, chẳng khơi bùng nộ khí. Người vẫn nhớ thân phận
chúng bọt bèo mỏng mảnh, gió thoảng qua, không hẹn ngày về” (Tv 78:38-39). Thế
thì lại không buồn, mà vẫn tín thác, mặc dù cuộc đời vẫn ngổn ngang bao nỗi
niềm của kiếp phàm nhân.
KHÓ KHĂN KÈM KHỐN KHỔ
Có lẽ chẳng ai khốn khổ bằng ông Gióp. Ông đã lâm cảnh
khó khăn đến tột cùng, và chịu khốn khổ quá đỗi, vì ngay cả người vợ cũng
nguyền rủa ông. Là con người nên ông cũng cảm thấy buồn, nên ông đặt vấn đề:
“Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi
ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” (G 7:1), và đó cũng chính là
câu trả lời. Rồi ông so sánh: “Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê
đợi tiền công. Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những
đêm đau khổ ê chề” (G 7:2-3). Đó là thực tế của kiếp người, vì ai sinh ra cũng
tay trắng và khi chết ai cũng trắng tay, thế mà người ta vẫn tìm cách giành
giật và kèn cựa nhau đủ cách – thậm chí có thể giết người để mình hưởng lợi!
Có thể ví giọt nước mắt là “biểu tượng” của kiếp người,
bởi vì cuộc đời buồn nhiều hơn vui, và luôn bị giằng co dữ dội, như Thánh
Phaolô đã từng thú thật: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi
không muốn, tôi lại cứ làm” (Rm 7:19). Trong ca khúc “Một Cõi Đi Về”, cố Ns
Trịnh Công Sơn cũng trăn trở: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi. Đi đâu loanh
quanh cho đời mỏi mệt. Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt. Rọi suốt trăm năm
một cõi đi về”. Và rồi ông lại tự nhủ: “Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!”. Hoặc như cố
Ns Y Vân đã than thở: “Buồn như ly rượu đầy, không có ai cùng cạn. Buồn như ly
rượu cạn, không còn rượu để say”. Còn thi sĩ Cao Bá Quát có cái nhìn khác: “Ba
vạn sáu nghìn ngày là mấy? Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười”. Thi sĩ trào
phúng có khác. Đúng là người có máu khôi hài có thể làm cho nỗi khổ bớt “cay
nghiệt” hơn.
Giữa gọng kềm Khó Khăn và Khốn Khổ, giống như trên đe
dưới búa, ông Gióp tiếp tục băn khoăn: “Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi
nào trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới
lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng” (G 7:4). Tại sao vậy? Ông cho biết rằng
“thịt tôi chai ra, dòi bọ lúc nhúc, da tôi nứt nẻ, máu mủ đầm đìa. Ngày đời tôi
thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng” (G 7:5-6). Dù
thất vọng nhưng ông không tuyệt vọng, mà vẫn không ngừng tín thác và cầu
nguyện: “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con
sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7:7). Thực sự tín thác vào Chúa thì mới khả
dĩ an tâm mà sống, và khả dĩ cảm tạ Chúa trong mọi sự:
Cảm tạ Ngài đã để con sống
nghèo thê thảm
Nhờ đó con mới cảm nhận đêm
Chúa giáng trần
Cảm tạ Ngài đã để con bị hàm
oan
Nhờ đó con mới cảm nhận lúc
Ngài bị xét xử
Cảm tạ Ngài đã để con bị người
ta ghét bỏ
Nhờ đó con mới thấy cảm thương
những người cô đơn
Cảm tạ Ngài đã để con là người
bình thường
Nhờ đó con mới cảm nhận thế nào
là mơ ước
Cảm tạ Ngài đã để con bị thua
thiệt
Nhờ đó con mới biết khao khát
vươn lên
Cảm tạ Ngài đã để con không
hiểu thấu những điều cao siêu hơn
Nhờ đó con mới không sa vào hố
kiêu ngạo
Cảm tạ Ngài đã để con được là
người Công giáo
Nhờ đó con mới cảm nhận mầu
nhiệm Lòng Chúa Xót Thương
Cảm tạ Ngài đã để con tha
phương
Nhờ đó con mới có thể hòa đồng
với người xa, kẻ lạ
Cảm tạ Ngài đã để con con mồ
côi cả Cha lẫn Mẹ
Nhờ đó con mới biết trân quý
tình cảm gia đình
Cảm tạ Ngài đã để con “lạc
loài” giữa cuộc đời loanh quanh
Nhờ đó con mới
cảm nhận thế nào là bóc lột, áp bức
Đường đời không như tấm thảm nhung, chính Chúa Giêsu cũng
đã phải trải qua gian khổ mới tới vinh quang. Tất cả đều là hồng ân (Rm 4:16),
luôn nhờ Lòng Chúa Xót Thương, nếu Chúa chấp tội thì chắc chắn chẳng có ai đứng
vững (x. Tv 130:3). Bởi vì “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến
chúng ta” (Ep 2:4), thế nên “muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 136).
Đó là mầu nhiệm của tình yêu thương, của Lòng Chúa Thương Xót.
Đã là mầu nhiệm thì chúng ta không thể hiểu thấu, chỉ
hiểu được phần nào mà thôi. Do đó, “hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên
Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy!” (Tv
147:1). Chính Chúa “chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, và băng bó cho lành những vết
thương” (Tv 147:3). Chúa đã “ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng
ngôi một” (Tv 147:4). Chúa còn “nâng đỡ kẻ thấp hèn và hạ bọn gian ác xuống đất
đen” (Tv 147:6).
TIN TƯỞNG TIẾP TẶNG THƯỞNG
Tin tưởng là điều cần thiết trong cuộc sống – tin người
và tự tin. Về tâm linh, niềm tin còn cần thiết hơn, và đó chính là đức tin –
một trong ba nhân đức đối thần. Với kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô nói:
“Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự
cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin
Mừng!” (1 Cr 9:16). Vì “tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công,
còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó” (1 Cr 9:17).
Đối với Thánh Phaolô, phần thưởng là “rao giảng Tin Mừng
không công”, và chân thành chia sẻ: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để
chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi
cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng
được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23). Như vậy mới thực sự
hành động vì sáng Danh Chúa, vì nếu không khéo thì chỉ sáng danh chúng ta mà
thôi. Tôi tìm tiếng tăm thì tôi thật tồi tệ!
Có câu chuyện về Thánh Tôma Tiến sĩ (Thomas Aquinas,
1225-1274) thế này: Có tiếng nói từ Thập Giá: “Tôma, con đã viết hay về Ta. Con
muốn phần thưởng gì cho công việc của con”. Thánh Tôma trả lời: “Lạy Chúa, con
chỉ muốn chính Ngài”. Và đó mới thực sự là phần thưởng tuyệt vời nhất – cả đời
này và đời sau.
Thánh sử Mác-cô cho biết rằng nhạc mẫu của ông Simôn đang
lên cơn sốt và nằm trên giường. Chúa Giêsu lại gần, “cầm tay bà mà đỡ dậy”, thế
là “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài” (Mc 1:31). Chiều đến, khi mặt trời
đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Chúa Giêsu
chữa. Ngài đã chữa khỏi đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ. Ngài không cho quỷ
nói, vì chúng biết Ngài là ai.
Chuỗi sinh – lão – bệnh – tử là quy trình tự nhiên của
đời người. Thích Ca Mâu Ni là một hoàng tử sống sung sướng trong hoàng cung,
nhưng ông đã “giác ngộ” sau khi ra khỏi hoàng cung và nhìn thấy thực tế của
cuộc đời trần gian, thế là ông có tứ diệu đế: Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là
khổ, và tử là khổ. Thế đấy, khổ là… khổ. Mà khổ thật!
Tin Mừng cho biết rằng ngay từ sáng sớm, lúc trời còn tối
mịt, Chúa Giêsu đã thức dậy, đi ra chỗ tĩnh mịch và cầu nguyện ở đó (Mc 1:35).
Tĩnh lặng và cầu nguyện là hai điều cần thiết, nhất là khi thức dậy mỗi sáng,
nếu thực sự muốn giao tiếp mật thiết với Thiên Chúa. Trước khi làm gì thì phải
đắn đo suy nghĩ. Tương tự, trước khi hành động thì phải cầu nguyện. Không thấy
Thầy nên các môn đệ kéo nhau đi tìm Ngài, nhưng Ngài bảo: “Chúng ta hãy đi nơi
khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra
đi cốt để làm việc đó” (Mc 1:38). Và rồi Ngài đã đi khắp miền Galilê, rao giảng
trong các hội đường, chữa bệnh và trừ quỷ.
Mỗi chúng ta – không trừ ai – cũng có trách nhiệm rao
giảng về Chúa mọi nơi và mọi lúc, tùy theo hoàn cảnh và cương vị của mình,
chính cách sống của chúng ta sẽ “nói” nhiều và có tác dụng hữu hiệu nhất. Nói
ít mà làm nhiều luôn tốt hơn nói nhiều mà làm ít. Thiên Chúa cũng rất muốn
người ta phải thể hiện ngôn hành song song: “Hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ
đội lốt chiên mà đến với anh em, nhưng bên trong họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem
họ sinh hoa quả nào thì biết họ là ai. Ở bụi gai làm gì có nho mà hái? Trên cây
găng làm gì có vả mà bẻ? Hễ cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu”
(Mt 7:15-17; Lc 6:43-45). Sự phân tích và dẫn chứng rất cụ thể!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con
không ngừng cố gắng vẽ bức-tranh-cuộc-đời-con bằng chính nét-cọ-số-phận của
chính con theo Thánh Ý Ngài và vì Ngài, thực sự mong làm sáng danh Ngài, và có
thể sinh hoa kết trái tốt. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng cứu độ
nhân loại. Amen.
---------------------
(*) Khúc Nhôi hoặc Khúc Nôi là danh từ cổ, thường chỉ
dùng trong văn chương, nghĩa là đầu đuôi của câu chuyện lòng, của nỗi lòng, của
tâm sự thầm kín. Trong phần điệp khúc của bài thánh ca “Dâng Hồn Xác”, cố NS
Hùng Lân có sử dụng từ này: “Con kính dâng Cha cùng bánh và rượu nho, Hồn con
đây với xác con đây, Ðền vì bao tội lỗi xưa nay. Con dám trông mong thành áng
trầm thơm tho, Bay tới trước dung nhan thánh Người, cảm mến Cha lành tự tình
khúc nhôi”.
27. Kiếp khổ
(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)
Đời là bể khổ. Đó là câu nói “cửa miệng” khi người ta nói
tới cuộc đời. Khi sinh ra, ai cũng cất tiếng khóc chào đời. Chào đời là vui mà
không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài? Chúa Giêsu cũng đã
nói: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34). Ông Thích Ca Mâu Ni vốn là
một hoàng tử, sống sung sướng an nhàn, nhưng sau khi tham quan bốn cửa thành,
ông đã nhìn thấy dân chúng đau khổ, rồi “giác ngộ” và nhận định: “Sinh là khổ,
lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ”. Phật giáo bốn chân lý cao cả làm nền
tảng, đó là Tứ Diệu Đế (còn gọi là Tứ Thánh Đế): Khổ đế (chân lý về sự đau
khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt
khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).
Quả
thật, cái khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới
khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn
chạnh lòng thương khi người ta chịu sự kìm kẹp của đau khổ. Ở đâu cũng có đau
khổ: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu
cho khỏi nắng. Càng tránh đau khổ thì càng đau khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách
“đi xuyên qua nó”, tức là coi nó như không có, chấp nhận nó: “Ai muốn theo
Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc
9:23). Đau khổ là mầu nhiệm. Dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn PHẢI
chịu đau khổ (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; ; Lc 17:25). Ngài chịu đau
khổ để cứu độ nhân loại.
Đau
khổ như ma quỷ, nó cứ “ám” chúng ta suốt ngày đêm. William Arthur Ward
(1921-1994, ký giả và thi sĩ Mỹ) rút ra kinh nghiệm: “Người khôn ngoan là người
học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ
là ống nghiệm” (Wise are they who have learned these truths: Trouble is
temporary, time is tonic, tribulation is a test tube). Dù sao thì cũng phải ráng
thôi!
Đau
khổ xuất hiện ở mọi nơi và mọi lúc, từ khi Nguyên Tổ nghe lời xúi dại của Con
Rắn. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu (St 6:5-6). Thiên
Chúa không gây ra điều ác, vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng
của con người gây ra tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết (x. Gc 1:13-15). Đó
là quy trình của đau khổ trên thế gian này.
Trong
dịp ĐGH Phanxicô tông du Phi Luật Tân hồi trung tuần tháng 1-2015, bé gái mồ
côi Glyzelle đã khiến ngài và cả thế giới mủi lòng khi em hỏi trong niếng nấc
nghẹn ngào: “Tại sao Thiên Chúa cho phép chuyện này xảy ra? Trẻ em không có lỗi
chi. Tại sao chúng con chỉ được một số ít người giúp đỡ?”. Một câu hỏi hóc búa
quá! ĐGH Phanxicô cũng không biết phải nói gì hơn là ôm chặt em trong vòng tay
yêu thương và cảm thông.
Ông
Gióp là hiện thân của đau khổ, dù ông sống tốt lành. Ông nhận xét: “Cuộc sống
con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung
vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm
thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận
của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào
trời sáng?’. Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’. Mãi tới lúc
hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4). Cả cuộc đời hầu như phàm nhân
không được ngơi nghỉ, lo rồi sợ, sợ rồi hoang mang. Cứ thế, kiếp người bị đày
đọa trong kiếp khổ triền miên, cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng!
Thất
vọng rồi hầu như tuyệt vọng. Ông Gióp tha thiết cầu xin: “Ngày đời tôi thấm
thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin
Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao
giờ” (G 7:6-7). Buồn quá! Não nề quá! Thế nhưng bị đau khổ có khi lại là cái
may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, lúc đó còn nguy hại hơn là chịu đau
khổ.
Cái
mình bảo là hên nhưng lại có thể là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên,
giống như chuyện Tái Ông mất ngựa vậy. Nhưng tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm
mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Vậy thì chúng ta lại phải tạ ơn Ngài mà
thôi, như tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên
Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa
là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Ítraen tản lạc về” (Tv 147:1-2).
Thiên
Chúa giàu lòng thương xót, Ngài đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người
khác chịu mất mát, đau khổ (Lc 11:35). Kinh Thánh cho biết: “Người chữa trị bao
cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các
vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô
biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ
xuống đất đen” (Tv 147:3-6). Thiên Chúa của chúng ta luôn trắc ẩn, đặc biệt là
đối với những người hèn mọn. Chính người đời còn biết nhận xét: “Cánh cửa này
khép lại, cánh cửa khác mở ra”. Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc không
lối thoát giữa những nỗi đau khổ hằng ngày trên đường lữ hành trần gian.
Dù
chịu bao gian khổ, nhưng Thánh Phaolô vẫn kiên trì và tự nhủ: “Đối với tôi, rao
giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt
buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr
9:16). Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Thánh Phaolô
lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu
không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng
của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng
quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc
vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được
nhiều người” (1 Cr 9:15-19). Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận
và tự nguyện chịu đau khổ. Ngược đời thế đấy!
Thánh
Phaolô nói và làm thật, không nói suông: “Tôi đã trở nên yếu với những người
yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để
bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó,
để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng” (1 Cr 9:22-23).
Sinh,
lão, bệnh, tử là bốn “mũi nhọn” chĩa vào con người. Đánh vần chữ KHỔ là “ca hát
ô khô hỏi Khổ”, “ca hát” thì vui, thế mà chả vui tí ti nào. Khổ thật! Có lẽ vì
thế mà ngày nay người ta đánh vần là “khờ ô khô hỏi Khổ”, khổ quá nên “khờ”
phải rồi! Và Tin Mừng hôm nay (Mc 1:29-39) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một
trong bốn cái khổ đó.
Một
hôm, vừa ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và
Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đây là hai “cặp bài trùng” được
Chúa Giêsu gọi làm các môn đệ đầu tiên. Lúc đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên
cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần,
cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Tin
lành hoặc tin dữ luôn được người ta đồn rất nhanh. Chiều đến, khi mặt trời đã
lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử
Mác-cô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa”. Thế thì đông lắm, đông
như kiến, vì ai cũng muốn tận mắt chứng kiến “sự lạ” nhãn tiền. Hôm đó, Đức
Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không
cho quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì
“giờ của Ngài chưa đến”.
Hôm
sau, mới sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng
và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện
là điều vô cùng cần thiết, nhất là khi mới thức dậy. Không thấy Sư Phụ Giêsu
đâu, ông Simôn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi
người đang tìm Thầy đấy!”. Cà phê cà pháo chi sớm rứa? Ăn sáng thì càng phải từ
từ chứ!
Nghe
mấy đệ tử nói vậy, Ngài lại bảo họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã
chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và làm việc. Sau đó, Ngài
đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ quỷ – tức là
diệt khổ cho những người đang phải chịu đau khổ.
Sai
lầm dẫn tới phạm tội, tội lỗi sinh ra đau khổ. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu
điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi
điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau
mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung
khắc giữa anh em” (Cn 6:16-19). Tránh được những điều đó thì chúng ta khả dĩ
tránh được sai lầm, tránh sai lầm thì tránh được tội lỗi, tránh tội lỗi thì
tránh được đau khổ.
Đau
khổ có giá trị đặc biệt. Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông
phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người
khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng các ngài đều đã từng đau khổ
nhiều – đau khổ tinh thần, đau khổ thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ
là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng
con biết chân nhận giá trị của đau khổ mà không than thân trách phận. Chúng con
không dám xin Ngài kéo chúng con ra khỏi đau khổ, nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc
chúng con trong đau khổ. Tất cả xin vì sáng danh Chúa và cứu các linh hồn.
Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
28. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
"XIN CHO CON MỘT TẤM LÒNG
NHƯ CHÚA"
Văn hoá Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, vẫn đề cao
tình làng nghĩa xóm: "tối lửa tắt
đèn có nhau". Sự liên đới yêu thương đùm bọc lẫn nhau tha thiết đến
độ: "Một con ngựa đau cả tàu bỏ co".
Sự liên đới đó không chỉ dừng lại ở thôn xóm, dòng tộc mà bao quát cả dân tộc
trong tình thương giữa người với người như câu ca dao ngày nào vẫn phảng phất
du dương: "Bầu ơi thương lấy bí cùng
- Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn". Thế nhưng, truyền thống
đó đang mất dần trong thế giới hôm nay. Một thế giới ích kỷ và hưởng thụ. Một
thế giới theo chủ trương "Mackeno"
đang làm tan rã tỉnh người. Người ta lo cho bản thân. Người ta sẵn sàng vì
quyền lợi của mình mà chà đạp lên người khác, mà chồng chất nỗi đau lên tha
nhân. Con người hôm nay chỉ nghĩ đến mình nên nhẫn tâm bỏ rơi đồng loại trong
khổ đau và tuyệt vọng. Sống bên nhau, nhưng thương nhau thì ít mà đầy đoạ nhau
thì nhiều. Sống với nhau nâng đỡ nhau thì ít mà loại trừ nhau thì nhiều. Đỉnh
cao của sự tàn nhân, vô tâm trước khổ đau của đồng loại chính là thái độ thiếu
trách nhiệm với nỗi khỗ của anh em.
Có một tai nạn xảy ra trên quốc
lộ 1 A, một chiếc xe vận tải chở gỗ tràm đi theo hướng từ Bắc vào Nam, đã đâm
trực diện một chiếc xe vận tải chở trái cây, chạy theo hướng từ Nam ra Bắc. Vụ
tai nạn này đã khiến buồng lái của chiếc xe Bắc vào Nam bị bẹp dúm, còn chiếc
xe từ Nam ra Bắc thì bị lật ngang, trái cây đổ tung tóe trên đường. Đáng lưu ý
là trong khi cả hai tài xế và hai phụ xe của hai chiếc xe cùng bị trọng thương,
cần cấp cứu thì dân chúng quanh đó lại đổ đến để... cướp trái cây. Mặc người bị
nạn. Điều người ta quan tâm chính là hôi của, là ăn cắp hội đồng.
Xem ra cuộc sống hôm nay quá vô tâm! Có phải vì đói, vì
thèm khát một quả trái cây mà hành động như vậy chăng? Chắc chắn là không. Chắc
chắn là không ai nghèo đói đến độ không có một quả trái cây mà ăn. Có chăng là
vì họ thiếu vắng tình người, sự liên đới và trách nhiệm với tha nhân! Không ai
nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm trước sự sống còn của tha nhân. Không ai bận
tâm trước những rủi ro bất hạnh của anh em. Tình người xem như đang mất dần
trong xã hội đề cao vật chất và hưởng thụ hôm nay.
Phải chăng cách hành xử thiếu tình người đó đang là vấn
đề cần phải cải thiện của xã hội hôm nay? Phải chăng khi người ta đề cao vật
chất thì tình người lại bị coi thường và chà đạp? Dường như là vậy. Nhiều người
quá đau khổ vì không tìm được sự nâng đỡ cùa anh em trong những lúc gian nan.
Nhiều người quá tuyệt vọng vì sự lạnh lùng, thờ ơ và bỏ rơi của gia đình và bạn
bè.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của
Chúa Giêsu. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám.
Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ
đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và
chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng
cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng vị tha như
Chúa, thì dòng đời sẽ không còn những cái khổ triền miên như ông Gióp. Nếu cuộc
đời ai cũng biết có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn
và tuyệt vọng như ông Gióp. Ông Gióp khi đối diện với nghịch cảnh của dòng đời
đã không tìm được sự nâng đỡ từ bạn bè và người thân, ông còn bị người đời chế
giễu và vợ con bỏ rơi. Nỗi khổ đau và sự cô đơn đã khiến ông kêu lên trong u
buồn, sầu thảm: "Số phận của tôi phải chăng là những đêm đau khổ ê
chề?".
Vâng, số phận của ông Gióp và số phận của hàng vạn người
quanh ta vẫn đang cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm
của chúng ta. Vẫn còn đó những người chồng, người vợ đang tuyệt vọng vì đời
sống thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm,
tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn
đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm
giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già
nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có
thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người
chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc
tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc
đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của
chúng ta. Amen.
29. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
PHỤC VỤ THEO GƯƠNG THẦY GIÊSU
Nhìn vào thực tế của nhiều đôi vợ chồng, người ta phải
công nhận rằng cuộc sống lứa đôi không luôn luôn dễ dàng. Hạnh phúc gia đình
luôn bị đe doạ bởi những áng mấy đen bất ngờ xông tới. Khiến cuộc sống chung
luôn cảm thấy buồn nhiều hơn vui. Khổ đau nhiều hơn hạnh phúc. Đến nỗi ca dao
đã từng nói:
Chồng gì anh, vợ gì tôi?
Chẳng qua là cái nợ đời chi
đây!
Mỗi người một nợ cầm tay,
Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.
Con đường tình yêu không êm xuôi nhưng luôn lên xuống gập
ghềnh, suối thác. Vì, cuộc “trăm năm” nào cũng đầy những thử thách. Biềt bao
cặp vợ chồng đang hạnh phúc rồi bỗng dưng cả hai cùng phàn nàn về nhau: không
ngờ người ta đổi thay đến thế. Lúc đầu thì thế nào cũng được, miễn là yêu nhau.
Nhưng rồi người ta thấy thế này là bất công, thế kia là khó chấp nhận: lẽ nào
mình cứ phải quét nhà rửa bát mãi! Tại sao mình cứ phải nấu cơm đi chợ? Rồi
luôn nghĩ thiệt hơn và luôn tìm lợi cho mình mà chẳng ai chịu ai.
Khi mà không còn yêu nhau, người ta thường dễ tố cáo nhau
là ích kỷ, là hẹp hòi, chẳng bao giờ làm cho mình được như ý. Quả đúng như lời
nhà tâm lý Jacques Dyssord: “Tình yêu thường mở đầu bằng khoa hùng biện và rồi
đổi dần ra khoa triết lý”. Từ chỗ nói cho hay trở thành cãi cho hăng. Từ chỗ
chín bỏ làm mười đến chỗ kết án hờn ghen.
Thế là đời sống gia đình trở nên như một nhà tù. Có khi
vì danh dự gia đình, hay để tránh không cho con cái biết, hai vợ chồng cố gắng
đóng kịch, một bi kịch rất não nề thê thảm, thường tệ hại hơn cả những cuộc cãi
vã lớn tiếng. Vì cãi vã xong còn nói chuyện được với nhau nhưng khi không còn
gì để nói với nhau thì cuộc sống dài lê thể trong đau khổ.
Sở dĩ hôn nhân thất bại là vì họ hết còn hy sinh cho
nhau, hết quan tâm chăm sóc nhau. Nhiều người khi chiếm được nhau thì họ không
còn quan tâm người bạn đời, có khi còn hắt hủi, bỏ rơi nhau, khiến người bạn
đời cô đơn trong chính mái ấm gia đình mình.
Đây là lúc người ky-tô hữu cần sống tinh thần phục vụ
quên mình của Đức Giêsu. Ngài đã yêu là yêu cho đến cùng. Tình yêu Ngài không
so đo tính toán. Ngài chỉ dồn hết tâm sức để mang lại niềm vui, bình an cho
người mình yêu.
Lời Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của
Chúa Giêsu. Ngài giảng dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám.
Ngài đến tận nhà nhạc mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ
đón tiếp rất đông khách thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và
chữa lành bệnh tật cho họ. Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng
cả thời giờ của một ngày để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như
Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách
nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ
chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập
tràn trong mái gia đình.
Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và
tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn
đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn
đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị
chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận
số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.
Ước gì mỗi người chúng ta có
được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau
của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn
thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách
nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và
thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen.
30. Cúi xuống với người khổ đau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người xưa có câu: “ngước lên chẳng bằng ai nhưng cúi
xuống vẫn còn hơn nhiều người”. Câu này không hàm ý để tự an ủi mình và xem
thường người hèn yếu hơn mình. Câu này cha ông chỉ muốn nhắc nhở chúng ta được
như vậy là tốt lắm rồi, hãy cúi xuống mà chia sẻ với những anh em nghèo khó hơn
ta.
Trong hạnh các thánh ta thấy
một con người đã sống như thế, đó là thánh Martino. Ngài sinh ra trong một hoàn
cảnh chẳng bằng ai, một người da mầu trong một xã hội kỳ thị chủng tộc, một đứa
con bị bỏ rơi, một hoàn cảnh gia đình khó khăn… thế nhưng thay vì nhìn lên để
phẫn uất vì hoàn cảnh “đen đủi” của mình, Martino lại biết nhìn xuống những
người nghèo khó hơn mình, và luôn thể hiện một tấm lòng bác ái, quảng đại.
Nhiều lần được mẹ sai đi mua đồ lặt vặt hay đi chợ, cậu bé Martino đã giữ lại
một ít tiền để bố thí cho những người nghèo khổ; cũng thế, khi là một người
giúp việc trong nhà Dòng, một vị thế rốt bét nhất trong một tập thể, Martino
lại vẫn biết nhìn xuống để khám phá thấy có nhiều người nghèo khổ cần giúp đỡ,
nhiều người bệnh tật cần được chữa trị và chăm sóc…
Martin đã cúi xuống để khám phá
ra sứ vụ của đời mình chính là chăm sóc cho những người nghèo khổ hơn. Chính vì
thế mà cuộc đời của Martin trở thành cuộc đời của một người sống lòng bác ái,
lòng bao dung với thái độ sẵn sàng giúp đỡ tha nhân.
Martino đã họa lại chân dung
đầy yêu thương nơi Thầy Chí Thánh Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã luôn cúi xuống mọi
phận người khổ đau. Ngài thấy và chạnh lòng thương xót. Ngài cúi xuống để xoa
dịu nỗi đau cho họ. Phúc âm hôm nay tường thuật việc Ngài cúi xuống với người
phong hủi với lòng thương cảm sâu xa. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét
của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này
không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của
anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào
hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu
cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ
mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui.
Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ
vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ
Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay
loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con
người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc
cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và
yêu thương.
Trong
thời đại hôm nay người ta đang nói đến hiệu ứng cách sống của Đức Thánh Cha
Phanxico. Nơi Đức Thánh Cha ta thấy dường như ngài không thích ngồi trên ngai
tòa của mình mà lại thích cúi xuống, đến với những con người nghèo. Ngài không
ngại tiếp xúc với những người khổ đau bởi bệnh tật, nghèo đói. Ngài cúi xuống
ôm hôn từng phận người bất hạnh lầm than.
Chúa Giêsu
năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể phán
một lời thì bệnh tật có thể tan biến. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi tay để
trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Ước gì từng người chúng
ta hãy biết dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu
dàng, những hành vi bác ái và vị tha. Ước gì người ky-tô hữu luôn ân cần cúi
xuống để xoa dịu mọi nỗi đau cho anh em qua việc phục vụ, bác ái dấn thân đến
mọi hoàn cảnh cuộc sống, hầu xây dựng một thế giới tràn đầy tình yêu và hạnh
phúc. Amen.
31. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
ĐỨC GIÊSU: CON NGƯỜI VÀ HÀNH
ĐỘNG
Với Kitô hữu, Đức Giêsu là Đấng rất đặc biệt, Ngài là
trung gian giữa con người và Thiên Chúa, Ngài là đường dẫn con người tới với
Thiên Chúa, và Ngài cũng chính là sự sống. Trong cuộc sống bình thường của
Ngài, hàm chứa sự sống vĩnh cửu mà mỗi Kitô hữu được mời gọi để nhận ra mầm
sống vĩnh cửu nơi cuộc đời mình.
1) Đức Giêsu giảng dạy nơi hội đường Do Thái
Đức Giêsu giảng dạy ở bất cứ đâu: ở hội đường (Mc. 1,
21), tại tư gia (Mc. 2, 2), ngoài bờ biển (Mc.2, 13). Đức Giêsu rao giảng ở bất
cứ chỗ nào Ngài có thể rao giảng được. Có thể nói, nghề của Đức Giêsu là rao
giảng (Mc. 1, 38).
Đức Giêsu giảng gì? Đâu là nội dung điều Đức Giêsu rao
giảng? Đức Giêsu rao giảng cho người ta biết Thiên Chúa là ai. Ngài là Đấng yêu
thương mọi người, và mời gọi người ta tin tưởng phó thác cuộc đời họ cho Thiên
Chúa tình yêu (Mt. 6, 25tt). Thiên Chúa là Đấng yêu thương, nên mọi người hãy
yêu thương nhau (Mt. 5, 43-48). Hãy trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng
trọn lành (Mt. 5, 48).
Nếu chỉ căn cứ vào Tin Mừng, chúng ta thấy những điều Đức
Giêsu rao giảng không nhiều lắm. Có thể vì các tông đồ không có tài nhớ, nên
không kể lại được nhiều; nhưng cũng có thể chỉ vì nội dung Đức Giêsu rao giảng
cũng đơn sơ, vì điều quan trọng thì không nhiều. Biết là điều rất quan trọng,
nhưng quan trọng hơn lại là sống điều mình biết. Một khi người ta biết Thiên
Chúa là ai một cách chân thực, người ta sẽ sống trong an bình và hạnh phúc hơn.
2) Người ta tuôn tới với Đức Giêsu để được chữa lành
Tin Mừng hôm nay cho thấy dân chúng tuốn tới với Đức
Giêsu để được Ngài chữa lành mọi thứ bệnh tật. Có lẽ với dân chúng, nghe rao
giảng cũng là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là những gì thật cụ thể
và liên hệ đến chính bản thân con người. Đức Giêsu cũng hành xử một cách rất
“người”. Làm được gì, Ngài làm cho con người. Một cách cụ thể, Ngài thương cảm
và chữa lành tật bệnh của những người tin vào Ngài, đến với Ngài.
Bệnh tật, là cái gì rất tự nhiên và tuân theo luật lệ
thiên nhiên. Những gì thuộc vật chất hữu hình đều biến đổi với thời gian, có
trẻ có già, có sinh có tử. Đây là ý định của Thiên Chúa. Khi Đức Giêsu chữa
lành bệnh tật, là Ngài diễn tả lòng thương cảm của Ngài đối với con người. Hơn
nữa, khi chữa lành bệnh tật, Ngài mặc khải cho con người chân tướng của Ngài.
Một thầy thuốc chữa lành người khác, là người biết vận dụng những dược chất nơi
những cây cỏ để chữa trị bệnh tật; còn Đức Giêsu Ngài chỉ dùng lời, nghĩa là,
Ngài dùng quyền năng được ban cho Ngài hoặc chính Ngài có.
Bệnh tật cũng là yếu tố giúp con người tới gần Thiên Chúa
hơn; bệnh tật cũng là cơ hội để giúp con người nhận ra Thiên Chúa luôn quan tâm
và săn sóc con người. Trong nhãn quan của những người thuộc về Thiên Chúa, bệnh
tật hay sức khỏe không có giá trị tuyệt đối, nên mỗi người hãy bình tâm với
bệnh tật. Điều quan trọng là, qua sức khỏe hay bệnh tật, con người vẫn nhận ra
sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa đối với mỗi người.
3) Đức Giêsu cầu nguyện
Cuộc sống của Đức Giêsu dường như bị chi phối đặc biệt
bởi tình yêu đối với con người. Vì lợi ích của con người, Ngài rao giảng về
Thiên Chúa cho dân chúng. Đứng trước nỗi khổ của dân, Ngài chữa lành bệnh tật
cho họ, như một dấu chỉ Thiên Chúa yêu thương dân Người. Nhưng chỉ như vậy thôi
chưa đủ, Ngài đi tới nơi hoang vắng cầu nguyện từ sáng sớm (Mc.1, 35).
Hội Thánh dạy Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa, là Ngôi Hai
Thiên Chúa, là Thiên Chúa nhập thể, là Thiên Chúa; thế nhưng, chúng ta phải
hiểu đúng giáo huấn của Hội Thánh. Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu là một Đấng
khác với Thiên Chúa qua việc Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa. Đức Giêsu là một
với Thiên Chúa, nhưng lại là Đấng khác với Thiên Chúa. Cái khác ở đây các nhà
thần học dùng từ ngữ “ngôi vị” để diễn tả. Đức Giêsu không bao giờ LÀ Chúa Cha.
Đức Giêsu là Ngôi Hai, hay Ngôi Lời Thiên Chúa, nhưng ở đây chữ ngôi vị khác
với chữ “ngôi vị, bản vị” (person) được dùng cho con người. Tôi và bạn, chúng
ta là hai ngôi vị độc lập và tách biệt tuy dù chúng ta cùng một bản tính con
người; nhưng điều này không đúng khi nói về Đức Giêsu- “ngôi hai” Thiên Chúa và
Thiên Chúa Ngôi Cha. Nếu chúng ta hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai ngôi vị,
tương tự như tôi và bạn là hai ngôi vị độc lập nhưng cùng một bản tính (một
đàng là bản tính người, và một đàng là bản tính Thiên Chúa) thì lúc đó chúng ta
hiểu Đức Giêsu và Chúa Cha là hai chúa khác nhau; điều này không đúng giáo huấn
của Giáo Hội. Đức Giêsu và Thiên Chúa Cha là hai ngôi vị, nhưng cả hai không
chỉ là cùng bản tính Thiên Chúa mà Đức Giêsu còn tùy thuộc Thiên Chúa đến độ
không thể nói là hai Chúa, mà phải nói là chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, chỉ
có một hiện hữu Thiên Chúa duy nhất. Điều này Giáo Hội diễn tả bằng từ ngữ
“không có ngôi nào có trước ngôi nào tuy dù Chúa Cha sinh Chúa Con, không có
ngôi nào hơn kém ngôi nào.” Đây là những từ ngữ để diễn tả về mầu nhiệm Giêsu,
con người vô cùng đặc biệt mà dường như không từ ngữ nào diễn tả hoàn toàn
được. Hội Thánh cũng cố gắng diễn tả hết sức mình, để các tín hữu hiểu hơn về
Đức Giêsu Kitô thôi.
Đức Giêsu cần cầu nguyện, vì dường như cầu nguyện làm
Ngài là Ngài hơn, giúp Ngài kết hợp với Thiên Chúa hơn, làm Ngài triển nở và
trọn vẹn hơn. Cầu nguyện diễn tả Ngài là một với Thiên Chúa tuy dù lúc nào Ngài
cũng kết hợp với Thiên Chúa. Cầu nguyện diễn tả Ngài tùy thuộc hoàn toàn Thiên
Chúa là Cha. Thiên Chúa muốn gì Ngài sẽ thực hiện như vậy. Qua cầu nguyện, Ngài
là Ngài, Ngài triển nở và hạnh phúc. Chính khi Đức Giêsu tùy thuộc Thiên Chúa
hoàn toàn, cho thấy Ngài là một với Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta khi cầu
nguyện, chúng ta được được nên giống Đức Giêsu hơn, làm một với Thiên Chúa hơn,
trở nên con của Thiên Chúa hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, cầu nguyện có được
lợi ích gì không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa hoặc những lợi
ích bạn được qua việc cầu nguyện.
2. Có điểm nào cuộc sống của bạn
giống cuộc sống của Đức Giêsu? Đức Giêsu và bạn, giống nhau và khác nhau ở
những điểm nào?
32. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Hữu Thy)
NHỮNG HOẠT ĐỘNG VÀ CẦU NGUYỆN CỦA ĐỨC GIÊSU
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật cho chúng
ta về những hoạt động và những giờ phút yên tĩnh của Đức Giêsu khi Người bắt
đầu đời sống công khai ở Ga-li-lê-a. Suốt cả một ngày Người đã luôn năng nỗ và
không bao giờ mỏi mệt chu toàn sứ mệnh mà Chúa Cha đã giao phó. Sứ mệnh chính
yếu của Người là việc rao giảng Nước Thiên Chúa cho hết mọi người: “Chúng ta
hãy đi sang các làng bên cạnh; Thầy cũng muốn rao giảng ở những chỗ đó nữa, bởi
vì Thầy được sai đến là để làm chuyện đó”. Lời nói này của Đức Giêsu đã giúp
chúng ta hiểu được chính xác hơn mục đích của những phép lạ Người đã làm: Tất
cả đều nhắm phục vụ cho công cuộc thuyết giáo của Đức Giêsu về “Nước Trời sắp
đến gần”. Mọi lời giảng dậy và mọi việc Người làm đều hoàn toàn nhắm tới sứ
mệnh rao giảng Tin Mừng như mục đích duy nhất. Trước hết những lời nói và việc
làm của Người là mạc khải cho những người có đức tin mầu nhiệm về Nước Thiên
Chúa (x. Mc 2,10-12; 4,11). Như có lần thánh Augustinô đã viết: “Các phép lạ
cũng có ngôn ngữ riêng, nếu như người ta hiểu được chúng: Chúng nói về Đức
Kitô” (In Johann. Tr. 24,2)
Bởi vậy, Phúc Âm nhắc lại cho chúng ta về Đức Giêsu, Đấng
đã chữa lành cho bà mẹ vợ của Simon, cho những bệnh nhân và những người bị quỉ
ám mà vào cuối ngày người ta đã khiêng tới đặt trước cửa nhà Simon và Anrê để
xin Người chữa cho. Nhưng việc quan trọng không phải là để mong được chữa lành
bệnh, nhưng là để lắng nghe Đức Giêsu thuyết giáo về Nước Trời. Tiếp đến, ngày
xưa cũng như hôm nay, điều người ta cần phải làm là dứt khoát đáp lại lời kêu
mời của Đức Giêsu và sống như Người đã sống.
Tuy nhiên, một khi người ta đã không muốn tin và không
đáp lại lời mời gọi của Đức Giêsu thì cũng không thể hiểu biết được lời giảng
và việc làm của Người (x. Mc 8,11). Dù cho họ có chứng kiến hay nghe nói về các
phép lạ Người đã làm bao nhiêu lần đi nữa, thì con mắt tâm hồn họ vẫn trong
cảnh mù lòa (x. Mc 4,12).
Do đó Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ từ chối chứng
nhân của ma quỉ. Người chỉ muốn thức tĩnh đức tin nơi mỗi người bằng chính lời
nói và việc làm của mình. Do đó Người đã bỏ thành Ca-pha-na-um để đi sang các
thôn xóm kế cận rao giảng. Đức Giêsu giảng thuyết cho dân chúng về Nước Thiên
Chúa và trừ khử ma quỉ. Vì Người đến trong thế gian là để thực thi chuyện đo.
Những hoạt động hăng say cho Nước Trời như thế của Đức
Giêsu chỉ bị gián đoạn bằng những giờ phút cầu nguyện hàn huyên với Chúa Cha
trong nơi thanh vắng. Đó chính là những giờ phút nghĩ ngơi yên tĩnh của Người.
Nơi Đức Giêsu: cuộc sống và sự cầu nguyện, cầu nguyện và cuộc sống hoàn toàn
đan kết chặt chẽ với nhau: “Vào buổi sáng sớm, khi trời còn tối, Đức Giêsu đã
chỗi dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”. Đây là lần đầu tiên
thánh sử Mác-cô tường thuật về sự cầu nguyện của Đức Giêsu. Trong những phần kế
tiếp của bản Phúc Âm, thánh nhân còn trình bày chân dung Đức Giêsu như là gương
mẫu trong sự cầu nguyện, và đồng thời thánh nhân cũng đã nhắc đến lời cảnh giác
của Đức Giêsu là phải cầu nguyện thế nào cho đúng đắn.
Trong bốn thánh sử ghi chép Phúc Âm chỉ có thánh Mác-cô
nhấn mạnh đến việc Đức Giêsu đã đi tới một nơi thanh vắng để Người cầu nguyện.
Vâng, đoạn Phúc Âm ghi lại là sau khi làm phép lạ đầu tiên khiến bánh hóa nhiều
để nuôi dân chúng, Đức Giêsu đã đi lên Núi một mình “để cầu nguyện” (6,46).
Trong Phúc Âm thánh Mác-cô người ta còn đọc được lời cầu nguyện tha thiết của
Đức Giêsu cùng Chúa Cha trong cơn sầu khổ tột độ: “Áp-ba, Cha ơi” (14,36). Kiểu
nói “Áp-ba, Cha ơi” trong tiếng mẹ đẻ của Đức Giêsu là kiểu nói đầy trìu mến
của một đứa trẻ nói với cha ruột của mình. Kiểu nói “Áp-ba, cha ơi” vào thời
Đức Giêsu chưa một ai dám xử dụng để xưng hô với Thiên Chúa. Chỉ có Đức Giêsu
là người đầu tiên duy nhất đã xử dụng kiểu nói đó. Đúng vậy, như một đứa bé lúc
gặp phải nguy tử đã chạy đến ôm chặt vào cha mình, Đức Giêsu đã chạy đến cùng
Chúa Cha và tin tưởng van nài: “Áp-ba, Cha ơi, đối với Cha tất cả mọi sự đều có
thể. Xin Cha cho con khỏi uống chén đắng này. Tuy nhiên, xin Cha đừng làm theo
ý con, nhưng hãy làm theo ý Cha” (14,36). Tình con thảo và lòng tin tưởng phó
thác tuyệt đối của Đức Giêsu trong khi câu chuyện trao đổi với Chúa Cha trên đã
giúp cho chúng ta hiểu rõ được lời cầu nguyện của Người trong lúc hấp hối trên
thánh giá: “Lạy Chúa, lạy Chúa, sao Chúa bỏ rơi con?” (15,14). Đây không phải
là lời kêu hốt hoảng vô ý thức hay một sự bộc lộ thất vọng cay đắng. Trái lại,
trong cơn hấp hối đầy sợ hãi, Đức Giêsu đã xướng lên câu đấu của một thánh vịnh
(Tv 22,2) như một lời nguyện thầm, mà kết cấu là sự phó thác hoàn toàn vào
Thiên Chúa: “Chúa đã nhậm lời con xin” (Tv 22,22)
Đức Giêsu cầu nguyện luôn và người mời gọi chúng ta cũng
hãy cầu nguyện không ngừng. Thánh sử Mác-cô đã ghi lại những lời nhắc nhở của
Đức Giêsu về sự tĩnh thức cầu nguyện. Vâng, con người luôn phải siêng năng và
tĩnh thức cầu nguyện, vì cuộc đời con người là một cuộc chiến đấu dằng co với
đủ mọi thứ thù địch, trong đó gay cấn nhất là cuộc “nội chiến” trong chính
mình: Con người phải chiến đấu chống trả những cám dỗ (14,38), những xu hướng
và những đòi hỏi quá độ của thân xác. Tiếp đến, con người phải đề phòng những
nghịch cảnh và những hoạn nạn sẽ xảy đến trong những ngày sau hết (13,18tt).
Nhưng theo Phúc Âm Mác-cô, muốn cho lời cầu xin của mình được chấp nhận, con
người cần phải thỏa mãn được hai điều kiện tiên quyết mà Đức Giêsu đã đặt ra,
đó là sự tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa (11,22-24) và sự luôn sẵn
sàng tha thứ, hòa giải với đồng loại (11,25; Mt 6,14-15).
Trong cuộc đời công khai của Đức Giêsu, những giờ phút
cầu nguyện yên tĩnh trong nơi thanh vắng thực sự là thời gian tĩnh dưỡng, là
thời gian “lấy lại sức” để tăng cường cho các hoạt động thuyết giáo của Người.
“Ora et labora” - Cầu nguyện và làm việc - đã được Đức Giêsu bắt đầu ở
Na-da-ret trong suốt 30 năm trời và nay lại được tiếp tục trong cuộc sống công
khai của Người. Điều đó đã đủ nói lên rằng: Cầu nguyện và hoạt động là hai điều
kiện tất yếu cho cuộc sống của tất cả mọi Kitô hữu và nhất là của những ai dấn
thân làm việc Tông đồ rao giảng Nước Thiên Chúa.
Một điểm khác đáng ghi nhận trong phần cuối bài Phúc Âm
của Chúa Nhật hôm nay là thánh sử Mác-cô đã nhắc đến thánh Phêrô. Với tính bộc
phát và hăng hái sẵn có của mình, Simon Phêrô đã dẫn các bạn đồng nghiệp đi lục
soát tìm kiếm Đức Giêsu khắp nơi, và khi gặp được Người đang cầu nguyện trong
một nơi hoang vắng liền thối thúc Người: “Thưa Thầy, ai nấy đều đi tìm Thầy
đó”, chứ ông không hề nghĩ đến chuyện phải tôn trọng “giờ cầu nguyện” của Thầy.
Chắc chắn rằng vào lúc bấy giờ Simon Phêrô chưa hiểu được việc cầu nguyện đối
với Đức Giêsu quan trọng như thế nào! Ông cũng chưa biết đánh giá được sự yên
tĩnh, sự lắng đọng của tâm hồn, hầu có thể nghe được tiếng Chúa, hầu có thể
chìm sâu vào trong cầu nguyện!
Phải chăng trong cuộc sống hằng ngày đã có biết bao lần
chúng ta cũng đã tư duy và hành động tương tự như Simon Phêrô xưa? Thật sự, đời
sống đức tin, đời sống Kitô hữu của chúng ta đang phải đứng trước những mối đe
dọa nguy hiểm trầm trọng, nếu chúng ta - vì bất cứ lý do gì - coi thường hay
rút ngắn những giờ phút cầu nguyện yên tĩnh trong sự lắng đọng của tâm hồn, để
lao mình vào đủ thứ công việc - công việc sinh nhai cũng như công việc tông đồ.
Vì đời sống một người mà thiếu cầu nguyện, những hoạt động tông đồ mà không có
sự cầu nguyện kèm theo thì chỉ là cái xác không hồn hay chỉ là những chiếc xe
thiếu xăng dầu.
Vâng, bài Phúc Âm của Chúa Nhật hôm nay tường thuật về
các hoạt động và cầu nguyện của Đức Giêsu, đã đặt ra cho lương tâm mỗi người
Kitô hữu một vấn nạn thực tiễn: Liệu trong suốt chuỗi ngày sống, tôi còn dành
cho mình có được giây phút nào đó để cầu nguyện nữa không? Ước gì gương sống
của Đức Giêsu - Ora et labora - có được “tiếng dội” trong những ngày sống sắp
tới của chúng ta.
33. Tiếp xúc với Cha trên trời
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Không
tôn giáo nào mà không chú trọng đến sự cầu nguyện, tuy cách thức có khác nhau.
Dân Do thái ngày xưa, mỗi khi đi chinh phạt các dân ngoại hay dân phản động
chung quanh, thì ông Maisen phải lên đỉnh núi giang hai tay ra cầu nguyện. Lúc
nào ông giang hai tay ra cầu nguyện thì lúc đó quân Do thái thắng, trái lại lúc
nào ông hạ tay xuống thì dân Do thái thua. Nên dân Do thái phải cắt người đỡ
hai tay để ông Maisen có thể giang tay cầu nguyện mãi mãi cho dân để đánh thắng
các quân địch.
Đức
Giêsu cũng làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện. Ngài đã tận dụng những giờ
phút tĩnh lặng, những nơi thanh vắng, nhất là ban đêm để tiếp xúc với Cha Ngài.
Theo gương Đức Giêsu, chúng ta cũng phải chuyên cần cầu nguyện, tiếp xúc với
Chúa trong mọi hoàn cảnh. Hãy tập cho có thói quen biến những công việc thường
ngày của chúng ta thành những lời kinh sống động dâng lên Chúa.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: G 7,11-.6-7.
Đoạn
sách Gióp hôm nay cho ta thấy cái nhìn bi quan của người Do thái trước đau khổ:
con người sẽ phải chết, mọi chân trời đều bị bít lại, tất cả đều ê chề, tuyệt
vọng, vô nghĩa. Ông Gióp là một người thánh thiện, không thể hiểu được tại sao
ông lại bị phạt trong khi ông không ý thức được rằng mình đã phạm tội. Tuy
nhiên, ông không quay lưng lại với Chúa, ông âm thầm chịu đdựng và đợi trông...
Cái
nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài
Tin mừng hôm nay,
+ Bài đọc 2: 1 Cr 9,16-19,22-23.
Thánh
Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu
tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi hành nhiệm vụ này một cách vô
vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ dành cho Chúa. Chính vì thế,
Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia sẻ những sự yếu đuối của anh
em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ phục vụ mọi người, nhất là
những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh thủ đem về cho Chúa Kitô
nhiều linh hồn.
Thánh
nhân cho biết Ngài rao giảng Tin mừng một cách tự nguyện chứ không phải do một
động lực nào khác bó buộc Ngài.
+ Bài Tin mừng: Mc 1,29-39.
Thánh
Marcô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu ở thành phố
Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh
cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn sốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ
chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp
tục đi rao giảng ở những nơi khác. Tóm lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận
rộn suốt ngày và trừ qủi.
Những
công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của
Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với
Cha Ngài ở trền trời. Ngài sẽ dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết với
Cha Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Cầu nguyện và làm việc.
I. ĐỨC GIÊSU VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.
1. Đức Giêsu làm việc và cầu nguyện.
Đức
Giêsu là gương mẫu của sự cầu nguyện. Cách đây không lâu, Đức Giêsu đã lên rừng
ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Thánh Marcô hé mở cho ta biết Đức Giêsu một
mình sáng sớm lên nơi thanh vắng để cầu nguyện. Suốt ngày Ngài bận rộn với công
việc rao giảng Tin Mừng: giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh, trừ qủi, tiếp xúc
với mọi người, trưa về nhà tiếp xúc với môn đệ. Trong khi mọi người còn ngon
giấc thì Đức Giêsu đã lên núi cầu nguyện một mình. Đây không phải là lần cuối,
mà luôn luôn như vậy. Ngài đã tỏ ra rất ham mộ cầu nguyện, nhất là trước những
việc trọng đại.
Đọc
Tin mừng, chúng ta thấy rất nhiều lần Đức Giêsu đã đi cầu nguyện và cầu nguyện
nơi thanh vắng:
Vừa
khi nhận phép rửa của Gioan Tẩy giả, Chúa lắng sâu trong cầu nguyện và đồng
thời cửa mở ra (Lc 3,21 ; Ga 1,32-34).
Năm
đầu cuộc đời công khai, ngày sabat Chúa vào hội đường cầu nguyện (Lc 5,16).
Đêm áp
ngày Chúa chọn 12 tông đồ, Chúa đã lên núi và cầu nguyện suốt đêm(Lc 6,12).
Trước
khi Chúa hỏi các tông đồ về dư luận dân chúng về Ngài, Chúa đã tìm nơi thanh
vắng mà cầu nguyện (Lc 9,18).
Trước
khi biến hình Chúa đã lên núi cầu nguyện (Lc 9,28) và trong khi cầu nguyện thì
Ngài biến hình.
Lần
kia, sau khi thấy Chúa rời các ông để cầu nguyện, các Tông đồ xin Chúa dạy các
ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các môn đệ của ông. Và Chúa đã dạy các ông kinh
Lạy Cha (Lc 11,1-4).
Hơn
nữa, nhất là trong giờ hấp hối trong vườn Cây Dầu, Chúa đã cầu nguyện thống
thiết tới 3 lần (Lc 22,40-45).
Tại
sao Đức Giêsu lại hối hả đi cầu nguyện như vậy? Trước hết là vì Ngài khao khát
sống một mình với Cha Ngài, và lấy làm sung sướng khi ở riêng với Cha Ngài.
2. Đức Giêsu dạy ta cầu nguyện.
Đức
Giêsu đã cầu nguyện và đã làm gương cho ta về sự cầu nguyện. Rất nhều lần Ngài
đã khuyên các môn đệ cầu nguyện. Ta chỉ ghi ra đây một số trường hợp:
. Cầu
nguyện trong thinh lặng: vào phòng đóng cửa lại và cầu nguyện với Cha nơi kín
ẩn (Mt 6,6).
. Cầu
nguyện với lòng tin: Thiên Chúa có thể ban mọi sự (Mc 11,23-24).
. Cầu
nguyện với Cha chúng ta ở trên trời (Lc 11,13).
. Cầu
nguyện không nhiều lời (Mt 6,7).
. Biết
tha thứ cho người khác để Cha trên trời có thể tha thứ cho chúng ta (Mc 11,25).
. Với
lòng khiêm tốn và thống hối như người thu thuế tội lỗi (Lc 18,9-14).
. Cầu
nguyện không ngừng (Lc 19,1).
. Cầu
nguyện chung với người khác (Mt 1118,119).
. Nhận
biết ân huệ của Thiên Chúa (Ga 4,10).
. Xin
những sự trên trời (Ga 6,27).
. Kinh
Lạy Cha (Lc 11,2t ; Mt 6,9-13).
Đức
Giêsu đã cảnh báo Phêrô về nguy cơ ma qủi làm cho ông bị sa ngã, phải luôn tỉnh
thức và đề cao cảnh giác:”Phêrô, ma qủi nó sàng con như sàng gạo”. Sức riêng
của loài người không thể chống lại được sức mạnh của ma qủi, nên phải cậy nhờ
vào ơn Chúa, đừng cậy vào sức riêng mình.
Về
điểm này, Đức Cha Tihamer Toth đã nói chuyện với thanh niên như sau:
”Bạn
không muốn sao lãng những công việc bề bộn, thế thì, bạn ơi, hãy nghe tôi: Đây
là chiếc tầu vượt đại dương bắt đầu mở máy giữa lúc giông tố nổi to, và một
đoàn hải điểu theo bên như những tầu khác khởi hành. Chiếc tầu nọ mở hết tốc
lực mà không vượt được những làn sóng dữ dội. Gió ngược mạnh vô cùng, chiếc tầu
nghiêng ngả. Cả bộ máy rung chuyển, nhưng chiếc tầu chỉ tiến khó khăn được đôi
chút. Một hành khách thương hại nói:”Khốn nạn đàn hải điểu. Mở máy tới hàng
trăm, hàng ngàn mã lực thế mà chúng ta chỉ tiến được đôi chút thôi. Chim ơi,
chim làm được gì với đôi cánh mong manh và bắp thịt yếu đuối”?
Nhưng
người hành khách thương hại bỗng nói và cảm động vô ngần:”Đàn hải điểu nhẹ
nhàng bay lượn với đôi cánh Đức Chúa Trời ban cho. Chúng gối lưng lên gió vật.
Và trong khi chỉ còn một việc, chỉ trông cậy có máy móc, người ta tiến rất khó
khăn, rất vất vả, thì đàn hải điểu vượt nhẹ nhàng lên trước chiếc tầu với đôi
cánh khéo léo, bay lượn thay cho sức yếu đuối của mình”.
Bạn
ơi, chiếc tầu đó là hình ảnh kẻ muốn thắng bằng sức riêng mình. Đôi cánh chim
hải điểu là hai tay người ta giơ lên trong lúc cầu guyện. Bạn có còn cho rằng
thời giờ bạn nguyện ngắm là thời giờ bỏ phí không? Bạn có còn nói rằng bạn
không có thời giờ cầu nguyện không”? (Tihamer Toth, Chúa Cứu thế với Thanh
niên, tr 209).
3. Giáo huấn của Giáo hội.
Việc
cầu nguyện phát xuất do chức Linh mục vương giả:”Phần tín hữu nhờ chức Linh mục
vương giả, cộng tác dâng Thánh lễ, và thi hành chức vụ đó trong việc lãnh nhận
các bí tích, khi cầu nguyện và tạ ơn. Bằng đời sống chứng tá thánh thiện, bằng
sự từ bỏ và bác ái tích cực” (Hiến chế về Giáo hối, số 10).
“Mọi
người phải nhớ rằng nhờ phụng vụ và cầu nguyện, nhờ sám hối và tự ý chấp nhận
công việc cũng như những khổ cực của cuộc đời làm cho nên giống Chúa Kitô đau
khổ, họ mới có thể ảnh hưởng tới mọi người và đem ơn cứu độ cho toàn thế giới”
(Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 16).
II. CHÚNG TA VỚI SỰ CẦU NGUYỆN.
1. Nói về sự cầu nguyện.
a) Cầu
nguyện là gì?
Chúng
ta không muốn định nghĩa sự cầu nguyện như các nhà tu đức học mà chỉ nói đơn sơ
như thánh nữ Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nói:”Con đã ở như một đứa trẻ không biết
chữ: con cứ đơn sơ thật thà than thở cùng Chúa những điều con ước muốn, bao giờ
con cũng được Chúa hiểu thấu tình.
Với
con, cầu nguyện chỉ là một cơn lòng sốt sắng, một liếc mắt nhìn lên trời, một
tiếng kêu tri âm, một lời nói tình giữa lúc phải gian nan khốn cực, cũng như
khi được bình an vui sướng. Và nữa, cầu nguyện là một cái gì cao thượng, siêu
nhiên cởi mở lòng, phơi giãi linh hồn, trao đổi lại tâm tình, để được kết hợp
cùng Chúa cách chí thiết” (Trích Một tâm hồn, Kim Thiếu dịch, tr 204).
Cầu
nguyện có thể ví như tình yêu. Chúng ta không thể học yêu qua sách vở được.
Phải có phần thực hành. Cầu nguyện ví như học bơi lội. Muốn biết bơi thì phải
nhào xuống nước, không thể vừa khô ráo trên bờ vừa lại biết bơi. Cầu nguyện
cũng như việc học gia chánh. Muốn thực tập làm các món ăn thì phải lăn vào bếp.
Cầu nguyện cũng giống như việc chăm sóc mảnh vườn. Muốn có hoa đẹp thì phải
trồng, phải phân bón, phải có nắng, phải tưới nước và phải chăm làm cỏ. Cầu
nguyện không là một đề tài để bàn luận, nhưng là một thực tại để sống. Chúa
Kitô là thầy dạy chúng ta, và tất cả chúng ta đều là học trò trong lớp “cầu
nguyện”. Muốn có một đời sống sung mãn trong Chúa Kitô, chúng ta phải cầu
nguyện (Thanh Thủy, Con đường tình yêu, tr 197).
b) Cấp
độ của sự cầu nguyện.
Có
nhiều cách cầu nguyện. Thường thường người ta cho rằng cầu nguyện là chuyện vãn
với Chúa, là một cuộc đối thoại, mình phải nói với Chúa, nói cho nhiều cho Chúa
nghe. Cũng có người có ý kiến cao hơn: cầu nguyện là lắng nghe tiếng Chúa, cầu
nguyện chỉ là cơ hội để Chúa nói với ta. Tất cả đều đúng.
Nhưng
cầu nguyện cao nhất là sự thinh lặng tuyệt đối, trong đó chẳng ai nói mà cũng
chẳng ai nghe vì lúc đó giữa Chúa và ta có một sự kết hợp mật thiết rồi, một sự
kết hợp cao độ đến nỗi không còn phân biệt giữa Chúa và ta nữa. Tư tưởng này đã
được Cha Anthony de Mello diễn tả trong câu chuyện sau đây:
Truyện: Sự im lặng tuyệt đối.
Sau một ngày học hành mệt nhọc,
người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà thờ để viếng Chúa, và lần
nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh Thể trong nhà tạm. Ngày
kia, người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
- Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có
nghe Chúa nói gì với cụ không?
Cụ già chậm rãi trả lời:
- Chúa không nói gì hết, Ngài
chỉ nghe thôi.
- Vậy thì cụ nói những gì với
Chúa?
- Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ
nghe thôi.
Thấy người bạn trẻ có vẻ ngỡ
ngàng, cụ nói tiếp:
- Lão thấy có 4 giai đoạn trong
đời sống cầu nguyện. Thời gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói,
lão nghe. Giai đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe và có lẽ
giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe. Tất cả chỉ là một sự
thinh lặng tuyệt đối (Dựa theo truyện của Anthony de Mello, Taking Flight).
Một
trong những yếu tố quan trọng trong việc cầu nguyện là sự thinh lặng. Chúng ta
cần sự thinh lặng, vì chính trong sự thinh lặng này – một sự thinh lặng mà
người “hướng ngoại” không thể nào chịu nổi – Chúa Cha sẽ nói với ta lời của
Ngài, Chúa Kitô sẽ chia sẻ với chúng ta ý nghĩa của mầu nhiệm Chết và Phục sinh
của Người, và Chúa Thánh Thần sẽ thôi thúc để chúng ta tìm ra đường hướng Chúa
muốn chúng ta đi. Ngày nay, con người dường như rất sợ sự thinh lặng, do đó con
người tạo ra trăm ngàn cớ để chạy trốn cái giây phút tĩnh lặng trước mặt Chúa,
Đấng lột trần cho thấy sự hư vô tột cùng của kẻ từ chối chấp nhận mình nghèo
khó và yếu đuối. (Thanh Thủy, op.cit. tr 203-204)
c) Cầu
nguyện rất cần thiết.
Việc
cầu nguyện có thể ví được như cách điều chỉnh radio và vô tuyến truyền hình.
Chúa và ân sủng của Ngài lúc nào cũng sẵn sàng, bàng bạc khắp không gian như
luồng điện. Con người nào không cầu nguyện cũng ví như máy thu thanh và vô
tuyến truyền hình không bao giờ dùng tới. Muốn cho các máy đó bắt đúng luồng
sóng, đúng tần số, ta cần điều chỉnh nhẹ nhàng, trong thinh lặng để các máy đó
bắt đúng tần số; bằng không, vẫn chơ vơ một mình, đơn chiếc, lẻ bóng và chẳng
ích lợi gì.
Hơn
nữa, việc cầu nguyện còn có thể ví như “xạc” bình điện. Chúng ta ưa phóng
ngoại, để chạy theo những cái hào nhoáng, những hấp dẫn bên ngoài, thích chạy
trên chính mình chẳng khác gì bình điện xài luôn nên hết điện, hết năng lực.
Thế nên cần phải có thời gian nghỉ ngơi, thinh lặng để “xạc” lại bình, để hấp
thụ và để bắt liên lạc với chính nguồn điện lực.
Giờ
cầu nguyện là lúc bồi dưỡng, chuyển hóa, thăng hoá chính bản thân mình như bắt
lại với chính nguồn là Thiên Chúa, chính Thánh Thần là Tình Yêu, để ta được gọi
Thiên Chúa là Cha (Rm 8,1-5 ; Gl 5,22-26). Nhờ đó con người được đổi mới (Cl
3,9-11) tìm lại được con người nội tâm (Rm 7,22) của chúng ta. Tìm gặp, biến
thể và hoà đồng với chính Tình yêu.
Thật
vậy, ta có thể nhận ra và cảm nghiệm được kết quả của việc cầu nguyện qua biến
thể tâm hồn và đổi mới của thiếu phụ Samaria bên bờ giếng Giacóp; hoặc như hai
môn đệ đi Emmau trong lúc lòng buồn và chán nản, xa rời tập thể, thế mà sau khi
đã tâm sự với Chúa cải trang thành bộ hành, các ông đã nhận ra Chúa, tìm lại
niềm tin vui và vội vã trở về với cộng đoàn (Lc 24,13-35) (Thái Hoà, Cải tiến
Công giáo VN, số 7-8, tr 130-131).
Truyện: Luther bỏ cầu nguyện.
Tại bảo tàng viện ở Wittenberg
(Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời
danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau:”Tôi quá bận rộn,
phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ... nên
không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng
Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là
Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra
khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.
Tuy thế, có những người vẫn
chưa công nhận sự cầu nguyện là cần thiết, mà còn bác bỏ và chê trách sự cầu
nguyện. Thi sĩ Alfred de Vigny đã nói:”Thở than khóc lóc, cầu khẩn là hèn
nhát”.
Phải
phân biệt hai lối cầu nguyện: thụ động và chủ động. Cầu nguyện thụ động là thái
độ của kẻ ươn hèn, muốn được điều lành mà không cố gắng, không làm gì cả: họ
chỉ há miệng chờ sung rụng hay ôm gốc cây chờ thỏ. Trái lại cầu nguyện chủ động
là tính cách của người vừa cầu nguyện vừa làm việc để đi tới mục đích mình cầu
xin: Aide-toi, le Ciel t’aidera (Tục ngữ Pháp): (Anh hãy tự giúp mình rồi trời
sẽ giúp anh).
Câu
nói trên của Alfred de Vigny chỉ đúng cho những kẻ cầu nguyện thụ động. Còn
chính nhà khoa học lừng danh Alexis Carrel đã nói:”Dẫu có vẻ lạ lùng, người ta
vẫn phải nhận là đúng rằng kẻ nào cầu xin sẽ được và cửa sẽ mở cho kẻ gõ”. Một
nhà khoa học đã từng được giải Nobel vào năm 1912 còn tin tưởng như vậy, thì sự
cầu nguyện đã rõ ràng không phải là sự mơ hồ.
Văn
hào Cronin đã than thở cho những kẻ mất lòng tin tường, những kẻ không cầu
nguyện:”Địa ngục là khi lòng mất hy vọng”. Sống là hy vọng, mà mất hy vọng thì
còn sống làm sao? Chính vỉ vậy, những kẻ tự tử là những kẻ không còn tin tưởng,
những kẻ không biết có sự cầu nguyện.
d) Ích
lợi của sự cầu nguyện.
Cầu
nguyện đem lại cho con người rất nhiều lợi ích cho linh hồn. Điều đó chúng ta
đã nói nhiều ở trên. Cầu nguyện cũng còn lợi ích nhiều cho đời sống tâm lý và
thể lý nữa. Chính những nghiên cứu của các nhà khoa học thời danh đã chứng minh
điều đó.
Môt hôm, một bệnh nhân trạc
tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói:
- Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất
ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên,
sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ
được. Hết muốn sống.
Bác sĩ là một người Công giáo,
liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:
- Từ nay ông đừng uống thuốc
ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng,
và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.
Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề
đọc kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách
nghiêm chỉnh.
Một tuần lễ sau, thần kinh bớt
căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.
Bác sĩ Carl Jung cho
biết:”Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng
mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người
nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình,
mất tin tưởng”.
Giải
pháp ông nói đây rõ ràng là CẦU NGUYỆN.
(Viết
theo Vũ minh Nghiễm, Sống sống, tr 44-45)
2. Thực hành cầu nguyện.
Đức
Giêsu đã cầu nguyện rất nhiều trong công cuộc truyền giáo. Tuy rất bận rộn với
công việc rao giảng, chữa bệnh, trừ qủi và tiếp xúc với mọi hạng người, nhưng
Ngài không quên cầu nguyện, Ngài tranh thủ những lúc vắng vẻ, những đêm tĩnh
lặng để tiếp xúc với Cha Ngài. Ngài đã làm gương cho chúng ta về sự cầu nguyện
và còn thúc giục chúng ta cầu nguyện. Do đó, chúng ta không còn hoài nghi về sự
cần thiết và ích lợi của sự cầu nguyện.
Hãy
theo gương Đức Giêsu mà cầu nguyện trong đời sống hằng ngày, mặc dầu chúng ta
rất bận rộn với công việc. Trong khi cầu nguyện chúng ta hãy lưu ý đến hai điểm
này:
a) Cầu
nguyện đơn sơ.
Chúa
không đòi chúng ta phải cầu nguyện bằng những lời lẽ hoa mỹ hay bằng những hình
thức gò bó, mất tự nhiên, nhưng hãy cầu nguyện đơn sơ như một em bé nói chuyện
với cha mình, nói lên tất cả tâm tình của mình, nói lên những việc lớn cũng như
việc nhỏ trong cuộc sống, cầu nguyện như thánh nữ Têrêsa Hài đồng đã làm. Về
điểm này Cha Charles khuyên:
“Khi
bạn qùy gối trước nhan Chúa, bạn đừng xua đuổi những cái khác ra ngoài, nhưng
hãy làm ngược lại. Khi bạn thưa chuyện với Chúa Giêsu Kitô, bạn đừng bỏ bớt ba
phần tư từ ngữ quen dùng của bạn đi, bạn đừng dùng những từ ngữ ít gặp và đừng
tránh không nói đến những chuyện tầm thường. Đừng giả vờ biến thành một người
khác. Bạn hãy dám thưa với Chúa Giêsu rằng:”Bạn bị nhức đầu, bạn bị bực mình
khó chịu, bạn làm bữa cho gia đình trễ quá rồi”.
(Charles,
La prière de toutes les heures, tr 10)
Cũng
cần lưu ý thêm khi cầu nguyện trong những biến cố quan trọng:
“Dĩ
nhiên rằng khi một biến cố quan trọng xẩy ra, nhất là một thử thách xẩy đến
trong đời bạn, bạn đem ra thưa với Chúa trong kinh nguyện của bạn, nhưng đàng
khác cũng có một nguy hiểm. Nguy hiểm ở chỗ không đưa vào kinh nguyện của bạn
hàng ngàn chuyện lặt vặt xẩy ra hàng ngày, nhưng quan trọng đối với bạn và làm
thành những đường chính yếu dệt nên đời sống độc điệu của bạn” (Gaston Dutil,
Đạo trong đời bạn, tr 29).
b) Làm
việc và cầu nguyện.
Thường
người ta quan niệm rằng làm việc và cầu nguyện là hai việc khác nhau, có khi
đối chọi nhau. Người ta tưởng rằng cầu nguyện là phải chu chu chăm chắm, nhắm
mắt nhắm mũi lại mà cầu nguyện, chứ còn làm việc nữa thì làm sao mà gọi là cầu
nguyện được? Thực ra, với lòng yêu mến, chúng ta có thể biến tất cả công việc
làm của chúng ta thành kinh nguyện. Như thế, suốt ngày làm việc của chúng ta là
một lời kinh nguyện dâng lên Chúa. Cần nhất ban sáng khi thức dậy, chúng ta đã
dâng lên Chúa mọi công việc trong ngày, thì mọi việc trong một ngày có thể trở
thành kinh nguyện liên miên.
Truyện: Cầu nguyện và làm việc.
Một ông cụ già dẫn một thanh
niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo: một cái đề chữ “cầu
nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc”.
Người thanh niên nói kháy cụ
già:
- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm
lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một
chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).
Ông cụ không nói gì, chỉ buông
chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo chiếc có hai chữ
“làmviệc” kia.
Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng
thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.
Thấy thế người thanh niên kia
mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu
nguyện nữa, thuyền mới đi được.
(GM
Tihamer Toth, Dieu, La Providence, Sermons, tr 81)
Gaston
Dutil nói một cách quả quyết:”Ngày nào mà bạn đem tất cả đời sống bạn vào lời
cầu nguyện, thì bạn sẽ thấy ngày ấy bạn say mê cầu nguyện”.
34. Được chữa lành và phục vụ
Để hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh
sốt của bà mẹ vợ ông Simon, ta cần phải biết rằng vào thời đó, bệnh sốt được
coi như là một trong những hình phạt đối với những người mắc tội bất trung:
"Nếu các ngươi gạt bỏ các quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của
Ta, mà không đem ra thực hành các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta,
thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm cho các ngươi như thế này: Ta sẽ trút xuống các
người nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt các ngươi mờ đi và
các ngươi mờ đi và các ngươi phải kiệt sức" (Lv 26,15-16a). Chúa Giêsu
"lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy", người bệnh lập tức được chữa
lành, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn và bà đi phục vụ Chúa Giêsu và những
người đi theo Ngài. Dưới ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này mang một ý nghĩa biểu
tượng: loài người đã từng bị nằm liệt do cơn sốt là tội lỗi. Nhờ Phép Rửa tội,
Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy" có nghĩa là Ngài đến giải
thoát con người khỏi tội lỗi, chữa lành họ, giúp họ trở thành những kẻ phục vụ
Chúa và Giáo Hội. Chính Chúa Giêsu đã làm cho việc được chữa lành và phục vụ đi
đôi với nhau.
Chúng ta là những người đã được Chúa Giêsu chữa lành,
nhưng để biết được mình lành mạnh ra sao là nhờ vào những việc phục vụ mà mình
đang làm. Tuy nhiên, những công việc phục vụ hữu hiệu luôn đòi hỏi sự quan tâm,
biết chia sẻ thời giờ, tiền bạc và của cải, lại là những việc mà chúng ta hay
nghi ngại và không thích làm. Nhưng nếu chúng ta ích kỷ, chỉ biết sống cho bản
thân mình, đóng khung trong gia đình mình hay nơi một vài người mà mình thương
mến, mà thiếu tinh thần phục vụ Chúa, phục vụ Họ Đạo, phục vụ Giáo Hội, phục vụ
tha nhân, thì linh hồn mình vẫn còn bệnh hoạn, tâm hồn mình còn đang suy yếu.
Khi chúng ta sống đúng tinh thần phục vụ vô vị lợi của Chúa, của Giáo Hội, thì
ngay lúc đó, tâm hồn chúng ta mới thực sự được chữa lành và đến ngày sau hết,
chúng ta mới được "đỡ dậy", được Phục Sinh với Chúa Kitô.
35. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.)
