CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
1. Hạ xuống và nâng lên
2. Khiêm nhường
3. Chỉ có một Cha – Lm. Vikini Giuse Vũ Khắc Nghiêm
4. Khiêm nhường
5. Tinh thần người môn đệ Chúa Kitô Lm. John Trần Khả
6. Thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái – Achille Degeest.
7. Hãy dâng cho Thiên Chúa chỗ nhất Charles E. Miller
8. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
9. Hãy sống trong sự thật
10. Là anh em với nhau
11. Lúc này đây, ngài có phải là anh em của tôi không?
12. Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường
13. Đạo đức thật và đạo đức giả
14. Đầy tớ
15. Đầy tớ
16. Đóng kịch
17. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà
18. Quyền bính để phục vụ – An Phong
19. Biệt phái giả hình
20. Điểm "A" cho sự cố gắng!
21. Hướng đến sự thật G. Nguyễn Cao Luật, OP
22. Sống thực
23. Trách kẻ giả hình
24. Lãnh đạo: là lãnh đạn – Như Hạ
25. Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự
26. Tuân giữ và phục vụ
28. Sống chân tình
29. Sống chân thành Lm Nguyễn Hữu An
30. Đóng kịch
31. Hãy sống thành thật
32. Các kinh sư và Pharisiêu giả hình - JKN
33. Làm chứng cho Chúa
34. Nói và làm
35. Làm lớn phải phục vụ
36. Chú giải của Noel Quesson
37. Chứng nhân
38. Chớ giả hình, kiêu ngạo
39. Linh mục là Cha
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Khuyến cáo những người có ....Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Tư cách của người lãnh đạo Lm Giuse Đinh lập Liễm
Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên Lm Giuse Đinh tất Quý
Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuông Lm Giuse Đinh tất Quý
Sống khiêm nhượng Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Tiếng nói chân chính nơi... Lm. Vũ Đình Tường
Sống đạo gương mẫu Lm. Minh Vận CMC
Hãy sống trung thực và nhất quán Lm Jude Siciliano, OP
Biệt phái giả hình ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia
Thành tín, công bình, thương xót Lm Augustine S.J.
Nói mà không làm Sưu tầm
2. Khiêm nhường
3. Chỉ có một Cha – Lm. Vikini Giuse Vũ Khắc Nghiêm
4. Khiêm nhường
5. Tinh thần người môn đệ Chúa Kitô Lm. John Trần Khả
6. Thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái – Achille Degeest.
7. Hãy dâng cho Thiên Chúa chỗ nhất Charles E. Miller
8. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
9. Hãy sống trong sự thật
10. Là anh em với nhau
11. Lúc này đây, ngài có phải là anh em của tôi không?
12. Suy niệm của Lm. Vũ Đình Tường
13. Đạo đức thật và đạo đức giả
14. Đầy tớ
15. Đầy tớ
16. Đóng kịch
17. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà
18. Quyền bính để phục vụ – An Phong
19. Biệt phái giả hình
20. Điểm "A" cho sự cố gắng!
21. Hướng đến sự thật G. Nguyễn Cao Luật, OP
22. Sống thực
23. Trách kẻ giả hình
24. Lãnh đạo: là lãnh đạn – Như Hạ
25. Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự
26. Tuân giữ và phục vụ
28. Sống chân tình
29. Sống chân thành Lm Nguyễn Hữu An
30. Đóng kịch
31. Hãy sống thành thật
32. Các kinh sư và Pharisiêu giả hình - JKN
33. Làm chứng cho Chúa
34. Nói và làm
35. Làm lớn phải phục vụ
36. Chú giải của Noel Quesson
37. Chứng nhân
38. Chớ giả hình, kiêu ngạo
39. Linh mục là Cha
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Khuyến cáo những người có ....Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Tư cách của người lãnh đạo Lm Giuse Đinh lập Liễm
Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên Lm Giuse Đinh tất Quý
Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuông Lm Giuse Đinh tất Quý
Sống khiêm nhượng Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Tiếng nói chân chính nơi... Lm. Vũ Đình Tường
Sống đạo gương mẫu Lm. Minh Vận CMC
Hãy sống trung thực và nhất quán Lm Jude Siciliano, OP
Biệt phái giả hình ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia
Thành tín, công bình, thương xót Lm Augustine S.J.
Nói mà không làm Sưu tầm
1. Hạ xuống và nâng lên
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chúng ta không khỏi băn
khoăn tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại phê bình chỉ trích bọn biệt phái và luật
sĩ? Tôi xin thưa rất có thể khi phê bình chỉ trích như thế, Chúa Giêsu nhằm đề
cao cảnh giác và hướng dẫn cho các môn đệ đừng mắc phải cái thói tật của những
hạng người ấy. Hơn nữa khi ghi lại những lời ấy, thánh Matthêu cũng muốn nhắn
gởi mỗi người chúng ta, là những người đang sống trong lòng Giáo Hội, bởi vì
trong lòng Giáo Hội có những người muốn tổ chức Giáo Hội theo kiểu mẫu Do Thái
và hàng tư tế đạo mới có vẻ như muốn bắt chước hàng tư tế đạo cũ.
Như chúng ta đã biết bọn biệt phái và luật sĩ tiên vàn được công
nhận như là những người có quyền ngự toà Maisen, nghĩa là họ nắm giữ quyền giáo
huấn và trông coi luật pháp. Địa vị này không phải là nhỏ. Toà của Maisen ngày
xưa được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên bố luật pháp và ký kết giao ước giữa
Thiên Chúa và dân Do Thái. Núi Sinai thuở ấy có mây trời che phủ và sấm chớp
vang rền khiến cho dân chúng hết sức sợ hãi. Tất cả những chi tiết ấy đều nói
lên quyền lực vô biên của Thiên Chúa. Còn thời Chúa Giêsu, thì hàng tư tế ngồi
trên toà Maisen nghĩa là họ có quyền giáo huấn, tiếp nối địa vị của ông. Thế
nhưng họ đã thi hành quyền ấy như thế nào? Tôi xin thưa có hai cách. Một là họ
dạy luật pháp cho người khác, còn bản thân họ thì lại không thi hành. Hai là họ
thêm thắt vào lề luật đến nỗi họ trở nên kẻ rao giảng truyền thống của loài
người chứ không phải là lề luật của Thiên Chúa nữa. Với cách trên họ là những
kẻ giả hình vì họ nói mà không làm. Còn với cách dưới họ gò ép mọi người phải
sống theo khuôn mẫu họ đã vẽ ra.
Họ còn là những kẻ hiếu danh, muốn ăn trên ngồi trốc. Nhiều khi
tính hiếu danh này đã đi tới những hành động quá trớn, chẳng hạn nới rộng hộp
đựng Kinh Thánh, làm to tua áo, ưa được ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và được
chào hỏi ngoài đường phố. Họ coi mình là trung tâm của vũ trụ và xã hội này chỉ
có mình họ là to lớn mà thôi. Đây cũng là điều mà chúng ta cần phải tẩy trừ,
cần phải xa tránh. Sống trong lòng Giáo Hội, chúng ta phải xác tín rằng mọi
vinh quang là của Thiên Chúa, chỗ đứng của Ngài phải trổi vượt trên mọi người.
Có hướng về Thiên Chúa, thì chúng ta mới là anh em của nhau và Giáo Hội mới
đích thật là Hội Thánh của Đức Kitô. Đây là một bổn phận chung cho mọi người ở
mọi nơi và trong mọi lúc, chúng không phải chỉ là một bổn phận dành riêng cho
số người nào đó. Có thi hành như thế, thì chúng ta mới thật sự giảng đạo Chúa
chứ không phải là giảng chính mình và cuộc đời của chúng ta mới tìm thấy được
sự bình an hạnh phúc bởi vì như lời Chúa đã phán: Ách của Ta thì êm ái và gánh
của Ta thì nhẹ nhàng.
Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ đầu tiên của thánh
Phanxicô d’Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên thiên đàng và chiêm ngắm những
cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc ngai sáng chói, và Chúa đã nói với
Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là chiếc ngai của Lucifer, nhưng vì kiêu
ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc về Phanxicô d’Assie, người tôi tớ khiêm
nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ, thầy đã hỏi thánh nhân: Thưa cha, cha
nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ là một kẻ tội lỗi đáng thương
nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể như vậy được. Thánh nhân trả
lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đã ban cho tôi, thì họ đã trở
nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy dòng suy nghĩ, và nhớ tới lời
Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được nâng
lên.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời nói của Chúa Giêsu? Đâu là ý
tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta tuân giữ một đức khiêm nhường
bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn như khi đi dự tiệc, là phải
chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên mâm trên. Căn bản của thái
độ này chính là kiêu ngạo, sự trá hình. Chúa không bảo chúng ta hãy lợi dụng
chỗ thấp để làm cho mình được vinh dự, trái lại, chúng ta phải có tâm tình
khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc khiêm tốn, những địa vị kém
cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng ta, chính Ngài sẽ chỉ cho
chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên trần gian, không phải là để thống trị mà là để
phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã phán: Con Người đến không để được phục vụ mà để
phục vụ và hiến thân vì người khác. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ. Đó
chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được quên lãng, vì Chúa chống đối kẻ
kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ biết điều đó và thường hãnh
diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn. Sau khi sơ ấy chết đi, thánh
nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn quại trong lửa luyện ngục. Trước
cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc thương, nhưng Chúa hiện ra và phán:
Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu ngạo. Hãnh diện vì tiếng hát, sơ ấy
đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì phụng sự thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta cũng đã tình cờ trở nên giống vị nữ tu trước
những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy dùng những khả năng của mình để phụng sự
Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm tình khiêm nhường đích thực, vì
ai hạ mình xuống, sẽ được không phải là người đời, mà chính là Chúa nâng lên.
(Suy niệm của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Xu hướng tự nhiên của muôn loài và lòng người luôn hướng về một
duy nhất, một nguồn, một Đấng tuyệt đối độc nhất. Xu hướng này không do thụ
tạo, mà do Thiên Chúa, vì Người lôi kéo tạo vật hướng về Người, dù tạo vật
chẳng nhận ra Người: "Người ở giữa thế gian và thế gian nhờ Người mà có, nhưng
lại không nhận biết Người" (Ga. 1, 10). Không nhận biết Người, mà chúng
vẫn hướng về Người. Các hành tinh vĩ đại quy về một định tinh, các hệ thống
định tinh hay thái dương hệ lại đi theo một hướng, toàn thể vũ trụ được tổ chức
trong một trật tự lạ lùng. Kinh Thi nói: Thiên sinh chưng dân hữu vật hữu tắc -
Trời sinh dân chúng có sự vật có phép tắc. Nhà sinh vật thời danh Darwin đã dầy
công tìm tòi, sắp xếp, phân loại giúp ta thấy rõ trật tự đó. Các tổ chức của
loài người, ở mọi thời đại cũng luôn luôn có một thủ lãnh: trong gia đình, làng
xã, đất nước, thế giới. Các đạo giáo lớn như đạo Khổng, Lão, Phật, Ấn, Hồi đều
qui niềm tin về một Đấng duy nhất. Đạo Khổng gọi Đấng ấy là Thượng Đế hay Ông
Trời. Đức Khổng nói: Duy thiên sinh thông minh, (Kinh thư trọng hủy cáo) Duy
thiên vi đại. Lão gọi là đạo: Đạo khả đạo phi thường đạo (Đạo đức kinh ch. I).
Phật gọi là tâm bình đảng, tâm bát nhã, chân như, tâm đại giác.
Ấn gọi là Đại ngã (Brahma). Hồi gọi là thánh Allah (Ar-Allah)
"There is no god, but God, and Mohammed is the messenger of God"
(Không có thần nào khác ngoài Thiên Chúa, và Mohammed là sứ giả của Ngài).
Thánh Allah là Chúa duy nhất, độc nhất, chỉ có Ngài là Đấng tạo hoá, quan
phòng, tác tạo mọi sự hiện có và sẽ có, siêu việt, nội tại, toàn năng ân điển,
hiện hữu vô hình và đời đời.
Có thể nói đó là bản tóm tắt niềm tin của nhân loại hướng về Thiên
Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Nhưng đó là một niềm tin còn lờ mờ ẩn hiện trong
lương tri của một số người, họ chưa được Thiên Chúa mạc khải qua các ngôn sứ và
nhất là qua Con Một Thiên Chúa giáng trần là Đức Giêsu Kitô. Tuy nhiên, họ đã
có xu hướng tự nhiên về Người: "Muôn loài thọ tạo những mong ngóng đợi chờ
ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người" (Rm. 8,19).
Tại sao có sự diễn tả khác nhau: Vì mỗi người có cá tính và tự do
riêng. Có những người nhờ đức tính chân thật khiêm tốn họ công nhận chắc chắn
có Thiên Chúa. Họ không thể hiểu được Người nhưng họ vẫn "Kính nhi viễn
chi" và chuyên chăm trau dồi đạo đức như Khổng tử, Lão tử và Đức Phật.
Có những hạng người kiêu căng đầy tham sân si, đã tự tôn mình làm
Chúa tể như bao nhiêu bạo chúa: Kiệt, Trụ, Tần thủy Hoàng bên Đông phương.
Nabukôđônôsô, Xêda và Nêrông bên Tây phương. Biệt phái, luật sĩ và tư tế Do
thái cũng thuộc hạng tự cao tự đại như vậy, nên Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo
họ: họ như mồ mả quét vôi bên ngoài mà trong đầy thối tha. Thối tha vì họ dám
ngạo mạn "ngồi trên toà Môisê...." Họ làm mọi việc cốt để cho người
ta thấy. Cho nên họ đeo những hộp sách kinh thật lớn, mang những tua áo thật
dài. Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm ghế đầu trong Hội đường... Họ
thích thiên hạ gọi bằng thầy (Rabbi) (23, 4-7). Họ tôn mình lên, không còn thấy
Thiên Chúa trên họ nữa, cho nên họ sẽ bị hạ xuống (23, 12).
Thiên Chúa, Chúa tể càn khôn đã phán để hạ họ xuống: "Ta đã
làm cho các ngươi đáng khinh bỉ và hèn hạ trước mặt toàn dân". "Ta sẽ
trút lời chúc dữ xuống trên các ngươi". Bởi lẽ: "các ngươi đi trệch
đường; không chịu nghe và không để tâm làm vinh danh Ta; và đã làm cho bao
nhiêu người vấp ngã vì lời các ngươi". (Bài đọc I -Ml. 2, 2. 8-10).
Chỉ có lời của Đấng từ trời hạ mình xuống mới làm cho muôn dân
nhận biết: Chỉ có một Thiên Chúa mà thôi. Đấng ấy là Đức Giêsu Kitô đã đến dạy
chúng ta: "Anh em đừng gọi ai ở dưới đất là Cha, vì anh em chỉ có một Cha
trên trời" (23,9). Cha trên trời thế nào? Thưa là "Đấng ngự trên
trời, vì Người làm cho mặt trời mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như kẻ tốt, và làm
mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính" (Mt. 5,45).
Như vậy chỉ có Cha trên trời mới tạo thành và nuôi dưỡng muôn loài
muôn vật chứ không phải ai khác. Nếu ta gọi người sinh ra ta, nuôi dưỡng ta là
cha, thì Cha trên trời mới đích thực là Cha toàn năng, là Cha muôn thuở. Cha
dưới đất chỉ là cha tạm thời tham dự vào quyền phép Cha trên trời trong việc
sinh ra, nuôi dưỡng ta ngắn hạn. Cha trên trời còn là "Đấng vô cùng toàn
thiện" (Mt. 5,48), là Đấng đã yêu thương thế nhân, đã ban Con Một chí ái
của Người cho thế nhân, để cứu thế nhân khỏi chết đời đời và cho họ được sống
muôn đời (Ga. 3,16). Cho nên khi "anh em làm vinh danh Cha, mở rộng nước
Cha, vâng theo ý Cha, yêu thương anh em, yêu thương mọi người và cả kẻ thù,
biết cầu nguyện tha thứ cho nhau" (Mt. 6, 9-15), có tâm tình và sống như
Đức Giêsu Kitô để tôn vinh Cha trên trời (Phil. 2, 6-7) như vậy anh em mới nên
"hoàn thiện như Cha trên trời, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho
anh em" (Mt. 5, 49 và 6, 6).
Lạy Cha chúng con ở trên trời, xin cho chúng con biết lo làm sáng
danh Cha, như thánh Phaolô "khi ở giữa anh em, biết cư xử thật dịu dàng,
chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ". Xin cho chúng con biết quý mến anh
em, sẵn sàng hiến cho anh em Tin mừng của Cha và cả mạng sống chúng con nữa mà
không quản khó nhọc vất vả ngày đêm (1Tx. 2, 7-9) để cho mọi người nhận biết
chỉ có một Cha trên trời và chỉ có một Thầy là Đức Giêsu Kitô, còn tất cả là
anh em với nhau. Lạy Cha, xin cảm tạ Cha muôn đời. Amen.
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm nhất
dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.
Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là gì, nếu không phải là sự
kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không chịu để cho Ngài hướng
dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của Lucifer, vị thần mang ánh
sáng, là gì, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa
nữa.
Từ đó, chúng ta thấy mình chỉ có thể gặt hái được những thành quả
tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác vào bàn tay quan phòng của
Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu lòng thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy dường như có một sự đảo lộn giá
trị: Ai tự nâng mình lên cao thì sẽ bị hạ xuống thấp, và trái lại ai hạ mình
xuống thấp thì sẽ được nâng lên cao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã phán: Ai muốn
làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ phục vụ cho mọi người…Ai
trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời…
Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang địa, Chúa Giêsu đã không
làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đã dùng năm chiếc bánh và hai con
cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống, Ngài đã sử dụng những phương tiện tầm thường
nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đã không chọn lựa những tiến sĩ
luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đã kêu gọi những con người đơn sơ
và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly, mặc dù luôn ý thức quyền năng của mình, thế
nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, để dạy cho các ông bài học
khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài đã không sử dụng tới uy
quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đã cúi đầu chấp nhận thập giá, như lời thánh
Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài: các con hãy học
cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của
một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một người tôi tớ, một người hèn
mọn.
Kẻ kiêu căng luôn đặt mình làm trung tâm của vũ trụ, muốn người
khác phải trọng kính và coi mình như một vị thủ lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu
căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn,
trái lại lúc nào cũng ghen tức vì hấy người khác được thành công. Một kẻ như
vậy thì làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.
Trong khi đó, người khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản
thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định đúng về con người của mình,
đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh.
Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt đẹp và được chính Thiên
Chúa đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như
lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô
chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi hơn
hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô,
chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự hạ xuống.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông
Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một
hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là
gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
Một bà đến thưa với vị linh mục: "Thưa cha con khổ quá tại vì
đã lâu lắm rồi nhà con bỏ không đi nhà thờ, không xưng tội rước lễ. Con không
biết làm sao khuyên nhà con được."
Cha hỏi: "Vậy thì ông nhà có nói lý do tại sao ông bỏ không
chịu đi nhà thờ và không xưng tội rước lễ không?"
Bà trả lời, "Thưa cha, ông nhà con ông ấy rất là gàn, nhưng
ông ấy nói cũng có lý nên con không biết nói làm sao để tranh luận với ông ấy
được. Nhà con nói rằng: 'Tôi thấy có quá nhiều người giả hình. Họ siêng năng đi
nhà thờ, đọc kinh xem lễ, ăn chay kiêng thịt, gia nhập hội đoàn này, tổ chức
nọ, nhưng chẳng có tinh thần đạo đức bác ái thật gì cả. Đến nhà thờ thì ê a đọc
kinh và rầm rang ca hát, nhưng về nhà thì sống bê bối, ra xã hội thì sống tham
lam, hẹp hòi ích kỷ. Nhiều người còn gian lận, bỏ vạ cáo gian, phê bình chỉ
trích, nói hành nói xấu người khác. Đến nhà thờ tôi chỉ thấy toàn là những
người giả hình! Đi lễ đi nhà thờ mà như thế thì vô ích đi làm gì! Họ cũng đâu
có khá gì hơn tôi đâu!"
Nghe như thế, cha nói với bà: "Ông nhà nói rất đúng đấy. Bà
đừng cãi với ông làm gì, bà về nói với ông như thế này, 'Cha bảo là cha đồng ý
với ông trăm phần trăm. Ông nói rất có lý. Và cha nhắn tôi về nói lại với ông
là ở nhà thờ vẫn còn chỗ trống cho thêm một người giả hình nữa. Cha mời ông đến
để gia nhập đầy nhà thờ cho vui!'"
Chúng ta không ai có thiện cảm với những người nói mà không làm.
Chúng ta càng ghét những người giả dối bề ngoài nói thánh nói tướng lên mặt đạo
đức giảng cho người khác, nhưng đời sống riêng tư của họ lại bê bối không sống
theo điều họ rao giảng. Các bài đọc hôm nay dạy chúng ta phải tránh lối sống
giả dối ngôn hành bất thuận như thế. Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri Malakia
để cảnh cáo các tư tế và dân chúng vì họ đã hủy bỏ giao ước; sống vị nể, và đi
sai đường lối làm cho nhiều người vấp phạm. Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đã
nghiêm khắc phê bình những người Biệt phái và Pharisiêu là giả hình, vì họ đã
sống quá xa lạ với những lời họ giảng dạy. Họ nói một đàng làm một nẻo.
Thái Độ Của Luật Sĩ và Biệt Phái
Luật Sĩ là những nhà chuyên môn về luật. Họ là những người được
tuyển chọn làm tư tế, và làm thầy dạy thiên hạ. Pharisiêu là những người biệt
phái; tuy họ không phải là những người được học có bằng cấp cao, không phải là
tư tế, nhưng họ là những người được biệt phái làm đầu trong dân. Họ tận tình và
tỉ mỉ giữ lề luật. Họ rất hãnh diện về địa vị lãnh đạo trong tôn giáo, về sự
yêu mến tôn trọng lề luật và lòng sùng đạo của họ. Họ thích được nhìn nhận và
được coi là gương mẫu cho thiên hạ. Họ muốn tài năng của họ phải được người
khác nhận ra và được ngưỡng mộ cũng như được tưởng thưởng xứng đáng. Họ chuộng
được người khác chú ý.
Chúa Giêsu nhìn thấu tỏ lòng dạ của các Luật Sĩ và Biệt phái. Ngài
biết là họ không rao giảng Thiên Chúa mà là rao giảng chính họ và những kiến
thức hiểu biết của họ. Hiện tượng dài dòng kinh kệ và mặc áo tua rua chỉ là sự
trình diễn phô trương, bởi vì trong thực tế họ đã lơ là hay bỏ qua tinh thần
đức tin, sự công bình và lòng nhân ái. Họ trống rỗng và nông cạn, không tốt
lành và cũng chẳng thánh thiện. Lối sống của họ là lối sống tìm sự vinh hoa giả
tạo cho bản thân, chú trọng đến bề ngoài và nặng tinh thần thế tục.
Nói cách khác, họ đã nói những bài nói đạo đức, nhưng đã không
bước đi trên con đường đạo đức. Họ trình bày những nguyên tắc sống đạo, nhưng
lại không sống đạo. Họ nói thánh nhưng không sống thánh. Họ thích đứng nơi công
cộng để được chú ý và được kính trọng, nhưng lại không có những tư cách xứng
đáng để được kính trọng. Họ thích được ngồi bàn trên và chỗ danh dự, thích được
gọi là thầy, nhưng lại không có tư cách của một vị thầy. Kết quả là việc rao
giảng của họ tạo ra nhiều khuấy động rối loạn và sai lạc; gây đau khổ và thiệt
hại cho nhiều người. Chúa Giêsu đã nhìn thấy sự giả dối của ho, và Ngài đã
không ngần ngại lên án lối sống giả tạo và giả hình như thế.
