1. Yêu
thương
Có một sự kiện rất phổ biến đó là ngày thứ tư lễ Tro, nhà thờ nào
cũng đầy ắp những đến dự lễ, tuy ngày đó chẳng phải là ngày lễ buộc, đàng khác
người ta đến không cốt để dự lễ, mà để được xức tro. Ai cũng cố gắng để làm sao
có được một chút tro bỏ trên đầu, từ ông già bà cả đến đứa con nít. Không có
tro thì như thiếu một cái gì quan trọng. Nhưng nếu hỏi tại sao lại phải bỏ tro
lên đầu thì có lẽ không phải ai cũng trả lời được.
Một hiện tượng khác tương tự, đó là chuyện tàu lá trong ngày Chúa
nhật lễ Lá. Mọi người phải kiếm cho được một tàu lá đem về giắt đâu đấy trong
nhà. Nhưng nếu hỏi tại sao, thì cũng thật khó trả lời.
Và theo truyền thống, thì trong nhiều nhà thờ, những chiếc lá khô
của năm trước được giữ lại, đốt thành tro để xử dụng trong ngày lễ tro năm sau.
Thế là cái chu kỳ lễ tro và lễ lá, lể lá và lễ tro, trở thành một vòng khép
kín.
Tuy nhiên có bao nhiêu người bỏ tro lên đầu màđã thực sự sám hối
và có bao nhiêu người cầm lá trong tay đã thực sự đón Chúa. Đó mới là vấn đề.
Đúng là cảnh xé áo chứ không xé lòng mà tiên tri Joel đã lên án. Trong khi đó,
lẽ ra người ta không cần phải ưu tiên cho việc bỏ tro lên đầu nhưng phải ưu
tiên cho việc sám hối, mà việc bỏ tro chỉ là biểu tượng bên ngoài.
Cũng vậy, vấn đề quan trọng không phải là kiếm cho được một tàu lá
trong ngày Chúa nhật lễ Lá, ngày kỷ niệm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, nhưng
là đón Chúa Giêsu hôm nay đang đến với chúng ta trong tha nhân. Nhiều người đi
lãnh tro, đi lãnh lá, nhưng cuộc sống của họ trước sau vẫn chẳng có gì thay
đổi. Có thể ngay khi từ nhà thờ bước ra, họ đã kênh kiệu, lên mặt đạo đức,
khinh ghét người này, hận thù kẻ khác. Có thể ngày đó họ sẽ đi bán hàng, vẫn
thói tham lam lừa gạt, tìm cách bóc lột kẻ khác, kể cả những kẻ nghèo khổ. Và
ngày lễ lá, sau khi cầm lá đem về, họ sẽ để lá vào trong bình đặt trên bàn thờ,
hoặc giắt nó vào đâu đó, làm như bùa hộ mệnh, nhưng không hề nghĩ đến chuyện
phải đón tiếp anh em trong cuộc sống hằng ngày: Ai đói cứ đói, ai khát cứ khát,
ai không nhà cứ ở ngoài đường, ai trần truồng cứ việc chịu rét lạnh, ai cô đơn
cứ việc cô đơn.
Điều còn khó chấp nhận hơn nữa, đó là người ta sẵn sàng ăn chay
hãm mình để cầu nguyện cho những kẻ nghèo đói, làm như thể cứ ăn chay là kẻ đói
sẽ no, cứ hãm mình là người nghèo trở nên giàu.
Trong khi mà đáng lẽ ra họ cần phải chia sẻ cơm ăn áo mặc cho
người nghèo đói hơn là ăn chay hãm mình mà chẳng cho người nghèo đói được một
chút cơm thừa canh cặn. Ấy vậy mà những kẻ ăn chay hãm mình, nhưng không chia
sẻ cho người nghèo đói vẫn được tiếng là những người đạo đức. Họ giống hệt như
ông Tư tế và thày Lêvi ở đền thờ về, khi trông thấy đồng bào mình bị đánh trọng
thương nằm ở vệ đường, lại tránh qua bên kia mà đi, không thèm ngó tới. Đó là
những kẻ giữ đạo hình thức. Cứ nhìn hiện tượng bên ngoài thì họ là những kẻ
nhiệt thành, đạo đức. Họ là những người tự nghĩ mình trung thành với Chúa, bằng
việc thực hành mọi nghi thức, mọi thói quen của đạo, nhưnglại không sống cái gì
là chính yếu, là bản chất của đạo, đó là thực hành bác ái. Họ không hiểu rằng
Thiên Chúa của chúng ta là Đấng muốn lòng nhân từ chứ không cần lễ tế, cùng với
tất cả mọi nghi thức…Chính Ngài đã nói như thế qua tiên tri Isaia.
Khi nhìn vào đời sống của Đức Kitô, chúng ta thấy rõ Ngài là hiện
thân của Thiên Chúa tình thương, chứ không phải là Thiên Chúa của lễ tế hay của
những luật lệ và nghi thức của đền thờ. Trong ba mươi năm trước khi rao giảng
Tin mừng, thì Ngài đã sống Tin mừng ấy bằng cách chia sẻ trọn vẹn đời sống bình
thường hằng ngày với bà con lối xóm. Từ khi bắt đầu rao giảng Tin mừng, Ngài
cũng ưu tiên dành thời gian và sức lực cho việc chữa bệnh và chăm lo cho mọi
người, kể cả việc lo cho người ta ăn uống khi cần. Ngài không đặt nặng vấn đề
ăn chay, hay giữ luật ngày Sabát theo tinh thần Do Thái, mà lấy con người làm
cứu cánh của lề luật. Ngài chỉ dâng lễ tế có một lần và chỉ một lần là đủ, bởi
vì Ngài không thể chết hai lần, nên cũng không thể dâng mình làm lễ tế lần thứ
hai. Do vậy mà tất cả lệnh truyền mới của Ngài, thay thế cho lề luật cũ chỉ tóm
gọn trong câu: Anh em hãy yêu thương nhau, như chính Thầy đã yêu thương anh em.
(Trích trong http://nguoitinhuu.com)
Giáo Hội đã lấy đoạn Phúc Âm Mt 6,1-6.16-18 để làm hành trang
thiêng liêng cho con cái mình, khi khai mạc Mùa Chay Tịnh. Sau khi "xé
lòng", chúng ta được chính Đức Giêsu kêu mời thực hành ba việc hết sức cụ
thể: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.
Trước khi chúng ta xắn tay áo để thực thi những việc này, chúng ta
hãy ghi khắc trong tâm trí mình tinh thần của Đức Giêsu: "Hãy coi chừng,
đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các
ngươi mất công nơi Cha các ngươi, Đấng ngự trên trời."
Bản tính loài người chúng ta hay khoe khoang, phô trương công đức,
để hòng được thiên hạ nhìn thấy, ngõ hầu họ ca tụng, vinh danh mình. Tinh thần
của Đức Giêsu là khiêm nhường. Chúng ta nên xác tín rằng không có việc thiện
nào chúng ta làm một cách thầm lặng, khiêm nhường, "trong phòng kín",
mà Cha trên trời lại không hay biết. Đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, bà Laura Bush, đã
được báo chí khen ngợi là "người phụ nữ hoàn tất mọi việc trong âm
thầm." Tôi nguyện lấy tấm gương này làm "nghệ thuật sống" cho
đời mình.
BỐ THÍ
Đây là việc thứ nhất chúng ta làm. Từ "bố thí" đối với
tôi nghe không được nhẹ nhàng, khiêm hạ mấy, nhưng chúng ta tạm dùng từ bình
dân quen thuộc này. Đây là nghĩa cử chia sẻ, giúp đỡ những người thiếu thốn vật
chất. Đức Giêsu đã lên án người giàu đóng lòng mình lại, nghĩa là ích kỷ không
chia cơm xẻ áo với người nghèo: "Khốn cho các ngươi, những kẻ giàu có! Vì
các ngươi hiện đã có phần an ủi."
Khi chúng ta "mở rộng cửa cho Chúa Kitô", mở trương mục
tiết kiệm mình ký thác trong ngân hàng lớn, kéo dài bàn ăn nhà mình, cho các
công tác từ thiện, chúng ta sẽ được Cha trên trời chúc phúc, và thưởng công.
Tôi nhớ lời Thánh Phaolô: "Gieo sẻn thì gặt sẻn, gieo hậu thì gặt
hậu." Trong thực tế, người giàu có là người đã ban tặng nhiều; kẻ ích kỷ
sẽ là kẻ nghèo nàn nhất thế gian.
Một điểm rất quan trọng tôi đã học được nơi Mẹ Têrêsa Calcutta, đó
là khi chúng ta giúp người nghèo, chúng ta phải kính trọng và yêu mến họ, chứ
không phải khi trông thấy họ đến cửa nhà mình, chúng ta nhìn họ bằng nửa con
mắt để xua đuổi họ đi, hoặc ném cho họ vài đồng tiền giấy trị giá thấp nhất,
bẩn thỉu, và nhàu nát, như những của bố thí, tức những của không đáng kể gì, ta
vất đi, ta "thí" đi, cho người hành khất ăn xin!
