CÁC BÀI
SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B
MỤC LỤC
1. Abraham
2. Vinh quang
3. Đau khổ.
4. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
5. Sống thân mật với Chúa ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần Ngà
7. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc
8. Đức tin trong đau khổ
9. Chữ tình? – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa
11. Thế giới nào là ảo?
12. Thôi đừng đầy đọa nhau
13. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
14. Đức Tin cột trói chúng ta
15. Con yêu dấu – Lm. Vũ Đình Tường
16. Suy niệm của AM Trần Bình An
17. Một thoáng Thiên Đàng
18. Hạnh phúc thiên đàng
19. Thay đổi – Lm. Vũ Đình Tường
20. Thập Giá - Vinh Quang
21. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu
22. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
23. Ánh sáng của đức tin
24. Y phục Người trở nên rực rỡ
25. Ai hiểu được chữ tình?
26. Crux est lux – thập giá là vinh quang!
27. Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta
28. Đức Giêsu biến hình vinh quang
29. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?
30. Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?
31. Đức Giêsu hiển dung
32. Con đường Chúa và tôi đi
33. Lên núi cầu nguyện
34. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
35. Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert
36. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
37. Hãy lắng nghe – Rolland Dionne.
38. Được biến đổi hình dạng
39. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu
40. Hai khuôn mặt một tình yêu.
41. Chúa tỏ vinh quang Ngài Noel Quesson
42. Vinh quang thập giá
43. Tabor với Đức Giêsu
44. Đức tin và đau khổ
45. Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
46. Suy niệm của ‘Tin Vui Xuân Lộc’
47. Chúa biến hình
48. Sống với Chúa
49. Biến hình
50. Giây phút tột đỉnh
51. Trên đỉnh Taborê
53. Biến hình
54. Thiên Chúa về phía …
55. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
56. Đệ tam nhãn - Lm. Vincent Travers.
57. Suy Niệm của JKN
58. Tình yêu tận hiến
59. Sự hy sinh của Isaac
60. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
61. Căn tính đích thực của Chúa Giê su Noel Quesson
62. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
63. Chú giải của William Barclay.
Cũng vì thương ...Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Thử thách trong cuộc sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
Tin tưởng đón nhận thập giá Lm. Phêrô Lê văn Chính
Biến hình với Chúa Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Từ cõi chết sống lại Lm Trần Bình Trọng
Một niềm tin tưởng cậy trông Lm. Nguyễn Văn Phan
Đức Giê su biến hình trên núi Fiches Dominicales
Sứ điệp của trình thuật Học Viện Đà Lạt
Hãy lắng nghe Rolland Dionne
Theo Chúa chịu chết để được sống catholic.org.tw
1. Abraham
2. Vinh quang
3. Đau khổ.
4. Biến hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
5. Sống thân mật với Chúa ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Nhìn vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần Ngà
7. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc
8. Đức tin trong đau khổ
9. Chữ tình? – Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10. Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa
11. Thế giới nào là ảo?
12. Thôi đừng đầy đọa nhau
13. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
14. Đức Tin cột trói chúng ta
15. Con yêu dấu – Lm. Vũ Đình Tường
16. Suy niệm của AM Trần Bình An
17. Một thoáng Thiên Đàng
18. Hạnh phúc thiên đàng
19. Thay đổi – Lm. Vũ Đình Tường
20. Thập Giá - Vinh Quang
21. Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu
22. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
23. Ánh sáng của đức tin
24. Y phục Người trở nên rực rỡ
25. Ai hiểu được chữ tình?
26. Crux est lux – thập giá là vinh quang!
27. Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta
28. Đức Giêsu biến hình vinh quang
29. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?
30. Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?
31. Đức Giêsu hiển dung
32. Con đường Chúa và tôi đi
33. Lên núi cầu nguyện
34. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
35. Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert
36. Chúa Nhật 2 Mùa Chay
37. Hãy lắng nghe – Rolland Dionne.
38. Được biến đổi hình dạng
39. Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu
40. Hai khuôn mặt một tình yêu.
41. Chúa tỏ vinh quang Ngài Noel Quesson
42. Vinh quang thập giá
43. Tabor với Đức Giêsu
44. Đức tin và đau khổ
45. Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
46. Suy niệm của ‘Tin Vui Xuân Lộc’
47. Chúa biến hình
48. Sống với Chúa
49. Biến hình
50. Giây phút tột đỉnh
51. Trên đỉnh Taborê
53. Biến hình
54. Thiên Chúa về phía …
55. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
56. Đệ tam nhãn - Lm. Vincent Travers.
57. Suy Niệm của JKN
58. Tình yêu tận hiến
59. Sự hy sinh của Isaac
60. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
61. Căn tính đích thực của Chúa Giê su Noel Quesson
62. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
63. Chú giải của William Barclay.
Cũng vì thương ...Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Thử thách trong cuộc sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
Tin tưởng đón nhận thập giá Lm. Phêrô Lê văn Chính
Biến hình với Chúa Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Từ cõi chết sống lại Lm Trần Bình Trọng
Một niềm tin tưởng cậy trông Lm. Nguyễn Văn Phan
Đức Giê su biến hình trên núi Fiches Dominicales
Sứ điệp của trình thuật Học Viện Đà Lạt
Hãy lắng nghe Rolland Dionne
Theo Chúa chịu chết để được sống catholic.org.tw
1.
Abraham
Trong phần phụng vụ Lời Chúa hôm nay, có một khuôn mặt nổi bật,
đáng cho chúng ta suy nghĩ đó là khuôn mặt của Abraham.
Thực vậy, vâng lệnh Thiên Chúa, ông dẫn con lên núi để sát tế dâng
kính Ngài. Ông chấp nhận hy sinh cả cái viễn tượng tương lai của lời hứa, không
chút thắc mắc trước đòi hỏi xem ra tự mâu thuẫn với chính mình của Thiên Chúa,
Đấng đã hứa cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển, nhưng lại đòi
ông phải hy sinh người con duy nhất, giữa lúc ông và bạn ông đã già cả không
còn hy vọng sinh nở được nữa. Abraham đã biểu lộ một niềm tin yêu tuyệt đối nơi
Thiên Chúa.
Quả thực, cử chỉ của Abraham chỉ có thể hiểu nổi khi chúng ta thấy
được rằng nơi Abraham còn có một sự lựa chọn quan trọng hơn. Tuy nhiên, chúng
ta cũng thấy điều đòi hỏi nơi Abraham mới chỉ là một thử thách của Thiên Chúa
đối với ông là người được Thiên Chúa yêu thương. Cử chỉ của Abraham mới chỉ là
một hình ảnh để chuẩn bị đón nhận điều Thiên Chúa thực hiện nơi chính mình
Ngài. Điều Abraham đã chỉ thực hiện trong ý chí, nghĩa là chấp nhận thực hiện,
nhưng trong thực tế đã không thực hiện vì không cần thiết nơi Thiên Chúa, lại
đã trở thành thực tế. Đức Kitô người sẽ bị đau khổ và chết trên thập giá, chính
là người con yêu dấu của Thiên Chúa. Nói cách khác, Thiên Chúa là một người Cha
đã yêu thương con người đến độ không dung tha chính con mình, nhưng lại phó
thác con mình vì tất cả chúng ta. Đức Kitô đã thực hiện tất cả những gì mà
Abraham và Isaac ngày xưa đã tượng trưng.
Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao? Nhìn vào đời sống đức tin,
chúng ta thấy không phải lúc nào chúng ta cũng cảm thấy sốt sắng, không phải
lúc nào chúng ta cũng cảm thấy được ủi an, không phải lúc nào chúng ta cũng cảm
thấy Chúa thật gần gũi, trái lại nhiều khi đức tin của chúng ta cũng đã bị thử
thách. Vì trung thành với lệnh truyền của Thiên Chúa mà Abraham đã xứng đáng
trở thành cha của những người có đức tin. Vì vâng phục thánh ý Chúa Cha, chấp
nhận cái chết trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã đem lại cho chúng ta nguồn suối
ơn cứu độ. Với chúng ta cũng thế. Giữa những gian nguy thử thách gặp phải, noi
gương bắt chước Abraham, chúng ta hãy vững tin nơi tình thương của Chúa. Đồng
thời noi gương bắt chước Chúa Giêsu, chúng ta dám chấp nhận những hy sinh gian
khổ vì đức tin. Bây giờ không còn phải là thời dám can đảm chịu chết vì đạo, mà
là thời dám can đảm sống đạo, sống niềm tin của mình. Chính nhờ những hy sinh
trong cuộc sống thường ngày, mà đức tin của chúng ta sẽ trở nên kiên vững, và
hơn thế nữa, chúng ta sẽ góp được cái phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức
Kitô, để nhờ đó mà chúng ta sẽ lãnh nhận được ơn Chúa cứu độ.
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều đặt biến cố Chúa Giêsu biến hình vào
giữa hai lần loan báo trước về cuộc khổ nạn. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó
cho chúng ta hiểu rằng: Cuộc biến hình này có liên quan trực tiếp tới biến cố
vượt qua và như vậy có nghĩa là vinh quang mà ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan
được chứng kiến trên đỉnh Taborê hôm nay, báo trước vinh quang phục sinh của
Ngài mai sau.
Tuy nhiên, cuộc biến hình này, mới chỉ là sự thay đổi hình dạng
bên ngoài, đặc biệt là sự thay đổi màu áo, mà theo thánh Macrô, trở nên trắng
tinh, không có thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Còn trong mầu
nhiệm phục sinh, Đức Kitô không phải chỉ thay hình đổi dạng, mà Ngài hoàn toàn
đổi mới. Thân xác phục sinh của Ngài là thân xác “có thần khí.” Bởi đó mà Ngài
có thể đi qua mọi cửa nhà đóng kín, hay có thể bất thần xuất hiện trên đường
Emmau, rồi ngay sau đó lại xuất hiện tại Giêrusalem. Chính với thần khí đó, mà
hôm nay Đức Kitô hiện diện trong Giáo Hội, trong thế giới và trong tâm hồn mỗi
người tín hữu của Ngài.
Nhưng điều đáng cho chúng ta suy niệm, đó là không một sự biến hình
nào mà lại không đòi hỏi một sự trả giá. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Ngài
đã hai lần nhắc đến quy luật này: Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong
vinh quang của Ngài. Ở đây, với sự kiện biến hình, Ngài cũng nói với các môn
đệ: Có lời chép về Con Người rằng Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê.
Vậy thì đã rõ, mục đích của cuộc biến hình này chính là giáo dục đức tin cho
các môn đệ. Cũng như Chúa đã báo trước cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau
khổ và chịu chết, thì bây giờ Ngài cũng cho các ông thấy trước vinh quang phục
sinh của Ngài.
Thật vậy, khác với sự mong đợi của nhiều người và của chính các
môn đệ, là Đức Kitô sẽ thiết lập một vương quốc trần gian, nối nghiệp vương đế
của nhà Đavít, Ngài khẳng định rằng Nước của Ngài không thuộc về thế gian này
và Ngài đến không phải để được hầu hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống
mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Cái chết của Ngài là một sự dâng hiến,
chứ không phải là một thất bại, đó là một sự hy sinh tự nguyện, để rồi chính Ngài
có quyền phục hồi lại được. Đó là lý do tại sao Ngài đã ba lần báo trước về
cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài.
Từ đó chúng ta đi đến kết luật đó là đừng bao giờ chờ đợi một cuộc
chiến thắng mà không phải trả giá, chờ đợi một sự thành công mà không đòi đổ mồ
hôi, nước mắt và gian khổ. Nhưng trái lại, cũng đừng bao giờ bi quan thất vọng
mỗi khi gặp phải gian nan thử thách. Chúa mời gọi chúng ta hãy vác thánh giá
mình mà đi theo Ngài, nhưng không phải với bộ mặt đưa đám hay với những rên
xiết thở than, nhưng với bộ mặt cương quyết rắn rỏi, với thái độ hiên ngang vì
tin tưởng vào lời Ngài đã nói: Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn
khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian.
Việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết, hay nói một cách khác,
mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp
phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi đối với dân ngoại. Chính vì thế mà
Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm
ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ
Abraham sát tế người con duy nhất của mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu
dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với
ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc, đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn
tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi
là kẻ công chính, còn Isaac con ông thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với
chúng ta. Thực vậy sự công bình và lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã
đòi Chúa làm một việc tương tự như Abraham, đó là không dung tha con mình,
nhưng phó thác con mình cho tất cả chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà
Abraham vẫn được kể là kẻ công chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã
chết thực sự, nhưng sau đó Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công
trình cứu độ nhân loại và đã trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng
vừa nghe chính vì muốn để cho các môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy
mình bị đau khổ và chịu chết một cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã
tỏ lộ phần nào vinh quang của Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta
sẽ thấy ba môn đệ được Chúa đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn
đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi
biến cố, dù vui hay buồn, cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng
ta tiến sâu trong tình thân với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự
kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ
lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời
sống thường ngày cũng vậy, đứng trước những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay
vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi, chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của
nó, khó mà khám phá ra được tình thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng,
chúng ta hãy kiên tâm bền chí, trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa,
trong đời sống và trong hành động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim
của chúng ta. Hãy biết tìm ra thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng
ngày, nhất là nơi những đau thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường
lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục
sinh.
Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng
nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây
phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu
biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn
luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên núi.
Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế
lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt
bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho
bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn
đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ
thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì
gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình
thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn.
Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong
thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho
ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc
Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng.
Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi
ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng
láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn
che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với
Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua
đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác
khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự
bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của
Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn
ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng
thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên
giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn
lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa
cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật
ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ
trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh
giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ
còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó
khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí
thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc
như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút
dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự
thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh
tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa
trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn
nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người.
Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố
gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn
bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là
sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ
trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua
rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với
Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như
thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có
dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin
uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp
bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong
tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó
không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ
chưa?
4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm
gì để thực hiện ước nguyện đó?
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không
bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của
Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người
Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình
yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của
Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba
môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không
thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là
mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người,
muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao.
Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân
mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại
sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp
gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa
là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều
về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba
Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao
tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn
mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống
thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể
tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức
Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô
cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi,
không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một
buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh
Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ,
đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được chúng
ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta”
(Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta
hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình
yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương
ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua
hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu
thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu
nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu.” Chương
trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái
chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta
hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là
cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn.
Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân.
Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc
mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy
mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái
nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên
Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ
nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình
yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường
Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng
ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với
Chúa không?
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt
phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu…
Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem
để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi
bên tả, bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc
mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số
phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phêrô kéo riêng Chúa
Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ
mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành
vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi
theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình
dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ
nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông
Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.”
Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phêrô thưa với
Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin
dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”
“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán
rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”
Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút
vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa
Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt
phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn
Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu
các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu
bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn
sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin
cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người
trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu
hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu
độ?
Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua
việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy
Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi
sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt
sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ
thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt
trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó,
thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ
chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời
của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.
Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt
sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn
xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt
sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất
vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc
vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với
thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho
chúng ta trong tương quan với người khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương
thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu
điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương
quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với
nhau sẽ hạnh phúc hơn.
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm
và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất
khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc.” Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của
vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần
kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ
của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng
người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng
tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai
mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc
người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.
***
Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ
nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc
đường, thì Đức giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc
đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con
được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê
và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường
trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới
chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang
khao khát Lời Chúa.
Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc
lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là
lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn
dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như
tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ
không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy
cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ
chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở
nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến
hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi
trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.
Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ
hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập
giá đỉnh Golgotha.
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là
con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo
Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh
Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê.” Thánh Bernadette cầu
nguyện: “Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ
con trong khổ đau.”
***
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời
chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình
an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh
quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Áp-ra-ham trong bài đọc
một. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một
người con trai. Đó là người con duy nhất của Áp-ra-ham với vợ chính là Sa-ra,
lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Áp-ra-ham và
Sa-ra, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin của
Áp-ra-ham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu.
Tất nhiên Áp-ra-ham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy
của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã
nhận "lòng tôn kính và tin yêu" của Áp-ra-ham, vì đã không tiếc một
thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho
ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết
bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác
và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở
lại câu chuyện của Áp-ra-ham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương
tâm của người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết
lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững
lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp
hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn
chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên
Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà
Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có
thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị
mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận
và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong
đau khổ thật sâu xa, đó là "Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra
cửa sổ.” Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ,
không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên
Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử
thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở cửa sổ,
mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta,
khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta
gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa bệnh. Thiên Chúa đóng kín cửa chính
khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng Ngài mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng
ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc
đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân,
thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau...
Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người,
nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt
đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực
mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để
mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta
sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người
chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa
chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt
đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta
đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải
cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng
và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: "Chạy trời không khỏi nắng", nghĩa
là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ luỵ của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của
ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn.
Vậy đau khổ có giá trị không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho
đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế,
những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng
đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự
cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu
nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh
nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho.”
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng
thường tình, vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi?
Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải,
không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình
bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận
tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý,
nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác
tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều.
Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn
tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, nói cách khác là ăn năn tội
cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách
trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của
Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng
điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một
yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn
thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22, 2). Được hiểu như là lệnh
truyền của Thiên Chúa, nhưng thật ra đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho
Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn
khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là
chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và
lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý,
mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát
ngoài bãi biển.” Tình yêu thật diệu kỳ. Một lẽ như nhiên, vì “Thiên Chúa là Tình
Yêu” (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là
Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa
lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một
khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng
rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình
trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo
là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh
cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào
cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga
15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là
một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự
hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh
chứng khả tín.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội
phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên
Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình
Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới.”
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi
đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã
chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của
nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều,
chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên
chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và
nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn
là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì
Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng
ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”(Mc 9,5). Sao
chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không
biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên
tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.
“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng
ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây:
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã
yêu thương anh em” (Ga 14,24). “ Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa
chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho
anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả
những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho
người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại
trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết
yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối
hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và
vươn lên.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Người xưa có câu: "chọn mặt gửi vàng.” Nghĩa là để tin tưởng
một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có
đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì "Sông sâu
còn có kẻ dò - Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.”
Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự
đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng - trưa - chiều - tối,
còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện
tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể
đóng kịch đến mức độ "nói vậy mà không phải vậy.” Có ai đó nói không ngoa
rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối
nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền
lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm;
có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì,
nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát.
Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong
truyện của Nam Cao.Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị
dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với
mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta
tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một
cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất
xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật
rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của
nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho
Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo
cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho
Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức
về sự lương thiện của bản thân mình.
Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh
giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như
Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế
nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao
ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác
của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về
con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất.
Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy
đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con
người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của
mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không
ngừng toả sáng bản chất của mình là "nhân linh ư vạn vật.”
Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa.
Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính
giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con
người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu
thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của
con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có
những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có
thể là những con người có "duyện lặn vào trong" dầu rằng bên ngoài
chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho
dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô
thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm
mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng
ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt
và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin
nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao
quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự
sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều
được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giêsu Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài
không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại
trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết
Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn
biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời
gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống
trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình.
Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng,
bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người
không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể
xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải
hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự
thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh
Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình
thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình
là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh
tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng
Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo
ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau
qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người
sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra
khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà
họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất
nhiều người oan gia vì quá tin người.
Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người
thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn
cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông
sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò.” Thế giới thật vẫn
còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt
như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân
thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài
giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.
Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế.
Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã,
lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta.” Sống thật mới đem lại
niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể
khổ trần gian.
Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một
người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế
nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là
người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường
để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng
gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là
việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.
Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của
Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền
năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô
đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan
Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3
lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a.” Phúc âm bảo rằng, ông nói
nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển
linh của Thầy.
Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật
với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương
không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả
kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm
thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này
nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau.”
Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha
nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật
sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần
nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài
thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu
nổi mới nghĩ ra cách báo thù.
Một lần kia nó nói với sư tử rằng:
- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh
lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt
với nó.” Thằng cha này không coi ai ra gì cả!
Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”
- Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng
lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.
Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.
Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và
bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!
Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả
thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó.
Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên
tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm
dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho
thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình
dưới giếng sâu...
Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé
chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn
sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.
Con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đáng tiếc là nhiều người
đã không nhận ra điều đó. Họ không nhận ra hình ảnh mình nơi tha nhân để có thể
yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đòi được tôn vinh, được bá chủ nên sẵn sàng
cắn xé chính đồng loại của mình.
Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi
những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường
phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy
ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có
thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như
lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy
lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng
môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm... Thậm chí trong hai tháng vừa qua có đến
3 vụ vào tận bệnh viện Thống Nhất để thanh toán cả những người đang nằm cấp
cứu!
Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và
tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này?
Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ
ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?
Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của
Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với
nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không
đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm
nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ
trò để loại trừ đồng loại.
Hôm nay, Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật
của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che
phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là
Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm
ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung
nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng
ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong
lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên
Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh
tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với
chúng ta.
Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của
tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản
thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình
ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp
của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm
giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá
con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một
chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của
mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.
Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm
hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp
nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.
Thưa Quý ông bà anh chị em! Năm nào cũng vậy, cứ đúng vào ngày
Chúa nhật thứ hai Mùa chay, là Giáo hội cho chúng ta đọc lại câu chuyện Đức
Giêsu biến hình trên núi Ta-bor. Sự kiện này xảy ra sau khi Đức Giêsu tiết lộ
cho các môn đệ của mình biết về chương trình mà Đấng Kitô con Thiên Chúa, sẽ
phải thực hiện để mang lại ơn cứu rỗi cho tất cả mọi người. Sự kiện ấy được
Thánh Marcô thuật lại như thế này: Cũng như mọi khi, Đức Giêsu vẫn thường lên
núi cầu nguyện. Thế nhưng lần này, Người đem theo ba đồ đệ thân tín nhất của
mình, đó là Phêrô, Gioan và Giacôbê. Đang khi cầu nguyện thì dung mạo của Người
biến đổi khác thường: Khuôn mặt sáng chói như mặt trời, áo Người trở nên trắng
như tuyết, trắng đến độ mà không có một thợ giặt nào trên trần gian này có thể
làm được như thế. Đồng thời, bên cạnh Người còn có hai nhân vật nổi tiếng thời
Cựu ước là Môisen và Elia. Hai vị này cũng sáng láng vinh hiển giống như vậy.