Chúng ta sẽ lầm lẫn nếu chúng ta chỉ phân tích và nhận định thái
độ của những người Biệt phái và Pharisiêu. Trong một cách nào đó chúng ta cũng
có những hình thức và lối sống kiêu ngạo, và giả hình của Pharisiêu.
Loại giả hình thứ nhất là nói mà không làm đúng theo lời mình nói.
Rất ít người trong chúng ta dám nói rằng chúng ta đã thực hành tất cả những gì
chúng ta nói hay những điều chúng ta tin. Chúng ta cũng dễ dàng mặc cho mình
những cái tốt đẹp bề ngoài. Chúng ta tô điểm cho cái tôi xã hội, cái tôi công
cộng một vẻ bề ngoài thật lịch sự, đạo đức, liêm sỉ hơn với con người thực sự
của chúng ta. Hoặc nhiều khi lòng chúng ta không trong sáng đủ để sống với một
chủ đích là tìm vinh danh Thiên Chúa. Chúng ta còn tìm mình và tìm hư danh cho
mình.
Loại giả hình thứ hai xấu xa hơn một khi chúng ta không những
không thực hành mà còn không tin cả những điều chúng ta rao giảng. Chúng ta
công bố lớn tiếng nơi công cộng chỉ vì chúng ta muốn lấy lòng người nghe và
chiêu mộ người ta để đạt tư lợi. Chúng ta nói hay, giảng hay, tô điểm bề ngoài
với những cử chỉ đạo đức thanh liêm để che mặt thiên hạ, nhưng trong lòng không
tin nhận. Rồi trong đời sống tư lại có một lối sống ngược lại với những gì
chúng ta rao giảng. Chúng ta lên án người này người kia sống bê tha tội lỗi,
trong khi chính mình cũng vụng trộm tình nghĩa lăng nhăng, hoặc kín đáo làm
những điều vô luân bất nghĩa, bất chính. Hoặc với người ngoài và với khách hàng
thì chúng ta lịch sự khiêm tốn để chiếm được cảm tình của người ta, nhưng khi
trở về nhà thì chúng ta lại không đối xử lịch sự với những người thân trong gia
đình; chúng ta đánh đập hành hung hay chửi bới con cái... Sống như thế có nghĩa
là còn giả hình. Sống như thế là sống hai lòng, hai mặt. Sống như thế là vừa kiêu
ngạo vừa lừa bịp. Và Chúa Giêsu không bị lừa bởi tất cả những lớp vỏ bề ngoài
giả hình như thế.
Tinh Thần Người Môn Đệ Chúa Kitô
Chúa Kitô đòi các môn đệ của Ngài phải sống điều mình rao giảng.
Không ai được muốn người khác gọi mình là thầy hay là cha. Tất cả là anh chị em
với nhau. Hơn thế nữa những người môn đệ của Chúa Giêsu phải biết quý trọng và
chú ý đến tinh thần phục vụ trong khiêm tốn. Lời của Chúa Giêsu là một thách đố
cho tất cả mọi Kitô hữu về tinh thần sống đạo và làm chứng về niềm tin của mình.
Cách đây không lâu, một người ở Port Arthur, TX biên thư thắc mắc
về việc tại sao Giáo Hội lại bắt giáo dân gọi các linh mục là 'cha' trong khi
Chúa Giêsu lại nói là đừng gọi ai dưới đất là cha, vì chỉ có một Cha trên trời?
Và tại sao các cha lại tránh né không chịu giải thích? Tôi cũng cảm thấy khó
khăn để giải thích. Tôi cũng cảm thấy ngượng ngùng khi xưng mình là 'cha' trong
lúc nói chuyện với người khác.
Nhưng một lần có người gọi tôi là ' anh' thay vì gọi là 'cha' thì
tôi cũng như một số người khác đứng đó đã cảm thấy có cái gì ngường ngượng nghe
không thuận tai. Tuy nhiên danh từ 'cha' dùng để gọi các linh mục cũng chỉ là
một tước hiệu nói lên tình liên hệ thiêng liêng trong Giáo Hội giống như địa vị
làm cha trong tình liên hệ của người cha đối với con cái trong gia đình. Tước
hiệu đó đã được dùng từ lâu do lòng quý mến và kính trọng của người giáo dân
dành cho các linh mục là những người đại diện Thiên Chúa và là hiện thân của
Chúa Kitô trong chức vị tư tế. Nếu chúng ta chú trọng quá nghiêm khắc vào từ
ngữ thì chúng ta không hiểu đúng ý của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu có ý nói là không
ai được tự đặt mình vào địa vị làm Cha như Thiên Chúa, và cũng không được coi
bất cứ ai dưới đất là Cha thay thế Thiên Chúa. Chỉ có một chức vị Cha chân thật
là Thiên Chúa, và chỉ có một Thầy chân thật là Đức Kitô. Điểm Chúa Giêsu nhấn
mạnh là "Trong các ngươi ai quyền thế hơn sẽ là người phục vụ các
ngươi." Do đó có lẽ chúng ta không nên quá quan tâm đặt vấn đề khi người
giáo dân gọi các linh mục là 'cha', nhưng chúng ta có thể đặt vấn đề nếu thấy
các linh mục của mình không có tinh thần phục vụ như Chúa Giêsu mong muốn và
đòi hỏi.
Trong tinh thần phục vụ Tin Mừng chân chính, Thánh Phaolô trong
bài đọc hai đã thẳng thắn tâm sự với giáo đoàn Thessalonica rằng, " Anh em
còn nhớ đến công lao khó nhọc của chúng tôi: Chúng tôi phải làm việc ngày đêm
để khỏi trở nên gánh nặng cho một ai trong anh em, khi chúng tôi rao giảng Tin
Mừng của Thiên Chúa giữa anh em" (1 Thes 2:9).
Một vị truyền giáo ở Ấn Độ đã tâm sự như sau:
Là một sinh viên ở Paris, tôi đã học nhiều lớp triết và tôn giáo.
Tôi dùng nhiều giờ để bàn luận với những sinh viên khác về Thiên Chúa, về ý
nghĩa và mục đích của cuộc đời. Đó là thời gian vui và hứng thú, nhưng tôi vẫn
không tìm ra được hướng đi cho đời mình cho đến khi một người bạn trẻ nói với
tôi một điều làm thay đổi đời tôi. Trong một cuộc bàn luận, anh ta đã nhìn
thẳng vào tôi và nói, " Anh sẽ không bao giờ tìm gặp được Thiên Chúa qua
việc bàn thảo và tranh luận về Thiên Chúa bởi vì Thiên Chúa là tình yêu. Anh
chỉ tìm được Thiên Chúa khi anh yêu thương vô vị lợi." Lúc đó tôi đang
khảo cứu về thánh Phanxicô thành Assisi. Tôi học thấy điểm đổi đời của Phanxicô
không phải là lúc ngài bỏ hết mọi sự giầu sang phú quý, nhưng là lúc ngài dùng
lý trí và ý chí để xuống ngựa và ôm lấy người phong cùi. Điều này đã cảm kích
tôi và khi tôi nghe biết ở Ấn Độ đang cần có người phục vụ trong trại phong
cùi, và tôi đã tới đây. Nơi đây tôi vẫn đang phục vụ, và nơi đây tôi tìm được
Thiên Chúa. Bạn sẽ không tìm được Thiên Chúa qua bàn thảo hay tranh luận, và
bạn cũng chẳng bao giờ tìm thấy Thiên Chúa trong việc tự đưa mình lên, bởi vì
Ngài là Thiên Chúa của Tình Yêu. Bạn chỉ tìm được Ngài khi bạn biết yêu thương
vô vị lợi.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài đọc này tiết lộ một trong những lý do căn bản khiến người biệt
phái đối đầu với Chúa Giêsu. Bài đọc cũng chất vấn chúng cả chúng ta ngày nay
nữa, vì vấn đề đặt ra là sự thành thực của cuộc sống đối với Đức tin. Chúa
Giêsu kết án người biệt phái cắt nghĩa lề luật mà sắp đặt theo sở thích của
mình. Và thay vì có lương tâm khiêm nhường của tội nhân trước mặt Thiên Chúa,
họ có lương tâm của kẻ tự mãn. Cần lưu ý Chúa Giêsu không hề đả kích quyền uy
của các thày thông giáo giảng dạy giáo lý Do thái ở thời Ngài; nếu dùng bài đọc
này biện minh cho việc phản kháng quyền hành trong dân Thiên Chúa quả là lạm
dụng. Điểm chính xác mà Chúa Giêsu nhắm đến là sự phù hợp phải có giữa lời nói
và việc làm; Ngài cũng tố cáo thái độ mong được người chú ý hơn là sống theo ý
Thiên Chúa. Bởi đó những người nhận quyền hành có bổn phận, phải làm gương cụ
thể những điều họ giảng dạy. Đồng thời việc chấp nhận ngay thẳng lời giáo huấn
đến từ các vị có quyền buộc tín hữu thi hành những điều họ tin. Một vài điều
xác định về bài đọc. Các thẻ kinh ở đây là những hộp vuông nhỏ bằng giấy hay
bằng da bò màu đen, trong đựng những đoạn ghi chép các câu Kinh thánh nói về
tnh1 chất linh thiêng của lề luật. Các người Do thái mộ đạo đeo trên trán hay
buộc vào cánh tay trái để đọc vào kinh sáng; những biệt phái bị Chúa trách cứ
có lẽ lúc nào cũng mang bên mình. Các tua áo và cả các túm đính vào bốn góc áo
choàng có giá trị dấu hiệu tôn giáo để nhắc nhở tuân giữ lề luật. Các lời chào
hỏi có tầm quan trọng lớn lao ở Đông phương, cử chỉ và lời dùng để chào nói lên
phẩm giá xã hội người mình chào. Những người biệt phái rất thích được người ta
thưa: “Bẩm thày đạo sư, nguyện chúc Ngài khang an”. Để suy gẫm:
1) Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ
lại không muốn giơ ngón tay lay thử. Câu nói của Chúa tố cáo một cố tật của mọi
kẻ nắm giữ quyền hành, mọi người cắt nghĩa luật pháp và ở đây chúng ta giới hạn
trong phạm vi tôn giáo. Có một thứ am tường luật pháp, để tránh né các đòi buộc
mà lương tâm vẫn yên ổn. Người ta cắt nghĩa sao cho kẻ khác buộc phải giữ còn
mình thì thoát. Một cố tật khác là, cắt nghĩa luật pháp theo những ý tưởng và
quyền lợi mà mình muốn bảo vệ. Cắt nghĩa Phúc âm cách sao để biện minh cho một
số chủ trương “bảo thủ”, hay “cách mạng” là một việc giả hình, biệt phái cũng
đáng kết án như việc giảng dạy Phúc mà tìm cách để khỏi thi hành. Trong cả hai
trường hợp, đều có sự dối trá. Một bên biến Phúc âm thành gánh nặng cho người
khác, một bên đặt thêm vào gánh nặng mà Phúc âm không có. Cả hai bên đều có
việc tráo quan niệm nhân loại vào chỗ thánh ý Thiên Chúa.
2) Làm sao có được thuốc chủng ngừa bệnh biệt phái? Các người chỉ
có một Thày, một Cha, một Đấng chỉ đạo. Chúa Giêsu nhắc nhở người Kitô hữu rằng
Đấng duy nhất xét đoán lương tâm họ là Thiên Chúa, dầu họ ở mức độ quyền bính
hay tuân phục nào đi nữa. Họ phải thực hành điều họ dạy, điều họ tin. Sự ngay
thẳng nội tâm trước mặt Thiên Chúa sẽ khiến họ ý thức mình là kẻ có tội. Khi
cần, nó có thể khơi dậy một sự tìm kiếm trong lòng những người khác. Họ sẽ
không thuộc số những kẻ hành động có ý cho người ta thấy. Họ sẽ hành động cách
nào để khi thấy việc họ làm, người ta sẽ ngợi khen Cha ở trên trời (Mt 5,16)
và không để cho một người nào khác
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Những người con thường gọi cha mẹ của chúng là cha mẹ, mặc dù Chúa
Giêsu đã nói đừng gọi ai dưới đất là “cha”. Những vị dạy dỗ trong trường học
chấp nhận tước hiệu “thầy” mặc dù Chúa Giêsu nói: “Tránh gọi ai là Thầy”. Điều
đó sẽ là ngớ ngẩn nếu duy trì những điều thực hành này khi những điều này trái
với hướng dẫn của Chúa Giêsu. Hiển nhiên là ý nghĩa của nó không phải là nghĩa
chữ. Mặc dù đúng hơn qua những điều giống như ra lệnh này, Chúa Giêsu muốn dạy cho
chúng ta rằng chúng ta đừng trao cho người nào chỗ nhất trong đời sống của
chúng ta, mà chỗ này chỉ thuộc về mình Thiên Chúa.
Chúng ta là con cái của cha mẹ chúng ta. Một số người đã được chúc
phúc bởi cha mẹ mình và một số khác thì hoàn toàn không. Tuy nhiên, chúng ta
phải nhìn lên thiên đàng để tìm thấy những Đấng cha mẹ hoàn hảo, một người
tuyệt vời không thể tưởng tượng được đó là Cha của Chúa Giêsu Kitô, và Đấng đó
đã trở thành Cha của chúng ta nữa. Chúng ta không thể cho phép ai chiếm mất chỗ
của Thiên Chúa trong đời sống của chúng ta.
Tất cả chúng ta phải có những vị thầy trong những khoảnh khắc khác
nhau từ lúc chúng ta sinh ra trong suốt thời gian ở trường, khi chúng ta có một
công việc, và thật sự xuyên qua toàn bộ đời sống của chúng ta, có một người có
thể dạy dỗ chúng ta về mọi chân lý căn bản nhất của đời sống, cả đời này và cả
đời sau, là Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta không thể cho phép bất cứ ai hơn Chúa
Giêsu trong việc Chúa Giêsu trở nên Thầy dạy chúng ta về những giá trị của đời
sống.
Thiên Chúa đã nói qua lời của tiên tri Malakia trong bài đọc I của
Chúa Nhật hôm nay. Bài đọc tuyên bố: “Quả Ta là vua lớn lao”. Có ai trong đức
tin chối điều đó không? Thiên Chúa đòi hỏi câu trả lời trong câu hỏi của Ngài:
“Các ngươi có chấp nhận rằng các ngươi không được đặt ai vào chỗ của Ta như là
Chúa các đạo binh của các ngươi không?”. Chúng ta phải trả lời: “Amen”.
Tuy nhiên có lẽ trong trường hợp của chúng ta thì không khác biệt
mấy với những người dân mà tiên tri Malaki đã rao giảng sứ điệp của ông. Họ là
những người dân Do Thái đang trở về từ cuộc lưu đày ở Babylon, họ thấy quê nhà
của họ đã bị xâm chiếm bởi một dân tộc khác, dân tộc đó không chia sẻ tôn giáo
và những giá trị như họ. Hoàn cảnh là một thách đố đức tin cho cả hai, thành
phần là tư tế và dân chúng. Đó là lý do vì sao tiên tri Malaki đã rao giảng cho
họ một bài giảng khẩn cấp và lớn lao như vậy.
Đó là lý do vì sao Phúc Âm của Chúa Nhật có một ý nghĩa lớn lao
đối với chúng ta. Chúng ta sống một xứ sở, xứ sở đó đã được thúc đẩy bởi những
nguyên tắc chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa tiêu thụ, mà không
phải bởi những giá trị của tôn giáo. Hầu hết mọi người mà chúng ta có thể nói
rằng họ tin vào Thiên Chúa, nhưng sự cám dỗ thời đại trong xứ sở của chúng ta
là sống mà Thiên Chúa không hiện hữu. Sự cám dỗ đó có thực đối với chúng ta,
tuy nhiên nó có thể tinh tế hay mờ nhạt khi chúng ta đang ngồi trong nhà thờ.
Có lúc nhà thờ sẽ là nơi cư ngụ của chúng ta, là ngôi nhà tinh
thần của chúng ta trên mặt đất này. Nơi đây trả sự chú ý cho Chúa Giêsu, vị
Thầy dạy của chúng ta, khi chúng ta lắng nghe lời Người tuyên bố trong Thánh
Kinh. Chúng ta tuân theo giáo huấn của Ngài bằng việc cầu nguyện với Thiên Chúa
như là ‘Cha của chúng ta”, không chỉ trong lời kinh Lạy Cha, nhưng qua Thánh
Lễ. Chúng ta nối kết với Người trong hy tế của Chúa Giêsu Kitô để hiểu rằng.
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là vị Vua cao cả của chúng ta, là Đấng mà chúng
ta dâng lời ngợi khen và cảm tạ.
Hơn nữa, chúng ta sẽ tìm thấy một dân và với dân đó chúng ta chia
sẻ những giá trị trong đời sống, dân mà họ sẽ nâng đỡ chúng ta trong đức tin và
là dân mà chúng ta sẽ sẵn lòng giúp đỡ trong mọi lúc họ cần. Người Do Thái trở
về một miền đất có vẻ giống như là ngoại quốc đối với họ. Chúng ta sẽ không bao
giờ có cảm giác là mình không có chỗ trong một nhà thờ Công giáo. Chúng ta phải
tìm thấy nơi mỗi người, dân tộc được dâng hiến, là dân muốn theo những giá trị
của Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa Cha đã ban cho chúng ta.
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với. Phải
chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã hội và trong Giáo Hội? Phải
chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của mặt
chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý: Thiên Chúa là Cha và mọi người
là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan hệ với xã hội theo một tinh
thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng trong xã hội vì
tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng
thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên
Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi
người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều
phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xã hội phải có tổ chức. Có tổ
chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được trôi chảy. Hơn
nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha mẹ là được
thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lãnh đạo là được dự phần
vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự mình chiếm đoạt được chức
vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì lợi ích của tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào một gia đình. Trong gia
đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đình. Nhưng chính cha
mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ.
Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia
đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng quyền để yêu thương và
phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xã hội phải là
người có lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với tình yêu thương sẽ giúp ta
biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm nay
bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối
cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa
chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: “Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho
anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã làm gương cho anh em, để
anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?” (Ga 13,12b-15). Quyền bính để phục
vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không còn giải nghĩa nào sáng tỏ hơn
hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Không còn lệnh truyền nào
thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa Giêsu.
Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi con người. Không trở thành
một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không trở thành một trang sức quý
giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con người. Trở
thành lương thực là trở thành những gì gần gũi nhất. Trở thành lương thực là
chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên, chịu đau
khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được sống. Bí
tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục vụ con
người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến thân
nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa con
người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm nay, ta
sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên một gia đình ấm cúng chan chứa
tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền văn minh mới, nền văn minh của
tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp tục
mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm phục
vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy trì sự hiện diện của Chúa Giêsu
ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra cho
một thế giới phát triển, một thế giới chan hòa yêu thương, một thế giới hạnh
phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi người
trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều này
thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy điều này đã ứng dụng ở đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài
Tin Mừng hôm nay?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào
trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì
bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái hồ
mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng tên
trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và đến
ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ
thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ
một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện
dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để
chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không
mấy chốc mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống
còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp
tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.
Anh chị em thân mến, “Chiếc áo không làm nên thầy tu”. Người đánh
cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình ảnh không
xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta cũng sơn vẽ
cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính mình như
những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt chống đối.
Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh vọng. Họ chép
những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ họ ghi nhớ và tuân
giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi vào chỗ danh dự. Ở
Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi được chào kính,
xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.
Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những
Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô
hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh
đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. “Anh em chỉ có một Thầy, một vị lãnh
đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh em
đều là anh em với nhau”. Vì thế, “trong anh em, người làm lớn hơn cả phải làm
đầy tớ anh em”.
Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay, tất cả Giáo Hội của
Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân phải bình tâm
suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và Pharisêu ngày xưa phải có
tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn, nhưng não trạng pharisêu
chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại phải nhìn nhận rằng
những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục (triomphalisme) đã đi
vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân đai, cờ quạt, kiệu
rước… đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật, một “Giáo Hội nghèo của
người nghèo”. Công Đồng Vatican II đã bỏ đi nhiều những điều phù phiếm đó và
muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spokane, Wa.
Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám
Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh
bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ
cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi Công Đồng cách quyết liệt gần như
Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn
vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp người nghèo.
Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm
việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá nấu ăn. Nhiều người không tán
đồng, họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa,
Giám mục thì phải sống cho Giám mục”. Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả
lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ,
chia và nhân: phải bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và
nhân thêm niềm hy vọng sống xứng đáng cho họ”.
“Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục vụ”. Trong
Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta đều là anh em.
Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay tôn giáo, cũng
chỉ là một hình thức phục vụ: “Cán bộ là đầy tớ của nhân dân”, ngay cả Đức Giáo
Hoàng cũng tự nhận là “Tôi tớ của các tôi tớ” (Servus servorum). Người cha,
người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các con cái quý mến là vì biết tận tụy phục
vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi, càng được nhận lại, càng cho đi nhiều,
càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự
hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá vì yêu thương loài người chúng ta.
Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức Chúa: “Ai tự hạ mình xuống, sẽ được
tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung đối
với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ khe
khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu gọi
các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét
này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn
đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong.
Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ,
chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như
đòi hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy, vì chỉ có một Thầy,
một vị lãnh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha là
Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là cha,
là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ... Chúng ta có làm sai lời
Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen. Thánh Phaolô đã
coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl 4,19).
Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lãnh đạo (Cv
15,22; Rm 12,8). Vậy đâu là điều Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ những cơ cấu cần thiết cho
thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành. Ngài chỉ
muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên
Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ
quyền làm Thầy của Đức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của
Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh, tôi cũng không được
quên chân lý này: còn tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha trên
trời.
Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ, như anh em với
họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Đức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo. Quyền lãnh đạo
chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình của một số người
pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác, là dễ dãi với
chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình, làm việc tốt
để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình, tôi thấy tôi: háo
danh, khoa trương, ích kỷ, dám "đốc" chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối, vì mở cho chúng ta
những chân trời xa, cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng chưa
làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi nghĩ với điều tôi nói,
giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều đều có chút giả hình. Bạn
nghĩ gì về sự giả hình của bạn?
Quyền hành thường làm con người hư hỏng. Bạn thấy có cách nào để
tránh mối nguy hiểm này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con sợ
người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó chỉ
là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ. Có những hành
vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời kinh
đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn, và ngược hẳn với cuộc sống thực
tế.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh lừa
mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, đã ăn sâu vào da thịt
chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành, để chúng con được
lớn lên trong bình an.
Hôm qua, có người đột nhiên nói với tôi: “Tại sao linh mục để cho
người ta gọi mình là cha? Linh mục hãy đọc Tin Mừng thì sẽ rõ!”
Tôi đọc được trong Tin Mừng: “Các con đừng muốn cho người ta gọi
mình là thầy, các con đừng muốn cho người ta gọi mình là tiến sĩ, các con đừng
gọi ai là cha”. Chắc chắn ở đây có một bài học mà chúng ta phải rút ra.