Hằng ngày chúng ta đối diện trước những hình ảnh tàn khốc
trên TV, nào là chiến tranh, nạn đói, nào là trẻ em đang hấp hối. Đứng trước
những nỗi đau khổ khôn cùng như thế của nhân loại không lạ gì nhiều người đã đi
đến chỗ kết luận rằng một là do hình phạt của Thiên Chúa, hai là không có Thiên
Chúa nào hết. Không sao hiểu nổi những con người ăn ngay ở lành lại phải chịu
đựng nhiều nỗi khổ đau và vác những thập giá nặng nề đến thế! Không gì đe dọa
niềm tin cậy chúng ta vào một Thiên Chúa yêu thương quan phòng hơn là phải
chứng kiến những cảnh khổ đau trên đời này.
Sách Gióp là một nỗ lực tiếp cận trực diện vơí vấn đề đau
khổ của con người. Ông Gióp, một người đạo hạnh ăn ngay ở lành, bị Thiên Chúa
đem ra thử thách. Ông bị mất tất cả vợ con và tất cả mọi tài sản, rồi sau cùng
bị ngã quỵ vì đủ thứ bệnh tật. Ông bị buông xuôi bỏ cuộc đến nỗi cảm thấy rằng
ngoài cái nỗi khốn cùng này ông không còn gì đáng sống nữa. Nghĩ tới nghĩ lui
tại sao ông phải chịu đau khổ, hay tại sao Thiên Chúa giáng xuống quá nặng tay,
ông Gióp không tìm thấy một câu trả lời thuyết phục nào có thể đem lại ý nghĩa
cho nỗi tuyệt vọng hiện thời của ông. Sự thật là không dễ gì có ngay câu trả
lời. Gióp không phải là người đầu tiên cũng chẳng phải là người cuối cùng bị
dày vò và bế tắc trước vấn nạn đau khổ con người. Bệnh tật và cái chết có thể
là những thời khắc quan trọng nhất và đòi nhiều nỗ lực nhất trong cuộc đời.
Chúng ta thường quên lãng hay chối từ Thiên Chúa cho tới
khi chúng ta bị một cơn khủng hoảng nào đó đánh gục và ngã quỵ tới chỗ cảm thấy
bất lực. Khi chúng ta chỗi dậy thoát khỏi cơn tuyệt vọng ấy, chúng ta tất tả
tìm đến Ngài tìm ơn sủng chữa lành. Chúng ta được đưa đẩy đến chỗ hoàn toàn tín
nhiệm vào Thiên Chúa, vì không có cách nào khác để đối diện với đau khổ hơn là
nhận thức rằng đau khổ là một phần của chương trình Thiên Chúa. Bệnh tật có thể
giúp thúc đẩy chúng ta gạt sang một bên những hoạt động sôi nổi cuồng nhiệt của
cuộc sống thường nhật để thay vào đó tập trung tâm tư vào ngôi nhà vĩnh cửu mà
Thiên Chúa Cha đã dọn sẵn cho chúng ta trên trời. Đây là những cơ hội đặc biệt
đúng lúc để chúng ta giáp mặt với hy vọng và thất vọng của cuộc sống. Không cần
gì mà nghĩ ngợi rằng chúng ta sẽ làm gì nếu hoàn cảnh của chúng ta có thay đổi
khác đi.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Chúa Giêsu đến với bà
nhạc của ông Simon, giơ tay ra chữa lành cho bà ấy. Đức Kitô không trao cho
chúng ta câu trả lời về vấn đề đau khổ cũng không giải thích tại sao con người
phải chịu đau khổ nhưng Ngài cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biến đau
khổ thành niềm vui. Bằng cách đồng hóa mình với bệnh nhân hay người hấp hối Đức
Chúa Giêsu khi hấp hối trên Thập Giá đã mặc khải cho chúng ta thấy rõ ràng đau
khổ là một phần trong chương trình của Thiên Chúa. Tất cả đều tùy thuộc cách
chúng ta vác thập giá của mình bởi lẽ một khi kết hợp những gian nan thử thách
của chúng ta với những gian nan thử thách của Đức Kitô, chúng ta có thể vui
hưởng chiến thắng của Ngài. Cho dù bất cứ điều gì xảy ra, đối với những ai yêu
mến Thiên Chúa và sẵn sàng chung phần thương khó với Chúa Giêsu, tất cả mọi
việc đều có ý nghĩa. Tin Mừng không bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi những nỗi
khổ đau nhưng đoan chắc với chúng ta rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta cho dù
những nỗi khổ đau của chúng ta có lớn đến đâu đi chăng nữa.
36. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
RAO GIẢNG VÀ CHỮA LÀNH
Mới đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng Đức Giêsu coi
việc chữa lành các người bệnh tật ốm đau chỉ là công tác phụ, trong khi sứ mệnh
chính của Người là rao giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung
quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Lý
thuyết là như thế, nhưng đứng về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần
đa họ tìm đến với Người trước hết để được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền.
“Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa
lành mà dân chúng tin vào lời Người giảng dạy; ‘Người giảng dạy như một Đấng có
thẩm quyền’ (c.22).
Hình như hơn ai hết chính Đức Giêsu đã ý thức rất rõ điều
này: không lời giảng dạy nào về một Thiên Chúa nhân ái từ bi đối với một nhân
loại đau khổ lại hữu hiệu và hùng hồn cho bằng khi nhân danh Người mà rộng tay
chữa lành các thương đau phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn.
Ngay cả đối với các môn đệ mới chiêu mộ, Đức Giêsu cũng đã hoàn toàn chủ động
trong việc này; do đó Người đã chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù
không ai yêu cầu. Phải chăng đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo
cách nói của Gio-an sau phép lạ nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga
1:8)? Khi dài dòng thuật lại rất nhiều phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, chắc hẳn
tác giả Mác-cô muốn tô đậm nơi Người nét ông thầy thuốc tốt lành tới chữa lành
bệnh nhân tật nguyền; Người ‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; và hình
như đó cũng chính là hình ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu mình: “Người
khỏe mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2:17).
Như vậy đối với Đức Giêsu, rao giảng và chữa bệnh không
phải là hai công việc tách rời nhau. Bởi nếu nội dung cốt lõi của sứ điệp Tin
Mừng chính là ‘Thiên Chúa nhân ái quan tâm đến số phận của con người yếu hèn
trong cả lãnh vực thể lý lẫn tinh thần’ thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và
sắc bén nhất sẽ phải là ‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘sua trừ ma
quỉ’. Đức Giêsu hẳn có ý nói điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi
khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn
ghi nhận thêm: ‘Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của
họ, và trừ quỉ’ (nên lưu ý là người Do Thái thời Đức Giêsu cho rằng mọi bệnh
tật đều do ma quỉ mà ra). Qua các việc chữa lành này Người chỉ muốn cho mọi
người được biết: Thiên Chúa từ nhân đã đến với họ, đang thật sự ở giữa họ, đang
đồng hành với họ, cảm thông nỗi thống khổ yếu đuối của họ, và tích cực can
thiệp theo cách thức của riêng Người.
Suy niệm trên xem ra chẳng có gì là quan trọng cho lắm,
tuy nhiên nó sẽ giúp ta tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải khi
cho rằng Tin Mừng hệ tại ở việc lãnh hội các tín điều cao siêu (điển hình các
công thức tuyên tín phức tạp chứa đựng trong Kinh Tin Kính Ni-cê chẳng hạn…);
và cho rằng làm bác ái chỉ là việc phụ, tiểu tiết tùy nghi theo khả năng mỗi
người, có mục đích duy nhất làm gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo
phần rỗi linh hồn; rồi khi đọc Phúc Âm sẽ cho rằng việc Đức Giêsu làm các phép
lạ chẳng qua là để chứng tỏ quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời
Người giảng dạy…; rằng những học thuyết cao siêu gồm các qui định luân lý và
giới luật tân kỳ mới thật là điều Người xuống thế để dạy dỗ. Suy niệm trên hơn
bao giờ hết giúp tôi nhận ra Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy
thuyết phục: ‘Đức Giêsu - Lời’ đến trần gian để tuyên bố sứ điệp tình yêu của
‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…’ và tình yêu đó cũng thật cụ thể: ‘Thiên Chúa
sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng để thế
gian nhờ Con của Người mà được cứu độ’ (Ga 3:16.17). Thế đấy, toàn bộ cuộc đời
Đức Giêsu chỉ là một ‘Lời tình yêu cứu độ’, Lời trong sứ điệp, Lời trong hành
động, Lời trong các phép lạ, thậm chí Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá
và Lời trong sự Phục Sinh chứa chan niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ
nội dung duy nhất của sứ vụ Đức Giêsu trên trần gian chính là để quảng bá và
thể hiện mọi nơi mọi chốn một ‘Thiên Chúa yêu mến thế gian’ bằng trọn cả con
người Ngài.
Vì là một tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi nhiều lần đã áp dụng cho
Đức Giêsu câu nói mà chúng tôi vẫn thường dùng để nói về Don Bosco: “Người
không đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà
không phải vì…phần rỗi giới trẻ!” Ở đây phải là, trong Tin Mừng ‘Đức Giêsu đã
không hề đi một bước, không nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì mà
không phải vì… muốn chứng tỏ và thể hiện rằng Thiên Chúa yêu mến trần gian cách
tuyệt đối tới độ…!’
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con
được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho Tin Mừng tình yêu nhân ái được thể hiện và
nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng xã chung quanh nữa’. Con, một linh mục của
Chúa, ước mong rằng: mình sẽ không chỉ giảng dạy sứ điệp Tin Mừng này bằng lời
nói suông, nhưng phải bằng cả thái độ sống và hành động. Xin cho con biết rao
giảng Lời Chúa qua các dấn thận phục vụ quảng đại, mọi nơi và cho hết thảy mọi
người. Amen.
37. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
HÃY SIÊNG NĂNG LÀM VIỆC THEO
GƯƠNG CHÚA
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh
chị em thân mến
Làm
việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa
dựng nên các nguyên tổ rồi đặt họ trong vườn địa đàng để họ "canh tác và
giữ vườn". Chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn từ sáng tới tối.
Trong
Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta ý thức giá trị của việc làm,
đồng thời giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương Chúa.
II. Gợi ý sám hối
- Xin
Chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc.
- Xin
Chúa tha thứ vì chúng ta không biết thánh hóa những công việc mình làm.
- Xin
Chúa tha thứ cho những việc làm sai trái của chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (G 7, 1-4. 6-7)
Đoạn
sách Gióp này đưa ra một cái nhìn bi quan về công việc con người phải làm trong
cuộc sống:
Làm
việc là cực nhọc như "nô dịch"
Con
người giống như một người làm công.
Và
cuộc đời với những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.
Cái
nhìn bi quan này sẽ được sửa sai bằng gương làm việc của Đức Giêsu trong bài
Tin Mừng.
2. Đáp ca (Tv 146)
Thánh
vịnh này đặc biệt ca tụng một loại "công việc" đặc biệt của Thiên
Chúa, đó là việc "cứu chữa": Ngài là Đấng "cứu chữa những kẻ dập
nát tâm can".
3. Tin Mừng (Mc 1, 29-39)
Đoạn
Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu:
*
Giảng dạy ở hội đường
*
Giảng vừa xong thì đến nhà nhạc mẫu của Simon để chữa cho bà này khỏi bệnh sốt.
* Tiếp
tục chữa bệnh và trừ quỷ từ chiều cho đến tối.
* Sáng
tinh sương hôm sau, Ngài cầu nguyện ở một nơi thanh vắng.
*
Người ta lại tìm đến với Ngài để được chữa bệnh. Nhưng Ngài đành phải ra đi,
bởi vì còn phải rao giảng Tin Mừng ở những nơi khác nữa.
Tóm
lại, Đức Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Việc làm của Ngài là
rao giảng Tin Mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
4. Bài đọc II (1 Cr 9, 16-19. 22-23) (chủ đề phụ)
Thánh
Phaolô trình bày quan niệm của ngài về việc rao giảng Tin Mừng:
* Đó
là một nhu cầu: "Nếu tôi rao giảng Tin Mừng thì không phải để làm cho tôi
vinh quang, mà vì đó là một nhu cầu đối với tôi"
* Đó
là nguồn hạnh phúc: "Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin
Mừng"
* Vì
thế phải làm việc rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện chứ không phải do
bị bó buộc.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Lao động là vinh quang
Ông
Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong
rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau
hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho
rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm
sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu
mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn
chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ
tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều
phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc
gì nữa.
Câu
chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa
nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động
nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả:
ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác,
hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân
tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc vất
vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng
lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn không vô
thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước
kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười biếng thì than thở như trong
sách Gióp được trích đọc trong bài đọc thứ nhất: "Lao động nhọc nhằn là
kiếp sống của con người trên mặt đất. Ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm
công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ
không nhìn thấy hạnh phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong
chuyện ngụ ngôn của Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên cứ đòi chết cho rồi.
Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc
mình làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Chính
để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị của lao động nhọc nhằn mà
Đức Giêsu Kitô đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người lao động
vất vả. Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng
dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay
tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà
dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó
là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới
chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để
cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay
dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa. Nhưng Đức Giêsu đành phải từ
chối và nói "Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để
rao giảng Tin Mừng nữa".
Chính
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết
ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm
việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao
giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho
chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động nhọc nhằn: lao động là bổn
phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động
sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn.
Vì
hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolô đã hăng hái chu toàn những công việc
nặng nhọc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài trích thư gởi tín hữu
Côrintô. Là một tông đồ, công việc chính của Ngài là rao giảng Tin mừng. Ngài
đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Ngài còn nói "Khốn cho tôi nếu
tôi không rao giảng Tin mừng". Ngài còn nói thêm: "Giả như tôi tự ý
đảm nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì bị ép buộc thì
tôi còn mang phần thưởng ở đâu nữa! Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để
làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolô đã hiểu rõ ý nghĩa và giá trị của
việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.
Những
bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay thật ích lợi vì vạch cho ta thấy
phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
-
Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc ấy.
-
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể
đảm nhận những công việc ấy.
-
Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả
tốt đẹp.
- Xin
Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình, mà
còn để giúp ích cho những người khác.
- Và
đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức lực
để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian.
* 2. Vấn đề đau khổ
Bài
Tin mừng cho thấy một ngày bận rộn của Đức Giêsu.
-
Giảng xong trong hội đường thì đến chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô.
- Đến
chiều còn cả đám đông bệnh nhân đủ loại.
- Đêm
đến đi cầu nguyện còn được môn đệ mời về chữa bệnh.
- Và
còn phải đi đến nhiều thành nhiều vùng khác nữa.
- Đức
Giêsu như một chiếc phao giữa biển khổ cuộc đời mà vô số người bám. 20 thế kỷ
qua rồi, nhưng ngày nay đau khổ nhân loại vẫn còn chồng chất: cả thể xác lẫn
tinh thần. "Đời là bể khổ" câu giáo lý nhà Phật vẫn còn là một nhận
xét thật đúng.
Nhưng
từ nhận xét đó ta chớ vội kết luận.
- Hoặc
theo kiểu bi quan như những người chán đời tự tử.
- Hoặc
theo kiểu thả trôi ăn chơi kẻo hết đời "chơi xuân kẻo hết xuân đi".
Mà hãy bình tỉnh nhận định về vấn đề đau khổ.
. Có
những cái khổ tự mình gây ra: tham ăn đau bụng.
. Có
những cái khổ do người khác xấu bụng gây ra cho mình: thằng ăn cắp làm cho
người ta mất của.
. Có
những cái khổ là do quy luật thiên nhiên như thế: trước khi sinh con thì phải
mang nặng đẻ đau. Muốn được mùa thì phải cực nhọc cầy cấy.
-
Trước cái khổ cũng có nhiều thái độ:
+ Có
thứ khổ sinh buồn chán: nhậu nhẹt, tự tử.
+ Có
thứ khổ làm cho con người trưởng thành: người lao động biết quý trọng đồng
tiền, người lính chiến trở nên anh dũng.
+ Có
thứ khổ người ta sung sướng chịu đựng: khổ vì yêu mà lo cho người yêu.
Sau
khi phân tích như thế, ta thấy cái khổ mặc khải 3 vấn đề:
+ Trần
thế không phải là nơi hoàn hảo.
+ Tội
lỗi là một nguyên nhân lớn của khổ đau.
+ Khổ
đau chứng minh cho tình yêu.
Lạy
Chúa, xin cho con có một nhận định sáng suốt trước đau khổ.
+ Cho
con đừng tự gây đau khổ cho con hay cho người khác do tính ích kỷ của con.
+ Cho
con kiên trì đấu tranh làm giảm những đau khổ cho con và cho người khác.
+ Cho
đau khổ đừng làm con gục ngã nhưng giúp con vươn lên cao hơn cõi đời này hướng
về quê hương không đau khổ trên cao.
+ Cho
con biết chịu khổ vì yêu.
* 3. Nan đề đau khổ
Vấn đề
đau khổ của loài người, đặc biệt của người lành, là một nan đề. Gióp đã vật lộn
với nan đề này mà không tìm được lời giải đáp thỏa đáng.
Ngày
nay đau khổ cũng vẫn là một nan đề. Ngày nay có rất nhiều người cùng cảnh ngộ
với ông Gióp ngày xưa. Đó là những người đau khổ vì nghèo, đói, bệnh, bất công,
áp bức v. v. Thời Cựu Ước, người ta nghĩ rằng đau khổ là hình phạt của Chúa.
Phần
Đức Giêsu, Ngài không chấp nhận quan niệm coi đau khổ là hình phạt của Chúa,
bởi Chúa không làm điều xấu, mà đau khổ là điều xấu. Đức Giêsu không trả lời
cho câu hỏi "Tại sao đau khổ" nhưng Ngài dạy phải làm gì trước đau
khổ.
Trong
bài Tin Mừng này, chúng ta thấy những người đau khổ cả về thể xác lẫn tinh thần
bao quanh Đức Giêsu. Ngài không tránh xa, nhưng hòa mình với họ, xả thân để cứu
chữa họ.
Gặp
người đau khổ, Đức Giêsu không chỉ khuyên họ hãy nhẫn nhục chịu đựng như chúng
ta quen khuyên. Ngài ra tay hành động, cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ.
Vần đề
đau khổ còn là cơ hội để Đức Giêsu tỏ cho người ta biết Thiên Chúa. Qua cách
Ngài tận tuỵ cứu giúp người đau khổ, Đức Giêsu cho người ta thấy lòng thương
xót của Thiên Chúa đối với những kẻ đau khổ.
Sự đau
khổ của người khác cũng là cơ hội cho chúng ta. Tuy chúng ta không có khả năng
cứu chữa nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc. Mà chăm sóc cũng là một cách
cứu chữa. Chỉ cần ở bên người đau khổ thôi cũng là một điều gì đáng quý rồi.
Nhưng ở bên người đau khổ mà với hai bàn tay không thì có thể làm gì được? Được
chứ, vì với hai bàn tay, chúng ta có thể an ủi họ. Điều họ cần nơi chúng ta
nhất là chúng ta đừng bỏ rơi họ. Khi chúng ta ở bên họ thì cũng giống như ngày
xưa Đức Maria ở bên Thập giá Đức Giêsu.
Còn
đối với những đau khổ của bản thân chúng ta, đó cũng là điều không thể tránh
của thân phận làm người. Tuy nhiên thật là an ủi cho chúng ta vì chính Đức
Giêsu cũng đi con đường đau khổ như chúng ta, và Ngài đi tới cùng. Và cũng thật
vui mừng khi chúng ta biết rằng sau khi đi đến tận cùng đau khổ thì Đức Giêsu
đã tới vinh quang. Như thế, đối với kitô hữu, đau khổ là cơ hội cho chúng ta
chia xẻ cuộc chịu nạn của Đức Giêsu, trong hy vọng cũng sẽ được chia xẻ vinh
quang phục sinh của Ngài (Viết theo Flor McCarthy)
* 4. Niềm vui được chữa lành
Đầu
năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh:
Bệnh bò điên (Mad-Cow disease). Người những mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những
con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân
run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc
đầu người ta phát hiện có mười người mắc bệnh này ở Anh Quốc, tám người trong
số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen
Dorell đã phải tuyên bố: "Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh
Creutzfeldt - Jacob nơi con người"
Sau
đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các
nước Âu Châu lần lượt làm theo Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh quốc
phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại
hàng tỷ đôla.
***
Bệnh
tật theo đuổi con người như hình với bóng, Người ta xóa sổ được bệnh này thì
bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như
là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở
về với con người.
Hôm
nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon - Phêrô. Bà đang bị cảm sốt
liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp
đãi các Ngài.
Người
Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch
(x. Ds. 5, 3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái
nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật
được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt
cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách
tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức
Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang đến
cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh
phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định:
"Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều
linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng".
Sau
khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua bí
tích Rửa tội, chúng ta được xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật, linh hồn,
và được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại,
nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền. V. Ghika có
viết: "Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn
biết gánh lấy niềm đau kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và
biến nó thành của Người".
Dường
như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy
sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc.
Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
***
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn
còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn
các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin Chúa
thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con
cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của
anh chị em xung quanh. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Cực nhọc
Ba bài
đọc hôm nay đều nói về làm việc. Nhưng bài đọc Cựu Ước (trích sách Gióp) thì
than rằng làm việc là một gánh nặng quá cực nhọc. Còn 2 bài đọc Tân Ước thì nêu
gương Đức Giêsu và thánh Phaolô làm việc cách hăng say và vui vẻ.
Cũng
là làm việc, nhưng người thì thấy nặng nhọc, kẻ thì thấy vui vẻ. Tại sao?
-
Thánh Phaolô cho biết lý do thứ nhất: làm việc vì bó buộc hay làm vì tự nguyện:
"Tôi mà tự ý làm việc thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công"
-
Thánh Augustinô đưa ra lý do thứ hai: Ubi amatur, non laboratur (Khi nào người
ta yêu thì người ta không cảm thấy nhọc mệt)
\6. Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại.
"Lạy
Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con, nhưng xin Chúa phán một lời thì
linh hồn con được lành mạnh".
Câu
kinh đọc trước rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa
bệnh.
Đức
Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có
mặt hầu như ở từng trang Tin mừng. Đàng khác, nếu không chữa bệnh làm sao Đức
Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêssia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời
của Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng
Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người không
đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì cũng là để
cứu độ. Người không bảo: "Đức tin đã chữa lành con" nhưng: "Đức
tin đã cứu con". Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống nhờ sự
sống của Đức Kitô, dù khi khỏe mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như lúc
còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sự sống lại. Một nhà chú
giải hiện nay đã có một nhận định, mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng cho
tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề bao
giờ đọc một bài tin mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh nhân
được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú) nhưng chỉ để công bố sự Phục
sinh của Chúa". (H. Denis, trong "100 mots pour dire", Desclée
de Brouwer, trang 183. Trích dịch bởi Fiches dominicales, năm B).
7. "Ngài đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện"
Người
kia có thói quen một mình đi vào một khu rừng hẻo lánh. Một hôm, người bạn của
người đó tò mò đi theo. Khi thấy người này ngồi im trong rừng thì ngạc nhiên
hỏi:
- Anh
làm gì ở đây thế?
- Tôi
cầu nguyện.
-
Nhưng cần gì phải đến một nơi xa xôi hẻo lánh như thế này để cầu nguyện chứ?
- Vì ở
đây tôi thấy mình gần Chúa hơn.
-
Nhưng Chúa ở khắp mọi nơi kia mà. Ở đâu mà Chúa chẳng gần ta.
- Chúa
thì như thế thật, nhưng tôi thì không như thế.
Đành
rằng Chúa ở khắp mọi nơi nên ở đâu ta cũng có thể gặp Chúa, tuy nhiên nếu thỉnh
thoảng ta lui vào một nơi yên tĩnh nào đó thì ta sẽ cảm thấy Chúa gần gũi hơn
và thân thiết hơn. Ở những nơi yên tĩnh như thế, một mặt tất cả mọi sự đều nhắc
chúng ta nhớ đến sự hiện diện của Chúa, từ một làm gió, một cánh hoa, một dòng
nước, một tiếng chim hót cho đến cả sự im lặng; và mặt khác con người chúng ta
thư thái hơn, bình lặng hơn nên dễ cởi mở tấm lòng ra với Ngài hơn. (Viết theo
Flor Mc Carthy)
V. Lời nguyện cho mọi người
CT: Anh chị em thân mến
Lao động là nhọc nhằn, nhưng lao động cũng là nguồn vui,
là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo dịp cho chúng
ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng lên Chúa
những lời nguyện sau đây:
1. Ngày xưa Đức Giêsu đã bảo các
môn đệ rằng "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành thị lân cận để Ta
cũng rao giảng ở đó nữa". Ngày nay Hội Thánh tiếp tục làm theo lời dạy ấy
của Chúa. Chúng ta hãy cầu xin cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh
được nhiều thuận lợi và nhiều kết quả.
2. Đất nước chúng ta còn nghèo.
Rất nhiều người chưa có công ăn việc làm xứng đáng và đủ nuôi sống gia đình
mình. Chúng ta hãy cầu xin cho các vị lãnh đạo đất nước có những đường lối
chính sách đem lại công ăn việc làm cho mọi công dân, để cuộc sống mọi người
đều ấm no hạnh phúc.
3. Chúng ta hãy đặc biệt nhớ đến
những người thất nghiệp và những người vì hoàn cảnh bó buộc phải làm những công
việc không xứng với nhân phẩm và đạo đức. Xin Chúa giúp cho những anh chị em ấy
sớm thoát khỏi tình trạng khốn khổ hiện tại.
4. Chúng ta cũng hãy cầu nguyện
cho mọi người trong cộng đồng giáo xứ chúng ta biết siêng năng làm việc, để vừa
nuôi sống bản thân mình, vừa góp phần xây dựng xã hội và Giáo Hội.
CT: Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng
đến tối; Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà còn để cứu giúp mọi
người. Chúng con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng
con. Xin Chúa thánh hóa những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt
lành. Chúng con cầu xin nhờ công nghiệp Đức Giêsu Kitô là Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
-
Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy cầu xin với Thiên Chúa là Cha chúng ta, xin
Ngài thêm sức cho chúng ta có thể chu toàn mọi công việc chúng ta phải làm
trong cuộc sống, đồng thời cũng xin Ngài cứu chúng ta khỏi mọi bệnh tật và mọi
sự dữ.
- Sau
kinh Lạy Cha: "Lạy Cha xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin thêm sức cho
chúng con gánh vác những lao nhọc hằng ngày, xin đoái thương cho những ngày
chúng con đang sống được bình an..."
VII. Giải tán
Với ý thức rằng làm việc là cộng tác vào công trình sáng
tạo của Thiên Chúa, và với sự trợ giúp của Ngài, chúng ta hãy hăng hái trở về
với cuộc sống và tích cực chu toàn những công việc của chúng ta.
38. Con người luôn cần Thiên Chúa
(Suy niệm của
Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê)
Kính thưa quý anh chị em,
Kinh nghiệm cuộc sống dạy con người ý thức thân phận mong
manh, mỏng dòn, yếu đuối trong thế giới tạo thành. Nhiều người ví cuộc đời chỉ
như áng mây bay, như bông hoa sớm nở, chiều tàn, thế mà, trong khoảng khắc vắn
vỏi ấy lại chất đầy gian lao khốn khổ. Ông Gióp gọi đời người là một khổ dịch. Nếu
đơn thân, độc mã, con người sẽ bị hư vô hóa tức thì trong một hơi thở.
Tạ ơn Chúa, con người vẫn tồn tại và phong nhiêu mạnh mẽ,
đóng góp rất kỳ diệu tô điểm bộ mặt thế gian. Bởi đâu con người được như vậy? Chắc
chắn là do ơn quan phòng, gìn giữ của Chúa, Đấng tạo thành trời/đất và cũng do
tình liên đới hiệp thông giữa con người với nhau.
Đại dịch Covid-19 dạy chúng ta nhiều bài học quan trọng,
bổ ích: bệnh tật, đau khổ là sự xấu toàn tập, nhưng giữa tâm dịch, tình liên
đới hiệp thông chữa lành nảy nở hơn bao giờ hết: các y, bác sỹ trên tuyến đầu
chống dịch, những người lao công âm thầm nơi các trung tâm bám trụ phục vụ,
những cơ sở bác ái từ thiện, nấu cơm cho người đói mọc lên như nấm...
Như vậy, dịch bệnh gây ra thiệt hại, chết chóc, nhưng
tình liên đới hiệp thông sẻ chia đã cứu sống nhân loại trong diện rộng, rõ
ràng: “tình yêu mạnh hơn sự chết!”
Tình yêu mạnh hơn sự chết là sợi chỉ đỏ xuyên suốt phụng
vụ Lời Chúa hôm nay.
Bài đọc I, trích sách Giảng Viên, là những sưu tầm lời
dạy khôn ngoan của hiền nhân Israel. Con người sống trong trời đất này chỉ là
tạm bợ, mong manh. Mọi công trình họ tạo ra chỉ là bèo bọt, nay còn mai mất.
Cuộc sống là chuỗi ngày dài nhàm chán chất đống bởi thất bại, bệnh tật và cuối
cùng là phải chết. Tác giả kết luận: đời sống con người chỉ là một khổ dịch,
kéo dài chỉ bằng một hơi thở.
Tuy nhiên, tác giả là người có đức tin vững vàng vào
Thiên Chúa, nên không nổi loạn, than trách nguyền rủa Đấng tạo thành, một ký
thác đường đời cho Chúa.
Sách Giảng Viên cho một cái kết có hậu: đừng bám víu vào
những thực tại vô thường trên thế gian, phải hướng cuộc đời tới một mạc khải
cao cả hơn, đó là: mua sắm cho mình những của cải không hư nát trên trời. Sách
Giảng Viên được xem như những món khai vị cho bài giảng trên núi về “Tám mối
phúc thật” của Chúa Giê-su.
Bài Phúc Âm vừa tuyên đọc khẳng định một thực trạng về
con người tự nhiên bị khuất phục bởi bệnh tật đủ loại, bị thao túng bởi ma quỷ.
Sức riêng con người không thể thoát ra. Họ phải nhờ đến ơn Chúa. Trong tình
trạng bất lực hoàn toàn, con người mới thấy cần Thiên Chúa, mới khát khao ơn
Người cứu độ.
Chúa Giê-su, trong bài Tin Mừng, xuất hiện đúng lúc và
đúng nơi: tại nhà nhạc gia Phê-rô, lúc bà đang lâm cơn sốt. Chúa cần tay, đỡ
dậy và lập tức cơn sốt chấm dứt, bà đi lại phục vụ các ngài.
Chủ đích của Marcô muốn gởi gắm qua trình thuật, đó là:
tất cả những gì Đức Kitô đụng đến đều được biến đổi theo hướng tích cực. Ngoài
việc cầm tay đỡ bà chỗi dậy, Marco còn nhắc tới nhiều trường hợp Chúa đụng tay
trên người bệnh, trên người chết. Tất cả đều được chữa lành và người chết sống
lại.
Sở dĩ đụng chạm vào Giê-su, con người được chữa lành, là
vì: Giê-su chính là bí tích cứu rỗi của Thiên Chúa. Đây cũng là ý nghĩa của
việc cử hành và lãnh nhận các bí tích Tân Ước. Bí tích là dấu chỉ bề ngoài,
sinh ơn thiêng liêng trong tâm hồn kẻ lãnh nhận.
Nhờ Đức Giê-su Thiên Chúa, con người vượt lên trên thân
phận thụ tạo của mình, có khả năng tháp nhập vào thân mình mầu nhiệm, thân mình
sự sống sung mãn của Chúa Giê-su. Hồng ân tháp nhập làm người tín hữu nên giống
Chúa trong mọi sự và sự sống của Chúa thông truyền, làm cho thân xác yếu đuối
phải chết của chúng ta nên vững mạnh, đạt tầm vóc viên mãn của Đức Giê-su là sự
sống đời đời.
Vì lẽ đó, thiên hạ chen lấn, cả thành tụ họp quanh Ngài.
Chúa Giê-su chạnh lòng thương xót! Người chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền và
xua trừ ma quỷ. Cảnh tượng đó cho thấy: con người luôn cần Thiên Chúa và Chúa
đến với con người cũng vì lý do đó.
Thưa anh chị em,
Thâm tín “con người luôn cần Thiên Chúa” mới hiểu được
lời giáo huấn của Thánh Phao-lô trong thư gởi giáo đoàn Co-rin-tô vừa tuyên
đọc. Phao-lô coi việc loan báo Tin Mừng là một ân huệ, một bổn phận tự nguyện.
Vì sao? Vì tình yêu Đức Kitô thúc bách. Cuộc đời ngài tan
chảy trong Đức Kitô, nghĩa là: đã nên đồng hình đồng dạng, đạt tới tầm vóc viên
mãn Giê-su, đã có kinh nghiệm về sức mạnh của ơn Chúa và về thân phận con
người, nên, vì đức ái, Phao-lô muốn mọi người được hạnh phúc, được cứu độ và
được sống đời đời.
Cũng chỉ vì yêu Chúa và yêu người, Phao-lô sẵn sàng chấp
nhận từ bỏ tất cả, hy sinh tất cả, tự làm tôi tớ, phục vụ mọi người, cốt để
được thông chia phần phúc của Tin Mừng. Đó là sự thông hiệp với Đức Kitô và ơn
cứu độ muôn đời.
Cuộc đời Phao-lô là bài học quý giá cho hành trình đức
tin của mỗi người chúng ta. Sống niềm hy vọng đức tin như ngài sẽ giải phóng
chúng ta khỏi u sầu buồn bã, nhàm chán. Quên hẳn quá khứ với những yếu đuối lỗi
lầm, hướng tới tương lai để được ngụp lặn trong tình yêu và sự sống, nên mạnh
mẽ trong đức tin, đức cậy, đức mến.
Noi gương ngài, chúng ta thâm tín rằng ơn và sức mạnh của
Chúa sẽ gìn giữ chúng ta vẹn toàn trong khi mong chờ niềm hy vọng vinh quang
chiếu tỏa.
Thưa anh chị em,
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay thúc dục chúng ta: Hãy mau trỗi
dậy, nhờ tay Chúa đỡ nâng, phục vụ Tin Mừng tích cực như nhạc gia thánh Phê-rô
sau khi được chữa lành. Phục vụ trong niềm vui tươi phấn khởi sẽ làm đẹp lòng
Chúa và sinh ơn cứu độ cho trần gian. Cụ thể của phục vụ là chu toàn bổn phận
thuộc đấng bậc mình. Đó là cách gắn kết với Chúa, với tha nhân, xứng đáng được
Chúa chúc lành bây giờ và luôn mãi. Amen.
39. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Lê Danh Tường)
CON NGƯỜI KHÔNG CHỈ LÀ MỘT CÁI
XÁC
Trong Chúa Nhật trước chúng ta đã được thánh Marco cho
thấy uy quyền trong lời giảng dạy của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đến để rao giảng
cho người ta về mầu nhiệm Nước Trời. Ngài đã đến với sứ mạng để kéo con người
lên, đưa con người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng
dân chúng đã hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Họ đã mong chờ một vị cứu tinh với
nhãn quan trần tục và quẩn quanh trong thân xác ở đời này.
Sứ mệnh của Đức Giêsu
Bài Tin mừng Chúa nhật này nổi lên hình ảnh Đức Giêsu tận
tụy xoa dịu những đau khổ của con người. Ngay sau khi chữa người bị thần ô uế
ám nơi hội đường Capharnaum, Đức Giêsu đến nhà mẹ vợ của ông Phêrô để chữa bệnh
cho bà. “Chiều đến, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho
Người”. Đức Giêsu đã cúi xuống để xoa dịu tất cả các bệnh nhân. Cả một
ngày, Đức Giêsu đã làm việc không biết mệt mỏi vì lòng yêu thương dân chúng.
Hôm sau dân chúng lại tiếp tục kéo đến. Thế nhưng người
ta đã bắt gặp cách hành xử lạ lùng nơi Đức Giêsu. Đêm đó Ngài đã đi ra một nơi
vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Sáng ra, khi ông Phêrô mời Ngài về để tiếp
tục chữa bệnh thì Ngài đã từ chối và lên đường đi nơi khác. Ngài đã không tiếp
tục chữa bệnh cho họ ở đó. Phải chăng Ngài không còn thương họ nữa?
Sự thường người ta dễ dàng dừng lại trong vinh quang hiện
tại để tận hưởng. Đức Giêsu đang nổi danh và được nhiều người kéo tới với Ngài.
Nhưng Ngài không dừng lại với những vinh quang chóng qua ấy. Sứ mạng mà Ngài
đến trong thế gian là để nâng con người lên, kéo họ ra khỏi cảnh trầm luân, đưa
họ vào trong đời sống mới trong vinh quang vĩnh cửu.
Ông Gióp trong bài đọc thứ nhất đã thốt lên với tất cả
trải nghiệm của ông về cuộc đời này: “Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi
đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi
chỉ là một hơi thở!” (G 7,6-7). Nếu chỉ quẩn quanh ở đời này thì quả thực cuộc
sống nó chẳng là gì. Nó vô nghĩa và trống trơn.
Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng đã khẳng định với
dân thành Corintô rằng “Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho
mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông
phần vào lợi ích của Tin Mừng” (Cr 1, 22-23). Ngài không tìm vinh quang ở đời
này, nhưng là hướng về vinh quang bất diệt, hướng về những giá trị trường cửu.
Bệnh tật yếu đau của con người cần được chữa lành và xoa
dịu. Nhưng Đức Giêsu muốn cứu giúp người ta thoát khỏi khổ đau ấy cách tận căn.
Ngài muốn kéo người ta ra khỏi sự nô lệ của tử thần, ra khỏi u mê của tội lỗi,
ra khỏi bàn tay thống trị của ma quỷ để được trở nên thanh sạch vui sống trong
bình an hạnh phúc Nước Trời với Thiên Chúa, cả ở đời này và đời sau.
Sứ mệnh của Đức Giêsu là đưa mọi người trở về với Thiên
Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng lại mong chờ những thứ tạm
bợ ở thế gian mà thôi.
Dân chúng hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu
Sống trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, dân Do
thái chỉ mong chờ vị cứu tinh đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc.
Họ mong chờ có ngày được độc lập, mong chờ một vị vua tài ba lỗi lạc để lãnh
đạo dân. Tất cả những gì họ mong chờ chỉ đáp ứng cho đời sống hiện tại ở trần
gian.
Họ đã lầm tưởng Đức Giêsu đến để đáp ứng cho họ những
chuyện đó mà thôi. Khi thấy Đức Giêsu chữa lành mọi thứ bệnh tật, có uy quyền
khiến ma quỷ cũng phải tùng phục, thì dân chúng đã mường tượng ra một vị vua mà
họ đang mong chờ. Ngài sẽ cứu họ khỏi đế quốc Rôma, sẽ chữa trị mọi bệnh tật
cho họ, sẽ làm vua của họ.
Nếu Đức Giêsu thuận theo dân chúng để rồi họ sẽ tung hô
Ngài làm vua; Nếu Đức Giêsu không ở lại với Chúa Cha nơi thanh vắng để bám chặt
vào sứ mệnh chính yếu của mình, thì cả thầy lẫn trò đã chìm đắm trong vinh
quang trần thế.
Việc Đức Giêsu từ chối trở lại với dân chúng và yêu cầu
các môn đệ lên đường đi đến nơi khác đã khiến dân chúng phải tự hỏi Đức Giêsu
là ai? Thánh Marco muốn người ta khám phá Đức Giêsu từ từ từng bước, xuyên qua
những thực tại trần thế, những việc làm cụ thể của Đức Giêsu để nhận ra khuôn
mặt thực của Ngài, sứ mệnh thực của Ngài. Một Đức Giêsu Cứu Thế.
Đến với Đức Giêsu – vị Cứu Chúa
Không phải chỉ những người Do thái năm xưa mới hiểu lầm
sứ mệnh của Đức Giêsu. Ngày hôm nay không ít người vẫn còn đang hiểu lầm về
Ngài.
Người ta tìm đến với Đức Giêsu nhưng để học hỏi những
điều hay lẽ phải nơi Ngài trong thân phận là con người mà thôi. Với họ, Ngài
cũng chỉ giống những hiền giả vĩ đại trong lịch sử như đức Khổng Tử, đức Lão
Tử, đức Phật Thích Ca hay như một triết gia vĩ đại nào đó bên trời Tây.
Có những người đến với Đức Giêsu chỉ vì Ngài đã từng làm
phép lạ chữa lành bệnh tật ai đó hay giúp họ ăn nên làm ra. Họ đến với Giêsu để
cầu mong sự an nhàn thịnh vượng nơi cuộc sống hiện tại mà thôi.
Thậm chí có những người còn nhìn Giêsu như là kẻ ru ngủ
nhân loại. Họ tìm cách gạt bỏ Giêsu, gạt bỏ tất cả những ai theo Giêsu. Đối với
họ, Ngài là hiểm hoạ cho nhân loại nên phải đóng đinh Ngài vào cây thập giá mà
treo lên khỏi mặt đất, tách Ngài rời khỏi nhân loại. Không! Đức Giêsu là vị Cứu
Chúa của chúng ta. Ngài đã đến trong thế gian với tất cả lòng yêu mến con
người. Tâm hồn Ngài luôn khát khao mòn mỏi mong cứu lấy chúng ta. Ngài chính là
Thiên Chúa. Ngài đã sống thân phận con người để cảm thông nâng đỡ mỗi người
chúng ta.
Chúa Giêsu không chỉ cứu giúp, không chỉ chữa lành thân
xác chúng ta; không chỉ chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta ở đời
này. Ngài muốn kéo chúng ta lên. Ngài muốn chúng ta mở to mắt và nhìn thấy thân
phận cao quý của mình mà tiến lên; Ngài muốn con người thực sự trở lại là tác
phẩm kỳ diệu của Tạo Hóa. Trên hết, Ngài đưa chúng ta ra khỏi bàn tay của tử
thần và đưa tất cả chúng ta vào đời sống sung mãn, vượt lên trên những bình
diện hạn hẹp của cuộc sống này.
Bạn hãy đến với Chúa Giêsu, hãy chiêm ngắm Ngài trong
dung nhan là một con người và là Thiên Chúa nữa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ bạn.
Chính Ngài sẽ cứu vớt bạn khỏi mọi nỗi ô nhục. Chính Ngài sẽ là nguồn bình an
và là niềm hy vọng vĩnh cửu cho cuộc đời bạn.
Lạy Chúa Giêsu, vị Cứu Chúa của đời con, xin Ngài cứu lấy
con cho khỏi mọi sự dữ và dẫn dắt con tiến về Trời cao.
40. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm chú giải Lời Chúa của Lm. Inhaxiô
Hồ Thông)
Trong Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Thường Niên Năm B,
Bài Đọc I và Bài Đọc II đều gặp thấy âm vang trong đoạn Tin Mừng hôm nay.
G
7: 1-4, 6-7
Ông
Gióp là một người công chính phải chịu muôn vàn đau khổ. Trong đoạn trích hôm
nay, ông than vãn với Thiên Chúa về những đau khổ mà mình phải chịu mà không
hiểu tại sao.
1Cr
9: 16-19, 22-23
Theo
thánh Phao-lô, lòng nhiệt thành hăng say truyền giáo là một bổn phận và trách
nhiệm mà thánh nhân phải chu toàn.
Mc
1: 29-39
Đoạn
Tin Mừng hôm nay như lời đáp trả cho Bài Đọc I và Bài Đọc II, trước hết, Đức
Giê-su là Đấng đem lại ý nghĩa cho những đau khổ của con người; đồng thời Ngài
cũng là mẫu gương đầu tiên về sứ mạng truyền giáo: “Vì Thầy đến cốt để làm việc
đó”.
BÀI
ĐỌC I (G 7: 1-4, 6-7)
Ông
Gióp là nhân vật chính của sách chứ không là tác giả (giống như sách Giô-na,
sách Tô-bi-a, sách Giu-đi-tha). Ông là người tôi trung “đức độ vẹn toàn” của
Thiên Chúa, vui hưởng một cuộc sống hạnh phúc giàu sang phú quý. Nhưng rồi
những tai họa bất ngờ ập xuống, ông mất tất cả: tài sản, con cái; đoạn, bị ung
nhọt lở loét khắp người. Trong cơn cùng khốn, ông than thân trách phận nhưng
không nổi loạn chống lại Thiên Chúa.
Tại
sao người công chính phải chịu đau khổ trăm chiều? Vấn đề này được đề cập đến
dưới nhiều khía cạnh khác nhau, được lý giải dưới nhiều gốc độ khác nhau trong
cuộc tranh luận dài giữa ông và các bạn của ông. Văn thể chính yếu là đối
thoại.
Bài
học cốt yếu mà sách đưa ra, đó là nếu người công chính vẫn nhất mực trung thành
với Thiên Chúa trong mọi gian nan thử thách, thì cuối cùng nhận được phần
thưởng của mình: ông Gióp được tăng gấp bội những gì ông đã có trước kia: tài
sản, con cái, cháu chắt.
1.
Nguồn gốc của sách Gióp:
Đề tài
được khai triển trong sách không mới. Vấn đề người công chính phải chịu đau khổ
được nêu lên rất xa xưa trong những chuyện cổ tích dân gian của các dân tộc
chung quanh dân Do thái, được truyền khẩu hay bằng văn bản thuộc thiên niên kỷ
thứ ba trước Công Nguyên. Trong những câu chuyện đó, văn thể đã là đối thoại
rồi. Một bản văn Ba-by-lon thuộc thiên niên kỷ thứ hai trước Công Nguyên chứng
nhận rằng miền Lưỡng Hà Địa cũng có một vị anh hùng công chính chịu đau khổ.
Ai-cập cũng đã gẫm suy vấn đề nầy trong một bài thơ trữ tình: “Một nhân vật bất
hạnh chán sống đối thoại với tâm hồn của mình”. Ở Hy lạp, đề tài nầy được gặp
thấy ở nơi thi phẩm “Odyssée” nổi tiếng của thi hào Homère, trong đó nhân vật
chính, Ulysse, là người công chính phải lang thang phiêu bạt. Ông đã mất tất
cả: tổ quốc, gia đình, của cải, các bạn đồng hành cùng với con thuyền, một mình
cô quạnh trong một hoang đảo. Cuối cùng, ông lấy lại tất cả những gì ông đã mất
trước đó.
Những
chuyện tích dân gian đều kết thúc có hậu: “ở hiền gặp lành”. Tác giả sách Gióp
đã không ngại duy trì “đoạn kết có hậu” nầy, cho dù có nguy cơ làm yếu đi những
viễn cảnh tinh thần trong thi phẩm của ông. Quả thật, trong sách Gióp, “lời mở”
(ch. 1-2) và “lời kết” (42: 7-17) được viết bằng văn xuôi và rất có thể là
chứng tích của một chuyện tích dân gian. Chắc chắn trên nền chuyện tích dân
gian nầy, văn sĩ thánh đã xây dựng thành một ngụ ngôn mang chiều kích thần học
và luân lý rất cao.
Tác
giả đã viết ra những gẫm suy về những đau khổ này nhằm gởi đến cho ai? Những
suy đoán về lịch sử và tâm lý khiến người ta nghĩ rằng sách Gióp được biên soạn
trong thời kỳ lưu đày Ba-by-lon. Vì thế, ai đã mất tất cả, ai đã sống trong
cảnh đời vô vọng, ai đã nêu lên cho Thiên Chúa những nghi vấn và không hiểu tại
sao mình phải chịu một sự thử thách dài lâu đến như thế, nếu không phải là
những người bị lưu đày ở Ba-by-lon? Ngoài ra, tác giả không phải là không biết
sách “Ai Ca”, từ sách này ông đã đón nhận nguồn cảm hứng sáng tác của mình.
2.
Người công chính phải chịu đau khổ.
Đoạn
văn hôm nay được trích từ lời than vãn thứ hai trong số những lời than vãn dài
của Gióp. Trong đoạn trích nầy, Gióp than vãn về những đau đớn đang hành hạ
thân xác của ông. Bản văn được chọn để chuẩn bị cho chúng ta đọc đoạn Tin Mừng
hôm nay. Suốt ngày ở Ca-phác-na-um, Chúa Giê-su đối mặt với những bệnh nhân mà
người ta đem đến với Ngài. Động lòng thương, Ngài chữa lành tất cả. Quyền năng
của Ngài chữa lành những bệnh hoạn thể xác là dấu chỉ loan báo quyền năng của
Ngài chữa lành những bệnh hoạn tâm hồn.
Gióp
sánh ví cuộc sống con người với khổ dịch, tiếp đó với chuỗi ngày của kẻ làm
thuê và của người nô lệ, cả hai đều nôn nóng chờ đợi ngày kết thúc: người làm
thuê đợi tiền công, kẻ nô lệ mong được giờ phút nghỉ ngơi. Sau cùng, Gióp bất
hạnh phải trằn trọc suốt đêm thâu không chợp mắt vì cơn đau hành hạ. Tuy nhiên,
trong khi trằn trọc đau đớn trên giường, Gióp hướng mắt về Thiên Chúa và nói
lên những lời than vãn đến xé lòng của mình với Thiên Chúa:
“Lạy
Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho,
cuộc
đời con chỉ là hơi thở,
mắt
con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (7: 7).
Bất
chấp tất cả, Gióp vẫn giữ vững niềm tin vào Thiên Chúa, dù ông không hiểu được.
Đây
chỉ là một đoạn trích ngắn của một trong số những cuốn sách bi thương nhất đã
từng viết về nỗi đau khổ của nhân loại. Sách Gióp không đề xuất bất kỳ giải
pháp nào (vào thời kỳ nầy những niềm hy vọng bên kia nấm mồ chưa được biết đến
ở Ít-ra-en): vấn đề người công chính phải chịu đau khổ vẫn là một mầu nhiệm mà
chỉ một Thiên Chúa mới có thể biết được.
BÀI
ĐỌC II (1Cr 9: 16-19, 22-23)
Đoạn
trích thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô nầy có thể hiểu được
chỉ khi đặt nó vào lại trong văn mạch, vì hai dữ kiện được đặt chồng lên nhau ở
đây.
1.
Một nghĩa vụ buộc phải chu toàn.
Dữ
kiện đầu tiên mặc nhiên nhắc nhớ cuộc trở lại của thánh Phao-lô trên đường
Đa-mát và nhiệm vụ mà Đức Ki-tô trực tiếp giao phó cho thánh nhân, khi thánh
nhân xuất thần trong Đền Thờ: “Hãy đi, vì Thầy sẽ sai anh đến với các dân ngoại
ở phương xa” (Cv 22: 21). Thánh Phao-lô nghĩ rằng mình chẳng có gì phải tự hào
về sứ vụ loan báo Tin Mừng, bởi vì đó là một nghĩa vụ và trách nhiệm mà thánh
nhân không thể thoái thác nhưng buộc phải chu toàn.
2.
Tinh thần vô vị lợi.
Qua
đó, thánh nhân bày tỏ không chỉ thái độ khiêm hạ trong việc phụng sự Chúa,
nhưng còn tinh thần vô vị lợi trong việc loan báo Tin Mừng. Quả thật, đây là dữ
kiện thứ hai tất yếu để hiểu đoạn trích nầy. Trong vài hàng trước đó, thánh
nhân phát biểu: “Anh em không biết rằng người lo các thánh vụ thì được hưởng
lộc Đền Thờ, và kẻ phục vụ bàn thờ thì cũng được chia phần của bàn thờ sao?
Cũng vậy, Chúa truyền cho những ai rao giảng Tin Mừng phải sống nhờ Tin Mừng”
(9: 13-14). Dù thế, thánh nhân không muốn mình trở thành gánh nặng cho bất cứ
ai: “Vậy đâu là công sá của tôi? Đó là đem Tin Mừng mà rao giảng không công,
chẳng sử dụng quyền lợi Tin Mừng ban cho tôi”.
3.
Nhà truyền giáo mẫu mực.
Thánh Phao-lô tự nguyện khước từ đặc quyền đặc
lợi của mình, chia sẻ mọi hoàn cảnh của mọi người, làm đầy tớ mọi người để
chinh phục được nhiều người “bằng bất cứ giá nào”. Phần thưởng mà thánh nhân
mong ước đó là “cứu độ được một số người”. Như vậy, thánh Phao-lô chẳng những
thiết lập mà còn chứng thực đức tính truyền giáo của Giáo Hội.
TIN
MỪNG (Mc 1: 29-39)
Tin
Mừng Chúa Nhật hôm nay nối tiếp Tin Mừng Chúa Nhật trước đó thuật lại cho chúng
ta một ngày hoạt động của Đức Giê-su tại thành Ca-phác-na-um: Sáng sớm, trong
hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su giảng dạy cho dân chúng và trục xuất thần ô
uế ra khỏi một người bị quỷ ám (Chúa Nhật trước: 1: 21-28); ban trưa, tại nhà
ông Si-môn, Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ ông Si-môn, và chiều tối, trước cửa
nhà ông Si-môn, Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ (Tin Mừng Chúa Nhật
hôm nay: 1: 29-39).
1.
Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ ông Si-môn (1: 29-31):
Ngay
khi vừa rời hội đường, Đức Giê-su đến nhà của hai anh em Si-môn và An-rê. Khi
người ta nói cho Ngài biết bệnh tình của bà mẹ vợ ông Si-môn, Đức Giê-su tiến
đến bên giường bệnh nhân và theo đúng nguyên văn: “cơn sốt rời bỏ bà”. Đây là
diễn ngữ rất mạnh. Cơn sốt vào thời đó không là một trong những chứng bệnh
thông thường như chúng ta nghĩ hiện nay. Cơn sốt gây tác động rất mạnh trên
những người xưa. Thiên Chúa ngăm đe những ai không thi hành các huấn lệnh của
Ngài, là Ngài sẽ trút xuống những người ấy nỗi kinh hoàng, sự suy mòn, cơn nóng
sốt, khiến mắt họ mờ đi và phải kiệt sức (Lv 26: 14-16). Cơn sốt là một trong
những tai ương ngang bằng với sự chết mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm chủ
được nó (Kb 3: 5).
Đức
Giê-su “cầm lấy tay bà mà đỡ bà dậy”. Đó cũng là cử chỉ của Đức Giê-su khi Ngài
cho con gái ông Gia-ia sống lại: “Người cầm lấy tay cô bé…và lập tức, cô bé
chỗi dậy” (Mc 5: 41-42). Trong cả hai
trường hợp, chúng ta lưu ý đến cử chỉ của Đức Giê-su: “Cầm lấy tay” nói lên mối
quan tâm của Ngài đối với bệnh nhân và động từ “đỡ dậy” theo đúng nguyên ngữ là
“chỗi dậy”, động từ này được Tân Ước dùng để chỉ cuộc Phục Sinh của chính Đức
Giê-su. Như vậy, Đức Giê-su chuẩn bị cho các môn đệ cuộc Phục sinh sau này của
Ngài.
Để đáp
lại ân tình cứu chữa của Đức Giê-su, “bà phục vụ các ngài”. Chức năng chính yếu
của chi tiết nầy chính là nhằm minh chứng rằng bà hoàn toàn bình phục ngay tức
khắc; đó là bằng chứng cho thấy bản chất kỳ diệu của hành động chữa lành mà Đức
Giê-su vừa mới thực hiện. Trong Lc 8: 1-3, khi đề cập đến nhóm phụ nữ cùng với
nhóm Mười Hai cùng đi với Đức Giê-su trên mọi nẻo đường truyền giáo, thánh
Lu-ca kể ra việc các bà được Đức Giê-su “trừ quỷ và chữa bệnh”. Để đáp lại ân
tình của Ngài, “các bà đã lấy của cải mình mà phục vụ Đức Giê-su và các môn
đệ”. Chúa Giê-su cứu giúp chúng ta để chúng ta cứu giúp người khác.
2.
Đức Giê-su chữa lành mọi bệnh tật và trừ quỷ (1: 32-34):
“Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn”, tức là ngày sa-bát chính thức chấm dứt (người Do
thái tính một ngày mới bắt đầu từ lúc mặt trời lặn như biểu thức được lập đi
lập lại ở trang đầu của sách Sáng Thế: “vào một buổi chiều và một buổi sáng, ấy
là ngày thứ…”), người ta có thể tự do đem các bệnh nhân đến trước cửa nhà ông
Si-môn mà không vi phạm lệnh truyền giữ ngày sa-bát. Đức Giê-su chữa lành mọi
bệnh tật và trừ quỷ.
Nhiều
lần thánh Mác-cô kết hợp bệnh tật với trừ quỷ, vì theo quan niệm thời đó bệnh
tật là do ma quỷ gây nên (1: 34; 3: 10-11; 6: 13). Trong Tân Ước, quỷ thường
được nói đến dưới khía cạnh tác hại của chúng trên thế gian, nhưng công việc
của Đức Giê-su chấm dứt ảnh hưởng tác hại ấy. Trong những lần Đức Giê-su chữa
lành bệnh tật và trừ quỷ, chúng ta nên để ý đến hai điều: một là lời của Đức Giê-su
rất giản dị, nhưng hiệu nghiệm, khác hoàn toàn với những câu thần chú và những
điệu bộ ma thuật phức tạp của các thầy trừ quỷ thời ấy. Hai là phép lạ của Đức
Giê-su là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa can thiệp một cách dứt khoát, con người
không chỉ được khỏi bệnh tật, nhưng còn được cứu độ. Vì thế, việc chữa lành
bệnh tật thể lý nhằm chuẩn bị một dấu chỉ khác mà Đức Giê-su không bao lâu sau
sẽ thực hiện cũng trong chính thành Ca-phác-na-um này, khi Ngài nói với người
bại liệt: “Nầy con, con đã được tha tội rồi” (Mc 2: 5). Đức Giê-su biết rằng
dân chúng tin có một mối dây liên kết giữa bệnh tật và tội lỗi. Khi chữa lành
đám đông khỏi mọi bệnh tật, Ngài loan báo ơn tha thứ tội lỗi.
Việc
Đức Giê-su “không cho quỷ nói” thông thường được hiểu như “bí mật Thiên Sai”
theo thần học Tin Mừng Mác-cô. Trong khi những đối thủ siêu phàm của Đức Giê-su
biết Ngài là ai, thì phàm nhân (như các môn đệ) cần thời gian để có được một
bức chân dung đầy đủ hơn về Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a chịu chết và sống lại.
Vì thế, quỷ muốn công bố Ngài là Đấng Thiên Sai không nhằm mục đích tốt lành,
nhưng cố ý để con người hiểu sai lạc chân tính Thiên Sai của Ngài. Người Do
thái mong chờ một Đấng Thiên Sai toàn thắng về phương diện chính trị và quân
sự, trong khi Đức Giê-su đến để thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha theo
hình ảnh của “người tôi trung chịu đau khổ”, tức là “dâng hiến mạng sống để đem
lại ơn cứu độ cho muôn người”.
3.
Đời sống nội tâm của Đức Giê-su (1: 35):
Điều
đáng chú ý nhất của bản văn này là vén mở đời sống nội tâm của Đức Giê-su:
“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Đức Giê-su đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng mà
cầu nguyện”. Thánh Mác-cô nhấn mạnh “nơi hoang vắng”. Diễn ngữ “nơi hoang vắng”
rất giàu ý nghĩa. Chính là nơi mà các nhà chiêm niệm vĩ đại gặp gỡ Thiên Chúa như
ông Mô-sê, ngôn sứ Ê-li-a, vân vân. Đó cũng là nơi mà Đức Giê-su cầu nguyện với
Cha Ngài trong suốt bốn mươi đêm ngày trước khi khởi sự sứ vụ công khai của
Ngài. Trong Tin Mừng hôm nay, đây cũng là nơi Ngài cầu nguyện trong khi các môn
đệ ngủ… và điều nầy sẽ được tái diễn vào một đêm khác bi thảm hơn, đêm trước
cuộc Tử Nạn của Ngài trong vườn Cây Dầu.
Thánh
Mác-cô cho chúng ta biết ngay từ rất sớm “Người ra đi cầu nguyện”, mà không nói
rõ ra Người cầu nguyện với ai và về vấn đề gì, nhưng mẫu đối thoại sau đó sẽ hé
mở cho chúng ta thấy Đức Giê-su đối thoại với Chúa Cha về sứ mạng Ngài đang
thực hiện. Cầu nguyện vào lúc sáng tinh mơ và vào lúc chiều hôm buông xuống
trong những nơi thanh vắng sẽ là một nếp gấp trong cuộc đời thi hành sứ mạng
của Đức Giê-su. Dù rất bận rộn, Chúa Giê-su vẫn dành thời giờ để cầu nguyện; dù
bị đám đông ồn ào bao vây suốt ngày, Chúa Giê-su vẫn tìm nơi thanh vắng để cầu
nguyện.
4.
Đức Giê-su thi hành sứ vụ khắp miền Ga-li-lê (1: 36-39):
Việc
“ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Đức Giê-su” cho thấy một ngày hoạt động
của Ngài ở Ca-phác-na-um rất thành công ngoài mong đợi; vì thế, ông Si-môn, một
trong bốn môn đệ đầu tiên, nghĩ rằng Đức Giê-su nên nắm lấy cơ hội lớn lao này
(x. 1: 37). Đức Giê-su biết rằng nhiệm vụ của Ngài là loan báo Triều Đại Thiên
Chúa đã và đang hiện diện ở đây rồi qua sự hiện diện của Ngài không chỉ ở
Ca-phác-na-um nhưng còn ở khắp nơi. Chính Đức Giê-su xác định mục đích sứ mạng
của Ngài: “Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. Do đó, Đức Giê-su không để cho
bất kỳ ai hay một nơi nào cố định giữ chân Ngài lại.
Cuối
cùng, bằng hai động từ: “rao giảng” và “trừ quỷ”, thánh Mác-cô tóm lược sứ mạng
cứu độ của Đức Giê-su khắp miền Ga-li-lê: “Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao
giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.
Đoạn
Tin Mừng hôm nay âm vang những gẫm suy về đau khổ của sách Gióp (Đức Giê-su là
Đấng chữa lành đích thật, Ngài sẽ đem lại ý nghĩa cho những đau khổ mà con
người phải chịu), đồng thời ca ngợi tinh thần truyền giáo mà thánh Phao-lô nêu
gương (Đức Giê-su là mẫu gương đầu tiên).
41. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Vinh Sơn Nguyễn Tuấn Dương)
Tin mừng Mc 1: 29-39:
Đoạn Tin Mừng khá ngắn gọn mà chúng ta vừa nghe đã vẽ lên tất cả hoạt
động của Chúa Giê su trong ngày sống của Ngài. Ngài làm việc một cách hăng say
nhiệt tình. Ngài làm việc không quản thời gian nghỉ ngơi. Ngài làm tất cả mọi
việc để chu toàn thánh ý Chúa cha và để mưu ích cho con người...
Kính thưa quý ông bà anh chị em!
Đoạn Tin Mừng khá ngắn gọn mà chúng ta vừa nghe đã vẽ lên
tất cả hoạt động của Chúa Giê su trong ngày sống của Ngài. Ngài làm việc một
cách hăng say nhiệt tình. Ngài làm việc không quản thời gian nghỉ ngơi. Ngài
làm tất cả mọi việc để chu toàn thánh ý Chúa cha và để mưu ích cho con người.
Chúng ta đã thấy, Ngài giảng dậy không chỉ nơi hội đường
mà còn tại tư gia. Ngài không chỉ giảng bằng lời mà còn chứng minh lời giảng
bằng hành động yêu thương: trừ quỷ và chữu các bệnh nhân. Ngài làm việc miệt
mài bất kể thời gian. Ngài làm việc chu đáo bằng chính con tim thổn thức yêu
thương của mình. Đúng như lời Ngài đã nói: Cha ta làm việc liên lỉ, ta cũng làm
việc liên lỉ.
Sở dĩ Chúa Giê su có thể làm việc liên lỉ không mệt mỏi
như thế bởi vì: ngay từ sáng sớm lúc trời còn tối, Người đã dậy đi ra một nơi
hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Cầu nguyện để gặp gỡ Chúa Cha. Cầu nguyện để đón
nhận thánh ý Chúa Cha. Cầu nguyện để kín múc nguồn năng lực siêu nhên từ Chúa
Cha làm sức mạnh cho cả ngày sống phục vụ của mình. Cầu nguyện để biết những
việc phải làm và biết lối đường phải theo.
Đời sống của Chúa Giê su luôn là những nhịp đan xen giữa
cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện để biết cách hành động và hành động là sự
kết tinh của cầu nguyện. Chúa Giê su đã làm như thế và trở thành mẫu gương cho
đời Kitô hữu chúng ta.
Thưa quý ông bà anh chị em!
Là những người Kitô hữu, Chúng ta đã làm gi?
Về đời sống cầu nguyện, chúng ta đã sống thế nào?
Cầu nguyện có trở thành hơi thở của đời
sống chúng ta. Cầu nguyện có đi vào tưng ngõ ngách cuộc đời chúng ta. Hay chúng
ta chỉ dừng cầu nguyện ở việc đi lễ chủ nhật, hoặc tốt hơn là việc đi lễ mỗi
ngày và đọc một vài giờ kinh sáng tối. Rồi chúng ta bỏ Chúa lại nhà thờ và
chúng ta lại tất bật với những công việc mưu sinh hằng ngày của mình mà lãng
quên Chúa.
Không, Chúng ta phải mang Chúa vào trong cuộc đời của
chúng ta, để Ngài đồng hành với chúng ta. Ngài hướng dẫn từng hành động của
chúng ta và Ngài giúp đỡ chúng ta trong từng việc làm của mình. Chúa Giê su
cũng vậy, Ngài không chỉ cầu nguyện vào sáng sớm ở nơi hoang vắng. mà nhiều chỗ
khác trong tin mừng đã thuật lại Ngài cầu nguyện: đang khi rao giảng, trước lúc
làm phép lạ, trong vườn cây dâu, kể cả trên thập giá…Vui thì dâng lời cảm tạ,
buồn thì cất tiếng nỉ non, khi thành công ca khúc tạ ơn, lúc thất bại dâng niềm
phó thác. Cầu nguyện là như thế, là sống với Chúa trong từng giây phút cuộc
đời.
Đối với đời sống hoạt động, Chúa Giê su đã làm việc miệt
mài liên lỉ và làm tất cả mọi việc nhằm vinh danh Chúa Cha và để đem hạnh phúc
cho con người. Còn chúng ta, dừng lại một chút để nhìn lại đời sống mình. Chúng
ta đã làm việc vì Chúa vì anh em hay chỉ vì chính bản thân mình? Có lẽ cuộc
sống quá bận rộn, lam lũ cuồng quay với công việc muu sinh làm chúng ta quên
mất Chúa và anh em. Cũng có lẽ vì chủ nghĩa thực dụng, ích kỷ, hưởng thụ đã
khiến ta gạt Chúa và anh em ra khỏi cuộc sống của mình. Những điều đó đã làm
chúng ta nhiều lần lỗi hẹn với Chúa, khiến chúng ta cứ khất lần với Ngài và
không biết đến khi nào chúng ta mới có thời gian đáp tiếng gọi của Chúa.
Lời Chúa và mẫu gương Chúa Giêsu hôm nay như một lời nhắc
nhở mỗi người chúng ta. Hãy sống với Chúa trong từng giây phút cuộc đời. Hãy
đặt Chúa làm trung tâm điểm cuộc đời của mình và hãy làm tất cả với Chúa, trong
Chúa và vì Chúa. Được như thế, tâm hồn chúng ta sẽ bình an và chúng ta sẽ trở
thành những khí cụ đem tình thương của Chúa đế cho mọi người. Amen.
42. Huyền nhiệm đau khổ
(Suy niệm của Phanxicô Xaviê)
Mỗi người mỗi cảnh, đi tìm kế sinh nhai cách khác nhau,
nhiều khi họ phải bán rẻ cả nhân phẩm của mình. Nhưng dù sao tất cả họ, vẫn là
những người biết kiếm tiền dựa trên chính sức lao động của mình, không như một
nhóm người bán nước cầu vinh, chỉ biết lợi dụng lòng nhân ái của người khác để
kiếm tiền thông qua tham nhũng, ăn hối lộ, bớt xén của công hay buôn lậu....và
làm nhục quốc thể như vụ một nhân viên ngoại giao buôn lậu sừng tê giác bị bắt
quả tang, hay vụ công ty tư vấn Thái Bình Dương (PCI) hối lộ quan chức cộng
sản, dẫn tới Nhật quyết định ngừng cung cấp viện trợ phát triển ODA cho Việt
Nam. Cũng theo BBC, cho hay các cựu quan chức PCI nhận đã chuyển 820.000 đôla
cho ông Huỳnh Ngọc Sỹ, nguyên phó giám đốc Sở Giao thông Công chính thành phố
Hồ Chí Minh, để giành thầu trong các dự án hạ tầng có sử dụng vốn vay ODA tại
đây. Phe công tố thì nói số tiền lên tới hai triệu đôla. (nguồn BBC)
Đường phố Sài gòn có vẻ tấp nập hơn vào những ngày cuối
năm. Người qua kẻ lại, hối hả đi về mong cho kịp giờ đón giao thừa trong mái ấm
gia đình, bên những người thân yêu. Nhưng khi bước qua những ngày đầu của năm
mới, thì đường phố trở nên vắng vẻ lạ thường. Chỉ còn đây đó xuất hiện những
con người lam lũ sống bằng nghề bán hàng rong hay bán vé số dạo, đa phần họ là
những người nhập cư. Hỏi ra mới biết vì không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê
ăn tết, nên đành phải đón tết xa quê. Cũng trong số họ, có người vốn là dân
thành phố, giàu có một thời, nhưng chỉ sau lần "đánh tư sản mại bản"
của chế độ cộng sản vào những năm đầu mới giải phóng, đã trở thành một người vô
gia cư. Đó là trường hợp của bà Ba bán vé số. Họ nhìn ngắm những gian hàng bánh
mứt được trang trí cho đẹp mắt, mà chẳng dám mơ tưởng. Bởi cuộc sống của họ vốn
đã eo hẹp, thì nay càng khó khăn hơn vào những ngày giáp tết Kỷ Sửu.
Cũng có ông lão nọ, tuổi đã ngoài bảy mươi, chẳng mấy bận
tâm đến cái vẻ nhộn nhịp, hào nhoáng bên ngoài khi ngày tết đang đến gần. Ông
dửng dưng trước cái tết, không phải là ông không biết ăn ngon mặc đẹp, nhưng vì
"cái khó nó bó cái khôn", cái nghèo đã không cho phép ông nghĩ đến
những chuyện xa xôi hơn cái việc kiếm cho mình một bữa cơm sống qua ngày. Ông
chẳng hề quan tâm đến bộ quần áo cũ đang mặc, mà có lẽ đã lâu không được giặt.
Thấy tội nghiệp, ngưòi ta cho tiền, nhưng ông từ chối, bởi vì ông sống bằng
nghề bán vé số dạo. Mỗi khi bán cho ai được tờ vé số nào, ông đều dặn người ta:
nếu có trúng giải đặc biệt, thì hãy giúp cho ông một chiếc xe đạp để ông làm
phương tiện đi lại, vì tuổi cao, phải đi bộ nhiều nay ông đã mỏi chân. Trong
khi đó, ngày càng có nhiều người tìm đến cái nghề mất ít vốn nhưng lại dễ kiếm
tiền, nên ông muốn có chiếc xe đạp để đi bán ở những nơi khác xa hơn, lắm lúc
bị người ta xua đi như đuổi tà, vì họ nghĩ người bán vé số dạo thường là những
người nghèo kiết xác, nên họ khinh rẻ, dù đó là một người lớn tuổi.
Khi ánh đèn đường đã sáng rõ, cũng là lúc bắt đầu buổi
làm việc của một nhóm nghề khác: buôn phấn bán hương. Họ là những cô gái trẻ,
chỉ khoảng mười tám đôi mươi, ăn mặc sang trọng, mang dáng vẻ như những tiểu
thư đài các. Từng nhóm hai ba người, có khi lên đến bốn hay năm người, chạy
trên những chiếc xe tay ga đời mới, nghe nói họ thuê lại của một "má mì
", chạy từ hướng cầu Thị Nghè về phía mũi tàu, đến trước cổng Trung tâm
dạy nghề và giới thiệu việc làm II của hiệp hội người khuyết tật thành phố, thì
quay đầu lại. Cứ như vậy, họ chạy đi chạy lại từ lúc 20h - 21h mỗi buổi tối,
mong tìm được khách làng chơi. Có hôm họ còn chủ động chạy xe kè theo những
người đi xe trên đường, trong số đó có không ít người đáng tuổi cha chú của họ.
Và đương nhiên họ chỉ nhận được những cái lắc đầu bỏ đi.
Đau khổ vốn là một trong những vấn nạn nhân sinh, một huyền
nhiệm không dễ gì giải thích thấu đáo. Tại sao con người phải chịu nhiều đau
khổ? Sinh ra đã là khổ, khi mới sinh đứa bé nào mà chẳng phải khóc thét lên vì
cái tát của bà mụ. Lớn lên càng khổ hơn vì phải đổ mồ hôi và nước mắt mới có
được miếng ăn mong sống qua những ngày tháng dài tưởng chừng như vô vọng. Rồi
còn phải chịu đựng ốm đau, bệnh tật, già yếu và cuối cùng phải chết. Thế nên,
theo quan niệm của nhà Phật, thì đời là bể khổ. Và muốn thoát khỏi đau khổ, con
người phải tự diệt duc, tức diệt lòng ham muốn nơi mình. Kinh Thánh chỉ rõ hơn:
con người đau khổ là do hậu quả của tội lỗi, của sự ác và của ác thần. (x. St
3, 1-7; 3, 17-19)
Dưới ánh sáng của Tin Mừng, vấn đề càng được khai tỏ. Vì
trước mọi đau khổ của cuộc đời, người Kitô hữu luôn được mời gọi hãy ứng xử
theo gương Chúa Giêsu, là Đấng Thiên Sai mà tiên tri Isaia đã loan báo, Người
đến để giải thoát con người khỏi đau khổ (Is 29, 18-19). Theo gương Chúa: không
thất vọng, nhưng đón nhận và hoàn toàn phó thác trong bàn tay nhân từ của Chúa
Cha.
Tin Mừng Mc 1, 29-39 ghi lại một ngày sống vất vả của
Chúa Giêsu ở Caphacnaum. Người giảng dạy, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ
cho mọi người từ sáng đến tối, nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng
cầu nguyện. Một ngày làm việc của Chúa Giêsu với biết bao nhọc vhằn vì lòng
thương người, muốn giải thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật, của ma quỷ.
Chính vì vậy, chỉ có niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới
có thể giúp con người nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và có sức mạnh để
đón nhận nó. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng
Người đến để giúp con người chịu đụng đau khổ cách có ích.
Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật V mùa thường
niên này được mô tả là một người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ hết
thảy mọi người. Một ngày sống của Người trôi qua cách hữu ích cho tha nhân. Từ
sáng đến tối lúc nào cũng tấp nập người bệnh, người bị quỷ ám đến xin cứu chữa.