Đức Giêsu dạy chúng ta khi giúp người nghèo thì "đừng thổi
loa", "tay trái đừng biết điều tay phải làm, hầu việc ngươi bố thí
được giữ kín và Cha ngươi là Đấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho
ngươi."
Việc tương thân tương ái, chị ngã em nâng, một con ngựa đau cả tầu
không ăn cỏ, một miếng khi đói bằng một gói khi no, chúng ta chia sẻ cho nhau
phải có tính cao thượng, nghĩa là "bố thí mà không cầu đền đáp" của
người thụ ân. Chúng ta cứ dấn thân cho đồng loại, Thượng Đế "sẽ hoàn trả
lại" cho mình.
CẦU NGUYỆN
Việc thứ hai này chắc hẳn là thiết yếu nhất của các tín hữu chúng
ta. Chúng ta hãy dùng những ngày Mùa Chay để kết hiệp làm một với Cha trên
trời, nâng tâm hồn mình lên với Ngài. Chính nhờ sức mạnh của cầu nguyện mà Con
Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian đã viên mãn công trình của Ngài.
Đức Giêsu cảnh giác chúng ta khi cầu nguyện thì "đừng lải
nhải như người ngoại!" Họ lắm lời vì họ tôn thờ nhiều thần tượng, họ vái
tứ phương, họ lạy khắp phía. Chúng ta hãy nhớ lời Đức Giêsu căn dặn mình rằng
"đừng tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhậm". Nói ít là nói những gì?
Đức Giêsu đã dạy chúng ta một mẫu kinh cốt tủy, đó là Kinh Lạy Cha.
Mỗi ngày chúng ta hãy đọc ít nhất một lần Kinh Lạy Cha với tất cả
tâm hồn mình, nghĩa là vừa đọc vừa suy niệm, chứ đừng đọc như thói quen, có khi
chạy nhanh như xe hơi ngoài xa lộ liên bang!
Mẹ Têrêsa Calcutta khuyên chúng ta:
"Trong Mùa Chay, chúng ta hãy tấn triển tinh thần cầu nguyện
và tĩnh tâm của mình. Hãy giải thoát trí huệ chúng ta khỏi hết thảy những gì
không phải là Đức Giêsu. Nếu anh chị em thấy mình khó cầu nguyện, hãy cầu xin
Ngài nhiều lần: 'Lạy Chúa Giêsu, xin hãy ngự vào trái tim con, hãy cầu nguyện
với con, hãy cầu nguyện trong con -- ngõ hầu con có thể học từ nơi Ngài cách
thức cầu nguyện'".
"Khi đến lúc cầu nguyện mà chúng ta không thể cầu nguyện,
chúng ta hãy làm một việc hết sức đơn giản, đó là hãy để cho Đức Giêsu cầu
nguyện trong chúng ta lên cùng Chúa Cha trong thinh lặng của lòng mình. Nếu
chúng ta chẳng thể nói ra lời, Ngài sẽ nói cho chúng ta. Nếu chúng ta chẳng thể
cầu nguyện, Ngài sẽ cầu nguyện thay chúng ta. Vậy chúng ta hãy trao cho Ngài sự
bất khả và sự trống không của mình."
ĂN CHAY
Việc thứ ba này cũng thật quan trọng, và nó phải được thực hành
theo tinh thần của Đức Giêsu: "Khi các ngươi ăn chay thì chớ sầm mặt lại
như bọn giả hình (....) Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy
lau rửa...".
Việc ăn chay như vậy không phải là chuyện sầu buồn, tang chế; và
người ăn chay sẽ không mang bộ mặt đưa đám vào dung nhan thật của mình!
Khi nghe từ "ăn chay" thường các tín hữu nghĩ đến việc
ăn một bữa no, rồi một bữa nhẹ, theo luật chay tịnh của Giáo Hội chúng ta. Thật
ra, ăn chay có một sức mạnh tâm linh lớn lao, chứ không chỉ đơn giản là việc ăn
ít hơn thường ngày, như một lần kia, Đức Giêsu đã nói với các môn đồ mình:
"Thứ quỉ này chỉ trừ được bằng việc ăn chay và cầu nguyện."
Ăn chay để lòng chúng ta không còn nặng nề vì "say sưa chè
chén", như Tông đồ dân ngoại Phaolô đã huấn dụ những tay nhậu tục tử phàm
phu! Ăn chay để lòng chúng ta vơi đi những tham lam, ghen tuông, và nóng giận
của mình, và nhất là để nó được đổ vào tràn đầy hoa quả của Thánh Linh. (xem Ga
5:22) Ăn chay để con người chúng ta được nhẹ nhàng, thanh thoát, như cánh chim
trời vút bay lên cao, như bông huệ ngoài đồng thỏa ngát hương thơm...
Khi ăn chay, trong thực tế, chúng ta sẽ dành được một số tiền, vậy
phần ăn chay này chúng ta được kêu gọi tặng lại cho những người nghèo. Nếu
chúng ta cất giữ nó vào "kho tàng dưới đất" của mình, việc ăn chay
trở thành vô lý, vô nghĩa, vì bởi nhờ ăn chay mà chúng ta trở nên keo kiệt hơn,
và ích kỷ hơn!
Nguyện xin Chúa Kitô ban cho chúng ta Mùa Chay Tịnh sung mãn thánh
ân Ngài.
3.
Vào năm 1220, có một nhà hiệp sĩ lên đường làm một cuộc hành hương
để viếng thăm thánh địa. Ông ta cặm cụi đi ngày đi đêm, mong sao chóng được đặt
chân đến vùng đất quê hương của Chúa Giêsu.
Sau nhiều tháng, ông đã tới được đỉnh Canvê. Tại đây, ông đã mường
tượng ra cái chết thương đau của Chúa Giêsu trên thập gía và ông đã quyết tâm
xa tránh tội lỗi, bởi vì chính tội lỗi là nguyên nhân khiến cho Chúa phải chịu
chết một cách thương đau như vậy. Đồng thời cũng chính tại đây, ông đã sống lại
giây phút vinh quang khi Chúa Giêsu phục sinh tiến ra khỏi mồ.
Sở dĩ tôi kể lại mẩu chuyện trên đây là để chúng ta cùng nhau đi
vào những tâm tình chính yếu của mùa chay.
Thực vậy, mùa chay trước hết phải là thời gian thuận lợi để sám
hối ăn năn.
Như ông hiệp sĩ đã chia sẻ niềm đau với Chúa Giêsu khi Ngài bị bọn
lý hình đánh đòn, đội mạo gai và đóng đanh chân tay vào thập giá, chúng ta cũng
hãy quì gối xuống trước thập giá Chúa Giêsu và suy gẫm về những khổ đau Ngài đã
phải chịu vì chúng ta. Và chúng ta hãy thân thưa với Ngài:
- Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã chịu chết trên thập giá.
Nhất là trong tuần thánh, chúng ta hãy dâng những hy sinh nhỏ bé
của chúng ta để kết hiệp với những khổ đau của Chúa, hầu đền bù những tội lỗi
chúng ta đã vấp phạm.
Tiếp đến, mùa chay còn là thời gian thuận lợi để chúng ta cùng
chịu chết với Chúa Giêsu.
Thực vậy, cao điểm của mùa chay là buổi chiều ngày thứ sáu tuần
thánh, khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng trên thập giá. Buồi chiều hôm ấy,
toàn thể Giáo hội đều để tang Chúa, đều tưởng niệm cái chết của Ngài. Chính nhờ
cái chết tủi nhục này mà chúng ta được ơn cứu độ, được ơn tha thứ.
Chính vì thế, chúng ta hãy chết cho tội lỗi như lời thánh Phaolô
đã khuyên nhủ. Chúng ta nên nhớ rằng vui thú do tội lỗi đem lại thì chỉ kéo dài
trong thoáng chốc, nhưng đau khổ mà nó gây ra lại kéo dài cho đến muôn ngàn
đời.
Tại Paris, có một ông hà tiện. Suốt cả cuộc đời, ông chỉ có một
nỗi băn khoăn lo lắng, đó là tìm tiền kiếm bạc. Ông làm việc cả ngày Chúa nhật
và không ngần ngại dùng mọi phương thế, cho dù là bất công, cho dù là tàn bạo,
miễn sao vơ vét về cho đầy túi tham của mình. Trước khi chết, ông nói với nhưng
người thân rằng:
- Hãy để vào tay tôi một đồng tiền vàng. Vì nó mà tôi sống và cũng
vì nó mà tôi chết.
Những người thân đã làm theo lời căn dặn. Họ đã để cả một nắm tiền
vàng vào lòng bàn tay của ông, nhưng những đồng tiền vàng này cứ rơi xuống
giường, bởi vì bàn tay của ông lúc đó đã cứng đơ, không còn cầm nắm được nữa.
Cũng vậy, cái chết sẽ làm tiêu tan những vui thú tội lỗi. Chính vì
muốn chúng ta chết đi cho tội lỗi, mà hôm nay, khởi đầu mùa chay, Giáo hội đã
xức tro trên đầu chúng ta và nhắc nhở:
- Hời người, hãy nhớ mình là tro bụi, một mai người sẽ trở về bụi
tro.