Tôi nghĩ rằng không nên chú mục vào những danh hiệu bị Chúa Giêsu
lên án. Loại bỏ các danh hiệu đó, các bạn sẽ tìm được hàng chục danh hiệu khác
cần thiết trong cuộc sống xã hội: ông thị trưởng, ông Tổng thống, Đại uý...
Người ta thay thế danh hiệu Ngài bằng Đức giám mục? Danh hiệu này chẳng thích
hợp và cũng không thoát được sự lên án của Chúa Giêsu.
Thật ra sự lên án của Chúa Giêsu nhắm đến điều gì? Tại sao lại gán
cho điều chỉ là một chút kiêu căng một tầm quan trọng như thế? Thực tế, có điều
gì trầm trọng đang xảy và một sự vụng về rõ ràng về biên tập của Matthêu lèo
lái chúng ta. Luôn luôn nơi Matthêu, điều đó là cố ý, rất được trau chuốt từng
ly từng tí. Ngài bắt đầu bằng: “Tất cả các con đều là anh em”. Sau đó Ngài
tiếp: “Các con chỉ có một Cha mà thôi”. Nhưng ý tưởng anh em đến nhanh hơn bởi
vì trong văn mạch, ý tưởng này là ý tưởng chủ đạo, mặc dầu ý tưởng này rõ ràng
liên kết với tư cách làm Cha của Thiên Chúa: “Tất cả các con đều là anh em, bởi
vì tất cả các con đều có cùng một Cha trên trời”.
Ở đây chúng ta rất kiêu căng, Chúa Giêsu sửa chữa lại những quan
hệ bị sai lệch, giống như những nhà chuyên môn sửa lại những cái xương bị trật
khớp. Chúng ta khó chịu trong cơ thể xã hội khi các quan hệ sai lệch và đau
đớn: khi ông chủ đóng vai tay anh chị thì những người thuộc quyền khúm núm. Vấn
đề là không phải nói: “Ông thị trưởng”, mà là có một ông thị trưởng tốt. Bên
dưới danh hiệu không quan trọng đến thế, có những thái độ, những tấm lòng, một
tinh thần.
Trong xã hội các môn đệ của mình. Chúa Giêsu muốn có một tinh
thần, một tinh thần dường như rõ ràng nơi Ngài đến nỗi quan hệ giữa Ngài với
Chúa Cha là rất thắm thiết. Chúng ta đừng đụng đến điều đó, đừng ai chiếm chỗ
của Chúa Cha, đừng ai dành cho một người nào đó một tầm quan trọng làm lu mờ
Thiên Chúa.
Hậu quả cũng rất rõ ràng: giữa con người với nhau chỉ có thể có
quan hệ anh em mà thôi. Những chức vụ cần thiết và những danh hiệu có ích không
được làm thay đổi tinh thần “anh em”. Tôi có thể để người ta gọi mình là cha...
nếu tôi có một trái tim anh em! Nhưng điều đó phải rõ ràng trong các lời nói và
trong các thái độ của tôi, và đừng ai cám dỗ tôi tự cho mình là Thiên Chúa.
Khuynh hướng ma quỷ làm cho chúng ta trượt về phía kiêu ngạo sẽ
luôn luôn làm cho việc suy niệm bài Tin Mừng này có ích. Than ôi! Chúng ta có
thể viết cả một quyển sách về sự kiêu ngạo trong Giáo hội, y phục, tước hiệu,
ngôi thứ, và ghê gớm hơn nữa, chuyên quyền, tự mãn. Sự việc có phần tốt đẹp
hơn, nhưng để duy trì tinh thần của Chúa Giêsu, các thầy, các cha và các tiến
sẽ tự giữ gìn là điều chưa đủ: trong dân Chúa, bất cứ ai cũng có thể nói với họ
rằng “Lúc này đây, Ngài có phải là anh em của tôi không?”
Nếu không dẫn đường chỉ lối thì thôi. Nếu là người dẫn đường thế
nào cũng có ngày lạc đường, ngoại trừ chỉ đi những con đường quen thuộc. Đi con
đường quen thuộc ít bị lạc vì là đường quen, đi thường xuyên. Lạc đường xảy ra
khi phải đi những con đường lạ, đường chưa quen, hoặc có lần đi qua, chỉ nhớ
mài mại, không nhớ rõ. Trong trường hợp đó lạc đường có thể xảy ra.
Không muốn đứng đường, phải tìm đường. Tìm về đúng đường cần định
rõ vị trí nơi đang lạc mới có thể định hướng về. Định đúng hướng phải biết cách
nhìn hướng. Nhìn hướng có nguyên tắc nhìn. Không biết cách định hướng, coi như
phó mặc cho may rủi. May thì tìm được đường về. Rủi sẽ vất vả, khổ sở hơn, đói
khát và sợ hãi ập đến. Đó là chưa kể đến sợ ngủ đêm giữa rừng, sợ gặp rắn độc,
thú dữ, sợ chết không ai biết để cứu.
Lạc đường đời là thế. Lạc đường tâm linh còn nguy hiểm hơn. Nguy
hiểm nhưng không thấy lo lắng, sợ hãi vì nỗi sợ tâm linh không đến dồn dập.
Người chỉ đạo đi sai coi như là lạc đạo. Tình trạng lạc đạo tồi tệ hơn lạc
đường gấp bội. Lạc đường nếu chết cũng chỉ chết về thân xác, thể lí, linh hồn
chưa chắc đã chết; trong khi lạc đạo chết cả thể lí lẫn tâm linh. Tệ hơn nữa
người lãnh đạo đi lạc không lạc một mình mà lạc bầy, đàn, phe nhóm. Lạc đường
do thành tâm, không cố ý lạc. Lạc đạo do gây nên bởi ngoan cố, cố tình, chủ ý,
gây bè, kéo phái rủ nhau đi lạc. Cá nhân đi lạc thường lo lắng sợ sệt; trong
khi phe nhóm đi lạc to tiếng, ồn ào, hiếu động mục đích vừa tìm vây cánh vừa
gây tiếng vang làm át tiếng nói chân chính. Nước cờ của nhóm lạc đạo là lên
tiếng chỉ trích, chê bai người lãnh đạo. Nếu không chê người lãnh đạo kì thị
thì cũng ghép tội thiếu hiểu biết lắng nghe hoặc gán cho tiếng xấu để đề cao
việc lạc đạo của phe nhóm mình. Nhóm lạc đạo lợi dụng tính khoan dung, nhân từ
của Giáo Hội để lung lạc, làm yêu sách. Khi đạt được một vài điều đòi hỏi, ước
mong nhóm đó coi là chiến thắng, thành công. Nếu yêu cầu của nhóm không đúng sẽ
không được đáp ứng, được đáp ứng như thế là bề trên sai, mình đúng.
Bài Phúc âm Đức Kitô vạch rõ trần tâm lí khát khao lãnh đạo, thích
hư danh, ảo vọng, tiếng vỗ tay, tiếng ca ngợi, lời khen. Họ thích phô trương
công việc họ làm để thiên hạ thấy mà ngợi khen họ. Thích được gọi là thầy và
vui mừng vì là người chỉ đạo, lãnh đạo nhóm.
Mọi công việc họ làm đều có ý cho người ta thấy: vì thế họ nới
rộng thẻ kinh, may dài tua áo. Họ muốn được chỗ nhất trong đám tiệc và ghế đầu
trong hội đường, ưa được bái chào nơi đường phố và được người ta xưng hô là
Thầy (Mt 23,7)
Chương đầu sách tiên tri Malaki cho biết kẻ lãnh đạo lạc đạo nếu
không hối cải sẽ bị chúc dữ. Điều lạ là ngay những điều chúc lành, lời cầu xin
của người lãnh đạo lạc đạo cũng biến thành lời chúc dữ.
Ta sẽ chúc dữ cho sự chúc lành của các ngươi (Ml 2,2)
Lạc đạo không chỉ ảnh hưởng đến người đó mà còn ảnh hưởng đến đời
con cháu nữa. Họ ca tụng, tán thưởng, khuyến khích, ban khen cho nhau. Người
biết chuyện nhìn vào lại khinh chê, bài bác. Cuối cùng mọi chuyện bị lật tẩy họ
bị khinh rẻ trước mặt người đời.
Đức Kitô kết luận:
Hễ ai tự nhắc mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống, sẽ
được nâng lên (Mt 23,12)
Để tránh lạc đạo chỉ có con đường duy nhất dẫn ta đến cùng Chúa.
Con đường đó là con đường chính Đức Kitô mặc khải:
Thầy là đường, là sự thật và là sự sống (Gn 14,6)
Bởi vì chính Ngài là đường, không phải người dẫn đường mà là
đường. Con đường chẳng bao giờ đi lạc chỉ có người đi trên con đường đó bị lạc.
Đức Kitô là đường nên đường Ngài dẫn đi là con đường công chính, không bao giờ
sai lạc. Để đi trên con đường đó, đi đúng đường, tiếng nói chân chính nơi trần
thế là tiếng nói của Giáo Hội Chúa trên dựng trên con đường hoàn thiện là Đức
Kitô. Chống đối, chê bai Giáo Hội là từ chối đi trên con đường toàn thiện là
Đức Kitô.
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội
lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh
ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối
liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của
mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp
nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông
cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông
khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc
vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về
tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay và
chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu người
thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì mình công chính và đạo đức. Còn
mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy được chân dung hai mẫu người này qua những lời
giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn người anh cả tượng trưng
cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em
mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha niềm nở tiếp đón, thì anh
ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu dàng khoan dung, thì anh ta
đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về lòng nhân từ và khoan dung
của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn nhắm tới bọn biệt phái và luật
sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi được
Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những người đạo đức và công
chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai mẫu người trên qua câu
chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con chẳng phải là kẻ ham hố, bất
lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không giống cái thằng thu thuế
kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của con…
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực và
khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về, không phải người biệt phái
mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn
ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về những bản dịch Thánh
Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói: “Tôi thích bản dịch Phúc âm của The
New English Version. Nó dễ đọc hơn những bản dịch cũ. “Người thứ hai thêm ý
kiến: “Tôi lại thích bản dịch của The New Jerusalem Bible. Nó hiện đại hoá ngôn
ngữ mà không mất đi ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh”. Người thứ ba trả lời:
“Tôi biết một bản dịch hay nhất. Đó là bản dịch của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch
Thánh Kinh vào trong đời sống, và đó là bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi
chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi là một con người đầy tình thương luôn luôn để tâm tới
những nhu cầu của người khác một cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã
làm khi Ngài sống trên trái đất”. Với ý kiến này, tất cả ba người đều đồng ý
như vậy!
Thánh Matthêu đã diễn tả một cách rõ ràng cuộc đời phục vụ của
Chúa Giêsu qua những công việc đầy tình thương và quan tâm tới những người bị
xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến những người cùi, đã ôm và hôn những em bé, đã
khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi những kẻ tự cho mình là đạo
đức, đã chết cho những người hèn mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một
ai: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và
hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta, giáo sĩ
cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích thực của người môn đệ Chúa
Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ trong tinh thần khiêm tốn
của Thiên Chúa: “Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh đạo, vì anh em chỉ có
một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm
người phục vụ anh em”.
Bài đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của tiên tri Malachi. Ngày xưa,
Malachi đã viết những lời gay gắt về những vị lãnh đạo tinh thần của Israel
trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng vụ, ban bố
những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị… Dĩ nhiên, Malachi là một
người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong phẩm trật của đền thờ. Nhưng như
là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số vấn đề về tôn giáo đáng bị quở
trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm của ông đã bắt ép ông phải nói
những lời khó nghe với những vị lãnh đạo tinh thần của mình: “Và giờ đây, hỡi
các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền dành cho các ngươi: Nếu các người
không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Đức Chúa các đạo binh phán, Ta sẽ
khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các ngươi thành tai hoạ”.
Nhiều năm sau, dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, những điều trên cũng
vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên những người Biệt phái và các
Kinh sư “ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy… họ nói mà không làm. Họ bó những gánh
nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không muốn động ngón tay vào.
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy… ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc… ưa
được chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rabbi”.
Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu tiên của các thầy sáu.
Thích không phải vì chứng kiến sự run rẩy và lúng túng. Thích không phải vì tò
mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng thuyết hay không. Nhưng
thích vì các thầy sợ! Sợ không phải vì đứng trước công chúng. Sợ không phải vì
không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua lớp giảng thuyết rồi! Nhưng sợ và
rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời mình giảng có phù hợp với
việc mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng.
Không dám nói mạnh! Còn ngại miệng lắm!
Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần đầu tiên giảng dạy. Càng làm
linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói nhiều điều chính mình chưa thực
hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi mình nói và cái tôi mình sống nó không
mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập với nhau thì lại càng nói
hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt! Nói hăng và nói hay nữa. Nhưng lại
được giáo dân khen là giảng hay! Càng hay tức là càng nói những lý tưởng cao cả
mà mình chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và đáng bị Chúa mắng cho là “Họ nói
mà không làm”!
Tôi không lấy làm lạ trước những điều Chúa Giêsu khiển trách các
Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt trái của chức vụ tư tế ở mọi thời đại. Người
thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát biểu những lời hay ý đẹp. Chủ
tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích
được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo
đã có một cái gì đó làm cho người ta cảm thấy rằng một số người đã đạt tới một
mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây giờ họ đáng được sự kính trọng
hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của người giáo dân Việt Nam nơi các
linh mục là một điển hình. Gặp các cha thì phải khoanh tay cúi đầu: “Con xin
phép lạy cha ạ!” Lạy mà còn phải xin phép nữa!
Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách nào đó, đã làm mờ nhạt ý
nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để trở thành những người đầy
tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đã giải thích:
“Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các vị chủ chăn và các phương
tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những thừa tác
vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các thừa tác
viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em mình, để tất cả những ai thuộc
về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu độ”.
Con người mang lấy thừa tác vụ của Giáo Hội dễ lạm dụng chức thánh
của mình và quên đi trách nhiệm phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Vào thời điểm
lịch sử của Giáo Hội Công giáo Hoa Kỳ hiện nay, đang khi có những lời tố cáo về
việc lạm dụng tình dục trẻ em bởi các linh mục và một số giám mục, hơn bao giờ
hết, sự đòi hòi về tư cách lãnh đạo và tinh thần trách nhiệm trở nên cấp bách
và cần thiết. Và, một lần nữa, ai là những vị tiên tri nói lên những lời cảnh
giác trong tình thế hiện nay của Giáo Hội? Họ lại là những người giáo dân giống
như tiên tri Malachi!
Trong lúc theo dõi những diễn tiến của Hội đồng Các Giám Mục Công
Giáo Hoa Kỳ ở Dallas vào tháng 6 năm 2002, những người giáo dân như Scott
Appleby, giáo sư sử học của trường đại học University of Notre Dame, và bà
Margaret O’Brien Steinfels, chủ bút tạp chí Commonweal, đã nói về các giám mục
rằng các ngài đã thất bại thê thảm trong vai trò trách nhiệm của mình để chăm
sóc những con người dễ bị tổn thương nhất, con cái của chúng ta. Có lẽ chưa bao
giờ có một giai đoạn trong lịch sử Công giáo Hoa Kỳ, những người lãnh đạo tinh
thần đã bị công khai chỉ trích bởi giáo dân như hiện nay. Và cũng chưa bao giờ
có những lời chỉ trích thực sự mang tính chất muốn sửa đổi và xây dựng như hiện
nay…
Dĩ nhiên, phê bình chỉ trích thường liên hệ với một lý tưởng. Sự
phê bình về thái độ của các thầy tư tế của tiên tri Malachi và của giáo dân
nhằm vạch ra một con đường tốt đẹp hơn cho đời sống tôn giáo. Tự bản chất của
các thừa tác vụ là để phục vụ cho Chúa Kitô và Giáo Hội như sách Giáo lý Công
giáo số 876 đã dạy: “Được gắn liền cách nội tại với bản chất bí tích của thừa
tác vụ Giáo Hội, là đặc điểm phục vụ của thừa tác vụ này. Đúng thế, các thừa
tác viên hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa Kitô là Đấng ban sứ mạng và uy quyền cho
họ, và họ thật sự là “những nô lệ của Chúa Kitô”.
Vấn đề phục vụ được Giáo Hội kêu gọi, không phải chỉ dành cho các
giáo sĩ, hay tu sĩ, nhưng còn cho mọi người Kitô hữu như là môn đệ của Chúa
Kitô. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta bằng chính gương sáng của ngài trong thư
thứ nhất gửi cho người Kitô hữu của Thêsalônica: “Trong khi chúng tôi ở giữa
anh chị em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con
thơ. Chúng tôi đã quý mến anh chị em đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh chị em,
không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa…”
Những lời của thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm lắng
nghe lời Chúa, công bố lời Chúa và sống lời Chúa. Tất cả chúng ta được gọi để
sống một cách nguyên vẹn và đầy đủ vai trò “chăm sóc” mà thánh Phaolô diễn tả.
Chúng ta được kêu gọi để cùng nhau làm việc biến đổi trái đất này thành vương
quốc Thiên Chúa. Chúng ta được kêu gọi để chăm sóc lẫn cho nhau, và đặc biệt
những người đã bị tước đoạt mất những nhân quyền căn bản và những nhu cầu của
họ vì bất công, bạo lực và vì sự lãnh đạo vô trách nhiệm. Chúa Giêsu đã gọi
những người Kitô hữu bước theo Ngài là “ánh sáng thế gian”, có nghĩa là mỗi
người Kitô hữu phải chia sẻ vai trò lãnh đạo của Ngài.
Tuy nhiên, bổn phận của chúng ta phải được thi hành trong tinh
thần khiêm tốn như Chúa Giêsu khuyên dạy: “Trong anh em, người làm lớn hơn cả,
phải làm người phục vụ anh em”. Chúng ta được gọi không phải để đóng vai trò
quyền lực hay kiêu hãnh, nhưng để phục vụ như những người đầy tớ khiêm tốn của
Thiên Chúa.
Trong những ngụ ngôn Aesop có kể câu chuyện “Ngựa và con lừa”.
Ngày xưa, có người kia nuôi ngựa và lừa để chúng giúp việc trong nhà. Ông có
thói quen bắt lừa phải chở hàng nặng đến gần quỵ, trong khi lại để ngựa thong
thả theo sau với mớ đồ nhẹ tênh. Ngày kia, cả ba lên đường. Con lừa vì đau yếu
mấy ngày nên than thở với ngựa rằng: “Tôi khó chịu quá! Anh chở hộ tôi ít món.
Nếu không tôi chết mất”.
Con ngựa đá giò lái, bảo lừa im đi kẻo gây rắc rối cho nó. Con lừa
im lặng, ráng bước thêm nửa dặm nữa rồi lăn ra chết. Ông chủ tháo hết hàng đặt
lên lưng ngựa. Không những thế, ông còn đặt luôn xác của con lừa xấu số lên
lưng ngựa nữa. Bấy giờ, ngựa mới than thở: “Than ôi! Bây giờ tôi mới thấy cái
tai hại của tính ích kỷ”.
Vai trò của Chúa Giêsu được diễn tả trong Phúc âm thánh Matthêu là
vai trò Người Đầy Tớ của Thiên Chúa. Chúng ta, các giáo sĩ tu sĩ và giáo dân,
được gọi để chia sẻ những khả năng tinh thần, vật chất và ngay cả chính đời
sống của mình phục vụ cho tha nhân. Khi chúng ta phục vụ cho Giáo Hội và nhân
loại, chúng ta được biến đổi từ những con người tội lỗi trở thành những con
người mang Thần Khí của Thiên Chúa, Thiên Chúa của tình yêu thương và phục vụ.
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận
lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài
thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người
Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và
cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người
thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pharisêu và kinh sư có quyền giáo
huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng,
do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những
gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những
việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn
nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được
ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hìng, giả dối
của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có
cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm
quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe
đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính
mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một
nẻo, như thánh Phaolô nói: “Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình.
Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật”, nghĩa là ngôn ngữ và
hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ rao
truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm thủ
lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp sống:
một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính mình lại buông xuôi, buông
thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái sai,
và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi
Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói
giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã
chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ
miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi
bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và
làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pharisêu không còn,
nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội,
nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như
thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính
trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả
dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ
khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa
tâm trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: ai
muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau
lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dẫu
trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra
vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: “Bề ngoài thơn
thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm”. Thành ra, để phân
biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai là kẻ
lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất tài
tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là tay
độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng, nhưng
trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình
hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che
đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế
không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày “cháy nhà ra mặt chuột”. Giả như chúng
ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng chúng ta
có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời
hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi
công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ
và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình lên, muốn khẳng định mình,
muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát
vọng như thế?
Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát
vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn lên, để "trở nên
người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô". Chính Chúa
Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao cả: "Anh em hãy nên
hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48). Như
thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một khát vọng rất chính đáng và
tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người nhắm đạt đến lý tưởng nầy
bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn tới lý tưởng nầy bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu muốn nâng cao giá trị
của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài cốt để cho người ta thấy; họ
"đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài
hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng
ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và
mong được thiên hạ gọi là thầy."
Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn nâng cao giá trị của mình
qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất. (Mc
9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai đây Chúa Giêsu sẽ được lên
ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là Bà Dê-bê-đê đến nài xin
Chúa Giêsu cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Người. Nghe
vậy, mười môn đệ kia bất bình ra mặt với Gioan và Giacôbê, vì chưa gì mà hai
anh em nầy đã toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ cũng đang ngấp nghé. (Mc 10,
35-41)
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng, được
tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.
2. Đâu là phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội
như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu tưởng lầm. Họ tưởng rằng
hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào
chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta
chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy#" là có giá
trị trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nêu trên
đem lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp, vào
địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm tưởng, nhưng giá trị đó
tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của con người.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội minh định: "Giá trị con
người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (= bản thân ta và những gì ta sở
hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của ta, chức vụ và quyền hạn
lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những người không nhà, không xe,
không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức (nếu
có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt
phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho mình nên cao
trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha nhân như người tôi tớ: "Ai muốn làm lớn
giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mc 10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được mấy ai chấp nhận, nhưng đó
là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng điều đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại An-ba-ni nhưng trải
qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ, từ đó, Mẹ được mang
danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục vụ những mảnh đời
cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng
và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, các
vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta để tham dự tuần lễ cầu
nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người phụ nữ mang danh
"Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa Kỳ nhất trí phong tặng mẹ
danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ là nhân vật thứ tư trên
thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ Ấn
Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự từ
trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công
trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo Hội nâng lên hàng Chân
Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ
trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ, hai vị được phong chân
phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh Maximilian Kolbe cũng phải mất
đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng lời dạy
của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người chúng ta thôi tìm kiếm vinh quang cho mình bằng
những hình thức hư ảo của những hạng người nông nổi, nhưng biết dấn thân phụng
sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương Chân Phước Têrêxa
Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương và hạnh phúc hơn
bằng tinh thần phục vụ.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu tấn công những
người Pharisêu giả hình, thích phô trương. Đồng thời, Ngài cũng vạch ra một
cách sống của người môn đệ trong việc hành sử quyền bính: "Quyền bính là
để phục vụ".
Hẳn là có nhiều phản ứng khác nhau khi nghe bài Tin mừng hôm nay:
Có người sẽ dửng dưng, vì những gì được nói đến trong bài Tin mừng
này chẳng dính dáng gì tới mình; nhưng thái độ đó sẽ có lẽ là một dấu hiệu xấu,
vì Lời Chúa thực sự luôn là một sứ điệp trao gởi cho người nào biết lắng nghe.
