CÁC BÀI
SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - A
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - A
Lời
Chúa: Xh. 22, 20-26; 1Tx. 1, 5c-10; Mt. 22, 34-40
SUY NIỆM
1. Mến Chúa yêu người
2. Mến Chúa yêu người
3. Mến Chúa
4. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
5. Vị thế tối thượng của tình yêu
6. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Điều răn quan trọng nhất
8. Tình yêu là tất cả
9. Lòng mến, luật trên mọi luật – Anmai
10. Yêu
11. Giới răn yêu thương
12. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
13. Con người hay Robot? – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
14. Hai điều răn
15. Nên một tình yêu Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
16. Giới luật tình yêu
17. Lý do của tình yêu
18. Giới răn mến Chúa và yêu người
19. Ba chiều kích trong tình yêu
20. Cốt lõi của Lề Luật
21. Mến Chúa và yêu người
22. Mến Chúa và yêu người
23. Trò chơi hòa bình
24. Luật yêu mến. – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
25. Tại sao Thiên Chúa làm người – Achille Degeest
26. Yêu như Chúa yêu
27. Khi hai mặt của đồng tiền bằng nhau.
28. Giới răn trọng nhất
29. Yêu thương là đón nhận sự sống
30. Yêu thương là truyền giáo Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
31. Điều răn nào trọng nhất?
32. Hàng ngàn giới răn?
33. Giới luật thứ nhất và trên hết – Lm. An Phong
34. Mến Chúa yêu người
35. Mến Chúa yêu tha nhân – Lm Louis Minh Nhiên
36. Yêu thương
37. Mến Chúa yêu người – Lm. Vũ Nghi
38. Yêu thương
39. Trên đỉnh yêu thương
40. Luật trọng đại nhất
41. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa
42. Điều răn trọng nhất - JKN
43. Để yêu Chúa và tha nhân, phải biết yêu mình
44. "Ngừng lại!"
45. Điều răn trọng nhất mến Chúa yêu người
46. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long
47. Cốt lõi của luật là Lòng Mến
Thánh Vinh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Yêu thương là điều răn quan trọng Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Giới răn trọng nhất Lm Giuse Đinh lập Liễm
Yêu mến Thiên Chúa trên hết ... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Nền tảng cho đời sống an hòa Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Điều răn trọng nhất Lm PX. Vũ Phan Long
Giới răn mến Chúa và yêu Người Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm
Mến Chúa yêu người Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Tình yêu thực sự Lm Giuse Đinh tất Quý
Hãy sống yêu thương Lm Giuse Đinh tất Quý
Điều răn trọng nhất catholic.org.tw
1. Mến Chúa yêu người
2. Mến Chúa yêu người
3. Mến Chúa
4. Giới răn tối thượng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
5. Vị thế tối thượng của tình yêu
6. Tình yêu là lẽ sống – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Điều răn quan trọng nhất
8. Tình yêu là tất cả
9. Lòng mến, luật trên mọi luật – Anmai
10. Yêu
11. Giới răn yêu thương
12. Phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự
13. Con người hay Robot? – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
14. Hai điều răn
15. Nên một tình yêu Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
16. Giới luật tình yêu
17. Lý do của tình yêu
18. Giới răn mến Chúa và yêu người
19. Ba chiều kích trong tình yêu
20. Cốt lõi của Lề Luật
21. Mến Chúa và yêu người
22. Mến Chúa và yêu người
23. Trò chơi hòa bình
24. Luật yêu mến. – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
25. Tại sao Thiên Chúa làm người – Achille Degeest
26. Yêu như Chúa yêu
27. Khi hai mặt của đồng tiền bằng nhau.
28. Giới răn trọng nhất
29. Yêu thương là đón nhận sự sống
30. Yêu thương là truyền giáo Lm JB. Nguyễn Minh Hùng
31. Điều răn nào trọng nhất?
32. Hàng ngàn giới răn?
33. Giới luật thứ nhất và trên hết – Lm. An Phong
34. Mến Chúa yêu người
35. Mến Chúa yêu tha nhân – Lm Louis Minh Nhiên
36. Yêu thương
37. Mến Chúa yêu người – Lm. Vũ Nghi
38. Yêu thương
39. Trên đỉnh yêu thương
40. Luật trọng đại nhất
41. Lạy Chúa, xin giúp con yêu mến Chúa
42. Điều răn trọng nhất - JKN
43. Để yêu Chúa và tha nhân, phải biết yêu mình
44. "Ngừng lại!"
45. Điều răn trọng nhất mến Chúa yêu người
46. Điều răn trọng nhất – Lm PX. Vũ Phan Long
47. Cốt lõi của luật là Lòng Mến
Thánh Vinh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Yêu thương là điều răn quan trọng Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Giới răn trọng nhất Lm Giuse Đinh lập Liễm
Yêu mến Thiên Chúa trên hết ... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Nền tảng cho đời sống an hòa Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Điều răn trọng nhất Lm PX. Vũ Phan Long
Giới răn mến Chúa và yêu Người Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm
Mến Chúa yêu người Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Tình yêu thực sự Lm Giuse Đinh tất Quý
Hãy sống yêu thương Lm Giuse Đinh tất Quý
Điều răn trọng nhất catholic.org.tw
1. Mến
Chúa yêu người
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy sự chống đối dai dẳng
của bọn biệt phái đối với Chúa Giêsu. Họ không ngừng tìm cách giăng những cái
bẫy để hại Ngài. Họ đã bắt lỗi Ngài trong các việc Ngài làm. Đồng thời họ còn
muốn bắt lỗi Ngài trong các lời Ngài nói. Vì giáo huấn của Ngài luôn đi ngược
lại với những điều họ giảng dạy, nên họ đã cố gắng tìm cách đưa Ngài trở về với
con đường mòn họ đã vạch ra và muốn mọi người noi theo. Họ muốn Chúa Giêsu lặp
lại chính những điều họ thường giảng dạy. Họ hỏi Ngài về điều răn trọng nhất.
Làm sao có thể nói khác điều luật dạy: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng. Nếu như
Ngài dừng lại ở đây thì có lẽ họ đã toại nguyện, bởi vì Ngài dạy như họ đã dạy.
Thế nhưng, Chúa Giêsu không dừng lại ở đó mà Ngài còn nói thêm:
Giới răn thứ hai cũng giống như giới răn thứ nhất. Giống ở đây không có nghĩa
là hai giới răn là một và có thể hoán đổi cho nhau, mà muốn nói đến tầm quan
trọng ngang nhau của hai giới răn. Giới răn thứ hai đó là ngươi hãy yêu thương
kẻ khác như chính mình ngươi, nghĩa là yêu thương kẻ khác một cách trọn vẹn,
một cách hết lòng. Đây chính là nét độc đáo của Chúa Giêsu. Điều Ngài muốn
khẳng định ở đây không phải là việc mến Chúa và yêu người, bởi vì những tư
tưởng này cũng khá quen thuộc trong Cựu Ước, nhưng chính là việc Ngài đặt hai
giới răn này gắn chặt với nhau, cũng có một tầm quan trọng ngang nhau, và hơn
thế nữa, theo Ngài thì toàn thể lề luật và sách các tiên tri đều tóm lại trong
hai giới răn này.
Giáo huấn của Chúa Giêsu hẳn đã làm cho kẻ thù của Ngài phải sửng
sốt. Nhưng sự sửng sốt này, thay vì lay tỉnh họ, đặt họ trong tư thế sẵn sàng
tìm hiểu cái mới trong giáo huấn của Chúa, thì đã làm cho họ thêm chai cứng và
thêm quyết tâm trong ý định triệt hạ Ngài. Một cách nào đó có thể nói rằng tình
yêu giữa con người với con người là công việc của con người, thế nhưng đây lại
là một nỗi bận tâm lớn của Thiên Chúa, bởi vì chính Ngài đã đặt tình yêu này
thành mệnh lệnh, thành giới răn và Ngài không ngần ngại tự đặt mình làm trọng
tài lo việc thực thi giới răn này: Nếu các ngươi hà hiếp cô nhi quả phụ, làm
phiền lòng khách ngoại kiều, bắt người nghèo khó vay tiền phải chịu lãi nặng,
họ sẽ kêu thấu đến ta và chính ta sẽ nghe tiếng họ kêu van, sẽ nổi cơn thịnh nộ
và sẽ dùng gươm giết chết các ngươi.
Người Kitô hữu vào mọi thời đã đón nhận giới luật yêu thương đồng
loại như là một trong hai giới răn quan trọng nhất của Kitô giáo. Mến Chúa yêu
người đó là tất cả chương trình sống của người tín hữu. Những công việc chúng
ta quen gọi là bác ái từ thiện như giúp đỡ người tàn tật, bệnh hoạn hay gặp
phải tai ương đã từng là những hình thức quen thuộc để thực thi giới luật yêu
thương.
Mở đầu đoạn Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu cho thấy một bầu khí
tranh chấp và đố kỵ của người Do Thái. Kẻ thì theo nhóm biệt phái, người thì
theo nhóm Sađốc. Bên này gài bẫy bên kia và hí hửng khi đối thủ lâm nạn. Từ
lãnh vực chính trị xã hội cuộc tranh chấp lan sang phạm vi tôn giáo. Luật pháp
có tới 613 khoản, gồm 248 lệnh truyền và 365 lệnh cấm. Những khoản nào là quan
trọng nhất. Đó là một vấn đề nóng bỏng.
Tuỳ theo lập trường nghiêng về phụng vụ hay xã hội, đền thờ hay
đền vua, mà người ta có thể biện minh cho thái độ của mình, biệt phái hay
Sađốc, chống đối hay cộng tác với ngoại bang. Ai cũng muốn tranh thủ người khác
về phe mình. Người ta muốn biết ý kiến của Chúa Giêsu, bởi vì lập trường của
Ngài rất quan trọng, dân chúng sẽ tuỳ đó mà biểu lộ cảm tình của mình với phe
nào, thế nhưng tuyên bố lập trường của mình cũng là điều nguy hiểm cho Ngài,
bởi vì phe đối nghịch có thể dựa ào đó mà kết án Ngài.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy tính của người ta. Đã nhiều lần họ
gài bẫy Ngài. Nhưng chẳng có lần nào họ đã thành công. Hôm nay cũng vậy. Được
hỏi ý kiến về giới răn quan trọng nhất, Ngài đã trả lời như hết mọi người Do
Thái đạo đức: Ngươi phải kính mến Thiên Chúa hết lòng. Thế nhưng không dừng lại
ở đó mà Ngài còn nói tiếp: Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ
nhất đó là ngươi phải thương yêu anh em như chính mình ngươi. Ngài không đồng
hoá hai việc mến Chúa và yêu người. Hai việc đó vẫn khác nhau và vì thế không
được xao lãng nhiệm vụ nào. Đó là nét độc đáo của Chúa Giêsu.
Người ta vẫn nói phải mến Chúa và yêu người, phải có thiên đạo và
nhân đạo, nhưng bình thường người ta vẫn coi đó là những nhiệm vụ xa rời nhau,
không liên hệ gì với nhau. Người ta có thể mến Chúa trong nhà thờ và không
thương người ở ngoài xã hội. Hoặc thương người ở ngoài xã hội nhưng lại không
mến Chúa ở trong nhà thờ. Hơn nữa, người ta coi việc thương người chỉ là thứ
yếu sánh với việc mến Chúa. Đối với Chúa Giêsu thì khác. Phải mến Chúa cũng như
yêu người. Ưu tiên là mến Chúa, nhưng đồng thời cũng phải yêu người. Hay như
thánh Gioan đã viết: Không thể có lòng mến Chúa, Đấng vô hình, nếu không thương
người. Và khi dạy phải yêu người như chính bản thân, thì Chúa Giêsu không có ý
bảo phải thương mình trước. Câu nói của Chúa Giêsu có nghĩa là phải yêu người
hết lòng cũng như phải kính mến Chúa hết lòng.
Cuối cùng một nét độc đáo khác nữa trong câu trả lời của Chúa
Giêsu là tất cả luật pháp và các tiên tri đều quy về sự mến Chúa và yêu người.
Như vậy, không những tất cả 613 khoản luật, mà toàn thể lời giáo huấn đều nhằm
phát triển lòng mến Chúa yêu người. Như thế vấn đề tranh chấp đã được giải
quyết. Chẳng phe nào thắng. Phe nào cũng phải nỗ lực hơn để giữ trọn lề luật.
Phe nào cũng đã lầm lạc vì đã không cọi trọng hai nhiệm vụ mến Chúa yêu người
như nhau, cho nên đã làm mất quân bình, gây ra những lệch lạc trong đời sống.
Đức Kitô đã đến để mang lại ơn cứu độ. Ai đón nhận Ngài thì phải mến Chúa. Ai
đã mến Chúa thì cũng phải yêu người.