Người đã sử dụng thời gian thật hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha
nhân. Chính nhờ cầu nguyện với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng thánh ý
Chúa Cha.
Hạnh phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa, bí quyết của hạnh
phúc là khám phá và thực thi thánh ý Ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người
chúng con luôn biết noi theo gương Chúa, mà sử dụng thời gian sống của mình
cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa bằng cầu nguyện, và sử dụng
thời gian cách hữu ích cho tha nhân qua việc sống yêu thương, phục vụ và chu
toàn bổn phận trần thế của mình.
43. Sống tình liên đới
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau
để tồn tại. Con người cũng phải liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh
phúc cho nhau. Đó là chân lý, là lẽ sống của muôn loài. Đó cũng là điều mà nhà
thơ Hữu Thỉnh đã nói:
Tôi hỏi đất:
– Đất
sống với đất như thế nào?
–
Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước:
– Nước
sống với nước như thế nào?
–
Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ:
– Cỏ
sống với cỏ như thế nào?
–
Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
–
Người sống với người như thế nào?
Thật khó để trả lời cho chân lý sống của con người. Con
người dường như chẳng đi theo một quy luật nào. Đất sống với nhau luôn bồi đắp
cho nhau để tạo thành những đồi núi trùng điệp thơ mộng. Những con nước luôn
liên kết với nhau mới tạo thành những dòng chảy quanh xóm làng thanh bình. Từng
nhánh cỏ đan xen với nhau mới làm nên một thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Nhưng con
người lại ích lỷ, thích sống cho bản thân hơn là liên đới tồn tại.
Dẫu biết rằng cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi con người biết
sống bồi đắp cho nhau, biết sống làm đầy cho nhau những nghĩa cử yêu thương, và
biết sống liên kết với nhau tạo nên một thế giới màu xanh của yêu thương và hòa
bình. Cuộc đời sẽ bất hạnh nếu con người sống chia rẽ, hiềm khích và tranh
giành nhau. Nhưng đáng tiếc con người sống với nhau chỉ toan tính lợi lộc cho
bản thân hơn là chia sẻ nhường nhịn lẫn nhau. Vì thế, câu trả lời con người
sống với nhau thế nào thật đa dạng.
-
Người buôn bán thì bảo phải cạnh tranh để tồn tại, để kiếm lợi nhuận.
-
Người làm chính trị thì bảo phải khôn ngoan để chiến thắng, để đẩy lui đối thủ.
-
Những ca sĩ, những bác sĩ thì thích chê nhau nhiều hơn là khen nhau, thích loại
trừ nhau nhiều hơn là liên đới với nhau.
Xem ra con người vẫn chưa liên đới đủ để tạo nên một sức
sống hùng vĩ như đất đã tạo nên những dãy núi trùng điệp. Xem ra con người vẫn
chưa xan xẻ với nhau đủ để tạo thành một dòng chảy tình yêu cho mát rượi lòng
nhau. Xem ra con người vẫn con xa cách nhau khiến không thể gần nhau để cùng
chung xây thế giới an bình thịnh vượng.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu con người biết liên đới với
nhau. Sự liên đới sẽ làm giầu có cho nhau. Sự liên đới sẽ mang lại no ấm cho
nhau. Sẽ không còn tiếng khóc lẻ loi trong cô đơn tuyệt vọng. Sẽ không còn
những tranh chấp thị phi nếu con người biết tôn cao nhau và cùng dìu nhau đi
tới.
Chúa Giêsu đã sống một cuộc sống yêu thương như thế. Ngài
rất bận rộn. Cái bận rộn không phải của công việc cho bản thân mà là bận rộn
làm việc cho tha nhân. Ngài sống liên đới với mọi người. Ngài liên đới với tội
nhân để thay họ dâng hy lễ đền tội với Chúa Cha. Ngài liên đới với những mảnh
đời lao động vất vả khi chính Ngài đã sống ẩn dật tại mái nhà Nagiaret. Nơi đó,
Ngài sống như người nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động. Ngài liên
đới với mọi cảnh cơ hàn của con người khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi
đau của con người. Đôi chân trần của Ngài đã đến với mọi hạng người để nâng đỡ
và ủi an họ.
Hôm nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy sống tình liên đới
với nhau. Hãy ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để đến với tha nhân. Con người
sống là sống với ai đó để tồn tại thì hãy sống liên đới, xan xẻ và yêu thương
nhau. Có như vậy chúng ta mới làm lên những kỳ công cho cuộc đời khi không còn
những kẻ cơ hàn, đói rách bên cạnh chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biết
sống yêu thương như Chúa. Xin cho đôi chân của chúng ta luôn mau lẹ đến với tha
nhân, và đôi tay luôn quảng để nâng đỡ, ủi an những ai đang mang gánh nặng nề
vì cuộc sống lầm than. Amen.
44. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
SDB)
“ĐỨC GIÊSU, THẦY THUỐC CỦA TÂM
HỒN”
Đoạn Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta
chân dung một vị Thầy thuốc tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những
người bệnh đến với Ngài. Chúng ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái,
bệnh tật được gắn liền với tội lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin
rằng bệnh tật là một hình phạt từ Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi.
Những người bệnh tật bị cộng đồng loại trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ,
miệt thị. Chính vì vậy, mỗi khi Chúa Giêsu chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng
“Tội của con đã được tha” hay “Đức tin của con đã cứu con”. Chúa Giêsu không
chỉ là bác sĩ thể lý, mà quan trọng hơn, Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa
hết những vết thương tâm hồn, đưa họ trở lại với nhân phẩm của con người, đưa
họ trở lại với vai trò làm con của Thiên Chúa, và ban cho họ niềm vui - bình an
- hi vọng để họ sống và sống dồi dào. Người được Chúa Giêsu chữa lành, có khả
năng hoán cải, và trở thành nhân chứng cho Ngài.
Những ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa
bệnh với những cách thức và phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa
lành là rất lớn, vì y học hiện nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời
đại ngày nay, có những căn bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức,
bệnh về ý thức hệ, … là hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống
thiên về hưởng thụ, ích kỷ, cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa
tới chúng ta, nhất là giới trẻ.
Ở đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là
tình trạng tự tử của giới trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế
giới (WHO), trên toàn thế giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này
là 1 triệu người, số người có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại
Trung Quốc có tới 250.000 người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật
mỗi năm có khoảng trên 30.000 người tự tử, …
Một căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý
tưởng” hay lý tưởng sống quá thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo
hàng loạt các căn bệnh khác, gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường
đạo lý của người việt, làm sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và
ích kỷ, lấy vật chất làm nền tảng cho suy nghĩ và hành động.
Đây là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì
để tìm ra thuốc ngừa và thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của
thế giới, Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra
phương cách chữa chị và phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều
kiện, với cung cách của một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay
bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất
cả chúng ta, là những người ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống
và sống dồi dào.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những
người tội lỗi […] chỉ người bệnh mới cần thầy thuốc”. Mỗi người chúng ta cũng
nên tự hỏi rằng: “Chúa Giêsu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay
“Tôi là một giáo lý viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành,
hay tôi là một linh mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng
“Tôi rất là ok, cuộc sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có
bệnh gì!!!
Chúa Giêsu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý
thức mình tội lỗi, bị bệnh và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy
chúng ta đến “gặp gỡ” Ngài. Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”,
thì cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu trở nên rất khó khăn: “Lạy Chúa con cảm ơn Chúa
vì con là người công chính … không như cái thằng thu thuế bên kia”.
Chúng ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì
chúng ta là những người thánh thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng
của Thiên Chúa, nhưng chúng ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội
nhân được tha thứ” một cách vô điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách
“miễn phí” kho tàng Bình An - Hi Vọng, kho tàng Sự Sống – Ơn Cứu Độ từ Thiên
Chúa, vì thế chúng ta cũng phải ra đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách
“miễn phí”, như thánh Phaolo đã nói trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16), bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7),
con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong các Bí Tích và
trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã
dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ
trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).
45. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy
niệm của Lm. Gioan Phan Tiến Dũng)
Tết đến Xuân về, ai ai trong chúng ta cũng đang nao nức,
bôn ba ngược xuôi, lo toan - kỳ vọng nhiều thứ, đặc biệt hơn là với những bậc
cha mẹ và những người có hữu trách, để mong làm sao gia đình và những người thân
của mình có thể hưởng được những thứ tốt nhất như phúc lộc, tiền bạc, áo quần,
đồ ăn - thức uống, trang trí-bày biện… Trong muôn vàn thứ bề bộn, lo toan ấy;
vậy thưa anh chị em, đâu là mối quan tâm lớn nhất của chúng ta hiện nay? Tôi
thiết nghĩ và tin rằng, mối quan tâm trọng yếu nhất đó chính là tình yêu thương
mà bạn và tôi đang dành cho những người thân trong qua đình, những người mà
mình yêu thương-phục vụ, để làm sao năm Tân Sửu này, ai cũng cảm nhận được
nhiều niềm vui, bình an, hạnh phúc và ơn thánh của Chúa Xuân ban tặng.
Nhưng thưa ACE, giữa biết bao nhiêu thao thức, nỗ lực
phấn đấu như vậy, hôm nay Lời Chúa như đang muốn nhắc nhở, hướng dẫn và soi
sáng cho chúng ta hai điều này: Trước hết, dẫu phải lo toan nhiều thứ, nhưng
sức của con người của chúng ta cũng có giới hạn, chúng ta không thể nào làm
được gì tốt hay có điều gì quý báu để trao ban nếu chúng ta không nhận được từ
Chúa. Như vậy, chúng ta cần có thời giờ để hồi tâm, nhận ra đâu là những việc
tốt nhất mà Chúa muốn nơi chúng ta. Thứ đến, dẫu chúng ta cố gắng, nỗ lực để
làm tốt công việc, nhưng Thiên Chúa là Đấng yêu thương, ban phát những ơn
thánh, phúc lành của Ngài cho chúng ta, nên mọi sự cần phải quy hướng về Ngài.
Trong bài đọc một, chúng ta nhận thấy kinh nghiệm sống
của ông Gióp, người đã nêu gương, soi dẫn cho chúng ta. Trong lời cầu nguyện
của Gióp, ông nhận ra được những giới hạn của mình. Dẫu từ sáng sớm mở mắt thức
dậy, cho đến chiều tà đi nghĩ, ông đã cố gắng hết sức để chu toàn bổn phận
trong vai trò của một người cha, người trụ cột trong gia đình; nói đúng hơn,
ông là người quá tuyệt vời, chẳng có một điều gì phải phàn nàn hay than trách
về Gióp cả. Việc ông làm rất đẹp lòng Chúa, đã hài lòng mọi người, đến nỗi
nhiều người phải thèm và ghen tức với ông. Thế nhưng, giữa những thành công tốt
đẹp như vậy, bỗng chốc mọi thứ lại tan biến, vì những tai họa mà Chúa đã cho
xảy đến với ông và gia đình. Trong đau khổ, thử thách như vậy, ông đã không hề
oán trách Chúa, ông không mất niềm tin vào Chúa, ông vẫn cố gắng để đi tìm hạnh
phúc vì “mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc” do mình tự tạo ra. Như vậy hạnh
phúc đích thực đến từ đâu, hay ai là Đấng ban cho con người được hạnh phúc mà
không phải là Thiên Chúa?
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa chữa lành cho nhiều
người bệnh từ khắp nơi tuôn đến cùng Ngài. Chúa Giêsu cũng như các môn đệ cũng
đã phải rất tất bật, vất vả để làm sao có thể ban ơn chữa lành cho nhiều người
và giảng dạy cho dân chúng biết những giáo huấn yêu thương, cứu độ của Thiên
Chúa. Ở đây, nơi sứ vụ của Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra được bài học rất hữu
ích này. Trước hết, chỉ nơi Thiên Chúa là Cha yêu thương và qua Đức Giêsu Kitô,
chúng ta mới được đón nhận ơn phúc chữa lành, biến đổi và cứu sống. Hơn thế
nữa, với Chúa Giêsu, nhờ sống kết hiệp với Chúa Cha, nên Ngài đã ý thức được
rằng, tình yêu thương mà Thiên Chúa Cha đã ban tặng cho nhân loại cần phải thể
hiện nơi sứ vụ của mình, cho nên dù phải làm việc vất vả, nhưng Chúa Giêsu luôn
phải tận dụng thời giờ để gặp gỡ với Chúa Cha, để qua cầu nguyện và tâm sự với
Chúa Cha, hay đúng hơn để tôn vinh chúc tụng Chúa Cha. Nhờ thời gian mật thiết
vói Chúa Cha như vậy, Chúa Giêsu mới có sức mạnh, lửa nhiệt thành để luôn làm
vinh danh Chúa Cha và đem lại ơn ích tốt nhất cho những người mà Chúa Cha đã ủy
thác cho Ngài để yêu thương, phục vụ.
ACE rất thân mến, dẫu trong lúc này ai cũng phải lo lắng
để vừa chuẩn bị đón Tết, vui Xuân, vừa phải lo lắng, đề phòng để bảo vệ sức
khỏe trước dịch bệnh nguy hiểm. Nhưng điều chúng ta cần phải quan tâm chính là:
“Khi tôi đã tranh thủ cả ngày lẫn đêm, đầu tắt mặt tối để lo lắng tất bật làm
việc, nhưng rồi sau mọi sự, tôi sẽ được gì?” Tôi có dành chút thời giờ nào cho
Chúa, hay tôi đã quên mất Chúa? Vì thực ra, dẫu cho cuộc sống của tôi đang còn
nhiều thứ phải đương đầu và có biết bao nhiêu công việc, nhiệm vụ mà tôi cần
phải chu toàn, nhưng nếu lòng trí tôi không có ngọn lửa của lòng mến Chúa thì
chắc chắn tôi sẽ cảm thấy bất an, chán nản và thất vọng vì những điều tôi đang
phải lo lắng và đang xảy đến cho tôi.
Lạy Chúa, xin cho chúng con trong những ngày này, dù làm
bất cứ công việc gì hay gặp phải những hoàn cảnh nào đi nữa, tiên vàn hãy luôn
tìm kiếm thánh ý Chúa, hãy làm với lòng tri ân cảm mến, hầu chúng con luôn sống
đẹp lòng Chúa và đem lại lợi ích cho tha nhân, đặc biệt những người mà chúng
con yêu thương phục vụ. Amen.
46. Một ngày sống
(Suy niệm của Lm. Phêrô Trịnh)
Nếp sống đơn điệu thường ngày với những bon chen cơm, áo,
gạo, tiền, dễ làm cho con người rơi vào mệt mỏi, chán nản và không ít người đã
đánh mất ý nghĩa của cuộc sống. Nhưng đối với người Kitô hữu, mỗi ngày sống lại
là một quà tặng mà Thiên Chúa ban. Để nhận ra ân ban này và sống với tất cả
niềm hạnh phúc, ta được mời gọi nhìn ngắm và noi theo một ngày sống của Chúa
Giêsu.
1. Chúa Giêsu cầu nguyện
Khởi đầu ngày sống mới, Chúa Giêsu ưu tiên cho việc cầu
nguyện. Tin mừng Marcô cho thấy Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi rao giảng, khi
chữa lành các bệnh nhân, khi gặp gỡ đối thoại, khi bị chống đối... Cầu nguyện
là một nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Đó là phương thế hữu hiệu để Ngài kết
hiệp mật thiết với Cha và tìm ý Cha. Chúa Giêsu cần thời gian thinh lặng để
sống riêng tư bên Cha, tâm sự với Cha về gánh nặng của sứ vụ, về những khổ đau
của con người, về những cuộc chiến chống lại sự dữ. Mang trong mình bản tính
nhân oại, chắc hẳn Chúa Giêsu cũng cần được Cha nâng đỡ, cảm thông và sẻ chia.
Cầu nguyện sẽ đưa Chúa Giêsu đến với con người để đồng cảm, chữa lành những khổ
đau và hoạt động với con người lại đưa Chúa Giêsu đến gần Cha Người hơn.
2. Chúa Giêsu làm việc lành
Rời hội đường ở Capharnaum, Chúa Giêsu đến nhà Simon và
Anrê. Nhạc mẫu của ông Simon đang bị cơn sốt hành hạ và nằm trên giường. Sốt
không phải là loại bệnh nan y, khó chữa trị. Nhưng người Do Thái lại xem cảm
sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28,
22; Lv 26, 16) khiến người bệnh chỉ có thể nằm. Người ta gán cho căn bệnh này
là do ma quỷ. Vậy mà cách Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt cho bà mẹ vợ ông Simon
thật đơn giản: Ngài cầm lấy tay bà và nâng bà dậy, lập tức cơn sốt biến mất và
bà có thể đi lại để phục vụ mọi người. Chúa Giêsu đã nâng một con người dậy
bằng quyền năng nào? Sức sống mãnh liệt nào đã truyền qua cử chỉ cầm tay này?
Chắc hẳn đó là từ chính Thiên Chúa. Ngày nay, nhân loại cũng cần biết bao được
Chúa nắm lấy tay và nâng dậy khi bị sức nặng của những khổ đau, những mải mê
trần thế đang ghì kéo con người xuống.
Rồi chiều đến, người ta đem đến cho Đức Giêsu biết bao kẻ
đau ốm và bị quỷ ám. Ngài đã chữa lành tất cả. Mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây
nên. Chữa lành là dấu chỉ chiến thắng ma quỷ. Chúa Giêsu đến cứu chữa và giải
thoát con người khỏi sự thống trị của ma quỷ. Ngài mạc khải cách tiệm tiến cho
dân chúng bằng cách cho họ thấy dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Ngài trên tội
lỗi, ma quỷ và trên sự sống, để từ đó dẫn họ tới đức tin. Đức tin vào Chúa
Giêsu chỉ thật sự có giá trị khi hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của
Chúa Giêsu, đặc biệt hiểu Ngài phải chết và sống lại để hoàn tất chương trình
cứu độ.
Như vậy, Chúa Giêsu đến nhà Simon không chỉ để dùng bữa,
nhưng điều quan trọng là để phục hồi sức sống nơi những con người đau khổ, bệnh
tật. Chứng tỏ Ngài đến trần gian để tìm kiếm con người chứ không phải của cải
của con người và Ngài muốn ban cho con người của cải cao quý từ trời cao là
lòng thương xót và sự sống của Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu muốn những ân ban này
được trao tặng cho mọi người.
3. Chúa Giêsu tiếp tục lên đường
Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng
dạy, c hữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi
và kinh ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. “Mọi người
đều đi tìm Thầy”, chứng tỏ mọi người ở đây vẫn cần đến Đức Giêsu. Thế nhưng
Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo ý Cha Ngài. “Hãy đi đến những làng,
những thành lân cận”, Chúa Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự
hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy
lên đường và biết mở rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những
vinh quang ca tụng. Do đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa
Giêsu, nhưng có sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người.
Đó là một ngày sống của Chúa Giêsu, đầy ắp những hoạt
động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên cha.
Hoạt động và cầu nguyện là những nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc
sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi trần gian. Một ngày làm việc của Ngài với bao
vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều
người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử
dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với
Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy ta dùng
thời gian có ích cho tha nhân bằng việc sống yêu thương và phục vụ.
47. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang
Tiến)
NGƯỜI CÒN RAO GIẢNG Ở NƠI KHÁC
Cùng văn mạch với tin mừng tuần trước, đoạn 1,29-39 kể
tiếp những công việc khác của Chúa Giêsu: chữa bệnh cho bà gia của Simôn
(1,29-31), chữa các thứ bệnh người ta mang đến trước nhà Simôn vào ban chiều
(1,32-34), và hôm sau, Người đi cầu nguyện và đi rao giảng ở các vùng khác của
Galilê (1,35-39).
Một khía cạnh khác trong những hoạt động của Chúa Giêsu
là chữa
bệnh. Trong lần đầu tiên nầy, Người chữa lành một phụ nữ, trong khung
cảnh và tương quan của một gia đình. Người còn chữa thêm những lần khác nữa,
theo sự khẩn nài của cha mẹ xin cho con cái (5:21-43; 7:24-30; 9,14-27). Ở đây,
con rể xin Chúa chữa cho bà gia. Trong mọi trường hợp, Chúa đều chữa lành hoàn
toàn, đến nỗi người phụ nữ nầy có thể tiếp đãi Chúa Giêsu và các môn đệ tức
thì.
Tiếng tăm của Chúa Giêsu lan ra rất nhanh, đến nỗi cả
thành Capharnaum đều biết. Họ đã mang đến cho Người đủ mọi thứ bệnh nhân ngay
chiều hôm đó (1,32-34). Dân chúng đặt hy vọng vào Người và Người đã giúp họ
bằng quyền năng của Người. Tuy nhiên, Người không phải là bác sĩ chuyên nghiệp,
mà là sứ giả của Thiên Chúa, đến để loan báo Nước Thiên Chúa đang đến (1,15).
Vì thế, việc chữa bệnh là dấu hiệu quyền năng của Nước Thiên Chúa đang biểu
hiện giữa con người. Quyền năng ấy sẽ biệu hiện cách viên mãn trong việc đánh
bại sự chết - nguồn gốc mọi đau khổ, và trong việc phục sinh Chúa Giêsu. Hoán
cải và tin vào Chúa Giêsu (1,15), thì sẽ được tham dự vào sự sống hoàn hảo của
Người.
Sáng sớm, Chúa Giêsu bỏ thành Capharnaum ra đi cách âm
thầm, để cầu nguyện và để đi nơi khác (1,35-38). Người là Con được yêu mến của
Chúa Cha (1,10-11.24), nên luôn gắn bó mật thiết với Cha của Người. Người tìm
mọi dịp để cầu nguyện trong thanh tịnh với Cha của Người (6,46), nhất là khi
Người sắp làm một thay đổi lớn: khởi đầu, lúc mở rộng hoạt động (1,38), cuối
cùng, lúc sắp sửa nộp mình chịu chết (14,32-42).
Chúa Giêsu nói rõ lý do tại sao Người ra đi nơi khác: “Vì
điều nầy mà Thầy đã đi ra” (1,38). Không có một bổ ngữ nào để xác định Chúa
Giêsu đã đi ra từ đâu. Tuy nhiên, có thể hiểu là Người đã đi ra từ Chúa Cha.
Nói cách khác, “Vì điều nầy mà Cha đã sai Thầy đến”. Sứ mạng của Chúa Giêsu là
đến và đi rao giảng Nước Thiên Chúa. Không bị giới hạn một nơi nào cả. Người
đến để tiêu diệt quyền lực ma quỉ và bệnh tật (1,24), đến để kêu gọi người tội
lỗi (2,17), và đển để phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (10,45).
Chúa Giêsu đã thiết lập cách hành động của Người: Sứ mạng
rao giảng mà Thiên Chúa giao phó quyết định hành trình của Người.
48. Cách thế Chúa chữa lành
(Suy niệm của Lm. Trần Bình Trọng)
Đa số loài người đều có lúc mang bệnh tật: bệnh thể lý,
bệnh tâm lý, bệnh thiêng liêng.. Và mỗi người đều muốn được chữa lành. Vì thế
ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, vây quanh Chúa để xin
được chữa lành bệnh tật. Chúa đến không những để giải thoát con người khỏi tội
lỗi, nhưng còn chữa họ khỏi bệnh tật, và giải thát họ khỏi quỉ thần ám ảnh,
nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha
sĩ, y tá với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh
tật loài người cách trực tiếp mà không cần bác sĩ, nha sĩ và thuốc men. Cách
thế chữa trị đó được gọi là phép lạ.
Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi
bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử đức tin và lòng kiên nhẫn của
loài người. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối
chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách săn sóc bản thân
mình như ăn ngủ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Cái vấn nạn ở đây là sự thể đã
không xẩy ra như vậy. Có những người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu
ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người phải
mang bệnh tật suốt đời. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây
ra không? Hình như Thánh kinh cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ
cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Tuy nhiên tội lỗi không
cắt nghĩa được hết. Sách Gióp trong Thánh kinh đã chứng minh điều đó. Ông Gióp
phàn nàn về những tai hoạ xẩy đến cho ông và gia đình ông như việc mất của cải,
vợ con. Các bạn ông nghĩ rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của
ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời
công chính và cảm thấy lương tâm không có gì trách móc. Vậy thì phải có lý do
nào khác, điều mà ta không hiểu được. Bằng chứng là ta thấy trẻ em vô tội cũng
phải mang bệnh tật.
Là người Công Giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát
ta khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho tâm hồn. Tuy nhiên đức tin của
người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi.
Xét về phương diện nào đó thì loài người, loài vật cũng như cỏ cây hoa lá được
sinh ra, lớn lên, rồi chết. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một niềm
vui, một ân huệ. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong cái ước
muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh
tật thiêng liêng của loài người, giải phóng con người khỏi tội lỗi, để phục hồi
sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Đó là lý do
tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban
ơn chữa lành bệnh tật phần hồn. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần
xác có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng. Có những người nếu được
chữa khỏi bệnh tật phần xác người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng
liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người,
họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa
lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa. Vì thế bệnh tật có thể là một đường lối
Chúa dùng để đưa người ta xích lại gần Chúa, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa
nhiều hơn. Đó là lý do giải thích tại sao trong Phúc Âm hôm nay Chúa tách biệt
khỏi đám đông dân chúng để đi cầu nguyện một mình, trong khi còn nhiều người
đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn cái
sứ mệnh quan trọng khác để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa
lành cho cả tâm hồn.
Để đi đến kết luận thực hành, thái độ người công giáo
phải có là khi đau ốm bệnh tật, ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng
thời ta cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu ta còn mang bệnh tật,
ta cần cầu xin để được ơn can đảm chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người công giáo
chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người
công giáo chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để tham dự vào cuộc
khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận đó mới đem lại bình an và ơn phúc cho
tâm hồn.
49. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
XIN ƠN CHỮA LÀNH BỆNH TẬT HỒN XÁC
Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng
được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ
thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng
hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây
quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật. Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm
đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho
con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.
Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với
thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài
người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc
men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không
chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin
và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác
với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ
gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở
đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà
thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều
người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả
của tội lỗi gây ra không?
Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là
những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Đạo
lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải
gánh chịu hậu quả tai hại. Đạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu
ngạn ngữ: Đời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết
nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn
quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ
huyết nhục với con, nhưng không phải là con.
Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống
quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en (Do
thái): Đời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2).
Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và
Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng
mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá
nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân
Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do
sinh thể lí mà thôi.
Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô
giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải
mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai
họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7).
Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy
nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành,
công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào
khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta
không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu
bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội
cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?
Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải
thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên
đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác
mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây
hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử.
Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó
không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.
Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh
tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự
sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Đó là lí do tại
sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn
chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc
mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng,
khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người
ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì
đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn
việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn
Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ
thuộc vào Chúa.
Đó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa
tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội
đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần
được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng
hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa.
Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự
ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự
chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.
Để đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải
có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng
thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang
bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu
mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường
cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và
phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như
vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về
phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người
săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên
giường bệnh lâu dài.
Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn
Chúa đã đến,
chữa lành bệnh tật hồn xác loài
người.
Xin Chúa ban ơn chữa lành cho
bệnh nhân
đau yếu, bệnh tật trong thời
đại chúng con.
Xin Chúa soi sáng cho giới bác
sĩ và khoa học gia,
tìm ra thuốc men và phương pháp
chữa trị bệnh tật.
Xin Chúa cũng chữa lành bệnh
tật của chính con:
phần xác, phần hồn, phần tâm
trí, phần tình cảm
để con có thể phụng sự Chúa và
phục vụ tha nhân
với hồn xác an vui và lành
mạnh. Amen.
50. Động lực của việc tông đồ
(Suy niệm của Radio Veritas Asia)
Tin
Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những
giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương
diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên
Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật
thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời
cầu nguyện.
Trong
Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa
Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện". Mặc dù bận rộn
với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng
đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu
cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh
Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của
cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy
và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy,
các con không thể làm được gì".
Chúng
ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên
Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện
như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như
người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là
việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện.
Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình".
Chúng
ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một
ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa
trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha
nhân một cách hữu hiệu hơn.
51. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của John. W. Martens
– Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ)
LÀM VIỆC CHO VƯƠNG QUỐC NƯỚC
TRỜI
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy
còn rao giảng ở đó nữa” (Mc1,38)
Có
nhiều thái độ khác nhau khi chúng ta thẩm định về những công việc thường ngày.
Một người không có công ăn việc làm, cuộc sống sẽ bấp bênh, đời sống kinh tế sẽ
không được bảo đảm. Rơi vào tình trạng thất nghiệp, người ta dễ chán nản và mất
tự tin. Ngược lại, những ai có việc làm ổn định, sẽ an tâm khi về hưu trí. Cho
dù, đôi lúc công việc làm ăn là cả một gánh nặng với bao vất vả, nhưng nó rất
cần thiết để đảm bảo nhu cầu vật chất cho cuộc sống mỗi người. Giữa hai trạng
huống, một đàng cần có việc làm, đàng khác, lại ước muốn thoát khỏi gánh nặng
đó, là một thực tại vẫn luôn giằng co căng thẳng, ẩn sâu nơi cuộc sống hiện
sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Tác
giả John Hughes đã viết “ Trải dài theo truyền thống Kitô giáo, người ta vẫn
nhìn vào công việc với nhiều ý nghĩa khác nhau. Đôi khi người ta xem việc lao
động như là một hình thái gắn kết chặt chẽ với bản tính nhân loại trong chính
thiện ích của nó ngay từ thưở nguyên sơ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân định
rằng đã có lúc, thân phận người lao động cùng khổ cũng gắn liền với kiếp nô lệ,
và họ phải luôn đấu tranh mong thoát khỏi để sinh tồn (trích trong sách The end
of Work)”
Gióp
đã phản hồi với Chúa, khi ông gợi nhắc đến những công việc vất vả trong cuộc
sống thường ngày của kiếp người “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải
là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày làm lụng vất vả có khác gì đời kẻ làm
thuê?” (Gióp 7,1). Gióp đã than vãn cách bi quan khi nhìn vào những vất vả lao
động như một gánh nặng, cho dù nhìn ở góc cạnh khác, công việc thường ngày của
kiếp nhân sinh vẫn hàm ngậm một chiều kích tích cực hơn. Ngày Sabbat mà Kinh
thánh nói tới, là ngày nghỉ ngơi, cho thấy công việc hằng ngày vẫn chỉ mang
tính tương đối. Sự nghỉ ngơi đó, theo tác giả Hughes, hướng chúng ta đến một
thực tại cao cả hơn, đó là sự an nghỉ cuối cùng trong Chúa. Cùng đích của cuộc
nhân sinh chính là sự nghỉ ngơi an bình trong bàn tay của Thiên Chúa, nhưng
cuộc sống con người trên trần gian ngày hôm nay vẫn đòi hỏi phải có công ăn
việc làm để mưu sinh.
Chúng
ta cần phân định giữa những công việc thường ngày để sinh nhai với công việc
phục vụ Vương quốc Nước trời mà Tân ước hay nói đến. Tuy nhiên, không phải vì
thế mà chúng ta nói rằng những công việc lao động trong thực tại trần thế này
không quan trọng. Những công việc đời thường chúng ta làm, vẫn luôn hàm ngậm
những sự tốt lành và thiện ích một cách nội tại. Nhưng chúng ta cần phải tránh
hai thái cực: Một là, xem công việc như một thần tượng mà chúng ta cần phải tôn
thờ, phải đeo bám bằng bất cứ giá nào, hai là chúng ta lại cố né tránh mọi việc
làm để ở không một cách lười biếng.
Có lẽ,
chúng ta sẽ nhận ra những thiện hảo nơi công việc chúng ta thực hiện hằng ngày,
khi đọc lại các bản văn trong kinh thánh. Thánh Phaolô cũng đã từng làm việc để
mưu sinh với nghề dệt lều (Cv 18,13). Nhưng công việc phục vụ cho Tin mừng vẫn
ý nghĩa hơn, và quan trọng hơn đối với Ngài.
Dầu
sao, Thánh Phaolô luôn từ chối mọi thù lao khi Ngài thực hiện sứ mạng tông đồ.
Ngài viết “Đối với tôi, rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó
là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng
Tin mừng. Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công. Còn nếu
không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó. Vậy đâu là phần thưởng
của tôi? Đó là khi rao giảng Tin mừng, tôi rao giảng không công chẳng hưởng
quyền lợi Tin mừng dành cho tôi (1 Cor 16-18). Công việc của Thánh Phaolô để
phục vụ Vương quốc Nước Trời là một việc làm mang chiều kích linh thánh, và
những ai thực thi sứ vụ này sẽ được vào hưởng sự nghỉ ngơi vĩnh hằng trong tay
Chúa.
Chính
Đức Giêsu cũng nhận thức được những thiện ích và sự cần thiết của công việc,
cùng với sự nghỉ ngơi đi kèm theo. Đó không phải chỉ là sự nghỉ ngơi để chiêm
ngưỡng Thiên Chúa, như mục đích tối hậu của cuộc sống con người mà chúng ta
vươn hướng tới. Đức Giêsu muốn đề cập đến sự nghỉ ngơi sau những lao nhọc vất
vả của cuộc sống nhân sinh. Ngài đến trần gian để thực hiện sứ mạng xây dựng
Nước Trời, và chúng ta cũng thấy Ngài thực hiện sứ mạng đó, rất quân bình giữa
công việc và sự ngơi nghỉ. Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho nhạc mẫu của Thánh
Phêrô, như Tin mừng Marcô thuật lại, bà trỗi dậy ngay sau đó và phục vụ các
ngài. Cũng vậy, sau khi Đức Giêsu vất vả chữa lành các bệnh nhân với nhiều
chứng bệnh khác nhau, và trừ nhiều quỷ, Ngài cũng kiếm tìm một nơi thanh vắng
để nghỉ ngơi, và Ngài cầu nguyện ở đó. Đức Giêsu cũng cần những phút giây tĩnh
lặng để thư giãn sau những mệt nhọc vất vả với bao công việc bề bộn thường
ngày.
Tuy
nhiên, như Marcô trình thuật lại, Phêrô và các bạn đi tìm kiếm Đức Giêsu, lúc
Ngài ẩn tránh, lui vào một nơi thanh vắng và ở đó một mình. Ngài không khiển
trách các tông đồ cho dù có vẻ như họ đang quấy rầy, xen vào sự tĩnh dưỡng của
Ngài. Đức Giêsu nói với họ “ Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung
quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để làm công việc
này.” Đức Giêsu có những công việc cần phải làm và điều căn bản ở đây, là Ngài
đã chu toàn những công việc ấy rất tốt đẹp để phục vụ cho Vương quốc Nước Trời.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có làm việc hay không? chúng ta đã và đang làm
những công việc gì, làm cho ai, và làm như thế nào?
52. Niềm vui vì được chữa lành
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Đầu năm 1996, cả thế giới xôn
xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh: bệnh bò điên (Mad-Cow
discease). Những người mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những con bò điên. Khi mắc
phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân run rẩy và đi dần đến
cái chết.
Lúc đầu, người ta phát hiện có
mười người mắc phải bệnh này ở Anh quốc, tám người trong số đó đã chết. Ngày 21
tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông Stephen Dorell đã phải tuyên
bố: “Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi
con người”.
Sau đó, Pháp là nước đầu tiên
tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các nước Âu Châu lần lượt làm
theo nước Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh Quốc phải triệt hạ tất cả
mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt hại hàng tỉ đô la.
***
Bệnh
tật theo đuổi con người như hình với bóng. Người ta xóa sổ được bệnh này thì
bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như
là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở
về với con người.
Hôm
nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà đang bị cảm sốt
liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp
đãi các Ngài.
Người
Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch
(x.Ds 5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn
đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc lành bệnh tật được xem
như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc
gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi,
nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức
Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ đến đó. Người mang đến
cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh
phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định:
“chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh
hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
Sau
khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua Bí
tích Rửa tội, chúng tôi được xua ma quỷ, được chữa lành bệnh tật linh hồn, và
được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại,
nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoan tật nguyền. V. Ghika có
viết: “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết
gánh lấy niềm đau của kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và
biến nó thành của Người”.
Dường
như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy
sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc.
Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
***
Lạy Chúa, thế giới ngày nay vẫn
còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm; vẫn còn
các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối nhìn và lối sống. Xin chúa
thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin cho các tín hữu chúng con
cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của
anh chị em xung quanh. Amen.
53. Hướng nhìn lên Giêsu
(Suy niệm của Lm. Xuân Hy Vọng)
Anh chị em rất thân mến, trong bốn cuốn sách Phúc Âm, chi
tiết về gia đình của các Tông đồ ít khi nào được tường thuật, đề cập đến; nhưng
đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 1, 29-39) đã thuật lại một trong những sự kiện hiếm
hoi, và điều này không khỏi làm chúng ta thắc mắc, tự hỏi: liệu Thánh sử Mác-cô
muốn nhắn gửi chúng ta điều gì khi thuật lại sự kiện Chúa Giê-su đến thăm bà
nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô)? Phải chăng, Ngài muốn chúng ta quan sát thật kỹ,
hướng nhìn về những hành động của Chúa Giê-su khi Người đến thăm bệnh nhân, đặc
biệt là mẹ vợ của Si-mon (Phê-rô)? Để rồi, chúng ta học hỏi nơi Người điều gì
đó chăng?
Trong anh chị em, nhiều vị đã có kinh nghiệm trong việc
thăm viếng bệnh nhân, thăm những người già nua, neo đơn, không người chăm sóc,
v.v...Đó là điều tốt, phải đạo nên làm. Tuy nhiên, các bài đọc Phụng vụ hôm nay
giúp chúng ta đào sâu công việc Tông đồ thăm viếng bệnh nhân hơn, qua gương
sống của Chúa Giê-su khi Người viếng thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô)
“...tiến lại gần, Người cầm tay, nâng đỡ dậy” (x. Mc 1,31).
Thứ nhất, “tiến lại gần”. Hành động này tuy đơn giản,
nhưng khi áp dụng trên thực tế thì khó biết bao. Chợt nghĩ chỉ là đưa chân
bước, tiến lại gần người anh chị em của mình thôi mà, đâu có khó gì!!! Đối với
người khác, tiến tới gần người anh chị em mình thì chẳng gì phải lo!!! Thôi thì
‘nhắm mắt, đưa chân’ ắt sẽ tiến lại gần người anh chị em mình, có gì phải sợ
nhỉ!!! Hành động ‘tiến lại gần’ của Chúa Giê-su không đơn thuần vì trách nhiệm,
nghĩa vụ mà phải đến viếng thăm; nhưng thiết nghĩ: Ngài tiến gần bà nhạc phụ
của Si-mon với cả con tim và con người của Ngài. Để làm được như vậy, chúng ta
phải chiến thắng chính bản thân, phải bỏ mình, ra khỏi những toan tính, suy
tưởng, lo lắng riêng tư, phải ra khỏi nơi ‘chăn ấm, nệm êm’ của lòng mình, dám
mạo hiểm, chấp nhận những thách đố có thể xảy ra ngoài ý muốn. Vừa qua trong
một cuộc tiếp kiến chung, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã đến chào một người đàn
ông với khuôn mặt bị biến dạng. Khi trực diện với những gì ghê sợ, rùng rợn,
con người chúng ta thường có khuynh hướng tháo lui, tránh né, chốn chạy...,
nhưng Đức Thánh Cha đã tiến đến, ôm choàng lấy ông với tất cả tâm hồn của người
Mục Tử, vị đại diện Chúa Ki-tô ở trần gian này. Đứng trước những người dị hình
dị dạng, bệnh truyền nhiễm, những người mắc bệnh nguy cơ lây nhiễm cao, chúng
ta có thể tiến lại gần họ với cả con tim mình chăng? Chúng ta có thể ra khỏi
con người đầy suy tính của mình để đến với anh chị em mình, và biết chấp nhận
họ không?
Thứ hai, “Người cầm tay”. Thật vậy, hành động này chỉ
xảy ra khi cử chỉ “tiến lại gần” được thực hiện. Chúng ta không thể cầm tay ai
đó ở tư thế đằng xa, hoặc cầm tay họ như một ‘nụ hôn gió’ hay ‘mi gió’ mà
thường được ví von!!! Hơn nữa, cũng không thể nào nhờ ai đó ‘cầm tay’ người anh
chị em giùm mình được! Hành động này đòi hỏi chúng ta phải trực diện với anh
chị em. Thứ đến, tình trạng của bệnh nhân, những người được viếng thăm không
hoàn toàn khoẻ mạnh, tráng kiện như ta, cho nên để ‘cầm lấy tay’ người anh chị
em mình, chúng ta phải đặt mình vào trạng huống, hiện tình, tâm tư, lối suy
nghĩ...của họ, và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể ‘chạm đến’ con tim, mới có
thể cảm thông, lắng nghe những tâm sự, với cả ưu tư, lo lắng của họ. Về điểm
này, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô khuyên nhủ mỗi chúng
ta như sau: “mặc dầu tôi tự do đối với tất cả mọi người, nhưng tôi đã đành làm
nô lệ cho mọi người...tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu
đau,...tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được
cứu rỗi” (x. 1Cr 9,19.22). Theo Ngài, vì lợi ích của anh chị em, để mọi người
được thông phần vào ơn cứu rỗi, Ngài đã ‘trở nên mọi sự đối với tất cả mọi
người’ để Tin mừng được họ lắng nghe, đón nhận. Vì thế, đối với Ngài “rao giảng
Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi
phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (x. 1Cr 9,16)
Thứ ba, “nâng đỡ dậy”. Cử chỉ sau cùng này liên quan mật thiết với hai hành
động trên. Tương tự, nếu chưa ‘tiến lại gần’ và ‘cầm tay’ anh chị em mình, thì
ắt hẳn chúng ta không thể ‘nâng đỡ’ họ được. Chúa Giê-su đã ân cần tiến đến,
cầm lấy tay và nâng đỡ bà nhạc phụ của Si-mon dậy với cả lòng mến của một vị
Thiên Chúa xuống thế làm người. Người chữa lành bà với tất cả niềm cảm thông
sâu xa của Con Người, và qua Người, mọi người được nhìn thấy, cảm nhận, tiếp
xúc với chính vị Thiên Chúa gần gũi, trìu mến, lân tuất vô bờ. Một khi, chúng
ta bỏ mình, đặt mình vào hoàn cảnh, đời sống của anh chị em, thì chỉ khi ấy,
chúng ta mới có thể khuyến khích, nâng đỡ, cộng tác, động viên họ một cách hữu
hiệu; và trong khoảnh khắc đó, chúng ta mới thực sự sống và rao giảng Tin Mừng
mà thôi. Nào còn chần chờ gì nữa, nếu không thực hiện bây giờ thì đến khi nào
chúng ta mới ra đi, sống chứng tá cho Thiên Chúa – một Thiên Chúa cao cả, nhưng
lại thật gần gũi, yêu thương chúng ta liên lỉ, không chút than phiền. Hãy cùng
tôi lên đường, sống Tin mừng, sống tươi vui, chia san từ ngay bây giờ vì “đời
người chỉ là hơi thở” (x. G 7, 7), “vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (x. Tv 144,
4).
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết mở lòng, bỏ mình,
đến với anh chị em; biết quên đi lợi ích cá nhân, biết cảm thông, thấu hiếu anh
chị em; biết dâng cho Chúa ưu tư, nguyện vọng cũng như lo lắng của bản thân, để
chấp nhận, khuyến khích, cộng tác, nâng đỡ anh chị em qua mọi phương diện. Sau
cùng, xin cho chúng con luôn hướng nhìn lên Chúa, để rồi luôn biết cậy trông
vào Ngài.
Như
Người “tiến lại gần”
Xin
cho con ân cần.
“Người
cầm tay” con người
Ban
cho con nụ cười.
“Nâng
đỡ dậy” anh (chị) em
Sống
một đời trôi êm. Amen!
54. Sống tâm tình biết ơn
Chúa Giêsu vừa mới từ nhà hội Caphácnaum, nơi Ngài đã
phụng sự Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua
việc chữa lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành
người đầy tớ của thầy đội (Mt 8,5-13). Khi Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um, Ngài
không có nhà riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô
đang bị sốt.
Có ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi
là malta có đặc điểm làm suy nhược,
mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kì.
Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng.
Nơi gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý
tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là điạ bàn hoạt
động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chứng này thường kèm theo bủng da và nóng
lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc
phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy
và chữa bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời
cầu xin được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba hạng người:
1. Cho chúng ta biết về Chúa Giêsu.
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố
quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà
tranh cũng như giữa đám đông trong nhà hội. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để
không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của
chính Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong nhà hội. Chúng ta thấy các
phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều
người thầy trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu,
những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật.
Trong nhà hội Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được
hoàn tất ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô
đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Kinh Talmud
cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng
sắt đen cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người
ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2,3 rồi đến câu 4,5. Rồi có một công
thức ma thuật được đọc lên, như thế họ xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu
hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng
điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sỹ
Paul Tournier có viết: “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên
nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn,
mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy
tín, giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách
tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu
giúp của Ngài.
2. Cho chúng ta biết về môn đệ của Ngài.
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ
phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình
đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn
đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong
những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm
một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu
nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị mục sư
nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị thánh tông đồ lão
thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Bác sỹ Tournier “về đến nhà, tôi sẽ kể
cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi
cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Ngài
trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi.
Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người
bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia
sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có
mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính
tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò
chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của Kitô hữu. Thế
là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời sống:
đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho
Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3. Cho chúng ta biết vài điều về bà nhạc gia của Phêrô.
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục
vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ.
Ta đã xử dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết
“chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê
tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài
nghe có tiếng nói phiá trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang
thành cửa sổ. Chúa hỏi sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa? Hắn đáp:
thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm
gì khác hơn? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo
sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: Tại sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong
trác táng? Chàng đáp: Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ
tôi còn biết làm gì khác hơn? Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người
già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi ông đáp: Lạy Chúa tôi là
người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là
khóc?
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã
tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của
ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là
cách chúng ta sử dụng mọi hồng ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng
rể như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư
khuyên giáo dân: “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng
mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình
vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì
phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn
vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (1Pr 4,10-11).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, Chúa đã đụng chạm đến
đời sống chúng con, mỗi người mỗi cách. Mỗi lần Chúa chạm đến đời con là mỗi
lần con được đổi mới, được chữa lành. Xin Chúa tiếp tục chữa lành không chỉ thể
xác con mà cả tinh thần của con, để con luôn biết diễn tả tâm tình biết ơn:
Biết ơn Chúa và biết ơn mọi người qua đời sống hy sinh phục vụ như Chúa. Amen.
55. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Chúa Giêsu đến trần gian đem tình thương cho nhân loại.
Ngài chữa bệnh và giúp chúng ta thấy được ý nghĩa của đau khổ và bệnh tật.
Sống trong thế trần, con người phải trải qua nguyên lý là
"sinh, lão, bệnh, tử". Nguyên lý ấy chi phối mạnh mẽ đến nỗi không ai
có thể thoát khỏi nó. Một trong những đau khổ đeo bám con người là bệnh tật.
Bệnh tật làm cho con người "đau" về thể xác và hơn thế nữa nó còn làm
cho họ "khổ" về tinh thần. Hơn nữa vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái
cho rằng bệnh tật của con người là do tội lỗi của họ, bệnh tật là do bị Thiên
Chúa phạt. Do đó, những người mắc bệnh thường bị cách ly, họ bị cộng đoàn tránh
xa và ruồng bỏ. Họ đau về thể xác rồi nhưng còn phải khổ hơn về tinh thần vì
phải đối diện với quan niệm này.
Sứ mạng của Chúa Giêsu đến trần gian nhằm mang đến hạnh
phúc cho con người. Bên cạnh việc rao giảng Tin mừng, Ngài còn chữa bệnh và cứu
sống cho con người. Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với
Thiên Chúa và với nhau giúp cho con người sống hạnh phúc. Hôm nay Phúc âm ghi
lại việc Ngài trả lại sức khoẻ cho bà mẹ vợ ông Simon. Ngài đem lại hạnh phúc
cho bà và cho những người chứng kiến. Bởi vì Ngài có quyền năng trên bệnh tật
và sự chết. Ngài chính là nguồn vui, là niềm hạnh phúc của nhân loại. Thông qua
việc chữa lành Ngài còn hướng chúng ta đến cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Chính nhờ mầu nhiệm Vượt qua này mà đau khổ của con người có được ý nghĩa tích
cực: đau khổ không phải là hình phạt. Ngài khai sáng cho người ta con đường
mới: trong đau khổ người ta có thể kết hợp mật thiết với Chúa, gia tăng lòng
tin và trông chờ vào Đấng có quyền năng giải thoát. Như thế, Chúa Giêsu còn hơn
vị lương y. Ngài chính là vị cứu tinh của nhân loại. Bởi Ngài không những chữa
lành những bệnh tật, đau khổ nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và
quyền lực của tội lỗi đang tác động trên đau khổ, để đem đến cho con người một
sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào sự sống đời đời, một niềm hạnh phúc bất
tận. Nhờ đó, đau khổ sẽ là một sự hiện diện của tình yêu. Mặc dù đau khổ vẫn
còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn nạn chưa được giải quyết thoả đáng nhưng
đã có tình yêu của Thiên Chúa, mầu nhiệm ấy trở nên ý nghĩa hơn.
Hôm nay chúng ta nhận ra ân huệ Chúa Giêsu đem đến cho
con người. Ngài rao giảng Tin mừng và chữa lành. Ngài giúp chúng ta xác tín
rằng dù con người có phải vất vả đối điện với đau khổ và bệnh tật nhưng con
người vẫn có Thiên Chúa hằng quan tâm chăm sóc và chữa lành. Con người vẫn luôn
có Thiên Chúa ở ngay bên để thông cảm, chia sẻ và nâng đỡ. Con người sẽ được
khoẻ mạnh và sống bình an. Nhờ đó con người có thể sống vui tươi hơn, hạnh phúc
hơn.
Nếu Chúa Giêsu là vị Bác sĩ tài giỏi và nhân từ thì chúng
ta hãy chính là những người y tá bác ái, sẵn sàng cộng tác với Chúa Giêsu trong
việc chữa lành bệnh nhân. Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa
Giêsu, có thể giúp đỡ tha nhân, chúng ta có thể xoa dịu phần nào nỗi khổ đau
của nhân loại mang lại niềm vui cho mọi người. Ngoài ra, đứng trước nỗi đau khổ
của kẻ khác, có khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết làm cách nào để giúp
đỡ họ. Những lúc đó, có thể người ta cần chúng ta cảm thông, chia sẻ với họ
bằng thái độ thinh lặng, lắng nghe họ tâm sự, ánh mắt cảm thông. Ngay cả khi
chúng ta không thực hiện được điều đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ.
Cùng tất cả tấm lòng yêu thương chân thành của chúng ta, chúng ta hãy hiện diện
với họ cả con tim và đức tin của mình.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài đã đến
trần gian loan báo Tin mừng và chữa bệnh cho con người. Ngài cho chúng con thấy
tình thương của Thiên Chúa và giúp chúng con thấy được mặc dù chúng con gặp đau
khổ và bệnh tật, Thiên Chúa vẫn ở bên chúng con và đồng hành với chúng con
trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn tin yêu và phó thác vào Thiên Chúa tình
thương và xin cho mỗi người Công giáo chúng con cũng biết đem niềm vui và hạnh
phúc cho những ai mà chúng con gặp gỡ trong môi trường mình đang sống. Amen.
56. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
TRÁNH NHƯNG KHÔNG TRỐN SỰ ĐAU KHỔ
Ông Gióp than thở: "Cuộc sống con người nơi dương
thế chẳng phải là thời khổ dịch sao?...Gia tài của tôi là những tháng vô vọng,
số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề." (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là
vấn nạn muôn thuở của kiếp người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho
tàng văn chương của nhân loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau
của con người được trình bày, mô tả. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau
khổ qua các trang sách hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều
nguyên cớ nhưng cần chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm
nào đó, vì chính họ cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN
B này tường thuật một ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau
mắc đủ thứ bệnh tật về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông
Phêrô khỏi cơn sốt nặng thì "chiều đến, khi mặt trời đã lặn, ngưòi ta đem
mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa.
Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ."
(Mc 1,32-34). Khó có thể chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa
dịu khổ đau của con người. Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng
Người thì Người lại đi nơi khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn "nhổ cỏ tận
gốc", tức là tìm cách diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả
lời cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau
khổ có căn nguyên nơi cái "dục" của con người. Vì ước muốn mà không
được toại nguyện nên phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ
đau được đề ra là " diệt dục". Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng
đời "sinh - lão - bệnh - tử là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một
người được sinh ra là khổ, cho dù " thoặt sinh ra thì đà khóc choé".
Người ta có thể muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn
trường sinh bất tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình
"muốn" được hay không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình
muốn được hay không được chào đời làm người.
Lão tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống
không hợp với Đạo, vói lẽ trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con
người không làm chủ ước vọng của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá
cũng gây ra khổ đau. Chính vì thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham
muốn của mình theo kiểu cách của thi nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà
thời túc.
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn
hà thời nhàn.
Và sống thuận theo lẽ trời tự
nhiên như:
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với
đau khổ. Các loài vật vì không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà
không có đau khổ. Đau khổ là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng
may, chẳng lành mà không tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm
rằng người điên không hề có khổ đau, vì không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một
vài nguyên nhân khách quan như thiên tai, dịch bệnh...thì người ta đều chân
nhận rằng chính tội lỗi con người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng
loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một
huyền nhiệm.
Để có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết
tưởng chúng ta cần xem xét bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó
chịu khi gặp phải sự dữ hay khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và
dường như không thể xem xét đau khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã
nói đến đau khổ là nói đến một ai đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với
nhận thức và ước muốn của con người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện
tượng khách quan lẫn chủ quan như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ
đau cũng như các nguyên nhân của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và
chính cuộc sống của Người, Người dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau
khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu
cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể
thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn
con đường đối diện với với đau khổ bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải
diệt dục là hết khổ đau, vì chính hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho
dù các bậc minh triết trong Phật giáo diệt dục bằng sự "tri kiến".
Không phải cứ thuận theo lẽ tự nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của
giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự
trung dung, vừa đủ thì hết khổ chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ,
là vừa.
Trong niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con
đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục
là lòng muốn đến tha nhân với các mục tiêu tốt đẹp kiểu "hãy thực hiện cho
tha nhân những gì ta muốn tha nhân làm cho mình", thì sẽ có cơ may vượt
qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ
đau. Nếu có đau khổ thì cái đau khổ ấy cũng đã được yêu rồi".
Cần phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra
đau khổ, đồng thời cần phải tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha
nhân và tích cực xoa dịu khổ đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là
điều chính đáng và phải đạo. Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay
chẳng đặng đừng thì hãy can đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha
mà kinh qua đau khổ là tình yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế
không phải là tìm cách diệt dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của
chúng ta theo thánh ý Cha trên trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu,
chúng ta tránh khổ đau, nhưng không lẫn trốn đau khổ.
57. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Jaime L. Waters -
Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển)
BÀN TAY THIÊN CHÚA Ở CÙNG NHỮNG
AI
CẦN ĐƯỢC SĂN SÓC NHẤT
Tin Mừng Chúa Nhật V Thường Niên hôm nay tập trung vào sứ
vụ công khai của Chúa Giêsu như được diễn ra trong Tin Mừng Maccô. Bài Tin Mừng
nêu bật sự quan tâm và khả năng chữa lành của Chúa Giêsu, đồng thời nhắc nhở
chúng ta về tầm quan trọng của việc chăm sóc, nhất là với những người đau bệnh
và dễ bị tổn thương.
Sau khi kêu gọi các môn đệ đầu tiên và chữa lành một
người bị thần ô uế ám, Chúa Giêsu tiếp tục chữa bệnh nơi riêng tư lẫn công
khai. Cùng với bốn môn đệ, Chúa Giêsu đến thăm mẹ vợ của ông Simon đang bị cảm
sốt. “Người cầm tay bà và nâng đỡ dậy, bà liền khỏi cảm sốt.” Hành động nắm tay
người phụ nữ đau yếu cho thấy sự quan tâm
dịu dàng. Chúa Giêsu lặp lại cử chỉ này khi chữa lành các trẻ nhỏ trong
các đoạn Tin Mừng sau đó, hồi sinh một bé gái và bé trai bằng cách nắm lấy tay
các em và nâng các em dậy (Mc 5,39-42; 9,25-27).
Trong Tin Mừng của thánh Maccô, Chúa Giêsu đã nhiều lần
chữa bệnh, nhưng riêng trong ba trường hợp này Chúa giơ tay chạm đến người phụ
nữ và hai trẻ em giúp họ được hồi phục. Các bài đọc là lời nhắc nhở về nhu cầu
trao ban sự quan tâm nhân ái giữa con người với nhau. Đối với những người đang
làm việc trong ngành y tế và hồi phục sức khỏe, bài Tin Mừng nhắc nhớ chúng ta
rằng công việc thiết yếu chữa lành của họ là giúp người khác bình phục, và sự
chăm sóc của họ mô phỏng lại Chúa Giêsu qua việc giúp người bệnh được chữa
lành.
Sau khi Chúa Giêsu chạm tay vào thì bà mẹ vợ của ông
Phêrô được chữa lành và có thể phục vụ Ngài cũng như các môn đệ như là dấu chỉ
của lòng biết ơn và là bằng chứng cho sự bình phục của bà. Chúa Giêsu tiếp tục
sứ vụ của mình qua việc chữa lành nhiều người mắc các loại bệnh tật, ốm đau.
Ngày hôm sau, Chúa Giêsu chủ ý lánh riêng ra một nơi để cầu nguyện, là một ví
dụ về việc Chúa Giêsu dành thời giờ riêng để nghỉ ngơi, hồi tâm và dâng lời tạ
ơn vì quyền năng chữa lành của mình. Các môn đệ nói với Chúa là người ta đang tìm Ngài, như có vẻ mong có
thêm người được chữa lành, và câu trả lời của Chúa Giêsu cho thấy cách thức
Ngài quan niệm về sứ mạng của Ngài. “Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành
lân cận để ta cũng rao giảng ở đó nữa.”
Ở giai đoạn đoạn đầu của Tin Mừng Maccô, chúng ta chưa
nghe Chúa Giêsu rao giảng nhiều. Ngài giảng dạy với uy quyền trong hội đường
(Mc 1,21-22), dù thánh Maccô không đề cập đến nội dung lời giảng dạy. Tuy nhiên,
khi nói rằng Ngài còn nhiều điều phải rao giảng, ngay sau khi thực hiện nhiều
việc chữa lành, Chúa Giêsu cho thấy quyền năng chữa lành là một phần không thể
thiếu trong sứ điệp và sứ vụ của Ngài. Một cách thức nền tảng để Chúa Giêsu
công bố sứ điệp Tin Mừng là thông qua hành động chữa lành.
Trong gần một năm qua, chúng ta đã phải gánh chịu đại
dịch Covid- 19 và các tác động toàn cầu của nó. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng
ta tôn vinh, đề cao và tri ân rất các nhân viên y tế ở giữa chúng ta, họ đã tự
đặt mình vào con đường nguy hiểm để nâng dậy những người bệnh. Thật không may,
hơn một triệu người trên thế giới đã không chống chọi lại được với virus. Nhưng
chúng ta cũng phải công nhận hàng chục triệu người đã khỏi bệnh mà một phần lớn
nhờ vào sự nỗ lực không mệt mỏi của các chuyên viên y tế.
58. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
“CHÚA GIÊSU CHỮA LÀNH VÀ RAO
GIẢNG”
Tin mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động
chữa lành và rao giảng của Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như
lời ngôn sứ Isaia đã loan báo: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi
công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt,
trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4,
18-19).
Sứ mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3
điểm chính trong bài tin mừng hôm nay:
·
Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác nhau, trừ
quỷ, để nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống
trị của tội lỗi. ma quỷ.
·
Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát
xuất từ Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.
·
Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người.
Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên
Chúa muốn con người được cứu độ.
Thiên Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình
yêu, Người là Đấng giải phóng chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của
Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn
chúng ta đến sứ điệp của Đức Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho
chúng ta hiểu rằng căn bệnh nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng
Thiên Chúa, thiếu vắng nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải
với Thiên Chúa mới có thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống
thật sự, bởi vì một cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là
cuộc sống… Do đó sự rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ
mật thiết với nhau, tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ
(Trích bài giảng của ĐGH Benêđictô).
Tóm lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc
bận rộn của Đức Giêsu: rao giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao
giảng và chữa lành đã chiếm hầu hết thời gian của Chúa Giêsu:
“Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều
quỷ… Ngài đi khắp miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường”.
Chúng ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh
thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra
tay hành động cứu người bệnh tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người
như hình với bóng. Theo quan điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma
quỷ, mọi sự dữ trên đời là do tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem
như là sự chiến thắng ma quỷ, tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu
biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng
Thiên sai của Người.
Đức Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho
mọi người. Đó là sức mạnh chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng
ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó
nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.
Loan báo Tin mừng cũng là sứ mạng của mọi người Kitô hữu
hôm nay.
Thần học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không
phải là Kitô hữu cho riêng mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về
Giáo hội và Đức Kitô, hầu mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được
lan rộng và cho ơn cứu chuộc của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn
dở dang và chưa thành toàn bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài”
(À L’éoute de Silence).
Đức Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma
quỷ đến đó. Người mang niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu
những vết thương đau của con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng
phải đem niềm vui, hạnh phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt
cho những anh chị em đau yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm
viếng, chia sẻ vật chất cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy
đã nói: “Chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều
linh hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng”.
59. Sống là chiến đấu
Trong chuyện ngụ ngôn của
Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều phu vác củi từ trong
rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ than thở hoài. Sau
hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống mình đi phứt cho
rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng khiếp, tay cầm
sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm gì?" Ông tiều phu
mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì hoảng sợ và không muốn
chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi này lên vai hộ
tôi". Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên vai người tiều
phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn thấy nặng nhọc
gì nữa.
Câu chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần
nào Lời Chúa mà chúng ta vừa nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều
bàn đến những việc lao động nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi trần gian
này. Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần
quật hết ngày này sang ngày khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng
cơm manh áo. Kẻ thì lao động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả
mọi người đều phải làm việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm.
Làm-ăn, ăn-làm như một cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con
người làm không nỗi, ăn không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp
sống làm người.
Trước cảnh sống cơ cực đó, những kẻ bi quan thì than thở
như trong bài đọc thứ nhất của sách ông Gióp: "Lao động nhọc nhằn là kiếp
sống của tôi. Ngày của tôi giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô
lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh
phúc". Thái độ đó cũng giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn
Lafontaine, làm việc cực nhọc quá nên bác tiều phu cứ đòi chết cho rồi. Khi
người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình
làm thì người ta dễ có thái độ bi quan như thế.
Bài Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa:
Chúa vừa giảng dạy trong Hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa
mới đi ra thì hay tin bà Nhạc mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến
nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ
họp trước cửa nhà, đó là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải
cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một
nơi thanh vắng để cầu nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm
Người và cho hay dân chúng lại tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa.
Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc
vất vả từ sáng tới tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo
cho bản thân Người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần
xác người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm
gương đó, Đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao
động: lao động là bổn phận của mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho
người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác lẫn phần hồn. Những bài đọc Thánh
Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công
việc bề bộn cực nhọc.
-
Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc
lao động của chúng ta.
-
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh
thần để có thể đảm nhận những công việc ấy.
-
Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh
ra những kết quả tốt đẹp.
-
Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho
bản thân mình, mà còn để giúp ích cho những người khác.
-
Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ,
một phần sức lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian...
Xin Chúa ban cho tất cả chúng
con một khối óc biết sáng tạo, một đôi tay biết làm nên những bát cơm đầy để
xoa dịu những cơn đau do đói khát đem lại, một đôi tay biết xây dựng một mái ấm
gia đình nên tươi đẹp. Xin Chúa nâng đỡ những lao công vất vã của chúng con, và
xin Chúa ban cho chúng con những ơn lành hồn xác. Amen.
60. Đi ra vùng ngoại biên
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng Mc 1: 29-39: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống
mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể
xác tâm hồn cho con người. Một ngày thật bận rộn với biết bao công việc...
1. Ngày làm việc của Chúa Giêsu
Bài
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi
đầu là cầu nguyện, rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Một
ngày thật bận rộn với biết bao công việc: Giảng dạy trong hội đường rồi đến nhà
chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô; Buổi chiều cho đến tối mịt, Chúa chữa lành dân
chúng đủ loại bệnh hoạn tật nguyền; Sáng sớm tinh mơ, Chúa dành thời gian đẹp
nhất một ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha.
Công
việc bề bộn mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh
trong nhịp sống thường ngày.
a) Cầu nguyện:
“Sáng
sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện” (1,35). Suốt ngày lo toan với
bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng
tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa
Giêsu. Người cần có thời gian sống riêng tư một mình. Người cần sống bên Cha,
tâm sự về gánh nặng công việc, về nổi đau khổ của loài người, về cuộc chiến
chống Satan. Người thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và
nghị lực để làm tròn sứ mạng.Người cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết
hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động
truyền giáo.
b) Rao giảng
Việc
quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng. “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường
giảng dạy”(1,21). Người đọc Sách Thánh và giải nghĩa. “Thiên hạ sửng sốt về lời
giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả
phương pháp và bầu khí giảng dạy của Người đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa
giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng
có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng
dạy. Người không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế,
giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên
đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao
với Chúa Cha.
Trong
Bài Đọc II, Thánh Phaolô nói đến bổn phận rao giảng Phúc Âm mà ngài đã lãnh
nhận. Thánh nhân đã chu toàn và để công cuộc rao giảng được kết quả, “tôi đã
trở nên yếu đuối với người yếu đuối… trở nên mọi sự cho mọi người.”
c) Chữa lành thể
xác tâm hồn.
Lời
giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó
chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. “Ra khỏi hội đường, Chúa
Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên
giường, cầm tay bà mà đỡ dậy;cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”
(1,29-31).Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như
sau này Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi
đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), như sau này Người cầm tay cậu bé bị động
kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).
“Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người” (1,32). Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành
nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.
Tác
giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính
Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh
Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân
giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở
với Người” (Cv 10,38).
Bệnh
tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được
bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị
và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến
biển khổ của nhân loại. Người không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong
cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Nhịp
sống mỗi ngày của Chúa Giêsu đầy ắp yêu thương trong mọi công việc phục vụ.
Người có một trái tim rung động luôn “chạnh lòng thương”, có một tấm lòng bao
dung vô bờ bến. Rao giảng Tin Mừng yêu thương, làm phép lạ chữa lành, mở rộng
vòng tay đón nhận và tha thứ những kẻ tội lỗi. Chúa chữa lành bệnh tật thể xác
và tâm hồn con người.
Gặp
Chúa, những ai sống ích kỷ đều trở nên quãng đại, những ai ghen ghét hận thù
đều trở thành yêu thương tha thứ. Gặp Chúa, con người tìm được mùa xuân cuộc
đời.
Ngày
làm việc bận rộn của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó
chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời
sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu
đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có
chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh
Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).
Một
ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin
Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
2. Chúa Giêsu đi về vùng ngoại
biên.
“Ông
Simon và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: Mọi người đang
tìm Thầy!”. Chúa Giêsu muốn đi đến nhiều nơi. Vì vậy “Người bảo các ông: Chúng
ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó
nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng
trong các hội đường của họ, và trừ quỷ”.
Galilê
là vùng ngoại biên xa trung tâm Giêrusalem. Galilê là khởi điểm Kitô giáo.
Chính tại đây, Chúa Giêsu bắt đầu cuộc rao giảng Tin mừng, chọn gọi các Tông
đồ, tuyên bố Luật mới.
Chúa
Giêsu sinh ra trong một gia đình làm nghề mộc, thuộc dạng nghèo. Như vậy, Người
mang thân phận kẻ nghèo để chia sẻ với thế giới những người ngoại biên. Khi đi
rao giảng Tin Mừng, Người ưu tiên để ý đến những người nghèo, người người tội
lỗi và những người cùng khổ. Người áp dụng vào chính mình những lời tiên tri
Isaia xưa đã nói: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Chúa đã xức dầu tấn phong
tôi.Sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4,17-20). Người cũng đã
xác định: “Thầy đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi
người tội lỗi” (Mt 9,13). Người muốn dạy cho mọi người thấy: Trước mặt Chúa
không có vấn đề ưu đãi cho trung tâm và bỏ quên hoặc loại trừ những ngoại biên.
Người nói rõ ràng với người phụ nữ ngoại giáo xứ Samaria: “Này chị, hãy tin
tôi: Đã đến giờ, các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay
tại Giêrusalem... Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây, giờ những người
thờ phượng đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và trong sự thực. Vì Chúa
Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4,21-24). Suốt đời, Chúa
Giêsu đã sống gần gũi những người ngoại biên, đến với họ chia sẻ những nỗi đau
của họ. Chúa Giêsu cho họ thấy Người rất thương họ, và tình thương đó là vô
hạn, vô cùng. Thương đến đổ máu mình ra, chết cho họ, chết thay cho họ, và cho
mọi người.Người hiến thân đến tột cùng vì tình yêu. Chính ở điểm hiến thân trên
thánh giá, mà Người làm vinh danh Chúa Cha, và chính Người được tôn vinh. Người
muốn các môn đệ hãy theo gương Người, đem Tin Mừng đến cho người nghèo khổ như
vậy. Hiện nay, Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đang được đề cao như một gương mẫu rao
giảng Tin Mừng cho người ngoại biên. Mẹ không làm việc gì khác ngoài đi theo
đường lối mà Chúa Giêsu đã đi trước. Điều đáng ngợi khen nhất nơi Mẹ là làm chứ
không chỉ nói. (x.Tin Mừng cho người ngoại biên, ĐGM Bùi Tuần).
3. Giáo Hội đi ra vùng ngoại
biên
Thời
nay, nói theo ngôn ngữ của Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, những biên cương mới
mà Giáo Hội đang quan tâm không chỉ trên phương diện địa lý nhưng còn là
những con người. Chúng không chỉ có nghĩa là mới, nhưng còn có nghĩa
là bị lãng quên, bị bỏ rơi, chưa đụng chạm đến. Các biên cương cần
quan tâm chính là sự cộng tác của mọi thành phần trong giáo xứ, là
mục vụ hôn nhân gia đình, mục vụ sau khi kết hôn, chăm sóc và bảo vệ
thai nhi, mục vụ bác ái truyền giáo, mục vụ truyền thông và mục vụ
di dân.
Chúa
đến với những biên cương mới dẫu cho khó khăn hay thập giá.Truyền giáo
ngày nay trong thế giới nói chung và trong xã hội Việt Nam nói riêng không nhắm
trước tiên hay chủ yếu vào việc "chinh phục các linh hồn" cho Chúa
càng nhiều càng tốt, (chúng ta không chạy theo số lượng) nhưng đem tinh thần
Phúc Âm thấm nhuần vào con người và vào mọi thực tại nhân sinh. Vì thế, để thi
hành sứ mạng cao cả đó, chúng ta không nhất thiết phải đi tới một vùng địa lý
nào khác, mà lấy chính môi trường sống của mình làm "vùng đất ngoại
bang", và noi gương của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chúng ta hãy coi
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là những vùng giáp ranh, những
vùng biên giới mà Chúa sai chúng ta đến.
Cảm
nghiệm sâu xa bước chân Chúa Giêsu đi về vùng ngoại biên, Đức Thánh Cha
Phanxicô viết: “Tôi thích một Giáo Hội bị bầm dập, bị thương tích và dơ bẩn vì
đã ở ngoài đường, hơn là một Giáo Hội yếu nhược vì tự giam mình và bám víu vào
sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Giáo Hội quan tâm đến việc được ở
vị thế trung tâm và rồi rốt cuộc bị vướng mắc vào một mạng lưới của những nỗi
ám ảnh và thủ tục” (EG 49).
Đức
Thánh Cha Phanxicô nhắn nhủ các mục tử: Nếu một linh mục học nhiều về thần học
và có nhiều bằng cấp, mà chưa học vác Thập giá Chúa Kitô, thì chưa phải là phục
vụ. Người đó có thể là một học giả tốt, có thể là một giáo sư tốt, nhưng người
ấy không phải là một linh mục. Các con thân mến, các con làm ơn đừng trở thành
những “quý ông”, cũng đừng trở thành những “giáo sĩ kiểu công chức”; nhưng các
con hãy trở thành người mục tử, những mục tử của Dân Chúa. (x. bài giảng phong
chức linh mục cho 10 thầy Phó tế tại Đền Thờ Thánh Phêrô, ngày Chúa nhật Chúa
Chiên Lành, 07 tháng 05 năm 2017).
“Đi Ra Vùng Ngoại Biên” đã trở thành câu nói quen thuộc của nhiều tín hữu kể từ
khi Đức Thánh Cha Phanxicô đề cập trong Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng”. Ngài
khuyến khích mọi người bước ra khỏi sự quen thuộc hằng ngày của mình để đi đến
những nơi, với những người xa lạ ở vùng ven, vùng ngoại biên ...Đây không chỉ
là một lối sống thích ứng tích cực trong khuynh hướng toàn cầu hóa hiện nay,
nhưng còn là một phương thế, một giải pháp để Tin Mừng Chúa Kitô được rao giảng
rộng rãi hữu hiệu hơn. Chính những chuyến “đi ra vùng ngoại biên” đã neo lại
nơi tâm hồn người khác nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Ngày nay, nhiều người đã đi ra
ngoài khu vực an toàn của mình để “đến vùng ngoại biên” và đã chạm đến những
bất công, bất minh, bất chính của trần thế. Từ nơi đó, họ thắp lên ánh sáng của
Tin Mừng, của lẽ phải và công lý cho những người “còn ngồi trong bóng tối sự
chết” (Lc 1,70).
Chúa
Giêsu đến thế gian với thân phận con người, làm con người, yêu thương con người
và cứu độ con người. Người tận tụy phục vụ mọi người. Hãy cùng với Chúa “đi ra
vùng ngoại biên”, ra khỏi những khung cảnh quen thuộc hằng ngày loan báo Niềm
Vui Tin Mừng.
-------------------
Một ngày làm việc của Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XVI
5:30
sáng: Khi công trường Thánh Phêrô còn đang yên tĩnh trong bầu khí buổi sáng sớm
của thành Rôma và chờ đợi những đoàn du khách sẽ lần lượt kéo đến, trên tầng
thứ ba của tòa nhà nơi Đức Giáo Hoàng cư ngụ và làm việc, người ta thấy ánh
sáng đèn bắt đầu chiếu lên; đó là lúc Đức Giáo Hoàng thức dậy và bắt đầu một ngày
mới với những giờ phút cầu nguyện và tĩnh tâm sáng.