Có người sẽ mừng thầm, vì không thấy mình mắc phải những điều mà
Chúa Giêsu đã khiển trách nơi những người Pharisêu giả hình. Nhưng thái độ mừng
thầm như thế có lẽ là một dấu hiệu xấu. Bởi lẽ một thái độ tự mãn sẽ dễ làm cho
người môn đệ Đức Giêsu đi vào chính vết xe của những người Pharisêu.
Có người sẽ hả hê vì cho rằng những lời của Đức Giêsu thật thích
đáng cho những bọn giả hình, ngày xưa cũng như ngày nay; những người sống đạo
quá hình thức, thích phô trương; hay "lên mặt dạy đời"… Nhưng thái độ
hả hê cũng là một dấu hiệu xấu; bởi lẽ, trước sứ điệp của Đức Giêsu, bổn phận
của chúng ta là xét mình chứ không phải xét người.
Có người sẽ có thái độ "nổi loạn", vì nhận thấy Giáo hội
có một cơ cấu tổ chức quá hình thức; các "đấng bậc" trong Giáo hội
quá quan liêu, cha chú… họ thấy dường như Đức Giêsu đồng tình với mình khi bảo
đừng gọi ai dưới đất là Cha… Nhưng thái độ này có lẽ cũng là một dấu hiệu xấu;
vì họ không có tinh thần chia sẻ trách nhiệm chung với gia đình Giáo hội; và
đặt mình đứng ở bên ngoài, bên trên, để phê phán một cách dễ dãi.
Thái độ đích thực của người môn đệ Đức Giêsu, trước hết, là phải
tự xét lại tinh thần sống đạo của mình; và điều chính yếu không phải là xét nét
về những ngôn từ "cha", "thầy", "người lãnh đạo";
nhưng là xét xem mình có thực sự đón nhận giáo huấn của Chúa Giêsu là vị Thầy
duy nhất không; có thực sự cậy dựa vào một mình Thiên Chúa là Cha nâng đỡ chở
che không; có thực sự sống tinh thần huynh đệ, phục vụ đối với anh chị em của
mình không.
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có một mình Chúa mới có thể cứu chúng con
khỏi lòng ích kỷ,
khỏi thói kiêu căng,
khỏi những ham muốn bất chính,
khỏi tội lỗi dày vò.
Lạy Chúa Giêsu,
Xin đừng để con đi tìm sự giải thoát ở nơi đâu khác.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – Radio Veritas Asia)
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng
6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký
của mình:
"Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các thuyết
trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng thần
học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa Calcutta
thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn sơ và tôi
nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của Mẹ cũng
đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì Mẹ sống
chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm
nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm.
Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy
nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng
nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình
hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ
là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ
khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó
buộc ta phải canh tân liên lỉ".
Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm nay có thể nói được là những
kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ không có lòng đạo đức, không
muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những thẻ
kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được sự thông minh của họ, nhưng
đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước mặt
Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nhìn nhận những sơ sót để xin
ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống của
mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên Hội
Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức Giám
Mục Việt Nam đã viết:
"Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh
chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm là sám hối, vì trong
quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu,
các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo
Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn
Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô tình khiến chúng ta
trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta
và cho mọi người".
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em.
Phải hòa giải với anh chị em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ,
bất hòa khiến anh chị em xa Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là điều
kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là ước
nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi
mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh
liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình
nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng một Cha trên trời. Với con
người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên
niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc
sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn,
với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối. Sám
hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng khiêm
nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng như với
những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn Chúa ban
để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy trở về
với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm tốn.
Xin Chúa ban ơn để chúng ta canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời sống,
được lớn lên với các nhân đức.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con sống chân thành và khiêm tốn với Chúa
và tha nhân. Nhờ đó, chúng con tìm được ơn tha thứ, tình yêu và nguồn bình an
để sống trọn vẹn vai trò làm con Chúa. Amen.
Một trong những bài viết của Ralph Emerson, ông đã đặt một câu hỏi
như sau: "Làm thế nào để đo lường sự thành công?" (How do you measure
success?) Ông đã trả lời bằng cách đưa ra ba điểm sau:
Biết quí vẻ đẹp (to appreciate beauty).
Biết tìm ra những ưu điểm ở người khác.
Biết làm cho thế giới trở nên tốt hơn bằng những gì mình có thể.
Trong chúng ta, có lẽ không mấy người thấy phương thức trên có gì
đáng cho chúng ta công kích cả. Chẳng có mấy ai lại cãi rằng biết đánh giá đúng
về những vẻ đẹp, hoặc tìm ra những ưu điểm ở kẻ khác, hoặc để lại cho thế giới
những điều gì tốt đẹp lại không phải là đã sống thành công. Tuy nhiên, xét cho
cùng, phương thức trên chưa phải là một phương thức để đo sự thành công một
cách hoàn hảo.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đi xa hơn Ralph Emerson về
sự thành công. Ngài đã phán rằng, "Trong anh em, người làm lớn hơn cả,
phải làm người phục vụ anh em" (Mt 23:11). Rất nhiều người trong chúng ta
có lẽ thấy điều này thật là quá sức của chúng ta có thể làm được.
Một học sinh trung học đã viết một tấm thiệp cho bà ngoại của nó
đang nằm trong bệnh viện: "Thưa ngoại, mẹ con nói là ngoại đang là nằm
bệnh viện để trắc nghiệm (you are in the hospital for tests). Cháu rất mong là
ngoại sẽ lấy được điểm A!" Đó cũng là điều mà Chúa Giêsu đã đưa ra cho tất
cả những người muốn theo Ngài, "Ai là người lớn nhất, hãy phục vụ."
Ngài mong muốn tất cả chúng ta đều lãnh điểm "A" về môn "Phục Vụ
Tha Nhân."
Sự sinh tồn của chúng ta dựa bằng những gì chúng ta lãnh nhận,
nhưng cuộc sống của chúng ta dựa trên những gì chúng ta trao ban (we make a
living by what we get, but make a life by what we give). Không phải vị trí
(position) của chúng ta làm cho cho chúng ta vui sống, nhưng là cách thức của
chúng ta. Trong cuốn sách "The Kingdom Within" (Vương Quốc Ở Bên
Trong), tác giả John Stanford đã kể lại thời niên thiếu của ông. Vào những mùa
hè, ông thường trở về sống tại một căn nhà ngoại ô vùng nông trại tại New
Hampshire. Ông còn nhớ cái chỗ đó thật là đơn sơ, không có điện, hoặc những ống
nước như thời nay. Điểm mà ông vẫn chú ý là người nhà của ông thường lấy nước ở
một cái giếng ở gần đó. Cái giếng này đã cho những người nhà của ông nước để sử
dụng trong mọi công việc. Lúc nào nó cũng có nước, cho dù là trong lúc hạn
hán... Sau đó một thời gian, ngôi nhà nông trại đã được sửa sang lại một cách
khang trang có đầy đủ tiện nghi hệ thống điện và nước
Sau đó một vài năm, ông trở về căn nhà nông trại khang trang đó.
Do sự tò mò thúc đẩy, ông đã lần mò ra cái giếng. Bây giờ nó đã được đậy lại.
Trong khi gỡ các tấm đậy nắp giếng ra, trong đầu ông, ông cho rằng nó vẫn còn
nước như những năm trước đây. Thế nhưng, thật là một sự bất ngờ, sau khi mở ra
và nhìn xuống, cái giếng đã bị khô cạn từ lúc nào.
Ông đã đi tìm hiểu lý do tại sao cái giếng lại bị cạn khô như thế.
Sau một thời gian, ông đã hiểu ra được lý do tại sao cái giếng bị khô cạn. Khi
người ta lấy nước ở cái giếng, thì những mạch nước nhỏ ở dưới lòng đất sẽ cứ
tuôn chảy nước vào cái giếng, và nhờ sự di chuyển này các mạch nước không bị
tắc nghẽn. Thế nhưng khi người ta ngưng không múc nước ở trong giếng ra nữa thì
các mạch nước bị nghẹt lại và không chảy nước vào trong giếng nữa.
Đó là một bài học rất quí giá cho mỗi người Kitô hữu chúng ta. Đạo
Công Giáo đòi buộc chúng ta phải cho đi những gì mình có trong khả năng của
mình. Ơn thánh của Chúa hằng luôn đổ tràn trên chúng ta không bao giờ ngừng.
Những món quà mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta cũng không bao giờ ngưng. Thế
nhưng tâm hồn của chúng ta bị khô cạn là bởi vì chúng ta đã không biết dùng
những gì mà chúng ta đã lãnh nhận.
"Người lớn nhất trong anh em phải là người phục vụ tất cả
những người khác." Có dễ làm không? Có lẽ không. Tuy nhiên, các bạn hãy
thử đi, rồi các bạn sẽ thấy thích. Các bạn hãy thử đi rồi các bạn sẽ cảm nghiệm
được niềm vui khôn tả trong tâm hồn khi phục vụ kẻ khác bởi vì qua đó, cuộc
sống của chúng ta được trở nên sung mãn và dồi dào hơn.
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Giả hình và kiêu ngạo
Thêm một lần nữa, Tin Mừng đề cập đến những người Pharisêu. Họ là
những người có địa vị trong xã hội và có tầm ảnh hưởng khá rộng. Và cũng thêm
một lần nữa, lời lẽ của Đức Giêsu với những người Pharisêu chẳng có chút gì là
dịu dàng, hoà hoãn. Đức Giêsu đã đưa ra những lời nghiêm khắc với những người
tự nhận mình biết tất cả, nhưng chính họ lại chẳng hiểu gì.
Vậy, Đức Giêsu quở trách những người Pharisêu về chuyện gì? Sự dối
trá của họ. Thông thường, sự dối trá chỉ thể hiện qua lời nói: người ta biết
một điều là sai nhưng lại trình bày là đúng. Về phương diện này, người Pharisêu
không bị khiển trách. Điều họ quả quyết thực sự là đúng: họ có nhiều kiến thức,
có khả năng xét xử, lời họ nói có thể dẫn đến Thiên Chúa, và dựa vào những thẩm
quyền chính thống. Họ không nói năng như những người xa lạ muốn chiếm đoạt một
quyền dành riêng. Họ là những người "nối quyền ông Môsê mà giảng dạy"
-như lời Đức Giêsu, họ không giống như những người Xa-ma-ri vốn cũng nói về ông
Môsê, nhưng giáo huấn của người này đã sai lạc vì đã pha trộn thêm nhiều yếu tố
khác.
Như vậy, sự dối trá của những người Pharisêu không phải là lời
nói, nhưng một cách tinh vi hơn, là sự cách biệt, sự mâu thuẫn giữa lời họ nói
và việc họ làm. Đức Giêsu đã nhắn nhủ các môn đệ: "... họ nói mà không
làm. Vậy những gì họ dạy, thì anh em hãy làm, hãy giữ ; nhưng cách họ hành
động, thì đừng có làm theo." Bởi vì "họ bó những gánh nặng mà chất
lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buổn động ngón tay vào."
Chính sự cách biệt, mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm cho thấy
tội của người Pharisêu. Đó là tội "giả hình". Đó là một sự đứt đoạn
mà chẳng hề có một sự hối hận nào.
Xa hơn, Đức Giêsu cho thấy động lực của thái độ này: "họ làm
mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy", tức là lòng "kiêu ngạo". Đây
không phải là thái độ của một người tự hào về những tài năng hay sự thành công
của mình, nhưng đây là một thái độ tinh vi hơn, nếu không muốn nói là tệ hại
hơn. Quả vậy, đây là việc sử dụng quyền bính và uy tín cách bất xứng: đúng ra
quyền bính và uy tín này chỉ có được ý nghĩa khi được sử dụng qua và vì nhiệm
vụ của mình, và khi có nhiệm vụ càng cao, lại phải khiêm tốn hơn. Làm sao người
ta có thể tự nhận là dụng cụ của Thiên Chúa để thông truyền cho người khác về
mầu nhiệm của Người, mà lại chẳng quan tâm đến việc sống xứng hợp với mầu nhiệm
này, và cũng chẳng ý thức rằng dụng cụ chỉ có được ý nghĩa khi phục vụ cho điều
mình đã khấn nguyện, và mình chỉ là một phản ánh cho sự thật lớn lao!
Những người Pharisêu đã sử dụng quyền bính được trao cho mình để
tìm vinh quang cho cá nhân và thu lợi cho riêng mình. Đó là một sự sai lầm, một
sự lạm dụng quyền bính. Sự lạm dụng này đã biến họ trở thành những người đổi bại,
ngược hẳn với điều họ bắt người khác làm.
Vì lợi ích của cộng đoàn
Thiên Chúa đã trao Lời của Người cho con người, nhưng họ đã tìm
cách chiếm đoạt Lời đó. Con người được mời gọi làm sứ giả, làm tôi tớ của Lời,
nhưng họ đã biến lời đó thành dụng cụ để phục vụ lợi ích riêng mình. Nói cách
khác, họ biến Thiên Chúa thành người phục vụ họ.
Hiện tượng này đã xảy ra vào thời Đức Giêsu, và vẫn xảy ra trong
Hội Thánh, suốt dòng lịch sử. Đã không phải chỉ một lần Hội Thánh bỏ quên sứ
mạng cốt yếu của mình là loan báo Tin Mừng, các giáo sĩ cũng đã nhiều lần ủng
hộ các chế độ trong đó quyền lợi của các vị được đề cao để rổi xa lánh những
đòi hỏi của Tin Mừng. Và với các tín hữu, sứ điệp được trao cho họ là sự thật,
nhưng họ đã cắt nghĩa theo lối của mình để xét đoán người khác.
Những lời của Đức Giêsu với những người Pharisêu cho thấy thái độ
đầy giận dữ trước sự dối trá, và những hình thức của nó là kiêu căng, giả hình,
ham mê tiền bạc. Những hình thức dối trá này làm phát sinh tình trạng vô trật
tự và cuối cùng làm bùng nỗ bạo lực. Nơi người Pharisêu, lời chân lý đã bị trói
chặt, bị giam hãm, và thay vào đó là lời dối trá.
Ngoài ra, những lời của Đức Giêsu cũng là một lời mời có sức giải
thoát, cho thấy một chân trời mới đang xuất hiện và làm nỗ tung những giới hạn của
con người. Những lời này mở ra một khoảng không để mọi người có thể hiệp thông
với nhau, cùng chia sẻ một ưu tư là trao đổi về ý nghĩa chiều hướng sẽ đến,
luôn cần phải khám phá. Những lời này không phải là những lý do để tạo ra những
trường phái đối lập nhau, hay gây ra những cuộc chiến tranh có sức gây huỷ
diệt.
Chính vì mỗi người ý thức được nhiệm vụ của mình là bảo toàn sự
siêu việt của Lời, nên Hội Thánh phải là điểm quy chiếu của sứ vụ: không ai có
quyền giải thích lời Chúa mà không hướng đến toàn thể cộng đoàn. Không ai có
quyền giải thích lời Chúa nhằm lợi ích cho cá nhân mình, trong khi coi thường
ích lợi của người khác.
Tuy vậy, Hội Thánh cũng nhắc nhở rằng, những lời này có thể được
đọc lại theo một cách thức mới do những người nghèo. Cộng đoàn có thể được hình
thành và bao gổm những trách nhiệm nhỏ hay lớn, nhưng từ căn bản, tất cả mọi
người trong cộng đoàn đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Mọi người, bất kể là ai,
đều là anh em với nhau, và đều cùng được mời gọi làm cho lời đã âm vang trong lòng
họ được thêm phong phú. Mỗi người, trong trách nhiệm, trong công việc của mình,
đều là chứng tá sống động và đích thực của lời Chúa.
Đừng tưởng mình vô tội
Đọc lại đoạn Tin Mừng này, có lẽ chúng ta cảm thấy vui mừng vì
nhận thấy Đức Giêsu nói những lời này với những người đã sống và chết từ lâu.
Ngày nay chẳng còn những kinh sư, những biệt phái nữa! Có phải như thế không?
Và cũng có lúc chúng ta nghĩ rằng có một vài sự kiện trong quá khứ
có thể đã tạo nên một hình ảnh không mấy tốt đẹp về Hội Thánh, nhưng tất cả đã
trôi vào dĩ vãng.
Nhưng coi chừng, chúng ta lại không phải là kinh sư và biệt phái
đấy sao, mỗi khi lời nói và việc làm của chúng ta không ăn khớp với nhau.
Và nhất là, khi đã ý thức được điều này, không phải chỉ là thay
đổi thái độ, còn cần phải thay đổi lối nhìn: tất cả chúng ta đều là anh em, tất
cả chúng ta đều bình đẳng, vì chúng ta "chỉ có một Cha, chỉ có một Thầy,
chỉ có một vị lãnh đạo."
Không có điều nào cho phép chúng ta nghĩ mình trổi vượt hơn người
khác, dù đó là kiến thức, địa vị xã hội, hay tiền bạc ... Những điều này chỉ có
ý nghĩa một khi chúng ta đem sử dụng để phục vụ người khác.
Như vậy, để không dối trá với người khác, với chính mình và với
tình yêu, chúng ta phải gạt bỏ đi thế giới đầy ảo tưởng và những vẻ bên ngoài
mà tính ích kỷ và thói kiêu ngạo hay tạo nên nơi chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta
không còn muốn "thu góp" và "xuất hiện", lúc ấy chúng ta
mới bắt đầu "là".
Cái nhìn đức tin xuyên thủng tấm màn bên ngoài. Cái nhìn của những
người Pharisêu, cái nhìn dối trá, thật quá thô thiển, bởi vì nó chỉ mong tìm
vinh quang và ích lợi. Cái nhìn này không cho chúng ta nhận ra những chiều kích
về con người cũng như về Thiên Chúa. Chúng ta chẳng ngạc nhiên nếu một ngày nào
đó những vẻ hào nhoáng này rơi xuống, và khi ấy những chiều kích đích thực sẽ
xuất hiện, trong đó -như lời Đức Giêsu- "người đầu hết sẽ trở nên cuối
hết, và người cuối hết sẽ nên trước hết."
"Trong tất cả thảm kịch của Chúa Giêsu, người ta cảm nhận ra
vì sao người Pharisêu lại sợ Người. Bởi vì sự hiện diện của Người làm mờ đi sự
hiện diện của họ, và chính vì sự ghen tương mà họ đã không có được sự sáng suốt
để nhận biết Người ... Họ đã cảm thấy không có vũ khí ngang tầm để tấn công
Chúa Giêsu. Họ đã cảm thấy ở Người có một sự chân thật, một sự chất phác mà họ
không thể với tới được. Họ đã muốn bịt tiếng nói đó, bởi tiếng nói đó quá trung
thực khiến họ không thể thoát được ...
"Nếu chúng ta làm điệu làm bộ với mốt này, mốt nọ, điều đó
ích lợi gì cho ai, vì đó chỉ là những điệu bộ. Điều mà dân chúng chờ đợi, đó là
một ý thức sắc bén về sự công bằng, lòng nhân ái, một sự rộng mở của con tim,
rộng mở đến vô hạn, đến độ người ta nhận ra ở đó có cái gì rất lạ lùng, một ý
tưởng của Thiên Chúa ..."
(x. Maurice Zundel, "Sống với Chúa trong cái thường
ngày", tập 1, trang 33-35).
Anh chị em thân mến.
Thời buổi ngày hôm nay con người thường dùng sự hào nhoán bên
ngoài để đối xử với nhau, nên nhiều khi hết sức giả tạo, vì bên ngoài như thế
nhưng bên trong hoàn toàn khác. Cũng như hằng ngày chúng ta nhìn thấy những mẫu
quảng cao trên Tivi, cái gì cũng tốt, cũng đẹp cũng hay, nhưng thực chất khi
mang về xử dụng thì biết bao nhiêu điều không như lời quảng cáo, làm cho người
tiêu dùng phải khó chịu. Thực chất con người phải chấp nhận những gì mình đã
mang lấy, có những lúc cay đắng chấp nhận những gì đã mua mà không dùng được vì
mình đã bị lừa. Chính vì thế mà Việt Nam chúng ta có câu:
Dò sông dò biển dể dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người.
Lòng người khó mà biết được, không chỉ nhìn bên ngoài mà đoán được
lòng người. Nhưng Chúa Giêsu đòi buộc những ngươi theo Ngài có một tâm hồn
trung thực trong cuộc sống. Cử chỉ bên ngoài thể hiện được tâm tình bên trong
và sống chân thành với nhau. Ngài không chấp được cuộc sống hình thức bên ngoài
khác với bên trong tâm hồn của con người, Ngài không thể nào chấp nhận cuộc
sống giả hình nên Ngài mới nói: "Các lật sĩ và những người biệt phái ngồi
trên toà Môisen mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói, các con hãy làm và tuân
theo, nhưng đừng noi theo hành vi của họ, vì họ nói mà không làm ..."
Chúa Giêsu muốn dạy bảo cho mọi người sống theo thánh ý Chúa bằng
cuộc sống của mình, bằng cả lời nói và hành động, bằng những gì phát xuất tự
tâm hồn chứ không phải chỉ là những hình thức bên ngoài để che dậy những gì bên
trong, vì Thiên Chúa nhìn thấy tận bên trong tâm hồn con người.
Một học giả đã nói thật chí lý: trong cuộc sống đời thường, con
người thích làm cái đầu con gà hơn là làm cái đít con voi.
Mọi người đều thích được nhiều người biết đến, thích được mọi
người kính trọng, thích được mọi người khen tặng. Nhiều khi thực chất không có
gì, mà vẫn thích được có địa vị, nên cố làm ra vẻ cho mọi người lầm tưởng để
kính trọng, để rồi dùng mọi biện pháp mọi thủ đoạn để đạt được mục đích mà mình
không xứng đáng để được. Chính vì thế mà có nhiều chuyện không hay htường xảy
ra trong cuộc sống.
Chúng ta là những người công giáo, là những người đã được nghe
những lời chỉ dạy của Chúa Giêsu, nhưng cuộc sống hiện tại của mỗi người cho
đến giờ phút này như thế nào? Mỗi người để một ít phút, nhìn lại mình:
Chúng ta bảo rằng mình không như những luật sĩ và biệt phái của
ngày xưa: chúng ta nói nhưng cũng có làm những việc tốt, cũng thi hành những
việc bác ái, cũng biết giúp người khác trong nhiều việc. Coi chừng, chúng ta là
những luật sĩ và biệt phái của ngày hôm nay. Những việc làm của mình có phải là
thi hành thánh ý Chúa, vì bác ái yêu thương, hay làm cho người ta nhìn thấy,
làm để rồi tự mãn kiêu căng và ngũ quên trên những việc làm mà chúng ta cho là
đạo đức thánh thiện để không còn biết cố gắng.
Nếu chúng ta nhìn thấy được những lần mình khó chịu với người khác
vì họ đến quấy rầy, nếu chúng ta nhớ đến bao nhiêu lần mình không thể chấp nhận
được người khác khi họ dám nói thẳng vào những sai phạm của mình, còn những lần
mình không thể giúp đở người khác khi họ cần đến. Những lúc đó là những lúc mà
chúng ta trốn tránh, cho người khác phải vát những bó nặng mà không muốn dùng
ngón tay của mình để thử xem như thế nào.
Còn những lúc chúng ta muốn dạt được mục đích mà mình cho là danh
vọng, lợi nhuận? Những lúc đó chúng ta không từ một thủ đoạn nào, cũng không
nhìn thấy được những đau khổ của người khác, không lắng nghe những lời oán than
kêu trách, vì chỉ biết đạt mục đích nên bỏ ngoài tai tất cả. Những lúc đó chúng
ta đang noi theo hành vi của những luật sĩ và biệt phái, noi theo hành vi của
những người mà Chúa Giêsu bảo đừng noi theo.