Sau cùng, mùa chay còn là thời gian thuận lợi để chúng ta chuẩn bị
đón mừng niềm vui Phục sinh.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã chết, nhưng sau ba ngày Ngài đã sống lại.
Sự phục sinh của Chúa chính là một phép lạ vĩ đại nhất mà Ngài đã thực hiện.
Thân xác đau khổ của Ngài đã được chiếu sáng rực rỡ như mặt trời.
Đó cũng là một hình ảnh nhắc cho chúng ta nhớ rằng:
- Không phải chúng ta chỉ chết đi cho con người cũ, là con người
tội lỗi, mà hơn thế nữa, chúng ta còn phải sống lại cho con người mới, con
người được phục sinh, mang hình ảnh và dấu ấn của tình yêu Thiên Chúa.
Hãy cùng đau khổ với Chúa Giêsu và nhất là hãy chết đi cho con
người tội lỗi, để nhờ đó chúng ta cũng sẽ được chia sẻ niềm vui Phục sinh với
Ngài.
5.
Một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc
còn trẻ, tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất mà tôi
dâng lên Thượng Đế là: Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để thay đổi thế giới.
Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng một nửa đời tôi đã qua đi mà tôi
chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới cầu nguyện với Thượng Đế: Lạy
Chúa, xin ban cho con ơn được biến cải tất cả những người con đã gặp gỡ hằng
ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con. Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện
rồi.Nhưng giờ đây, tóc đã bạc, răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên
đầu ngón tay, tôi mới nhận thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này,
tôi chỉ còn biết cầu nguyện như sau: Lạy Chúa, xin ban cho con ơn được thay đổi
chính con. Nếu tôi biết cầu nguyện như thế ngay từ lúc đầu, thì tôi đã không
phí phạm quãng đời đã qua.
Người xưa đã có lý khi dạy chúng ta: tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ... Theo trật tự của cuộc cạch mạng, thì cách mạng bản thân là
điều tiên quyết. Một nhà cách mạng nào đó đã nói: chỉ cần 10 người như thánh
Phanxicô thành Assisi thì cuộc diện thế giới sẽ thay đổi. Cuộc cách mạng đầu
tiên mà bất cứ vị thánh nào cũng khởi sự đó là cách mạng bản thân. Chúa Giêsu
đã chuẩn bị 3 năm sống công khai bằng 30 năm âm thầm, 40 đêm ngày ăn chay cầu
nguyện... Và lời kêu gọi đầu tiên của Ngài là: hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Ai trong chúng ta cũng biết câu châm ngôn: Thà thắp lên một ngọn
đèn hơn là ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Nếu mỗi người, ai cũng đốt lên ngọn
đèn của mình, nếu mỗi người, ai cũng đóng góp phần ít ỏi, nhỏ mọn của mình, thì
có lẽ thế giới này sẽ bớt lạnh lẽo hơn vì lòng ích kỷ... Không ai nghèo đến nỗi
không có gì để cho người khác. Chúng ta hãy bắt đầu bằng món quà nhỏ mọn, có
khi vô danh của chúng ta. Một giọt nước nhỏ là điều không đáng kể trong đại
dương, nhưng nếu không có những giọt nước nhỏ kết tụ lại, thì đại dương kia
cũng sẽ chỉ là sa mạc khô cằn.
7.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con
người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên
Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”,
hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái
nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của
Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể,
như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả
là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.
Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị
dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn
tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước
tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì
con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm
tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được
Thiên Chúa nhận lời.
Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không
hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của
lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt
của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy
đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với
Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn
giận với người khác.
Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức
Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo
Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con
người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và
thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ
qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng
những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế
ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối,
để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).
Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu
độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con
người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng
lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng
liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của
chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”
Ba việc làm căn bản của lòng đạo dức người Do Thái là bố thí, cầu
nguyện và ăn chay. Chúng ta ghi nhận điều này là Chúa Giêsu thừa nhận giá trị
của các việc làm ấy, để các môn đệ Người đem thực hành, song Người dạy cho họ
biết các việc đó phải có phẩm chất thế nào. Chúng ta gặp lại ở đây một trong các
mối ưu tư trọng yếu hàng đầu của Chúa Giêsu. Người muốn huấn luyện các môn đệ
Người phải đi tìm cái chân, cái thật. Chúa Giêsu lên án các xu hướng thầm kín
trong con người ta lo đi tìm, ở ngay trong những việc cao đẹp nhất, cái gì có
lợi hay có danh cho mình. Chúa Giêsu thốt ra một lời bài xích hết sức nặng nề:
Giả hình.
Chúng ta phải hiểu rõ lời đó. Trong ngôn ngữ của Chúa, tiếng đó
không những có nghĩa là một thứ “hai lòng” giả dối, nó biểu lộ ra bên ngoài cái
khác với bên trong. Chúa Giêsu đã lên án điều đó khi nói đến những người Biệt
phái và kỷ lục Người tố cáo họ tựa như những ngôi mộ được sơn quét vôi trắng
bên ngoài. Ơû đây Người không phải đối chống lại những kẻ ra vẻ cầu nguyện, ăn
chay bố thí thật. Nhưng Người tố cáo các cung cách họ các làm việc đó, ý muốn
của họ là đi tìm sự thoả mãn có tính cách nhân loại trong các việc này. Người
cho chúng ta thấy có một thứ giả hình có thể gọi được là thành thực. Các người
Do Thái mà Chúa bài bác, có cầu nguyện, ăn chay, bố thí cách thực tình. Nhưng
chỗ mà sự dối trá giả hình len lỏi vào đó là ý định của họ trong các việc ấy. Ý
định đó, đáng lý chỉ hướng về Chúa cách đơn sơ, trọn vẹn thì lại quay về chính
mình và lấy làm thích thú được thiên hạ quý trọng. Đôi khi họ vô tình đi tìm
kiếm cái lợi lộc là sự quý trọng của kẻ khác mà không hay biết, hay là sự bằng
lòng thoả mãn của chính mình. Những việc như cầu nguyện, ăn chay, bố thí chỉ có
mỗi một mục đích là ngợi khen Thiên Chúa. Nếu ai cầu nguyện, ăn chay, bố thí đề
tự đề cao mình là biển thủ những cái thuộc về Chúa. Những việc làm trong đời
sống đạo đức, như cầu nguyện hay ăn chay có thể ẩn tàng một mục đích nhân loại
và vì thế trở thành giả hình.
Chúng ta nhấn mạnh điều này. Chúa Giêsu nói: “… Để được người đời
ca ngợi”. Sống giữa mọi người, ai lại không lo đến thế giá của mình. Người ta
thường muốn trung thành với những việc đạo đức nhưng không đồng thời cũng lại
muốn cách thầm kín không những được kẻ khác coi như những người đạo đức cách
“điều hoà”, mà còn muốn tự ban cho mình một thế giá nào; người ta tự cho mình
là đều đặn, là đúng chừng mực, không như kẻ này người nọ. Chúa tố cáo cái tâm
tình đó như một người giả hình khéo léo tế nhị. Chúa muốn lòng trung thành với
Người chỉ lo lắng đến một vị Thẩm phán là Thiên Chúa. Ai trong chúng ta có thể
quả quyết rằng họ không thực sự chỉ chú ý đến cái nhìn của ‘Chúa Cha là Đấng
thấu suốt mọi điều bí ẩn’?
Chúa Giêsu dạy chúng ta rằng, điểm này phải trở thành đối tượng
cho sự tỉnh thức của chúng ta. Chúa phán: “Hãy coi chừng’. Trong lốâi hành văn
của thánh sử Matthêu, sự kêu gọi cảnh giác đó có nghĩ một bên là phải đoạn
tuyệt với não trạng thông thường (tìm tư lợi) và một bên là sự tỉnh thức không
nhượng bộ một xu hướng tự nhiên nào. Nói chung, Phúc Âm đòi hỏi chúng ta phải
gớm ghét sự dối trá. Phúc Âm muốn rằng cách ăn ở của chúng ta, các hành vi
chúng ta, lời kinh nguyện lòng bác ái của chúng ta thảy đều phù hợp với một
thực tại nội tâm. Nhưng thêm vào đó, Phúc Âm đòi hỏi là không một việc gì trong
tất cả mọi việc trên, lại có thể trở thành cho chúng ta, đối tượng của một sự
khoái trá bên trong, hoặc là vì được người khác ngợi khen, hoặc là tìm thấy ở
đó một lý do để tự đề cao mình.
SỐNG DƯỚI ÁNH MẮT CỦA THIÊN CHÚA
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Sống dưới mắt Chúa Cha
Bằng năm luận đề tương phản liên tiếp, Đức Giêsu trình bày đời
sống công chính mới, đối lại lối sống công chính của các kinh sư và biệt phái.
Trong bài đọc I lễ Tro, Đức Giêsu nói đến 3 trụ cột, làm nên khung
sườn đời sống đạo của người Do Thái, và người ta còn thấy ở mọi tôn giáo, đó
là: bố thí (ngày nay người ta dùng từ chia sẻ), cầu nguyện và chay tịnh.
