CHÚA NHẬT 1 MÙA CHAY B
MỤC LỤC
1. Canh tân đời sống
2. Cải thiện
3. Nơi hoang dã
4. Chiến thắng lòng tham – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
5. Sự cám dỗ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Ba cạm bẫy của ma quỷ
7. Cạm bẫy - Thiên Phúc
8. Sám hối thì được cứu rỗi - Anmai, CSsR
9. Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người
10. Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ
11. Chay tịnh và cầu nguyện
12. Lòng thương cảm sâu xa – Peter Feldmier
13. Hàng ngày vào hoang địa
14. Thần lành, thần dữ
15. Ăn chay – Lm. Vũ Đình Tường
16. Chiến đấu!
17. Thách đấu - Lm Vũ Đình Tường
18. Cám dỗ trong hoang địa – Cố Lm. Hồng Phúc
19. Đức Giêsu trong hoang địa
20. Chúa Nhật 1 Mùa Chay
21. Cám dỗ
22. Hãy trở thành dân của Ta Camille Gagnon
23. Tầm quan trọng của một phản ứng tốt. Achille Degeest
24. Sống là chiến đấu.
25. Chúa Nhật I Mùa Chay
26. Vào hoang địa – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
27. Vào hoang địa
28. Chúa Nhật I Mùa Chay
29. Hãy sửa đổi đời sống và tin vào Tin Mừng.
30. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa Lm. Nguyễn Văn Phan
31. Tin là chấp nhận đường thập giá – Noel Quesson
32. Nơi hoang địa - ĐGM. Arthur Tonne
33. Những cám dỗ của Mùa Chay
34. Cát bụi tuyệt vời – Lm. Nguyễn Hữu An
35. Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
36. Cám dỗ
37. Hoang địa
38. Cuộc chiến
39. Dã thú
40. Cám dỗ
41. Đứa con của kẻ vô thần
42. Suy niệm của JKN
43. Hãy cải thiện và hãy tin - Lm. Mark Link
44. Yếu tố con người
45. Chiến thắng cám dỗ
46. Ngoại trừ tội lỗi
47. Bị cám dỗ bởi việc lành
48. Tái tạo cuộc sống
49. Câu chuyện hồng thủy
50. Chúa Nhật 1 Mùa Chay
51. Đức Giêsu chiến thắng satan
52. Trung thành với lời giao ước Phép Rửa
53. Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
Sám hối và tin vào tin mừng catholic.org.tw
Chỉ vì thương nên Thiên Chúa... Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Mùa thanh tẩy tâm hồn Lm Giuse Đinh lập Liễm
Hành trình hoán cải... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Sám hối mùa chay Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Khởi đầu sứ mạng truyền giáo Fiches Dominicales
Cám dỗ hoang địa Jacques Hervieux
Cát bụi tuyệt vời Lm. Nguyễn Hữu An
Nơi hoang dã Sưu tầm
Cám đõ thử thách Sưu tầm
Biến hình ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Sống thân mật với Chúa ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thử thách trong cuộc sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
Tin tưởng đón nhận thập giá Lm. Phêrô Lê văn Chính
Đừng quên mảng tốt nơi...Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Được biến đổi hình dạng MANNA
Biến hình với Chúa Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Hai khuôn mặt, một tình yêu Niềm Vui Chia Sẻ
Chúa tỏ vinh quang Ngài Noel Quesson
Từ cõi chết sống lại Lm Trần Bình Trọng
Căn tính đích thực của Chúa Giê su Noel Quesson
Đức Giê su biến hình trên núi Fiches Dominicales
Sứ điệp của trình thuật Học Viện Đà Lạt
Hãy lắng nghe Rolland Dionne
Đau khổ Sưu tầm
Vinh quang thập giá Sưu tầm
Tabor với Chúa Giê su Sưu tầm
Chúa biến hình Sưu tầm
Sống với Chúa Sưu tầm
Biến hình Sưu tầm
Giây phút tột đỉnh Sưu tầm
Trên đỉnh Tabor Sưu tầm
Thiên Chúa về phía Sưu tầm
Theo Chúa chịu chết để được sống catholic.org.tw
Chiến thắng để trung thành,.,Lm Giuse Đinh tất Quý
Vào hoang địa Lm Giuse Đinh tất Quý
1. Canh tân đời sống
2. Cải thiện
3. Nơi hoang dã
4. Chiến thắng lòng tham – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
5. Sự cám dỗ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Ba cạm bẫy của ma quỷ
7. Cạm bẫy - Thiên Phúc
8. Sám hối thì được cứu rỗi - Anmai, CSsR
9. Đức Giêsu chia sẻ thân phận con người
10. Đức Giêsu chịu Xatan cám dỗ
11. Chay tịnh và cầu nguyện
12. Lòng thương cảm sâu xa – Peter Feldmier
13. Hàng ngày vào hoang địa
14. Thần lành, thần dữ
15. Ăn chay – Lm. Vũ Đình Tường
16. Chiến đấu!
17. Thách đấu - Lm Vũ Đình Tường
18. Cám dỗ trong hoang địa – Cố Lm. Hồng Phúc
19. Đức Giêsu trong hoang địa
20. Chúa Nhật 1 Mùa Chay
21. Cám dỗ
22. Hãy trở thành dân của Ta Camille Gagnon
23. Tầm quan trọng của một phản ứng tốt. Achille Degeest
24. Sống là chiến đấu.
25. Chúa Nhật I Mùa Chay
26. Vào hoang địa – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
27. Vào hoang địa
28. Chúa Nhật I Mùa Chay
29. Hãy sửa đổi đời sống và tin vào Tin Mừng.
30. Từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa Lm. Nguyễn Văn Phan
31. Tin là chấp nhận đường thập giá – Noel Quesson
32. Nơi hoang địa - ĐGM. Arthur Tonne
33. Những cám dỗ của Mùa Chay
34. Cát bụi tuyệt vời – Lm. Nguyễn Hữu An
35. Chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
36. Cám dỗ
37. Hoang địa
38. Cuộc chiến
39. Dã thú
40. Cám dỗ
41. Đứa con của kẻ vô thần
42. Suy niệm của JKN
43. Hãy cải thiện và hãy tin - Lm. Mark Link
44. Yếu tố con người
45. Chiến thắng cám dỗ
46. Ngoại trừ tội lỗi
47. Bị cám dỗ bởi việc lành
48. Tái tạo cuộc sống
49. Câu chuyện hồng thủy
50. Chúa Nhật 1 Mùa Chay
51. Đức Giêsu chiến thắng satan
52. Trung thành với lời giao ước Phép Rửa
53. Hạnh phúc trong tầm tay – Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Video Thánh Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
Sám hối và tin vào tin mừng catholic.org.tw
Chỉ vì thương nên Thiên Chúa... Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Mùa thanh tẩy tâm hồn Lm Giuse Đinh lập Liễm
Hành trình hoán cải... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Sám hối mùa chay Lm Gioan M. Nguyễn Thiên Khải CMC
Khởi đầu sứ mạng truyền giáo Fiches Dominicales
Cám dỗ hoang địa Jacques Hervieux
Cát bụi tuyệt vời Lm. Nguyễn Hữu An
Nơi hoang dã Sưu tầm
Cám đõ thử thách Sưu tầm
Biến hình ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Sống thân mật với Chúa ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Thử thách trong cuộc sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
Tin tưởng đón nhận thập giá Lm. Phêrô Lê văn Chính
Đừng quên mảng tốt nơi...Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Được biến đổi hình dạng MANNA
Biến hình với Chúa Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Hai khuôn mặt, một tình yêu Niềm Vui Chia Sẻ
Chúa tỏ vinh quang Ngài Noel Quesson
Từ cõi chết sống lại Lm Trần Bình Trọng
Căn tính đích thực của Chúa Giê su Noel Quesson
Đức Giê su biến hình trên núi Fiches Dominicales
Sứ điệp của trình thuật Học Viện Đà Lạt
Hãy lắng nghe Rolland Dionne
Đau khổ Sưu tầm
Vinh quang thập giá Sưu tầm
Tabor với Chúa Giê su Sưu tầm
Chúa biến hình Sưu tầm
Sống với Chúa Sưu tầm
Biến hình Sưu tầm
Giây phút tột đỉnh Sưu tầm
Trên đỉnh Tabor Sưu tầm
Thiên Chúa về phía Sưu tầm
Theo Chúa chịu chết để được sống catholic.org.tw
Chiến thắng để trung thành,.,Lm Giuse Đinh tất Quý
Vào hoang địa Lm Giuse Đinh tất Quý
1. Canh tân đời sống
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố
thủ đô, thì có một người ăn mày đến và xin nhà vua chút ít tiền. Nhà vua không
hề cho anh ta một đồng nào cả. Thay vào đó, nhà vua mời anh ta đến lâu đài thăm
viếng ông. Người ăn mày nhận lời mời của nhà vua. Đến ngày hẹn, người ăn mày
tìm đường tới cung điện và được gặp nhà vua. nhưng anh ta bỗng nhận ra bộ quần
áo rách rưới của mình, và cảm thấy xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về
tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống của anh. Vốn là một người đặc biệt, nhà
vua đón tiếp anh ta một cách nồng hậu, tỏ lòng thương xót, và ban cho anh ta
một bộ quần áo mới, cùng với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn
mày vẫn lê lết trên đường phố trong bộ quần áo rách nát của mình. Tại sao anh
ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc bộ quần áo đó, có nghĩa
là anh ta phải sống một cuộc sống mới, phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn
mày. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới
không hấp dẫn đối với anh ta. Nó rất hấp dẫn. Nhưng chỉ vì anh ta đã quá quen
thuộc với lề thói cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống. Người ta nói rằng
chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình tuỳ thuộc vào những thói quen đã có từ nửa
trước cuộc đời. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào có những thói
quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất
cả chúng ta. Hình ảnh Chúa Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc
động cho chúng ta. Nhưng cũng bắt chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình.
Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của
chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa và kiên nhẫn.
Nếu muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì trước
hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng ta. Sự
thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào những thói
quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự bắt mình
phải thực hiện những gì cần thiết. Thông qua sức mạnh của lời cầu nguyện, chúng
ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng
những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của
ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đây là một
thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao,
tương tự như mùa xuân. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới mùa Phục Sinh, thì
mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về với sức mạnh của tình yêu.
Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một cách khiêm tốn cùng với
Thiên Chúa. Hãy dẹp bỏ chiếc áo rách của tội lỗi, để mặc lấy tấm áo mới của ân
sủng và sự sống.
Có một chàng thanh niên, vừa nghiện ma tuý, lại can tội giết
người, nên bị kết án chung thân. Đêm kia anh đang nằm trên giường tại phòng
giam, thì đột nhiên anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời
anh. Anh cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Đợi cho người bạn
nằm cùng giường ngủ yên, anh mới quỳ xuống cầu nguyện: Lạy Chúa, con xin tỏ bày
cùng Chúa những gì chất chứa trong trái tim con. Anh nói với Ngài bằng những
lời lẽ đơn sơ mộc mạc tất cả những gì anh muốn, từ những hy vọng đến những thất
bại, từ những vui mừng đến những khổ đau. Sau khi anh cầu nguyện xong, người
bạn tưởng chừng như đã ngủ buột miệng kêu lên: Amen. Và người bạn nói tiêp: Tôi
cũng tin Chúa. Tôi nghĩ rằng Ngài luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là không
ở với Ngài mà thôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào lời Chúa truyền dạy: Hãy sám
hối, nghĩa là hãy cải thiện đời sống, thành tâm thú nhận những gì xấu, không
tốt, không đẹp trong đời sống chúng ta, rồi sau đó là từ bỏ chúng, quay lưng
lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với những tội lỗi trong đời
sống, rồi cương quyết uốn nắn sửa đổi.
Hẳn rằng có những lúc chúng ta cũng đã ý thức về những hỗn loạn
xảy ra trong tâm hồn và trong cuộc sống chúng ta. Chẳng hạn về tính ích kỷ,
luôn đặt nhu cầu của chúng ta trên quyền lợi của người khác. Chẳng hạn về tính
kiêu căng, không muốn nhìn nhận những sai lỗi của mình. Chẳng hạn về sự lười
biếng, không muốn giúp đỡ một ai.
Kinh nghiệm cho thấy: Những nhà truyền giáo thành công nhất trong
việc làm cho người khác hối cải, đều là những người thực hiện theo đoạn Tin
Mừng hôm nay. Họ làm cho người khác nhìn nhận rằng mình chỉ là những kẻ tội
lỗi, rồi từ đó giúp họ quay trở về cùng Đức Kitô mà làm lại cuộc đời. Bởi vì
nếu không phải là người tội lỗi, thì cần chi đến Đức Kitô.
Từ khởi điểm này, hôm nay chúng ta cùng nhau bước vào mùa Chay, là
thời gian đặc biệt Chúa tuôn đổ muôn vàn ơn sủng và giúp chúng ta cải thiện đời
sống. Nếu như mùa Chay trở về, chúng ta biết cố gắng cải thiện đời sống, uốn
nắn lấy một thói hư tật xấu mà thôi, thì có lẽ lúc này chúng ta đã trở nên một
con người khác, đạo đức hơn, thánh thiện hơn, yêu thương hơn.
Có một vở kịch mang tựa đề là nơi hoang dã, kể lại câu chuyện như
sau: Chàng thanh niên yêu say đắm cô gái hàng xóm. Thế nhưng cha nàng không ưng
vì cuộc sống có phần bê bối của chàng. Ông ra sức dập tắt mối tình của chàng.
Thất vọng, chàng đâm ra rượu chè bê bối. Ngày kia, sau khi đã uống rượu, chàng
gây lộn và đánh nhau với một người trong quán, nên bị chủ quán tống cổ ra ngoài
đường. Cha chàng rất hiểu và cảm thông với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy
lại thế quân bình. Sau khi biết được cô gái hàng xóm cũng yêu chàng, thế là
chàng quyết định hối cải và làm lại cuộc đời.
Vở kịch được trình diễn một cách rộng rãi và đã thu hút được nhiều
người đến xem vì nó đưa ra một hoàn cảnh chung, vừa nhân bản, lại vừa gần gũi
với cuộc sống hằng ngày. Nó vẽ lên phần nào cảnh hoang dã mà chúng ta đang
sống.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Thực
vậy, trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã vào sa mạc, nơi hoang
dã để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ suốt 40 đêm ngày. Theo Kinh Thánh, sa
mạc hay nơi hoang dã đã là nơi trú ẩn của thần dữ, của thử thách.
Với chúng ta cũng vậy, chúng ta đang sống trong một nơi hoang dã,
một thế giới tràn ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì
hung dữ hoặc xấu xa cho bằng sự tàn bạo của con người thời đại. Giết người
không gớm tay. Ngược đãi trẻ em cộng với những hành động gian tham, trộm cướp
bất công. Có con thú dữ nào giết hại hằng triệu người mỗi năm? Thế nhưng, việc
phá thai của con người thời nay còn vượt hơn con số đó rất nhiều.
Thú dữ mang hình người trong hoang địa của chúng ta đang phá huy
không những sự sống thể xác, mà hơn nữa, còn đặc biệt phá huỷ sự sống tinh thần
của chính chúng ta và của những người thân yêu. Chẳng hạn như những phim ảnh và
sách báo đồi truỵ. Vậy liệu có phương cách nào để kềm chế những kẻ tàn phá thể
xác và tâm hồn hay không?
Tôi xin thưa rằng có, đó là phương cách của Chúa Giêsu. Bởi vì
chính Ngài đã đến để cứu chữa những gì đã hư đi. Cũng vì thế mà Ngài đã vào
hoang địa để chiến thắng sự dữ bằng việc hãm mình và cầu nguyện. Chỉ trong
đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng được sự dữ trong thế giới ngày hôm
nay.
Đúng thế, chỉ bằng việc cầu nguyện và hy sinh, chúng ta mới có thể
thuần hoá được những con thú tiềm ẩn trong cõi lòng chúng ta. Cùng với Chúa
Giêsu, chúng ta hãy cầu nguyện và chấp nhận những hy sinh hãm mình, để nhờ đó
chúng ta cũng sẽ chiến thắng được những cám dỗ suốt dọc cuộc đời chúng ta.
Thông thường con người chúng ta thường hay ghen ghét, bất hoà,
tranh chấp và có khi giết hại lẫn nhau vì những điều gì?
Thưa, về danh vọng và tiền tài. Ngay trong gia đình cũng có thể bị đảo lộn tất cả những nề nếp
gia phong vì danh vọng và đồng tiền. Con cái bỏ cha mẹ, cha mẹ từ chối con cái.
Vợ kết án chồng, chồng ruồng bỏ vợ, anh em bạn hữu chém giết nhau cũng chỉ vì
đồng tiền, bát gạo, và người ta cũng có thể chà đạp nhau, bất kể là thân hay
quen, là bạn hữu xa gần chỉ vì một ngai vàng là địa vị, là quyền lực trong xã
hội.
Thực vậy, có những kẻ vì tiền mà mê muội. Có những người vì tình
mà hoá dại. Có những người vì quyền lực mà đánh mất tính người. Nhưng có lẽ,
cái cám dỗ lớn nhất của con người qua mọi thời đại chính là đồng tiền, vì có
tiền là có tất cả.
Vì tham lam đồng tiền mà họ sẵn sàng đánh đổi tất cả: danh dự,
phẩm giá và tình làng nghĩa xóm, tình cha nghĩa mẹ, tình nghĩa thầy trò cũng
không bằng ma lực của đồng tiền, như cha ông ta đã từng nói: "Còn tiền còn
bạc còn đệ tử - Hết tiền hết gạo hết ông tôi". Thật vậy, có biết bao kẻ đã
bạc tình, bạc nghĩa chỉ vì đặt đồng tiền lên trên mọi mối quan hệ giữa người
với người. Đồng tiền là đối tượng duy nhất để tôn thờ vì thế dân gian mới có
câu: "Ông tiền , ông Phật, ông Tiên - Ba ông đứng lại, ông tiền cao
hơn".
Ngày xưa, có người ở nước Tề thích vàng đến mê vàng. Sáng sớm thay
áo quần đi ra chợ. Tới hàng đổi tiền, thì liền chộp vội một khối vàng rồi chạy
đi. Người ta bắt anh ta lại và hỏi:
- Tại sao giữa đám đông mà anh lại dám cướp vàng của kẻ khác như
thế?
Anh ta trả lời:
- Lúc thấy vàng, tôi đâu còn thấy thiên hạ chung quanh nữa. Trước
mặt tôi, chỉ có vàng mà thôi.
Đồng tiền liền khúc ruột nên họ lao mình vào lửa, bất chấp mọi khó
khăn gian khổ, bất chấp mọi thủ đoạn mánh mung, cho dù phải chà đạp lên người
khác bằng những phương thế bóc lột và bất công, miễn sao vơ vét, vun quén về
cho đầy túi tham của mình.
Bài phúc âm hôm nay, thánh Marco nói về việc Chúa Giêsu chiến
thắng cám dỗ. Vậy ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu điều gì? Thưa, ma qủy đã tìm cách
lôi kéo Chuá Giêsu quay lưng lại với Chuá Cha. Từ khước sống vâng phục thánh ý
Chúa để được thoả mãn cái bụng của mình. Nó hướng mở cho Chúa một tương lai đầy
hứa hẹn không chỉ có của ăn dư đầy từ những hòn đất hòn đá cũng biến thành của
ăn, từ sỏi đá cũng thành cơm, mà vượt xa hơn nữa là nắm gọn trong tay thiên hạ,
kẻ hầu người hạ và thừa hưởng mọi vinh hoa lợi lộc trần gian. Năm xưa trong
vườn địa đàng nó đã thắng ông bà nguyên tổ, khi nó đưa ra những lời dụ dỗ đầy
ngọt ngào, đầy hấp dẫn, nhưng hôm nay, màn trình diễn này đã hoàn toàn thất bại
bởi người Con duy nhất của Thiên Chúa là Đức Giêsu, Ngài không những đã khước
từ những lời mời mọc của ma quỷ nhưng còn cho ma qủy nhận ra rằng không có gì
cao qúy hơn là được sống trong tình nghĩa với Thiên Chúa, sống trong sự quy
phục Thiên Chúa, vì người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi mọi lời
do miệng Thiên Chúa phán ra.
Những cám dỗ mà ma qủy tuy đã thất bại với Chúa Giêsu nhưng nó vẫn
dùng những chiêu thức đó để tấn công con người hôm nay. Trước tiên nó gieo vào
lòng ta mối nghi ngờ Thiên Chúa, về lòng thương xót và quan phòng của Thiên
Chúa. Nó mở ra cho chúng ta một sự so sánh, tính toán thiệt hơn và cuối cùng là
đưa ra một con mồi để quyến rũ chúng ta là: danh vọng, tiền tài, địa vị, thú
vui. Kết quả là nhiều người vì ham tiền, ham lợi lộc đã trở thành tay sai cho
ma qủy, không chỉ mình làm điều ác mà còn lôi kéo, dẫn dụ nhiều người khác đi
vào con đường tội lỗi. Ma qủy đã thành công khi sai khiến chúng ta làm sự dữ,
là những điều trái với luân thường đạo lý như: trộm cắp, đánh nhau, hận thù
ghen ghét, tự cao tự đại... Đó là những mối tội đầu đã gây nên biết bao đau khổ
cho chính mình và những người chung quanh.
Ở khởi đầu mùa chay khi cho chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu bị ma
qủy cám dỗ, Giáo hội mời gọi chúng ta ý thức về thân phận tội lỗi của mình và
sức mạnh của sự dữ, của ma qủy luôn rình rập để lôi kéo chúng ta xa rời Thiên
Chúa, đi trong tối tăm của đam mê lầm lạc. Vì thế, chúng ta luôn phải sám hối
và tin vào tình yêu của Chuá. Sám hối để nhận ra sự khiếm khuyết của mình mà
cầu xin ơn Chuá bổ túc những thiếu sót của chúng ta. Sám hối để canh tân đời
sống sao cho phù hợp với tin mừng của Chuá. Sám hối để chúng ta nhận ra sự giới
hạn của kiếp người để nhờ ơn Chúa giúp chúng ta sẽ hoàn thiện con người của
mình nên thánh thiện tinh tuyền như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện.
Lạy Chuá, Chuá đã dựng nên con giống hình ảnh Chuá. Xin cho con
biết gìn giữ phẩm giá con người của mình bằng việc tránh xa những thói hư tật
xấu, luôn nói không với tội lỗi và luôn giữ lòng trong sạch để xứng đáng nhìn
xem Thiên Chuá. Amen.
Nhiều người hôm nay không tin ma quỷ, không tin sự cám dỗ của ma
quỷ. Họ cho rằng tội là do mình tự ý phạm. Họ tin vào sự ý thức của con người.
Họ không nghĩ đến sự yếu đuối của con người là do ngã lòng chiều theo cám dỗ.
Chính do sự mất cảnh giác của cám dỗ nên con người dễ mất mắc sai lầm theo chủ
quan, dễ hành động theo bản năng mà không hề kiểm soát hành vi của mình. Đó
cũng là điều tệ hại dẫn con người đến mất ý thức về tội. Vì lấy mình làm trung
tâm nên luôn cho mình là đúng, luôn biện minh cho hành vi sai trái của mình.
Khi con người mất ý thức về tội là lúc ma quỷ chiến thắng. Nó luôn
tìm cách chứng minh không hề có sự hiện của nó. Nó chỉ tác động dưới những hình
thức đẹp đẽ, tốt lành để hướng con người hành động theo ý mình. Và điều tệ hại
là hành động theo ý mình thì luôn sai lầm vì thích chiều theo bản năng, chiều
theo sự dễ dãi mà không cần đến lề luật.
Có một nô bộc da đen hộ tống ông chủ da trắng đi săn vịt trời. Anh
ta là một ky-tô hữu. Nhân dịp nói chuyện về vấn đề tôn giáo, ông chủ hỏi người
ở da đen:
“Ta chẳng hiểu tại sao mày thường xuyên nói đến tội, đến chống trả
cám dỗ, nói đến Ma-quỉ. Ta chẳng phải chống trả Ma-quỉ bao giờ, mà ta vẫn sống
tịnh, chẳng bao giờ bị quấy phá hoặc tấn công chi cả”
Người ở da đen trả lời lại: “Tôi xin phép được giải thích việc
này. Chúng ta đang đi săn vịt. Những con nào bị ông bắn và chết liền khi rơi
xuống, thì tôi để yên đó. Nhưng con nào chỉ bị thương khi rơi xuống và tìm cách
chạy trốn, thì tôi dùng sào này mà phang cho chết hoặc không nhúc nhích được
mới thôi”.
Ông ví như vịt đã bị Ma-quỉ bắn chết rồi, nên nó để yên ông; còn
tôi ví như con vịt mới bị thương và đang tìm cách trốn thoát, do đó Ma quỉ đang
giơ sào và tìm mọi cách đập tôi cho thật chết mới thôi.
Ma quý cám dỗ là sự thật. Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ con người đi
nghịch lại với đường lối Thiên Chúa. Chúa Giê-su cũng từng bị cám dỗ. Ma quỷ đã
bủa vây Chúa Giê-su bằng nhiều lời hứa đường mật, nhưng luôn theo một chủ đích
là từ bỏ Chúa Cha để hành động theo ý mình. Quả thực, trên đời chẳng có gì cho
không. Ai cho chúng ta điều gì thì thường họ cũng muốn đòi lại chúng ta một
điều nào đó, huống hồ là ma quỷ, nó sẽ không bao giờ cho không chúng ta.
Năm xưa trong vườn địa đàng ma quỷ đã chiến thắng Adam-Eva, khi
hai ông bà quay lưng lại với Thiên Chúa. Ma quỷ cũng chiến thắng dân Chúa chọn
trên hành trình đất hứa khi thờ bò vàng để tìm kiếm miếng ăn. Nhưng ma quỷ đã
hoàn toàn thất bại trước Con Thiên Chúa làm người. Chúa Giê-su đã nhắc ma quỷ
phải tuân phục Thiên Chúa. Ngài cũng nhắc ma quỷ cuộc sống này cái ăn cái mặc
đáng quý nhưng thực thi ý Chúa còn quý hơn nữa.
Hôm nay khởi đầu mùa chay, Chúa Giê-su mời gọi chúng ta hãy sám
hối. Sám hối vì đã có những lần chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa. Sám hối
vì đã có những lần chúng ta chiều theo cám dỗ của ma quỷ mà hành động theo tính
xác thịt, thiếu tự chủ bản thân. Sám hối là nhìn nhận sự yếu đuối của mình để
trông cậy lòng thương xót và ân sủng của Thiên Chúa. Chỉ trong Thiên Chúa chúng
ta mới có thể chiến thắng cám dỗ, chiến thắng những yếu đuối của bản thân.
Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng cám dỗ ban ơn sức mạnh để
chúng ta vực dậy sau những lần vấp ngã, và canh tân đời sống theo tin mừng. Xin
cho chúng ta đừng bao giờ tự phụ về khả năng tự chủ của mình nhưng luôn khiêm
tốn trông cậy vào ơn Chúa giúp để nói không với sự xấu, với điều nghịch lại với
lề luật của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người ta nói rằng cư dân miền Bắc Cực có cách bẫy chó sói rất độc
đáo. Họ mài những con dao thật bén, rồi đem nhúng dao đó vào máu súc vật cho
đến khi lưỡi dao bọc toàn máu. Đêm đến, họ đem dao đó cắm ngoài đồng. Chó sói
thính hơi nghe mùi máu, chạy đến liếm lưỡi dao tới tấp. Đến khi chính lưỡi nó bị
dao cắt đứt, máu chảy ra, nó vẫn mải mê cắm đầu liếm mà không biết mình đang
liếm máu mình cho tới lúc kiệt sức ngã lăn ra chết.
Con sói vì khát máu mà chết. Con người chúng ta đôi khi cũng khát
tiền, khát tình, khát danh vọng, quyền lực mà chết. Quả đúng là “mật ngọt chết
ruồi”. Danh lợi thú luôn là cạm bẫy của ma quỷ vây bắt linh hồn con người. Con
người chúng ta đôi khi cũng vì những hào nhoáng bên ngoài mà vướng vào cạm bẫy
của ma quỷ. Con người chúng ta đôi khi cũng đang bị chết dần mòn trong những đam
mê cuồng si của mình. Bài phúc âm hôm nay cho chúng ta thấy sự chọn lựa dứt
khoát của Chúa Giê-su trước những cạm bẫy của ma quỷ. Ngài không lập lờ nước
đôi. Ngài cũng không tìm thoả hiệp với ma quỷ. Ngài luôn chọn lựa Chúa và ý
Chúa Cha để sẵn lòng loại bỏ những gì nghịch với ý định của Thiên Chúa Cha.
Ngài đã chiến thắng cám dỗ nhờ tình yêu trung tín với Chúa Cha. Ngài đã tín
thác hoàn toàn vào Chúa Cha đến nỗi “lương thực của Ngài chính là thi hành ý
muốn Chúa Cha.
Kính thưa, Quý OBACE
Ba cám dỗ mà Chúa Giêsu đã chiến thắng cũng là ba cám dỗ mà ma qủy
vẫn tiếp tục gieo vào tâm hồn con người hôm nay.
Cám dỗ thứ nhất đó chính là của cải và cơm bánh hằng ngày. Cha ông
ta vẫn nói:
“Có làm thì mới có ăn
Không dưng ai dễ mang phần cho ta”
Đó chính là sự công bằng đích thực. Có làm có hửơng. Có những ngày
tháng lặn lội ngược xuôi bôn ba nơi chốn chợ hay dầm mưa dãi nắng nơi nương
đồng mới có ngày nhàn hạ hưởng dùng hoa trái mình làm nên. Nhiều người đã không
ý thức điều đó. Vì thói tham lam và lười biếng họ muốn “ngồi nhà mát ăn bát
vàng”. Họ đang tâm làm giầu bằng thủ đoạn, bằng lừa gạt. Họ vì tiền mà đánh mất
tình bạn. Họ vì miếng cơm manh áo mà đánh mất lương tri. Họ muốn biến đá thành
bánh mà chẳng cần lao động cực nhọc. Lòng tham đã khiến họ quên đi phẩm giá cao
đẹp của loài người là hình ảnh của Thiên Chúa, thế nên cần phải tìm kiếm những
gì cao siêu hơn là những miếng bánh mau hư nát và cũng chẳng bao giờ thoả mãn
lòng tham con người.
Cám dỗ thứ hai chính là tính đòi hỏi người khác phục vụ cho những
đam mê sở thích của mình. Đó là lối sống hưởng thụ và thác loạn. Ngày nay người
ta vẫn sợ các cậu ấm cô chiêu. Con của những người giầu có và quyền thế. Từ nhỏ
đã được cha mẹ cưng phụng, chiều chuộng nên chỉ biết đua đòi, phóng khoáng.
Sống ngông cuồng đến độ bất tuân phục lề luật. Sống hành xử theo ý mình, cho dù
đó là những trò mạo hiểm gây hại cho bản thân và cho đồng loại như: xì kè, ma
túy, mại dâm, đua xe, lạng lách... Đó chính là con đường mà ma qủy đã gieo vào
lòng người: “cứ gieo mình xuống đi.... và mọi sự sẽ có các thiên sứ lo
liệu...”. Lời Chúa hôm nay là lời nhắc nhở họ: “chớ thử thách Thiên Chúa”.
Thiên Chúa là Đấng công thẳng. Mọi việc con người làm hôm nay đều phải trả lẽ
trước mặt Chúa trong ngày sau nơi toà phán xét chí công của Thiên Chúa.
Cám dỗ thứ ba chính là lòng tự mãn, kiêu căng của con người. Ma
qủy luôn cám dỗ con người “coi trời bằng vung”. Họ hành động như thể không có
Thiên Chúa. Họ sống theo ý mình, tệ hại nhất chính là sự nuông chiều theo những
đam mê sở thích của mình. Ma qủy luôn làm cho con người cảm thấy thoả thích
trong những vinh hoa phú qúy trần gian. Nó dẫn con người đi trong những đam mê
bất chính, những hưởng thụ lầm lạc. Con người vì kiêu căng muốn hưởng thụ tất
cả nên dễ dàng bỏ Chúa, bỏ lề luật để tôn thờ những con bò mộng, lợn vàng là
danh lợi thú trần gian. Tôn thờ những tạo vật thấp hèn nên con người cũng có
những lối hành xử đê tiện và thấp hèn.
Chúa Giêsu Ngài đã chiến thắng ba cám dỗ đó trên nền tảng căn tính
của con người. Con người là hình ảnh Thiên Chúa và vượt xa muôn loài thụ tạo
nên chẳng có vật gì đáng cho con người phải bán rẻ lương tâm để tôn thờ. Chỉ có
Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng nên con người, mới đáng để con người phải cúi
mình tôn thờ. Thế nên, chỉ khi con người sống tôn thờ Thiên Chúa, con người mới
sống đúng phẩm giá của mình hơn, vì “nhân linh ư vạn vật”. Chỉ khi con người
thoát ra khỏi sự ràng buộc khỏi những tham sân si, con người mới sống an bình
hơn.
Ước gì Mùa chay sẽ giúp chúng ta tìm lại đúng phẩm gía cao đẹp của
chính mình. Xin Chúa Giêsu là Đấng đã chiến thắng sự dữ nâng đỡ và giúp chúng
ta chiến thắng những cám dỗ đang đeo đuổi và ràng buộc tâm hồn chúng ta. Xin
Chúa giúp cho mỗi người chúng ta biết thanh luyện chính mình để mỗi ngày nên
hoàn thiện như cha chúng ta ở trên trời là Đấng hoàn thiện. Amen.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ
lông áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ
chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu
súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế
nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với
cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội
vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi
mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình
đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi
lăn ra mà chết.
***
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho
tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận ra những cám dỗ đang rình
rập, những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác
nên đã không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những
chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám
dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mùa quáng,
đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là
một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc,
kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm
bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy
gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan
luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ: “Người
ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ” (Mc 1,13). Đây không phải
là cám dỗ một lần thay cho một đồi, nhưng là cuộc cám dỗ triền miên trọn cả
kiếp người. Wendell Philips viết: “Kitô giáo là một trận chiến, chứ không phải
là một giấc mơ”.
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn
hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ chúng ta càng
phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng
phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy
sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: “Mọi người đều nghĩ đến chuyện
thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính mình”. Vì
chưng, có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn luôn dễ hơn
hoán cải chính mình.
***
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp
chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và
là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen.
Mở đầu những trang Thánh Kinh, chúng ta thấy trình thuật Thiên
Chúa tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài muôn vật. Đỉnh điểm của công trình tạo
dựng của Thiên Chúa đó là Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh của
Ngài. Không chỉ dựng nên giống hình ảnh mình mà thôi, Thiên Chúa còn cho con
người được ơn, được quyền sử dụng tất cả những tạo vật mà Chúa đã dựng nên ấy.
Thiên Chúa một mực yêu thương con người ngay từ những ngày đầu tạo thiên lập
địa nhưng con người, con người mãi quay lưng lại với Thiên Chúa.
Cũng ngay những chương đầu của sách Sáng Thế, chúng ta thấy Thiên
Chúa ban đầu cảm thấy vui khi tạo dựng con người. Thế nhưng, chẳng được bao
lâu, con người cứ mãi hận thù, ganh tỵ, chém giết lẫn nhau như Ca-in đã giết
A-ben em mình. Không chỉ có như vậy mà lòng con người cũng bắt đầu thay đổi.
Lòng con người không được như trước nữa mà lòng con người đã trở nên chai đá
trước tình yêu của Thiên Chúa. Sách Sáng Thế đã ghi lại: "Đức Chúa thấy
rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất, và lòng nó chỉ toan
tính những ý định xấu suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên
mặt đất, và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: "Ta sẽ xoá bỏ khỏi
mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, giống vật bò
dưới đất và chim trời, vì Ta hối hận đã làm ra chúng."(St 6, 5-7)
Giận thì giận mà thương thì thương. Thiên Chúa thấy Nôê là người
công chính nên Ngài đã thương và Ngài đã bày tỏ tình thương của Ngài với Nô-ê
và gia đình của ông.
Như sách Sáng Thế đã thuật lại, chúng ta thấy Thiên Chúa giận thì
có giận đấy nhưng mà Ngài không nỡ bỏ con người. Ngài vẫn chờ đợi sự hoán cải,
sự hối lỗi của con người.
Nhìn vào Thiên Chúa và con người, cách hành xử của Thiên Chúa và
con người chúng ta thấy rất ư là buồn cười. Con người thì cứ mãi miết đi trong
tăm tối, đi trong tội lỗi còn Thiên Chúa thì cứ mãi biểu lộ tình thương, sự tha
thứ của mình. Một trong những người cảm nhận được lượng từ bi lân tuất, tình
yêu thương hải hà của Thiên Chúa đó chính là vua Đa-vít. Vua Đa-vít hơn một lần
đã dâng lời chúc tụng Chúa, chúc tụng về tình thương bao la của Thiên Chúa:
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh!
Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
chớ khá quên mọi ân huệ của Người.
Chúa tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi,
thương chữa lành các bệnh tật ngươi.
Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt,
bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà,
ban cho đời ngươi chứa chan hạnh phúc,
khiến tuổi xuân ngươi mạnh mẽ tựa chim bằng.
Chúa phân xử công minh,
bênh quyền lợi những ai bị áp bức,
mặc khải cho Mô-sê biết đường lối của Người,
cho con cái nhà Ít-ra-en
thấy những kỳ công Người thực hiện.
Chúa là Đấng từ bi nhân hậu,
Người chậm giận và giàu tình thương,
chẳng trách cứ luôn luôn,
không oán hờn mãi mãi.
Người không cứ tội ta mà xét xử,
không trả báo ta xứng với lỗi lầm.
Như trời xanh trổi cao hơn mặt đất,
tình Chúa thương kẻ thờ Người cũng trổi cao.
Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm,
tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.
Như người cha chạnh lòng thương con cái,
Chúa cũng chạnh lòng thương kẻ kính tôn. (Tv 103, 1-13)
Thiên Chúa là Cha hay thương xót, chạnh lòng thương và chờ đợi con
người đáp trả.
Trở về với trường hợp của Nô-ê. Thiên Chúa giận, Ngài đã quyết
định số phận mọi xác phàm và rồi Ngài bảo Nô-ê chuẩn bị cho quyết định ấy. Nô-ê
tin tưởng vào lời của Thiên Chúa và ông đã thực hiện những gì Thiên Chúa bảo
ông làm. Nếu như ông không tin tưởng và không kiên nhẫn chờ đợi trong trong 150
ngày thì số phận của ông cũng như những người kia. Thiên Chúa không những cứu
sống cho đại gia đình của Nô-ê mà Thiên Chúa còn chúc phúc cho đại gia đình ấy
nữa.
Để được sống, được hưởng chúc như ông Nô-ê không đơn giản như
chúng ta nghĩ. Phải thật kiên nhẫn, phải thật tin tưởng, phải thật tín thác
cuộc đời mình trong tay Chúa. Đâu có đơn giản để sống 150 ngày lênh đênh trên
sóng nước? Phải chiến đấu, phải đối diện với biết bao nhiêu gian nan khốn khó
của cuộc đời thì gia đình của Nô-ê mới được đi vào trong vinh quang với Thiên
Chúa.
Trong thư của mình, Thánh Phêrô nhắc nhở mỗi người chúng ta về ơn
cứu độ, về sự phục sinh vinh hiển của Chúa Giêsu. Ngài viết: "Chính Đức
Ki-tô đã chịu chết một lần vì tội lỗi - Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất
lương - hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết
chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh" (1 Pr 3, 18-19). Đức
Kitô muốn vào vinh quang phục sinh với Cha của Ngài, Ngài cũng phải trải qua
nhiều đau khổ và nhất là phải đón nhận cái chết và cái chết tủi nhục trên thập
giá. Chúng ta thừa biết rằng, cuộc đời của Chúa Giêsu, từ khi sinh ra cho đến
khi chịu chết, Ngài phải chấp nhận biết bao nhiêu đau khổ.
Để thi hành sứ vụ rao giảng công khai của mình về Nước Trời, Chúa
Giêsu đã phải đối diện với biết bao nhiêu đau khổ, biết bao nhiêu là thử thách.