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm trọng trong xã hội
ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi kinh tế thị trường,
người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố càng gia tăng thì
chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách nhau chỉ một bức
tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung cư, kẻ ở lầu
trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi người trở thành
như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ chen chúc, thì con
người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày một thêm nóng bức
và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và băng giá. Thiên hạ
đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là phương thuốc trị
liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương thuốc nào hiệu nghiệm
cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin
Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng, còn giới
răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương tha
nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn riêng biệt, nhưng
chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và hậu quả tất nhiên
của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và ngược lại, có mến
Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa nhất tạo nên chứng bệnh
cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa. Thực vậy, cùng với những
thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế Thiên Chúa, họ muốn nói lên
như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó cai trị trên chúng tôi. Hẳn
chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được phóng lên không gian và trở về
địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với báo chí: Từ nay sẽ không còn ai
dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng sao nữa. Thế nhưng, nếu suy
nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ xíu di chuyện trong một
khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có thể sánh ví với hàng triệu
triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng một hạt cát trong sa mạc,
không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế, Carnégie đã nói: Về
phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được những bước khá cao,
nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm chân trong một tình
trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà cao, có xe xịn…nhưng
lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã mất niềm tin vào
Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ bị ngột ngạt và
căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình thương, chúng ta
cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và bền bỉ. Vì lòng
yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người phải quay trở về cùng
Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ những hiểu biết về không
gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải tin có Thiên Chúa hơn cả
những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ coi khoa học là chủ tể
của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của mình mà thôi. Chính vì
thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người xa lìa Thiên Chúa,
nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng
ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy niềm hy vọng như lời
Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng của sự chết, tôi
không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã trở về cùng Thiên
Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái nền tảng vững
chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực vậy, tại sao
chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên Chúa là Cha, nên
chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra những hành động bác
ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi giúp đỡ người khác là
chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán xét, Ngài sẽ tra hỏi
chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số phận đời đời của mỗi
người chúng ta.
(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người Do-Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613 khoản luật, gồm 365
luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là một ách nặng không
ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho ra đâu là giới luật
quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là vấn đề không dễ. Đây
cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với Chúa Giêsu: "Thưa
Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng
nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là:
ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
1. Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa và giới răn yêu người
là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác nhau: điều răn mến Chúa
quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một mối: đó là yêu mến
Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống chung quanh, hay nói
khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai giới răn nầy không
khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là ngươi phải yêu mến Đức
Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn
điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối cùng", Chúa Giêsu
đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những ai cho những kẻ đói
khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu nói là họ cho Người
ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài tấm áo thì Chúa Giêsu
tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những người phiêu cư, lang
bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là đã cho Người trú
ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen ngợi là
"những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến thừa
hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25, 34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng khi người ta làm bất cứ
điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt nhau, vì thực thi giới
răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới răn mến Chúa (giới răn
thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới răn nầy cũng quy về một
mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô tái khẳng định điều đó:
"Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu toàn Lề Luật" (tức
là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ nhất là mến Chúa) (Rm
13, 8).
2. Giới răn yêu thương là trung tâm của các giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới răn, vì tất cả các giới
răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy; đồng thời đây cũng là
giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì thế, ai giữ trọn giới
răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn khác.
Thánh Phao-lô khẳng định như thế trong thư gửi tín hữu Rô-ma:
"Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình, không được giết
người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các điều răn khác,
đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Đã yêu
thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật
vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay, cũng xác nhận như thế:
"Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn
ấy". (Mt 22, 40)
* * *
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân binh Phi-li-tinh giàn
binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một chiến sĩ khổng lồ vô
địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với toàn chiến binh Israel:
"Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây giao chiến tay đôi với ta,
(không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm gì cho hao binh tổn
tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng bây. Còn nếu ta hạ
được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao" (I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel chiến đấu tay đôi với
Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một phát ná bắn đá rồi giật
lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn thể quân binh
Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu chúng ta chu toàn giới
răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ giới răn yêu người, vì
"yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 10).
(Suy niệm của Lm. Giorgio Zevini SDB – Trung Hoàn SDB chuyển ngữ)
Anh chị em thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật 30 TN A xoáy vào chủ đề then chốt: vị
thế tối thượng của tình yêu, con tim và cốt tủy của người kitô hữu. Chúng ta
dừng lại chia sẻ về hai bài đọc để nhấn mạnh trọng tâm của giới răn Chúa, đó là
Tình yêu.
Chúng ta cùng cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi dẫn chúng ta chiêm
ngắm Lời Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết làm mọi sự bởi vì tình
yêu. Chính Chúa Giêsu để lại cho chúng con sứ điệp Tin Mừng của Chúa Nhật tuần
này xoay quanh người nghèo khổ, bé nhỏ, hèn mọn.... Xin ban cho chúng con trái
tim tự do thoát khỏi mọi ngẫu tượng thế gian, thoát khỏi sự nặng nề cám dỗ thế
giới để phụng thờ Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và duy nhất nhằm phục vụ anh
chị em đồng loại với tinh thần xả thân như chính Chúa Giêsu đã sống giữa chúng
con. Đó là giới luật sống duy nhất mà Chúa chúng con muốn dấn thân. Chúng con
cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con."
Chúng ta khởi đi từ bài trích thư thứ nhất của thánh Phaolo tông
đồ gởi tín hữu Thesalonica. Ngay những câu đầu của chương thứ nhất (1Tx
1,5c-10), thánh Phaolô nhấn mạnh đến 3 điểm then chốt cho mọi cộng đoàn kitô
hữu. Cha muốn cùng chúng con đọc lại lá thư mà chính thánh Phaolô gởi cho cộng
đoàn Thesalonica, thánh nhân nói rằng: các tín hữu Thesalonica đã bắt chước Đức
Kitô trở nên gương sáng cho các tín hữu thuộc cộng đoàn Makêđônia và Akhaia. Đó
là ý tưởng đầu tiên về hiệu năng truyền giáo của cộng đoàn Thesalonica.
Ý tưởng thứ hai nói về gương sáng của các tín hữu Tx không chỉ cho
2 cộng đoàn Makêđônia và Akhaia mà thôi, mà chính đức tin vào Thiên Chúa của
cộng đoàn đã vang dội khắp nơi. Thật là tốt đẹp khi cộng đoàn đặt lời Chúa vào
trung tâm của cuộc sống cách sâu xa và lan tỏa Tin Mừng ra ngoài cộng đoàn.
Trong sứ điệp thứ 3 của lá thư, thánh Phaolô khen ngợi các tín hữu
đã hoán cải từ bỏ ngẫu tượng mà quay về với Thiên Chúa để phục thờ Thiên Chúa
hằng sống và là Thiên Chúa thật. Sứ điệp thứ ba này nhấn mạnh đến sự hoán cải
trở về sau khi từ bỏ ngẫu tượng.
Như vậy, qua bài trích thư ngắn, thánh Phaolô nhắn gởi chúng ta 3
sứ điệp quan trọng: sứ điệp về truyền giáo như trung tâm của đời sống kitô
giáo, như thế cộng đoàn Thesalonica không phải là cộng đoàn đóng kín mình mà là
mở ra cho các cộng đoàn khác thông truyền cho các cộng đoàn khác về đức tin
sống động, đức tin xây dựng trên Lời Chúa. Thật vậy, Lời Chúa không chỉ làm
phong phú cộng đoàn Tx mà lan tỏa đến các cộng đoàn khác; sứ điệp thứ 2 trình
bày một cộng đoàn được sinh ra bởi nhờ Lời, cộng đoàn đã lắng nghe, được nuôi
dưỡng và hiện thực hóa nhờ Lời, Lời không chỉ để nói mà là để làm chứng cho
người khác; sứ điệp thứ 3 của đoạn trích thư chú tâm vào Lời Chúa tạo nên sự
hoán cải dẫn đến sự từ bỏ ngẫu tượng và gắn kết cuộc đời chỉ với mình Thiên
Chúa. Đây là sức mạnh phi thường của Lời tác động đến mọi cộng đoàn kitô hữu.
Giờ đây, cha mời gọi anh chị em đào sâu về sứ điệp của bài Tin
Mừng hôm nay, Đoạn Tin Mừng Mt chương 22 mô tả đời sống của cộng đoàn Do thái -
Kitô giáo đã thật sự biết sứ điệp của Thiên Chúa, đã sống kinh nghiệm đức tin
vào Thiên Chúa. Đức tin của cộng đoàn được thêm xác tín khi chứng kiến một nhà
thông luật tra hỏi Đức Giêsu. Cộng đoàn muốn sống thánh ý Chúa ngang qua câu
trả lời của Đức Giêsu đối với nhà thông luật. Đâu là câu hỏi mà nhà thông luật
đặt ra cho Ngài, câu hỏi rất đơn giản: "Thưa Thầy, trong sách luật Môsê,
điều răn nào là điều răn trọng nhất?" Đức Giêsu trả lời, Ngài liệt kê hai
điều răn, Ngài nói: yêu mến Thiên Chúa là điều răn đầu tiên và quan trọng nhất,
kế đến là yêu mến tha nhân là điều răn thứ hai cũng quan trọng như điều răn thứ
nhất. Như vậy, Đức Giêsu liên kết lại hai giới răn trọng đại yêu mến Thiên Chúa
và yêu mến tha nhân. Do đó, chúng ta cùng nhau suy nghĩ về sứ điệp Tin Mừng.
Trước hết là sự gắn kết chặt chẽ hai giới răn: mến Chúa yêu người.
sự gắn kết chặt chẽ này được đo lường bằng chính mệnh lệnh của Đức Giêsu
"yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" và
rồi tình yêu dành cho tha nhân đồng loại được đo lường bằng chính tình yêu bản
thân. Hai điều răn này không phải là chênh lệch hơn thấp mà chính điều răn thứ
hai thật sự ngang bằng với điều răn thứ nhất. Tình yêu Thiên Chúa chỉ được minh
chứng bằng tình yêu dành cho đồng loại cách thật tình, tình yêu mang chiều kích
xã hội loài người diễn ra trong đời sống cộng đoàn diễn đạt đặc tính tình yêu mà
người ta đang sống với Thiên Chúa. Sự ưu việt của tình yêu Thiên Chúa hiện thực
hóa nơi sự ưu tiên tình yêu con người. Và đây, cha muốn gợi lên suy tư trong
đời sống chúng ta: nhiêu khi chúng ta tách hai hình thái tình yêu, tình yêu
Thiên Chúa và tha nhân trong một vài cách thế nào đó. Chúng ta nhấn mạnh tình
yêu tối hậu nơi Thiên Chúa trong khung cảnh nhà đạo, qua kinh nguyện, qua kinh
nghiệm với Ngài, qua tương quan đối thoại với Ngài và sự cùng với tâm tình sám
hối... chỉ mang chiều kích thuần thiêng liêng mà quên đi tha nhân; hay nhiều
khi ta chỉ thuần đề cao tương quan với thực trạng con người mang chiều kích
nhân chủng học hay chính trị mà quên đi vị thế ưu việt của Thiên Chúa. Do đó,
thái độ sống của người kitô hữu phải nghĩ đến sự công bình, cuộc chiến đấu cho
một thế giới đích thực công bằng, đúng hơn cho một khuôn mẫu đúng đắn, là tự do
sống hai giới răn.
Chúng ta thường gặp hai nguy cơ. Tin Mừng thúc đẩy chúng ta dấn
thân cho con người mà không được quên vị trí tối thượng của Thiên Chúa. Chúng
ta được mời gọi thăng trưởng chiều kích nhân loại cho công bằng, hòa bình, hòa
giải cho mọi trạng huống con người mà không thể quên tính ưu việt của Thiên
Chúa. Đồng thời, chúng ta phải luôn nói về Thiên Chúa mà không quên con người.
Như vậy, chúng ta thấy rằng một kitô hữu đích thực là người luôn nói với Thiên
Chúa về con người. Đó là điều hết sức căn bản. Thật vậy, Thiên Chúa nói rằng
ngày sabát vì con người, chứ không phải con người vì ngày sabát. Do đó, chúng
ta có thể nói rằng Thiên Chúa cho con người. Như vậy chúng ta được khích lệ bởi
phụng vụ hôm nay trình bày thánh Phaolô nói cho các tín hữu Tx cũng là cho mỗi
chúng ta cách rõ ràng rằng người kitô hữu phải dấn thân hai xác tín: mến Chúa
yêu người. Một suy tư nền tảng của thánh Phaolô cho các tín hữu đã từ bỏ ngẫu
thần để quay về phụng sự Thiên Chúa Hằng sống, là Thiên Chúa thật. Chúng ta
phải phụng thờ Thiên Chúa và hoán cải để trở về cùng Người, xa rời mọi ngẫu
tượng để phục vụ cho những giá trị nhân loại đưa ta đến với Thiên Chúa. Như
thế, chúng ta phải dành chỗ ưu việt cho tình yêu nhằm thực hiện hai giới răn.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta dễ dàng nói yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, nhưng như
thánh Gioan nói rằng, làm sao có thể yêu mến Thiên Chúa mà không yêu mến những
người anh em mà chúng ta thấy. đó luôn là thực tế của con người, chúng ta kinh
nghiêm Thiên Chúa ngang qua tình yêu nhân loại. Đó là hai điều gắn kết chặt chẽ
và thâm sâu. chúng ta cùng khẩn khoản nài xin Thiên Chúa hồng ân để sống hai
giới răn trọng đại này hầu nên chứng nhân cho nhân loại về giới răn của Thiên
Chúa cho một thế giới công bằng, hòa bình và hòa giải cho người nghèo khổ.
Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Đã có lần Đức Cố Hồng Y FX Nguyễn Văn Thuận từng nói với Bill Gate
rằng: "Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau". Và Đức
Cố Giáo hoàng Gioan Phaolo II cũng nói: "Sự văn minh đích thực là phục vụ
sự sống". Thế nhưng, "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Một
thế giới quá chênh lệch giầu nghèo. Một thế giới quá đề cao đồng tiền mà quên
cả lương tri con người. Một thế giới lấy kinh tế làm đầu nên đã làm đảo lộn
biết bao thuần phong mỹ tục, và những giá trị đạo đức truyền thống của các tiền
nhân. Khoa học tiến bộ, nhưng đạo đức và phong hoá xuống cấp trầm trọng. Sự
tiến bộ của khoa học dường như đang giúp sức cho sự dữ gia tăng. Khoa học tiến
bộ đang phục vụ cho văn hoá sự chết hơn là phục vụ cho văn hoá sự sống. Người
ta tìm muôn nghìn cách thức để lừa đảo, gian manh và truỵ lạc. Đứng trước viễn
cảnh đen tối của xã hội hôm nay, Sĩ Phu Bắc Hà đã đúc kết thành bốn câu thơ:
Nhân phẩm từ đây giảm giá rồi
Chỉ còn lương thực tăng giá thôi
Lương tâm bán rẻ hơn lương thực
Chân lý chân giò một giá thôi!
Một thế giới thượng vàng hạ cám đã làm lệch đi rất nhiều những giá
trị của cuộc sống. Một thế giới xem ra những nghĩa cử yêu thương thật hiếm hoi.
Đó chính là một thách đố cho người ky-tô hữu chúng ta. Liệu rằng chúng ta có
dám sống triệt để giới răn mến Chúa yêu người giữa một xã hội loại trừ Thiên
Chúa và thiếu thốn tình người hay không? Liệu rằng chúng ta có dám chịu thiệt
thòi để người khác hưởng thụ trên lòng quảng đại của chúng ta hay không? Liệu
rằng chúng ta có dám yêu người khi mà người ta đang chơi xấu, đang lợi dụng,
đang làm hại chúng ta? Đây là một thách đố và cũng là đòi hỏi triệt để, vì căn
tính của người môn đệ Chúa là "yêu mến tha nhân như chính mình". Vì
tình yêu là lẽ sống, là hơi thở của người ky-tô hữu. Không có tình yêu thì sức
sống của người tín hữu đã không còn. Không có lòng quảng đại thì không còn là
nhân chứng cho Tin mừng Nước Trời của Chúa. Chúng ta không thể nói yêu Chúa mà
trong lòng vẫn còn thù ghét anh em của mình. Chúng ta phải vượt lên trên lòng
ích kỷ, sự hẹp hòi của nhân thế để làm chứng cho một tình yêu nhân ái, bao dung
và vị tha.
Đây chính là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay muốn loan báo. Chúa mời
gọi chúng ta hãy yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Đồng thời Ngài cũng đòi buộc
chúng ta phải yêu mến tha nhân như chính mình. Chính Thầy Chí Thánh Giêsu đã
làm gương cho chúng ta. Chính Ngài khi bị treo trên thập tự giá đã giới thiệu
cho nhân thế một tinh yêu tinh ròng đến nỗi "dám chết cho người mình
yêu". Ngài đã chọn thập tự giá làm biểu tượng cho tình yêu tự hiến của
mình. Với thanh dọc, Chúa chấp nhận cực hình để tôn vinh Chúa Cha. Với thanh
ngang, Ngài muốn ôm trọn nhân loại trong tình thương của Chúa. Người ky-tô cũng
được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Thầy Giêsu khi chúng ta sống tôn
vinh Chúa Cha, và yêu mến anh em như chính mình.
Chính tình yêu đó sẽ giúp chúng ta vượt thắng những tham lam bất
chính, những thói hại người hại đời để tìm tư lợi riêng cho bản thân mà người
đời vẫn đang sống. Có thể là người, chúng ta cần địa vị, cần danh vọng nhưng vì
lòng yêu mến Chúa chúng ta không thể bán rẻ lương tậm, không làm hại đồng loại.
Có thể chúng ta cũng cần của cải để sinh sống, nhưng vì Chúa, chúng ta biết
sống quảng đại để mua lấy hạnh phúc Nước Trời. Có thể đồng loại, vẫn mưu toan
làm hại chúng ta, nhưng vì Chúa chúng ta nhịn nhục và nhẫn nại với nhau trong
yêu thương và tha thứ.
Như vậy, chỉ có ở trong tình yêu Chúa, chúng ta mới dám sống yêu
thương đồng loại như chính mình. Chính nhờ tình yêu Chúa, sẽ giúp chúng ta trao
ban sự sống sung mãn cho nhân thế qua những nghĩa cử yêu thương, bác ái và vị
tha. Chính tình yêu đối với Chúa, sẽ giúp chúng ta sống nhân ái và bao dung với
tha nhân là hình ảnh của Ngài.
Ước gì giữa một thế giới đang băng hoại về tình người, chúng ta
hãy thắp lên ngọn lửa của yêu thương, để sưởi ấm cho những ai đang cô đơn, thất
vọng vì thiếu vắng tình thương, sự cảm thông và nâng đỡ của anh em. Ước gì giữa
một thế giới đang bán rẻ lương tri, người ky-tô hữu hãy biết sống tôn trọng lẫn
nhau, biết sống cho tình người cao quý, hơn là những của cải vật chất tầm
thường. Ước gì người ky-tô hữu chúng ta, đừng vì danh lợi thú mà đánh mất nhân
phẩm con người là hình ảnh Thiên Chúa. Ước gì giữa một xã hội mà chân lý bị vùi
giập, chúng ta dám sống cho sự thật, cho dẫu rằng, có bị nghi kỵ, hiểu lầm, kết
án và tẩy chay. Giữa một thế giới mà người ta có thể nhân danh quyền lợi của
mình để giết hại người khác một cách phi nhân, ác đức, đặc biệt là các thai nhi
vô tội, chúng ta hãy sống theo gương Thầy Giêsu dám chết cho người minh yêu,
dám sống mình vì mọi người, và dám trở nên mọi sự cho mọi người như Thầy Giêsu.
Nguyện xin Chúa là tình yêu, xin uốn lòng chúng con nên giống trái
tim yêu thương của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB)
Điều răn trọng nhất của Cựu Ước, thế còn Tân Ước thì sao?
“Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng
nhất?” Câu hỏi người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu đặt ra cho Đức Giêsu
không khó trả lời, cũng như câu trả lời của Đức Giêsu chẳng có gì mới lạ, vì
tất cả đã được ghi rõ trong lề luật: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa
của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Đệ Nhị Luật 6:5)…
Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình… (Lê-vi 19:18)”. Đối với những ai
vốn thông hiểu luật như các Pha-ri-sêu thì câu trả lời của Đức Giêsu là quá
hiển nhiên và đầy đủ lắm rồi, chẳng thêm thắt gì được nữa. Thế nhưng cũng qua
câu giải đáp này, Đức Giêsu lại muốn xác định thêm một điều mà các sách luật
chưa nêu rõ, đó là hai điều răn quan trọng nhất ấy có quan hệ mật thiết với
nhau, và “tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn
ấy”. Vậy thì, trong tâm tư của Người thật sự Đức Giêsu đang muốn khảng định
điều gì? Tác giả Mát-thêu khi ghi nhận các điều này, chắc hẳn phải nhận thấy
một điều gì đó quan trọng và mới mẻ lắm mà ông muốn truyền đạt tới các Ki-tô
hữu tiên khởi gốc Do Thái của ông.
Quả vậy, khi nhóm Pha-ri-sêu đặt vấn nạn này cho Đức Giêsu, chắc
hẳn họ đã ngầm nhận thấy trong sứ điệp Người rao giảng có một điều gì đó rất xa
lạ đối với nội dung truyền thống của Luật Mô-sê mà họ đang trung thành nắm giữ.
Câu trả lời của Đức Giêsu tự nó chẳng giải đáp gì cho thắc mắc họ muốn biết, vì
họ thấy nó hoàn toàn đúng, căn cứ theo Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ Cựu Ước
mà họ đã quá quen thuộc. Thế nhưng đối với các môn đệ của Đức Giêsu thì đây lại
chính là chìa khóa để hiểu ‘điều răn mới’ Người đang muốn truyền đạt.
Bất cứ người Do Thái nào cũng đều biết là phải tôn thờ và yêu mến
Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn; lý do là vì chính cha ông họ
đã ký kết bền chặt một giao ước với Đức Chúa để được Ngài cho hưởng mọi điều họ
mong muốn. Điều kiện căn bản của khế ước này là họ phải hết lòng tôn thờ và yêu
mến Đức Chúa ‘hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn’,trên hết mọi sự. Lịch sử
đã chứng minh rằng mọi cái cha ông họ có được đều là nhờ Đức Chúa; Ngài đã giải
cứu, đã cho cha ông họ được chiến thắng kẻ thù và được ban đất hứa làm gia
nghiệp…; chính vì thế mà cha ông và chính họ có bổn phận phải yêu mến tôn thờ
Ngài hết lòng. Đối với Đức Chúa đã là như thế thì đối với cận thân cũng phải
vậy; yêu cận thân cũng phải sòng phẳng. Yêu người thân cận như yêu chính mình
có nghĩa là làm ơn để được hàm ơn lại, còn gây oán sẽ bị báo oán. ‘Răng đền
răng và mắt đền mắt’ là thế, là có đi có lại, là song phẳng! Đúng là hai giới
luật này liên quan chặt chẽ với nhau, và toàn bộ Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ
đều đặt nền trên giao ước sòng phẳng này trong tương quan của Dân Riêng cả với
Đức Chúa lẫn với cận thân đồng bào.
Giao Ước mới mà Đức Giêsu rao giảng vượt xa cái giới hạn của Cựu
Ước, khi mà Đức Chúa Mới không chỉ ban sự sống và ân huệ mà trao ban chính mình
Người cho những ai trung thành với giao ước. Giao Ước mới hệ tại ở việc Thiên
Chúa trao nộp chính Con Yêu Dấu Ngài cho loài người tội lỗi bất trung; giao ước
mới đó không còn đặt nền trên công bằng ‘do ut det – hòn đất ném đi hòn chì ném
lại’ mà là trên lòng nhân ái xót thương, vì Ngài ban ơn cứu độ cách nhưng
không. Trong Tân Ước việc yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết sức sẽ không được coi
như một bổn phận áp đặt ‘Ngươi phải yêu mến Đức Chúa…’, mà như một ân huệ đón
nhận trong ân tình của người con ‘Ab-ba, Cha ơi!’. Cũng vậy, yêu người thân cận
sẽ đi xa hơn rất nhiều cái tính toán của ‘thương người như thể thương thân’,
trong đó tính sòng phẳng của ‘răng đền răng mắt đền mắt’ ‘hàm ơn trả oán’ là
điều đương nhiên. Trong Tân Ước yêu cận thân sẽ trở thành ‘Hãy thương yêu nhau
như chính Thầy yêu thương anh em’, ‘Yêu và làm ơn cho cả kẻ thù…, tha thứ cho
kẻ xúc phạm tới mình đến bảy mươi lần bảy…’. Nếu đúng là trong Cựu Ước, toàn bộ
Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều qui về hai giới luật ‘phải yêu mến Đức Chúa
hết lòng… phải yêu người thân cận như chính mình’, thì trong Tân Ước điều răn
‘mến Chúa yêu người’ mới chỉ có thể hiểu được trong nội dung Thập Giá của Đức
Ki-tô Giêsu mà thôi; vì chỉ nơi Thập Giá chứ không phải qua“Luật Mô-sê và các
sách ngôn sứ”, mới cho thấy được cái khác lạ đích thực và tính ưu việt vượt
trội của tân giới luật tình yêu. Do đó chiêm ngắm và cử hành Thập Giá trở thành
quan trọng bậc nhất trong Giao Ước Mới này. Chẳng trách gì mà Phao-lô mạnh dạn
tuyên bố: ông chỉ muốn biết duy nhất có một Đức Giêsu Ki-tô Thập Giá mà thôi!
Và tôi, một linh mục của Giao Ước mới, tôi cần tự vấn xem mình vẫn
rao giảng ‘mến Chúa yêu người’ trong nội dung luật Mô-sê và các sách ngôn sứ,
hay trong nội dung của Thập Giá Đức Ki-tô tự hiến? Việc hàng ngày cử hành hy tế
Thập Giá có giúp tôi và các tín hữu lãnh hội được Điều Răn Mới cách sâu xa hơn
hay không, và thường ngày đem ra sống như nét độc đáo nhất của Tin Mừng chúng
tôi muốn rao giảng cho hết mọi người?