Chúa không khinh thường những việc đó, Người muốn nêu bật phải có
tinh thần thế nào khi thực hành những việc ấy: “Nếu anh em muốn sống như người
công chính, anh em phải coi chừng chớ có phô trương những việc ấy trước mặt
thiên hạ để người ta thấy. Sự công chính "đích thực" hệ tại thích
nghi với ý Thiên Chúa, Đấng độc nhất có thể biết những gì thầm kín trong tim
con người.
2) Chia sẻ
Claude de Tassin giải thích: "Bố thí là một cơ chí quan trọng
Do Thái, giống như dịch vụ từ thiện của xã hội thời nay, nhằm tỏ tình huynh đệ
do Giao ước đòi buộc: cứu giúp người nghèo khó có sức xoá sạch tôi lỗi (Tob
12,9) và có giá trị ngang với lễ Hy tế. (Si 4,6; 7, 10)" ("LEvangle
de Matthieu, Centurion, 1991, trang 72).
Đức Giêsu không chối bỏ tinh thần tu đức này, nhưng Người tố giác
cách làm phô trương. Bố thí không phải để "được sự vinh vang do người ta,
cũng không để đề cao mình cho người ta thấy (từ Hyporite có nghĩa phô trương
mình) nhưng trong nơi kín nhiệm, phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa để một mình
Người đánh giá nghĩa cử đó: để "Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ
trả công cho người”.
Nguy cơ mà Đức Giêsu kêu gọi phải coi chừng, là để cái bề ngoài,
cái nhìn thấy được chiếm ưu thế... Nó không phải là một nguy cơ tưởng tượng
đâu, ngay cả đốt với thời đại ngày nay, tuy dưới những hình thức tân tiến. Tính
vô vị lợi và tính khiêm nhu cũng không dễ hơn cho các cộng đồng hội thánh hơn
là cho các cộng đoàn thế tục. Nào chúng ta, những thành viên, những người phụ
trách hoặc người tổ chức không thường bị cám dỗ nhận là của mình những dịch vụ
hoặc công việc mà ta cống hiến công sức; khoe khoang công trạng và quyền lợi
của ta trước mặt mọi người đấy sao! Đức Giêsu đã tuyên bố: “Thật tôi bảo thật
anh em, họ đã được phần thưởng rồi. Điều mà ta không gởi lại cho mình, thì
Thiên Chúa đón nhận. Cả đến lòng quảng đại cũng vậy. Cử chỉ chia sẻ được đầy đủ
ý nghĩa khi vì yêu mà tặng không. Chỉ có Thiên Chúa có thể ghi sổ tình yêu, bởi
vì kích thước của tình yêu là vô tận.
3. Cầu nguyện
Cả việc cầu nguyện cũng không được thi hành "để biểu diễn”
“để tỏ cho người ta thấy”, nhưng để nói với Cha, Đấng ngự nơi bí ẩn: "Cha
ngươi Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho ngươi”.
Đức cha Daloz nói: "Đức Giêsu đã không ngừng mời gọi người ta
sống chân thành với lương tâm, sông hướng nội. Cần phải chủ động tìm phương thế
để đừng quấy rầy cuộc gặp gỡ thân mật, cá nhân với Chúa Cha. Khi bàn đến một
hành động quan trọng như việc gặp gỡ với Thiên Chúa, Đức Giêsu dạy ta phải gạt
bỏ mọi nguy cơ khiến cho người ta lấy cái nhìn của người trần, thế chỗ cho cái
nhìn của Cha trên trời. Cầu nguyện để cho người ta nhìn, thay vì cầu nguyện Cha
trên trời, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, tức là bôi nhọ việc cầu nguyện, là nhằm
sai mục đích, là một dạng thờ ngẫu tượng, vì nó hướng lời cầu nguyện, thay vì
vào Đấng mà lời nguyện nhắm tới, thì hướng về lợi lộc của người giả bộ cầu
nguyện”. (Sđd, trang 66).
4. Chay tịnh
Chay tịnh tự căn bản là một dấu hiệu của tang chế. Claude Tassin
quảng giải: "Kỷ niệm ngày đền thờ bị phá huỷ, người ta ăn chay. Nhưng một
người Do Thái đạo đức còn biết một nguyên nhân tang tóc to lớn hơn cả việc phá
huỷ đền thờ, đó là tội lỗi, sự chết thật sự đối với mối liên hệ sống động với
Thiên Chúa. Những nhóm tôn giáo thích gia tăng việc ăn chay đền tội; thí dụ
nhóm Pharisêu ăn chay 2 lần mỗi tuần; họ còn thêm những dấu hiệu tang tóc thích
hợp, như không tắm rửa, không xức thuốc thơm" (Sđđ trang 77) .
Đức Giêsu không công kích giá trị của việc ăn chay. Nhưng Người
muốn bảo môn đệ hãy coi chửng cách làm phô trương.
Không được ăn chay để kéo sự trầm trồ khen ngợi của người ta, để
tỏ cho người ta thấy là mình ăn chay, nhưng phải đặt dưới cái nhìn của Chúa Cha
và phó thác hoàn toàn cho người. "Và Cha của anh Đấng thấu suốt nhũng gì
kín đáo, sẽ trả công cho anh".
Khi thuật lại những lời này của Đức Giêsu, một lần nữa Mátthêu
muốn can ngăn những Kitô hữu, còn muốn trung thành với việc ăn chay (ông không
phản đối việc này), đừng nên tìm danh giá thay vì chỉ cần Thiên Chúa chứng
giám.
Đức cha Daloz còn quả quyết: “Nguy cơ giả hình, về vấn đề chay
tịnh này, không còn đe doạ chúng ta. Cần có một loại nhận định khác cần thiết
cho giới tín hữu trẻ để giữ cho việc chay tịnh ý nghĩa đích thực của nó. Trong
một thế giới pha trộn các tôn giáo và phong trào tục hoá đang nở rộ, thái độ
của niềm tin chân thật đòi hỏi người tín hữu phải hiểu đúng ý nghĩa của chay
tịnh. Để được điều đó chỉ cần trỏ về với những lời của Đức Giêsu. Chay tịnh mà
Chúa đề cập ở đây là nhằm thanh tẩy hay giải thoát bản thân, cũng không phải là
một cố gắng, hay một khổ chế để làm chủ bản thân hơn. Nó cũng không chỉ là một
cuộc giải phóng tâm hồn qua sự khổ chế thể xác, để ta có thể chiêm ngắm những
chân lý thần linh tốt hơn. Đức Giêsu cũng không đề cập chay tịnh như một phương
thế tỏ tình liên đới với những người đói rách, hoặc như một tự chế để chia sẻ
cho tha nhân. Những ý đó đều tốt và bổ ích, và Hội Thánh, phụng vụ và các tác
giả tu đức đều khuyên dạy...Chay tịnh chân thật "xô" chúng ta rời cái
"lỗi" bản thân, lột trần chúng ta trước Thiên Chúa. Không phải là một
cuộc biểu diễn tâm linh... Nhưng là một phương tiện giúp ta sống nghèo trước
Thiên Chúa, là một của lễ hiến dâng bản thân ta nhờ sức mạnh khổ chế, trong ân
huệ mà Thiên Chúa ban chính mình cho ta nếu ta tự đặt mình dưới con mắt Thiên
Chúa trong bóng tối và trong lột bỏ, mà không ham đạt kết quả, chỉ hoàn toàn vì
tình yêu và với lòng tin... Giống như cầu nguyện, giống như bố thí, chay tịnh
mà Đức Giêsu mời gọi các môn đệ thực thi, phải thi hành trong bí ẩn của tình
nghĩa với Cha, bí ẩn của đức tin" (Sđd, trang 82).
BÀI ĐỌC THÊM
Hãy lột bỏ một nạï!
(Claude Tassin, trong cuốn "L'evangile de Matthieu,
Centurion, trang 72).
"Từ giả hình (hypocrite) chỉ xuất hiện 1 lần trong Tin Mừng
Máccô, 3 lần trong Tin Mừng Luca, ngoài ra, không chỗ nào trong Tân ước có từ
đó, ngoại trừ trong Tin Mừng Mátthêu, từ đó xuất hiện tới 14 lần, như một trong
những từ tán thán ưa dùng để chỉ giới kinh sư và biệt phái.
Theo nghĩa hiện tại, thái độ giả hình là "che giấu con người
thật mà phô trương những phẩm chất tốt mà mình không có" (Tự điển Petit
Larousse). Mátthêu chỉ chịu trách nhiệm gián tiếp trong việc từ đó tuột dốc về
hướng xấu. Đối với Mátthêu, từ đó còn giữ ý nghĩa theo ngôn ngữ Hy Lạp thực tế:
hypocrite nghĩa là "diễn viên”, là người đóng một vai cho khán giả xem, -
"cho phòng trưng bày" - không nên quên rằng ở tuồng cổ xưa diễn viên
mang mặt nạ. Theo nghĩa xưa, từ "hypocrite" không mang ngụ ý xấu (là
đánh lừa khán giả) nếu hoàn cảnh chung quanh không chỉ rõ ý đó .