Để bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu đã vào hoang địa để chịu sự cám dỗ
của ma quỷ. Không đơn giản để vượt qua những cám dỗ đó dẫu đó là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu cũng mang trong mình phận của một con người yếu đuối, mỏng dòn, cũng
biết cảm thương, cũng biết giận, biết hờn ... Chúa Giêsu cũng có trong mình cảm
nghĩ về sự đau khổ, về sự thử thách mà chúng ta đã từng được nghe Thánh Kinh
thuật lại. Chúa Giêsu cầu xin với Chúa Cha là cất khỏi Ngài chén đắng mà Chúa
Cha trao ban nhưng xin đừng theo ý của Ngài nhưng là theo ý Cha. Với tâm tình
đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng quá vất vả, quá khó khăn khi đối diện với ma
quỷ, với cám dỗ. Thế nhưng, chung cuộc, kết cục của cơn cám dỗ mà ma quỷ đưa ra
đó Chúa đã thắng.
Tại sao Chúa đã thắng được những cơn cám dỗ của ma quỷ? Chúa đã
sống kết hợp mật thiết với Cha, Chúa đã cầu xin Chúa Cha ban ơn cho mình và đặc
biệt Chúa Giêsu đã hoàn toàn tin tưởng và phó thác cuộc đời mình trong tay của
Cha. Hơn một lần chúng ta nghe Chúa Giêsu thỏ thẻ với Cha: "Lạy Cha! Nếu
có thể được xin Cha cấy cho con khỏi chén này nhưng xin theo ý Cha chứ đừng
theo ý con". Qua câu thỏ thẻ ấy, chúng ta thấy tâm tình của Chúa Giêsu như
thế nào. Chúa Giêsu cũng như mỗi người chúng ta, Ngài phải đón nhận những cơn
cám dỗ của cuộc đời nhưng Ngài đã thắng.
Bước vào Mùa Chay Tịnh, chúng ta bước vào hoang địa với Chúa Giêsu
để sống thời gian đặc biệt: Thời gian sám hối.
Đừng như một số người suy nghĩ về cuộc đời họ thường nói là
"kệ nó! tới đâu thì tới!" hay là "sao cũng được!". Nếu nghĩ
như thế, nếu nói như thế thì chẳng còn gì phải bàn, phải bận tâm nữa. Cuộc đời
con người mau qua chóng tàn, nay còn mai mất. Mất và tàn ấy không phải là
chuyện của chúng ta mà là của Thiên Chúa. Và nếu như người khôn ngoan thật thì
luôn luôn hướng đến ngày mau qua chóng tàn ấy để cân chỉnh cuộc đời của mình
cho tốt hơn.
Chúa luôn luôn chờ đợi, Chúa luôn luôn bao dung tha thứ. Phần
chúng ta là ăn năn sám hối, sửa đổi cuộc đời.
Mùa Chay là mùa thuận tiện, mùa cơ hội để chúng ta hồi tâm quay về
với Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Nguyện xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót thương mở rộng vòng
tay ra để ôm chầm chúng ta là những con người tội lỗi biết quay về với Chúa.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúng ta đang ở trong Chúa Nhật thứ nhất mùa chay. Giáo Hội giúp
chúng ta cảm nhận tình yêu Thiên Chúa với chúng ta qua việc nhìn ngắm Đức Giêsu
sống thân phận con người.
I. Cám dỗ nơi con người và nơi Đức Giêsu
Đức Giêsu mà cũng bị cám dỗ sao?
Ngài chấp nhận sống với dã thú sao?
Là người, nghĩa là, với thể xác và tinh thần, con người luôn có
thể bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về điều này.
Cám dỗ là khuynh chiều đòi thỏa mãn những đòi hỏi của thân xác và
của tinh thần, không muốn đáp trả tiếng gọi từ trên. Chẳng hạn người ta nhận
thấy nơi mình những đòi hỏi của thân xác về tính dục hay khuynh hướng muốn mình
giầu hơn người khác, hoặc những đòi hỏi của tinh thần muốn mình trổi trang hơn
người khác...
Khuynh chiều đi tìm và dừng lại nơi danh lợi tiền bạc địa vị,
không muốn vươn lên điều tốt hơn nhưng dừng lại ở cái tầm thường, đó là những
cám dỗ thường xảy ra trong đời mỗi người.
Muốn trổi trang, không là tội, nhưng còn là điều tốt. Chỉ xấu, chỉ
là tội, khi mình coi mình là nhất, đòi mình trên người khác hoặc trên Thiên
Chúa, và xúc phạm người khác.
Không ai thoát cám dỗ, nhưng con người tự do trước cám dỗ, con
người có thể không thuận theo cám dỗ. "Ví thử đường đời bằng phẳng cả, anh
hùng hào kiệt có hơn ai?". "Ơn Ta đủ cho con" (2Cor.12, 8-9).
Chúa không hứa cho chúng ta khỏi bị cám dỗ, nhưng Chúa hứa sẽ giải
phóng chúng ta, nếu chúng ta bám vào Ngài: "cứ xin thì được, tìm sẽ gặp,
gõ cửa thì sẽ được mở cho" (Mt.7,7).
Thiên Chúa là tinh thần, Ngài mời gọi con người vươn lên Ngài qua
những giá trị tinh thần con người thấy được qua lý trí.
II. Phép rửa khởi đầu đời sống mới
Dù chúng ta có thuộc về thế gian và ma qủy trong những chọn lựa ở
qúa khứ, thì bây giờ Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở lại, để chúng ta khởi đầu
một đời sống mới, hầu chúng ta sống hạnh phúc.
Đức Giêsu đã chịu phép rửa ở sông Yordan (Mc.1, 9), và Ngài cũng
đã chịu một phép rửa rất đặc biệt (Lc.12, 50). Mỗi người chúng ta cũng đã chịu
phép rửa nhân danh Đức Giêsu, nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa (Mt.28, 19), chính
phép rửa này đã làm chúng ta thành một thụ tạo mới.
Phép rửa đã làm chúng ta thuộc trọn về Thiên Chúa, chúng ta là tạo
vật mới, được được Thiên Chúa cứu chuộc qua Đức Giêsu Kitô. Nhận phép rửa nhân
danh Đức Giêsu, là dìm mình trong cái chết của Ngài và sống lại trong sự sống
của Ngài.
Với phép rửa, Thiên Chúa ghi ấn tín trong tâm hồn chúng ta, dấu
chỉ chúng ta thuộc về Thiên Chúa, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.
III. Giao ước biểu lộ tình yêu của Thiên Chúa
Con người là gì mà Thiên Chúa phải ký kết giao ước với! Chẳng lẽ
người nặn bình gốm lại phải ký kết với bình gốm?
Thiên Chúa ký kết giao ước với con người, để không bao giờ tiêu diệt
con người nữa! Ôi tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật tuyệt vời biết
bao. Những gì Thiên Chúa đã nói, thì Ngài trung thành thực hiện, không bao giờ
thất tín. Ngài vẫn trung thành dù con người có bất trung phản bội.
Tình thương của Thiên Chúa đối với con người, được thể hiện trong
suốt dòng lịch sử. Lịch sử ghi dấu con người phản bội, nhưng lịch sử lại ghi
dấu tình thương nhân từ tha thứ cho con người. Lịch sử, là lịch sử Thiên Chúa
cứu độ con người.
Lịch sử đánh dấu những giao ước Thiên Chúa thực hiện đối với con
người. Lịch sử cũng cho thấy Thiên Chúa điều khiển dòng lịch sử, can thiệp vào
lịch sử dân Do thái để cứu dân, và qua đó cứu độ tất cả loài người.
Biến cố Đức Giêsu Kitô, là biến cố đỉnh cao cho thấy tình yêu của
Thiên Chúa đối với con người. Cũng với chính Đức Giêsu, con người tìm được con
đường để nên thánh, con người được bảo đảm mình được yêu thương và sẽ là thánh,
được thuộc trọn về Thiên Chúa.
Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể làm người. Ngài bị cám dỗ, Ngài
vượt qua, "Ngài là đường, là sự thật và là sự sống". Ngài là thầy, và
không có Ngài, không có ai là thầy đích thực. Nếu có ai trên trần gian này là
thầy, là người đó được tham gia "chức thầy" của Đức Giêsu.
Chúa Giêsu là mẫu mực, là thầy dạy của chúng ta. Chúng ta hãy xin
Chúa cho chúng ta được theo gương Ngài, được hoàn toàn tin tưởng và phó thác
tất cả cho Ngài.
Sau khi chịu phép Rửa, Đức Giêsu được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đi
vào hoang địa, ở đó Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ nhưng Ngài đã chiến thắng.
Chúa Giêsu đi vào hoang địa là ý muốn của Thiên Chúa, có Chúa Thánh Thần hướng
dẫn. Chúa Giêsu không bao giờ hành động một mình mà luôn có Chúa Cha và Chúa
Thánh Thần cùng hiện diện trong hoạt động của Chúa Giêsu.
Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu chịu ma quỷ cám dỗ? Đây là dịp cho
chúng ta thấy thêm ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm nhập thể nơi Đức Giêsu. Đức
Giêsu vốn là Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người và tệ hơn nữa là làm một
người nghèo cô thế cô thân, không có một ngôi nhà đàng hoàng ấm cúng để sinh
ra, rồi lại phải sớm chạy nạn trốn sang Aicập để tránh hoạ sát thân.
Khi hoà nhập vào dòng người tội lỗi đang bước xuống dòng sông
Gioa-đan để chịu thanh tẩy mình bởi phép rửa của Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã
tự đồng hoá mình với những con người tội lỗi trong thế gian dù Ngài chẳng có
tội tình gì.
Hôm nay Chúa Giêsu chịu cám dỗ là Ngài đứng trong thân phận con
người để cùng với con người Ngài cũng chịu cám dỗ để đồng thân phận với con
người tro bụi, mỏng dòn yếu đuối, dễ thay đổi, dễ sa ngã. Nhưng có một điều
khác là con người chúng ta thì dễ sa ngã truớc cám dỗ; còn Chúa Giêsu đã mở môt
con đướng mới: đó là Ngài đã chiến thắng cám dỗ nghĩa là chiến thắng ma quỷ.
Ma quỷ vốn là tên cám dỗ đã có mặt trong lịch sử, đã gieo mầm tội
lỗi nơi con người và nó vẫn còn họat động mạnh mẽ trong nhân loại nhưng nay tên
cám dỗ đã bị Chúa Giêsu đánh gục, và trong tương lai nó vẫn còn tiếp tục thất
bại dài dài.
Chiêm ngưỡng hành động của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta hay dâng
lên Chúa tâm tình vui mừng và lời cảm tạ vì tình thương lớn lao Chúa đã dành
cho nhân loại tội lỗi chúng ta. Trong thân phận con người Chúa Giêsu đã không
ngừng đi sâu vào mầu nhiệm nhập thể mỗi ngày một triệt để hơn, để cảm thông, để
yêu thương, để mở đường cho con người đi về cùng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã
chiến thắng tên cám dỗ, bước theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng phải hạ tên cám dỗ
như Thầy của mình.
Ngoài tâm tình tạ ơn, chúng ta còn phải học nơi Chúa bài học chiến
thắng những cám dỗ của ma quỷ. Trong đời sống con người, chúng ta phải đối diện
với vô vàn những cám dỗ lúc nào cũng vây quanh chúng ta với nhiều hình thúc
khác nhau có khi còn rất tinh vi, có khi cám dỗ được nguỵ trang kín đáo bằng
một việc xem ra hoàn toàn tốt đẹp kiến chúng ta không thể nhận ra được đó là
một cám dỗ của ma quỷ. Những cám dỗ đó có thể là miếng ăn, tấm áo, có thể là
danh vọng quyền lực hay là tiền bạc, cũng có thể là một thứ tình cảm nào
đó....Cám dỗ thì vô vàn vì đó là việc làm của ma quỷ mà, nó phải ra sức làm
việc để lôi kéo con người về phía nó, để những ai nghe theo chúng thì sẽ dần
dần xa lìa Thiên Chúa và thuộc trọn quyền của ma quỷ.
Chúng ta phải làm gì đây? Phải đề cao cảnh giác, phải nghe Lời
Chúa và Hội Thánh dạy trong Mùa Chay là hãy thường xuyên chay tịnh, hãm mình ép
xác, nhìn nhận thân phận mòng giòn yếu đuối, dễ sa ngã, dễ phạm tội của chúng
ta; làm thế không phải để mạc cảm nhưng để ý thức rõ về mình để bám chặt vào
Chúa hơn. Siêng năng lãnh nhận các bí tích nhất là bí tích Giải tội và Thánh
Thể, làm các việc lành phúc đức, đem Lời Chúa thực hành trong đời sống để múc
lấy sức mạnh từ trên cao hầu chiến thắng mưu mô của tên cám dỗ.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Tháng Ba năm 1976, người ta chở Má từ nơi quản thúc tại gia ở Cây
Vông đến nhà biệt giam Nha Trang… Má bị đưa vào ở trong một căn phòng giam nhỏ
không cửa sổ, ngột ngạt, dưới chân tường chỉ có một lỗ nhỏ để thông hơi. Má
thường nằm xuống đất để mũi gần đó và thở. Vài tuần sau Bảy cũng bị bắt đưa vào
phòng biệt giam, cách Má bức tường ngăn. Ban đầu hai phòng hoàn toàn cách biệt,
nhưng về sau người ta cho đục một cửa sổ nhỏ giữa bức tường ngăn cách, và có
lệnh cấm Má và Bảy không được liên lạc với nhau qua nơi này…
Một ngày nọ qua cửa sổ, Má bảo Bảy:“Má và Bảy không biết sống chết
ra sao. Má có thể ra đi bất cứ lúc nào! Má xin Bảy cho Má một ân huệ được
không?” “Má cứ tự nhiên, con có thể làm gì để giúp Má?” Bảy đáp. “Má muốn tĩnh
tâm ba mươi ngày, nhờ Bảy giảng cho Má.” “Má nói sao? con giảng tĩnh tâm cho
Má? Con làm gì có đủ khả năng giảng cho Má. Chính Má giảng cho con chứ?” Bảy
ngạc nhiên vô cùng và tưởng chừng mình nghe lầm nên hỏi lại. “Bảy cứ làm theo ý
Má đi. Vì đây là ân huệ Má xin.” Má ôn tồn và nhỏ nhẹ bảo… “Má nói vậy thì con
xin khiêm tốn vâng lời Má.” Bảy đáp lại. Thế là mỗi ngày Bảy giảng cho Má ba
bài, bắt đầu từ lúc Chúa Giêsu sinh ra, sống cuộc đời ẩn dật và công khai rao
giảng Tin Mừng, đối đáp lại những bắt bẻ của người Do Thái, dạy dỗ, kể dụ ngôn
và làm phép lạ, đến lúc bị bắt, chất vấn, sỉ nhục, đánh đập, con đường khổ nạn
và chết trên thập giá, rồi vinh hiển sống lại và hiện ra cho các tông đồ nhiều
lần, trước khi về trời gởi Thánh Thần xuống. Mỗi bài giảng kéo dài từ hai mươi
đến ba mươi phút, sáng trưa chiều. Sau đó Bảy còn kéo thêm được bài thứ tư vào
buổi tối trước khi ngủ. Cứ vào những giờ giấc cố định Bảy đến bên cửa sổ, phía
bên kia Má đã đứng chực đó từ lúc nào rồi. Má chăm chú lắng nghe các bài giảng,
sau mỗi bài Má đều góp ý rồi cả hai cùng hát thánh ca có khi bằng tiếng Việt,
hoặc La Tinh và Má dâng lời cầu nguyện kết thúc. Mỗi ngày lúc ba giờ chiều là
giờ tử nạn của Chúa Giêsu, Má dâng thánh lễ với ba giọt rượu và một giọt nước
trong lòng bàn tay với mẫu bánh nhỏ được bẻ vụn ra. Bên kia bức tường của phòng
giam Bảy cũng làm như thế… Cuộc tĩnh tâm linh thao theo phương pháp thánh
Ignatiô Loyola của Má kéo dài đúng một tháng… (Nguyễn Hồng Phúc, Câu chuyện của
Má và Bảy)
ĐGM Fx Nguyễn Văn Thuận (Má) đã mời Lm Giuse Nguyễn Quang Thạnh
(Bảy) giảng cấm phòng cho ngài, để chuẩn bị cuộc lữ hành gian lao ròng rã 13
năm. Ngài noi gương Thầy Giêsu vào sa mạc 40 ngày đêm, chịu Satan cám dỗ, sống
giữa loài dã thú, chay tịnh cầu nguyện, chuẩn bị đi gieo Tin Mừng.
Hoang địa
Sau khi vào hoang địa 40 ngày đêm chay tịnh, Đức Giêsu vẫn còn
luôn ra nơi hoang vắng để cầu nguyện trong suốt thời công khai rao giảng. Hiện
nay, trong cuộc sống ồn ào, xô bồ hiếm khi được thực sự hưởng những giây phút
im lặng. Có lẽ vì người ta đâm ra sợ hãi sự thinh lặng, tránh né nỗi cô đơn,
không dám đối diện chính mình, nên luôn thích sống trong không gian ô nhiễm
tiếng ồn. Tuy nhiên tĩnh lặng lại rất cần thiết cho tâm hồn thư giãn, tái lập
quân bình. Cũng như một bản nhạc luôn cần có những dấu lặng thiết yếu, để thay
đổi, chuyển sang giai điệu, tiết tấu, hòa âm, lời ca, ý nhạc mới.
Trong Thánh Lễ, có những khoảng lặng quan trọng trước kinh Cáo
Mình, sau khi nghe Lời Chúa và Hiệp lễ. Đó là những giây phút nhìn lại mình,
suy niệm Tin Mừng và tâm tình cùng Thánh Thể. Tất cả sự thinh lặng đó tựa như
không gian thông thoáng, tĩnh mịch của hoang địa, bỏ qua, quên đi những vướng
mắc, bận tâm đến thân xác, thế gian, cám dỗ phù phiếm, để có thể gần gũi, cầu
nguyện, tâm sự với Chúa.
Ngoài ra, ai cũng có thể tận dụng những giây phút trước khi ngủ,
hay khi vừa thức dậy để vào hoang mạc tâm hồn. Xét mình, ăn năn, sám hối và tâm
tình với Chúa hằng ngày.
Chay tịnh
Theo nghĩa phổ thông, chay tịnh là giữ mình sạch sẽ, thanh khiết
qua việc kiêng ăn thịt động vật, chỉ dùng rau quả cùng các sản phẩm thực vật,
và nhất là qua việc giữ tâm hồn yên tĩnh, vô ưu, không vương vấn tham, sân si,
lục dục, thất tình. Theo Kitô giáo, chay tịnh tuy cũng có sắc thái tương tự,
nhưng kèm thêm ý nghĩa tích cực hơn nữa, là hy sinh, hãm mình, ăn năn, sám hối,
xả kỷ vị tha, yêu thương và phục vụ tha nhân, hòa giải, bác ái từ thiện.
Chay tịnh là thoát ra khỏi sự chế ngự, kiềm hãm của thân xác, của
bản năng, của cái tôi nhỏ mọn, vị kỷ, để hướng thượng, nâng hồn lên với Thiên
Chúa, để hướng ngoại với tha nhân. Đó là hành vi bày tỏ lòng khiêm cung, niềm
hy vọng và tình yêu trước Thiên Chúa và tha nhân.
Chay tịnh để hướng về Chúa với một thái độ lệ thuộc, phó thác hoàn
toàn, trước khi khởi đầu một nhiệm vụ khó khăn, hay nài xin tha thứ tội lỗi đã
vấp phạm, để mở lòng đón nhận ánh sáng Thiên Chúa, xin ơn cần thiết hầu hoàn
thành sứ vụ.”Đaniel đừng sợ, bởi ngay từ hôm đầu, khi ngươi đem hết lòng tìm
hiểu và ăn chay hãm mình trước nhan Thiên Chúa của ngươi, thì Thiên Chúa đã
nghe những lời ngươi nói, và chính vì những lời ấy mà ta đến.” (Đn 10, 12)
Cầu nguyện
Khi giữ chay tịnh thật sự thì mới có thể thành tâm cầu nguyện, như
Thánh Phêrô khuyên nhủ. “Anh em hãy sống chừng mực và tiết độ để có thể cầu
nguyện được.” (1Pr 4, 7) Mặc dù đã tràn đầy Chúa Thánh Thần khi vào hoang mạc,
Đức Giêsu vẫn siêng năng cầu nguyện sớm tối, hầu nhận được hồng ân, Thánh Ý từ
Thiên Chúa Cha.
Người dạy các môn đệ cách thức cầu nguyện khiêm tốn, kín đáo và
chân thành. “Khi cầu nguyện hãy vào trong phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện
cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt
những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” (Mt 6, 6) Hơn nữa, Người còn ban cho
các môn đệ Kinh Lạy Cha, một mẫu mực hoàn chỉnh để cầu nguyện.
“Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện
con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát
điện.” (Đường Hy Vọng, số 120)
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn chúng con vào hoang mạc hằng ngày,
qua những phút thinh lặng, cô đơn, để hãm mình, hy sinh và cầu nguyện với Chúa
luôn.
Lạy Mẹ Maria, suốt cuộc đời Mẹ là chuyến lữ hành âm thầm, chay
tịnh và cầu nguyện, luôn kết hợp tâm tình với Chúa Giêsu, Con Mẹ, để lắng nghe
và thực hành Thánh Ý Chúa. Kính xin Mẹ chỉ dạy, hướng dẫn, giúp đỡ chúng con
noi gương Mẹ hy sinh hãm mình và cầu nguyện với Chúa luôn. Amen.
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Người đã đến rao giảng cho các vong linh bị
giam cầm (1 P3, 19)
Sự thương hại mang dáng dấp giống như lòng thương xót, nhưng thật
sự hoàn toàn khác nhau. Nhiều phật tử còn coi sự thương hại như là kẻ thù của
lòng xót thương chân thật. Sự thương hại nhìn từ bên ngoài, dễ khiến chúng ta
ngộ nhận, dễ bị đồng hòa với những rung cảm sâu tận từ con tim. Sự thương hại
xảy ra khi nhìn thấy một người bị đau khổ, nhưng chúng ta chỉ đứng ngoài cuộc
để bàng quan nhìn vào những khổ đau đó như một người hoàn toàn xa lạ. Nhiều khi
chúng ta còn thốt lên “ Cám ơn Chúa, rất may là tôi không gặp những bất hạnh
giống như thế’’.
Nhưng sự thương xót chân thật thì trái ngược lại. Nó đặt nền tảng
trên tình yêu chân thành. Nó lôi kéo chúng ta đến với những người đau khổ, đồng
hành với họ, cảm thương họ, và chia sẻ với họ về những thống khổ họ đang gánh
chịu. Tín hữu phật giáo diễn tả sự thương xót đó bằng thuật ngữ Karuna, có
nghĩa là “ Mang chở nơi mình một con tim biết rung động”. Trong Tân ước, chúng
ta cũng gặp hạn từ Splanknizomai, nghĩa là “ Cảm thấu đến tận ruột gan” trước
nỗi khổ đau của kẻ khác. Sự thương xót mời gọi chúng ta đi vào chiều sâu, biết
cảm thông và biết sẻ chia một cách sâu xa trong chính trạng huống thực sự của
cuộc sống con người.
Sự đồng cảm đó là một sợi dây vô hình gắn kết con người lại với
nhau. Ví dụ khi chúng ta đang gặp đau khổ, tâm hồn bị bầm dập và tan nát, có
một ai đó đã quảng đại, sẻ chia và thông sự vào chính đời sống chúng ta một
cách cụ thể. Hoặc ngược lại, có bao giờ chúng ta đã trải nghiệm việc đồng cảm
và chia sẻ thực sự với những đớn đau của người khác? Làm sao chúng ta có thể
xem nỗi khổ của người khác như là nỗi đau của chính mình để thực sự biết thương
cảm một cách sâu xa.
Tin mừng hôm nay kể lại biến cố Đức Giêsu lui vào hoang địa và ở
đó 40 ngày, trước khi khởi sự sứ vụ rao giảng công khai. Marcô diễn tả sự kiện
này chỉ với 2 câu giản đơn “ Thần khí đẩy Ngài vào hoang địa. Người ở đó 40
ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Ngài.” Nhìn nơi Đức Giêsu, Đấng được Thần khí đưa vào sa mạc, chịu sự tấn công
của Satan, và sống giữa loài dã thú, giữa những con vật khủng khiếp nhất, đáng
sợ nhất, chúng ta cảm nhận ra đó là một thân phận rất bi thương trong kiếp
người. Cuộc sống của Ngài 40 ngày trong sa mạc đã không còn là cuộc sống của
chính Ngài nữa.
Bài đọc hai hôm nay trích trong thơ thứ nhất của Thánh Phêrô tông
đồ gửi đến các Kitô hữu mới được lãnh nhận phép rửa. Trong đoạn văn này, thánh
nhân diễn tả cái chết của Đức Kitô như là phương cách chuộc tội cho con người,
và cơn đại hồng thủy năm xưa là một hình ảnh tiên báo ( bài đọc 1). Trận lụt
phác vẽ trước hình ảnh của bí tích rửa tội, và chính qua giếng rửa tội chúng ta
được cứu chuộc. Thánh Phêrô còn nói thẳng thừng một điều xem ra rất khó hiểu:
Ngài đã đến rao giảng cho các vong linh bị giam cầm (1P 3,14), tức là những con
người trước đây đã phạm tội vì bất tuân phục. Tôi không có ý cắt nghĩa bản văn
theo nghĩa đen của từng câu từng chữ, giống như chúng ta vẫn thường tuyên tín
trong kinh Tin Kính, “sau khi chết, Người xuống ngục tổ tông đem các thánh lên
thiên đàng”, hoặc cũng phản ánh một điều mà Đức Giêsu đã nói trong bài giảng
trên núi. Tôi muốn mời gọi chúng ta hãy nhìn lên Con người Chịu- Đóng-Đinh,
Đấng đã đem sự hiện diện cứu độ của Ngài đến những vùng tối tăm nhất của phận
kiếp con người. Sheol hay cõi “lâm bô” như được nói đến trong cựu ước, được
trình bày như là một thế giới mênh mông ngập trong nước, nơi không còn hy vọng,
nơi không có sự sống và không có cả Thiên Chúa. Đức Giêsu đã sẻ chia kinh nghiệm
của chính Ngài. Với tình yêu giải thoát, Ngài đã đi vào thế giới con người,
xuống tận vực thẳm ngập sâu trong tối tăm của kiếp sống làm người.
Vào Chúa nhật thứ nhất mùa chay, chúng ta được mời gọi để cử hành
suốt thời gian này để đi vào sự thương cảm với anh chị em đồng loại. Tức là
chúng ta phải tiến sâu vào thân phận con người để nhìn ra những khổ đau, những
bầm dập và cay đắng, hầu biết diễn bày lòng thương xót sâu xa, và để con tim
chúng ta luôn biết rung động. Ba hình thái theo truyền thống của mùa chay là
cầu nguyện, chay tịnh và bố thí sẽ giúp chúng ta bắt đầu mùa chay thật ý nghĩa.
Chúng ta cầu nguyện để thông hiệp sâu xa hơn với Đấng đã đem chúng ta vào hiện
hữu, và lôi kéo chúng ta đến với tình yêu vô tận của Ngài. Chúng ta thực hành
việc chay tịnh để cảm thông với 2 triệu người trên thế giới đang đói, đang khát
vì chẳng có cái gì để ăn. Chúng ta giang rộng đôi tay bố thí để giải thoát
chúng ta khỏi sự keo kiệt ích kỷ, hầu chúng ta được liên đới chặt chẽ hơn với
những người đang cần đến chúng ta.
Mùa chay là thời gian đặc biệt để giúp chúng ta ý thức, đồng thời
khơi dậy nơi chúng ta lòng thương cảm sâu xa. Đây là thời kỳ mà Giáo hội gọi
mời chúng ta phải tiến sâu hơn, đi vào sự chia sẻ đồng phận trong kiếp người,
với những ai đang gặp khổ đau, để với một tình yêu chân thành, chúng ta biết
sống chan hòa, và con tim chúng ta biết rung động trước những khổ đau của anh
chị em mình.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Hôm nay Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào hoang địa, nơi tứ bề
yên tĩnh, vắng vẻ, hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt, ngày nóng đêm lạnh, môi
trường chẳng thân thiện, chỉ có dư giả nắng và gió, cùng thú dữ tình rập đe
dọa.
Chúa vẫn thường hay đi ngược dòng đời thực dụng, thay vì mời gọi
chúng ta nghỉ dưỡng tại bãi biển nắng ấm, hay lên cao nguyên mát mẻ, lại muốn
chúng ta đồng hành với Người đến chỗ khô chồi, cằn cỗi, cùng hứa hẹn bao nguy
hiểm bất ngờ. Nhưng đấy lại là yêu cầu chính đáng để chúng ta có thể trở nên
môn đệ chân truyền của Người.
Chính trong hoang mạc cô đơn, thoát ra khỏi môi trường quen thuộc,
khỏi đám đông xô bồ, con người mới có dịp đối diện với chính bản thân, mới có
cơ hội nhìn lại, tự kiểm, xét mình. Đây là giờ phút phản tỉnh, một bước dừng
trong cuộc sống hối hả, tất bật mưu sinh, quay cuồng với dục vọng, ham muốn,
hay say sưa chức tước bổng lộc, tựa như một dấu lặng trong bản nhạc, để thăng
hoa cuộc sống thêm ý nghĩa.
Đồng thời, nơi đây mỗi người còn phải đối mặt với các cuộc chiến
trường kỳ và ác liệt, phải chiến đấu với môi trường nghiệt ngã, chiến đấu với
bản năng sinh tồn, chiến đấu với cám dỗ xác thịt, chiến đấu với đam mê, dục
vọng, do ma quỷ ra sức khêu gợi, dụ giỗ. Dẫu vậy, đây cũng là cơ hội may mắn,
nếu thành tâm tìm đến nương tựa bên Người Cha Nhân Lành, để được nâng đỡ, an ủi
và chúc phúc.
Tiếc thay, mang tiếng xét mình, nhưng ta lại kiêu căng, tự phụ, cứ
nhiệt thành xét tội người khác, đổ vấy bao lỗi lầm, tội lỗi lên đầu thiên hạ,
còn mình chẳng thấy có chút tỳ vết gì. Mang tiếng ăn năn sám hối, nhưng lòng ta
vẫn tôn thờ cái tôi vĩ đại, cứ mãi manh nha, toan tính dối gian, đắn đo bao lẽ
hơn thiệt. Tưởng chừng mau mắn tìm đến Thánh Ý, hóa ra toàn là đi tìm tà ý!..
Từ xa xưa, ngôn sứ Giô en đã tha thiết kêu gọi dân Israel trở về
với Chúa, cũng không ngần ngại lật tẩy cái thói đạo đức giả hình: “ Đây là sấm
ngôn của Đức Chúa: Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta,
hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng!
Hãy trở về cùng Đức Chúa, là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Ngài từ bi và nhân hậu,
chậm giận và giàu tình thương... (Ge 2, 12-13)
Có lẽ chẳng cần đi đâu xa xôi, mà vẫn có thể vào hoang địa. Hằng
ngày cứ sốt sắng dành chút thời gian với Chúa Giêsu, ngay trong căn phòng vắng
lặng, trước giấc ngủ khuya, hay sáng sớm tinh mơ vừa tỉnh giấc, để kiểm điểm,
sám hối và tin vào Tin Mừng. Tiếng Chúa chắc chắn sẽ vang vọng trong tâm hồn,
mỗi khi thành tâm chạy đến cùng Ngài.
“Thinh lặng bên ngoài, nhất là thinh lặng bên trong là bầu khí của
cuộc sống nội tâm.” (ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 86)
“Mỗi ngày dành riêng ít phút thinh lặng để giúp đời nội tâm tiến
lên. Lâu nay con để dành mấy phút?” ( ĐHY Fx Nguyễn Văn Thuận, ĐHV, số 98)
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, xin dẫn dắt con vào hoang địa, để con
biết ăn năm, sám hối, thanh tẩy, hầu nhận biết được Thánh Ý nhiệm mầu trong
cuộc sống của con.
Lạy Mẹ chí thánh, xưa kia Mẹ đã đồng hành cùng Chúa trong suốt 33
năm, xin nhắc con hằng ngày vào hoang địa, để con chừa bỏ tội lỗi yếu đuối, mà
nhận lấy bao hồng ân Chúa luôn sẵn lòng thương ban. Amen.
(Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường)
Cuộc đời rao giảng nơi trần thế của Đức Kitô cho thấy sự khác biệt
rõ ràng giữa thần lành và thần dữ. Thần lành hướng dẫn Đức Kitô vào hoang địa
chuẩn bị cho cuộc đời rao giảng công khai. Trái lại thần dữ rình rập tìm cơ hội
cám dỗ Đức Kitô nơi hoang địa. Còn một thần nữa Kinh Thánh không nhắc đến đó
chính là thần khí của Đức Giêsu. Kinh Thánh dường như không phân biệt sự khác
biệt giữa Thần Khí Thiên Chúa và Thần Khí của Đức Kitô nhưng thường dùng chung,
hoán đổi cho nhau.
Trong bài giảng đầu tiên nơi hội đường, người ta đưa cho Đức Kitô
sách thánh, Ngài mở ra đúng đoạn tiên tri Isaiah nói về Ngài.
Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi (Lc 4,18)
Sách tiên tri Isaiah chương 62,1-2 tiên đoán về cuộc đời rao giảng
của Đức Kitô trong đó nhấn mạnh đến việc
Ngài đến để mang Tin Mừng đến cho người nghèo khó, giải thoát kẻ
bị giam cầm, cho người mù sáng mắt, giải thoát kẻ bị đoạ đầy và công bố năm
hồng ân của Thiên Chúa.
Sứ mạng của Đức Kitô được hiểu một là ích lợi về phần xác và hai
là ích lợi phần tâm linh. Đức Kitô mang thân phận con người như chúng ta nên
con tim Ngài cũng có cảm giác như chúng ta cảm nghiệm. Con tim Ngài cũng biết
đau khổ, sợ sệt khi đối đầu với thập giá. Con tim Ngài cũng quằn quại, dằn vặt
trước bất công của xã hội, đè nén, chèn ép con người dành cho nhau. Con tim
Ngài cũng thấm cảnh con người hành hạ con người, mệt mỏi khó khăn của kẻ tìm
công việc. Con tim Ngài cũng biết chán nản, biết mệt mỏi khi phải mong chờ.
Những lúc như thế Ngài thường tìm nơi thanh vắng tâm sự cùng Chúa Cha. Con tim
Ngài cũng rung động khi ban phát tình yêu và vui mừng đón nhận yêu thương và
những lúc như thế Ngài trở về hoang địa tâm hồn, tìm nơi thanh tịnh cảm tạ Chúa
Cha. Vì thế để hiểu tâm tình của Đức Kitô chúng ta cũng cần có con tim biết cảm
thông của Ngài. Để biết được tâm tình của Thiên Chúa Cha chúng ta cần biết tâm
tình của Đức Kitô. Để trở thành môn đệ trung tín của Đức Kitô chúng ta cần tìm
nơi thanh vắng tâm sự cùng Đức Kitô.
Về phương diện tâm linh Đức Kitô công bố năm hồng ân của Thiên
Chúa và kêu gọi con người thống hối và tin vào Tin Mừng Mc 1,15.
Hành trình thống hối gặp khó khăn, chống đối mãnh liệt từ thần dữ
vì thống hối chính là từ bỏ đường lối sống của thần dữ để trở thành con cái sự
sáng. Thần dữ coi việc từ bỏ này là hành động phản bội lại chúng và chúng sẽ
tìm mọi cách để cám dỗ và nếu cần phải tiêu diệt kẻ phản bội chúng sẽ không
ngần ngại. Vì thế hành trình thống hối luôn gặp khó khăn, nội chiến trong tâm
hồn xảy ra. Bao nhiêu tư tưởng ma quỷ đưa ra khiến ta ngập ngừng, tìm cơ hội
kéo dài thời gian quyết định mong ta dùng giằng trước ngã ba hầu mệt mỏi, buông
xuôi theo con đường ma quỷ muốn ta đi theo. Quyết tâm đầu tiên trong hành trình
thống hối là tiến vào sa mạc, nơi thanh vắng, chỗ không người đề tâm hồn được
an nghỉ. Chính nơi đó ta nghe tiếng mời gọi của Thiên Chúa rõ ràng hơn, mạch
lạc hơn, trong sáng hơn bởi thế sa mạc tâm hồn là nơi ta tìm được tiếng Thiên
Chúa và tình yêu Chúa.
Đức Kitô không cần thống hối, không cần vào sa mạc nhưng Ngài tự
nguyện vào sa mạc để chỉ cho con người con đường thống hối, con đường sa mạc.
Chính nơi đó Ngài gặp Chúa Cha nhưng vừa bước chân ra khỏi samạc ma quỷ đã chờ
sẵn để cám dỗ. Đức Kitô dùng Lời Chúa đáp trả chúng và chúng đã thua. Chúng ta
cũng cần học hỏi Lời Chúa để đáp trả ma quỉ khi chúng đến cám dỗ. Thống hối
thật cần đi chung với Lời Chúa, không có lời Chúa đi kèm không có thống hối
thật sự vì tự chúng ta không đủ sức chống lại cám dỗ của ma quỉ.
Có sự khác biệt giữa thần khi của Đức Giêsu trần thế và thần khi
của Đức Kitô Phục Sinh. Thần khi nơi trần thế của Đức Giêsu nhấn mạnh đến con
tim yêu thương của Thiên Chúa; Thần Khí của Đức Kitô Phục Sinh nhấn mạnh đến
việc làm cho vinh quang Thiên Chúa rạng rỡ hơn. Vì thế khi nhắc đến Đức Kitô
Phục Sinh là nhắc đến vinh quang, khải hoàn, chiến thắng và triều thiên vinh
hiển nơi thiên quốc. Nhắc đến thần khí Đức Giêsu trần thế là nhắc đến tâm tình
yêu thương, tha thứ và bác ái, từ bi, nhẫn nại.
Có người ăn chay nhưng không hãm mình.
Có người hãm mình nhưng không ăn chay.
Có người vừa ăn chay vừa hãm mình.
Có người không chay cũng chẳng hãm.
Ăn chay và hãm mình thuộc về tâm hồn, nội tâm. Thực tâm đến mức
nào chỉ mình mình biết, mình mình hay. Ăn chay hãm mình thật phải là việc làm
tự nguyện, thành tâm và làm với lòng mến. Ăn chay thực cần đi đôi với hãm mình.
Thiếu hãm mình không thể nào là ăn chay vì bản chất của chay tịnh là tự chế, tự
chủ. Tuy nhiên không phải tất cả các tự chế, tự chủ đều là ăn chay. Do vậy
người ta có thể hãm mình nhưng không cần ăn chay. Ăn chay thiếu hãm mình là
ngoài mặt ăn chay nhưng tâm nghĩ mặn.
Nói đến ăn chay chúng ta nghĩ đến việc kiêng ăn, kiêng uống. Sự
việc không đơn giản thế. Ăn chay là việc làm tự nguyện, tự chủ và làm với lòng
yêu mến Thiên Chúa. Điều răn quan trọng nhất Chúa Giêsu dậy là: Mến Chúa hết
sức, hết linh hồn, hết trí khôn và yêu thương anh em như chính mình. Toàn thể
con người từ trong ra ngoài đều thể hiện lòng mến và việc làm đi đôi với yêu
tha nhân. Ngoài việc kiêng ăn, bớt uống và hạn chế hút sách chúng ta cần kềm
hãm các giác quan khác trong con người.
Hãm mắt nhìn sự việc xấu.
Hãm tai nghe điều tệ hại.
Hãm miệng nói điều chua ngoa, gian xảo.
Hãm chân đi đến những nơi tồi bại.
Hãm tay làm những việc bất công.
Hãm óc nghĩ đến những tư tưởng gian tà.
Hãm cảm nhận những cảm xúc bất chính.
Hãm chiều theo đòi hỏi của thân xác.
Hãm không cho cái tôi làm chủ.
Ăn chay chính là làm chủ con người anh em. Mọi tư tưởng lời nói,
việc làm và ngay cả cảm xúc đều bị kềm hãm. Trước đây anh em nghe theo chúng
giờ đây bắt chúng phải lắng nghe lời anh em. Chúng phải làm theo mệnh lệnh của
anh em. Chúng phải là công cụ phục vụ anh em để điều răn Chúa dậy được thể hiện
trong cuộc sống của anh em đó là mến Chúa và yêu tha nhân.
Như thế ăn chay có giới hạn nhưng hãm mình thì vô hạn vì lúc nào
con người cũng cần làm chủ đời mình.