Phêrô và hai môn đệ kia nhìn thấy cảnh tượng này thì lấy làm vui mừng sung
sướng: "Lạy Thầy! Nếu chúng con được ở mãi tại nơi này thì tốt quá.” Thế
nhưng Đức Giêsu đã bác bỏ lời đề nghị ấy; Bởi vì Người còn phải trở xuống núi
để hoàn tất con đường mà Người đã khởi sự từ lúc nhập thể đi vào cuộc đời này.
Vấn đề được đặt ra ở đây là tại sao Chúa Giêsu muốn thực hiện cuộc
hiển dung có thể nói là đầy ngoạn mục như thế trước mặt các môn đệ của mình?
Đọc lại những đoạn Phúc âm trước đó, chúng ta sẽ nhìn thấy dược hai lý do này.
Trước hết là không chỉ riêng gì mười hai môn đệ, mà hầu hết những người Do thái
lúc bấy giờ, đều không nhận ra, hay đúng hơn là không muốn nhận ra Đức Giêsu là
Con thiên Chúa, là Thiên Chúa thật; Mặc dù họ đã nghe không biết là bao nhiêu
những điều hay lẽ phải, đã chứng kiến rất nhiều những phép lạ mà Người đã làm.
Chính vì thế mà hôm nay đây, qua sự kiện này, Chúa muốn cho họ, ít ra là những
môn đệ của mình, nhìn thấy được sự thật về Người. Người chính là Thiên Chúa
thật, đang muốn đưa tay cứu vớt mọi người, chứ không phải là Elia, Giêrêmia hay
bất kỳ một vị tiên tri nào khác.
Lý do thứ hai là qua sự kiện này, chúa muốn củng cố niềm tin cho
các đồ đệ của mình. Theo Chúa bấy lâu nay, dường như các ông muốn mình đạt được
một cái gì đó để làm rạng rỡ gia đình dòng họ. Chính vì thế mà liền sau khi Đức
Giêsu tiên báo về cuộc khổ nạn mà Người sắp phải chịu, thì Phêrô như thể là
thay mặt cho anh em nhóm mười hai của mình, ngăn cản Chúa Giêsu. Các ông hoàn
toàn không muốn Thầy của mình phải bước vào con đường đó; Bởi vì đó là con đường
của đau khổ, con đường của thất bại. Và nếu như Chúa Giêsu thất bại, thì cũng
có nghĩa là những ước mơ, những hy vọng của họ bị tiêu tan. Hiểu được tâm trạng
đó, Chúa Giêsu mang họ lên núi, tỏ cho họ thấy một chút vinh quang để cho họ
hiểu được rằng: Muốn đạt tới vinh quang, thì phải đi trên con đường thập giá.
Muốn có được hạnh phúc, thì phải bước qua con đường của sự đau khổ. Không muốn
bước trên con đường thập giá, ngại ngùng đi trên đường đau khổ, thì Chúa Giêsu
đã nói trước: "không thể làm môn đệ Ta được.”
Thưa anh chị em! Sống trong kiếp làm người, ai ai cũng đã từng có
những niềm vui, có những hạnh phúc bất ngờ; Nhưng rồi cũng không thiếu vắng
những nỗi buồn đau xót, những gian nan khổ cực, những điều mà mình phải đón
nhận bằng cay đắng xót xa, bằng tủi buồn nhục nhã. Nói khác đi là đau khổ gắn
liền với thân phận của con người, nên người ta mới có câu: "Hữu sinh hữu
khổ" là như thế. Chúa Giêsu đến trần gian này không phải là để cất đi
những đau khổ đó. Và cũng vậy, việc chúng ta sống làm con cái Chúa, cũng chẳng
phải là để miễn chuẩn cho mình thoát khỏi những vất vã nhọc nhằn trong cuộc
sống hiện tại. Nếu như năm xưa, Chúa đã khích lệ Phêrô và các môn đệ của mình,
hãy mạnh dạn bước trên con thập giá để trở thành nhân chứng phúc âm cho Người,
thì hôm nay, Người cũng mở ra cho chúng ta một niềm tin vững mạnh, một niềm hy
vọng sâu sắc khi chúng ta phải đối diện với những nghịch cảnh, với những gian
nan trắc trở trong cuộc sống đời thường. Nghĩa là chúng ta cũng sẽ được vinh
hiển sáng láng giống như Chúa khi mình sẵn sàng vác lấy thập giá của cuộc đời
mình mà trung thành bước theo Chúa trong đời sống đạo hàng ngày.
Tất cả chúng ta đều biết rằng: Đau khổ tự nó là một điều xấu và
không có giá trị gì cả. Tuy nhiên, điều làm cho những đau khổ trở thành ích lợi
cho mình chính là cách thức mà chúng ta xử lý nó. Chúng ta chối bỏ trốn tránh
nó, nó sẽ trở nên chua chát nặng nề hơn. Còn ngược lại, chúng ta đối diện với
nó như thể nó là một phận của đời sống mình, thì nó sẽ trở nên nhẹ nhàng và làm
cho mình khiêm tốn và khôn ngoan hơn. Ước mong rằng: Mỗi Thánh lễ mà chúng ta
tham dự, đều thật sự là một cuộc lên núi với Chúa, để nhờ đó mà chúng ta có đủ
sức mạnh sống trọn vẹn cuộc đời Kitô hữu của mình. Chúng ta nên nhớ rằng: Mỗi
người một thập giá và mỗi ngày một thập giá, nhưng không có một thập giá nào
nặng hơn đôi vai của chúng ta; Đó là điều mà Chúa đã trả lời với Phaolô khi
ngài than vãn về những khốn khó trong cuộc đời của mình: "Ơn Ta đủ cho con.”
Và thưa anh chị em! Sẵn lòng đón nhận những đắng cay khổ nhọc trong cuộc đời
như là một thập giá riêng của mình, đó chính là một trong những phương cách hữu
hiệu để chúng ta sống tinh thần của Mùa chay thánh này.
(Peter Feldmeier - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người (Mc 9,7)
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dường như có vẻ thách đố chúng ta.
Bài đọc thứ nhất kể lại câu truyện Chúa nói với Abraham hãy đem Isaac con của
ông lên núi để sát tế. Abraham đã tuân theo chỉ lệnh của Chúa. Isaac chẳng nghi
ngờ gì, đã cùng với cha bắt đầu cuộc hành trình. Hai cha con đi suốt ba ngày
đường trèo lên núi cao. Đến nơi, Abraham cột trói Isaac lại, và đang dự định
giết con để tế lễ. Khi ông toan tính làm như thế, một sứ thần đã hiện ra và cầm
giữ tay ông lại. Thần sứ nói với ông rằng Thiên Chúa rất hài lòng vì ông đã
vâng lời Ngài: “Vì ngươi đã vâng phục Ta, không tiếc đứa con trai thừa tự duy
nhất mà ngươi rất quý mến, nên Ta sẽ chúc lành cho ngươi và hứa cho dòng giống
ngươi trở nên đông đúc.”
Chúng ta phải đọc câu truyện trên đây dưới lăng kính truyền thống
Do Thái giáo và cả truyền thống Kitô giáo. Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau,
nhưng những diễn giải dường như vẫn chưa lột tả được trọn vẹn ý nghĩa sâu xa
của bản văn. Một số nhà chú giải sánh ví Thiên Chúa như một vị thần chuyên thử
thách. Họ còn đặt vấn đề xa hơn, liệu Thiên Chúa còn thử thách Abraham đến mức
độ nào, khi truyền lệnh cho ông cầm dao giết đứa con ruột của mình? Một số khác
lại đọc thoáng qua câu truyện và tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại ra một lệnh
truyền quái ác và nghịch thường như vậy, vì người Do Thái không bao giờ được
phép giết con mình để tế thần, không giống như các dân ngoại vẫn thường làm.
Triết gia Kieerkegard lại có một cái nhìn khác khi ông kết luận “Đức tin nếu
chỉ khởi phát từ một ý thức thuần mang tính luân lý với sự vâng lời tối mặt,
thì đó chỉ là đức tin mù quáng và xuẩn ngốc’’. Cả ba nhận định trên đây đều
phiếm diện và không thấu triệt tường tận câu truyện mà Kinh thánh trình bày.
Cách lý giải thứ nhất chỉ phác vẽ Thiên Chúa như một Đấng cao ngạo ở tít trên
cao, thích thử thách con người, đến mức độ cách hành xử của Ngài giống hệt một
cuộc tra tấn hay khủng bố. Về cách giải thích thứ hai, chúng ta cũng thấy không
hơp lý chút nào. Câu truyện quả thực không hề muốn nêu lên sự tương phản giữa
đức tin và luân lý. Tôi cũng muốn nói rằng, chúng ta đừng xem đức tin như một
thái độ mù quáng và ngốc ngếch, vì đức tin và lý trí không hề đối kháng hay
loại trừ nhau. Abraham đã không mù quáng khi thực thi điều Chúa muốn như nhiều
người lầm tưởng. Ngày nay, nếu có ai ra lệnh cho chúng ta là phải dùng dao giết
con, thì chắc chắn chúng ta sẽ gọi cảnh sát ngay lập tức. Thiên Chúa của chúng
ta không độc ác như thế đâu.
Thế thì câu truyện trên muốn nói cho chúng ta điều gì? Chúng ta
hãy đan nối với truyền thống Do Thái giáo để hiểu nội dung một cách sâu xa hơn.
Vấn đề ở đây không phải là Abraham có ý định sát tế Isaac, nhưng ông chỉ muốn
tuân hành ý Chúa cách triệt để. Ông cột trói Isaac và hiến dâng cho Chúa, không
hề tiếc nuối và giữ lại cho mình. Đây là một thái độ vâng phục trọn vẹn trong
đức tin. Qua hình tượng Isaac, tổ phụ Abraham đã trói buộc mình và dòng dõi của
mình vào chính Thiên Chúa và vào lời hứa của Ngài. Hành động này không phải là
nhằm giải quyết công việc trước mắt, cụ thể là việc giết đứa con đặt lên bàn để
tế lễ. Nhưng động thái của tổ phụ Abraham mang chiều kích linh thánh, một hành
vi biểu tỏ đức tin, và dẫn đưa đến một chân trời rộng mở hơn, đó là chân trời
của lời hứa.
Bài học ở đây, là khi chúng ta biểu tỏ đức tin, chúng ta cột trói
mình (như Abraham cột trói Isaac) vào với Thiên Chúa, tự nguyện “trao nộp”chính
chúng ta trong bàn tay của Thiên Chúa, thì đáp lại, Thiên Chúa cũng sẽ trói
buộc Ngài trong giao ước với chúng ta, và Ngài sẽ hiến trao tất cả cho chúng
ta, vì Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước mà Ngài đã cam kết.
Đây là sự cột trói song phương, giữa chúng ta và Thiên Chúa.
Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng gợi mở cho chúng ta am
tường về sự trói buộc lưỡng chiều này. Thánh nhân viết “ Nếu Thiên Chúa bênh đỡ
chúng ta, ai còn có thể chống lại được chúng ta” (Rm 8, 31b). Tiếp nối suy tư
này, Thánh Phaolô tiếp tục đưa dẫn chúng ta đến một bản hòa điệu song đối với
những câu hỏi và những thách đố được gợi ra. Ngài viết: “Vì tôi thâm tín rằng,
dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương
lai hoặc bất cứ sức mạnh nào,… không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến
của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Rm 8,38-39). Đây là hình mẫu
sự cột trói thâm sâu giữa chúng ta và tình yêu Thiên Chúa.
Bài Tin mừng hôm nay dẫn mời chúng ta thông dự vào cuộc biến hình
của Đức Giêsu. Ở trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã mục kích
vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài đàm đạo với Môisê và Elia. Hai vị ấy là biểu
thị cho lề luật và các ngôn sứ, như được nhắc đến trong lời kinh tổng nguyện
của phụng vụ hôm nay. Tuy nhiên cả hai vị này đều có liên hệ đến những biến cố
rất ý nghĩa trong cựu ước. Môise và Êlia đều đã tiếp cận trực tiếp Đức Chúa
Giavê trên núi Sinai (Xh 24,1,19). Đồng thời, cả hai ông đều gợi nhắc về Đấng
Messia, Đấng sẽ đến cứu chuộc dân người. Êlia được đặc cách để tiên báo về đấng
Messia và ông cũng chính là người dọn tâm hồn cho dân chúng trước khi ngày của
Đức Chúa khởi sự (Mal 3,23). Còn ông Môisê, vào thời của Chúa Giêsu, người ta
vẫn có truyền thống xem ông, giống như vai trò của Êlia, người đã đạt đến sự
viên toàn của sự đợi chờ Đấng Mesia ở trên nước trời. Vì thế, giây phút Chúa
biến hình trên núi Tabor, cũng mang chở một chiều kích cánh chung, và tiên báo
sự viên thành giao ước mà Chúa đã ký kết trên núi Sinai năm xưa.
Ba môn đệ đã nghe tiếng Chúa Cha từ trong đám mây “Đây là con yêu
dấu của ta, hãy nghe lời Người.” Cả ba ông đã chứng kiến giây phút viên toàn
của lịch sử, lúc Đức Giêsu vén mở vinh quang chiến thắng của Ngài. Đó là những
khoảnh khắc các ông được thông dự trước vào sự tròn đầy của sự thực hiện lời
Thiên Chúa hứa. Nhưng liền ngay sau đó, các ông phải trở về đối mặt với cuộc
sống đời thường. Từ trên núi xuống, chỉ còn lại duy nhất một mình Đức Giêsu,
một Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang sống kiếp tăm tối của thân phận
con người như chúng ta, và vinh quang chói ngời trên núi Tabor vẫn còn đang bị
che dấu. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng phải
cột trói và hiến dâng bản thân, để trao dâng cho Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa
nhưng mang trên vai những bầm dập và khổ đau trong phận người. Chúng ta cột
trói vào Ngài, hiến dâng cho Ngài, có nghĩa là chúng ta phải cùng với Ngài đi
lên Giêrusalem để được sát tế. Hơn nữa, như thánh Phaolô gợi nhắc, chúng ta
phải cột trói vào Ngài giữa những cay đắng và bi thương trong cuộc sống hiện
sinh hôm nay. Chúng ta diễn tả động thái đức tin, bằng cách trói buộc vào Đức
Giêsu, bởi vì chính Ngài cũng đã tự trói buộc vào thân phận con người của chúng
ta, đã tự nguyện tiến nhận cái chết để cho chúng ta được ơn giải cứu.
Cuộc biến hình của Đức Giêsu trên đỉnh núi Tabor vén mở để cho
chúng ta cảm thấu được uy quyền, hiểu biết về sứ mạng và nhận ra bản tính đích
thực của Đấng là Thiên Chúa – Người, là chính Đức Giêsu. Cuộc hành trình đức
tin của chúng ta cũng sẽ khởi đầu và kết thúc cùng với Ngài, bởi vì trong cuộc
lữ hành đó, chúng ta sẽ mãi mãi gắn kết và buộc trói chúng ta vào với Ngài.
Mỗi lần Chúa Cha nhắc đến tình yêu Cha Con dành nhau ta thấy tình
yêu đó luôn thể hiện không phải bằng ngôn từ không mà luôn kèm theo sứ mạng của
Tin Mừng. Sứ mạng đó được thể hiện qua hành động cụ thể. Sứ mạng Chúa Con tự
nguyện lãnh nhận ngay sau khi Đức Kitô lãnh nhận phép thanh tẩy từ Joan đó là
công khai rao giảng về nước trời.
Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về
Con
Liền sau đó Đức Kitô tiến vào hoang địa và ở đó bốn mươi ngày ăn
chay, cầu nguyện chuẩn bị cho chương trình rao giảng công khai về nước Thiên
Chúa đã đến gần.
Ngày biến hình trên núi thánh có sự hiện diện của ba tông đồ
Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba đều chứng kiến cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và
tổ phụ Môisen và tiên tri Elia. Cuộc đàm thoại bị gián đoạn khi các ông nghe
tiếng Chúa Cha vang vọng như tiếng sấm phán
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài
Các tông đồ được chiêm ngắm ít nhiều về cuộc sống tương lai và các
ông vui mừng muốn ở lại trên núi thánh nhưng Đức Kitô có chương trình Ngài cần
thực hiện nên Thầy trò xuống núi. Sự hiện hữu của các tổ phụ trên núi thánh xác
nhận một niềm tin. Niềm tin đó chính là có sự sống đời sau. Đối với nhân loại
các tổ phụ đã chết nhiều năm trước, mộ các ngài còn nằm kia nhưng sao các ngài
đang sống, hiện diện trên núi thánh xác nhận các ngài đang an vui sống gần
Chúa. Nhắc đến tổ phụ Môisen là nhắc đến hành trình bốn mươi năm, vượt sa mạc
dẫn dân Chúa chọn về Đất Hứa. Môisen dưới sự hướng dẫn, bảo bọc của Thiên Chúa
đã vượt qua ngàn trùng gian khổ, dẫn dân Chúa chọn vượt Biển Đỏ, giải thoát họ
khỏi ách nô lệ của Pharaô tiến vào Đất Hứa. Tiên Tri Elia cũng có sứ mạng vất
vả không kém. Elia đặt trọn niềm tin vào lời Chúa làm tròn sứ mạng trong lo âu,
sợ hãi cho sự sống còn của chính ông. Vua Ahab làm vua vùng phía bắc xứ Israel
từ 874-853 BC. Ông nghe lời vợ là Jezebel thờ tà thần Baal. Thiên Chúa sai tiên
tri Elia báo cho vua biết nếu không thống hối ông và toàn dân sẽ bị phạt. Vua
Ahab đã không thống hối còn tìm các giết Elia. Nhà tiên tri phải trốn nơi hoang
địa và Thiên Chúa cứu ông khỏi tai hoạ và giúp ông hoàn thành điều Thiên Chúa
sai phán. (Muốn biết thêm chi tiết mời đọc số một, Sách các Vua chương 17-22).
Tiếng phán ra của Chúa Cha từ trong đám mây là bằng chứng rõ ràng
khác cho thấy Thiên Chúa hằng sống luôn đồng hành với Đức Kitô. Những sáng sớm
Đức Kitô tìm nơi thanh vắng cầu nguyện chính là Ngài đàm đạo cùng Chúa Cha.
Sứ mạng xuống núi của Đức Kitô là mang lại ơn cứu độ cho nhân
loại. Một sứ mạng đầy đau thương, nhiều nước mắt và cuối cùng là chết trong cô
đơn, trên thập giá, nơi đồi vắng. Một kiểu hoang địa mà khi nghe đến ai cũng
cảm thấy chân tay run rẩy, toàn thân rùng rợn. Đức Kitô đi trọn con đường đó và
sau ba ngày chôn trong mộ Ngài sống lại vinh quang.
Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết người ta mới nhận ra sức
mạnh vô song và vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa. Sức mạnh đó mạnh hơn sự
chết và vinh quang đó sáng tỏ hơn mặt trời chiếu sáng. Điều này cho thấy có sự
liên kết giữa biến hình và sự sống trường sinh. Để có sự sống trường sinh cần
có biến hình. Để được biến hình lại cần hoàn thành sứ mạng trao phó. Để hoàn
thành sứ mạng trao phó cần đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Đặt trọn niềm tin
vào Đức Kitô sẽ được vinh thăng sống muôn đời kề cận vinh quang Thiên Chúa,
nhận cùng lời Chúa phán trên núi thánh.
Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.
Cùng đăng sơn, cùng hạ sơn
Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, Lm. Jose Maniyangat
đi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ thuộc điểm truyền giáo ở phía Bắc Kerala và bị
một tai nạn chí tử. Ngài thuật lại sau này: Tôi đang lái xe gắn máy, thì bị đâm
đầu vào một chiếc xe jeep do một người đàn ông say khướt sau một lễ hội Ấn
giáo, điều khiển. Tôi được đưa gấp vào bệnh viện cách đó khoảng 35 dặm. Trên
đường đi, linh hồn tôi lìa khỏi xác và tôi đã cảm nghiệm cái chết. Tức khắc,
tôi gặp Thiên Thần Hộ Thủ của tôi. Tôi nhìn thấy thân thể mình và những người
đến mang tôi vào bệnh viện. Tôi nghe họ khóc và cầu nguyện cho tôi. Vào lúc ấy
thiên thần của tôi nói với tôi: ”Ta đến đem người vào thiên đàng, Chúa Giêsu
muốn gặp người và nói chuyện với người.” Thiên thần cũng cho biết rằng dọc
đường Ngài muốn chỉ cho tôi thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục...