Sử dựng từ của Mátthêu khiến ta chú ý 2 điều:
1/ Tự căn bản, giới kinh sư và biệt phái muốn nêu gương một lòng
trung thành tuyệt đối với Lề Luật cho một dân tộc nhỏ bé thường bị mất phương
hướng. Mátthêu cho thái độ này như là nhằm phô trương trưng bày, và do đó ông
gieo rắc sự nghi ngờ trên ý hướng nội tâm của những kẻ muốn đặt mình làm mẫu
gương. Nhưng linh đạo Pharisêu cũng phi bác thái độ đạo đức phô trương.
2/ Sẽ không tốt cho cuộc tranh luận nếu vịn vào những người biệt
phái đã được ngòi bút Matthêu tô vẽ, coi như họ là chứng cớ chắc chắn. Thường
thì trong những cuộc tranh luận người ta hay cường độ nhân chứng, chính Matthêu
muốn cho người tín hữu tránh rơi vào lỗi này, như vậy mục tiêu chính mà ông
nhắm là họ trước tiên qua chân dung méo mó này.
1) Nỗ lực hướng tới sự hoán cải tâm hồn cách đặc biệt trong mùa
này.
Chúng ta đang ở thời điểm đầu mùa Chay, là thời gian để sám hối và
canh tân nội tâm chuẩn bị cho lễ Phục sinh. Phụng vụ của Hội Thánh không ngừng
kêu mời chúng ta thanh tẩy linh hồn và bắt đầu lại.
Chúng ta đọc thấy trong Bài đọc I: Đây là sấm ngôn của Đức Chúa:
"Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay,
khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về
cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu”. Rồi
khi xức tro trên trán chúng ta, linh mục nhắc chúng ta nhớ lại những lời trong
Sách Sáng Thế. "Hãy nhớ ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất".
"Hãy nhớ ngươi là bụi đất..." Hãy nhớ! Dù được nhắc nhở,
đôi khi chúng ta vẫn quên điều này: không có Chúa, chúng ta chẳng là gì cả.
"Không có Chúa, tất cả sự vĩ đại của con người chỉ là nhúm tro bụi, trên
chiếc đĩa đặt cạnh bàn thờ trong ngày Thứ Tư lễ Tro. Đó là cái mà Hội Thánh
dùng để ghi dấu trên trán chúng ta".
Thiên Chúa muốn chúng ta từ bỏ các sự vật trần gian và quay về với
Người. Người muốn chúng ta từ bỏ tội lỗi, nguyên nhân của sự già cỗi và chết
chóc, và quay về dòng nước sự sống và hân hoan. "Đức Giêsu Kitô là ân sủng
cao vời của toàn bộ mùa Chay. Người tự bộc lộ mình cho chúng ta trong Tin mừng
với tất cả sự đơn sơ giản dị"
Hướng lòng về với Chúa, hay hoán cải, nghĩa là chúng ta phải sẵn
sàng vận dụng mọi phương thế để sống như Người mong đợi. Chúng ta phải tuyệt
đối trung thực với bản thân. Chúng ta không được làm tôi hai chủ. Chúng ta phải
yêu Chúa hết lòng hết linh hồn, và tránh xa mọi tội nhẹ cố ý. Mọi người trong
chúng ta đều phải gắng sức đạt được điều này, cho dù hoàn cảnh công việc, sức
khỏe, gia đình, tuổi tác thế nào.
Đức Giêsu đang mong chờ một con tim thống hối, một con tim nhận
biết những yếu đuối và tội lỗi của mình và sẵn sàng giải thoát mình khỏi chúng.
"Bấy giờ, các ngươi sẽ nhớ lại lối sống xấu xa và hành vi bất hảo của các
ngươi…" Thiên Chúa muốn chúng ta chân thành đau buồn về các tội đã phạm,
bằng việc đi xưng tội, và bằng những hành vi khổ chế và sám hối vì yêu Chúa.
Đối với chúng ta, hoán cải nghĩa là tìm kiếm sự tha thứ của Thiên Chúa và nguồn
sức mạnh trong bí tích Hòa Giải. Đấy là cách chúng ta bắt đầu lại và hoàn thiện
mỗi ngày. Để khích lệ lòng thống hối, Hội Thánh trình bầy cho chúng ta Thánh
vịnh thống hối mà vua Đavít đã thốt lên, và rất nhiều vị thánh đã dùng những
lời này để cầu xin Chúa thứ tha tội lỗi:
Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con,
Mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm.
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
Tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.
Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.
Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,
Dám làm điều dữ trái mắt Ngài.
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng,
Đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy.
Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh,
Đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài.
Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ,
Và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con.
Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con,Cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.
(Tv 50)
Hôm nay Thiên Chúa sẽ lắng chúng ta nếu chúng ta thốt lên lời
nguyện xin: Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới
tinh thần cho con nên chung thủy.
2) Các việc sám hối. Năng xưng tội, hãm mình, làm phúc bố thí
Lòng hoán cải thật sự được thể hiện qua cung cách xử sự của chúng
ta. Chúng ta chứng tỏ mình thật sự muốn cải thiện. Qua lề lối làm việc hay học
tập, chúng ta biểu lộ điều ấy ra qua cách ăn nết ở trong gia đình; dâng lên
Chúa những việc hãm mình nhỏ bé làm cho cuộc sống của những người chung quanh
dễ chịu hơn, và làm cho công việc của chúng ta đạt hiệu quả cao hơn. Chúng ta
cũng có thể bày tỏ bằng cách dọn mình chu đáo và xưng tội thường xuyên.
Hôm nay Chúa yêu cầu nơi chúng ta một sự hãm mình đặc biệt để dâng
lên Chúa với tinh thần vui vẻ: đó là ăn chay và kiêng thịt, củng cố tinh thần
nhờ khổ chế thể xác và thú vui xác thịt, nâng linh hồn chúng ta lên Chúa, đẩy
lùi mọi ham muốn nhục dục bằng cách cho chúng ta sức mạnh để vượt qua và kìm
chế các đam mê, và khuất phục con tim để không tìm kiếm điều gì khác ngoài việc
làm vui lòng Chúa trong mọi sự.
Trong mùa Chay, Hội Thánh đòi hỏi những dấu chỉ sám hối (kiêng
thịt từ tuổi 14, và ăn chay trong độ tuổi từ 18 đến hết 59 tuổi), đưa chúng ta
xích lại gần Chúa hơn và đổ vào linh hồn chúng ta một niềm vui đặc biệt. Hội
thánh cũng yêu cầu chúng ta quảng đại làm phúc bố thí cho kẻ khó. Chúng ta sẽ
làm việc này với lòng xót thương, muốn an ủi người đang thiếu thốn hay đóng góp
vào việc tông đồ, tùy theo phương tiện đang có trong tay, vì lợi ích của các
linh hồn. Mọi Kitô hữu đều có thể làm phúc bố thí - không chỉ người giàu có và
thế lực, mà cả những ai có mức sống trung bình và ngay cả người nghèo; nhờ vậy
những người không ngang bằng nhau về khả năng bố thí lại trở nên bình đẳng với
nhau trong tình yêu và tình thương.
Từ bỏ của cải vật chất, hãm mình và chay tịnh thanh tẩy chúng ta
sạch tội lỗi và giúp chúng ta tìm thấy Thiên Chúa trong cuộc sống thường ngày.
Vì ai cất công tìm Kiếm Thiên Chúa đêm ngày trong khi vẫn muốn bám víu vào sở
thích và lợi thú của bản thân, sẽ chẳng bao giờ gặp được Người. Các việc bổn
phận thường ngày của chúng ta chính là nguồn đem lại những cơ hội hãm mình:
trật tự ngăn nắp, giữ đúng giờ giấc, tập trung sự chú ý và năng lực vào công
việc... Thông qua mối quan hệ với người khác chúng ta sẽ tìm ra cơ hội chế ngự
tính ích kỷ nơi bản thân chúng ta và giúp tạo ra một bầu khí ấm áp dễ chịu hơn
quanh mình. Và việc hãm mình tốt đẹp nhất là từng vượt sự ham muốn của xác
thịt, sự ham muốn của đôi mắt, và lối sống kiêu hãnh nơi những việc nho nhỏ
trong suốt cả ngày. Những việc khổ chế của chúng ta phải là những việc không
gây phiền nhiễu cho người khác nhưng làm cho chúng ta "duyên dáng"
hơn, thông cảm hơn và cởi mở hơn trong các mối quan hệ với mọi người. Các bạn
chưa được gọi là hãm mình nếu các bạn còn quá tự ái; nếu các bạn chỉ nghĩ cho
mình; nếu các bạn nhục mạ người khác; nếu các bạn không biết từ bỏ những thứ
không cần thiết và đôi khi cả những thứ cần thiết, nếu các bạn buồn chán vì các
sự việc không diễn ra theo cách mà các bạn kỳ vọng. Trái lại, các bạn có thể
dám chắc mình đã khổ chế nếu các bạn biết cách làm cho bản thân các bạn trở nên
"mọi sự cho mọi người, để cứu độ mọi người" (1Cr 9,22).