Sống là một cuộc chiến đấu trường kỳ và cam go. Và cuộc chiến đấu
cam go nhất của con người là cuộc chiến đấu đối với bản thân mình. Kẻ thù không
ở đâu xa, kẻ thù đó đang ấn núp ngay trong bản thân mình. Bởi vậy, khi làm
người, Chúa Giêsu cũng không thoát khỏi nguyên lý này. Ngài đã chiến đấu quyết
liệt và chiến thắng vẻ vang.
Khởi đầu Chúa nhật thứ nhất mùa Chay, hôm nay, thánh sử Macco
trình bày việc Chúa Giêsu đã chiến đấu với sự dữ. Cuộc chiến đấu này không mấy
dễ dàng. Tuy nhiên, Ngài đã can đảm chiến đấu và đã chiến thắng. Bởi lẽ, mang
thân phận con người, Chúa Giêsu không tránh khỏi cám dỗ của ma quỷ, của sự dữ.
Macco trình bày một bức tranh thời Tân Ước có đôi nét giống thời Cựu Ước. Trong
bức tranh đó, nhân vật nổi bật là chính Chúa Giêsu, Ngài được ví như Ađam mới,
khác xa Ađam cũ. Ađam xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo xúi giục của
ma quỷ đội lốt con rắn, đã bất tuân không vâng lệnh Thiên Chúa, vì không muốn
làm người mà muốn làm Thiên Chúa, chối bỏ tình thương Thiên Chúa. Ông đã sa ngã
trước thử thách, kéo theo hậu quả thảm hại muôn đời cho con cháu loài người.
Bên cạnh đó, dân Do Thái đi trong Samạc bốn mươi năm cũng đã sa ngã. Đó là thời
gian thử thách lâu dài đối với họ. Họ cũng đã sa ngã trước thử thách, bao lần
phản loạn, chống đối Môisen, kêu trách Thiên Chúa; bao lần họ bị cám dỗ muốn
trở lại Ai Cập làm kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa. Tất cả đã sa ngã trước
thử thách.
Ngược lại, còn Chúa Giêsu khi khởi đầu bước vào đời sống công
khai, Ngài được Chúa Thánh Thần đưa vào Samạc để chịu thử thách. Sống trong sa
mạc bốn mươi đêm ngày, Chúa Giêsu đã cương quyết trung thành với Thiên Chúa,
dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Matthêu và Luca thì Satan đã
dùng cơm bánh, quyền phép và danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu
đã dùng Lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý muốn dứt
khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập giá. Cuối
cùng ma quỷ phải rút lui. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho
Ngài chiến thắng chính là Lời Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía
Thiên Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Phần chúng ta, là những người Công Giáo, chúng ta cũng có thể chiến
thắng như Chúa Giêsu nếu chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe
Lời Chúa và để Lời Chúa hướng dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến thắng của Chúa
Giêsu đã cho chúng ta bài học kinh nghiệm là con người chúng ta có thể chiến
thắng các thế lực sự dữ và các cám dỗ của ma quỷ nếu chúng ta một lòng biết cậy
dựa vào sức mạnh chủa Thiên Chúa. Bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta không chấp
nhận thách thức Thiên Chúa, nhưng ngược lại chúng ta hoàn toàn vâng phục sống
theo thánh ý Chúa quan phòng an bày cho cuộc đời của mình. Chúng ta cũng không
nên sống đạo Công Giáo, theo đạo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh tầm
thường hằng ngày, hay chỉ vì lợi lộc vật chất, theo kiểu theo đạo được vợ, theo
đạo được đất, được ruộng... Chúng ta không theo Chúa để bắt Chúa và Giáo Hội lo
phục vụ chúng ta, phục vụ theo ý muốn ích kỷ của chúng ta. Chúng ta cũng không
coi Thiên Chúa như những tên phù thuỷ chuyên làm phép lạ làm những việc phi
thường, hay những nhà ảo thuật đại tài biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta
cũng không coi trọng danh dự, uy quyền, thế giá; không luồn cúi ma quỷ, sự dữ,
tiền của để được làm Chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ Tể vũ trụ, là
Chúa của muôn loài, là Chúa của lòng ta.
Lời Chúa trong Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta hãy đi vào cõi lòng
mình, nơi đó chúng ta sẽ nhận ra nhiều thứ xấu xa của kiếp người, đủ thứ cám dỗ
của ma quỷ, đủ thứ mời mọc hấp dẫn của sự dữ. Chúng ta hãy để Lời Chúa soi dẫn
chúng ta. Lời Chúa sẽ giúp chúng ta phân định việc tốt xấu, việc từ bỏ và những
việc nên làm. Lời Chúa là sức mạnh giúp chúng ta can đảm đứng về phía Thiên
Chúa, khước từ sự cám dỗ của ma quỷ và sự dữ. Lời Chúa giúp chúng ta nhận ra
chân lý, Sự Thật và Tình yêu để chúng ta bước di. Lời Chúa giúp cho chúng ta
dám sống cho những đòi hỏi của Tin mừng, dám sống cho anh chị em tha nhân.
Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn Chúa là lý tưởng và lẽ sống cho cuộc
đời mình. Chúng ta chọn Chúa là sức mạnh để can đảm chiến đấu chống trả lội
lỗi, các thế lực sự dữ và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Ngoài ra, thử thách còn là để thanh luyện tâm hồn mình. Chúng ta
hãy tiếp tục dùng Mùa chay mà Giáo Hội mời gọi để trở về với lòng mình, sám hối
và quyết tâm can đảm đứng về phía Thiên Chúa. Ước mong Mùa Chay này sẽ giúp cho
chúng ta biết lắng nghe tiếng Chúa, trở về với Thiên Chúa, sống lại mối tình mà
Thiên Chúa yêu thương dành cho chúng ta. Đồng thời chúng ta cũng biết mạnh dạn
đến với anh em để sống yêu thương và phục vụ họ.
Lạy Chúa Giêsu, Ngài là chủ của chúng con. Xin cho chúng con biết
khiêm tốn chấp nhận giới hạn của mình để chúng con biết cậy dựa vào sức mạnh
của Chúa trong cuộc chiến đấu với ba thù là thế gian, ma quỷ và xác thịt yếu
đuối của chúng con. Xin Chúa trở thành sức mạnh duy nhất của niềm tin đang
hướng về Chúa của chúng con để chúng con luôn chiến đấu và chiến thắng như Chúa
Giêsu yêu mến của chúng con. Amen.
Thách đấu là một hình thức khiêu chiến. Một bên muốn đánh, bên kia
muốn hoà. Để diễn tả một cách ôn hoà, văn vẻ hơn chính là câu nói,
Cây muốn lặng nhưng gió chẳng ngừng.
Kẻ thách đấu thường là kẻ hiếu chiến. Vì hiếu chiến nên mới thách
thức, thích bạo động. Hiếu chiến đến từ tính kiêu ngạo. Tự cho mình hơn người.
Tự nhận tài giỏi và tự tin là sẽ chiến thắng vinh quang.
Trong tu đức thách đấu luôn khởi nguồn từ ma quỉ vì bản chất hiếu
chiến, hung hăng, thích bạo động của chúng. Đó là những hình thức khác nhau của
các cơn cám dỗ, chước cám dỗ phát sinh bởi bản tính tính kiêu ngạo của ma quỉ.
Bản chất của chúng là tự kiêu, cao ngạo, kiêu căng nên không từ cơ hội nào,
không chừa ai, lớn bé, già trẻ chúng đều trêu ghẹo tìm cách cám dỗ.
Ma quỉ cám dỗ con người dưới nhiều hình thức, đa dạng. Chúng không
thách thức con người một cách vô í thức mà có chủ trương, thủ đoạn của từng lần
cám dỗ. Thủ đoạn của chúng là nghiên cứu con người đó mạnh yếu phần nào. Đâu là
yếu điểm, đâu là nhược điểm của con người đó. Chúng lợi dụng cả người thân, bạn
đường, người ta tin tưởng, tình bạn để lung lạc mong đạt cơn cám dỗ. Rất nhiều
trường hợp lạc đường, sai lối do bạn bè quyến rũ, rủ rê, dẫn vào cuộc đời ăn
chơi trác táng, sa đọa. Không phải người đó cố tình gây tai ương cho mình mà
chính là động lực ngầm của ma quỉ thúc đẩy, bày mưu, gài bẫy.
Yếu điểm chính là các điểm trọng yếu của người đó. Bởi là điểm
trọng yếu nên ma quỉ thường tránh không muốn đụng chạm đến. Chúng không ngu dại
gì húc đầu vào tường đá, bể sọ chết. Như thế ma quỉ thường tấn công, triệt để,
khai thác nhược điểm của người đó bởi vì nhược điểm là điểm dễ tấn công và kết
quả thành công cao hơn nhiều. Như thế ma quỉ vừa kiêu ngạo, vừa ranh mãnh.
Chúng lại có nhiều thời gian và cơ hội để tấn công một người. Vì thế ta không
lấy làm lạ một người trước đây đạo đức, sau này gặp lại, lại trở thành sa đọa.
Từ tình trạng đạo đức, tốt lành, thánh thiện biến sang tình trạng khô khan,
nguội lạnh, biếng nhác.
Trái lại cũng nhiều trường hợp trước đây coi thường đạo nghĩa,
sống buông thả. Một thời gian sau thay đổi biến thành đạo đức sốt sắng, tốt
lành. Tình trạng này có được vì người đó may mắn sau những lần thua các cơn cám
dỗ nhận biết nhược điểm của mình. Khiêm nhường nhận biết mình tài hèn, sức mọn
không đồng nghĩa với nhu nhược mà là hiểu rõ con người mình hơn. Biết mình,
biết người là bước đầu của thành công. Bởi biết mình yếu đuối nên không tự cậy
sức riêng mà phó thác trong tay Chúa, phó dâng cuộc đời cho Chúa và cậy trông
vào sức mạnh của lời cầu nguyện và ân sủng của các bí tích thánh, giúp họ sống
trên con đường lành thánh. Một cách để nhận biết ta thuộc về Chúa hay thuộc về
ma quỉ chính là nhìn vào các cơn cám dỗ. Từ chối cám dỗ là dấu hiệu cho biết ta
còn thuộc về Chúa. Sa chước cám dỗ là dấu chỉ cho thấy ta đang bị ma quỉ cầm
giữ, trói buộc.
Phúc âm thánh Marcô hôm nay cho biết không ai tránh khỏi chước cám
dỗ. Kẻ chiến thắng chước cám dỗ là kẻ biết tự lượng sức mình. Lượng sức bằng
cách vừa chống lại chước cám dỗ vừa dựa vào sức mạnh Lời Chúa tăng sức. Như thế
sau mỗi chiến thắng chước cám dỗ người đó luôn sống trong tâm tình tạ ơn Thiên
Chúa vì nhờ sức mạnh Lời Chúa mà có được chiến thắng, tránh khỏi sa chước cám
dỗ. Đây là một kinh nghiệm quí báu cho các Kitô hữu tin cậy vào Chúa. Bài học
quí trọng này cho biết sức mạnh của ta đến từ Chúa. Ta tự tin lần cám dỗ kế
tiếp ta cũng sẽ chiến thắng vì có sức mạnh Lời Chúa hỗ trợ. Kinh nghiệm sống
đạo này một ngày một giầu mạnh và gắn bó ta mật thiết hơn với Chúa. Điều này
rất cần vì ma quỉ không dễ đầu hàng, từ bỏ cám dỗ. Thua keo này chúng rình rập,
tìm cơ hội bày keo kế tiếp. Thua nữa, chúng lại bày kế khác vì bản tính hung
hăng kiêu ngạo trong chúng luôn thúc đẩy chúng tấn công ta. Càng thua, chúng
càng bực dọc, càng trở nên hung bạo đến điên cuồng. Cơn cám dỗ, lời thách đấu
của kẻ điên nằm ngoài giải thích hợp lí, lí lẽ bình thường. Kinh nghiệm bị cám
dỗ thường xuyên cho biết ma quỉ đang thua đặm, càng thua chúng càng hung hăng.
Chúng càng hung hăng ta càng cần trông cậy vào Chúa nhiều hơn.
Các thánh khi còn sống tại thế cầu nguyện hàng ngày, cầu nguyện
liên tục là vì các ngài luôn phải tranh đấu, triền miên chống lại các cơn cám
dỗ.
Sống thánh thiện chính là gắn bó đời ta với Lời Chúa. Chúng ta xin
ơn biết lắng nghe Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi, mọi lúc.
Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay
gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước
Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa hy
vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói lên
một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn
Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ
lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).
Thánh Phêrô, trong bài đọc hôm nay có tính cách như một bài giáo
huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy
rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ
bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh
Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa
tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống.
Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp
Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự
sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.
Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ
cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của
Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó
suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên
Thần hầu hạ Ngài”.
Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng
nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không
phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không
có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương
tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp
tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế,
ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống
đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào
trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.
Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà
thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ
ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá.
Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ
cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im
lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.
Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa
Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị
Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được
qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm
một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải
chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống.
Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa
trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.
Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm: Hãy
ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là phần
tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao nhiêu
đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích cực là
TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và sám hối
là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.
Charles de Foucaul đến gặp một vị linh mục quen là cha Huvelin và
tâm sự: Từ ngày lên 15 tuổi, tôi như mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người về
từ sa mạc đó và nói: Anh hãy quì xuống xưng tội đi đã. Foucauld đã vâng lời,
khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, đời của vị sĩ quan ấy đã hoàn toàn đổi
mới. “Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa thì tôi cũng hiểu rằng tôi không
thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Người”.
“Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng.”
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 1,12-15) gồm hai phần: Đức Giêsu ở trong
hoang địa (cc.12-13) và Đức Giêsu khai mạc công việc rao giảng (cc.14-15). Vì
chúng ta mới suy niệm cc.14-15 trong Chúa Nhật III Thường Niên, nên hôm nay,
bài suy niệm này sẽ chỉ tập trung vào phần nói về sự kiện Đức Giêsu ở trong
hoang địa. Và những gì sắp được trình bày trong bài suy niệm này sẽ chỉ là một
trong những cách hiểu có thể có về sự kiện ấy theo cách diễn tả của tác giả Mc.
Câu chuyện xảy ra ngay sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa tại sông
Giorđan: “Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn
mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người” (cc.12-13).
Thần Khí, sức mạnh của Thiên Chúa, “đẩy” Đức Giêsu vào hoang địa.
“Đẩy” ở đây là một ẩn dụ chỉ sự thúc đẩy thần linh mà Đức Giêsu trải nghiệm; đó
là sự thúc đẩy bên trong, mạnh mẽ, không thể cưỡng lại được. Sức mạnh của Thần
Khí tràn ngập nơi Đức Giêsu và đặt Người, một cách chắc chắn, vào trong “hoang
địa”. Và vì là tác động thần linh của chính Thiên Chúa, sự thúc đẩy và đặt để
đó hẳn nhiên sẽ phù hợp với chương trình của Thiên Chúa về Đức Giêsu. Chương
trình đó đã từng được tác giả Mc trình bày ngay từ những dòng đầu tiên của cuốn
sách như một con đường (1,2). “Hoang địa” mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào, vì
thế, là nơi chốn mà ở đó Người phải thực hiện cuộc hành trình của Người.
Về bản chất, hoang địa này khác hẳn hoang địa của ông Gioan Tẩy
Giả. Trong trường hợp của ông Gioan, đó là một nơi chốn địa dư, gần sông
Giorđan, không dân cư và tách biệt hẳn xã hội con người; nhưng khi ông Gioan ở
đó thì xảy đến hàng loạt những hoạt động do sự xuất hiện của các thành phần xã
hội từ bên ngoài kéo đến: ông giảng dạy, ông làm phép rửa và người ta lãnh ơn
tha thứ… Còn hoang địa mà Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào thì không được xác định rõ
ràng. Đức Giêsu đi vào trong hoang địa này bởi tác động của Thần Khí, ở lại đó
trong một giai đoạn dài và thuần nhất (40 ngày), chịu cám dỗ, sống giữa các
loài dã thú và được các thiên sứ phục vụ. Tác giả không kể bất cứ hoạt động nào
của Người, kể cả việc cầu nguyện và ăn chay. Trong hoang địa này, bên cạnh Đức
Giêsu, có sự hiện diện của ba loại “cư dân”: Satan, các loài dã thú và các
thiên sứ. Tính chất và sự hiện diện đồng thời của ba loại “cư dân” này quanh
Đức Giêsu khiến cho hoang địa này không còn mang tính chất địa dư – lịch sử
nữa, mà là một hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng – thần học.
Đức Giêsu, theo chương trình của Thiên Chúa, đang thực hiện cuộc
hành trình của Người, đang đi trên con đường của Người (x.1,2). Đỉnh điểm của
cuộc xuất hành của Người sẽ là biến cố tử nạn – phục sinh. Xưa, hoang địa là
nơi chốn của cuộc xuất hành của dân Israel đi về đất hứa. Nay, “hoang địa” cũng
là nơi chốn diễn ra cuộc hành trình hướng đến biến cố tử nạn – phục sinh của
Đức Giêsu. Sự kiện Người sẽ ở trong hoang địa bốn mươi ngày (c.13) củng cố cho
cách hiểu này. Mà nếu thế thì “hoang địa” nói đây chính là cái xã hội – tôn
giáo Do Thái, trong đó Đức Giêsu sống và hoạt động cho đến khi Người bước vào
cuộc tử nạn – phục sinh của Người. Chính Thần Khí đẩy Người đi vào trong cái xã
hội – tôn giáo đó.
Nhưng hoang địa, tự bản chất, là hình ảnh của một nơi chốn tách
biệt khỏi xã hội. Trong trường hợp của Đức Giêsu, sự tách biệt này, vì thế,
phải được hiểu theo nghĩa của sự tách biệt về các nguyên tắc và giá trị. Đức
Giêsu ở trong “hoang địa”, tức là Người tuyệt đối không chia sẻ các giá trị giả
dối và sai lầm của cái xã hội – tôn giáo Do Thái và không chấp nhận những
nguyên tắc và giá trị đó. Có một sự cắt đứt, một sự đoạn tục, một sự tách lìa
giữa Đức Giêsu với các nguyên tắc và giá trị đó. Tính chất của ẩn dụ “hoang
địa” cho phép chúng ta hiểu như thế.
Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào
“hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình.
Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa
nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta
thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình
đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy
đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa
là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm
việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Nhưng “hoang địa” mà Thần Khí đang đẩy chúng ta vào cũng có nghĩa
là một chốn tách biệt, như xưa đã xảy ra với Đức Giêsu. Trong ý nghĩa sự “đi
vào hoang địa” là biểu tượng cho một sự tách biệt, một sự giữ khoảng cách đối
với những nguyên lý và giá trị sai lầm đang chi phối xã hội, thì việc Đức Giêsu
vào hoang địa, như chúng ta đã nói, là việc Người không chấp nhận hành xử theo
các nguyên lý và giá trị sai lầm của xã hội và tôn giáo Do Thái đương thời. Đối
với chúng ta cũng vậy. Thần Khí đang đẩy chúng ta vào hoang địa, cách riêng là
trong Mùa Chay thánh này, tức là Thần Khí thúc đẩy chúng ta không thỏa hiệp và
không sống theo những nguyên lý và giá trị tầm thường thế gian, ngay trong
những môi trường xã hội và môi trường làm việc hiện tại của chúng ta: những ý
thức hệ sai lạc, những giá trị ảo của chủ nghĩa hưởng thụ, hay những não trạng
duy vật và duy khoái lạc…
Đức Giêsu đã làm theo sự thúc đẩy của Thần Khí. “Người ở trong
hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các
thiên sứ hầu hạ Người” (c.13).
Trong Cựu Ước, con số “bốn mươi” thường được dùng để chỉ một giai
đoạn trong đó diễn ra một tình trạng thuần nhất nào đó như thời hòa bình hay
thời của một triều đại… Thí dụ trong Tl 3,11; 5,31; 8,28; 13,1; 2V 8,17; 12,2
chẳng hạn. Một điều chắc chắn là con số bốn mươi luôn ám chỉ đến bốn mươi năm
con cái Israel đi trong hoang địa, tức là giai đoạn họ đi từ chốn nô lệ Ai Cập
về đất hứa (x. Ds 14,33.34; 33,38; Đnl 1,3; 2,7; 29,4; Gs 14,17; Tv 95,10; Am
2,10; 5,25…). Vì thế, chi tiết “Đức Giêsu ở trong hoang địa bốn mươi ngày” rõ
ràng mang giá trị biểu tượng, chỉ về cuộc xuất hành của Người, tức là cuộc hành
trình đưa Người đi đến đỉnh điểm là cuộc tử nạn và phục sinh của Người.
Trong “hoang địa”, Đức Giêsu chịu Satan cám dỗ suốt bốn mươi ngày. “Satan” là một hạn từ Hípri. Thoạt kỳ thủy,
hạn từ này về căn bản có nghĩa là một kẻ chống đối hay một đối thủ chuyên cáo
tội trong các vụ án (x. Tv 109,6; 1Mcb 1,36). Từ đó nó có nghĩa chỉ về một
thành viên của triều đình thiên thai, chuyên cáo tội con người trước mặt Thiên
Chúa (x. G 1,6-12; 2,1-7). Vào thời Đức Giêsu, người ta không còn nghĩ Satan là
một thành viên của triều đình thiên thai nữa, nhưng có thể hiểu như là một tinh
thần thù nghịch của con người, luôn tìm cách đẩy con người đến chỗ sai lạc và
luôn muốn tàn phá công trình của Thiên Chúa. Trong cái xã hội Do Thái được ẩn
dụ trong bài Tin Mừng bằng hình ảnh “hoang địa”, thì Satan, trong vai kẻ cám dỗ
Đức Giêsu, chính là những thế lực/nhân vật liên tục tìm cách làm cho Đức Giêsu
phản bội lại chương trình của Thiên Chúa về Người. Trong Mc 8,33 Đức Giêsu sẽ
gọi Phêrô là Satan vì ông ta ngăn cản Đức Giêsu thực hiện chương trình của
Thiên Chúa và muốn Người đi theo “tư tưởng của loài người”. Trong cuộc đời hoạt
động công khai của Người trước khi đi vào cuộc tử nạn – phục sinh, giữa “hoang
địa” là xã hội và tôn giáo Do Thái, Đức Giêsu sẽ phải liên tục đối diện với
những thế lực/nhân vật như thế. Bài Tin Mừng hôm nay gọi là “Người chịu Satan
cám dỗ”.
Loại “cư dân” thứ hai trong “hoang địa” mà bài Tin Mừng hôm nay
nhắc đến, là các loài dã thú: Đức Giêsu “sống giữa loài dã
thú”. Thông thường, các loài dã thú được hình dung trong đặc điểm hung dữ của
chúng: chúng tấn công và thậm chí ăn thịt con người. Vì thế, trong các sách
ngôn sứ, ẩn dụ dã thú thường được dùng để nói về tai ương, ví dụ trong Is 18,6;
56,9; Gr 7,33; 12,9; 16,4; Ed 32,4; 34,5. Nhưng rõ ràng đó không phải là trường
hợp của Mc 1,13. Có một bản văn ngôn sứ nói về tình trạng tốt lành của việc
sống chung với dã thú, là bản văn Is 11,6-9. Nhưng nếu chúng ta chấp nhận cách hiểu
ẩn dụ “hoang địa” ở đây ám chỉ xã hội Do Thái đương thời và “các loài dã thú”
là một thành phần trong đó, thì cũng rõ ràng là không thể hiểu Mc 1,13 dựa theo
Is 11,6-9 được.
Trong số các bản văn Cựu Ước sử dụng ẩn dụ dã thú, đáng chú ý là
Đn 7. Trong đó, các dã thú là ẩn dụ chỉ những quyền lực chính trị kinh khủng
của các đế quốc ngoại giáo. Hiểu như là một thành phần trong khung cảnh xã hội
Do Thái (“hoang địa”), theo nghĩa tương tự như trong Đn 7, các loài dã thú ở
đây là ẩn dụ của những thế lực và ảnh hưởng chính trị khác nhau của các phong
trào và các ý thức hệ khác nhau. Đó là những thứ quyền lực chính trị – xã hội –
tôn giáo áp bức, hay ít là gây sức ép, trên những con người đang sống trong xã
hội đó. Chúng tác động trên con người, từ bên ngoài; và chúng sẽ thi thố sức
mạnh của mình, ít là về mặt thể lý, để đẩy Đức Giêsu đến cái chết thảm thương
trên thập giá sau này. Đức Giêsu “sống giữa loài dã thú” tức là chấp nhận làm
đối tượng mà các thứ quyền lực ấy nhắm đến và không ngừng tìm cách tác động, gây
ảnh hưởng.
Loại “cư dân” thứ ba trong “hoang địa” mà Mc 1,13 nói đến là các “thiên sứ”(aggelos). Trong Tin Mừng Mc,
lần đầu tiên “thiên sứ” được nói đến, chính là ở 1,2. Và hình ảnh của aggelos
đó được thể hiện một cách cụ thể – lịch sử nơi Gioan Tẩy Giả (1,4). Như thế,
trong Mc, “aggelos” vẫn có thể là con người chứ không nhất thiết phải là hữu
thể thiêng liêng. Nếu chúng ta chấp nhận cách giải thích phía trên về ba hình
ảnh “hoang địa”, “Satan” và “dã thú”, thì chúng ta cũng sẽ dễ dàng chấp nhận
cách giải thích, theo đó, ẩn dụ “các thiên sứ” ở đây ám chỉ một nhóm người nào
đó trong cuộc đời hoạt động công khai của Đức Giêsu. Nhóm này có chức năng cộng
tác với Đức Giêsu, kể cả việc phục vụ Người. Vậy, có thể hiểu “các thiên sứ” ở
c.13 là hình ảnh ẩn dụ của những con người gắn bó với Đức Giêsu, giúp đỡ Người
khi Người thi hành sứ vụ và cộng tác với Người trong công cuộc của Người. Đức
Giêsu chấp nhận sự phục vụ của các thiên sứ trong hoang địa có nghĩa là người
chấp nhận sự phục vụ, giúp đỡ và cộng tác của những con người đó trong khi
Người thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Tóm lại, trong phần đầu bài Tin Mừng hôm nay, tác giả Mc đã sử
dụng những hình ảnh ẩn dụ rất phong phú và sâu sắc. Tất nhiên, cách giải thích
vừa được trình bày vẫn chỉ là một trong những cách hiểu về những hình ảnh được
tác giả Mc sử dụng. Nhưng dù sao, trong khung cảnh của phụng vụ Chúa Nhật I Mùa
Chay hôm nay, cách hiểu này gợi ý cho chúng ta nhiều suy tư thiết nghĩ là rất
đáng chú ý, liên quan đến cuộc sống và việc thi hành sứ mạng của các Kitô hữu
chúng ta. Chúng ta được mời gọi hãy để cho chính Chúa Giêsu (như được khắc họa
trong bài Tin Mừng hôm nay) nói với chúng ta về những gì chúng ta phải sống
cách đặc biệt trong Mùa Chay thánh này.
“Thần Khí đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn
mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ
Người” (Mc 1,12-13).
Bước vào Mùa Chay, Giáo Hội kêu gọi chúng ta phải an năn sám hối,
sống lại kinh nghiệm 40 năm sa mạc của người Do Thái, sống 40 ngày chay tịnh
của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu được Thánh Thần đưa vào hoang địa, 40 ngày ăn chay
và chịu ma quỷ cám dỗ, để nêu cao lòng trung tín của Người với Thiên Chúa Cha.
Ma quỷ không nhằm xúi giục Chúa Giêsu vào tội tham ăn, ham mê của
cải, danh lợi ở trần gian nhưng nó muốn cám dỗ Chúa Giêsu quên đi sứ mạng cứu
thế của mình: từ chối con đường thập giá mà Cha đã trao phó. Đó là cơn cám dỗ
Messia. Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cám dỗ? Vì Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta
cách chống trả cám dỗ. Và hôm nay ma quỷ cũng cám dỗ ta cách khéo léo, tinh vi
với mọi hình thức khác nhau, không trừ một cơ hội nào. trong xã hội hưởng thụ
ngày nay, con người luôn bị cám dỗ giữa việc xem tivi với việc đọc kinh hôm,
kinh mai; giữa vui chơi giải trí và đi lễ; giữa ăn xài phung phí với giúp đỡ
người nghèo; giữa gian dối và thành thật, giữa việc học hành và trốn học, quay
cóp. Chúng ta bị cám dỗ làm ngơ trước những đau khổ của người khác, im lặng
trước những bất công vì sợ liên lụy, làm ngơ trước sự thật, thỏa hiệp với sự dữ
để được yên thân, sống buông thả và đeo đuổi những ước vọng, lợi lộc bằng đủ
mọi âm mưu mạo hiểm, khiến chúng ta không còn nhận ra Chúa nơi người ăn xin
trước cửa nhà, trong khu xóm. Và còn biết bao cám dỗ mời mọc khác, chúng ta chỉ
nghĩ đến mình và lo cho mình.
Ma quỷ không làm cho chúng ta bỏ Chúa, nhưng làm lệch hướng đi của
chúng ta, khiến chúng ta có những suy nghĩ sai lạc về Thiên Chúa, bắt Thiên
Chúa phục vụ cho những lợi ích riêng của mình; nó làm cho chúng ta cảm thấy
chán nản, lười biếng, thờ ơ các việc bổn phận, việc đạo đức, làm cho lòng mến
Chúa trong chúng ta phai mờ đi.
Cám dỗ là một thực tế chúng ta không thể nào lẫn tránh được. Vì
thế, chúng ta phải luôn sám hối và nhìn lại cách sống của mình để chiến đấu với
cám dỗ. Nhưng bằng cách nào? Hãy nhìn Chúa Giêsu, một mẫu gương tuyệt vời, Ngài
đã chiến thắng ma quỷ bằng việc ăn chay, cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa để
làm theo thánh ý Cha. Phần chúng ta, cũng phải siêng năng cầu nguyện, lắng nghe
tiếng Chúa qua việc tham dự thánh lễ cách sốt sắng, đọc kinh trong gia đình,
biết hy sinh hãm mình làm việc bác ái. Chính những lúc thuận tiện này chúng ta
gặp gỡ Chúa để Ngài ban sức mạnh cho ta. Xin Chúa Thánh Thần giúp sức cho ta
vượt thắng các cám dỗ, xin cho mỗi người chúng ta luôn biết trông cậy vào Chúa,
nhờ đó chúng ta mới có thể đứng vững trước những cám dỗ của ma quỷ, của thế
gian, của xác thịt.
CÂU HỎI GỢI Ý:
Khoa học càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để làm chủ.
Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những
nơi, những người có thể đưa đến cám dỗ. Theo bạn, người trẻ hay bị cám dỗ ở
đâu? Với ai?
1. Dân gian ta có câu: "Lửa thử vàng, gian nan thử sức".
Dùng lửa để thử vàng, là một phương cách có từ xưa để xem vàng thật hay giả, có
gian nan mới biết ai có khả năng, bản lĩnh để vượt qua. Thiết nghĩ con đường
theo Chúa mà hoàn toàn thuận lợi, dễ dàng thì đạt hạnh phúc Nước Trời không có
giá trị gì, bởi ai cũng như ai! Nhưng thực tế trong đời sống đạo, những thử
thách, những cám dỗ luôn tồn tại. Chúng ta đừng bi quan, mà hãy xem nhũng lúc
như thế là lúc toi luyện lòng thành của chúng ta đối với Thiên Chúa.
2. Kẻ thù của Thiên Chúa cám dỗ không trừ một ai, trong bài Tin Mừng
theo Thánh Mác-cô chúng ta vừa nghe, Đức Giêsu trong thân phận Thiên Chúa làm
người, vào hoang mạc để cầu nguyện 40 đêm ngày, cũng chính thời gian ấy, Ngài
bị cám dỗ. Máccô trình bày sơ qua thôi, còn Luca và Mátthêu trình bày rõ 3 cơn
cám dỗ mà Đức Giêsu phải chịu: Đá biến thành bánh ; nhảy xuống từ trên cao để
Thiên Chúa ra tay nâng đỡ ; và thờ lạy ma quỷ để nó "ban cho" tất cả!
Nói chung, là ma quỷ cám dỗ Đức Giêsu để Ngài bỏ đường lối của Thiên Chúa, con
đường khiêm hạ và đau khổ để chọn con đường dễ dãi trong công việc cứu chuộc
loài người. Làm sao Ngài đã thắng được cám dỗ? Thưa nhờ cầu nguyện gắn bó cùng
Cha, dưới sự nâng đỡ của Thánh Thần. Đó cũng là bài học quý báu cho mỗi người
chúng ta.
3. Cám dỗ là một điều gắn liền với con người, có thể nói từ khi
con người xuất hiện là có cám dỗ, để lôi kéo con người ra khỏi tình thương của
Thiên Chúa, và nó sẽ còn tồn tại với con người ở trần gian này. Hẳn ai trong
chúng ta cũng rõ Adong, Evà bị cám dỗ và thánh Gióp trong Cựu Ước đã bị ma quỷ
xin phép Thiên Chúa cám dỗ để xem lòng trung thành của ông đối với Thiên Chúa.
Nhưng Adong, Evà đã bị thất bại vì nghe lời ma quỷ, còn thánh Gióp thì kiên trì
trong thử thách, quyết trung thành với Thiên Chúa vì thế ma quỷ đã chào thua!
Ngày nay chúng ta thấy nhiều người quỵ ngã trước cám dỗ, kể cả các
Kitô hữu. Thực ra, không phải con người yếu đuối hơn thời xưa. Nhưng sống trong
một xã hội càng văn minh, tiến bộ người ta dễ bị lôi cuốn vào nhu cầu hưởng
thụ, dễ dãi:
- Chọn loại băng dĩa nào đây? Loại lành mạnh hay là những loại
"tươi mát" nhằm thoả mãn dục vọng?
- Chọn loại giải trí nào đây? Cờ bạc, đá gà, hay tìm đến những
loại giải trí, môn thể thao hữu ích?
- Chọn ưu tiên đi đâu đây vào ngày Chúa Nhật? Đi lễ nhà thờ hay đi
chơi, đi du lịch? v.v..
Ngày nay người ta đề cao tự do, nhưng rồi lèo lái để làm cả những
việc sai trái, xem thường cả luân thường đạo lý: Tự do luyến ái trước hôn nhân,
tự do sống với người khác như vợ như chồng của mình, tự do châm biếm đả kích
người khác v.v...
4. Đối với người Kitô hữu, về phương diện nào đó, cám dỗ là một
điều cần thiết trong cuộc sống. Từ xưa, người ta biết dùng lửa để thử vàng thật
giả, người ta biết đáng giá lòng người, sức người qua thử thách. Vì thế bước
đường theo Chúa cám dỗ không hẳn luôn là có hại, mà là phương thế để toi luyện
lòng người. Ta vẫn nghe câu nói:"bạn trong lúc khó khăn mới là bạn
tốt". Trong đời sống thiêng liêng, giữa muôn vàn thử thách, nếu chúng ta
vẫn trung thành với lời Thiên Chúa dạy, vẫn chọn Người là trên hết, thì chúng
ta mới là người con thảo của Người, là người bạn thân của Đức Giêsu. Các thánh,
nhất là các thánh tử đạo đã minh chứng cho chúng ta rất rõ điều này, chúng ta
vẫn có thể thực hiện điều này trong cuộc sống chứng nhân giữa đời thường.
5. Đức Giêsu, Ngài không những nêu gương mà còn chỉ rất rõ con
đường để chúng ta khỏi rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, như trong đoạn Tin Mừng
chúng ta vừa nghe, chính Ngài đã dạy: "Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin
Mừng". Như thế nhìn nhận lỗi lầm của chúng ta (ăn năn, vì chúng ta để mình
rơi vào cám dỗ của ma qủy) chưa đủ, mà còn phải thay đổi nếp sống cũ bằng cách
tin vào Đức Giêsu và tích cực thực hiện những điều Người dạy.
Cụ thể trong Mùa Chay này, nhờ ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta ra
sức thực hiện: ăn chay (đền tội) ; cầu nguyện (gia tăng sự gắng bó với Thiên
Chúa) ; và thực thi bác ái (gia tăng tình liên đới với tha nhân). Đây là những
phương thế hữu hiệu để khỏi rơi vào chước cám dỗ và dẫn đưa chúng ta đến con
đường trọn lành. Amen.
TA YÊU CÁC NGƯƠI TỪ LÂU RỒI
HÃY TRỞ THÀNH DÂN CỦA TA
Mùa Chay, một thời gian yêu mến.
Lễ tro vừa rồi, chúng ta đã mang một bộ mặt mùa chay hơi buồn bã,
nghiêm khắc và nghiêm túc, như phải có. Thứ tư lễ tro không phải là một ngày
hội hóa trang. Nó nhắc nhở chúng ta nhớ đến tội lỗi và sự mỏng dòn của chúng
ta. Chúng ta là tro bụi, những gì chúng ta làm được đều bấp bênh; chúng ta có
một con tim nặng trĩu vì những ích kỷ và thiếu tế nhị, thậm chí phản bội nữa.
Hàng năm người ta cử hành lễ thánh Valentin, lễ tình yêu trước hoặc sau ngày
thứ tư lễ tro. Tình yêu càng khó kéo dài thì người ta lại càng ham thích ca
ngợi chúc mừng nó! Tuy nhiên, nghĩ cho kỹ, bắt đầu mùa chay bằng lễ thánh
Valentin không phải là điều vô ích. Điều quan trọng là hiểu được đề tài và sự
năng động của khẩu hiệu được nêu ra cho mùa chay này: “Ta yêu các ngươi từ lâu
rồi”.
Đúng vậy! Mùa chay là thời gian để nghe nói về tình yêu. Một mùa
chay tình yêu xem ra mới mẻ, nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc. Chúng ta hãy
nhớ lại ngôn sứ Ôsê đã đặt lời than thở này nơi miệng Đức Giavê để khơi lại
tình yêu của dân Ngài: “Ôi! Ta sẽ dẫn ngươi vào nơi thanh vắng và sẽ quyến rũ
ngươi”. Chẳng phải đây là lời yêu thương tốt đẹp cho mùa chay sao: “Ta sẽ quyến
rũ ngươi?”. Phải Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta từ lâu rồi. Ngài muốn nhắc
lại điều đó để ta nhớ và để cho nó trở thành nơi chúng ta như một bài ru con
được nhiều người biết đến: “Ta đã yêu con từ lâu và Ta sẽ không bao giờ quên
con”.
Trong mùa chay này, Thiên Chúa sẽ nhắc lại với chúng ta điều đó
bằng rất nhiều cách. Một trong những cách đó là nói với chúng ta hôm nay Tin
Mừng này: chúng ta là dân của Ngài.
Hãy trở thành dân của Ta. Gần đây một người bạn của tôi được nhận quốc tịch Canada với niềm
tự hào lớn đến độ làm tôi phải ngạc nhiên. Sự kiện đó đã khiến tôi suy nghĩ lại
xem: Một xứ sở, một dân tộc là những gì; Có những quyền được nhìn nhận và được
bảo vệ và có thể thực thi những quyền này quan trọng đến mức nào; Nhu cầu cảm
thấy được liên kết với những người khác mạnh làm sao; Được chia sẻ cùng một
cuộc sống xã hội gây phấn khởi dường nào.
Từ kỷ niệm này, chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ lại về quốc tịch
“Thiên quốc”của chúng ta: Chúng ta là một dân tộc thánh, là công dân nước trời,
dân của Thiên Chúa.
Dân tộc của giao ước. Nền tảng của một quốc gia trước hết là người ta chấp nhận sống chung
với nhau, tuân theo những qui luật chung. Một quốc gia được xây dựng trên những
thỏa thuận của các thành phần xã hội.
Trong câu chuyện đại hồng thủy và cầu vồng vào thời gọi là của
Nôê. Thiên Chúa bày tỏ sự đồng ý liên kết lịch sử của chúng ta với lịch sử của
Ngài, dùng sức mạnh của Ngài để hỗ trợ và cứu độ chúng ta. Lịch sử Thánh Kinh
tương đương với một hiệp ước hoặc với hiến pháp trong một quốc gia. Nó đặt nền
tảng cho dân Chúa: “Này đây Ta ký kết một giao ước với các ngươi, với hết thảy
con cháu các ngươi, và hết thảy các vật sống động…” Trong những lời này, có một
hiệp đồng, một giao ước.