Lạy Chúa, nếu không chiêm ngắm Thập Giá, con sẽ chẳng bao giờ có
thể yêu mến với tâm tình con thảo như Chúa muốn, đồng thời yêu mến tha nhân của
con cũng sẽ chỉ luẩn quẩn trong tính toán hơn thua hạn hẹp. Xin dạy con để mỗi
khi cử hành Thánh Lễ, bài học yêu thương như chính Chúa đã yêu thương và tự
hiến như chính Chúa đã tự hiến cho các tội nhân sẽ được con học thuộc và đem ra
sống, để chính con cũng dần được biến đổi nên của lễ toàn thiêu dâng tiến Chúa.
Amen.
(Suy niệm của Barbara E. Reid OP. – Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
“Thưa Thầy, giới răn nào trọng nhất” (Mt 22,36).
Khi tôi hướng dẫn các sinh viên làm luận văn tốt nghiệp, tôi luôn
hỏi xem các em có thể tóm tắt bài luận văn bằng một câu đơn giản được không. Cũng
tương tự, khi các sinh viên thuyết trình một đề tài gì, tôi luôn bắt các em
phải tóm tắt đề tài đó bằng một câu ngắn. Nếu các em không làm được điều này,
chứng tỏ các em chưa nắm bắt được nội dung những gì các em sẽ trình bày.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisiêu hỏi Đức Giêsu,
trong lề luật giới răn nào quan trọng nhất. Họ muốn Đức Giêsu tóm tắt những
điều luật bằng một câu giản đơn. Câu chuyện được thánh Matthêu kể lại hôm nay
là giai thoại thứ ba trong bốn giai thoại được thánh ký ghi lại nơi chương 22.
Những đầu mục Do Thái giáo đưa ra những cái bẫy nhằm bắt bẻ Đức Giêsu. Trình
thuật này khác với những câu chuyện mà Luca hay Marcô ghi lại (xem Mc 12,
28-34; Lc 10, 25-28). Trong Luca hay Marcô, những câu hỏi đưa ra phát xuất từ
sự chân thành chứ không phải mang tính gian dối hay giảo quyệt, và Chúa Giêsu
đã trả lời với những huấn dụ rất khẳng quyết.
Nơi trình thuật Matthêu, câu hỏi mà những người biệt phái nêu ra
để thử Đức Giêsu được diễn bày theo hai dạng thức. Dạng thức thứ nhất, các giới
răn đều quan trọng và mọi người phải tuân giữ. Nếu Đức Giêsu chỉ nhấn mạnh đến
một giới răn, và tỏ ra khinh suốt đối với những điều khoản khác, họ sẽ bắt bẻ
Ngài. Vả lại, theo dạng thức thứ hai, những người biệt phái thử xem Chúa Giêsu
có tài năng giống với những thầy dạy đương thời nổi tiếng khác hay không, bởi
vì những kinh sư Do thái rất dễ tóm tắt các điều luật. Ví dụ, thầy Rabbi tên là
Hillel, đã tóm tắt các giới răn như sau “Những gì bạn ghét bỏ, không muốn người
ta làm cho mình, bạn cũng đừng làm cho người khác (Sabb 31a). Trong bài giảng
trên núi, Chúa Giêsu cũng đưa ra một định thức tương tự để tóm kết các điều
luật “Những gì anh em muốn người khác làm cho mình, anh em hãy làm cho họ, và
đây là lề luật, là lời các ngôn sứ (Mt 7,12). Ở đây, Đức Giêsu cũng hé mở một
khía cạnh khác của cùng một vấn đề: Đó là phải thực thi tình yêu dành trao cho
Thiên Chúa.
Giới lệnh “Hãy yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết
sức lực”, cũng đã được nói tới trong sách đệ nhị luật (Dnl 6, 4-9), tức sách
Shema, mà những người Do Thái mỗi ngày vẫn phải đọc đi đọc lại hai lần. Phải
yêu mến Thiên Chúa với trọn vẹn con người mình. Yêu mến với tất cả cõi lòng,
tức là thể hiện những tình cảm sâu xa nhất. Yêu mến với hết linh hồn, tức là
tình yêu phát nguồn từ căn rễ mọi sức sống nơi ta. Đồng thời cũng phải yêu mến
với tất cả ý thức và sức lực của mỗi người. Giới lệnh yêu thương tha nhân cũng
được trích dẫn từ sách Lêvi 19,18 nói về những điều luật thánh thiêng. Giới
lệnh này muốn minh thị rằng cách biểu tỏ cụ thể tình yêu đối với Thiên Chúa
chính là thương yêu đồng loại. Thực sự đây không phải là hai giới răn, nhưng
chỉ là hai khía cạnh của một thực tại duy nhất: đó là Tình yêu.
Đoạn văn này không nói một cách minh nhiên, như nhiều đoạn văn
khác trong Kinh Thánh, khi muốn nhấn mạnh rằng, tình yêu đối với Thiên Chúa
luôn phải được đặt vào chỗ tối thượng nơi ta. Trước khi chúng ta có thể diễn
bày tình yêu đối với Chúa, và tình yêu đối với cận nhân, thì chính Thiên Chúa
đã đi bước trước, đã gợi lên sáng kiến để giúp ta am tường về tình yêu Ngài.
Khi chúng ta trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu nhưng không của Thiên Chúa,
sống thật sung mãn và ngập tràn tình yêu Ngài, thì đến lượt chúng ta, chúng ta
cũng sẽ biết cách đáp trả tình yêu đó, và dàn trải tình yêu như thế cho mọi
người. Khi tình yêu linh thánh của Thiên Chúa chiếm ngự nơi chúng ta, chúng ta
dễ dàng quy phục Ngài và chúng ta sẽ tự hỏi giống như tác giả Thánh vịnh đã
diễn tả “Biết lấy chi đền đáp Chúa bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban
cho?”(Tv 116,12). Câu trả lời rất giản đơn: Tình yêu. Tình yêu đáp trả tình
yêu. Tình yêu đó hướng đến cả hai đối tượng bất khả phân: Thiên Chúa và tha
nhân.
Ngày nay, với cảm thức sâu xa về một thế giới đại đồng rộng khắp,
chúng ta xem tất cả mọi tạo vật chung quanh đều là những cận nhân cần được yêu
mến. Chúng ta có thể gồm tóm ngay cả việc yêu thương chính mình vào phạm trù
này, cho dù theo não trạng của thế giới Kinh thánh, điều đó khá xa lạ. Họ không
hiểu yêu thương chính mình, theo cách diễn đạt ý niệm sống cá nhân chủ nghĩa,
nhưng theo họ, ý niệm này trải rộng trước hết đến gia đình riêng của họ, đến
một đoàn thể, hay một tổ chức tôn giáo nào đó mà họ tham gia. Họ luôn phải lệ
thuộc vào người khác, trong khi vẫn luôn phải khẳng định chính mình. Chúng ta
biết giới răn lớn nhất là yêu thương, nhưng trong thực tế, điều này không dễ
dàng thực hiện. Thánh Augustinô đã khuyên mời chúng ta “Bạn hãy yêu mến đi, rồi
bạn muốn làm gì thì làm – Ama et fac quod vis (Trích bài giảng thứ 7 về thơ thứ
nhất của Thánh Gioan). Khi bị vặn hỏi về sự hiểu biết và thực hành giới răn của
Thiên Chúa như thế nào, Đức Giêsu đã trả lời cho những biệt phái, để họ biết
rằng giới răn đó không phải chỉ được Ngài công bố trên môi miệng một cách lý
thuyết, nhưng đã được thực hiện trong suốt cuộc đời Ngài. Chúng ta cần phải sao
chép lại cách thực hành đó trong cuộc sống chúng ta ngày hôm nay.
Trong mọi vấn đề của xã hội, từ tình cảm cho đến tất cả các tương
quan trong cuộc sống, có thể nói ra hay không nói ra nhưng bên dưới tình cảm,
tương quan nó có một khế ước nào đó. Có thể khế ước đó được nói lên chỉ bằng
lời, bằng miệng thôi nhưng cũng có những khế ước được lập ra bằng văn tự hẳn
hoi chứ nếu không thì người ta sẽ không lấy gì làm bằng chứng được khi một
trong hai bên vi phạm cái khế ước được đưa ra.
Chúng ta thấy, từ thuở ban đầu khi tạo dựng trời đất và con người
đầu tiên, ngầm bên dưới tình cảm của Thiên Chúa dành cho con người đó có một
khế ước: "Đức Chúa là Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Ê-đen, để cày
cấy và canh giữ đất đai. Đức Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng:
"Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết
điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn
ngươi sẽ phải chết." (Xh 1,14-17)
Cái gì cũng được ăn, được hưởng dùng cả nhưng trái của cây biết
thiện ác thì không được ăn vì ăn vào thì sẽ chết! Ađam - Eva đã không giữ được
cái khế ước đấy nên rồi đã bị Thiên Chúa trách phạt. Trớ trêu thay là tưởng
chừng kinh nghiệm của ông bà nguyên tổ là kinh nghiệm cho con cháu nhưng chúng
ta thấy sau này trong hành trình lịch sử cứu độ con người đã vi phạm không biết
bao nhiêu là khế ước.
Sau đó, chúng ta thấy, qua Môsê cũng như các ngôn sứ, Chúa muốn
nói cho con người quá nhiều điều, quá nhiều luật.
Khi thấy dân chúng sống trong cảnh lầm than, đô hộ, áp bức, Thiên
Chúa chạnh lòng thương, đã không vô tâm vô tình để cho dân sống như vậy và
Thiên Chúa qua bàn tay Môsê cứu dân. Sau khi cứu dân khỏi nô lệ thì Thiên Chúa
qua Môsê đã ban giới luật cho dân như xưa với ông bà nguyên tổ vậy. Sau 3 tháng
rời khỏi Ai cập, đến núi Sinai, Thiên Chúa đã gặp Môsê trên núi và báo cho ông
chuẩn bị cho dân chúng để nhận khế ước giữa Thiên Chúa và dân. Không phải đón
nhận một cách không không nhưng phải có một sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc là:
phải giữ cho khỏi nhiễm uế, quần áo phải giặt giũ cho sạch. Trong cuộc thần
hiện trong tiếng sấm sét, tiếng tù và, ánh lửa và núi bốc khói Thiên Chúa đã
ban thập điều cho dân.
Bên cạnh thập điều ấy còn có giải thích các luật về bàn thờ, về
giết người, về đánh đập, gây thương tích, trộm thú vật và rồi đến luật về người
ngoại kiều, về mẹ goá con côi như chúng ta vừa nghe trong bài đọc thứ nhất.
Sau đó, dân chúng tiếp tục cuộc lữ hành trong sa mạc tiến về đất
hứa. Tưởng chừng có người đi theo kè kè bên cạch, làm trung gian với Thiên Chúa
thì dân sẽ trung tín với những giao ước mà Thiên Chúa trao cho dân nhưng ngay
tại núi Khô-rếp dân đã phạm luật. Môsê đã báo cho dân chúng biết rằng từ ngày
ra khỏi Ai-cập thì dân đã phản nghịch chống lại Đức Chúa. Sự phản nghịch ấy đã
làm cho Đức Chúa nổi giận muốn tiêu diệt dân nhưng Đức Chúa đã không nỡ làm
điều ấy. Môsê đã van xin với Đức Chúa: "Lạy Chúa là ĐỨC CHÚA, xin đừng huỷ
diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát,
và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai-cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông
Áp-ra-ham, ông I-xa-ác và ông Gia-cóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian
ác và tội của dân này (Xh 9,26.27)
Môsê vô cùng đau đớn, vô cùng bức xúc trước những tội lỗi, những
sự thất tín bất trung của dân và ông đã phải thốt lên rằng: Giờ đây, hỡi
Ít-ra-en, nào Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, có đòi hỏi anh em điều gì khác
đâu, ngoài việc phải kính sợ Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường
lối của Người, yêu mến phụng thờ Người hết lòng, hết dạ, giữ các mệnh lệnh của
Đức Chúa và các thánh chỉ của Người mà tôi truyền cho anh em hôm nay, để anh em
được hạnh phúc? (Xh 10, 12.13)
Nhìn cách hành xử của dân, chúng ta thấy tội nghiệp cho cái thân
già của ông Môsê. Nhiều lần và phải nói là quá nhiều lần mệt mỏi với cái dân
cứng đầu cứng cổ nhưng vì ý thức vai trò và nhiệm vụ mà Thiên Chúa trao nên
Môsê tiếp tục cuộc hành trình với đám dân cứng đầu cứng cổ này.