Mỗi người chúng ta cần phải phác họa ra một kế hoạch cụ thể để
dâng các việc hãm mình lên Chúa mỗi ngày trong suốt mùa Chay này.
3) Mùa Chay là thời gian để tiến đến gần Chúa hơn
Chúng ta không thể để cho ngày hôm nay qua đi mà không khơi dậy
trong sâu thẳm linh hồn chúng ta một niềm khát khao trở về, như đứa con hoang
đàng, để xích lại gần Chúa hơn. Qua Bài đọc 2 trong thánh lễ hôm nay, thánh
Phaolô nói với chúng ta rằng đây là thời điểm tuyệt vời để chúng ta trở về với
Thiên Chúa. "Chúng tôi khuyên nhủ anh em: anh em đã lãnh nhận ân huệ của
Thiên chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu... Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây
là ngày Thiên Chúa cứu độ". Một lần nữa Chúa lại nói với mỗi người chúng
ta tận sâu thẳm linh hồn: "Hãy trở về với Ta. Hãy trở về với Ta bằng cả
tấm lòng".
Bây giờ là lúc cuộc hoán cải trong Đức Kitô được duy trì nhờ ân
sủng đặc biệt của Thiên Chúa. Đó là lý do vì sao thông điệp của mùa Chay luôn
luôn đầy ắp niềm vui và hy vọng, cho dù nó là một thông điệp chứa đựng tâm tình
thống hối và khổ chế.
Nếu có ai trong chúng ta nhận thấy mình buồn phiền, thì người ấy
cần phải nghĩ ngay rằng. "Đó là vì tôi chưa ở gần Đức Kitô cho
đủ...". Nếu có người trong chúng ta cảm thấy mình có khuynh hướng hay nóng
giận, bẳn gắt, người ấy cũng phải tự nhắc nhở mình như vậy. Nếu người này la
lối trách mắng về những sự việc xảy ra quanh mình, anh ta sẽ đi chệch mục tiêu;
anh ta sẽ nhìn sai phương hướng. Đôi khi sự lãnh đạm hay buồn phiền là do mệt
mỏi hay đau ốm... nhưng thường là do thiếu quảng đại trong khi làm điều Chúa
đòi hỏi, do yếu đuối trong cuộc đấu tranh thanh luyện các giác quan, thiếu quan
tâm đến tha nhân... Tóm lại, nó bắt nguồn từ tình trạng thờ ơ lãnh đạm.
Nếu chúng ta ở gần Đức Kitô, chúng ta sẽ luôn luôn tìm ra phương
thuốc chữa trị thái độ thờ ơ lạnh nhạt và khôi phục lại sức mạnh để chiến thắng
những khuyết điểm mà tự sức mình chúng ta không thể nào vượt qua. Khi một người
tự nhủ: "Tôi không thể nào chừa bỏ tật xấu lười biếng. Tôi trơ lì mất rồi;
dường như tôi không tài nào hoàn thành điều đã khởi sự, thì hôm nay người ấy
nên nghĩ rằng: "Tôi phải ở gần Đức Kitô cho đủ". Đó là lý do vì sao
mỗi khi chúng ta nhận ra một khiếm khuyết, một yếu điểm trong cuộc sống của
mình... chúng ta cần phải kiểm điểm ngay lập tức: "Dường như tôi chưa kiên
trì: tôi chưa ở gần Đức Kitô. Tôi không vui vẻ: tôi chưa ở gần Đức Kitô. Và Đức
Kitô sẽ nói: Nào! Hãy quay lại! Hãy trở về với Cha với cả tấm lòng!”
Đây là thời gian để mỗi người trong chúng ta nhận biết mình được
Đức Kitô thúc đẩy. Những ai có khuynh hướng trù trừ do dự hãy biết rằng đã đến
lúc phải quyết định dứt khoát. Những ai bi quan chán nản và nghĩ rằng những lỗi
lầm của mình là vô phương cứu vãn hãy biết rằng thời điểm đã đến. Mùa Chay đã
bắt đầu, vàø chúng ta hãy coi đây là thời điểm để thay đổi và hy vọng.
Hôm nay bắt đầu mùa chay, mùa ăn năn thống hối tội lỗi, cải thiện
đời sống, cùng chết với Chúa Kitô để được sống lại vinh hiển với Ngài. Việc
lãnh nhận một chút tro trên đầu nhắc lại một thực hành thời xa xưa khi những tội
nhân tỏ lòng ăn năn thống hối bằng cách mặc áo nhặm và bỏ tro trên đầu.
Từ thế kỷ thứ 10, việc xức tro trên đầu đã được phổ biến trong
Giáo Hội. Đây là một nghi thức nói lên thân phận mỏng dòn của con người là tro
bụi và sẽ trở về bụi tro, đồng thời, nêu bật sự khiêm nhường và quyết tâm trở
về đường ngay nẻo chính.
Trong việc sửa đổi đời sống cho tốt, Giáo Hội mời gọi chúng ta
thực hành ba việc lành, đó là cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Nhưng khi làm các
việc đạo đức đó chúng ta phải làm đúng theo cách thức Chúa dạy, nghĩa là làm vì
lòng ăn năn sám hối, vì lòng mến Chúa yêu người, chứ không làm vì thói khoe
khoang, giả hình.
Là người Công giáo, hàng ngày chúng ta đọc kinh cầu nguyện để thờ
phượng Chúa là Thiên Chúa chúng ta, để tạ ơn Chúa vì những ơn lành Ngài ban, để
xin lỗi Chúa vì những lỗi lầm chúng ta đã phạm mất lòng Chúa, để xin Chúa ban
ơn cần thiết cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội, cho Giáo Hội. Nhưng đặc
biệt trong mùa chay, chúng ta sẽ cầu nguyện sốt sắng hơn, chăm chỉ hơn, khiêm
tốn hơn và với lòng chân thành thống hối tội lỗi để được Chúa thứ tha và sống
một đời sống tốt đẹp hơn.
Cũng thế, trong mùa chay, chúng ta sẽ cố gắng hy sinh hãm mình
nhiều hơn, để kết hiệp với cuộc khổ nạn của Chúa hầu thánh hóa bản thân và cứu
rỗi linh hồn người khác. Nhất là chúng ta biết sống liên đới chia sẻ với những
anh em nghèo khổ chung quanh.
Xin Chúa cho chúng ta biết sử dụng thời gian thuận tiện Chúa ban
để cải hóa tâm hồn và xây dựng cuộc sống Kitô của chúng ta. Xin Chúa giúp sức
để mùa chay thánh này thật sự chuẩn bị tâm hồn chúng ta xứng đáng cử hành những
biến cố của tuần thánh dẫn đến cuộc Phục Sinh khải hoàn của Chúa.
BỐ THÍ
Bác ái, danh từ làm ta khó chịu khi vừa nghe thấy. Giới thợ thuyền
trong một vài trường hợp chấp nhận bác ái, nhưng luôn luôn đề cao quyền lợi,
công bình trước. Thái độ đó được hoàn toàn thông cảm. Lần nào cũng thế, Tin
Mừng không đề cập đến một vấn đề khác. Chúa Kitô chỉ muốn nói rằng khi thực
hành bố thí, hãy thực hành theo tinh thần thích hợp. Đó là một bổn phận bất
biến, vì luôn luôn có những kẻ giàu sang, đồng thời cũng có những người nghèo
đói. Những ai có nhiều hơn, may mắn hơn, phải tự giúp kẻ ít may mắn. Những lời
nói của Chúa Kitô được giải thích theo hai ý nghĩa. Trước hết, theo nghĩa tiêu
cực: Chúa Kitô kết án việc thực thi bác ái sai lạc:
"Đừng thổi kèn trước mặt người đời". Có những việc thiện
chỉ là tự kiêu tôn giáo trá hình dưới lớp vỏ đức ái. Chỉ biết dùng hành vi thực
hiện thiện hảo như một nhãn hiệu. Có những cử chỉ nhân đức do lòng ích kỷ, chỉ
vì mục tiêu tuyên truyền hơn là lòng săn sóc trung thực. Người thực thi bác ái
không được rao trên mái nhà, đòi hỏi phải được ghi công, tuyên dương trên báo
chí hay tri ân công cộng, nghĩa là nêu lên cho mọi người thấy Sự giúp đỡ càng
bí mật lại càng hữu hiệu, Chúa Kltô đã dùng một hình ảnh thỏa đáng: tay trái
đừng biết việc tay phải làm. Cũng thế, ngay giữa chi tộc mình, cử chỉ cũng vẫn
được giữ kín. Đôi khi, giúp đỡ để cứu trợ một thiệt hại vật chất vẫn chưa đủ,
còn cần đến lời an ủi và thái độ thông cảm khi hành động. Trong các công việc,
không được chỉ xử trí theo thủ tục, mà còn phải trực tiếp gặp gỡ cá nhân. Thật
là trái ngược với Kitô giáo, nếu chỉ muốn khai thác sự khốn nạn của kẻ đồng
loại để khoe khoang sự đại lượng cá nhân. Phải thực thi bác ái với sự hạ mình
thông cảm, không được thi hành với sự tự mãn kiêu kỳ, hay lên mặt dạy luân lý,
hoặc làm ra vẻ thánh nhân giữa các tội nhân. Mọi cách biệt sẽ bị xóa đi, nếu ta
quan niệm rằng chỉ có một Cha chung trên trời.