Nếu chúng ta nhìn thấy được những người chung quanh đang cần đến
chúng ta và không ngần ngại để làm cho họ những gì cần thiết, nếu chúng dùng
con tim yêu thương mà hành động thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Xin Chúa ban mỗi người chúng ta có một con tim chân thành để biết
sống theo những gì Chúa dạy bảo.
Sự kiện có nhiều tín hữu lấy việc phải đóng góp như là cớ để rời
bỏ Giáo Hội, vén mở cho thấy một vấn đề khác đang gây âu lo không ít cho Hội
Đồng Giám mục các nước Âu Châu. Đó là nhiều Kitô hữu đánh mất đi niềm tin của
họ trong một xã hội bị tục hoá nặng nề. Chính vì nhiều tín hữu Âu Châu không
sống đạo và không liên hệ gì với Giáo Hội nữa, nên họ thấy việc đóng góp cho
Giáo Hội trở thành một gánh nặng vô lý.
Trong một xã hội đang đánh mất đi các giá trị Kitô của mình như
Giáo Hội Âu Châu, thì chỉ một Giáo Hội sinh động với một số tín hữu sống lòng
tin trung thực và xác tín mới có sức trao ban hy vọng cho con người đang lạc
hướng bơ vơ ấy. Đây là lý do giải thích tại sao Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã khẩn thiết khuyến khích công tác "tái truyền giảng Tin Mừng" và
kêu gọi các quốc gia tái khám phá ra nền văn hóa Kitô của mình.
Nhưng thế nào là sống lòng tin trung thực cho một Giáo Hội sinh
động? Các bài đọc Phụng vụ của Chúa Nhật 31 Thường Niên hôm nay cống hiến cho
chúng ta một số tư tưởng, giúp chúng ta duyệt xét lại lòng tin của mình vào
Giáo Hội.
Bài Tin Mừng hôm nay được thánh Matthêu ghi lại cuộc đụng độ trầm
trọng giữa Chúa Giêsu và hàng lãnh đạo Do Thái, đồng thời nó cũng diễn tả tình
trạng căng thẳng sự đổ bể liên hệ giữa cộng đoàn Do Thái và cộng đoàn Kitô giáo
trong thời sơ khai.
Cuộc đụng độ ấy cho thấy hai loại Giáo Hội đối nghịch nhau: Thứ
nhất là một Giáo Hội đầy dẫy những tín hữu thủ cựu huênh hoang, phách lối, ham
hố quyền bính, vụ luật và dùng luật lệ làm bình phong che đậy cuộc sống giả dối
tội lỗi của mình. Thứ hai là một Giáo Hội sống theo tinh thần Tin Mừng của Chúa
Giêsu, trong đó hàng lãnh đạo là những người khiêm tốn, thánh thiện, biết hy
sinh xả kỷ phục vụ và sống nêu gương cho người khác.
Vậy, khi mạnh mẽ chỉ trích hàng lãnh đạo Do Thái, Chúa Giêsu đã
phản đối quyền lãnh đạo hợp pháp của họ, nhưng đồng thời Ngài cũng vạch trần
những thái độ sống đạo sai lạc của giới lãnh đạo, của hàng tư tế, của giới luật
sĩ và biệt phái, giới ký lục và các bô tão. Họ là những người thông hiểu luật
Chúa, đáng lý ra họ phải nêu gương cho tín hữu thì ngược lại họ lại gây nên
gương mù, gương xấu cho dân chúng.
Vì thế, Chúa Giêsu đã tố cáo thái độ sống đạo lệnh lạc của họ là
không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không sống
các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo, trong
sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật chất trần
gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống hách, bê
tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền bính và
sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều. Thái độ
nói một đàng làm một nẻo ấy của họ bôi nhọ và giảm uy tín Giáo hội, khiến cho
giáo dân từ bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu
của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà Ngài
còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân giữ
luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt của
luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật lệ,
cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự do
tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho liên hệ giữa tín hữu với Thiên
Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các luật lệ cột
buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận
được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế,
cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an
bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính
cách háo danh, thích ăn trên ngồi trốc, thích được nịnh hót, thích được xưng
tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.
Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái
khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh
hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống
riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới dám
làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt điểm
tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở ngoài thì trắng trẻo sạch sẽ,
bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một đàng làm
một nẻo".
Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi
vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như
vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà
đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở
miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ
khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha
làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh
trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta biết rằng, Chúa Giêsu luôn
luôn hiện diện với từng người trong chúng ta trong cuộc sống, diện đối diện,
mắt nhìn mắt, chúng ta hãy để cho lời Ngài xoáy vào tâm can, vào tâm hồn chúng
ta. Vậy chúng ta đừng sợ chi cả vì bao lâu chúng ta còn sợ Lời Chúa, thì bấy
lâu chúng ta còn bào chữa để che giấu cho con người thứ hai trong chúng ta, con
người chỉ thích bóng tối. Hãy lôi cổ con người thứ hai đó ra ánh sáng Lời Chúa
để định bệnh cho nó. Hãy mổ xẻ nó và với ơn Chúa hãy băng bó cho nó, tạo lại
những nếp sống hài hòa trong mọi lãnh vực của đời sống chúng ta.
Thật vậy, sự hài hoà mọi lãnh vực trong đời sống của mình không
phải là chuyện dễ, vì con người chúng ta đều có giới hạn. Nhưng Thiên Chúa đã
đặt vào trong con người chúng ta những ý nghĩ của điều thiện hảo, giúp chúng ta
hướng đến sự sống vô biên. Vậy chắc chắn điều Chúa muốn là chúng ta cố gắng
trong khả năng, trong địa vị của mình để trở thành một mẫu gương sống cho người
khác, nhất là những người mà chúng ta có trách nhiệm hướng dẫn dạy dỗ họ.
Có như thế, chúng ta mới giảng dạy cho người khác một cách xác
tín, mạnh dạn khuyên bảo người khác mà không đớ lưỡi, mà không ngượng miệng,
không cứng họng, nhất là người khác đó là con cháu của mình. Và như thế, mỗi
người chúng ta mới thực hiện được lời khuyên tha thiết của Chúa Giêsu:
"Chúng con phải sống thế nào để người khác nhìn vào chúng con mà ngợi khen
Cha chúng con ở trên trời".
Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống,
nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường
cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần
phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin. Vì chính nhờ đời sống ngay lành,
thánh thiện, công bình và bác ái của những người tin Chúa sẽ làm cho những
người khác phải đặt câu hỏi. Nhờ đó mới khơi dậy trong họ một ước nguyện đi tìm
Chân Thiện Mỹ mà Chân Thiện Mỹ tuyệt đối chính là Thiên Chúa vậy.
Hiện tại Việt Nam được xếp vào một trong 20 nước tham nhũng nhất
thế giới. Bệnh tham nhũng đã thành nan y. Trong khi Công giáo'Việt Nam chỉ
chiếm 8% dân số, có tới 30% giới trẻ ghiền ma túy là người Công giáo. Tất cả những
dữ kiện ấy tố cáo Việt Nam tràn ngập những con người chỉ thích hưởng thụ ít
biết phục vụ.
Trước sự kiện đó chúng ta phải lành gì? Tại sao có tình trạng trầm
trọng như vậy? Chẳng lẽ giới trẻ bị bỏ rơi, không còn là đối tượng cho Giáo hội
phục vụ sao? Thực tế Giáo hội có vạch nổi hướng đi cho giới trẻ hôm nay không?
CÁI TÔI ĐÁNG GHÉT
Chính khi đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ
lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt (Mt 9:36). Lý do vì thời
đó các kinh sư và người Pharisêu chỉ tìm cái tôi trong việc lãnh đạo quần
chúng. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường,
ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là ráp-bi
(Mt 23:6-7). Suốt ngày luẩn quẩn với cái tôi như thế họ không thể nào biết được
nhu cầu quần chúng.
Cái tôi kệch cỡm ấy bị phơi bày ra ánh sáng: Họ làm mọi việc cốt
để cho thiên hạ thấy. Quả vậy họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo
thật dài (Mt 23:5). Đúng là mầu mè. Họ thích khoe khoang cái tôi hơn là bắt tay
hanh động cùng với người khác. Quyền bính trở thành cứu cánh mọi đam mê thống
trị, chứ không phải là phương tiện phục vụ quần chúng. Họ bó những gánh nặng mà
chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào (Mt 23:4).
Cần gì phải bận tâm tới những điều tầm thường! Bọn dân đen ngu dốt mới phải cúi
đầu khuất phục. Còn ta thuộc hàng lãnh đạo phải sống trên lề luật chứ?
Bên ngoài các kinh sư và người Pharisêu rất đạo đức và uy quyền,
vì họ ngồi trên tòa ông Mô sê mà giảng dạy (Mt 23:2). Họ không phải là những
người ngu dốt. Trái lại họ giảng rất hay, chủ yếu gây thanh thế và danh vọng cá
nhân, chứ không nhằm làm sáng danh Thiên Chúa. Họ đưa ra những lề luật và giải
thích luật rất thông suốt để khai sáng quần chúng. Đức Giêsu cũng công nhận như
thế: Những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ ; nhưng đừng theo hành động
của họ mà làm, vì họ nói mà không làm (Mt 23:3).
Có một khoảng cách ghê gớm giữa lý thuyết và thực hành. Đức Giêsu
không thể chấp nhận một kiểu mẫu lãnh đạo như thế trong cộng đồng Người. Thật
vậy đối với Đức Giêsu, lãnh đạo không phải là ngồi văn phòng ra chỉ thị. Nhưng
lãnh đạo là lãnh đạn. Chính Đức Giêsu là người lãnh đạn đầu tiên khi trở thành
đối tượng cho mũi dùi dư luận đầy hiềm khích của các kinh sư và người Pharisêu.
Chúa đã thi hành trước tiên điều Chúa căn dặn môn đệ: Trong anh em, người làm
lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em (Mt 23:l l). Mức phục vụ anh em nơi
Đức Giêsu đã lên tới tột đỉnh, vì Người đã hi sinh cả mạng sống. Chính nhát
giáo đâm thấu tim Người đã mạc khải chân lý lãnh đạo là lãnh đạn.
Tại sao Đức Giêsu có thể phục vụ tới mức đó? Chắc chắn Người chẳng
bao giờ nghĩ tới cái tôi như các kinh sư và người Pharisêu. Người không nghênh
ngang, màu mè. Trái lại Người đã quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Thày ở giữa
anh em như một người tôi tớ''.
Mặc dù tài giảng thuyết vô cùng lôi hút quần chúng, Người không
tìm hư danh, nhưng chỉ lo cho danh thánh Cha vinh hiển (Mt 6:9; Lc l l:2).
THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG
Sống theo tinh thần Đức Giêsu, người môn đệ làm thành một cộng
đồng huynh đệ, không còn giai cấp, địa vị. Trong cộng đồng thiêng liêng, mọi
người đều bình đẳng. Thật vậy tất cả anh em đều là anh em với nhau (Mt 23:8).
Quyền bính chỉ có nghĩa là phục vụ anh chị em (Faley:1994). Bởi đó ngay giám mục
và linh mục cũng chỉ là những thừa tác viên trong cộng đồng dân Chúa. Thật ý
nghĩa khi một linh mục ghi trên tấm ảnh kỷ niệm ngày lãnh tác vụ linh mục, thay
vì ghi nhớ ngày chịu chức. Phục vụ đã được Chúa nhấn mạnh như dấu chỉ đặc biệt
của cộng đồng Ki tô giáo (Faley: 1994).
Khác hẳn với mẫu mực Đức Giêsu đã nêu cao, cộng đồng Do thái giáo
ngày xưa gồm toàn những người lãnh đạo đi trệch đường và làm cho nhiều người
lảo đảo trên đường Luật dạy không tuân giữ đường lối Thiên Chúa, và hay nể vì
khi áp dụng Luật (MI 2:8-9). Họ không dám giáo hóa dân chúng đúng nhức. Có lẽ
xôi oản đã lành cho thầy ngọng miệng rồi chăng?
Trái lại ngay từ đầu trong cộng đồng Ki tô giáo, Chúa đã nêu cao
nhiều mẫu gương phục vụ Trong khi thi hành sứ mệnh, các tông đồ đã không hống hách
hay ăn trên ngồi trốc, trái lại các ngài luôn khoan dung và quan tâm tới mọi
người (Faley: 1994). Trong số đói thánh Phao lô nổi bật như một vị lãnh đạo
xuất chúng vì đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ (lTx
2:7). Người xả thân vì Chúa và anh em: Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn
sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của
chúng tôi nữa (lTx 2:8). Rõ ràng nếu thừa tác vụ hay việc phục vụ trong tinh
thần thương yêu là một dấu hiệu môn đệ đích thực, thì phải làm cho con người
dấn thân toàn diện, chứ không thuần túy như làm một công tác trong Giáo hội
(Doohan: 1993).
ĐƯỜNG HƯỚNG LÃNH ĐẠO HÔM NAY
Đức Thánh Cha Gioan Phao lô II càng lành sáng tỏ chân lý lãnh đạo
là lãnh đạn khi Người bị bắn gục trên quảng trường thánh Phêrô năm 198l. Đó là
hình ảnh nói lên tất cả sự thật bên trong của việc lãnh đạo dân Chúa. Sự thật
bên trong là tình yêu Chúa Ki tô thúc đẩy chúng tôi (2Cr 5: 14) phải xây dựng
Nước Thiên Chúa bằng con đường phục vụ.
Con đường phục vụ lớn lao và gian truân nhất là đến với người
nghèo. Vị lãnh đạo Hội Thánh hôm nay cho thấy: Bảo vệ người nghèo là làm vinh
danh Thiên Chúa, là Cha của người nghèo (VietCatholic 28/10/1999). Đó là hướng
đi Chúa đã vạch ra cho Giáo hội từ 2000 năm trước: Kẻ nghèo được nghe Tin Mừng
(Mt l l:5; x.Lc 4.: 18). Đức Thánh Cha giải thích': Trong Tân Ước, sứ điệp phấn
khởi vui mừng được loan báo cho người nghèo... Nghèo khó của Phúc Âm luôn luôn
hàm ý phải có sẵn một tình yêu vĩ đại cho nhĩmg người nghèo nhất trên thế giới
(VietCatholic 28/10/1999).
Người nghèo là nạn nhân trực tiếp của bất công. Chúng ta không thể
bình chân như vại trước cảnh anh em đang chết đói cả về vật chất lẫn tinh thần.
Cứu được con người khỏi cảnh đói khổ, Hội Thánh sẽ trở nên niềm hi vọng cho
muôn dân, Ki tô hữu thực hiện được sứ mệnh do niềm tin đòi hỏi. Chỉ có phục vụ
vô điều kiện mới biến cải thế giới. Phục vụ như thế không tránh khỏi búa rìu dư
luận và hi sinh quyền lợi lẫn mạng sống. Nhưng có sẵn sàng lãnh đạn, chúng ta
mới trở thành lãnh đạo trong Đức Giêsu Kitô. Một tinh thần dấn thân cho công lý
sẽ lôi hút giới trẻ và người nghèo hôm nay vào Nước Thiên Chúa, một Nước công
chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần (Rm 14:17).
(Ml 1, 14B - 2, 2b. 8-10)
“CÁC NGƯƠI ĐÃ ĐI SAI ĐƯỜNG LỐI, LÀM CHO NHIỀU NGƯỜI VẤP PHẠM”
Khi nói tới hay phải đối mặt với những bọn kinh sư, pharisiêu,
biệt phái, luật sĩ, thái độ của Chúa Giêsu rất thẳng thắn, nghiêm khắc và chỉ
trích nặng lời vì thói giữ đạo giả dối, cách sống thủ đoạn, chỉ có cái vỏ bề
ngoài. Đối với hạng người này, Chúa vạch mặt thẳng thắn và cho những chỉ dẫn
thật cụ thể và thực tế để giúp chúng ta xa tránh, và nhất là nhận diện một cách
rõ ràng cái bộ mặt giả dối, đểu cáng, một thứ đạo đức gỉa hình, không xứng đáng
làm con cái của Chúa.
Những gì họ nói với các ngươi, các ngươi hãy làm và tuân giữ. Hạng
người này mở miệng là nhân danh đủ thứ, trích dẫn cả Lời Chúa, nại đến đủ thứ
quyền lực hay cố bám vào những cái phao rách để làm bình phong cho cái “giả
nhân gỉa nghĩa” của mình.
Nhưng đừng noi theo hành vi của họ: vì họ nói mà không làm. Đó
chính là lối sống giả dối và thiếu việc làm của họ.Xem ra chỉ có võ mồm thay
cho tay chân, thích chỉ tay năm ngón, thích móc ví tiền của người khác mà không
hề đổ lấy một giọt mồ hôi!
Họ buộc những bó nặng và chất lên vai người ta, còn chính họ lại
không muốn giơ ngón tay lay thử. Giữa lời nói và hành động luôn mãi là một vực
thẳm. Hạng người chỉ thích rình nuốt hết công của người khác, chỉ thích mọi
người tung hô, mọi người ca tụng và thích cả việc “kính thưa kèm theo cả kính
gởi”
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy, bởi mục đích sống của họ
là “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Của ăn của họ là những lời dua
nịnh, tung hô. Thái độ và hành động của họ là dương dương tự đắc, ngạo mạn và
coi thường cả lương tri.
Cách sống này đã được tiên tri Malaki nhắc đến trong Cựu Ước “Các
ngươi đã đi sai đường lối, làm cho nhiều người vấp phạm”. Quả thế, căn bệnh
biệt phái có sức tác hại không chỉ đối với cá nhân, mà hơn thế, còn gây tác hại
và làm băng hoại nhiều thế hệ con cháu, chỉ biết lao vào những lễ nghi hình
thức hoành tráng bên ngoài mà quên đi cách sống đẹp lòng Chúa.
“Còn các ngươi…” Chúa nhắn nhủ tất cả chúng ta:
“Anh em chỉ có một Thầy, còn tất cả chỉ là anh em với nhau”. Chẳng
ai thua ai mà cũng chẳng ai kém ai trước mặt Chúa, vì mọi người là con một Cha,
và chắc gì mình đã hơn ai.
“Trong anh em,người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh
em.” Phục vụ và sẵn sàng cúi xuống để rửa chân cho nhau luôn là bài học khó
thuộc và “đau cột sống!”
“Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn
lên”. Quyền bính, với Chúa và với Giáo Hội là phục vụ, không phải là sức mạnh
để thống trị hay trừng phạt!
Chúa dạy là thế, nhưng rồi con người vẫn chỉ thích làm ngược, nói
ngược, cư xử với nhau bằng luật rừng như những kẻ bụi đời, xã hội đen! Thật đau
lòng thay!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật buồn thay khi căn bệnh ung thư di căn của gỉa hình
vẫn và đang ngày càng làm băng hoại và giết chết Giáo Hội. Lời mời gọi truyền
giáo của Chúa đã chẳng và không bao giờ có sức thuyết phục được khi chính đời
sống và hành động đã tố cáo bộ mặt giả dối và hư danh của chúng con. Xin giúp
chúng con biết dùng Lời Chúa làm kim chỉ nam hướng dẫn và là con đường chân lý
và sự thật, hầu chúng con tránh được những lời nguyền rủa của Chúa. Amen.
Đức Giêsu đến để phục vụ và nên gương cho loài người trong việc
vâng giữ luật Chúa. Theo chương trình của Thiên Chúa, Abraham được chọn làm tổ
phụ một dân riêng. Trong dân tộc này, Thiên Chúa đã chuẩn bị cho những hiểu
biết cần thiết để sống đạo. Chúa còn sai nhiều tiên tri đến giảng dạy dân Do
thái để họ sống đúng đường lối Chúa. Trước khi Chúa Giêsu xuống thế, có những
nhóm người chủ trương sống triệt để luật Chúa như nhóm biệt phái, luật sĩ,
Essini... Tuy nhiên, một số người trong nhóm biệt phái, luật sĩ thời Chúa Giêsu
lại đi tìm hư danh, làm vì mình hơn là vì dân Chúa. Chúa Giêsu đã chỉ cho các
môn đệ thấy những sai lầm trong nhóm biệt phái để các môn đệ Chúa không giẫm
vào vết xe đổ này. Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ Ngài
sống tinh thần khiêm nhường trong khi thi hành nhiệm vụ và cảnh giác trước
những gương xấu của các Biệt phái.
Những điều Chúa Giêsu dạy chúng ta tránh là:
Dạy người khác mà mình không làm. Luật sĩ dùng sự hiểu biết của
mình để dạy dân hiểu đúng luật Chúa là tốt nhưng họ lại thiếu lòng yêu mến
Thiên Chúa, họ không lo thi hành điều họ dạy người khác làm. Điều này rất nguy
hại vì nó có thể làm cho dân chúng sống vị luật, vì sợ hãi hơn là vì yêu mến
Chúa và tha nhân. Hơn nữa, dân chúng có thể bắt chước lối sống giả hình của họ
và không còn tinh thần đạo đức đích thực nữa!
Buộc những bó nặng chất lên vai người khác mà chính mình không lay
thử. Họ dạy giữ luật cách tỉ mỉ và nghiêm khắc làm cho người khác khó giữ nổi,
trong khi họ lại dễ dãi với chính mình. Họ là những người ngôn hành bất nhất,
không nên gương cho dân chúng về lòng đạo đức mà chỉ làm dân chúng thêm nặng
lòng vì không giữ nổi hết các chi tiết tỉ mỉ họ đưa ra.
Hám danh và cầu lợi: họ nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo để được
người ta chú ý và ca tụng, có ý khoe mình là sốt sắng đạo đức hơn người! Đây là
điều người Kitô hữu lưu ý, vì đối với Chúa, chỉ có lòng khiêm hạ mới đẹp lòng
Chúa. Việc đạo đức, thánh thiện là rất tốt nhưng phải làm với lòng kính mến
Chúa để tôn thờ Chúa cách chân thành với hết tâm hồn mình.
Người Biệt phái tỏ ra đạo đức để được loài người ca tụng, kính
trọng, được đối xử ưu tiên, được gọi là thầy... nếu làm việc Chúa với mục đích
này thì họ đã được người đời trả công rồi, Chúa đâu cần trả công cho họ về
những việc này! Như vậy, chúng ta phải tránh những điểm này và quyết tâm làm
việc vì Chúa, cho Chúa và vì phần rỗi anh em mình.
Khi chúng ta làm những người lãnh đạo cộng đoàn hay những nhóm lớn,
nhỏ, tuy chúng ta có quyền hạn hơn những thành viên nhưng quyền đó chỉ để phục
vụ, không được lạm dụng nó. Chúa giêsu đã nói rõ: các con chỉ có một Cha, một
Thầy, một Vị Chỉ Đạo là Thiên Chúa còn tất cả mọi người là anh em với nhau. Vì
vậy, tuy môn đệ làm công việc của Thầy, với các chức vụ tư tế, tiên tri, vương
đế nhưng không được kiêu căng tự phụ, ham hư danh. Dù ở chức vụ, địa vị nào
cũng phải khiêm nhường và tôn trọng tha nhân theo gương thầy chí thánh là đức
Giêsu kitô. Ai càng làm lớn càng phải lo phục vụ, càng có trách nhiệm đối với
tha nhân, càng phải làm việc nhiều hơn để được Chúa ban cho phần thưởng là hạnh
phúc đời đời trên Thiên quốc.