Nghĩa vụ công dân. Thiên Chúa lập một hiệp ước với chúng ta. Nhưng một hiệp ước đòi
hỏi sự tương hỗ. Hai bên cùng ký vào đó. Một công dân mới tuyên thệ. Một Kitô hữu
ký vào bản hiệp ước đó nhờ phép rửa. Thánh Phaolô nhắc lại rõ ràng: Phép rửa là
một sự cam kết chứ không phải là một việc tẩy rửa những vết nhơ bên ngoài. Ta
hãy nghe ngài nói: “Chịu phép rửa, không phải là được tẩy sạch những vết nhơ
bên ngoài, nhưng là cam kết với Thiên Chúa bằng một lương tâm ngay thẳng”. Ta
hãy hiểu rõ ý nghĩa của những từ quan trọng này: Cam kết với Thiên Chúa bằng
một lương tâm ngay thẳng.
Sau khi chịu phép rửa, Chúa Giêsu vào hoang địa.
Tin Mừng thánh Marcô nhấn mạnh rằng, sau khi chịu phép rửa Chúa
Giêsu đã vào hoang địa. Và ở đó, các thiên thần phục vụ Ngài. Ta có thể thấy
rằng, sau khi đã cam kết với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vào sa mạc để bày tỏ tình
yêu của mình đối với Cha, đã được quyến rũ bởi dự án của Chúa Cha chứ không phải
bởi dự án của ma quỷ. Vậy nên, không lạ gì khi kết thúc mùa chay của mình, Ngài
đã nói: “Triều đại Thiên Chúa đã đến, hãy tin vào Tin Mừng”.
Vào đầu mùa chay này, chúng ta hãy xác tín rằng chúng ta là dân
Thiên Chúa. Triều đại của Ngài đang ở giữa chúng ta.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Điều mà trong ngôn ngữ thông thường chúng ta gọi là “cám dỗ” thực
ra trên bình diện tôn giáo lại là một thực tại rất phức tạp. Vì tính cách phức
tạp đó chúng ta không thể nhận ra cách dễ dàng Chúa Giêsu đã muốn bị cám dỗ về
sự gì và cách nào. Có nhiều yếu tố trong cách thức thông thường để hiểu sự cám
dỗ
- cái gợi lên lòng ước muốn;
- động lực thúc đẩy có căn nguyên nội tâm hay từ bên ngoài, lôi
cuốn vào một hành động;
- phát hiện bằng một cuộc thử thách, những đức tính hay là những
nết xấu của một người nào;
- xúi giục phạm tội, hoặc bằng sự kích thích các thú vui xác thịt,
hoặc bằng cách lường gạt, thúc đẩy làm điều xấu nguỵ trang với những bề ngoài của
sự tốt lành (một sự tốt lành giới hạn nào đó).
Con người đầy dục vọng, chúng ta luôn luôn sẵn sàng thức dậy. Tội
nguyên tổ đã làm rối loạn sự diễn tiến của các dục vọng đó, thành thử các dục
vọng ấy ngày nay lan tràn đến cả những việc xấu cũng như những việc tốt. Khi
một việc xấu đề nghị với chúng ta một ước muốn, thì đó là một sự cám dỗ. Nhưng
đến chừng nào việc xấu ấy còn ở ngoài chúng ta và đến khi nào nó vào hẳn bên
trong chúng ta? Nhiều sự dơ bẩn có thể làm hoen ố một con người song vẫn không
làm thiệt hại gì. Để so sánh, tục ngữ có câu: “Nước đổ đầu vịt” là thế. Trái
lại, sự rấy lên của lòng ước muốn một điều xấu xa, có thể khuấy rối hay gây ra
một tâm trạng mù mờ nửa phạm tội nửa không. Tình trạng đó người ta cho là chưa
hẳn có tội, nhưng làm lo ngại. Chúng ta không nói đến sự ưng thuận tất nhiên
dẫn đến tội rồi.
Trong giới hạn nào, chúng ta có thể suy tư về sự cám dỗ của Chúa
Giêsu?
Mà đây là một sự kiện. Chúa Giêsu muốn biết sự cám dỗ. Người ở
trong sa mạc 40 ngày, chịu satan cám dỗ. Người để cho ma quỷ đề nghị với nhân
tính của Người, những gì mà nơi chúng ta, gợi lên lòng kiêu ngạo, tính xác thịt
và máu tham lam. Chúa Giêsu có bị thử thách bởi sự quyến rũ nào vào sự tội
không? Sự thánh thiện tuyệt đối của Chúa Giêsu bắt buộc ta trả lời ngay là không.
Nhưng Người muốn thử chịu sự nung đốt của những cái thường làm cho các dục vọng
của chúng ta cuống quýt. Người muốn dìm thứ vàng ròng của sự thánh thiện Người
vào trong lò lửa, ở đó sự yếu đuối của chúng ta tan chảy như chì và nhất là
Người muốn cho chúng ta thấy phải phản ứng thế nào?
Chúa Giêsu đã phản ứng như người ta phản ứng khi bị bỏng, nghĩa là
bằng phản ứng tự vệ và đề phòng. Người không có bàn cãi với sự cám dỗ. Người đã
nhận ra nó tức khắc, và tức khắc người đuổi nó đi, không tranh luận. Đó là bài
học thực hành chính yếu mà chúng ta có thể rút tỉa từ câu chuyện Chúa Giêsu bị
cám dỗ trong sa mạc. Đâu là phương cách tốt nhất để nhận ra và đẩy lùi cơn cám
dỗ? Phương cách tốt nhất, đó là hãy duy trì nơi mình một ý chí tích cực trung
thành với Thiên Chúa. Chúa Giêsu phản ứng bằng bản năng và phản ứng, tại sao
vậy? Vì Người là một con người hoàn toàn bị thu hút bởi Con Thiên Chúa. Cũng là
người thật như chúng ta, nhưng Người còn là Con Thiên Chúa. Người chống cự lại
sự dữ với sự mãnh liệt, và sức mạnh của Thiên Chúa. Người phản ứng lại như thế,
vì Người là con ngừơi và là Thiên Chúa. Nếu chúng ta đem gương Chúa Giêsu vào
trình độ chúng ta, Chúa dạy chúng ta rằng, chúng ta phải chống cự lại cơn cám
dỗ tuỳ theo sức loài người chúng ta nếu chúng ta mang Chúa trong mình cách sâu
đậm, chúng ta sẽ phản ứng chống lại cơn cám dỗ với sự sáng suốt và nghị lực mà
Thiên Chúa ban cho chúng ta. Điều này không có nghĩa là chúng ta được ơn không
thể bị sa ngã, trái lại là khác, song qua sự việc trên Chúa dạy chúng ta bằng
những danh từ nào, chúng ta phải dùng để đặt vấn đề sự cám dỗ. Cuối cùng, chỉ
còn lại cho chúng ta việc chính yếu phải lo, đó là lòng trung thành với Chúa,
chuyện không chiều theo chước cám dỗ tất nhiên sẽ đến
Chúng ta chỉ còn phải lo cầu xin Thiên Chúa gìn giữ chúng ta khỏi
sa chước cám dỗ. Chúng ta hãy cầu xin để Người hằng gìn giữ chúng ta khỏi những
cuộc tấn công của sa tan, khỏi những phản bội của sự yếu đuối của chính chúng
ta và khi mặc dầu vậy, Chúa vẫn cho phép cơn cám dỗ kéo đến, chúng ta hãy kêu
xin Người ban cho chúng ta đủ sáng suốt và sức mạnh để chống lại sự dữ.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một buổi chiều, cha bề trên một tu viện kia hỏi một tu sĩ: - Hôm
nay con đã làm gì?
- Cũng như những ngày khác, tu sĩ trả lời, con rất bận bịu mà
nguyên sức con không thể nào làm nổi, ngoài sự giúp đỡ của Chúa. Thưa cha, ngày
nào con cũng phải coi hai con chim ưng, giữ hai con nai, dạy hai con diều hâu,
thắng một con cá sấu, trị một con gấu và chăm sóc một bệnh nhân.
- Con nói gì thế? Cha bề trên cười hỏi lại, những việc như thế làm
gì có trong tu viện này?
- Thưa cha bề trên, thật đúng như thế. Hai con chim ưng là hai con
mắt của con, con phải gìn giữ cho nó luôn trong sáng, không để nó thu giữ những
hình ảnh xấu xa. Hai con nai là hai chân của con, con phải luôn trông coi từng
bước đi, để chúng bước đi trên nẻo chính đường ngay. Hai con diều hâu là hai
bàn tay của con, con phải luôn bắt nó làm những việc tốt. Con cá sấu là cái
lưỡi của con, con phải kìm hãm hằng ngày để nó khỏi thốt ra những lời nói thâm
độc và thô bỉ. Con gấu là trái tim của con, con phải trừng trị để khỏi ích kỷ
và phô trương. Còn bệnh nhân là chính thân xác con, con phải canh phòng ráo
riết để nhục dục không xâm nhập và luôn lành mạnh.
Tu sĩ này có lý, thưa anh chị em, vì sống là chiến đấu. Đời là một
cuộc trường kỳ chiến đấu, và cuộc chiến cam go nhất chính là cuộc chiến cam go
nhất chính là cuộc chiến với bản thân. Địch thù ẩn núp ngay trong bản thân mình
chứ không ở đâu xa. Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế cũng không thoát khỏi
cuộc chiến đấu này. Ngài đã quyết liệt chiến đấu và chiến thắng vẻ vang. Tin
Mừng hôm nay đã kể lại, lúc khởi đầu cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã được
Chúa Thánh Thần đưa vào sa mạc để chịu thử thách –tương tự như Ađam khi xưa ở
vườn Eden- Địa đàng, hay dân Do Thái 40 năm trong sa mạc để chịu thử thách.
Nhưng Ađam khi xưa trong vườn địa đàng đã nghe theo lời xúi giục của Satan đội
lốt con rắn, đã bất tuân lệnh Thiên Chúa, đã ăn trái cấm, vì không muốn làm
người mà muốn làm Thiên Chúa. Ông đã sa ngã trước thử thách, kéo theo hậu quả
khốc hại muôn đời cho con cháu loài người. Bốn mươi năm trong sa mạc cũng là
thời gian thử thách lâu dài đối với dân Do Thái. họ cũng đã sa ngã trước thử
thách: bao lần phản loạn, chống đối ông Môsê, kêu trách Thiên Chúa, muốn quay
trở lại Ai Cập với kiếp nô lệ hơn là tiến về Đất Hứa.
Còn Chúa Giêsu trong sa mạc 40 đêm ngày đã cương quyết trung thành
với Thiên Chúa, dứt khoát chọn lựa đứng về phía Thiên Chúa. Theo Thánh Matthêu
và Luca thì Satan đã dùng cơm bánh, quyền phép, danh vọng để cám dỗ Chúa Giêsu,
nhưng Ngài đã dùng lời Kinh Thánh để cương quyết khước từ cám dỗ và nói lên ý
muốn dứt khoát chọn lựa con đường của thánh ý Chúa Cha, con đường khổ nạn thập
giá. Cuối cùng Satan phải chịu rút lui, nhường chỗ cho các thiên thần đến phục
vụ Ngài. Chúa Giêsu đã chiến thắng cám dỗ. Sức mạnh làm cho Ngài chiến thắng
chính là Lời Chúa trong Kinh Thánh và thái độ cương quyết đứng về phía Thiên
Chúa, thực thi ý muốn của Chúa Cha.
Anh chị em thân mến,
Là tín hữu, chúng ta cũng có thể chiến thắng như Chúa Giêsu, nếu
chúng ta biết chọn đứng về phía Thiên Chúa, lắng nghe Lời Chúa và để Chúa hướng
dẫn đời sống chúng ta. Cuộc chiến đấu của Chúa Giêsu đã chứng tỏ: con người có
thể thắng được những chước mê hoặc dụ dỗ của Satan, nếu biết dựa vào sức mạnh
của Chúa. Cũng như Chúa Giêsu, chúng ta không chấp nhận thách thức Thiên Chúa,
chúng ta không theo Chúa chỉ vì miếng ăn, chỉ vì cơm bánh. Chúng ta không theo
Chúa để bắt Chúa phục vụ đời sống thể xác hay vật chất của chúng ta. Chúng ta
không coi Thiên Chúa như một sức mạnh phù phép để làm những việc phi thường, để
biểu diễn những pha ngoạn mục. Chúng ta cũng không lòn cúi, quy lụy Satan để
được làm chúa thiên hạ. Chính Thiên Chúa mới là Chủ tể vũ trụ, là Chúa của chúng
ta.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta.
Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta.
Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật
với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng
khi ông viết: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó
Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống
trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn
ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan. Ngày nay và hằng ngày vẫn
luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài,
tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng
ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống như
người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những
tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo
Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do
Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa
Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để
chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Thưa anh chị em,
Thử thách và sa mạc là để thanh luyện tâm hồn, để chuẩn bị cho một
cuộc sống mới tốt đẹp hơn, trong tương quan với Chúa và với anh chị em. Trong
sứ điệp Mùa Chay năm 1997, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Mùa Chay nhằm
giúp các tín hữu sống lại lộ trình 40 năm dân Israel đã trải qua trong sa mạc
trên đường về Đất Hứa, với một nỗ lực thanh luyện bản thân, ý thức tình trạng
nghèo khó và bấp bênh của cuộc sống và khám phá ra sự can thiệp quan phòng của
Chúa. Ngài mời gọi người tín hữu hãy mở đôi mắt để nhìn thấy nhu cầu cấp bách
nhất của anh em chúng ta. Bằng cách ấy, Mùa Chay cũng trở thành mùa liên đới
với những con người và với những dân tộc ở nhiều nơi trên thế giới đang sống
trong hoàn cảnh bấp bênh, tạm bợ, không cửa không nhà”. Đức Thánh Cha còn nói:
“Hãy đón nhận lời mời gọi hoán cải của Đức Kitô để gắn bó bền chặt hơn với
Thiên Chúa, Đấng Thánh và giàu lòng thương xót, cách riêng trong Mùa Chay, mùa
ân sủng này. Ước gì Mùa Chay sẽ giúp cho mỗi người biết lắng nghe tiếng Chúa mà
mở tâm hồn ra tiếp rước tất cả những người đang sống túng thiếu”… “Chính lúc tỏ
ra cởi mở và quảng đại mà Kitô hữu, với tính cách riêng rẽ hoặc tập thể, có thể
phục vụ Đức Kitô hiện diện trong người nghèo và làm chứng cho tình yêu của Thiên
Chúa. Đức Kitô đã đi trước chúng ta trên con đường này. Sự hiện diện của Ngài
là một sức mạnh và là một khích lệ: Ngài cho ta được tự do và trở thành những
chứng nhân của tình yêu thương”.
Anh chị em thân mến.
Nếu chúng ta có đi ngang qua bến phà Mỹ Thuận cách đây khoảng mười
năm, chúng ta sẽ thấy công trình Cầu mỗi ngày một hoàn chỉnh thêm. Mọi người
đều vui mừng chờ ngày được đặt chân vượt qua chiếc cầu để sang sông mà không
phải chờ đợi từng chuyến phà để vượt giòng nước chảy như cắt nữa. Nhưng tôi suy
nghĩ một điều: rồi đây sẽ có một số người không biết phải làm gì khi chiếc cầu
đã được thông thương. Trong số đó có những người bán hàng rong hằng ngày, những
người có những hàng quán cố định để phục vụ cho người đi lại qua bến phà. Chắc
chắn giờ đây họ phải ngồi lại, suy tính để tìm một giải pháp thích hợp cho cuộc
sống mới. Ngày giờ sẽ đến và họ không thể làm gì khác hơn là phải thay đỗi cuộc
sống. Tôi thiết nghĩ: không ai ngoan cố đến nỗi, vẫn cứ bám lấy cuộc sống cũ,
vẫn cứ thi hành nghề nghiệp cũ của mình, cho dù thời thế có thay đỗi thế nào đi
nữa. Nếu như thế thì họ đã chọn con đường tự đào hố để chôn chính mình. Không
ai muốn như thế bao giờ. Trái lại ngay từ bây giờ, và có lẽ đã từ lâu, họ đã
chuẩn bị để từ bỏ nếp sống cũ, bước vào đời sống mới tốt đẹ hơn. Đó là sự khôn
ngoan thông thường của cuộc sống.
"Thời kỳ đã mãn, nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn
năn sấm hối và tin vào tin mừng." Lời Chúa đã kêu gọi đân Do Thái cách đây
2000 năm. Kêu gọi họ ăn năn sấm hối, quây trở về với Chúa, bỏ nếp sống cũ mà
thi hành đời sống mới tốt đẹp hơn. Chúa Giêsu không chỉ kêu gọi suông, nhưng
Ngài đã làm gương, đã vào sa mạc yên tĩnh, để nhìn lại đời sống đã qua và tìm
hướng đi tốt cho những ngày sắp tới. Ngài đã làm hết mọi cách, những gì có thể
làm được, không bao giờ Ngài từ chối, cho dù phải hy sinh đến cả mạng sống.
Nhưng Ngài cũng hoàn toàn tôn trọng sự tự do của con người. Mọi sự Ngài đã
chuẩn bị sẵn sàng, chỉ cần con người biết nghe theo và hành động nữa thì tất cả
mọi sự sẽ tốt đẹp. Nhưng đã trải qua 2000 năm lịch sử, mặc dù có rất nhiều
người đã thay đỗi cuộc sống. Đồng thời cũng có rất nhiều người vẫn cứ liều mình
bám vào đời sống chẵng mấy tốt đẹp, mặc dù họ vẫn biết đó là con đường tự tiêu
diệt chính mình. Họ vẫn cứ bám lấy và không chịu thay đỗi.
Hôm nay chúng ta đã bước vào mùa chay. Thiên Chúa kêu gọi mỗi
người ăn năn sám hối, vì nước trời đã gần đến. Không phải nước trời đến cho
chúng ta nhìn thấy. Nhưng nước trời đến bất chợt đối với từng người trong chúng
ta. Ai trong chúng ta cũng biết điều đó và biết rất rỏ. Vậy mà lời kêu mời nầy
đã vang động bên tai chúng ta không biết bao lâu và cũng không biết bao nhiêu
lần. Thế mà dường như chúng ta chẵng cần biết đến làm gì, vì nó làm cho chúng
ta cảm thấy khó chịu khi phải nghe những lời như thế. Đôi khi nó còn làm cho
mình quen quá hóa ra nhàm chán và không cần để ý đến. Vậy chúng ta cũng giống
như những người ở bến phà Mỹ thuận, biết làm ăn không được mà vẫn cứ cố lì
không chịu tìm cách để thay đỗi cuộc sống cho thích hợp. Chúng ta cứ suy nghĩ
xem: Đã bao nhiêu mùa chay đã qua trong đời sống của mình rồi, chúng ta đã nghe
bao nhiêu lần lời kêu gọi ăn năn sám hối. Chúng ta cũng nghe không biết bao
nhiêu lần lời thông báo nước trời đã gần đến. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng: đó chỉ là
lời nói cho người khác, chứ không phải nói cho chính mình. Thử nhìn lại cuộc
sống của mình xem, chúng ta đã thực hiện như thế nào đối với lời mời gọi đó.
Nếu đới sống chúng ta vẫn cứ bình thường như từ trước đến nay, không có gì đỗi
mới cũng không có gì tiến bộ, đó là mình chưa ăn năn sám hối, chưa biết thay
đỗi cuộc sống cho tốt đẹp. Nhưng mà, tôi có gì đâu để sám hối, tôi có làm gì
xấu đâu để mà thay đỗi, ông nọ bà kia mới cần thay đỗi , mới cần sám hối. Đó là
những lời chúng ta thường tự nói với chính mình như thế. Nhưng đó cũng là một
cách làm cho con người của mình trở nên chai lì khô cứng không thể thay đỗi
được. Như vậy làm sao chúng ta có thể chuẩn bị sẵn sàng, để đón nước Thiên Chúa
đã gần đến. Nếu giờ nầy bất ngờ Chúa kêu gọi, mỗi người sẽ trả lời ra sao về sự
chuẩn bị của mình.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe lời
Chúa và biết nhìn thấy chính mình thật sự, để biết đỗi mới đời sống cho xứng
đáng bước vào nước trời.
Ai yêu bóng đá đều say mê theo dõi những trận đấu đỉnh cao giữa
các đội ngoại hạng Anh, hoặc giữa các đội tranh Cúp C1. Ta say mê vì các cầu
thủ siêu hạng phô diễn kỹ thuật cá nhân điêu luyện, các đội bóng di chuyển
chiến thuật kỳ ảo, các bài bản tinh vi của các huấn luyện viên bậc thầy, các
pha phối hợp đẹp mắt giữa các cầu thủ. Không phải tự nhiên mà các cầu thủ chơi
bóng giỏi đến mức độ nghệ thuật như thế. Họ phải mất nhiều thời gian tập luyện.
Tập luyện để đạt được kỹ thuật cá nhân điêu luyện. Tập luyện để có thể lực dẻo
dai. Tập luyện để có những xử lý thông minh theo tình huống. Tập luyện để hiểu
nhau tiến đến những pha phối hợp nhịp nhàng ăn ý. Những buổi tập rất nghiêm
ngặt, đòi hỏi cầu thủ phải có quyết tâm cao, có tinh thần kỷ luật nghiêm túc.
Ai không chịu nổi các bài tập khó, sẽ bỏ cuộc. Ai vượt qua được những buổi tập
nghiêm túc sẽ trở thành những cầu thủ giỏi.
Đời sống tâm linh là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu với ba thù: ma
quỷ, xác thịt, thế gian. Để có đủ khả năng chiến đấu, ta phải được rèn luyện,
phải trải qua những thử thách. Đức Giêsu, sau khi chịu phép rửa, được Thánh
Thần đưa vào hoang địa để chịu thử thách.
Hoang địa là nơi hoang vu không nhà không cửa, không người thân,
không cây cối, tức là không có một tiện nghi tối thiểu nào, không có một nguồn
trợ lực nào. Chỉ có cát đá, thú dữ, ma quỷ, tức là chỉ có những khó khăn thách
đố bắt ta phải chiến đấu, phải đương đầu.
Cuộc chiến đấu thứ nhất mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến
đấu với thiên nhiên. Người sống trong hoang địa phải chống chọi với thiên nhiên khắc
nghiệt. Tại các sa mạc cát phủ, đêm thì lạnh thấu xương, ngày thì nóng như
thiêu. Hầu như không có thực phẩm. Người sống trong hoang địa phải chịu đói,
chịu khát, chịu cái nóng nung người, chịu cái lạnh cắt da, chịu tất cả mọi thiếu
thốn của đời sống thường ngày. Xưa, dân Do Thái được Chúa đưa vào nơi hoang địa
để huấn luyện trước khi đưa họ vào Đất Hứa. Trong hoang địa, người Do Thái
không chịu nổi những thiếu thốn, nên đã nhiều lần nổi loạn chống lại Chúa,
chống lại ông Môsê, muốn quay trở lại làm nô lệ bên Ai cập để được ăn no ngủ
kỹ. Trái lại, tổ phụ Abraham đã chấp nhận vượt qua hoang địa, nên đã tới Đất
Hứa, tiên tri Êlia đã vượt qua hoang địa 40 đêm ngày, nên đã đi đến núi của
Thiên Chúa. Và hôm nay, Đức Giêsu đã thắng được cái lạnh, cái nóng và nhất là
đã thắng được cái đói cái khát, đã hoàn toàn làm chủ được bản thân trước những
nhu cầu của thân xác.
Cuộc chiến đấu thứ hai mà Đức Giêsu phải trải qua là cuộc chiến
đấu chống lại ma quỷ. Thiên Chúa cho phép ma quỷ thử thách con người. Từ tạo thiên lập
địa, hai ông bà nguyên tổ đã bị ma quỷ cám dỗ và đã thua cuộc. Ông thánh Gióp
cũng đã bị ma quỷ thử thách, mất hết tài sản, mất hết con cái, mất hết danh dự.
Nhờ kiên quyết trung thành với Chúa đến cùng, ông đã thắng được ma quỷ. Đức
Giêsu đã thắng vượt mọi cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới nhờ Người vững lòng tin ở
Thiên Chúa. Những cơn cám dỗ của ma quỷ thường là cám dỗ về đức tin. Adong và
Evà không vững lòng tin nên đã sa ngã. Ông thánh Gióp vững lòng tin nên luôn
đứng vững qua mọi thử thách. Đức Giêsu luôn vững niềm tin vào Chúa Cha, nên đã
chiến thắng mọi cơn cám dỗ thâm độc nhất của ma quỷ.
Cuộc chiến đấu thứ ba mà Đức Giêsu đã trải qua là cuộc chiến đấu
từ bỏ ý riêng để tìm thánh ý Chúa Cha. Hai ông bà nguyên tổ đã tìm ý riêng hơn ý Chúa, nên đã đi trệch
đường. Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Chúa Cha, nên Người đã từ bỏ con đường rộng
để đi vào con đường hẹp, từ bỏ con đường dễ để đi vào con đường nghèo hèn, từ
bỏ con đường riêng tư để đi vào con đường Chúa Cha đã định. Nên Người đã toàn thắng
trong cuộc chiến đấu.
Hoang địa không phải chỉ là nơi thử thách. Hoang địa còn là nơi
gặp gỡ Chúa. Sau khi đã thắng vượt tất cả các cuộc thử thách, ta sẽ gặp được
Chúa, sẽ sống thân tình với Chúa và sẽ hoàn toàn thuộc về Chúa. Ông Môsê, sau
40 đêm ngày ở trên núi Sinai, đã trở nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Mặt ông trở
nên sáng láng đến nỗi dân Do Thái không dám nhìn thẳng vào. Tiên tri Êlia, sau
khi đi 40 đêm ngày, đã tới núi của Chúa và đã gặp được Chúa. Đức Giêsu đã gặp
gỡ Chúa Cha, đã tìm được ý Chúa Cha và đã kết hiệp mật thiết với Chúa Cha đến
độ từ nay Người trọn vẹn thuộc về Chúa Cha. Thánh ý Chúa Cha đã trở thành kim
chỉ nam hướng dẫn đời Người. Thi hành thánh ý Chúa Cha trở thành lương thực
nuôi dưỡng Người. Người sẽ hy sinh tất cả, kể cả mạng sống để cho thánh ý Chúa
Cha được nên trọn. Chính vì thế mà Người đã được gọi là “Con yêu dấu” của Chúa
Cha.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội mời gọi ta hãy vào hoang địa với Đức
Giêsu để chịu thử thách, để rèn luyện đời sống tâm linh cho vững mạnh, kiên
cường. Ta không có điều kiện để vào nơi hoang vắng, nhưng ta vẫn có thể vào
hoang địa của cuộc đời.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận những
khó khăn, thiếu thốn trong đời sống, dù đói nghèo vẫn giữ được tâm hồn tự do,
không chịu nô lệ vật chất.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là kiên cường chống trả mọi
cơn cám dỗ ma quỷ đưa tới, luôn vững niềm tin vào Chúa dù gặp những khó khăn
thử thách.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là từ bỏ những ý riêng để luôn
tìm thánh ý Chúa, sẵn sàng thực hành thánh ý Chúa, dù có phải đau đớn, thiệt
thòi.
Vào hoang địa của cuộc đời có nghĩa là giữ tâm hồn bình an thanh
thản để gặp gỡ Chúa, tiếp xúc thân mật với Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa để trở
nên “Con yêu dấu” của Chúa.
Nếu ta chuyên tâm rèn luyện trong suốt mùa Chay, tâm hồn ta sẽ trở
nên vững mạnh chống lại được những cám dỗ ma quỷ đưa tới; nhanh nhẹn dấn thân
vào những việc đạo đức không ngại khó khăn vất vả; quen từ bỏ ý riêng để tuân
theo ý Chúa và sẽ trở nên Con hiếu thảo của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có quen chấp nhận những điều khó chịu không?
2- Bạn đã bị cám dỗ bao giờ chưa? Bạn đã chống trả thế nào?
3- Mùa Chay này, bạn sẽ sống thế nào để thêm lòng mến Chúa yêu
người?
4- Bạn có thường từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa không?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Mỗi khi bắt đầu mùa Chay, Hội Thánh lại mời chúng ta vào hoang địa
với Đức Giêsu. Chính Thánh Thần đã dẫn đưa Ngài đến nơi đó, ngay sau khi Ngài
chịu phép rửa của Gioan và nhận được Thánh Thần để lên đường đi sứ vụ.
Bốn mươi ngày sống trong cô tịch và cầu nguyện. Một cuộc tĩnh tâm
để định hướng tương lai, qua đó Đức Giêsu thấy rõ con đường Ngài phải đi, và
qua đó Ngài cũng thấy mình bị Xatan cám dỗ.
Mùa Chay là thời gian trở lại với Chúa và nhận ra những cám dỗ
đang bủa vây tôi, những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới. Nếu đời tôi
là một chuỗi những chọn lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Tôi có tự do để chọn giữa cái tốt và cái xấu. Giữa những cái tốt,
tôi có tự do để chọn cái tốt hơn. Biết mình đã lạc hướng hay lệch hướng là điều
cần thiết.
Con người hôm nay không yếu đuối hơn ngày xưa. Nhưng có lẽ nó bị
cám dỗ nhiều hơn xưa, vì cuộc sống tiến bộ cho người ta nhiều chọn lựa. Tôi
phải chọn kênh truyền hình, chọn băng video, chọn một loại vải, một kiểu áo,
chọn chỗ giải trí tối nay.
Có những áp lực đè nặng trên chọn lựa của tôi: áp lực của quảng
cáo, khuyến mãi, áp lực của mode, của bạn bè, của dư luận... Có những mời mọc
nhắm vào các giác quan của tôi. Các giác quan như những cánh của mở của căn nhà
trống trải. Bao kích thích khêu gợi như luồng gió lùa vào nhà. Thắng được những
đòi hỏi vô độ của thân xác đòi hỏi một sự tự chủ lớn lao. Thắng được những đam
mê mù quáng của con tim cần có một thái độ anh hùng từ bỏ. Thắng được sự cứng
cỏi, cố chấp của trí tuệ cần có một lòng khiêm tốn mở ra trước chân lý.
Cuộc đời là một cuộc chiến đấu không ngừng, vì con người vẫn
nghiêng như tháp Pizza. Cần phải tập nghiêng về điều ngược lại để tạo lập được
sự quân bình trong cuộc sống.
Nói cho cùng, cám dỗ nào cũng khiến con người khép kín, chỉ nghĩ
đến mình và sống cho mình. Cám dỗ im lặng vì sợ liên lụy. Cám dỗ giả mù trước
sự thật rành rành. Cám dỗ thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân. Cám dỗ sống một
đời sống tầm thường và buông thả. Cái cao cả của con người là chiến đấu và chiến
thắng. Chỉ khi nhận Thiên Chúa và tha nhân làm trung tâm, con người mới thành
người trọn vẹn.
Ước gì mỗi Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng
sự nặng nề, nhỏ mọn của mình. Nhưng trước hết, chúng ta cần ăn chay và cầu
nguyện.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng cần có bản lãnh để
làm chủ. Bạn thấy khi nào con người bị coi là làm nô lệ cho của cải vật chất?
Không những phải chống lại cơn cám dỗ, mà còn phải xa tránh những
nơi, những con người có thể đưa đến cám dỗ. Theo ý bạn, người trẻ hay bị cám dỗ
ở đâu? Với ai?
Cầu Nguyện
Như đoá sen trong đầm lầy, xin giữ tâm hồn con thanh khiết.
Giữa một thế giới đầy hình ảnh vẩn đục, xin gìn giữ mắt con.
Giữa một thế giới tôn thờ khoái lạc, xin dạy con biết trân trọng
thân xác.
Giữa một thế giới bị ám ảnh bởi tình dục, xin thanh lọc trí tưởng
tượng của con.
Xin nâng con lên cao vượt qua những thèm muốn chiếm đoạt, để biết
tự hiến trong yêu thương.
Xin đừng để con phung phí sức lực vào những chuyện tình cảm chóng
qua, nhưng giúp con tự rèn luyện mình để gánh vác cuộc sống Chúa mời gọi.
Như đóa sen trong đầm lầy, xin giữ thân xác con thanh khiết.
Theo chu kỳ của phụng vụ, Mùa Chay bao giờ cũng bắt đầu bằng
thứ tư Lễ Tro. Và hôm nay, chúng ta chính thức bước vào Chúa nhật thứ nhất của
Mùa Chay. Ai trong chúng ta chẳng biết rằng Mùa Chay là mùa của sám hối và hoán
cải. Nói cách khác, mùa chay là một hành trình của hoán cải. Hành trình đó được
khởi đi từ trong sa mạc. Sa mạc là mảnh đất mênh mông đầy những thế lực thù
nghịch. Sa mạc là nơi hoang vu, không nhà cửa, không người thân, không bạn bè,
không lương thực, và còn nhiều cái không khác nữa. Vì thế một người khi bước
vào trong sa mạc là bước vào 1 cuộc chiến đấu và đối diện với những cái không
đó. Khó khăn! Thử thách! Cô đơn! Nhưng bên cạnh đó, sa mạc cũng còn là nơi gặp
gỡ Thiên Chúa nữa.
Hôm nay thánh Marcô nói rằng Chúa Giêsu vào trong sa mạc để chịu
ma quỷ cám dỗ. Người ở trong hoang địa 40 đêm ngày sống giữa loài dã thú. Thời
gian 40 đêm ngày không phài là dài lắm. Nhưng với một người đang chịu thử
thách, phải đối diện với những khó khăn, phải sống trong cô cơn thì đó là
khỏang thời gian không phải là ngắn. Theo ngôn ngữ của Kinh Thánh: số 40 là con
số hàm chứa nhiều ý nghĩa: là con số tượng trưng sửa soạn cho một cuộc khởi đầu
mới. Nó gọi về những giai đoạn và cột mốc quan trọng trong lịch sử cứu độ: nước
Đại hồng thuỷ đã tràn ngập mặt đất 40 ngày và 40 đêm, trước khi Thên Chúa lập
giao ước với ông Noe và dòng dõi. Trong suốt 40 ngày và 40 đêm là khoảng thời
gian ông Môsê chuẩn bị trên núi Sinai lãnh nhận lề luật của Giao ước trước khi
truyền lại cho dân. Trong suốt 40 năm, đám con cháu và dòng dõi của tổ phụ
Abraham và Giacóp được Chúa giải thoát khỏi ách nô lệ bên Ai cập đã dong duỗi
hành trình trong sa mạc trước khi tiến vào đất Hứa. Cũng trong khoảng
thời gian 40 đêm ngày, ngôn sứ Elia đã đi bộ về núi Hôrép, núi của Thiên Chúa
để lãnh nhận sứ mạng tái lập Giao ước.
Chúa Giêsu đã trải qua một gai đoạn đầy cam go và thử thách trong
sa mạc . Và chính vì phải sống trong giai đoạn như thế, nên trong nội tâm
của Chúa Giêsu lập tức xuất hiện một cám dỗ muốn tìm một thoải mái,
dễ chịu. Một cám dỗ rất người và rất đời thường! Thế nhưng Chúa Giêsu của chúng
ta đã vượt qua. Người đã thắng được cái nóng cái, cái lạnh, cái đói, cái khát
và đã hoàn tòan làm chủ được bản thân trước những nhu cầu của thân xác. Có lẽ
anh chị em và các bạn nói rằng: Tại vì Đức Giêsu là Chúa mà nên Người dễ dàng
vượt qua những cám dỗ đó, đồng thời chế ngự được những đòi hỏi của xác thân.
Nhưng xin anh chị em đừng quên. Xin đừng quên rằng ngoài bản tính là Thiên
Chúa, thì ở bên cạnh và bên trong một Thiên Chúa đó vẫn còn có đó một Giêsu rất
người. Người vẫn có những nhu cầu và những đòi hỏi của thân xác giống như chúng
ta. Bằng chứng là sau cơn cám dỗ đó, Người cảm thấy đói. Hơn nữa, ỏ trong vuờn
Giêtsêmani, khi đứng trước khổ hình thập giá, Người đã khiếp sợ. Sợ đến chảy mồ
hôi, nặng như những giọt máu rơi xuống đất. Và cũng chính trong giây phút hoảng
sợ đó, chính người đã phải thốt lên một lời rất thê thảm nhưng rất đẹp: "
Abba! Cha ơi! Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm
điều con muốn, mà làm điều cha muốn" Ở đời ai dại gì lại tìm cho mình đau
khổ, mất mát thiệt thòi mà không thích tìm sự tiện nghi thoải mái và dễ chịu.
Vì đó là nhu cầu của thân xác.
Và để có được sự tiên nghi, thoải mái và dễ chịu thì phải có tiền,
phải có quyền. Bởi lẽ, người ta thường nghĩ rằng khi tôi có tiền thì tôi sẽ có
tất cả. Khi tôi có quyền thì tôi tha hồ mà tự tung tự tác, tha hồ tác quai tác
quái. Thế cho nên những cám dỗ mà Chúa Giêsu trải qua hôm nay , mặc dù thánh
Marco không nói chi tiết cho bằng thánh Matthêu và thánh Luca, nhưng tôi tưởng rằng
đấy là những cơn cám dỗ của tiền bạc, của quyền lợi, của kỷ thuật(khuyng hướng
của thời đại hôm nay, người ta muốn thay thế và chối bỏ quyền của Thiên Chúa
bằng Kỷ Thuật trị (Technocracy), mà người ta quen gọi là những cám dỗ của danh,
lợi, thú, thì lúc nào cũng vẫn là những cám dỗ rất lớn và rất mạnh của mọi thời
và cho mọi người.
Và chính vì nhu cầu căn bản mà lại rất lớn đó mà người ta tìm đủ
cách để đáp ứng cho bằng được bằng nhiều cách, bằng nhiều con đường khác nhau.
kể cả bằng những con đường phi nhân nhất, tàn bạo nhất, mất đạo đức nhất.
Kính thưa ông bà, anh chị em và các bạn, hôm nay, trong sa mạc,
Chúa Giêsu đã vượt qua được những cám dỗ là những đòi hỏi của thân xác. Hình
ảnh sa mạc ngày xưa của Chúa Giêsu gọi về những sa mạc hôm nay trong đó luôn
luôn có những cám dỗ bủa vây chúng ta.
Những cám dỗ mới hay cám dỗ cũ dưới lớp áo mới .
Cám dỗ của chọn lựa giữa cái tốt và cái xấu .
Cám dỗ muốn tách mình ra khỏi quỹ đạo của Thiên Chúa.
Cám dỗ của sự khước từ Thiên Chúa và thay thế bằng thần Mamon và
con người muốn làm trung tâm của thế giới.
Cám dỗ của khép kín, chỉ nghĩ đến mình và chỉ sống cho mình.
Cám dỗ của im lặng vì sợ liên luỵ
Cám dỗ giả mù trước thật hiển nhiên.
Cám dỗ của thỏa hiệp với sự dữ để được yên thân.
Cám dỗ muốn sống một đời tầm thường và buông thả
Cám dỗ của hưởng thụ và tiện nghi.
Cám dỗ của tiền
Cám dỗ của quyền
Cám dỗ của thế gian. .....................
Và cám dỗ nào cũng rất tinh vi.
Vậy làm sao để ta nhận diện đâu là những cám dỗ đó. Và bằng cách
nào để ta vượt qua?
Kính thưa ông bà anh, chị em và các bạn!
Hôm nay khi thuật lại việc Chúa Giêsu đi vào trong sa mạc để chịu
ma quỷ cám dỗ, có một chi tiết không thể bỏ qua. Chi tiết này đáng lý tôi phải
nói đầu tiên trong bài chia sẻ này, nhưng tôi cố ý nói sau cùng. Chi tiết đó
là: Thánh Marco bắt đầu câu chuyện Tin Mừng bằng cách nói rằng: Thánh Thần liền
đẩy Người vào trong sa mạc. Hay lắm! Cho nên tất cả 40 ngày trong sa mạc, trong
chay tịnh và những cơn cám dỗ mà Chúa Giêsu đã trải qua và Người đã chiến thắng
là nằm trong tác động của Thánh Thần. Tác động của Thánh Thần chính là điều mà
người công giáo vẫn quen gọi bằng một cụm từ khác thay thế: đời sống thiêng
liêng, đời sống thuộc linh- thuộc về Chúa Thánh Thần.
Thế cho nên, thưa ông bà, anh chị em và các bạn! Trong Chúa nhật
thứ nhất của Mùa Chay này, tôi nghĩ lời chúa nói với chúng ta không gì khác hơn
là một lời mời gọi chúng ta: Hãy lấy lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu. Đó là kinh
nghiệm lắng nghe tác động của Thánh Thần. Đó là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta
khi đối diện với những cám dỗ của đời thường, chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua.