Đã hơn một lần, Môsê phải nài nỉ dân: "Những lời tôi nói đây,
anh em phải ghi lòng tạc dạ, phải buộc vào tay làm dấu, mang trên trán làm phù
hiệu. Anh em phải dạy những lời ấy cho con cái, mà nói lại cho chúng, lúc ngồi
trong nhà cũng như lúc đi đường, khi đi ngủ cũng như khi thức dậy. Anh em phải
viết lên khung cửa nhà anh em và lên cửa thành của anh em. Như vậy, bao lâu
trời còn che đất, anh em và con cái anh em còn được sống trên đất mà Đức Chúa,
Thiên Chúa của anh em, đã thề với cha ông anh em rằng Người sẽ ban cho các
ngài. Nếu anh em cẩn thận giữ tất cả mệnh lệnh tôi truyền cho anh em đem ra
thực hành, mà yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo mọi đường lối
của Người và gắn bó với Người, thì Đức Chúa sẽ trục xuất mọi dân tộc ấy cho
khuất mắt anh em, và anh em sẽ trục xuất những dân tộc lớn và mạnh hơn anh em.
Mọi nơi bàn chân anh em giẫm lên sẽ là của anh em: từ sa mạc và núi Li-băng, từ
Sông Cả, là sông Êu-phơ-rát, cho đến Biển Tây, sẽ là lãnh thổ của anh em. Không
ai sẽ đứng vững được trước mặt anh em; Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ làm
cho tất cả miền đất anh em giẫm lên phải kinh khiếp sợ hãi anh em, như Người đã
phán với anh em. Hãy xem, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc được chúc
phúc hoặc bị nguyền rủa. Anh em sẽ được chúc phúc nếu vâng nghe những mệnh lệnh
của Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà tôi truyền cho anh em hôm nay. Anh em
sẽ bị nguyền rủa, nếu không vâng nghe những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa
của anh em, nếu anh em bỏ con đường hôm nay tôi truyền cho anh em phải đi, mà
theo những thần khác anh em không biết. Khi Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã
đưa anh em tới đất mà anh em đang vào chiếm hữu, anh em sẽ đặt lời chúc phúc
trên núi Ga-ri-dim và lời nguyền rủa trên núi Ê-van. Những núi ấy ở bên kia
sông Gio-đan, trên con đường phía tây, trong đất người Ca-na-an là người ở miền
A-ra-va, đối diện với Ghin-gan, bên cạnh cụm sồi Mô-re. Thật vậy, anh em sắp
sang sông Gio-đan để vào chiếm hữu đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, ban
cho anh em. Anh em sẽ chiếm hữu và ở trong đất ấy. Vậy anh em phải lo đem ra
thực hành mọi thánh chỉ và quyết định mà hôm nay tôi trình bày cho anh
em". (Xh 11,18-32)
Tất cả những luật qua miệng Môsê và các vị trung gian của Thiên
Chúa đưa ra đều nhắm một điều là đến quyền lợi của con người, tình thương cho
con người. Chắc có lẽ Môsê thương dân nên ông đã truyền lại cũng như giải thích
luật quá nhiều, luật nhiều quá đã làm cho con người phải học, phải nhớ vất vả.
Đó là thời Cựu Ước. Vào thời Tân Ước, Chúa Giêsu có khi gọi là
Môsê mới, đấng trung gian giữa Thiên Chúa và con người thì lại khác. Thời Chúa
Giêsu, Chúa Giêsu thấy các biệt phái, luật sĩ giữ những luật đó quá sức tỉ mỉ
nhưng chỉ giữ bề ngoài chứ tinh thần và tinh tuý của luật thì lại không. Nhiều
biệt phái, pharisêu, luật sĩ xét nét Chúa từng ly từng tý. Các ông đã canh
chừng Chúa còn hơn là công an theo dõi Toà Giám Mục Hà Nội. Họ canh Chúa Giêsu
nào là không chịu rửa tay trước khi dùng bữa, chữa bệnh trong ngày Sabát, các
môn đệ bứt gié luá ăn ngày Hưu Lễ... và họ còn bắt bẻ Chúa nhiều điều: nào là
"ông ấy là ai mà dám tha tội vì chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha
tội"... Họ không nhận ra Chúa Giêsu là đấng trung gian mới, đấng sửa lại
những lầm lỗi, những đổ nát giữa tình con người và tình Chúa. Hơn một lần, Chúa
đã nói cho họ biết nhưng họ dường như không nghe, Chúa nói là Chúa không hề huỷ
bỏ lề luật của Môsê nhưng là kiện toàn lề luật.
Trang Tin Mừng hôm nay nhiều người biệt phái và luật sĩ đến chất
vấn Chúa về lề luật và Chúa nói thẳng vào mặt họ là tất cả các giới răn mà Môsê
đưa ra thì giới răn trọng nhất đó là mến Chúa và yêu người. Đúng như vậy, tất
cả các giới luật mà Môsê đưa ra đều nhắm vào Thiên Chúa và con người.
Thánh Giacôbê đã nhắc nhớ chúng ta: "Yêu thương là chu toàn
lề luật". Thế đấy! Bao nhiêu lề luật đưa ra không luật nào quan trọng bằng
luật của lòng mến. Thánh Phaolô cũng đã nhắc chúng ta: Hiện nay cả ba đức: đức
tin, đức cậy và đức mến nhưng đức mến là quan trọng hơn cả.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa Giêsu nói thẳng cho những người
Pharisêu và những người thông luật cũng chính là Chúa nói với mỗi người chúng
ta. Trong đời sống thường nhật, đôi khi chúng ta quá vụ vào các khoản luật
nhưng đã đánh mất đi cái cốt lõi, cái tinh tuý, cái chất của luật đó chính là
lòng mến, là tình yêu.
Ngày hôm nay, đời sống gia đình, đời sống xã hội người ta dùng quá
nhiều luật mà quên đi cái luật lòng mến. Ra đường, lúc nào cũng kẹt xe. Tại
sao? Tại ai ai cũng muốn mình được ưu tiên, mình đi nhanh hơn người khác để rồi
lấn vạch, lấn tuyến, vượt đèn đỏ... cuối cùng kẹt xe. Quan trọng là họ đã không
giữ được lòng mến, lòng bác ái với nhau nên nó mới xảy ra như vậy.
Gia đình cũng vậy, cộng đoàn cũng thế, người ta đưa ra quá nhiều
luật với nhau. Bất cứ cái gì người ta cũng đưa ra luật nhưng người ta không
chịu đưa ra lòng mến để cư xử với nhau.
Hơn thế nữa, Thánh Phaolô qua thư thứ nhất của Ngài gửi cộng đoàn
Thessalônica cũng là gửi cho mỗi người chúng ta: "Vì tất cả anh em là con
cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không
thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy
tỉnh thức và sống tiết độ. Ai ngủ, thì ngủ ban đêm; ai say sưa, thì say sưa ban
đêm.Nhưng chúng ta, chúng ta thuộc về ban ngày, nên hãy sống tiết độ, mặc áo
giáp là đức tin và đức mến, đội mũ chiến là niềm hy vọng ơn cứu độ" (1
Thes 1,5-8). Thế đấy! Ngài mời gọi chúng ta mặc lấy áo giáo là đức tin và đức
mến. Trong tất cả mọi giới răn, tất cả mọi lề luật chẳng có luật nào cao trọng
cho bằng luật của lòng mến.
Nguyện xin Chúa Giêsu là vua của tình yêu, của lòng mến đến và ở
lại với mỗi người chúng ta để Ngài thêm tình thương, lòng mến trên mỗi người
chúng ta để chúng ta là ánh sáng, là chứng nhân giữa cuộc đời đầy hơn thua, hận
thù, ghen ghét này.
Từ thời thuở bé tôi đã được mẹ dạy cho nằm lòng kinh Mười Điều
Răn. Nhưng tôi cũng nhớ rất rõ tuy mười điều rõ ràng như thế nhưng cũng chỉ
được gồm tóm lại trong hai điều là "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là
một giới răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần
gian, Chúa Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà
thôi, nhưng Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi
áp bức bất công, để mọi người được sống trong tình yêu của lề luật, hầu sống
đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội
Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Vì sống
quá khắc khe nên "Nhất cử nhất động", con người đều nằm trong mạng
lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm
trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và
nếu tôi sai luật thì tôi không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như
vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để
đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế
giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học
biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn
người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những
người không am tường lề luật để tuân giữ.
Khác với các biệt phái, Đức Giêsu không phá bỏ lề luật của cha ông
mà Ngài kiện toàn nó trong tình yêu. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ
"cọng tóc ra làm tư" đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ
không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một
giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên
Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn
thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi
hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy
làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị
Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng
cho đời sống con người chúng ta. Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên
Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời
dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở
trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc
gì cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã
đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi
chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng
Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao
chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà
mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu
Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong
cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và
chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh
giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình
ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có
những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung
cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi. Chính Chúa Giêsu
đã nói: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói
dối". Bởi vậy mến Chúa và yêu người là hai chiều kích không thể thiếu
trong cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống yêu thương tất cả mọi người như
chính Chúa đã yêu thương chúng con. Amen.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/8/1993 đã ghi lại một sáng kiến
mới lạ tại Nhật, đó là "Sư máy". Vị sư máy này, mới nhìn qua, không
khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp
trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi đưa lên,
một tay thì gõ mõ. Mỗi vị sư máy có thể cầu kinh không biết mỏi mệt, và có thể
thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật giáo khác nhau tại Nhật. Sáng
kiến này được đưa ra nhằm đáp ứng cho nhu cầu ơn gọi sư sãi ngày càng khan hiếm
trong các Giáo hội Phật giáo tại Nhật. Tuy nhiên, như tác giả bài báo ghi nhận:
những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là
chúng không biết yêu thương.
Yêu thương là đặc điểm của con người. Thú vật có thể có cảm giác,
nhưng đó không hẳn là yêu thương. Chỉ có con người được tạo dựng theo và giống
hình ảnh Thiên Chúa tình yêu mới thực sự được mời gọi yêu thương mà thôi.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại cho chúng ta ơn gọi cao cả của con
người. Trả lời cho thắc mắc của luật sĩ, Chúa Giêsu đã thu tóm tất cả lề luật
thành một giới răn duy nhất là mến Chúa và yêu người. Hai mệnh lệnh này là một
giới răn duy nhất, bởi vì không thể kính mến Chúa mà lại ghét bỏ hình ảnh của
Ngài là con người, cũng như không thể yêu thương con người mà lại không nhận ra
và yêu mến Thiên Chúa là nguồn mạch tình yêu chân thật. Tách biệt hai mệnh lệnh
ấy là chối bỏ tình yêu. Các luật sĩ và các biệt phái thời Chúa Giêsu quả là
những người đạo đức: họ ăn chay, cầu nguyện và tỏ ra yêu mến Thiên Chúa hơn ai
hết; thế nhưng Chúa Giêsu đã điểm mặt họ là những kẻ giả hình, bởi vì lòng yêu
mến Chúa nơi họ không được thể hiện bằng tình yêu đối với tha nhân. Chúa Giêsu
còn gọi họ là những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng loáng, nhưng bên trong thì
thối rữa. Có thể so sánh thái độ giả hình ấy với một người máy: người máy có
thể làm được nhiều cử chỉ ngoạn mục, nhưng không có một tâm hồn để yêu thương
thực sự.
Yêu thương là kiện toàn lề luật; yêu thương là cốt lõi, là linh
hồn của Đạo. Đi Đạo, sống Đạo, giữ Đạo, xét cho cùng chính là yêu thương; không
yêu thương thì con người chỉ còn là một thứ người máy vô hồn. Thánh Gioan Tông
đồ, người đã suốt đời sống và suy tư về tình yêu, vào cuối đời, ngài đã tóm gọn
tất cả thành một công thức: "Thiên Chúa là Tình Yêu", và ngài dẫn
giải: "Ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em thì đó là kẻ nói
dối, bởi vì kẻ không yêu thương người anh em nó thấy trước mắt, tất không thể
yêu mến Đấng nó không thấy".
Nguyện xin cho cuộc sống của chúng ta ngày càng được thanh luyện
và gần gũi hơn với cốt lõi của Đạo là Yêu Thương.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Lại một bẫy khác do con người đặt ra để thử lòng Thiên Chúa. Thay
vì một nhóm người như trước, họ chọn ra một đại diện cho cả nhóm. Vì muốn thử
thách Chúa, họ chọn một vị thông luật, đã là thông luật nên chắc ông này phải
thuộc nằm lòng 613 điều luật ghi trong sách Luật Do thái, trong đó 365 điều
luật cấm và 248 điều luật truyền làm, chưa kẻ các điều luật phụ nữa. Ông cũng
biết các điều trên được chia thành hai vế trọng luật và khinh luật. Phạm khinh
luật thì chịu phạt đền tội, nhưng phạm trọng luật như giết người, thờ tà thần,
gian dâm... thì bị tử hình. Vì là viên thông luật, hiển nhiên ông biết rõ mỗi
nhóm thích giữ một điều luật và cho rằng điều ấy đối với họ là quan trọng hơn cả,
có thể Chúa Giêsu đưa ra điều này trọng đối với nhóm này nhưng lại thường đối
với nhóm kia, đó là lý do ông đặt ra câu hỏi với Chúa Giêsu hòng nắm chắc phần
thắng về mình: “Thưa Thầy, trong lề luật điều răn nào trọng nhất”?