7:00
sáng: Đức Giáo Hoàng dâng Thánh Lễ tại nhà nguyện riêng cùng với sự hiện diện
của hai Đức Ông Goerg Gaenswein và Alfred Zuereb (hai vị Thư Ký của Đức Giáo
Hoàng) và bốn người giúp việc. Thời Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thì thường
có thêm một số khách được vào cùng dâng lễ.
8:30
sáng: Đức Giáo Hoàng làm việc tại Văn phòng riêng. Nếu trời tốt, cửa sổ nhìn ra
công trường Thánh Phêrô sẽ mở (chính từ cửa sổ này, vào mỗi trưa Chúa Nhật, Đức
Giáo Hoàng nguyện kinh Truyền Tin cùng với các khách hành hương tụ tập tại công
trường Thánh Phêrô phía dưới). Một trong hai Đức Ông Thư ký sẽ đem đến cho Đức
Giáo Hoàng tập các văn kiện, bản tóm lược các tin tức quan trọng trên thế giới,
chương trình làm việc trong ngày, những người Ngài sẽ gặp và những đề tài chính
sẽ đề cập đến.
11:00
Trưa: Đức Giáo Hoàng xuống phòng tiếp tân ở tầng hai để tiếp các vị thủ lãnh
các quốc gia, các vị Giám Mục, các nhân vật quan trọng… đã được sắp xếp theo
chương trình. Sau đó Ngài tiếp các khách đến viếng thăm tại thư viện riêng.
1:30
Trưa: Đức Giáo Hoàng dùng bữa trưa đơn giản tại phòng ăn ở tầng ba với các viên
chức hoặc đôi khi có khách được mời. Sau đó Đức Giáo Hoàng thường chơi Piano,
đặc biệt những bản của Mozart, rồi đi dạo một chút trước khi nghỉ trưa.
3:30
Chiều: Đức Giáo Hoàng lại làm việc tại văn phòng để duyệt lại các văn kiện và
các bài diển văn.
Vào
Mùa Đông từ 4:00 đến 4:45 chiều (vào mùa Hè từ 6:45 đến 7:30), Ngài ra vườn để
đi dạo với hai vị thư ký.
6:00
Chiều: Ngài gặp gỡ tại văn phòng riêng, các vị cố vấn thân cận, như các Đức
Hồng Y, các Giám Mục Tổng Trưởng, Tổng Thư Ký các Bộ tại Tòa Thánh.
7:30
Tối: Đức Giáo Hoàng ăn bữa tối, xem tin tức trên truyền hình. Sau đó Ngài vào
Nhà Nguyện để cầu nguyện trong yên lặng ban đêm.
Khi
chuông Đại Thánh Đường Thánh Phêrô điểm 11 giờ đêm, đèn phòng ngủ của Đức Giáo
Hoàng tắt và Ngài bắt đầu nghỉ đêm. (x.Vietcatholic, 19/06/2008, Lm Anphong
Trần Đức Phương Phỏng theo Isabelle de Gaulmyn, “A day in the life of the Pope”
trong Catholic Digest April 2008).
Ngày
làm việc bận rộn của Chúa Giêsu, ngày làm việc của Đức Giáo Hoàng đều đầy ắp
niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.
Tông
Huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, 1999) nói đến đời sống cầu nguyện
và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi
người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm,
vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23).
Sách
Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số
2725).
Một
ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin
Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.
61. Ngôn ngữ của con tim
(Suy niệm của Jean Ralté)
Từ cuộc sống
Thật dễ nhận ra rằng càng ngày người ta càng đi tìm kiếm
một cái gì đó, một lời gần gũi mình trong cuộc sống. Không ai còn thích nghe
những diễn từ bóng bẩy, những lời hay ý đẹp cao siêu, như những đám mây. Chúng
ta hết thảy đều tìm kiếm một lời nhanh chóng đưa đến hành động. Thế giới chúng
ta khao khát những gì cụ thể. Đây là một thế giới đòi hỏi có những người biết
làm chứng bằng chính cuộc đời mình trước khi làm chứng bằng lời nói.
Ngôn ngữ của con tim.
Cuộc sống của Chúa Giêsu đáp ứng sự mong chờ của loài
người. Ngài không nói ngôn ngữ của những triết gia nay của những nhà thần học
hoặc của các tư tế và ký lục ở thời đại của Ngài. Người con trai bác thợ mộc
nói ngôn ngữ của con tim. Khi Ngài đến với con người, Ngài gặp họ trong toàn bộ
con người của họ, thân xác và tinh thần. Ngài không tách rời giữa lời nói và
hành động. Trước khi đến hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu đã đến nhà ông Simon
và Anrê. Ngài vừa mới đến thì người ta nói với Ngài về một người bệnh. Nhạc mẫu
của ông Simon lên cơn sốt. Có lẽ nếu Chúa Giêsu chấp nhận nói chuyện với bà thì
điều này sẽ an ủi bà chăng? Nhưng Chúa Giêsu còn làm nhiều hơn thế nữa: Ngài
nói với bà bằng ngôn ngữ của con tim. Không một lời, Ngài đến bên cạnh bà, nắm
tay và làm cho bà chỗi dậy. Ngài không cần lời nói. Cử chỉ của Ngài nói đủ rồi.
Ngài chữa lành bà cả hồn lẫn xác.
Được khỏi sự dữ đã giam hãm bà, nhạc mẫu của ông Simon
liền phục vụ những người khách của ông. Cử chỉ của bà làm chứng cho niềm tri ân
đối với việc loan báo Tin Mừng vừa được thể hiện. Đến lượt bà, bà cũng nói ngôn
ngữ của Chúa Giêsu, ngôn ngữ của con tim.
Như một vệt thuốc súng.
Và này đây, tin đồn lan khắp cả thành phố. Có một người
đáp ứng được sự mong chờ của những con tim bị bệnh tật, bị tan vỡ, bị giam cầm.
Lời của Thiên Chúa đã trở nên hành động trước mắt loài người. Vậy nên dân chúng
tuôn đến, mỗi người tìm đến một luồng khí mới cho cuộc đời của mình. Và này
đây, trong những phong trào của chúng ta, người ta khám phá ra hành động của
Thiên Chúa và của Lời Ngài. Một nhóm được hình thành, rồi một nhóm khác nữa…
Chúa hiện diện ở giữa chúng ta. Ngài hành động vì chúng ta. Sứ điệp loan đi như
một vệt thuốc súng. Chúa ở nơi chúng ta, trong phong trào Thánh Linh, Chúa ở
trong nhóm trẻ của chúng ta, v.v… Nhưng chúng ta lại nghĩ rằng để nhìn thấy
Ngài, phải thuộc về nhóm chúng ta, thuộc về “thành phố” nơi Chúa đã tỏ mình ra.
Vì chúng ta hay vì thế giới?
Hôm nay, Chúa cũng tỏ mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng
ta làm gì trước sự kiện này? Đôi khi chúng ta giống những người trong thành
phố. Chúng ta tìm cách lợi dụng tối đa sự hiện diện của Chúa mà quên để cho
Ngài được tự do hành động. Chúng ta nghĩ rằng Ngài chỉ là Chúa của chúng ta,
Vua của chúng ta, Ngài thuộc về chúng ta. Còn những kẻ không thuộc về nhóm
chúng ta không thể gặp Ngài. Chúng ta cũng tìm cách làm cho Ngài thành Vua của
chúng ta, tìm cách giam hãm Ngài trong những cơ cấu của chúng ta, làm cho Ngài
trở thành nô lệ của chúng ta, thành đồ vật của chúng ta. Nhưng không phải Chúa
chỉ đến cho chúng ta mà thôi đâu.
Vì thế chúng ta cũng có thể hành động như nhạc mẫu ông
Simon. Nếu Chúa tỏ hiện ở giữa chúng ta là để chúng ta giúp Ngài loan truyền sứ
điệp của Ngài cho thế giới, bên ngoài thành phố của chúng ta. Lúc đó, Chúa
không còn đến chỉ phục vụ chúng ta nữa. Chính chúng ta trở thành đầy tớ của Ngài.
Lúc đó, các nhóm của chúng ta không còn là những nhóm khép kín, nhưng là những
điểm chiếu tỏa, từ đó phát xuất đời sống đức tin để mang Tin Mừng đến những
làng mạc lân cận.
Đối với chúng ta là những Kitô hữu, những tín hữu. Thiên
Chúa giao cho nhiệm vụ loan báo cho loài người Tin Mừng mà Ngài đã để lại cho
chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta làm việc này theo cách của Ngài, bằng lời nói
và bằng hành động, nói ngôn ngữ của con tim chứ không phải ngôn ngữ của sự khôn
ngoan con người. Chính với những anh em đang đau khổ của chúng ta mà Ngài sai
chúng ta đến để nhân danh Ngài chúng ta cầm tay họ, giúp họ đứng lên. Bây giờ
phận sự của chúng ta là trở thành tôi tớ mọi người để cứu được nhiều người.
Amen.
62. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
KHÔNG CÓ NGHỈ NGƠI CHO VIỆC TỐT
Mẹ vợ là đối tượng của nhiều chuyện vui cười, nhiều
chuyện diễu cợt và một số châm biếm suốt một thời gian dài. Một nhà phê bình đã
quan sát và nhận xét rằng: “Đằng sau mỗi người đàn ông thành công có một bà mẹ
vợ đang ngạc nhiên”, có lẽ mẹ vợ của thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của
Chúa Giêsu khi chọn Phêrô làm đầu tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà
đã được chú ý chỉ một lần duy nhất trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được
chú ý đó thì rất quan trọng đối với chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn
được gọi là Simon, đã lo lắng cho người mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn
sốt. Khi Simon nói với Chúa Giêsu về bà, Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền
rời khỏi bà. Hành động này của Chúa Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng
sau đó thì và hoàn toàn ngạc nhiên, ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa
Giêsu và các môn đồ của Ngài. Các bạn nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít
thời gian để nghỉ ngơi, nhưng điều đó đã không phải là cách làm của người đàn
bà này.
Một số những nhà hoài nghi đã vẽ bức tranh châm biếm
người đàn bà được tiền định này, “phụ nữ trong vị trí xã hội thời bấy giờ” là
để phục vụ người đàn ông. Sự thật bà đã là tấm gương của chính Chúa Giêsu. Bà
đã suy nghĩ về sự quảng đại, về tinh thần bỏ mình trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn tối tại nhà của Phêrô, Chúa Giêsu không nghi
ngờ gì là đã kiệt sức sau một ngày lao động vất vả, Người vẫn gây nên bất ngờ
là chừa lành cho tất cả những người bệnh trong thành phố, những người đau bệnh
và những người bị quỷ ám. Ngài đã đáp trả theo đặc tính riêng của Ngài. Sáng
hôm sau, mặc dù rất mệt mỏi nhưng Ngài đã dậy rất sớm như mẹ vợ của ông Phêrô
đã dậy sớm sau cơn ốm của mình. Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng để cầu
nguyện, nhưng đó không phải là tránh làm công việc tốt. Simon và những người
khác đã tìm thấy Người, các ông biết rằng những khoảnh khắc an bình đó của Ngài
không phải là tận cùng của một ngày sống. Sứ vụ của Ngài đang vẫy gọi Ngài và
Ngài nhận biết rằng Cha đang kêu gọi Ngài, đưa những người cùng khổ thoát khỏi
cảnh khổ của mình, điều mà ông Gióp đã cảm thấy khi ông tuyên bố: “Tôi sẽ không
còn nhìn thấy hạnh phúc nữa”. Chúa Giêsu đã đi đến những làng mạc để tuyên bố
và rao giảng Tin Mừng.
Thánh Phaolô đã làm viên mãn những ý thức quen thuộc của
sự phục vụ. Để xác định sự dâng hiến của ngài trong việc rao giảng Phúc Âm mà
ngài đã được kêu gọi, ngài viết: “Tôi đã bị thúc đẩy và không có một chọn lựa
nào khác”. Đó là sự nhiệt tình để diễn tả tâm tình bổn phận sâu xa của ngài.
Ngài không do dự làm nổi bật sự quảng đại khi ngài nhắc nhở Corintô: “Tôi hiến
tặng Phúc Âm một cách nhưng không”. Trong sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi
của thánh Phaolô thì việc phục vụ đơn giản được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô
cũng được xem không phải là vô nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm của hai người phản
ánh sự quảng đại tinh thần vô vị lợi trong việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô
có cách của ngài và mẹ vợ của Phêrô có cách của bà. Còn chúng ta, con đường của
chúng ta là gì? Chúng ta có thể trở nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn
bổn phận ơn kêu gọi trong đời sống của chúng ta, những gì mà chúng ta có thể
trở thành. Ngoài mẹ vợ của thánh Phêrô mà thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho
chúng ta, có một sự xếp đặt rộng rãi trong việc phục vụ cho những môn đồ của
Chúa Giêsu đã được kêu gọi. Chúng ta cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh
thần vô vị lợi mà chúng ta thực hiện trong cuộc sống của chúng ta như là cha
mẹ, vị hôn phu, thầy dạy, công nhân, những người tự nguyện, một sinh viên, một
linh mục, một tu sĩ, những gì chúng ta được kêu gọi để trở thành.
Có sự nghỉ ngơi thì xấu khi chúng ta chỉ nghĩ về mình và
những tiện nghi cho chính mình. Không có sự nghỉ ngơi cho công việc tốt, những
người theo gương mẫu của Chúa Giêsu. Họ biết rằng hạnh phúc và sự viên mãn
trong cuộc sống sẽ đến bằng việc bắt chước sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi
của Chúa Giêsu.
63. Lương y từ mẫu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh chị em thân mến,
Không ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã
bệnh hoặc có người thân đau ốm hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một
bệnh viện, để thấy được bệnh tật quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi
người đều phải chạm trán với đau khổ dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã
suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa
đáng trước sự đau khổ của người hiền đức và của trẻ thơ vô tội.
Ông Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là
một người hiền đức nhưng gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô
vọng: “Xin Chúa nhớ cho: đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại
hạnh phúc bao giờ”.
Thật vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa
kiếp làm thuê”. Tuy thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ
hay hình phạt của tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao
người hiền đức lại phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm
khôn dò. Tốt hơn hết là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp
cho.
Vậy thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?
Trước hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng
Ngài quan tâm, lo lắng cho những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm
đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm
trên giường. “Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…”. Với triết gia, đau
khổ là một vấn đề. Còn với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ:
Trước người mù từ thuở mới sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ
khác và chạy tội, để đổ trách nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình.
Nhưng theo Đức Giêsu, làm như thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn
là làm một cái gì đó, làm “cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của
Chúa Cha.
Kế đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên
giường vì sốt mà cho bà “chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết
và sự Phục Sinh của Ngài. Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con
người có được một ý nghĩa tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình
phạt mà là một thay đổi, một nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt
lúa phải thối đi để có mùa gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con
sâu phải lột xác để thành cánh bướm bay vào cõi trời bao la.
Như vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa
đi mọi đau khổ nhưng để đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau
khổ một niềm vui giải thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất
vọng và đưa họ vào lại trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với
mọi người trong xã hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới
nhận ra rằng: còn hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân
loại. Bởi vì Ngài đã không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến
thắng cả cái chết và quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem
đến cho con người một sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và
sự sống. Đây mới thật là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng
Tin Mừng hay mạc khải tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó,
đau khổ thay vì là sự vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình
yêu. Dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp
trọn vẹn, nhưng đã có tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.
Thưa anh chị em,
Đức Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái
độ cụ thể, rõ ràng: Ngài ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được
lành mạnh, thuyên giảm, hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật
Thiên Chúa yêu thương người ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau
không thành đau khổ, tật nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người
được yêu thương chăm sóc thì dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui
tươi, hạnh phúc, nghĩa là không đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng
–Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng
tác những vần thơ trong sáng, vì em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.
Đức Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau
Khổ Của Con Người, theo Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này
hay cách khác, trên con đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ
con người trên con đường đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để
cho thấy rằng mỗi người chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người
đồng loại đang đau khổ. Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải
“dừng lại” bên kẻ đau khổ. Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại
bên bất cứ đau khổ nào của người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để
sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót
thương, thúc đẩy chúng ta ra tay hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù
thuộc loại nào” (x. số 28).
Trong suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm
sóc và cứu chữa các bệnh nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó
chữa, những kẻ tàn tật. Sự tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công
giáo tại các trại phong cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là
nguồn an ủi không nhỏ đối với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các
họ đạo, các đoàn thể, có thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại
gia đình, tại các viện dưỡng lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với
những con người đau khổ vì bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của
chúng ta.
Anh chị em thân mến,
Nhân ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ
Đức (11/2), nơi các bệnh nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ
lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Đức Mẹ.
Trước nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm
thấy bất lực, không biết phải nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó,
trong giới hạn của mình và đầy tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì
đó để xoa dịu tinh thần cũng như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người
ấy chỉ cần chúng ta im lặng và cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ
tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay
cả khi không thể thực hiện các việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ.
Bằng tất cả những việc yêu thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ
về Chúa Giêsu của chúng ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính
cuộc đời chúng ta vậy.
64. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày
Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
CHÚA GIÊSU, NGƯỜI CÔNG GIÁO ĐẦU
TIÊN.
Thánh sử Marcô trình bày cùng chúng ta Chúa Giêsu đang
thi hành chức vụ như: loan báo Nước Trời, chữa kẻ bệnh tật, trừ ma quỷ, cầu
nguyện. Cảnh tượng được mô tả hôm nay nhấn mạnh cho ta thấy Chúa Giêsu lo lắng
dấn thân vào cuộc đời bình thường của con người đến thế nào. Người mới giảng
dạy ở Nhà Hội là nơi thường để hội họp xong Người lại mau mắn theo Phêrô và
Anrê về nhà họ. Phêrô biết có chuyện không hay trong nhà mình, song điều đó
cũng không ngăn cản Chúa cứ đến.Chúa chữa lành cho nhạc mẫu Phêrô. Chúa dùng
bữa mà chính tay bà đã dọn. Vào buổi chiều, hẳn là vào lúc mà ngày Sa-ba chấm
dứt, Người chữa lành cho nhiều bệnh nhân được mang tới. Người biểu dương quyền
năng Người trên sự dữ bằng cách đẩy lui bệnh tật và xua đuổi tà thần. Người lưu
lại nhà Phêrô và Anrê để qua đêm, nhưng sau khi đã chia sẻ những thực tế tầm
thường ấy của đời sống nhân loại, Chúa đã thức dậy trước bình minh để hoàn toàn
chìm đắm vào sự thân mật của Chúa Cha. Người trở về nguồn. Người không giây
phút nào mất liên lạc với Cha Người. Người trở lại cùng với loài người, với
những tư tưởng và ý muốn của Chúa Cha. Người không để bị lôi cuốn đến chỗ sa
lầy, vào những kêu gọi tức thời và ích kỷ của những người ở Caphanaum. Người
không hề rời khỏi tầm mắt những kích thước của sứ mạng mình. Ngoài Caphanaum,
Người rảo qua khắp hết miền Galilê, trong lúc đợi chờ sai môn đệ đi khắp cùng
thế giới. Chúng ta hãy lưu tâm đến hai câu nhỏ, song gợi ý trong bài này.
1) Tiến lại gần, Người cầm lấy
tay bà. Thánh
sử Marcô ghi rõ chi tiết này, khi nói đến việc Chúa Giêsu chữa lành nhạc mẫu
của Phêrô. Qua cung cách xử sự ấy của Chúa Giêsu, người ta có thể nhận ra nỗi
quan tâm của Chúa, muốn gần gũi với con người. Tự biết mình là Con Thiên Chúa,
Người rất có thể, tự đàng xa, chữa mọi bệnh tật, tiêu diệt tội lỗi, thanh tẩy
con người sạch mọi sự dữ. Vậy mà, Chúa đã làm gì? Chúa cầm lấy tay loài người.
Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, không chỉ để cho các nguyên nhân siêu việt thi
hành vai trò mà Người đã trang bị từ đầu. Cư xử với con người, con người trong
nhân cách riêng và như phần tử của cộng đoàn nhân loại rộng lớn, Thiên Chúa đã
nắm lấy tay con người; Chúa Giêsu là Con Người tuyệt hảo, là Con Người của
Thiên Chúa Con nhập thể, đã đến để cứu chữa nhân loại bằng cách “cầm lấy tay”
từng người, bất luận họ ở trình độ lương tâm và kiến thức nào. Không một con
người nào, dầu là sơ khai đến mấy, mà không được chính Đức Kitô chú ý riêng.
Con Thiên Chúa tự mặc lấy nhân tính để chiếm đoạt được nhân loại, Người tự cho
mình đôi tay để cầm lấy từng người. Trong giây phút chúng ta đang lâm cơn bị
cám dỗ, phạm tội, buồn phiền, thất vọng, chúng ta có nghĩ tới bàn tay nào đó,
đang giơ ra để nâng đỡ không?
2) Chúng ta hãy đi đến khắp mọi
nơi để Ta cũng rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì mục đích đó mà Ta được sinh ra. Chúa Giêsu, từ Thiên Chúa mà
ra, không để cho mình bị giam hãm trong thực thể này hay thực thể nọ. Chức vụ
Người thi hành tại Caphanaum đã đem đến cho Người nhiều cảm tình nồng nhiệt.
Người ta bao vây Người, người ta muốn chiếm đoạt Người. Nhưng Chúa Giêsu đã tự
tháo gỡ. Tại sao vậy? Tại vì con người của Chúa bị hai chiều kích vô biên lôi
cuốn. Trước hết là kích thước vô biên của Chúa Cha, sau là chiều kích vô biên
sâu thẳm của nhân loại. Người kitô hữu đừng quá sở noi gương ấy của Chúa Giêsu
một cách nghiêm túc. Chính đó là nguồn gốc tinh thần công giáo. Chúng ta là
công giáo trong tư tưởng của mình, khi mà chúng ta từ chối không để cho trí óc
của mình bị giam hãm trong một hệ thống tư tưởng nào, dầu cho đó là một nền
thần học thật hấp dẫn. Vì trí óc con người thật hữu hạn, nó bị bó buộc suy tư
trong lòng một hệ thống này hay hệ thống nọ, nhưng tinh thần công giáo ngăn cản
nó khỏi bị giam cầm trong đó. Người ta được phổ quát trong hành động, khi nào
người ta lo giữ mình luôn được tự do, nghĩa là luôn luôn sẵn sàng cho Thiên
Chúa, ngay cả bên trong những cam kết của mình. Chúng ta là công giáo trong
việc tông đồ này hay việc tông đồ nọ, khi người ta biết lo liên kết nó với “nơi
khác”, tức là đời sống của toàn Giáo Hội. Nguồn gốc tinh thần công giáo là sự
hướng lòng mình, vừa lên với Thiên Chúa vô tận lại vừa về với nhân loại vô
biên, chính là đức ái thần linh vậy.
65. Đau khổ
Cho đến ngày hôm nay, đau khổ vẫn mãi mãi là một vấn đề
nan giải trong số kiếp của con người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại đau khổ?
Phải chăng đau khổ là một hình phạt do tội lỗi của chúng ta… Nếu vậy thì tại
sao những người công chính cũng gặp phải nhiều khổ đau? Hay là Thiên Chúa đã
bất công khi cư xử với chúng ta?
Từ câu chuyện của ông Gióp, chúng ta rút ra được một bài
học đức tin, đó là trong những giờ phút khổ đau, chúng ta đừng vội kêu trách
Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn sự sống, không bao giờ muốn cho con người phải
khổ, phải đau. Rất nhiều khi khổ đau là do con người gây ra cho nhau, vì thiếu
yêu thương, thiếu cảm thông, thiếu giúp đỡ.
Cùng với ông Gióp, là người tín hữu, chúng ta phải có
thái độ đúng đắn đối với Thiên Chúa trong những giờ phút đen tối, cũng như phải
sống Tin Mừng thế nào trong mối liên hệ với những người đau khổ.
Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người,
nhưng đồng thời lại là cơ hội để con người đến với nhau một cách đặc biệt hơn,
bằng sự cảm thông, an ủi và giúp đỡ, bởi vì chúng ta tin rằng Chúa yêu thương
mọi người, cho nên không thể nghĩ rằng đau khổ và bệnh tật là hình phạt của tội
lỗi.
Một quan niệm sai lạc và méo mó về Chúa sẽ dẫn chúng ta
tới một lối sống đạo đức một cách thụ động, bởi vì Chúa để cho những khổ đau
xảy ra, cho nên chúng ta hãy kiên nhẫn đón nhận để đền tội và lập công. Cách
thức suy nghĩ như thế sẽ khiến chúng ta coi nhẹ mối quan tâm cứu chữa những kẻ
bất hạnh. Mọi thái độ cam chịu ở đời này để được Chúa thưởng ở đời sau.
Chúa Giêsu đem Tin Mừng đến cho nhân loại bằng một thái
độ tôn giáo hoàn toàn trái ngược lại với sự cam phận. Thực vậy, thấy bà mẹ vợ
của Phêrô lên cơn sốt, Ngài liền giúp cho bà được khỏi bệnh. Và dân chúng đưa
những kẻ đau yếu đến với Ngài và Ngài đã chữa lành cho họ. Thái độ của Ngài
thật là cụ thể, rõ ràng và đó là thái độ tôn giáo.
Vì tin vào Chúa của tình thương mà phải ra tay cứu chữa
những kẻ đau yếu tật nguyền, cho họ được khỏe mạnh, hầu làm chứng một cách đáng
tin rằng quả thật Chúa yêu thương con người và Ngài đã dùng con người để cứu
chữa con người. Bởi vì khi con người được yêu thương và giúp đỡ, thì dù có bệnh
tật và khổ đau, thì vẫn có thể cảm thấy được hạnh phúc.
Trước những khổ đau bất hạnh của người khác, chúng ta đã
có thái độ như thế nào? Cảm thông và giúp đỡ hay đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ,
cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
66. Cách đáp ứng
Vấn nạn về nỗi đau khổ của nhân loại, đặc biệt là nỗi đau
khổ của người công chính, là một vấn nạn lớn trong Kinh Thánh qua các thời kỳ.
Đây là một vấn nạn mà Gióp đã bị day dứt. Gióp là một người tốt, tuy nhiên, ông
vẫn phải chịu đựng những thảm cảnh khủng khiếp. Hậu quả là ông có một cái nhìn
ảm đạm về cuộc sống.
Nỗi đau khổ vẫn còn là một vấn
nạn lớn. Ngày
nay rất nhiều người có thể có cùng một quan điểm với Gióp. Bạn hãy nghĩ đến tất
cả những người đau khổ vì cảnh nghèo nàn, đói khát, đau yếu, bất công, áp bức,
thảm cảnh… Trong thời Cựu Ước, đau khổ bị coi như là một sự trừng phạt đến từ
Thiên Chúa, vì tội lỗi của con người.
Câu trả lời của Đức Giêsu đối
với vấn nạn về nỗi đau khổ là gì? Người không chấp nhận quan điểm rằng đau khổ là một sự
trừng phạt đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa không làm điều ác. Thiên Chúa luôn
muốn sự tốt lành. Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy khi Đức Giêsu phản ứng
trước nỗi đau khổ thực sự, điều đó chẳng khác gì một câu trả lời đối với câu
hỏi “tại sao có đau khổ?”.
Phản ứng đó rất thực tiễn – như chúng ta nhận thấy trong
bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây, chúng ta nhận thấy đám đông những người bị đau yếu
về thể xác hoặc tâm trí đến vây quanh Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã tự hiến thân
mình cho mỗi người, chữa lành cho từng người một. Người không tự cô lập khỏi
đau khổ của nhân loại. Người đã tự mình trở nên hoàn toàn nhạy cảm, trước những
người bị thương tích và đau yếu.
Nỗi đau khổ là một tình trạng cô độc. Đức Giêsu đã không
ủy mị trước nỗi đau khổ. Người cũng không giảng dạy sự cam chịu như chúng ta
thường làm. Người không thích nhìn thấy con người đau khổ. Đau khổ là một trong
những sự dữ mà Người đến để kháng cự lại. Người có lòng thương xót đối với
những kẻ đau khổ, và mang lại điều tốt lành cho họ. Người xua đuổi những sự dữ
do tội lỗi, sợ hãi, xấu hổ, thất vọng… đã ràng buộc con người.
Vấn nạn đau khổ đã trở nên một cơ hội cho Đức Giêsu – một
cơ hội để chứng tỏ về Thiên Chúa. Bằng cách tự hiến thân cho kẻ bị đau yếu,
Người mặc khải cho chúng ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, trước nỗi đau
khổ của nhân loại.
Nỗi đau khổ của những người khác cũng là một cơ hội cho
chúng ta nữa. Chúng ta không có khả năng chữa lành, nhưng chúng ta luôn có khả
năng chăm sóc người khác. Và chăm sóc chính là một công việc có tác dụng chữa
lành. Chỉ cần hiện diện bên cạnh người đau khổ, tự thân điều đó rất có giá trị
rồi. Nhưng đây không phải là một việc dễ dàng, bởi vì điều đó có nghĩa thay vì
giải tỏa được nỗi đau đớn của người đó, chúng ta phải chuẩn bị chia sẻ nỗi đau
đó.
Chúng ta đến với những người đau khổ với đôi bàn tay
trống rỗng. Chúng ta có thể làm được gì cho họ? Chúng ta có thể sử dụng đôi bàn
tay trống rỗng đó, để an ủi họ. Những người đau khổ mong mỏi rằng chúng ta
không bỏ rơi họ, rằng chúng ta giữ vững lập trường đứng dưới chân thánh giá,
giống như Đức Maria đã làm tại Canvê. Đơn giản chỉ cần có mặt ở đó mà thôi – mà
trong một số chừng mực nào đó, đã là gay go lắm rồi. Điều duy nhất mà người đau
khổ khát khao, chính là thông truyền cho họ sức mạnh của sự ấm áp tình người.
Một người vẫn có thể được lành mạnh, mặc dù không hề được chữa lành.
Còn đối với nỗi đau khổ của
riêng chúng ta thì sao? Đau khổ là một yếu tố không tránh khỏi của tình trạng nhân
loại, mặc dù con đường đau khổ là một con đường chật hẹp và tối tăm. Thật ra
một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta, khi biết rằng chính Đức Giêsu cũng đã đi
trên con đường này, và Người đã đi cho đến tận cùng. Từ khi Đức Giêsu đi qua
con đường đau khổ, thì nó không còn giống như trước nữa. Một ánh sáng rạng rỡ
đã chiếu tỏa trên đó. Người chứng tỏ cho chúng ta rằng mặc dù con đường này dẫn
tới đồi Canvê, nhưng nó không kết thúc ở đó, mà kết thúc ở sự Phục sinh. Do đó,
đối với người Kitô hữu, nỗi đau khổ trở thành một cơ hội để chia sẻ cuộc thương
khó của Đức Kitô, trong niềm hy vọng được chia sẻ trong vinh quang Phục sinh
của Người.
67. Dành thì giờ
Lần kia, có một người đàn ông
đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một
người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?” Người
đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy”.
Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống
với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ
cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không
kiểm soát được cuộc sống của mình. Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào
anh ta, đang dẫn dắt anh đi. Đây không phải là một lối sống hay ho gì.
Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ
không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở
thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy hiểm. Có thể người ta phải
chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp. So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng
đại dễ gặp rủi ro này hơn. Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình. Đây không
thể là cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả. Chỉ bằng cách chú
tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản
thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.
Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay
cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình. Những kẻ đau yếu về thể
xác và tâm trí luôn vây quanh Người. Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức
Giêsu. Người đang có nguy cơ bị hao mòn. Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt
đó, chúng ta vẫn đọc được rằng “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức
dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó”. Đức Giêsu cầu nguyện không
chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.
Nơi hoang vắng làm được gì cho Người? Nơi đó tạo cho
Người khả năng để phục hồi năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người tiếp tục tập
trung. Nhưng nhất là trong suốt những giây phút cô tịch này, Người duy trì và
củng cố được một điều quan trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối tương quan
với Chúa Cha. Đây là bí quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.
Lời cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có được sự hiện
diện của Thiên Chúa mà không cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì. Chỉ khi được
ngồi với sự hiện diện của Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi bên cạnh lò
lửa nồng ấm. Điều này nghe có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành, quả thật rất
khó khăn. Bởi vì ngay khi dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng,
thậm chí có lẽ còn cho rằng đó là giây phút vô dụng nữa. Hầu hết người ta đều
cho rằng bản thân mình có giá trị qua công việc. Họ cho rằng giá trị của con
người tùy thuộc vào ích lợi của người đó. Họ không biết cách đương đầu với sự
nhàn rỗi và tĩnh mịch. hậu quả là cuộc sống của họ có thể bị nông cạn và hời
hợt. Mặt khác, khi nhận chìm mình vào sự thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện
diện của Thiên Chúa, thì những kế hoạch của chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản
thân mình, và chúng ta cảm nhận được giá trị đích thực của mình, không hệ tại ở
sự làm việc, mà ở sự hiện diện.
Cách thế quan trọng nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn
giản là sống với sự hiện diện của Người, để chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà
thôi. Rất nhiều người có khuynh hướng cho là lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng
với công tác xã hội. Tất nhiên, lời cầu nguyện có thể trở thành một điều ích
kỷ, tránh né và trốn tránh. Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể có tác dụng. Công
việc có thể là một cách tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên
Chúa. Và nếu không có lời cầu nguyện, thì người ta có thể dễ dàng trở thành
người hoàn toàn qui hướng về bản thân mình, tự mình hành động, hơn là trông cậy
vào Thiên Chúa.
Chúng ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc.
Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do
tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên tĩnh. Chúng ta cần phải
học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm
niệm. Ra đi cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa
đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận.
Để có được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối
sống trên.
68. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Anh chị em thân mến.
Nhìn những công nhân trong ngành xây dựng: họ chịu khó,
cực nhọc, đổ rất nhiều công sức vào các công trình. Họ làm nên những ngôi nhà
thật đẹp. Họ dùng hết khả năng mình có để tạo nên những nét thẩm mỹ cho đời.
Khi kết thúc một công trình, họ không ở lại đó để nhận những lời khen thưởng,
họ cũng không lưu luyến nơi mình làm việc mà không thể rời xa được. Cũng không
có người nào đòi ở lại hay muốn làm chủ công trình mà mình đã khó nhọc làm nên.
Nhưng mọi người đều vui vẻ ra đi khi kết thúc công việc, để đi đến nơi khác và
tiếp tục công việc của mình và cũng kết thúc rồi lại ra đi, tìm công việc mới.
Đó là nghề của họ, công việc họ phải làm như thế. Họ không bao giờ đòi làm chủ
công trình mà họ làm nên, vì họ biết mình chỉ là người thợ, công việc của họ
chỉ là công việc của người thợ, họ chỉ có trách nhiệm là hoàn thành công việc
của mình thật tốt.
Chúa Giêsu là một người thợ, không chỉ để xây dựng những
ngôi nhà bình thường, nhưng để xây dựng những ngôi nhà tâm hồn cho Thiên Chúa.
Ngài làm việc cả ngày lẫn đêm, Ngài đem niềm vui, đem sức mạnh đến cho nhiều
người. Những ngôi nhà tâm hồn đã bị hư hoại, Ngài đến làm cho nó tốt hơn. Những
ngôi nhà không đứng vững được, Ngài nâng đở dậy và làm cho nó hoạt động. Những
ngôi nhà tưởng chừng như bỏ đi, có bàn tay của Ngài, nó trở nên hữu dụng. Những
ngôi nhà mọi người đều muốn tránh xa vì sợ nguy hiểm, nhưng bàn tay của Ngài
chạm tới, nó trở nên mỹ miều và đạt được mức độ nghệ thuật cần thiết. Khi mọi
người tìm đến để ca tụng, yêu cầu Ngài ở lại thì Ngài lại ra đi. Ra đi để tiếp
tục xây dựng, để làm đẹp cho đời. Ngài không chiếm hữu cũng không đòi hỏi một
sự đáp trả nào. Ngài ra đi để tiếp tục công việc mình phải làm. "Ta phải
ra đi và đến nơi khác để rao giảng, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó".
Một công việc hết sức bình thường của một người thợ,
không có gì khác thường, công việc mà biết bao người của mọi thời đại đều làm
như thế. Nhưng công việc bình thường như thế lại có những người không làm như
thế. Chúng ta những người được mời gọi theo chân Chúa Giêsu, được mời gọi để
làm người thợ như Ngài.
Những người thợ của thời đại mới có khi không rành nghề
cho bằng thợ của ngày xưa, nhưng lại đòi hỏi yêu sách nhiều hơn: nào là phải có
điều kiện thuận tiện, phải được phục vụ chu đáo theo ý riêng, phải được đáp ứng
những nhu cầu cần thiết và phải làm sao cho mọi người biết đến nữa chứ. Nếu cứ
âm thầm lặng lẻ mà làm việc thì những người thợ của ngày hôm nay không thể chấp
nhận được.
Nhu cầu được đáp ứng, nhưng người thợ không thể hoàn
thành được công việc của mình, mà làm cho mọi người phải thất vọng vì tay nghề
quá kém mà lại thiếu chữ tín.
May thay cũng còn có những người thợ hoàn thành tốt công
việc của mình. Nhưng khi mọi người vui mừng tán thưởng, vây quanh chúc tụng,
thế là anh ta chiếm ngay công trình mà mình vừa hoàn thành làm của riêng, không
muốn rời xa nó. Càng không muốn ra đi để tiếp tục công việc mà nghề nghiệp đòi
buộc. Người thợ đã bỏ nghề nghiệp của mình, giờ đây anh chỉ còn biết sống trong
mơ, xa rời thực tế, một ngày nào đó anh phải trả giá cho giấc mơ của mình.
Cũng có được những người thợ của Chúa Kitô trong thời đại
mới nầy. Họ noi gương Ngài thật chính đáng, nhìn thấy công việc mình phải làm,
chu toàn thật tốt, đem niềm vui cho người và cho đời. Nhưng điều quan trọng là
họ biết ra đi, biết tiếp tục công việc cần thiết mà nhiều người đang chờ đợi
họ.
Chúng ta là những người thợ của ngày hôm nay, hiện tại
chúng ta đang làm việc như thế nào? Là những người khó khăn hay thắc mắc không
chấp nhận được hoàn cảnh hiện tại, hay chúng ta đang sống trong giấc mơ của
những thành công và không muốn từ bỏ những gì mình đang có. Nếu như thế chúng
ta không phải là người thợ chân chính.
Nếu trong đời sống hằng ngày mà biết chu toàn trách
nhiệm, chấp nhận hoàn cảnh sống, biết tìm mọi cách để đem niềm vui cho đời và
cho người với tất cả những gì có thể làm được. Đó là chúng ta đang bước chân
theo Chúa Giêsu, biết ra đi rao giảng Tin Mừng.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn can đảm, để mỗi
người nhìn thấy được những việc cần phải làm và thi hành trọn vẹn.
69. Nơi hoang vắng
Một người đàn ông kia có thói
quen tự mình ra đi, vào một khu rừng hẻo lánh. Ngày kia, vì tò mò muốn biết anh
ta đi đâu, nên có người bạn đã đi theo anh vào rừng. Khi đuổi kịp anh ta, người
bạn đó thấy anh đang ngồi yên lặng trên một khúc gỗ.
Người bạn đó hỏi: “Anh đang làm
gì thế?”
Anh trả lời “Tôi đang cầu
nguyện”.
“Nhưng tại sao anh phải đi đến
nơi xa xôi này để cầu nguyện?”
“Bởi vì tôi cảm thấy là Thiên
Chúa hiện diện ở đây”.
“Nhưng phải chăng chúng ta có
thể tìm thấy Thiên Chúa ở tất cả mọi nơi, và phải chăng ở bất cứ nơi đâu cũng
chỉ có một Thiên Chúa đó sao?”.
“Thiên Chúa vẫn thế, nhưng tôi
thì không”.
Mặc dù chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa, và cầu nguyện
với Người ở bất cứ nơi nào và tất cả mọi nơi – trong nhà bếp, ngoài đường phố,
trên xe hơi, tại nông trại, ở nơi làm việc – tuy nhiên, thật là một ý tưởng
hay, khi có một nơi đặc biệt – bờ biển công viên, núi non, nhà thờ, hoặc ở bất
cứ nơi đâu – mà tại đó, đôi khi chúng ta có thể rút lui khỏi những bận rộn của
cuộc sống. Tại những nơi này, chúng ta cảm thấy rằng dường như Thiên Chúa gần
gũi hơn và thân thiện hơn. Toàn thể bầu khí ở đó dường như tràn ngập sự hiện
diện thần thánh của Người. Thiên Chúa nói với chúng ta qua làn gió thổi, qua âm
thanh của giòng suối, qua tiếng chim hót, nơi nét đẹp của một bông hoa dại,
trong chính sự thinh lặng.
Tại những nơi này, chúng ta cũng trở nên khác hẳn. Chúng
ta trở nên trầm tĩnh hơn, yên lặng hơn, và do đó, chúng ta cởi mở hơn với những
gì mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, trong tất cả mọi lúc và tất cả mọi nơi.
Quả thật là rất tốt, nếu chúng ta có được một nơi đặc
biệt, một nhà nguyện nhỏ bé, một không gian của riêng mình, tách biệt khỏi tất
cả mọi chuyện khác. Một nơi như vậy đặc biệt hữu ích trong việc yên lặng suy
niệm, và nói chuyện với Thiên Chúa từ tận thẳm sâu tâm hồn mình, trong một
tương quan giữa cá nhân với cá nhân. Ngay cả khi chỉ được ngồi trong một căn phòng
đặc biệt cũng là một điều tốt đẹp. Tại nơi thần thánh này, bạn không chỉ tìm
thấy Thiên Chúa, mà còn tìm thấy chính mình nữa. Khi quá bận rộn, quan hệ của
chúng ta với bản thân mình trở nên lỏng lẻo. Người ta không thể nhìn thấy khuôn
mặt của mình, khi soi mình xuống những giòng nước bị khuấy động.
Mặc dù người ta có nhận ra điều đó hay không, thì tất cả
mọi người vẫn đều cần đến một không gian như vậy. Nếu muốn có một cuộc sống nội
tâm, chúng ta tuyệt đối cần đến khoảng không gian đó. Khi càng đi vào nơi cô
tịch, chúng ta càng được bình an, dù với bất cứ điều gì xảy ra. Điều tốt nhất
chính là nơi đó giúp cho chúng ta tìm thấy, hoặc tạo ra được một không gian
thánh thiêng, ngay bên trong con người của mình. Ngay cả trong khi duy trì
tương quan với thế giới bên ngoài, thì chúng ta vẫn có thể sống từ trung tâm
đó.
Để được thư giãn, chúng ta cần có một không gian – một
không gian của riêng mình, một nơi cô tịch mà tại đó, chúng ta có thể thực sự
có quan hệ với con người sâu xa nhất của mình. Nếu chúng ta không có được điều
đó, nếu không gian của chúng ta bị tước đoạt hoặc xâm phạm, nếu chúng ta chịu
sức ép, hoặc có quá nhiều việc phải làm, thì chúng ta có nguy cơ bị rơi vào sự
hỗn loạn. Đây là điều mà Đức Giêsu đang làm, khi Người thức dậy sớm, và đi đến
một nơi hoang vắng để cầu nguyện.
70. Thăm viếng
Kinh nghiệm của những lần đi
thăm viếng bệnh nhân tại nhà thương hồi còn ở Đàlạt cho tôi thấy: Nhiều lúc,
mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự buồn, từ chuyện gia
đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau ốm. Giải tỏa được
những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được niềm vui sống. Thì
ra điều họ cần thiết đó là sự chia sẻ và cảm thông.
Từ kinh nghiệm kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay: Chúa Giêsu chữa lành nhiều bệnh nhân, với những chứng bệnh khác
nhau. Sở dĩ Ngài làm được điều ấy vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng. Còn
với chúng ta thì sao?
Dĩ nhiên chúng ta không thể làm phép lạ, không thể cứu
chữa họ. Tuy nhiên chúng ta có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa Giêsu,
cũng như vào việc xoa dịu phần nào nỗi đớn đau của họ, bằng cách thăm viếng an
ủi họ. Đây cũng là điều Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu
chúng ta thực hiện được, hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta.
Chúng ta còn nhớ, trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài
phán với những người bên hữu: “Hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn
cho các ngươi từ thuở đời đời, vì khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát
các ngươi đã cho uống, khi Ta mình trần các ngươi đã cho mặc, khi ta đau yếu và
bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm. Vì khi các ngươi làm những việc ấy cho một
trong những kẻ hèn mọn nhất, thì đó là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”
Trong Cựu Ước chúng ta cũng thấy như thế: Đừng chậm trễ
trong việc thăm viếng người bệnh, vì nhờ đó mà con được quý mến.
Tại gia đình hay tại bệnh viện, chúng ta đều có thể xoa
dịu những đớn đau tinh thần, cũng như thể xác của họ. Vậy thì chúng ta làm phải
những gì cho các bệnh nhân? Tôi xin thưa: Hãy lắng nghe họ tỏ lộ tâm sự với một
thái độ chia sẻ và thông cảm.
Đây quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta
phải kiên trì và chịu đựng, nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi
nghe lại nhiều lần. Ngoài ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin vui,
một câu chuyện lượm lặt, một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm sóc.
Tuy nhiên, chúng ta phải chuẩn bị trước để biết mình sẽ
nói những gì và sẽ nói như thế nào? Ngoài ra chúng ta còn có thể mang theo
những quà tặng như trái cây và các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân phần nào
trong việc bình phục. Tuy nhiên khi chọn quà tặng, chúng ta cũng cần phải tế
nhị, chọn quà tặng nào phù hợp với sở thích hay nhu cầu của bệnh nhân. Những
món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường là những món quà quý giá. Ngoài ra,
một cú điện thoại, một bức thư thăm hỏi cũng sẽ giúp cho bệnh nhân rất nhiều.
Trong phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ
những người đau yếu như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm.
71. Mầu nhiệm đau khổ
(Suy niệm của Lm. Giuse Maria Lê Quốc Thăng)
Tin mừng Mc 1: 29-39: Thánh Mc hôm nay giúp chúng ta sống với Chúa
Giêsu trong mọt ngày làm việc của Người ở Capharnaum. Người rao giảng, chữa
lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng
cầu nguyện.
Một
trong những vấn nạn nhân sinh mà chúng ta đi tìm kiếm cách vô ích câu trả lời
đó là vấn nạn đau khổ. Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây đau khổ luôn là một khắc
khoải cho nhân loại qua mọi thời. Đối với Kitô hữu, đau khổ còn là một huyền
nhiệm không chắc làm sáng tỏ được, thế nhưng, dưới ánh sáng của Tin Mừng vấn đề
sẽ được khai tỏ. Thái độ của Kitô hữu trước đau khổ được mời gọi hãy ứng xử
theo khuân mẫu của Đức Kitô: không phẫn uất, cũng không thất vọng nhưng nhẫn
nhục đón nhận và phó thác hoàn toàn trong bàn tay của Chúa Cha. Làm cho việc
chịu đựng đau khổ trở nên có ích.
I. Khám Phá Sứ Điệp Tin Mừng: Mc 1, 29-39
Bài
tin Mừng này liên kết 3 bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành mẹ vợ phêrô (
cc. 29-31); bản tóm tắt việc Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ và
dân chúng tuân đến với Người ( cc. 32-34); Phần chuyển tiếp, Chúa Giêsu cầu
nguyện với Chúa Cha, hoàn thành công việc tại Capharnaum để chuyển đến tiếp tục
thi hành sứ mạng ở nơi khác ( cc. 35-39).
1.
Chữa lành cho bà mẹ vợ Phêrô: Với người Do Thái, cảm sốt thường được xem như là một
hình phạt của thiên Chúa, đi theo sự kiệt sức ( Đnl 28, 22, 32, 24; Lv 26, 16)
hoăc là dịch bện. Về sau, người ta gán cảm sốt cho mọt con quỉ. Trong nhãn giới
này, phép ;ạ chữa lành mẹ vợ ông Phêrô minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai
mà Isaia đã loan báo, Người đến giải thoát con người khỏi đau khổ, hậu quả của
tội lỗi, của sự ác và của ác thần. ( Is 26,19; 29,18; 33,3; 35,5). Chúa Giêsu
lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Mc dùng cùng một động từ để nói về việc Chúa
Giêsu "đã chỗi dậy" (16,6). Dưới ánh sáng Phục sinh cử chỉ chữa lành
này của Chúa Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng: Với cuộc phục sinh, Chúa Giêsu
được suy tôn là " Đức Chúa và là Đấng Kitô" ( Cv 2, 36) nghĩa là Đấng
qua từng ngày, từng thời vẫn tiếp tục cứu chữa loài người khỏi tội lỗi, tiết
tục giải thoát con người khỏi sự chết. Sau khi được chữa lành bà mẹ vợ ông
Phêrô chỗi dậy tiếp tục phục vụ mọi người. Chi tiết này mời gọi người Kitô hữu
sau khi được thanh tẩy phải tiếp tục sứ vụ phục vụ mọi người. Đức Kitô không
ngừng giải thoát các tín hữu khỏi mọi sự dữ để tất cả tiếp tục có sức mà phục
vụ công trình cứu độ của Người qua việc phục vụ anh chị em mình.
2.
Người chữa lành nhiều chứng bệnh khác nhau và xua trừ ma quỉ: Theo đề nghị của nhiều nhà chú
giải Kinh thánh thì các phép lạ của Chúa Giêsu được phân thành hai loại 'phép
lạ biểu lộ lòng thương xót' và 'phép lạ chiến đấu' ( E.Trocme, La Formation de
L'Evangile de Marc, Paris, 1963, P. 123). Chữa bệnh được coi như là phép lạ
biểu lộ lòng thương xót và trừ quỉ có thể coi như là phép lạ chiến đấu. Mc luôn
nhấn mạnh điều này( 1, 23-29). Tuy nhiên, trong tư tưởng của Mc mọi việc chữa
lành đều tượng trưng cho một cuộc chiến thắng ma quỉ ( tc. 1, 39; 3, 15; 6,7).
Từ phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra trong nhà chỉ vài người chứng
kiến cho đến chiều tối thì cả thành tụ họp lại trước cửa nhà, cho thấy, một sức
thu hút kỳ lạ của Chúa Giêsu và cũng biểu lộ một nỗi khát khao của bao người
mong được cứu chữa.
3.
Đến những nơi khác để rao giảng: Sứ vụ của Chúa Giêsu không dừng lại một nơi. Các môn đệ
và mọi người tiếp tục đến tìm Người, khẩn cầu Người, nhưng Người cho thấy còn
phải đi các lành, các vùng khác. Người đi khắp vùng Galilê giảng dạy, chữa lành
bệnh tật và xua trừ ma quỉ. Vẫn chỉ là một công việc nhưng được thực hiện ở
nhiều nơi. Giai đoạn mở đầu sứ vụ công khai của Chúa Giêsu kết thúc, Người bắt
đầu sứ mạng loan báo Tin Mừng của mình cho mọi người. Sau khi Phục Sinh, trước
khi về trời, Người cũng trao phó chính công việc ấy cho các tông đồ với lệnh truyền
sai đi khắp tứ phương thiên hạ ( 16, 15-18). Công trình cứu độ của Chúa phải
được thực thi cho muôn dân nước, không chỉ dành riêng cho một dân tộc, một quốc
gia hay một nhóm người nào.
II. Chiêm Ngắm Chúa Giêsu
Bản
văn tin mừng theo Thánh Mc hôm nay giúp chúng ta sống với Chúa Giêsu trong mọt
ngày làm việc của Người ở Capharnaum. Người rao giảng, chữa lành bệnh tật, xua
trừ ma quỉ nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện. Một ngày
làm việc của Người với biết bao vất vả nhọc nhằn nhưng lại xoá tan đau khổ cho
người khác. Theo các nhà chú giải Kinh Thánh thì bài đọc I ( G 7, 1-4.6-7) là
phần nhập đề cho việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ của Chúa Giêsu.
"Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất". Bệnh tật, quỉ ám
… là những hiện thân cụ thể của đau khổ. Chúa Giêsu đến giải thoát con người
khỏi những đau khổ đó. Chúng ta cùng chiêm ngắm Người là Đấng Giải thoát con
người khỏi đau khổ. Người giải thoát bằng chính nỗ lực đón nhận khổ đau của
Người. Cao điểm của cuộc giải thoát này chính là cuộc thương khó tử nạn của
Người.
III. Gợi Ý Bài giảng
1.
Chúa Giêsu Đấng Giải Thoát khổ đau của nhân loại: Bản văn Tin Mừng hôm nay ghi
lại một ngày sống vất vả của Chúa Giêsu dành cho mọi người: Người giảng dạy,
chữa bệnh và xua trừ ma quỉ cho mọi người từ sáng tới tối. Người tất bật vất vả
vì lòng thương người, vì muốn giải thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật
của ma quỉ. Ẩn sâu dưới những công việc ấy là hình ảnh của một Đấng Cứu Thế đến
để giải thoát nhân loại. Hình ảnh của câu chuyện Tin Mừng là dấu chỉ cho thấy
thời đại cánh chung đã đến nơi con người Chúa Giêsu. Đau khổ là một vấn nạn,
một huyền nhiệm không dễ gì giải thích thấu đáo; không dễ gì đón nhận. Chỉ có
niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới có thể giúp cho con
người nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ trong cuộc sống và có sức mạnh để
đón nhận nó. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng
Người đến mang lại cho đau khổ một ý nghĩa siêu nhiên đích thực: Người đến giải
thoát con người không phải khỏi mọi đau khổ, nhưng là khỏi phải chịu đau khổ
cách vô ích. Như Người đã đón nhận đau khổ, đến độ hy sinh đến chết để giải
thoát con người để ban ơn cứu độ cho con người. Sự hy sinh của Người làm nên
giá cứu đời.
2.
Theo Chúa sử dụng thời gian cách có ích: Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng này, được mô tả là một
con người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ mọi người. Từ sáng đến tối
lúc nào cũng tấp nập người bệnh, người bị quỉ ám đến xin cứu chữa. Một ngày
sống của Người trôi qua thật hữu ích cho tha nhân. Người sử dụng thời gian thật
hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha nhân. Từ sáng sớm Người đã vào
nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa là để đặc biệt kiến tạo sự thân mật với
Chúa Cha. Những thành công, những đám đông người cần đến Người cứu giúp vẫn
không làm Người sao lãng việc cầu nguyện, việc thực thi thánh ý Chúa Cha. Chính
nhờ cầu nguyện với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng ý Chúa Cha. Gắn bó
với Chúa Cha là sức mạnh để Người thực hiện thành công sứ vụ mà Chúa Cha trao
phó, đành rằng với tư cách là Thiên Chúa Người có thể làm mọi sự. Theo gương
Chúa Giêsu, mỗi người cũng hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu
ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa;
hãy biết sử dụng thời gian cách hữu ích cho tha nhân qua việc biết sống yêu
thương và phục vụ nhau, biết chu toàn trách nhiệm của mình.
IV. Lời Cầu Chung
* Lời Mở: Anh chị em thân mến. Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến
trần gian để cứu độ chúng ta. Trong tâm tình tri ân cảm mến, chúng ta cùng dâng
lời nguyện xin.
1. Giáo hội có sứ mạng tiếp nối
Chúa Giêsu xoa dịu khổ đau của nhân loại. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các công
trình của Giáo Hội luôn mang lại lợi ích thiết thực cho con người và thế giới
hôm nay. Xin cho Giáo Hội luôn can đảm lên tiếng bênh vực người nghèo, bênh vực
công lý và bênh vực sự sống.
2. Ngày nay biết bao người vẫn
đang sống trong khổ đau nghèo đói cả tinh thần lẫn vật chất. Chúng ta cùng cầu
nguyện cho các nhà lãnh đạo quốc gia và mọi người biết thành tâm thiện chí sống
tình bác ái để cùng nhau xây dựng một nền hoà bình, thịnh vượng và cuộc sống ấm
no cho dân nước.
3. Chúa Giêsu đi khắp miền Galilê
rao giảng, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ. Ngày nay, Người sai mọi Kitô
hữu tiếp nối Người đi vào mọi lãnh vực của cuộc sống để đưa tình thương cứu độ
đến với mọi người. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người trong cộng đoàn chúng
ta luôn biết sống yêu thương, quan tâm đến anh chị em nghèo khổ, bất hạnh chung
quanh.
* Kết Nguyện: Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Chúng con cảm tạ
Chúa đã yêu thương giải thoát chúng con khỏi ách đau khổ của tội lỗi và sự
chết, nhờ cuộc thương khó, tử nạn và Phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu con
Chúa. Chúng con xin Chúa thương ban Thánh Thần an ủi, nâng đỡ chúng con trên
đường đời đầy gian truân, thử thách để tất cả luôn vững vàng sống trung thành
với niềm tin của mình. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
72. Đau khổ
Sơ Maureen Cahill dòng Thánh
Mân Côi, làm việc truyền giáo trong một bệnh viện ở phía bắc Transvaal, Nam Phi
gửi cho tác giả cuốn “Story Power”, linh mục James A. Feehan một dụ ngôn Sơ đặt
tên là “Dụ Ngôn Cây Viết Chì”.
Thực sự chúng ta không biết
được ai là người đã làm nên cây bút chì. Nhưng sau khi phát minh ra cây viết
chì rồi, người chủ đã ngỏ lời với sản phẩm của mình như sau: Tôi muốn các bạn
nhớ đến bốn điểm:
1. Sự tốt lành hay phẩm giá
đích thật nằm ở bên trong con người của bạn.
2. Bạn sẽ cần phải được vót cho
nhọn, gọt dũa đi khi bạn sống trong cuộc đời.
3. Bạn sẽ được sử dụng trong
tay một người nào đó, nếu không tự bạn, bạn sẽ chẳng làm nên cái tích sự gì cả!
4. Người ta sẽ yêu cầu bạn phải
để lại ít nhất là một dấu vết gì đó.
Đời
sống con người giống như cây viết chì. Mẹ Têrêsa Calcutta đã áp dụng trường hợp
thứ ba cho Mẹ khi Mẹ nói: “Tôi là cây viết chì trong bàn tay của Thiên Chúa”.
Còn tác giả cuốn sách “Story Power”, cha Feehan áp dụng dụ ngôn này trong thánh
lễ trên đài phát thanh cho những người ốm đau. Cha đã áp dụng sự đau khổ của
con người vào trường hợp thứ hai của cây viết chì, là phải được thanh tẩy,
chuốt nhọn bởi những khổ đau trong cuộc sống. Cây viết chì mà không bị vót,
chuốt, gọt, dũa thì không thể nào sinh lợi cho người khác được. Ngạn ngữ Pháp
có lời khuyên như sau:
Con
người là kẻ học nghề,
Mà
thầy là nỗi ê chề đớn đau.
Không
ai hiểu nổi mình đâu,
Nếu
chưa từng bước nhịp sầu mênh mông.
Trong
các bài đọc hôm nay có đau đớn và cũng có chữa lành. Có hai người chịu đau khổ
vì ốm đau bệnh tật và cũng có hai người được chữa lành. Cả hai đều giống nhau.
Một người là ông Gióp và người kia là bà nhạc mẫu của Phêrô. Cả hai đều gửi cho
chúng ta một cái sứ điệp giống như sứ điệp trong dụ ngôn của cây viết chì. Nói
về đau khổ và phục vụ. Họ tỏ cho chúng ta thấy rằng qua đau khổ họ thông cảm và
hiểu biết tha nhân, rồi dẫn tới yêu thương và phục vụ tha nhân.
Bài
đọc thứ nhất đưa ta vào những đau khổ của ông Gióp phải chịu đến độ hầu như
tuyệt vọng: “Xin Ngài nhớ cho cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng
thấy hạnh phúc bao giờ”. Ông tuyệt vọng lắm rồi! Ông mất tất cả mọi sự. Tài
sản, của cải, gia đình, uy tín và sức khoẻ. Bạn bè nói rằng ông bị thử thách vì
ông đã phạm tội. Vợ ông xúi ông nguyền rủa Thiên Chúa mà chết cho rồi! Nhưng
ông Gióp lại là một ứng viên tuyệt vời trong tuyệt vọng. Ông nhấn mạnh rằng ông
đã không hề phạm tội, không hề xúc phạm tới Thiên Chúa. Nhưng ông không biết
tại sao ông phải đau khổ. Đau khổ là một mầu nhiệm đối với ông. Ông trở thành
con người của hy vọng. Ông vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa mặc dù đời ông có quá
nhiều đau khổ: “Thiên Chúa ban cho, Ngài lại lấy đi, xin chúc tụng danh Ngài”.
Ông không hiểu, nhưng vẫn tin tưởng, và sau cùng ông đã nhận ra tình yêu thương
nhân hậu của Thiên Chúa.
Một mẩu chuyện xứ Phi Châu kể
lại rằng một người Ả Rập sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai
trên cát ở sa mạc. Một người bạn hỏi anh ta: “Bạn làm gì đó?” Anh trả lời: “Tôi
nghe sa mạc khóc vì nó rất muốn được là một khu vườn”.
Không
ai thích đau khổ, ngay cả sa mạc cũng mong muốn thoát khỏi khổ đau. Câu chuyện
này làm tôi nghĩ đến cuốn “Đường Hy Vọng” của Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê
Nguyễn văn Thuận. Ngài viết cuốn sách nổi tiếng này vào năm 1975, ngay sau khi
bị quản thúc, bắt đầu cho 13 năm tù, trong đó 9 năm bị biệt giam. Sau này ngài
viết thêm “Đường Hy Vọng dưới Anh Sáng của Lời Chúa và Công Đồng Vatican II”
(1979), “Những Người Lữ Hành trên đường Hy Vọng” (1980), cuốn “Chứng Từ Hy
Vọng” đã được nhà xuất bản Pauline Books & Media ở Hoa Kỳ xuất bản. Ngài
được thế giới biết đến như một “Chứng nhân Tình Yêu và Hy Vọng”. Trong dịp Đại
hội Đệ Tam Thiên Niên Kỷ 2000, ngài kể lại với các linh mục, tu sĩ và giáo dân
về những năm tù đày của ngài:
“Trong những năm khốn đốn bị
biệt giam, những năm đau buồn nhất trong đời tôi, tôi chỉ nhìn thấy hai người
lính canh và họ được lệnh không được nói với tôi một lời nào. Tôi cảm thấy bị
mọi người bỏ quên, tôi thấu suốt nỗi đau khổ tuyệt đỉnh của Chúa Giêsu, cô đơn
trên thánh giá. Tôi nghĩ đến những giáo dân, những tín hữu, đến các linh mục,
tu sĩ, chủng sinh đang ở ngoài kia, họ cũng bị ruồng bỏ, bị đau khổ tù đày và
bị bách hại. Trong sâu thẳm của yếu đuối, tinh thần lẫn thể xác, tôi nhận được
ân sủng của Đức Mẹ Maria.
Tôi không được phép dâng thánh
lễ, nhưng tôi đã đọc hàng trăm kinh Kính Mừng, và Đức Mẹ đã ban cho tôi sức
mạnh kết hợp với Chúa Giêsu trên thánh giá. Tôi cảm thấy Chúa Giêsu đã cứu
chuộc nhân loại khi Ngài cô đơn trên thánh giá, trong sự bất lực hoàn toàn.
Các người lính canh dần dần
hiểu biết tôi. Chúng tôi trở thành bạn hữu. Họ đã giúp đỡ tôi. Họ cho phép tôi
làm một cây thánh giá bằng gỗ. Tôi đã giấu trong một cục xà bông. Tôi dùng một
đoạn dây điện để làm dây đeo và họ đã cho tôi mượn chiếc kềm nhỏ để làm và họ
còn làm giúp với tôi nữa. Chiếc thánh giá mà tôi mang đây làm bằng gỗ và dây
điện từ nhà tù. Chiếc thánh giá này luôn luôn nhắc nhở: Hãy yêu thương mãi! Hãy
tha thứ mãi! Sống với hiện tại để truyền bá Tin Mừng! Mỗi giây phút sống là để
yêu mến Thiên Chúa”.
Đức cố Hồng Y Phanxicô Xaviê
Nguyễn văn Thuận, một nhân chứng của tình yêu và hy vọng trong đau khổ chính là
hình ảnh của “Dụ Ngôn Cây Viết Chì”.
Bài Phúc
âm đưa ta vào hoàn cảnh của gia đình Phêrô – một gia đình đang có việc lo buồn.
Maccô cho ta biết, “Lúc ấy bà nhạc mẫu của Simon cảm sốt nằm trên giường”. Theo
William Barclay, đối với người Do Thái thời đó, bệnh là do ma quỷ, và họ gọi
bệnh cảm sốt này là “talmud”. Để chữa bệnh này, họ dùng một con dao bằng sắt,
cột một nắm tóc vào con dao, rồi đưa vào bụi gai, đang khi đọc một câu bùa chú.
Cách chữa này mang một ý nghĩa khác hơn là nhiệt độ của cơ thể nóng lên vì
bệnh. Nó có nghĩa như trừ quỷ trừ ma. Do đó, bà nhạc mẫu của Simon bị bệnh,
đồng nghĩa với sự hiện diện của sự dữ trong gia đình – sự hiện diện của ma quỷ
nơi người đàn bà. Trong hoàn cảnh bi đát này, Chúa Giêsu ra tay cứu chữa:
“Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài”.
Từ ngữ
của đoạn Phúc âm này, đã được Máccô chọn lựa rất cẩn thận. Từ “egeiro” có nghĩa
là “nâng lên” diễn tả việc Chúa Giêsu nâng bà lên giống như sự sống lại của
Chúa Giêsu từ cõi chết, được nâng lên đưa về trời. Sau khi được nâng lên rồi,
bà bắt đầu phục vụ các ngài. Từ “diekonei” có nghĩa là “phục vụ”, nguồn gốc của
chức phó tế “diaconatus”, mà Tân ước dùng để diễn tả chức vụ phó tế.
Bà đã
được Chúa Giêsu gọi cũng như Ngài đã gọi Phêrô, Anrê, Gioan... và các môn đệ
khác. Chỉ trong một giây phút được chữa lành, bà đã tin tưởng và nhận biết
Chúa, rồi bà bắt đầu làm việc phục vụ người khác ngay. Người bệnh được chữa
lành, và được gọi trở nên thừa tác viên đi thoa dịu, an ủi khổ đau, cực nhọc
của người khác. William Barclay đã trích dẫn một câu châm ngôn trong những gia
đình người Scottish như sau: “Được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu đã cứu chữa
chúng ta. Vậy chúng ta phải đi giúp đỡ người khác.
Chuyện cổ Trung Hoa kể câu
chuyện về một người đàn bà có người con trai duy nhất đã chết. Trong đau thương
buồn khổ, bà đến năn nỉ vị thánh hiền: “Xin ngài hãy dạy cho con biết những lời
cầu khấn, hay những câu thần chú nào làm cho con trai của con được sống lại?”
Thay vì lý luận dài dòng với bà, vị thánh hiền trả lời: “Bà hãy đi tìm cho tôi
một hạt rau cải từ một gia đình chưa từng bao giờ biết buồn khổ là gì. Tôi sẽ
dùng nó làm thuốc chữa cho con bà sống lại”.
Người đàn bà bắt đầu đi lang
thang khắp nơi tìm kiếm hạt cải kỳ diệu đó. Trước hết, bà đến gõ cửa một lâu
đài vô cùng sang trọng: “Tôi đang đi tìm kiếm một nhà chưa bao giờ biết buồn
khổ là gì. Xin cho hỏi có phải nhà này không ạ? Chủ nhà trả lời: “Thưa bà chắc
chắn là bà đã đi lộn nhà rồi! Chồng tôi đang hấp hối nằm trên giường bệnh. Con
trai tôi bỏ nhà ra đi. Tôi sợ rằng tôi sẽ sống trong cô đơn góa bụa!”
Nghe xong bà nói: “Ai là người
may mắn hơn tôi để có thể giúp đỡ cho những người bất hạnh đáng thương này, cho
dù tôi cũng có những rủi ro của riêng mình?” Sau đó, bà ở lại để an ủi chủ nhà
trước khi lên đường đi tìm cho ra một nhà chưa bao giờ biết buồn khổ là gì.
Nhưng bất cứ nơi nào bà ghé vào, cho dù là lâu đài sang trọng, dinh thự giàu có
đến đâu, bà cũng đều nghe kể về những chuyện buồn bã và bất hạnh. Cuối cùng, đi
tới đâu bà cũng đều khuyên răn, an ủi và khích lệ người khác cho tới nỗi chính
bà đã trở nên một thừa tác viên phục vụ cho những người buồn phiền đau khổ.
Trong công tác mục vụ này bà đã quên việc đi tìm hạt cải kỳ diệu làm thuốc cứu
chữa con bà. Bà quên đi nỗi buồn của chính bà.
Khi
nào bạn đau khổ, chán nản, tuyệt vọng... hãy nhớ rằng Chúa Giêsu cùng hiện diện
với bạn cũng như Thiên Chúa ở bên cạnh ông Gióp. Hãy nhớ rằng Chúa Giêsu sẽ
không bao giờ bỏ rơi bạn. Hãy nhớ rằng bạn đang được yêu thương. Hãy tiếp tục
tin tưởng, hy vọng, yêu thương và phục vụ.
Khi
nào bạn đau ốm về thể xác, tinh thần hay tình cảm, hãy cởi mở tâm hồn ra đến
với Chúa Giêsu. Ngài sẽ chữa lành bạn, nắm chặt lấy tay bạn và giúp bạn đứng
dậy. Ngài sẽ chữa lành bạn như Ngài đã chữa bệnh cho bà nhạc mẫu của Phêrô. Hãy
lắng nghe tiếng Ngài mời gọi, bước theo Ngài và phục vụ tha nhân, vì ơn sủng
của Ngài sẽ ban xuống đầy đủ cho bạn.
73. Chúa Nhật 5 Thường Niên
CHÚA GIÊSU, NIỀM HY VỌNG CỦA LOÀI NGƯỜI.
Ở một phòng thí nghiệm, người
ta thử 10 con chuột cho lội trong hồ kiếng không chỗ bám. Lúc đầu cho năm con
vào, khoảng 8 giờ sau thì chúng chìm. Họ cho một đợt 5 con kế tiếp vào, khoảng
7 giờ thì vớt ra cho nghỉ. Sau đó lại cho vào hồ tiếp. Ngạc nhiên thay, chúng
lội suốt 20 giờ mới bắt đầu chìm. Lý do nào mà chúng có sức lội hơn gấp đôi đồng bạn? Các
nhà khoa học nghiệm ra rằng: sở dĩ chúng lội được như vậy là vì chúng có niềm
hy vọng nhờ vào kinh nghiệm được cứu thoát lần trước. Cuộc sống của chúng ta
cũng vậy. Sở dĩ chúng ta vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống là nhờ
biết hy vọng. Ai không có hy vọng thì sẽ bị đau khổ và thử thách của cuộc sống
nhấn chìm.
Người
kitô hữu của chúng ta có niềm hy vọng rất lớn lao: niềm hy vọng này không phải
hảo huyền, tạm bợ, không phải hy vọng nơi vật chất mau qua chóng tàn nhưng là
hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng rất yêu thương chúng ta và đã hy sinh mạng sống vì
chúng ta. Cuộc sống trần thế này luôn có những khó nhọc, cam go theo từng giai
đoạn, theo từng hoàn cảnh của con người. Chẳng hạn: trẻ phải tập đi vất vả,
phải đến trường, lo học hành, lớn phải lao động cực khổ để có miếng cơm manh áo
để lo cho gia đình và xã hội. Đó là chưa nói đến những khó khăn đột xuất khác.
Trong
bài đọc I, chính thánh Gióp cũng phải chịu nhiều đau khổ, cuộc sống con người
cũng chẳng phải là là thời khổ dịch sao, số phận ê chề, ngày đời thấm thoát như
thoi đưa, cuộc đời con người chỉ là hơi thở chẳng thấy hạnh phúc. Niềm hạnh
phúc thánh Gióp trông chờ chỉ có được nơi Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đem lại
niềm hy vọng cho dân Israel. Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa hứa ban để cứu
nhân loại. Cụ thể trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đi đến đâu là đem tin mừng và
cứu chữa tới đó. Vừa mới giảng dạy và trừ quỷ ở hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu
đến nhà Phêrô để chữa cho bà mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt. Ngày hôm đó, vì là
ngày Sabat nên ngườI Do thái nghỉ ngơi theo luật định. Nhưng khi vừa hết ngày
Sabat ngườI ta lạI tuôn đến với chúa giêsu, đem theo mọi kẻ ốm đau bệnh tật và
những kẻ bị quỷ ám để Chúa Giêsu chữa lành và giải thoát họ.
Sáng
sớm hôm sau, khi Đức Giêsu còn đang cầu nguyện thì người ta đã kéo đến tìm,
nhưng Chúa Giêsu biết nhiệm vụ của mình là đem Tin mừng, đem niềm hy vọng, niềm
hạnh phúc đến cho mọi người nên Ngài không ở lại một chỗ đó mà tiếp tục đi đến
những hội đường khác ở những miền khác nữa.
Trong
bài đọc II thánh Phaolô rao giảng Tin mừng, đem niềm hy vọng và sự sống cho thế
giới. Niềm hy vọng và sự sống đó phát xuất từ Đức Kitô. Ngài không chỉ đem hạnh
phúc cho con người ở đời này mà còn cho cả đời sau nữa. Vì Tin mừng đó mà thánh
Phaolô sẵn sàng hy sinh tất cả để ngườI ngườI được hạnh phúc.
Chúng
ta là người kitô hữu, chúng ta có đặt hết niềm hy vọng đời mình vào Chúa Giêsu
hay chưa, hay chúng ta đặt hy vọng nơi của cải, danh vọng địa vị. Nếu chúng ta
đặt hy vọng nơi Chúa rồi, chúng ta hãy tiến thêm bước nữa là hàng ngày xét mình
xem chúng ta đã sống với niềm hy vọng đó như thế nào, có sống vì Chúa Giêsu như
thánh Phaolô chưa, có luôn nhớ tới Chúa, sống cho Chúa và nói về Chúa cho những
người mình gặp gỡ hay chỉ giữ luật cho khỏi bị phạt thôi! Mỗi người chúng ta
hãy quyết tâm đi lễ thường xuyên và đối xử tốt với những người xung quanh để họ
nhận ra niềm hy vọng và hạnh phúc thật mà người kitô hữu đang theo đuổi để họ
cũng được niềm hy vọng ấy và cùng chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu là hy vọng của
đời con, là niềm trông cậy, là nguồn hạnh phúc cuộc đời con. Xin Chúa ban ơn
giúp con sống niềm hy vọng thật trọn hảo để mai sau được về cùng Chúa hưởng
phước Thiên đàng. Amen.