Và Thánh thần nói với chúng ta khi nào và ở đâu, nếu không phải là trong sa mạc
và trong thinh lặng.
Cuối cùng! Ước gì chúng ta hãy buông mình để cho Thánh Thần tác
động. Và một khi chúng mình được Thánh Thần tác động, tâm hồn ta sẽ được đổi
mới, được bình an, thanh thoát và nhẹ nhàng. Nếu được như thế, chúng ta sẽ cảm
nhận bên cạnh mùa sám hối và hoán cải, mùa chay còn là "Mùa Xuân Thánh
Thiện". Amen.
Một đôi vợ chồng đã sống với nhau 25 năm và xem ra họ là một cặp
xứng đôi vừa lứa hoan hỷ long phụng. Hai vợ chồng có việc làm tốt. Họ cùng nhau
đi nhà thờ mỗi Chúa Nhật và cầu nguyện mỗi tối trước ngày họ về hưu. Song giữa
họ có một vấn đề xem ra khó mà vượt qua, đó là cứ mỗi lần nói chuyện là một lần
họ cãi nhau. Cuối cùng, bà vợ như đã ứ tới cổ, đương nhiên vì đạo giáo họ không
thể ly dị, nên bà mới nghĩ ra một cách. Vào buổi tối kia khi hai người bắt đầu
buổi cầu nguyện chung thì bà nói với ông chồng, "Tôi và ông không thể tiếp
tục sống mà cứ cãi cọ với nhau như thế này mãi được, chúng mình phải chấm dứt
tình trạng này ngay. Nhân đây là ngày đầu tiên của mùa Chay, tại sao tôi và ông
không cầu xin Chúa làm ơn thay đổi cách sống này. Vợ chồng mình hãy cầu xin
Chúa gọi một người trong chúng ta về với Ngài".
Với lối ý kiến như thế ai cũng thấy điều bà vợ nói là sai với tinh
thần của mùa Chay, bởi vì điều thiết yếu của mùa Chay là hồi tâm để canh tân
thay đổi chiều hướng ý tưởng cũ của cuộc sống để đời sống tương lai tốt lành
hơn. Chúng ta nghe Chúa gọi ta đi một hướng, còn ma quỉ thì quyến rũ ta về lối
khác; câu hỏi là "ta theo ai", sự quyết định lệ thuộc vào ta hoàn
toàn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nghe Chúa Cha gọi Ngài
theo một hướng sau khi chịu phép rửa và rồi ma quỉ quyến rũ Ngài theo hướng
khác. Chúa Giêsu ở một mình nơi hoang địa, sau bốn mươi ngày dài ăn chay thì
sức Ngài yếu đi và là dịp may cho Satan cám dỗ bởi khi ấy Ngài rất đói. Ngay
lập tức những hình ảnh cám dỗ thoả mãn tính xác thịt theo đuổi Ngài. "Tại
sao không biến những hòn đá kia thành bánh? Ta có thể làm điều đó và hơn nữa
khỏi phải đói!" Sau những ngày một mình trong hoang địa làm Ngài cảm thấy
cô đơn. "Tại sao Ta không làm cái gì đó kỳ lạ để mọi người chú ý? Chẳng
hạn nhảy từ ghềnh đá cao này xuống dưới vực sâu mà không bị thương tổn? Chà
chà, người ta sẽ nhìn thấy và kéo đến đông biết chừng nào, khi ấy Ta hết cô
đơn!" Bốn mươi ngày Ngài tự xét đã nhìn thấy những ý tưởng về công cuộc
truyền bá của Ngài. "Tại sao Ta không là một anh hùng dũng sĩ như người ta
mong chờ nơi Đấng Thiên Sai? Ta sẽ đầy quyền hành và giàu có. Ta có thể làm
điều ấy và sẽ không còn nỗi sợ bất an nữa!" Những quyền lực hung mãnh trên
sa mạc thế giới cho chúng ta biết rằng đơn hành trên sa mạc mà thiếu các dự bị
thiết yếu thì chỉ có hai cách chọn: một là cố tự bảo vệ cho đến khi trợ giúp
tới, hai là để cho sự sợ hãi chiếm lĩnh. Một chuyên gia thám hiểm sa mạc đã
viết: "Chỉ có người đã tự chuẩn bị cho mình đầy đủ mới có thể sống sót qua
sa mạc". Chúa Giêsu đã không hoảng sợ khi mình Ngài đi qua hoang mạc và
Ngài cũng chẳng lo âu khi đối mặt với sức mạnh cám dỗ ghê gớm của ma quỉ. Ngài
đã tự chuẩn bị cho mình cách hoàn hảo nhất, như Thánh Kinh đã cho ta biết
"Ngài đã ăn chay cầu nguyện bốn mươi đêm ngày". Theo truyền thống của
Cựu Ước, ăn chay là một cử chỉ tôn giáo cao cả với ý muốn tăng thêm sức mạnh ý
chí qua cầu nguyện và chiêm ngắm. Như thế, bằng cách tự thanh luyện tâm hồn
mình qua ăn chay cầu nguyện, Chúa Giêsu đã chọn lựa cách hành động luân lý rõ
ràng với chủ ý theo tiếng gọi và chiều hướng trong công cuộc truyền bá Tin Mừng
của Ngài. Ngài đã nói, "Hãy xéo đi Satan! Vì có lời Thánh Kinh đã viết:
Ngươi chỉ tùng phục một Thiên Chúa mà thôi, và chỉ tôn thờ một mình Ngài"
(Mt 4,10).
Đời sống là những chuỗi dài của núi cao và thung lũng. Chẳng ai
trong chúng ta có thể trốn tránh hết những kinh nghiệm hoang mạc, đó là những
giờ phút ta cảm thấy tâm hồn bơ vơ trống vắng, lạnh lẽo cô đơn. Chắc chắn rằng,
vào những giờ phút đó, cầu nguyện là điều cần thiết nhất cho chúng ta.
Mặc dầu chúng ta có sợ hãi trong cô đơn lẻ loi và thất bại trong
cuộc tìm kiếm để thoát cảnh lạnh giá của cuộc sống, nhưng chúng ta đừng thất
đảm. Chúng ta cần cầu nguyện, cần phải thôi nói với chính mình để có thể nghe
được tiếng của Chúa là Cha nói trong tâm hồn chúng ta. Trong hoang mạc của đời
sống vô nghĩa xem ra mọi cái đều trở nên tiêu tan, vô mục đích, vô ý nghĩa, nó
tựa như một trò đùa ghê tởm bao bọc chúng ta bởi quyền lực bên ngoài mà chúng
ta không hiểu nổi. Chỉ có một lối thoát, một lối tìm ra ý nghĩa xác thực và
cùng đích của cuộc sống của chúng ta; chỉ có một con đường để tìm ra ta là ai
và ta phải làm gì, đó là lắng nghe và lắng nghe tiếng Chúa Kitô trong tâm hồn
ta. Có thể sẽ phải trải qua bốn mươi ngày đêm hoặc sẽ lâu hơn thế nữa để Tin
Mừng của Chúa thấu nhập tâm hồn, nhưng điều quan trọng cần thiết là ta phải
tiếp tục lắng nghe không nản lòng. Khi ta ngừng nghe tiếng Chúa thì là lúc ta
thiếu chuẩn bị để xua đuổi sự nguy hiểm của thất đảm, nỗi trống rỗng sẽ bao bọc
và là dịp thuận tiện để ma quỉ tiến vào đánh giết chúng ta.
Cơn cám dỗ có thể là ước muốn một mình ra đi, ta có thể đi qua ánh
sáng không cần Chúa. Nó là sự cám dỗ khi nói rằng chúng ta có thể tự tìm ra câu
trả lời "tại sao" cho cuộc sống; và nó là sự cám dỗ làm chúng ta tự
hình thành những "thần tượng" nhỏ bé trong tâm hồn chúng ta. Ta phải
tự nói với chính mình rằng, "Tôi cần Thiên Chúa nói cho tôi biết tôi là
ai, tại sao tôi như vầy và tôi sẽ đi về đâu? Tôi cần Thiên Chúa dẫn đưa tôi ra khỏi
sự trống rỗng đến ánh sáng tạo dựng của Ngài và Ngài nói cho tôi biết sự toàn
hảo của tôi nằm ở đâu? Hãy tránh xa ta đồ quỉ dữ Satan, vì ngay từ đầu Thiên
Chúa là Đấng tạo dựng trời đất, tất cả... Ta chỉ tôn thờ một mình Ngài".
Gặp gỡ và theo Chúa Kitô trong việc tìm kiếm Nước Chúa trước tiên
là một sự thay đổi tính chất cuộc sống của chúng ta, nó không đơn giản chỉ là
tăng thêm cái gì đó vào đời sống; song đúng hơn là một tính chất mới mẻ nảy
sinh trong tâm hồn. Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết là chúng ta đón nhận nguyên
cuộc sống mới, một quà tặng từ Quyền Năng của tương lai đó chính là Thiên Chúa
Cha của chúng ta. Mỗi giây phút ta sống không chỉ là cái gì nối tiếp từ quá khứ
song là một sự tạo dựng mới. Mỗi hơi ta thở không chỉ là hoạt động sinh lý tự
nhiên nhưng là hành động đón nhận từng món quà từ chính sự sống. Món quà của sự
sống mới này, chúng ta có được từ cuộc chiến thắng khải hoàn của Chúa Kitô,
vĩnh viễn bất tận ngay cả sự chết cũng không làm gì được.
Đó chính là sự thành quả hy vọng, công chính được thoả mãn, tình
yêu được tràn đầy, chân lý sẽ toàn thắng.
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan)
Không còn gì nghi ngờ nữa. Hôm nay Mùa Chay đã 'nói trúng tim đen
của chúng ta' rồi đấy, và làm rung động tận chốn thâm cung tâm hồn chúng ta.
Mùa Chay kêu gọi chúng ta từ bỏ tội lỗi và trung tín với tình yêu Thiên Chúa.
Chay tịnh, cầu nguyện, bố thí xưa nay là những việc làm chính yếu của Mùa Chay.
Đó là những khí cụ chúng ta được khuyên dùng để dễ dàng tiến lại gần bên Thiên
Chúa hơn, trong khi vẫn phải hành trình tiếp tục suốt đời. Đối với một số
người, thì Mùa Chay đồng nghĩa với bỏ rượu, bỏ thuốc lá, trong khi những người
khác lại thấy Mùa Chay là thời gian đi nhà thờ hằng ngày... Cho dù chúng ta
thực hiện kiểu chay tịnh cách nào, thì động cơ thúc đẩy chúng ta mới là quan
trọng. Nếu chúng ta ăn chay hay ăn kiêng chỉ vì muốn có thân hình thon thả, hay
chúng ta làm phúc bố thí chỉ vì muốn được nể vì trong cộng đồng, thì những nỗ
lực của chúng ta cũng hơi uổng công vì chúng ta đã nhận được phần thưởng rồi và
vẫn chưa đến gần Chúa hơn là bao.
Khi khởi đầu sứ vụ công khai, Đức Chúa Giêsu đã đi vào hoang địa
suốt 40 ngày đêm - cũng vì thế mà ngày nay chúng ta tổ chức hẳn một Mùa Chay
Thánh. Giáo Hội muốn mọi người hãy sống lại kinh nghiệm của Chúa Giêsu là thiết
lập mối tương quan sâu đậm và tình nghĩa thân thiết hơn giữa Thiên Chúa với
chúng ta. Hành trình của chúng ta là một hành trình vào sa mạc nội tâm nơi đó
mình ta đối diện với Thiên Chúa trong tinh thần chân thực. Hoang mạc tâm hồn sẽ
giúp chúng ta nhìn lại bản thân xem chúng ta thực sự là ai, chúng ta làm gì với
những nén bạc Chúa trao, đồng thời sẽ giúp chúng ta ý thức hơn về tình trạng
tội lỗi của chính mình. Nhờ đó dần dần chúng ta sẽ đau lòng mà nhận ra mình cần
thay đổi và canh tân cách tranh đấu với sự dữ bằng cách cầu nguyện chay tỉnh và
đền tội. Việc chúng ta đền bù tội lỗi sẽ giúp chúng ta nhận thức được rằng
những mặt thiêng liêng của cuộc sống còn quan trọng hơn những khía cạnh vật
chất của nó. Một khi chúng ta ý thức được những lỗi lầm của bản thân, chúng ta
mới nhận ra nhu cầu cần thay đổi điều này điều khác.
Nếu chẳng may chúng ta nằm trong số những người chuyên chụp mũ cái
xấu lên đầu mọi người. Thì nay đi vào hoang mạc chính là cơ hội để chúng ta
nhìn kỹ lại cố tật ngồi lê đôi mách, nói hành nói tỏi, đổ vạ cáo gian của chúng
ta. Chỉ cần hứa từ nay sẽ giữ mồm kín miệng là đã có một phương thuốc hữu ích
rồi.
Chúng ta có thể dốc lòng làm vui lòng những người mà chúng ta
thường hay xung khắc hay ít ra là chúng ta không có cảm tình. Bỏ rượu chè cờ
bạc có làm cho chúng ta mất mát gì đâu nếu như những thứ đó chỉ tổ là những
nguyên nhân gây xào xáo làm cho gia đình mất hạnh phúc...? Cầu nguyện hằng ngày
rất quan trọng cho tất cả chúng ta vì đó là mối giây liên lạc sinh tử giữa
chúng ta với Thiên Chúa. Ngay như mối liên hệ giữa chúng ta với Đức Kitô cũng
không thể thành tựu nếu không thực hành cầu nguyện. Chúng ta phải dành ưu tiên
số một cho việc cầu nguyện, một phương thế cũng cố đức tin đức cậy và đức mến,
nghĩa là cầu nguyện sẽ giúp chúng ta tăng cường niềm tin tưởng cậy trông và đem
chúng ta đến gần gũi Thiên Chúa hơn.
Mùa Chay là thời gian dành cho chúng ta tìm đến tâm linh, kêu mời
chúng ta nhận ra tiếng gọi của Thiên Chúa trong mọi phương diện của cuộc sống
và từng bước thực hành đương đầu với những xấu xa của tội lỗi và ích kỷ bên
trong chúng ta.
Mùa Chay là mùa kêu gọi chúng ta thay đổi hành vi thái cử vì những
thói hư tật xấu cố hữu trong chúng ta lâu nay làm thui chột sức tăng trưởng của
chúng ta trong tình yêu của Thiên Chúa. Đây là thời gian chúng ta cần trân
trọng đón nhận ân sủng, nếu chúng ta có ý muốn Mùa Chay trở nên một kinh nghiệm
thanh luyện đời sống thiêng liêng. Cần nói "không " với bản thân và
nói "có " với Thiên Chúa là tất cả những gì phải làm trong cuộc phấn
đấu nơi hoang mạc Mùa Chay này.
“Anh em phải sám hối và tin vào Tin Mừng”
Vào đầu thế kỷ 20, một văn sĩ người Anh đã kể lại trong cuốn tiểu
thuyết “Bầu trời và Thập giá” của ông, truyện một người thù ghét thập giá. Thấy
thập giá ở đâu là anh ta tìm cách phá huỷ. Gặp một bức vẽ có hình thập giá là
anh xé bỏ. Vợ anh mang một thập giá nhỏ bằng vàng, anh cũng lừa giật được và
ném đi. Anh bảo: “Thập giá là biểu tượng sự độc ác dã man đối nghịch với niềm
vui và cuộc sống".
Lòng căm ghét thập giá ăn sâu và tâm tư anh, đến mức thấy bóng
thập giá là anh như điên dại. Không chịu nổi, có lần anh leo lên tận tháp
chuông nhà thờ để phá huỷ cây thập giá trên đó. Lần khác, anh đập tan cái ban
công nhà vì ở đó anh thấy nhiều chỗ có hình thập giá… Anh nhìn đâu cũng thấy
thập giá. cuối cùng anh nổi giận đốt luôn căn nhà của mình và bị chết cháy.
Câu chuyện cốt đi tới một kết luận: Kể từ cái chết của Chúa Giêsu,
thập giá đã nên biểu tượng của chiến thắng, đó là chiến thắng của tình yêu. Dẹp
bỏ thập giá là chối bỏ tình yêu, nâng cao hận thù và đưa thế giới tới chết
chóc, diệt vong.
Thập giá là biểu tượng niềm tin Kitô hữu và cũng là một thử thách
lớn lao cho niềm tin mỗi người. ngắm nhìn Chúa Giêsu trên thập giá, con người
không nhìn ra tình yêu cao cả của Thiên Chúa mà chỉ thấy vô lý khó chịu: “Nếu
ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi” (Mt 27, 40). Thử thách
này còn theo dõi mỗi người chúng ta, còn tác động trên cả Giáo hội. Người ta
vẫn tiềm tàng ý định đưa Chúa xuống khỏi thập giá, muốn Thiên Chúa biểu lộ
quyền năng thống trị, chứ không dấu ẩn, vì “Nhập thể” là hình thức “Yếu đuối”
(1 Cr, 1, 25). Một Thiên Chúa quyền uy là thông thường, là hợp lý, thích hợp
với mọi tôn giáo…. Nhưng không phải Thiên Chúa chịu đóng đinh. Thật khác xa với
chủ trương của Thánh Phaolô Tông đồ: “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp
tìm sự khôn ngoan, còn chúng ta rao giảng Chúa Cứu Thế chịu đóng đinh, đó là
gương xấu cho người Do Thái và là điên rồ trước mặt dân ngoại “ (1 Cr. 1,
22-23)
Chúa cứu chuộc chúng ta bằng thập giá, nói thế cũng có nghĩa là
Chúa cứu chuộc bằng tình yêu. Và Chúa đòi hỏi chúng ta đi vào con đường Thập
giá như Chúa, nghĩa là sẵn sàng hy sinh, chịu đau khổ để biểu lộ tình yêu đối
với Chúa và đối với anh em (Mt 16, 24-25).
Đó là con đường tốt nhất và duy nhất. đôi lúc ta ngại đón nhận
thập giá, thì đó là thử thách lớn cho niềm tin Kitô hũư của ta “Lạy Chúa, xin
đừng để chúng con sa chước cám dỗ”.
Richar Miller là một học sinh cấp ba vào thập niên đầu của thế kỷ
20. Chàng là một thanh niên hay chống đối, coi thường quyền bính. Chàng yêu say
đắm một cô gái lối xóm tên là Muriel Mc. Comber. Cha nàng sợ lối sống lập dị
của Richar nên cố gắng dập tắt mối tình lãng mạn ấy.
Thất vọng, Richar lui tới một quán rượu, chàng gặp một phụ nữ tên
Belle. Theo ngôn ngữ thời ấy người ta gọi là “Flirt” (gái giang hồ). Một người
đàn bà đùa dỡn với tình yêu không đứng đắn. Richar uống rượu và đánh lộn với
một thương gia và bị tống cổ ra khỏi quán rượu. Cha của Richar hiểu và thông
cảm với con mình. Ông từ từ giúp chàng lấy lại quân bình. Nhờ một tin mật,
Richar được biết Muriel thực sự yêu chàng. Chàng quyết định hối cải và đợi
nàng.
Đó là cốt truyện một vở hài kịch Eugne - O’neil viết vào năm 1933
tựa đề “Ah Wilderness “ (Nơi hoang tàn) vở kịch được trình diễn rộng rãi vì nó
phát hoạ một hoàn cảnh chung, rất nhân bản trong đời sống hàng ngày, nó vẽ nên
phần nào cảnh hoang dại mà chúng ta đang sống.
Bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Đức Giêsu đã ở trong sa
mạc, nơi hoang dã 40 ngày đêm. Đó là lý do cho 40 ngày mùa chay. Sa mạc là nơi
trú ẩn của thần dữ. Thú dữ, tượng trưng cho sự dữ mà Đức Kitô đã đến chế ngự.
Tại sao chúng ta đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật thứ nhất mùa Chay. Có gì
liên hệ giữa nơi hoang dã Chúa Giêsu đã sống trong Mùa chay đầu, với bạn và tôi
trong Mùa chay này. Đơn giản thôi, chúng ta đang sống trong một nơi “hoang dã”
một thế giới ngập những tạo vật man rợ dưới hình thức con người. Có gì hung dữ
hoặc xấu xa hơn sự tàn bạo của con người thời đại - sát nhân không gớm tay cướp
giật, đốt nhà, ngược đãi trẻ em. Có con thú dữ nào giết hại hàng triệu người
mỗi năm? việc phá thai làm đúng như thế đó. Thú dữ hình người trong hoang địa
của chúng ta đang phá huỷ không những sự sống thể xác, mà còn đặc biệt sự sống
tinh thần của những người gần chúng ta và thân yêu của chúng ta nữa; Xin kể một
vài con thú xấu xa đó: người quảng cáo ma tuý, người xuất bản sách báo đồi
truỵ, những tác giả chuyện phim và chương trình truyền hình.
Không có cách nào để kiềm chế những kẻ tàn phá thể xác và tâm hồn
này sao? Dạ có, phương cách của Đức Giêsu có nhiều sự dữ Chúa Kitô đến cứu
chữa. Lý do chính Chúa vào nơi hoang địa là để chiến thắng những sự dữ này bằng
đền tội và cầu nguyện. Chỉ trong đường lối của Chúa, chúng ta mới chiến thắng
sự dữ trong thế giới ngày nay. Chỉ bằng lời cầu nguyện xin Chúa giúp, bằng sự
hy sinh để tỏ lòng mến Chúa. Chúng ta có thế kiềm chế, thuần hoá những thú dữ ở
giữa chúng ta. Chúng ta cũng có thể kiềm chế những thú tính trong tâm hồn mỗi
người chúng ta. Thời gian bắt đầu việc này là mùa chay. Trong tinh thần chúng
ta hãy cùng sống với Đức Giêsu trong “hoang địa” ngày nay. Với Người, chúng ta
thống hối và cầu nguyện. Như thế, cũng như người đã chiến thắng sự dữ trong
thời của Người, chúng ta cũng sẽ chiến thắng sự dữ trong hoang địa hiện đại của
chúng ta. Xin Chúa chúc lành bạn.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng, CMC)
Mùa Chay bắt đầu vào thứ 4 Lễ Tro, là ngày bắt đầu của một chu kỳ
Phục Sinh, một chu kỳ đầy sức sống hạnh phúc. Mùa Chay còn được gọi là mùa
"Chữa bệnh" hơn là mùa "đền tội". Mùa Chay theo thể lý,
người ta sẽ hãm mình, hãm các đam mê thể xác, bớt ăn uống theo sở thích... Đó
là một hình thức tìm lại sự quân bình cho thân thể (Chữa bệnh phần xác).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng tìm cách hãm dẹp những tính mê
nết xấu (như thích vui chơi đàng điếm, ham mê rượu chè, thú cờ bạc...), hãm dẹp
những tư tưởng bất chính (trả thù, ghen ghét, hằn học, gian lận, biếng nhác...),
để tìm lại một tâm hồn thảnh thơi an bình (Chữa bệnh phần hồn).
Trong Mùa Chay, người tín hữu cũng không quên gia tăng lòng đạo
hạnh qua việc chu toàn bổn phận tinh thần: Đọc thêm kinh sách, cầu nguyện, tham
dự các giờ Thánh Lễ, Phụng vụ chung, hành hương kính viếng nơi thánh, dành thêm
thì giờ làm việc thiện, giúp đỡ mọi người, bố thí cho người nghèo....
Trong Mùa Chay ta bắt chước Chúa, lắng đọng tâm hồn như đi vào
rừng vắng để dễ cầu nguyện, xây dựng đời nội tâm thêm mạnh mẽ, để có đủ sức
chiến đấu với mọi cám dỗ trong đời. Chúa Kitô trước khi thi hành sứ mệnh tông
đồ, Ngài vào nơi thanh vắng nghỉ ngơi và cầu nguyện, đồng thời qủi đến cám dỗ
Ngài.
Việc ma qủi cám dỗ Chúa thực là một việc thánh, vì Ngài đã kể
những cách cám dỗ nơi chính mình cho chúng ta có kinh nghiệm. Các cám dỗ đem
đến cho Ngài cũng không phải là loại cám dỗ thường tình của người đời: Hóa phép
cho đá thành bánh - Nhẩy từ trên nóc đền thờ xuống mà không chết. Chỉ có một
cái cám dỗ giống loài người là ham danh vọng: Quì xuống tôn thờ ma qủi để đoạt
được quyền uy thế phiệt. Ma quỷ đoán Ngài phải là một nhân vật rất thánh, thánh
khác thường, vì nó thấy Ngài cầu nguyện và suy nghĩ bằng những năng lực
phi thường (khác lối suy nghĩ và cầu nguyện của loài người), để tìm cách chinh
phục các linh hồn, nên nó dùng phương pháp cám dỗ cũng khác thường như vậy.
Những cám dỗ này chắc cũng không phải xẩy ra một lúc, mà suốt 40
đêm ngày suy nghĩ và ma quỷ đã đến đưa phương thế giúp Ngài giải quyết.
1. Đưa đá cho Chúa, ma quỷ giải quyết rằng Ngài có thể dùng quyền
năng phi thường của mình mà biến hóa vật chất nên của quí giá làm lòa mắt người
trần, đánh mạnh vào lòng ham thích vủa cải sang trọng, để lôi kéo họ theo mình.
Vì nhân loại thường dùng quyền thế, chức vị danh vọng để sai khiến nhau.
2. Cho Ngài xem thấy tất cả thế gian, ma qủy giải quyết rằng việc
cai trị cả nhân loại không khó gì, chỉ cần qùy xuống xin hắn, thì hắn cho đủ
quyền cai quản đó. Vì nhân loại dễ dàng chấp nhận quy phục gian tà để có quyền
gây thanh thế trên người khác. Chúa dạy phải công chính hóa đời mình và chỉ
phục quyền Đấng có quyền thật.
3. Trong cám dỗ thứ ba chúng giải quyết: Cứ nhảy xuống mà không
việc gì, sẽ làm cho dân chúng thấy rùng rợn mà theo, vì phép tắc của Ngài không
ai có thể vượt được. Vì nhân loại vẫn hay dùng lối bùa phép này để dọa nạt
người khác, nhưng Chúa dạy không lừa dối, gạt gẫm người ta.
Trên đường theo Chúa, giữ đạo, đôi khi chúng con thấy mình khó
thắng các cám dỗ quá. Xin Chúa thêm sức mạnh để chúng con có thể thực hiện điều
Chúa dạy cách bền chí.
Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa Chay lại về, tôi thích nghe
bài ca "Cát Bụi":
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.
Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.
Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.
Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi
Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.
Cát bụi, con người chỉ là cát bụi, hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp
thân tôi, hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt
bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng
trong Thánh Kinh Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Adam, sau khi Adam
phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về
với cát bụi (x St 1,26-3,24)
Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân
thành kiếp nhân sinh,sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian. Do đó nỗi khắc
khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của
đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.Vấn nạn mà con người
chưa tìm được câu trả lời:
Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?
Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?
Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?
Một vòng quay,một trăm năm, một kiếp người có là mấy! "Chợt
một chiều tóc trắng như vôi", không phải là trắng như bông, như mây hay
như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Cha Nguyễn Hồng Giáo đã nhận định:
Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về
sự mong manh của kiếp người; cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường
nào, nhưng nó cũng như "đoá hoa vô thường". Đó là một thực tế, nhìn
nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp
hữu ích và có ý nghĩa.
Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận
con người "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro,một mai rồi sẽ trở về bụi
tro...". Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn
vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng. Số phận đời đời của mỗi người được quyết định
trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau,
luân hồi nghiệp báo.Nhưng người Kitô Hữu thì không,vĩnh cữu được gieo mầm trong
hiện tại,đừng để thời gian trôi qua cách phung phí, đời người chỉ có một lần,
được - mất chỉ có một cơ hội.
Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng
quên,không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả
về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối. Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm
đó trong thư Roma "Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi
không muốn làm thì tôi lại cứ làm... Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng
sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm...Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn
làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui
thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật
khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật
của tôi...tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác
hay chết này?" (Rm 7,15.19.21-24).
Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình,về khuynh hướng xấu, sự
bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc
nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ.
Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu. Sa mạc là nơi
hoang vu trơ trọi,mênh mông, đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để
"chia trí,lo ra", chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các
thú vui, các quan hệ xã hội; chỉ còn Ta với Ta và buộc Ta phải quay về với mình
trong sự đơn độc của chính mình.Trong sự quay về đó Ta có cơ may nhìn thấy
những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.
Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra
trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào
sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác
quan, của trí khôn và của cỏi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để
có thể phân định đâu là cái chính - cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương
tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.
Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại
không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám
dỗ, mà đó là con người dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt
động công khai, Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh
lực của sự ác một cách không khoan nhượng và Ngài đã chiến thắng. Người Kitô
Hữu là người biết nói không, là người dám bơi ngược dòng. “Giữa một thế hệ gian
tà sa đoạ,anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị, khác người, song đứng trước điều xấu, dù
là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can
đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan
hệ tội lỗi.... Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào, nhưng đã là môn đệ Đức
Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.
Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát
bụi,nhưng là "cát bụi tuyệt vời ". Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về
với cát bụi trong một chiều " lá úa trên cao rụng đầy ", chứ không
phải chỉ tuyệt vời khi "vươn hình hài lớn dậy " mà thôi.
Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng "Hạt bụi" là chúng
ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của
Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừng bóng tối
lấn lướt ánh sáng,nhưng cuối cùng sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn
tất cả.
Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến
thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống
Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ - Lm Trần Ngà)
Người Eskimo nghĩ ra một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy da
chúng làm y phục.
Người ta dùng một con dao cực bén và nhúng lưỡi dao ấy vào máu súc
vật, rồi đem dang ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại chung quanh. Họ lặp
lại động tác đó nhiều lần cho đến khi con dao được bọc quanh bằng khối máu lớn
như quả xoài.
Đợi đến khi trời tối, thợ săn đem con dao bọc máu đó ra cắm giữa
đồng hoang. Với tài đánh hơi bén nhạy, loài sói sẽ phát hiện rất nhanh mùi máu
tươi và sẽ chạy đến liếm tới tấp vào cục máu đông đó cho đến khi lưỡi dao lộ ra
cứa đứt lưỡi chúng. Một khi lưỡi bị cứa đứt nhiều đường, máu từ lưỡi ứa ra và
chúng tiếp tục liếm cách điên cuồng hơn chính dòng máu của mình mà không hay
biết. Càng liếm hăng, lưỡi càng bị cứa sâu hơn và nhiều hơn khiến máu chảy
thành dòng kết thúc cuộc đời lũ sói tham ăn.
Cám dỗ trong đời người
Có thể nói: con người là con vật phải đương đầu với nhiều cơn cám
dỗ nhất. Cám dỗ của miếng ăn, cám dỗ của thức uống (rượu, bia), của thuốc lá,
ma tuý, cần sa, cám dỗ của thú vui nhục dục, của tiền bạc, của địa vị, công
danh và vô vàn hình thức cám dỗ khác.
Người ta bị thu hút, bị lôi cuốn vào các cơn cám dỗ như con sói
tham lam lao vào liếm cục máu bọc lưỡi dao, như những con thiêu thân lao vào
lửa và hậu quả là con người trở nên mềm yếu, bạc nhược, bị lôi cuốn vào dòng
thác dục vọng như cánh bèo nhỏ bé bị cuốn phăng phăng giữa dòng nước lũ hung
tàn.
Không rõ con sói một khi biết có lưỡi dao bén ẩn dấu trong cục máu
đông có còn dám tiếp tục liếm cục máu đó nữa không, nhưng đối với nhiều người
thì dù biết chắc chắn rằng đằng sau những lạc thú có ẩn dấu lưỡi dao thần chết
thì họ vẫn cứ tiếp tục hưởng thụ những thứ đó đến cùng rồi mượn lời thơ Xuân
Diệu để tự biện minh rằng: "thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn
buồn le lói suốt trăm năm" (Xuân Diệu)
Chúa Giêsu cũng bị cám dỗ như chúng ta.
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa... nhưng đã hoàn toàn
trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân. (Philip 2,
6-7)
Vì trở nên người phàm như chúng ta, "Chúa Giêsu đã từng chịu
thử thách về mọi phương diện như chúng ta' (Do-thái 4,15).
Qua đoạn Tin Mừng được trích đọc trong thánh lễ hôm nay, thánh sử
Mác-cô cho biết Chúa Giêsu đã vào hoang địa bốn mươi ngày và Người đã thực sự
bị Xa-tan cám dỗ. (Mác-cô 1, 12-13)
Điều đặc biệt là dù phải bị cám dỗ trăm bề về mọi phương diện như
chúng ta, Chúa Giêsu không bao giờ thua cuộc, không bao giờ sa chước cám dỗ.
Người đã chiến thắng vẻ vang trước mọi cơn cám dỗ và luôn trung thành đi theo
đường lối của Thiên Chúa Cha cho đến cùng.
Cùng chiến đấu chống lại cám dỗ với Chúa Giêsu.
Trâu bò tuy to khoẻ nhưng dễ dàng bị chế ngự bởi một đứa bé cỏn
con khi người ta xỏ mũi được chúng. Con người dù có hùng mạnh đến đâu, nhưng
một khi bị "xỏ mũi" bởi các đam mê tội lỗi, thì cũng phải ngoan ngoãn
lội xuống bùn, sa xuống vực vì sức kéo của những đam mê và dục vọng xấu xa đen
tối.
Mỗi người có một tử huyệt, một chỗ hiểm riêng. Nơi người nầy là lỗ
miệng tham ăn tham uống, nơi người khác là bệnh háo sắc hay thói tham danh hám
lợi, nơi người khác nữa có thể là lòng ích kỷ, hận thù, ghen ghét, kiêu căng...
Người đi câu luôn biết lựa mồi hợp sở thích của cá; cũng vậy ma
quỷ có thừa khôn ngoan để chọn những mồi bả phù hợp "khẩu vị" của
từng người và nhắm tấn công vào đúng tử huyệt của chúng ta.
Trong mùa chay, Chúa Giêsu và Giáo Hội kêu mời chúng ta đi vào cõi
thinh lặng của tâm hồn để nhìn lại lòng mình, rà soát tâm tư mình, xét xem
những đam mê nào, những xu hướng tội lỗi nào đang chi phối đời ta mạnh nhất (đó
là những tử huyệt cần canh phòng che chắn). Chính những đam mê và xu hướng đó
là động cơ xô đẩy con sói tham ăn lao vào chỗ chết; và cũng chính những động cơ
đó đã huỷ hoại cuộc đời ta, làm mất thanh danh phẩm giá cũng như giá trị cao
đẹp của đời ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu cùng chiến đấu với chúng con trong mặt trận
nguy khó nầy và ban ơn giúp sức để chúng con không bao giờ lùi bước trước bất
kỳ cơn cám dỗ nào, nhưng kiên cường chiến đấu để khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và
những đam mê xấu xa đồng thời lập được nhiều chiến công vẻ vang như Chúa.
Để bắt đầu phần chia sẻ hôm nay, tôi xin kể lại trường hợp vượt
ngục rất đặc biệt của một tù nhân. Đúng thế, ông ta bị nhốt trong một ngọn tháp
thật cao và trong phòng thì lại không có một phương tiện nào để có thể leo
xuống. Vậy ông ta đã làm gì?
Để vượt ngục, mỗi ngày ông ta chỉ nhổ có hai sợi tóc và xe lại với
nhau. Sau một thời gian, ông ta đã làm được một sợi dây bằng tóc khá dài. Ông
ta thả sợi dây tóc ấy xuống qua cửa sổ nhà tù. Ở dưới, một người bạn thân đã
chờ sẵn. Người bạn này đã buộc một sợi chỉ dài vào đầu sợi dây tóc. Rồi cuối
sợi chỉ, người ấy lại buộc thêm một sợi dây vải dài. Cuối sợi dây vải, người ấy
buộc một dây thừng nhỏ và cuối sợi dây thừng nhỏ, người bạn ấy buộc một dây
thừng to. Sau đó, tù nhân ở trên ngọn tháp cao bắt đầu kéo lên. Hết sợi dây
tóc, thì nắm lấy sợi dây chỉ. Hết sợi dây chỉ thì nắm lấy sợi dây vải. Hết sợi
dây vải, thì nắm lấy dây thừng nhỏ. Hết dây thừng nhỏ thì nắm lấy dây thừng lớn
và ông ta đã dùng dây thừng lớn này để mà vượt ngục cách an toàn trong một đêm
trời tối.
Kể lại câu chuyện này, tôi thấy đó cũng chính là đường lối ma quỉ
vốn thường dùng để cám dỗ chúng ta. Thực vậy, rất ít khi ma quỉ cám đỗ chúng ta
phạm tội trọng ngay từ lúc đầu. Nếu làm thế, ma quỉ sẽ khiến cho chúng ta sợ
hãi. Nó cứ từ từ mà tiến. Lúc đầu nó chỉ cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ, rồi
sau đó một lỗi lớn hơn và cuối cùng nó mới dẫn chúng ta đến tội trọng.
Chẳng hạn một anh chàng ghiền sì ke. Đâu có phải chỉ trong một sớm
một chều mà đã ghiền như dân chuyên nghiệp. Lúc đầu nó cám dỗ anh ta lân la với
những người bạn xấu, rủ rê anh làm thử một điếu cho biết mùi đời. Sau một điếu,
rồi hai điếu, rồi ba điếu, để cuối cùng trở thành dân ghiền lúc nào cũng không
hay biết. Chợt tỉnh và hối tiếc thì cũng đã quá muộn: Trót vì tay đã nhúng
chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
Ma quỉ cũng cứ từ từ mà tiến. Nó không bao giờ cám dỗ chúng ta làm
hai điều xấu cùng một lúc. Trai lại, sau khi cám dỗ chúng ta làm điều này, nó
vẫn còn đủ thời giờ cám dỗ chúng ta lài điều kia. Từ cám dỗ này, nó đưa chúng
ta đến cám dỗ khác và những cám dỗ khác nữa. Cứ thế tiếp tục cho đến khi chúng
ta phạm tội trọng.
Chẳng hạn nó cám dỗ một người rơi vào vòng cờ bạc. Sau khi đã mê
cờ bạc, thì về nhà sẽ đánh vợ chửi con, làm cho gia đình bị tan nát. Và nếu gia
đình nghèo, không có tiền để tiếp tục cuộc chơi, thì sẽ sinh ra gian tham và
trộm cắp.
Suy nghĩ về trường hợp của Chúa Giêsu, chúng ta thấy ma quỉ cũng
áp dụng một chiến thuật như thế. Nó không cám dỗ Ngài quì xuống thờ lạy Satan
ngay lúc đầu. Trái lại, cám dỗ thứ nhất nó bảo Ngài làm phép lạ khiến những hòn
đá trở nên bánh, để khơi dậy những ước muốn về của cải vật chất. Cám đỗ thứ hai
nó bảo Ngài gieo mình xuống khỏi nóc đền thờ, để khơi dậy những ước muốn về
quyền hành. Và sau cùng nó mới bảo Ngài quì xuống thờ lạy nó, để khơi dậy sự
chối bỏ Thiên Chúa.
Đối với chúng ta cũng vậy, nó không cám dỗ chúng ta ăn cắp một món
tiền lờn, khi chưa đưa chúng ta vào thói quen ăn cắp lặt vặt, như tục ngữ đã
bảo: Bé không vin, cả gẫy ngành. Bé ăn cắp một trái trứng, thì lớn lên sẽ ăn
cắp một con bò.
Bởi đó, đừng khinh thường những sai lỗi nhỏ mọn. Rất có thể vì
những sai lỗi nhỏ mọn hôm nay mà ngay mai chúng ta sẽ quay phản bội cùng Chúa.
Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa, Ngài ở đó suốt 40
đêm ngày và chịu Satan cám dỗ. Hoang địa hay sa mạc là một chủ đề quen thuộc
trong Kinh Thánh. Vậy thì nó có ý nghĩa gì?
Trước hết, hoang địa hay sa mạc là nơi thử
thách. Thực vậy, đọc lại Cựu ước, chúng ta thấy dân
Do Thái, trên đường trở về miền đất hứa, đã phải lang thang trong sa mạc suốt
bốn mươi năm. Trong thời gian này, trước những gian nan thử thách, họ đã bị cám
dỗ rời bỏ Chúa để chạy theo những thần tượng ngoại lai. Và rất nhiều lần họ đã
bị khuất phục, đã chịu thua để rồi quỳ gối thờ lạy con bò vàng, như chúng ta đã
thấy.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính tại hoang địa, ngài đã bị Satan cám
dỗ, nhưng cả ba lần Ngài đều chiến thắng. Sự chiến thắng của Ngài là một bài
học, là một mẫu gương cho chúng ta suy nghĩ và bắt chước. Hãy khiêm nhường, hãy
tin tưởng vào quyền năng Chúa và hãy sám hối ăn năn để chúng ta cũng sẽ vượt
qua được những cám dỗ mà chúng ta gặp phải.