Hai Điều răn
Thật không dễ để trả lời. Nếu Chúa trả lời điều luật này trọng,
điều luật kia không trọng thì thế nào Người cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này,
chống nhóm kia, và như vậy Người sẽ mắc bãy của họ.
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thấu hiểu lòng người, nhưng Chúa vẫn trả
lời. Chúng ta cũng cám ơn vị thông luật này đã hỏi thử Chúa để chúng ta co được
chỉ dẫn rõ ràng, xác thực về thứ tự các giới răn.
Chúa Giêsu phán cùng người ấy rằng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa
là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi" (Mt 22,
37). Câu luật này trích trong sách Đệ nhị luật 6,5 có đổi một chút, thay vì
“hết sức” thì Chúa nói là “hết trí khôn”. Song cốt yếu không có gì đổi.
Nhưng giới răn thứ hai cũng giống giới răn ấy là: "Ngươi hãy
yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi" (Mt 22, 39). Luật này trích ở
sách Lêvi 19,18 có khác ở chỗ thay vì yêu kẻ khác thì yêu đồng loại:
"Ngươi phải yêu đồng loại như chính mình".
Ba đối tượng yêu thương
Chúa Giêsu kết luận: "Toàn thể Lề luật và sách các Tiên tri
đều tóm lại trong hai giới răn đó" (Mt 22, 38). Điều răn thì có: thứ nhất
mến Chúa, thứ hai yêu người, nhưng gồm ba đối tượng yêu thương: Thiên Chúa, kẻ
khác và bản thân.
Đối tượng thứ nhất là Thiên Chúa, Đấng là Tình Yêu "Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí
khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất và điều răn thứ nhất" (Mt 22,
37-38).
Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều điều, bởi "yêu mến là
chu toàn cả Lề luật" (Rm 13, 10). Nhưng tình yêu có hai vế: Yêu mến Thiên
Chúa và yêu thương kẻ khác... Khi dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa, Chúa đòi hỏi
chúng ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Còn yêu thương kẻ
khác, Chúa Giêsu không bảo ta phải yêu hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn;
nhưng "yêu kẻ khác như chính mình. Tại sao vậy? Vì Thiên Chúa "là
dũng lực, là Đá Tảng, chiến luỹ, cứu tinh, là sơn động, là khiên thuẫn, là uy
quyền cứu độ, là sức hộ phù chúng ta" (x. Tv 17, 2-3), nên chúng ta phải
yêu mến Thiên Chúa không những hết… mà còn trên hết mọi sự, hơn cả chính mình,
vì theo lời Chúa Giêsu thì: "Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất"
(Mt 22, 38).
Đối tượng thứ hai là "kẻ khác" Chúa phán: "Giới răn
thứ hai cũng giống giới răn ấy là: Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình
ngươi" (Mt 22, 39).
Theo quan niệm của Người Do thái lúc bấy giờ thì "tha
nhân" là những người đồng chủng, đồng hương, đồng xứ (x. Lv 19, 18). Còn
“kẻ khác” được hiểu là hết mọi người, (x. Mt 25, 40). Khi Chúa Giêsu bảo người
thông luật "hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi", Người có ý
dạy phải thương yêu mọi người chứ không giới hạn trong những người đồng hương
với nhau (Mt 25, 40), không những thế mà lại còn phải yêu thương cả địch thù
nữa (Mt 5, 43), và yêu như thế nào? "Yêu như chính mình ngươi".
Chúa có truyền dạy chúng ta yêu chính mình không? Thưa: Thiên Chúa
xét thấy không cần buộc con người phải yêu chính mình, vì không ai ghét mình
bao giờ. Nhưng cũng có nhiều người tự đánh mất mình khi yêu mến sự ác.. Chúa
dạy chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, Người truyền cho chúng ta giới luật
phải yêu chính mình. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng muốn yêu mình. Thiên Chúa
là Tình Yêu, chúng ta là kẻ có tình yêu. Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã dành cho chúng ta một tình yêu khác với chúng ta nghĩ. Tình yêu
ấy nuôi dưỡng và củng cố các mối quan hệ của tình yêu chúng ta dành cho bản
thân và kẻ khác. Trong thực tế, chúng ta phải yêu bản thân mình trong tình yêu
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta, và chúng ta có thể bước vào trong tình yêu.
Vậy, hãy yêu mến Thiên Chúa hết mình, thì trong Thiên Chúa chúng ta sẽ tìm được
chính mình, và tránh được nguy cơ tự đánh mất mình… Nên, theo nguyên tắc, ta
yêu kẻ khác như chính mình, yêu Thiên Chúa hết mình và yêu chính mình.
Yêu kẻ khác như chính mình
Khi truyền dạy "Ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình",
Chúa Giêsu như đặt một tấm gương để tự chúng ta soi xem mình có yêu "kẻ
khác" hay không? Chúa Giêsu xem tình yêu " kẻ khác " như
"mệnh lệnh của Người," mệnh lệnh tóm tắt toàn thể lề luật. "Đây
là mệnh lệnh của Thầy, là anh em hãy yêu nhau như Thầy đã yêu anh em" (Ga
15, 12). Nhiều người có khi đồng hóa toàn thể Kitô giáo với luật yêu người.
Chúng ta cố gắng đi xa hơn một chút bề mặt của nsự việc. Khi nói
về tình yêu kẻ khác, người ta nghĩ ngay tới những "việc làm" như bác
ái, hay "phải làm" cho kẻ khác như: cho họ ăn, uống, thăm viếng họ,
nói tóm tắt là giúp đỡ kẻ khác. Nhưng đó là hậu quả của tình yêu, chứ chưa phải
là tình yêu. Lòng từ tâm tới trước sự làm phúc. Trước khi làm phúc, người ta
phải muốn làm phúc.
Thánh Phaolô nói rõ: Đức bác ái phải là "không giả vờ,"
tức là, phải chân thật, nghĩa đen, "không giả hình," (Rm 12, 9);
người ta phải yêu "với một con tim trong sạch" ( 1 Pr 1, 22). Trên
thực tế, người ta có thể làm việc bác ái và bố thí vì nhiều lý do không dính
dáp gì với tình yêu: tô điểm chính mình, để ra vẻ là một người làm điều thiện,
được lên thiên đàng, và có khi để trấn an một lương tâm xấu.
"Như chính mình" Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh người được
yêu đồng hóa với người yêu, vì vậy, phải yêu thương kẻ khác bằng chính tình yêu
đối với bản thân, nhưng tiên vàn phải yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Amen.
Trong bài luận văn về bệnh vô cảm của em Phan Hoàng Yến, học sinh
lớp 9A2 trường trung học Chu Văn An, Hà Nội, đã gây ấn tượng mạnh trong xã hội
hôm nay. Bài văn được cô giáo cho 9,5 điểm với nhận xét: "Em có những phát
hiện và suy nghĩ sâu sắc về hiện tượng đáng buồn này. Một người có trái tim
nhân hậu, đa cảm và tư duy sắc sảo như em thật đáng quý."
Bài văn được viết như sau: “Có được một xã hội văn minh, hiện đại
ngày nay một phần lớn cũng là do những phát minh vĩ đại của con người. Một
trong số đó chính là sự sáng chế ra rô-bốt, và càng ngày, rô-bốt càng được cải
tiến cao hơn, tỉ mỉ hơn làm sao cho thật giống con người để giúp con người được
nhiều hơn trong các công việc khó nhọc, bộn bề của cuộc sống.Chỉ lạ một điều:
Đó là trong khi các nhà khoa học đang "vò đầu bứt tóc" không biết làm
sao có thể tạo ra một con chip "tình cảm" để khiến "những cỗ máy
vô tình" biết yêu, biết ghét, biết thương, biết giận thì dường như con
người lại đi ngược lại, càng ngày càng vô tình, thờ ơ với mọi sự xung quanh. Đó
chính là căn bệnh nan y đang hoành hành rộng lớn không những chỉ dừng lại ở một
cá nhân mà đang len lỏi vào mọi tầng lớp xã hội - bệnh vô cảm.Nhìn thấy cái
xấu, cái ác mà không thấy bất bình, không căm tức, không phẫn nộ. Nhìn thấy cái
đẹp mà không ngưỡng mộ, không say mê, không thích thú. Thấy cảnh tượng bi
thương lại thờ ơ, không động lòng chua xót, không rung động tâm can. Vậy đó còn
là con người không hay chỉ là cái xác khô của một cỗ máy?
Một tháng trước, tôi đọc được một bài báo trên mạng có đưa tin về
vụ một đứa bé Trung Quốc hai tuổi bị xe tải cán.
Thương xót, đau lòng làm sao khi nhìn cô bé đau đớn nằm trên vũng
máu mà không một người nào qua đường để ý, cuống cuồng gọi cấp cứu. Họ nhìn
thấy rồi đấy nhưng họ lại cố tình như không thấy, đi vòng qua cô bé để tiếp tục
con đường nhạt thếch, sáo mòn của mình. Càng chua xót, đau lòng, phẫn nộ hơn
khi chiếc xe tải tiếp theo nhìn thấy cô bé nằm đó, vẫn thoi thóp thở, bám víu
lấy cuộc đời lại vô tình chẹt cả bốn bánh xe nặng trịch đi qua người cô bé,
thản nhiên đi tiếp. Người qua đường vẫn thế, vẫn bình thản như không có chuyện
gì xảy ra.
Cô bé xấu số chỉ được cấp cứu khi một người phụ nữ nhặt rác đi qua,
thấy cảm thông, đau lòng nên đã bế cô đi bệnh viện. Có những con người ích kỷ,
vô tâm, tàn nhẫn như vậy đấy! Không những thế, bây giờ ra đường gặp người bị
cướp, bị trấn lột, bị đuổi chém nhưng lại không thấy anh hùng nào ra can ngăn,
cứu giúp hay chỉ một việc nhỏ nhoi thôi là báo công an. Đó là những con người
"không dại gì" và cũng chính "nhờ" những người "không
dại gì" đó mà xã hội ngày càng ác độc, hỗn loạn. Chính lẽ đó mà căn bệnh
vô cảm càng được thể truyền nhiễm, lây lan.
Quả thực, nếu con người sống không có tình yêu thì cũng chỉ là một
Robot cô độc lạnh lùng mà thôi. Nhân loại ngày nay có thể sáng chế ra Robot để
làm thay con người nhưng đáng tiếc Robot thì không có tình yêu, vì nó chỉ là
cái máy không hồn. Phải chăng nó cũng là phản ảnh lối sống vô cảm không hồn của
con người thời đại hôm nay? Có mọi sự nhưng thiếu tình yêu.
Robot ngày nay có thể đọc kinh, hát thánh ca nhưng không có tình
yêu trong hành động của mình.
Robot ngày nay có thể đi chợ, quét nhà, ru em nhưng vô cảm với
công việc của mình.
Nói đúng hơn, Robot có thể nói, có thể làm nhưng vô hồn, vô cảm,
lạnh lùng vì thiếu tình yêu.
Đạo Công Giáo đặt nền tảng trên tình yêu. Yêu Chúa, yêu người. Yêu
Chúa không dừng lại ở việc máy móc đi lễ hay đọc kinh nhàn chán mà phải đặt
tình yêu của mình vào hành vi thờ phượng Chúa hết lòng. Yêu người không dừng
lại ở đầu môi chóp lưỡi mà phải biết chạnh lòng xót thương trước những đau
thương mà anh chị em mình đang trải qua.
Như thế tình yêu là lẽ sống, là vẻ đẹp của đời ky-tô hữu. Không có
tình yêu thì mọi hành vi thờ phượng của người tín hữu chỉ là Robot. Không có
tình yêu thì người ky-tô không thể sống chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa
dòng đời. Cuộc đời cần tình yêu như trái đất cần mặt trời để tạo nên vẻ đẹp của
vạn vật muôn màu. Cuộc đời thiếu tình yêu như đêm tối lạnh lùng cô liêu. Cách
đây mấy hôm tôi đi thăm một trại tâm thần. Tôi nghe thấy họ đang đọc kinh. Họ
hát. Họ đứng yên lặng cả gần 200 con người mặc dù họ bị bệnh tâm thần. Tôi ngạc
nhiên sao họ lại thuộc kinh đến thế! Nhưng nhìn kỹ tôi thấy họ vô hồn. Họ đứng
đó môi mấp máy chỉ ú ớ theo lời kinh của máy ghi âm phát ra mà thôi!
Lời Chúa hôm nay nhấn mạnh với chúng ta phải mến Chúa trên hết mọi
sự và yêu tha nhân như chính mình. Mến Chúa trên hết mọi sự là đặt việc thờ
phượng Chúa và thi hành ý Chúa trên mọi giá trị của cuộc sống. Yêu tha nhân như
chính mình là “nếu mình muốn người khác làm cho mình điều gì thì hãy làm cho họ
như vậy”. Đây là hai mệnh đề trong một giới răn yêu thương mà Chúa đòi buộc
chúng ta phải thi hành. Vì khi tạo dựng Chúa đã không tạo dựng chúng ta thành
những Robot mà tạo dựng chúng ta có trái tim, có tự do để thăng tiến về hành vi
yêu thương.