74. Tình thương
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng
dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng
Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không
biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép
lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do
Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái
đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng
dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin
Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất
cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những
việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu
trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân
xác và linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh
tật, Ngài có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế
tạo ra một cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy
rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa,
nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi
bệnh tật nơi con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh
sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ
này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở
đây cũng thế, Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với
Phêrô. Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt
rét là hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa
Giêsu làm phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà
ngôn sứ Isaia đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ
bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị
thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành
được. Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động
nào của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu
đến rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu
và được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác
cũng như sự thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các
bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng
những anh em ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một
niềm hy vọng, cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau
khổ, và mang lại cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của
một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục này đã kể lại trong một
bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi
vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất
tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ
gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu
nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không
biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa
những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời
cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Một thí dụ khác, bác sĩ Longghê
là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi
tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn
sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng
như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh nhân như vậy? Vì sao ông
có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì
thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng khi đi dưlễ, bệnh nhân lương
giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại
đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt
chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy
Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Longghê trở về Pháp, vào
chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở
giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời
trước khi tới nơi mong ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì
chúng ta có thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân.
Tuy nhiên, cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an
ủi những bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người
bệnh thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin... chúng ta hãy
cảm thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng
không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân
đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau
khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với
các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho
họ.
75. Hãy sống tích cực
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)
Cuộc khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra đang khiến
cho bao người, bao gia đình điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp phá sản. Nhiều người
mất việc làm. Không có việc làm, cuộc sống vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Chắc hẳn những chuyên gia kinh tế thế giới đang cố gắng tìm một giải pháp tốt
nhất để giải quyết khủng hoảng. Là những môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta có thể
làm gì để giải quyết cuộc khủng hoảng này?
Có một câu chuyện tôi đọc được trên báo kể về trường hợp
của một chị phụ nữ khiến tôi cảm thấy thật xót xa. Chị lấy chồng được một người
con thì chồng bỏ đi. Giờ với đồng lương quá thấp không đủ nuôi con, chị đã tìm đến
với cái chết. Chị không những muốn kết thúc cuộc đời của chị mà cả đứa con nhỏ
nữa. Chị đã cho nó uống thuộc độc để cả hai mẹ con cùng đi về thế giới bên kia
của loài người. Cái chết như là giải pháp cuối cùng để chấm dứt khủng hoảng.
Tôi hình dung ra nhiều người cũng đang rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Cũng giống
như trường hợp của Gióp trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Ông nhìn vào cuộc đời
và chỉ thấy một màu xám ngắt. Chẳng có chi hạnh phúc. Chẳng thấy một tia hy
vọng. Chúng ta hãy nghe những lời lẽ của Gióp:
Ngày
đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy ĐỨC
CHÚA, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh
phúc bao giờ (G 7, 6-7)
Con người khi đứng trước cuộc đời nhiều bất công và đau
khổ thường hay có thái độ hoặc là muốn chấm dứt cuộc đời, hoặc là để mặc cuộc
đời trôi dạt về đâu. Thế nhưng tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với
Tin Mừng của Chúa Kitô. Bài tin mừng hôm nay cho tôi một tia sáng để tìm ra một
giải pháp cho cuộc khủng hoảng, một hướng đi cho cuộc đời.
Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, tôi thấy
dường như Chúa nói với tôi rằng hãy sống tích cực con ạ. Đừng ngồi đó mà
than thân trách phận. Đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Đừng thất vọng đến
mức tự hủy hoại đời mình. Làm như thế là hèn lắm. Sống mới khó còn chết thì dễ
thôi con ạ. Hãy thắp lên một ngọn nến để soi tỏ đường con đi và cho người khác
cùng đi. Ta hãy xem Chúa Giêsu làm gì trong một ngày sống. Một ngày của Chúa
thật bận rộn. Người tới Hội đường giảng dạy. Giảng xong, Người tới chữa bệnh
cho bà mẹ vợ của Simon Phêrô. Chiều tối, Người lại chữa đủ thứ bệnh hoạn tật
nguyền. Rồi sáng sớm tinh sương, Người đã thức dậy cầu nguyện. Và khi các môn
đệ đi tìm Chúa, Người nói với họ tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng cho những
thành khác. Chúa dường như không có giờ để nghỉ ngơi, không có giờ để mà buồn
chán. Người chữa lành những vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn của con người.
Người muốn đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc. Tất cả những ai gặp được
Người đều được chữa lành. Chúa cũng bảo với tôi: con hãy đi và làm như vậy.
Nhưng trước khi lên đường, Người bảo tôi hãy cầu nguyện. Hãy dành những giây
phút đầu ngày và cuối ngày để ngước nhìn lên cao. Hãy thinh lặng để sức mạnh
của Chúa đổ đầy vào trái tim ta. Tự sức ta sẽ chẳng làm được việc gì. Tôi tự
hỏi tại sao những môn đệ của Chúa ngày hôm nay không đủ sức chữa lành, không đủ
sức xoa dịu những nỗi đau của người xung quanh? Và câu trả lời đó là vì họ
thiếu cầu nguyện.
Nhìn ra thế giới xung quanh, tôi cũng thấy tương tự như
vậy. Con người chỉ lo đi tìm kiếm vật chất, còn linh hồn thì không được quan
tâm đủ mức. Truyền thống của cha ông ta thật sâu sắc. Ngày tết có cả bánh chưng
và bánh dày. Bánh chưng tượng trưng cho đất, còn bánh dầy tượng trưng cho Trời.
Trời tròn đất vuông theo quan niệm dân gian. Cha ông ta muốn dạy chúng ta rằng
con người đầu đội trời, chân đạp đất nên luôn phải có đủ hai yếu tố đó. Trong
khi mưu sinh, phải lo tìm kiếm những gì thuộc cõi trời cao. Con người không chỉ
là một mớ vật chất mà còn có một chiều sâu tâm linh thăm thẳm. Và để nuôi dưỡng
cái chiều sâu ấy, ta chỉ có một con đường là chìm vào cõi lặng. Hãy nhìn Chúa
Giêsu trong Tin Mừng hôm nay mà học đòi bắt chước. Từ sáng sớm, Người đã chìm
vào cõi lặng. Ở đó, ta gặp được chính nguồn mạch sự sống và bình an. Từ nguồn
mạch ấy, ta sẽ có đủ sức mạnh để lên đường. Ta sẽ sống một cách tích cực và
phong phú hơn. Ta sẽ có thể chữa lành những nỗi đau nơi tâm hồn và thể xác của
tha nhân. Xung quanh ta, cuộc khủng hoảng đang bao trùm. Là môn đệ của Chúa, ta
được mời gọi hãy làm một cái gì đó. Hãy làm một cái gì đó, nhỏ thôi, đi từ tình
thương yêu con người. Hãy bắt đầu! Đừng chờ đợi bởi ta sẽ không biết phải đợi
đến bao giờ.
Lạy Chúa, xin cho con có thái độ sống tích cực, để con có
thể đem Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người bởi vì như Thánh Phaolô
nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,17).
76. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Có phải Đức Giêsu đến trần gian để cứu chữa những người bệnh
hoạn, tật nguyền, quỷ ám không? Sứ mạng của Ngài là gì? Tại sao Ngài làm những
việc ấy?
2.
Bạn có nghĩ rằng: nếu mình mà làm được phép lạ như Đức Giêsu,
mình cũng sẽ chữa bệnh, trừ quỉ… và đi tới đâu cũng sẽ thi ân giáng phúc tới đó
y như Ngài vậy? hiện nay mình chỉ kém Ngài vì không có bản tính Thiên Chúa
thôi?
3.
Theo bạn thì tình thương làm nên phép lạ, hay phép lạ làm nên
tình thương? Nói cụ thể hơn, muốn giúp người, điều quan trọng nhất là có tình
thương hay có tài năng? Tình thương làm nên tài năng, hay tài năng làm nên tình
thương?
Suy tư gợi ý:
1. Dù quan tâm hàng đầu là loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu luôn cứu
giúp mọi người theo sự thúc đẩy của tình thương
Bài
Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giêsu chữa các bệnh tật, các chứng quỷ ám. Trong
cuộc đời công khai, Ngài đã từng chữa lành biết bao nhiêu con bệnh thuộc đủ mọi
loại, biết bao người bị quỷ ám, và làm một số người chết sống lại, v.v... Điều
đó khiến nhiều người có cảm tưởng rằng Ngài là một chuyên gia chữa bệnh, chữa
quỷ ám. Thật ra không phải như vậy! Ngài đến thế gian chủ yếu không phải để làm
những việc ấy, mà để cứu chuộc toàn nhân loại và loan báo Tin Mừng cho họ. Tuy
nhiên, khi thực hiện sứ mạng ấy, Ngài đã phải đối diện với biết bao nhiêu cảnh
đau thương của con người, về tinh thần cũng như thể chất. Tình thương chan chứa
của Ngài đối với con người khiến Ngài biết bao lần “chạnh lòng thương” và ra
tay cứu giúp (x. Mt 9,36; 14,14; 15,32; Mc 1,41; Lc 7,13). Sách Công vụ Tông đồ
còn cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi
kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người “ (Cv 10,38).
Điều
chúng ta cần noi gương Ngài không phải là việc chữa bệnh hay làm điều gì, mà
chính là khả năng “chạnh lòng thương” trước những đau khổ của tha nhân. Khi đã
biết “chạnh lòng thương”, thì tình thương sẽ thúc đẩy và dần dần tạo cho ta khả
năng hành động phù hợp với sự đòi hỏi của tình thương. Thiết tưởng tất cả mọi
Kitô hữu muốn thật sự là Kitô hữu đều phải biết “chạnh lòng thương”, biết nhạy
cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương tâm đang xảy ra cho những
người chung quanh, đồng thời quyết tâm ra tay hành động theo sự thúc đẩy của
tình thương. Sự nhạy cảm do tình thương ấy chính là dấu hiệu chắc chắn cho biết
Thiên Chúa đang thật sự ở với chúng ta, trong chúng ta. Ai không nhạy cảm như
thế là dấu chứng tỏ họ không có Thiên Chúa - là Tình Thương - ở nơi mình: “Ai
không yêu thương anh em mình thì không thuộc về Thiên Chúa” (1Ga 3,10; x. 3,17;
4,8).
2. Vì yêu thương và dấn thân hết mình mà Ngài làm nên những phép
lạ
Có phải
vì Ngài làm phép lạ dễ dàng, nên Ngài tỏ tình thương với mọi người cũng dễ dàng
chăng?
Nếu ít
hiểu biết về Đức Giêsu, chúng ta có thể nghĩ rằng: Đức Giêsu là Thiên Chúa,
Ngài có quyền năng làm phép lạ, có khả năng chữa bệnh, đuổi quỷ, nên Ngài tha
hồ mà “thi ân giáng phúc” ở bất cứ nơi nào Ngài đến. Đối với Ngài, việc “thi ân
giáng phúc” quả là quá dễ dàng, Ngài có mất mát hay thiệt thòi gì đâu? Còn ta,
hễ giúp đỡ ai, làm cho ai hạnh phúc hơn là ta phải mất mát, hy sinh, phải chịu
thiệt thòi, phải chấp nhận đau khổ. Nếu Ngài cũng bị hạn chế như ta, làm sao
Ngài có thể “thi ân giáng phúc” không cần tính toán như thế được? Nếu ta cũng
làm được phép lạ như Ngài, ta cũng sẽ “thi ân giáng phúc” cho mọi người đâu kém
gì Ngài!
Hay vì
Ngài yêu thương tha nhân hết mình, nên Ngài mới có nhiều khả năng cứu giúp
người khác như vậy?
Nghĩ
như thế quả cũng có lý! Nhưng theo thiển ý tôi, người viết bài này, nghĩ ngược
lại có thể có lý hơn. Nghĩa là: không phải vì Ngài có khả năng làm phép lạ nên
Ngài tỏ tình yêu thương một cách dễ dàng; mà ngược lại, chính vì Ngài yêu
thương hết mình, và cũng hết mình muốn ra tay cứu giúp người khác, nên Ngài mới
làm được những phép lạ như thế. Cách nghĩ sau có vẻ hợp với Kinh Thánh hơn.
Đức
Giêsu, Thiên Chúa Nhập Thể, có những giới hạn của Ngài
Rất
nhiều người nghĩ: Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, mà đã là Thiên Chúa thì ắt
Ngài phải biết hết, làm được hết, có đầy đủ mọi nhân đức, ở trong tình trạng
hoàn hảo, chẳng cần tập tành khổ luyện gì hết. Nghĩ như thế không phải là không
có lý. Nhưng rất có thể họ quên rằng Đức Giêsu là một “Thiên Chúa Nhập Thể”,
nghĩa là một “Thiên-Chúa-làm-người”. Khi nhập thể thì Thiên Chúa vô hạn và
tuyệt đối đã mặc lấy thân phận hữu hạn và tương đối của con người (x. Pl
2,6-9). Chẳng hạn, là Thiên Chúa vô hạn, Ngài có thể hiện diện cùng một lúc ở
khắp nơi, nhưng cũng chính Thiên Chúa ấy, khi nhập thể, mặc lấy thân phận hữu
hạn của con người, thì Ngài không thể ở khắp nơi cùng một lúc như thế. Thiên
Chúa và Đức Giêsu chỉ là một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Thiên Chúa ấy đã mặc
lấy hai cách hiện hữu khác nhau: một đằng là thần linh, vô hạn, bất biến, tuyệt
đối; một đằng là con người, hữu hạn, vô thường và tương đối... Nếu không như
thế thì đâu còn là nhập thể nữa!
Kinh Thánh nói về Đức Giêsu
Thánh
Phao-lô đã nói về sự giới hạn và yếu đuối của Đức Giêsu như sau: Ngài “mang
thân phận yếu hèn” (2Cr 13,4; x. 1Tm 3,16); “Người đã phải nên giống anh em
mình về mọi phương diện” (Dt 2,17); “Người đã chịu thử thách về mọi phương diện
cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4,15). Thiên Chúa đã “sai chính Con mình
đến mang thân xác giống như thân xác tội lỗi chúng ta để đền tội chúng ta” (Rm
8,3b). Ngài phải chịu ma quỉ cám dỗ (x. Mt 4,1-11) và chắc chắn cũng phải chiến
đấu để thắng nó. Trong việc Ngài cảm thấy sợ hãi đến đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến
cuộc tử nạn sắp tới, ta thấy ngay thân phận yếu hèn của một con người ở nơi
Ngài, và thấy Ngài cũng phải chiến đấu rất cam go mới thắng vượt được bản thân
yếu đuối mà vâng theo thánh ý Chúa Cha (x. Lc 22,41-44).
Khi
Ngài còn nhỏ, rất có thể Mẹ Maria cũng phải tập cho Ngài ăn, nói, đi đứng và
dạy cho Ngài biết đọc, viết, tính toán như bao người mẹ khác tập cho con mình.
Ngài cũng phải cố gắng vất vả khi phải học cho thuộc những bài học, khi làm
những bài luyện tập... Ngài cũng phải học thánh Giu-se mới biết làm thợ mộc, và
khi làm việc cũng cảm thấy mệt mỏi và vất vả. Những gì Ngài có được - như sự
hiểu biết, các nhân đức, sự hoàn hảo - không phải sẵn có nơi Ngài do bản tính
thần linh vô hạn của Ngài, mà theo thánh Phao-lô, Ngài cũng phải học, phải
luyện tập với bao gian lao cực khổ không khác gì chúng ta: “Dầu là Con Thiên
Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục”
(Dt 5,8); “Thiên Chúa (...) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải
qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu
độ” (Dt 2,10). Cũng thế, Ngài có được những giá trị cao quý ấy phần nào do
quyết tâm thực hiện bằng ý chí yếu đuối của con người ở nơi Ngài.
Những
phép lạ Ngài làm rất có thể là do tình thương cao độ của Ngài
Trong
chiều hướng ấy, ta cũng có thể nghĩ rằng những phép lạ Ngài làm được để cứu
giúp người khác một phần đến từ Thiên Chúa, nhưng một phần khác là do tình yêu
cao độ và sự dấn thân hết mình của Ngài cho tha nhân. Điều này phù hợp với kinh
nghiệm bình thường của con người: chẳng hạn biết bao người mẹ bất tài mà chỉ vì
tình thương bao la đối với con mà làm được những chuyện phi thường; những người
có tình thương bao la rộng rãi thường phát triển khả năng nhiều hơn những người
khác.
3. Đừng sợ mình không có khả năng, hãy sợ mình không đủ tình
thương
Vậy
thấy Đức Giêsu cứu giúp biết bao người, chúng ta đừng vội cho rằng: nếu tôi có
tài năng như Ngài, tôi cũng sẽ cứu giúp được nhiều người như Ngài. Nghĩ như thế
hóa ra Ngài chẳng hơn gì chúng ta! hóa ra nếu có ai cứu giúp ai thì do người
cứu giúp ấy có khả năng cứu giúp mà thôi! Nghĩ như thế, đời sống tâm linh và
tình thương của chúng ta không bao giờ phát triển được! Muốn làm được những
việc như Đức Giêsu, thiết tưởng điều quan trọng nhất là chúng ta phải có tình
thương thật sự và cao độ như Ngài. Khi đã có tình thương rộng lớn, bao trùm,
tình thương ấy sẽ thúc đẩy chúng ta hành động, thúc đẩy chúng ta luyện tập để
có nhiều khả năng cứu giúp người khác. Tại sao ta có thể làm được biết bao
chuyện cho cha mẹ, vợ con, anh em ta, mà lại không thể làm như vậy cho người
khác? Chính vì ta có rất nhiều tình thương đối với người thân, nhưng lại không
đủ tình thương đối với người khác. Vậy, đừng sợ mình không có khả năng cứu giúp
người khác, hãy sợ rằng mình không có đủ tình thương đối với họ.
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con cảm thấy con chưa hữu ích lắm cho tha nhân
chung quanh con không phải vì con không có tài năng cho bằng vì con chưa đủ
tình thương đối với họ. Biết bao người ít tài năng hơn con, nhưng họ lại hữu
ích cho tha nhân hơn con, chính vì họ đã yêu thương nhiều hơn con. Vì tình yêu
có khả năng khiến người ta làm được tất cả. Điều con thiếu hơn cả chính là tình
yêu, xin Cha hãy ban cho con.
77. Đến đem sự giải thoát
Một trong những sứ mạng quan trọng của Chúa Giêsu khi đến
trần gian này là loan báo Tin mừng cho con người. Người không loan báo bằng lời
nói suông nhưng bằng những việc làm đem lại sự giải thoát cho con người. Người
giải thoát con người khỏi những bệnh hoạn tật nguyền phần xác. Hơn thế nữa, Người
đem đến cho con người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Trong quá trình đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu không
dừng lại ở bất cứ nơi nào. Vì Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được
hưởng nhờ sự giải thoát ấy. Cho nên, sau khi đã đem sự giải thoát ấy cho những
người ở thành Capharnaum mặc dù được các Tông đồ báo: "Mọi người đang tìm
Thầy đấy" (Mc 1, 37) Chúa Giêsu đã trả lời với họ: "Chúng ta hãy đi
nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy
ra đi cốt để làm việc đó" (Mc 1, 38)
Đoạn Tin mừng tuần trước chúng ta thấy dân chúng đã quá
đỗi kinh ngạc về những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Bởi lẽ, Người giảng dạy
như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư (Mc 1, 22).Thẩm quyền của
Chúa Giêsu không phải để cai trị hay để đàn áp con người nhưng hoàn toàn để
phục vụ và hiến mạng sống vì và cho con người.
Cảm nhận được điều ấy nên Thánh Phaolô trong thư thứ hai
gởi tín hữu Côrintô đã viết: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng
không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm.
Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng" (2Cr 1, 16). Sau khi trở
lại thánh nhân đã thấy rằng chính Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi những điều
không đúng. Do đó, suốt cả đời còn lại thánh nhân không ngại khó miễn sao cho
Tin mừng của Chúa Giêsu được càng nhiều người biết đến càng tốt.
Mỗi người chúng ta không nhiều thì ít cũng đã và đang
được đón nhận sự giải thoát cao quý của Chúa Giêsu. Ước gì qua cách sống đạo
của chúng ta mỗi ngày được tiến bộ hơn. Sự tiến bộ nhờ biết gắn bó nhiều với
Chúa Giêsu qua việc trung thành tham dự Thánh lễ Chúa nhật và các giờ Kinh sáng
tối. Được như vậy là chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu loan báo Tin mừng cho
nhiều anh chị em xung quanh.
78. Đổi mới bản thân
Một triết gia bên Ấn độ, ngồi
kiểm điểm lại cuộc đời, đã ghi lại như sau:
Thoạt tiên ở tuổi thanh xuân
đầy nhiệt huyết, tôi đã sốt sắng kêu xin thượng đế cho tôi có đủ nghị lực và cơ
hội để thay đổi cả thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi bỗng
nhận ra nửa đời trôi qua, mà chẳng thay đổi được một ai, tôi liền điều chỉnh
lời cầu của tôi với thượng đế.
Khi ấy tôi chỉ xin Ngài cho tôi
đủ khả năng hoán cải những người tôi gặp thường ngày, khởi đi từ những người
thân yêu trong gia đình cũng như những người bạn tôi hằng tiếp xúc.
Thế rồi đến nay, tôi thấy mình
đầu tóc bạc phơ và mộng đẹp không còn nữa. Tôi chỉ xin với thượng đế:
- Lạy Chúa, ít nữa xin ban cho
con ơn biến đổi chính mình con.
Tiếc rằng tôi đã không xin với
thượng đế điều đó ngay từ tuổi thanh xuân, khiến tôi bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ
hội để đạt được sự hoàn thiện nơi chính bản thân mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay
và chúng ta nhận thấy: Chúa Giêsu là một nhân vật hết sức đặc biệt.
Trước hết trong phong cách giảng dạy.
Phúc âm đã ghi lại Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền,
chính vì thế mà Ngài đã lôi cuốn hấp dẫn được đông đảo quần chúng đến nghe
Ngài.
Tiếp đến là những phép lạ Ngài làm.
Đoạn Phúc âm hôm nay cho hay: Bà mẹ vợ Phêrô đang sốt
nặng, thế mà Ngài chỉ cần động tới là bà liền được khỏi, trỗi dậy tiếp đãi
Ngài. Hơn thế nữa,Ngài còn chữa lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, cũng như xua
trừ ma quỉ.
Tất cả những phép lạ đều nói lên rằng: nơi Ngài có một uy
quyền tuyệt đối và uy quyền tuyệt đối này thuộc về Thiên Chúa. Hay nói cách
khác: Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng. Thế nhưng, nếu suy nghĩ một chút,
chúng ta còn nhận thấy: Ngài không phải chỉ là một vị Thiên Chúa quyền năng mà
còn là một người như chúng ta, một người như mọi người.
Trước hết, Ngài cũng đã gặp phải những cám dỗ, những thử
thách. Chẳng hạn tại hoang địa, sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày, ma quỉ đã cám
dỗ Ngài biến những hòn đá trở nên bánh để ăn, rồi Ngài còn bị cám dỗ thử thách
Thiên Chúa, cũng như chiếm hữu những vinh quang phù phiếm. Thế nhưng Ngài đã
chiến thắng tất cả để làm gương cho chúng ta.
Tiếp đến, Ngài còn là một người khiêm nhường. Chính Ngài,
mặc dù không hề vướng mắc một chút bùn nhơ tội lỗi nào cả, nhưng Ngài cũng đã
đến để xin Gioan làm phép rửa để biểu lộ tâm tình sám hối.
Nhưng quan trọng hơn cả, Ngài còn có một trái tim biết
rung động, một tấm lòng nhân hậu bao dung. Chính vì thế, Ngài đã thực hiện
những phép lạ để xoa dịu những đớn đau của những người mà Ngài có dịp tiếp xúc
với. Cũng như đã mở rộng vòng tay đón nhận và tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Hãy cố gắng sửa đổi bản thân, để nhờ đó chúng ta trở
thành những chứng nhân sống động cho tin mừng, đồng thời nhờ đó, lôi cuốn người
khác trở về cùng Chúa.
79. Yêu bệnh nhân
Trong một giai thoại về Đức
Thích Ca, người ta kể lại rằng: một hôm, ngài rơi vào tay một tên cướp khét
tiếng. Sau khi hành hung ngài, tên cướp dọa sẽ giết ngài. Trước khi chết, ngài
xin tên cướp một ân huệ. Hắn đồng ý. Ngài bảo hắn: “Ngươi hãy chém đứt một cành
cây”. Thoáng một cái, tên cướp vung kiếm chém đứt một cành cây. Đức Thích Ca
liền nói: “Nào, ngươi hãy tháp cành cây cho liền vào thân cây”. Tên cướp nói:
“Ngươi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có thể làm được điều đó”. Đức
Thích Ca liền dạy cho tên cướp một bài học: “Ngươi mới là tên khùng khi ngươi
nghĩ rằng sức mạnh của con người là gây thương tích và phá hủy. Người có sức
mạnh thật sự là người chỉ biết sáng tạo và chữa lành”.
Lời nói trên đây của Đức Thích Ca quả thực đã ứng dụng
cho chính Chúa Giêsu. Ngài đến trần gian để phục hồi lại những gì đã hư mất.
Các sách Tin Mừng đã ghi lại rất nhiều phép lạ của Ngài. Thường thấy hơn cả là
những phép lạ chữa lành bệnh tật. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng
những phép lạ chữa lành bệnh tật Ngài thực hiện không chỉ nhằm chữa trị những
đau thương nơi thân xác con người mà còn nói lên một thực tại cao siêu hơn. Đó
là bày tỏ tình yêu thương của Thiên Chúa và mời gọi con người đón nhận và trao
ban tình yêu thương ấy.
Quả thực, tất cả đều do lòng nhân từ thương yêu của Chúa.
Chúa làm phép lạ không phải để tạo cho mình một uy thế trong xã hội, cũng không
hẳn là để tỏ uy quyền Thiên Chúa của Ngài, nhưng là để chứng tỏ tình yêu thương
của Ngài. Nói rõ hơn, với tư cách là Đấng Cứu Thế, Chúa đến trần gian để giải
thoát con người khỏi mọi khốn khổ phần hồn cũng như phần xác. Vì thế, Chúa cảm
thông với những đau yếu tật bệnh của con người. Thấy họ, Chúa không xa tránh
nhưng đến gần họ và chữa cho họ.
Hơn nữa, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật, Ngài
còn chữa trị tâm hồn con người. Ngài muốn biến tâm hồn ích kỷ của con người
thành tâm hồn quảng đại biết yêu thương. Đó là ý nghĩa sâu xa của những phép lạ
Chúa Giêsu làm. Trong suốt thời gian Chúa rao giảng, các bệnh nhân và những kẻ
tật nguyền luôn thu hút được sự chú ý và tình thương của Ngài. Khi làm những
phép lạ để chữa lành họ, Chúa luôn có những cử chỉ, những lời nói an ủi, khuyến
khích để gợi lên hay củng cố niềm tin của họ. Bài học “Hãy trao tặng những
người bệnh tật và những kẻ xấu số những cử chỉ và những lời nói yêu thương chân
tình” chúng ta có thể học nơi Chúa Giêsu.
Tại một trung tâm y tế ở miền
nam tiểu bang Ca-rô-lai-na, Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân có thể
thấy được trong ngày, đó là nụ cười của cụ bà Phờ-lo-ren Hớt (Florence Hert).
Từ 6 giờ sáng, cụ đến bệnh viện thăm hỏi các bệnh nhân và an ủi thân nhân của
họ. Ngày nào cũng thế trong suốt nhiều năm trời. Cụ thường nói với các bệnh
nhân: “Năm nay tôi đã 90 tuổi, nếu tôi còn có thể đến đây mỗi ngày với nụ cười
trên môi, thì các bạn cũng thế, các bạn cũng có thể cười như tôi. Nào, các bạn
hãy thử đi”.
Một trong những cách thế hữu hiệu nhất để xoa dịu nỗi đau
khổ của chính mình, đó là ra khỏi chính mình để tìm cách làm cho người khác bớt
đau khổ. Đau khổ được chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, nhưng còn được xoa
dịu bởi những nghĩa cử mà chúng ta làm cho người khác. Cụ bà trong câu truyện
trên, hẳn không phải là một người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn,
đau khổ… có ai thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười luôn nở trên môi,
với đôi chân dù phải bước đi khập khiễng, với tấm lòng chia sẻ chân thành… cụ
đã biến ra khỏi chính mình để đến với tha nhân…
Ra khỏi chính mình, đó là bước đầu tiên giúp chúng ta
thắng vượt được nỗi khổ đau riêng tư của mình. Có ai trong chúng ta thoát khỏi
những dằn vặt, bất an của khổ đau? Mỗi người là một nỗi khổ. Mỗi ngày qua đi là
một cơn đau. Ai trong chúng ta cũng có một thập giá để vác. Sức nặng của thập
giá ấy sẽ vơi đi, sẽ nhẹ bớt đi, nếu chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến
với tha nhân, xoa dịu nỗi khổ đau của họ. Một cụ già 90 tuổi, chân đi khập
khiễng, vẫn có thể ngày ngày mang nụ cười và niềm an ủi lại cho người khác. Anh
chị em và tôi, chúng ta có thể hé mở, dù chỉ một nụ cười hay không?
Thế giới của chúng ta, xã hội của chúng ta, có lẽ đang
cần đến những cái mỉm cười ấy hơn bất cứ một cuộc truyện trò tào lao nào. Sự
giúp đỡ nhân đạo có thể sẽ không bao giờ đến với những người đang cần đến, hoặc
nếu có đến cũng chỉ đến như một quà tặng vô danh. Điều thiết thực nhất đang ở
trong tầm tay mỗi người chúng ta, và mọi người đều chờ đợi, có lẽ chỉ là một nụ
cười, một lời an ủi, một mẩu bánh nhỏ… nhưng được trao ban với tất cả lòng yêu
mến. Đó là những điều tất cả chúng ta ai cũng có thể làm được.
Giữa biết bao nhiêu con người đau khổ, xin cho sự hiện
diện của người Kitô trở thành dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa đối với con
người. Xin cho mỗi người Kitô trở thành bàn tay đưa ra nối kết con người với
tình thương Thiên Chúa.
80. Chúa Nhật 5 Thường Niên
CHÚA GIÊSU CHỮA LÀNH CÁC BỆNH
TẬT
"Kiên
nhẫn như ông Gióp" là câu nói đầu lưỡi của thế giới công giáo, phổ thông
nhất là ở ngôn ngữ các nước tây Âu. Nó ngụ ý tán thưởng những ai kiên cường
chịu đựng nghịch cảnh lâu dài. Nhưng chắc chắn bài đọc một hôm nay không chứng
minh được điều đó. Ngược lại, bài đọc cho thấy trong đau khổ, ông cũng phẫn uất
như ai: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch
sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?" Hoá ra
ông Gióp chẳng kiên nhẫn chút nào! Cứ như sự khôn ngoan bình dân thời đó thì
khổ đau là hình phạt của những điều dữ người ta đã phạm. Nhưng xét trong lương
tâm, ông có làm gì xấu đâu? Vậy tại sao ông phải gánh chịu số phận long đong
thế này: Con cái chết hết, của cải tiêu tan, mình đầy ghẻ chốc, bạn bè xa lánh,
cả đến người vợ thân yêu cũng không tiếc lời khiển trách: "Ông còn kiên
vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa hay thôi? Hãy nguyền rủa Thiên Chúa
và chết đi cho rồi" (G 2,9). Ông Gióp đã không hiền lành chấp nhận số
phận. Ông phản kháng và lý lẽ của ông có phần thuyết phục. Lời cầu khẩn đó xem
ra khuyến khích những ai đang chịu đựng cuộc đời gian truân, túng quẫn được
phép ta thán trước Thiên Chúa.
"Kiên
nhẫn như ông Gióp" xem ra không còn mấy ý nghĩa. Vô số người dám gán cho
Thượng đế là nguyên nhân gây nên những bất hạnh của mình, bởi mặc dầu đã cố
gắng hết sức ăn ngay ở lành, đáng được Thiên Chúa thương gởi tới điều may mắn.
Thì thực tế không phải vậy, toàn gian truân, khổ dịch. Lại có những người khác
không dám mở miệng kêu ca, mà giữ im lặng khó hiểu với tâm can uất ức. Lâu dần
họ trở nên lạnh lùng, thù địch cùng Thiên Chúa. Trong thánh kinh Cựu ước chúng
ta cũng thấy vô số lời phàn nàn trước tôn nhan Thiên Chúa, nhất là trong các
Thánh vịnh: "Ngày con kêu cứu không lời đáp ứng, đêm van nài mà cũng chẳng
được yên" (Tv 22,3). Suy nghĩ kỹ, những lời than vãn như trên không phải
để trách móc Thượng đế mà để bày tỏ cảm xúc chân thực của lòng mình. Chúng có
khả năng làm tan biến thái độ đạo đức giả hình, dồn ép, sơ cứng. Càng trung
thực bao nhiêu thì càng đạo đức bấy nhiêu. Chúng ta có quyền giải bày lòng mình
trước Thượng đế, Đấng có thể thay đổi sự việc, bằng không, chúng ta là những kẻ
thụ động nhu nhược.
Trong
quá trình sống, nhiều lúc tình hình xem ra vượt khỏi tầm kiểm soát, có bàn tay
nào đó điều khiển cuộc đời chứ không phải đương sự. Chúng ta tự hỏi: "Ai
chịu trách nhiệm ở đây?" những khổ dịch, những sự dữ chúng ta kinh nghiệm
chắc chắn không phải do bàn tay Thiên Chúa yêu thương. Ông Gióp cũng cảm nhận
như vậy khi nói: "Chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?"
Thuê mướn là công việc của người khác, làm sao chúng ta có quyền kiểm soát?
Ngày của một người nô lệ là khổ dịch dưới sức nóng ghê gớm của ánh nắng mặt
trời. Người nô lệ luôn khát khao bóng mát. Ấy cũng là tâm trạng của ông Gióp,
của mỗi người chúng ta. Nhưng vấn đề là điều chi đã sui khiến nên như vậy? Ông
Gióp đã phạm lỗi gì? Còn tội của mỗi người chúng ta thì đã rõ. Vì vậy những lời
ta thán của tác giả sách Gióp cho độc giả biết tính mỏng dòn của thân phận con
người. Chúng ta cảm thấy như đi trên mặt hồ đóng lớp băng mỏng, có thể chìm
xuống nước lạnh bất cứ lúc nào! Trước tình thế như vậy, dù có sống tốt thì cũng
không thể tránh khỏi hoạn nạn. Và khi nghe đọc bài sách thánh chúng ta có
khuynh hướng bịt tai, la lớn như đứa trẻ khi nghe cha mẹ doạ nạt, hoặc nói về
những điều chúng không ưa thích. Dĩ nhiên bây giờ chúng ta đã lớn, ý thức được
những hành động mình làm. Nhưng chúng ta lại có những thái độ để khỏi phải nghe
điều mình không ưa, như thay đổi đề tài, nói lảng sang chuyện khác. Chúng ta né
tránh những điều mình không muốn nghe: bệnh tật, tuổi già, ly dị và các hậu quả
tai hại v.v... chỉ thích nghe những điều lạc quan, như tuổi trẻ, sắc đẹp, thể
thao, kỹ thuật mới v.v... Cho nên lời của ông Gióp trong Phụng vụ hôm nay khó
mà lọt thủng tai. Dầu sao một ngày nào đó trong tương lai, mỗi người đều phải
thốt lên: "Gia tài của tôi là những ngày tháng khốn cùng, số phận của tôi
là những đêm khắc khoải ê chề."
Tôi đã
cố gắng tìm ra khía cạnh lạc quan, ơn thánh trong đoạn văn này - nó kết thúc
quá ư buồn thảm: "Tôi sẽ chẳng được trông thấy hạnh phúc nữa đâu!"-
Khi trước ông Gióp đã là người giầu có, phát tài, của cải nhiều vô kể mà nay
rơi vào cảnh khốn cùng, thì lời yếm thế của ông thức tỉnh tinh thần tôi, không
thể cậy nhờ vào vật chất chóng qua mà phải trông mong vào một mình bàn tay
Thiên Chúa mà thôi. Tôi phải rút ra từ cuộc đời ông Gióp một bài học quí giá,
không chi so sánh nổi. Đó là vững tin vào lượng hải hà của Thiên Chúa. Ngài
chẳng bao giờ nỡ bỏ quên chúng ta để chúng ta thất vọng trong vòng kiểm toả của
tử thần. Trong lúc khốn cùng ông Gióp đã cố gắng khơi dậy niềm tin. Ông kêu
lên: "Lạy Đức Chúa, xin nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở..." Ông
không phải là nguồn gốc sự sống của mình, ông hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên
Chúa, Đấng đã dựng lên ông, ông như thể muốn nói với Thượng đế: "Lạy Ngài
xin nhớ lại, Ngài đã dựng nên con bằng gì! Con hoàn toàn mỏng dòn, chỉ là hơi
thở, một cơn gió thoảng cũng có khả năng làm nó tiêu tan. Xin nhớ lại con chẳng
là chi cả, là hư vô, con hoàn toàn lệ thuộc vào Ngài để được sống, được tồn
tại!" Ông Gióp muốn gợi lại tương quan giữa Đấng tạo hoá và tạo vật. Hơi
thở trong nguyên bản là "ruah". Nó có hai nghĩa, vừa là gió thổi, vừa
là thần lực phát xuất từ Thiên Chúa thâm nhập vào các tạo vật để ban cho chúng
sự sống. Cuộc sống con người đúng thực mỏng manh như gió thổi, như mây nổi, như
chiêm bao, như bóng ngựa qua cửa sổ, nhất là trước những khổ đau và hoạn nạn.
Nhưng cuộc sống con người cũng đến từ hơi thở của Thiên Chúa tức là từ nguồn
mạch bền vững và đời đời. Thiên Chúa không thể nào bỏ quên hơi thở của mình. Do
đó ông Gióp hy vọng vào sự cứu giúp của Thượng đế. Hy vọng của ông Gióp cũng là
hy vọng của mỗi linh hồn tín hữu chúng ta.
Tin
mừng hôm nay có cả thảy bốn nội dung. Hợp với Phúc âm tuần vừa rồi, chúng làm
nên "một ngày hoạt động của Đức Giêsu". Có rất nhiều điều xảy ra
trong ngày đó. Chúa Giêsu rất bận rộn, Ngài hoạt động liên tục. Thiên Chúa cũng
rất bận rộn, tất bật. Đó là ngày thứ bảy- ngày nghỉ của con cháu loài người, và
xúc vật. Nhưng Thiên Chúa lại liên tục thi ân, giáng phúc trên những tạo vật
của Ngài. Sự việc xảy ra ở thành phố cảng Capharnaum (người ta gọi là thành phố
của Chúa Giêsu), không phải ở Giêrusalem. Thời ấy Giêrusalem là nơi duy nhất có
hy lễ hiến tế. Tín hữu bình thường hoạ hiếm mới được đến đấy. Thường thì họ đi
thờ phượng ở các hội đường trong làng mạc hay thành thị. Họ đến để cầu nguyện
và nghe giáo huấn.
Chúa
Giêsu rời hội đường Capharnaum, nơi Ngài đuổi quỉ ô uế, chữa lành một người
điên khùng và bước vào nhà hai anh em Anrê và Phêrô. Lập tức người ta nói cho
Ngài hay về bệnh tình của bà mẹ vợ ông Simon Phêrô. Ngài tiến lại chỗ bà nằm
"cầm lấy tay bà và đỡ dậy. Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài."
Nghe như một câu chuyện bình thường, nhưng thực ra thánh Marcô đã dùng ngôn ngữ
Tân ước để mô tả câu truyện khỏi bệnh. Chúa Giêsu nâng bà dậy. Đó là từ ngữ để
diễn tả Chúa làm cho kẻ chết sống lại. Người được chữa lành có sức sống mới. Sự
sống của kẻ Phục sinh. Chỉ một mình Chúa Giêsu có quyền ban cho, ngoài ra không
ai làm được việc đó cả.
Sự
sống mới đó thế nào? Kinh Thánh nói khi bà mẹ vợ ông Phêrô được chữa khỏi, bà
liền đi phục vụ các ngài. Phục vụ trong gia đình là bổn phận của nữ giới. Nhưng
thánh Marcô lại dùng từ "diakoneo" từ này chỉ công việc phục vụ trong
Hội thánh. Tiếng Anh gọi là "deacon". Tiếng Việt nam mình gọi là phó
tế. Rõ ràng ám chỉ phục vụ cộng đoàn. Khi người ta kinh nghiệm được Chúa Giêsu
ban ơn phục sinh, họ lập tức bị thúc đầy phục vụ Giáo hội, phục vụ các linh
hồn. Họ muốn chia sẻ những ơn đã lãnh nhận với người khác. Không muốn phục vụ
hội thánh là dấu chỉ chắc chắn chưa nhận được ơn phục sinh của Chúa Giêsu. Một
tư tưởng đáng sợ cho mọi tín hữu. Ngược lại những linh hồn hồ hởi làm việc tông
đồ là những người đã được lãnh nhận ơn Chúa sống lại. Theo kinh nghiệm thì
những tín hữu hăng say việc tông đồ thường nói rằng: Họ được lợi rất nhiều khi
hết mình phục vụ Hội thánh. Không ca thán, không đòi hỏi. Họ đã được sung mãn
trong cộng việc của mình. Họ còn cho biết rằng khi làm công việc ấy hình như
Chúa Giêsu đang cầm lấy tay họ nâng đỡ dậy.
Tóm
lại, chẳng có câu trả lời dễ dãi cho vấn đề người vô tội phải chịu đau khổ,
kiểu như ông Gióp. Thực ra đau khổ là một mầu nhiệm, vượt quá sức hiểu biết của
chúng ta. Nhưng ông Gióp chỉ là câu chuyện tưởng tượng, tác giả đặt ra để thử
giải quyết vấn đề. Quyền năng của Chúa Giêsu chữa lành các đau khổ bệnh tật của
nhân loại là điều có thực. Không ai chối cãi được. Chúa Giêsu, Đấng vô tội đã
tự nguyện gánh tội loài người để giải phóng chúng ta, cho chúng ta đựơc tự do.
Đó cũng vẫn là điều nhiệm mầu không thể hiểu thấu. Chúng ta cử hành và dấn thân
vào mầu nhiệm đó. Điều mà Chúa làm cho bà mẹ vợ ông Phêrô ngày xưa, Ngài cũng
còn thực hiện cho chúng ta hôm nay. Xin ý thức rõ ràng về điều này. Ngài giơ
tay nâng chúng ta dậy khỏi tội lỗi, đau khổ và sự chết, ban cho chúng ta sức
sống phục sinh để chúng ta trông thấy các nhu cầu của anh chị em đồng loại và
đáp ứng những nhu cầu đó trong nghị lực và niềm vui. Amen.
81. Cầu nguyện trong đời thường
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)
Tin mừng Mc 1: 29-39: Chúng ta có thể đánh mất chính
mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm thấy chính mình trong
công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta cần có một nơi yên
tĩnh.
Mấy
năm trước đây tạp chí Thế Giới Ngoài Trời (Outdoor World) có đăng một bài của
Barry Lopez như sau: "Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình
đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá
hương.
Barry
vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã
được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những
hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi ông nội đã đi đâu và làm gì.
Ông
nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói: "Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm
tâm, cháu nhé!"
Tiếp
tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ
xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng
chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ.
Barry
nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi
bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc
trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa
giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức
lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào
buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông
nội cầu nguyện.
Ông
ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi,
lắng nghe đại dương reo.
Đoạn
Tin Mừng hôm nay, cho thấy một ngày sinh hoạt của Chúa Giêsu:
Ban
ngày giảng dạy, chữa bệnh và “Sáng tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi
đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện”.
Lý do
khiến Đức Giêsu làm điều này cũng chính là lý do Barry thường làm, đó là tự đổi
mới chính mình, tự hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Chúng
ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể
tìm thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng
ta cần có một nơi yên tĩnh.
Chúng
ta cần phải học nơi Đức Giêsu, về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm.
Ra đi
cầu nguyện không phải là cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam
kết. Cần có thời gian để cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có
được một cuộc sống lành mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống
trên.
Sau
một ngày học hành mệt nhọc, người bạn trẻ thường có thói quen ghé ngang qua nhà
thờ để viếng Chúa, và lần nào cũng bắt gặp một cụ già ngồi yên lặng trước Thánh
Thể trong nhà tạm.
Ngày
kia, một người bạn trẻ chờ cho cụ cầu nguyện xong, tiến đến gần và hỏi:
-
Cụ ngồi lâu giờ như vậy, có nghe Chúa nói gì với cụ không?
-
Cụ già chậm rãi trả lời:
-
Chúa không nói gì hết, Ngài chỉ nghe thôi.
-
Vậy thì cụ nói những gì với Chúa?
-
Lão cũng chẳng nói gì cả, chỉ nghe thôi.
Thấy
người bạn trẻ có vẻ ngỡ ngàng, cụ nói tiếp:
-
Lão thấy có bốn giai đoạn trong đời sống cầu nguyện.
Thời
gian đầu thì lão nói, Chúa nghe, sau đó thì Chúa nói, lão nghe.
Giai
đoạn kế tiếp thì không ai nói hết vì cả hai cùng nghe
và
giai đoạn cuối là lúc không ai nói mà cũng không ai nghe.
Tất
cả chỉ là một sự thinh lặng tuyệt đối.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
- Xin
dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm
nhuần Lời Hằng Sống.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha
nhân, biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo
đói,
để
khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui
cho muôn người, tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
- Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước
dối trá.
- Cuối
cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn,
ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
82. Kiếp sau xin chớ làm người
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
“LAO NHỌC LÀ CUỘC SỐNG CỦA CON
NGƯỜI”
Khi gặp những khổ đau, vất vả, bội bạc… trong cuộc sống,
cha ông chúng ta có câu:
“Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm con chim nhạn tung trời mà
bay…”
Hoặc: “Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà
reo…”
Khi gặp những khổ đau chồng chất, Ông Gióp cũng phải kêu
lên: “Lao nhọc là kiếp sống của con người!” Đó là tư tưởng chúng ta đọc thấy
trong Bài Đọc I, Chúa Nhật này (Giop 7, 1-4, 6-7). Trong Bài Phúc Âm (Mc.
1,29-39), Thánh Matcô ghi lại việc Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân, và họ
kéo đến thật đông đảo để xin được chữa lành. Còn trong Bài Đọc II (1Cr. 9,
16-19, 22-23), Thánh Phaolô nói đến bổn phận rao giảng Phúc Âm Ngài đã lãnh
nhận mà Ngài đã chu toàn, và để công cuộc rao giảng được kết quả, “Ngài đã trở
nên yếu đuối với người yếu đuối… trở nên mọi sự cho mọi người.”
Cuộc sống của mỗi người đều phải trải qua những lúc khổ
đau, bệnh hoạn; đó là kiếp người qua những giai đoạn “sinh, lão, bịnh, tử.” Khi
xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng chấp nhận kiếp sống như vậy để trở nên
‘giống con người chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi…” Mặc dầu công việc chính
của Ngài trong thời gian sống công khai là rao giảng Tin Mừng cứu độ, nhưng
Ngài cũng không quên chú ý an ủi và nâng đỡ những con người đau khổ, bịnh hoạn
kéo đến với Ngài.
Noi gương Chúa Giêsu, ở mọi thời đại, Giáo Hội cũng luôn
làm những gì có thể để giúp đỡ những con người nghèo khó, bệnh tật trên khắp
thế giới. Đó là nhờ sự dấn thân hy sinh của các linh mục, tu sĩ và giáo dân.
Ngoài việc lập các trường học, các xưởng dạy nghề để mở mang văn hóa và huấn
nghệ, Giáo Hội cũng mở các trại phong cùi, các nhà thương, viện tế bần, viện
dưỡng lão v.v… ở các vùng hẻo lánh bên Phi Châu, Á Châu, Nam Mỹ và ngay tại
Việt Nam chúng ta trước đây, dù hiện nay thì gặp nhiều khó khăn và hạn chế hơn.
Chúng ta đã đọc nhiều sách, nghe nhiều bài chia sẻ về ý
nghĩa của sự đau khổ. Chính Chúa Giêsu khi xuống thế làm người, ở giữa chúng
ta, Ngài cũng dạy chúng ta giá trị của sự đau khổ trong công cuộc cứu chuộc
nhân loại. Ngài đã chấp nhận mọi khổ đau trong cuộc sống, chịu đóng đinh, và
chịu chết trên Thánh Giá để cứu chuộc chúng ta, trước khi sống lại, lên trời
vinh hiển. Hiểu được giá trị của đau khổ là để thanh luyện và đem lại ơn cứu
rỗi, chúng ta sẽ không chán nản, bi quan, uất ức khi gặp đau khổ, bội bạc; trái
lại, chúng ta có thể nói như Thánh Phaolô: “Nhờ ơn Chúa toàn năng nâng đỡ,
chúng tôi có thể vui mừng chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra cho cuộc đời chúng
tôi.” (Cl 1, 11). Khi các Thánh Tông Đồ bị bắt, bị sỉ nhục và đánh đòn, các
Ngài ra về và “lòng rất vui mừng vì đã được coi là xứng đáng chịu xỉ nhục vì
danh Chúa Giêsu (Cv. 5,40). Thánh Phêrô cũng căn dặn chúng ta “được chịu đựng
mọi đau khổ vì Chúa Kitô, anh chị em hãy vui mừng...” (1Pr 4, 13). Ông Gióp
cũng là một gương mẫu để cho mọi người hiểu được ý nghĩa của sự đau khổ và lòng
can đảm của những người tin kính Chúa khi chịu đựng đau khổ.
Rồi mọi sự cũng qua đi mau chóng. Mọi khổ đau cũng tiêu
tan. Rồi cuộc đời của mỗi người cũng qua đi.
Những người biết noi gương Chúa chấp nhận những biến cố
đau thương của cuộc đời mới có thể “bỏ mình đi, vác Thánh Giá hàng ngày theo
chân Chúa” (Mt. 16,24…) đi đến ngày sống lại và về trời vinh hiển. “Qua Thánh
Giá mới có thể đến Ánh Sáng!”
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy đặc biệt cầu nguyện
cho những người đang phải chịu nhiều đau khổ ở khắp nơi trên thế giới: đau khổ
tinh thần, đau khổ thể xác, đau khổ vì chiến tranh, vì thiên tai, vì già yếu,
bệnh hoạn. Cũng xin Chúa cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thánh Giá, suy gẫm cuộc
tử nạn của Chúa, để chính chúng ta cũng biết chấp nhận mọi đau khổ hàng ngày,
trong khi vẫn cố gắng để nâng đỡ những con người đau khổ chung quanh chúng ta.
83. Con đã viếng thăm Ta
(Suy niệm của Athur Tonne)
Vị linh mục dừng lại nghé thăm
một gia đình nghèo ở vùng núi Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ. Bà ứa nước
mắt kêu lên: "Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin
cha có thể giúp con." Bà dốc bầu tâm sự; bao lo âu, bao rắc rối. thỉnh
thoảng vị linh mục chêm vào một vài lời khích lệ; nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn
bất lực trước khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngừng một lát rồi kêu lên: "Ôi
thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề".
Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết vấn đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu
ra: Bà chỉ cần và mong được thông cảm.
Bài Tin Mừng hôm nay kể rằng; Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh
nhân, những chứng bệnh khác nhau. Người làm được vì Người là Thiên Chúa. Làm
sao chúng ta có thể làm đuợc như Chúa? Chúng ta không thể làm phép lạ, không
thể chữa bệnh đụng tới bệnh nhân, bằng lời nói hay bằng cử chỉ. Tuy nhiên,
chúng ta có thể dự phần vào việc chữa bệnh của Đức Kitô.
Chúng ta có thể thăm người bệnh, như vị linh mục trong
câu chuyện, chúng ta cảm thấy bất lực, đến ngớ ngẩn trước sự đau đớn, khổ tâm,
thiếu thốn mà chúng ta không thể làm thuyên giảm hay chữa bệnh.
Đức Giêsu hứa Thiên đàng cho những ai viếng thăm người
bệnh. "Ta đau các con đã viếng thăm… Hãy đến. " Ngay Cựu ước cũng
thúc dục chúng ta: "Đừng chậm trễ thăm người bệnh vì nhờ thế con được quí
mến." Thăm viếng người bệnh một cách thân tình, vui vẻ tại nhà hay trong
bệnh viện; có thể xoa dịu tinh thần, trợ lực thể xác. Chúng ta có thể làm gì
cho người bệnh; lắng nghe khi họ cần biểu lộ tâm sự. Thông cảm khi lắng nghe là
một nghệ thuật cần trau dồi, phát triển, một người đến thăm biết thông cảm khi
họ đem nổi đau của nạn nhân vào lòng mình. Họ biết chia sẻ niềm đau xót dẫu
rằng họ đã nghe câu chuyện cả ngàn lần.
Chúng ta có thể đem đến một tin vui một sự kiện xây dựng
hoặc nụ cười, một câu chuyện trên Tivi hay báo chí. Cắt một bài vắn trong báo
hay tạp chí và đọc cho bệnh nhân nghe. Nhưng nhớ, bạn phải chuẩn bị trước, bạn
sẽ nói gì và nói làm sao.
Bông, trái cây, các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân mạnh
tinh thần. Khi chọn quà bạn cần dùng óc tưởng tượng cố gắng để món quà thích
hợp với tư cách, khung cảnh, nghề nghiệp và sở thích của bệnh nhân. Món quà đơn
giản, không xa xỉ lại thường là quí giá.
Bạn đừng nói suông: "Tôi sẽ cầu nguyện cho."
Tốt hơn nên nói; "Tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị) trong Thánh lễ hôm nay…
"Sáng mai tôi sẽ cầu nguyện cho anh (chị)". Đừng nói dài dòng. Hãy
giữ giờ thăm, nội qui của bệnh nhân. Hãy tế nhị, hãy biết quan tâm lo lắng cùng
Chúa Kitô trong giới hạn của bạn, nhưng đầy tình thương.
Xin Chúa chúc lành cho bạn.
84. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Noel Quesson)
"NGƯỜI ĐẾN GẦN CẦM TAY
NÂNG BÀ DẬY".
Bác sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất
nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công
Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ
ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một linh mục trước rồi
mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác
sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm sau, bác sĩ
Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot thường nói
chân thành: "Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức
dầu."
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy Chúa đến giường bà mẹ vợ ông
Simon đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi ngay, bà chỗi dậy lo việc
phục vụ Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới Chúa Giêsu đã thực hiện bí
tích xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập và cử hành trước. Cử
hành bí tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một lời của Chúa hay
lời cầu nguyện của Giáo hội. Hai yếu tố ấy làm thành bí tích, đem lại ơn ích
cho người lãnh nhận. Riêng bí tích xức dầu chủ yếu giúp người tín hữu trong cơn
đau yếu, để họ trung thành với niềm tin không nao núng trong thử thách cả và
thể xác lẫn tinh thần, vì xác hồn liên hệ mật thiết với nhau.
Khi thiết lập bí tích này, Chúa để ý tới những bệnh nhân,
Chúa cảm thông nỗi đau buồn của họ. Chúa muốn chữa lành tâm hồn tội tình con
người "bệnh" bằng bí tích Hoà giải, chữa lành và tăng sức con người
đau yếu bằng bí tích xức dầu. Chỉ khi nào con người trải qua cái chết, đi vào
vinh quang phục sinh, lúc đó mới hết những khuyết tật nơi thân xác và tinh
thần. Chúa đã đến với những người đau khổ để nhắc cho họ nhớ chuyện đó.
Bà mẹ ông Simon được chữa lành bệnh. Bà chỗi dậy và phục
vụ mọi người. Hậu quả của căn bệnh phần xác là nằm liệt, không làm việc được,
không phục vụ được ai. Thế mà Chúa lại luôn đòi chúng ta phải phục vụ anh em,
làm đầy tớ, hy sinh vì người khác. Để giúp chúng ta có lại khả năng phục vụ,
Chúa đã ban cho ta bí tích Xức Dầu. Có những lúc thân xác ta không mang bệnh
nạn, nhưng mất khả năng phục vụ, chính là lúc chúng ta thiếu tinh thần phục vụ,
thiếu tinh thần bác ái, ta phải mau mắn chạy đến cầu xin Chúa chữa trị.
Tương đương với bệnh tật là những ám ảnh do tà thần được
phép Chúa, thử thách lòng trung kiên của chúng ta với Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa xức dầu
Thánh Thần cho chúng con, chữa lành tâm hồn và thân xác chúng con, cho chúng
con luôn luôn có đủ khả năng và lòng nhiệt thành phục vụ anh chị em chúng con.
85. Nghỉ ngơi và yên tĩnh
(Suy niệm của Lm. Mark Link)
Chủ đề: "Giữa những bận rộn của cuộc sống, Chúa
Giêsu vẫn tìm thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như
thế"
Tạp chí Thế Giới Bên Ngoài
(Outdoor World) có đăng một bài rất hay của Barry Lopez.
Vào một buổi sáng mưa phùn,
Barry thức dậy một mình đi dạo trong rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước
giữa những dãy thông và bá hương. Barry vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng
hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã được nhìn thấy ông nội một mình bước
ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những hàng cây này. Khi ông nội trở về chú
bé Barry hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry
rồi nói:
"Nào chúng ta hãy cùng đi
dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa
phùn, Barry gặp một quãng rừng trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên
mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với
toàn thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm
thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì
đang được thôi thúc trong lòng, chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt
đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về
nhà, ông cảm thấy như được đổi mới, được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu
được lý do ông nội thường hay đi dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry
có lần nói cho ông hay đấy chính là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn
luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng
nghe đại dương reo.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy Đức Giêsu cũng thường một
mình đi đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện như vậy. Lý do khiến Đức Giêsu làm điều
này cũng chính là lý do Barry thường làm điều ấy, là tự đổi mới chính mình, tự
hồi phục lại năng lực cho chính mình.
Phúc Âm thánh Maccô thuật lại Đức Giêsu đã chữa bệnh cho
dân chúng suốt ngày hôm trước khiến Ngài như kiệt lực về mặt tâm linh. Về sau
trong Phúc Âm của mình, thánh Maccô giúp cho chúng ta có một cái nhìn về giá
trị tâm linh mà Đức Giêsu phải trả để có thể chữa bệnh cho dân chúng. Một phụ
nữ bệnh đã 12 năm xô lấn đám đông để chạm cho được Chúa Giêsu. Ngay khi đụng
được vào Ngài, bà ta lập tức được chữa lành, tức thì, theo lời kể của thánh
Maccô Chúa Giêsu biết được năng lực ấy đã xuất ra khỏi mình (Mc
Việc chữa lành bệnh đã làm cạn đi năng lực của Chúa
Giêsu. Tương tự như thế, khi làm việc cho tha nhân, chúng ta cũng bị hao tổn
sinh lực, thế nên chúng ta cần phải làm như Chúa Giêsu, tức là cần phải biết
hồi phục sức lực cho mình về mặt tâm linh. Có thể chúng ta không thể làm được
vịêc này bằng cách đi một mình vào rừng. Có thể chúng ta cũng thể kiếm được chỗ
yên tĩnh để ở một mình ngay trong nhà chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn có thể làm
một điều gì đó; ít là thỉnh thoảng chúng ta dừng lại nghỉ ngơi khỏi dòng công
việc để hồi tâm và lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn chúng ta. Tôi xin chứng
minh điều này quan trọng như thế nào.
Một con tàu của hải quân Anh bị
tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu
"Lặng Yên". Tín hiệu này có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì
bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm
những gì thật khôn ngoan".
Trước khi tín hiệu vang lên, ít
có thuỷ thủ nào biết được điều nào là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng
trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng
Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường bị rơi vào
tình trạng khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay lúc đó. Thế rồi chúng
ta la toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?". Thực sự, điều tốt
nhất chúng ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ ngơi thường tạo nên
điều kiện để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem
chúng ta có biết noi theo những gương Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta khi Ngài
còn ở dương trần không? Chúng ta có biết thỉnh thoảng nghỉ ngơi để hồi tâm xét
mình lại không? Thỉnh thoảng chúng ta có biết dừng lại để lắng nghe tiếng Chúa
trong lòng chúng ta không?
Một hôm, nhạc sĩ André
Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà
Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần như kiệt sức. Matisse nhận ra
tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa nói; "Này ông bạn, ông phải
tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của ông." Nói xong, ông ta nắm tay
dẫn Kostelanetz ra khu vườn nhà ông. Khi cả hai đến gần một đám cây Áctisô,
Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi buổi sáng sau khi làm việc một
lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng đó
ngắm nhìn đám Acstisô. Đoạn Matisse nói thêm: "Dầu tôi đã vẽ được trên 200
bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu tổng hợp những màu sắc mới cũng như
tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được phép quấy rầy tôi khi tôi lặng yên đứng
ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn hứng mới, một sự xả hơi cần thiết cũng
như một triển vọng mới cho công việc của tôi".
Mỗi người chúng ta nên ghi vào lòng lời Matisse khuyên
nhủ André Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám Actisô cho đời chúng ta,
hoặc nói cách khác chúng ta phải làm giống như Barry Lopez đã làm. Chúng ta
cũng phải thỉnh thoảng một mình đi dạo vào rừng buổi sáng. Chúng ta nên làm
điều các thủy thủ Anh Quốc đã làm trong những tình trạng khẩn cấp, nghĩa là
phải nghỉ ngơi và yên lặng. Chúng ta nên làm điều Đức Giêsu đã thường làm.
Thỉnh thoảng chúng ta phải dậy sớm dùng lời cầu nguyện để tăng cường sức mạnh
cho mình.
Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay. Sứ điệp này thực
là quan trọng. Chúng ta có thể tóm tắt như sau; Dù bận rộn rất nhiều trong cuộc
sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời giờ nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên
làm như thế.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khẩn nguyện:
Lạy Chúa,
Xin dừng bước chân con,
Xin dừng bước chân con;
Xin cho trái tim con trĩu nặng
được thư thái,
Tâm trí xôn xao được lặng yên.
thần kinh rã rời được dịu lại
gân cốt mệt nhoài được giãn ra.
Xin dạy cho con nghệ thuật
Dùng những lúc nghỉ ngơi đôi ba
phút,
trở lại tiếp xúc với lòng mình,
lắng nghe tiếng Chúa và từ đó
rút ra
nguồn sáng mới, sức mạnh mới và
lòng dũng cảm mới.
lạy Chúa,
xin hãy dừng bước chân con,
xin hãy dừng bước chân con.
86. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Anmai, CSsR)
KHỐN THÂN TÔI
NẾU TÔI KHÔNG RAO GIẢNG TIN MỪNG
Thánh
lễ hôm nay, bài đọc thứ nhất đưa ta về hình ảnh rất quen thuộc, rất dễ thương
trong Cựu Ước đó là ông Giob. Nếu có giờ, chúng ta đọc lại toàn bộ tác phẩm của
ông, chúng ta sẽ thấy ông thật dễ thương trước mặt Chúa. Tại sao gọi là dễ
thương trước mặt Chúa? Là vì, dù cuộc đời ông "ba chìm - bảy nổi - chín
lênh đênh nhưng ông đã tin tưởng vào Chúa một cách lạ lùng. Cảm xúc của ông
Giob chắc có lẽ cũng là xúc cảm của mỗi người chúng ta.
Ông
Giob giới thiệu về nhân thân của ông: "Xưa ở đất Út có một người tên là
Gióp. Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh
xa điều ác.2 Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có một
đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm trăm
lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất trong số các con
cái Phương Đông. Các con trai ông có thói quen luân phiên tới nhà nhau tiệc
tùng và cho người đi mời ba cô em gái đến ăn uống với họ. Mỗi khi hết vòng tiệc
tùng, ông Gióp cho gọi họ đến để thanh tẩy họ; rồi ông dậy thật sớm, dâng lễ
toàn thiêu cho mỗi người trong họ, vì ông tự nhủ: "Biết đâu các con trai
ta đã chẳng phạm tội và nguyền rủa Thiên Chúa trong lòng! " Lần nào ông
Gióp cũng làm như thế. (G 1, 1-5)
Cuộc sống
của ông là như thế nhưng có mãi được như thế đâu? Chúng ta chờ xem:
"Vậy
một ngày kia, các con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu ở nhà người anh
cả của họ, thì một người đưa tin đến nói với ông Gióp: "Trong lúc bò của
ông cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; còn
các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông
hay." Người ấy còn đang nói thì một người khác về thưa: "Lửa của
Thiên Chúa từ trời giáng xuống đã đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi
hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho ông hay." Người này còn đang nói
thì một người khác về thưa: "Người Can-đê chia thành ba toán ập vào cướp
lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ có mình tôi thoát nạn
về báo cho ông hay." Người ấy còn đang nói, thì một người khác về thưa:
"Con trai con gái ông đang ăn tiệc uống rượu trong nhà người anh cả của
họ, thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi thốc vào bốn góc nhà; nhà
sập xuống đè trên đám trẻ; họ chết hết, chỉ có mình tôi thoát nạn về báo cho
ông hay." (G 1, 13-19)
Cuộc
đời nó không như người ta tưởng, người ta nghĩ. Mà cũng đúng, vì có những lúc
lòng chúng ta cảm thấy trống rỗng và chán ngán. Thi thoảng chúng ta cũng thấy
cuộc đời này nó vô nghĩa như ông Giob vậy. Nhất là mỗi khi chúng ta bị thiệt
hại, bị mất mát về tiền của, về vật chất như ông Giob.
Buồn
tủi, đau đớn nên ông Giob đã bộc bạch:
Cuộc sống con người nơi dương
thế
chẳng phải là thời khổ dịch
sao?
Và chuỗi ngày lao lung vất vả
đâu khác gì đời kẻ làm thuê?
Tựa người nô lệ mong bóng mát,
như kẻ làm thuê đợi tiền công,
cũng thế, gia tài của tôi là
những tháng vô vọng,
số phận của tôi là những đêm
đau khổ ê chề.
Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm:
"Khi nào trời sáng? "
Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi:
"Bao giờ chiều buông? "
Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm
trong mê sảng.
Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả
thoi đưa,
và chấm dứt, không một tia hy
vọng.
Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho,
cuộc đời con chỉ là hơi thở,
mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc
bao giờ. (G 7,
1-4.6-7)
Nhìn
lại sao mà chúng ta giống ông Giob quá. Thế nhưng ông Giob không chỉ bị tổn
thương về vật chất nhưng còn tổn hại về tinh thần, về lòng tin nữa. Ông cam
chịu mất mát, tưởng chừng người thân thương nhất của ông, người chung chia với
ông những đau khổ của cuộc đời sẽ an ủi, sẽ nâng đỡ ông, nhưng nào ngờ vợ ông
lại bảo ông nguyền rủa Thiên Chúa vì Thiên Chúa mà ông tin theo sao mà kỳ thế!
Thiên Chúa đã để cho cuộc sống của ông ra nông nổi này. Kèm thêm bà vợ cay
nghiệt còn có ba người "hàng xóm tốt bụng" khuyên ông hãy rời bỏ
Thiên Chúa mà suốt cuộc đời ông đã theo. Thế nhưng, chúng ta thấy giữa biết bao
nghịch cảnh của cuộc đời ông Giob vẫn một mực tin tưởng vào Thiên Chúa mà ông
suốt cuộc đời đi theo.
Nhìn
lại cuộc đời của ông Giob, quả là một bản trường ca về tin mừng. Cuộc đời ông
đã cao rao về tình thương của một Thiên Chúa mà ông tin tưởng theo.
Trang
Tin mừng mà chúng ta vừa nghe, Thánh Máccô thuật lại cho chúng ta công việc của
Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nói với các môn đệ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến
các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để
làm việc đó." (Mc 1, 38) Chúa Giêsu khẳng định cho các môn đệ cũng như
chúng ta đó là Chúa đến để đi rao giảng Tin mừng của Nước Trời, Tin mừng của
Thiên Chúa.
Thoáng
nhìn cuộc đời của Chúa Giêsu, trong hành trình rao giảng Tin mừng của Chúa
Giêsu, chúng ta thấy thấp thoáng hình bóng của cây Thập Tự cứ đi theo cuộc đời
của Chúa Giêsu. Và thực tế là như thế, cuộc đời của Chúa Giêsu buồn nhiều hơn
vui. Thế nhưng tại sao Chúa Giêsu lại hăng say, mạnh mẽ lên đường loan báo Tin
mừng như vậy? Bởi lẽ Chúa Giêsu, suốt cuộc đời đã tin tưởng, đã tín thác vào
Thiên Chúa nên cho dù cuộc đời của Chúa thế nào đi chăng nữa Chúa vẫn loan báo
Tin mừng.
Và
rồi, qua thư của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô mà chúng ta vừa nghe, chúng
ta thấy Ngài khẳng định cho chúng ta lập trường của Ngài về Tin Mừng:
"Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào,
mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không
rao giảng Tin Mừng! Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng
công; còn nếu không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu
là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công,
chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi."
"Phải,
tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của
mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những
người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người,
để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều
đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng." (1 Cr 9,16-19.22-23)
Nhìn
lại một chút cuộc đời của Phaolô chúng ta cũng thấy na ná như ông Giob, như
Chúa Giêsu vậy. Cuộc đời của ông cũng đã quá đau khổ, ông phải trả một giá quá
đắt khi tin theo Chúa. Thoạt đầu, ông là người Pharisiêu "chính hiệu Con
Nai Vàng" nên ông nào tin vào Chúa và thậm chí ông con bắt, còn bách hại
những người theo Chúa nữa. Thế nhưng, chính khi ông "giác ngộ" ra
Đấng mà xưa nay ông bắt bớ chính là Đấng Cứu Độ của ông cũng là lúc mà người ta
khinh bỉ ông, người ta không tin tưởng ông nữa vì ông xoay hẳn 1 góc 180o. Từ
người ghét, bách hại, bắt bớ nhưng nay lại trở thành người nhiệt thành rao
giảng Tin mừng thì làm sao mà người ta có thể tin được. Thế nhưng, vì lòng tin
son sắt vào Chúa, Phaolô vẫn miệt mài rao giảng Tin mừng, bất chấp mọi thành
kiến, mọi dị nghị, mọi lời đàm tiếu của người đời.
Phaolô
đã "ngộ" ra cuộc đời của ông từ cái ngày ngã ngựa trên đường Đa-mát
rằng: có một Thiên Chúa yêu thương ông, quan phòng, chăm sóc ông nên cuộc đời
của ông thay đổi từ đấy.
Chúng
ta là những người luôn luôn mở miệng tin Chúa và đọc Kinh Tin Kính mỗi Thánh Lễ
Chúa nhật, mỗi khi có dịp, nhưng lòng tin vào Chúa của chúng ta như thế nào?
Chúng ta có can đảm rao giảng Tin mừng, rao giảng về một Thiên Chúa yêu thương
cho những người xung quanh chúng ta hay không?
Thật
sự, đây không phải là chuyện dễ vì lẽ cuộc đời của chúng ta có quá nhiều đau
khổ như ông Giob, như Chúa Giêsu, như Thánh Phaolô vậy. Thế nhưng, chúng ta lại
nhớ đến lời của Thánh Phaolô "chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh."
Thánh Phaolô xác tín điều ấy vì chính khi cuộc đời của Ngài gặp phong ba bão
táp, gặp khó khăn, yếu đuối, Ngài phó thác vào tay Chúa thì Chúa sẽ nâng Ngài
dậy như Chúa đã từng nâng đỡ Ngài trên đường Đa-mát vậy.
Rơi
vào hoàn cảnh bi đát của cuộc đời như ông Giob, như Chúa Giêsu, như thánh
Phaolô đấy nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi ai cả. Chuyện quan trọng là
chúng ta có tin để phó thác hay không mà thôi? Sau khi tin tưởng, phó thác
Thiên Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô không biết bao nhiêu ân huệ của
Ngài và khi nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa ban đấy, ông Giob và thánh Phaolô đã
cao rao tình thương của Chúa.
Thật
sự ra, trong cuộc đời chúng ta, chúng ta thấy Chúa ban cho chúng ta quá nhiều
ơn lành như Chúa đã ban cho ông Giob và thánh Phaolô nhưng chúng ta không nhận
ra để chúng ta cứ khư khư giữ ơn lành và thậm chí còn chôn kín ơn lành đó để
cất giấu một mình chúng ta xài thôi. Xin Chúa mở lòng chúng ta để chúng ta nhìn
thấy những ân huệ mà Thiên Chúa đã trao ban để rồi chúng ta cũng cao rao Tin
mừng của Chúa cho anh chị em đồng loại như Phaolô, như ông Giob trong mọi hoàn
cảnh của chúng ta.
87. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Cả 3 bài đọc hôm nay đều nói đến việc lao động. Con người
sinh ra trong trần gian này và chấp nhận qui luật của nó. Đó là phải lao động.
Cuộc sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm việc quần quật từ sáng đến tối,
làm cực khổ hết ngày này sang ngày khác, làm quần quật hết tháng nọ sang tháng
kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao
động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải lao động vất vả. Làm để có cái mà
ăn, ăn để có sức mà làm. Làm - ăn, ăn - làm như một cái vòng lẫn quẫn trói buộc
con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc con
người sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một ngày làm việc vất vả
của Chúa Giêsu: Người vừa giảng dạy trong Hội đường Do Thái và cứu chữa một
người bị quỉ ám xong, Người vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêrô
đang sốt nặng. Lập tức, Người liền đến nhà bà ấy và chữa lành cho bà. Rồi cũng
liền sau đó có cả đám đông đang tụ họp trước cửa nhà, trong đó có nhiều người
đau bệnh, cần tới Chúa Giêsu chữa trị. Mãi cho đến chiều tối Người mới có thời
giờ nghỉ ngơi.
Chúng ta đã thấy đó, Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà
còn phải làm việc vất vả từ sáng đến chiều tối. Người không phải làm việc để có
lợi cho bản thân mình, nhưng Người làm việc để giúp đỡ cho người khác. Người
không những chữa lành, là lo cho họ phần xác mà còn lo về phần thiêng liêng, là
rao giảng, dạy dỗ cho họ, cứu giúp linh hồn người ta. Qua công việc đó, Đức
Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của công việc lao động: lao
động là cần thiết, lao động là bổn phận của mọi người, lao động chẳng những
giúp ích cho bản thân mà còn giúp đỡ cho tha nhân, lao động sinh ích lợi cho cả
phần xác lẫn phần hồn nữa.
Từ các bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch ra
cho chúng ta thấy phương hướng sống:
-
Trước các công việc làm, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những
công việc lao động của chúng ta.