Charles de Foucauld đã tâm sự với cha Huvelin như sau: Từ ngày lên
15 tuổi, tôi đã mất đức tin. Cha Huvelin nhìn con người từ sa mạc trở về và
nói: Anh hãy quỳ gối xuống và xưng thú tội lỗi đã. Charles de Foucauld đã vâng
lời, khiêm tốn làm việc sám hối. Và từ đó, cuộc đời của vị sĩ quan bê tha tội
lỗi này đã hoàn toàn đổi mới. Khi tôi vừa hiểu rằng có một Thiên Chúa, thì
tôi cũng hiểu rằng tôi không thể làm gì khác hơn là chỉ sống vì Ngài. Không
phải chỉ là nơi thử thách, hoang địa hay sa mạc còn là nơi
để chúng ta sống thân tình với Chúa.
Thực vậy, suốt bốn mươi năm trong sa mạc, dân Do Thái đã được
Thiên Chúa thương, thực hiện biết bao nhiêu việc kỳ diệu, chẳng hạn hướng dẫn
họ bằng áng mây cột lửa, đưa họ qua biển đỏ, trao ban cho họ mười điều răn làm
giao ước, nuôi sống họ bằng manna bởi trời, chữa họ khỏi hiểm họa rắn độc… Thế
nhưng, dân Do Thái rất nhiều lần đã không hiểu được tình thương tuyệt vời ấy,
để rồi đã quay lưng chống lại Chúa.
Còn Chúa Giêsu hôm nay, Ngài vào hoang địa để sống gắn bó mật
thiết với Chúa Cha trong tâm tình cầu nguyện và chay tịnh. Còn chúng ta thì
sao, Thiên Chúa thường nói với chúng ta trong thinh lặng và chỉ trong thinh
lặng, chúng ta mới nghe được tiếng nói của Ngài. Đồng thời chỉ trong thinh
lặng, chúng ta mới tâm sự kết hiệp với Ngài. Bởi đó, giữa dòng đời huyên náo,
chúng ta hãy biết dành lấy những khoảnh khắc thinh lặng để vào sa mạc, để vào
hoang địa, bằng cách sống tâm tình cầu nguyện để kín múc được nguồn sinh lực,
nhờ đó chúng ta sẽ vượt qua được những cám dỗ và thử thách của cuộc đời.
Sau khi Chúa Giêsu được Chúa Cha công bố là “Con yêu quý” thì
“Thần Khí dẫn Người vào trong hoang địa. Người ở đó bốn mươi ngày, chịu Satan
cám dỗ, sống giữa loài dã thú và có các thiên sứ hầu hạ Người”.
Thật là một đoạn văn lạ lùng! Tại sao đoạn này được đọc cho chúng
ta nghe trong Chúa Nhật đầu Mùa Chay? Phải chăng vì nó nói đến thời gian bốn
mươi ngày của Chúa Giêsu? Có lẽ đó là một lý do nhưng còn có những ý nghĩa khác
nữa.
Trong chương hai của sách Sáng Thế, trình thuật sáng tạo bắt đầu
trong nơi hoang vắng và Ađam kiểm soát các loài thú vật. Hoang địa là nơi dân
Israel đã bị thử thách và bị cám dỗ sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ ở Ai Cập và
được tự do. Hoang địa cũng là nơi các loài thú dữ đe dọa những người lữ khách.
Nó cũng được xem là nơi các quyền lực của thần dữ thống trị được biểu tượng qua
các loài thú dữ. Hoang địa là nơi Satan, kẻ thù của Thiên Chúa, ngự trị.
Với cái nhìn như thế đoạn Tin Mừng lạ lùng hôm nay trở nên đầy ý
nghĩa. Thần khí đưa Chúa Giêsu vào hoang địa: Chúa Giêsu đến không phải để sống
một cuộc đời dễ dãi nhưng là một cuộc sống chiến đấu với tất cả những gì là sự
dữ. Chính nơi mà dân Israel đã chịu thất bại thảm thương trong cuộc thử thách
thì Chúa Giêsu sẽ chiến thắng. Cũng giống như Ađam trong vườn địa đàng xưa,
Chúa Giêsu là Ađam mới cũng kiểm soát các thú dữ, tức là kiểm soát được sự dữ.
Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa chiến đấu với sự dữ, chiến thắng sự dữ và sáng tạo
một cái mới.
Chúng ta cần rút ra bài học áp dụng khi đọc bài Tin Mừng này trong
Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Cũng giống như Chúa Giêsu, sau khi chịu bí tích
Rửa tội chúng ta vào trong “hoang địa’ của thế gian này, nơi chúng ta phải
đương đầu với cám dỗ và sự dữ. Vấn đề là chúng ta đương đầu với hoang địa của
chúng ta như thế nào? Chúng ta có vượt qua thử thách như Chúa Giêsu hay chịu
thất bại như dân Israel ngày xưa? Chúng ta có đủ sức mạnh để loại bỏ mọi cám dỗ
của Satan, kẻ muốn chúng ta chống lại Thiên Chúa, và trung thành với bổn phận
mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng ta hay không? Chúng ta chế ngự và kiểm soát
các thú dữ, tức là các đam mê, các dục vọng và thói quen xấu của chúng ta như
thế nào?
Trong đoạn Tin Mừng vắn vỏi này tôi có thể xác định được căn tính
của tôi chưa? Tôi có hành động giống như ma quỷ, kẻ chống lại kế hoạch của
Thiên Chúa, bởi vì tôi nghĩ là tôi biết rõ hơn không? Hay tôi giống như một con
thú dữ, không nhận biết Thiên Chúa và cứ đi theo con đường bạo lực của mình?
Hoặc tôi giống như các thiên thần, những vị trợ giúp Chúa Giêsu, để trung thành
phụng sự Thiên Chúa và nhận ra vai trò của Chúa Giêsu trong kế hoạch của Thiên
Chúa? Mặt khác, đoạn Tin Mừng này còn nhắc nhở cho chúng ta nhiều điều khác nữa
đó là Satan luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta, nó chống lại Thiên Chúa
và lôi kéo chúng ta theo nó. Các thú dữ, tức là những đam mê của chúng ta cũng
làm cho chúng ta không lưu tâm gì đến Thiên Chúa nữa. Mặt khác, chúng ta cũng
có các thiên thần luôn trợ giúp chúng ta trong việc phụng sự Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta suy nghĩ đến nhiều vấn đề, đặc
biệt là trong Mùa Chay này. Chúng ta hãy sống như Chúa Giêsu, can đảm, mạnh mẽ
để sẵn sàng dâng hiến bản thân cho việc phụng sự Thiên Chúa và tha nhân.
Một ngày nọ, lạc đà con nói chuyện với lạc đà mẹ như sau, “Mom!
Tại sao bàn chân của mẹ con mình lại có 3 ngón chân to tổ chảng vậy?” Lạc đà mẹ
trả lời, “Để chúng mình băng qua sa mạc cát mềm mà không bị lún chứ làm sao!”
“Và tại sao chúng mình có bộ lông mi dài lượt thượt và nặng nề quá vậy?” “Để
cát khỏi rơi vào mắt trên những hành trình dài trong sa mạc đó con!” “Và Mom,
tại saochúng mình lại phải mang những cái bướu quá bự trên lưng vậy?” Bây giờ
thì lạc đà mẹ không còn kiên nhẫn nổi để trả lời những câu hỏi vớ vẩn của thằng
con nữa, nhưng cũng cố trả lời, “Chúng nó giúp chúng mình dự trữ những chất béo
cho những cuộc du hành dài, nhờ đó mà mẹ con mình không cần nước trong một thời
gian rất lâu ở sa mạc!” “Đúng vậy, con biết rồi!” lạc đà con nói, “Chúng mình
có ngón chân bự để không bị lún dưới cát, lông mi dài để tránh cát bụi khỏi rơi
vào mắt, và những cái bướu trên lưng để chứa nước. Vậy thì, Mom! Tại sao chúng
ta lại ở đây, trong cái sở thú của Toronto này?
Đời sống văn minh hiện đại làm cho chúng ta có cảm giác giống như
con lạc đà trong sở thú. Chúa ban cho ta khối óc để suy nghĩ, nhưng bây giờ đã
có máy computer nghĩ hộ chúng ta rồi! Chúa ban cho ta con tim để yêu thương tha
nhân, nhưng đã có những cơ quan từ thiện làm việc bác ái rồi! Đôi khi chúng ta
cần đi vào trong “sa mạc” để khám phá lại chúng ta thực sự là ai? Mùa chay mời
gọi chúng ta đi vào trong cái cảm nghiệm của loại “sa mạc” này.
Sa mạc hay hoang địa là nơi sinh trưởng của dân Thiên Chúa. Dân Do
Thái, là những bộ lạc tản mác tha phương đã trốn thoát khỏi đất Ai cập trở về
miền Đất Hứa như một quốc gia dưới quyền lực của Thiên Chúa. Chính ở trong sa
mạc mà họ đã trở thành dân Thiên Chúa với lời giao ước. Trong dòng lịch sử, khi
nào tình yêu và lòng trung thành của họ đối với Thiên Chúa trở nên lạnh nhạt,
thì các tiên tri đề nghị họ trở về sa mạc để khám phá lại cái căn tính của mình
là ai, giúp họ ý thức về ơn gọi và sứ mệnh của mình, làm thức tỉnh đức tin và
củng cố sự liên hệ đã giao ước giữa họ với Thiên Chúa. Những đại tiên tri như
Elijah và Gioan Tẩy giả là những vị tiên tri của sa mạc: họ sống trong sa mạc,
ăn thức ăn sa mạc, và chấp nhận một lối sống đơn sơ và khắc nghiệt trong sa
mạc. Sa mạc là trường đại học nơi Thiên Chúa dạy dỗ dân Ngài.
Lời Chúa hôm nay trích từ Phúc âm của thánh Máccô. Sau khi Chúa
Giêsu chịu phép rửa, “Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào hoang địa, và Ngài ở đó suốt
40 đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với dã thú; và các thiên thần hầu hạ
Ngài”. Phúc âm của Matthêu và Luca diễn tả quỷ dữ cám dỗ và thách thức Chúa
Giêsu dùng quyền lực phục vụ cho nhu cầu riêng tư của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã
khước từ và nói, “Ngươi phải bái lạy Thiên Chúa là Chúa của ngươi, và phải thờ
phượng một mình Ngài mà thôi”. Còn Phúc âm của Máccô, thay vì diễn tả những chi
tiết của sự cám dỗ, chỉ nói vắn tắt trong câu: “Sống chung với dã thú”. Dã thú
là những con thú nào?
Theo các nhà tu đức thì những con dã thú đó không phải là những
con dã thú ở bên ngoài chúng ta, nhưng ở trong lòng ta. Chúng là những con dã
thú của bẩy mối tội đầu như kiêu ngạo, hà tiện, ghen tuông, giận dữ, dâm ô, mê
ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh.
Những quyền lực này đè nặng trên chúng ta khi chúng ta quyết định
làm bất cứ việc gì. Đời người giống như cuộc sống giữa sa mạc với đầy những “dã
thú”. Chúng ta bị vây hãm xung quanh bởi một bên là những hoàn cảnh khó khăn,
còn một bên là những cám dỗ mời gọi. Chúng ta cần sức mạnh để chống lại những
thù nghịch, những gì đang tạo ra cho chúng ta một cảm giác an bình giả tạo. Hôm
nay chúng ta thử đối diện với “những con dã thú” mà chúng ta thường xuyên phải
chiến đấu trong đời sống tâm linh.
1. Sự ngã lòng.
Nếu ví cuộc đời giống như sa mạc, nơi hoang địa với nhiều dã thú,
khó khăn và chông gai, thì chúng ta cảm thấy phải chiến đấu thường xuyên và
liên tục. Cuộc đời chất đầy những gánh nặng và đòi hỏi. Không bao giờ giải
quyết hết các chuyện rắc rối. Lúc nào cũng có vấn đề. Nhưng chúng ta phải lưu ý
rằng trong khi Chúa Giêsu sống với các dã thú thì Thánh Kinh nói rằng “các
thiên thần hầu hạ Ngài”. Nói cách khác, Chúa Giêsu không cô đơn, một mình. Ngài
đã chiến đấu với dã thú bằng sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa. Ngài có
sức mạnh, tràn đầy sức mạnh. Sức mạnh của Thiên Chúa hướng dẫn: “Thánh Thần
thúc đẩy Ngài vào hoang địa”. Chính Chúa Thánh Thần và các lực lượng thiên thần
cũng sẽ hướng dẫn và gia tăng sức mạnh cho chúng ta chiến đấu kiên trì với
những khó khăn và cám dỗ trong cuộc đời.
Selma Lagerloeff trong huyền thoại “The Flanme”, đã kể câu chuyện
về chàng hiệp sĩ, sau cuộc chiến thành công vào Thánh Địa, anh đã làm một lời
thề hứa. Anh thắp lên một cây nến lấy từ ngọn lửa thánh tại ngôi mộ của Chúa
Giêsu, và mang nó trở về quê quán của anh ở tỉnh Florence, nước Ý Đại Lợi mà
vẫn còn cháy sáng. Quyết định này đã biến đổi anh trở thành một con người mới.
Nó biến đổi anh từ một người lính hiếu chiến thích đánh nhau trở thành một con
người yêu chuộng hòa bình.
Trên đường trở về nhà chàng hiệp sĩ đã bị bọn cướp bóc lột, anh đã
không rút gươm ra chống cự. Anh đã hứa cho chúng bất cứ những gì anh có miễn là
chúng không dập tắt ngọn nến cháy của anh. Bọn cướp đã tước đoạt áo giáp, thanh
gươm, con ngựa yêu quý và tiền bạc của anh. Chúng chỉ để lại cho anh một con
ngựa già. Sau khi đã trải qua tất cả các kinh nghiệm của sự nguy khốn, anh đã
cưỡi con ngựa già về đến Florence. Để bảo vệ ngọn lửa không bị tắt bởi những
cơn gió trong sa mạc, anh đã phải ngồi quay lưng lại với con ngựa, và dùng thân
mình để che chở cho ngọn lửa.
Khi những tên đểu cáng trong thị xã trông thấy anh cưỡi ngựa ngược
như vậy, chúng nghĩ anh là một tên điên khùng, và ra sức đùa nghịch để dập tắt
ngọn lửa. Nhưng anh đã làm tất cả sức mình để có thể giữ ngọn lửa cháy sáng. Và
sau cùng, anh đã mang nó về đến nhà thờ chính tòa, và dùng nó để thắp lên tất
cả những cây nến trên bàn thờ của nhà thờ chính tòa Florence. Khi người đốt đèn
ở nhà thờ hỏi anh đã phải làm gì để giữ ngọn lửa khỏi tắt, anh trả lời, “Ngọn
lửa nhỏ bé này sẽ đòi hỏi tất cả sự chú tâm của anh; nó sẽ không cho phép anh
nghĩ về bất cứ điều gì khác. Và anh sẽ không có thể cảm thấy an toàn một giây
phút nào cả. Anh phải luôn luôn chiến đấu. Bất kể là ngọn lửa có thể đã bảo vệ
anh tránh khỏi biết bao nhiêu nguy hiểm, anh phải luôn tỉnh thức để ngăn ngừa
ngọn lửa không bị đánh cắp mất khỏi anh”.
2. Sợ hãi
Nỗi sợ hãi lớn nhất cho người bộ hành trong sa mạc là mất phương
hướng, không biết đường đi. Cái nhìn của họ trở nên mờ ảo. Họ nhìn ánh nắng
chói chan trước mắt như là những ao hồ mông mênh ngập nước. Ao giác làm cho con
người trở nên nghi ngờ, mất niềm tin, và sau cùng dẫn đến hoang mang sợ hãi.
Chỉ có đức tin và lòng trông cậy phó thác mới chiến thắng được sợ hãi. Tin rằng
Thiên Chúa luôn yêu thương ta và muốn điều tốt đẹp nhất cho ta. Tin vào một
Thiên Chúa luôn ở bên ta, đi với ta cho dù gian nguy. Tin rằng quỷ dữ không có
quyền lực gì trên ta, nó chỉ có quyền vì ta ban cho nó mà thôi. Nó không thể
bắt chúng ta làm điều gì được, ngoài sự cám dỗ cho chính chúng ta phạm tội. Chúng
ta có tự do để từ chối, có sức mạnh để chống trả.
“Đừng sợ!” là sứ điệp nhắc đến trên 300 lần trong Phúc âm. Khi
Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước đến với các môn đệ, các ông hoảng sợ, Ngài
nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” Thiên thần Gabriel đã nói với Đức Maria: “Hỡi
Maria, xin đừng sợ!” Thiên thần cũng đã nói với Giuse: “Đừng sợ đón Maria vợ
ông về”. Vào ngày sống lại, Chúa Giêsu cũng đã hiện ra với các tông đồ và nói:
“Sao anh em lại hoảng sợ… Chính Thầy đây mà!”
3. Sự tiêu cực
Đây chính là thái độ khiến chúng ta không thể thành công khi làm
bất cứ việc gì, hay bất cứ việc gì chúng ta đang làm cũng sẽ đi sai lệch. Gần
đây tôi lắng nghe một cuốn băng cát-sét do một nhà giảng thuyết nổi tiếng tên
là Zig Ziglar. Ziglar nói rằng điều ngăn ngừa chúng ta khỏi niềm hy vọng và sự
tích cực về cuộc đời chính là thái độ của chúng ta. Thái độ tiêu cực có tính
cách truyền nhiễm giống như cơn bệnh nhiễm trùng. Chúng ta càng tiêu cực bao
nhiêu thì tình huống càng trở nên thống khổ và hỗn loạn bấy nhiêu. Thái độ tích
cực lúc khởi sự của một ngày, hay của bất cứ công việc gì sẽ định hình cho tất
cả phần còn lại của trọn cả một ngày hay sự thành công của công việc sẽ kéo dài
về sau.
Frederick Ebright đã chia sẻ kinh nghiệm đối với thái độ tâm lý
của mình như sau: “Khi tôi cảm thấy thật buồn, tôi viết một lá thư cho người
bạn nói với người ấy tất cả những chuyện rắc rối của tôi. Tôi không gửi lá thư
đó đi. Nhưng tôi bắt đầu viết lá thư thứ hai gửi cho cùng một người, trong đó
tôi cẩn thận bỏ đi bất cứ điều nào đã đề cập đến những điều không may, và thay
vào mỗi rủi ro đó một chút tin vui. Vào lúc lá thư này được viết ra, một phép
lạ đã xảy ra: tôi thực sự cảm thấy tốt hơn. Và vì một lá thư vui tươi luôn luôn
phát sinh ra một sự đáp trả phấn khởi, tôi đã hoàn tất một mục đích lưỡng
tiện”.
Mùa chay là thời gian để cảm nghiệm về sa mạc hay hoang địa. Chúng
ta không cần phải có lạc đà đi vào sa mạc, nhưng chúng ta có thể tạo ra một
khoảng không gian hoang địa cho chúng ta ngay giữa những xô bồ ồn ào của cuộc
sống. Hằng ngày chúng ta có thể tìm ra một chỗ, dành ra một chút thời gian một
mình với Thiên Chúa. Nơi yên tĩnh chúng ta sẽ biết mình là ai, biết những điểm
mạnh và điểm yếu, biết “thiên thần” xung quanh cùng “những con dã thú”, lắng
nghe tiếng Chúa gọi và lời cám dỗ của Satan, khám phá lại chúng ta là ai trước
mặt Thiên Chúa.
Buổi chiều ngày cuối tháng 10 thường được người Mỹ và các nước có
ảnh hưởng của Mỹ gọi là Halloween, có nghĩa là ngày mừng lễ các thánh. Có lẽ đã
là điều còn rơi rớt lại của những ngày lễ ngoại giáo bắt nguồn từ thời của
những người Santies trước Công Nguyên mà ngày lễ vọng các thánh mang một màu
sắc ảm đạm ma quái. Trong các cửa tiệm, trưng bày những mặt nạ quái dị, những
hình nộm được tô vẽ với một bộ mặt của thần chết, những màng nhện trắng xóa
giăng ra khắp nơi, các đồ chơi của trẻ em cũng được khoác lên những nét ma
quái, kinh dị, trên màn ảnh truyền hình cũng như tại các rạp chiếu bóng, đa số
các phim trình chiếu đều mang nội dung quái đản, kinh dị.
Buổi tối ngày Halloween, thanh niên thiếu nữ thường cải trang
thành ma quái để đi từng nhà ca hát và kể cho nhau nghe những chuyện ma quái.
Phải chăng mỗi năm, người ta muốn dành một ngày để nhắc nhớ đến sự hiện hữu và
tác quái của thần dữ? Nhưng ngày nay người ta còn ý thức được tội lỗi và sự tác
động của thần dữ, tức là ma quỷ hay không? Thi sĩ Bô-đơ-le của Pháp đã có lần
nói: “Sự thành công của ma quỷ là thuyết phục được con người rằng chúng không
hề hiện hữu”. Với những khám phá mới trong ngành tâm lý học cũng như bệnh lý
học, người ta cho rằng tất cả những vụ quỷ ám mà Thánh Kinh nói đến đều chỉ là
những hiện tượng tâm lý bệnh hoạn mà ngày nay con người có thể tìm ra nguyên
nhân.
Với luận điệu ấy, con người ngày nay tự hào là đã loại trừ được ma
quỷ ra khỏi cuộc sống. Rất tiếc con người ngày nay ít được chứng kiến những vụ
quỷ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại. Tuy nhiên, dù muốn dù không, tất cả
đều không thể từ chối có một sức mạnh luôn tác động trong tâm trí con người,
lôi kéo con người đến chỗ hành động xấu xa, tội lỗi, mãi mãi câu nói của thánh
Phaolô vẫn đúng trong kinh nghiệm của mỗi người: “Điều thiện tôi muốn làm thì
tôi không làm, điều ác tôi không muốn làm thì tôi lại làm”. Có một sức mạnh vô
hình nào đó luôn lôi kéo, xúi giục con người vào tội ác, sức mạnh vô hình đó
chính là Satan, là ma quỷ, và chiến thuật hay phương thế ma quỷ sử dụng để lôi
kéo, xúi giục chúng ta phạm tội là cám dỗ.
Ma quỷ thường cám dỗ chúng ta thế nào? Ma quỷ rất khôn khéo, quỷ quyệt và kiên nhẫn, vì chúng là các
thiên thần sa ngã. Chúng áp dụng nhiều chiến thuật và nhiều cách thế khác nhau,
tùy tuổi tác, tính tình, tùy hoàn cảnh để xúi giục chúng ta nghe theo chúng mà
phạm tội. Rất ít khi ma quỷ cám dỗ chúng ta phạm tội ngay từ đầu, vì làm thế
chúng ta sẽ sợ hãi không dám phạm, nhưng chúng cám dỗ chúng ta phạm một lỗi nhỏ
trước, rồi mới dẫn chúng ta đến chỗ phạm tội trọng. Đàng khác, không bao giờ ma
quỷ cám dỗ chúng ta làm hai điều một trật, để chúng còn đủ thời giờ cám dỗ
chúng ta phạm tội kia, nghĩa là chúng cám dỗ thế nào để từ cơn cám dỗ này đưa
đến một cơn cám dỗ khác, rồi một cơn cám dỗ khác nữa, và cứ thế tiếp tục cho
đến khi chúng ta sa ngã và phạm tội.
Về chiến thuật cám dỗ của ma quỷ, người ta thường kể câu chuyện sau: ma quỷ khôn khéo như một phạm nhân bị giam trên một cái tháp rất
cao, không thể nào trèo xuống được, vậy mà anh ta đã thoát thân được bằng một
cách rất tài tình: mỗi ngày anh nhổ hai sợi tóc và xe lại với nhau, sau một
thời gian anh đã có một sợi dây tóc dài, anh thả xuống qua cửa sổ, bên dưới,
người bạn của anh buộc một sợi dây lụa rất nhẹ vào đầu sợi dây tóc, cuối sợi
dây lụa lại buộc một sợi dây gai, cuối sợi dây gai lại buộc một sợi dây thừng
nhỏ, cuối sợi dây thừng nhỏ là một sợi dây thừng lớn, bằng sợi dây thừng này,
phạm nhân đã tụt xuống đất trốn thoát được. Đó chính là đường lối cám dỗ mà ma
quỷ áp dụng, chúng ta giam các dục vọng của chúng ta, nhưng ma quỷ giúp các dục
vọng đó vượt ngục dần dần. Trong thực tế chúng ta không thấy rõ thứ tự hay tiến
trình tuần tự như thế, nhưng nói chung, tất cả các cám dỗ phạm tội đều như vậy.
Chúng ta phải xử trí ra sao khi bị cám dỗ? Đành rằng ma quỷ cám dỗ chúng ta, nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy
hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỷ và xác thịt, đó là ba
kẻ thù ghê gớm. Ma quỷ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta
phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình, đồng ý của chúng ta hay không?
Tức là chúng ta có chấp nhận hay ngả theo những chước cám dỗ hay không, đó là
chính ý chí của chúng ta. Vậy, trước hết, chúng ta phải đề phòng và xa tránh
các dịp nguy hiểm, các cơ hội, các lý do, các hoàn cảnh, những người, những
vật… có thể đưa đẩy chúng ta đến chỗ phạm tội. Rồi, nếu bị cám dỗ, chúng ta
phải mau lẹ chống trả ngay từ đầu, chống trả cách cương quyết, đừng chần chừ,
trì hoãn, và nhất là phải cầu nguyện nhiều để xin Chúa ban ơn trợ giúp. Nếu
chẳng may thất bại, nghĩa là sa chước cám dỗ, phạm tội, chúng ta phải lập tức
đứng dậy ngay, nghĩa là hối hận, ăn năn, xưng tội, xin Chúa tha thứ và cố gắng
hơn nữa để khỏi tái phạm.
Chúng ta chẳng ai thoát khỏi cám dỗ, chỉ khác nhau ở chỗ có sa
chước cám dỗ hay không, vì vậy, trong kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta
phải luôn cầu xin cho khỏi sa chước cám dỗ. Lạy Chúa, xin cứu chúng con khỏi ác
thần, xin giúp chúng con khỏi sa chước cám dỗ. Chúng ta phải luôn cầu xin Chúa
như thế, nhất là khi gặp chước cám dỗ.
Vào tháng 5 năm 1980, tuần báo Time có đăng tải câu truyện nổi
tiếng mang tựa đề "Đứa Con Của Kẻ Vô Thần Tìm Thấy Thiên Chúa". Đứa
con đó là William Murray. Khi Murray đi học, mẹ cậu là bà Madalyn Murray tại
Baltimore, Maryland, đã ra toà kiện chống việc cầu nguyện và đọc Thánh Kinh
trong các trường học công cộng. Vụ án này đã được đến tận Toà Án Tối Cao Pháp
Viện, và kết quả là mọi hình thức cầu nguyện và đọc Thánh Kinh tại các trường
học công cộng của toàn quốc Hoa Kỳ phải chấm dứt.
Sau này khi lớn lên, Murray còn tiếp tục thành lập các cuộc vận
động chống đối Thiên Chúa bằng việc cho xuất bản những tạp chí vô thần.
Thế nhưng, Murray đã được ơn trở lại. Một đêm vào trước Lễ Giáng Sinh,
William Murray nằm mơ một giấc mộng tỏ tường về Thánh Kinh. Giấc mơ này đã thức
tỉnh ông. Cảm nghiệm của giấc mơ này thật xúc động, đến nỗi ông đã chỗi dậy ra
khỏi giường và lái xe đến một tiệm sách tại San Francisco. Ông viết: "Tôi
đã tìm thấy cuốn Thánh Kinh. Tôi lái xe về nhà và đọc Phúc Âm theo Thánh Luca.
Tại đây, tôi đã tìm thấy... Đức Giêsu Kitô." Từ đêm hôm đó, cuộc sống của
Murray được biến đổi.
Sau khi trở lại, ông viết một bức thư cho tờ báo Baltimore Sun.
Ông xin lỗi với toàn thể dân chúng về việc ông đến Toà Tối Cao Pháp Viện xin
cấm việc cầu nguyện và đọc Kinh Thánh tại các trường học Hoa Kỳ. Ông nói trong
bức thư: "Trong khi suy xét lại cuộc đời 33 năm sống ngoài đức tin, tôi
chỉ còn biết cầu xin, với sự phù giúp của Chúa, cho tôi được hoàn chỉnh lại
những lầm lỗi và điều xấu xa mà tôi đã gây ra do sự thiếu lòng tin của
tôi."
Câu chuyện này là một bài quảng diễn sống động những gì Chúa Giêsu
có ý nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Thời giờ đã gần đến. Nước Thiên Chúa đã gần kề. Hãy thống hối,
và tin vào Tin Mừng."
Đấy chính là những gì William Murray đã làm. Ông đã sám hối về tội
33 năm làm một kẻ vô thần, không tin vào Phúc Âm và không biết đặt Chúa Giêsu
Kitô làm trung tâm điểm đời sống.
Những gì Murray đã làm chính là những gì mà bài Phúc Âm hôm nay
kêu mời chúng ta phải thực hiện trong Chúa Nhật đầu tiên của Mùa Chay này.
Nó kêu mời chúng ta thống hối đời sống mà đã không đặt Chúa Giêsu
làm trung tâm điểm. Nó kêu mời chúng ta tái khám phá ra cuốn sách mà đã chưa
luôn chiếm chỗ ưu tiên trong cuộc sống của ta.
Nói một cách đơn giản hơn, bài Phúc Âm hôm nay kêu mời chúng ta
hãy làm cho Mùa Chay là thời kỳ phúc lành đặc biệt của riêng từng cá nhân.
Có bao nhiêu Kitô hữu, thì có bấy nhiêu phương thức để đáp trả
lại. Tuy nhiên, xin chỉ xét hai cách thức sau đây:
Phương thức đầu tiên là tìm cuốn Kinh Thánh và
đọc Phúc Âm theo Thánh Luca từ đầu cho đến hết trong Mùa Chay này. Anh
chị em có thể làm việc này bằng cách đọc một đoạn mỗi tối.
Phương thức thứ hai để đáp trả lại cách cụ thể
là lãnh nhận Bí Tích Hoà Giải vào lúc nào đó trong Mùa Chay. Vì trong khi lãnh nhận bí
tích này, chúng ta thực thi chính xác những gì Chúa Giêsu kêu mời chúng ta làm
trong các bài đọc hôm nay. Chúng ta bày tỏ cách cụ thể lòng thống hối và lòng
tin tưởng của ta vào Phúc Âm.
Đấy chính là bày tỏ lòng sám hối về tội lỗi và biểu lộ lòng tin
tưởng của ta rằng, Chúa Giêsu Kitô ao ước tha thứ cho chúng ta và nâng đỡ chúng
ta khởi đầu một đời sống mới.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng để nhìn thấy chính chúng
con như Ngài thấy chúng con vậy. Trên hết mọi sự, xin ban cho chúng con ơn can
đảm để biển đổi chính chúng con như chính Ngài muốn chúng con biến đổi.
Đức Giêsu chịu cám dỗ trước khi công khai rao giảng Tin Mừng
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao trước khi Đức Giêsu bước ra đời để loan báo Tin Mừng,
Thánh Thần lại đẩy Ngài vào hoang địa để Ngài chịu cám dỗ? Việc đó có cần thiết
hay ích lợi cho Ngài hoặc cho ai không? Mục đích của Thánh Thần là gì?
2. Bị cám dỗ là điều tốt hay xấu? Cám dỗ hay thử thách có cần
thiết cho việc nên thánh của ta không? Tại sao? Trước mặt Thiên Chúa, một người
giả như chưa hề phạm tội vì chưa bị cám dỗ bao giờ có thánh thiện hơn người đã
từng phạm tội vì tuy đã chống trả mãnh liệt nhưng lại thất bại không?
3. Không nhờ cám dỗ, không nhờ thử thách, ta có thể xác định sự
thánh thiện hay đạo đức của mình hay của một ai không? Tại sao?
4. Cám dỗ hay thử thách là cần thiết, vậy có nên tự tìm cho mình
những dịp để “được” cám dỗ không? Tại sao?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu chịu thử thách trước khi ra đi
loan báo Tin Mừng
Cám dỗ là một điều cần thiết trong cuộc sống để chúng ta có thể
chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa. Thật vậy, làm sao ta có thể biết
tình yêu của ta đối với Thiên Chúa và tha nhân, tinh thần siêu thoát, lòng đạo
đức của ta cao hay thấp và ở mức độ nào, nếu ta không được thử thách? Tương tự
như nếu không dùng lửa hay a-xít để thử, làm sao ta có thể biết được những đồ
trang sức của ta là vàng thật hay vàng giả, là nguyên chất hay bị pha tạp? và
nếu bị pha tạp thì pha tạp ở mức độ nào? Để biết rõ một người trước khi dùng
người đó, nhất là vào những chức vụ quan trọng, giám đốc nhân sự của các công
ty thường thử tay nghề, thử lương tâm, thử bản lãnh, thử mức độ đáng tín nhiệm
của người đó bằng nhiều phương cách khác nhau. Ông có thể dàn dựng khéo léo
những cơn cám dỗ. Nhờ những thử thách đó, chẳng những viên giám đốc công ty
biết rõ người mình muốn tuyển chọn, mà chính bản thân người được thử thách ấy
cũng biết rõ tài đức của mình hơn. Những người đã qua được thử thách một cách
thành công chắc chắn sẽ cảm thấy tự tin hơn và dễ đạt được thành quả tối ưu
trong công việc của mình. Như vậy, thiết tưởng việc thử thách để biết bản lãnh
về tài và đức của mình hay của người là một việc cần thiết và hết sức dễ hiểu.
Quan niệm như thế, ta thấy việc “Thần Khí đẩy Đức Giêsu vào hoang
địa” để “chịu Xa-tan cám dỗ” trong “bốn mươi ngày” trước khi Ngài khai mạc công
việc rao giảng Tin Mừng, là một việc dường như tất yếu phải có. Qua thử thách
đó, Đức Giêsu có dịp tỏ ra cho Thiên Chúa và mọi người thấy bản lãnh của Ngài
để có thể đảm trách công việc loan báo Tin Mừng và cứu chuộc nhân loại.
2. Thử thách và cám dỗ rất cần thiết trong đời
sống chúng ta
Trong mùa Chay, Giáo Hội mời gọi chúng ta ý thức về tình trạng yếu
kém, tội lỗi, đầy khiếm khuyết trong con người hiện tại hay “con người cũ” –
vốn “bị tội lỗi thống trị” (Rm 6,6) – của chúng ta. Từ đó, ta mới quyết tâm
“cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa” (Ep 4,22; x. Cl 3,9) để “mặc lấy con
người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa hầu thật sự
sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,24).
Nhiều khi chúng ta ý thức và tự xưng rằng mình tội lỗi, dù rất
thật lòng, nhưng ý thức về tình trạng tội lỗi ấy nhiều khi hết sức mơ hồ. Chúng
ta không biết mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào, tội lỗi ở chỗ nào… Chính vì
thế, chúng ta không biết đường nào mà sửa mình, để rồi cuối cùng, chúng ta
chẳng sửa đổi gì cả, nghĩa là “mèo vẫn hoàn mèo”. May thay, nhờ có những cám dỗ
xảy đến trong đời sống mà ta biết được mình tội lỗi thế nào, ở mức độ nào.
Cũng có nhiều khi ta tưởng mình đạo đức, thánh thiện, vì ta cảm
thấy mình rất ít khi lỗi luật của Chúa hay của Giáo Hội. Ta có cảm tưởng ta rất
tốt với bạn bè, với những người chung quanh ta, vì ta thấy mình cư xử rất lịch
thiệp với họ, không hề đụng chạm tới quyền lợi họ, hay không hề cư xử bất công
với họ… Ta cũng giống như Phê-rô và các tông đồ xưa, nghĩ mình là người luôn
luôn trung thành với Đức Giêsu bất kỳ trong hoàn cảnh nào: “Dầu có phải chết
với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26,35). Khi nói như thế, các ông rất
thành thật, không một chút dối trá. Nhưng các ông không thể ngờ được phản ứng
của các ông sau này khi Đức Giêsu bị bắt: “Các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn
hết” (Mt 26,56), còn Phê-rô, người tỏ ra sẵn sàng sống chết với Thầy mình nhất
thì “gà chưa kịp gáy ông đã chối Thầy tới ba lần” (Mt 26,75).
Nhiều khi thứ đạo đức hay trong sạch của ta tương tự như độ trong
của một ly nước múc từ dưới bùn lên, nhưng đã được để lắng trong nhiều ngày.
Phần trên của ly nước cũng trong vắt không kém gì một ly nước suối. Nhưng khi
quậy lên thì nước trong ly đục ngầu đang khi ly nước suối có quậy đến đâu cũng
vẫn tiếp tục trong vắt. Nếu không quậy lên, người ta có cảm tưởng nước ở trong
cả hai ly tốt như nhau. Nếu không quậy lên, làm sao biết được ly nào là trong
thật sự? Cũng vậy, nếu không có cám dỗ, làm sao biết được ai đạo đức sâu xa, ai
đạo đức chỉ ở bề mặt?
3. Chỉ biết mình đạo đức hay không qua những
cám dỗ thử thách
Nguyễn Công Trứ viết: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng
hào kiệt có hơn ai”. Thật vậy, nếu cuộc đời của mọi người đều an bình, thuận
buồm xuôi gió cả, thì người có bản lãnh sẽ hành xử chẳng khác gì người không
bản lãnh. Nếu các đồ vàng bạc không được thử bằng lửa hay a-xít thì chẳng sao
phân biệt được vàng thật hay vàng giả. Cũng vậy, chính trong cơn hoạn nạn ta
mới biết được ai là bạn tốt, bạn thật của ta: “Friend in need, friend indeed”
(Bạn bè trong cơn hoạn nạn mới là bạn thật). Tương tự, chỉ khi gặp những biến
cố, những hoàn cảnh khó khăn, ta mới biết được ta có đạo đức hay không. Muốn
biết đạo đức của ta ở mức độ nào, ta cần phải tự xét xem phản ứng của ta thế
nào…
– khi quyền lợi của ta bị va chạm một cách bất công: lúc đó ta nổi
sùng lên và chửi rủa loạn xạ? hay ta bình tĩnh xét xem nguyên nhân tại đâu, suy
nghĩ xem có thể giải quyết cách nào cho đẹp nhất, khôn ngoan nhất, bác ái nhất?
– khi có một quyền lợi nào đó không thể phân chia xảy đến giữa ta
và người bạn của ta: lúc đó ta quyết dành quyền lợi ấy về cho mình? hay biết
nhường cho bạn? Epictète đưa ra hình ảnh hai con chó có vẻ quấn quít và yêu
thương nhau lắm. Nhưng khi có ai quăng cho chúng một cái xương, thì chúng quay
ra cắn nhau sứt đầu chảy máu. Như vậy có thật là chúng yêu thương nhau không?
Làm sao biết được chúng có yêu thương nhau thật sự không nếu không có miếng
xương để thử?
– khi đứng trước một người gặp nguy khốn đang cần cứu giúp, nhưng
nếu cứu giúp thì ta sẽ phải hy sinh rất nhiều: lúc đó ta sẽ cứu giúp người ấy
bất chấp phải hy sinh? hay sẽ nhường việc cứu giúp ấy cho người khác?
– khi đứng trước những bất công trước mắt mà việc lên tiếng của ta
có thể chặn đứng hay giảm bớt phần nào, nhưng nếu lên tiếng thì ta sẽ bị sách
nhiễu, công việc của ta sẽ bị cản trở: lúc đó ta sẽ coi sự đau khổ của đồng
loại quan trọng hơn sự thoải mái cá nhân ta? hay ngược lại?
– khi mà nồi cơm của ta và gia đình ta bị đe dọa nếu ta làm theo
lương tâm, và làm theo lương tâm sẽ cứu được biết bao nồi cơm của những gia
đình khác: lúc đó ta sẽ coi những nồi cơm của vô số gia đình kia quan trọng hơn
nồi cơm của gia đình mình? hay ngược lại?