Xin cho chúng ta biết thăng tiến bản thân khi biết nồng vào những
công việc của mình bằng tình yêu nồng nàn. Một tình yêu với Chúa nồng nàn để có
thể kính mến Chúa trên hết mọi sự. Một tình yêu với tha nhân thẳm sâu để có thể
chia sẻ, cảm thông với nhau trong mọi vui buồn. Amen.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng tội. Nếu xét mình sơ
sài dựa trên Mười Điều Răn, có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng:
không trộm cắp, không tham lam, không giết người... Thật ra xét mình không phải
là làm bản tự kiểm trước một danh sách những luật cấm và luật buộc, cho bằng là
đặt mình trước Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự yêu mến Thiên Chúa
không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không? Tất cả điều răn được tóm
trong một động từ: yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì Thiên Chúa là Tình
Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông, là dấn thân trên một
con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu đủ. Tình yêu cứ vẫy
gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới hạn tình yêu là bóp
chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng động từ yêu. Báo chí
phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành
vi chiếm đoạt theo bản năng lại được gọi là yêu. Chúng ta cần trả lại ý nghĩa
cao đẹp cho động từ này. Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một. Không phải chỉ
dành cho Ngài phần lớn trái tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con
người của tôi. Hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Ai trong chúng ta dám tự
hào mình đã sống trọn vẹn điều răn thứ nhất?
Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim tôi. Tôi không có
giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm thêm. Mối lo toan
quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng liêng bị sa sút. Điều răn thứ
hai cũng quan trọng không kém: yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu
bản thân mình biết chừng nào! Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm
khi làm điều xấu cho người khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của
mình. Họ cũng cần được tôn trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại
tôi đã gây cho anh em tôi. Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời nhau. Yêu Thiên Chúa chắc
chắn dẫn đến yêu tha nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa. Người
Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa
nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh em nơi Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
* Hai từ "Tình Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình
yêu thực sự phải có những nét gì?
* Trong kinh nghiệm sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình
bị giằng co giữa tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn
đã giải quyết ra sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn
khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải buông tay nhau để nhận những
người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô cùng và trái tim được lớn lên
mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối vòng tay lớn xuyên qua
các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người, vòng tay con người nối với
Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn với tất cả loài
người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp chúng con biết nắm
lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
Theo truyền thống hội đường Do thái, Luật gồm 613 điều răn. 365
điều cấm làm và 248 điều phải làm. Giữa một rừng điều răn như thế, người thông
luật đã hỏi Đức Giêsu: “Điều răn nào trọng nhất trong Luật Môsê?” (c. 36). Đức
Giêsu đã trả lời bằng một câu trong kinh Shema, kinh mà người Do thái phải đọc
mỗi ngày. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, với tất cả trái
tim ngươi, tất cả linh hồn ngươi, tất cả trí khôn ngươi” (Tl 6, 5). Và Ngài còn
thêm một điều răn thứ hai nữa (c. 39). “Ngươi phải yêu mến người thân cận như
chính mình” (Lv 19, 18). Tất cả Luật Môsê nằm trong hai điều răn đó. Hai điều
răn được gói trong một động từ yêu. Mọi điều cấm làm và mọi điều buộc làm, đều
bắt nguồn từ và qui về tình yêu.
Các bạn trẻ thường nghĩ yêu là chuyện dễ. Nhưng yêu với tất cả
trái tim, tất cả linh hồn, tất cả trí khôn, tất cả sức lực, nghĩa là yêu với
trọn cả con người mình, thì điều đó không dễ. Đối với người Do thái, trái tim
là nơi phát sinh toàn bộ đời sống tinh thần. Yêu mến Thiên Chúa bằng tất cả
trái tim của mình là để cho Ngài chi phối mọi tư tưởng, mọi ý muốn, mọi tình
cảm. Tất cả đều nhằm làm cho Ngài được mọi người nhận biết và tôn vinh.
Yêu người thân cận như chính mình cũng là điều rất khó. Có bao
người làm chúng ta đau khổ và bị xúc phạm. Yêu thương và tôn trọng họ đòi một
sự từ bỏ mình không nhỏ. Nhưng chúng ta cũng dễ coi mình là trung tâm và qui
tất cả về mình. Chúng ta lạnh lùng trước nỗi đau, thiếu sẻ chia và độc đoán,
đôi khi dùng tha nhân như phương tiện lót đường để ta tiến thân. Nói chung, dù
yêu Chúa hay yêu người, chúng ta cũng phải ra khỏi mình, trao đi chính mình và
chấp nhận mọi hy sinh mà tình yêu đòi hỏi.
Đức Giêsu đã tóm Luật Môsê trong động từ yêu mến. Và Ngài đã hoàn
thiện Luật này bằng cách đẩy yêu mến đến cùng. Kitô hữu chẳng những yêu mến
Thiên Chúa với trọn con người mình, mà còn được mời yêu mến Đức Giêsu trên mọi
thụ tạo khác, trên mọi của cải, trên những người ruột thịt, và trên cả mạng
sống. Kitô hữu là người mang mối tình sâu đậm với Đức Giêsu, “Đấng đã yêu mến
tôi và hiến mạng vì tôi” (Gl 2, 20), đến nỗi họ có thể tuyên xưng như Phêrô:
“Thầy biết con mến Thầy.” Đức Giêsu cũng không chỉ đòi yêu tha nhân như chính
mình. Ngài còn đòi ta phải yêu như Ngài đã yêu (Ga 13, 34-35). Một tình yêu tha
thứ đến vô cùng, một tình yêu đối với cả kẻ thù, một tình yêu phục vụ như người
tôi tớ, một tình yêu dám hiến mạng. Kitô hữu tự bản chất là người biết yêu và
cuộc đời chỉ là tình yêu. Tình yêu đích thực với Thiên Chúa thì đưa tôi về với
anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa. Chỉ
mong đời tôi đong đưa giữa hai tình yêu đó, để chúng nên một tình yêu.
Cầu nguyện:
Con đã yêu Chúa quá muộn màng! Ôi lạy Chúa là vẻ đẹp vừa cổ kính,
vừa luôn mới mẻ, con đã yêu Chúa quá muộn màng! Bấy giờ Chúa ở trong con mà con
thì ở ngoài, con cứ chạy đi tìm Chúa ở ngoài. Con thật hư hỏng, khi chạy theo
các thụ tạo xinh đẹp. Bởi thế, bấy giờ Chúa ở với con mà con lại không ở với
Chúa. Các thụ tạo xinh đẹp kia cứ giữ con ở xa Chúa, trong khi chúng hiện hữu
được là nhờ Chúa. Chúa đã gọi con, đã gọi to và phá tan sự điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng và xua đi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa hương thơm ngát để
con được thưởng thức, và giờ đây hối hả quay về với Chúa. Con đã nếm thử Chúa
và giờ đây con đói khát Người. Chúa đã chạm đến con, nên giờ đây con nóng lòng
chạy đi tìm an bình nơi Chúa. (Thánh Âu-Tinh)
Thiên Chúa là Tình Yêu và Ngài đã tỏ tình yêu đó cho con người qua
chương trình cứu độ nhất là qua việc ban Con Một của mình là Đức Giêsu Kitô cho
nhân loại. Ngài đến để làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa. Chính
Ngài đã dạy cho loài người biết giới luật quan trọng nhất là kính mến Chúa trên
hết mọi sự và yêu tha nhân như chính bản thân mình.
Người Do thái có tới 613 điều luật, có 365 điều cấm và 248 điều
truyền, các phe nhóm không thống nhất với nhau về việc coi giới luật nào là
quan trọng nhất, nên họ giữ các điều luật gần như ngang nhau. Hôm nay họ hỏi
Chúa Giêsu vừa để có ý thử Người. Nếu Chúa Giêsu nói điều này quan trọng, điều
kia không thì thế nào cũng bị qui lỗi là về phe nhóm này, chống nhóm kia và như
vậy Người thiên vị, không còn được kính nể nữa. Đối với họ thì câu này rất khó,
nhưng Chúa Giêsu thấu biết mọi sự. Để trả lời họ, Chúa Giêsu đã trích dẫn ngay
điều luật thứ nhất trong Thập giới mà Thiên Chúa đã truyền cho Môsê: "Hãy
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em"
(Đnl 6,5). Chính người Do thái cũng đã thấy tầm quan trọng của điều luật này
nên kết thành kinh để đọc một ngày 2 lần. Song song với Giới răn đó, Giới răn
thứ hai cũng quan trọng không kém: hãy yêu tha nhân như chính mình. Tất nhiên
xét về đối tượng thì việc yêu Chúa có giá trị hơn hẳn so với yêu tha nhân,
nhưng lòng yêu tha nhân bắt nguồn từ lòng mến Chúa và cũng khẩn thiết như việc
yêu mến Chúa vậy. Yêu tha nhân là dấu chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa và biết
thi hành lời Chúa dạy. Chúng ta yêu tha nhân vì Chúa nhưng đồng thời tha nhân
cũng là đối tượng để chúng ta yêu mến trong tinh thần huynh đệ có chung một
người Cha.
Trước khi dạy cho con người giới luật yêu thương, Chúa đã tỏ lòng
nhân ái trước, đã hứa ban ơn cứu độ, chuẩn bị dân Israel, và thể hiện tình yêu
đối với loài người cách quyết liệt nơi Đức Giêsu Kitô. Thánh phaolô đã diễn tả
tình yêu tự huỷ của Chúa Giêsu Kitô đối với loài người trong thư gởi tín hữu
Philipphê như sau: Đức Giê-su Ki-tô vốn là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất
quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh
quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây
thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi
vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su, cả trên
trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên
Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: "Đức Giê-su Ki-tô là
Chúa". ( Pl 2, 6-11) Đức Giêsu là một con người trong thế giới loài người
được thiên chúa rước đưa vào vinh quang Thiên quốc trong danh dự của một Thiên
Chúa. Ngài đã đem biết bao người phàm lên nơi Thiên Chúa ngự và được thông phần
vinh quang của Thiên Chúa.
Thật hạnh phúc biết bao cho loài người chúng ta, được tạo dựng bởi
vị Thiên Chúa đầy quyền năng, công bằng và nhân từ vô cùng. Ngài đối xử với con
người quá khoan dung, nhân hậu. Đáp lại tình thương ấy, chúng con nguyện yêu
mến Chúa hết lòng và thực thi giới luật Chúa với hết sức lực con, con sẽ đối xử
tốt với anh em đồng loại như Chúa đã đối xử tốt với bản thân con.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con yêu mến Chúa, chúng con cảm tạ Chúa về
tình yêu bao la của Ngài, về giới luật yêu thương của Ngài. Xin Chúa cho chúng
con luôn biết sống cho tình yêu Chúa và thể hiện rõ bằng hành động cụ thể trong
cuộc sống chúng con.
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa ngươi, và yêu người
thân cận như chính mình".
Tác giả Lovasik trong quyển "Dụ ngôn đời thường" của
Rev. Frank Mihalie - SVD có kể câu chuyện về đại văn hào người Nga Tolstoy như
sau:
Nạn đói lan tràn lãnh thổ. Một người ăn xin nơi góc phố tiến tới
gần Tolstoy. Tolstoy dừng lại, sờ khắp mọi túi nhưng không tìm được đồng nào.
Thật lòng thương cảm, ông nói: "xin đừng giận tôi, người anh em ạ, tôi
không có đồng nào ở đây". Người ăn xin ngước mặt đáp: "ông gọi tôi là
người anh em thì cũng là món quà lớn lắm rồi".
Vâng, yêu thương không nhất thiết phải được đánh giá bằng những
tài sản vật chất lớn lao mà hơn thế đó là lòng thương cảm của chúng ta dành cho
nhau. Nhưng đôi lúc bạn sẽ hỏi - sao phải yêu thương người khác trong khi họ
không có quan hệ thân thuộc nào với mình? Hay tại sao phải yêu? Chẳng phải đó
là một trong những thất tình sao? Giữa một xã hội kim tiền này mà còn yêu hết
lòng thì dễ bị thua thiệt lắm. Nghĩ như vậy quả là thiển cận. Tôi sẽ cho bạn
thấy có hai lý do để chúng ta phải yêu thương nhau như bài học của đoạn Kinh
Thánh hôm nay.
Thứ nhất, vì chúng ta là con người. Tình yêu chỉ có duy nhất nơi
con người. Ở các loài động vật tất cả hoạt động của chúng là do bản năng. Hơn
nữa, hành động gọi là yêu thương của chúng chỉ xảy ra ở những thời điểm nào đó.