-
Chúng ta hãy xin Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta làm. Khi
làm việc chúng ta ý thức mình làm vì sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha
nhâ.
-
Xin Chúa cho chúng ta có sức khỏe thể xác và tinh thần để ta
hoàn thành công việc cách tốt đẹp
-
Xin Chúa cho chúng ta biết sống hết mình và làm việc hết mình vì
lòng mến Chúa, để góp phần cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ. Và xin
Chúa nâng đỡ những công lao vất vả của chúng ta. Amen.
CÂU CHUYỆN MINH HỌA VỀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp
tên Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm
trọng. Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà
thờ ở Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện
một cách sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi
cử chỉ của người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh
nhận ra ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà
bác học về đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt
rè, nhà bác học lên tiếng hỏi:
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán
vật lý phải không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt
khoa học lắm. nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng
nếu giúp anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại
vừa là tín hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả
lời: Anh ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi. Nhà bác học kiêm
triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời danh: " con người chỉ vĩ
đại khi họ cầu nguyện".
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết
với Chúa. Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo
làm người. Sự cầu nguyện làm cho con người nhìn thấy những giá trị của chính
mình, thấy những yếu đuối, bất toàn trong đời sống của mình. Biết mình bởi đâu
mà có, biết mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu và biết mình phải sống
làm sao cho tốt đẹp!
88. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Tường Vĩnh Lộc)
Làm việc không phải là gánh nặng mà là ý nghĩa của cuộc
đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên con người rồi đặt họ trong vườn địa đàng để
họ canh tác và giữ vườn. Chính Đức Giêsu cũng làm việc bận rộn suốt ngày, từ
sáng tới tối. Việc làm của Ngài là rao giảng tin mừng, chữa bệnh và trừ quỷ.
Suy Niệm
Kính thưa cộng đoàn phụng vụ
Làm việc và tìm thấy ý nghĩa trong việc làm chính là chủ
đề của các bài đọc lời chúa trong chúa nhật V thường niên hôm nay mà chúng ta vừa
nghe. Tất cả 3 bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động
nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi dương thế. Cuộc sống này quả là vất vả:
ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày khác,
hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động
chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm việc
vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm ăn, ăn làm như một cái
vòng lẫn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn
không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước kiếp sống đó, những kẻ bi quan và những người lười
biếng thì than thở, như ông gióp trong bài đọc thứ nhất: lao động nhọc nhằn là
kiếp sống của con người trên măt đất. ngày của họ giống như ngày của một kẻ làm
công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi cho đến tối và mắt tôi sẽ
không nhìn thấy hạnh phúc. Khi người ta làm việc cực nhọc mà không hiểu được ý
nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dể có thái độ bi quan như thế.
Chính để giúp cho loài người thấy được ý nghĩa và giá trị
của lao động mà đức Giêsu đã sinh xuống trần gian, mang lấy thân phận làm người
lao động. Bài tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: chúa vừa giảng
dạy trong hội đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay
tin bà nhạc mẫu của Phêro đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà
dậy, bà liền khỏi sốt. liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó
là những người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, chúa lại cứu giúp họ. Mãi tới chiều
tối Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu
nguyện. Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ đi tìm người và cho hay dân chúng
lại tấp nập tuôn đến xin người cứu chữa. Nhưng chúa Giêsu đành phải từ chối mà
nói: Chúng ta còn phải đi đến những làng, những thành phố khác để rao giảng tin
mừng nửa.
Đức Giêsu là con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả
từ sáng đến tối, hết ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản
thân người mà làm việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo cho phần xác
người ta mà còn lo rao giảng để cứu giúp linh hồn người ta nửa.
Qua tấm gương đó, đức Giêsu muốn cho chúng ta thấy ý
nghĩa và giá trị của việc lao động: Lao động là bổn phận của mỗi người, lao
động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích lợi cả phần xác
lẫn phần hồn.
Vì hiểu được như thế cho nên Thánh Phaolo đã hăng hái chu
toàn những công việc Chúa giao như chúng ta đã nghe trong bài đọc 2 trích thư
gửi tín hữu côrinto. Là một tông đồ, công việc chính của Phalo là rao giảng tin
mừng. Ngài đã hăng hái làm trọn công việc đó, thậm chí Phaolo còn nói: Khốn cho
tôi nếu tôi không rao giảng tin mừng. Ngài còn nói thêm: Giả như tôi tự ý đảm
nhận công việc ấy thì tôi mới có công. Còn nếu tôi làm vì đó là nhiệm vụ thì
tôi còn mong phần thưởng ở đâu nửa. Tôi đã nên mọi sự cho tất cả mọi người để
làm cho mọi người được cứu rỗi. Thánh Phaolo đã hiểu rỏ ý nghĩa và giá trị của
việc mình làm nên đã tự nguyện hăng hái làm việc không ngơi nghỉ.
Anh chị em thân mến, làm việc không phải là gánh nặng mà
là ý nghĩa của cuộc đời. Ngày xưa Thiên Chúa dựng nên con người rồi đặt họ
trong vườn địa đàng để họ canh tác và giữ vườn. chính Đức Giêsu cũng làm việc
bận rộn suốt ngày, từ sáng tới tối. Việc làm của Ngài là rao giảng tin mừng,
chữa bệnh và trừ quỷ.
Trong thánh lễ này, chúng ta hãy xin chúa cho chúng ta ý
thức giá trị của việc làm, và giúp chúng ta siêng năng làm việc theo gương
Chúa. Xin chúa tha thứ những lần chúng ta lười biếng không chịu làm việc, không
biết thánh hoá những việc mình làm, và tha thứ cho những việc làm sai trái của
chúng ta.
Đồng thời chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những
công việc của mình, Xin chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để
có thể đảm nhận những công việc ấy, xin ngài chúc lành cho việc làm của chúng
ta sinh ra nhiều kết qủa tốt đẹp để mưu cầu lợi ích cho bản thân và để giúp ích
cho những người khác. Và đặt biệt xin Chúa giúp chúng ta biết giành ra một phần
thời giờ, một phần sức lực để làm việc mở mang nước Chúa nơi trần gian.
Lao động là nhọc nhằn vất vả, nhưng lao động cũng là
nguồn vui, là tiền đề cho cuộc sống ấm no hạnh phúc, và nhất là lao động tạo
dịp cho chúng ta góp phần vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy bí quyết hoạt động của
Chúa Giêsu. đó là lúc nào Ngài cũng hướng tâm hồn về thiên Chúa và sống kết
hiệp với Ngài. Thánh Maccô ghi nhận: sáng sớm tinh sương, Chúa Giêsu đã dậy, đi
ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó. Ước gì đó cũng là bí quyết hoạt động
của chúng ta: Cầu nguyện để được củng cố và chu toàn sức mệnh được trao phó là
mở rộng nước Chúa khắp cùng trái đất.
Lạy Chúa, Chúa đã nêu gương cần cù làm việc từ sáng đến
tối. Chúa làm việc không phải vì bản thân Chúa mà để cứu giúp mọi người. Chúng
con xin dâng lên Chúa những việc làm vất vả hằng ngày của chúng con. Xin chúa
thánh hoá những việc làm ấy và cho chúng sinh nhiều hoa quả tốt lành. Amen.
89. Cái tình của Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại những việc Chúa Giêsu đã làm
cho người ta: như chữa cho bà mẹ vợ của ông Phêrô được khỏi cơn sốt. NgàI lại
chữa lành nhiều bệnh nhân nào là kẻ què, kẻ mù, người điếc, người câm, kẻ xấu
nết, và người chết được sống lại....
Tại sao người ta thích đến với Chúa Giêsu? Tại vì Chúa
Giêsu người ta thấy có "cái tình", có niềm thương cảm đối với những
người xấu số, sầu khổ. Có bài ca rằng: "Đẹp thay những bước chân tiến vào
giữa lòng thế giới, đem tình thương (2) Chúa trời, đem niềm vui cứu đời cho mọi
người và mọi nơi".
Trong con người Chúa Giêsu chất chứa đầy cái tình người.
Ngài không ngồi yên được, mà phải đi đến với người ta để thi ân, để giúp đỡ.
Ngài cũng còn truyền cho các môn đệ đi từng hai người một đến với họ để thi
hành việc bác ái.
Ngày nay loài người còn cần đến tình thương không? Ai là
người ban cái tình đó cho nhân loại? Phải chăng chỉ có các Linh Mục, Giám mục,
Đức Thánh Cha? Phải chăng sứ mạng tông đồ rao truyền "cái tình của Chúa
Giêsu" chỉ có giới tu sỹ? Các ngài đã và đang làm rồi.
Số báo Dân Chúa tháng 2 năm
1985, có đăng tin Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ Nhị đã thể hiện tình thương của
Chúa qua các cuộc viếng thăm có vụ: Ngày 5 tháng 12 năm 1984 ngài tiếp ông
Antôn Magalhaes Martin 72 tuổi, người Ba Tây bị cùi lở loét suốt 52 năm, từ khi
ông được 25 tuổi. Và cha Mario Gerlin Tuyên úy người cùi 10 năm. Ông cảm động
vì lời khuyên của Ngài. Ông nhân danh người cùi thế giới cám ơn Đức Thánh Cha.
Cha Gerlin tuyên bố: "Việc Đức Thánh Cha tiếp ông Martin là một phấn khích
lờ lao cho 350.000 người cùi Ba Tây, và 20 triệu người cùi thế giới. Nghĩa cử
đó xoá bỏ thành kiến sợ người cùi của nhiều người".
Cha Vincent làng thượng đi thăm
một gia đình nghèo: Bà khóc lóc kể lể sự cơ cực xơ xác, rách rưới của gia đình.
Bà xin giúp đỡ. Bà nói luôn miệng, thỉnh thoảng cha mới xen vào được một câu an
ủi. Cuối cùng bà nói: "Con cám ơn cha đã giúp con". Cha ngạc nhiên vì
chưa giúp bà được cái gì. Nhưng bà nói ngay: "Con cám ơn cha nhiều nhất vì
cha thông cảm được sự đau khổ của gia đình con. Đã an ủi con chịu khó theo
Chúa, nên con thấy vui khi nghèo".
Sứ mệnh của chúng ta ra sao?
Chúng ta không đủ khả năng để chữa bệnh phần xác nhưng chữa bệnh tâm hồn, bằng
lời cầu nghuyện, bằng tâm tình quảng đại hướng về người nghèo khổ. Thăm nom là
phần thưởng lớn đối với người nghèo khổ. Khích lệ bệnh nhân, một lời an ủi tại
nhà, tại bệnh viện. Nhiều khi chỉ nghe người ta bày tỏ cũng là đủ an ủi rồi.
Hoặc gọi điện thoại khích lệ cũng là một lời thăm hỏi rất tốt.
Câu chuyện cảm động về "Nụ
cười khích lệ" tôi muốn kể cho anh chị em nghe:
Trong vùng có một quân nhân xấu
ai thấy cũng chế diễu, bửu môi, đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống
đời cô đơn uồn tủi. Khi anh chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay
anh:"Xin trao số tiền 10,000 đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc
sống của tôi không nhận được nụ cười nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của
bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi,
khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô đơn".
Cũng một câu chuyện nữa về một
"Lời nói thân tình".
Tại một góc hè phố, người hành
khất bại tay, nằm co quắp mở miệng xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông.
Người thì cho cách khinh bỉ. Một người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi
rồi chẳng tìm được gì, ông nói: "Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng
bất ngờ tôi không có đồng xu nào trong túi mình cả". Người ăn xin trả lời:
"Cám ơn ông, ông đã cho tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi
bằng "Bác" thành thật chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng
đó trên môi miệng một người sang trọng bố thí cho tôi".
Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái
tình" của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống. Xin
Chúa Giêsu cho chúng ta hiểu được niềm thương cảm khổ đau và ân tình của Chúa,
để chúng con biết "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi
lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm".
90. Một đời thương cảm
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh,
tử. Đã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ
giã cuộc đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão. Đã có lúc khoẻ
mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con
người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như
thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận
được.
Tiếng kêu thương
Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong
những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ
của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu,
phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau
không dứt... Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào
đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người
ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải
người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì
đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên
nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra... tất cả vẫn
đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi
người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than
vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã
nói lên được niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.
Vị Thượng Tế biết thương cảm
Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu
Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu.
Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và
tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày.
Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày
mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông
Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác
Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho
mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể
xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.
Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy
lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại
trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào
động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và
gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa,
Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục... (Dt
5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu,
Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra
trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón
nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế?
Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương
"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc
10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ,
nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy
sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu
chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để
có khả năng phục vụ theo gương Người.
Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công
trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài
lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ
mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ
Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không
thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã
làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm
mà Đức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy
được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm
thấy mình được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được
như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục
thực hiện, lòng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn
những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng
đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.
Lời nguyện của người được sai đi
Lạy Chúa,
Việc loài người biết nhận ra
Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể,
trong Thánh Kinh... điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài
lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của
con, thì quả là khó tưởng nghĩ được. Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi
con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi,
là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con
tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông
chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính
con.
Thật thế, con biết rõ điều đó.
Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn.
Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân
lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của
Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài
vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân
hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la
mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu
dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho
dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí
phàm trần khốn khổ....
Lạy Chúa, Con là người được sai
đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn,
không còn danh hiệu nào vinh dự hơn.... Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình
thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con....
Lạy Chúa,
Xin để cho con biết ngỡ ngàng
khi thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã
sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được
niềm vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy,
mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất
chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)
91. Hối lộ quan toà
Đối với Chúa Giêsu, sáng hôm đó quả thật là một ngày thật
vất vả. Ngài đã giảng dậy trong hội đường với một quyền bính làm cho mọi người
phải kinh ngạc. Trong khi Ngài giảng dậy thì bị gián đoạn bởi tiếng kêu cầu do
một người bị quỷ ám. Chúa Giêsu đã làm cho dân chúng kinh ngạc khi Ngài chữa
lành cho người đàn ông bị quỷ ám đó. Khi Ngài rời khỏi hội đường đến nhà ông
Simon và Anrê. Ở đó Chúa Giêsu chữa lành cho mẹ vợ của ông Simon khỏi bịnh. Khi
trời tối, dân chúng trong làng tuôn đến với Ngài để xin chữa bệnh về tâm thần
cũng như thể lý. Mọi người đều nhìn xem và kêu lên rằng: "Ngài đã chữa
lành nhiều người mắc bịnh nan giải và trừ được nhiều người bị quỷ ám."
Trong
bài Phúc Âm hôm nay, khi trời vừa hừng đông, Chúa Gisêu đã thức dậy thật sớm,
tìm một nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Ngài biết rằng trong ngày hôm nay Ngài sẽ
vất vả vì nhiều sự đòi hỏi của dân chúng nơi ngài như đám đông dân chúng sẽ
chen lấn Ngài khi Ngài vào trong làng. Ngài cũng biết cho dù Ngài ở đâu đi nữa,
dân chúng sẽ kêu tên Ngài và xin cứu chữa cho họ. Và chắc chắn trong đó sẽ có
những người Luật Sĩ và Pharisiêu sẽ thách thức về quyền giảng dậy của Ngài, đặt
những câu hỏi và tìm mọi cách để làm cho danh tiếng của Ngài bị ô danh. Dĩ
nhiên Ngài cũng biết rằng các môn đệ sẽ hiểu lầm về Ngài và muốn Ngài làm vài
điều theo ý của họ. Chính vì những sự đó nên Chúa Giêsu cần có những giây phút
để cầu nguyện.
Một
nhà thơ ẩn danh đã làm một bài thơ như sau:
Tôi
thức thật sớm và chạy ngay đến chỗ ẩu đả.
Với
quá nhiều việc cần phải làm, tôi không có giờ để cầu nguyện.
Những
khó khăn vây quanh tôi và tôi thấy thật nặng nề trong mọi công việc.
Tôi tự
hỏi Chúa ở đâu sao không giúp con? Chúa trả lời, "Con không kêu cầu
Ta."
Tôi cố
tìm lối thoát nhưng tất cả đều đen tối.
Tôi
hỏi Chúa tại sao, Ngài trả lời, "Con không tìm kiếm nơi Ta."
"Xin
thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp," đó chính là lời Chúa Giêsu đã tuyên bố trong
bài giảng trên núi (Mt 7:7). Nhưng chúng ta có thể sai lầm khi tưởng tượng rằng
Chúa Giêsu đã tán dương những lời cầu nguyện thầm thĩ của chúng ta. Ngay khi
vào đầu bài giảng, Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta cảm thấy mâu thuẫn: Thầy bảo
các con biết chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình lấy gì mà ăn, hay lo cho
thân xác mình lấy gì mà mặc. Hãy nhìn xem chim trời, chúng không gieo, không
gặt, không thu lẫm. Ngay cả Salômôn trong tất cả vinh quang của ông, cũng không
trang phục được bằng chúng. Nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn mai mất mà còn được
Chúa gần gủi huống chi con người, Ngài còn yêu thương chúng ta biết mấy. Hỡi
những kẻ kém lòng tin, đừng lo lắng quá, hãy tìm Nước Chúa trước còn những điều
khác Chúa sẽ ban cho các ngươi (Mt 6:25,28-31,33).
Hãy
tìm Nước Chúa trước! Hãy tìm ý muốn của Chúa trước! Cầu nguyện không phải là để
kéo Chúa tới những cảnh huống khó khăn của chúng ta, vì Chúa biết mọi sự sẽ xẩy
đến cho chúng ta. Cầu nguyện cũng không phải là việc chúng ta nói với Chúa về
những điều chúng ta muốn cho chúng ta, vì Ngài đã biết chúng ta cần những gì.
Cầu nguyện chính là chúng ta vui lòng để cho Chúa thực hiện điều Chúa muốn nơi
chúng ta như trong Thánh Vịnh đã viết: "Hãy bình thản và biết rằng Ta là
Chúa" (Tv 46:10). Cầu nguyện là việc chúng ta lắng nghe tiếng Chúa nói
trong thẩm cung lòng của chúng ta. Đừng xin những gì Chúa có thể làm cho chúng
ta. Hãy xin, những gì chúng ta có thể làm cho Chúa. Đừng xin những gì Chúa có
thể ban cho chúng ta, nhưng hãy xin cho chúng ta có thể cho Chúa được gì.
Nhà
khoa học nổi tiếng Isaac Newton là một con người cầu nguyện. Ông ta nói rằng:
Tôi có thể dùng kính thiên văn để nhìn không gian xa hằng triệu triệu cây số
được. Và tôi cũng có thể bỏ nó vào một góc nhà để tôi quỳ xuống và cầu nguyện
với Thiên Chúa, Đấng gần gũi tôi hơn những vật chất trần gian.
Là con
người, chúng ta thường hay cầu nguyện khi chúng ta gặp phải những gian nan khốn
khó xảy đến như: chiến tranh, tranh chấp trong đời sống hôn nhân. Và những lời
cầu đó thường là xin cho được hoà bình, xin cho được sống thân mật với vợ con.
Nhưng chúng ta không để ý đến điều chúng ta cần phải làm gì để cho chóng chấm
dứt chiến tranh, hay làm cách nào để có thể thương vợ thương con.
Một người đàn ông bị đưa ra toà
để xét xử về tội giết người. Ông ta đến vị thẩm phán và nói rằng: nếu ông có
thể xét cho tôi vô tội, tôi sẽ đưa cho ông một số tiền thật lớn; và ông ta trao
cho vị quan toà một gói tiền. Khi vụ xử án xong, vị quan toà đã kết tội bị can
là kẻ giết người. Sau đó, ở ngoài phòng tòa, bị can đã hỏi vị phẩm phán rằng:
"Ông có thấy khó khăn trong việc đó không?" Ông ta trả lời: "Có!
vì khi bắt đầu ai cũng cho là vô tội."
Khi
cầu nguyện, chúng ta thường hay hối lộ với Chúa, "Lạy Chúa, nếu Chúa ban
cho con điều con xin, con sẽ làm điều gì Chúa muốn. Cho dù có điều gì xảy ra,
cũng đừng thay đổi, nhưng hãy làm theo ý con muốn." Nhưng thật ra Chúa
không bao giờ nhận sự hối lộ của chúng ta, vì mục đích của Chúa không bao giờ
bị chúng ta đánh đổ.
Nếu
chúng ta cảm nghiệm được rằng chúng ta đang thăng tiến trong cuộc lữ hành trần
gian để về quê trời, thì chắc chắn rằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta phải
được nuôi sống bằng chính việc cầu nguyện. Khi chúng ta nhận thấy sự cầu nguyện
ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta, lúc đó chúng ta mới biết được Chúa là Thiên
Chúa. Chúng ta sẽ luôn vững tâm và nghe được tiếng nói của Ngài trong tâm hồn
chúng ta. Chúa thường đến với chúng ta cách bất ngờ và chúng ta sẵn sàng đáp
lại tiếng Chúa trong tin tưởng, yêu thương và đầy hy vọng. "Hãy thi hành ý
muốn Chúa muốn nơi chúng con. Không theo ý chúng ta, nhưng theo ý Ngài."
92. Phục vụ tha nhân
Chúa Giêsu vừa mới từ Hội Đường Caphácnaum, nơi Ngài đã
phụng sự Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua
việc chữa lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành
người đầy tớ của thầy đội (Mt 8, 5-13). Khi Chúa Giêsu ở Caphácnaum, Ngài không
có nhà riêng, trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị
sốt.
Có 3 loại sốt thường thấy ở Palestine. Một loại được gọi
là Malta có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và
chết. Một loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kỳ. Nhưng nặng nhất
là sốt rét da vàng. Nơi gần sông Gio-đan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy
là môi trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria
là địa bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo
bủng da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ
vợ ông Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy
và chữa bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời
cầu xin được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về 3 hạng người:
1. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ CHÚA GIÊSU:
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố
quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà
tranh cũng như giữa đám đông trong Hội Đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để
không cứu giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của
chính Ngài. nhưng trên hết, tại đây cũng như trong Hội Đường. Chúng ta thấy các
phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều
người thầy trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu,
những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật.
Trong Hội Đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và chữa bệnh được
hoàn tất ngay.
Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của
Phêrô đang đau chứng bệng mà Kinh Talmud của người Do-thái gọi là "một cơn
sốt thiêu đốt". Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh
này. ngưới ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn
tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là
câu 2, 3 rồi đến câu 4, 5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế
người ta xem phần chữa trị đã xong.
Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật
thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài
đã chữa lành cho bà cụ. Bác sĩ Paul Tournier có viết: "Bệnh nhân của tôi
thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều
tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm".
Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm
uy tín, giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một
cách tự nguyện, tự nhiên, vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự
cứu giúp của Ngài.
2. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ MÔN ĐỆ CỦA NGÀI:
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ
phút gặp gỡ ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình
đến cho Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn
đệ Ngài trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng
nhất trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị Mục Sư lão thành và
ông cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết
sức kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị Mục Sư nọ. Nó giống hệt phần
tiếp tục câu chuyện thân mật mà vị tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với
Chúa Giêsu.
Bác sĩ Tournier viết tiếp: "Về đến nhà tôi sẽ kể cho
vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng
được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ Mục Sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở
thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài
vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn
thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ
những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt
khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi
được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện
với Ngài về người ấy".
Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của người
Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen
cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài
giúp đỡ mình.
3. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VÀI ĐIỀU VỀ BÀ NHẠC GIA CỦA
PHÊRÔ:
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục
vụ. Bà cụ đã dùng phần sức khỏe hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ.
Ta đã sử dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết tuyển tập "Chuyện Hay Nhất
Thế Giới" trong đó, ông kể: "Đấng
Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phân sặc sỡ. Khi
đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một
thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi: "Sao ngươi lại bỏ phí
linh hồn trong say sưa?" Hắn đáp: "Thưa Chúa, tôi là người phong đã được
Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn"? Đi xa hơi một chút
nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài
bảo: "Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?" Chàng
đáp: "Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết
làm gì khác hơn?" Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm
co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: "Lạy Chúa, tôi là
người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?"
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã
tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của
ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là
cách chúng ta sử dụng mọi Hồng Ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng
rể như thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo Hội, Phêrô đã viết thư
khuyên giáo dân: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải
dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên
hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ,
thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn
vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (1Pr 4, 10-11).
93. Con đường nào Chúa đi
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Hạnh phúc như gần mà như xa. Làm sao thực hiện được những
lời cầu chúc đầu xuân giữa một nhân loại còn đầy những người nghèo khổ, bị áp
bức và bị gạt ra ngoài lề xã hội? Làm sao hạnh phúc khi con người chưa được làm
người vì bị đè bẹp dưới những cơ chế bất công và truyền thống lỗi thời?
THỰC TẾ CON NGƯỜI VÀ SỨC MẠNH THIÊN CHÚA
Ngoài Thiên Chúa, không ai có thể đem lại mùa xuân cho
nhân loại. Đức Giêsu đã mạc khải cho mọi người thấy sức mạnh phá tan mọi đau
khổ, đem lại hạnh phúc cho muôn người, phát xuất tự nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu
chính là sức mạnh đó. Người biết rõ đau khổ xuất phát tự mối tương quan bị đổ
vỡ giữa Thiên Chúa và con người. Nguyên nhân chính của sự đổ vỡ đó là ma quỉ.
Nhưng ma quỉ cũng không làm gì được nếu con người không muốn. Cuối cùng chính
vì lòng tham dục của con người, tội lỗi đã lọt vào trần gian và gây nên đau
khổ, chết chóc. Như vậy, thực sự không có gì mâu thuẫn giữa quan điểm Phật giáo
và Kitô giáo về đau khổ. Chỉ khác nhau một điểm, Kitô giáo phân biệt những dục
vọng tốt và xấu. Dục vọng xấu xa nhất chính là tính kiêu ngạo đã đẩy con người
lên cõi mơ ngang hàng với Thiên Chúa. Con người đã vỡ mộng. Do đó có đau khổ.
Hạnh phúc trở thành giấc mơ.
Nhưng có những đau khổ không tùy thuộc vào dục vọng hay ý
muốn con người. Có những nạn nhân vô tội chịu đựng những thiên tai khủng khiếp.
Biết bao sinh linh đã bị chìm ngập trong dòng nước lũ tại miền Trung hay tại
Venezuella. Chính ông Job đã kinh nghiệm sâu xa về nỗi oan ức đó. Ông không thể
hiểu nổi chương trình quan phòng của Thiên Chúa. Cuộc đời như chìm trong sự
nhàm chán, tuyệt vọng. Giữa đau khổ, ông đã thốt lên: “Ngày đời tôi thấm thoát
hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hi vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ
cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (Jb
7,6-7).
Đức Giêsu cũng là nạn nhân vô tội của một cơ chế bất
công. Nhưng Người đã tìm thấy ý nghĩa và niềm hi vọng ngay trong những đau khổ.
Người không thể chịu đựng nổi trước những đau khổ của con người. Bởi thế, Người
đã ra tay hành động để trấn át ác thần đang hoành hành trong thân xác và tinh
thần con người. Điển hình, Người đã chữa lành “bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn
sốt, nằm trên giường” (Mc 1,30). Khắp nơi “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc
đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ” (c.34). Người đi ngang qua những khổ đau như
giới hạn nhốt chặt thân phận con người. Chính vì thế, quyền năng Thiên Chúa đến
như một sức mạnh giải thoát. Nếu đời là bể khổ, Đức Giêsu đã lặn ngụp xuống bể
khổ đó và đẩy nhân loại lên bằng chính sức mạnh Tin Mừng. Người đã dùng chính
những cay đắng của bể khổ đó để tẩy rửa những vết thương trần gian. Nhờ sức
mạnh Thánh Linh, nước bể khổ đó cũng có sức mạnh thanh tẩy những bụi bặm và hôi
hám thế tục. Nhờ đó, hình ảnh Thiên Chúa xuất hiện nguyên vẹn trong con người
và cuộc đời Kitô hữu.
SỨ MỆNH GIẢI THOÁT
Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa để đẩy mạnh công
cuộc rao giảng Tin Mừng về Nước Thiên Chúa. Tự bản chất, Tin Mừng là một sức
mạnh giải thoát con người. Thế nên, Tin Mừng được rao giảng tới đâu, niềm vui
dâng cao tới đó. Bằng chứng sau khi khó nhọc tìm Đức Giêsu, các môn đệ reo lên:
“Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (c.37).
Nhưng chính lúc mọi người tìm Thầy, Thầy lại không muốn
dừng lại để hưởng trọn lòng ngưỡng mộ đó. Thầy không bằng lòng với những gì đã
làm. Thầy muốn đi xa hơn những thành công hôm qua. Còn nhiều nơi khác, nhiều
người khốn cùng khác đang chờ đợi bước chân Thầy. Chính Thầy đánh thức các ông
khỏi cơn mê ngủ với danh vọng của Thầy: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng
xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó” (c.38). Tin Mừng phải hướng tới những nơi đang phủ đầy bóng đêm tội lỗi.
Cảnh nhân loại khổ đau đã thôi thúc Thầy tiến tới không ngừng:“Người đi khắp
miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ” (c.39).
Đó là cách Người thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Nói
khác, “đối với thánh Marcô, Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Thiên Chúa bao gồm
toàn thể biến cố, lời nói và hành động” (Dupuis 1995:279). Thật vậy, Người hành
động khi làm phép lạ, tiếp xúc với quần chúng, dẹp yên những ảnh hưởng tà thần.
Ngay những dụ ngôn cũng đầy dẫy những hình ảnh linh động. Ngang qua hành động,
Tin Mừng đã được công bố cho muôn dân. “Phép lạ là Tin Mừng đang hành động”
(Dupuis 1995:280). Cộng thêm với lời Đức Giêsu nói, các phép lạ thúc đẩy con
người chấp nhận Nước Thiên Chúa. Nhất là khi trừ quỷ, Đức Giêsu càng tỏ rõ uy
quyền Thiên Chúa vàsức mạnh Tin Mừng giải thoát. Lực lượng thần dữ đã đến ngày
tàn. Đức Giêsu đã mở ra một chân trời mới, phóng tầm nhìn nhân loại tới Nước
Trời, nơi chan chứa niềm vui và tự do. Từ nay con người sẽ không còn phải gò bó
trong những đòi hỏi luân lý cứng ngắc, nhưng hoàn toàn sống tự do theo Tin Mừng
vì Nước Trời đã đến nơi con người Đức Giêsu Kitô.
Tin Mừng Đức Giêsu đã đem lại nguồn an ủi và hi vọng lại
cho bao người sầu khổ và thất vọng. Vì Đức Giêsu đã hoàn toàn đồng hóa với
những người nghèo và Tin Mừng đã được rao giảng cho họ trước tiên. Tất cả những
người nghèo khổ, bị áp bức và bị gạt ra ngoài xã hội đều góp phần xây dựng Nước
Thiên Chúa. Vì chính họ sẽ được hưởng trọn niềm vui giải thoát nhờ cái chết và
sự phục sinh của Đức Giêsu. Người không chấp nhận đối xử phân biệt với những
người kém may mắn về vật chất. Người muốn chống lại những cơ cấu xã hội và tôn
giáo bất công, nguyên nhân gây nên cảnh khốn cùng cho con người cả về vật chất
lẫn tinh thần. Bởi vậy Tin Mừng có một chiều kích giải phóng toàn diện con
người. “Người không phải là một nhà cách mạng chính trị, nhưng cuộc sống và cái
chết của Người có một chiều kích chính trị, vì Người có những thái độ thách
thức và đe dọa những nhà cầm quyền tôn giáo và chính trị” (Dupuis 1995:281).
Cũng thế, Giáo hội không phải là một tổ chức chính trị.
Nhưng Giáo hội không thể im lặng trước những cảnh người nghèo bị đàn áp bất
công. Vì “thúc đẩy thực hiện công lý và tham gia vào việc biến đổi thế giới là
một “chiều kích cốt yếu” của sứ mệnh Phúc Âm hóa của Giáo hội.” (Dupuis
1995:282) Bao lâu còn người nghèo, bấy lâu sứ mệnh Giáo hội càng cấp thiết.
Nhân loại hôm nay đang quằn quại dưới những cơ chế tôn giáo và xã hội bất công,
người môn đệ Đức Kitô có nghe thấy những tiếng rên siết của bao người bất hạnh
đó không? Rao giảng Tin Mừng là đang đem lại mùa xuân cho nhân loại. Mùa xuân đang
đến trên quê hương, vì các môn đệ Đức Kitô đang xông pha đem Tin Mừng đến cho
tất cả những ai nghèo khổ. Tôi có được kể vào số những môn đệ đó không? Tôi có
sẵn sàng đối thoại với mọi người thiện chí và can đảm đối diện với những thách
đố thời đại để đem lại hạnh phúc ấm no cho mọi người không?
94. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Hiền)
Chúa Giêsu Kitô, "trọn một
ngày đời" vì mọi người và cho mọi người.
"Hôm ấy", (chúng ta có thể khẳng định đó là ngày sabbat), các tín
đồ Do Thái giáo tập trung đến hội đường để nghe giảng sách Luật. Đó là dịp để
Chúa Giêsu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi người. Chúa Giêsu cũng đến
hội đường để chu toàn bổn phận Do Thái giáo, và hơn thế nữa, để chính Thiên
Chúa trực tiếp nói với loài người, Thiên Chúa trực tiếp giảng dạy loài người,
dựa theo những gì Chúa đã nói trong Kinh Thánh. Như vậy từ sáng đến trưa, Chúa
ở trong hội đường để giảng dạy kinh thánh, để giúp mọi người hiểu biết Kinh
Thánh.
Chúa nhật, "hôm ấy" của Kitô giáo, mọi tín hữu
đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nghe giảng Lời Chúa. Xin cho chúng ta hiểu Lời
Chúa, thực hành Lời Chúa và giúp anh chị em mình sống Lời Chúa.
Sứ vụ của Chúa Giêsu còn là cứu chuộc nhân loại:
"Người lại gần, cầm tay bà mà đỡ dậy". Con người bị mất cuộc sống an
nhàn, đời sống yêu thương và phục vụ (Bà mẹ vợ ông Phêrô lên cơn sốt, phải nằm
giường). Chúa Giêsu đến gần ngay bên, cầm tay nâng đỡ dậy: Chúa có quyền năng
khôi phục lại những gì thiện hảo mà loài người đã đánh mất. Chúa Giêsu có quyền
năng Cứu chuộc. Bà lành bệnh và tiếp tục phục vụ anh chị em. Bà sống lại cuộc
sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa cứu chuộc không chỉ một người, mà nhiều người và mọi
người ở mọi thời. Thật vậy, "Chiều đến, khi trời đã lặn", người ta
mới đem mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám... Chúa chữa lành
tất cả.
Ước gì tất cả mọi người đã được Chúa Giêsu cứu chuộc,
những người đến vào buổi chiều, tất cả chúng ta nữa, sau khi lành bệnh, sau khi
được cứu chuộc, cũng biết sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu đi đến nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Chúa Giêsu rất quan tâm đến giờ cầu nguyện, ví như không
thể thiếu trong đời sống của Chúa. Trước khi đi rao giảng: Chúa dùng 40 đêm
ngày để cầu nguyện; trước khi chọn 12 Tông đồ: Chúa cầu nguyện thâu đêm; và ở
đây, trước khi đi nơi khác: Chúa cũng cầu nguyện suốt đêm. Giờ cầu nguyện của
Chúa, ví như việc tiếp thêm nhiều nhiên liệu cho chiếc xe khi phải đi xa, càng
xa càng nhiều xăng dầu...
Xin cho chúng ta siêng năng và sốt sắng cầu nguyện: Trước
sự việc càng khó, càng cầu nguyện nhiều; càng đương đầu với những tấn công của
ma quỷ, chúng ta càng cầu nguyện nhiều hơn. Và trong đời thường cũng biết dành
thời gian cầu nguyện: cầu nguyện như nguồn sức sống của chúng ta.
"Mọi người đang tìm Thầy!"
Các môn đệ bày tỏ cái nhu cầu của nhân loại: "Mọi
người đang tìm Thầy". Nghe lời giảng dạy của Chúa, chứng kiến việc làm của
Chúa, cùng sống chung với Chúa, các môn đệ nhận định: chỉ mình Chúa Giêsu, duy
nhất chỉ có Thầy đây mới là Đấng Cứu chuộc nhân loại, không thể là ai khác. Và
nếu mất Thầy, thiếu vắng Thầy, người ta không thể làm gì được.
Chúng ta cũng phải khám phá ra trong đời mình: Không thể
thiếu vắng Chúa Giêsu. Xin cho mọi người đi tìm gặp Chúa Cứu Thế.
Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác"
Chúa Giêsu ý thức sứ vụ của mình "vì mọi người và
cho mọi người". Chúa Cứu thế không phải chỉ cho những người môn đệ Chúa, ở
Capharnaum,... Chúa còn phải đi đến những nơi khác, khắp nơi trên thế giới, ở
mọi thời đại nữa. Chúa đi và dẫn các môn đệ cùng đi: "Chúng ta hãy đi nơi
khác".
Chúng ta là Kitô-hữu, là môn đệ của Chúa, chính chúng ta
phải là hiện thân của Chúa, phải nói những lời Chúa nói, phải làm những việc
Chúa làm cho những người đang sống ở đây và trong ngày hôm nay.
95. Từ thán phục đến đức tin
(Chú
giải và Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn
này có một phần thuộc về một toàn bộ gọi là “ngày ở Caphácnaum” (1,21-34; xin
coi bài CN tuần trước). Nhưng “một ngày ở Caphácnaum” lại thuộc về toàn bộ rộng
lớn hơn (1,14-39), trong đó Đức Giêsu tỏ mình ra tại miền Galilê, đến bờ Biển
Hồ, vào thành Caphácnaum, đi đến hội đường, ra khỏi đó, đến chiều thì ra cổng
thành, sáng hôm sau thì rời thành để rảo khắp miền Galilê, và cứ thế, “rao
giảng trong các hội đường và trừ quỷ” (1,39). Nói cách khác, Người làm khắp nơi
những gì Người đã làm tại hội đường Caphácnaum: giảng dạy và trừ quỷ.
2.- Bố cục
Bản
văn này có thể chia thành ba phần:
1)
Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (1,29-31);
2) Một
“bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (1,32-34);
3) Một bước đi tới nhằm thực
hiện sứ mạng của Đức Giêsu (1,35-39).
3.- Vài điểm chú giải
- Vừa ra khỏi… (euthys, “tức khắc”) (29): Trạng từ này chỉ có vai
trò chuyển mạch, chứ không chỉ về thời gian chính xác, bởi vì từ phép lạ trừ
quỷ đến việc chữa bệnh cho bà mẹ vợ Simôn, hẳn là đã có một khoảng thời gian
khá dài thì “danh tiếng Người mới đồn ra khắp cả vùng lân cận miền Galilê” (c.
28). Tác giả thường dùng trạng từ này mà không gán cho nó một ý nghĩa chính xác
nào cả (chỉ trong ch. 1 đã có 11 lần: cc. 10.12.18.20.21.23.28.29.30.42 và 43).
Ở đây Người đang tìm cách giới thiệu một ngày mẫu trong sứ vụ của Đức Giêsu:
“Ngày ở Capharnaum”. Do đó, ta không nắm được thời điểm chính xác của các sự
kiện. Nhưng ta có thể cho rằng chuỗi “chữa bà mẹ vợ Simôn – các cuộc chữa bệnh
cbuổi chiều” đã có trước cả khi các TMNL được soạn ra, bởi vì chi tiết “chiều
đến” đã có cả trong Mc và Mt. Lc đã bỏ trạng từ “tức khắc” (euthys) nhưng giữ
lại chi tiết “(rời) hội đường”. Ngài sẽ triển khai chi tiết này thành một đề
tài thần học quan trọng và sẽ lặp lại trong sách Cv: khi Đức Giêsu giảng dạy
trong một thành phố hay làng mạc nào, Người luôn bắt đầu bằng giảng dạy tại hội
đường. Phaolô cũng sẽ làm như thế.
- ra khỏi hội đường (29): Đức Giêsu ra khỏi hội đường không những vì đã đến
giờ đóng cửa, nhưng còn vì những người nghe chưa hiểu gì. Họ còn đang hỏi: “Thế
nghĩa là gì?” (c. 27), như các môn đệ sau này khi chứng kiến trận bão được dẹp
yên: “Vậy người này là ai?” (4,41). Nhưng họ chưa có câu trả lời. Có lẽ đây là
một biểu tượng: bao lâu người ta còn ở trong hội đường, người ta không thể trở
thành môn đệ của Đức Giêsu được; phải ra khỏi đó như thể thực hiện một cuộc
xuất hành mới. Ở c. 39, tác giả dùng một tính từ để phân biệt: “các hội đường
của họ”. Ở xa hơn, ngài kể rằng sau khi Đức Giêsu đã làm phép lạ trong hội
đường, nhóm Pharisêu bàn tính với nhóm Hêrôđê để tìm cách giết Người (3,1-6).
Chính vì thế, Người lánh về phía Biển Hồ: Người đi ra và người ta lũ lượt đi
theo Người (3,7). Trước khi xảy ra sự cố bánh hoá ra nhiều, Đức Giêsu cũng lánh
riêng ra một nơi và người ta kéo đến với Người (6,32-33). Người còn ra khỏi Đền
Thờ và thành Giêrusalem (11,11; 11,19; 13,1). Lc còn nói rõ hơn: lần đầu tiên
giảng dạy tại hội đường Nadarét, Đức Giêsu đã phải tránh đi để khỏi bị giết (Lc
4,16-30).
- Đến nhà hai ông Simôn và Anrê (29): Phải chăng tác giả muốn
đối lập hội đường với nhà Simôn, được coi như hình ảnh của Hội Thánh? Thật ra,
Mc chưa nhắm đến tên “Phêrô” với sắc thái Hội Thánh như Mt và Lc: hai tác giả
này chỉ còn nói đến Phêrô mà thôi (x. Mt 8,14; Lc 4,38), nên trong hai bản văn
này, ý nghĩa “Hội Thánh” rõ ràng hơn.
- Có ông Giacôbê
và Gioan
(29): Bốn môn đệ đầu tiên, những người thân tín nhất, được chứng kiến phép lạ.
Câu này hẳn là có giá trị như một ngoặc đơn, do chính Phêrô kể cho tác giả Mc.
- Bà lên cơn sốt (30): Pyressousa là phân từ nữ tính của động từ Hy Lạp
pyressô, “bị sốt” (trong động từ này, có từ pyr, “lửa”. Trong bản văn song
song, Mt 8,15 dùng danh từ hL pyretos, “sức nóng của lửa; sốt cao”). Đối với
người xưa, “sốt” không phải là một triệu chứng mà là một bệnh. Sốt, đôi khi đưa
đến tử vong, là một trong các hình phạt Đức Chúa (Yhwh) dành cho dân thất trung
của Người (x. Lv 26,16). Cũng như cho các chứng bệnh khác, người ta thích gán
cho “sốt” một nguồn gốc thuộc ma quỷ (so sánh Lc 4,39 và Mt 8,15 (= Mc 1,31),
mà chỉ có việc cầu nguyện và một phép lạ mới thắng được (x. Ga 4,52; Cv 28,8).
Theo
viễn tượng này, dân Caphácnaum hẳn là hiểu rằng phép lạ giới thiệu Đức Giêsu là
vị sứ giả của Thiên Chúa mà ngôn sứ Isaia đã hứa; vị này sẽ cứu loài người khỏi
những nỗi đau buồn, hậu quả của sự dữ luân lý (x. Is 26,19; 29,18t; 33,3;
35,5…). Vậy phép lạ này là dấu cho thấy đã đến thời cánh chung, thời thiên sai:
Đức Giêsu đang hành động với chính quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng con người còn
phải mất một thời gian mới khám phá ra và chấp nhận được ý nghĩa của dấu chỉ
này.
- Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy (êgeiren) (31): Câu này dịch
sát là: “Và lại gần, Người đỡ bà dậy sau khi đã cầm lấy tay bà”. Muốn diễn tả
một cách thông thường, hẳn là nên viết: “Đức Giêsu cầm lấy tay bà và cơn sốt
biến mất; bà trỗi dậy …”. Đấy là kiểu nói của hai tác giả Mt (Mt 8,15: “bà trỗi
dậy”, êgerthê, aor. pass. của động từ HL egeirô) và Lc (Lc 4,39: “bà trỗi dậy”,
anastasâ, aor 2 của động từ HL anistêmi). Động từ egeirô được Mc dùng ở dạng
ngoại động (transitive) có nghĩa là “giúp trỗi dậy”, đã trở thành một từ ngữ
chuyên môn để nói về sự sống lại.
- bà phục vụ các ngài (31): Trong bối cảnh của phép lạ hoặc đúng hơn trong bối
cảnh của sự tiếp đón Đức Giêsu nhận được tại nhà Simôn, “phục vụ” (HL.
diakoneô) trước tiên có nghĩa là chiêu đãi ăn uống (x. Mc 1,13; Lc 8,55). Nhưng
ở đây, có thể tác giả Mc đang nghĩ đến chính lời Đức Giêsu nói: “Con Người đến
không để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ (diakonêsai)” (10,45).
“Phục vụ” không chỉ hệ tại việc phục dịch bàn ăn, nhưng nếu cần, còn hệ tại
việc “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (c. 45). Đó là lý tưởng Đức Kitô
đề nghị cho những ai Người đã cho sống lại từ cái chết do tội lỗi gây nên.
Riêng
Mt lại viết ở dạng số đơn: “bà chỗi dậy phục vụ Người” (Mt 8,15). Câu này đã
nới rộng ý nghĩa của động từ: “Phục vụ Đức Giêsu” chính là bước theo Người (x.
Mt 25,44: phục vụ những kẻ nghèo hèn bé mọn chính là phục vụ Đức Kitô).
- người ta đem (32): Epheron là động từ Hy Lạp pherô ở thì vị-hoàn
(frequentative imperfect), có nghĩa là “người ta vẫn cứ đem, tiếp tục đem”.
- mọi kẻ ốm (32): Rõ ràng không thể hiểu theo nghĩa đen những câu khẳng
định tuyệt đối như thế (x. Mt 8,16; Lc 4,40). Chúng ta biết là Đức Giêsu không
chữa tất cả mọi người đau ốm; Người đòi hỏi đức tin. Cũng vì thế mà Mc không đi
xa hơn nữa, Người viết: “Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau” (c. 34). Tuy nhiên,
theo não trạng Sê-mít, “nhiều” cũng có nghĩa là “tất cả”.
- Cả thành (33): Có lẽ đây cũng là một kiểu nói phóng đại, tổng quát hoá.
Tuy nhiên cũng có một sự kiện thường xảy ra: truyền thống nhiều lần kể rằng
người ta không thể đi qua cửa nhà bởi vì người quá đông, đành phải kéo người
bệnh lên mái nhà mà thòng xuống (2,1-4) hoặc phải nhờ người báo tin vào trong
(3,32).
- Quỷ (34): Từ daimôn xuất hiện 3 lần trong Mc 1,32-34 và thêm một
lần nữa ở c. 39. Đây là mối bận tâm lớn của Mc. Đức Giêsu đã đến để đánh đuổi
quỷ và giải thoát loài người khỏi quyền lực chúng. Ngay từ đầu, vị Tẩy Giả đã
giới thiệu Đức Kitô như Đấng “mạnh hơn” (1,7). Người đã khởi đầu sứ vụ bằng một
chiến thắng trực tiếp trên Satan (1,12-13). Ngay khi Người lên tiếng rao giảng,
một kẻ bị quỷ ám đã tìm cách ngăn chận Người, nhưng quỷ đã bị trục xuất
(1,23-27). Trong phần Kết (“Kết dài”), dấu chỉ đầu tiên thuộc về người môn đệ
hệ tại việc “trừ quỷ” (16,17). Trong viễn tượng này, mọi bệnh tật đều do ma quỷ
gây nên, mọi cuộc chữa lành bệnh tật đều là một chiến thắng trên quỷ. Chúng ta
cũng ghi nhận là Mc không cung cấp một định nghĩa nào về ma quỷ, cũng không nói
chúng là loại hữu thể nào; nhưng đọc các mô tả của ngài, ta ghi nhận ba nét
tiêu biểu của ma quỷ: 1) chúng có thể chi phối loài người; 2) chúng biết chân
tính của Đức Giêsu và biết Người là kẻ thù của chúng; 3) chúng vâng phục Satan
(3,22-26) là kẻ ở trong sa mạc đã cám dỗ Đức Giêsu (1,13) và hành động chống
lại hoạt động của Đức Giêsu (4,15).
- không cho quỷ nói (34): Tác giả Mc trở lại với lệnh giữ bí mật (thiên sai)
như trở lại với một đề tài ưa chuộng. Quỷ tức khắc nhận ra đối thủ của chúng,
nên chúng đã gầm thét lên có thể vì muốn chiếm thế “thượng phong”, nhưng chắc
chắn vì sợ hãi, vì đã thấy trước thất bại, khi đứng trước Đấng Thiên Chúa sai
phái đến (x. 3,22-27). Đối với dân chúng, Đức Giêsu tự mạc khải ra cho họ cách
tiệm tiến bằng cách cho họ thấy những dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Người trên
những chứng nan y (1,40-45), trên tội lỗi (2,5-12), trên ngày sa-bát (2,28), và
cuối cùng trên sự sống (ch. 15–16). Tuy nhiên, người ta tiến rất chậm.
Như
vậy, một hành vi đức tin đặt nơi Đức Giêsu chỉ thực sự có giá trị khi nó hàm
chứa một hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Người, đặc biệt hiểu rằng
Người phải chết và sống lại để hoàn tất công việc này.
- Người đi cầu nguyện (35): Tác giả Lc sẽ nói nhiều hơn về điểm này. Mc không
cho biết đối tượng hoặc nội dung của lời cầu nguyện của Đức Giêsu, nhưng mẩu
đối thoại sau đó hé cho chúng ta thấy được chiều hướng Đức Giêsu theo khi cầu
nguyện: đối thoại với Cha Người về sứ mạng Người đang thực hiện.
- vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó (38): Phải chăng đây là ra đi
khỏi Caphácnaum hay là rời cung lòng Chúa Cha mà đến trần gian (nghĩa Ga: Ga
16,28; x. Lc 4,43)? Chắc là Mc vẫn còn đang ở gần các sự kiện đã xảy ra: Đức
Giêsu không muốn mình bị cuốn hút bởi thành công. Sau này cũng thế, sau khi
nhân bánh ra nhiều, Người lại rút lui vào cô tịch để tránh dân chúng và để đặt
mình vào trong kế hoạch của Chúa Cha (Mc 6,46; x. Mt 14,23; Ga 6,15b). Cơn hấp
hối tại vườn Ghếtsêmani cho thấy rõ điều này. Các môn đệ, và đặc biệt Phêrô, tỏ
ra ngỡ ngàng, vì các ông chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Việc chữa lành mẹ vợ Simôn (29-31)
Tại
nhà Simôn, Đức Giêsu đã chữa mẹ vợ ông khỏi sốt cao. Như thế, Người cho thấy
Người làm Chúa tể trên một thứ tai họa khác của loài người, đó là bệnh tật.
Nhưng trong nhãn quan của TM II, bệnh tật cũng là do ma quỷ, nên chữa lành bệnh
tật cũng là chiến thắng trên ma quỷ. Ở đây, chúng ta ghi nhận là lần đầu tiên
Đức Giêsu chữa lành bệnh tật là cho một phụ nữ, trong khung cảnh đơn sơ và thân
tình của một ngôi nhà và của một gia đình. Bằng chứng cho thấy bà này đã thực
sự được lành bệnh là bà đã ân cần chu đáo phục vụ các khách quý. Cũng như Đức
Kitô đã đỡ bà mẹ vợ Simôn trỗi dậy khi mà bà đang bị cơn sốt bắt nằm bất động
như một người đã chết, Người cũng nâng chúng ta dậy, cho chúng ta sống lại, để
chúng ta có thể phục vụ Người (x. thêm 9,27).
* Một “bản tóm tắt” về các cuộc chữa bệnh (32-34)
Hành
vi đó của Đức Giêsu trong ngày đầu tiên hoạt động công khai đưa tới hậu quả là
dân chúng hiểu là khi ở trong tình trạng quẫn bách, họ có thể trông mong được
ai giúp đỡ. Khi chiều đến, họ đưa tất cả mọi bệnh nhân và những người bị quỷ ám
đến với Người. Đức Giêsu như bị cả một đại dương đau thương và bần khốn vây
quanh và tấn công; toàn thể niềm hy vọng được đặt để nơi Người. Người có thể
đương đầu với tình trạng quẫn bách này. Người có khả năng giúp đỡ và trong thực
tế Người đã giúp đỡ.
* Một bước đi tới nhằm thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu (35-39)
Vì Đức
Giêsu đã đánh thức và củng cố lòng tin tưởng của dân chúng, không lạ gì khi
chúng ta thấy họ muốn giữ Người lại và như thế chắc chắn là luôn luôn có sự trợ
giúp của Người. Nhưng Đức Giêsu tránh khỏi tay họ: từ sáng sớm, Người đã vào
nơi hoang vắng để cầu nguyện. Và Người không để cho người ta cầm giữ lại. Người
biết rằng nhiệm vụ của Người không phải là trợ giúp thường xuyên dân
Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa
đã gần kề.
+ Kết luận
Tuy
các nhà chuyên môn vẫn nhìn nhận TM Mc là một bản kêrygma hơn là một sách huấn
giáo, điều này không có nghĩa là tác giả nói về đức tin cách hời hợt. Trái lại,
ngài rất đòi hỏi. Chính vì thế, ngài đã có một khoa sư phạm đáng phục: giúp độc
giả tiếp cận với mầu nhiệm Đức Giêsu tiệm tiến. Ngài hiểu rất rõ là đức tin sẽ
đưa người ta đến sự đổi đời với những dấn thân quan trọng. Phải chăng Phêrô đã
nhấn mạnh như thế, sau khi trải qua kinh nghiện đau thương? Nhưng cũng chắc
chắn là bởi vì vào lúc TM II được soạn thảo, các hoàn cảnh trong đó các Kitô
hữu đang sống là những hoàn cảnh rất khắc nghiệt, đòi hỏi người ta phải cương
quyết gắn bó với Đức Kitô cho đến chết.
Đoạn
Tin Mừng này cũng nhắc các Kitô hữu nhớ đến sứ mạng ra đi loan báo Tin Mừng,
bên ngoài những lãnh thổ quen thuộc.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Cũng như ở Caphácnaum, Đức Giêsu đã tiếp nối lời giảng dạy uy quyền bằng việc
trừ quỷ, Người tiếp tục nối tiếp lời loan báo bằng việc dùng uy quyền trục xuất
các sức mạnh đang đối kháng lại Thiên Chúa và hành hạ loài người. Lời nói của
Người được chứng thực bằng việc làm của Người.
2.
Liên kết giữa loan báo và hành vi quyền lực nhằm chữa lành cũng là đặc điểm của
hoạt động của các tông đồ (3,14t; 6,12t). Việc loan báo Triều Đại Thiên Chúa
được củng cố bằng hành động hữu hiệu dựa trên sức mạnh vô song của Thiên Chúa.
3.
Gương Đức Giêsu đi cầu nguyện khiến chúng ta phải xem lại cách chúng ta đánh
giá ý nghĩa của việc cầu nguyện cũng như những tiêu chuẩn giúp chúng ta sử dụng
thì giờ. Nếu chúng ta không thể hoặc không muốn dùng thì giờ mà làm cho mình
được tự do để sống cho Thiên Chúa, các động lực đang nâng đỡ hoạt động của
chúng ta rất có thể cần được xét lại. “Nếu Đấng không có tội mà còn cầu nguyện
như thế, những lẻ tội lỗi còn phải cầu nguyện đến thế nào. Nếu Người đã thức
qua đêm mà cầu nguyện liên lỉ, chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và cũng phải
canh thức đến độ nào” (Thánh Xýprianô).
4.
Cũng nên coi lại giá trị chúng ta gán cho sự thinh lặng, sự yên tĩnh, sự cô
tịch. “Chính Đức Giêsu, với sức mạnh không cần được nâng đỡ trong một cuộc tĩnh
tâm, cũng không bị ngáng trở bởi xã hội loài người, đã quan tâm để lại cho
chúng ta một gương sáng. Trước khi thực hiện sứ vụ rao giảng và làm phép lạ,
Người đã vào nơi cô tịch chịu thử thách cám dỗ và nhịn đói (Mt 4,1t). Kinh
Thánh kể lại cho chúng ta rằng, Người đã bỏ lại đó đám đông môn đệ, mà leo lên
núi để cầu nguyện (Mc 6,46). Rồi khi giờ Thương Khó đã đến gần, Người bỏ các
môn đệ, và ra đi cầu nguyện một mình (Mt 26,36): gương sáng này giúp chúng ta
hiểu sự cô tịch có lợi cho việc cầu nguyện đến thế nào, bởi vì Người không muốn
cầu nguyện bên cạnh các bạn đường, ngay cả các tông đồ.
Không
được bỏ qua một mầu nhiệm liên hệ đến tất cả chúng ta như thế. Là Đức Chúa, là
Đấng Cứu Độ loài người, Người đã cung cấp nơi bản thân một gương sáng sống
động. Một mình nơi hoang địa, Người chỉ lo cầu nguyện và tập tành đời sống nội
tâm – ăn chay, canh thức và những hoa trái khác của việc sám hối – nhờ đó thắng
vượt các cám dỗ của Đối Thủ bằng vũ khí của Thánh Thần.
Lạy Chúa Giêsu, con chấp nhận
rằng ở bên ngoài, không có ai ở với con; nhưng là để cho ở bên trong, con ở với
Chúa hơn nữa. Khốn cho con người ở một mình, nếu bạn không ở một mình với
Người! Và có biết bao người ở trong đám đông mà lại thật sự cô độc, bởi vì họ
không ở với Chúa. Con mong muốn rằng, không bao giờ cô độc, nhờ ở với Chúa. Vào
lúc này, không có ai ở với con, thế nhưng con không cô độc: con là một đám đông
với chính con”
(Guigues le Chartreux, 1083-1136).
96. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Alfonso)
Tin mừng Mc 1: 29-39: Trong đoạn Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu
đã giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp của lao động. Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày
làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu.
Suy Niệm
Từ nhỏ
đến lớn, chúng ta hay nghe câu “Lao động là vinh quang”, nhưng nghe mãi chẳng
hiểu vinh quang ở chỗ nào vì cứ nhắc đến khái niệm đi học đi làm là thấy mệt.
Sao ngày nghỉ cuối tuần trôi nhanh quá, một năm làm lụng vất vả, Tết gì mà nghỉ
có năm bảy ngày, không kịp đi chơi đâu, thậm chí người ta dùng từ “đi cày” nói
lên sự nặng nhọc của việc làm. Nhưng rồi, nếu có lúc nào đó không phải làm gì cả,
chẳng phải đi đâu chi cho mệt, chẳng phải tiếp khách hay bạn bè, đồ ăn đồ uống
sẵn đó, chẳng phải đến trường hay vất vả dậy sớm đi làm chi cho cực nhọc, thử
hỏi trong chúng ta ai sẽ chọn lựa sống như thế, và sẽ sống trong điều kiện đó
được bao lâu, được 21 ngày, hay là ít ra 14 ngày? Nhìn ra điều tích cực trong
mùa dịch này giúp chúng ta ý thức được giá trị của việc học việc làm là ơn Chúa
ban cho, để chúng ta được siêng năng cộng tác với Chúa trong việc duy trì và
làm cho thế giới này tốt thêm lên.
Đoạn sách
Gióp trong bài đọc I vẽ nên một cái nhìn bi quan về công việc con người phải
làm trong cuộc sống: Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất. Con
người giống như một người làm công, tệ hơn nữa xem mình như nô lệ cuộc đời.
Chẳng thế mà giáo lý nhà Phật có câu “Đời là bể khổ”. Cho nên cuộc đời với
những công việc như thế được coi là buồn thảm, bất hạnh.
Nhưng
làm việc không phải là gánh nặng mà nó đem lại ý nghĩa của cuộc đời. Ông bà
mình lại có câu: “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ” hay là “Nhàn cư, vi bất
thiện”. Vâng, công việc đem lại sự an toàn, no đủ cho cuộc sống của mình cùng
những thành viên trong gia đình. Nên con người cần trân trọng công việc và sẵn
sàng hết mình mới công việc ấy.
Trong
đoạn Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã giúp chúng ta nhận ra vẻ đẹp của lao
động. Đoạn Tin Mừng này mô tả một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu:
–
Giảng dạy ở hội đường
– Đến
nhà nhạc mẫu của Simon, chữa cho bà khỏi bệnh sốt.
– Cho đến chiều tối, chữa nhiều người đau ốm
những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ
– Sáng
tinh sương hôm sau, tìm nơi thanh vắng cầu nguyện.
– Tiếp
tục đi đến những làng, những thành lân cận, để rao giảng Tin Mừng.
Có thể
thấy rằng Chúa Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày. Con Thiên Chúa
nhập thể làm người để đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Người không mong
múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, người chia sẻ và ban cho những khổ cực của lao
động một ý nghĩa. Ngay cả sau một ngày bận bịu và mệt mỏi, khi các môn đệ còn
ngủ say thì Chúa Giêsu đã thức dậy sớm, Người tìm một chỗ cầu nguyện khá kín
đáo tĩnh lặng vì Người ý thức cầu nguyện là nhu cầu thật sự. Người cần sống bên
Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc
chiến chống ma quỷ. Vậy chúng ta cũng
được mời gọi bắt chước Chúa Giêsu. Trong học tập, lao động, làm ăn và nghiên
cứu, chúng ta cũng cần dành thời giờ nhất định chạy đến với Chúa, nhất là qua
giây phút cầu nguyện trước những căn bệnh thời đại đang theo đuổi con người như
hình với bóng, thậm chí bệnh này bị khống chế trị liệu thì bệnh khác lại xuất
hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn.
Ông
Fabrice 49 tuổi, quốc tịch Pháp, đến Việt Nam vào cuối năm 2019 để thực hiện
lời hứa với bà ngoại và mẹ là người Việt Nam. Sau khoảng thời gian đi nhiều
điểm du lịch tại Việt Nam, ông chuẩn bị về nước thì dịch Covid-19 bùng phát nên
ông bị "kẹt" lại. Tháng 11 vừa qua, khi số tiền mang theo đã gần cạn
kiệt, ông Fabrice cảm thấy lo lắng và cầu cứu người thân. Tổng chi phí mỗi
tháng ông chi tiêu ở Việt Nam khoảng 7 triệu đồng. Được sự tư vấn của người
bạn, ông quyết định dành dụm số tiền còn lại mua chiếc xe đẩy để ra vỉa hè bán
chuối chiên. Ông cho biết đây là một trải nghiệm và một sự thách thức bản thân
của chính mình. Ông chọn ngã tư Trần Đình Xu (quận 1, TPHCM) giao với Nguyễn Cư
Trinh (quận 1, TPHCM) để đặt xe bán hàng vì khu vực này khá đông dân và khách
du lịch.
Ông
cho hay "Tôi thức dậy từ 4h sáng để chuẩn bị mọi nguyên liệu đến 5h30 thì
tôi bắt đầu bán cho đến khi hết hết bột thì tôi dọn về". Điều đặc biệt là
ông Tô bột được pha theo công thức riêng của ông Fabrice bao gồm: sữa tươi,
bột, bơ,… Nhờ mùi thơm phảng phất cả góc phố khi dùng bơ để chiên, xe bánh
chiên rất được nhiều người dân trong khu vực chú ý. Mỗi lần thấy người nghèo
bán vé số hay đi xe lăn đều kêu họ lại chuẩn bị một phần bánh để gửi tặng cho
họ dù hôm đó bán ế hay đắt hàng. Cử chỉ nhỏ nhưng ông Tây này ghi điểm với
người dân xung quanh bằng tấm lòng tốt bụng sự thân thiện và vui vẻ.
Chính
thánh Phaolô, xem việc rao giảng Tin Mừng là một nhu cầu, là nguồn hạnh phúc:
“Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Vì thế mà mỗi người chúng
ta trong vị thế của mình, cần rao giảng Tin Mừng một cách tự ý tự nguyện để làm
vơi đi gánh nặng của cuộc đời. Vâng, trong niềm vui và sự thân thiện cùng những
cử chỉ nhỏ thôi, chúng ta hãy tận dụng để có thể loan báo Tin mừng cho người
anh chị em. Amen.
97. Tình thương cứu chữa
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng
dạy và làm phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng
Ngài là ai, cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không
biết xếp Ngài vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép
lạ không? là một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do
Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái
đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng
dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin
Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất
cả những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những
việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu
trên các bệnh nhân.
Thiên
Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người,
có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi
thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông
là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng
biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục
trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng
phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng
ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ
Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng
cường lòng tin của gia tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô. Đàng khác, nếu xét
về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên
Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh
chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ I-sai-a đã loan báo, là Đấng
đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy,
cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống dở
chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng
diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu,
nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những
con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là
bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần
đông chúng ta không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự thuyên giảm đau
đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta
có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi
tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho
họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an
ủi chân thật.
Chẳng
hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Sam-sông và linh mục
này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất
nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một
chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất
khuya, tôi thấy chị quì gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quì làm gì
thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho
tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi con
người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy
tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp
Chúa”.
Một
thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt Nam cách
đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người Mỹ, đã phục vụ
ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp,
tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương
bệnh nhân như vậy? vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân
là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh”. Mỗi sáng
khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông,
mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi
nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng
Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu
sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang
phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi
chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu
chúng ta không bắt chước được bác sĩ Long-ghê, thì chúng ta có thể bắt chước
được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn,
nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân.
Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng,
buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin…chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử tế
và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì, đã
mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa không
bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an ủi,
thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất cần
đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
98. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Chú giải của Noel Quesson)
Hôm nay, chúng ta tiếp tục suy niệm về “Ngày hoạt động
của Chúa tại Caphácnaum”. Đó là ngày đầu tiên trong đời sống công khai thi hành
tác vụ của Đức Giêsu: ta thấy Người giảng dạy, giải thoát con người khỏi quỷ ám
hại, chữa lành người bệnh và cầu nguyện. Đó cũng là bản tóm lược toàn thể hoạt
động của Kitô hữu.
Vừa ra khỏi Hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông
Simon và Anrê, có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo.
Sau
khi đã giảng dạy và làm mọi người ngạc nhiên, sau khi đã giải phóng cho một
người bị quỷ ám đáng thương, Đức Giêsu rời khỏi Hội đường, ndi họp mặt chung,
để đi đến một tư gia, nhà hai anh em Simon và Anrê. Tôi hình dưng ra Đức Giêsu
đang bước đi trên đường phố, cùng với bốn môn đệ đầu tiên của Người, vì hai ông
Giacôbê và Gioan cũng có mặt ở đó, ngày nay cũng vậy, tác động của Thiên Chúa
được thể hiện khắp nơi, trong mọi lãnh vực của cuộc sống: Tôn giáo cũng như trần
thế, công cộng cũng như tư riêng. Lạy Chúa, Chúa ở với chúng con trong nhà thờ,
Chúa hiện diện cùng chúng con ngoài đường phố, trên các quảng trường, và ngay
trong nhà chúng con.
Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt, nằm trên giường.
Người
ta lấy làm ngạc nhiên, vì trong Tin Mừng, có rất nhiều lần Đức Giêsu chữa lành
người bệnh. Ngày xưa, bệnh tật mang một ý nghĩa tôn giáo và người chữa trị
thuộc lãnh vực y khoa. Tuy nhiên, dù trước mọi tiến bộ về y học, bệnh tật và
đau khổ vẫn đeo bám con người và tiếp tục đặt con người vào một tình trạng rất
đáng sợ. Ngay giữa nền văn minh kỹ thuật của chúng ta, một "dấu hiệu” biểu
lộ sự yếu đuối của thân phận con người vẫn còn luôn như trước: đó là con người
có thể chịu những rủi ro xảy đến cách đột ngột bất ngờ. Trong thâm tâm, ai mà
không sợ một số những chứng bệnh mà người ta không dám nhắc đến tên? Bệnh tật
luôn mâu thuẫn với ý muốn sống yên ổn và bền vững trong tâm lý mọi người. Chỉ
cần một cơn sốt nặng cũng đủ quật ngã con người mạnh nhất và buộc họ phải ngưng
làm việc không còn trầm trọng hơn, khi mọi người chúng ta đều thừa biết rằng,
một ngày nào đó ta sẽ gặp một bệnh mà không thầy thuốc nào chữa nổi.. Mọi bệnh
tật đều mang "dấu” của tử thần: đó là biểu tượng của thân phận con người
mỏng dòn và ta không thể tránh được.
Họ liền nói cho Người biết bà đang đau ốm. Người lại gần, cầm
lấy tay bà mà đỡ dậy.
Thái
độ cầu nguyện đầu tiên trước cảnh trên, đó là cần chiêm niệm, như thế chúng ta
đang hiện diện tại đó. Tôi ngắm nhìn Đức Giêsu bước vào nhà. Tôi lắng nghe
những gì người ta đang trình bày với Người. Tôi hình dung ra Người đang tiến
gần tới người bệnh, cầm tay bà ta. Đó là những cử chỉ đầy thân tình, nghĩa
thiết và nhân ái. Thần học quả quyết với ta rằng, mỗi bí tích là một "cử
chỉ của Đức Kitô". Một bài thánh ca thường ngợi khen bàn tay của Đức Giêsu
đã "làm những việc kỳ diệu”. Đúng vậy, đặc tính hiện thực của việc nhập
thể đã đi đến mức độ đó. Hôm nay, tôi thích chiêm ngắm bàn tày của Đức Giêsu
đang nằm bàn tay nóng ran vì cơn sốt của người bệnh. Lạy Chúa, nơi một cách
biểu tượng, Chúa- cũng đang nắm bàn tay con như thế, để chữa lành các "cơn
sốt". Khi rước lễ, con cầm Chúa trong bàn tay con. Nhưng thính Chúa cũng
đang nắm tay con.
Người đỡ bà dậy. Bà liền hết sốt và lo tiếp đãi các Người.
Khi
đọc câu này trong bản văn Hí Lạp, cũng do Máccô trước tác, ta cần lưu ý Máccô
đá sử dụng ở đây, từ "ègeire", có nghĩa là "làm cho sống
lại". Ong cũng dùng một từ đó để diễn tả việc Chúa cho con gái ông Giarô
sống lại: "Hãy chỗi dậy!" (Mc 5,41), và kể lại việc phục sinh của Đức
Giêsu (Mc 12,26, 16,6). Do đó, đối với Mác-cô, việc chữa bệnh cách cụ thể trên
là một “dấu chỉ" theo nghĩa mạnh, một thứ- biểu trung ngôn sứ báo trước
nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Khi sẽ chẳng còn "tang chế, kêu than, đau khổ,
khi Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ và chiến thắng sự chết" (Kh 21,1-4)
Ngay trong thời Người, tại Galilê, chắc chắn Đức Giêsu đã không chữa lành hết
mọi bệnh nhân. Người chỉ chữa lành một số người tiêu biểu, như một thứ việc làm
trước cho "Thời cánh chung": chỉ khi đó con người mới được "cứu
độ" thực sự, nghĩa là không còn sự chữa lành tạm thời một cơn sốt thoáng
qua, mà chính là sự sống lại. Việc chữa lành đích thực mà Đức Kitô muốn cống
hiến, đó là đi từ tình trạng "không tin" đến tình trạng "tin":
kẻ nào đón nhận đức tin nơi Đức Giêsu, thì đã biết rằng mình sẽ được cứu thoát
khỏi sự chết rồi. Lúc đó, họ sẽ "chỗi dậy" để "phục vụ”.
Sự dữ
mà Đức Giêsu nhắm theo đuổi còn thâm sâu hơn là bệnh tật tác hại trên thân xác.
Đó là tâm hồn, đó là trung tâm" của người bị bệnh... khi họ không
"phục vụ” anh em mình. Khi nói người bệnh chỗi dậy và bắt đầu "tiếp
đãi” Máccô muốn nói với ta nhiều hơn là những cử chỉ bề ngoài ông diễn tả. Ong
nhớ đến từ “phục vụ” mà ngày nào đó Đức Giêsu đã gán cho ý nghĩa là “thí ban
mạng sống mình": "Con Người đến không phải để được kẻ hầu người hạ,
nhưng là để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc
10,45). Lạy Chúa, xin Chúa dùng Mình Chúa chữa lành tâm hồn con người hôm nay.
Xin cứu giúp con để con biết đặt Thiên Chúa lên trên hết, biết đặt "kẻ
khác" lên hàng đầu, xin cứu giúp con để con biết "phục vụ',
"hiến dâng mạng sống" và yêu thương!
Chiều tối, khi mặt trời đã lặn, dân chúng đem một kẻ ốm đau và
những ai bị quỷ ám đến cho Người chữa. Cả thành xúm lại trước cửa nhà. Đức
Giêsu chữa đủ thứ bệnh và trừ rất nhiều quỷ.
Có thể
nói, cùng một tác động, Đức Giêsu vừa chữa bệnh, vừa biểu dương quyền năng của
Người trên Sa-tan, hiện thân của sự dữ. Vâng, đối với Đức Giêsu, sự dữ chủ yếu
là phải xa cách Thiên Chúa: do đó, chính tội lỗi mới là bệnh tật thật sự của
chúng ta. Bệnh viện được trang bị đầy đủ nhất nhân viên y tế tài năng nhất,
cũng không bao giờ thay thế được tình yêu, một yếu tố mà người bệnh còn cần hơn
cả thuốc thang.
Ngày
nay, cũng như thời Đức Giêsu, trong tâm hồn con người luôn có một điều gì đó
cần phải được chữa trị, và trong công cuộc văn minh hóa người ta cần phải thực
hiện một sự điều chỉnh đúng đắn.. Không có căn bệnh nào trầm trọng đối với việc
phát triển "đô thành trần thế" (bệnh viện cũng như mọi công trình khác)
hơn là thứ "chất độc" do tội lỗi đem vào thế gian. Điều đó không có
nghĩa là phủ nhận tiến bộ, hay những kỹ thuật chữa bệnh! Nhưng chỉ muốn nói
lên, cần phải cho chúng một tâm hồn: Đó là tình yêu. Và Đức Giêsu đã thể hiện
điều này tại đó! Lạy Chúa, xin dùng Mình và Máu Chúa, chữa lành tâm hồn con
người hôm nay.
Người trừ rất nhiều quỷ, nhưng lại cấm quỷ không được nói gì, vì
chúng biết Người là ai.
Đề tài
“Bí mật thiên sai" lại xuất hiện ở đây lần thứ hai trong cùng một ngày (Mc
1,25 và 1,33). Đức Giêsu không muốn người ta làm sai đi ý nghĩa sứ vụ của
Người.