– khi có hai người giàu và nghèo đến với ta một lúc, người giàu
đem lại nhiều lợi lộc cho ta, còn người nghèo đến để nhờ ta một việc khá khó
khăn: lúc đó ta sẽ đối xử với hai người một cách niềm nở như nhau? hay ta sẽ
đối xử một cách phân biệt hết sức rõ rệt?
– v.v…
Rất nhiều người tưởng mình tốt lành thánh thiện chỉ vì thấy mình
chưa hề phạm một lỗi nào quá đáng, rồi dựa trên sự vô tội của mình họ chê bai
người khác đã phạm lỗi này tội kia. Thật ra họ chỉ là người chưa phạm tội vì
chưa phải ở trong những hoàn cảnh khó khăn, nhiều cám dỗ, chứ không phải họ là
những người khó có thể phạm tội. Rất có thể khi gặp những hoàn cảnh khó khăn,
những cơn thử thách, họ còn phạm tội nặng nề hơn những người đã từng bị họ chê
trách, mặc dù hoàn cảnh khó khăn hay sự thử thách của họ chẳng nặng nề bằng
những người kia. Sự thánh thiện đạo đức phải dựa trên khả năng không phạm tội
khi bị cám dỗ, chứ không chỉ đơn thuần dựa trên tình trạng vô tội trong hiện
tại chỉ vì chưa gặp cám dỗ.
Nhiều người tự hào khoe mình bản lãnh lắm, hoặc được mọi người coi
là đã tiến rất xa trên con đường nhân đức chỉ vì tu hành đã lâu năm, hay vì
được nắm giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo Hội, v.v… Nhưng khi gặp những
thách đố, khi phải đối đầu với những cám dỗ chưa từng gặp, họ mới nhận ra bản
lãnh của mình còn non kém, hay đường nhân đức của mình mới chỉ ở giai đoạn đầu.
Như đã nói trên, cám dỗ và thử thách rất cần thiết cho việc nên
thánh của ta. Tuy nhiên, không phải vì thế mà ta nên tự tìm cho mình những cám
dỗ. Trái lại, sự khôn ngoan đòi buộc ta phải tránh xa các dịp tội, những điều
kiện hay cơ hội khiến ta có thể phạm tội. Câu “dĩ đào vi thượng sách” là một
phương cách rất hay trong việc tu đức hay nên thánh. Và cũng nên nhớ lời khuyên
của Phao-lô: “Ai tưởng mình đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10,12).
Nhưng khi những cám dỗ tình cờ xảy đến ngoài ý muốn của ta, ta nên sẵn sàng đón
nhận, và hãy chiến đấu một cách dũng cảm, quảng đại. Rồi dù thắng hay bại, ta
cũng hãy coi chúng như những hồng ân Chúa ban để giúp ta hiểu rõ mình hơn,
khiêm nhường hơn, giúp ta xác định đúng hơn mình đang ở vị trí nào trên con
đường nên thánh.
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi con thầm tự hào về mình, tưởng mình đã đạo đức
hay thánh thiện lắm rồi. Nhưng lắm khi chỉ cần gặp những cơn cám dỗ hơi bất
thường một chút, con đã ngã gục. Con cám ơn Cha đã gửi những cám dỗ ấy đến để
con ý thức về bản lãnh của con một cách chính xác hơn, nhờ đó con khiêm nhường
hơn, và biết cảm thông với những yếu đuối của đồng loại hơn.
Chủ đề: "Chúng ta phải nhìn nhận tội lỗi mình, và
xin Đức Giêsu cứu giúp để từ bỏ tội lỗi đó"
Piri Thomas có viết một tác phẩm nhan đề “Trong Những Con Đường
Xấu Xa” (Down These Mean Streets). Tác phẩm mô tả việc ông cải tà qui chánh từ một
người bị kết án tù, một người nghiện ma tuý, và cố tình giết người để rồi trở
thành một Kitô hữu gương mẫu.
Một đêm kia, Piri đang nằm trên giường trong phòng giam của mình.
Đột nhiên, anh nghĩ tới tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời anh. Anh
cảm thấy có một ước muốn mãnh liệt là cầu nguyện. Nhưng anh đang nằm cùng
giường với một tù nhân khác mà người ta gọi là “thằng ròm”. Vì thế anh chờ đợi.
Sau khi đoán chắc rằng “thằng ròm” đã ngủ, anh leo ra khỏi giường và quì xuống
nền bê tông lạnh ngắt để cầu nguyện. Anh kể lại: “Tôi bầy tỏ với Chúa những gì
có trong trái tim tôi… Tôi nói với Ngài những lời mộc mạc… chứ không phải những
lời hoa mỹ… Tôi nói với Ngài những điều tôi muốn, những thiếu thốn của tôi,
những hy vọng và thất vọng của tôi,… Tôi cảm thấy dường như tôi có thể khóc
được… Đó là một điều mà bao nhiêu năm nay tôi không thể làm”.
Sau khi Piri cầu nguyện xong, một tiếng nói nho nhỏ đáp: “Amen”.
Đó là tiếng của “thằng ròm”. Piri nói: “Thế là hắn nằm sấp xuống, đầu úp trên
đôi tay khoanh lại, còn tôi vẫn quì yên lặng. Một lúc thật lâu không ai nói với
ai. Rồi “Thằng Ròm” nói nhỏ: “Tôi cũng tin Chúa!”. Hai người bạn trẻ nói chuyện
với nhau một lúc lâu. Rồi Piri leo lên giường ngủ. Anh nói: “chúc Chico ngủ
ngon nhé. Tôi nghĩ rằng Thiên Chúa luôn luôn ở với chúng ta, chỉ có chúng ta là
không ở với Ngài thôi”.
***
Câu chuyện này là một hình ảnh rất đẹp, minh hoạ những gì Đức
Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay khi Ngài bảo: “Hãy cải thiện đời sống
và hãy tin vào Phúc Âm”. Giáo huấn của Đức Giêsu gồm hai điều: trước hết là
“cải thiện” đời sống của chúng ta. Sau đó là “tin vào Phúc Âm”, chúng ta hãy
bắt đầu với điểm thứ nhất: cải thiện đời sống.
“Cải thiện” hay “cải tà qui chánh” nghĩa là nhìn nhận những gì
xấu, không tốt đẹp trong đời sống của chúng ta, và sau đó là từ bỏ chúng, quay
lưng lại với chúng, nói khác đi là thẳng thắn đối diện với tội lỗi trong đời
sống của ta, rồi cương quyết không tái phạm nữa. Như thế có nghĩa là bắt chước
Piri Thomas nhìn nhận tình trạng hỗn loạn mà anh đã gây ra trong đời sống của
anh và quyết định làm một điều gì tốt đẹp để sửa lại chuyện đó.
Tất cả chúng ta đều có thể có những kinh nghiệm tương tự như Piri
Thomas. Chúng ta cũng ý thức về những khuynh hướng xấu thỉnh thoảng làm hỗn
loạn đời sống chúng ta. Chẳng hạn chúng ta ý thức về tính ích kỷ khiến chúng ta
đặt quyền lợi của mình lên trên nhu cầu của tha nhân. Chúng ta ý thức về tính
cao ngạo khiến chúng ta không muốn nhìn nhận những sai trái của mình. Chúng ta
ý thức về tính lười biếng khiến chúng ta ngại giúp đỡ tha nhân. “Cải thiện”
nghĩa là đối diện với những khuynh hướng xấu trong đời sống chúng ta và làm một
cái gì để sửa đổi những khuynh hướng đó.
Điều này dẫn chúng ta đến điểm thứ hai trong giáo huấn của Đức
Giêsu. Ngòai việc cải thiện đời sống ra, Đức Giêsu còn yêu cầu chúng ta “tin vào Phúc Âm”. Nghĩa là tin rằng Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa và Ngài đến để cứu chúng ta. Nghĩa là tìm kiếm Đức Giêsu đặc
biệt trong Bí Tích Hoà Giải, và nhận nơi Ngài sự tha thứ và chữa lành. Nghĩa là
làm những gì Piri đã làm sau khi nhìn ra những gì xấu xa trong cuộc sống của
anh. Anh đã quay về với Thiên Chúa để cầu cứu. Anh tin vào “Tin Mừng” cho biết
rằng Thiên Chúa đã sai Đức Giêsu đến thế giới này để cứu chuộc những người tội
lỗi như anh. Chính vì thế, câu chuyện của Piri Thomas là hình ảnh rất đẹp minh
hoạ hai điểm trong giáo huấn của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Điểm thứ
nhất là “cải thiện” đời sống. Điểm thứ hai là “Tin vào Tin Mừng” tin rằng Đức
Giêsu đến để cứu giúp chúng ta.
Cách đây ít lâu, tác giả Kilian Mc Donnell đã thực hiện một cuộc
thăm dò sâu sắc về những cuộc trở lại. Cuộc thăm dò ấy đã đáp ứng câu hỏi này:
Tại sao có một vài nhà rao giảng Tin Mừng lại rất thành công trong việc làm cho
thính giả hối cải như thế? Theo Mc Donnell, có một điều là họ theo giáo huấn
của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay.
Họ làm cho quần chúng nhìn nhận rằng mình là những kẻ tội lỗi, và
họ giúp quần chúng quay về với Đức Kitô để được cứu độ. Ông nói: “Nhiều người
không nhìn nhận Đức Kitô vì họ không nhìn nhận rằng chính họ là những kẻ tội
lỗi. Nếu tôi không phải là người tội lỗi thì tôi đâu cần đến Đức Kitô”
Mc. Donnell kết luận: “Không ai mừng kính những mầu nhiệm của Đức
Kitô một cách vui mừng, nếu trước tiên người đó không buồn rầu nhìn nhận rằng
mình là kẻ có tội”. Bài Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta thực hiện hai điểm
quan trọng ấy. Nó mời gọi chúng ta nhìn nhận mình là những kẻ có tội, và quay
về với Đức Giêsu để được cứu độ.
Điều đó khiến chúng ta đi đến một nhận xét quyết định. Bài Tin
Mừng hôm nay mời gọi chúng ta như thể dẫn chúng ta vào mùa chay một cách tốt
đẹp. Qua các thế kỷ, các Kitô hữu đều nhận thấy mùa chay là thời gian Thiên
Chúa ban ân sủng cách đặc biệt, nhất là để giúp ta cải thiện đời sống
Nếu chúng ta muốn tìm một phương thế đặc biệt để sống tinh thần
mùa chay năm nay, thì không có phương thế nào tốt hơn là coi mùa chay như một
cơ hội thuận tiện để tái khám phá ra quyền năng của Bí tích hoà giải và sự bình
an này, chúng ta thực hiện những gì mà Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay mời
gọi chúng ta làm, chúng ta hãy nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và
nhận Ngài làm cứu Chúa của ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy suy nghĩ về một đoạn như thư của thánh
Phaolô nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình và nhận Đức Giêsu làm Cứu
Chúa của mình. Thánh Phaolô viết:
“Tôi không hiểu những gì tôi làm, vì tôi không làm những gì tôi
muốn làm, mà lại làm những gì tôi không muốn làm,…vì ngay cả khi tôi muốn làm
điều tốt thì tôi cũng không làm được. Tôi không làm điều tốt tôi muốn làm mà
lại làm điều xấu tôi không muốn làm… Thật tôi là người vô phúc biết bao. Ai sẽ
cứu tôi khỏi cái thân xác đang dẫn tôi tới cái chết này?….. Tạ ơn Thiên Chúa…
người đó là Đức Giêsu Kitô!” (Rm 7: 15-25)
Khi mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập dòng nữ thừa sai bác ái,
khởi sự công cuộc phục vụ những người hấp hối tại thành phố Calcutta bên An độ,
thì vấn đề lớn nhất gặp phải đó là tìm cho ra nơi chốn để chăm sóc họ. Chính
quyền địa phương chỉ có thể dành cho công việc xã hội này khu nhà trọ của khách
hành hương tại đền thờ kính thần Kali, mà lúc bấy giờ đang là nơi chứa chấp bọn
trộm cắp và xì ke.
Thế rồi một nguồn tin bất lợi được tung ra:
- Người đàn bà ngoại quốc này có ý đồ lôi kéo những người nghèo An
độ theo Công giáo.
Trước nguồn tin này, một nhóm người đã kéo đến tòa thị chính để
phản đối, còn một nhóm khác thì đến trụ sở cảnh sát để yêu cầu trục xuất người
đàn bà đó.
Viên cảnh sát trưởng hứa sẽ giải quyết vụ này. Đích thân ông tới
xem xét ngôi nhà. Ông thấy mẹ Têrêxa đang chăm sóc một bệnh nhân có những vết
thương, vì lâu ngày không được chạy chữa, nên xông ra mùi hôi thối chịu không
nổi. Thế mà vị nữ tu này vẫn nghiêng mình cặm cụi rửa ráy, lau chùi và băng bó
như cho chính mình vậy.
Trở về trụ sở, ông gặp lại những người biểu tình và nói:
- Tôi hứa sẽ trục xuất người đàn bà ngoại quốc này ra khỏi khu vực
đền thờ kính thần Kali, nhưng trước khi hành động, tôi chỉ xin mỗi người hãy
đem theo mẹ hoặc chị em tới chăm sóc cho những người hấp hối đáng thương kia,
thay thế cho người mà tôi được yêu cầu để trục xuất.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào phần kết của đoạn Tin mừng hôm
nay, qua đó Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc Am.
Thế nhưng chúng ta phải sám hối như thế nào?
Nói tới sám hối là chúng ta nghĩ ngay tới việc ăn năn những lầm
lỗi mình đã phạm để rồi quay trở về cùng Chúa.
Tuy nhiên quay trở về cùng Chúa mà thôi chưa đủ, tâm tình sám hối
còn đòi hỏi chúng ta phải quay trở về cùng anh em. Hòa giải với Chúa mà thôi
chưa đủ, chúng ta còn phải hòa giải với người khác, vì tất cả chúng ta đều là
anh em, con cùng một cha, sống trong cùng một gia đình, đó là cộng đồng nhân
loại.
Thực vậy, trong toàn thể các tạo vật thì con người được Thiên Chúa
đặc biệt chú ý đến…Bởi vì con người luôn mang trong tâm hồn mình một khát vọng sâu
thẳm.
Với tư cách là thụ tạo, vì được dựng nên cho Thiên Chúa, nên con
người sẽ luôn thao thức cho tới khi được an nghỉ nơi Ngài. Đằng khác, vì được
dựng nên do cùng một nguồn gốc, con người không thể khước từ đồng loại của
mình.
Chính vì thế mà việc sám hối đòi chúng ta vừa hòa giải với Chúa,
lại vừa hòa giải với anh em. Vừa trở về cùng Chúa lại vừa trở về với anh em
đồng loại.
Mẹ Têrêxa thành Calcutta chăm sóc cho những người hấp hối cũng chỉ
làm một công việc bình thường, đó là sống trung thực ơn sám hối toàn diện nói
trên.
Hãy hòa giải cùng Chúa và hòa giải cùng người khác. Hãy trở về với
Chúa và hãy trở về với anh em mình. Đó chính là sứ điệp chúng ta cần phải làm
ngay trong mùa chay này.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Năm nào cũng vậy, cứ vào Chúa nhật thứ nhất Mùa chay, Giáo hội cho
chúng ta nghe đọc đoạn Tin Mừng kể về việc Chúa Giêsu bị cám dỗ và chiến thắng
Satan. Năm A và C, đọc Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh Luca, kể lại sự kiện
này khá dài, kể rõ ba chước cám dỗ và ba lần Chúa Giêsu chiến thắng cám dỗ. Năm
nay năm B, đọc Tin Mừng của thánh Marcô, kể lại rất vắn tắt, chỉ cho biết:
“Thần khí thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa. Người ở đó 40 ngày, chịu Satan cám
dỗ”. Tuy thánh Marcô không trực tiếp cho biết Chúa Giêsu đã chiến thắng Satan,
đã xua đuổi nó, nhưng suốt sách Tin Mừng, thánh Marcô sẽ cho thấy Chúa Giêsu đi
tới đâu thì Satan bị đánh bại đến đấy. Giáo hội cho chúng ta nghe đọc đoạn Tin
Mừng này để mời gọi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu như kiểu mẫu và bảo
đảm cho chúng ta trong cuộc chiến đấu với Satan và những cám dỗ của nó.
Đời người được ví như một đấu trường, ở đó con người phải luôn
chiến đấu: chiến đấu với ngoại cảnh, chiến đấu với nhiều thứ, nhất là chiến đấu
với chính mình. Tại sao vậy? Bởi vì mang thân phận con người, ai ai cũng bị
giằng co, xâu xé bởi hai khuynh hướng mâu thuẫn nhau: một cái kéo con người lên
và một cái lôi con người xuống. Hai khuynh hướng đó đều nội tại trong con
người, khiến cho nội tâm con người trở thành chiến trường, đôi khi rất cam go
làm con người đau khổ.
Khuynh hướng đi lên là khuynh hướng căn bản của ý chí con người.
Ai cũng muốn mình là người tốt, ai cũng muốn mình làm điều thiện, chứ không ai
muốn mình xấu hay làm điều ác cả. Nhưng muốn là một chuyện, còn có làm điều tốt
hay không lại là chuyện khác. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không hiểu nổi việc tôi
làm: điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm”.
Vì thế, muốn đi lên, con người phải cố gắng, phải dùng chính sức mạnh của mình,
phải hao tổn năng lực của mình.
Còn khuynh hướng đi xuống cũng ở trong nội tâm, nhưng kể từ khi
nguyên tổ phạm tội, khuynh hướng này đã được ma quỉ tăng cường làm cho mạnh
lên, khiến con người muốn đi lên phải chiến đấu rất vất vả. Còn muốn đi xuống
thì chẳng cần phải cố gắng gì cả, chỉ cần buông thả, không cố gắng nữa là tự
động đi xuống. Chính vì thế làm thiện khó hơn làm ác rất nhiều. Và cái lực hấp
dẫn mọi người làm ác hoặc không làm thiện là lực của ma quỉ.
Đúng vậy, đàng sau bối cảnh chiến trường mà con người phải chiến
đấu, ẩn hiện chập chờn một nhân vật rất nguy hiểm mà Kinh thánh gọi là kẻ thù,
ấy là satan. Satan là quỉ, nó là “xếp xòng” của loài quỉ. Satan hay quỉ trước
kia là các thiên thần, nhưng vì làm loạn cùng Thiên Chúanên bị tống cổ ra khỏi
thiên đàng và bị đày xuống hỏa ngục. Từ ngày thất thế, Satan và bè lũ trở nên
những kẻ thù nguy hại của loài người. Chúng chuyên môn áp đảo, quấy phá để làm
cho người ta hư hỏng theo chúng. Chúng đã làm hư hỏng biết bao nhiêu người.
Chúng đã du nhập vào trần gian đủ thứ gian tham, lừa lọc, tội ác, bất công và
những lối sống lố bịch, nham nhở, nhăng nhít… Tất nhiên có người sẽ nói: có
thấy Satan hay quỉ nào công khai làm những chuyện đó đâu? Đúng thế, ngày nay
chúng ta ít được chứng kiến những vụ quỉ ám nhãn tiền mà Kinh Thánh đã ghi lại.
Ngày nay rất ít trường hợp Satan hiện nguyên hình trực tiếp tác oai tác quái
nữa, nhưng gián tiếp điều khiển trong bóng tối. Đó là một sức mạnh vô hình luôn
tác động trong tâm trí chúng ta: lôi kéo, xúi bẩy chúng ta đến chỗ hành động
xấu xa, tội lỗi. Chiến thuật hay phương thế ma quỉ sử dụng là cám dỗ. Chúng
không kiêng nể ai hay buông tha ai. Vì thế, không ai thoát khỏi cám dỗ của
chúng.
Theo nghĩa thông thường chúng ta quen hiểu, cám dỗ là dịp phạm
tội. Bị cám dỗ là khi chúng ta thấy mình hướng chiều về một điều ưa thích thuộc
phạm vi cấm đoán. Chẳng hạn: một vẻ quyến rũ từ bên ngoài lôi cuốn, một sự xôn
xao, rạo rực, thèm khát từ bên trong thúc đẩy; một âm mưu hay thủ đoạn bày vẽ
ra trong trí khôn thúc đẩy chúng ta hành động; một sự nhắm mắt làm liều, một
hành động nổi loạn của toàn thân từ chối ép mình trong trật tự… Đó là những
phát hiện của cơn cám dỗ. Như vậy, bị cám dỗ, bất cứ là cám dỗ về phương diện
gì, không phải là tội. Khi chúng ta bị cám dỗ thì chỉ có nghĩa là chúng ta bị
thử thách thôi. Và chỉ khi nào chúng ta bị thua chước cám dỗ thì mới có tội.
Đành rằng ma quỉ cám dỗ chúng ta. Nhưng chúng chỉ là kẻ thù nguy
hiểm thứ hai sau xác thịt của chúng ta: thế gian, ma quỉ và xác thịt. Đó là ba
kẻ thù ghê gớm. Ma quỉ chỉ là kẻ xách động, cám dỗ, thúc đẩy, xúi giục chúng ta
phạm tội, nhưng chúng có gặp được sự đồng tình đồng ý của chúng ta hay không?
Tức là chúng ta có chấp nhận và chiều theo chước cám dỗ hay không? Nói khác đi,
ma quỉ chỉ có thể cám dỗ được chúng ta khi chúng ta có nhu cầu, ham thích, đam
mê đối với những thực tại trần gian. Chúng ta có làm chủ được những nhu cầu thể
chất ấy chúng ta mới dễ dàng thắng lướt được những cám dỗ, và không để cho
khuynh hướng xấu làm chủ mình. Từ ngày có trí khôn cho đến giờ, ai trong chúng
ta cũng đều có kinh nghiệm về việc cám dỗ. Chúng ta đã bị cám dỗ nhiều lần. Có
lần chúng ta đã vượt qua được, và nhiều lần đã bị vấp ngã. Đó chính là thân
phận của con người yếu hèn và bất toàn. Không bao giờ vấp ngã, đó là chuyện khác
thường, đặc biệt, vô cùng tạ ơn Chúa. Còn hay bị vấp ngã, đó là chuyện bình
thường. Và điều quan trọng là chúng ta phải ăn năn sám hối ngay.
Janet Frame là một tiểu thuyết gia người New Zealand. Trong suốt
những năm đầu đời, bà đã phải chịu đựng những chứng bệnh về tâm lý, và vừa mới
thoát khỏi cảnh bị ép buộc phải phẫu thuật thùy não. Cuối cùng, bà vào một bệnh
viện ở Anh để điều trị. Tại đó, bà may mắn gặp được một bác sĩ rất hiểu biết,
đã giúp đỡ bà phục hồi. Bằng cách nào vị bác sĩ đó khác hẳn với nhiều bác sĩ
khác mà bà đã từng gặp? Bà nói:
“Tôi rất dễ chịu vì biết rằng bác sĩ của tôi là một người không e
ngại thừa nhận và bày tỏ tư tưởng kỳ lạ rằng nói cho cùng, ông ấy cũng là con
người, và ông không thể làm gì được hơn, và khi giả vờ như mình là thần thánh,
thì cũng không thể thay thế được điều đó.
Trong bệnh viện đó, việc quản lý bao gồm những vị bác sĩ mà chính
họ cũng bị cản trở do không đủ tư cách pháp lý. Những bác sĩ này có thể dễ dàng
liên hệ với các bệnh nhân của họ”.
Chúng ta không thể học hỏi được lòng thương xót, khi không biết
thế nào là đau khổ. Chúng ta không thực sự hiểu được lòng thương xót là gì,
hoặc không thể an ủi một người nào đó đang chịu đau khổ, trừ phi chúng ta đã
từng đau khổ. Chúng ta không thể lau khô những giọt nước mắt của người khác,
trừ phi chúng ta đã từng khóc lóc. Chúng ta không thể giúp đỡ những người lầm
đường lạc lối tìm được con đường của họ, trừ phi chúng ta đã từng bước đi trong
tăm tối. Khi đã từng chịu đau khổ, chúng ta mới có thể trở thành một con người
mở đường cho người khác.
Trong Tin Mừng, chúng ta nhận thấy Đức Giêsu đã bị cám dỗ. Bức thư
gửi tín hữu Do thái nói rằng Đức Giêsu đã trở nên “hoàn toàn giống như anh em
Người về mọi phương diện”. Nơi Người, chúng ta có một vị thượng tế có thể cùng
với chúng ta cảm nhận được sự yếu đuối của chúng ta; bởi vì Người đã từng bị
cám dỗ bằng mọi cách giống như chúng ta, mặc dù Người không phạm tội. Đức Giêsu
có thể đồng hóa với chúng ta. Người giống như chúng ta trong tất cả mọi sự và
mọi cách, ngoại trừ tội lỗi. Người đã bị cám dỗ giống như chúng ta. Người không
được miễn khỏi bị khổ sở, đau đớn, thất vọng… Người đã nếm thử thành công, thất
bại, và cả cái chết. Người không khước từ bất cứ niềm vui nào của chúng ta,
Người chỉ khước từ tội lỗi mà thôi. Đây là mầu nhiệm sâu xa nhất về tình yêu
của Thiên Chúa. Đức Giêsu hoàn toàn là con người, nhưng điều đó không có nghĩa
là Người chỉ là người mà thôi. Sự kiện Người không phạm tội không có ý nói rằng
Người thiếu bất cứ tính cách nào của nhân loại. Tội lỗi không phải là một yếu
tố thuộc về bản chất con người. Trái lại. Tội lỗi là sự sa ngã nơi bản tính
nhân loại. Ngoài ra, Người còn chia sẻ sự yếu đuối và chước cám dỗ của chúng ta
nữa. Bởi vì chính Người đã từng bị cám dỗ, nên Người thấu hiểu chúng ta, và có
thể giúp đỡ chúng ta. Do đó, chúng ta có thể tin tưởng đến gần Người, trong sự
nhận biết rằng chúng ta sẽ được Người thương xót, và được đón nhận ân sủng
trong những lúc chúng ta cần.
Những côn trùng và ruồi bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ.
Nhiều lần, chúng phát hiện rằng theo sau hương thơm của chất ngọt, có thể dẫn
chúng đến một cuộc sống bị giam hãm hoặc tệ hại hơn. Do không thể kháng cự lại
hương thơm, chúng bò vào bên trong một bông hoa, chỉ để đắm mình trong phấn
hoa, để rồi chúng không thể trở ra được nữa.
Có thể bạn nghĩ rằng điều này không bao giờ xảy ra với con người
chúng ta. Chúng ta quá tinh khôn để không bị sa ngã vào điều đó. Sự kiện đáng
buồn là chúng ta lại vẫn cho phép điều đó xảy ra. Giống như những con ong,
chúng ta cũng bị hương thơm của chất ngọt quyến rũ.
Ý nghĩa phổ biến của chước cám dỗ là lôi kéo con người làm điều
sai trái. Khi nghĩ đến chước cám dỗ, ngay tức khắc chúng ta nghĩ đến những điều
xấu xa. Tuy nhiên, không chỉ có sự dữ mới có thể đưa chúng ta đi lạc đường.
Những việc tốt đẹp vẫn có thể cám dỗ chúng ta một cách đầy hiệu quả. Trên thực
tế, tất cả những chước cám dỗ đều đến dưới chiêu bài là việc tốt đẹp. Và sức
mạnh của một chước cám dỗ tỉ lệ với sức quyến rũ của mục đích.
Không phải chỉ khi nào đường đi khó khăn và rải đầy chướng ngại
vật, chúng ta mới không tiếp cận được mục đích, nhưng khi đường đi dễ dàng và
trải đầy những nét quyến rũ, chúng ta cũng vẫn bị như vậy. Trong trường hợp thứ
hai, chúng ta bị cám dỗ coi con đường đó như trò đùa. Chúng ta tự cho phép mình
đi sai đường, sao cho trước khi nhận ra điều đó, chúng ta đã quên mất mục đích,
và lãng phí sức mạnh của mình. Những vinh hoa trần thế làm mất đi sự quyến rũ
của hạnh phúc thiên đàng. Trong Tin Mừng, không thiếu những ví dụ về điều này.
Một dịp kia, Đức Giêsu kêu gọi một người giàu có trở thành môn đệ
của Người, nhưng người đó đã từ chối. Không phải sự dữ đã làm cho anh ta từ
chối – anh ta không làm điều gì xấu xa cả. Nhưng anh ta từ chối chỉ vì một điều
gì đó tốt đẹp – sự giàu có.
Khi Đức Giêsu đi vào nhà của Marta và Maria, Marta quá bận rộn,
nên không thể lắng nghe Người nói được. Không phải do điều gì đó xấu xa đã làm
cho bà không nghe được lời Người, mà là một việc làm tốt đẹp, thậm chí đáng
khen nữa – những công việc bày tỏ lòng hiếu khách. Đức Giêsu kể một câu chuyện
về những người khách từ chối lời mời đến dự tiệc. Khi từ chối, họ không hành
động do những động cơ xấu xa, nhưng do những động cơ tốt đẹp. Người thì muốn đi
thăm mảnh đất mà họ mới tậu được. Người khác lại muốn thử con bò mới mua. Người
thứ ba thì vừa mới cưới vợ. Tuy nhiên, mặc dù những nguyên nhân của họ đều tốt
hảo cả, thì hậu quả vẫn như thể họ là những người tồi tệ – họ đã để cho bữa
tiệc trôi qua.
Trong dụ ngôn về người gieo hạt, Đức Giêsu nói rằng một số hạt bị
chết ngạt do gai góc. Những “bụi gai” này bao gồm cái gì vậy? “Những lo lắng và
quan tâm đến thế gian này, và sự quyến rũ của giàu sang”. Một lần nữa, những
điều này không phải tự chúng xấu xa. Từ tất cả những điều này, chúng ta phải
suy ra điều gì? Đó là chúng ta có thể có nhiều điều đáng e sợ từ việc tốt cũng
như việc xấu. Sau hết, khi nhận thấy một điều nào đó rõ ràng là xấu, thì chúng
ta phải cự tuyệt nhiều hơn là bị điều đó lôi cuốn. Do đó, điều này đặt ra nhiều
nguy hiểm hơn. “Khi dát vàng vào đôi cánh chim, thì nó sẽ không bao giờ bay
được”. Những điều cám dỗ chúng ta từ bỏ mục đích của mình không phải lúc nào
cũng luôn luôn xấu xa. Thông thường, đó lại là điều tốt đẹp. Vì thế, thật khó
mà kháng cự lại được. Những sự chọn lựa đau thương nhất thường ở giữa điều tốt
và điều xấu. Quỉ dữ không xuất hiện giống như một nhân vật đáng ghê tởm. Nhưng
nó xuất hiện như một nhân vật hấp dẫn, đáng mến, dễ thương, thậm chí là một
người bạn nữa. Nó xuất hiện để đem lại ý thích tốt đẹp nhất trong tâm hồn bạn –
như khi nó dâng bánh và tất cả các nước trên thế giới cho Đức Giêsu. Chúng ta
cần có sự khôn ngoan và sức mạnh, để có thể kháng cự lại những chước cám dỗ,
đặc biệt đối với những cám dỗ đến dưới chiêu bài tốt đẹp.
Lần kia, một vị vua đang thả bộ trên những con đường của thành phố
thủ đô, thì có một người ăn xin đến, anh ta liền hỏi xin vị vua chút ít tiền.
Vị vua không hề cho người đó một đồng nào cả. Thay vào đó, vua mời anh ta đến
lâu đài thăm viếng ông. Người ăn xin nhận lời mời của nhà vua.
Đến ngày hẹn, người ăn xin tìm đường đi đến cung điện, và được đưa
đến gặp nhà vua, anh ta bỗng nhận ra quần áo rách rưới của mình, và cảm thấy
xấu hổ. Đây là một biểu tượng hùng hồn về tình trạng nghèo khổ trong cuộc sống
của anh.
Vốn là một loại người đặc biệt, nhà vua đón tiếp anh ta một cách
nồng nàn, tỏ lòng thương xót anh, và ban cho anh ta một bộ quần áo mới, cùng
với những thứ khác. Tuy nhiên, vài ngày sau, người ăn xin vẫn lê lết trên đường
phố xin ăn trong bộ quần áo rách nát của anh ta.
Tại sao anh ta lại bỏ bộ quần áo mới? Bởi vì anh biết rằng khi mặc
bộ quần áo đó, có nghĩa là anh phải sống một cuộc sống mới. Điều đó có nghĩa là
anh phải từ bỏ cuộc sống của một người ăn xin. Nhưng anh chưa được chuẩn bị để
làm như vậy. Không phải là cuộc sống mới không hấp dẫn đối với anh. Nó rất hấp
dẫn. Chỉ vì anh biết rằng một sự thay đổi trong cuộc sống sẽ cần phải từ từ,
gây đau xót và không chắc chắn. Nói cách khác, anh quá quen thuộc với thói quen
cũ, đến nỗi không thay đổi được.
Thói quen đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của chúng ta. Người
ta nói rằng chúng ta sống nửa sau cuộc đời mình, tùy thuộc vào những thói quen
đã có từ nửa đầu cuộc đời mình. Điều đó sẽ đem lại sự thoải mái cho người nào
có những thói quen xấu.
Mùa chay đụng chạm vào một góc cạnh nào đó trong tâm hồn của tất
cả chúng ta. Hình ảnh Đức Giêsu ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc gây xúc động
cho chúng ta. Nhưng cũng bắt buộc chúng ta phải nhìn vào cuộc sống của mình.
Mùa chay thách đố chúng ta cải thiện con người mình. Nhưng những nỗ lực của
chúng ta trong việc đổi mới thường không đủ sâu xa. Nếu muốn mặc một cái áo
mới, thì chúng ta phải vứt bỏ cái áo cũ. Việc mặc cái áo mới sẽ lôi kéo theo
một lối sống mới.
Nếu mong muốn thay đổi những khía cạnh bên ngoài cuộc sống, thì
trước hết, chúng ta phải thay đổi những thái độ tư tưởng bên trong của chúng
ta. Sự thay đổi đòi hỏi chúng ta phải lấy những thói quen mới thay thế vào
những thói quen cũ. Điều này mời gọi chúng ta phải biết làm chủ bản thân, và tự
bắt mình phải thực hiện những gì cần thiết. Trước hết, thông qua sức mạnh của
lời cầu nguyện, chúng ta có thể hoàn tất được sự thay đổi tâm hồn theo lời mời
gọi của mùa chay.
Mặc dù sự thống hối và lời cầu nguyện luôn luôn phù hợp, nhưng
những yếu tố đó lại càng đặc biệt phù hợp trong mùa chay. Đây là thời gian của
ân sủng. Mùa chay là một cửa ngõ mở ra một cơ hội lớn cho mọi người. Đó là “Mùa
xuân thánh thiện” của Giáo hội. Trong suốt mùa chay, những người dự tòng được
chuẩn bị nhận lãnh phép Rửa tội, để được tái sinh trong Đức Kitô. Đây là một
thời kỳ của sám hối và cố gắng. Nhưng cũng là thời kỳ của niềm vui lớn lao,
tương tự như mùa xuân vậy. Trong khi chúng ta nỗ lực tiến tới Mùa Phục Sinh,
thì mặt trời càng ngày càng tươi sáng và ấm áp hơn.
Vậy chúng ta phải làm gì? Nói tóm lại, chúng ta phải quay trở về
với sức mạnh của tình yêu. Sống tử tế, hành động theo lẽ phải, và bước đi một
cách khiêm tốn cùng với Thiên Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa giúp đỡ chúng ta dẹp
bỏ được những mảnh rách của tội lỗi, để Người có thể mặc cho chúng ta chiếc áo
mới của sự sống.
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Mùa Chay Thánh năm nay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro (25 tháng 2 năm
2009) cho đến Chúa Nhật Lễ Lá (5 tháng 4, 2009) mở đầu Tuần Thánh, và tiếp theo
là Chúa Nhật Đại Lễ Phục Sinh (12-4-2009).
Trong Chúa Nhật I Mùa Chay (Năm B), Bài Đọc I (Sáng thế 9, 8-15)
nhắc đến câu chuyện Đại Hồng Thủy. Thánh Phêrô cũng nhắc đến câu chuyện Đại
Hồng Thủy trong Bài Đọc II (1 Phêrô 3, 18-22). Đại Hồng Thủy đã tiêu diệt tất cả
nhân loại và mọi sinh vật "trừ 8 người trong gia đình ông Noe và một số
sinh vật được đưa lên tàu".
Câu chuyện Đại Hồng Thủy nhắc nhở chúng ta đến hậu quả khủng khiếp
của tội lỗi. Nhưng con người chúng ta luôn bị cám dỗ lôi cuốn phạm tội. Bài
Phúc Âm (Matcô 1, 12-15) cũng ghi lại việc chính Chúa Giêsu cũng để cho ma qủy
cám dỗ, sau khi đã ăn chay 40 ngày.
Cám dỗ là một thử thách suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng bị cám dỗ
chưa hẳn là đã phạm tội. Có rất nhiều thứ cám dỗ khác nhau, nhưng tất cả đều do
khuynh hướng con người chúng là 'ham danh, ham lợi, ham lạc thú!'. Mọi người
đếu bị cám dỗ. Ai trong chúng ta cũng ham muốn được ca tụng, được giầu có, và
thỏa mãn các thú vui. Ngay cả các vị Thánh tu hành trong sa mạc cũng bị cám dỗ,
nhiều khi rất mạnh mẽ, cả trong tuổi già (như Thánh Antôn Viên Phú; Lễ kính
ngày 17-1 hàng năm). Nhưng chúng ta có thể thắng cám dỗ, nếu có ơn Chúa giúp đỡ
qua việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình, và xa tránh dịp tội.
Trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, khi chúng ta lên chịu xức tro, chúng ta
đã nghe ca đoàn hát: "Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ
trở về bụi tro..." (Bài "Hỡi Người Hãy Nhớ" của Kim Long) để
nhắc nhở chúng ta đã được dựng nên do "bụi tro, và khi chết, thân xác
chúng ta cũng sẽ trở về 'tro bụi'. Suy nghĩ như vậy không phải để chúng ta 'bi
quan yếm thế'; nhưng chỉ để chúng ta nhớ đến cuộc đời của chúng ta trên trần
thế này ngắn ngủi, mỗi ngày qua đi là một ngày chúng ta đi đến gần nấm mộ của
chúng ta hơn, và sau khi chết thân xác chúng ta sẽ trở thành tro bụi. Tuy nhiên,
chúng ta đã được dựng nên theo hình ảnh Chúa, có linh hồn bất tử. Chết chỉ là
'thể phách, hồn là tinh anh" và 'sống gửi thác về', 'sinh qúy tử quy'.
Chúng ta sẽ được về với Chúa là Cha chúng ta trên nước Hằng Sống, miễn là chúng
ta luôn biết cố gắng thắng cám dỗ để sống xứng đáng những con người đã
"được dựng nên theo hình ảnh Chúa!' (Sáng thế 1, 26).
Mùa Chay chính là "thời gian thuận tiện" (2 Corintô 6,2)
để chúng ta 'làm các việc lành phúc đức'. Mùa Chay chính là thời gian để chúng
ta dùng nhiều thời giờ hơn để sống đức tin của chúng ta, thánh hóa bản thân và
gia đình chúng ta. Có những việc Giáo hội nhắc nhở chúng ta phải làm nhiều hơn
trong Múa Chay, đó là: Cầu nguyện, ăn năn sám hối lỗi lầm quá khứ qua việc xét
mình xưng tội; làm việc đền tội qua những hy sinh hãm mình (ăn chay và kiêng
thịt); làm việc từ thiện (thường gọi là 'làm phúc bố thí'), giúp đỡ những người
nghèo khó, bệnh tật, đau khổ trên thế giới. Những việc này chúng ta vẫn làm
hàng ngày, và từng giây phút cuộc đời, nhưng vào Mùa Chay, chúng ta cố gắng
nhiều hơn để giúp đổi mới con người chúng ta, gia đình chúng ta và chuẩn bị
những ngày kỷ niệm việc Chúa đã chịu chết để chuộc tội chúng ta, nhưng Ngài đã
Sống Lại và Lên Trời vinh hiển để mở đường cứu rỗi cho chúng ta.
Xin hiệp ý cầu nguyện chung, để mỗi người chúng ta sống tốt đẹp
mùa Chay Thánh này, được dồi dào ơn thánh Chúa để canh tân con người chúng ta,
gia đình chúng ta và chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn trong thế giới
hôm nay.
(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)
Chủ Đề: Chỉ vì thương nên Thiên Chúa
đơn phương ban ơn cho loài người (Mc 1,15)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Mùa Chay là "lúc thuận tiện" để lãnh nhận ơn Chúa, là
"thời cứu độ". Nhưng để có thể lãnh nhận ơn Chúa, chúng ta phải
"sám hối và tin vào Tin Mừng".