Mặt khác, Thầy chí thánh đã tỏ lộ ý nghĩa thứ hai trong giáo huấn
của Người khi tuyên bố. "Chúa Cha nhìn thấy trong bí mật". Không phải
nỗi khốn khổ của đồng loại là căn do nẩy sinh lòng bác ái, nhưng chính Thiên
Chúa mới là căn do làm phát sinh lòng bác ái của ta. Con người sẽ bị tình cảm
chi phối nhiều, và người ta sẽ ưa tiên giúp đỡ những ai khéo léo trình bày sự
khốn khổ của mình cách đáng thương và cảm động, mặc dầu họ đã phóng đại. Như
thế, có lẽ người ta sẽ giúp đỡ những kẻ nghèo giả tạo, mà quên đi sự khốn khổ
thầm kín lớn hơn. Trái lại, nếu người ta hành động cho Thiên Chúa, người ta sẽ
tự vấn trước mặt Chúa về những người phải giúp đỡ, và về thời gian thuận tiện.
Đức bác ái phải được thực thi cách ý thức, theo thời giờ và cách thức thuận
tiện, đối với những kẻ xứng đáng.
Trong tất cả mọi lãnh vực, con người tinh thần được phú ban một
loại sáng suốt, với cái nhìn luôn lượng về Chúa, họ học biết cách phục vụ Chúa
với sự thận trọng. Những kẻ nào có tâm hồn giống nhóm Biệt phái, sẽ lạm dụng
tôn giáo để làm bộ thánh thiện, làm cho ki tô giáo ra một hình ảnh sai lạc và
thô kệch. Hãy cẩn thận, đừng thực thi bác ái trước mặt kẻ khác. Vào thời đại
chúng ta, lời cảnh cáo của Chúa Kitô không dư thừa chút nào.
Có nhiều người lấy làm ngạc nhiên rằng Chúa Kitô đã nêu lên một
động lực vụ lợi rõ rệt: "Chúa Cha thấy trong bí mật, Ngài sẽ thưởng
cho". Phải chăng luân lý Công giáo là luân lý vì phần thưởng? Hiển nhiên,
Chúa Kitô đã tiên báo và chấp nhận không hàm hồ rằng phải thực thi thiện hảo
trước mặt Thiên Chúa trước hết. Tuy nhiên, trong một viễn tượng thiêng hứng, họ
có thể trở về với bản ngã riêng bằng cách ước mong không đánh mất Thiên Chúa,
nhưng luôn luôn tiến gần về Ngài. Phần thưởng của người Công giáo chính là
Thiên Chúa, nên trong khi tìm kiếm phần thưởng, tức là họ tìm kiếm Thiên Chúa,
như thế, họ đã hành động theo lệnh của Ngài. Đó không phải là lợi ích nhất
thời, Chúa Cha sẽ trả lời bằng cách ban chính tình yêu của Ngài. Tìm kiếm Thiên
Chúa để thấy hạnh phúc trong ngài đó là một thái độ Công giáo đích thực, được
Chúa Kitô chấp nhận và khuyến khích.
CẦU NGUYỆN
Làm dơ bẩn bác ái bằng cách thực thi theo những mục đích ích kỷ,
là làm ngược lại thần linh. Bóp méo kinh nguyện để khoe lòng đạo đức là một
phạm thượng. Làm như vậy không còn là một thờ kính thánh thiện nữa, nhưng là
bắt Thiên Chúa phục vụ những mục đích trục lợi của ta. Mầu nhiệm bí mật nhất
của tâm hồn và tính chất cá biệt thâm sâu nhất bị tục hóa, và hạ xuống như một
lối giả hình lấy thái độ bên ngoài cầu nguyện để làm việc ngược lại, đó là
trình bày một sự thánh thiện sai lạc, không còn gì thảm hại hơn. Những người
sốt sắng nửa mùa thường thích đóng kịch. Còn người cầu nguyện thực sự xa tránh
mọi người, không đa ngôn, không gây động đạc ồn ào, để đi vào im lặng và thanh
vắng, ở đó, họ sẽ tìm gặp được Thiên Chúa. Kinh nguyện là gì, nếu không phải là
nâng tâm hồn lên cùng Chúa. Kẻ giả hình cũng làm vẻ bề ngoài như thế, nhưng
thực ra, tâm hồn họ thì hướng về trần giới. Tín hữu cầu nguyện mở tâm hồn ra
trước Thiên Chúa, còn kẻ giả hình thì luôn khép kín trước Thiên Chúa. "Khi
con muốn cầu nguyện, hãy vào phòng riêng". Bị cuộc sống bên ngoài luôn thu
hút, đôi khi con người cần phải nghỉ ngơi và hồi tâm, giống như một tế bào, họ
lui về phòng mình, giữ cho lòng mình khỏi bị lôi kéo vào làn sóng ồn ào huyên
náo. Nếu không, họ sẽ chết trong ồn ào Người Công giáo phải tìm nơi kinh nguyện
một nguồn mạch không cạn, và một sự tươi trẻ vĩnh viễn cho tâm hồn. Nhưng rất
cần phải lui vào thinh lặng, để nghe được tiếng Đấng Tối cao, và trong sự thanh
vắng, họ đi sâu vào cuộc đối thoại với Chúa. Những màu sắc sặc sỡ của những tờ
bích chương chói sáng chỉ gây những ảo giác. Tiếng động của hàng ngàn loa phóng
thanh chỉ làm chúng ta điếc tai: Trong ồn ào, chúng ta không còn nhận biết được
giọng nói của Thiên Chúa.. Chỉ khi nào ta trở về với im lặng, ta mới sử dụng
cách chính đáng những khả năng của ta. Hãy vào phòng riêng cầu nguyện, không
phải là một công việc hao phí thời giờ, trái lại, đó là sự tập trung năng lực
để hoạt động kết quả. Cầu nguyện để biến thành bình thiên. liệu cho cuộc sống.
Trong khi cầu nguyện, những bình chứa tinh thần được đổ đầy tràn. Nếu chúng
trống rỗng, các động cơ hoạt động sẽ dừng lại, không hoạt động được nữa.
Hình như chúng ta không lấy làm lạ, khi thấy Chúa Kitô đã cầu
nguyện trong nơi mình ở, mà không cầu nguyện trong đền thờ hay trong giảng
đường. Giữa thời đại tự do hiện nay, trong lúc con người chống lại chủ nghĩa cá
nhân quá khích, thì ngược lại, trong lãnh vực tôn giáo, phải cố gắng tự tạo cho
mình một đời sống độc lập. Con người ngã về khuynh hướng khinh thường bầu khí
thinh lặng, đề cao ồn ào huyên náo, và hạ thấp kinh nguyện cá nhân cũng như
những giờ chiêm niệm. Lời Chúa dạy không phải chỉ là lởi bênh vực cho kính nguyện
tư riêng cá nhân, nhưng còn là một đòi hỏi phải sử dụng lối cầu nguyện này nữa.
Ngoài kinh nguyện cá nhân, con người còn phải sử dụng lối kinh nguyện cộng đồng
nữa, vì con người là một con vật có trí khôn và có xã hội tính. Do đó, sự tham
gia vào kinh nguyện và hy tế cũng phải có tính cách cộng đồng. Chỉ có lòng đạo
đức nào có hai phương diện này mới bảo đảm cho tín hữu sự viên mãn và sung túc
tinh thần. Sự thờ kính cộng đồng nếu không sống động nhờ lòng đạo đức cá nhân,
sẽ bị lu mờ dần, và biến các nghi thức thành những dấu hiệu bên ngoài trống
rỗng. Kinh nguyện chiêm niệm mà không hướng về cộng đồng, sẽ thiếu căn bản và
đưa đến cô lập tinh thần. Vậy phải thi hành cả hai tác động, vừa lui mình về
phòng nựng, vừa phải đến đền thờ để cầu nguyện. Hai hình thức cầu nguyện này có
tính cách bất khả phân ly và bó buộc.
ĂN CHAY
Ăn chay đối với người Công giáo hình như là việc tự nhiên. Nhưng
khó khăn là khi nói đến tinh thần phải có khi ăn chay.
Khổ hạnh thuyết mà người ta thường khoe khoang đều lố bịch và mâu thuẫn,
vì nó biến lòng thống hối thành tội lỗi: con người giả bộ khổ hạnh ngoài mặt,
còn thực sự lại khác hẳn. Họ làm bộ để người ta tin rằng họ ăn chay. Thực ra họ
giả bộ ăn chay, họ đã tục hóa phương thế thánh hóa siêu nhiên.