Người
buộc mọi người phải giữ im lặng, không được nói quá sớm Người là "Con
Thiên Chúa". Đã có quá nhiều ý kiến sai lầm về Đấng Mê-si-a, về Thiên Chúa
đang được phổ biến. Người ta quá để ý kiếm tìm vẻ kỳ diệu bề ngoài.
Người
ta chỉ chạy đến với Chúa, như với một "người chữa bệnh" đến thuần.
Tuyên bố quá sớm Đức Giêsu là Đấng Mê-si-a, là con Đấng Toàn năng, mà không
biết chính Người sẽ phải chịu đau khổ và phải chết, thì kể như nói mà không
biết điều mình phát biểu, và như thế có nguy cơ sẽ chối Đức Giêsu, khi chứng
kiến thực tế của thập giá. Thiên Chúa không phải là "toàn năng" theo
nghĩa chúng ta thường hiểu.. Vì yêu thương, Chúa đã tự trở thành “hoàn toàn yếu
đuối" đối với chúng ta... bởi vì Người là "tình yêu toàn năng".
Nếu ông là Con Thiên Chúa, ông hãy xuống khỏi thập giá đi... Chúng ta luôn nghĩ
rằng, chắc hẳn Thiên Chúa phải chứng tỏ Người là "Ai" chứ! Đúng vậy
Người đã minh chứng điều đó: Người là Tình yêu vô biên, tình yêu đi đến tận cùng
của thái độ "phục vụ”... Tôi đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống! Trong
khi chờ mọi giây phút Thiên Chúa tỏ mình ra trên thập giá, cần phải im hơi lặng
tiếng.
Lạy
Chúa, xin giúp con chấp nhận Chúa đúng như con người của Chúa.
Lạy
Chúa, xin giúp con hiểu rằng, Chúa không muốn "quyền năng" theo nghĩa
trần gian... "bởi vì cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của
loài người, và cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài
người" (l Cr 1,25).
Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Đức Giêsu đã dậy, đi ra
một nơi vắng vẻ mà cầu nguyện.
Ngay
đêm đầu tiên mà Simon Phêrô trải qua bên cạnh Đức Giêsu, ông đã khám phá ra
điều "cốt yếu” sau đây: đó là đối với Đức Giêsu, điều quan trọng là
"Gặp gỡ Chúa Cha".
Ông Simon và các bạn kéo nhau đi tìm Người...
Vào
sáng sớm; khi bóng đêm còn mù tối, trước lúc rạng đông, Đức Giêsu đã ra khỏi
căn nhà mà Người đã nghỉ đêm. Người rời thành Caphácnaum. Hãy ngắm nhìn Người
bước đi trên cánh đồng, dưới bóng đêm. Người tìm bầu khí cô tịch, sự yên lặng
người lánh mình, đi đến "một nơi hoang vắng". Người dừng chân. Người
phủ phục. Người cầu nguyện. Đức Giêsu đang hiện diện ở đó, chính là nhân loại
đang ở "bên cạnh Chúa Cha", chính là nhân loại đang ở “gặp gỡ Thiên
Chúa". Chính trong khung cảnh đó các bạn hữu cần đến tìm kiếm Người.
Câu
Tin Mừng trên đây không phải là một chi tiết bình thường. Đó là một bí quyết,
một kết luận, một điểm nóng bỏng của "ngày sống đầu tiên trong cuộc đời
công khai của Đức Giêsu. Nhờ đó, Người đang "kêu gọi" ta, nhưng
"trong yên lặng": ý nghĩa của đời sống bạn là ở nơi Thiên Chúa... Căn
bệnh trầm trọng nhất của bạn, là bệnh tật làm bạn xa rời Thiên Chúa.
Kẻ nào
biết "ẩn mình trong Thiên Chúa" nơi hoang địa là một người được cứu
độ.
Lúc
đó, mọi cơn sốt và ngay cả sự chết, cũng không thể tác hại được họ nữa.
Này
bạn, người anh em đang mang bệnh của tôi...
Này
bạn, người anh em đang gặp thử thách trong tâm hồn... bạn có biết nhận ra
"tin vui" được chữa lành, ngay giữa cơn thử thách của bạn không?
Khi gặp Người, họ thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy"'
Người bảo họ: “Thôi chúng ta đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh, để Thầy
còn rao giảng Tin Mừng ở những nơi đó nữa, vì Thầy đến cốt để làm việc đó.
Vâng,
lạy Chúa Giêsu, xin hãy nói lại cho chúng con, xin hãy nói lại cho mọi người
Tin Mừng của Chúa. Xin cứu giúp chúng con. Xin chữa lành chúng con. Và xin hãy
làm cho chúng con, cùng với Chúa, trở nên những sứ giả, những người phục vụ cho
công cuộc Phục sinh.
99. Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux)
Chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô (1,29-31)
Hoạt
động thứ hai này của Chúa Giêsu có thể được xem như một sự kiện “nho nhỏ” mà do
tính cách vắn gọn Maccô đã lồng vào tiếp theo trình thuật đi trước. Quang cảnh
này đã được Maccô tháp vào chuỗi trình thuật mang tựa đề “Cái ngày Chúa Giêsu
rao giảng ở Caphanaum” khởi đầu nơi chương 1,21 và kết thúc ở chương 1,32-34.
Câu chuyện xảy ra bên cạnh hội đường nơi Chúa Giêsu vừa tham dự nghi thức phụng
vụ, đây là một ngày Sabbat. Theo quy định của luật, vào ngày này, người ta chỉ
được phép di chuyển trong phạm vi luật cho phép. Chính tại căn nhà của Simon và
Anrê, trong bầu khí thân mật gia đình của bốn người môn đệ đầu tiên, Chúa Giêsu
sẽ thực hiện hành vi chữa trị của Ngài (1,16-20). Các tình huống được ghi lại
thật gọn gàng: nhạc mẫu của Simon bị sốt đang nằm tại giường (c. 30a). Maccô
không mô tả chính xác bà cụ sốt vì lý do gì. Tình trạng có lẽ xem ra không
nặng, dầu vậy cũng gây phiền hà bởi vì rõ ràng không thể chờ đợi lâu hơn, “họ
liền nói cho Ngài biết bà đang đau ốm” (c. 30b). Không thấy đề cập rõ đến người
can thiệp cũng như cách thức can thiệp, tuy nhiên ở đây hàm ẩn tiến trình của
đức tin: Chính vì biết Chúa Giêsu có quyền phép trị bệnh nên đám bạn hữu Ngài
đã xin Ngài can thiệp. Chẳng nói một lời, Chúa Giêsu chỉ làm một cử chỉ đơn
giản là nắm tay bà cụ giúp bà chỗi dậy (c. 31b). Thật khác xa với các trình
thuật thời đó, các thầy trị bệnh ít nhiều thuộc dạng phù thủy, thường dùng sức
mạnh của lời nói hoặc các công thức nghe rất kỳ quái. Ở đây, sự việc xảy ra
hoàn toàn kín đáo, cơn bệnh tan biến ngay tức khắc (c.31c). Bà cụ lập tức hồi
phục hoàn toàn, bởi vì Tin Mừng ghi nhận bà cụ có thể bắt đầu phục vụ Chúa
Giêsu và các bạn Ngài.
Vì
thiếu khía cạnh huyền diệu, trình thuật này xem ra khó hiểu đối với não trạng
người thời nay. Để nắm rõ được đây là hành vi có liên quan đến sứ mệnh “Mêsia”
của Chúa Giêsu, chúng ta phải biết rằng, theo tâm thức của người xưa, bệnh tật
được quan niệm như là một dấu chứng của tội lỗi. Nói chính xác hơn, suốt lịch
sử Cựu Ước, cơn sốt luôn được nga hình dung như những một trong những hình phạt
Chúa đe sẽ gởi đến cho đám dân bất tín bất trung của Ngài: “Nếu các ngươi phế
bỏ Lề Luật của Ta, nếu các ngươi đi ngược các tập tục Ta ban, không mang ra
thực hành các huấn lệnh của Ta và như thế là cắt đứt Giao Ước với Ta thì này đây
Ta sẽ giáng cho các ngươi sự kinh khủng, bệnh hoạn và sốt rét làm hư mòn con
mắt và nhọc mệt tâm hồn” (Lv 25,15-16a, xem thêm Đnl 28,22).
Vào
thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng gán cho cơn sốt tính cách quỷ nhập. Chính vì
thế mà sử gia Luca đã tường thuật việc chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô giống như
một cuộc trừ quỷ (Lc 4,39). Như thế, theo Maccô, chắc chắn cử chỉ Chúa Giêsu
đối với bà cụ này minh họa quyền năng của Ngài trên các quyền lực Sự Dữ và Sự
Chết. Đây chính là Đấng Mêsia mang đến các dấu chỉ về Vương Quốc của Thiên Chúa
đang đến.
Tuy
nhiên cần phải đi xa hơn. Nhằm mục đích ngỏ lời với cộng đoàn Kitô hữu của
mình, Maccô đã đọc lại biến cố này dưới nah sáng của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Chính cách dùng một công thức diễn đạt của Maccô đã hé lộ cho thấy điều đó.
Trong tiếng Hy Lạp, động từ trong câu Maccô sử dụng khi viết: “Ngài đỡ bà ấy
dậy” (c.31b) cũng chính là động từ sau này Maccô sẽ dùng để nói về Chúa Giêsu:
“Ngài đã chỗi dậy (sống lại) (16,6)”. Quả thế, phải đặt mình trong bối cảnh các
Kitô hữu ấy, Chúa Giêsu không phải chỉ là một người chữa bệnh lừng danh khi
Ngài mới bắt đầu sứ vụ. Qua việc Ngài sống lại, Ngài còn được nhìn nhận như
“Đức Kitô và như vị Chúa Tể” (Cv 2,36) Đấng hằng ngày tiếp tục cứu vớt kẻ tội
lỗi, lôi họ ra khỏi cõi chết. Ngài là Đấng Cứu Độ làm cho kẻ từng bị sự ác đè
xuống được đứng dậy. Và khi cho thấy bà cụ được khỏi bệnh lập tức ấy liền bắt
đầu phục vụ các vị khách của bà (x. c. 31c), chắc chắn Maccô nghĩ ngay đến việc
các Kitô hữu được mời gọi “phục vụ” Chúa Kitô, Đấng Cứu Thế không ngừng giải
thoát các tín hữu Ngài khỏi sự dữ để sắp đặt họ vào công việc của Ngài.
Chúng
ta được mời gọi thường xuyên đọc lại trang Tin Mừng này dưới hai cấp độ. Trước
hết đây là hành vi có tính lịch sử của Chúa Giêsu. Người ta cảm nhận rõ ràng chiều
kích lịch sử của biến cố được tường thuật. Tuy nhiên cấp độ thứ hai còn quan
trọng hơn. Chúng ta phải đọc lại các hành vi cử chỉ của Chúa Giêsu được ghi
chép cho cộng đoàn Kitô hữu, dưới ánh sáng Phục Sinh của Ngài, lúc bấy giờ,
chúng ta sẽ luôn đặt niềm tin vào vị “Chúa Tể” hiện vẫn đang hoạt động nhằm cứu
độ Giáo Hội cũng như trần gian.
Câu
chuyện chữa bệnh cho nhạc mẫu Phêrô đã gây thú vị rất nhiều cho những sử gia
muốn tìm kiếm các chi tiết thấy nơi trình thuật trên một “kỷ niệm tận mắt” của
nhân chứng Phêrô. Qua câu chuyện này người ta biết được vị thủ lãnh tương lai
của nhóm Mười Hai (3,16) lúc ấy đã có vợ. Chẳng biết là hành động phục vụ Chúa
Giêsu và các bạn Ngài của nhạc mẫu Phêrô lúc đó vắng mặt hay đã qua đời không?
Chúng ta không thể biết được; và cũng không thể dựa vào chứng lý của Phaolô
(trong 1Cr 9,5) là Phêrô có dẫn theo vợ Ngài trong khi thi hành sứ vụ, để giải
đáp vấn nạn được nêu ra.
Một thành công rực rỡ (1,32-34)
Đoạn
văn ngắn gọn này được ví như “bản tóm tắt” các hoạt động của Chúa Giêsu kể từ
khi Ngài khởi đầu sứ vụ. Nó kết thúc một chuỗi sự kiện được Maccô chú ý ghi lại
dưới tựa đề “Cái ngày tại Caphanaum” (bắt đầu với 1,21). Maccô muốn nhấn mạnh
sự thành công rực rỡ trước đám đông của Chúa Giêsu với tư cách người chữa bệnh
và trừ tà (c. 32-33). Hẳn người ta ngạc nhiên vì số lượng đông đúc người tuốn
đến. Khi nói rằng “cả thành”, Maccô chắc chắn đã khuếch đại biến cố này để mang
lại cho nó trọn vẹn mọi chiều kích. Thông qua các nguồn tài liệu liên quan đến
dân Do Thái cũng như dân ngoại thời Chúa Giêsu, người ta được biết rõ là đám
quần chúng bình dân rất háo hức xem phép lạ. Ngoài các loại thuốc thang thông
thường rất đắt mà lại không hiệu quả cao (x. 5,26), dân chúng còn tìm đến đủ
thứ thầy trị bệnh, thầy trừ tà, thầy pháp…
Nhờ khả
năng điều trị phi thường nên Chúa Giêsu đã mau chóng được lừng danh (c.34a),
chẳng một ai dám nghi ngờ Đức Giêsu Nadaret là một mẫu người đặc biệt có tài
hấp dẫn, mê hoặc kẻ khác. Một truyền thống sau này của Do Thái có ghi nhận rằng
sở dĩ Chúa Giêsu bị chết treo là vì “Ngài dùng trò ma thuật, quyến rũ và mê
hoặc dân chúng”.
Tuy
nhiên nếu Maccô ghi nhận rõ ràng Chúa Giêsu đã thực hiện vô số việc chữa bệnh
và trừ ta thì ông vẫn cẩn thận cho thấy các hành vi cứu độ này được thực hiện
ngay giữa sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Chúa Giêsu không phải là một tay chuyên làm
phép lạ. Ngài chỉ trưng ra “các dấu chỉ” cho thấy Vương Quốc Thiên Chúa đã đến
qua bản thân Ngài (1,15). Đàng khác, Maccô đã kết thúc bản tóm tắt hoạt động
chữa bệnh của Chúa Giêsu bằng lệnh cấm các thần dữ không được phổ biến cho mọi
người biết Ngài là ai (c.34b).
Đây là
một lối diễn tả mới mẻ về “Bí mật Đấng Mêsi” từng được nhiều người lưu tâm.
Chúa Giêsu rất muốn đáp lại lời kêu cầu đáng thương của đám đông, thế là Ngài
mang đến ơn cứu độ cho họ.
Tuy
nhiên Ngài buộc phải ngăn cấm ma quỷ không được tiết lộ quá sớm tư cách Mêsia
của Ngài (1,24). Thực ra, ngay lúc này đây, tiết lộ điều đó là không hợp thời,
là vô tình khiến dân chúng hiểu lầm rằng Chúa Giêsu đến tiêu hủy mọi sự dữ đang
bủa vây họ bằng một cây đũa thần. Quả thực trong cơn nóng lòng chờ đợi “thời
sau cùng”, đám người đương thời của Chúa Giêsu rất náo nức đón nhân “các dấu
chỉ và phép lạ” được các tiên tri loan báo (x. 13,22). Tuy nhiên, Đấng Mêsia
đặc biệt không muốn chiều theo những dụ dỗ của ma quỷ mà đám người hâm mộ Ngài
đòi hỏi (x. Các cơn cám dỗ theo Matthêu 4,1-11). Các tước hiệu “Đức Kitô” và
“Con Thiên Chúa” chỉ có thể được cắt nghĩa đúng đắn dưới ánh sáng cuộc tử nạn
và Phục Sinh của Ngài. Vì vậy trong toàn bộ cuốn Tin Mừng của ông, Maccô đã tự
gán cho mình bổn phận nhắc đi nhắc lại lệnh Chúa Giêsu truyền giữ kín về Ngài
(1,44; 3,12; 5,43; 7,24b.36; 8,30; 9,9.33).
Như
thế, Maccô mời gọi độc giả tự hỏi về thân thế và sứ vụ đích thực của Chúa Giêsu
mà ông chưa đưa ra câu trả lời. Câu trả lời vẫn cứ lửng lơ đấy. Cho đến khi rõ
ràng ai nấy đều biết là Đấng Mêsia đã chỉ cứu độ loài người qua con đường tử
nạn (8,29-33). Từ đó, mới lộ ra quy tắc ngộ nghĩnh của Tin Mừng này –mọi “bí
mật” về thân thế Chúa Giêsu chẳng qua là để lôi kéo độc giả chú ý đến câu hỏi
nền tảng Maccô đặt ra cho họ: “Vậy Đức Giêsu Nadaret là ai?” và rồi người ta sẽ
trả lời ngay: “Hãy đi theo người dẫn đường…”.
Cầu nguyện và thi hành sứ vụ
(1,35-39)
Maccô
có khuynh hướng đưa ra các tương phản sau khi trình bày hoạt động sôi nổi của
Chúa Giêsu qua việc phục vụ đám đông (1,32-34), giờ đây Maccô đưa ra hình ảnh
đối chọi về vị đạo sư thèm được sống trong cô tịch và kết hợp với Thiên Chúa
(c.35). Chắc hẳn là sau bao mệt mỏi của ngày hôm trước, giờ đây phải khá can
đảm Chúa Giêsu mới có thể dậy sớm lén các bạn bè đang còn say giấc nồng để tìm
một chốn cô liêu cầu nguyện. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu sẽ còn được Maccô đề
cập tới (6,46; 14;35-39) ở mỗi chặng đường quan trọng trong sứ vụ của Chú. Ở
đây người ta dễ dàng nắm được nội dung bản văn: Chúa Giêsu không muốn để cho
mình bị cuốn trôi bởi cơn sóng của đám quần chúng đang mê mẩn vì bao phép lạ
Ngài đã làm. Ngài cần suy nghĩ về tính cách nghiêm trọng của sứ mệnh Ngài.
Rõ
rànglà các môn đệ đi tìm kiếm Chúa Giêsu (c.36). Họ chẳng hề cảm thấy sự mơ hồ
mà việc chữa trị thành công của Chúa Giêsu gây ra cho đám quần chúng (1,32-33).
Sự kiện đám quần chúng đang mê mẩn chạy theo Chúa Giêsu đã mang một dạng thức
khẩn trương đầy nguy hiểm. Vị đạo sư phải cảnh giác các bạn hữu mình chớ có đưa
ra một cắt nghĩa lệch lạc nào về vai trò của Ngài (c. 38).
Nêu ra
cho họ điểm trọng yếu là điều tối quan trọng. Chúa Giêsu nhắc họ những gì là
then chốt trong sứ mệnh của Ngài. “Chúng ta hãy đi chỗ khác…” điều này có nghĩa
là sứ vụ đòi hỏi phải “lên đường” đi đây đi đó. Mục đích của Ngài đâu phải là
phô diễn phép lạ. Đó chẳng qua chỉ là dấu chỉ về quyền năng đi kèm, theo tin
vui về Ơn Cứu Độ. Chính tin vui này mới là điều thiết yếu. Ngay từ khi khởi đầu
sứ vụ rao giảng. Chúa Giêsu đã không hành động vì một lý do nào khác. Bổn phận
của Ngài rất rõ ràng là bằng lời nói và việc làm, công bố cho mọi người “Nước
Thiên Chúa đã kề bên họ”, phải nhờ đức tin mà đón nhận Tin Mừng (1,14-15). Lời
xác nhận cho ý định ấy của Chúa Giêsu rất rõ ràng: “Vì Thầy đến cốt để làm việc
đó” (c. 38d). Câu nói: “Vì Thầy đến” mang đầy ý nghĩa cao với. Trong Phúc âm
Gioan, để diễn tả sứ mệnh bao quát của mình, Chúa Giêsu sau này sẽ nói rằng
“Ngài đến từ Thiên Chúa”, đây là một lời xác nhận về thiên tính của Ngài (Ga
8,42; 13,3; 16,27-28).
Bản
văn đã kết thúc bằng một hành vi mang đặc tính phổ quát (c.39). Người ta nhận
ra Caphanaum chỉ là một điểm tựa trong hành trình thi hành sứ vụ. Chúa Giêsu
loan báo Tin Mừng “trong toàn xứ Galilê thuộc mạn bắc của Palestin, không có
biên giới phân cách rõ rệt với các dân ngoại sống chung quanh. Đây là một mảnh
đất tuyệt vời để thi hành một sứ vụ mở rộng cho tất cả mọi người. Ở đây, Chúa
Giêsu rao giảng trước tiên trong các nguyện đường Do Thái là nơi dân chúng
thường tập trung cầu nguyện và nghe giảng dạy Kinh Thánh (1,21). Ngài bổ sung
lời rao giảng bằng các hành vi trừ quỷ để minh họa cho dân chúng quyền uy tối
thượng của Ngài (1,27). Chương này rất quý báu vì nó xác nhận rằng vị Đạo Sư đã
biết liên kết thật kỳ diệu mọi đòi hỏi liên quan đến việc trình bày cho mọi
người sứ mệnh “Mêsia” của Ngài, nghĩa là Ngài biết liên kết việc cầu nguyện với
việc loan báo Tin Mừng và với các “dấu chỉ” minh xác về thân thế Ngài.
100.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Chú giai của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt)
TỪ CẢM PHỤC ĐẾN LÒNG TIN
Bài
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay liên kết ba bản văn khác nhau: trình thuật chữa lành
mẹ vợ Phêrô (Mc 1,29-31), một bảng tóm tắt các phép lạ chữa lành (cc.32-34) và
một bước tiến trong việc hoàn thành sứ mệnh (cc.35-39). Muốn phân tích ba bản văn,
phải lưu tâm đến văn thể khác biệt của chúng.
Bài
đọc thứ nhất (G 7,1-4.6.7) là phần nhập đề cho các cuộc chữa lành của Chúa
Giêsu: ta đọc thấy trong ấy hình ảnh con người bị đau khổ vì thân phận trần
thế, hay đúng hơn vì bệnh tật. Bà mẹ vợ Phêrô một cách nào đó hiện thân cho
thân phận này, và những đám đông đi tìm Chúa Giêsu (cc.32.33.37) cụ thể hóa cái
phản ứng đầu tiên của con người đứng trước kẻ có thể chữa lành họ. Con người
thời đại hôm nay phải chăng đã được giải phóng khỏi thân phận nói trên nhờ và
các khoa học và tiềm lực kinh tế? phải chăng họ đã vượt qua phản ứng của những
người đồng thời với Chúa Kitô?
I. TỪ HỘI ĐƯỜNG ĐẾN NHÀ SIMON (c.29)
Trình
thuật chữa lành một kẻ bị quỷ ám đã đặt chúng ta tại hội đường Capharnaum
(1,23-28), vì thế Mc viết tiếp: "Và lập tức ra khỏi hội đường...".
Thật vậy thánh sử hình như vẫn giả thiết một khoảng thời gian khá dài giữa lai
phép lạ, bởi vì danh tiếng Chúa Giêsu đã có thời giờ lan xa khắp xứ Galilê.
Hiển nhiên Mc đã giản lược. Ta biết ông thường dùng trạng từ “lập tức” nhưng
chẳng gán ý nghĩa gì đích xác (11 lần nguyên trong chương một: Cc. 10, 12, 18,
20, 21,23,28, 29, 30, 42, 43). Vì ông không mấy quan tâm đểu tính cách liên tục
hợp lý, mà chỉ muốn trình bày ở đây (cc.21-39) một ngày mới về sứ vụ Chúa Giêsu:
“Ngày Capharnaum" theo thành ngữ cổ điển. [như Luca, nơi ch.24 đã cô đọng
trong một ngày tất cả các sự kiện từ Sống lại đến Thăng thiên: "Vừa tang
tảng bình minh (c.1):.. Đi thăm mộ về (c.9)... Cũng ngày hôm ấy (c.12)... Ngay
giờ đó (c.33)... Họ còn đang trò chuyện (c.36)... Đoạn (c 44)..: Rồi
(c.50)..."]. Mátthêô và Luca đã bỏ khung cảnh nói trên và để qua một bên
tiếng "lập tức" giả tạo vừa nói. Chúng ta không biết thời biểu thật
sự của các sự kiện ra làm sao. Tuy nhiên có thể quả quyết rằng cặp trình thuật
chữa lành mẹ vợ Phêrô - chữa lành khi chiều đến" bắt nguồn từ một truyền
thống có trước các Tin mừng Nhất lãm vì chi tiết "chiều đến" nằm
trong Mc lẫn Mt. Nếu Lc đã bỏ qua trạng từ "lập tức" thì trái lại ông
đã lưu giữ chi tiết "hội đường". Ông sẽ khai triển ý nghĩa chi tiết
này đến độ làm thành một chủ đề thần học, sẽ nhắc tới nhắc lui trong sách Công
vụ của ông: khi rao giảng trong một thành hay một thị trấn, thì Chúa Giêsu bắt
đầu giảng dạy trong hội đường. Phaolô cũng sẽ làm như vậy.
Chúa
Giêsu "ra khỏi hội đường" không chỉ vì đã đến giờ đóng cửa, nhưng vì
các thính giả chưa hiểu được Người. Như các môn đồ khi chương kiến cơn bão dẹp
yên, họ cũng đặt câu hỏi về bản thân Chúa Giêsu: "Cái gì vậy? (1,27),
"ông này là ai thế? (4,41). Nhưng họ chưa trả lời được. Chắc hẳn phải coi
đó là một hình ảnh biểu trưng: bao lâu còn ở trong hội đường, ta chưa thể trở
nên môn đồ Chúa Giêsu; cần phải ra khỏi đó như một cuộc xuất hành mới. Nơi
c.39, Mc sẽ viết với một đại danh từ độc hữu: "hội đường của họ". Xa
hơn ông kể rằng sau một phép lạ làm trong hội đường do Chúa Giêsu các biệt phái
mới họp với phe Hêrôdê để chống Người. Chính vì thế mà người rút lui về bờ
"biển": Người đi ra và có nhiều kẻ đi theo (3,7). Chúa Giêsu cũng sẽ
đi xa khi làm phép lạ hóa bánh và nhiều đám đông sẽ đến với Người (6,32-33).
Người sẽ còn ra khỏi Đền thờ (11,11) và khỏi Giêrusalem nữa (11,19; 13,1). Về
đề tài này, Luca lược đồ hóa rõ ràng hơn Mc: theo Lc Chúa Giêsu rao giảng lần
đầu tiên tại hội đường Nadarét. Và ngay từ hội đương này, không những người đã
chẳng được hiểu và bị bó buộc phải rời khỏi đó mà còn phải lẩn trốn để khỏi bị
giết đi (Lc 4, 16-30).
Chắc
Mc đã nghĩ đến chủ đề bất biến này trong Tân ước. Nhưng ta có nên đi xa hơn và
xác quyết rằng ông đã muốn đối nghịch hội đường với nhà của Simon-Phêrô, hình
ảnh Hội Thánh không? Chưa nên. Vì vẫn biết ngôi nhà này chiếm một chỗ quan
trọng trong Tin mừng thứ hai (x. Assemtlées du Seigneur 38, tr.81 và 41,
tr.40), nhưng ở đây Lc chưa nói đến Phêrô cách đặc biệt; ông chỉ bảo:
"Người đến nhà của Simon và Anrê, cùng với Giacôbê và Gioan.
Bốn
môn đồ đã được gọi đầu tiên (1,16-22) và vẫn luôn là những kẻ thân tín nhất
này, là chứng nhân của phép lạ. Việc thiết lập nhóm Mười hai chỉ xảy đến về
sau.
II. CHỮA LÀNH MẸ VỢ SIMON (cc.30-31)
1. Sự kiện:
Người
ta đã đề nghị phân biệt các phép lạ của Chúa Giêsu thành hai: các phép lạ
thương xót và các phép lạ chiến đấu (E.Trocmé, La formation đe Levangile de
Marc, Paris, 1963, tr.123). Dù không tuyệt đối hoàn toàn, cách phân chia này
vẫn giúp làm nổi bật hơn chiều hướng của các trình thuật. Những lần trừ quỷ có
thể gọi là các phép lạ chiến đấu: Mc muốn nhân mạnh như vậy (1,23-28.29). Việc
chữa lành mẹ vợ Phêrô có thể xem như một "phép lạ thương xót": người
ta đã nài xin Chúa Giêsu chữa cho bà (c.30). Tuy nhiên trong tư tưởng Mc, mọi
việc chữa lành đều cũng tượng trưng một cuộc chiến thắng ma quỷ; ở giữa việc
trừ quỷ và chữa lành tật bệnh, chẳng có phân biệt rõ rệt nào (x. 1,39; 3,15;
6,7 và 13). Còn Lc thì rõ ràng trình bày chuyện chữa lành mẹ vợ Phêrô như một
việc trừ quỷ: Chúa Giêsu "hăm dọa cơn sốt" (Lc 4,39)
Theo
Mc thì bệnh nhân cảm sốt. Nhưng ta không thể xác định đó là bệnh gì và nặng nhẹ
ra sao.
Trong
trình thuật của Mc, người ta thường nhận ra được chứng từ của chính Phêrô, là
chẳng nhân trực tiếp của quang cảnh. Hình như thánh sử chỉ lấy chữ "chúng
tôi" của Phêrô bằng chữ "họ". Một vài lỗi ngữ pháp hoặc chi tiết
văn thể chỉ giải thích được nếu cho rằng chính Phêrô đã kể lại các biến cố:
chẳng hạn như chi tiết về Giacôbê và Gioan, vốn có vẻ như một câu ngoài đề.
Việc
so sánh với bản văn song song của Mt giúp ta thấy được cách diễn tả phong phú
của Mc: Mt không nói đến các môn đồ, họ có vẻ- như vắng mặt: Chúa Giêsu vào,
thấy bệnh nhân, cầm tay và và bà cảm thấy "điều đó” (Mt 8,15). Sự đối diện
này có lẽ làm cho bài giáo lý của Mt ra rõ ràng và sâu xa hơn, nhưng lại giảm
đi tính cách có vẻ thực của trình thuật. Bản văn của Mc thì lại rất đơn giản.
Người ta có thể viện dẫn tính cách đơn giản này để biện hộ cho xác thực tính
của phép lạ, bởi vì các trình thuật chữa lành bệnh của lương dân thường rất
phóng đại chi tiết.
2. Ý nghĩa của
phép lạ theo Mc.
Các
trình thuật Tin mừng về việc chữa lành. mẹ vợ Phêrô không giúp ta xác định đúng
chủ ý của Chúa Giêsu. Khi Người làm hành vi đó, cũng như ý nghĩa đích thực mà
các chứng nhân đầu tiên gán cho việc này. Tuy nhiên ta biết người Do thái đã
thường xem cảm sốt như là một hình phạt của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt
sức (Đnl 28,22; 32,24; Lv 26,16) hay với bệnh dịch (Hb 3, 5). Về sau, người ta
năng gán cảm sốt cho một con quỷ. Trong nhãn giới đó, phép lạ ở Capharnaum, đối
với mọi người, hẳn muốn bảo rằng Chúa Giêsu là Đấng được Thiên Chúa sai mà
Isaia đã loan báo là sẽ đến cứu con người khỏi đau khổ, hậu quả của sự ác luân
lý (Is 26,19; 29,18t; 33 3; 35,5...). Mc đã lấy việc chữa lành mẹ vợ Phêrô làm
một trong các yếu tố của “ngày Capharnaum” ngày mẫu của giai đoạn đầu sứ vụ Cứu
Chúa; phép lạ minh giải, bằng một ví dụ, các bảng "toát yếu” về bao cuộc
chữa lành mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Như thế phép lạ này là một dấu chỉ cho
thấy thời đại cánh chung hay thiên sai đã đến trong bản thân Chúa Giêsu: Người
hành động với chính quyền lực của Thiên Chúa. Nhưng đây vẫn còn là một đấu chỉ.
Cần phải mất nhiều thời gian con người mới khám phá và chấp nhận ý nghĩa của
dấu chỉ đó (x. Mt 11,4-6). Dẫu sao dự định riêng của Mc sẽ hiện ra rõ ràng hơn
khi ta khảo sát kỹ lưỡng câu 31 và câu song song với nó trong Mt 8,15.
3. Chúa Giêsu
nâng dậy con người.
Cách
đặt câu 31 có một điểm dị thường, ta hãy thử giải thích. Theo nguyên tự, ta có:
"Tiến lại, Chúa Giêsu cho bà chỗi dậy bằng cách nắm lấy tay bà, và cơn sốt
đã biến khỏi bà". Bình thường lẽ ra phải viết: Chúa Giêsu cầm lấy tay bà
và cơn sốt biến khỏi bà; bà chỗi dậy...”. Dĩ nhiên Mc trước tiên không lưu tâm
đến tính cách thuận lý, nhưng một chi tiết khác tăng cường chú ý của ta: động
từ ogeirô Mc sử dụng ở đây đã trở thành một hạn từ chuyên môn chỉ việc sống
lại. Mấy chữ “Người cho bà chỗi dậy”, hình như đã được thánh sử chèn vào trong
một câu đơn giản hơn của Phêrô khi kể lại biến cố, vì là chỉ có nơi ông (Mt và
Lc chỉ nói: bà chỗi dậy) Thành thử có lẽ Mc đã đưa những chữ này vào với mục
đích giáo lý, và việc chọn động từ ogeirô nói lên ý hướng biểu tượng của ông.
Như đã làm cho mẹ vợ Phêrô chỗi dậy khi cơn sốt đã biến bà bất động như chết
trên giường, thì Chúa Kitô cũng đến cho ta chỗi dậy, cho ta phục sinh, để ta có
thể phục vụ người. Chữ ogeirô cũng còn gặp trong trình thuật chữa lành em bé
kinh phong (Mc 9,26-27), nơi lối biểu trưng còn rõ ràng hơn nữa. Thành thử
chẳng lạ gì khi Mátcô đã muốn ám chỉ biểu tượng đó ở đây (x. P.Lamrarche, La
guérison de la bolle-mère de Pirre ét le gent'e littéraire des Evangiles, trong
NRT (1965) tr.518-520).
4. Chỗi dậy dể
phục vụ
Trong
bối cảnh phép lạ, hay đúng hơn trong khung cảnh tiếp đón Chúa Giêsu tại nhà
Phêrô, phục vụ trước tiên là cho ăn uống. Trong cùng ý nghĩa đó, sau những cuộc
thử thách ở hoang địa, các thiên thần đã phục vụ Chúa Giêsu (Mc 1, 13), như
Người cũng đã truyền cho con gái của Giairô ăn uống sau khi cho nó sống lại (Mc
5,43). Chúa Giêsu không bỏ qua thực tại trần thế giản đơn này, Người còn đi xa
hơn nữa. Có lẽ ở đây Mc đã liên tưởng đến lời Chúa Giêsu: "Con người chẳng
đến để được phục vụ nhưng là để phục vụ (diakonesai)" (Mc 10,45). Phục vụ
không chỉ có nghĩa là hầu bàn, nhưng nếu cần, là "thí mạng làm giá chuộc
nhiều người" (c45). Đó là lý tưởng mà Chúa Kitô đã đề ra cho những ai
Người phục sinh từ cái chết của tội lỗi.
Trong
bản văn ngắn gọn và đặc thù hơn của Mt, ta đã thấy Chúa Giêsu xuất hiện một
mình. Số ít của phần cuối câu 15 (bà phục vụ Người) đã làm cho ý nghĩa của động
từ được mở rộng. Không còn là vấn đề dọn bữa ăn cho Thầy và cho môn đồ đói mệt
vì miệt mài với sứ vụ nữa, song là một chuyện tổng quát hơn. Tình trạng trước
của bệnh nhân tượng trưng thân phận con người tội lỗi bao lâu chưa được Chúa
Kitô cứu vớt và việc chữa lành thân xác biểu hiệu công trình thiêng liêng Chúa
Giêsu hoàn thành. Tin mừng thứ 4 sẽ khai triển cùng lối biểu tượng này trong
trình thuật người bất toại ở hồ tắm Bêthesđa (5, 1-18).
III. BẢNG "TOÁT YẾU" (cc.32-34)
a. Các đặc tính
của văn thể “toát yếu": ý nghĩa và việc tổng quát hóa.
Hiển
nhiên là ta không nên hiểu theo mặt chữ những lời xác quyết tuyệt đối như:
"Người ta đã đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ
ám" (c.32), nhất là câu của Mt: Mọi kẻ ốm đau, Người đều chữa lành"
(Mt 8,16; x. Lc 4,40). Ta biết rằng Chúa Giêsu đã không chữa lành hết mọi bệnh
nhân; Người đòi hỏi đức tin của họ. Vì thế Mc đã viết: “Chúa Giêsu đã chữa
nhiều kẻ ốm đau” (c.34). Cũng có thể có một thái quá trong kiểu nói: Tất cả
thành đều tụ tập trước cửa" (c.33): hình như đây là một sự tổng quát hóa,
nhưng chắc chắn cũng là kỷ niệm về một sự kiện có thật đã hơn một lần xảy ra và
đã đánh vào trí tưởng tượng của lắm người: truyền thống nhiều lần kể lại rằng
người ta đã không thể qua cửa mà vào nhà được vì dân chúng quá đông: nên phải
chuyền miệng vô lời nhắn gởi (3,32), hoặc đưa bệnh nhân lên mái nhà thòng xuống
(2,1-4).
b. Lũ quỷ
Danh
từ hay tĩnh từ quỷ được dùng ba lần trong Mc 1,32-34 và một lần nữa ở c.39. Ta
thấy rõ đó là một trong những ưu tư lớn của Mc. Chúa Giêsu đến chiến đấu với ma
quỷ và giải phóng con người khỏi quyền lực của nó. Ngay từ đầu, Gioan Tẩy Giả
đã giới thiệu Chúa Kitô như là kẻ mạnh hơn" (1,7); Người khai mạc sứ vụ
bằng một cuộc tấn công trực tiếp Satan và hắn bị bại trận (1,12-13). Ngay khi
Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng thì một kẻ ma ám thử cản trở Người, nhưng quỷ đã
bị trục xuất (1,23-27); và trong đoạn kết của Mc", dấu chỉ đặc trưng đầu
tiên của người môn đồ là "xua trừ ma quỷ" (16,17) (x. G. Gaide, Les
deux maisons, trong Assemblées du Seigneur 41, tr.41-45). Trong nhãn giới này,
mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ ma quỷ và mọi cuộc chữa lành nhờ trục xuất- ma
quỷ đều là một chiến thắng trên quỷ ma.
c "Bí mật
thiên sai (c.34b).
Kết luận
của bản toát yếu này thường được xem như là do Mc biên soạn. Mc không để mất
một cơ hội trở lại với lời căn dặn giữ bí mật thiên sai như với một chủ đề ưa
thích (G. Minettè. de Tillesse, le secret messianique danh l'evangile de Marc,
paris, 1968). Câu này sẽ dễ hiểu hơn nếu đặt sau việc trừ quỷ ở hội đường, vì
lúc đó người bị quỷ ám kêu lên: “Chúng tôi với Ngài nào có việc gì?... Tôi biết
Ngài là ai: Đấng Thánh của Thiên Chúa" (1,24). Để nhắc lại những lời này,
Mc hẳn đã thêm một giải thích vào câu 34: "Bởi vì chúng (lũ quỷ) biết
Người là ai". Lc muốn rõ hơn nên đã lặp lại những lời của quỷ (4,34-41).
Lũ quỷ
này sáng suốt hơn con người đã tức khắc nhận ra được địch thủ của chúng và gào
to lên (1,24; 5,7...). Dĩ nhiên tiếng la hét của chúng chẳng phải là những hành
vi đức tin, nhưng là những dấu hiệu sợ hãi và thảm bại trước kẻ mà chúng nhận
ra là người được Thiên Chúa sai đến, đầy quyền lực thần hình mà chúng không thể
đương cự nổi (x. 3,22-27). Đối với con người, Chúa Giêsu tự mặc khải một cách
tiên tiến bằng những dấu chỉ về quyền lực của Người trên các bệnh tật nổi tiếng
là nan y.(1,40-45), trên tội lỗi mà chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha thứ
(2,5-12), trên ngày của Chúa là ngày hưu lễ (2,28), và cuối cùng là trên sự
sống (ch. 15-16).
Tự hỏi
"Giêsu là ai?" tức là đã làm một bước đầu trên con đường đưa đến sự
hiểu biết hoàn hảo về bản nhân Người, đưa đến đức tin. Vậy mà Mc muốn từng bước
dẫn đưa độc giả (hay thính giả) đến chỗ khám phá Chúa Giêsu Kitô như thế.
Khi
nhìn thấy những kỳ công đầu tiên Chúa Giêsu đã làm, trong đó có việc chữa lành
mẹ vợ Phêrô, con người chỉ nghĩ đến những hồng ân vật chất tức thời mà họ có
thể chờ đợi cho chính họ hay cho thân thuộc họ. Ví dụ như dân làng Nadarét theo
Lc (4,23). Khi đó Chúa Giêsu liền lánh mặt.
Ta
không cần nhắc lại ở đây những gì đã nói về bí mật thiên sai, chỉ cần nhấn mạnh
đến một khía cạnh giáo dục của chủ đề nầy: một hành vi đức tin vào Chúa Giêsu
sẽ chỉ thực sự có giá trị khi gói ghém một sự hiểu biết đầy đủ về sứ mệnh và
công việc Người, đặc biệt về sự cần thiết phải chết và sống lại để hoàn thành
công việc đó. Người thứ 4 diễn tả điều này như sau: "Có lắm kẻ đã tin vào
danh Người bởi được chứng kiến các dấu lạ Người làm, nhưng Chúa Giêsu không tín
nhiệm vào họ" (Ga 2,23-24).
Tuyên
bố Chúa Giêsu là Đấng Messia mà chẳng tin rằng Người phải chết và sống lại, đó
là nói mà không biết mình nói gì, và có thể liều mình chối Chúa Kitô một khi
khám phá được thực tế.
IV. HƯỚNG CẢ VỀ XỨ GALILÊ (cc. 35-39).
Trình
thuật nơi cc. 35-39 là một bản lề (trình thuật chuyển tiếp): cho đến bây giờ
Chúa Giêsu xem ra giới hạn chân trời và hồng ân Người cho dân vùng Capharnaum;
từ đây sứ vụ của Người sẽ lan rộng khắp miền Galilê hết thảy (c.39).
Trước
lúc hừng đông, khi các môn đồ còn ngủ vì mỏi miệt sau một ngày truyền giáo, Chúa
Giêsu đã thức dậy. Sự giao tiếp với con người và niềm vui chữa lành vài bệnh
nhân chưa làm Người thỏa mãn. Người lui ra nơi thanh vắng để cầu nguyện, nghĩa
là để đặc biệt tìm gặp sự thân mật với Cha Người. Lc sẽ nhấn mạnh điểm này xa
hơn.
Simon
còn chưa hiểu ý nghĩa sứ mệnh Chúa Giêsu: tựa như ông muốn khai thác thành công
của Thầy. Ông chỉ thấy những phép lạ đã được thực hiện và tưởng rằng sẽ còn
nhiều phép lạ khác, có lợi cho dân Capharnaum. Ông hy vọng đưa Chúa Giêsu lui
về nhà. Đám dân đã tản mác đêm qua bây giờ trở lại, cũng với kỳ vọng thấy nhiều
phép lạ mới: họ mong chờ những cuộc chữa bệnh, trong khi đối với Chúa Giêsu,
loài ân huệ này chỉ là bước chuẩn bị cho việc đón nhận Tin mừng và mặc khải về
mầu nhiệm bản thân Người thôi.
Mc
không ghi lại đối tượng lẫn nội dung của lời Chúa Giêsu cầu nguyện nhưng mẩu
đối thoại tiếp theo cho ta thoáng thấy được ý nghĩa của lời cầu nguyện đó. Đối
với Chúa Giêsu, đấy không hẳn là xin ơn cho bằng là nói về sứ mệnh của người
với Đấng đã sai Người đến. Trước đây lúc chịu phép rửa Chúa Giêsu đã nghe tiếng
nói Cha Người (Mc 1,11; x Lc 3,21), đã nhận Thánh Thần là đã được Thánh Thần
thúc dẩy tấn công ma quỷ (1,12-13).
Thành
ngữ chính vì thế mà “Ta đã ra đi" có nghĩa là gì? Phải chăng là đi ra khỏi
Capharnaum (nghĩa tự nhiên) hai đi ra khỏi Chúa Cha để đến trong trần thế
(nghĩa của Gioan 16,28)? (x. A. Feuillet, Le Logion suy la rancon, trong Rev.
Sc. Phil. Théo. (1967), tr.372). Luca đã hiểu câu nói Chúa Giêsu theo nghĩa thứ
hai, vì ông đã viết lại: "chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (4,43
hiểu là từ nơi Chúa Cha). Tuy vậy ta có thể nghĩ rằng đây là kết quả việc Lc
suy ngắm về sứ mệnh Chúa Giêsu, và có chủ đích soi sáng sứ mệnh của Giáo Hội
cùng của các môn đồ: qua từng giai đoạn, các môn đồ phải vượt ra khỏi mọi biên
giới và đem Tin mừng đến tận cùng thế gian (Cv 1,8). Mc đã chẳng đẩy suy tư về
sứ mệnh Giáo Hội xa như thế, ông gần với những sự kiện như đã xảy ra hơn: Chúa
Giêsu không muốn bị kéo lôi bởi thành quả của Người. Về sau cũng vậy, sau khi
làm phép lạ hóa bánh, Người lui ra nơi cô tịch để tránh sự cuồng nhiệt của đám
đông và để đặt mình trong ý định của Thiên Chúa (Mc 6.46; Mt 14,23; Ga 6, 15b).
Cơn hấp hối tại vườn Ghetsêmani có thể đem đối chiếu với hai giai thoại này.
Trong cả ba trường hợp, Chúa Giêsu lui ra để cầu nguyện ban đêm; các môn đồ,
đặc biệt là Phêrô, đều tỏ vẻ kinh ngạc, vì họ chưa hiểu sứ mạng của Thầy.
NHỮNG KẾT LUẬN CHO THỜI NAY
Cuối bài khảo cứu này, ta thấy bản văn Chúa Nhật hôm nay,
có một tính cách thời sự đặc biệt, dĩ nhiên không phải ở điểm gán cho ma quỷ
các chứng bệnh, nhưng vì giải tỏa được nhiều ưu tư của ta về phương pháp giáo
dục đức tin và về nhu cầu truyền giáo của Giáo Hội.
1. Sự dấn thân của đức tin.
Người ta đã có lý khi bảo Tin Mừng thứ hai là một lời rao
giảng hơn là một bài giáo lý. Tuy nhiên điều ấy không có nghĩa là để theo Mc,
chỉ cần một đức tin tối thiểu mà rồi sau đó sẽ đào sâu với giáo lý của Mátthêô,
đoạn với thần học của Phaolô hay của Tin mừng thứ tư. Không! Mátcô rất đòi hỏi.
Ông chẳng muốn một sự dấn thân khơi khơi bên ngoài. Chính vì thế mà ông không
đặt ngay vấn đề dứt khoát. Ý nghĩa của mệnh lệnh giữ bí mật thiên sai là vậy,
và đó là một phương pháp giáo dục tuyệt hảo: kẻ rao giảng Tin mừng luôn luôn
nói về Chúa Kitô, nhưng cẩn thận mặc khải, bản thân và mầu nhiệm Người cách
tiệm tiến, bằng nhiều "dấu chỉ nhiều lời ẩn bí (mashal). Thỉnh thoảng ông
cũng kín đáo để lộ cái cốt yếu của mầu nhiệm nhưng lại che dấu ngay lệnh giữ bí
mật), nhưng chính Chúa Giêsu khi Người trốn khỏi quần chúng hoặc khi chỉ tỏ lộ vinh
quang trong chốc lát lúc biến hình. Vị thánh sử cũng là giáo lý viên có trách
nhiệm về các tân tòng. Đã biết nhận ra thính giả của mình chưa sẵn sàng mấy còn
cần phải tiến bước lâu dài và thong thả. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu quá vĩ đại,
khó mà khám phá trong một ngày, trừ phi được ơn đặc biệt như Phaolô.
Chính nhóm Mười hai cũng đã trải qua nhiều thời gian dài
mới tin vào Chúa Giêsu thực sự, mới biết Người đúng như bản chất Người. Chắc
hẳn họ đã gắn bó với Người rất sớm, nhưng chỉ đạt được đức tin sung mãn sau
tiến cố Tử nạn, Phục sinh và Ngũ tuần thôi. Cho tới lúc đó, đức tin của họ vẫn
còn bất toàn và mỏng manh, như ta thấy rõ vào giờ Chúa Giêsu bị bắt và bị xử
án.
Tại sao có sự đòi hỏi, sự tiệm tiến nơi Mc như vậy. Chắc
chắn là vì ông ctã hiểu đức tin lôi kéo sâu xa con người đến mức nào. Có lẽ
Phêrô, được soi sáng bởi kinh nghiệm riêng của mình (những lần chối Chúa) đã
nhấn mạnh đặc biệt về điểm này chăng? Rồi chắc cũng là vì lúc Tin Mừng Mc được
biên soạn dứt khoát thì Giáo Hội Rôma đang sống trong những hoàn cảnh đòi buộc
thái độ trên: trong trường hợp bị bách hại, người ta chỉ có thể nhận vào Giáo
Hội những tân tòng đã được chuẩn bị kỹ càng và đã quyết tâm theo Chúa Kitô, dù
phải mất mạng sống.
Ngày nay đòi hỏi này vẫn còn có giá trị, chứ không chỉ
dành riêng cho thời hoặc miền đã bị bách hại mà thôi. Người ta đã không luôn
luôn chú ý cho đủ giáo huấn của Mc về điểm này. May thay, thời nay, nhờ nhiều
đường lối khác nhau, người ta đã khám phá nó lại.
2. Lời mời gọi truyền giáo.
Như mỗi người chúng ta, Chúa Giêsu đã yêu quê hương làng
nước của Người (Nadarét, Capharnaum). Người đã khởi đầu sứ vụ tại đó, nhưng
Chúa Cha đã gọi Người đi xa hơn. Trong một đoạn ngắn ngủi, Lc cho thấy làm sao
Chúa Giêsu đã bỏ Nadarét. Mc kể lại làm sao Người đã rời Capharnaum. Ngày hôm
nay, người ta nhấn mạnh nhiều và không phải không có lý do đến nghĩa vụ truyền
giáo ngay bên trong những vùng đất được gọi là Kitô giáo từ lâu đời, và cũng
nói đến rất nhiều khó khăn mà những người đem Tin mừng đi xa gặp phải, khiến có
nguy cơ làm giảm số lượng những nhà truyền giáo phương xa này. Nhưng như vậy là
đã bỏ quên một khía cạnh quan yếu của sứ mệnh Hội Thánh. Bài Tin mừng hôm nay
nhắc cho ta nhớ khía cạnh đó lại.
3. Đứng trước bệnh tật và những đau khổ trần gian khác.
Phản ứng của người dân Capharnaum vẫn tiếp tục bày tỏ.
Biết bao nhiêu người, hôm nay vẫn còn, chỉ đến xin Chúa Kitô và Giáo Hội giúp
đỡ vật chất và họ phê phán Chúa Kitô cùng Giáo Hội chỉ qua thái độ đáp ứng nỗi
chờ mong đó. đây là phản ứng một phần bị thúc đẩy bởi khuynh hướng đã có từ lâu
trong Giáo Hội là chỉ giới hạn trong sứ vụ thiêng liêng. Nhưng đàng khác cũng
là phản ứng muôn thuở có thể khiến người ta đi từ cực đoan này đến cực đoan
khác. Trước một sự chờ đợt như vậy, Chúa Giêsu lánh mình đi. Dĩ nhiên Người đã
ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ áp bức khống chế (Cv
10,38). Và Người cũng muốn các môn đồ làm như Người, một cách thích nghi hơn
cho thời của họ. Nhưng Người không hề để nình bị giam hãm trong cái vòng đó Môn
đồ và Giáo Hội Người cũng phải như vậy. Gilles
Gaide, Assemblées du Seigneur 36, tr.39-48.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
Bài đọc1: Gióp hay là "đau khổ trong đức tin”. Gióp sống trong đức
tin. Có hai điểm ông cho là cốt yếu và phải giữ vững: đó là có một sự đau khổ
bất công và Thiên Chúa thì luôn luôn nhân ái và công bình. Ông không hiểu được
làm sao có thể dung hòa hai xác quyết tương phản ấy nhưng vẫn giữ vững cả hai.
Trước một đau khổ, mọi lối an ủi như: "Chúa nhân từ yêu bạn! Đời sau sẽ
đẹp hơn! Bạn chuẩn bị Thiên đàng! Bạn đền thay cho tội nhân!" đôi khi có
vẻ thừa thãi. Sự đau khổ không thể thỏa mãn với một lời giải thích giản đơn. Sự
đau khổ, nhất là khi xảy đến cho những kẻ vô tội hoặc khi quá sức lớn lao, là
một trong những mầu nhiệm lớn của con người. Trước đau khổ, thái độ đích thực
chỉ có thể là một đức tin sâu xa. Thiên Chúa đã phán: tư tưởng các ngươi không
phải là tư tương của Ta và đường lối các ngươi không phải là đường lối của
Ta" (Is 55,8).
2. Chúa Giêsu không đến trần gian để tiêu diệt hết mọi khổ đau,
bệnh tật.
Ngay lúc sinh tiền, Người chẳng chữa lành hết mọi bệnh nhân Người gặp, giải
quyết hết mọi vấn đề sinh tồn của con người. Người chỉ ra tay cứu giúp một số
ít, đặc biệt những ai có lòng tin để cho họ tin vào sứ điệp Người, thấy lòng
nhân ái của Thiên Chúa và hy vọng một tương lai trong đó quyền năng của người
sẽ dẹp tan mọi đau khổ. Đúng ra Người đến để mang lại cho đau khổ một ý nghĩa
đích thực, một công dụng siêu nhiên. "Sự cao cả tuyệt vời của Kitô giáo là
ở chỗ nó không tìm một phương dược siêu nhiên để chống lại đau khổ, nhưng là
tìm ra một công dụng siêu nhiên cho đau khổ” (Simone Weii). "Từ khi Chúa
Kitô đến, chúng ta được giải phóng không phải khỏi việc đau khổ, nhưng là khỏi
việc chịu đau khổ cách vô ích" (P.Charles SJ).
3. Thiên Chúa không dẹp tan đau khổ cho con người đang sống
trong thời gian bởi vì đau khổ cần cho con người. Đau khổ là giá của tự do, là
trường rèn luyện nhân cách, là động lực tiến bộ xã hội, là dấu chứng minh tình
yêu, là phương tiện để giúp ta từ bỏ hầu chọn lựa được Thiên Chúa. Xét một cách
tiêu cực, còn đau khổ trong trần gian là vì con ngươi còn thiếu tình yêu đối
với anh em, còn đau khổ trong bản thân là vì con người còn bám chặt lấy hay
chưa dứt bỏ nổi cái không phải là hạnh phúc đích thực. "Ngàn lần chúc tụng
sự đau khổ đã đưa tôi về với Thiên Chúa” (Francois Coppée). "phương pháp
làm nhẹ đau khổ của mình là giảm bớt đau khổ của tha nhân" (P.Charles SJ).
4. Chúa Giêsu không chỉ loan báo Tin mừng, Người còn cụ thể hóa
Tin mừng đó bằng các hành vi cho thấy Vương triều Thiên Chúa (mà Người là nhân
chứng và là Messia) đang đến. Trong thế giới này, Kitô hữu chúng ta cũng phải là những
người kế tục sứ mệnh Chúa Giêsu Kitô. Làm chứng cho Vương triều Thiên Chúa. Sứ
mệnh đó sẽ không chỉ nằm trong lời nói, mà còn trong hành động: đức tin chúng
ta phải thúc giục chúng ta cụ thể hóa lời rao giảng bằng một hành động tấn công
mọi quyền lực của sự ác như Chúa Giêsu. Kitô hữu là người muốn minh chứng Nước
Trời đang đến bằng việc tích cực chống lại những gì là xấu xa, bệnh tật, đàn
áp, bóc lột, bất công, đau khổ, tội lỗi. Đó là cách duy nhất để làm cho Nước
Trời mau đến. Đó cũng là cách duy nhất mà Giáo Hội - dấu chỉ bí tích của Nước
Trời gây niềm tin cho thế gian. Phải làm những hành vi có ý nghĩa như Chúa
Giêsu đã làm.
5. Thính giả của Chúa Giêsu rất khó chấp nhận giáo lý phổ quát,
đại đồng của Người. Họ vấp phạm, họ thắc mắc khó chịu về tính cách phổ quát ấy.
Luôn luôn họ vẫn nghĩ họ là dân riêng duy nhất được ưu đãi, chứ không còn nơi
nào khác. Đồng ý là Thiên Chúa tự chọn: Giáo Hội Ngài, nhưng việc chọn lựa đó
chỉ là điểm khởi hành để đi đến "nơi khác". Với Giáo Hội ngày nay, cả
với tôi nữa, Chúa Giêsu vẫn còn nhắc: Chúng ta lên đường đi nơi khác". Lời
đó có nghĩa gì cho tôi? Thưa nghĩa là tôi không được bo bo giữ kín Tin mừng để
thỏa mãn cho tôi thôi, song phải làm sáng tỏa cho mọi người".
101.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Chú giải của Fiches Dominicales)
TỪ HỘI ĐƯỜNG CAPHÁCNAUM ĐẾN KHẮP MIỀN
GALILÊ. LỜI CẦU NGUYỆN CỦA CHÚA GIÊSU
NGAY GIỮA LÚC THI HÀNH SỨ VỤ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ âm thầm trong “nhà”
Ba câu
chuyện nhỏ xảy ra liên tiếp trong bài Tin Mừng Chúa nhật thứ V hôm nay. Cả ba
tương phản nhau như được tượng trưng qua những địa điểm chúng xảy ra: bắt đầu
từ một chỗ âm thầm trong “nhà của ông Simon" (Phêrô); rồi đến "ngoài
cửa”, nơi "cả thành xúm lại”, sau cùng là "một nơi hoang vắng” ở đó,
trong lúc Chúa đang cầu nguyện, vang lên lời Người gọi mời phải mở rộng cánh
đồng truyền giáo.
Đức
Giêsu, có các môn đệ đầu tiên cùng đi theo, ra khỏi hội đường Caphácnaum, đến
"nhà hai ông Simon và Anrê “. Luật Do Thái có qui định nghiêm ngặt trong
ngày Sabát như ngày hôm đó, người ta được phép đi lại bao xa. Kết quả những
công trình đào xới khảo cổ học gần đây cho thấy, quãng đường phải đi từ hội
đường đến "căn nhà mà Đức Giêsu và các ông định đến, quả thực rất gần. Căn
nhà này hình như là địa điểm họp mặt, đồng thời là cứ điểm truyền giáo của Đức
Giêsu. Nó đóng một vị trí quan trọng trong Tin Mừng thứ hai này.
Máccô
thuật tiếp: "Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt”. Để hiểu được ý
nghĩa câu chuyện, cần phải nhớ rằng vào thời đó, bệnh sốt được xem như là một
trong những hình phạt mà Thiên Chúa doạ sẽ giáng xuống trừng phạt dân tộc bất
trung: "nếu các ngươi khinh thường các luật điều của Ta, và hồn các ngươi
ớn ghét các phán quyết của Ta, không làm theo rất cả các lệnh truyền của Ta,
đến thủ tiêu giao ước của Ta, thì chính Ta, Ta sẽ làm điều này cho các ngươi.
Ta sẽ giáng xuống trên các ngươi kinh hoàng, tiêu hao, cảm sốt làm cho mắt đờ,
hơi kiệt” (Lv 26, 15-16a).
J.
Pótin chú thích thêm: "người bị bệnh sốt, là kẻ bị tình nghi phạm một tội
nào đó, khiên tuỳ mức nặng nhẹ của cơn sốt mà không được tham dự, hoặc tất cả
hoặc một phần; vào sinh hoạt chung tôn giáo và xã hội" ("Jésus,
lhistoire vraie", Centurion, trang 162).
Câu
chuyện được tiếp tục kể, giọng điệu mau lẹ, ngắn gọn, không thấy một lời nói
nào.
Trước
tiên là sự thỉnh cầu của các thân nhân người bệnh: "Lập tức họ nói cho
Người biệt tình trạng của bà”.
Tiếp
đó là cử chỉ chữa lành: "Đức Giêsu lại gần, cầm lấy tay mà đỡ dậy”.
Dưới
ánh sáng Phục Sinh, cử chỉ này của Đức Giêsu mang một ý nghĩa biểu tượng đối
với Máccô và cộng đoàn Kitô hữu của ông. J.Hervieux lưu ý chúng ta: “ Đó là
điều được ám chỉ một cách kín đáo, qua việc sử dụng một kiểu nói đặc biệt. Tro
ng tiếng Hy Lạp, động từ "đỡ dậy" cũng là động từ Máccô dùng để nói
về Đức Giêsu: "Người đã chỗi dậy rồi" (16,6). Chúng ta cần phải đặt
mình trong khung cảnh những Kitô hữu tiên khởi khi đọc trang Tin Mừng này. Đối
với họ, Đức Giêsu không chỉ là Đấng có quyền phép chữa bệnh lạ lùng trong giai
đoạn đầu của sứ vụ. Với cuộc Phục sinh, Người được suy tôn là "Đức Chúa và
Đấng Kitô" (Cv 2,36), nghĩa là Đấng qua từng ngày vẫn tiếp tục cứu chữa
loài người khỏi tội lỗi tiếp tục giải thoát họ khỏi sự chết"
("LEvangile de Marc", Centurion, trang 33).
Người
bệnh bỗng phút chốc được lành bệnh, sức khoẻ được hồi phục hoàn toàn, bằng
chứng là sau đó bà bắt đầu phục vụ Đức Giêsu và các người đi theo Chúa. Đó cũng
là hình ảnh người Kitô hữu đã từng bị nằm liệt, do bị hành hạ bởi cơn sốt là
tội lỗi Nhưng Đức ki tô đã đến "cầm lấy tay mà đỡ dậy”; nhờ đức tin và
phép Rửa tội, để một khi đã được chữa lành, họ sẽ trở thành kẻ phục vụ Chúa và
anh ern mình: "Cơn sốt dứt ngay, và bà phục vụ các ngài”. J. Hervieux tiếp
tục: “Khi trình bày cho thấy, người đàn bà đã được chữa khỏi, bắt đầu phục vụ
các vị khách của mình, Máccô chắc chắn nghĩ đến việc "phục vụ " Đức
Kitô mà mỗi Kitô hữu được mời gọi phải làm Đấng Cứu Thế không ngừng giải thoát
các tín hữu của người khỏi sự dữ để họ bắt tay vào công việc phục vụ đó "
(Sđd).
2. Rồi đến “trước cửa” có “cả thành xúm lại”:
Khi
mặt trời lặn, đối với người Do Thái, đó là lúc kết thúc ngày Sabát, và bắt đầu
một ngày mới.
Hết bị
ràng buộc bởi những khoản cấm đoán liên can đến ngày hưu lễ, mọi người từ lúc
này ai nấy trở lại với sinh hoạt bình thường, và họ dẫn đến cho Đức Gtêsu
"mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám”. Chẳng mấy chốc, theo lời của Máccô,
"cả thành xúm lại trước cửa”. Phép lạ chữa lành bà mẹ vợ ông Phêrô diễn ra
âm thầm giữa một nhóm vài ba người, nay đã bung ra cho niềm khát mong của bao
kẻ bên ngoài: "Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ
nhiều quỷ”.
-
Người ra lệnh cho chúng không được nói gì cả lần này cũng nghiêm khắc không kém
gì lúc ở trong hội đường (c.25): "Người không cho quỷ nói, vì chúng biết
Người là ai”.
M.E.Boismard
đặt câu hỏi: "Tại sao lại có bệnh cấm đoán đó ở đây cũng như chỗ khác,
trong ch. 1 câu 5, khi Đức Giêsu bị thần ô uế phải im tiếng mà xuất ra khỏi nạn
nhân?…Vào thời đó cũng chính ông trả lời, đất nước Palestin đã bị mất chủ
quyền, và rơi vào ách đô hộ của người La mã. Do vậy, dân tộc Do Thái ngày đêm
mong mỏi một vi anh hùng giải phóng đến để "khôi phục lại vương quốc
Israel" (Cv 1, 6; Lc 1, 58-73). Nhưng Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến
không phải thực hiện công cuộc khôi phục có màu sắc chính trị đó. Chính Đức
Kitô rồi đây sẽ giải thích thực chất vương quyền của Người là gì, khi triển
khai giáo huấn của Người bằng những dụ ngôn (Mc 4, 1 và tiếp theo). Chúng ta sẽ
hiểu rõ hơn sự sai biệt giữa vi vua mà dân Do Thái mong đợi và vị vua mà Thiên
Chúa gởi đến cho họ. Chính vì muôn tránh sự hàm hồ đó mà Đức Giêsu đă không cho
phép quỷ xưng Người là ai, cũng như sau này Người chỉ thị cho những kẻ được
chữa lành phải thinh lặng. Đó là lý do của cái quen gọi là "bí mật
Mêsia" (“Jésus, un homme de Nazareth", Cerf, trang 46-47).
Danh
hiệu "Đấng Kitô" và "Con Thiên Chúa" chỉ được giải nghĩa
chính xác sau ngày dưới ánh sáng của Khổ Nạn và Phục Sinh. Phải giữ thinh lặng
cho đến khi thật sự sáng tỏ rằng Đấng Messia chỉ đến cứu loài người qua con
đường hy sinh chịu chết.
3… Và “những nơi khác" phải đến để rao giảng:
Các
câu từ 35 đến 39 đóng vai trò chuyển tiếp giữa sứ vụ của Đức Giêsu được khai
trương ở Caphácnaum và mở rộng ra khắp miền Galilê.
Trái
ngược hoàn toàn với công việc bề bộn của Người để phục vụ đám đông ở
Caphácnaum, giờ đây Đức Giêsu chỉ có một mình trong một nơi thanh vắng”.
-
Chúng ta đang ở vào lúc sáng sớm, lúc trời còn tối mịt”, hôm sau ngày Sabát,
ngày thứ nhất trong tuần, sau này sẽ là Chúa nhật của người Kitô hữu,
"ngày của Chúa". Đức Giêsu cầu nguyện, như Người từng làm như thế vào
mỗi khoảng khắc quan trọng của sứ vụ (x. Mc 6,46 và 14,35-39). Chắc chắn trước
sự ồn ào nô nức của đám đông vây quanh mình, Người cảm thấy nhu cầu được đắm
chìm lại trong sự thân mật với Chúa Cha, cũng như xác định lại vị trí của mình
trên con đường sứ vụ. P.E. Boismard chú giải, "Trong nơi hoang vắng, tất
cả đều im tiếng, chỉ có sự tĩnh lặng tràn ngập ánh sáng, chỉ có con người và
Thiên Chúa. Bởi vì mọi sự đều lặng thinh nên con người mới nghe được tiếng Thiên
Chúa" (Sđd, trang 49).
Các
môn đệ thì chạy đi tìm Chúa, mong mời cho được Người trở về Caphácnaum, ở đó
"mọi người đang tìm Thầy". Nhưng Đức Giêsu cương quyết nhắc cho họ
biết cái cốt lõi trong sứ vụ của Người là: loan báo Tin Mừng. "Chúng ta
hãy đi nơi khác, đến các làng xă chung quang, Người trả lời họ, vì Thầy ra đi
cốt để làm việc đó”.
Từ đó,
"Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ
quỷ”. Đoạn Tin Mừng chấm dứt ở giai đoạn mở màn của sứ mạng truyền giáo ấy.
Vài
câu Tin Mừng ở trên có những nét đặc trưng của Máccô: Đức Giêsu ra đi trước,
một mình, cầu nguyện. Lúc đó là đêm thứ bảy bước sang ngày Chúa nhật, quãng
thời gian của sáng sớm ngày Phục Sinh (x. 16, 1-8). Các môn đệ ra đi sau, tìm
Chúa để cố lôi kéo người lại. Thế nhưng trong Tin Mừng Máccô, không bao giờ có
điểm dừng, người ta luôn luôn được gởi đi đến một nơi khác: "Chúng ta hãy
đi nơi khác, đến các làng xã chung quang, vì Thầy ra đi cối để làm việc
đó". Các phụ nữ đi viếng mộ Chúa sau này cũng được gởi đi lên một
"nơi khác như thế ("Người không còn đây nữa. Xin các bà về nói với
môn đệ Người và ông Phêrô rằng người sẽ đến Galilê trước các ông). Bài tường
thuật ngắn ngủi này có thể được dùng làm tấm gương soi cho cộng đoàn Kitô hữu
đang họp nhau trong đêm thử bảy vọng sáng Chúa nhật, để cầu nguyện và tìm Chúa.
Họ cũng sẽ được gởi đi đến một nơi các: "Tin Mừng phải được rao giảng cho
mọi dân tộc" (13,10) ("L'evangile se lon saint Marc", Cerf,
trang 37).
II. BÀI ĐỌC THÊM
1. “ Cầu nguyện và truyền giáo" (Mgl. L.Daloz, trong "Qui
dong est-il?", Desclée de Brouwer, trang 17).
"Cuộc
đời của Đức Giêsu luôn xáo động. Người thường không được ở yên. Thế nên Người
phải ra đi để cầu nguyện, giữa đêm tối, ở một nơi hoang vắng. Simon và các bạn
chạy đi tìm Chúa và quấy rầy Người: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Trong
cuộc sống luôn bị xáo trộn như thế, Đức Giêsu tận dụng thời gian để cầu nguyện.
Người cầu nguyện cách kín đáo, thường là một mình. Người lắng nghe Chúa Cha,
trong thinh lặng, và nói với Chúa Cha. “ Thầy phải lo việc của Cha Thầy".
Người là Người Con Chí ái, hằng yêu mến Cha, và luôn sống thân mật với Cha. Khi
đi rao giảng cũng là lúc Người lo việc của Cha. Mọi người tìm Người, đợi Người.
Nhưng Người đi nơi khác, "đến các làng xã chung quanh, theo tiếng gọi của
sứ vụ truyền giáo của Người: "Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó". Mối
tương quan thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha ảnh hưởng trực tiếp đến sứ vụ,
lời rao giảng của Người. Người làm điều Cha muốn và tìm kiếm thời gian để ở với
Cha. Đó cũng là điều kiện phải có của mọi sứ vụ. Nó đòi hỏi phải có sự gặp gỡ
thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện, và lắng nghe ý Người".
2. “Một bài giáo huấn về vài khía cạnh trong Bàn Tiệc ngày Chúa
nhật" (F.
Deleclos, trong: "Prends ét mang La Parole, "Centurion - Duculot,
trang 137-138).
"Đoạn
Tin Mừng kể về phép lạ chữa lành bà mẹ vợ của ông Phêrô không chỉ đơn giản là
“chuyện nhỏ”, nó xứng đáng được xem như (một bài giáo huấn về vài khía cạnh
trong Bàn Tiệc ngày Chúa- nhật”. Là những kẻ tội lỗi, chúng ta được qui tụ bởi
đức tin, làm nên cộng đoàn Hội Thánh tìm kiếm Đức Kitô và kêu cầu Người. Giống
như bà mẹ vợ của ông Phêrô, chúng ta bị nằm liệt giường và lên cơn sốt, chẳng
được vui hưởng cuộc sống đích thực. Chúng ta bị hành hạ bởi bệnh sốt của những
kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và chăm chú thực hành những điều răn của
Người (Tl 28,15 và 22). Đức Giêsu đến làm cho chúng ta được bình phục, đủ sức
khoẻ để phục vụ bàn tiệc thánh Thể và dấn thân vào cuộc chiến chống lại mọi
hình thức của đau khổ".
3. "Phép lạ chữa lành như là dụ ngôn về sự sống lại" (H. Denis, trong "100 mots
pour dire Jésus", Desclée de Brouwer, trang 183).
"Lạy
Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào lòng con. Nhưng xin Chúa phán một lời thì
linh hồn con được lành mạnh”.
Câu
kinh đọc trước Rước lễ có thể soi sáng một vài suy tư sau đây về phép lạ chữa
bệnh.
Đức
Giêsu đã làm nhiều phép lạ chữa bệnh, đó là điều rõ ràng ai cũng biết. Chúng có
mặt hầu như ở từng trang Tin Mừng. Đằng khác, nếu không chữa bệnh, làm sao Đức
Giêsu chứng tỏ mình là Đấng Mêsia được? Đó là điều đòi hỏi phải có vào thời của
Người, mà người ta còn gặp thấy lại nơi mọi lãnh tụ tôn giáo thời nay.
Nhưng
Đức Giêsu không chỉ là một người chuyên chữa bệnh. Chắc chắn không! Người
không, đến để chữa bệnh nhưng để cứu con người. Nếu có chữa bệnh đi nữa thì
cũng là để cứu độ Người không bảo: "Đức Tin đã chữa lành con”, nhưng:
"Đức Tin đã cứu con”. Thế mà ơn cứu độ là gì nếu không phải là được sống
nhờ sự sống của Đức Kitô, dù khi khoẻ mạnh hay ốm đau, cả sau khi chết cũng như
lúc còn sống. Phép lạ chữa bệnh chỉ là một thứ dụ ngôn về sụ sống lại. Một nhà
chú giải hiện nay đã có một nhận định mà theo sự đánh giá của tôi, đã soi sáng
cho tôi rất nhiều. Trong Phụng vụ, vị ấy nói, ngay từ ban đầu người ta chưa hề
bao giờ đọc một bài Tin Mừng về phép lạ Đức Giêsu chữa bệnh để cầu cho bệnh
nhân được lành (như thế chẳng khác nào đọc thần chú!), nhưng chỉ để công bố sự
Phục sinh của Chúa".
102.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
HOẠT ĐỘNG & CẦU NGUYỆN TRONG ĐỜI SỐNG CỦA ĐỨC GIÊSU (Mc 1, 29-39)
Kính thưa Quý Bề trên và Chị em,
Chúng ta vừa trải qua những ngày đầu Xuân Nhâm Thìn 2012
với biết bao niềm vui. Trong những ngày đầu năm mới, mỗi người chúng ta đều
nhận được rất nhiều lời chúc thật hay, thật ý nghĩa, nhưng có lẽ chỉ một lời
Chúc chúng ta cần và mong đợi đó là mỗi ngày trong Năm Mới chúng ta được trở
nên “đồng hình đồng dạng” với Đức Kitô. Chúng ta sẽ nên giống Đức Kitô như thế
nào? Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một đáp án, đó là: hoạt động và
cầu nguyện như Đức Kitô.