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe tiếng Chúa và xin Ngài
giúp chúng ta thực hiện lời Ngài.
II. Gợi ý sám hối
· Chúng ta cứ sa đi ngã lại mãi trong tội. Phải chăng vì chúng ta
chưa thực lòng sám hối?
· Chúng ta có biết rằng phạm tội là để mình bị trói buộc trong
xiềng xích của Satan không?
· Chúng ta có ý thức rằng phạm tội là phụ bạc với tình yêu của Đức
Giêsu, Đấng đã chịu chết vì tội chúng ta không?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: St 9,8-15
Sau cơn hồng thuỷ (theo St 7,12 thì kéo dài 40 ngày), Thiên Chúa
lập giao ước với Nôê.
· Nội dung giao ước: sẽ không còn xảy ra một tai họa nào tương tự
như thế nữa cho loài người.
· Kẻ được hưởng giao ước: "mọi xác phàm", tức tất cả các
sinh vật.
· Điều kiện: đây là một giao ước đơn phương. Chỉ một mình Thiên
Chúa cam kết với loài người; loài người không bị buộc điều gì cả.
· Dấu chỉ giao ước này: cầu vòng trên trời.
2. Đáp ca: Tv 24
Tv 24 là lời cầu nguyện của một người công chính: ông bày tỏ niềm
tin tưởng tuyệt đối vào Chúa; ông xin Chúa cho biết đường lối của Ngài.
Tv này áp dụng rất đúng cho Nôê: Ông là người công chính được Chúa
cứu khỏi nạn hồng thuỷ và dẫn đưa ông tới một thế giới mới.
Tv này cũng có thể dùng làm lời cầu nguyện cho các tín hữu bước
vào Mùa Chay: cũng như Nôê, họ bước vào thời gian thử thách 40 ngày; nếu họ
theo đường lối Chúa thì họ sẽ tới được một thế giới mới và lập giao ước mới với
Chúa.
3. Tin Mừng: Mc 1,12-15
Đoạn Tin Mừng này có 2 ý lớn:
a/ Đức Giêsu ăn chay: Ngài ăn chay 40 ngày (như thời gian xảy ra
cơn lụt). Trong thời gian đó Ngài tìm hiểu đường lối Thiên Chúa (như Tv 24), và
sau đó Ngài bắt đầu sứ vụ công khai.
b/ Đức Giêsu loan báo Tin Mừng: "Thời giờ đã mãn, Nước Thiên
Chúa đã gần đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
4. Bài đọc II: 1 Pr 3,18-22
Thánh Phêrô nhắc lại chuyện Hồng thuỷ xưa và coi đó là hình bóng
của phép rửa tội: Ngày xưa Thiên Chúa nhân từ đã cứu sống Nôê và gia đình; ngày
nay phép rửa cũng cứu thoát con người như vậy nhờ sự phục sinh của Đức Giêsu
Kitô.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Quà và ơn
Sứ điệp thứ nhất mà Phụng vụ Lời Chúa Mùa Chay gởi đến chúng ta
là: Thiên Chúa tặng quà cho chúng ta, Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.
Người ta thường tặng quà vào những dịp nào? Những dịp tặng quà là
Tết, đám cưới, sinh nhật v.v. Thường thì ai tặng quà cho ai? Người tặng quà
thường là người có liên hệ tình nghĩa thế nào đó với người được tặng, chẳng hạn
cấp dưới đối với cấp trên, học trò đối với thầy cô, người chịu ơn đền đáp cho
người thi ơn. Vì thế có thể nói "quà" thường là thứ "có qua có
lại".
Khi "có qua" mà không "có lại" thì gọi là
"ơn" (Tiếng hy lạp Charis luôn bao hàm tính cách miễn phí). Các bài
đọc hôm nay kể đến 2 ơn mà Thiên Chúa ban cho loài người:
· Ơn ban sự sống (xem phần giải thích bài đọc I): vì loài người
tội lỗi nên bị phạt phải chịu nạn hồng thuỷ. Nhưng Thiên Chúa đã cứu sống gia
đình ông Nôe. Sau khi cơn hồng thuỷ kết thúc, Thiên Chúa lập giao ước rằng từ
nay sẽ không bao giờ Ngài cho xảy ra một đại họa như thế nữa. Đây là một giao
ước đơn phương: Thiên Chúa không buộc loài người làm gì cả, chỉ một mình Ngài
hứa và cam kết giữ lời hứa ấy. Sau này loài người lại tiếp tục phạm tội nhưng
Thiên Chúa vẫn trung thành với lới cam kết đơn phương ấy.
· Ơn ban sự sống mới qua bí tích Rửa tội (Xem phần giải thích Bài
đọc 2): chúng ta đâu có công gì để được ơn này, nhưng Thiên Chúa đã ban chỉ vì
yêu thương chúng ta.
Khi nhận quà thì ta mừng, khi nhận ơn thì ta cảm động. Vậy, Thiên
Chúa tặng quà cho chúng ta, chúng ta có mừng không? Và còn hơn quà nữa, Thiên
Chúa luôn ban ơn cho chúng ta, chúng ta có cảm động không?
* 2. Ý nghĩa Mùa Chay
a/ Một thời gian cầu nguyện: Ngày xưa, Môsê đã ở trên núi Sinai 40
ngày, ngôn sứ Êlia cũng ở trên núi Horép 40 ngày. Trong thời gian đó, các ngài
đã cầu nguyện và đã gặp được Thiên Chúa. Trong thời gian 40 ngày Mùa Chay, việc
đầu tiên chúng ta phải để ý làm là cầu nguyện như các ngài.
b/ Một thời gian chiến đấu: Ngày xưa ông Nôê ở trong tàu 40 ngày
chiến đấu với phong ba bão táp của cơn hồng thuỷ; Đức Giêsu sống trong sa mạc
40 ngày chiến đấu với những cơn cám dỗ của Satan. Noi gương các Ngài, chúng ta
cũng hãy chiến đấu với những khuynh hướng xấu, những thói quen tội lỗi và những
cám dỗ trong Mùa Chay này.
c/ Một thời gian sám hối và đón nhận Tin Mừng: Trong bài Tin Mừng
hôm nay, Đức Giêsu đã mời gọi "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Sám
hối là từ bỏ con đường sai lạc cũ để quay về con đường chính. Trong Mùa Chay,
chúng ta cũng quan tâm hơn đến việc lắng nghe và suy gẫm Lời Chúa.
* 3. Chiếc cầu vồng
Hình ảnh chiếc cầu vồng của bài đọc I vừa đẹp vừa gợi rất nhiều ý
cho chúng ta suy gẫm trong Mùa Chay:
· Chiếc cầu vồng là một đường cong bắt đầu từ đất, vươn lên trời
cao, rồi lại trở xuống mặt đất. Chính vì thế mà Thiên Chúa dùng nó làm dấu chỉ
giao ước giữa trời với đất, giữa Thiên Chúa với loài người.
· Sau cơn mưa, trời lại sáng và chiếc cầu vồng xuất hiện rực rỡ.
Như thế, chiếc cầu vồng còn là dấu chỉ giao ước được tái lập, trở lại tình
trạng tốt đẹp thuở ban đầu.
· Cầu vồng mang 7 sắc rất đẹp. Nó còn là dấu chỉ tương giao tốt
đẹp giữa Thiên Chúa với con người.
Phải chăng mối tương quan giữa chúng ta với Thiên Chúa cũng rất
tốt đẹp hồi thuở ban đầu, nhưng rồi do tội lỗi, chúng ta như rơi vào cơn bão
lụt. Nhưng Thiên Chúa muốn cứu thoát chúng ta. Ngài kêu mời chúng ta tái lập
liên hệ thân thương với Ngài trong Mùa Chay này, để rồi tình nghĩa giữa chúng
ta với Ngài lại tươi đẹp như trước?
* 4. Thiên đàng đánh mất và thiên đàng gặp lại
Thánh Thần thúc đẩy Ngài vào sa mạc.
Trong phòng triển lãm tưởng tượng của chúng ta hôm nay, có bày bức
tranh tứ bình, gồm hai cặp tranh đôi một đối xứng. Hai bức đầu, một bên vẽ cảnh
sa mạc hoang vắng, Chúa đang bị Satan thử thách. Một bên vẽ cảnh bình yên thanh
thản. Chúa đang ngồi giữa bầy dã thú đã trở nên hiền như chiên cừu. Hai bức
sau, bên phải vẽ cảnh vườn địa đàng tươi đẹp. Ađam Eva trẻ trung đầy sức sống
vui hưởng những ngày hạnh phúc giữa một thiên nhiên hài hòa hoa thơm quả ngọt.
Bên trái, vẫn là Ađam, Eva, nhưng khuôn mặt hốc hác, trán nhăn nheo ướt đẫm mồ
hôi, dáng hao gầy mòn mỏi vì mệt nhọc và già yếu, giữa một thiên nhiên khô cằn
gai góc.
Đó là thân phận con người sau khi sa ngã. Con người không còn thể
sống hài hòa với Thiên Chúa, với thiên nhiên, với đồng loại và với chính mình.
Nhưng Đức Giêsu đã đến để đảo ngược tình thế. Ngài sống giữa sa
mạc, một thiên nhiên thù nghịch. Ngài bị thử thách gay go. Nhưng rồi Ngài đã
thắng nghịch cảnh và quỉ dữ: Ngài sống yên bình hài hòa giữa một vũ tụ đã được
cảm hóa.
Chỉ bằng một câu ngắn, Marcô đã vẽ nên bức tranh tứ bình đó:
"Ngài ở trong hoang địa bốn mươi này, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã
thú, và các Thiên sứ hầu hạ Ngài".
Công trình tạo dựng thứ nhất của Thiên Chúa đã bị loài người phá
hỏng. Chúa đến để tái tạo lại, làm công trình tạo dựng thứ hai. "Thời kỳ
đã mãn, Nước Thiên Chúa đã đến gần rồi. Anh em phải sám hối và tin vào Tin
mừng".
Khi Đức Giêsu chịu phép rửa, bắt đầu sứ vụ, Thần Khí Chúa đã ngự
trên Ngài. Thần Khí ấy, cũng như trong ngày đầu cuộc tạo dựng, đang bay là là
trên những vùng đất khô cằn khắc nghiệt, và hoang mạc đang dần dần trở nên xanh
tươi, trổ hoa thơm quả ngọt.
Vậy ra thiên đàng mà Ađam và Eva đã đánh mất vẫn còn đó, phía
trước mỗi người. Nếu chúng ta biết "sám hối" và tin vào Tin mừng Đức
Kitô" chúng ta sẽ gặp lại thiên đường đã mất.
Mùa Chay 40 ngày thinh lặng sa mạc, hãy để lòng chúng ta lắng
xuống để bị cám dỗ, bị lôi cuốn bởi lòng cậy trông hy vọng tìm lại thiên đường
đã mất, nhờ Đức Kitô, Con Chúa, Chúa chúng ta.
5. Dã thú và thiên thần
Câu cuối của bài Tin Mừng hôm nay là một hình ảnh rất lạ:
"Người ở trong hoang địa 40 ngày, chịu Satan cám dỗ, sống giữa loài dã
thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người"
Câu này gồm 2 phần mang hai sắc thái khác hẳn nhau nhưng có liên
hệ nhân quả với nhau:
· Phần đầu là một cảnh khó khăn "Người ở trong hoang địa 40
ngày, chịu Satan cám dỗ": Đức Giêsu bị Satan cám dỗ, như ngày xưa hai
nguyên tổ Ađam Evà trong vườn Địa Đàng, và như dân Do Thái trong sa mạc. Nhưng
Ngài chiến đấu với những cám dỗ đó và đã chiến thắng.
· Phần sau là một cảnh thoải mái "sống giữa loài dã thú, và
có các thiên sứ hầu hạ Người": (1) Trước khi hai nguyên tổ phạm tội, các
ngài đã sống an hòa giữa các dã thú (xem St 2,19-20); Sau này khi mơ tới ngày
tìm lại địa đàng đã mất, ngôn sứ Isaia cũng tưởng tượng cảnh con người và dã
thú sống chung hòa thuận với nhau (xem Is 11,6-8: "Bấy giờ sói sẽ ở với
chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một
cậu bé sẽ chăn dắt chúng... Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ
thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang..."; (2) Còn về hình ảnh các
thiên sứ hầu hạ, Tv 91,9-12 hiểu rằng đó là ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho
người nào biết nương tựa nơi Ngài ("Vì ngươi đã chọn Giavê làm nơi ẩn náu,
Đấng Tối cao làm chốn dung thân... nên Người ra lệnh cho các thiên thần gìn giữ
ngươi trên mọi lối ngươi đi..."
Vì Đức Giêsu đã chịu cám dỗ và chiến thắng chúng nên Ngài được
hưởng sự an vui như đang sống trong vườn địa đàng và được Thiên Chúa đặc biệt
che chở giữ gìn. Phần thưởng của Đức Giêsu khuyến khích chúng ta can đảm chiến
đấu với các cám dỗ.
6. Cạm bẫy
Người Eskimo bắc cực có một cách bẫy chó sói rất độc đáo để lấy bộ
lông làm áo da thú.
Thợ săn cáo mài một con dao thật sắc, lưỡi dao mỏng và bén đến độ
chỉ cần vuốt nhẹ là cắt da lòi thấu xương. Họ nhúng con dao ấy vào trong máu
súc vật, rồi đem ra ngoài trời tuyết lạnh cho máu đông lại. Họ làm như thế
nhiều lần cho đến khi con dao bọc toàn máu.
Khi trời nhá nhem tối, họ đem ra cắm ngoài cánh đồng tuyết. Với
cái mũi rất thính của loài sói bắc cực, nó đánh hơi mùi máu tươi đông lạnh. Vội
vàng chạy tới liếm lấy liếm để, liếm tới tấp, liếm điên cuồng cho đến khi lưỡi
mình đã bị dao cắt đứt mà vẫn sung sướng liếm dòng máu tươi, không hề biết mình
đang liếm máu của chính mình.
Càng say máu, sói càng liếm cuồng điên, cho tới khi kiệt sức rồi
lăn ra mà chết.
*
Mùa chay là thời gian hồi tâm, trở về với Chúa để định hướng cho
tương lai. Mùa chay cũng là lúc dừng lại, để nhận những cám dỗ đang rình rập,
những cạm bẫy đang bủa vây. Con cáo vì ham liếm máu tươi, mất cảnh giác nên đã
không nhận ra được cạm bẫy chết người. Nếu cuộc đời là một chuỗi những chọn
lựa, thì nó cũng là một chuỗi những cám dỗ.
Xã hội càng văn minh tiến bộ, con người càng gặp nhiều cám dỗ. Cám
dỗ của thân xác đòi hỏi, hưởng thụ và chiếm đoạt. Cám dỗ của con tim mù quáng,
đam mê và phóng túng. Cám dỗ của đầu óc cao ngạo, hám danh và trục lợi. Sống là
một cuộc chiến đấu không ngừng. Chiến đấu với những cám dỗ khêu gợi, mời mọc,
kích thích giác quan. Bao nhiêu giác quan là bấy nhiêu cánh cửa mở ra trước cạm
bẫy.
Sự bất ổn của nền văn minh hiện đại, và ảo ảnh của tương lai vẫy
gọi, khiến chúng ta cứ trượt dài trên con dốc tội lỗi. Người tín hữu khôn ngoan
luôn cảnh giác những cạm bẫy như thủy lôi trên giòng đời.
Chính Đức Kitô đã phải liên tục đối phó với các cơn cám dỗ:
"Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ" (Mc.1,13).
Đây không phải là cám dỗ một lần thay cho một đời, nhưng là cuộc cám dỗ triền
miên trọn cả kiếp người. Wendell Philips viết: "Kitô giáo là một trận
chiến, chứ không phải là một giấc mơ".
Nếu đời người như cây sậy trước gió, dễ ngả nghiêng trước bao cuốn
hút, chúng ta càng phải biết nương tựa vào một mình Chúa.
Nếu người đời tôn thờ khoái lạc, xa hoa hưởng thụ, chúng ta càng
phải biết chay tịnh cõi lòng.
Nếu thế giới đầy hình ảnh vẫn đục, phô bày thân xác, chúng ta càng
phải biết giữ gìn con mắt.
Có biết bao người mơ ước hy sinh cuộc đời nhưng lại không biết hy
sinh những tật xấu của mình. Leon Tolstoi viết: "Mọi người đều nghĩ đến
chuyện thay đổi nhân loại, nhưng không ai nghĩ đến chuyện thay đổi chính
mình". Vì chưng có một sự thật nhức nhối này, là canh tân người khác luôn
luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
*
Lạy Chúa, Chúa đã chiến thắng những cơn cám dỗ của Satan, xin giúp
chúng con can đảm lướt thắng những cạm bẫy trong cuộc đời.
Xin cho chúng con luôn xác tín rằng chỉ có Chúa mới là niềm vui và
là hạnh phúc đích thực của đời chúng con. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
7. Đổi mới
Một hôm nhà vua đang đi dạo trên đường phố thì gặp một người ăn
mày ngửa tay xin tiền. Nhà vua không cho tiền nhưng mời anh đến thăm hoàng
cung. Khi vào tới hoàng cung rồi, người ăn mày vô cùng bối rối vì thấy quần áo
rách rưới của mình quá tương phản với những y phục lộng lẫy của những người
trong triều. Biết thế, nhà vua tặng cho anh một bộ quần áo mới.
Ít lâu sau nhà vua lại dạo phố, lại gặp người ăn mày này và ngạc
nhiên khi thấy anh lại mặc bộ quần áo rách rưới trước kia. Tìm hiểu lý do thì
nhà vua biết được rằng sở dĩ anh không mặc quần áo mới vì nếu như thế thì anh
không thể tiếp tục sống bằng nghề cũ là ăn xin được nữa. Anh đã quá quen sinh
sống bằng nghề ăn xin rồi, đến nỗi nay không biết phải làm gì nếu không tiếp
tục ăn xin.
Câu chuyện trên muốn nói rằng thay đổi áo quần thì dễ nhưng thay
đổi cách sống rất khó; thay đổi bên ngoài thì nhanh nhưng thay đổi bên trong
rất chậm; và nhất là rất khó thay đổi thói quen.
Mùa Chay kêu mời chúng ta đổi mới, không chỉ đổi mới bên ngoài mà
phải đổi mới tận bên trong con người mình, đặc biệt là thay đổi những thói quen
xấu đã ăn rễ rất sâu trong con người chúng ta.
8. Mùa Chay và Mùa Xuân
Mùa Xuân là mùa đổi mới: cỏ cây hoa lá đâm chồi, nẩy lộc và ra
hoa. Nhưng muốn có thế thì trước đó chúng phải chịu đựng một mùa thu ảm đạm, lá
rụng, cành xơ xác... rồi một mùa đông trơ trụi, lạnh giá.
Mùa Chay đến đúng vào Mùa Xuân và cũng chính là Mùa Xuân của tâm
hồn, có thể biến chúng ta thành những con người mới.
Lạy Chúa, xin giúp con đừng sợ hãi chấp nhận để cho những chiếc lá
thói quen cũ phải rụng đi
Xin giúp con đừng sợ hãi phải đối diện với cảnh nghèo nàn trơ trụi
của tâm hồn
Bởi vì có như thế thì Chúa mới có thể đổi mới con thành con người
mới, xứng đáng là môn đệ tốt của Chúa.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trong suốt mùa chay, Hội thánh mời
gọi chúng ta cùng với Đức Giêsu trải qua hai kinh nghiệm là: gặp gỡ Thiên Chúa
và đấu tranh với sự dữ. Chúng ta hãy cầu xin Chúa giúp chúng ta:
1. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh / nhờ
Mùa Chay này biết sám hối thành thật / mạnh dạn đổi mới suy nghĩ và hành động /
để việc truyền giáo cho thế giới được kết quả tốt đẹp hơn.
2. Chúng ta cầu xin Chúa cho các nhà cầm quyền trên thế giới /
biết thành thật sám hối và sửa sai những lỗi lầm / để có thể sớm đem lại cho
người dân ám no, tự do, và hạnh phúc thật.
3. Chúng ta cầu xin Chúa cho những người đang ngụp lặn trong những
đam mê tiền của, xác thịt, danh vọng / được nghe lời kêu gọi sám hối để quay về
với đời sống công chính và lương thiện.
4. Chúng ta cầu xin Chúa cho anh chị em trong cộng đồng xứ đạo
chúng ta, nhất là những người còn đang rối rắm, bỏ mùa Phục Sinh / biết mau mắn
trở về để sống xứng đáng với công ơn cứu chuộc của Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa xin giúp chúng con trong Mùa Chay này, biết cố
gắng siêng năng cầu nguyện và đi dự lễ, để được nhiều ơn Chúa mà vượt qua mọi
cơn cám dỗ. Chúng con nguyện xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Hôm nay khi đọc kinh Lạy Cha, chúng ta hãy
đặc biệt chú ý tới lời cầu xin cuối cùng, thể hiện ước muốn của chúng ta trong
Mùa Chay này: "Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng con
cho khỏi sự dữ".
- Sau kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự
dữ, xin giúp chúng con chiến đấu và chiến thắng mọi cám dỗ, xin đoái thương cho
những ngày chúng con đang sống được bình an...
VII. Giải tán
Chúng ta đã bắt đầu Mùa Chay. Đây là lúc thuận tiện để chúng ta
sám hối và sống theo Tin Mừng. Và cũng vì thế cho nên đây cũng là thời gian cứu
độ. Chúng ta hãy sống thời gian này một cách hết sức quảng đại. Chúc anh chị em
được bình an.
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đây là phân đoạn cuối của Lời tựa (1,1-15), kể lại những hoạt động
đầu tiên của Đức Giêsu sau khi chịu phép rửa.
2.- Bố cục
Bản văn này gồm hai đơn vị:
1) Cám dỗ trong sa mạc (1,12-13);
2) “Bản tóm tắt” công việc rao giảng của Đức Giêsu tại Galilê
(1,14-15):
a- nơi chốn và thời gian (c.14a),
b- chính “bản tóm tắt” (cc. 14b-15).
3.- Vài điểm chú giải
- Thần Khí đẩy Người (12): Động từ Hy Lạp ekballô, “quăng ra; đuổi; kéo ra”, thuộc thì “hiện tại lịch sử” (historic
present), một thì tiêu biểu của TM Máccô. Trong tác phẩm, động từ này luôn luôn
hàm ý sức mạnh, có khi là một sức mạnh áp đảo (đuổi ma quỷ: 1,34; 3,15.22.23;
6,13; 7,26; 9,18.28.38; 16,9.17. Về người: 1,43; 5,40; 11,15; 12,8). Các Tin
Mừng Nhất Lãm khác dùng những động từ nhẹ nhàng hơn (Mt: anagesthai, “được
dẫn”; Lc: agesthai, “được dẫn”). Ý nghĩa: chính Thánh Thần đã là sức mạnh làm
cho Đức Giêsu đi vào hoang địa.
- bốn mươi ngày (13): Trong Mt và Lc, giữa những câu trao đổi giữa Đức Giêsu và
Satan, trích từ sách Xh và Ds, chúng ta hiểu đây là một quy chiếu về biến cố
Xuất Hành. Còn trong Mc, có thể con số “40” này là một âm vang của cuộc thử
thách 40 ngày mà Môsê (Xh 34,28) và ngôn sứ Êlia (1 V 19,1-8) đã trải qua.
- hoang địa (sa mạc): Sa mạc có ảnh hưởng dọc theo
lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn
nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn cảnh: (1) Thời gian ở trong
hoang địa trước tiên được trình bày như thời kỳ sống lý tưởng của Dân được
Thiên Chúa tuyển chọn; khi ấy, lý tưởng tôn giáo của họ phát triển phong phú và
họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo. (2) Nhưng đây cũng là thời thử thách, thậm
chí thời trừng phạt, dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Hoang địa
vừa là nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện (các nhân vật
lớn của dân Chúa đến đây để làm cho các chương trình của mình được chín muồi,
hoặc để tái phục hồi lòng nhiệt thành), vừa là nơi thử thách. Ở đây, hoang địa
là nơi đáng sợ bởi vì có các dã thú cư ngụ. Tác giả không quan tâm xác định một
địa điểm theo địa lý.
- Satan (Hp. Sâtân, “kẻ tố cáo, kẻ
chống đối” (HL. satanas; x. Mc 3,23.26; 4,15; 8,33): Tên này tương tự với
diabolos, “ác thần”, “quỷ”, kẻ điều hành những sức mạnh xấu xa, đối thủ của
Thiên Chúa, kẻ thù của loài người.
- cám dỗ (HL. peirazomai, “bị thử
thách”, “bị cám dỗ”): Ở đây động từ này hàm ẩn một ý đồ gian ác. Hành động cám
dỗ được mô tả như là xảy ra suốt thời gian 40 ngày. Mặc dù tác giả Mc không mô
tả chi tiết hơn việc quỷ cám dỗ Đức Giêsu, ta có thể giả thiết là cuộc cám dỗ
có một lý do Kitô học, tức được nhắm vào việc thi hành nhiệm vụ Mêsia. Người đã
thắng Satan như một báo trước; Người sẽ thắng nó vĩnh viễn (x. 2 Tx 2,3-12; Kh
19,19t; 20,2.10).
- sống giữa loài dã thú và có các thiên thần
hầu hạ: Hoang địa Giuđê là nơi cư trú của nhiều loại dã thú; sự kết nối
giữa các thiên thần hầu hạ (diêkonoun: thì vị-hoàn [imperfect] để mô tả một
việc phục dịch kéo dài suốt thời gian ở trong hoang địa) và sự che chở khỏi các
thú dữ khiến có thể coi Tv 91,11-13 là một bối cảnh. Với hoạt cảnh này, tác giả
cho hiểu là với Đức Giêsu, thời cánh chung đã bắt đầu: Đức Giêsu là Ađam mới,
có thể đưa ta trở lại Địa đàng.
- Sau khi ông Gioan bị nộp (14): Gioan Tẩy Giả lại được giới thiệu là Tiền Hô của Đức Giêsu.
Đức Giêsu bắt đầu hoạt động công khai sau hoạt động của Gioan. Chi tiết này
thuộc về lược đồ lịch sử cứu độ hơn là lịch sử trần thế: Đức Giêsu không thể
bắt đầu được trước khi vị Tiền Hô ra khỏi sân khấu. Kết thúc tàn bạo Gioan phải
chịu cũng gợi ý xa xa về số phận của Đức Giêsu. Động từ HL paradothênai (thái
bị động) khiến ta phải thấy ở đây có bàn tay của Thiên Chúa làm việc (áp dụng
cho Đức Giêsu: 9,31; 10,33; 14,41).
- Tin Mừng của Thiên Chúa: Công thức với thuộc-cách này
vừa có nghĩa là Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây
là một “Tin Mừng”, nghĩa là tin về một sự kiện có thật, chứ không phải là một
suy diễn, một giả thiết, một lý thuyết, thậm chí một lệnh truyền. Do có mạo từ
xác định, đây chính là Tin Mừng tuyệt hảo, mà người ta không thể thêm vào một
tin nào hay hơn, tốt hơn, mừng hơn.
- Thời kỳ đã mãn: “Thời kỳ” (kairos [thời gian đã định, lúc] ≠ chronos [khoảng thời gian]) là thời điểm quyết liệt Thiên Chúa đã định,
mọi sự tùy thuộc thời điểm này (x. Đn 7,22; Ed 7,12; 9,1; Ac 4,18; Kh 1,3; 1 Pr
1,1). Trong TM Lc, có những quy chiếu về thời kỳ này (Lc 12,56; 19,44).
- Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần: Trong Cựu Ước, Thiên Chúa
được nhận biết như là Chúa Tể và Vua của Israel (x. Is 43,15; 52,7); và người
ta chờ đợi Người tỏ mình ra công khai như là Đức Vua và Chúa Tể duy nhất và
thống trị tất cả mọi sự thật rõ ràng (x. Mk 4,7; Xp 3,15; Dcr 14,9). Đức Giêsu
không nói: “Triều Đại Thiên Chúa mà anh em vẫn chờ đợi đang hiện diện trong mức
viên mãn”; nhưng: “Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần”. Đó là đặc điểm của thời kỳ
hoàn tất này, thời kỳ đầy ân sủng và thời kỳ quyết liệt, thời kỳ này bây giờ đã
bắt đầu. Như thế, trung tâm của sứ điệp của Đức Giêsu là: “Thiên Chúa là Chúa
Tể; vị Chúa Tể này đã gần kề”. Người là vị Chúa Tể có quyền quyết định và lo
lắng cho chúng ta. Đó là Tin Mừng tuyệt hảo. “Đến gần” có nghĩa là: khi đến lúc
đã định, Triều Đại Thiên Chúa đã đến và kể từ nay bắt đầu tỏ rõ ra: một sự
giằng co giữa hiện tại và tương lai. Đây là một sự kiện hiện tại và một sự kiện
của thời cuối cùng.
- Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng: Lời này cũng có nghĩa là “Hãy
sám hối là tin vào Tin Mừng”, tức bằng cách (diễn tả qua việc) tin vào Tin
Mừng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cám dỗ trong sa mạc (12-13)
Kể từ Giáo Hội sơ khai, các nhà chú giải đã coi bức tranh mô tả
Đức Kitô ở trong hoang địa với dã thú như là một đối trưng của Ađam trong vườn.
Tình trạng thù nghịch giữa loài người và dã thú, một hậu quả của sự sa ngã của
Ađam, không được áp dụng cho Đức Giêsu. Tình trạng Đức Giêsu ở trong hoang địa
sống hài hoà với muôn loài và quan hệ thân tình với Thiên Chúa cho thấy đó là
hoàn cảnh của nhân loại nếu Ađam đã không phạm tội. Một hoang địa biến thành
địa đàng là một hình ảnh ngôn sứ Isaia dùng để mô tả ơn cứu độ (x. Is 11,6-9;
32, 14-20; 65,25).
Không như dân Israel ngày xưa, Đức Giêsu sống một mình khi ở trong
hoang địa. Thông thường, sự cô độc này hẳn là dấu chứng tỏ một người điên hoặc
bị quỷ ám. Tuy nhiên, các thiên thần là dấu chỉ Đức Giêsu luôn quan hệ với
Thiên Chúa: cho dù không có loài người, Con Thiên Chúa có thể cậy dựa vào sự hỗ
trợ của Thiên Chúa. Tác giả Mc đã nói vắn tắt về Satan khiến các học giả đi đến
nhiều kết luận. Một số vị cho rằng Đức Giêsu bị khép vào tình trạng xung đột
với Satan xuyên suốt tác phẩm. Tuy nhiên, Satan không mấy khi xuất hiện trong
phần Tin Mừng còn lại như tác nhân cám dỗ. Đức Giêsu mau chóng chứng tỏ Người
có khả năng xua đuổi bất cứ thứ quỷ nào. Do đó, rất có thể Mc nhắm cho độc giả
nghĩ rằng Đức Giêsu đã phá vỡ quyền lực Satan trước khi sứ vụ của Người bắt
đầu.
* Khởi đầu hoạt động rao giảng của Đức Giêsu
tại Galilê (14-15)
Trước khi ghi nhận các chi tiết thuộc về đời sống công khai của
Đức Giêsu, Mc tóm tắt hoạt động của Người bằng cc. 14-15. Biến cố Gioan Tẩy Giả
bị bắt đã kết thúc hoạt động của ông. Đức Giêsu, trước đây đã được Gioan ban
phép rửa cho (1,9-11), nay trở lại Galilê và tại đó, Người bắt đầu công trình
của Người. Sứ điệp Người phải truyền đạt được xác định ngay từ đầu là Tin Mừng
của Thiên Chúa: Tin Mừng đến từ Thiên Chúa và Tin Mừng nói về Thiên Chúa. Đây
là Tin Mừng tuyệt hảo được Thiên Chúa thông ban cho ta và nói với ta về tương
quan Người muốn thiết lập với ta. Đức Giêsu cho biết rằng những gì Thiên Chúa
đã hứa, nay đang trở thành hiện thực. Thời gian đang khởi đầu với lời loan báo
và hoạt động của Đức Giêsu là thời gian của sự hoàn tất, thời gian của hoạt
động đặc biệt của Thiên Chúa. Tất cả những điều này khiến chúng ta vui mừng và
tin tưởng.
+ Kết luận
Không giống như TM Mt (4,1-11) và Lc (4,1-13), TM Mc không giải
thích cách thức Satan cám dỗ Đức Giêsu trong hoang địa. Các câu chuyện Israel
đi trong hoang địa, cũng như Ađam và Evà ở trong vườn là những ví dụ về thế nào
là bị cám dỗ và sa ngã. Những câu chuyện về Môsê và Êlia là những thí dụ về thế
nào là bị thử thách và đứng vững. Nếu tin tưởng vào Lời Chúa thì đứng vững; nếu
không tin tưởng vào Lời Ngài thì sẽ sụp đổ. Đức Giêsu luôn trung thành với
Thiên Chúa, do đó, dã thú sống hoà bình với Người, còn các thiên thần thì hầu
hạ Người.
Muốn chuẩn bị lòng trí đón Chúa đến, người ta phải triệt để quay
về với Thiên Chúa, phải cậy dựa vào Lời Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Người Kitô hữu chọn Đức Kitô và xin chịu phép rửa tội, thì chia
sẻ số phận của Đức Kitô; người ấy sẽ bị Satan cám dỗ. Tuy nhiên, người ấy cũng
sẽ được hỗ trợ bởi chính Đức Kitô và các thiên thần của Người.
2. Vì Tin Mừng Đức Giêsu mang đến là Tin Mừng tuyệt hảo, Tin Mừng
này là nền tảng cho niềm vui và sự tin tưởng của chúng ta. Ai đón tiếp Tin Mừng
này và lưu tâm nghiền ngẫm, thì biết rằng Thiên Chúa ở gần bên để ban ơn cứu
độ.
3. Thời kỳ Đức Giêsu loan báo liên hệ với các lời Thiên Chúa hứa
trong Cựu Ước: Thiên Chúa trung thành với lời hứa. Do đó, chúng ta vui mừng,
tin tưởng và yên tâm ký thác cho Thiên Chúa. Nhưng thời kỳ này chỉ là thời kỳ
chan hòa niềm vui cho ai biết nhận định như thế, và có một thái độ thích hợp:
“sám hối và tin vào Tin Mừng”, tức là biết chọn lựa.
4. Thiên Chúa là Chúa Tể chứ không phải là nô lệ của chúng ta;
chúng ta không thể coi Người như ngang vai; chúng ta không thể áp đặt cho Người
bất cứ chuyện gì. Người có tất cả mọi quyền bính và sức mạnh; Người quyết định
và quy định. Bởi vì Thiên Chúa là Chúa Tể chân thật duy nhất, chúng ta được tự
do đối với mọi chúa tể và quyền lực khác. Sứ điệp nói rằng Thiên Chúa là Chúa
Tể là sứ điệp về sự giải phóng cơ bản của chúng ta. Mọi chúa tể và quyền lực
khác được trả về đúng chiều kích của họ.
5. Thiên Chúa là Chúa Tể mọi nơi mọi lúc, nhưng quyền chủ tể của
Người có thể ở trong tình trạng giấu ẩn, rất khó nhận ra, đến nỗi người ta có
thể nghĩ rằng Thiên Chúa và Triều Đại Người không hiện hữu. Để có thể nhận ra
quyền chủ tể của Thiên Chúa, cần phải có đức tin, rồi khám phá ra dần nơi lối
cư xử của Đức Giêsu: nơi Người, chúng ta được mạc khải cho biết Thiên Chúa đến
gần chúng ta như thế nào với Triều Đại của Người và các hoa trái của Triều Đại
Người.
(Suy niệm của Lm.Trần Bình Trọng)
Theo Thánh kinh, thì mỗi thoả thuận giữa Thiên Chúa và loài người
được gọi là một giao ước. Thiên Chúa khởi sự cái giao ước bằng việc bày tỏ tình
yêu của Người cho nhân loại. Và Thiên Chúa mời gọi loài người đáp trả cái tình
yêu đó. Cái giao ước đầu tiên được ghi lại trong Thánh kinh là giao ước
giữaThiên Chúa và ông No-e. Còn cái giao ước quan trọng nhất trong thời Cựu Ước
là giao ước trên núi Si-nai.
Trong thời Cựu Ước, qua các tiên tri, Thiên Chúa luôn nhắc nhở cho
dân phải trung thành với lời giao ước. Tuy nhiên dân riêng Chúa không mấy khi
giữ lời giao ước. Họ thường bất trung, phản bội. Sau cùng Thiên Chúa làm một
giao ước vĩnh cửu với nhân loại qua chính Con Một Người. Và giao ước đó được ký
kết, không phải bằng máu hiến tế của chiên cừu trong Cưu Ước, nhưng bằng máu
Con Thiên Chúa, đổ ra để chuộc tội nhân loại.
Trong bài trích thư thứ nhất của Thánh Phê-rô tông đồ, Thánh nhân
cho thấy có sự song hàng giữa giao ước Chúa kí kết với ông No-e và giao ước
Chúa thiết lập trong Bí tích Rửa tội. Theo Thánh Phê-rô thì cái việc gia đình
ông Noe được cứu thoát khỏi nạn lụt đại hồng thuỷ, là cái dấu báo hiệu
" cũng được cứu thoát qua nước rửa tội" Hôm nay Giáo hội muốn
nhắc nhở cho ta một biến cố đã xẩy ra cho mỗi người khi còn ở tuổi măng sữa: đó
là Bí Tích Rửa Tội. Bí tích Rửa tội là một biến cố vĩ đại, bất kể khi rửa tội,
ta còn nhỏ bé như thế nào. Các nhà tâm lý học thường nhấn mạnh đến những gì ta
có kinh nghiệm, bất kể lúc còn nhỏ tuổi thế nào đi nữa, đều có ảnh hưỏng đến đời
sống hiện tại. Hoặc ta chịu phép Rửa tội khi còn ở tuổi măng sữa, hay khi đã
lớn, ta phải tìm cho ra cái ý nghĩa và sống ý nghĩa đó. Bài Trích Sách Sáng Thế
hôm nay ghi lại sau khi Chúa cứu gia đình ông Noe khỏi nước lụt hồng thuỷ, thì
Chúa cho cái cầu vồng xuất hiện như là một biểu hiệu của lòng nhân từ hay
thương xót của Chúa. Cái cầu vồng là biểu hiệu của giao ước giữa Thiên Chúa và
ông No-e có nghĩa là bão táp đã qua đi và nước lụt đã rút xuống. Bí Tích Rửa
tội cũng là một giao ước giữa Thiên Chúa với loài người. Trong Bí tích Rửa tội,
Thiên Chúa ban tình yêu và lòng thương xót, còn người chịu phép rửa tội hứa giữ
lòng trung tín, lo tròn bổn phận làm con.
Theo truyền thống cổ xưa, thì Giáo hội luôn nhấn mạnh việc rửa tội
người dự tòng trong mùa chay. Ngay từ đầu, Giáo hội đòi hỏi người dự tòng phải
dùng suốt mùa chay để học đạo, sửa soạn cho việc rửa tội trong đêm thánh vọng
phục sinh. Ngày nay giáo hội khuyến khích ta giữ cái truyền thống tinh thần mùa
chay, cái thời gian ăn năn sám hối và đền tội. Cũng vào cuối mùa chay, Giáo hội
mời gọi ta ôn lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma quỉ và tội lỗi và
những lời hứa hão huyền của ma quỉ.
Giáo hội thiết lập mùa chay kéo dài 40 ngày để ghi nhớ 40 ngày
Chúa Giê-su ăn chay và cầu nguyện trong sa mạc, cũng để giúp ta từ bỏ tội lỗi,
cải tạo đời sống và thực thi đức tin. Để sửa soạn cho cái giao ước trên núi
Si-nai, Mai sen cũng ăn chay 40 ngày... Elia, vị tiên tri vĩ đại cũng ăn chay
40 ngày trong cuộc hành trình lên núi Horeb. Gio-an tiền hô cũng ăn chay 40
ngày trước khi được gọi để sửa soạn cho việc Chúa đến bằng cách kêu gọi dân
chúng chịp phép rửa thống hói. Trong đêm thánh vọng Phục sinh, ta sẽ lặp lại
lời hứa khi chịu phép rửa tội. Để cho cái việc ôn lại lời hưá khi chịu phép rửa
tội khỏi trở thành trống rỗng, ta cần sống tinh thần mùa chay: đó là tinh thần
ăn năn sám hối.