Vẻ thống hối bên ngoài đầy nguy hiểm, vì nó trở nên quá lộ liễu
che đậy dục vọng mình cách ích kỷ, dưới chiêu bài luân lý và tôn giáo. Đặc tính
của mặt nạ là giả, không gì xấu xa hơn mặt nạ về lòng sốt sắng, vì nó làm cho
người khác chê cười và hơn nữa, nó còn làm cho họ chế nhạo cả tôn giáo nữa.
Tuy nhiên, cũng không được rơi vào một thái cực khác, đó là chối
bỏ tất cả mọi hành động thống hối bên ngoài. Không thể vì thấy một vài lạm dụng
mà kết án hành động thống hối. Người ta vẫn ăn chay, nhưng với một ý hướng
trong sạch. Người ta sẽ ăn chay để làm vinh danh Chúa, không phải để tôn vinh
con người. Kẻ khắc khổ giả tạo không phải là một người từ bỏ, nhưng là một
người tham vọng. Tuy họ từ bỏ, nhưng chỉ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất,
thỏa mãn tính kiêu căng của mình. Họ muốn phô trương sự thánh thiện của mình,
họ muốn tô điểm mình bằng tấm áo khiêm tốn giả hiệu, họ để cho lớp vỏ hy sinh
giả tạo bao bọc tính nhu nhược yếu đuối. Nguyên động lực của thái độ ấy không
phải là Thiên Chúa, nhưng là nhân loại. Người ta chối bỏ Thiên Chúa vì quá yêu
mình, trong khi đúng ra, phải chối bỏ mình và chấp nhận tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta không thể chinh phục tha nhân được bằng sự nghiêm khắc quá đáng. Phải
có nhiều tinh thần trong hành động thống hối, mới lôi cuốn được kẻ khác. Những
săn sóc và nếp sống vệ sinh'hằng ngày, y phục gọn ghẽ, tác phong đáng yêu thì
thường nói lên tinh thần thống hối nghiêm nghị, hơn là sự bừa bãi dưới chiêu
bài khinh thường của thế gian. "Hãy xức dầu thơm trên đầu".
Lòng tự kiêu khoe khoang không thể là lòng thống hối được Lòng
thống hối trung thực là một điều cần thiết và nghiêm trọng, và không được phép
giả bộ. Những bộ mặt khô khẳng không thể chứng tỏ một tinh thần tôn giáo, cũng
như một thân xác gầy còm cũng không chứng tỏ một tinh thần tiến bộ.
Hướng nhìn về Chúa và thánh ý Ngài sẽ nói lên thái độ phải có.
Chúa đã an bài những ngày lễ và mùa thống hối. Mọi người đều hướng về ngài nếu
họ chỉ tin vào Ngài. "Cha ngươi sẽ nhìn thấy nơi bí mật". Người ta có
thể đánh lừa con người. Còn Thiên Chúa biết cả những nơi thâm sâu nhất trong
tâm hồn; ngài không thể bị đánh lừa. Những người khổ hạnh giả bộ, thích nghe
những lời ca ngợi khen lao, đó là những phần thưởng nhân loại. nhưng cuối cùng,
họ dấn thân phục vụ kẻ gian dối. Vì vậy Tin Mừng dạy: "Hãy ăn chay, nhưng
trong tinh thần chân thành" và "khi con ăn chay, hãy xức dầu thơm
trên đầu”.
(Richard Gutzwiller, Suy niệm Tin Mừng Matthêu. Niềm Tin. Tr.
119-126 và 157-160).
Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ. Hầu như
ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:
Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,
Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,
Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,
Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,
Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,
Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…
Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.
Vậy ơn cứu độ là gì?
Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số
yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.
Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi.
Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước
đoạt tự do con người.
Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên
cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một
cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên
coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng
tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm
gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi
ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi
đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là
chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện
không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi
có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự
ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì
không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.
Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì
lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật
của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác:
Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội
là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.
Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác
phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (Rm
7,14-25).
Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng.
Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm
ơn cứu độ.
Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất
đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống
dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.
Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích
tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo
ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi
ý nghĩa mùa chay.
Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma
quỉ.
Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.
Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và
tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần
đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì
cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về
phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản
tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44).
Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng
như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.
Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một
người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi:
“Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh” (Lc
8,30-31).
Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người
liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa
vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y” (Ga 13,27).
Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là
điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh
em như người ta sàng gạo” (Lc 22,31).
Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã
khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là
thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em” (1 Pr
5,8).
Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta,
chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ
quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực
ma quỉ.
Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa.
Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là
được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình
bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình
thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy” (Ga 5,26).
Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha
tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban
sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người” (Ga 17,2).
Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì
thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự
thực và là sự sống” (Ga 14,6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào” (Ga
10,10).
Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là
nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời
đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng
Cha đã sai đến là Giêsu Kitô” (Ga 17,3).
Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng
biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài,
chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.
Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi
Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó.
Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn
điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm.
Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên
mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu
độ, an ủi và đỡ nâng.
***
Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi
hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ
dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám
hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.
Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân
Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí
cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc,
đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những
chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.
Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:
- Hời người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi
tro.
Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam
nữ, tuổi tác và địa vị.
Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo
về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân
Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:
- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như
thế.
Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.
Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì
nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt
thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi.
Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một
ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:
- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.
Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi
về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?
Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm
về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa.
Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu
gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái
chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.
Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành
phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là
chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng
bội hậu cho chúng ta mà thôi.
Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng
viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ
thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta
phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi
thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội,
bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.
Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đọa thân xác, nhưng bà
trả lời:
- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì
thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.
Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầunguyện cho
ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.
Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro
bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.
Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai
yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi
vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc
về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng
dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những
ý nghĩa và tác dụng nào?
2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích
lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái
nào quan trọng hơn?
3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?
Suy tư gợi ý:
1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo
Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn
chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.
a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng
thống hối và đền tội, làm hòa với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay
nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình
(x. Gn 3,1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt
bằng cách phá hủy thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm
thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá hủy thành ấy.
b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái
- là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những
nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là
một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm
được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ
những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…
c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có
một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng
thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay
cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực
hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề
cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay
cầu nguyện» (Mt 17,21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao,
tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một
phương cách hữu hiệu.
Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời
công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết
định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được
nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.
2. Tinh thần chay tịnh
Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay
ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một
hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết
tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với
những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những
tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống
rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên
Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có
ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ
phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14,12).
Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai
thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp
với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa
mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha
của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tủy bên
trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức
Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2,13). Điều quan trọng là trở về với Thiên
Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.
Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh
thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên
ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm
công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm
thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu
trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách
ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp
đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi
là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa
thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói
buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia
cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai
mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt
nhục?» (Is 58,3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên
tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài
lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc
nhịn ăn một cách hình thức.
Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử
với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên
Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được
bỏ» (Mt 23,23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi
buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế,
khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa
phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực
thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là
tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị.
Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.
3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi
ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với
Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng
với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật
ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau
lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa
ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên
cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện
trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa
nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai
người hôn nhau để người khác chụp hình.
Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình
yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình
thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả
mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác.
Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho
người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không
thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải
đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện
diện nơi kín đáo».
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay
trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn
chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau
khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị
áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật
cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được
phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội
trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong
khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay
ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu,
Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.
Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay
cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng
công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu
nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi
sao càng sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông
chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng
ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời
càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước.
Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu
không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi
lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám
uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày. Thày ẩn tu len
lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình.
Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao
xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho
xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.
Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay
kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc
đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít
tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn
chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta
càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.
Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em
bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu
nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.
Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không
thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng
trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm
hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi.
Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt
Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa.
Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị
vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro
vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.
Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn
chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta
hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm
mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2
ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn
tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn.
Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người
khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em.
Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm
chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc.
Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.
Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé
lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì
xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm
hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công.
Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo
không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra
khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ
được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như
thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu
thương của Chúa.
Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều
nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể.
Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp
những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là
hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình
bác ái huynh đệ.
Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp
lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình
sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới,
giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.
Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.
Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức
này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi
muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên
đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.
Cựu ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân
thành Ni-ni-vê. Ni-ni-vê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ
lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt,
Chúa sai ngôn sứ Gio-na đến báo động. Nghe vị ngôn sứ nói Chúa sắp trừng phạt,
dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu
nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám
hối, Chúa đã tha phạt cho thành.
Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì
đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng,
chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị
chà đạp như cát bụi bên đường.
Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con
người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm
tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống
như manh áo, hôm qua còn mới còn đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành
lặn, hôm nay đã sờn rách.
Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa.
Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào
thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý
thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giô-en đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn
chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo” (Ge 2,
12b-13a).
Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi.
Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc
xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.
Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy
xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói
kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào
thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hèn. Hãy xức tro vào thói hận
thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những
mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro
vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó
tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng,
sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.
Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu
đã gắn bó với tội lỗi Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của
tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê
dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra
khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống,
rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở
thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh
vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời
ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy
nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ
nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay
con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi.
Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.