Kế đó, thiên thần của tôi hộ tống tôi tới Thiên Đàng đi qua một
hầm màu trắng lớn sáng chói loà. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự an bình và
niềm vui như thế nầy trong đời. Thiên Đàng lập tức mở ra và tôi nghe tiếng nhạc
mê ly nhất mà tôi chưa từng được nghe trước đây. Các thiên thần ca hát và ngợi
khen Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy tất cả các thánh, đặc biệt là Mẹ Maria và Thánh
Giuse,và rất nhiều giám mục và linh mục thánh thiện đang lấp lánh sáng như
những vì sao. Và khi tôi xuất hiện trước Người, thì Chúa Giêsu nói với tôi: ”Ta
muốn con về lại thế gian. Trong cuộc sống lần thứ hai của con, con sẽ nói bằng
một ngôn ngữ nước ngoài. Mọi thứ đều có thể xảy đến cho con với ân sủng Ta
ban...” Sau những lời nầy, Đức Maria nói với tôi: ”Hãy làm bất cứ điều gì Người
nói với con. Mẹ sẽ giúp con trong các thừa tác vụ của con.” Lời nói không thể
diễn tả hết vẻ đẹp của Thiên Đàng. Ở đó chúng ta tìm thấy được an bình và hạnh
phúc nhiều dường nào, vượt qúa một triệu lần trí tưởng tượng của chúng ta. Chúa
Giêsu đẹp đẽ vượt xa hơn bất cứ hình ảnh nào có thể mô tả. Dung nhan Người rạng
ngời và toả sáng và rực rỡ hơn ngàn vạn mặt trời đang mọc. Những bức hoạ chúng
ta nhìn thấy trên thế giới chỉ là cái bóng vẻ lộng lẫy uy phong của Người. Đức
Mẹ ở bên Chúa Giêsu, Mẹ rất tươi đẹp và rạng rỡ. Không một hình ảnh nào chúng
ta gặp trên thế gian có thể sánh với vẻ đẹp thực sự của Mẹ. Thiên Đàng là nhà
thực sự của chúng ta; tất cả chúng ta được kêu gọi phải đạt tới Thiên Đàng và
được vui hưởng Thiên Chúa muôn đời. Sau đó, tôi cùng với Thiên Thần trở về thế
gian... (Jn. M. Vũ Sơn Bảo dịch theo Ingodscompany)
Cảm nhận ngây ngất về Thiên Đàng của Lm Jose Maniyangat có lẽ
tương đồng với niềm hân hoan, hạnh phúc của các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan,
khi được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor. Các ngài đã được
Người mời gọi cùng lên núi, để được mặc khải về Ngôi Lời, Con Thiên Chúa. Rồi,
lại cùng theo Người xuống núi, tiếp tục sứ mạng Đi Gieo và làm chứng nhân.
Đăng sơn
Xưa, ông Môsê lên núi Sinai để cầu nguyện và nhận lãnh 10 Điều Răn
trên núi Sinai. Còn ngôn sứ Êlia trong tâm trạng chán nản, mệt mỏi vì bị binh
lính của hòang hậu Idaven truy sát, đã nỗ lực vượt sa mạc trong 40 đêm ngày,
leo lên núi Khôrép để được Thiên Chúa an ủi, ban sức mạnh lấy lại niềm tin,
tiếp tục hăng say thi hành sứ vụ. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Các
ngài được vinh dự diện kiến Người, hội ngộ cùng ông Môsê và ngôn sứ Êlia, đại
diện cho Lề luật và Ngôn sứ. Các ông ngây ngất trước ánh sáng Ngôi Lời chan hòa
vinh hiển, cùng ao ước và khao khát được mãi mãi hạnh phúc sống bên Thiên Chúa
Tình Yêu.
Đăng sơn là lên núi là từ bỏ mọi sự, xác thịt, của cải, ham muốn,
chỉ duy nhất chọn Chúa mà thôi. Bỏ mọi sự, kể cả những vấn vương tình cảm thân
bằng quyến thuộc, cũng như từ bỏ chính bản ngã tham sân si. Dấn thân leo lên
núi Chúa có nghĩa chấp nhận gian lao thử thách, nguy hiểm, chịu khinh khi, thù
ghét, bắt bớ, hành hạ, tù đầy và tử vong.
“Ai trong anh em, không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể
làm môn đệ Tôi được.” (Lc 14, 33) Đức Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ quyết liệt, từ
người thân đến chính bản thân mình. “Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ
con, anh em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được.”(Lc
14, 26). Hơn thế, Đức Giêsu còn thêm điều kiện chấp nhận những khó khăn cơ cực
khi theo Người.“Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm
môn đệ tôi được.” (Lc 14, 27)
Khi xa lánh, dứt bỏ bụi trần, nâng hồn lên với Chúa, thì tâm hồn
người Kitô hữu được hưởng niềm hoan lạc vô song, tuyệt vời. Vì thế, các tâm hồn
các thánh luôn được nếm trải những giờ phút xuất thần, tràn ngập niềm vui, hạnh
phúc bên Chúa.
Chẳng phải lúc nào ai cũng có thể leo 1 000 bậc thang lên đỉnh núi
Tao Phùng ở Vũng Tàu, để chiêm ngưỡng tượng Chúa Kitô Vua, hoặc hiếm khi được
leo 220 bậc thang lên tượng Chúa Cứu Thế ở Rio De Janeiro, Brasil, để được hạnh
ngộ với Người. Nhưng hằng ngày, ai cũng có thể lên núi với Người qua sám hối,
ăn chay và cầu nguyện, qua tĩnh tâm, kinh hạt, suy gẫm và nhất là qua Lời Chúa
và Thánh Thể.
“Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh. Thiên Đàng không gì khác
là Thiên Chúa hiện diện.” (Đường Hy Vọng, số 242)
Hạ sơn
“Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy
vâng nghe lời Người.” (Mc 9, 7) Thiên Chúa mặc khải cho các môn đệ, cho mọi tín
hữu Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, phải tin cậy và vâng phục Người để được
cứu rỗi.
Đức Giêsu dẫn ba môn đệ tâm huyết lên núi, Người biến hình rồi lại
dẫn xuống núi nhập thế. Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Hôm sau, khi Đức Giêsu
và ba môn để ở trên núi xuống, có đám người đông đảo tới đón Người.” (Lc 9, 37)
Đăng sơn là chiều kích đầu tiên hướng lên trời với Thiên Chúa, hạ sơn chiều kích
thứ hai hướng đến, thương yệu, phục vụ tha nhân, kể cả kẻ thù.
Hạ sơn là hạ mình xuống trước mặt tha nhân. Trở nên người phục vụ
tình nguyện, noi gương Người. “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng
để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc
10, 45) Điều đầu tiên, Đức Giêsu mong đợi nơi những ai theo Người, là một tấm
lòng đơn sơ, khiêm nhường, vâng phục và yêu thương.
Hạ sơn cũng là từ bỏ con người cũ, nặng tính xác thịt, vị kỷ, kiêu
căng, tham lam, háo danh háo của, để mặc lấy con người mới, xả kỷ vị tha, canh
tân, sống theo Tin Mừng.
“Phải canh tân bao lâu? Phải luôn luôn khởi sự lại. Phải luôn luôn
tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một
bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng: dừng lại là khởi sự
thụt lùi xuống dốc, khởi sự thoái hóa.” (Đường Hy Vọng, 640 & 641)
Lạy Chúa Giêsu, kính xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng con, từ tình
trạng hư thân mất nết, chiều theo tính xác thịt và thế gian, mà hướng lòng lên
cùng Chúa, biết sám hối, canh tân theo Tin Mừng, để được Chúa thương xót, cứu
rỗi.
Lạy Mẹ Maria, xin mẹ giúp chúng con hướng lòng về tha nhân, trở
nên kẻ phục vụ trong tin yêu, cũng như nhìn thấy Chúa Giêsu trong mọi người, để
mến yêu và phục vụ tha nhân. Amen.
(Suy niệm của AM Trần Bình An)
Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa,
suốt 40 đêm ngày mỗi lần, để được Đức Chúa ban Giao ước (Xh 24, 15-18 &
Xh34, 1-28).
Sau này, khi ngôn sứ Elia tế lễ Đức Chúa thành công, đánh bại 450
tư tế thần Baal, liền bị hoàng hậu Jezabel cho người truy sát. Trên đường chạy
trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin
Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Ông
nằm vật ra, chờ chết. Nhưng thiên sứ của Đức Chúa đã nuôi dưỡng ông, rồi chỉ
ông đi 40 đêm ngày, đến núi Khô rép để gặp Đức Chúa.
Đến thời Tân Ước, trên núi Tabor, Chúa Giêsu hiển dung trước mặt
ba môn đệ, Phêrô, Gioan và Giacôbê. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y
phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (Mt 17,2) Và kìa, có hai nhận vật
đàm đạo với Người, đó là ông Elia và ông Mô sê. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh
hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc 9, 30-31).
Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giê su rằng” Thưa Thầy chúng con ở đây thật là
hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho
ông Elia.” Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.(Mc 9,
5-6)
Như thế, các ông Mô sê, Elia, và ba môn đệ đã được diễm phúc cảm
nhận Thiên Chúa vinh hiển, tựa gần như được chạm đến cõi Thiên Đàng. Nơi mà ông
Mô sê phải lấy khăn che mặt, không dám nhìn trực diện Đức Chúa, nơi mà ngôn sứ
Elia phải lấy áo choàng che mặt trước Đức Chúa, và nơi các môn đệ kinh hoàng,
không biết phải nói gì trước nhan thánh Chúa Giêsu vô cùng sáng lạn.
Các Thánh nhân sau này cũng có vị được chạm đến ngưỡng cửa Thiên
Đàng, qua những lúc xuất thần. Như Thánh nữ Faustina tiết lộ thị kiến: “Hôm nay
trong thần trí tôi được ở trên Thiên Đàng và nhìn thấy những điều mỹ diệu, cũng
như hạnh phúc tuyết vời đang chờ đợi chúng ta sau khi qua đời…Giờ đây, tôi hiểu
được câu nói của Thánh Phaolô tông đồ: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe
và lòng chưa từng nghiệm được những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ yêu
mến Ngài.” (NK 777 -80)
Như thế, Thiên Chúa đã phần nào tiết lộ nguồn hạnh phúc vô biên
trên cõi Thiên Đàng, dành cho những linh hồn nào được Ngài đón nhận mai sau.
Những linh hồn đã chiến thắng ngoạn mục cả ba kẻ thù: thế gian, thân xác và ma
quỷ, để sống mật thiết trong tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế.
Lạy Chúa Giêsu xin giúp con biết hối cải, hy sinh, dốc lòng theo
Chúa, để được hưởng phúc trường sinh trên Thiên Đàng.
Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính,
xin giúp con tu thân, tích đức, xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa muôn đời. Amen.
(Suy niệm của Lm. Minh Vận, CMC)
Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh
hoa phú quí, dinh thự nguy nga đồ sộ, đầy tớ tấp nập, ra vào hầu hạ, yến tiệc
xa hoa với mọi lạc thú trần gian... Rồi bỗng nhiên, một hôm ông ngã bệnh nặng,
hết bác sĩ này đến danh y khác được mời đến điều trị bệnh tật cho ông với lời
hứa, nếu cứu ông khỏi chết sẽ được hậu tạ, dầu phải chấp nhận bất cứ điều kiện
nào... Nhưng sau khi chẩn mạch, khám nghiệm và gắng sức chữa chạy, tất cả các
bác sĩ, danh y đều bó tay vì bệnh trạng của ông đã đến hồi vô phương cứu chữa.
Khi biết mình không thể sống nổi, nhà đại phú hộ rất buồn bã thất
vọng, gọi vợ con đến trăng trối: "Khi ta chết rồi, hãy khắc vào một bia đá
đặt trên mộ ta lời rất bỡ ngỡ nhưng chân thật này: "Đây là mồ chôn một kẻ
khờ dại!"
I. NÚI TABORÊ HUY HOÀNG
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật sự kiện Chúa Kitô biến hình, tỏ
vinh quang Người cho ba Tông Đồ Pherô, Gioan và Giacobê, cho ba ông thưởng nếm
một chút hạnh phúc Thiên Đàng, khiến các ông cảm nghiệm được niềm vui sướng và
khoái lạc tràn đầy, đến nỗi Thánh Pherô đã phải sửng sốt kêu lên: "Lạy
Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy,
một cho Maisen và một cho Elia.”
Thế rồi, lúc còn đang ngây ngất bỡ ngỡ trước cảnh thiên thai, huy
hoàng thần tiên đó, bỗng có một đám mây bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong
đám mây phán ra: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài.”
Giây phút vui sướng thần tiên qua đi, các ông bừng tỉnh nhìn chung quanh, không
còn thấy ai nữa, duy có một mình Chúa Giêsu và các ông.
Mục đích cho ba môn đệ thân tín nhất của Chúa, được hưởng sự vinh
quang và hạnh phúc trong cuộc Chúa biến hình hôm nay, là để củng cố niềm tin
tưởng của các ông và các môn đệ khác; khiến các ông thêm can đảm và kiên trì
trong gian lao thử thách sẽ gặp, nhất là khỏi thất vọng trước cuộc khổ hình đau
thương và cái chết tất tưởi đẫm máu của Thầy mình.
II. TIÊN BÁO VINH QUANG BẤT DIỆT
Niềm vui sướng hạnh phúc ba vị được nếm hưởng hôm nay, chỉ là hình
bóng một chút vinh quang bất diệt, Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo
của Chúa trên Quê Trời. Sau đời gian truân thử thách trần gian qua đi, những
tôi trung con thảo của Chúa sẽ được vào nơi đầy ánh sáng huy hoàng tráng lệ,
tận hưởng niềm vui sướng khoái lạc triền miên, hạnh phúc vô cùng vô tận. Thân
xác sẽ được phục sinh vinh quang và trường tồn, y phục sẽ trở nên trắng hơn tuyết
và sáng ngời như mặt trời... Chính Thánh Phaolô, sau khi được thưởng nếm những
giây phút hạnh phúc Thiên Đàng này, trong cuộc thị kiến nơi tầng trời thứ ba,
đã chỉ có thể thuật lại bằng một câu nói rất vắn gọn này: "Mắt chưa hề
xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được hạnh phúc mà Chúa đã sắm
sẵn cho các tôi trung con thảo được Chúa yêu thương.”
Ngay khi còn sống nơi trần gian này, Chúa cũng đã cho một vài vị
Thánh được tiên hưởng những khoái lạc phúc đức đó trong giây lát. Cũng có khi
cho thân xác các ngài được tiên hưởng hình bóng sự không hư nát của thân xác
vinh quang sau này trên Nơi Vĩnh Phúc.
Trong cuốn sách nhan đề "The Incorruptibles", tác giả
Jean Carrol Cruz đã đề cập đến 102 vị Thánh, được chôn cất đã nhiều năm trong
hầm mộ, mà thân xác các ngài vẫn còn tươi tốt như lúc còn sinh thời, chẳng hạn
như các vị sau đây:
Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Sở họ Ars nước Pháp, sau 45 năm
chôn cất, lúc cải táng trong dịp điều tra tôn phong Hiển Thánh, người ta thấy
xác ngài vẫn còn tươi tốt y nguyên.
Thánh Albertô Cả, từ trần năm 1280, sau hơn 200 năm được cải táng,
xác ngài vẫn còn nguyên vẹn.
Thánh Nữ Agatha, từ giã trần gian năm 251, thế mà sau 11 thế kỷ,
vẫn không hề tan rữa.
III. ĐỂ ĐƯỢC ĐỒNG HƯỞNG VINH QUANG
Để được đồng hưởng vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Quê
Trời, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa: Chết cho tội lỗi, chết cho tính mê
nết xấu, chết cho những đam mê thú tính, chết cho tính tự ái kiêu căng... và
vâng giữ các giáo huấn Chúa Kitô dạy, như lời Chúa Cha đã tuyên phán: "Các
ngươi hãy vâng nghe và tuân giữ lời Ngài.”
Trần gian không phải là nơi hưởng thụ như nhà đại phú hộ trên kia.
Ông chỉ lo tận hưởng những khoái lạc trần gian, mà không màng chi tới hạnh phúc
trường tồn trong đời sống mai hậu, nên cuối đời ông đã phải thất vọng trăng
trối, đặt trên mồ ông tấm bia khắc ghi lời quả quyết thú nhận sự lầm lỡ của
mình: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"
Trái lại, trần gian chính là đường dẫn chúng ta, là những người lữ
hành đang tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu. Vì trần gian là chốn đền tội, là nơi lập
công, là trường tập đức, đào tạo chúng ta nên những kẻ anh hùng chiến thắng,
những công dân Nước Trời, những vị Thánh, những con ngoan thảo của Thiên Chúa,
sẽ được khải hoàn vinh quang tiến về Quê Hương Chân Thật giữa muôn ngàn Thần
Thánh.
Kết Luận
Thánh Phaolô Tông Đồ đã căn dặn chúng ta phải ghi tâm khắc cốt lời
này: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ.” Bao lâu còn sống trên
trần gian, chúng ta còn thời giờ để lập công đức, để khi giờ Chúa gọi ra đi,
chúng ta khỏi hối tiếc thất vọng.
Nếu chúng ta biết: "Vâng nghe lời Con Chúa" truyền dạy,
chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.
Vũ trụ chúng ta sống luôn biến đổi. Người sống vùng sa mạc nhận
biết biến đổi rõ nhất là trong sa mạc. Sau một cơn bão thung lũng cát biến
thành núi cát. Sức mạnh đó vượt ngoài tưởng tượng của loài người. Các khoa học
gia có thể giải thích, đo lường, tìm hiểu nhưng bất lực không thể ngăn cản.
Người sống vùng đồng bằng nhận biết biến đổi qua nước chảy trên sông. Người ta
nói nước chảy đá mòn. Thực tế dân sống vùng sông ngòi biết nước chảy vài ba năm
sông bị cạn dần, bờ sông bị mòn, lòng sông đã không mòn mà còn bị phù sa bù lấp
làm lòng sông nông cạn. Biến đổi trong vũ trụ là điều không thể tránh. Cuộc
sống đời người cũng có nhiều biến đổi theo từng giai đoạn. Từ trẻ thơ biến
thành thiếu niên rồi thanh niên rồi trưởng thành, thành người lớn trước khi
phải nhờ đến cây gậy chống bước đi, cụ ông, cụ bà. Mỗi một giai đoạn đều có
thay đổi về cả vóc dáng lẫn tinh thần.
Tương tự như thế cuộc sống tâm linh cũng có những giai đoạn phát
triển, thay đổi. Mỗi một giai đoạn giúp chúng ta biến thành con người khác.
Cũng vóc dáng đó, cũng con người đó nhưng trong tâm hồn có biến đổi, có giao
động, có dấu chỉ của thành hình. Thành hình như thế nào tuỳ thuộc vào chọn lựa
lối sống của mỗi cá nhân.
Mừng kính lễ Chúa biến hình giúp chúng ta nhận biết con người
trung tín theo Chúa không biến hình nhưng thành hình. Thành hình như thế nào
chúng ta không thể khẳng định rõ ràng. Chúng ta chỉ biết qua hình ảnh nhận được
trên núi thánh chúng ta mường tượng ra cuộc sống tương lai của người trung
thành theo Chúa sẽ tương tự như hình ảnh trên núi thánh. Nhìn vào hình dạng
biến đổi của Thầy để có cảm nghiệm là sẽ trở nên giống Thầy. Toàn thân sẽ trắng
như tuyết, mặt mày sáng tươi và tinh thần đầy hoan lạc. Điều này tự mình không
thể hoàn thành nhưng nhờ vào ơn Thầy ban cho. Kẻ tin theo Chúa được khai mở
chút ít về cuộc sống tương lai nhờ các môn đệ được Chúa cho cảm nhận trên núi
thánh. Con người trở nên trong sáng nhờ ánh sáng của Thầy chiếu dọi. Như mặt
trăng sáng nhờ mặt trời, các môn đệ trung tín trở nên trong sáng nhờ ánh sáng
mặt trời công chính là Đức Kitô chiếu toả.
Môn đệ không dám so với Thầy thì ít ra hình ảnh các tổ phụ cho
biết các ngài cũng biến đổi như thế. Các ngài không so với Thầy, các ngài có
được sự sáng nhờ Thầy ban cho, nhờ sống trung tín trong niềm tin. Niềm tin đây
chính là ai tin vào Thầy cũng sẽ cảm nhận được sự sống mới nơi Thầy ban cho. Sự
sống đó biến đổi con người bất toàn của ta trở nên tốt hơn, đẹp hơn, cao quí
hơn, hoàn toàn hơn và cuối cùng trong sáng như tuyết. Đây là một cảm nghiệm,
niềm hạnh phúc tuyệt vời mà trần thế không thể nào diễn tả. Các môn đệ đi theo
Thầy được Thầy ưu đãi cho cảm nghiệm sự sống tương lai. Các ngài được nhìn thấy
tương lai đời mình hạnh phúc như hình ảnh trên núi thánh. Dù chỉ hé mở một chút
đã khiến các ngài say mê, muốn buông bỏ mọi sự nơi trần thế, không còn quyến
luyến chi. Trước khi thực sự bước vào cộc sống mới, cuộc sống thành hình đó các
ngài phải xuống núi. Xuống núi không phải để tích trữ, thu góp. Xuống núi để
chính thức từ bỏ, dứt khoát xa lìa những gì thuộc về trần thế. Mỗi một hành
động tốt lành đều giúp ta trở nên trong sáng hơn, mỗi một cử chỉ bác ái, yêu thương
đều biến ta trở nên tốt lành hơn. Chính những biến đổi hàng ngày trên thay hình
đổi dạng cuộc sống của ta, giúp ta trở nên trong sáng hơn. Từ bỏ lối sống tự
tạo để bước theo con đường Thầy đã đi qua, con đường Thầy dẫn đường, chỉ lối.
Con đường từ bỏ dù chông gai, cay đắng cũng rất đáng từ bỏ, cố gắng, trung tín
bước theo Thầy vì sau những vất vả, gian truân là ánh sáng ngập tràn. Sau những
âu lo, phiền muộn là niềm vui vĩnh cửu. Sau những khổ đau là hạnh phúc tuyệt
vời. Sau những xua đuổi, rượt bắt là tưng bừng chào đón, đàm đạo. Hình ảnh đám
mây bao phủ chính là trở ngại ngăn cách lớn nhất cho những ai không thể dứt
khoát từ bỏ. Chỉ khi nào vượt qua đám mây che phủ đó con người mới nhận biết
chân giá trị của cuộc sống mai hậu đang đón chờ.
Chúng ta cầu xin tâm tình trong lòng luôn ấp ủ cảnh sống tươi
sáng. Ước mong niềm hy vọng tươi sáng sẽ xoá tan mây mù, tăm tối.