I. LỜI CHÚA: CHÚA NHẬT 5 TN B (Mc 1, 29-39)
(29) Vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến
nhà hai ông Simon và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. (30) Lúc
đó, bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho
Người biết tình trạng của bà. (31) Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn
sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
(32) Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ
ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. (33) Cả thành xúm lại trước cửa.
(34) Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ,
nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.
(35) Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra
một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Simon và các bạn kéo nhau đi
tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” (38)
Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để
Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” (39) Rồi Người
đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.
II. SUY NIỆM
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một ngày sinh hoạt của Đức
Giêsu tại Caphanaum. Ngay sau khi chữa lành anh chàng bị thần ô uế ám trong hội
đường (Mc 1, 23-28), Đức Giêsu tiếp tục thực hiện một chuỗi những phép lạ: chữa
lành bà nhạc ông Simon Phêrô và nhiều bệnh nhân khác, đồng thời xua trừ ma quỷ
ra khỏi nhiều người. Dù trải qua một ngày tất bật trong việc chữa bệnh và trừ
quỷ, nhưng Đức Giêsu vẫn dành thời gian riêng để cầu nguyện với Chúa Cha. Thánh
Marcô ghi rõ: Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, đi ra một nơi thanh vắng và
cầu nguyện (c.35). Chính Đức Giêsu đã dùng phương thức sống “hoạt động và cầu
nguyện” này để đi trọn hành trình cứu độ mà Chúa Cha đã ủy thác cho Ngài. Là
môn đệ Đức Kitô, chúng ta được mời gọi bước theo con đường Đức Giêsu đã đi qua
việc hết mình phục vụ anh chị em, nhưng đồng thời vẫn giữ trọn mối tương giao
thân tình với Thiên Chúa.
1. Hoạt động—Chúa chạnh lòng
thương dân Ngài
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô miêu tả
thật sống động hình ảnh một Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đến để phục vụ, để chia
sẻ và đem lại sự sống đích thực và sung mãn cho con người. Nơi Đức Giêsu, một
“Thiên Chúa chạnh lòng thương” đang hiện diện giữa dân Người. Sách Công Vụ Tông
Đồ cho biết: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ
bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10, 38).
Mở đầu cho đoạn Tin Mừng hôm nay là việc Giêsu chữa lành
“bà mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường” (c.30). Ngài lại gần,
nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cách Đức Giêsu chữa bệnh thật đơn giản,
và thân tình. Với cử chỉ “cầm tay và nâng dậy,” Đức Giêsu đã truyền sức sống
Thiên Chúa cho bà và Ngài đã dùng quyền năng Thiên Chúa mà nâng bà dậy. Ngài đã
khôi phục lại nơi bà những gì mà “cơn sốt” lấy đi, để bà tiếp tục phục vụ Chúa
và anh chị em trong công việc thường ngày.
Sự “chạnh lòng thương” của Đức Giêsu không dừng lại nơi
“bà mẹ vợ ông Simon,” nhưng còn trải rộng đến tất cả những ai đang cần đến
Ngài. Thật vậy, “chiều đến, khi mặt trời đã lặn,” người ta mới đem mọi kẻ đau
ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám… Chúa đón nhận hết, và chữa lành tất
cả. Chính cuộc sống và hoạt động của Đức Giêsu đã minh chứng sứ mạng của Ngài,
được công bố nơi Tin Mừng Thánh Gioan: “Tôi đến để chiên được sống và sống dồi
dào” (Ga 10,10).
Suy niệm đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta
hãy đưa tay ra để Ngài “cầm và nâng” chúng ta dậy khi gặp thử thách trong đức
tin, trong đời sống cộng đoàn, và trong khi đương đầu với những căn bệnh về thể
lý. Chúng ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi; cần được Chúa đưa
tay ra nắm lấy khi gần chìm như Phêrô! Để khi được Chúa chữa lành, được Chúa
nâng dậy, chúng ta sống cho đúng với căn tính và phẩm giá của mình là những
người đã được Chúa phục hồi và chữa lành. Để sau khi được chữa lành, chúng ta
biết trỗi dậy và hăng hái phục vụ anh chị em mình như mẹ vợ ông Simon. Được
Chúa chữa lành, là được Chúa tăng sức để hội nhập lại với đời sống cộng đoàn,
và cùng chung tay xây dựng để cộng đoàn chúng ta trở thành dấu chỉ của Nước
Trời giữa trần gian.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng là một tiếng chuông gióng lên
thức tỉnh người Kitô hữu và đặc biệt người tu sĩ, trước căn bệnh “vô cảm” của
thời đại. Như chúng ta đã biết, thời gian gần đây các trang mạng đều đề cập đến
một căn bệnh của thời đại, đó là bệnh vô cảm. Vào lúc 5 giờ 30 phút chiều ngày
13 tháng 10 vừa qua, tại huyện Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc xảy
ra một sự việc đau lòng khiến toàn thế giới nhìn vào đều rùng mình và phẫn nộ.
Đó là sự vô cảm của 18 con người dửng dưng trước sự quằn quại trên vũng máu của
bé Duyệt Duyệt (Yue Yue) 2 tuổi, bị 2 chiếc xe tải cán qua. Rồi tiếp đến ngày
3-11-2011, chàng thanh niên có nick name là kẹo mút chơi bời đã khoe “chiến
tích” tông xe làm chết người của mình với những từ ngữ đùa cợt phản cảm mang
“máu lạnh” trên mạng Facebook, đã làm dấy lên làn sóng giận dữ kết án của dân
cư mạng. Và mới đây, hôm 23-11-2011, dân cư mạng lại xôn xao bàn tán về câu
chuyện cô gái lái xe buýt bị hãm hiếp trước sự bàng quan của hầu hết những
người khách trên xe, duy chỉ có một người lên tiếng chống đối hành vi đồi bại
của ba tên yêu xanh… Trước những sự kiện đau lòng này, người tu sĩ chúng ta
phải làm gỉ?
Ước mong Lời Chúa hôm nay giúp chữa lành căn bệnh “vô
cảm” của chúng ta và của con người thời đại này. Xin Chúa giúp chúng ta biết
“chạnh lòng thương,” biết nhạy cảm trước những đau khổ, trước những cảnh thương
tâm đang xảy ra chung quanh chúng ta, đồng thời cho chúng ta sức mạnh để quyết
tâm đứng lên hành động theo sự thúc đẩy của tình thương Thiên Chúa.
2. Cầu nguyện
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: “Sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở
đó” (c.35). Mặc dù bận rộn với việc chữa bệnh, trừ quỷ, giảng dạy… nhưng Đức
Giêsu vẫn không quên dành giờ để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa Cha. Dù không
ai gần Chúa Cha, không ai biết Chúa Cha bằng Đức Giêsu, nhưng Ngài vẫn cần gặp
Chúa Cha mỗi ngày, mỗi lúc.
Thật vậy, cầu nguyện được coi là nhu cầu không thể thiếu
trong đời sống của Đức Giêsu. Ngài cầu nguyện mọi nơi, mọi lúc: Trước khi khởi
đầu sứ vụ rao giảng, Ngài đã dành 40 đêm ngày để cầu nguyện (Mc 1,12-13); trước
khi chọn 12 Tông đồ, Ngài cầu nguyện thâu đêm (Lc 6,12); và ở đây, trước khi
khởi sự một ngày mới, Ngài cũng tìm đến Chúa Cha để cầu nguyện. Ngài tìm Cha để
tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của nhân loại, về cuộc chiến
chống lại sự dữ–chống lại Satan. Trong thân phận con người, Đức Giêsu thấy mình
cần được Chúa Cha nâng đỡ, cảm thông, và tăng lực để làm tròn sứ mạng. Chính cầu
nguyện đã đưa Đức Giêsu kết hiệp với Cha, lãnh nhận sức sống, và quyền năng nơi
Cha để phục vụ con người tốt hơn.
Như Đức Giêsu cần gặp Cha như thế nào, thì chúng ta—những
môn đệ ngày nay cũng cần gặp Chúa Cha như vậy. Là người được Chúa Cha tuyển
chọn để làm chứng nhân Tin Mừng, chúng ta được sai đi đến với mọi người, để
chia sẻ cuộc sống, để phục vụ và đem bình an và niềm vui của Chúa đến cho họ.
Nhưng việc loan báo Tin mừng, việc phục vụ anh chị em của chúng ta chỉ đem lại
hoa trái đích thực và vĩnh cửu, khi chúng ta biết gắn kết với Chúa—Nguồn mạch
Tình Yêu và Sự Sống, như Đức Giêsu dạy: “Thầy là cây nho, các con là cành nho;
ai lưu lại trong Thầy và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa
trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì” (Ga 15,5).
Như thế, đối với người môn đệ Đức Kitô, cầu nguyện chính
là lẽ sống, là nguồn mạch, là sức mạnh cho lời rao giảng, cho sứ mạng tông đồ,
vì chỉ có cầu nguyện mới làm cho ta trở nên môn đệ đích thực trước mặt Thiên
Chúa. Trong ngày tĩnh tâm này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy rút lui khỏi
ngững bận rộn thường ngày, để dành những giờ phút thật riêng tâm giao với Chúa.
Chính đời sống kết hiệp mật thiết với Chúa trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta
chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha nhân một cách tốt đẹp và hữu hiệu hơn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết học nơi Chúa để biết vừa
dấn thân hết mình phục vụ nhu cầu của anh chị em, nhạy cảm trước những nỗi đau
của họ, đồng thời luôn giữ trọn mối liên lạc thân tình với Chúa. Xin Chúa giúp
chúng con biết trân quý những giây phút cầu nguyện, những thời khắc được dành
riêng cho cuộc trao đổi thân tình giữa con và Chúa, để con có đủ sức mạnh phục
vụ anh chị em con mỗi ngày tốt hơn. Amen.
III. CÂU HỎI THẢO LUẬN CỘNG ĐOÀN
Duyệt
quyết tâm tháng 1.2012.
Noi gương Chúa Giêsu, chị và cộng đoàn của chị đã “chạnh
lòng thương” trước những người đang cần sự giúp đỡ của chị và cộng đoàn như thế
nào? Chị có cảm thấy thấy bị quấy rầy trước những nhu cầu cấp bách của chị em
trong cộng đoàn và của những người chung quanh không? Trong hoàn cảnh hiện tại,
chúng ta phải làm gì để có quân bình trong đời sống cầu nguyện và hoạt động như
Đức Giêsu mong ước?
Chọn
quyết tâm tháng 2.2012.
103.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Chú giải của William Barclay)
MỘT PHÉP LẠ TẠI TƯ GIA (Mc 1,29-31)
Chúa
Giêsu đã giảng dạy và làm nhiều việc kiến mọi người phải kinh ngạc. Sau buổi
họp tại hội đường, Ngài cùng các bạn đến nhà Phêrô. Theo thói quen Do Thái, bữa
ăn chính trong ngày Sabát là sau buổi nhóm họp ở hội đường vào giờ thứ sáu,
nghĩa là 12 giờ trưa (ngày của dân Do Thái bắt đầu vào 6 giờ sáng, các giờ cứ
theo đó mà tính). Có thể Chúa Giêsu muốn được nghỉ ngơi sau những công việc
căng thẳng và mệt nhọc trong buổi nhóm họp tại hội đường. Nhưng một lần nữa, có
người đang cần đến quyền năng của Ngài, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói với chúng ta vài điều về ba hạng người.
1/
Chúng ta biết Chúa Giêsu, Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi
thố quyền năng, Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi
nhà tranh cũng như giữa đám đông người trong hội đường. Ngài chẳng bao giờ quá
mệt mỏi để không chịu cứu giúp. Nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn
nghỉ ngơi của Ngài. Nhưng trên hết, tại đây cũng như trong hội đường, chúng ta
lại thấy các phương pháp có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa
Giêsu có nhiều thầy trừ quỉ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái,
những hình thức bùa chú, những tiếng kêu la hò hét với nhiều đồ nghề và ma
thuật. Trong hội đường, Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa
bệnh được hoàn tất ngay. Ở đây cũng có một sự việc như thế xẩy ra. Bà mẹ vợ của
Phêrô đang đau chứng bệnh mà kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt”. Bệnh
này từ xưa đến nay vẫn lan tràn tại vùng đất ấy của xứ Galilê. Kinh Talmud cũng
có kể ra các phương pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng
sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người
ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2.3 rồi đến 4.5. Rồi có một công
thức ma thuật đọc lên, như thế người ta xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu
hoàn toàn bất chấp những câu thần chú theo ma thuật thông thường, chỉ bằng một
dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa bệnh cho bà cụ. Từ
Hy văn được dùng chỉ quền phép trong đoạn sách trên đây là exousia và exousia
được định nghĩa là tri thức, cùng với quyền năng độc nhất vô nhị, đó chính là
điều Chúa Giêsu vốn có và là việc Ngài sẵn sàng thi thố ngay trong một căn nhà
tranh. Paul Tournier có viết “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: Tôi khâm phục
sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là kiên
nhẫn, mà là sự quan tâm”. Với Chúa Giêsu việc chữa bệnh không nhằm làm tăng
thêm uy tín, giúp người không phải là một nhiệm vụ khó nhọc. Ngài chỉ giúp
người một cách tự động, tự nhiên vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần
Ngài giúp.
2/
Chúng ta biết về các môn đệ của Ngài. Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng
ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc
rối của mình đến cho Ngài. Bà mẹ vợ của ông Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối
rối, việc các môn đệ Ngài trình bày mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự
nhiên. Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời
ông như thế nào. Ông thường đến thăm một tu sĩ lớn tuổi và ông cũng chẳng bao
giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc về
cách cầu nguyện vô cùng đơn giản của vị tu sĩ đó. Nó giống hệt phần tiếp tục
câu chuyện thân mật mà vị tu sĩ lão thành ấy luôn luôn trò chuyện với Chúa
Giêsu. Ông Paul Tournier nói tiếp: “về đến nhà tôi kể cho vợ tôi nghe chuyện
ấy, và chúng tôi cùng cầu xin Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp thân mật
với Chúa Giêsu như vị tu sĩ nọ vậy. Từ đó, Ngài đã trở thành trọng tâm của giờ
phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi
đã làm và cũng quan tâm về những việc đó. Ngài là bạn thân tôi có thể đem mọi
sự xảy đến cho đời sống mình ra thảo luận. Ngài chia sẻ những niềm vui nỗi khổ,
những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự
với tôi, Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh
nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy”. Mấy
lời trên đây bao gồm bản chất của sinh hoạt Kitô hữu. Như lời một bài thánh ca:
Hãy trình bày dâng mọi sự cho Chúa bằng lời cầu nguyện. “Thế là các môn đệ đã
học được điều đã trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc
rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp mình”.
3/
Chúng ta biết vài điều về bà mẹ vợ ông Phêrô. Ngay sau khi được chữa lành, bà
cụ liền bắt tay phục vụ. Bà cụ đã dùng sức khỏe được hồi phục của mình để phục
vụ một cách mới mẻ. Có một gia đình danh tiếng tại Tô cách lan vẫn dùng khẩu
hiệu này “được cứu để phục vụ”. Chúa Giêsu cứu giúp chúng ta là để chúng ta
giúp đỡ người khác.
NHỮNG ĐÁM ĐÔNG BUỔI ĐẦU (Mc 1,32-34)
Những
việc Chúa Giêsu đã làm tại Caphácnaum không thể nào giấu kín được. Một người
mới xuất hiện, có uy quyền, có quyền năng là chuyện không tài nào dấu kín được.
Cho nên ngay chiều đó, căn nhà của Phêrô bị một đám đông người mong được Chúa
Giêsu chữa lành vậy chặt. Sở dĩ họ phải chờ đến lúc mặt trời lặn là vì luật cấm
mang môt vật nặng đi trong thành phố vào ngày Sabát (Gr 17,24), mang một vật
nặng như thế là làm việc mà làm việc thì bị cấm. Dĩ nhiên thời bấy giờ họ không
có đồng hồ. Ngày Sabát kéo dài từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều và theo luật thì
một ngày kết thúc khi có ba ngôi sao mọc trên trời. Cho nên người trong thành
phải chờ đến khi mặt trời lặn, sao đã mọc, họ mới ra khỏi nhà và đưa người bệnh
đến với Chúa Giêsu để Ngài chữa lành cho họ.
Chúng
ta đã thấy Chúa Giêsu chữa bệnh cho người ta ba lần. Lần thứ nhất Ngài chữa
bệnh trong hội đường, lần thứ hai trong nhà một bạn thân của Ngài và giờ đây,
lần thứ ba, Ngài chữa bệnh ở ngoài đường phố. Chúa Giêsu nhận biết ngay nhu cầu
của bất kỳ ai muốn khấn xin Ngài. Có người nói về tiến sĩ Johnson rằng, gặp bất
hạnh là điều chắc chắn để được ông kết bạn và trợ giúp. Bất cứ ở đâu có rắc
rối, hoạn nạn thì Chúa Giêsu sẵn sàng sử dụng quyền năng của Ngài, Ngài không
hề kén chỗ hay kén người. Ngài nhận biết nhu cầu phổ quát mà mọi người cần đến.
Sở dĩ
đông người kéo theo Chúa Giêsu vì họ nhận thấy Ngài là con người có thể làm
nhiều việc lạ. Có nhiều người biết nói chuyện, giải thích, thuyết giảng. Nhưng
đây là một người không chỉ nói suông mà còn giải quyết mọi sự bằng hành động.
Có người bảo rằng “Nếu ai đó biết làm một chiếc bẫy chuột tốt hơn người láng
giềng của mình, thì dù người ấy có sống giữa rừng, dân chúng cũng tìm được
đường đến nhà người ấy”. Người mà dân chúng cần đến là người có hiệu năng. Chúa
Giêsu đã và đang tạo nhiều kết quả.
Nhưng
tấm thảm kịch cũng bắt đầu từ đây. Đám đông đã kéo đến, nhưng họ kéo nhau đến
là vì họ muốn Chúa Giêsu làm một việc gì đó cho họ. Họ đã không đến vì yêu mến
Ngài hoặc vì được thấy một mặc khải mới mẻ, nói cho cùng, họ muốn lợi dụng
Ngài. Đó là điều mà hầu như tất cả mọi người đều muốn nơi Thiên Chúa và Con
Ngài. Với một lời cầu nguyện được dâng lên cho Chúa trong những ngày thịnh
vượng, thì có đến một ngàn lời cầu xin dâng lên trong những lúc gặp khó khăn.
Nhiều người không hề cầu nguyện lúc mặt trời đang chiếu sáng, lại bắt đầu cầu
nguyện khi có các luồng gió mạnh thổi đến. Có người bảo đã có quá đông người xem
đạo giáo như “một đội cấp cứu chứ không phải như một tuyến lửa của cuộc đời”.
Với họ thì gặp khủng hoảng, cùng cực lắm, họ mới chạy đến với đạo giáo, chỉ khi
họ gặp bước đường cùng trong cuộc sống hoặc khi họ bị cuộc đời cho đo ván, họ
mới bắt đầu nhớ đến Chúa. Điều vẫn luôn luôn đúng là tất cả chúng ta phải đến
cùng Chúa Giêsu và chỉ một mình Ngài mới có thể cung ứng các nhu cầu của đời
sống cho chúng ta. Nhưng nếu việc đi đến và các tặng phẩm đó không làm phát
sinh một tình yêu, lòng biết ơn để đáp lại thì thật là một sai lầm thảm khốc.
Thiên Chúa không phải là Đấng để chúng ta lợi dụng trong những ngày gặp bất
hạnh. Ngài là Đấng phải được chúng ta yêu mến và mong nhớ mỗi ngày trong đời
sống chúng ta.
GIỜ YÊN TỊNH VÀ HÀNH ĐỘNG THÔI
THÚC (Mc
1,35-39)
Chỉ
cần đọc qua các sự việc xảy ra tại Caphácnaum cũng đủ thấy Chúa Giêsu không còn
chút thì giờ nào để ở riêng một mình. Nhưng Chúa Giêsu biết rất rõ: Ngài không
thể sống không có Thiên Chúa. Nếu Ngài cứ phải luôn luôn ban phát thì ít nhất
thỉnh thoảng Ngài cũng phải nhận vào. Nếu Ngài tự ban chính mình cho tha nhân
thì Ngài cũng luôn luôn cần cầu xin để trợ giúp mình. Chúa Giêsu biết Ngài
không thể sống mà không cầu nguyện. Trong một quyển sách nhỏ nhan đề “Cầu
Nguyện Thực Hành”, tiến sĩ A.D. Belden đưa ra một trong những câu định nghĩa
quan trọng về cầu nguyện “Cầu nguyện có thể được định nghĩa là tiếng kêu của
linh hồn”. Không cầu nguyện là mắc phải một lỗi lầm điên rồ vĩ đại, đó là bỏ
qua, không biết đưa Chúa vào số tài nguyên sẵn có của chúng ta. Trong cầu
nguyện, chúng ta tạo cơ hội cho Chúa nuôi dưỡng các khả năng tinh thần của
chúng ta. Chúa Giêsu biết việc đó, Ngài biết nếu phải gặp con người, trước tiên
Ngài cần phải gặp Thiên Chúa. Nếu cầu nguyện cần thiết cho Chúa Giêsu đến thế,
nó còn cần thiết cho chúng ta biết bao?
Nhưng
ngay đến trong những giờ phút đó họ vẫn đi tìm Ngài. Chúa Giêsu không có cách
gì để đóng cửa lại đối với họ. Nhà văn chuyên viết truyện ngắn là Rose Macaulay
bảo rằng tất cả những gì bà đòi hỏi nơi đời sống là “một phòng riêng của mình”.
Đó chính là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ có được. Một bác sĩ lừng danh nhận
định nhiệm vụ của y học là “thỉnh thoảng chữa lành, thông thường trấn an và
luôn luôn là an ủi, vỗ về”. Nhiệm vụ ấy luôn luôn đặt trên Chúa Giêsu. Có người
bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là “giúp người ta sống và chết”, mà con người thì
bao giờ cũng vừa sống vừa chết. Bản tính con người là cố tạo nên những hàng rào
để có thì giờ và bình an cho riêng mình, đó là điều Chúa Giêsu chẳng bao giờ
làm. Tuy ý thức được sự mỏi mòn suy kiệt của chính mình, Ngài lại ý thức rõ hơn
tiếng kêu cứu bất biến của nhu cầu con người. Cho nên khi họ đến với Ngài, thì
Ngài đã từ chỗ đang quỳ gối phải đứng lên để đối diện với thách thức của nhiệm
vụ. Cầu nguyện chẳng bao giờ lại thay thế việc này việc nọ của chúng ta, điều
nó có thể làm là thêm sức để chúng ta có thể làm những việc chúng ta phải làm.
Vậy,
Chúa Giêsu lại ra đi, thực hiện một vòng rao giảng trong các hội đường xứ
Galilê. Trong sách Maccô, vòng đi này chỉ được thu gọn trong một câu, nhưng
chắc nó phải kéo dài nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Trong chuyến đi này, Ngài vừa
giảng dạy vừa trừ quỷ. Có vài sự việc vẫn gắn liền nhau mà Chúa Giêsu không bao
giờ tách rời.
1/
Ngài không bao giờ tách rời lời nói với hành động. Ngài chẳng bao giờ nghĩ mình
đã làm xong một việc khi công việc ấy đang bị đình chỉ. Ngài chẳng bao giờ nghĩ
mình đã xong nhiệm vụ sau khi đã khuyên dạy người ta đến với Thiên Chúa và sống
thánh thiện. Những vấn đề được trình bày, và lời khuyên bảo của Ngài luôn luôn
biến thành hành động. Fosdick kể chuyện về một sinh viên thường tìm mua những
sách hay nhất, những học cụ tốt nhất, sắm một chiếc ghế đặc biệt để ngồi, có
giá để sách hầu học hỏi nghiên cứu cho thuận tiện, rồi anh ngồi vào chiếc ghế
ấy mà… ngủ. Người chỉ nói giỏi mà không làm giống như thế.
2/
Ngài không bao giờ phân rẽ linh hồn với thân xác. Có ý kiến cho rằng thân xác
dường như chẳng có gì quan trọng, nhưng con người là cả hồn lẫn xác. Nhiệm vụ
của Kitô giáo là cứu chuộc con người toàn diện chứ không phải chỉ cứu một phần
con người mà thôi. Dĩ nhiên có người dù sống thiếu thốn trong một căn nhà lụp
xụp, gặp hoạn nạn, đau khổ, nhưng luôn cảm nhận được phúc lộc qua những ngày
tháng ngọt ngào với Chúa, nhưng đó không phải là lý do để cứ bỏ mặc con người
ấy như vậy. Các hội truyền giáo cho người bán khai không phải chỉ đem đến cho
họ quyển Kinh Thánh mà thôi, nhưng đem giáo dục và thuốc men nữa, họ cũng đem
đến trường học và bệnh viện. Thông điệp của Kitô giáo là thông điệp nhằm rao
giảng và làm ích cho cả thân xác lẫn linh hồn người ta.
3/
Chúa Giêsu chẳng bao giờ tách rời đất với trời. Có những người quá bận tâm đến
cõi trời đến nỗi quên hết mọi sự thuộc về đất, do đó trở thành những nhà duy
tâm, chỉ mơ toàn chuyện lý tưởng không thực tế. Nhiều người khác lại quá bận tâm
đến những điều thuộc về đất đến nỗi quên hết những điều thuộc về trời, để chỉ
giới hạn cái hay, cái tốt vào cái hay, cái tốt vật chất mà thôi. Giấc mơ của
Chúa Giêsu là thời kỳ mà ý Chúa sẽ thành tựu ở dưới đất cũng như ở trên trời
(Mt 6,10). Giấc mơ của Chúa Giêsu là thời đại mà đất với trời chỉ là một.
104.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Huệ Minh)
HÃY RA CÔNG LÀM VIỆC NHƯ CHÚA GIÊSU
Tâm
trạng, cảm xúc của con người thật khó nói. Có những lúc lòng người cảm thấy
hứng thú khi làm việc nhưng rồi có những lúc lòng cảm thấy buồn rười rượi bởi
lẽ có khi thầy cuộc đời này chẳng là gì cả.
Jean-Paul
Sartre - một triết gia, phê bình gia, tiểu thuyết gia và một kịch tác gia nắm
một vị trí cao cả, ít ai có trong thế giới văn chương Pháp. Những tác phẩm của
Sartre, đặc biệt La Nausée (Xb đầu tiên 1938) đã thu hút một số lượng khổng lồ
về triết thuyết hiện sinh của Sartre như một tư tưởng mới và có một ý nghĩa
quan trọng. La Nausée/Buồn Nôn là một tiểu thuyết mang tính hiện thực vừa đương
đại vừa hiện thực cho một chủ nghĩa hiện sinh mà Sartre chủ xướng một cách
trung thực và đầy sáng tạo giữa đời này.
Buồn
Nôn là một câu chuyện hư cấu nhưng có thực và sống thực qua nhân vật Antoine
Roquentin. Tác giả đã làm kinh ngạc người đọc về triết thuyết hiện sinh. Một tiểu
thuyết đầy ấn tượng dưới một thể thức nhật ký mà ông đã diễn tả được cái sâu
sắc nội tâm của con người, cái ray rứt, cái tàn nhẫn trong sự cảm nhận giữa thế
giới với con người dường như xảy ra quanh đời ông. Tư tưởng của Sartre đạt tới
cực điểm và lan tỏa, vượt qua được sức mạnh của cảm giác, tức nỗi đau khổ không
cùng của con người đứng trước hiện hữu; tất cả được thể hiện rộng rãi từ dưới
thể tính bầy nhầy, nhão quẹt (vicous) trộn lẫn với loãng chất (puddle) của cái
thời đầy rẫy bóng tối vây quanh và lan trải như vết dầu loang; những hiện tượng
đó là cơ hội dành cho Sartre phát triển chủ nghĩa hiện sinh, mà nhân tố hiện
sinh chính là nhân bản, là yếu tố tâm lý và sinh lý giữa hiện thể và hiện vật
xẩy ra cùng một lúc.
Buồn
Nôn không còn là hư cấu, nó trở nên một luận cứ triết học của học thuyết hiện
sinh mà Jean-Paul Sartre là kẻ đưa đường. Tác phẩm Buồn Nôn của ông đã để lại
hậu thế những giá trị tuyệt đối, vượt thời gian qua những án văn chương bất hủ,
một phạm trù triết học đầy nhân tính trong thuyết hiện sinh của ông. Jean-Paul
Sartre là nhân vật thời thượng qua mọi thời đại của nền văn học sử hiện đại.
Tâm
tình nhìn thấy cuộc đời này đầy chán nản ta cũng bắt gặp trong cuộc đời của một
người rất thân quen trong Thánh Kinh đó là ông Giob. Ta vừa nghe ông Giob ai
oán: "Khổ dịch là đời sống của con người trên trái đất, ngày của họ giống
như ngày của người làm công. Cũng như người nô lệ khát khao bóng mát, như người
làm công ước mong lãnh tiền công thế nào, thì tôi cũng có những tháng nhàn rỗi,
có những đêm người ta bắt tôi làm việc cực nhọc. Nếu tôi đi ngủ, thì tôi lại
nói: "Chừng nào tôi mới thức dậy, và chừng nào là đến chiều? Tôi phải buồn
sầu mãi cho đến tối". Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn
lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một
hơi thở! Mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc".
Sau
khi nghe Giob ai oán như thế, ta cũng giật mình tỉnh giấc vì lẽ đôi khi cuộc
đời ta cũng rơi vào cảm giác như thế. Bằng chứng rõ nét là ta vẫn thấy quanh ta
có những cuộc tự vẫn, có những người tìm đến cái chết bởi vì họ cảm thấy cuộc
đời này chán nản. Trong những người tìm đến cái chết đó cả những người có chức
có quyền, các minh tinh màn bạc, ca sĩ... Cũng dễ hiểu vì lẽ những người đó đã
không tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vậy,
cuộc sống của ta, cuộc đời của mỗi người chúng ta vui khi nào? Khi chúng ta ra
công làm việc và tất cả những việc lớn bé to nhỏ trong đời ta ta đều kết hiệp
với Chúa và dâng hết cho Chúa.
Trang
Tin Mừng theo Thánh Máccô hôm nay gợi cho ta một hình ảnh của một con người lao
động. Con người ấy là ai? Thưa là chính Chúa Giêsu.
Thánh
Máccô cho chúng ta biết một ngày làm việc tiêu biểu của Chúa Giêsu ở thành phố
Capharnaum, thành phố của Phêrô và Anrê. Ngài giảng dạy ở hội đường, chữa bệnh
cho nhạc mẫu của Simon cho khỏi cơn ssốt, chữa nhiều bệnh nhân và trừ qủi từ
chiều cho đến tối. Sáng sớm tinh sương đi cầu nguyện nơi thanh vắng, và tiếp
tục đi rao giảng ở những nơi khác.
Tóm
lại, ta thấy Chúa Giêsu là một người làm việc bận rộn suốt ngày và trừ qủi.
Những
công việc bận rộn như vậy cũng không hề làm cho Ngài mất tiếp xúc với Cha của
Ngài ở trên trời. Ngài sẽ dùng nhiều thời giờ nghỉ ban đêm để sống thân mật với
Cha Ngài ở trên trời. Ngài còn dành nhiều thời giờ ban đêm để sống mật thiết
với Chúa Cha nữa như ở những nơi khác ta thấy Ngài thức suốt đêm để cầu nguyện.
Rõ
ràng rằng đời sống làm việc của Chúa Giêsu được kết nối hay nói cách khác là
đan xen trong lời cầu nguyện của Ngài. Lao động và cầu nguyện để ngày mỗi ngày
càng gần Chúa hơn qua những công việc của Chúa Cha trao phó. Cha trao phó cho
Chúa Giêsu công việc chính yếu nhất đó là loan báo Tin Mừng Nước Trời, loan báo
niềm vui Tin Mừng.
Nếu
như những người bình thường khác, Chúa Giêsu sẽ cảm thấy chán ngán vì ra sức
làm việc mà chẳng được gì cả, thậm chí còn bị giới luật sĩ và biệt phái soi mói
đủ thứ đủ điều. Thế nhưng, vì Tin Mừng, vì Cha và với Cha, Chúa Giêsu không bận
tâm những lời ra tiếng vào nữa và vì làm việc nhiều quá mệt để rồi khi đặt lưng
xuống là ngủ chứ không còn thời giờ để suy nghĩ vu vơ.
Ngày
hôm nay, trong cuộc sống hiện tại, ta vẫn thấy có nhiều người vẫn còn đó những
chán ngán của cuộc đời do họ suy nghĩ cuộc đời này vô nghĩa, cuộc đời này không
đáng sống. Thật ra, cuộc đời này đáng sống lắm đấy bởi lẽ ai ai sinh ra cũng chỉ
một lần và chết cũng có một lần mà thôi. Và vì thế, hãy ra công làm việc
Đâu đó
ta vẫn nghe Chúa Giêsu nói: "Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì
của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn
Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi
dấu" (Ga 6, 27)
Trong
hành trình làm người ở trần gian, cần lắm của ăn nuôi sống cái xác thịt 5,6, 7
chục ký này nhưng cần hơn nữa đó chính là của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời
đời.
Chúa
ban cho mỗi người một khả năng, một ơn gọi, một biệt tài nhưng có khi con người
không nhận ra để rồi khi không nhận ra thì cuộc sống cảm thấy chán càng chán
thêm.
Có một
người đến tuổi trung niên. Bỗng nhiên anh bị tai biến và khả năng đi lại thật
khó khăn. Lẽ ra trong cái buồn, trong cái hạn chế của bệnh tật và nhất cả của
kiếp người, anh cũng có quyền ai oán nhưng bao người khác nhưng ngược lại, anh
cảm thấy anh còn làm được gì thì anh cố làm. Thế là anh chuyên chăm vào chuyện
suy gẫm là lắng nghe lời Chúa. Chỉ là một giáo dân bình thường như bao nhiêu
người khác nhưng anh đã cố gắng loan báo Tin Mừng bằng suy nghĩ, bằng sẻ chia
Lời Chúa hàng ngày của anh. Thật trân trọng tâm hồn và cách lao động làm việc
của anh. Cách nào đó anh loan báo Tin Mừng thật tuyệt vời.
Một cô
kia cũng đang ở cái tuổi gần 60. Gia đình tương đối đủ ăn đủ mặc và hàng xóm
vài người trêu rằng sao không nghỉ ngơi đi mà cứ lo buôn bán. Vui miệng, cô trả
lời: "Đủ ăn, đủ mặc rồi nhưng làm thêm để kiếm tiền rải đường đi lên thiên
đàng!". Cô đùa vui thôi. Trong tâm tình, cô chia sẻ với tôi rằng:
"Tôi còn sức còn làm và dư ra để tôi lại chia sẻ với người nghèo hơn
tôi". Mà thật! Tôi vẫn thấy cô xuất hiện trong những chuyến từ thiện,
những chuyến thăm viếng người nghèo, người tâm thần.
Phải
chăng cô không làm việc để tích lũy làm giàu như người khác nhìn vào nhưng cô
lao công để chia sẻ cho người khác. Đây là cách sống loan báo Tin Mừng bằng
chính sự chia sẻ của cô, của gia đình cô.
Trong
thư chúng ta vừa nghe Thánh Phaolô tự nhận là mình có nhiệm vụ phải rao giảng
Tin mừng:”Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng”. Ngài cố gắng thi
hành nhiệm vụ này một cách vô vị lợi, không tìm vinh danh cho mình nhưng chỉ
dành cho Chúa. Chính vì thế, Ngài đã cố gắng trở nên mọi sự cho mọi người, chia
sẻ những sự yếu đuối của anh em, sống cuộc sống của họ, tự đặt mình làm tôi tớ
phục vụ mọi người, nhất là những người nghèo hèn, và mục đích của Ngài là tranh
thủ đem về cho Chúa Kitô nhiều linh hồn.
Khi ta
nghe xong lời ấy, ta có thể trách móc và "đấu" lại với Thánh Phaolô
rằng con chẳng có gì để loan báo Tin Mừng cả! Thế nhưng, trong sâu lắng của
cuộc đời, ta vẫn còn sống là ta vẫn còn loan báo Tin Mừng bằng đời sống lao
động, cầu nguyện của ta đó.
Như
Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt, trong hoàn cảnh hiện tại, đời sống cầu nguyện
của Ngài phải chăng là một đời sống lao động tuyệt vời. Không còn làm việc công
khai, không còn lao nhọc công khai nữa nhưng Đức Tổng vẫn kết hiệp mật thiết
đời mình với Chúa hơn qua lời cầu nguyện.
Có thể
ta già nua tuổi tác, có thể ta bị tai biến như người trung niên đã nói ở trên
và có khi ta nghèo nhưng ta vẫn lao động, vẫn cầu nguyện được trong hoàn cảnh
của ta. Xin Chúa thêm ơn cho ta để ngày mỗi ngày ta biết lao động như Chúa đã
từng lao động để rồi ta thấy cuộc đời ta có ích hơn, ý nghĩa hơn nhất là khi ta
kết hợp mật thiết hơn với Chúa qua lời cầu nguyện của ta.
105.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Huệ Minh)
GẮN KẾT VỚI CHÚA TRONG ĐỜI SỐNG
CẦU NGUYỆN
Tin mừng Mc 1: 29-39: Và đặc biệt, chúng ta thấy Tin Mừng ghi
lại: sáng sớm lúc trời tối mịt Người đã dậy, đi ra nơi hoang vắng và cầu
nguyện...
Ngày
hôm nay, chúng ta bắt gặp một ngày làm việc của Chúa Giêsu.
Tin
Mừng vừa thuật lại cho chúng ta:
Vừa ra
khỏi hội đường thì Chúa Giêsu đến nhà ông Simôn và Anrê. Lúc đó, bà mẹ vợ ông
Simôn nằm sốt trên giường và Chúa Giêsu đã chữa cho bà dứt ngay cơn sốt. Rồi
chiều đến, khi mặt trời lặn người ta đem đến cho Chúa Giêsu mọi kẻ ốm đau bệnh
tật và rồi Chúa Giêsu cũng chữa lành, cũng như trừ khỏi ma quỷ.
Và đặc
biệt, chúng ta thấy Tin Mừng ghi lại: sáng sớm lúc trời tối mịt Người đã dậy,
đi ra nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Và
chúng ta bắt gặp được khuôn mặt, hình ảnh của Chúa Giêsu, một ngày làm việc. Ta
có thể nói rằng là Chúa Giêsu quân bình, trong cái đời sống của Ngài. Ngài gần
Chúa Cha và rồi Ngài gần con người.
Khi
Ngài trong cô tịch, trong thanh vắng để mà cầu nguyện, để mà gắn bó cuộc đời
của mình, để mà chìm đắm cuộc đời của mình với Chúa Cha, kết hợp với thánh ý
của Chúa Cha, thì Chúa Giêsu lại gặp con người nơi những mảnh đời đau khổ bệnh
tật, và tác giả đặt cho đoạn Tin Mừng hôm nay là: «Một ngày ở Ca-phac-na-um».
Và rồi
chúng ta có cơ hội nhìn thấy một ngày làm việc của Chúa Giêsu cũng là biểu
trưng cho cả cuộc đời của Chúa Giêsu.
Một
ngày sống của Chúa Giêsu đã diễn tả một năm sống và cả cuộc đời của Chúa Giêsu
là: gắn bó với Chúa Cha, và gắn bó đời mình với con người. Càng gắn bó với Chúa
Cha bao nhiêu thì Chúa Giêsu lại càng gắn bó với con người bấy nhiêu.
Và
ngày hôm nay cũng là những ngày khép lại một năm qua đi. Và rồi chúng ta cũng
dừng lại để nhìn lại một năm qua của chúng ta. Chúng ta sống đời sống gắn bó
của chúng ta với Chúa Giêsu, với Thiên Chúa như thế nào? Và chúng ta có gắn bó
cuộc đời của chúng ta với anh chị em của chúng ta hay không?
Chúa
Giêsu đi ra rao giảng, sau khi gắn bó cuộc đời của mình với Chúa Cha, Chúa
Giêsu không khép kín lại với cái tương quan với Chúa Cha mà Chúa Giêsu lại mở
ra cái tương quan với con người.
Từ
sáng sớm tinh sương cho đến chiều một cái định vị của không gian cho ta thấy:
Chúa Giêsu trong cái cảnh tỉnh mịch, CHÚA Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, gắn bó
với Chúa Cha Và lòng Ngài kết hợp với Chúa Cha, để rồi Ngài lại gắn bó với con
người bằng thái độ chạnh lòng thương với những người nghèo, với những người đau
khổ, với những người bị quỷ ám.
Và khi
đó chúng ta nhìn thấy Chúa Giêsu với khuôn mặt gắn bó với Chúa Cha thì Ngài lại
gắn bó với con người. Nhưng mà đáng tiếc thay, người ta không nhìn ra một Chúa
Giêsu sống với con người nghèo khổ, đồng hành với con người nghèo khổ.
Bởi
vì, người ta nhìn vào Chúa Giêsu như khuôn mặt của một Đấng Mêsia đến, để mà
giải thoát người ta khỏi kiếp sống nghèo, để cho đời sống kinh tế người ta cao
lên và người ta hơn người khác chứ người ta không cảm nhận được một Đấng Mêsia
đến để mà đồng hành, để mà đồng lao cạm khổ với con người trong cuộc sống. Và
rồi, Chúa Giêsu mở ra một con đường bác ái với con người đồng loại. Và rồi
chúng ta thấy: càng gắn bó với Chúa, thì cái công việc bác ái của Chúa Giêsu
với con người nó càng mật thiết hơn. Khi mà Chúa Giêsu lắng nghe tiếng của Chúa
Cha thì đồng thời Chúa Giêsu cũng lắng nghe tiếng của những con người nghèo
khổ.
Và
ngày hôm nay, chúng ta thấy sống giữa một cái xã hội Quá ồn ào náo nhiệt để rồi
người ta không lắng đọng, người ta không cảm nhận được một tình thương của Chúa
làm sao người ta có thể san sẻ được cho người khác.
Cách đây không lâu, khi đi lên
Sài Gòn khám bệnh thì đi vào bệnh viện thấy có hai mẹ con đang loay hoay, bà mẹ
mang xăng đan cho thằng bé. Gọi là thằng bé nhưng mà thực ra, nó cũng là 20
tuổi ngoài. Nhìn nó thấy thương, bà mẹ nó nói:
Hôm nay nó mới 20 tuổi. Cách
đây mấy tháng nó bị tai biến đã nằm ở Bệnh viện Chợ Rẫy tốn mấy chục triệu rồi,
mà bây giờ là như thế. Nhìn khuôn mặt tiều tụy của hai mẹ con, nhìn thằng bé
thấy tội lắm! Mới có 20 tuổi đầu thôi bị tai biến thấy thương, chẳng làm được
gì cho họ và nói: thôi, cầu mong cho bé nó gặp thầy, gặp thuốc để được mau
bình.
Và rồi đến chiều đến gặp bác sĩ
để mà chữa bệnh. Và đang khi chờ thì thấy hai vợ chồng đang bế đứa bé khoảng
chừng 3 tuổi tới. Khi nó vừa vào phòng mạch thấy bác sĩ nó khóc thét lên đau
lắm và rồi tí xíu nữa cha mẹ nó và bác sĩ dỗ nó và mẹ nó mới bế nó đi ra ngoài
dụ nó cho nó qua cơn đau. Ba nó ở trong phòng để nghe Bác sĩ giải thích.
Thấy tội nghiệp, hình ảnh của
hai vợ chồng bế đứa bé tội nghiệp lắm! Mình cũng chẳng làm gì được cả bởi vì
mình cũng trong cái thân phận bệnh nhân đứa bé mới 3 tuổi thôi Nó đau đớn lắm!
Mình cũng thế mình cũng chẳng
hơn gì nó, nhưng mình may mắn hơn mình vẫn còn có khả năng đi lại để mà mình
chạy chữa cho mình.
Tạ ơn
Chúa trong cái cơn bệnh để mình nhìn thấy mình hạnh phúc hơn người khác! Đôi
khi cuộc đời của mình nó bằng phẳng quá! Mình không khám phá ra một Thiên Chúa
thương mình, một Thiên Chúa yêu thương mình và mình cứ lăn tăn mình cứ loay
hoay mình lại trách Chúa: Tại sao Chúa không cho mình điều này điều kia?
Bởi vì
cái căn cốt nhất của cuộc đời đó là gắn bó mật thiết đời mình với Chúa Cha, để
rồi mình: Mở lòng ra với người khác, và mình băng bó vết thương cuộc đời người
khác, và mình chia sẻ niềm vui niềm hạnh phúc của mình cho người khác.
Nhưng
mà chỉ vì ngày hôm nay người ta quá ồn ào người ta đã không còn giờ, người ta
không còn dành cho Chúa nữa!
Chúng
ta thấy, Chúa Giêsu một ngày tất bật làm việc, nhưng mà sáng sớm Ngài đã cầu
nguyện. Chính cái đời sống cầu nguyện gắn bó mật thiết với Chúa Cha đó, Chúa
Giêsu lại kín múc được tình thương từ Chúa Cha. Và Chúa Giêsu lại san sẻ cho
những người nghèo khổ, người đau yếu, những người bệnh tật mà Chúa Giêsu gặp
gỡ.
Khi
chúng ta gắn kết đời chúng ta với Chúa Còn khi chúng ta không gắn kết với Chúa
thì chúng ta không cảm nhận được.
Nhiều
khi cuộc đời của chúng ta ồn ào quá! chúng ta loay hoay quá! Nhiều chuyện quá!
như Chúa nói với Matta đó: “Matta ơi con lo nhiều chuyện quá và Maria đã chọn
phần tốt nhất“
Mỗi người
chúng ta không phải là cứ ngồi dưới chân Chúa như Maria, nhưng chúng ta cũng
phải biết quân bình đời sống, cũng có những lúc chúng ta phải cầu nguyện gắn bó
với Chúa. Và rồi chúng ta lại kín múc cái tình thương đó, và lại lên đường ra
đi loan báo Tin Mừng tình thương cho anh chị em đồng loại.
Điều
quan trọng là: ngày mỗi ngày, chúng ta có gắn bó với Chúa hay không?
Như
Chúa Giêsu, chúng ta có tìm nơi hoang vắng và cầu nguyện hay không?
Cầu
nguyện chính là cái chất, cái cốt lõi của đời sống chúng ta. Và rồi chúng ta
thấy: cả một ngày làm việc như thế!
Chúa
Giêsu lại bảo các môn đệ: Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã xung quanh
để thầy còn rao giảng nữa! bởi vì, thầy ra đi cốt để làm những chuyện đó!
Và
rồi, mỗi người chúng ta cũng được mời gọi bước chân theo Chúa Giêsu để đi loan
báo Tin Mừng.
Chúa
Giêsu đã làm việc không nghỉ, Chúa Giêsu đã làm việc không có tính toán. Chúa
Giêsu đã mang tình thương đến cho những người nghèo khổ. Và rồi chúng ta là
người môn đệ của Chúa, chúng ta cũng được mời gọi bước chân theo Chúa đi lên
trên cái con đường truyền giáo, bằng cái con đường bác ái yêu thương, bằng cái
con đường chia sẻ với người khác.
Nhưng
chuyện quan trọng rằng: chúng ta phải gắn kết đời của chúng ta với Chúa bằng
đời sống cầu nguyện.
Nếu
không, chúng ta sẽ đi làm việc bác ái đó: nhưng chúng ta lại đánh bóng tên tuổi
chúng ta. Chúng ta chia sẽ cho người khác đó, nhưng chúng ta lại khắc tên chúng
ta nơi món quà, nơi những đồ vật mà chúng ta dành tặng cho người khác. Và khi
ấy chúng ta cho đi: chúng ta lại huênh hoang, chúng ta lại đánh bóng tên tuổi
chúng ta, chúng ta lại muốn người khác biết chúng ta cho người khác cái gì, thì
lúc đó chúng ta đã mất ơn rồi.
Xin
Chúa cho chúng ta nhìn lên Chúa Giêsu, kết hợp mật thiết đời của chúng ta với
Chúa Cha. Và càng kết hợp mật thiết với Chúa Cha, chúng ta càng chia sẻ, càng
lên đường loan báo Tin Mừng loan báo tình thương cho người khác, trong cái trầm
lắng, trong cái lặng lẽ, trong cái kín đáo:
Bởi vì
khi bố thí, anh em hãy đừng làm tay trái biết việc tay phải làm, để rồi chúng
ta được Chúa Cha ân thưởng cho chúng ta. Còn nếu như chúng ta huênh hoang,
chúng ta khoe khoang thì đã được hưởng ơn rồi.
Xin
Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta, để ngày mỗi ngày chúng ta cũng lên đường
để loan báo tình thương, chia sẻ tình thương cho người khác.
Nhưng,
chuyện quan trọng rằng chúng ta phải tìm nơi hoang vắng để ở lại đó, cầu nguyện
và gắn kết cuộc đời của chúng ta với Chúa. Khi và chỉ khi chúng ta có Chúa thì
tất cả lời nói, việc làm và hành động của chúng ta mới mang một ý nghĩa đích
thực, như Chúa Giêsu đã kết hợp với Chúa Cha và ra đi loan báo Tin Mừng cho anh
chị em đồng loại. Amen.
106.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Đan Vinh)
NHIỆT TÌNH CHU TOÀN SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý
CHÍNH: Mác-cô tường thuật một ngày làm việc tiêu biểu của Đức Giêsu ở thành
Ca-phác-na-um: Người giảng dạy trong hội đường vào ngày Sa-bát (c. 21); Chữa
một người bị thần ô uế nhập (c. 23-28); Đến thăm nhà hai anh em Si-mon và An-rê
và chữa bệnh cảm sốt cho bà mẹ vợ của ông Si-mon (c. 29-32); Buổi chiều, Người
tiếp tục chữa lành nhiều kẻ ốm đau và người bị quỉ ám (c. 32-34). Sáng sớm
Người đã thức dậy và đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha
(c.35). Người luôn ý thức chu toàn sứ mệnh được Cha trao phó là đi khắp miền
Ga-li-lê giảng đạo và trừ quỉ (c. 39).
CHÚ THÍCH:
- C
29-30: + Nhà hai ông Si-mon và An-rê: Si-mon và An-rê quê ở Bét-sai-đa (x. Ga
1,44), nhưng cư trú tại nhà ở thành Ca-phác-na-um để hành nghề chài lưới. + Bà
mẹ vợ ông Si-mon đang lên cơn sốt nằm trên giường: Người Do Thái thường cho
bệnh tật là do ma quỉ gây nên và là dấu chỉ Đức Chúa phạt tội nhân (x. Lv
26,16). Như thế, việc chữa lành bà mẹ vợ của Si-mon Phê-rô cho thấy thời đại
Thiên Sai mà ngôn sứ I-sai-a loan báo đã khởi đầu (x. Is 29,18).
- C
31-32: + Cầm lấy tay bà mà đỡ dậy: Cầm tay là cử chỉ Đức Giêsu làm khi cho kẻ
chết sống lại (x. Mc 5,41), kẻ bị quỉ ám được chữa lành (x. Mc 9,27). Nâng đỡ
dậy là một hành động Đức Giêsu thường làm cho một người đau nặng. Người bị liệt
giường tượng trưng cho sự chết, đã được Đức Giêsu nâng dậy, tượng trưng cho sự
sống lại. + Cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài: Phục vụ ở đây cụ thể là
nấu nướng, dọn bữa để tiếp đãi Đức Giêsu và các môn đệ. Qua đó, ta có thể rút
ra bài học: Con người vốn mỏng dòn yếu đuối. Nhưng nếu được ơn Chúa giúp sức
nhờ siêng năng lãnh nhận các phép Bí Tích, thì sẽ trở nên mạnh khỏe hơn và sẵn
sàng dấn thân phục vụ tha nhân hơn (x. Ga 13,14-15). + Chiều đến, khi mặt trời
lặn: Tức khoảng 6 giờ chiều, hết thời gian hưu lễ của ngày Sa-bát, để bắt đầu
ngày thứ nhất trong tuần.
- C
33-34: + Người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỉ ám đến cho Người: Đây là
kiểu nói phóng đại để nhấn mạnh đến tính phổ quát của ơn cứu độ. + Nhiều kẻ ốm
đau mắc đủ thứ bệnh tật: Đức Giêsu đến để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền
trong dân: Người không những cứu chữa các bệnh tật về thể xác mà còn chữa cả
những bệnh tinh thần như xua trừ ma quỉ ra khỏi người bị chúng nhập vào. +
Không cho ma quỉ nói vì chúng biết Người là ai: Đức Giêsu cấm quỷ không được
tiết lộ về sứ vụ Thiên Sai của Người.
- C
35-37: + Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng
và cầu nguyện: Trong thời gian giảng đạo, Tin Mừng cho thấy Đức Giêsu năng cầu
nguyện với Chúa Cha. Nhất là trong những trường hợp quan trọng: Trong cuộc thần
hiện sau khi chịu phép Rửa (x. Lc 3,21); Trước khi tuyển chọn 12 tông đồ (x. Lc
6,12); Sau phép lạ nhân bánh ra nhiều (x. Mc 6,46); Trước khi Phê-rô tuyên xưng
Đức Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa (x. Lc 9,18); Khi biến hình trên núi (x.
Lc 9,29); Trước giờ chịu khổ nạn (x. Mt 26,39)...
- C
38-39: + Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm Người: Đi tìm Chúa là thái độ
biểu lộ sự hâm mộ của các tông đồ đối với Thầy Giêsu. + “Mọi người đang tìm
Thầy đấy”: Dân chúng cũng hâm mộ và đi tìm gặp Đức Giêsu để nghe Người giảng
dạy và được Người chữa lành bệnh tật. + “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng
xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó”: Tin Mừng được rao giảng không phải cho một ít người hay chỉ dành cho dân
Do thái... nhưng là cho hết mọi dân tộc trên thế giới (x. Mt 28,19; Cv 1,8).
HỎI ĐÁP:
HỎI 1:
Tại sao Đức Giêsu lại cấm ma quỉ nói ra sự thật: Người là Đấng Thiên Sai?
ĐÁP:
Vì
người Do Thái lúc đó đang trông chờ Đấng Thiên Sai đến để giải phóng họ thoát
ách thống trị của đế quốc Rô-ma, giống như Môi-sê đã từng ra tay cứu con cháu
Gia-cóp thoát ách nô lệ cho dân Ai Cập xưa. Nhưng sứ mệnh Thiên Sai của Đức
Giêsu theo Ý Chúa Cha lại không nhằm đáp ứng ước mong của người Do Thái. Sứ
mệnh ấy đã được I-sai-a tuyên sấm là: rao giảng Tin Mừng cho người khiêm hạ
nghèo khó, công bố cho người đang bị đau khổ vì bệnh tật, tù đày, áp bức bất
công... một thời đại mới đầy niềm vui, hạnh phúc, ân sủng và bình an (x. Lc
4,18-19). Do đó, Đức Giêsu không muốn cho ma quỉ làm hỏng kế hoạch cứu thế mà
Người đã lãnh nhận. Nếu để chúng tuyên xưng Người là Đấng Thiên Sai khi chưa
kịp chuẩn bị cho dân chúng hiểu đúng sứ mệnh Thiên Sai ấy, thì họ sẽ bắt Người
tôn lên làm Vua (x. Ga 6,15), và quân Rô-ma sẽ kéo đến phá hủy Đền Thờ và tiêu
diệt toàn dân (x. Ga 11,47-48). Thực tế đã chứng minh sự e dè này là có cơ sở:
Vào năm 70, khi dân Do Thái không chịu nổi sự áp bức, đã nổi dậy chống lại nhà
cầm quyền Rô-ma. Lập tức quân Rô-ma đã kéo đến vây hãm thủ đô Giê-ru-sa-lem. Cuối
cùng họ đã chiếm được thành này. Họ phóng lửa đốt cháy cả đền thờ, tàn sát quân
lính còn sống và bắt mọi thành phần dân Do Thái phải rời bỏ quê hương, phân tán
đi khắp nơi trên thế giới. Tai họa này đã được Đức Giêsu tiên báo cho các môn
đệ biết và dùng nó như một hình ảnh để mặc khải về ngày tận thế. Người cũng dạy
cho các môn đệ biết phải làm gì để có thể tồn tại trong những ngày ấy (x. Mt
24,15-21).
HỎI 2:
Tại sao Đức Giêsu là Chúa Con ngang hàng với Chúa Cha, mà lại phải cầu xin với
Chúa Cha?
ĐÁP:
Đức
Giêsu chỉ có một Ngôi là Ngôi Con hay Ngôi Lời Thiên Chúa (x. Ga 1,14). Nhưng
Người lại có hai bản tính: Một là Thiên Chúa, hai là loài người. Là “Con Thiên
Chúa”, Đức Giêsu cầu nguyện để tâm sự với Chúa Cha, biểu lộ sự hiệp nhất mật
thiết giữa Cha và Con (x. Ga 17,1.11.21). Là “Con Người”, Đức Giêsu đại diện
cho nhân loại để cầu xin Chúa Cha tha tội và xin cho loài người giao hòa với
Chúa Cha. Về vấn đề này, Thánh Phaolô đã dạy như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là
Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên
Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống
phàm nhân, sống như một người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến
nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã
siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như
vậy, khi vừa nghe danh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn
vật phải bái quì. Và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên
xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,8-11).
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã
dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. (36) Ông Si-mon và các bạn
kéo nhau đi tìm. (37) Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy
đấy!” (38) Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung
quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”. (39)
Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ
quỉ.
2. CÂU CHUYỆN:
1) Giá trị của
cầu nguyện: Tiếng còi “Yên Lặng”
Một
hôm, do sự mất cảnh giác của viên hoa tiêu, con tàu Victoria của Hải Quân Hoàng
Gia Anh đã gặp phải sự cố nghiêm trọng: Tàu bị đụng phải một tảng băng ngầm
trên vùng biển Bắc Băng Dương. Vỏ tàu bị bể một miếng lớn, nước từ chỗ bể tràn
vào khoang tàu. Lúc ấy, các thủy thủ vừa ăn tối xong và đang dạo mát trên
boong. Lúc đầu, khi con tàu vừa bị va chạm, mọi người đều nhớn nhác không biết
điều gì mới xảy ra. Rồi khi nghe tin tàu bị va chạm vào tảng băng ngầm và sắp
chìm, thì ai nấy đều bị rơi vào cơn hoảng loạn và không biết phải làm gì. Nhưng
rồi một hiệu còi đặc biệt mang tên “Còi Yên Lặng” vang lên. Thủy thủ đã được
thực tập nhiều lần và đã hiểu rõ ý nghĩa của hiệu còi ấy như sau: “Hãy ngưng tất
cả những gì bạn đang làm, ngồi xuống và giữ yên lặng trong giây lát, bình tĩnh
xem xét tình trạng bạn đang gặp, và chờ nghe lệnh của thuyền trưởng”. Nhờ tiếng
còi, mọi thủy thủ đều làm theo yêu cầu và cuối cùng tai nạn cũng đã được xử lý
kịp thời, và con tàu tránh được nguy cơ bị chìm đắm.
Trong
đời sống thường nhật, chúng ta cũng thường bị rơi vào tình trạng khẩn cấp không
biết phải làm gì. Chẳng hạn: khi đang đi đường tự nhiện bị người khác tông vào
mình, hoặc khi tự nhiên bị một người thù ghét công khai khích bác... Bấy giờ
điều tốt nhất nên làm là: Hãy giữ bình tĩnh và yên lặng, rồi thưa với Chúa
Giêsu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con làm gì?” Rồi sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa phán
dạy trong tâm hồn. Chúa luôn muốn ta “Tìm làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi
các linh hồn”. Do đó, ta cần tránh làm những điều xấu khiến người đời khinh
thường đạo thánh Chúa. Trái lại cần làm những điều tốt để anh em lương dân nhận
biết “Thiên Chúa chính là Tình Yêu” để tôn thờ yêu mến Ngài. Cần làm những điều
có lợi chung cho tập thể, và tránh những việc ích kỷ hại nhân. Cần làm những
điều “tốt đạo đẹp đời” như làm cho mọi người đều có cơm ăn áo mặc, sống vui
tươi hạnh phúc hơn và xứng đáng với nhân phẩm hơn...
2) Giá trị của
cầu nguyện: lành bệnh nhờ có bình an trong tâm hồn:
Trong
cuốn “Những biến cố trong cuộc đời một bác sĩ”, tác giả là bác sĩ Pôn Tô-mi-ê
(Paul Toumier) đã thuật lại câu chuyện sau: “Kết quả cuộc xét nghiệm máu của
một bệnh nhân cho thấy anh ta bị chứng thiếu máu trầm trọng. Vì thế tôi đã làm
giấy để chuyển anh ta đến Văn Phòng Y Tế Quận để xin nơi đây cho anh được nghỉ
việc một thời gian có ăn lương, đồng thời cũng xin Quĩ Bảo Trợ Công Nhân Viên
cho phép anh được đi nghỉ 2 tuần để dưỡng bệnh. Nhưng sau đó ba hôm, bệnh nhân
kia đã quay lại bệnh viện và đưa cho tôi lá thư của anh bác sĩ bạn tôi, đang
làm việc tại Văn Phòng Y Tế. Nội dung lá thư ấy như sau: “Theo đề nghị của anh,
tôi đã làm mọi thủ tục để bệnh nhân của anh được nghỉ việc và được đi dưỡng
bệnh. Nhưng bệnh nhân lại khai là anh ta đã được khỏi bệnh rồi. Nhưng tôi không
tin, và đã cho tái xét nghiệm máu, và quả thật tôi rất ngạc nhiên khi thấy kết
quả lần xét nghiệm mới này lại không ăn khớp với kết luận trong bệnh án mà anh
đã gửi cho tôi. Vậy đề nghị anh tiến hành xét nghiệm máu thêm một lần nữa trước
khi kết luận chính xác về trường hợp đặc biệt này”.
Thật
là ngoài sự tưởng tượng của tôi: Kết quả xét nghiệm máu cuối cùng này đúng như
lời khai của bệnh nhân là anh ta đã hoàn toàn khỏi bệnh. Tôi hỏi bệnh nhân có
uống thuốc hay sử dụng phương thức điều trị nào trong mấy ngày qua không? Anh
ta quả quyết là không. Nhưng rồi anh ta cho biết trong mấy ngày vừa qua, mỗi
ngày anh ta đã dành ra một tiếng đồng hồ để cầu nguyện với Chúa, và cũng nhờ
bầu khí thinh lặng cầu nguyện mà anh ta đã bắt tay hòa giải được với một kẻ đã
từng vu khống làm hại anh, khiến anh rất uất ức và quyết tâm trả thù. Giờ đây
sau khi làm hoà, anh cảm thấy tâm hồn thanh thản và bình an. Rồi tác giả kết
luận: Có nhiều chứng bệnh thể lý sẽ được chữa trị dễ dàng hơn một khi chứng
bệnh trong tâm hồn được chữa lành trước.
3) Phải cải tạo
thế giới bắt đầu từ bản thân mình:
Vào
lúc sắp chết, một nhà hiền triết đã khiêm tốn thú nhận như sau: “Lúc thiếu
thời, tôi là một người đầy nhiệt huyết và có ước vọng cao. Trong sự hăng hái
của tuổi trẻ, tôi đã xin Chúa cho mình có khả năng để cải tạo thế giới nên tốt,
nghĩa là: không còn chiến tranh thù hận do những tranh chấp về quyền lợi giữa
các quốc gia. Khi đã sống được nửa đời người, tôi tự xét và thấy mình vẫn chưa
làm được điều gì đáng kể, chưa làm được gì để giúp cho thế giới được tốt hơn!
Tôi đành đổi lại lời cầu nguyện cho phù hợp với thực tế như sau: “Lạy Chúa, con
chỉ dám xin Chúa giúp con cải tạo những người thân và bạn bè chung quanh con
nên tốt hơn mà thôi”. Nhưng rồi khi về già, thời gian sống chẳng còn được bao
lâu, tôi tự xét và thấy mình đã quá ảo tưởng khi muốn cải tạo tha nhân. Vì
trong suốt thời gian qua, tôi đã chẳng làm được gì giúp ích cho tha nhân, và
cũng chẳng biến đổi được một ai nên tốt lành hơn! Và một lần nữa, tôi đành phải
thay đổi lời cầu nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin giúp con biến đổi chính bản
thân con”. Giả như ngay từ tuổi thanh xuân tôi đã biết cầu nguyện khiêm tốn và
quyết tâm tự cải tạo trước hết từ bản thân mình, thì có lẽ giờ đây tôi đã không
phải hối tiếc vì đã sống cả một đời vô ích!
3. THẢO LUẬN:
1) Theo bạn thì nhà hiền triết trong câu chuyện trên
quyết định rút bớt những điều quyết tâm là đúng hay sai? Câu: “Tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ” hiện nay còn có giá trị không? Tại sao?
2) Nếu bạn muốn góp phần vào việc cải thiện xã hội cho an
toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn... thì phải bắt đầu từ đâu và bằng
cách nào?
4. SUY NIÊM:
Tin
Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc vất vả của Đức Giêsu từ sáng sớm đến tối
đêm. Qua đó, Đức Giêsu đã nêu ra những chỉ dẫn để thi hành sứ vụ loan báo Tin
Mừng.
1) Cần phải chu
toàn sứ vụ loan báo Tin Mừng:
Ngày
Sab-bát, Đức Giêsu đến Hội đường thành Ca-phác-na-um và được mời đọc Sách Thánh
và giải nghĩa Kinh Thánh. Sứ vụ loan báo Tin Mừng là một phần quan trọng của
đời sống người môn đệ Đức Giêsu. Những ai muốn làm môn đệ của Đức Giêsu phải
hăng say rao giảng Lời Chúa cho mọi người, để nhờ lắng nghe và thực hành Lời
Chúa, người ta mới biết sự thật về Thiên Chúa, biết được con đường mình phải
đi. Bấy giờ Lời Chúa sẽ trở thành ánh sáng soi đường hướng dẫn tư tưởng, lời
nói, hành động của người tín hữu giúp họ có Sự Sống đời đời. Mỗi người tín hữu
cần ý thức sứ vụ của mình là loan báo Tin Mừng như thánh Phaolo đã nói trong
bài đọc II hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16)
2) Tin Mừng phải
hướng đến việc giải thoát con người:
Ma quỉ
luôn muốn giam cầm con người trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người sẽ
bị mất hết ý chí, không thể tự làm điều lành, mà luôn phải làm theo lệnh truyền
của ma quỉ. Tin Mừng của Đức Giêsu có sức mạnh giải thoát con người khỏi sự
trói buộc của ma quỉ, khỏi những phong tục mê tín lạc hậu. Nhờ đó con người có
thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá làm con Thiên Chúa. Bà nhạc của
Si-mon là một bằng chứng: Khi được giải thoát khỏi bệnh sốt, bà liền trỗi dậy
làm bữa ăn phục vụ Chúa va các tông đồ.
3) Tin Mừng phải
được loan báo nhờ Chúa Thánh Thần trợ giúp:
Sáng
sớm, Đức Giêsu đã ra nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Người đã vất vả cả
ngày để rao giảng chữa bệnh và trừ quỷ, nên Người đã dành riêng buổi sáng sớm
để cầu nguyện với Chúa Cha. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của cầu nguyện. Đức
Giêsu cầu nguyện vì muốn được kết hiệp mật thiết với Chúa Cha, để tìm thánh ý
Chúa Cha và để có nguồn sức mạnh giúp cho các hoạt động loan báo Tin Mừng. Các
tín hữu hôm nay muốn dấn thân thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng, mở mang Nước
Trời cũng phải biết noi gương Đức Giêsu cầu nguyện để đón nhận được sức mạnh từ
nơi Chúa Cha. Việc chăm chỉ học sống Lời Chúa rất cần để hiểu biết thánh ý
Thiên Chúa và chia sẻ tình thương của Chúa cho tha nhân.
4) Quảng đại cho
đi là phương thế loan Tin Mừng hữu hiệu nhất:
Tin
Mừng hôm nay cho thấy Đức Giêsu sau khi ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, đã
chữa khỏi bệnh sốt cho bà mẹ vợ của ông Phê-rô, đã chữa lành mọi bệnh hoạn tật
nguyền trong dân. Chúng ta dù có đang bị đau khổ, thì cũng sẽ được vơi bớt nếu
biết mở rộng lòng để cho đi, biết ra khỏi mình để đến với tha nhân. Sức nặng
của thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng nếu chúng ta biết đến cầu nguyện với Chúa
Giêsu và biết quên mình xoa dịu nỗi đau của tha nhân. Không ai quá nghèo đến độ
không thể cho đi một điều gì đó: Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ
động viên, một bàn tay nâng đỡ, một chén cơm manh áo cho người nghèo khó kèm
theo tấm lòng yêu thương... Chính trong lúc cho đi là lúc chúng ta sẽ được nhận
lại như lời Chúa Giêsu: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35) và như lời cầu
trong kinh hoà bình của thánh Phan-xi-cô: “Vì chính khi hiến thân là khi được
nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là
khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
5. LỜI
CẦU:
Lạy
Chúa Giêsu, Xin hãy dừng bước chân con, xin hãy dừng bước chân con! Xin cho
thần kinh con đang suy nhược được mạnh mẽ, cho gân cốt con đang rệu rã được hồi
phục, cho trái tim con đang lo buồn được an ủi, cho tâm hồn con đang xáo trộn
được bình an... Xin dạy con biết dừng lại công việc đang làm trong vài ba phút
ngắn ngủi để con trở về đối diện với lòng mình, lắng nghe lời Chúa và từ đó rút
ra sự can đảm mới, sức mạnh mới và nguồn sống mới để đạt được kết quả tốt hơn.
Lạy Chúa, xin hãy dừng bước chân con!
X.
Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ. Xin Chúa nhậm lời chúng con.
107.
Chúa Nhật 5 Thường Niên
(Suy niệm của Giuse Hoàng Hải Đăng, OP)
CẦU NGUYỆN CÓ SỨC BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI
Cộng đoàn thân mến!
Bỏ lại sau lưng một tuần lễ làm việc với bao vất vả và
lao công khổ trí, với bao lo âu và căng thẳng. Giờ đây, trong bầu khí linh
thiêng nơi đền thánh này, cộng đoàn chúng ta xum vầy bên nhau để cầu nguyện,
hầu kín múc cho mình những nghị lực mới và những niềm hy vọng mới từ nguồn suối
ân sủng bất tận của mầu nhiệm Thánh Thể.
Đây chính là cách thức hành động của Chúa Giêsu trong
đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe. Sau một ngày bận rộn với công việc chữa bệnh
và rao giảng Tin Mừng, Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha.
Điều đó cho thấy đối với Chúa Giêsu, việc cầu nguyện là quan trọng, là điều
không thể thiếu trong cuộc đời của Người. Vì thế, trước khi bắt tay vào làm
việc, Chúa Giêsu thường cầu nguyện với Chúa Cha để kín múc lấy nguồn sức mạnh
cho các hoạt động truyền giáo sau này. Và đỉnh điểm của nguồn sức mạnh linh
thiêng này được Người biểu lộ trên Thánh giá khi Người cầu nguyện: “Lạy Cha,
xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.”(Lc 23,34)
Cảm nhận sâu xa nguồn sức mạnh của cầu nguyện, Người
không ngừng mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Bởi chỉ trong cầu
nguyện, chúng ta mới kín múc được suối nguồn ân sủng của Thiên Chúa. Nguồn ân
sủng dẫn đưa chúng ta đến chỗ trở nên một phần trong sứ vụ của Chúa Giêsu trong
việc dẫn đưa mọi người vào trong sự mật thiết với tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương cầu nguyện không biết mệt
mỏi của thánh nữ Monica, mẫu thân của thánh Âutinh. Suốt hai mươi năm, thánh nữ
đã khóc hết nước mắt và liên lỉ cầu xin Chúa hãy cứu vớt con trai mình. Cuối
cùng, Thiên Chúa đã thương nhận lấy những giọt nước mắt và lời cầu nguyện của
thánh nữ mà cho thánh Âutinh quay trở về với Thiên Chúa. Sau này, thánh Âutinh
trở thành một vị thánh cả trong Giáo Hội.
Như vậy, chính sự cầu nguyện thẳm sâu đã nối kết tâm hồn
thánh Monica với Thiên Chúa và đem lại cho thánh nữ sức sống vượt lên trên mọi
thử thách, đau khổ. Nhờ đó mà thánh nữ không chỉ biến đổi chính mình mà còn làm
biến đổi người con mà thánh nữ hằng nhớ đến trong những lời cầu nguyện.
Và để có được đời sống cầu nguyện thẳm sâu như thánh
Monica, chúng ta hãy học ở nơi người sự tín thác vào Thiên Chúa. Nhờ tín thác
vào Thiên Chúa mà chúng ta không chỉ gặp gỡ Người trong tiếng thì thầm và trong
tiếng gió hìu hiu mà còn gặp gỡ Người giữa những cơ cực của trần thế, trong
những nỗi khốn quẫn và hân hoan của đồng loại. Nhờ đó, chúng ta mang trong tâm
hồn mọi đớn đau, sầu khổ; mọi sự đói, cô đơn và cùng khốn của con người.
Và cũng nhờ cầu nguyện, chúng ta để cho sự ấm cúng của
tình yêu Thiên Chúa làm tan chảy băng giá của sự hận thù, để cho lòng nhân hậu
của Thiên Chúa mở ra một không gian nơi niềm vui khỏa lấp nỗi buồn; để cho sự
hiền lành và ấu yếm của Chúa xua tan sự ghen ghét, sự hững hờ. Như thế, cầu
nguyện chính là phương thế tốt nhất đưa dẫn mọi đau khổ tới nguồn mạch của mọi
sự chữa lành.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Đôi khi vì thiếu lòng tin,
chúng con đã không còn thấy nhu cầu để cầu nguyện. Vì những bận rộn, lo toan
trong đời sống mà chúng con không còn muốn chạy đến với Thiên Chúa. Nhất là vì
thấy những lời cầu xin của mình không được như ý nên chúng con cảm thấy chán
nản, thất vọng và buông xuôi. Xin ban cho chúng con niềm tin mạnh mẽ để chúng
con tin rằng những lời cầu nguyện của chúng con nhất định sẽ được Chúa nhậm
lời. Để từ đó, chúng xác tín rằng cầu nguyện là lẽ sống, là hơi thở của đời
con. Và một khi đã xác tín như thế, chúng con sẽ sẵn sàng dành trọn 30 phút mỗi
ngày cho việc cầu nguyện.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, xin
cho con luôn biết phó thác cho tình yêu bao la và quan phòng của Thiên Chúa
trong từng giây phút đời con để trong con không còn một khát vọng nào khác
ngoài sự kết hiệp mật thiết với Chúa. Amen.
Lời Chúa Tuần 5 Thường Niên
Thường niên V GS C PS Ngoại lịch