27. Nói mà không làm
Luật đầy đủ là "yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và yêu
người lân cận như chính mình". Là phục vụ. Làm được là đủ điều kiện để có
áo cười đi ăn tiệc Nước Trời. Nhưng người ta nói nhiều mà không làm, không phục
vụ mà muốn được phục vụ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
- Các người biệt phái ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy: Làm thầy
thông luật dạy và giải thích luật Môsê cho dân.
- Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta...: Giải thích
luật quá khó, buộc nhặc.
- Nhưng chính họ không buồn động tay vào: buộc người ta mà mình
không làm.
- Họ làm mọi việc cốt để cho người ta thấy: Chỉ để phô trương.
- Họ ưa chỗ nhất....ưa được chào hỏi....và được gọi là rabbi
(thầy): ưa hư danh.
- Đừng dể ai gọi mình là rabbi... đừng gọi ai là cha... cũng đừng
để ai gọi mình là người lãnh đạo: hiểu theo mạch văn "như những biệt phái
kể trên" nói mà không làm.
- Trong anh em người làm lớn hơn cả phải làm người phục vụ: như
Đức Giêsu là Thầy và là Chúa mà hạ mình phục vụ "rửa chân". Người
phục vụ đến hiến mạng sống.
- Ai tặng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được
nhắc lên: Hạ mình xuống là để phục vụ. Phục vụ thì có thưởng lớn sẽ là người
lớn trong Nước Trời. Chúa Giêsu dạy: Làm việc lành thì phải kín đáo chỉ để Cha
trên Trời biết và Người sẽ trả công.
Trước mặt Chúa thì phải thật lòng. Giả hình Chúa không ưa. Chuộng
hư danh thì không có gì để Chúa thưởng. Các người biệt phái "ngồi trên toà
Môsê" nói mà không làm. Làm thì chỉ để "cho người ta thấy", khoe
khoang, để được được danh dự.
Yêu người như chính mình là khiêm tốn phục vụ. Thực tề thì chỉ có
chữ "PHỤC VỤ" là đủ tất cả vì làm nhỏ để phục vụ thì sẽ là người lớn
trong Nước Trời.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Chuyện kể rằng: Ngày kia, Nữ hoàng Shaba gởi đến vua Salomon hai
bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó
hoa thật và một bó hoa giả.
Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào. Tức thì các chú
ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
**
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà không
có sự sống.
Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm chí,
chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại nghiêm
khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần những con người giả hình ấy.
Người nói: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính họ thì
lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Người giả hình còn nhiều tật xấu
khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khoang công đức,
thích ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn
người ta gọi mình là “thầy”.
Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai trong
chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa
trương, nếu không kể công lênh thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ
cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu vào
ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau buốt,
nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh của tính giả hình, chúng ta sẽ
chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói và chỉ nói những gì mình đã
làm. Đức Gioan Phaolo II đã nói: “con người ngày nay không cần những thầy dạy
nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói”.
Chúng ta không bao giờ phê bình lên án một ai, vì khi cỉ trích kẻ
khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật xấu nơi chính mình, là chúng
ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng ta
phải sám hối và canh tân luôn mãi.
Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng muốn có được một chút danh
vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng ta một
quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta: “Trong anh
em, người làm lớn hơn cả, phải làm ngươì phục vụ anh em” (Mt 23,11). Điều này
đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy Người là Chúa và là Thầy, nhưng Người
luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục vụ và yêu
thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, “làm lớn” theo quan điểm của Đức Giêsu
chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục vụ họ trong yêu thương. Thánh
Phaolo viết: “Người được chấp nhận không phải là để tự cao tự đại, nhưng là
người được Chúa đề cao” (Gr 10,18).
Hãy soi đời mình vào tấm gương Giêsu, để tìm cho mình một phong
cách sống đẹp nhất.
**
Lạy Chúa, nếu có ai nói chúng con giả hình, chắc là chúng con
không vui. Nhưng khi đối diện với chính mình, chúng con thật sự thấy mình có
giả dối.
Xin giúp chúng con tháo gỡ các thứ mặt nạ mà bấy lâu đã làm cho
khuôn mặt chúng con biến dạng, để chúng con không còn đánh lừa nhau, đánh lừa
Chúa, và đánh lừa chính mình. Xin dậy chúng con luôn biết sống chân thành.
Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Chân thành, nguyên ngữ Latinh là: Sincerus, a, um.
Sincera có một lịch sử. Ngày xưa, người La mã thấy cột đá cẩm
thạch nào không được nhẵn, có lỗ, sứt mẻ, họ lấy sáp ong nhét vào những lỗ đó,
rồi đánh cho thực trơn láng.
Cũng giống như phụ nữ lấy phấn sáp thoa vào mặt để che những vết
nhăn. Những cột cẩm thạch nào không có sáp ong, là dấu tuyền vẹn, và gọi là:
Sine cera; Sine: không, cera: sáp ong. Qua các thời đại, hai tiếng này ghép lại
thành một là “sincera”, và có nghĩa là không phấn sáp, không giả tạo, nhưng
thành thực, chân thành.
Tình thương giữa con người với nhau cần phải sincera: không phấn
sáp, không giả tạo, nhưng tự nhiên và chân thành.
Ngày xưa, Nữ Hoàng Saba nghe biết về sự khôn ngoan của Salomon,
nên đã gởi đến Nhà Vua hai bó hoa để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó
là một bó hoa thật và một bó hoa giả rất giống nhau. Vua đặt hai bó hoa lên bàn
và liền mở cửa để cho bầy ong bướm bay vào. Thế là đàn ong bướm liền sà ngay
xuống những bông hoa thật. Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có hình
dáng mà không có sự sống.
Những kẻ giả hình nói thì nhiều, mà làm thì chẳng bao nhiêu, thậm
chí nói suông mà không thực hành, dung túng cho mình, nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần sự giả hình của các Kinh sư,
Pharisiêu.
- Giả hình: vì họ nói mà không làm
- Thích thống trị: Vì họ bó những gãnh nặng lên vai người khác,
còn chính họ thì không buồn động động ngón tay vào.
- Thích khoe khoang: Vì họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy.
- Thích hám danh: Vì họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm
hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi nơi cộng cộng, được
thiên hạ gọi là Rápbi.
Nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, xét mình, ai cũng thấy
dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng khoa trương, nếu không
kể công thì cũng thích được trọng vọng, nếu không ích kỷ, cũng nói nhiều làm
ít…
Những người Pharisiêu tự cho mình là đạo đức, là bậc thầy dạy dỗ
dân chúng về cách sống đạo. Nhưng Đức Giêsu đã nhìn thấy trong lối sống đạo của
họ, có những biểu hiện lệch lạc, giả hình, làm hoen ố đạo thật. Nhân đó, Người
đưa ra mấy chỉ dẫn thiết thực cho đời sống đạo:
- Chỉ dẫn 1: Lời nói đi đôi với việc làm:
Giữa lời nói và việc làm, thường có một khoảng cách rất lớn như
giữa lý thuyết với thực hành, giữa ước mơ với hiện thực, giữa lý tưởng với thực
tại. Nói thì dễ, nhưng làm thì khó, nên người ta để rơi vào thói nói nhiều, làm
ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn, khi việc làm thì mâu
thuẫn với lời nói, như người Pharisiêu “nói mà không làm”. Trong những trường
hợp ấy, nói về Đạo, trở thành phản chứng, làm cho người nghe khó chấp nhận Đạo.
Khi phê phán thái độ của người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn dạy chúng
ta đừng nói nhiều, nhưng hãy làm. Chính việc làm minh chứng Đạo thật, việc làm
mới có sức thuyết phục. Lý thuyết, dù có hay đến đâu, nếu không thực hiện được
thì cũng vô ích. Người ta thích câu tục ngữ "Đừng nghe những gì người ta
nói, mà hãy nhìn kỹ những gì người ta làm".
- Chỉ dẫn 2: Hãy làm một cách khiêm tốn.
Người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương, muốn tỏ ra mình đạo
đức. Họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Đeo rồi sợ người khác không nhìn thấy,
họ phải đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài để cho mọi người
biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương biến thành tự phụ, tự
mãn, hợm hĩnh. Cho nên những người Pharisiêu luôn ưa ngồi chỗ nhất trong đám
tiệc, ưa được chào hỏi nơi công cộng.
Khi phê phán người Pharisiêu, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ hãy
thực hành đạo trong kín đáo: Khi làm việc lành phúc đức, anh em chớ có phô
trương cho thiên hạ thấy. Khi bố thí đừng để tay trái biết việc tay phải làm
(Mt 6,3). Khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha
anh em, Đấng hiện diện nơi kín đáo.(Mt 6,6) (x. Chia sẻ Tin Mừng năm A, ĐGM
Giuse Ngô Quang Kiệt).
Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng
mến chân thực dẫn đến thái độ khiêm tốn, biết kính trọng ngươi khác, biết luôn
phục vụ anh em.
Lời chỉ dẫn trên đây của Đức Giêsu giúp chúng ta sống chân thành
và khiêm tốn. Người chân thành khiêm tốn chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói
những gì họ làm. Người chân thành khiêm tốn không nói láo, không giả hình,
không tự cao cho mình hơn kẻ khác, không phê bình, không chỉ trích.
Ứng xử trong các mối quan hệ, phải chân thành. Còn gì thất vọng
cho bằng khi thấy những cử chỉ, thái độ, lời nói có vẻ lịch sự, bác ái, nhưng
thực tế lại giả tạo, xã giao miễn cưỡng, một thứ nguỵ tạo giả hình. Trước mặt
niềm nở, sau lưng nói hành nói xấu, gièm pha. Lối sống của Pharisêu vẫn còn
nhiều lắm trong đời sống thực tế hàng ngày. Sự giả hình, giả dối đã thành ra
như thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo,
chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Vì vậy cần
phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau.
Kinh nghiệm cho thấy một người không chân thành thì khó được tín
nhiệm “một lần bất tín, vạn sự bất tin”.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Malakhi trách mắng nghiêm khắc những tư
tế Do Thái làm việc cẩu thả, biếng nhác và giả dối trong khi thi hành tác vụ
của mình. Sau khi đi lưu đày về, đền thờ đã được tái thiết, nền phụng tự đã
được thiết lập lại, nhưng sự nhiệt thành của những ngày đầu tiên đã bị biến
mất. Nhiều tư tế không còn lưu tâm đến trách nhiệm của mình, bỏ bê công việc
tôn vinh danh Chúa, làm gương mù gương xấu, khiến cho nhiều người đi sai đường
lối Chúa và hủy bỏ giao ước. Họ không còn được dân chúng tín nhiệm vì họ không
chân thành trong sứ vụ hàng ngày của mình.
Thánh Phaolô trong bài đọc 2 nhắc lại với giáo đoàn Thessalonica
tình yêu vô vị lợi, tình yêu dâng hiến mà ngài đã ân cần dành cho họ, như một
người mẹ dành cho con cái mình. Ngài đã giảng dạy lời Chúa cho họ; họ đã đền
đáp ngài cũng tràn đầy tình yêu. Thánh Phaolô sống chân thành với cộng đoàn,
ngài đã không ngần ngại và vui mừng được trao ban cho họ chính cả mạng sống của
mình. Đáp lại, mọi người đã sống trung thành với Lời Chúa. Lời Chúa đã phát huy
tác dụng nơi cộng đoàn này, đã sinh hoa trái tốt đẹp nơi cuộc sống của mỗi
người.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống chân thành với
chính mình, với người khác, với Thiên Chúa. Tư tưởng đi đôi với lời nói. Lời
nói đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói, việc làm đều phải
diễn tả sự trung thực và chân thành. Như bông hoa thật đẹp đầy màu sắc toả
hương thơm, những người chân thành khiêm nhường toả hương thơm qua việc làm.
Những điều mà các vị ngôn sứ vĩ đại đã nói ra, thường hay bị lãng quên, nhưng
những hành động mà các vị Thánh nhân, anh hùng thực hiện, luôn được hậu thế ghi
nhớ mãi. Hãy soi đời mình vào tấm gương Chúa Giêsu, để tìm cho mình một phong
cách sống đẹp chân thành.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận
lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài
thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người
Pha-ri-sêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng
và cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những người
thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pha-ri-sêu và kinh sư có quyền giáo
huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân chúng,
do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và giữ những
gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo những
việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa nhìn
nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng được
ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hình, giả dối
của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức chỉ có
cái vỏ bề ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm
quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe
đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính
mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một
nẻo, như thánh Phaolô nói: "Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình.
Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật", nghĩa là ngôn ngữ
và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ
rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm
thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp
sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận, còn với chính mình lại buông xuôi,
buông thả. Cuộc sống đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành cái
sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi Chúa
khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói giả
hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc
lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng
Chúa Giêsu, Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống như thế. Hãy sống
thành thực, nói và làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pha-ri-sêu không còn,
nhưng lối sống của Pha-ri-sêu chưa chết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội,
nhìn vào đời sống thực tế,chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như
thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hóa, kinh tế, tôn giáo, chính
trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả
dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta thường đồng ý rằng:muốn được kẻ khác
kính nể,cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm
trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẻn, trắng trợn rằng: ai
muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau
lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dầu
trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra
vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: "Bề ngoài
thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm". Thành ra,
để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai
là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất
tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là
tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng,
nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình
hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che
đậy, giấu diếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế
không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày "cháy nhà ra mặt chuột". Giả như
chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng
chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng
người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được
Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần
suy nghĩ va tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Trong một tỉnh kia, người ta tổ chức một buổi thuyết trình về Công
giáo tiến hành. Họ mời ông X, là người đạo đức và có tài diễn thuyết để nói
chuyện với mọi người. Trước mặt công chúng đông đảo, đủ mọi hạng người, đủ mọi
tầng lớp, ông X lên diễn đàn nói rất hùng hồn, rất trôi chảy và rất hay. Đại ý
ông nói như sau: “Lúc này hơn bao giờ hết, người Công giáo chúng ta phải hoạt
động tích cực trong mọi lãnh vực, nhất là trong lãnh vực xã hội và từ thiện.
Đối với những người chung quanh, chúng ta phải vui vẻ, hòa nhã, nhẫn nhịn, dễ
cảm thông và giúp đỡ.v.v..”. Dứt lời, mọi người vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Sau đó, ông X lên xe ra về. Trong số thính giả đến nghe buổi diễn
thuyết đó, có một người ở cạnh nhà ông X, tâm trí còn đang thán phục bài thuyết
trình vừa hay vừa thức thời của ông, nghe thấy trong nhà ông X có tiếng càu
nhàu và la rầy người giúp việc, người ấy tò mò lắng nghe. Câu chuyện xảy ra như
sau: khi ông X diễn thuyết về, chị giúp việc dọn cơm cho ông. Đồ ăn rất ngon,
nhưng có món xào hơi mặn. Ông X khó chịu, gắt gỏng và gọi chị giúp việc lên
hỏi: “Ai nấu món này?” - “Dạ, thưa con” - “Tại sao mặn đắng thế? tao có phải là
tù đâu mà cho ăn uống thế này?” - “Xin ông tha cho con, con đang đau nên vô ý
nêm quá tay ”. Tức thì cái đĩa xào bay xuống sàn nhà, đổ vỡ tung tóe. Rồi ông X
đứng lên tuyên bố: “Tháng này tao sẽ trừ lương mày”. Nói xong ông lên xe ra
tiệm ăn. Tác giả câu chuyện này kết luận: “Ngôn hành tương phản là thế. Lời nói
và việc làm không đi đôi với nhau. Trên đời không thiếu những người như ông X”.
Câu chuyện trên cũng đúng với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu tố
giác trước dân chúng và khuyến cáo họ: phải đề phòng tính cách giả hình, bôi
bác của các kinh sư và các người Pharisêu. Qua đó, Chúa dạy chúng ta phải sống
thành thực, nói và làm trước sau như một.
Trước hết, chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và
những người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các kinh sư và những người
Pharisêu có quyền giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó
nhiệm vụ dạy bảo dân chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh
Chúa, nên phải nghe và giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng
bắt chước hay noi theo những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc
bất chính? Không, Chúa nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó
là những việc tốt, đáng khen. Nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái
độ giả hình, giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một
thứ đạo đức chỉ có cái vỏ bề ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm
quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và khắt khe
đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính
mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một
nẻo, giữa ngôn ngữ và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của
họ bất nhất, không đi đôi với nhau, họ rao truyền Lời Chúa, yêu cầu người khác
phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không tuân giữ. Cho nên, trong con người
họ như có hai phương diện, hai nếp sống: một nếp giả hình trong bổn phận, còn
với chính mình, lại buông xuôi, buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là
phiền phức: cái đúng trở thành cái sai, và cái sai mới là cái đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi
Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận cái thói giả
hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã chuốc
lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ miệng
Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi bác
của họ. Và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế, hãy sống thành thực: nói và làm
đi đôi với nhau và trước sau như một.
Tìm hiểu bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta hãy suy nghĩ: những người
kinh sư và Pharisêu không còn, nhưng lối sống, cách sống của họ chưa chết, vẫn
còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội, nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự
giả hình, giả dối vẫn hiện diện khắp nơi, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn
hóa, kinh tế, tôn giáo, chính trị, người ta vẫn thường dùng cái bề ngoài mà lừa
đảo nhau. Tính giả hình giả dối ai mà không ghét. Thế nhưng, người ta lại
thường đồng ý rằng: muốn được kẻ khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy
giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm trạng bên trong và cách xử sự bên ngoài
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: Nếu
muốn thành công, thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau
lưng, đừng bao giờ nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng. Dầu trong
bụng có ghét người ta thậm tệ, bên ngoài phải làm ra vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà
trong xã hội thiếu gì những người: “bang mặt mà không bằng lòng”. Thành ra, để
phân biệt được: ai là người chân chính, ai là kẻ giả hình, ai là người trung
nghĩa, ai là kẻ lừa thầy phản bạn, thật là khó. Chúng ta thấy có những người
đóng kịch rất tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế, mà thực sự
bên trong là tay độc ác ghê tởm vô cùng. Có những người tỏ ra đàng hoàng dưới
ánh nắng, nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình hay
đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che đậy giấu
diếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế không? Không
đâu, chắc chắn sẽ có ngày “cháy nhà ra mặt chuột” . Giả như chúng ta sống được
mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng ta có thể qua mắt được
Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng người đời hay được người đời ca
tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được Chúa ghi công, thì cũng như không,
chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm
bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
Câu hỏi gợi ý:
1. Động lực căn bản nào khiến những người Pha-ri-siêu hành động
như vậy? Ta có bị thúc đẩy bởi động lực đó không?
2. Nếu mọi việc tốt đẹp ta làm đều làm nhằm để được tiếng khen, để
được ca tụng, thì người khác có nghĩ rằng ta tốt, ta đạo đức không? Thiên Chúa
sẽ đánh giá ta thế nào? Trước mặt Ngài, đạo đức của ta là đạo đức gì?
3. Muốn thánh thiện đích thực, ta phải xây dựng sự thánh thiện đó
trên nền tảng nào?
Suy tư gợi ý:
1. Tật xấu chung của con người: muốn được mọi người nể phục tôn
trọng, muốn được hơn người khác
Đọc bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy ngay hai phần rõ rệt diễn tả hai
tinh thần đối chọi nhau. Phần đầu nói lên tinh thần “phình to bản ngã” của
người Pha-ri-siêu, thích đặt nặng “cái tôi”, đưa “cái tôi” của mình lên trên
“cái tôi” của người khác. Còn phần sau là tinh thần “tự hủy” của Đức Giêsu, là
tinh thần từ bỏ mình, quên mình, xả kỷ, đặt “cái tôi” của mình dưới “cái tôi”
của kẻ khác.
Tinh thần “phình to bản ngã” không chỉ là tâm lý của những người
Pha-ri-siêu, mà còn là tâm lý của đại đa số nhân loại chúng ta. Chúng ta thích
được mọi người nể phục, ca tụng, đề cao; thích khoe những ưu điểm, thành tích
của mình; thích có địa vị hay quyền lực trong xã hội hay Giáo Hội; thích được
người khác phục vụ, qụy lụy; ai nói đụng chạm đến mình thì tỏ ra bực bội; thấy
những người chung quanh hơn mình thì đâm ra buồn nản, ganh tức, v. v.. Tâm lý
như thế là tâm lý rất bình thường, không mang tính bệnh hoạn. Nó chỉ trở thành
bệnh hoạn khi trở nên quá đáng, nghĩa là ước muốn được hơn người trở thành một
nỗi ám ảnh, hay biến ta thành một người đầy tham vọng, và muốn thỏa mãn những
mong ước ấy với bất cứ giá nào, bất chấp phải làm những điều trái lương tâm...
Tình trạng bệnh hoạn ấy sẽ khiến tâm hồn ta thường xuyên mất bình an và làm
người khác khó chịu.
Muốn nên thánh, ta phải vượt lên trên tâm lý bình thường ấy. Nếu
ta thắng vượt được tâm lý đó, thì ta đã trở nên hơn người bình thường một bậc.
Và lên được bậc này là lên được bậc căn bản nhất để nên thánh rồi. Thật vậy,
không ai có thể nên thánh nếu vẫn còn trong tình trạng tâm lý coi “cái tôi” của
mình là “cái rốn của vũ trụ”, là hơn hết mọi người, và coi ý riêng, ý kiến,
quyền lợi mình cao hơn ý riêng, ý kiến, quyền lợi người khác.
2. Coi chừng kẻo thứ đạo đức của ta đang được xây dựng trên tâm lý
muốn “phình to bản ngã”
Khi ta tự đặt ta cao hơn người khác hoặc những gì của ta cao hơn
của người khác thì ta cũng mong muốn, thậm chí đòi hỏi người khác phải coi ta
hơn bản thân họ, hoặc những gì của ta hơn của họ. Một người luôn đặt nặng “cái
tôi” của mình như thế vẫn có thể được mọi người coi là đạo đức, thậm chí là
“đạo cao đức cả”, nhờ tuân giữ chi tiết và hoàn hảo các luật lệ tôn giáo, hoặc
làm được những việc phúc đức lớn lao như những người Pha-ri-siêu thời Đức
Giêsu. Họ sẵn sàng tuân giữ mọi quy luật tôn giáo, làm những hành động tốt,
không phải vì mến Chúa yêu người, mà vì muốn được mọi người chung quanh nể
phục, ca tụng, coi mình là người đạo đức, và nhờ đó, tín nhiệm mình, tôn mình
lên những địa vị cao trong xã hội hay Giáo Hội.
Nhưng trước con mắt Thiên Chúa, tinh thần “phình to bản ngã” ấy
làm hỏng tất cả những gì có vẻ tốt đẹp của họ. Tinh thần ấy đã biến những hành
vi đạo đức như đọc kinh cầu nguyện, làm phúc bố thí, có vẻ yêu thương… thành
những hành vi vị kỷ. Vì những hành vi ấy không xuất phát từ động lực yêu
thương. Trước mặt Thiên Chúa, giá trị đạo đức của một hành động phần rất lớn hệ
tại động lực thúc đẩy: càng vị tha, càng vì yêu thương thì càng có giá trị, còn
càng vị kỷ thì càng giảm giá trị. Điều này thánh Phao-lô nói rất rõ: “Giả như
tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu
thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,3).