1. Biến cố hiển dung trong đoạn Phúc Âm chúng ta vừa nghe, hé mở
trước vinh quang thật của Chúa, về phương diện nào đó thiết nghĩ để củng cố
niềm tin cho các Tông đồ. Bởi 6 ngày trước đây, theo Phúc Âm Mátthêu và Máccô
(còn Lc thì 8 ngày), ĐG báo cho các ông biết rằng Người sắp dẫn các ông lên
Giêrusalem, ở đó Người sẽ bị đánh đập và bị giết chết, và những ai muốn làm môn
đệ Chúa thì cũng phải vác thập giá mình mà theo Chúa, điều này đang làm cho các
ông hoang mang, lo sợ. Chính Phêrô ngăn cản Chúa đừng đi vào con đường đau khổ
này.
2. Đang lúc các ông trong tâm trạng bất ổn đó, ĐG dẫn các ông lên
núi cao, chính nơi đây trước mặt hai nhân vật nổi danh của Cựu Ước: Môisen và
Êlia đại diện cho Lề Luật và các tiên tri. Việc này như báo rằng thời Cựu Ước
đã hết, thời Đức Giêsu, thời Tân Ước bắt đầu. Chính Chúa Cha xác nhận ĐG là con
yêu dấu, và bảo hãy vâng nghe lời Ngài. Trước cảnh vinh quang của Đức Giêsu,
Phêrô và các Tông đồ xin được kéo dài điều ấy: Vì vậy, các ông xin làm ba lều
(1 cho Chúa, 1 cho Môisen, và 1 cho Elia). Điều này có ý nghĩa gì? Thưa các ông
muốn khai mạc thánh đô ngay tại đây, các ông muốn lưu lại trong lễ hội vinh
quang, các ông không muốn xuống núi. Nhưng cảnh ấy chỉ được Chúa cho diễn ra
cách ngắn ngủi. ĐG và các Tông đồ lại xuống núi, lại tiếp tục công việc vất vả
loan truyền Nước Chúa.
3. Phải chăng, chúng ta hôm nay cũng như các Tông đồ xưa, bước
theo Chúa để chỉ muốn được những điều thuận lợi, mà khước từ những khó khăn,
những hy sinh? Ước vọng của các Tông đồ, hay ước vọng của chúng ta bước theo
Chúa để tìm được hạnh phúc thật, đó là điều đúng, chính đáng. Nhưng chúng ta
đừng quên rằng, Đức Kitô đã phải trải qua khổ nạn mới được phục sinh, mới được
suy tôn trong vinh quang sao? Người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con
đường ấy, chính ĐG nói: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập
giá mình mà theo" (Mc 9,34).
Khi nói tới vác thập giá của mình, ta thường nghĩ: Thầy Giêsu có
những đau khổ, và mỗi người ai cũng có cái khổ riêng. Điều đó không sai, nhưng
chúng ta nên hiểu đúng hơn, đó là khi bước theo Chúa thì phải chấp nhận những
cái khó khăn do việc theo Chúa mang lại: như phải tuân giữ những điều Ngài dạy,
nghĩa là chấp nhận những hy sinh, vất vã của việc giữ đạo, sống đạo, từ bỏ con
người cũ... Đôi khi còn phải hy sinh cả mạng sống (như thời kỳ cấm cách). Đây
là con đường hẹp, con đường thập giá, nhưng là con đường dẫn đến hạnh phúc
thật.
4. Muốn đạt tới vinh quang, hẳn phải trải qua con đường thập giá
đó cũng là điều dễ hiểu thôi. Chẳng hạn như các bạn trẻ muốn có một nghề
nghiệp, một bằng cấp đại học, các bạn cũng biết rằng phải đầu tư, phải hy sinh
cho việc học hành như thế nào? Các bậc gia trưởng, hiền mẫu nhìn lại xem, để có
một cơ ngơi, một mái ấm gia đình như hôm nay hẳn quý ông bà phải hy sinh, vất
vả để xây dựng như thế nào? v.v. Cũng vậy, để được phúc trường sinh, mọi người
chúng ta cũng phải hy sinh, cũng phải chịu cực khổ để bước theo Chúa, nghĩa là
phải sống đạo, chứ không phải khi lãnh nhận BT Rửa tội là đương nhiên sẽ được
phúc Thiên Đàng.
5. Có thể nói thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, ở đâu có Kitô
hữu, ở đó có thập giá: trên nóc nhà thờ, trên cổng nhà, trên người, trên mộ,
nhưng thập giá được trưng bày như thế không bao giờ quan trọng cho bằng thập
giá trong cuộc sống hằng ngày: thập giá khi nỗ lực chu toàn bổn phận, khi quên
mình đi để quan tâm tới người khác, khi nói tiếng "không" với những
gì đi ngược lại với những giá trị Phúc Âm. Thập giá không là điểm kết của Đức
Giêsu, mà qua thập giá Ngài mới đạt đến Phục Sinh vinh hiển. Vì thế những hy
sinh, những cố gắng của chúng ta hôm nay làm vì danh Đức Giêsu, là thập giá, là
chìa khoá để mở cửa vào Thiên Quốc ngày sau với Ngài.
6. Bầu khí mùa chay rất thuận lợi cho việc chúng ta bước vào con
đường thập giá của ĐKT. Thế nhưng hơn 10 ngày của mùa chay năm nay đã qua, mỗi
người chúng ta hãy nhìn lại để xem mình đã bước theo Chúa được đến đâu? Mình
giống Chúa được đến đâu? Chúng ta cũng nhớ rằng, chúng ta không chỉ bước theo
Chúa trong mùa chay, mà còn bước theo Chúa trong suốt cuộc đời nữa.
7. Vinh quang mà Phêrô, Giacôbê và Gioan được cảm nếm trong khi
Chúa biến hình, vinh quang của Đức Kitô Phục sinh cũng sẽ là vinh quang của
chúng ta mai ngày, nếu chúng ta trung thành bước theo Chúa, và chấp nhận những
khó khăn do việc bước theo Chúa mang lại. Nhưng liệu vinh quang ấy có đủ sức
hấp dẫn để giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách, mọi cám dỗ, mọi cạm bẫy trong
cuộc đời để đi trọn con đường mà Chúa mời gọi chúng ta đi vào hay không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là
tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người
vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con
người.
I. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo
Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu
biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng
nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác”
một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng
láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái
(Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì
phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là
người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.
Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất
được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài,
và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng
để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2,
7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt;
tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và
hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.
Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người như
tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy.
Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về
quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa:
“Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng
ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục
Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.
II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho
Thiên Chúa
Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên
Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa
hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một
mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên
Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào
Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện
tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị
người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ
là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không
ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn
mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã
cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng
dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem
người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao
Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính
Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải
hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa.
Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng,
Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những
suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó
thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những
người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin.
Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St.23), tuy
vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.
III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con
Ngài
Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập
thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi
sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra
Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra Đức Giêsu là
Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa
và về con người một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao
Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác”
như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con
của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người?
Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra
tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con
người dù thật sự không thể tin được.
“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của
Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên
thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả
Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài;
nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Theo thánh
Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì
với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho
thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi
cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn, không
biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như vậy?
xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)
(Suy niệm của Lm. Hà Ngọc Đoài)
"Người biến hình trước mặt các ông... và từ đám mây có tiếng
phán rằng:" Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người."
(Mk 9:1,7) Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương
tâm và tìm cách cứu chữa ông. Có người mời được một y sĩ lừng danh đến chữa trị
cho đạo sĩ. Y sĩ rất tự tín, đến gặp đạo sĩ và khuyên rằng: "Ngài hãy an
tâm và tin vào bài thuốc của tôi có thể giúp cho đôi mắt được sáng như
xưa." Mọi người đứng chung quanh đều vui mừng và chờ đợi. Riêng đạo sĩ
bình tĩnh trả lời: "Không dám phiền ông phải bận tâm cho sự mù lòa về phần
xác của tôi. Hơn lúc nào hết, tâm hồn tôi thấy những gì mà trước đây tôi không
thấy, và bây giờ tôi được thấy rõ hơn" Nhờ con mắt Đức Tin mà đạo sĩ có
thể nhìn tới thế giới siêu linh. Đôi mắt phần xác bị mù lòa vì tuổi đời làm
giới hạn bao nhiêu, thì con mắt tinh thần lại vượt không gian và thời gian để
vươn tới sự gần gũi Thiên Chúa bấy nhiêu. Nhờ con mắt của Đức Tin mà linh hồn
có thể nhìn thấy được mạc khải của thế giới linh thiêng. Nhờ vậy vị đạo sĩ có
niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu báo tin cho các tông đồ biết là cuộc hành
trình giảng đạo của Ngài đang đi về Giêrusalem. Tại đó, vì trung tín với Thiên
Chúa Cha trong việc rao giảng mà Ngài phải chịu khổ hình cho đến chết. Rồi Ngài
sẽ sống lại. Khi nghe tin đó thì các tông đồ lo sợ và khuyên can. Để giúp các
tông đồ được siêu thoát, Đức Giêsu đem họ lên núi cao và tỏ bày vinh quang của
Ngài qua sự biến hình. Trên đỉnh núi cao này Ngài chuẩn bị cho cuộc khổ nạn
trên đỉnh núi Calvê. Khi bị treo trên thÿnh giá, người ngoại giáo binh sĩ Rôma,
và tội nhân sẽ nhận ra Ngài là ai. Chính họ tuyên xưng 'Ngài là Con Thiên
Chúa."
"Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân
sinh. " (TV 114:9) Chúng ta đang sống giữa một thế giới đa văn hóa, và
nhiều tôn giáo. Những phép thuật của khoa học làm cho một số bị lung lạc đức
tin! Là Kitô hữu, chúng ta nhìn vào Chúa Kitô là Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho
chúng ta vào cõi sống trường sinh.
Sau khi tiên báo mình phải đi vào cuộc thương khó, phải chịu nạn
chịu chết, Chúa Giêsu nhận thấy các môn đệ của Ngài băn khoăn không hiểu
"tại sao Thầy mình lại phải như thế?" Để an ủi các môn đệ, Chúa Giêsu
dẫn các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình lên núi và Ngài tỏ cho các ông
thấy vinh quang của Ngài để củng cố niềm tin cho các ông. Ở đó Chúa Giêsu biến
đổi hình dạng, y phục Người trở nên rực rỡ trắng tinh, làm cho các môn đệ phải
một phen kinh hoàng vì sự lạ lùng đang diễn ra trước mắt. Nhưng sự lạ lùng này
không làm cho các ông kinh hãi, sợ sệt; ngược lại làm cho các ông thích thú vô
cùng và muốn được ở như thế mãi mãi nên thốt lên "Thưa Thầy chúng con ở
đây thì thật là hay.” Hơn thế nữa, các ông còn muốn định cư luôn ở đó để được
chiêm ngắm Chúa mãi, không hề muốn rời xa tình trạng ấy, nên xin dựng ba lều
một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Êlia.
Chúa Giêsu biến hình để trở về tình trạng Thiên Chúa của Người.
Hình dạng đó làm cho các môn đệ không muốn lìa xa nữa, các ông không còn bận
tâm điều gì nữa, chỉ muốn chiêm ngưỡng mãi mãi hình ảnh mà các ông đã thấy nơi
Thầy của mình. Chúng ta có thế nói rằng các môn đệ này đã được "lên thiên
đàng" khi các ông còn đang sống. Các ông hết sức sung sướng chiêm ngưỡng
vinh quang của Chúa, không muốn xa rời nữa. Điều này làm cho các ông hạnh phúc
vô cùng không còn tha thiết với môt điều gì khác ngoài Chúa. Giờ đây mọi sự
trong thế không còn ý nghĩa gì nữa đối với các ông.
Mỗi ngày các môn đệ đều ở với Chúa Giêsu, cùng ăn với Chúa Giêsu,
cùng nghe Chúa Giêsu giảng dạy, cùng hoạt động với Chúa Giêsu, có lẻ những bận
rộn ấy đã che mắt các ông làm cho các ông không thể nào nhận ra vinh quang của
Chúa Giêsu. Hôm nay Chúa Giêsu tách các ông ra khỏi những bận rộn và lo toan
của cuộc sống đời thường để tỏ cho các ông thấy vinh quang vốn có của Ngài.
Điều này làm cho các ông hạnh phúc vô cùng. Đó là một thứ hạnh phúc lấp đầy mọi
khao khát của con người. Đây cũng là dịp để chúng ta hiểu thêm về hạnh phúc
thiên đàng mai sau. Ở đó chúng ta sẽ được hạnh phúc tràn đầy và không còn ước
ao một điều gì khác nữa.
Trong cuộc sống thường ngày chúng ta có quá nhiều công việc phải
lo, phải nghĩ, nào là cơm áo, gạo tiền, nào là danh vọng quyền thế, nào là
những thú vui phù phiếm nhưng không kém phần hấp dẫn, nào là những thói hư tật
xấu: bài bạc, rượu bia, quậy hoạn, du côn du đảng, phá làng phá xóm, nào là
thói quen nói hành nói xấu người khác, # kiến chúng ta không còn nhớ tới Chúa,
không còn giờ để gặp Chúa, không còn nhận ra tiếng nói của Chúa trong lương tâm
mình nữa.
Mùa Chay là thời gian thích hợp để chúng ta quay về với Chúa, từ
bỏ con người cũ tỗi lỗi xấu xa, để mặc lấy con người mới theo khuôn mẫu Chúa
Kitô. Hãy gặp gỡ Chúa nhiều hơn qua các bí tích nhất là bí tích Thánh Thể và
Giải tội, hãy dành thời gian để Chầu Thánh Thể nhiều hơn, cũng như gia tăng các
việc lành phúc đức.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận thấy rỏ thực trạng con người của mình
hơn để dấn thân theo Chúa hơn. Gặp gỡ Chúa nhiều hơn sẽ kiến lương tâm chúng ta
nhạy bén hơn với tiếng nói của Chúa trong tâm hồn chúng ta. Nhờ đó mỗi ngày
chúng ta nên giống Chúa hơn, để Chúa ở đâu chúng ta cũng được ở đó với Người.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng
thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi?
Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải,
không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình
bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận
tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý,
nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác
tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều.
Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn
tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, hay nói cách khác là ăn năn
tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về
cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc
của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.
Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng
điều tốt nhất của mình cho người mình yêu.. " Hãy đem con của ngươi, đứa
con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ
toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho" ( St 22, 2 ). Được hiểu
như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành
cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn
khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là
chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.
Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và
lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý,
mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo "như sao trên bầu trời, như
cát ngoài bãi biển.” Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu ( 1Ga 4,8
). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được
mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban
tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên
Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất
cả cho chúng ta? ( x. Rm 8,32 ).
Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình
trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo
là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh
cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào
cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( x.
Ga 15,13 ). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng
là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà
sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh
chứng hiển nhiên.
Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội
phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên
Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình
Yêu thì đúng hơn nhiều. "Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên
giới.”
Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi
đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã
chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của
nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều,
chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên
chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và
nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn
là nhờ được thông phần một cách nào đó "bản thể của Đấng là Tình
Yêu", thì Phêrô đã lên tiếng: " Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là
hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho
ông Êlia."( Mc 9,5 ) Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là
sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn
đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì
người khác.
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" ( Mc
9,7 ). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của
Đấng Cứu Độ sau đây: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" ( Ga 14,24 ). " Vậy,
nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải
rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã
làm cho anh em" ( Ga 13,12 ). " Tất cả những gì anh em muốn người ta
làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời
các ngôn sứ là thế đó" ( Mt 7,12 ).
Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại
trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết
yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối
hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và
vươn lên.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo
là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là
chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở
đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là
đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Kitô của Tin Mừng cho các môn đệ Phêrô,
Giacôbê và Gioan. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của
Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những
người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích Mc 9:1tt
trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ
đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ
trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giêsu sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa
của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút
thời giờ tìm hiểu thêm.
Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con
người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai
nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ;
Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương
19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của
hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà
hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự
trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển
mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không
ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo
choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-13). Nếu thế vinh quang mà
Đức Giêsu muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với
những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì
được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó
không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy,
mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những
lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.
Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và
nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều
đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với
những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà
hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang
phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giêsu cũng hàm
cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại
cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại.” Đúng
vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích
thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất.
Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều
gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành
động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với
Chúa Cha, chính Đức Giêsu đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là
giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách
tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh
Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế
gian” (Ga 17:1.8).
Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng
kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giêsu thật sự mong muốn
và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi
người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh
quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây
chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua
Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh
quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình
ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Kitô Giêsu đầy xót thương nhân hậu? Đối với
các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể
không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem
câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giêsu còn phải cất công giải
thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục
là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Kitô hữu (so với các tôn giáo khác,
nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu
hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không
tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa
trên mạc khải duy nhất của Đức Kitô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để
mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ,
trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó
“Hãy vâng nghe lời Người!”
Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận
thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc
và củng cố niềm tin Kitô.
Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phêrô dựng lều,
nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê
vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại
trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà
còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai
sau. Amen.
(Suy niệm của Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu)
Buổi sáng tinh sương hôm đó, trên con đường dẫn tới vùng đất
Moriyah (theo truyền thuyết, chính là ngọn đồi sau này đền thánh Giêrusalem sẽ
được xây trên đó), cụ già Abraham tay "cầm lửa và dao phay", Isaac,
đứa con duy nhất của cụ vác củi. Cả hai đang mải miết trèo núi để làm lễ tế
kính tiến Thiên Chúa Giavê.
Câu chuyện xảy ra vượt sức tưởng tượng của con người! Khởi đầu là
lệnh truyền của Thiên Chúa Giavê: "Ngươi hãy lấy con ngươi, con một ngươi,
ngươi yêu dấu tức là Isaac mà đi tới đất Moriyah, và ở đó hãy dâng nó làm của
lễ thượng hiến trên một quả núi ta sẽ tỏ cho ngươi" (St 22,2). Tiếp đó là
việc thi hành thượng lệnh không sai một ly: "Abraham xây tế đàn rồi sắp
củi, và trói Isaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ
tay cầm lấy dao phay để tế sát con mình" (St 22,9-10).
Hành động của Abraham là tột đỉnh của lòng tin: quả thực Abraham
đã không từ chối Chúa một điều gì, ngay cả người con duy nhất của ông. Đức tin
của Abraham đã trở nên khuôn vàng thước ngọc cho mọi lòng tin, không phải một
đức tin mù quáng, phi lý, nhưng một đức tin dựa trên chính Thiên Chúa, Đấng
hằng trung tín. Cuộc thử thách đức tin của Abraham thật khủng khiếp, nhưng
"lòng kính sợ Thiên Chúa" là thành trì kiên cố bảo vệ đức tin kiên
vững của ông trong cơn bão táp. Chính vì thế, Thiên Chúa Giavê đã ân thưởng ông
bội hậu: "Vì ngươi đã không từ chối với ta con một ngươi thì ta sẽ ban phúc
chúc lành cho ngươi, ta sẽ làm cho dòng giống ngươi thêm đông, nên nhiều như
sao trên trời, như cát dưới biển... Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà
cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta.” (St 22,17-18). Dòng
giống đông như "sao trời cát biển" đó chính là những cõi lòng tin
Thiên Chúa, đó chính là hội thánh tại thế, đó chính là mỗi người chúng ta.
"Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài" (Mc
9,7)
Hiến tế của Abraham dâng hiến Isaac mới chính là hình bóng của một
Hy lễ toàn hảo của chính Đức Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã
quả quyết: "Người đã không tha cho chính con của Người, nhưng đã phó nộp
Ngài vì chúng ta hết thảy" (Rm 8,32). Lòng mến của Thiên Chúa đối với con
người thật khôn lường khôn tả. Chính tình yêu vô bờ bến ấy, thể hiện qua việc
Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên bàn thờ thập giá, đã khơi nguồn ân cứu độ,
hoàn thành giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và con người.
Mùa chay thánh, mùa dọn lòng người tín hữu đón nhận tình yêu tuyệt
đối của Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacobê và Gioan
chiêm ngưỡng bản tính và vinh quang Thiên Chúa hiện tỏ nơi Đức Kitô con yêu dấu
của Ngài. "Hãy nghe Ngài" vì Ngài là "Đường là sự thật và sự
sống" dẫn đưa con người về với Thiên Chúa. Thái độ của người tín hữu trong
mùa chay thánh là hãy lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, và đem ra thực
hành Lời Chúa trong đời sống.
Hãy luôn ghi nhớ rằng, con đường đức tin Abraham xưa đã đi cũng
như cuộc hành trình đức tin của chúng ta trong thế giới hôm nay, cả hai chỉ là
một, sẽ đầy thử thách chông gai, và chóp đỉnh vẫn là: Vâng Phục và Kính Sợ
Thiên Chúa.
Câu chuyện được viết sau khi Đức Giêsu Phục sinh vinh quang, đã
đuợc tin vững vàng, đã được rao giảng rộng rãi và cũng để củng cố đức tin của
các tín hữu.
Để hé mở cho biết từ từ về chính mình Đức Giêsu bắt đầu bằng câu
hỏi: người ta nói Thầy là ai? Phêrô đã đáp đúng: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên
Chúa. Nhưng mọi người chưa hiểu đúng mặc dù Người đã giải thích bằng "loan
báo sự thương khó.” Đấng Kitô phải chịu đau khổ nhiều, bị giết chết, ngày thứ
ba mới sống lại vinh quang, Nhưng người ta sợ sự thương khó nên sự sống lại
vinh quang bị che khuất mắt họ. Đức Giêsu cho ba môn đệ thân tín nhất thấy
trước trong chốc lát sự sống lại vinh quang mong các ông hiểu mà tin và giúp
người khác tin: Người biến hình vinh quang.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Sáu ngày sau: không phải ngày thứ sáu mà là
ngày trước ngày sa bát, là ngày cuối, ngày sống lại.
- Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan di theo mình: Ba môn đệ thân tín nhất, sẽ có mặt trong giờ Đức Giêsu hấp hối.
Thân tín, đi theo là điều kiện khởi đầu để thấy sự biến hình vinh quang.
- Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi: Điều kiện tiếp theo là "đi riêng ra một chổ, chỉ mình các ông
thôi" với Đức Giêsu. Không còn với ai hết, tách riêng ra khỏi những người
khác chưa đủ điều kiện để được thấy.
- Tới một ngọn núi cao: Núi nào? Chỉ một nơi riêng
biệt dành cho những việc quan trọng nhất. Trong văn chương Do thái những điều
trọng đại thì được xảy ra trên núi. Núi: quan trọng bậc nhất.
- Rồi Người biến hình trước mắt các ông: Thiên tính tiềm ẩn trong Đức Giêsu hiển lộ ra.
- Y phục người trở nên rực rỡ trắng tinh, không thợ nào ở trần gian
giặt trắng được như vậy: Chưa có ngôn ngử để diển tả
đúng thực tế siêu nghiệm nầy, đành phải dùng những từ ngữ có sẳn dù không cân
xứng. Con người được nhìn thấy qua y phục.
- Ông Êlia và ông Môsê hiện đến đàm đạo với người: Êlia trước Môsê vì đi ngược từ Đức Giêsu. Lịch sử được tính từ
Đức Giêsu vế trước cũng như về sau. Êlia là các tiên tri, Môsê là lề luật. Cả
hai là Cựu Ước. Bàn giao Cựu Ước cho Đức Giêsu để Người lập ra Tân Ước.
- Thưa Thầy được ở đây thì tốt lắm: ở đây là hiện tại vinh quang mà các ông thấy. Là cách diễn tả
đơn sơ nhất về visio beatifica (phúc kiến) hạnh phúc thiên đàng cũng là chính
xác nhất. Ở đây tốt lắm: không thể tốt hơn nữa nên cũng không muốn đi đâu nữa.
Hoàn toàn thoả mãn rồi.
- Chúng con xin làm ba lều: Trong cuộc Xuất Ai Cập Hòm
bia Thiên Chúa tượng trưng cho sự hiện diện của vinh quang Thiên Chúa ở trong
lều.
- Bỗng có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây và tiếng phán từ trong đám mây là văn chương do thái tả
sự hiện diện của Thiên Chúa. Đáp lại lời của Phêrô: Thiên Chúa không ở trong
lều mà ở trong đám mây: Thiên Chúa ở trên trời. Không cần làm lều.
- Và từ đám mây có tiếng phán: Thiên
Chúa ở trên trời, hiện diện trong đám mây. Có tiếng phán mới nhận ra có Thiên
Chúa.
- Đây là Con Ta yêu dấu: Đức Giêsu của phép rửa đã
biến hình vinh quang. Lời tuyên bố "Con Thiên Chúa" được hiện thực.
Con Thiên Chúa đồng bản tính thì cũng có vinh quang như Thiên Chúa. Con yêu dấu
"đẹp ý Cha hoàn toàn.” Vâng ý Cha trong moi sự.
- Hãy vâng nghe lời Người: Xứng đáng được vâng lời, nghe
lời. Là điều kiện cuối cùng để chúng ta được "biến hình" hầu hưởng vinh
quang như Đức Giêsu biến hình.
- Không thấy ai nữa chỉ con một mình Đức Giêsu: Môsê, Êlia thuộc thời kỳ quá độ đã bàn giao cho Đức Giêsu, Đấng
được Thiên Chúa uỷ nhiệm làm Đấng cứu độ. Đức Giêsu mới cứu độ. Đi theo Người
thì được cứu độ. Chỉ Đức Giêsu mà thôi. Ngoài Người không có ai khác.
Khi cho Con xuống thế làm người Thiên Chúa Cha dã vạch ra chương
trình cuứ độ. Đức Giêsu phải hoàn thành mọi chi tiết thì mới được Thiên Chúa
tôn phong là Đấng Cúư Độ và Chúa. Trên thập giá khi Đức Giêsu tuyên bố "đã
hoàn tất" thì Người được Thiên Chúa cho sống lại vinh quang. Người đã mở
ra con đường tới sự sống lại vinh quang cho loài người. Đó là con đường làm con
Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn đường thập giá mà muốn đường "làm con.”
Đức Giêsu làm con yêu dấu của Thiên Chúa thì cũng được thông phần vinh quang
của Thiên Chúa. Và tiếng Chúa Cha đã căn dặn "hãy nghe lời Người.” Là điều
kiện Chúa Cha đã đặt ra.
Phương tiện để thực hiện tốt điều kiện của Chúa Cha là đi theo Đức
Giêsu trên con đường của Người: Được Đức Giêsu đem đi "theo", đi
riêng, lên núi cao, nhất là nghe lời Ngưòi, chỉ một mình Đức Giêsu (không còn
Môsê và Êlia, cũng không còn tiếng phán từ đám mây). Tóm lại phải làm sao để
nghe lời Đức Giêsu tốt nhất. Có các dòng tu chiêm niệm tập trung học hỏi Kinh Thánh
và cầu nguyện. Ngày nay người ta quan tâm tới "thực hành" nhiều hơn
nên có những dòng tu hoạt động xã hội nhưng trên căn bản của LỜI. Lời là ý của
Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy cho chúng ta biết ý của Thiên Chúa để làm theo và
được làm con như Người. Vâng ý Cha là làm con.
Lời Chúa mới biến hình chúng ta được. Lời được thực hành mới có
kết quả.
Hãy thực hành Lời Chúa Cha "Hãy nghe Lời Người.”
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới
những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như
thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa,
xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng
sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần
kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng
nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung
nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ
mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên
sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất
cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên báo về một
Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt
16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc
bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn
lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn
đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời
vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định
dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác
hẳn. “Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần
hiển” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh
núi, “Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ,
trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (Mc 9:3) Đức
Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính
Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật
cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ
đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu
cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an
toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu
hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thày là Đức Kitô”
(Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu
nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo
muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực.
Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm
tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng
dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thày trổi
vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì “có một đám mây bao phủ các ông” (Mc 9:7).
Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới
nghe được tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc
9:7). Lời trìu mến chừng nào! Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu! Nhưng cơ
nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh
Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của
Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người
con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng
đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống
Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta
(Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả
giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).
“Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị
Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết” (Faley 1994:231). Đám
mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa.
Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không? Vậy mà từ xưa tới nay, các
ông vẫn hoang mang vì dư luận! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái
tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không
sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì “sự thật sẽ
giải phóng các ông” (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. “Ông
không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó
quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi
cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không
biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các
môn đệ “ngủ quên trên chiến thắng.” Ngay trên núi, sau khi chứng kiến cảnh Thày
biến hình, các ông đã bị trả về thực tế. “Các ông chợt nhìn quanh, thì không
thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9:8). Thực tế trơ ra
đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những
điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày
tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh: “Người phải chịu nhiều đau khổ
và bị khinh chê.” (Mc 9:12) Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu
hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao
các ông quên được lời phán từ đám mây: “Hãy vâng nghe lời Người.” Nghe lời
Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ
bừng dậy khi “Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Đó mới là điều ám ảnh
tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp
yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai
bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình
chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm
được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức
Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho
ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9)
Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng “nơi Đức Giêsu Kitô,
chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người.” (Fisichella 1995:669) Người
chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát
nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong
những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi.
Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn
đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng.
Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không
chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công
bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành”(Fisichella 1995:669). Nhờ
đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy
bạo động và sa đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường hầm, nhưng chiếu toả mãnh
liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm ngưỡng dung nhan Đức Giêsu, các môn
đệ đã nhận thấy “sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa là sức mạnh tình yêu, tình
yêu toàn năng” (TGM Angelo Comastri: Zenit 12/3/2003) đang hoạt động mãnh liệt
trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.
(Suy niệm của Lm. Trần Xuân Lãm)
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian mang hình hài thể xác
con người như ta, nhưng hôm nay Ngài tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của
con người, để mặc lấy một hình dạng khác rất siêu phàm: "Y phục Ngài rực
rỡ, trắng tinh, không thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng như vậy.” Sự sáng
láng chiếu tỏa vinh quang của thiên giới.
Đức Ki-tô chính là Đấng Messiah ẩn mình, người tôi trung đau khổ
của Thiên Chúa, hôm nay được tỏ bày trước kỳ hạn vinh quang, qua việc các đại
diện của lề luật và ngôn sứ là Mô-sê và Ê-li-a, hiện ra và đàm đạo với Ngài.
Đây là lần thứ hai có tiếng phán từ trời về Chúa Giê-su: "Này là Con Ta
chí ái" (Mc 9:7)
Trong lúc còn thử thách ở cuộc đời trần gian, chúng ta được mời
gọi tin phục hoàn toàn vào Thiên Chúa qua mọi biến cố trong cuộc đời. Thiên
Chúa ẩn náu mình đi không muốn tỏ vinh quang và quyền phép uy nghi của Ngài ra,
để ép buộc chúng ta nghe lời Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta tự do và Ngài tôn
trọng tự do đó. Hơn nữa, có tự do mới có công phúc.
Tuy nhiên những ai đọc và suy niệm lời Chúa, những ai có con mắt
đức Tin trong sáng thì đã thấy và đã biết Thiên Chúa uy quyền và vinh quang ở
đâu: ở trong Bí tích Thánh thể, trong các Bí tích, trong Phúc âm, trong mọi
biến cố, hoàn cảnh cuộc đời. Chúa hiện ra ở đó còn uy quyền sáng láng hơn cả
khi biến hình trên núi cao hôm nay.
Bài Phúc âm còn ngụ ý dạy chúng ta, nếu muốn được nhìn thấy Thiên
Chúa vinh quang và uy nghi thì phải lên núi cao, vượt trên mọi thấp hèn của xác
thịt. Bên cạnh đó, chúng ta cần sẵn sàng bước theo con đường thập giá của Đức
Ki-tô, vì con đường ấy dẫn chúng ta đến vinh quang và phúc trường sinh muôn
đời.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, chúng ta được thánh sử Maccô
trình bày về cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Cuộc biến hình này mạc khải Thiên
tính của Chúa Giêsu, đồng thời mạc khải con đường mà Chúa Giêsu phải đi. Đó
cũng là con đường mà các môn đệ và tất cả chúng ta cũng phải đi qua.
Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã ở với Chúa Giêsu hằng ngày,
họ đã nhìn thấy Ngài, lắng nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến những phép lạ Ngài
làm, nhưng họ vẫn chưa thực sự nhận ra Ngài là ai, hôm nay họ mới nhìn thấy
vinh quang của Con Thiên Chúa lần đầu tiên, và họ thật sự là hạnh phúc.
Thật thế, Thiên Chúa là tình yêu. Ngài vẫn từng phút từng giây đổ
tràn tình yêu của Người vào đời sống chúng ta. Thánh Macco kể lại việc Chúa
Giêsu cho ba môn đệ hôm nay lên núi cao để hiểu biết về Người hơn. Ngài đưa họ vào
đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống này
là tình yêu không ngừng trao ban và nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự
sống và nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những
ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh
viễn không thể tách rời Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi nhìn ngắm
dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Ta yêu
dấu", Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi
mãi trên núi, không muốn trở uống nữa. Hay hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một
buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định đi theo làm môn đệ của Người. Thánh
Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: "Ai có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói
rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo...? Không, không có gì tách được chúng ta ra
khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.”
Trên núi Tabor, cuộc biến hình của Chúa Giêsu cho chúng ta thêm
xác tín " Chúa Giêsu chính là con yêu quý của Thiên Chúa.” Người Con này
vinh quang rực rỡ nhưng đã chẳng những bằng lòng mà còn vui lòng đi vào con
đường khổ nạn và thập giá để mang ơn cứu độ cho mọi người. Người Con này đã
hoàn toàn vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, dù phải trải qua con đường đau
thương và khổ giá. Ngài chấp nhận đi con đường khổ giá và vâng phục cho đến
chết trên cây thập giá để dẫn đưa nhân loại đi qua con đường thập giá này mà
đến bến bờ vinh quang mai ngày. Và ba ông đã thấy vinh quang của Chúa Giêsu, ba
ông được biết chương trình của Thiên Chúa, chương trình của Chúa đó là chương
trình của tình yêu. Tình yêu này được minh chứng qua sự hy sinh; Chúa Cha, vì
yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Ngài đã không dung
tha cho chính con yêu quý của người nên Thánh Phaolo đã diễn tả: "Thiên
Chúa đã không dung tha chính Con Một mình nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng at,
há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với con của Ngài sao" (Rm
8, 32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho Người Con Duy Nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc
gì chúng ta nữa. Còn phần Chúa Con, Ngài đã chấp nhận liều mạng sống như lời
Người nói: "Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu của người dám hy
sinh mạng sống mình cho bạn hữu.” Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc
ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu Kitô mặc dù là Thiên Chúa nhưng đã mặc lấy xác phàm,
trở nên con người sống ở giữa loài người, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ
tất cả để đi vào cuộc khổ nạn, nhằm mang ơn cứu rỗi chúng ta. Ngài đã hy sinh
tất cả, hy sinh cả mạng sống mình để làm theo ý Chúa Cha. Vì thế, Ngài đã được
Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài từ cõi chết sống lại.
Mầu nhiệm hy tế của Chúa Giêsu được thực hiện một lần cho đến muôn
đời. Và hằng ngày hy tế thánh này vẫn được tái diễn nơi Thánh lễ mà linh mục cử
hành. Khi tham dự Thánh Lễ là dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Giêsu
Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng sống đổi mới
theo hướng tích cực hơn, góp phần làm cho thế giới này được biến đổi mang màu
sắc và phẩm chất yêu thương, một tình yêu hiến mạng sống của Chúa Giêsu Kitô
dành cho nhân loại.
Rồi đây ba môn đệ sẽ bước với Thầy Giêsu đi vào con đường đau khổ
chết trên thập giá. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ,
báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh
quang viên mãn khi thân xác ấy chịu đóng đinh vì yêu mến Chúa cha và yêu thương
nhân loại tột đỉnh. Chúa Giêsu Kitô đã chấp nhận đi vào con đường đau khổ, bước
vào cái chết và tiến đến phục sinh vinh hiển để ban ơn thánh hóa và cứu chuộc
con người. Theo dấu chân Chúa Giêsu đã đi qua, Hội thánh vẫn luôn tiếp tục hành
trình đó nhằm mang ân sủng cứu độ con người bằng Thánh Lễ và các Bí tích. Do
đó, ý thức được tình thương mà Thiên Chúa dành cho, chúng ta hãy tri ân Thiên
Chúa và siêng năng đến lãnh nhận ân sủng từ Thánh Lễ và các Bí tích. Để làm
được điều này, đòi buộc chúng ta đón nhận bằng tình yêu. Chấp nhận hy sinh thời
giờ, công việc, các thú vui, danh lợi...trong cuộc sống.
Tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi, chúng ta thấy Hội thánh và cụ
thể là các vị Giáo sĩ, tu sĩ và những người có tâm hồn thành tâm thiện chí. Họ
chấp nhận và bước theo Thầy Giêsu, đi con đường Ngài đi. Họ đã sống từ bỏ và đã
hy sinh. Họ muốn làm theo ý Chúa và Hội Thánh. Con tim của họ tràn đầy yêu
thương vì con tim này được tu luyện, bồi dưỡng bởi tình thương nhân từ của
Thiên Chúa. Họ không quản ngại cho đi sức khỏe, thời gian, tuổi thanh xuân. Họ
đã sống cho tình Chúa và cho tình người. Họ can đảm cho đi sứ mạng hữu hình và
thiêng liêng. Dám sống quên mình cho đàn chiên vì sự sống và ơn cứu độ cho nhân
loại. Hơn nữa, noi gương Chúa Giêsu, các vị kể trên đã yêu mến Thiên Chúa hết
lòng, sẵn sàng bước theo Chúa Kitô, đi theo con đường Ngài đã đi, sống sứ mạng
dấn thân cho sứ vụ. Dù gặp gian nan, thử thách, đau khổ và như con đường thập
giá Chúa Giêsu đã đi qua, họ luôn tin vào Chúa Kitô, xác tín rằng mình cũng sẽ
được phục sinh vinh hiển với Ngài. Như Chúa Giêsu, Chúa Cha là lẽ sống của Ngài
thì chính Chúa Kitô cũng chính là lẽ sống của họ. Chính niềm tin phục sinh ấy
giúp họ bắt đầu và bắt đầu lại, giúp họ tiếp tục rồi lại tiếp tục cuộc hành
trình sống chúng nhân giữa đời trong sứ vụ của mình.Đồng thời chúng ta cũng
nhận thấy họ cũng phải chiến đấu với ba thù. Chúng ta hãy biết ơn các vị Giáo
sĩ và tu sĩ là những người mang đức tin và ơn cứu độ cho chúng ta. Chúng ta hãy
cầu xin Chúa ban ơn cho họ trung thành bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi với
lòng tin, cậy và yêu mến Chúa mãnh liệt.
Mỗi người chúng ta cũng phải đi qua con đường khổ giá để bước vào
vinh quang, bước đến tình yêu và sự sống đời đời mà Chúa sẽ ban tặng cho chúng
ta.Vì thế, chúng ta hãy vui lòng đi trên con đường mà Chúa Giêsu và các bậc
tiền nhân đã đi để được hưởng hạnh phúc với các ngài. Hơn nữa chúng ta tin rằng
có Đấng ủng hộ chúng ta là Đấng đã đi trước mở đường cho chúng ta. Do đó, như
Chúa Giêsu đã biến hình, chúng ta cũng sẽ được biến hình hằng ngày, biến đổi cả
con người cũ kỹ, yêu hèn, tội lỗi của chúng ta nếu chúng ta dám từ bỏ lối sống
ích kỷ, chấp nhận cuộc sống yêu thương tha nhân... Ngày nay có thể người ta
không thấy Chúa biến hình nhưng họ sẽ cảm nghiệm phần nào khi thấy các người
Công Giáo sống vui tươi, chan hòa tình người, tình yêu thương. Họ thấy được
những người sống mãnh liệt vào niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô.
Là người Công giáo, chúng ta được tái sinh bởi Bí tích Rửa tội,
nghĩa là chúng ta được chết cho con người cũ tội lỗi và sống cho con người phục
sinh của Chúa Kitô. Người Công Giáo khi đó được gia nhập công đoàn Hội Thánh,
được nuôi dưỡng Mình Máu Chúa và được tha thứ không ngừng để bước đi theo Chúa
Giêsu trong Bí tích Giải tội. Mặt khác, chúng ta không ngừng nhận được các hồng
ân khác hằng hằng ngày. Chúng ta hãy tri ân Chúa. Chúng ta hãy cám ơn Hội
Thánh. Đồng thời chúng ta hãy mạnh dạn bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi,
chúng ta chấp nhận vượt qua khó khăn vất vả trong cuộc sống, chúng ta chấp nhận
hy sinh hằng ngày để làm sáng danh Chúa, để đi con đường Ngài đi. Chúng ta hãy
sống thân mật và gắn bó với Chúa Giêsu. Chúng ta nhận ra con người chúng ta là
hồng ân Thiên Chúa ban tặng.
Khi đã biết những sự thật về Chúa và về bản thân, chúng ta sẽ có
một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt
của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Chúa
Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết
quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi
là con đường thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh
tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn, để can đảm đi theo con
đường đau khổ và phục sinh mà Chúa Kitô đã đi trong niềm tin và lòng mến chứa
chan.
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con nhận ra tình yêu thương mà
Chúa dành cho chúng con. Đồng thời xin cho chúng con can đảm bước theo con
đường mà Chúa đã đi với lòng tín thác thật sự và lòng yêu mến nồng nàn. Amen.
(Suy niệm của Tôma Nguyễn Xuân Hiệp)
Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp
tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.
Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những
bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng, ngày
ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo. Mười năm sau, người em
làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật
nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai
anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì
vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao
quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.
Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn
sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh
ta. * Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có
những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng
là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua. * Kế đến là một cái cây xanh:
nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó
đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái
lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng
vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác. * Và sau cùng chính là thân xác
con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết
đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn
toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng
tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc,
móng tay và làn da của 7 năm trước. Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người
cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày
cũng phải biết từ bỏ những thói quen xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết
nổ lực luyện tập những nhân đức tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào
thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết đứng, chứ không còn là một thân cây
tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn
vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ
đi cái xấu nào và cũng không nổ lực tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu
“lên núi” trong đời sống hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến
đổi.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta theo Chúa Giêsu
“lên núi cầu nguyện.” Bài đọc 1, sách Sáng Thế tường thuật lại biến cố “lên
núi” của Tổ phụ Abraham đầy giân truân vất vả, cả sự dâng hiến mạng sống người
con một yêu dấu theo thánh ý Thiên Chúa. Chính bởi đức tin mạnh mẽ và quả cảm
vượt thắng tất cả mà ông được gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc phúc. Bài đọc 2,
thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma: hãy tín thác vào Thiên Chúa Tình Yêu, cho
dẫu hành trình đức tin như một cuộc “leo núi” đầy khó nguy. Chính Thiên Chúa đã
đi bước trước và thể hiện tình yêu qua Người Con Một: “Đến như chính Con Một,
Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.” Bài Tin
Mừng, thánh sử Maccô đã tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi
trước mặt các môn đệ thân tín là: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa
Giêsu muốn để lại cho các tông đồ và mỗi chúng ta bài học hữu ích trong hành
trình đức tin của người kitô hữu là phải “lên núi” “Đức Giêsu lên núi cầu
nguyện” (Mc 9, 28). Đây là bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn dạy
mỗi người chúng ta: Phải cầu nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và trước
những công việc làm. Để thực hiện điều ấy, “Đức Giêsu lên núi”, tức phải vứt bỏ
những vướng bận lo toan thành công thất bại, phải dành thời giờ cho việc leo
núi, vượt thắng những cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không ngừng với thân
xác nặng nề để leo lên độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm linh mới có
thể sống tương giao với Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của Người. Nếu thiếu
vắng đời sống tương giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thẳm
sâu tâm hồn để kín múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì xem chừng cách cầu
nguyện ấy đã đi vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình thức bên ngoài mà
Chúa Giêsu đã từng lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu cầu nguyện kể lể,
huênh hoang báo cáo kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay kiểu cầu nguyện xem
Thiên Chúa chỉ là chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất bại, gian truân thì
sốt sắng đến với Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời sống tâm lý để giải
tỏa những xung đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực thương đau. Sự sốt
sắng cầu nguyện hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở nhu cầu ích lợi cá
nhân chứ chưa đi vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa để tìm thánh ý
Người. Nhà thần học Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại giáo; một kiểu
cầu cạnh tư lợi. Người không biết Chúa và cả những người vô thần cũng làm như
thế. Một kiểu cầu an! Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt thoát những
vướng bận lo toan của đời thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh ý Chúa
trong từng biến cố, từng phút giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách liên lỉ
mọi lúc mọi nơi, mọi công việc. (x. Mc 18,1-8. 9-14) Ước mong Lời Chúa hôm nay
soi dẫn mỗi người chúng ta biết “lên núi” mỗi ngày, biết từ bỏ những cám dỗ đam
mê, những vướng bận đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên Chúa qua Thánh lễ,
kinh nguyện, xét mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa …. Chúa Giêsu biến hình
trên núi Tabor hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình vác thập giá lên núi
Canvê và phục sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành trình đức tin của mỗi
người tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta phải “lên núi” mỗi ngày mới có thể
“biến hình”, mới có thể phục sinh sáng láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.
Anh chị em thân mến.
Trong cuộc sống đời thường, ai cũng muốn cho mình được sung sướng,
hạnh phúc. Thế mà anh chị em nhìn thấy hằng ngày, biết bao nhiêu người luôn tìm
sự cực khổ, họ lam lủ suốt ngày, tay lắm chân bùn, vất vả với bao công việc
nặng nhọc. Có người không có thì giờ nghĩ ngơi. Trong số đó có cả chúng ta, là
những người đang ngồi trong nhà thờ đây. Như vậy tất cả mọi người không biết
tìm hạnh phúc, không biết sống sung sướng sao? Hay mọi người bị một thế lực nào
ép buộc phải làm như thế? - Thưa chính vì muốn tìm đời sống hạnh phúc, muốn tìm
sự sung sướng mà con người phải tìm sự vất vả, cực nhọc như thế. Mới nhìn tưởng
chừng như đó là một nghịch lý. Nhưng thực sự đó là một chân lý ngàn đời mà ai
cũng đều biết. Muốn có được hạnh phúc thì phải biết chuẩn bị, chuẩn bị từ những
đau khổ, từ những vất vả của cuộc sống. Nếu nằm không đó mà chờ thì hạnh phúc
sẽ không bao giờ đến được.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm! Lời nói của Phêrô thốt lên
cách vui sướng, nhưng ông không biết mình đã nói gì, vì Thiên Chúa đã cắt ngang
tư tưởng của ông. Chúa Giêsu đã dẫn các ông từ dưới lên núi cao. Ngài cho các
ông nhìn thấy và hưởng được một chút hạnh phúc của cuộc sống mai sau. Các ông
muốn ở lại trong hạnh phúc đó, hạnh phúc mà các ông không cần phải chuẩn bị,
không cần phải tìm kiếm, không cần phải vất vả. Các ông vui sướng, niềm vui
sướng đó khiến các ông bật thành tiếng. Nhưng các ông không nói được hết lời,
sự vui sướng cũng không còn nữa, các ông lặng thinh trong sự tiếc nuối. Chúa
Giêsu lại dẫn các ông trở xuống, không cho ở trên cao nữa, trở về cuộc sống đời
thường, cuộc sống của sự chuẩn bị cho chu đáo để đến hạnh phúc bất diệt, hạnh
phúc chỉ để cho những người biết chuẩn bị.
Lạy Thầy chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nhiều lần trong đời sống
chúng ta cũng đã thốt lên câu đó. Cũng nhiều lần niềm vui của chúng ta không
được trọn vẹn, bị cắt ngang nữa chừng và chúng ta cũng không biết mình đang làm
gì. Điều mình muốn, điều mình đang tận hưởng, điều mình đang hài lòng thì bổng
nhiên không còn nữa. Hằng ngày lại xuất hiện toàn những nghịch lý của cuộc đời:
những điều làm cho mình phải vất vã khó chịu, những điều làm cho thân xác phải
khổ nhọc, những điều làm cho mình phải đau đớn. Chúng ta chỉ biết bực mình, than
van trách phiền, đôi lúc chúng ta muốn trốn chạy để tìm sự sung sướng hơn. Có
khi nào chúng ta tự nghĩ: đây là lúc chúng ta đang đi xuống núi, trở về cuộc
sống đời thường, đây là lúc chúng ta đang chuẩn bị cho hạnh phúc của chính
mình, niềm hạnh phúc mà không ai có thể lấy đi được. Hay chúng ta vẫn còn đang
mơ ước ở trên núi cao, để rồi không biết mình đang nói gì. Vì chúng ta đang
muốn chiếm lấy một điều không có thực, muốn chiếm lấy một điều không phải của
chính mình, chúng ta muốn chiếm lấy một niềm hạnh phúc, một sự sung sướng mà
không cần sự chuẩn bị nào hết. Cũng giống như Phêrô muốn dựng lều ở trên núi,
muốn ở luôn lại nơi không phải của mình. Nhưng Thiên Chúa lại đem chúng ta trở
về cuộc sống thực tại của con người, một cuộc sống đời thường. Chúng ta có mất
mát gì đâu, tại sao lại buồn bực khó chịu, tại sao lại trách móc kêu ca. Nếu
chúng ta không biết chuẩn bị, thì làm sao có thể đón nhận hạnh phúc khi Con
Người từ cỏi chết sống lại. Chúng ta có chu toàn trách nhiệm mình một cách tốt
đẹp, chúng ta có làm tròn bổn phận của mình đối với Chúa chưa? Mọi người nhìn
vào đời sống của chúng ta, họ có thể bắt chước được một chút gương tốt nào nơi
chúng ta không. Nều chúng ta làm được những điều trên, đó là chúng ta đã vâng
lời, nắm tay Chúa Giêsu và đi xuống núi với Ngài để chuẩn bị hưởng hạnh phúc
ngay từ những giây phút hiện tại này thật tốt đẹp.
Xin Chúa cho chúng con biết chấp nhận cuộc sống hiện tại với những
vui buồn sướng khổ theo Thánh ý Chúa, để biết chuẩn bị cuộc sống mai sau cho
xứng đáng.
(Đan Quang Tâm dịch)
MÙA CHAY, NHỚ LẠI VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG
CỦA TA TRONG GIÁO HỘI
Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai mình là Ixaác đặt
toàn bộ việc cử hành Mùa Chay vào trong một ánh sáng tuyệt hảo. Thánh Phaolô ám
chỉ về câu truyện này trong Thư gửi tín hữu Rôma. Tuy nhiên, ông nhắc cộng đồng
rằng Thiên Chúa không những chỉ sẵn sàng hiến tế Con của Người nhưng Người còn
“đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.”
Bởi vì hy tế đó, ta có can đảm và sự tự tin để biết rằng nếu ta
trung thành, ta không có gì phải sợ. Thiên Chúa đã làm tất cả việc này cho
chúng ta, Phaolô viết. Làm sao Người lại lên án chứ?
Tất cả điều này được tái củng cố trong câu truyện Hiển Dung khi
Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đừng mất đức tin trong ngày sắp đến. Trình thuật
Hiển Dung trong Phúc âm Thánh Máccô thực tế chỉ là sự chép lại từng từ trong
Phúc âm của Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Ngay cả các biến cố dẫn đến sự kiện
cũng y hệt.
Điều quan trọng là đặt bài Phúc âm ngày hôm nay vào trong ngữ cảnh.
Theo Thánh Máccô, sự kiện xảy ra sáu ngày sau khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ:
“Người ta nói Thày là ai?” Câu trả lời mà Thánh Phêrô đưa ra cho Người, quen
gọi là lời tuyên tín của Phêrô, “Thầy là Đức Kitô!”, đã đưa Đức Giêsu đến chỗ
báo trước lần thứ nhất về cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người
và vạch ra các đòi hỏi cho các môn đệ. Một lần nữa, Đức Giêsu sắp nhắc nhở các
môn đệ và tất cả chúng ta rằng đây là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa
và từ lúc này trở đi, trong khi tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, Người
sẽ nói về thập giá rất nhiều lần.
Nay, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh
núi và Người hiển dung. Chắc chắn đây là một sự nếm trước về cuộc phục sinh.
Hầu như chắc chắn là các môn đệ vẫn còn tìm cách để hiểu biết đầy đủ điều Đức
Giêsu muốn nói khi bảo họ: “Người sẽ bị giết và sau ba ngày sẽ sống lại.” Nay
họ được giải thích rõ về lời nói đó. Họ xem thấy vinh quang của trời; họ thấy
mối liên quan giữa “lề luật” trong Môsê và các “ngôn sứ” trong Êlia và sứ điệp
mà Đức Giêsu đã và đang rao giảng.
Trong Chủ nhật thứ hai này của Mùa Chay, ta được nhắc đến các vai
trò và trách nhiệm của ta trong Giáo hội. Tất cả điều này đến với ta bằng sự
đoan chắc rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, ta có các nghĩa
vụ với tư cách là môn đệ và ta có sự đoan chắc về Nước Thiên Chúa – mà ta vừa
mới nhìn qua – trước hết trong câu truyện Hiển Dung và rồi trong sự phục sinh
của Đức Giêsu vào sáng Chúa nhật Phục sinh.
“Toàn thể dân Chúa đều có một vai trò để thực hiện trong khi Giáo
Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Bằng các cách thức khác nhau và thông qua mỗi
thành viên theo các năng khiếu và cách hành động thích hợp với ơn gọi của mỗi
người, dân Chúa đáp lại bổn phận công bố và làm chứng cho Tin Mừng (x. 1 Cr
9,16), trong sự nhận thức rằng “hoạt động truyền giáo là một công việc của mọi
Kitô hữu” (Thông điệp Redemptoris Missio, 2) (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội
Giáo hội Công giáo, 538).
“Đời sống cá nhân và xã hội, cũng như hành động con người trong
thế giới, luôn luôn bị tội lỗi đe doạ. Tuy nhiên, “bằng cách chịu khổ vì chúng
ta…, Đức Giêsu Kitô không những làm gương cho chúng ta để chúng ta bước theo
Người, mà Người còn mở ra cho chúng ta một con đường. Nếu đi theo con đường ấy,
cuộc sống và cái chết của chúng ta sẽ được thánh hoá và mặc một ý nghĩa mới”
(Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22). Trong đức tin và thông qua các bí tích,
người môn đệ Đức Kitô gắn bó mật thiết với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu để
con người cũ của mình, cùng với những khuynh hướng xấu, chịu đóng đinh với Đức
Kitô. Rồi khi trở thành thụ tạo mới, họ được ân sủng tăng sức để có thể “bước
đi trong đời sống mới” (Rm 6,4). Điều này “không chỉ đúng với các Kitô hữu, mà
còn đúng đối với mọi người thiện chí, vì ân sủng vẫn đang hoạt động một cách vô
hình trong tâm hồn những người ấy. Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai
ai cũng được mời gọi hưởng chung một định mệnh duy nhất, là định mệnh thần
linh, ta phải tin rằng Đức Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng trở thành
những người thông phần vào Mầu nhiệm Vượt Qua, bằng phương cách chỉ có Thiên
Chúa biết” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22) (sđd, 41).
Khi nói biến hình, người ta nghĩ ngay đến việc thay đổi hình dạng
từ trạng thái này sang trạng thái khác. Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại
việc biến hình của Chúa Giêsu, nhưng Ngài không biến thành một người khác. Chúa
Giêsu biến hình để củng cố niềm tin cho các tông đồ và đồng thời chuẩn bị cho
các ông có thể đón nhận việc Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết nhân vật Tề Thiên Đại Thánh
trong phim "Tây Du Ký" với 72 phép thần thông. Ngộ Không có thể thổi
phù một cái là lập tức trở thành người khác. Điều này diễn tả quan niệm thông
thường của con người: biến hình là trở thành một người khác hay ít ra cũng là
mượn hình dạng của ai đó.
Nếu hiểu như thế thì chúng ta luôn biến hình đổi dạng trong từng
giây từng phút mà chúng ta không biết. Trước tiên, chúng ta có khuynh hướng
muốn biến hình thành người khác. Chẳng hạn, tôi muốn giống ngôi sao ca nhạc,
điện ảnh HôngKông, Hàn Quốc, nên tôi ăn mặc y chang họ từ tóc tai, quần áo cho
đến đồ trang sức của ngôi sao ấy sử dụng. Chính lúc này tôi không còn là tôi
nữa mà là cái bóng của thần tượng đó. Chúa Giêsu mời gọi ta biến hình giống như
Ngài, tức là làm cho hình ảnh của Thiên Chúa nơi tôi được sáng ngời, trở nên
đẹp hơn, để người khác nhìn vào cuộc sống tôi sẽ thấy được Thiên Chúa.
Kế đến, biến hình là chúng ta làm cho mình xấu đi. Chẳng hạn, tôi
đua đòi ăn chơi, xì ke ma túy, chạy theo thú vui xác thịt. Ai cũng có những ước
mơ vươn tới một cái đẹp, cái tốt. Tại sao tôi lại biến mình xấu đi? Chúa Giêsu
mong tôi biến đổi nên giống như Thiên Chúa: thánh thiện, đạo đức.
Vậy để biến đổi theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, thiết nghĩ chỉ có
CẦU NGUYỆN, vì chính lúc ấy chúng ta gặp được Chúa và Ngài sẽ thay đổi chúng
ta. Vì thế, chúng ta hãy sốt sắng cầu nguyện ở mọi nơi, mọi lúc, cố gắng biến
đổi đời sống hằng ngày: ai rượu chè, cờ bạc, gain lận hãy dứt khoát với những
tính xấu của mình, chăm chỉ làm ăn bằng sức lao động của hai bàn tay mình. Ai
nguội lạnh, khô đạo hãy trở về với Chúa. Những ai giận hờn, xích mích nhau hãy
làm hòa với nhau. Hãy biến ánh mắt ganh tỵ thành cảm thông, lời nói chua cay
thành dịu dàng, lời nói phê bình thành lời xây dựng, con tim hận thù thành yêu
thương.
Ước gì từng giây từng phút trong cuộc đời chúng ta là từng giây
phút biến đổi theo hướng tốt hơn, trở về với con người thật của mình là hình
ảnh Thiên Chúa, để hình ảnh ấy ngày càng rõ nét hơn. Thánh lễ hôm nay chúng ta
cầu nguyện cho nhau, xin Chúa cho mỗi người đều được biến đổi thật sự trong Mùa
Chay này, để khi tiếp xúc với ta, mọi người phải thốt lên rằng: "Thật là
hạnh phúc cho tôi, vì tôi đã gặp được Chúa Kitô nơi anh, nơi chị.”
CÂU HỎI GỢI Ý:
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo
mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp trong tâm hồn
con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình.” Bạn có tin điều
đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Tha hồ lựa chọn.
“Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin Mừng.” Lời mời gọi này, Chúa Giêsu
còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc
khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc?
Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta
không?
Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa
chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào
những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị “giảng đạo” xuất
hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo
phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có
thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những
người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ
thật? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này?
Tầm quan trọng của việc lắng nghe.
Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là
thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều
người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái
của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài.” Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là
nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa
nói về những người chống lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta.”
Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được
mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe
Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi
chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải
được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là
Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài.” Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị
ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là
ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ.
Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ
mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể hiện dự tính của
Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay
này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng
ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm
điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé
mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để
làm cho chúng ta trở nên những kẻ “được ưu ái.”
Tin tưởng.
Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi
hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người.
Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực
ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng
Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài
nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu,
nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp
chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn
không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn
nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên
Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền
được gọi là “Con yêu dấu.”
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha,
chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu: núi của Bài Giảng về
các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng
thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng cố niềm
tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi người khai
trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm
thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình. Sự biến đổi này ảnh
hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất, nay được
Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa cũng đã phải che
lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người Kitô hữu
tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như Tôn Ngộ
Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi là con yêu
dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc biến
hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu chúng ta sẽ
được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr
3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với Chúa Kitô
mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm ngắm Chúa
Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi hiến mình,
nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và nhìn mọi
khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi hành
đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo
mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm
hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình.” Bạn có tin điều
đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được những
phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý chuộng những
lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con biết thanh
thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát được lên cao
nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con. Nhờ cầu
nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn
Phúc Âm về sự Biến hình này của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có
thể có nơi các môn đệ là các Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ
lần đầu cuộc khổ nạn của Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ
Chúa cũng chia sẻ niềm hy vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu
Thế toàn thắng và vinh quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một
hành động đức tin. Nhân danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng
sự tuyên xưng ấy chưa bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô
tuyên xưng đức tin vào CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng
nổi là Thiên Chúa lại có thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần
phải gợi lên dần dần trong trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt
họ, sẽ là một gương xấu khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin
của họ. Cũng cần phải củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng
trưng một thời kỳ quan trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con
người đang chờ đợi một Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải
cho họ biết rằng Chúa Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách
nào giúp họ vượt lên được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ
điều này bằng cách cho họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được
vinh quang. Và đó là việc Chúa Biến hình hôm nay.
Chúng ta ghi nhận rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải
gương xấu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại
và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con
Chí Ái của Người.
Chúng ta hãy lưu ý điều này:
1) Đây là Con Chí Ái của Ta.
Điều quan trọng là vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng quả
quyết rằng Chúa Giêsu là con người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật là
Con của Ngài. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ quan
niệm tiếng ‘Con’ như chúng ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã được
biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình
ra và hành động. Họ linh cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh vượt
xa các giới hạn loài người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu, điều đó
cũng có nghĩa là Con duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Chúa
Giêsu có mối tương quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa Giêsu tuỳ
thuộc vào Thiên Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán thêm: Hãy nghe
lời Người. Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi Đấng Cứu thế,
mấy tiếng đó có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự chờ mong của
các ngươi vào Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm kịch Khổ
nạn.
2) Hãy nghe Lời Người.
Lời huấn dụ đó (hay mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng chúng
ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ mỗi người trong chúng ta đều đã biết những phản
kháng của bản tính con người chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa Giêsu chịu
đóng đinh. Chúng ta đều biết rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta là một số
phận quang vinh, nhưng Thiên Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như những người
môn đệ và đưa chúng ta dần dần vượt qua chướng ngại vật của sự đau khổ và sự
chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực chúng ta trong công cuộc này, bằng cách ban
cho chúng ta những giây phút hoan lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi đức tin
của chúng ta. Nói chung thì những giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan trọng là
chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu. Chúng ta có thực hiện được điều mà Người trả
lời cho tất cả những thắc mắc, chờ mong, ước muốn sâu xa nhất của chúng ta
không?
Sự Biến hình của Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai đoạn
trong tiến trình của Chúa tới Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ Phục
Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi của
Chúa tiến tới đích, sự Biến hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu
không dừng lại ở đây. Người tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường
đời mà dần dà mỗi ngày chúng ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho
chính chúng ta, nhịp điệu khổ nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương mẫu
nào, sức mạnh nào sẽ giúp chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa Giêsu;
Đấng đi trước chúng ta, dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của chúng
ta.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác
liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có
thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi
các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền
nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng
cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu
tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả
tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em
nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng
vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ
mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn
toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà
không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu
bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa
vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn
mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi
thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt
khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu.
Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được
vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha
và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã
dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng
Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh
Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì
tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của
Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của
Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên
trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của
Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về
cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá
theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi
Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con
yêu quý của Thiên Chúa.” Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên
Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết
và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá
đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố
lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha,
đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái
chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô
giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình
làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm
chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng
ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu
thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng.
Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm
được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin,
tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ
đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”,
đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha,
để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy
sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha
tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử,
nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái
hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa
Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời
sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng
trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI.
“Đừng kể lại cho ai nghe… cho tới khi Con
Người từ cõi chết sống lại.”
Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người
đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis
biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ
tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức
giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được khi
biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà.”
Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa
toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có
bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta
biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh
quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể
định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của
Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông
đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một
đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát
hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh
Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng
chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của
cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa
rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ,
ngột ngạt của độ cao… và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình:
Phêrô, Giacôbê và Gioan.Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết
được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc
5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp
hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên
Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông
thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.
Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của
Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy
nghe lời Ngài.” Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán
xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải
nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng
nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng.
Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên
Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông
đừng kể lại với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết
rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn
mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự
chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên
Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn
thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra
trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc
khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn thày trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi
Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con
xin dựng ba lều, một cho Thày, một cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta
khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay
chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ, đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. Vinh
quang ấy còn được làm chứng bởi hai nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và
Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng lại bật mí cho các môn đệ. Tôi xin thưa,
chìa khóa của vấn đề được tìm thấy trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ
không được tiết lộ điều mắt thấy tai nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết
sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là Con Thiên Chúa bằng cách phô trương
thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra
trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ
cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh hay nhảy từ trên cao xuống một cách an toàn
thì rồi con người cũng có thể làm được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ mình
Thiên Chúa mới thực hiện được mà thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa một ai
đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng
nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu dương đích thật quyền năng tuyệt đối của Con
Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm chí
cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn
chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là
kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm
nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình
tới mức thánh Phaolô đã coi như là một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu
trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu, đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa.
Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm
nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo
tưởng về một vinh quang trần thế, nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị
Israel và các ông sẽ được chia nhau mỗi người một địa vị. Đồng thời Ngài cũng
chuẩn bị cho các ông khỏi chán nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án
và bị giết chết trên thập giá. Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố
Canvê. Sự biến hình gắn liền với thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh,
thì sự biến hình hôm nay sẽ là một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một
khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy, nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ đau,
dám vác thập giá mà bước theo Ngài thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được
tham dự vào vinh quang Phục sinh với Ngài.
Bộ phim Một Người Chết Đang Bước Đi kể lại câu chuyện của một nữ
tu (Sơ Helen Prejean), trong nhiều tháng, bà hộ tống một người đàn ông (Robert)
đến chỗ bị hành hình ở Lousiana. Chúng ta hãy ghi chú cách Robert cố gắng thu
phục được lòng tin của một trong những người giám sát, đó là một hình ảnh tử tế
và nhân hậu của người cha, sơ Helen đã phản ánh lại hình ảnh này như sau:
Không bao giờ Robert thực sự có một người cha. (Trong số 53 năm
tuổi đời của anh, cha anh đã sống 27 năm tại một nhà tù). Điều này làm cho tôi
nghĩ đến cha tôi. Thật là một trong những cảm giác quí giá nhất trong cuộc đời,
khi biết rằng cha bạn tự hào về bạn. Tôi là một môn sinh của cha tôi, là người
lưu giữ cho ông cuốn nhật ký cuộc hành trình nghỉ mát của gia đình. Ông luôn
luôn có một giọng nói đặc biệt, mỗi khi giới thiệu tôi với các bạn bè và đồng
nghiệp của ông: “Đây là Helen, con gái nhỏ của tôi.” Trước sự hiện diện của
những người xa lạ, tôi cứ im lặng, nép sát vào người ông, nắm chặt bàn tay ông.
Sau đó, tôi sẽ siết chặt bàn tay của ông hơn bao giờ hết, và một lần nữa, có
đầy rẫy những câu hỏi và ríu rít nói chuyện với ông. Một đứa trẻ có thể ngây
ngất cảm giác an toàn bên một người cha.
Câu chuyện này có thể giúp chúng ta hiểu được một số nét nào đó về
cảm nghiệm núi Tabor đối với Đức Giêsu. Trong cuộc đời của Người, có một thời
điểm rất khó khăn, một thời điểm không biết chắc chắn và lo sợ về tương lai.
Người đã tiến về Giêrusalem, tại đó, Người cảm nhận được rằng cùng một số phận
giống như tất cả các ngôn sứ đang chờ đợi Người – một cái chết khủng khiếp. Tự
nhiên, Người muốn thoái lui khỏi số phận đó. Để suy niệm và cầu nguyện, Người
đã lên núi Tabor.
Chúng ta không biết chính xác điều gì xảy ra trên núi. Nhưng dường
như Người có một cảm nghiệm sâu sắc về sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nghe
được những lời nói tuyệt vời “Đây là Con Cha yêu dấu.” Trên núi Tabor, Đức
Giêsu đã được an ủi và xác nhận. Người biết rằng Cha Người hài lòng về Người,
và sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với một tương lai tối tăm và đầy đe
dọa. Với Thiên Chúa đứng về phía mình, Người có thể đương đầu với tất cả mọi
sự.
Đôi khi, cuộc sống có thể trở nên tối tăm với tất cả chúng ta. Có
rất nhiều tiếng nói đối với chúng ta “Chỉ khi nào thành công, hoặc nổi tiếng,
thì bạn mới là một người tốt.” Nhưng vẫn có một giọng nói thì thầm trong tâm
hồn chúng ta “Con là đứa con trai / con gái yêu dấu của Cha.” Chúng ta cần phải
chú ý đến giọng nói này. Chúng ta phải nhận ra rằng mình là những người con yêu
dấu của Thiên Chúa, và cố gắng sống cuộc đời của mình nhờ ánh sáng chân lý của
Người.
Jean Vanier đã thiết lập nhiều cộng đoàn dành cho người bị bệnh
tâm lý. Ông kể lại rằng ở một trong những cộng đoàn đó, có một người đàn ông
tên là Pierre, bị mắc bệnh tâm lý. Ngày kia, có người hỏi Pierre “Anh có thích
cầu nguyện không?”
Anh trả lời “Có chứ.”
Người kia hỏi “Anh làm gì mỗi khi anh cầu nguyện?”
Pierre trả lời “Tôi lắng nghe.”
“Và Thiên Chúa nói gì với anh?”
Người nói “Hỡi Pierre, con là con trai yêu dấu của Ta.”
Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình
an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh
quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc
1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một
người con trai. Đó là người con duy nhất của Abraham với vợ chính là Sara, lúc
ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Abraham và Sara,
nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham,
nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên
Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên
Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận “lòng
tôn kính và tin yêu” của Abraham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa
muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức
tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác
và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở
lại câu chuyện của Abraham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương
tâm của một người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết
lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững
lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp
hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn
chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên
Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà
Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có
thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị
mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận
và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong
đau khổ thật sâu xa, đó là “Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ.”
Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có
thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi
Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn.
Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối
thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta,
khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta
gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính
khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho
chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại
cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người
thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau…
Thiên Chúa đóng kín cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người,
nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt
đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực
mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để
mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta
sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người
chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa
chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt
đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta
đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải
cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng
và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói: “Chạy trời không khỏi nắng”, nghĩa là ở
đâu cuộc đời cũng có những khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày
ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy
đau khổ có giá trị gì không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho
đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế,
những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng
đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự
cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu
nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: “Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng,
hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho.”
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?
Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu sẽ
để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê
và Gioan, là những người sẽ chứng kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn cây
dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh vinh
quang của nước Chúa. Việc Chúa biến hình có mục đích là củng cố đức tin và đức
cậy của các tông đồ, trong cái viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Sau
cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các tông đồ không được thuật lại cho ai những
điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các
tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại
nghĩa là gì?
Trong Mùa Chay ta cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời
Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi
Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục,
thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mc
8:31). Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau
khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ
hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho các tông đồ kéo riêng Người ra và
trách Người (Mc 8:32).
Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh: Thày mình bị
bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính
tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết
trên thập giá. Những cảnh bách hại và lăng nhục Thày mình phải chịu làm các
tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu
tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách
hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình đã sống lại họ trở nên hoang mang,
không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh họ mới trở
nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ
cái niềm vui phục sinh của Thày mình, họ cũng đã phải trải qua những bách hại,
chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ
không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thày, họ cũng bách hại các con
(Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần đã hiểu được từ cõi chết sống lại
như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử
đạo, cũng đã hiểu đuợc từ cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý
hình hành xử.
Đối với ta, tư cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi
người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống
thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta
cũng được sống lại từ cõi chết. Cái tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống
lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng
trải qua những cuộc chết đi sống lại nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng
không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời
này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa,
và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống
lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho
tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính
nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa.
Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất mà không mục
nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái
(Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về
đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý
nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại như thế nào.
Bài Tin Mừng về việc Chúa hiển dung còn gọi là Chúa Biến Hình hôm
nay nằm trong phần đầu của phần III nói về Mầu Nhiệm Con Người. Sau khi loan
báo về cuộc Thương khó và Phục Sinh lần thứ nhất, Chúa Giêsu dạy cho các tông
đồ và các môn đệ, là những người đi theo Ngài về Thập Giá, về Từ bỏ. Sau đó
Ngài liền củng cố ngay niềm tin cho các Tông đồ bằng biến cố hiển dung như một
lời trấn an trước đau khổ, Thập giá và cái chết, hơn nữa như một lời khẳng
định: chỉ có con đường Thập giá mới dẫn tới cuộc sông vinh quang Phục sinh. Giơ
đây, chúng ta hãy cùng ba môn đệ lên núi, chiêm ngắm cuộc biến đổi kỳ lạ này để
học được tâm tình của Chúa Giêsu.
“Sáu ngày sau....” ý nói về một khoảng cách gần sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc
thương khó và sự chết của Ngài. Lần này, Chúa Giêsu chỉ dắt ba ông đi riêng ra,
đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúng ta thấy đây là nhóm nòng cốt của tập đoàn
12 vị là. Ba vị này: một người là thủ lãnh, cầm đầu Giáo Hội sau này; một vị là
Giám mục tiên khởi Jérusalem và một vị được mệnh danh là “Người được Chúa yêu.”
Thánh sử Máccô ghi rõ “chỉ mính các ông thôi tới một ngọn núi cao.” “Núi cao” ý
nói vinh quang Thiên Chúa sẽ được tỏ hiện trên đó và đúng thế “Người biến dổi
hình dạng trước mắt các ông.” Đây chính là mục đích mà Chúa Giêsu dẫn ba ông đi
riêng ra, tách biệt khối nhóm 12. Sự biến đổi của Ngài được miêu ta phủ đầy ánh
sáng chói loà. Ánh sáng trắng ấy không có thợ nào ở trần gian làm được. Đây
chính là vẻ huy hoàng từ nơi Thiên Chúa, ánh sáng chiếu dọi của Con Chiên trong
sách Đaniel và sách Khải Huyền. Cùng lúc ấy, các ông thấy Môsê và Êlia xuất
hiện, trò chuyện với Chúa Giêsu. Hai vị thuộc thế hệ Cựu Ước, đại diện cho lề
luật và các Ngôn sứ, có ảnh hưởng rất lớn đối với người Do Thái. Hai vị đàm đạo
với Chúa Giêsu về cuộc vượt qua của Ngài tại Giêrusalem (x. Lc 9,31) Ý nói toàn
bộ lề luật và các Ngôn sứ; nói đúng hơn toàn bộ Kinh Thánh đều qui về Chúa
Giêsu và làm chứng rằng Chúa Giêsu là người hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia.
Ngài là Người Tôi Tớ đau khổ trong Isaia, là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ nhân loại
ẩn mình. Ngài chính là Thiên Chúa đến gánh tội trần gian (x. Ga 1,29), là Đấng
Trung gian đưa Thiên Chúa đến với con người và qui tụ con người đem về cùng
Thiên Chúa.
Lúc này, Phêrô theo cảm tính đã bày tỏ tâm tình muốn ở lại trong
vinh quang này mãi. Ông thưa rằng: Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay. Ông
không biết ý kiến của hai ông kia thế nào, nhưng ông cảm thấy ý của mình có lẽ
là tốt nhất, tuyệt vời nhất. Nếu Chúa đồng ý, ông sẽ dựng ba cái lều cho ba vị,
còn ông và các bạn không cần chốn nương thân. Thấy sự lúng túng và chỗ hổng
này, Thánh Sử Maccô viết một câu như muốn biện minh cho câu nói thiếu hụt ấy:
Ông không biết phải nói gì vì kinh hoàng. Qua câu này, chúng ta lại thấy rõ hơn
vẻ huy hoàng chói lọi toát ra từ con người Giêsu, một con người cùng ăn cùng
uống “ người trần mắt thịt” mà nay đột nhiên biến đổi kỳ diệu, đến nỗi người
môn đệ cùng sống với Ngài đã thốt lên những lời vô nghĩa, còn hai ông kia không
nói được gì cả.
Giờ đây là giờ Thiên Chúa hành động: một đám mây, có tiếng phán:
và xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, con người chỉ còn một bổn
phận là VÂNG NGHE LỜI NGÀI mà thôi. Một mạc khải, một xác tín, một lệnh truyền.
Chúa Cha mạc khải cho ba môn đệ biết: Chúa Giêsu là Con Yêu dấu của Ngài, chính
Chúa Cha khẳng định với các ông điều này qua sự hiện diện và lời nói của Ngài
trong đám mây. Ngài ra lệnh đòi buộc các ông: hãy nghe lời Con của Ngài. Đây là
một mạc khải từ Thiên Chúa; Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu, người Nagiarét, cùng
ăn cùng uống với các ông đây là Con Thiên Chúa. Ngài là Con Yêu Dấu của Chúa
Cha vì luôn làm đẹp lòng Cha, luôn chọn Thánh Ý Cha làm lương thực nuôi sống
mình (x, Ga 4,34). Bây giờ, Chúa Cha cũng muốn các môn đệ, những người đi theo
Chúa Giêsu. Hãy bắt chước Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã tuân giữ ý Cha, thì các
ông hãy vâng giữ lời Chúa Giêsu, chính là tuân hành Thánh Ý Chúa Cha vậy.
Cuộc hiển dung kết thúc sau khi tiếng phán chấm dứt, các ông nuối
tiếc nhìn quanh, nhưng chỉ còn hiện tại: Chúa Giêsu và các ông mà thôi. Sau
biến hình, mọi sự trở về bình thường, một Giêsu bằng xương bằng thịt... có dễ
lôi cuốn các ông vào con đường Thập Giá, con đường Vượt Qua hay không?
Trong câu 9 và 10. Chúa Giêsu ra lệnh các ông phải giữ kín những
điều mới xảy ra, mà chỉ được rao truyền sau khi Ngài sống lại. Chúa Giêsu muốn
giữ kín bí mật Mêsia, bí mật Con Thiên Chúa khi Ngài còn đang sống trên trần
gian này. Các ông vâng lời, nhưng vẫn thắc mắc “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là
gì? Từ “sống lại”, từ “phục sinh” vượt xa tầm trí hiểu của các ông; các ông vẫn
cho rằng: chết là hết. Các ông vẫn chưa hiểu và tin vào sự sống lại.
Ngày nay, mỗi người chúng ta được biến đổi hàng ngày. Chúng ta
thường chú ý về những biến đổi về thể xác, về kiến thức, về địa vị, danh
vọng... Có bao giờ chúng ta để ý chăm chút, nuôi dưỡng để biến đổi về tâm hồn,
về đời sống tâm linh của chúng ta chưa?. Nếu chưa, chúng ta hãy mau đến với Bí
Tích Thánh Thể, nơi đó chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta cách biến đổi theo ý
Chúa Cha, biến đổi để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng vời Con Chí Ái của
Người là Đức Giêsu Kitô khổ nạn và Phục Sinh. Amen.
Tại sao ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được
diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú
giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày trước đây khi Ngài loan báo về những đau
khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy,
không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút
đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước của Thầy, vì những tư tưởng của con
không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy, thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều
thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có
thể xác quyết: hành trình của đức tin giống như hành trình của một chiếc tàu đi
biển. Có lúc được nâng lên cao, có lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm
cao và những điểm thấp của nó. Có lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi.
Có những lúc bùng sáng, thì cũng có lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị
tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc
trong đêm tối, nhưng có những lúc ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ
một vài tháng sau, tại vườn cây dầu tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê,
các ông người thì chối Chúa, kẻ thì bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta
cũng vậy, có những lúc lên cao và có những lúc xuống thấp… Khi lên cao, chúng
ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới
Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng
ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không
còn đón nhận những lời chúng ta kêu xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà
chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc
sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị xuống thấp như thế chúng ta phải làm
gì?
Tôi xin thưa, hãy noi gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của
ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con
duy nhất là Isaac, đem nó lên núi mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho
ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào
Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và
ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử
thách đức tin của chúng ta. Tâm hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản
thân chúng ta thì khổ đau buồn phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào
Chúa như Abraham ngày xưa, bởi vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh
Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó
sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu
mến Ngài.
Có những lúc chúng ta phải đương đầu với một tình huống mà khi ấy
chúng ta không thể thốt lên lời được. Có lẽ không phải tất cả chúng ta đều đã
trải qua kinh nghiệm về những khoảnh khắc như vậy một cách có ý thức. Tuy
nhiên, tôi tin rằng nếu chúng ta thường xuyên phản tỉnh về cuộc sống của mình,
chúng ta sẽ nhận ra có rất nhiều khoảnh khắc như thế trong cuộc đời của mình.
Khả năng nhận ra những khoảnh khắc kinh ngạc và đáng sợ ấy phù thuộc vào tình
trạng thanh tĩnh và thinh lặng của tâm hồn chúng ta.
Có những lúc trong cuộc đời, chúng ta sống và làm việc như cái
máy, không có chút phản tỉnh nào về cuộc sống của mình. Chúng ta có quá nhiều
việc phải làm. Vì thế, sự bận rộn liên lạc này dễ bị Satan lợi dụng để lôi kéo
chúng ta ra xa ơn gọi căn bản của mình, là ơn gọi sống trong mối liên hệ gắn bó
với Thiên Chúa. Hầu có thể sống gắn bó mật thiết với Thiên Chúa, chúng ta cần
dành thời giờ để phản tỉnh trong sự bình an và thinh lặng của tâm hồn. Sự bận
rộn thái quá ngăn cản chúng ta thực hiện việc này.
Chúng ta xin Chúa Thánh Thần ban ơn soi sáng để nhận ra và xác tín
chúng ta cần có những khoảng thời gian thoát ra khỏi sự bận rộn của đời sống
thường ngày, và can đảm đi đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện và suy nghĩ.
Các sách Tin Mừng cho chúng ta biết chính Chúa Giêsu cũng thường xuyên làm như
vậy. Chúa Giêsu biết rõ việc cầu nguyện giúp mình giữ được sự sáng suốt và gắn
bó với Chúa Cha. Chỉ khi nào chúng ta sống trong thinh lặng với Thiên Chúa và
phản tỉnh về ý nghĩa sâu xa của cuộc đời mình, lúc đó những việc chúng ta làm
trong thế giới này mới có giá trị. Nếu hành động của chúng ta không dựa trên
việc chúng ta sống gắn bó với Thiên Chúa thì rồi cuộc đời của chúng ta có lẽ
cũng chỉ như “Dã tràng xe cát biển đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.”
Xã hội ngày hôm nay làm cho con người có nguy cơ đánh mất khả năng
dừng lại để sống trong thinh lặng và suy nghĩ phản tỉnh. Đó là một nguy cơ làm
cho sự liên hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa, là Đấng đã tạo dựng nên chúng ta,
bị buông lỏng và dần dần bị cắt đứt hoàn toàn.
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có
vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên
là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai
chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm
trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai
thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh
quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố
niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh
quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách
đây ít lâu, trên đài truyền hình thành phố, chúng ta rất thích thú được xem các
trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần
một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một
trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến
hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay
đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa
Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình
dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao
siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các
ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông
thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên
Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ
biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài
là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm
sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc
lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong
công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của
việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên
Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ,
động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là
sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ,
Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh
quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng
muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ
rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn
chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối
trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân
thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô
gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại
cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng
đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm
hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy
từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền
nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những
mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô
gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món
quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc
bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm
chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta,
Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho
chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng
khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập
giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con
người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu
không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề,
trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta
thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo
Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và
mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá,
chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ
chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau
khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng
nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được
sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết
mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý
nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử
thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo
vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời
này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ
tuổi như sau: "Vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của
cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa và nói
năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét
bơ trên bánh mì và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui
sướng và yêu thương trong gia đình của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động
đến nỗi không thể nào nói được."
Maslow gọi lúc đó là giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút
ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu
thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào
những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn
thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà
Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm
nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong
một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên
Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí
báu, họ đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút
quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội
diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc
biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay?
Tại sao nó không được đặt giữa những bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra
ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem
chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên:
"Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan!
Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải ý tưởng của Thiên
Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc
mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình
giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay. Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính
tinh thần này trước khi xoay sự chú ý của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu
trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng ta một sự gì đó để nhìn vào trong những
giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người chúng ta, cũng có một phần của Adong và một
phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những
giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta
bị loà luôn. Trong những giây phút này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với
Thiên Chúa y như là chúng ta cảm thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên
Chúa.
Và chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần
của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay
và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không
biết Thiên Chúa có hiện hữu hay không.
Trong những giây phút ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời
Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa
Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng
sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay
Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
Sau khi nghe đọc đoạn Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự
hỏi:
- Tại sao Chúa Giêsu lại tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ
thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
- Đó là để soi sáng và củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ, những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã
không muốn hiểu và không muốn chấp nhận những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử
nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa Giêsu cũng đã nói với các ông:
- Con Người sẽ phải lên Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết
chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã
khiển trách ông nặng lời:
- Hãy cút đi hỡi Satan, ngươi chẳng hiểu gì về những việc của
Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc
tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của các ông bị chao đảo và mối cậy trông của
các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các
ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản, không còn hy vọng, không còn can đảm, không
còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu
muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp các ông chiến thắng trong những giờ phút
tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm
cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong
cuộc tử nạn các ông, người thì chối bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là
vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang
Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho
đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến hình đã tạo được một tiếng vang cho đến
tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại cho chúng ta một bài học, một niềm an
ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua
xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ
được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi sống ngàn thu. Vinh quang ấy không
phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi
mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian, chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất
khách quê người, chúng ta không bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh
Phaolô đã diễn tả: Hiện tại chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một
tấm gương, nhưng rồi chúng ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến
Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ
hạnh phúc vượt trên những điều chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô cũng bảo:
- Những đau khổ đời này thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được
với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng
bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta. Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người
bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia
sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh
quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
(Trích trong Tinmung.net)
Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có
vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên
là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai
chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm
trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai
thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh
quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố
niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh
quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách
đây khá lâu, trên nhiều đài truyền hình, chúng ta rất thích thú được xem các
trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần
một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một
trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến
hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay
đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa
Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình
dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao
siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các
ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông
thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên
Chúa” của Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ
biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài
là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm
sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc
lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong
công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của
việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên
Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ,
động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là
sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ,
Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh
quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng
muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ
rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn
chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.
Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối
trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân
thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô
gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại
cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng
đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm
hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy
từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền
nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những
mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô
gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món
quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được
bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá
làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng
ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến
cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng
khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập
giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con
người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu
không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề,
trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta
thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo
Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và
mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá,
chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ
chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau
khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng
nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được
sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết
mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý
nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử
thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo
vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời
này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
Thánh Phaolô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đứng về phía chúng
ta. Do đó, gian truân, đau khổ, và cả sự chết cũng không thể tách rời chúng ta
ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu mà chúng ta nhận thấy nơi Đức
Kitô.
Maya Angelu, một thi sĩ và tác giả người Mỹ, là một người phụ nữ
khôn ngoan và cũng có đời sống thiêng liêng. Chị kể là vào một ngày kia, chị đã
được thức tỉnh về mặt tôn giáo. Điều này xảy ra theo một cách thức rất đơn
giản. Chị ngoài 20 tuổi, và vừa mới di chuyển đến San Francisco. Chị nói rằng
lúc đó, chị là một người tích cực theo thuyết bất khả tri. Điều này không có
nghĩa là chị không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa nữa, mà chỉ là dường như Thiên
Chúa không còn ở nơi những người sống chung quanh mà chị thường hay giao du với.
Thế rồi có một giáo viên giới thiệu với chị một cuốn sách tựa đề là Những Bài
Học về Chân Lý. Chị kể rằng vào một ngày kia, người giáo viên đó yêu cầu chị
đọc cuốn sách đó cho ông ấy. Tôi lên 24 tuổi có học thức và cũng rất trần tục.
Thầy giáo của tôi yêu cầu tôi đọc một phần trang sách chấm dứt bằng câu “Thiên
Chúa yêu thương tôi.” Tôi đã đọc đến đây rồi gấp sách lại, nhưng thầy giáo bảo
tôi “Cứ đọc lại đi.” Tôi mở sách ra, và đọc một cách mỉa mai “Thiên Chúa yêu
thương tôi.” Ông bảo “Đọc nữa đi.” Sau đến 7 lần đọc đi đọc lại tôi bắt đầu cảm
thấy rằng câu nói đó có thật, và có thể Thiên Chúa đã thực sự yêu thương tôi.
Vâng, Người yêu thương tôi, Maya Angelu.
Đột nhiên, tôi bắt đầu khóc to. Tôi biết rằng nếu Thiên Chúa yêu
thương tôi, thì tôi có thể làm được những điều kỳ diệu, tôi có thể làm được
những điều vĩ đại, học hỏi, hoàn tất được bất cứ thứ gì. Bởi vì cái gì có thể
chống lại tôi, nếu Thiên Chúa ở với tôi, bởi vì bất cứ người nào ở với Thiên
Chúa, thì đều tạo được ưu thế.
Đối với Maya Angelu, mặc dù chị vẫn tin tưởng nơi Thiên Chúa,
nhưng dường như Người quá xa vời và không có thật. Chỉ đến khi chị tin tưởng
rằng Thiên Chúa yêu thương mình, thì Thiên Chúa mới có thật đối với chị. Thế
rồi niềm tin đó đem lại năng lực cho chị. Đột nhiên, chị cảm thấy rằng mình có
thể làm được tất cả mọi sự, đương đầu với bất cứ thứ gì, bởi vì Thiên Chúa yêu
thương chị và ở với chị. Đức Giêsu vừa mới bắt đầu cuộc hành trình lên
Giêrusalem của Người. Cho đến thời điểm này, chủ yếu Người làm việc ở Galilê.
Ngay cả ở đó, khu vực mà Người lớn lên. Người đã gặp nhiều sự chống đối từ phía
các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng khi lên Giêrusalem, Người cảm nhận được rằng
một cái chết khủng khiếp chờ đợi Người tại đó. Tự nhiên, Người thoái lui trước
số phận. Dường như Người phải suy niệm và cầu nguyện về điều này, và phải đi
lên đỉnh núi Tabor.
Đức Giêsu có một kinh nghiệm tuyệt hảo trên ngọn núi đó. Người
lắng nghe những lời nói tuyệt vời này “Con là Con Cha yêu dấu, Cha hài lòng về
Con.” Nói cách khác, Người biết rằng Thiên Chúa yêu thương Người. Lời xác nhận
này sẽ ban cho Người sức mạnh để đương đầu với tương lai, bất kể nó tiếp diễn
ra sao. Vấn đề của chúng ta là ngay khi gặp rắc rối, lòng tin của chúng ta bị
lung lay. Chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa bỏ rơi mình. Nhưng nếu cầu nguyện,
chúng ta sẽ nhận ra rằng Thiên Chúa không hề bỏ rơi chúng ta, nhưng Người hằng
ở với chúng ta trong khi chúng ta gặp gian khổ.
Trong tất cả mọi lúc, đặc biệt trong những lúc khó khăn, chúng ta
nên ghi nhớ lời thánh Phaolô “Thiên Chúa đứng về phía chúng ta.” Và khi Thiên
Chúa đứng về phía chúng ta, chúng ta có thể đương đầu với bất cứ điều gì.
Cách nhận biết rằng không gì có thể chia cách chúng ta khỏi tình
yêu của Thiên Chúa, đó là sức mạnh trong những lúc yếu đuối, và niềm hy vọng
của chúng ta những khi gặp nghịch cảnh. Khi gặp đau khổ, tất cả điều chúng ta
phải làm là phó thác thân mình cho sự chăm sóc của Người. Giống như Đức Giêsu
trên núi Tabor, chúng ta cũng có thể cảm nghiệm được những giây phút hiếm hoi
của ánh sáng và niềm vui. Chúng ta được thoáng nhìn thấy đất hứa mà chúng ta
đang tiến tới trong lòng tin. Trong tình yêu của Người đối với chúng ta, ngay
trên trái đất này. Thiên Chúa cho phép chúng ta nếm được những niềm vui của thế
giới sắp đến.
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức Phương)
Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Chay. Trong Chúa Nhật II
Mùa Chay, bài Phúc Âm cả ba chu kỳ năm A (Matthêu 17: 1-9), năm B (Matcô 9:
2-10), và năm C (Luca 9:28-36) đều nói đến việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân
tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao cầu nguyện và Ngài ‘biến hình’ trước
mặt các ông. Tuy có một vài chi tiết nhỏ khác nhau, nhưng cả ba Thánh Sử đều
ghi lại ‘dung nhan Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, áo Ngài trắng tinh tuyền…’;
rồi các ông cảm thấy thật hạnh phúc và muốn ‘dựng lều’ để ở lại trên đó luôn.
Đặc biệt cả ba Thánh Sử đều ghi lại lời Chúa Cha nói: “Này là Con ta yêu
dấu!...” Đây cũng là lời Chúa Cha nói về Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu chịu
Phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả (Matthêu 3:17). Lời này nhắc đến Thánh vịnh
2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con!” và lời tiên tri Isaia “Đây là
tôi tớ Cha, Ta hài lòng về Người” (Isaia 42:1).
Bài Đọc I trong cả năm A, năm B và năm C đều nói về tổ phụ
Abraham. Ông Abraham đã được coi như người Cha của những người có lòng tin nơi
Chúa (The Father of Believers). Ông đã tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa là Đấng đã
gọi ông và ông đã vâng theo lời Chúa, từ bỏ quê hương của mình là đất Ur và ra
đi đến nơi Chúa chỉ cho ông là đất Palestine (Năm A: Sáng Thế 12: 1-4). Thiên
Chúa đã ký kết với ông một giao ước cho dòng dõi của ông tồn tại và phát triển
và được hưởng phần đất Palestine làm gia nghiệp (Năm C: Sáng Thế 15: 5-12,
17-18). Abraham đã thấy rõ tình yêu thiên Chúa đối với ông. Ông luôn luôn tin
tưởng nơi Chúa và chấp nhận mọi thử thách, gian nan trong cuộc sống theo Thánh
ý Chúa. Cả khi Chúa thử thách ông và bảo ông hy sinh người con trai duy nhất
của ông là Isaac cho Chúa, ông đã sẵn sàng ngay (Năm B: Sáng Thế 22:
1-2,9,10-13,15-18). Dù Isaac không bị giết, nhưng tấm lòng của Abraham đã chứng
tỏ niềm tin và tình yêu tuyệt đối của ông đối với Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả
để đáp trả tình yêu Chúa.
Bài Đọc II (Roma 8: 31-34) nhắc đến tình yêu muôn đời của Thiên
Chúa đối với chúng ta; đã tạo dựng chúng ta “theo hình ảnh Chúa”, cho chúng ta
vượt xa mọi loài thụ tạo, chúng ta có xác, và cũng có hồn thiêng, được chung
hưởng cuộc sống đời đời với Chúa. Hơn nữa, cũng vì yêu thương chúng ta, ‘Thiên
Chúa đã hy sinh chính Con một yêu dấu của Ngài để hy sinh đền vì tội lỗi chúng
ta!”
“Tình yêu đáp trả tình yêu!”
Mùa Chay là thời gian ‘thuận tiện’ để chúng ta suy gẫm về tình yêu
Chúa đối với nhân loại và mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để đáp trả lại
tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta có dám hy sinh tất cả DANH, LỢI,
THÚ để sống trọn vẹn cho Chúa, để hoàn toàn tận hiến cho Chúa, dám cùng chết đi
với Chúa theo tính xác thịt của chúng ta, từ bỏ tính hư nết xấu, chết đi thật
cho tội lỗi để có thể sống lại thật với Chúa trong Mùa Phục Sinh.
Cuộc đời là một thử thách không ngừng qua các lỡ làng, đau khổ
hàng ngày, mà bản tính con người lại thích an hưởng, thích ‘dừng lại’ và ‘dựng
lều’; nhưng thử thách cứ luôn xảy ra, và mỗi người chúng ta đều “phải chịu
nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa!” (Công Vụ Tông Đồ 14,22). Chính
Thánh Phêrô cũng muốn ‘dựng lều’ để hưởng hạnh phúc êm đềm khi Chúa ‘biến
hình’; nhưng không được, Thày trò phải ‘xuống núi’, phải đối diện với thực tế,
với bao gian truân vất vả trên đường truyền giáo, rồi cũng phải chịu khó khăn
và chịu chết.
Xin cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thập Giá của Chúa, để can đảm
“bỏ mình đi, vác thánh giá hàng ngày theo chân Chúa” (Matcô 8, 34…) đến đỉnh
núi Gôn-gô-ta, và chấp nhận thử thách cuối cùng là cái chết, ‘chịu táng trong
mồ’, để có thể ‘được sống lại và lên trời vinh hiển’, hưởng hạnh phúc đời đời
với Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh.
Câu chuyện Thiên Chúa yêu cầu Abraham hy sinh người con trai Isaac
của ông là một câu chuyện lạ. Trên thực tế, đây là một câu chuyện gây sốc. Điều
làm cho chúng ta cảm thấy rắc rối nhất là hình ảnh Thiên Chúa tình cờ bắt gặp.
Tuy nhiên, chúng ta phải cố gắng hiểu được ý nghĩa mà câu chuyện
muốn chuyển tải. Câu chuyện này dạy cho chúng ta một điều gì đó rất quan trọng,
và là một câu chuyện rất hay, đưa ra một hướng trái ngược với điều mà nó hy
vọng để lại cho người nghe, bắt đầu bằng cách dường như muốn nói rằng Thiên
Chúa chấp nhận sự hy sinh của con người, và thậm chí có khi Người còn đòi hỏi
sự hy sinh đó nữa. Nhưng đối tượng của câu chuyện là nhằm chỉ ra một điều trái
ngược hẳn lại. Đó là cố gắng chỉ ra cho chúng ta rằng trên thực tế, sự hy sinh
của con người trái với ý muốn của Thiên Chúa.
Và câu chuyện đã kể lại về điều này một cách rất thú vị. Dường như
yêu cầu của Thiên Chúa đối với Abraham là quá tàn bạo và bất công, đến nỗi làm
cho chúng ta muốn kêu lên “Hãy ngưng lại đi! Điều này sai trái. Điều này khủng
khiếp!.” Chúng ta phải suy xét lại ý tưởng ông già Abraham bị Thiên Chúa đòi
hỏi phải hy sinh người con trai Isaac của ông. Cảm giác khiếp sợ của chúng ta
được nâng lên, nhờ gánh nặng của niềm hy vọng đặc biệt mà Isaac đã được mang trên
vai – làm trọn lời hứa rằng Abraham sẽ có vô số con cháu.
Mục đích của câu chuyện là khơi gợi lên nỗi khiếp sợ về ý tưởng
rằng Thiên Chúa đòi hỏi con người phải hy sinh. Sống giữa những người Canaan
vốn là những người thực hành hy tế theo kiểu nhân loại, nên bằng cách này hoặc
cách khác, Abraham đã có ý nghĩ rằng Thiên Chúa đang đòi hỏi nơi ông hành động
hy sinh này. Nhưng Thiên Chúa đã chỉ ra cho ông cách thế khác. Câu chuyện này
có ý muốn đặt dấu chấm hết cho sự hy sinh của con người đối với Thiên Chúa.
Tại sao Thiên Chúa lại muốn thử Abraham? Để cho cả thế giới biết
rằng nếu có người nào đó nói với chúng ta “ Nhân danh Thiên Chúa, tôi phạm tội
giết người”, thì chúng ta sẽ biết rằng người đó nói dối. Đó là ý kiến nhất trí
của truyền thống Do thái Chính thống. Thật đáng buồn, việc giết người nhân danh
Thiên Chúa đã được thực hiện một cách phổ biến qua nhiều thời đại. Ngay cả
trong thời đại của chúng ta, vẫn có những kẻ giết người vì niềm tin tôn giáo,
và họ nghĩ rằng làm như thế là họ đang tôn vinh Thiên Chúa. Tháng 10 năm 1995,
Yigal Amir, một tín đồ Do thái Chính thống, đã bắn chết Yitzhak Rabin. Thỉnh
thoảng, những người Palestine mang bom tự sát đánh lại người Israel, giết chết
đàn ông, phụ nữ, trẻ con vô tội, đều là những tín đồ Hồi giáo chính thống. Năm
1994, Paul Hill, kẻ đã giết chết một bác sĩ và người cận vệ của ông bên ngoài
một dưỡng đường phụ sản, là một cựu linh mục thuộc Giáo hội Trưởng lão ở
Scotland. Đây chỉ là một ví dụ. Thiên Chúa không muốn lấy điều ác đáp trả lại
điều ác, lấy đau khổ đáp trả lại đau khổ, lấy mạng đền mạng. Các trang lịch sử
nhuộm tràn đầy máu do những người tự cho mình là “kẻ báo thù của Thiên Chúa.”
Những vua chúa và nguyên thủ các quốc gia đã giết chết người, đòi hỏi uy quyền
và ân sủng của Thiên Chúa cho những hành động đen tối của họ.
Câu chuyện trên chứng tỏ rõ ràng về chiều sâu nơi lòng tin của
Abraham.. Ông được chuẩn bị để hy sinh điều quí giá nhất của ông. Lòng tin
ngoại hạng của ông đã được trọng thưởng một cách đặc biệt. Không có gì đáng
thắc mắc, khi chúng ta gọi ông là “cha của những kẻ tin.”
Câu chuyện trên lên án tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách cướp
đi một mạng sống. Nhưng Đức Giêsu đề cập đến một điều gì đó mang tính cách
thách đố hơn nhiều: đó là tư tưởng tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tự cống hiến
chính cuộc đời của mình, để phục vụ Thiên Chúa và người khác. Người đã đưa ra
một gương mẫu nơi chính bản thân Người. Thiên Chúa không hề đòi hỏi nơi Đức
Giêsu mạng sống của Người. Nhưng Đức Giêsu đã tự hiến thân mình một cách tự do,
trong việc phục vụ Thiên Chúa và người khác. “Cống hiến chính cuộc đời của
mình” không nhất thiết là phải chịu chết. Điều này có nghĩa là sống vì người
khác.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và
đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong
lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra
là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ
phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến
tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền
tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn
trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh
truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao
con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của
Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả
chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên
Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như
Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng
đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin
chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ
của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết của người thân yêu làm cho
cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng
ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một
khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa làm, không phải vì chúng ta
đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện trong
lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc
đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn'
khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc
khải cho biết Thầy của mình là ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe
Lời Người."
Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong
vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây
phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp "đâu vào đấy" thì rất hiếm hoi và
họa hoằn "năm thì mười họa.” Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà
trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo
lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ
điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi
vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của
chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con
đường chúng ta đi chính là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những giai
đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn
cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa
với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình
với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên
con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt
xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng
ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết
đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ
không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham
xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của
mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc
cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người
trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì
không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.
VINH QUANG TRÊN ĐỈNH NÚI
Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống Chúa
Giêsu vốn được phủ bằng một tấm màn bí mật. Chúng ta chỉ cố tìm xem đã có
chuyện gì xảy ra. Maccô bảo rằng việc này xảy ra sáu ngày sau biến cố gần
Xêdarê Philípphê, Luca thì nói tám ngày sau. Tuy nhiên, ở đây không hề có sự
bất nhất. Cả hai vị đều muốn nói như ngày nay chúng ta nói là “độ chừng một
tuần lễ sau.” Cả hai Giáo Hội Đông lẫn Tây phương đều kỷ niệm ngày Chúa Giêsu
biến hình vào ngày 06 tháng 08 dương lịch. Vấn đề quan trọng không phải ngày đó
đúng hay không, nhưng đó là thời điểm mà chúng ta nên tìm cách ghi nhớ. Truyền
khẩu nói đến sự biến hình xảy ra trên đỉnh núi Tabor. Giáo Hội phương đông gọi
lễ Chúa Biến Hình là lễ Taborion, có lẽ việc chọn núi Tabor được căn cứ vào câu
đề cập đến núi Tabor trong Tv 89,12, nhưng đó là một lựa chọn đáng tiếc. Núi
Tabor nằm về phía Nam xứ Galilê, còn Xêdarê Philípphê thì ở mãi tận phía bắc.
Núi Tabor cao không hơn 300 mét và vào thời Chúa Giêsu có một đồn binh trên đó.
Điều có lý hơn là sự việc đã xảy ra trên sườn núi Hermôn một ngọn núi phủ tuyết
quanh năm, cao gần 3000 mét, gần Xêdarê Philípphê hơn và khung cảnh cũng yên
tĩnh hơn nhiều.
Chúng ta không thể xác quyết đã có chuyện gì xảy ra. Chúng ta chỉ
biết cúi đầu cung kính khi cố gắng tìm hiểu. Maccô bảo áo của Chúa Giêsu trở
nên sáng rực. Từ ông dùng là chữ stibein, chữ được dùng chỉ sự sáng chói của
đồng hoặc của vàng được nung chảy, hoặc của thép được đánh bóng hay ánh sáng
chói chang vàng rực của mặt trời. Lúc biến cố ấy kết thúc, có một áng mây che
phủ họ. Trong tư tưởng của người Do Thái, sự hiện diện Thiên Chúa luôn luôn
được kết hợp với đám mây. Trong ngày khánh thành đền thờ sau khi được Salômôn
xây cất, một đám mây đã bao trùm đền thờ. Dân Do Thái mơ ước khi Đấng Mêsia
đến, đám mây hiện diện của Thiên Chúa cũng sẽ trở lại với đền thờ (Xh 16,10;
19,9; 33,9; 1V 8,10; 2Mcb 2,8). Việc đám mây kéo xuống là một cách nói rằng
Đấng Mêsia đã đến, và bất kỳ người Do Thái nào cũng hiểu như vậy.
Sự biến hình có hai ý nghĩa:
1/ Đó là một điều thật quý báu cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cần quyết định một
số sự việc, Ngài đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là đối
diện và chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết
định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi, Ngài đã nhận được sự chấp
thuận quyết định của Ngài.
(a) Êlia và Môsê đã đến gặp Ngài. Môsê là nhân vật tối cao đã
ban bố luật cho dân Israel. Cả hai dân tộc đã chịu ơn ông về luật của Chúa.
Êlia là vị ngôn sứ đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Mọi người luôn
luôn nhìn lại ông như một ngôn sứ mang chính lời Chúa đến cho con người. Khi
hai nhân vật lỗi lạc nhất đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố
luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “Xin cứ
tiến lên!.” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những
gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những
gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy.
Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng đường, và
cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.
(b) Thiên Chúa Cha phán với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không bao giờ hành
động theo ý riêng. Ngài luôn luôn đến với Thiên Chúa Cha và thưa rằng “Cha muốn
con phải làm gì đây?” Ngài đặt mọi kế hoạch và dự kiến trước mặt Chúa Cha và
Chúa Cha phán với Ngài “Con đang làm đúng điều chính Con yêu dấu Ta phải làm.
Hãy tiếp tục đi.” Trên núi Biến Hình, Chúa Giêsu được bảo đảm Ngài không lầm
đường. Ngài đã thấy thập giá không những là việc không tránh được và còn là
điều vô cùng chính đáng.
2/ Đó là điều quý báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa.
(a) Họ đang bị tan nát khi nghe Chúa Giêsu
khẳng định rằng Ngài sắp lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như tiêu hủy,
phủ nhận tất cả những gì họ đã được hiểu về Đấng Mêsia. Họ đang bối rối, ngẩn
ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến
họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng. Những gì đã thấy trên núi Biến Hình cho họ
một cơ hội để bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay
không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con
Ngài.
(b) Nó khiến họ trở thành các chứng nhân cho
sự vinh hiển của Chúa Kitô theo một ý nghĩa đặc biệt. Theo định nghĩa chứng nhân là
người thấy, sau đó tỏ bày ra. Lần ấy, trên núi, họ đã được cho thấy vinh hiển
của Chúa Kitô. Do đó, khi có cơ hội, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín
trong lòng để lại kể cho mọi người nghe.