Những hành vi ấy, cho dù vĩ đại, có vẻ đầy tình thương, hay đem lại lợi ích cho
rất nhiều người khác, nhưng vì không được thúc đẩy bởi động lực yêu thương, nên
chẳng có giá trị trước Thiên Chúa, và chẳng đem lại lợi ích tâm linh cho ta.
Khi làm vì ta, thì ta đã đạt được những lợi ích trần thế, nghĩa là “đã được
phần thưởng rồi” (Mt 6,5b).
Chính trong viễn ảnh này mà câu Kinh Thánh sau đây trở nên dễ
hiểu: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: "Lạy Chúa, lạy
Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh
Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?... Và bấy giờ Thầy
sẽ tuyên bố với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi
bọn làm điều gian ác!” (Mt 7,22-23). Việc nói tiên tri, trừ quỷ, làm phép lạ,
tự bản chất đều là những việc đạo đức, nhưng nếu làm với động lực vị kỷ chứ
không phải vì yêu thương, thì chẳng có giá trị gì về tâm linh. Nếu dựa vào
những việc đạo đức kém giá trị ấy để lên mặt tự hào và khinh khi người khác,
thì những việc ấy lại trở thành tội ác! Vì thế, muốn nên thánh, ta cần phải
thường xuyên thanh luyện động lực khi làm những điều thiện, những việc đạo đức.
3. Sự thánh thiện đích thực được xây dựng trên nền tảng tự hủy,
quên mình, xả kỷ, yêu thương
Thứ đạo đức của người Pha-ri-siêu được xây dựng trên nền tảng
“phình to bản ngã”, nên đó là thứ đạo đức giả, có thể được người đời lầm tưởng
mà đánh giá cao, nhưng trước mặt Thiên Chúa chẳng có giá trị gì. Đức Giêsu muốn
chúng ta, những kẻ theo Ngài, là những người đạo đức thật sự. Nghĩa là đạo đức
của ta phải được xây dựng trên nền tảng tự hủy và yêu thương. Ngài khuyên chúng
ta đừng ham được mọi người gọi mình là “ráp-bi”, là “cha”, là “thầy”, là “người
lãnh đạo”... nghĩa là đừng ham được mọi người nể phục, kính trọng, đề cao, đừng
khao khát quyền lực, địa vị... Hãy tự coi mình là một số không, chẳng có gì
đáng tự hào, đáng cậy công... Vì xét cho cùng, ta chẳng có một điều gì có giá
trị do tự ta làm ra cả. Tất cả những gì có giá trị nơi ta đều đến từ Thiên
Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? Nếu đã nhận
lãnh, tại sao lại vênh vang như thể đã không nhận lãnh?” (1Cr 4,7).
Khi ta tự hào với người khác về đạo đức, tài năng, lòng can đảm...
thì điều ấy giả thiết rằng ta đã tự coi những thứ tốt đẹp ấy là do ta chứ không
phải do ai khác. Thế là ta đã trở thành kẻ vô ơn đối với Thiên Chúa, vì không
gì ta có mà không phải do Ngài ban. Gioan Tẩy giả nói với những người
Pha-ri-siêu: “Đừng tự hào rằng: "Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham."
Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên
con cháu ông Áp-ra-ham” (Mt 3,9). Cũng vậy, Thiên Chúa có thể biến những kẻ vô
dụng, hèn kém nhất trong thế gian này, những kẻ mà ta đang khi rẻ thành những kẻ
đạo đức và tài năng hơn ta. Và Ngài cũng có thể giảm các ân huệ Ngài vẫn ban
cho ta, lập tức lúc đó ta trở thành kẻ không ra gì. Biết bao người đang được
mọi người coi là cao cả mà chỉ vì bị mất ơn Chúa đã trở thành kẻ tầm thường!
Như vậy, người hiểu biết và khôn ngoan đích thực sẽ không bao giờ dám tự hào về
mình điều gì. Thánh Phao-lô khuyên: “Ai tự hào thì hãy tự hào trong Chúa” (1Cr
1,31; x. 2Cr 10,17).
Một người đạo đức thật sự sẽ không “làm mọi việc cốt để cho thiên
hạ thấy” (Mt 23,5), “cốt để người ta khen” (Mt 6,2) như những người
Pha-ri-siêu, mà trái lại sẽ làm theo lời khuyên của Đức Giêsu: “Khi bố thí,
đừng cho tay trái biết việc tay phải làm” (Mt 6,3); “khi cầu nguyện, hãy vào
phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín
đáo” (6,6). Những việc tốt đẹp ấy nếu ta không làm vì ta, để vinh danh ta, mà
làm vì yêu thương, vì ích lợi của tha nhân, thì dù nhỏ mọn, chúng vẫn có giá
trị lớn lao trước mặt Thiên Chúa. Còn nếu làm vì ta, để được khen, được nể
phục, thì việc ấy dù có lớn lao đến đâu, cũng trở nên vô giá trị trước Thiên
Chúa, bất chấp chúng được người đời ca tụng thế nào. Vậy chính tinh thần tự
hủy, quên mình, xả kỷ, vị tha khi hành động mới làm cho hành động của ta có giá
trị, và giúp ta nên thánh thật sự.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha dựng nên con từ hư vô, và
dựng nên người khác cũng từ hư vô. Tự bản chất và tự bản thân con, con chẳng
hơn người khác một chút nào. Ngược lại người khác cũng chẳng hơn con chút nào.
Con có hơn người khác được điều gì, thì do chính Cha đã ban đủ ơn để con hơn
được như vậy. Thế thì con có lý do gì để lên mặt với những kẻ thua kém con? Rất
có thể một lúc nào đó, Cha sẽ lại cho những kẻ kém con, những kẻ con khinh
thường ấy hơn con. Tốt hơn là con hãy quên con đi, đừng tự coi mình là gì cả.
Chính thái độ ấy làm cho con trở nên cao cả trước mặt Cha, làm đời sống con
hạnh phúc và tốt đẹp biết bao! Cha mong con có thái độ ấy”.
(Suy niệm của Lm. Thu Băng)
Thánh Phanxicô nói với một thầy Dòng ngài: Chúng ta cùng đi giảng
đạo chiều nay. Thế rồi sau một buổi chiều rảo quanh các phố xá, khu xóm, làng
mạc, hai cha con trở về, ngồi bệt xuống ghế, hổn hển thở hơi tai. Ngài buông
lời: Tạ ơn Chúa rồi lại im lặng. Thầy tùy tùng mới cất tiếng hỏi: Thưa cha, cha
nói đi giảng đạo mà con có thấy cha giảng gì đâu. Ngài mìm cười trả lời: Chính
cách đi đứng tử tế, nói năng thưa hỏi kẻ qua đường một cách đoan trang, lễ
phép, chính cách cư xử bác ái, chân thành và ân cần giúp đỡ mọi người của chúng
ta, là một bài giảng hùng hồn, và đánh động nhất đó con. Chúng ta đã giảng bằng
chính gương sống của mình rồi.
Việt Nam có câu: Lời nói lung lay, gương bày lôi cuốn. Là cách
diễn tả bằng thực hành nhiều hơn là bằng rao giảng. Có một nhà nghiên cứu xã
hội làm một bản trắc nghiệm và phỏng vấn. Ông cho hay: tám mươi phần trăm người
trả lời: Xem gương người xưa đã sống và đã làm.
Chúa trách cứ người Pharisiêu, và các thầy thông luật chỉ chú tâm
vào nghĩa chữ mà không thực hành: Họ chỉ tay mà không làm. Họ bó cho người khác
gánh còn họ không hề đưa ngón tay lay thử. Hỏi trong gia đình, chúng ta phục
ai, thương ai, nếu không phải là người có lòng quán xuyến mọi việc, có chân tay
mau rảo, có việc làm luôn tay luôn chân, có tâm hồn đạo hạnh, có tấm lòng rộng
rãi, cởi mở...... Hỏi trong gia đình chúng ta ghét ai nhất: Nếu không phải là
kẻ hay nói đổng, lắm mồm, nói dai và đay nghiến mà không chạy việc.
Nhìn vào gương người xưa có đủ mọi khía cạnh gương sáng cho chúng
ta soi. Họ là những nhân chứng của Tin Mừng, của nước trời: Nhân chứng đức tin
như ông Abraham giết con. Nhân chứng thứ tha như vua Davít cắt vạt áo vua khi
vua cho ông là kẻ thù. Nhân chứng lề luật như Daniel trong lò lửa không chịu ăn
thịt. Nhân chức trong sạch như Maisen đẹp trai và hoàng hậu Pharao mê sắc. Nhân
chứng giữ đạo như bảy con của bà Macabêu bị hành quyết. Nhân chứng hy sinh cho
đồng loại như Đức Cha Cassaigne, Thánh Damien tông đồ người hủi, Mẹ Têrêsa Ấn
Độ. Nhân chứng gia đình như Đức Mẹ và thánh Giuse thành Nazareth. Nhân chứng từ
bỏ như hoàng hậu Elzabeth, như Phanxicô khó khăn tụt áo sống trả lại cha trước
quan tòa.
Thật đáng ca ngợi những bậc cha mẹ luôn nêu gương cho con cái.
Đáng ca ngợi những người con sống và giữ theo lời cha mẹ khuyên dạy. Đáng ca
ngợi những bậc ông bà sống đạo cho các con cháu thấy, nghe và bắt chước. Sống
và thực hành như vậy chắc chắn các ngài sẽ bị phản đối, bị công kích, bị chê
bai, bị kết án là khác đời. Nhưng các ngài sẽ giúp con cháu can đảm chấp nhận
và vươn lên khỏi những nếp sống đê hèn đè bẹp cuộc sống. Sống như vậy các ngài đã
nên tấm gương sáng ngời cho thế hệ mai sau và không sống như vậy sẽ không có
các thánh trên trời. (2002).
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc kết án bọn
biệt phái và luật sĩ là những người lãnh đạo tôn giáo trong dân Do Thái. Thế
nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng được gửi đến cho mỗi người
chúng ta, bởi vì những khuyết điểm của họ cũng là những khuyết điểm của mọi
người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt của bọn biệt phái và luật sĩ, chúng ta không
khỏi giật mình bởi vì bản thân chúng ta cũng có những đường nét nào đó giống
như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt phái và luật sĩ đã mắc
phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê bình một cách gắt gao?
Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà không làm. Có một khoảng
cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy với những điều họ thực
hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đã diễn tả thật chính xác về họ như
sau:
Họ nói mà không làm. Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu.
Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo, họ làm ngược lại những gì
họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Và như vậy, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thống nhất
đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời chúng ta nói và dạy. Lời nói
phải biểu lộ những gì ấp ủ trong cõi lòng, chứ không phải chỉ là sự vận dụng
khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi cuốn người khác như người ta
vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.
Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức Giám mục đã khuyên các tân
chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hãy chú tâm tin điều chúng con
đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng lại bắt người khác phải làm.
Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh sống động để diễn tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh nặng lên vai người khác, còn chính bản thân
họ thì lại không muốn đụng ngón tay lay thử.
Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một cách khôi hài là giám đốc,
giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất hiện một khoảng cách giữa
điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác phải làm. Chúng ta khoan
dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngã với người khác. Dường như chúng
ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo danh và tự mãn. Họ làm mọi
việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích nhắm của mọi hành động đó là
tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều qui về cái tôi của mình, đều
nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Thậm chí cả những hành vi đạo đức cũng
biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo đức của chúng ta được khua
chiêng gióng trống, nặng phần trình diễn, khiến người ta chỉ thấy được bản thân
chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy
rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Biết đâu, đó cũng là bộ mặt
giả hình của mỗi người chúng ta.
Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin để mỗi người chúng ta luôn sống
trung thực với bản thân, với người khác và với Thiên Chúa. Tư tưởng thì đi đôi
với lời nói. Còn lời nói thì lại đi đôi với việc làm. Cả ba lãnh vực tư tưởng,
lời nói và việc làm của chúng ta đều không quanh co, không uẩn khúc, nhưng
trong suốt như pha lê.
Anh
chị em thân mến,
Một người cha nọ dạy con rằng: "Con nên nhớ thời bây giờ,
không tin ai được hết; ngay cả cha con cũng đừng tin nữa. Biết đâu cha mẹ vẫn
gạt con cái. Con thấy không? Ra đường người ta chỉ nghĩ đến móc túi kẻ khác,
mua gian bán lận; có mấy ai dám nói thật đâu... Vì vậy, con nên nhớ, đừng tin
ai cả, ngay cha mẹ con cũng không tin nữa.." Sau bài huấn đức đó mấy hôm,
một bữa nọ, người cha bảo con: con leo thang này lên gác lấy cho cha mấy món đồ
cha cần trên đó. Đứa con vâng lời lên gác... Đến lúc xuống, người cha đã lấy thang
đi mất. Ông bảo: con cứ nhảy xuống đi, cha sẽ đỡ cho... Đứa con y lời nhảy
xuống. Người cha không đỡ. Đứa con gãy giò. Lúc đó cha mới nói: "Thấy hôn,
tao đã bảo, ngay cả cha mày cũng đừng tin nữa mà..." Bài học cụ thể thiệt
đó, nhưng bù lại đứa con phải gãy giò. Hơn bị tốn của một chút đó! Bài giáo lý
của Chúa Giêsu hôm nay cũng tương tợ thế: Chúa cảnh báo dân chúng: nghe lời các
kinh sư chỉ bảo, nhưng đừng làm theo việc họ làm, vì họ nói mà không làm. Kính
mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
* Các kinh sư, các người pharisêu: họ là những nhà thông luật; họ
nối quyền Môisen, có nhiệm vụ giải thích Kinh thánh, luật Môisen, áp dụng vào
đời sống. Vì thế, nên Chúa Giêsu dạy phải nghe họ. Nhưng cách làm của họ, Chúa
dạy dân chúng đừng theo, vì họ sống giả hình, nói mà không làm, đặt ách lên vai
người khác mà tay họ không động đến, thích đeo hộp kinh lớn, mang tua áo, thích
ngồi chổ nhứt, ưa người ta ca tụng, nhưng lại lại tham lam, khinh dễ người
nghèo khó, áp bức cô nhi hóa phụ...
* Đừng bắt ai gọi mình bằng Thầy; cũng đừng bắt gọi bằng cha, gọi
người lãnh đạo: Chúa Giêsu muốn dạy chỉ có một Đức Kitô là Thầy, là người lãnh
đạo, một Thiên Chúa là Cha. Không ai được phép vượt qua lời dạy đó. Thực ra,
trong đạo chúng ta nếu có gọi ai là Thầy, là Cha, là người lãnh đạo, đó không
phải là đi ngược lời Chúa dạy; đó chỉ nói lên mối liên hệ tinh thần. Thánh
Đaminh muốn đưa tinh thần này vào dòng của mình; ngài mong muốn anh em gọi nhau
bằng huynh đệ (frater). Ta cũng thấy Tu hội của Tiểu đệ, Tiểu muội rất mong
muốn thực hiện tinh thần này, nên mọi người đều gọi nhau là anh em....
b/. Qua bài Tin mừng này Chúa muốn dạy ta điều gì?
* Chúa vạch trần thói sống giả hình của các kinh sư, biệt phái: họ
thích sống giả hình, vì hay nói mà không làm - thích thống trị kẻ khác, đặt
gánh nặng lên vai người khác, còn mình thì không buồn động đến - thích khoe
khoang, làm để cho mọi người thấy - ham danh, ưa ngồi chổ nhất, thích được
chào, thích được gọi là thầy. Chúa còn cảnh giác dân chúng, dạy dân nghe lời họ
chỉ dạy, nhưng đừng làm theo họ, nhất là chỉ vâng lời một Thầy độc nhất là Đức
Kitô mà thôi...
* Chúa chỉ trích lối sống của các kinh sư, nhưng Người cũng đưa ra
mấy chỉ dẫn cho đời sống đạo thiết thực: 1. lời nói đi đôi với việc làm: Thực
tế, giữa lời nói và việc làm có khoảng cách rất lớn. Vì nói thì dễ, nhưng làm
lại là chuyện khó, nên các kinh sư thích nói suông hơn là làm; hoặc nhiều lúc
tệ hơn, họ "nói mà không làm." Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng nói
suông, nhưng hãy làm; nhất là hãy làm cách chân thành. Ông bà ta cũng
nói:"Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo." Chúa nhắc
nhở: người môn đệ có nhiệm vụ rao giảng lời Chúa, không thể dùng lý thuyết
suông mà thuyết phục. Chính lời nói kèm theo việc làm mới có sức lôi kéo người ta
và làm cho họ tin theo.
Hãy làm trong khiêm tốn: các kinh sư, pharisêu làm gì cũng muốn
phô trương, tỏ ra mình đạo đức, từ đó biến thành tự phụ, tự mãn...Trái lại,
Chúa Giêsu dạy các môn đệ, khi bố thí, khi cầu nguyện, khi ăn chay, đừng phô
trương cho người ta thấy; hãy làm nơi kín đáo, để một mình Thiên Chúa biết mà
thôi. Âm thầm làm việc đạo đức là dấu chỉ của lòng mến Chúa chân thật, từ đó
dẫn đến khiêm tốn, kính trọng kẻ khác, sẵn sàng phục vụ anh em. Tuy nhiên, lối
sống của kinh sư, biệt phái vẫn hiện hữu nhiều lắm trong đời sống thực tế ngày
hôm nay. Nó hiện hữu không chỉ ngay trong cuộc sống đời, mà ngay trong nhà đạo
chúng ta nữa. Vì vậy cần phải sống chân thành, tín nhiệm, tin tưởng nhau, nhất
là để Chúa trong cuộc sống, chúng ta mới tránh khỏi thói sống chuộng hình thức
như kể ở trên...
Chân thật: tiếng latinh là Sincerus, a, um. Ngày xưa những cột đá
cẩm thạch nào không được nhẵn nhụi, lại có lỗ, sứt mẻ, thì người ta lấy sáp ong
nhét vào lỗ đó, rồi đánh cho trơn láng. Cây cột nào trơn láng thì gọi là sine cera:
nghĩa không có sáp ong. Với thời gian, chữ này viết dính lại: sincera; có nghĩa
là không phấn sáp, không giả tạo. Cuộc sống con người cần phải thành thật, chân
thành, không phấn sáp, không giả tạo. Đó chính là điều Chúa muốn dạy chúng ta
sống trên đời này...
Nhà nuớc VN chúng ta dán bích chương đầy đường, hô hào kêu gọi mọi
người VN: đoàn kết - yêu thương - quảng đại - xóa bỏ hận thù - cùng nhau bắt
tay xây dựng xã hội giàu có, công bằng, dân chủ và văn minh; vậy mà vụ đất Thái
Hà, và Tòa Khâm sứ, chúng ta thấy gì? Có phải như lời Chúa quở trách pharisêu:
nói mà không làm, hay nói một đàng, làm một nẻo không?
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu trách những người pharisêu
nói mà không làm, người kitô hữu chúng ta nghe thì hài lòng lắm, vì họ đáng
trách như thế. Phần chúng ta, là cha mẹ trong gia đình, là người phục vụ trong
họ đạo, có nhiều lúc ta tự xét mình trước mặt Chúa, ta tự thấy mình đã không
dám nói, dám làm điều này điều nọ, để nêu gương sáng cho mọi người nhất là cho
chính con em, cháu chắt chúng ta không?
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Môsê mà giảng
dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ...
Bản văn này là một phần cuộc tranh luận mạnh mẽ giữa Đức Giêsu với
những quyền bính tôn giáo ở Giêrusalem: cuộc khổ nạn sắp đến gần và chúng ta
biết rằng sự khước từ của các thân hào ở thủ đô là một trong những nguyên nhân
cái chết của Đức Giêsu.
Vào thời kỳ Mátthêu viết Tin Mừng của ngài, cuộc tranh luận nổ ra
một cách bi thảm: Sau khi Đền thờ bị phá hủy vào năm 70, các người Pha-ri-sêu
đã trở thành nhóm duy nhất còn tồn tại có tổ chức... và được quy tụ lại ở
Giam-ni-a (Giáp nê), họ chính thức tuyệt thông với những người Do Thái theo
Kitô giáo, coi những người này như những người lạc giáo và trục xuất họ ra khỏi
Hội Đường Do Thái.
Những nhận xét về lịch sử này, tuy vậy, không cho phép chúng ta
nghĩ rằng Matthêu chỉ đơn thuần nghĩ ra các cuộc tranh luận chống Pha-ri-sêu
ấy. Đức Giêsu rõ ràng đã chết vì chống đối lại một số thủ lãnh tại thủ đô. Điều
đó không có nghĩa là tất cả những người Pha-ri-sêu đều đáng bị lên án. Và trong
bất kỳ trường hợp nào, điều đó không thể nuôi dưỡng một cuộc bút chiến chống Do
Thái. Vả lại chúng ta nhận thấy rằng, trong câu đầu tiên Đức Giêsu khuyên
"thực hành và tuân giữ những điều các kinh sư và Pha-ri-sêu giảng
dạy". Vì thế Người thừa nhận họ có thẩm quyền trong kiến thức về Luật của
Thiên Chúa. Đức Giêsu không phê phán học thuyết và những nguyên tắc của người
Pha-ri-sêu. Người yêu cầu chúng ta áp dụng những điều họ dạy.
Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm.
Nếu Đức Giêsu tán đồng lý tưởng mà các Pha-ri-sêu đòi hỏi, thì
Người lại trách họ rõ ràng đã không đem lý tưởng đó ra thực hiện cho đủ. "
Vậy có một sự nghịch nghĩa khi tiếp thu tư tưởng của Đức Giêsu để biện minh cho
thái độ bừa bãi trên bình diện thực hành tôn giáo. Người ta còn nghe quá nhiều
những lời biện minh dễ dãi: "Tôi không đi dự thánh lễ bởi vì các Kitô hữu
không tốt hơn những người khác... đó là những người Pha-ri-sêu! Chính Đức Giêsu
không phê bình những người Pha-ri-sêu vì họ "thực hành" quá nhiều
nhưng vì họ thực hành không đủ lý tưởng của họ.
Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì
lại không buồn động ngón tay vào.
Chúng ta thấy lại một nét nổi bật của Đức Giêsu: Người bênh vực
những người nhỏ bé, nghèo nàn, yếu đuối. Các kinh sư là những học giả. Ngày nay
hẳn người ta gọi đó là những nhà trí thức, những người biết rành về Kinh Thánh.
Những người Pha-ri-sêu đúng ra là những người sùng đạo. Ngày nay, người ta sẽ
nói đó là những chiến sĩ, những người dấn thân để biến đổi xã hội. Nguy cơ lớn
của học giả và người quảng đại là họ rất đòi hỏi những người khác khi áp dụng
những nguyên tắc cao cả của họ cho các tập tục bên ngoài, thay vì xét lại chính
bản thân mình. Canh tân người khác luôn luôn dễ hơn hoán cải chính mình.
Lạy Chúa, xin giúp đỡ chúng con luôn sống nhân từ với người khác
và khắt khe với chính chúng con. Xin làm cho chúng con gánh bớt gánh nặng của
người khác và chớ để chúng con thành một gánh nặng cho những người xung quanh
chúng con.
Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những
hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám
tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội trường, ưa được người ta chào hỏi ở những
nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”.
Những hộp kinh là những hộp nhỏ chứa những bản văn Kinh Thánh mà
người ta dùng dây cột ở trán và cổ tay: đó là một cách để nhớ lại lời Chúa (Xh
13,9-16; Đnl 6,8-11,18). Những tua áo ở lai áo cũng là một cách để nhắc người
ta nhớ đến những điều răn của Thiên Chúa (Ds 15,37; Đnl 22,12).
Tập tục này giống với tục lệ đeo huy chương, vòng cổ, nhẫn.
Đức Giêsu không lên án những tập tục này tự nó. Chính Đức Giêsu
cũng mang những tua áo (Mt 9,20; 14,36). Nhưng ở đây Đức Giêsu công kích thói
tự kiêu vặt vãnh về tôn giáo: Người ta khoe khoang lòng sùng đạo của mình.
Người ta tìm cách để được chú ý. Người ta đặt mình ra trước, chạy theo vinh
hoa, phô trương thói kiêu căng hão huyền, tìm kiến những đặc ân đặc quyền. Tất
cả đều là một khuyết điểm mà thời nào cũng có. Mỗi thời đại theo cách của thời
đại đó.
Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi".
Công thức này chỉ cho chúng ta thấy rằng Đức Giêsu hơn tất cả
những người Pha-ri-sêu của thời Người và quả thật, đây là lời Người nhắc nhở
các môn đệ của mình. Thay vì lúc nào cũng áp dụng Tin Mừng cho những người
khác, ví dụ như thay vì lên án những người giảng đạo nói mà không làm “bó những
gánh nặng mà chất lên vai các tín hữu" thì chúng ta phải trở lại với chính
mình: Phần anh em, đừng bắt người ta tôn xưng mình, cho mình được hưởng đặc
quyền.
Còn tôi, cái cách của tôi làm cho tôi rơi trong sự lệch lạc ấy là
gì?
Vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em là anh em với nhau.
Đức Giêsu lên án thói tự phụ rằng chúng ta phải là những người nắm
giữ chính thức học thuyết đúng nhất. Chỉ một mình Thiên Chúa mới dạy chân lý
tuyệt đối. Phần chúng ta, chúng ta chỉ đến gần chân lý ấy mà thôi. Còn tất cả
anh em là anh em với nhau, Công thức này ngắn gọn, đầy những yêu sách. Đây là
một yêu cầu về sự bình đẳng sâu xa giữa chúng ta với nhau: Một lần nữa, tôi
phải áp dụng cho chính tôi những lời ấy: tôi có xu hướng muốn thống trị ai? Tôi
có xu hướng muốn nhìn ai một cách ngạo nghễ, muốn khinh bỉ, phán xét ai?
Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em
chỉ có một Cha là Cha trên trời.
Mỗi lần mà Đức Giêsu truyền cho chúng ta có những thái độ trên
bình diện đạo đức (làm điều này... không làm điều kia...), Đức Giêsu đều dùng
các thái độ và xác tín của đức tin để nâng đỡ chúng. Ở đây yêu sách về sự bình
đẳng bắt nguồn trong sự phụ thuộc của chúng ta trước Thiên Chúa. Đức Giêsu
không đòi bãi bỏ mọi phẩm trật, quyền bính, tình phụ tử nào có thể thay thế cho
Thiên Chúa. Đây là một yêu sách triệt để của tự do? Mọi con người đều có quyền
gặp Thiên Chúa một cách trực tiếp. Không một thế phẩm nào được thay thế cho
Đấng Duy Nhất, Đấng có thể cứu chuộc con người. Vâng, đối với Đức Giêsu việc
gặp gỡ tình yêu của Chúa Cha, ở trên trời rất quan trọng đến độ mọi tấm chắn
kính lọc, mọi sản phẩm thay thế mọi thế phẩm bất kỳ nào xem ra đều có hại. Đừng
gọi ai dưới đất này là "cha"! Chắc chắn người ta có thể cho một người
tước hiệu này nhưng không nên vì thế mà bị giam hãm trong mối quan hệ ấy, và
trở thành ấu trĩ như trẻ con. Đức Giêsu biết rằng "chỉ có" Thiên Chúa
mới là Thiên Chúa.
Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo vì anh em chỉ có
một vị lãnh đạo là Đức Kitô
Đây cũng là lời cảnh báo tương tự không nặng được nhắc lại dưới
những hình thức khác nhau. Xuyên qua những công thức ấy, chúng ta đã chẳng có
thể khám phá chính điều chủ yếu của lời giáo huấn sao? Người lãnh đạo không
phải là người lôi kéo người khác đến với mình nhưng lôi kéo người khác đến với
chân lý.
Nhà giáo dục Kitô giáo, theo một ý nghĩa sâu xa hơn chỉ thật sự
thành công trong việc giáo dục nếu người ấy có thể dẫn học trò mình bước vào
quan hệ trực tiếp với Đức Giêsu. Trách nhiệm của cha mẹ, các nhà giáo dục và
các linh mục vì thế rất nặng nề và kỳ diệu: một ngày kia họ phải tự quên mình
là "thầy", bởi vì học trò mình đã tìm thấy vị Thầy duy nhất, vị
"Lãnh đạo" duy nhất. Cuối cùng, một người dạy giáo lý chỉ đạt được
mục đích khi dẫn đưa người học giáo lý đến kinh nguyện cá nhân để gặp gỡ cá
nhân với Thiên Chúa. Và một nền giáo dục chỉ thật sự đạt được mục đích của nó
nếu người được giáo dục một ngày kia có thể không cần đến nhà giáo dục nữa để
hướng dẫn cuộc đời mình trong sự tự do hoàn toàn và dưới cái nhìn nội tâm của
vị Thầy duy nhất.
Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.
Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ xuống, sẽ được tôn lên.
Công thức này làm ngạc nhiên, dễ nhớ vì tính chất nghịch lý, là
một trong số những câu mà Đức Giêsu đã phát biểu. một cách rõ ràng dễ nhớ nhưng
người ta không thể xác định vào thời điểm chính xác nào trong sự giảng dạy của
Người. Thật vậy, người ta tìm thấy câu ấy trong những văn cảnh khác nhau. Trong
Matthêu (20,26) để gạt bỏ tham vọng của các con trai ông Dêbêđê: Trong Luca
(14,11), để mời gọi các môn đệ không nên chọn chỗ nhất ở bàn tiệc. Trong Luca
(18,14), để phục hồi danh dự cho người thu thuế trước sự tự mãn của người
Pharisêu. Dù sao, tư tưởng ấy chắc chắn là một xác tín của Đức Giêsu mà Người
đã không ngừng nhắc lại trong những trường hợp khác nhau.
Do đó nó không phải là một phương tháp hành văn của các tác giả
Tin Mừng nào. Dẫu sao công thức ấy mạnh mẽ và tra hỏi chúng ta những bản năng
tự tôn của tôi là gì? Những công việc phục vụ của tôi là gì?
Ngày Chúa nhật hàng tuần tôi thường hay dành một buổi sáng để đi
thăm nhà giáo dân trong họ đạo, đặc biệt là những người sống lạnh nhạt tôi lại
thường xuyên đến thăm và động viên họ hơn. Khi tim hiểu nguyên nhân làm cho họ
lạnh nhạt, tôi thấy một trong những nguyên nhân đó là sự bất mãn trong đời sống
đạo. Họ bất mãn vì thấy những người giảng dạy lại sống không ra gì, những người
thường xuyên đi lễ lại sống quá tệ. Đôi khi họ lại sống ngược lại với lời kinh
Chúa dạy. Bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cũng lên án thái độ sống lệch lạc đó.
Tiêu biểu là người luật sĩ Pharisêu, họ am hiểu Kinh Thánh lề luật ngưng lại
sống không trung thực, sống phản chứng. Họ nói mà không làm, rao giảng mà không
sống các điều mình rao giảng. Họ dạy tín hữu phải biết sống đơn sơ khó nghèo,
trong sạch, liêm chính, không ham danh ham lợi, không chạy theo của cải vật
chất trần gian, biết chia sẻ với người túng thiếu. Nhưng họ lại quan liêu hống
hách, bê tha dục vọng, tranh giành chức vị, chạy theo tiền bạc của cải, quyền
bính và sống ích kỷ, gian ác và tội lỗi, sống sa đọa hơn giáo dân rất nhiều.
Kiểu sống của họ đã bôi nhọ và làm giảm uy tín Giáo hội, khiến cho giáo dân từ
bỏ Giáo Hội và làm cho những người chưa biết Chúa xa rời tình yêu của Ngài.
Chúa Giêsu không chỉ tố cáo thái độ sống đạo lệch lạc của họ, mà
Ngài còn tố cáo việc sống đạo vụ hình thức nặng nề của họ. Họ chủ trương tuân
giữ luật lệ một cách tỉ mỉ, rườm rà theo bề ngoài mà quên đi tinh thần nòng cốt
của luật. Tâm thức luật lệ ấy khiến cho hàng lãnh đạo Do Thái gia tăng số luật
lệ, cam đoan đủ điều và biến luật lệ trở thành dụng cụ áp chế, bóp nghẹt sự tự
do tinh thần trong cuộc sống lòng tin, khiến cho mối dây liên hệ giữa tín hữu
với Thiên Chúa trở thành một gánh nặng đè bẹp, ngột ngạt khó thở, vì bị các
luật lệ cột buộc bao vây tư bề.
Thật ra, các liên hệ với Thiên Chúa phải giúp cho tín hữu cảm nhận
được lòng yêu thương nhân thứ và quan phòng ấp ủ của Ngài đối với mình. Vì thế,
cuộc sống lòng tin phải là cuộc sống vui tươi, hạnh phúc tràn đầy hy vọng và an
bình, chứ không phải là nhắm mắt tuân hành các luật lệ trống rỗng vô hồn.
Hơn nữa, kiểu sống đạo giả hình và phô trương của họ mang tính
cách háo danh, thích ăn trên ngồi trước, thích được nịnh hót, thích được ca
tụng và chào hỏi bằng tước hiệu trọng vọng.
Mặc dù không thi hành các luật Chúa, nhưng hàng lãnh đạo Do Thái
khi giảng dạy ở Hội đường thì họ lại nới rộng thẻ kinh, may dài tua áo, huênh
hoang, vạch đường chỉ lối cho người khác phải theo. Nhưng khi trở về đời sống
riêng tư thì chui đầu vào ngõ bí, làm những điều mà phải đóng cửa tắt đèn mới
dám làm. Vậy, những kẻ giả hình đó phải coi chừng, vì Chúa Giêsu sẽ chỉ mặt
điểm tên mà bảo rằng: "Ngươi là cái mả tô vôi, ở# ngoài thì trắng trẻo
sạch sẽ, bên trong thì đầy thây ma xác chết thối tha, là những phường nói một
đàng làm một nẻo".
Nếu chúng ta không ý thức những điều đó, để rồi chúng ta lại rơi
vào bánh xe xa lầy của những kẻ giả hình, lúc đó Chúa cũng trách chúng ta như
vậy. Không trách sao được, khi chúng ta mở miệng dạy đạo đức cho người khác mà
đời sống mình lại không đạo đức chút nào? Không trách làm sao được khi mình mở
miệng răn bảo người khác không nên trộm cắp, phải tôn trọng tài sản của kẻ
khác, mà chính mình lại là kẻ hối lộ, tham nhũng, ăn gian ăn bớt đủ thứ. Tha
làm sao được khi mình dạy người khác phải chung thủy trong gia đình, thanh tịnh
trong đấng bậc mình, còn mình thì đưa người cửa trước, đón người cửa sau.
Chúng ta cũng nên biết rằng, đối với thời đại chúng ta đang sống,
nếp sống gương mẫu của các Kitô hữu là một phương thế hữu hiệu nhất để mở đường
cho người khác tin vào Thiên Chúa. Có thể nói được rằng, con người ngày nay cần
phải có đời sống gương mẫu để củng cố đức tin cho chính mình và cho người khác.
Lạy Chúa, xin cho mỗi người chúng con biết sống theo Lời Chúa, và
nhất là qua hành động của mỗi người sẽ là một lời rao giảng tuyệt vời trong
cánh đồng truyền giáo của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Br Vincent Quốc Thanh)
Trong sử các đấng tổ phụ tu hành có chép chuyện một thầy ẩn tu nổi
tiếng nhân đức. Khi biết mình sắp lìa cõi đời, thầy xin Bề trên dòng đến ban
các Bí tích sau cùng. Tình cờ một tên trộm khét tiếng trong vùng cũng đến chỗ
của thầy ẩn tu. Thấy thầy cả làm các phép trong đạo, tên ăn trộm động lòng
thống hối và được ơn trở lại. Cho mình không xứng đáng vào phòng thầy ẩn tu,
hắn chỉ đứng ngoài và kêu lên: "Ôi, chớ gì tôi được phúc như thầy".
Thầy ẩn tu nghe thấy lấy làm đắc ý và đáp lại: "Ừ, thật đó, giả mày được
giống như tao, thì còn phúc nào bằng."
Rồi tên ăn trộm liền chạy đi xưng tội. Nhưng vì chạy mau quá, nên
đâm đầu xuống vực thẵm mà chết. Vị ẩn tu được tiếng là nhân đức cũng chết sau
một vài ngày. Một thầy ẩn tu khác trước vốn ở chung với thầy này khóc thương
cho bạn mình, nhưng lại vui cho kẻ trộm đã chết. Có người hỏi tại sao, thì thầy
trả lời: " Người trộm chắc được rỗi linh hồn vì đã có lòng ăn năn tội. Còn
thầy ẩn tu đã hư đi đời đời vì kiêu ngạo."
Thầy ẩn tu trong chuyện thuộc vào loại thầy " nói mà không
làm" (Mt 23,3). Thầy làm những việc nhân đức cốt để cho người ta trông
thấy và khen ngợi. Thầy thích được gọi là "Rabbi " (thầy hoặc vĩ
nhân) nơi công cộng và chiếm chỗ nhất trong đám tiệc. Khoác áo nhà tu, nhưng
không có tinh thần tu trì, thầy mắc hai lỗi lớn trong đường thiêng liêng: giả
hình và kiêu ngạo.
Tại sao thánh sử Matthêu lại chống việc gọi các vị lãnh đạo tinh
thần là " thầy" hoặc "cha"? Tiếng "Rabbi" được dùng
vào khoảng năm 60-80 A.D. để chỉ về những vị thầy Do Thái có quyền giảng dạy
luật Môisen. Theo mạch văn và theo hoàn cảnh lịch sử, thánh sử Matthêu chống
lại những vị lãnh đạo tinh thần thời bấy giờ hơn là danh xưng. Ông Saul Ben
Batnith (ca.80-120) là vị lãnh đạo tinh thần đầu tiên dùng danh xưng Abba,
"cha". Mặc dầu Thánh kinh ngăn cản việc dùng danh xưng này, nhiều vị
ẩn tu đã dùng danh xưng Abba để chỉ về những người cha tinh thần.
Theo Cha Benedict T. Viviano, OP., nhà chú giải Thánh kinh, những
Kitô hữu tin chỉ có một Cha trên trời và một vị Thầy duy nhất là Đức Giêsu
Kitô. Tuy nhiên, cũng có những vị " cha" và "thầy" giữ vai
trò chuyển tiếp (transitory role). Những vị "cha" và "thầy"
đó giúp cho những người theo Chúa hiểu về người Cha nhân lành và vị Thầy khả ái
là Chúa Giêsu Kitô. Những vị "cha" hay "thầy" chuyển tiếp
này nên được gọi là "ngôn sứ, hiền nhân, và kinh sư". (Mt 23,34)
Vấn đề ở đây không phải là dùng danh xưng nào cho chỉnh hơn, nhưng
là làm sao để sống đúng với danh xưng của mình. Nếu mình là " cha"
hoặc "thầy" thì phải làm sao cho đời sống nội tâm phù hợp với danh
tính và cử điệu bên ngoài của mình. Càng ý thức mình là những vị lãnh đạo tinh
thần của dân Chúa, "cha" và "thầy" càng phải hại mình xuống
và phục vụ hết sức mình (Mt 23,11). Nếu được thế thì chắc chắn người Cha trên
trời sẽ được kính mến và vị Tôn sư duy nhất sẽ được tôn vinh.
(Viết theo “Bạn muốn biết”, Radio Veritas – Lm. Giuse Nguyễn Hữu
An)
Chúa Giêsu khẳng định trong Tin Mừng hôm nay: “Đừng gọi ai dưới
đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời”. (Mt 23,11-12). Người ta
thường dựa vào câu Thánh Kinh này để biện hộ cho quan điểm không gọi Linh mục
là Cha. Vậy phải hiểu câu nói Chúa Giêsu như thế nào?
1. Tại sao gọi Linh mục là Cha? Thói quen ấy có từ lúc nào trong
Giáo hội? Đâu là nền tảng của cách gọi này?
“Cha” theo định nghĩa, là một người đàn ông có một hay nhiều con.
Một cách nào đó, Cha là người mang lại sự sống cho con. Do đó, bất cứ ai mang
lại sự sống cho người khác, bằng cách này hay cách khác, cũng đều có thể được
gọi là Cha. Người ta cũng gọi một ai đó là Cha Già Dân Tộc khi người này đã hy
sinh đấu tranh mang lại độc lập cho tổ quốc. Danh từ Cha ở đây được hiểu theo
nghĩa loại suy. Chúng ta gọi Cha những người đàn ông nào đó có đặc tính của
người Cha. Cũng như khi chúng ta chào hỏi một người là ông bà, chú bác, thì
không nhất thiết người đó phải có một liên hệ họ hàng với chúng ta. Danh xưng
Cha được gán cho Linh mục cũng được hiểu theo nghĩa ấy.
Cách gọi này không phải là điều mới mẻ, ngay từ đầu lịch sử Giáo
hội, các Giám mục được gọi là Cha, rồi dần dà người ta áp dụng cách gọi ấy cho
các Linh mục.
Lý do gọi Linh mục là Cha thật đơn sơ và tự nhiên: Linh mục là
thừa tác viên các bí tích. Ngài nhân danh Chúa Kitô và Giáo hội để ban bí tích
và sự sống ơn thánh.Qua lời dạy bảo, một cách nào đó, Linh mục cũng nuôi dưỡng
người Kitô hữu trong đời sống thiêng liêng. Do đó Linh mục đóng vai trò người
Cha đối với các tín hữu.
Công đồng Vaticanô II, trong sắc lệnh về sứ vụ và đời sống Linh
mục, đã nói về tương quan giữa Linh mục và giáo dân: Do bí tích thánh chức, các
Linh mục Tân ước thi hành nhiệm vụ cao cả và cần thiết, đó là Cha và Thầy trong
dân Chúa và cho dân Chúa.
2. Gọi Linh mục là Cha phải chăng đi ngược lại Tin mừng vì Đức
Giêsu đã nói: đừng gọi ai dưới đất là Cha vì các ngươi chỉ có một Cha, Đấng ngự
trên trời. Phải hiểu câu nói này như thế nào?
Vào thời Cải cách, người Tin Lành đã dựa vào câu nói này để bãi bỏ
cách gọi Linh mục là Cha. Chúng ta phải hiểu đúng nghĩa câu nói của Đức Giêsu.
Đặt câu nói này trong văn mạch của đoạn Tin mừng.
Đức Giêsu đang tranh luận với nhóm Pharisiêu,Luật sĩ. Ngài khiển
trách họ giả hình, nói mà không làm, họ thích thống trị, họ bó những gánh nặng
chất lên vai người khác, còn họ không nhúng tay vào, họ thích khoe khoang làm
mọi việc cho người ta thấy, họ hám danh muốn ngồi chỗ nhất nơi công cộng và
muốn người khác tỏ lòng kính trọng qua những danh xưng thầy, cha, người chỉ
đạo. Qua đó, Đức Giêsu đưa ra một quan điểm mới cho các môn đệ: trong anh em,
người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em.
Đức Giêsu không cấm chúng ta gọi Cha đẻ của mình là Cha hoặc gọi
bất cứ ai dạy dỗ chúng ta là Thầy. Hẳn Ngài đã từng gọi Thánh Giuse là Cha và
những người dạy mình là Thầy. Do đó, không nên hiểu câu nói ấy theo từng chữ.
Người Do thái thường dùng kiểu nói phóng đại. Chúa Giêsu dùng kiểu nói này khi
bảo rằng: Nếu tay con gây vấp ngã, hãy chặt nó đi. Nếu mắt con làm cớ cho con
vấp phạm, hãy móc mắt đi để được vào Nước trời. Chính Thánh Phaolô, người hiểu
sâu xa Lời Chúa, thế mà ngài tự xưng mình là Cha các tín hữu, ngài cũng gọi
Timôthêô là con yêu dấu.
Khi Đức Giêsu nói: “Đừng gọi ai trên mặt đất này là cha, vì ngươi
chỉ có một Cha trên trời”, Ngài không phủ nhận chúng ta có những người cha
người mẹ mà Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải kính trọng (x. Mt 15,4). Ngài
muốn dạy rằng tình phụ tử nhân loại chỉ là một sự chia sẻ tư cách cha của Chúa
Cha Tối Cao là Đấng Tạo Thành, một Người Cha hoàn hảo.
Đức Giêsu vừa đề cao tính cách là Cha của Thiên Chúa, vừa xác định
tính cách chỉ đạo của Ngài, đồng thời Ngài cũng đả phá sự kiêu hãnh của một số
nhà lãnh đạo Do thái giáo thời đó, họ ưa thích được người ta gọi là Cha, là
Thầy.
3. Có buộc phải gọi Linh mục là Cha không?
Về cách xưng hô, dường như không có một luật nào buộc. Gọi Linh
mục là Cha hay không, đó là vấn đề của tình cảm và niềm tin. Gọi Linh mục là
Cha hay không, điều đó không quan trọng cho bằng có ác ý trong cách cư xử với
Linh mục hay không. Sự thiếu lễ độ, lịch sự tối thiểu đối với một người lãnh
đạo, dù chỉ là lãnh đạo một cộng đoàn nhỏ, không chỉ là một xúc phạm đến Linh
mục, mà còn có thể xúc phạm đến chính tình cảm tôn giáo của người tín hưũ nữa.
Chúng ta quen gọi các linh mục là cha. Tuy nhiên, đó không phải là
danh xưng mang tính ẩn dụ hay màu sắc thi ca. Tư cách cha của linh mục là thật
vì là sự tham dự vào tư cách Cha thần linh (x. 1 Cr 4,15; Ep 3,15). Vì thế, tư
cách cha của linh mục được thiết lập bởi tư cách làm Cha của Chúa Cha trên trời
mang tính tổng thể, hoàn tất việc tự hiến.
Với tư cách là cha, linh mục thực hành như lời thánh Phaolô đã dạy
Titô: "Phần anh, hãy dạy những gì phù hợp với giáo lý lành mạnh. Hãy
khuyên các cụ ông phải tiết độ, đàng hoàng, chừng mực, vững mạnh trong đức tin,
đức mến và đức nhẫn nại. Các cụ bà cũng vậy, phải ăn ở sao cho xứng là người
thánh, không nói xấu, không rượu chè say sưa, nhưng biết dạy bảo điều lành. Đó
là những điều anh phải nói, phải khuyên, phải sửa dạy với tất cả uy quyền. Chớ
gì đừng có ai coi thường anh" (Ti 2,1-3.15).
Đức Giêsu đã dạy bài học quan trọng nhất cho các linh mục, lãnh
đạo là để phục vụ. Vào Bữa Ăn Tối, sau khi rửa chân cho Nhóm Mười Hai, Ngài
nói: “Anh em gọi Thầy là “Thầy” và là “Chúa”, điều đó phải lắm. Vậy, nếu Thầy
là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho
nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh
em”. (Ga 13,13-15).