Khi nhìn thấy cảnh tượng gà mẹ ủ con mình dưới cánh rất mẫu tử ấy, nhưng chỉ
một thời gian ngắn. khi gà con đã đủ lông đủ cánh thì đường mẹ, mẹ đi, đường
con, con đi. Các loài khác thì cũng không có gì lạ hơn. Còn ở con người, tình
yêu bao hàm nhiều góc độ và ngữ cảnh. Tình yêu gia đình, dân tộc, quê hương, vợ
chồng, anh em, bạn hữu..., bao trùm lên tất cả các quan hệ tình cảm trên là
tình yêu của con người dành cho nhau. Yêu tới cùng, yêu mãnh liệt, yêu đến hy
sinh bản thân cho đối tượng yêu thương của mình. Đó là một tình yêu thật phát
xuất từ khối óc có lý trí, biết suy tư, chọn lựa, từ trái tim biết rung cảm.
Khi con người không còn biết yêu thương thì không còn là con người nữa. Chẳng
vậy mà khi có ai đó làm chuyện bất nhân người ta kết luận "nó mất hết tính
người". Chỉ nơi con người tình yêu mới được thực hiện phong phú nhất, đẹp
nhất và trọn vẹn nhất. Cho nên, không sống yêu thương tức là phủ nhận nhân tính
của mình.
Thứ hai, chúng ta phải yêu thương nhau vì "tình yêu bắt nguồn
từ Thiên Chúa" (1 Ga 4,7). Thiên Chúa đã yêu thương ta trước và tự trở nên
gương mẫu của tình yêu cho chúng ta. Ngài đã để máu và nước từ cạnh sườn mình
đổ ra để nuôi dưỡng tình yêu nơi trái tim con người, cũng như gội rửa hận thù
nơi lương tâm nhân thế. "Thật vậy, chính Đức Giêsu là bình an của chúng
ta. Người đã hy sinh thân mình để phá vỡ bức tường ngăn cách là sự thù ghét
(Eph 2,14). Mong ước và hy vọng duy nhất của Đức Giêsu không gì khác hơn là
"các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương"(Ga15,12). Khi
sống yêu thương tức là chúng ta thực hiện chúc thư và nguyện ước ấy, là đáp trả
lời mời gọi yêu thương của Ngài, là hoạ lại hình ảnh của Thiên Chúa nơi trần
gian, "với dấu này mà người ta sẽ nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là
các con hãy yêu thương nhau"( Ga 13,35), là bày tỏ lòng tin tưởng vào
Thiên Chúa - là đường, là sự thật, và là sự sống.
Tóm lại, yêu thương là một hoạt động tự nhiên mà Thiên Chúa đã ban
tặng cho con người, và nơi tình yêu ấy ta còn thấy đó là một huyền nhiệm. Bởi
không ai có thể sống mà không yêu. Do vậy, khi sống yêu thương chính là lúc ta
bày tỏ rực rỡ nhất nhân tính và phẩm giá của một người con Chúa - Đấng yêu
thương.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Trung Điểm)
Được một luật sĩ hỏi đâu là giới răn trọng nhất trong lề luật, Đức
Giêsu trả lời: "Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình". Những lời nầy chúng ta đã biết đến từ nhỏ và được trích ra ở đầu
bản luật Thiên Chúa đã ban cho toàn thể dân Do Thái (xem Đnl 6,5).
Đức Giêsu nói đến "lòng" theo nghĩa của Sách Thánh, như
từ ngữ diễn tả thực tại sâu xa nhất của con người. "Yêu mến Chúa hết
lòng" nghĩa là hướng toàn thể con người mình và hành động của mình về
Thiên Chúa trong thái độ mến yêu.. Để giải thích rõ ràng hơn, Tin Mừng nhắc đến
"hết linh hồn", nghĩa là với tất cả sự sống; "hết trí khôn"
bao gồm tư tưởng và trí tuệ. Với những lời nầy, Tin Mừng không để ý đến những
khả năng khác nhau của con người, cho bằng nhấn mạnh điều quan trọng duy nhất
là yêu mến Chúa với toàn thể con người mình. Trong Sách Thánh, yêu mến Thiên
Chúa không bao giờ được coi chỉ là một tình cảm hay một thực tại trừu tượng, mà
có nghĩa là lắng nghe Chúa và đem thực hành lời Người dạy.
Khi trả lời cho vị kinh sư, Đức Giêsu tiếp tục nói là điều răn thứ
hai là: "yêu mến người thân cận như chính mình". Điều răn ấy tóm tắt
tất cả mọi điều răn khác. Như vậy, lòng yêu mến Chúa không kéo ta ra khỏi thế
gian nầy, không cô lập ta trong sự sùng bái riêng tư. Hơn thế, lòng mến yêu ấy
là nguồn liên tục và sức thúc đẩy ta yêu mến tất cả mọi người không trừ ai.
Chúng ta có khả năng yêu thương người khác như thế, chính vì chúng
ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người
vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5). Do
đó, lòng mến Chúa và yêu người ấy là bảo đảm duy nhất để tạo nên một xã hội
trong đó con người được tôn trọng thực sự. Thực thế, Thiên Chúa là Cha của tất
cả chúng ta, và chúng ta là anh em với nhau. Người là nền tảng cho sự bình đẳng
và phẩm giá của mỗi con người. Lấy đi nền tảng đó, nhân loại sẽ trở thành kỳ
thị chủng tộc, con người sẽ bị chà đạp, cách nầy hay cách khác, nơi bản tính
của mình; sẽ nẩy sinh sự oán ghét và chia rẽ thành người trên kẻ dưới, kẻ giàu
kẻ nghèo, da trắng da đen, đàn ông đàn bà, người tự do người nô lệ, v.v... Trái
lại, khi yêu mến Thiên Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến cha mẹ mình, vì Chúa muốn
như vậy. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến bè bạn hay những người cộng sự,
bởi vì họ là những anh chị em Chúa đã đặt bên cạnh chúng ta.
Nếu yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến nghề nghiệp, công ăn việc
làm của mình, bởi vì chúng là con đường mà Thiên Chúa vì yêu thương đã chuẩn bị
cho chúng ta. Nếu yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẽ yêu mến việc học hành của
mình, bởi vì chúng ta muốn chuẩn bị chu toàn dự định Chúa dành cho đời ta. Nếu
yêu mến Chúa, chúng ta sẽ yêu mến thể thao hoặc những lúc nghỉ ngơi giải trí,
bởi vì biết rằng Chúa muốn chúng ta chăm lo cho sức khỏe của mình... Chỉ khi
nào yêu mến như vậy, tâm hồn chúng ta mới không bị chia sẻ và lòng yêu mến của
chúng ta sẽ không nửa vời.
Qua bí tích Rửa Tội chúng ta được đón nhận vào tình yêu Thiên
Chúa. Mỗi lần tham dự Thánh lễ, chúng ta lại được tham dự vào Mình Máu Thánh
Đức Giêsu, tham dự vào tình yêu dâng hiến của Người. Được Thánh Thể nuôi dưỡng,
chúng ta có khả năng sống yêu thương như Chúa Giêsu dạy.
(Văn Chính, SDB chuyển ngữ)
Một thơ sĩ người Anh tên là Leigh Hunt đã viết một bài thơ rất nổi
tiếng về một người tên là Abou Ben Adhem như sau:
Một đêm kia, khi Abou Ben Adhem choàng tỉnh dậy, anh thấy trong
phòng ngủ của anh một thiên thần nhỏ đang cắm cúi viết trên một cuốn sách bằng
vàng tên của những người yêu mến Thiên Chúa. Anh rón rén lại gần và hỏi nhỏ:
“Có tên của con trong sách đó không, thưa ngài?”. Vị thiên thần nhỏ lắc đầu:
“Chẳng có tên của anh”. Abou nài nỉ: “Nếu thế, con xin ngài hãy ghi tên con là
người biết yêu mến những người anh chị em của mình thôi”. Đêm hôm sau, vị thiên
thần trở lại với danh sách của những người yêu mến Thiên Chúa. Lần này, tên của
Abou Ben Adhem đứng ở đầu danh sách.
Bài thơ này cho thấy tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và
tình yêu dành cho tha nhân thì tựa như 2 mặt của một đồng tiền. Người ta không
thể tách rời 2 thứ tình yêu này ra khỏi nhau được. Đó cũng chính là những gì mà
Tin Mừng ngày hôm nay muốn nói với chúng ta. Khi người ta hỏi Đức Giêsu rằng đâu
là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì câu trả lời vẫn là giới luật về
tình yêu đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu không chỉ dừng lại ở đó. Ngài tiếp
tục đưa ra một câu trả lời thực tế hơn. Ngài trình bày cho chúng ta thấy mặt
khác của đồng tiền: đó là tình yêu dành cho tha nhân. Tình yêu mến Thiên Chúa
cách đích thực và tình yêu thương tha nhân chân thành chỉ là một. Đức Giêsu đã
nói: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất.
Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận
như chính mình. Tất cả Luật Môi-sen và các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai
điều răn ấy”. (Mt 22, 37-40)
Ở đây, chúng ta thấy Đức Giêsu không chấp nhận lối hiểu tình yêu
chỉ trong một chiều kích thôi. Đối với Ngài, tình yêu đích thực phải diễn tả
trong 3 chiều kích, đó là (1) tình yêu đối với Thiên Chúa, (2) tình yêu đối với
tha nhân, (3) và tình yêu đối với bản thân. Hai thứ tình yêu đầu được đòi hỏi
cách tích cực, còn tình yêu thứ ba được đưa ra như một cơ sở của mọi tình yêu.
Việc đòi hỏi yêu thương tha nhân như chính bản thân, đã giả định rằng bạn phải
biết yêu thương chính mình.
Vì câu trả lời của Đức Giêsu đề cập tới cả 3 chiều kích của tình
yêu, vậy đâu là điểm mà Đức Giêsu thực sự muốn nhấn mạnh?
Khi bạn hỏi ai đó một câu hỏi, và trong câu trả lời của người ấy,
người ấy còn nói thêm một điều khác nữa mà bạn đã thực sự không muốn hỏi, thì
hẳn rằng người ấy đang muốn bạn chú tâm đến yếu tố thêm vào đó. Tuần vừa qua,
khi Đức Giêsu bị chất vấn về việc có phải nộp thuế cho hoàng đế Xê-da không,
thì Ngài trả lời: “Của Xê-da, thì trả cho Xê-da;” và Ngài còn nói tiếp: “Của
Thiên Chúa, thì trả cho Thiên Chúa”. Đó chính là điểm nhấn mạnh của Đức Giêsu
khi được hỏi về việc nộp thuế cho Xê-da. Ngài không chỉ nói đến một điều xem ra
hiển nhiên về quyền của Xê-da, nhưng còn nhấn mạnh đến quyền của Thiên Chúa mà
con người vốn thờ ơ, không coi trọng. Cùng cách thế này, đứng trước vấn nạn đâu
là giới răn quan trọng nhất trong lề luật, thì tình yêu đối với Thiên Chúa là
chuyện hiển nhiên, nên điều nhấn mạnh của Đức Giêsu ở đây chính là tình yêu đối
với tha nhân mà vốn bị con người không để ý tới hoặc coi thường.
Bạn nên nhớ việc bắt bớ Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài là do
chính những người lãnh đạo tôn giáo. Những kẻ này tưởng rằng họ làm thế để thể
hiện lòng nhiệt thành và yêu mến Thiên Chúa của họ, để bảo vệ uy quyền tối cao
của Thiên Chúa. Cũng những con người này khi hỏi Đức Giêsu đâu là giới răn quan
trọng nhất, thì chính họ là những kẻ đang giăng bẫy nhằm giết Đức Giêsu. Họ rất
ý thức về tình yêu phải dành cho Thiên Chúa, nhưng tại sao họ lại trở nên vô
cảm trước tình yêu phải dành cho tha nhân? Sao-lê sau này trở thành Thánh
Phao-lô, đã từng là một ví dụ điển hình về thứ quan niệm tôn giáo lệch lạc này.
Đức Giêsu cũng nói tiên tri rằng: “Hơn nữa, sẽ đến giờ kẻ nào giết anh em cũng
tưởng mình phụng thờ Thiên Chúa.” (Ga 16,2).
Điều sai lầm của những người Biệt phái ngày xưa có thể vẫn đang
tồn tại nơi bản thân chúng ta. Vẫn có nhiều người Ki-tô hữu đang cố tách rời
tình yêu đối với tha nhân ra khỏi tình yêu đối với Thiên Chúa. Sự dấn thân
trong niềm tin của họ không bao hàm việc dấn thân cho những quyền lợi của tha
nhân, cho sự công bằng và hòa bình.
Chúng ta hãy biết mau mắn đáp trả trước lời mời gọi của Đức Giêsu
trong sứ điệp của Ngài ngày hôm nay: Tình yêu đích thực dành cho Thiên Chúa và
tình yêu đích thực dành cho tha nhân là 2 mặt của một đồng tiền. Mọi cố gắng
nhằm tách rời 2 điều này, sẽ làm sai lệch sứ điệp của Đức Giêsu. Thánh Gioan đã
viết trong thư thứ nhất của ngài: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại
ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em
mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga
4,20).
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nhóm Pharisiêu liên minh với nhóm Hêrôđê gài bẫy Chúa Giêsu về vấn
đề nộp thuế cho Cêsarê. Họ đã thất bại.
Nhóm Pharisiêu lại tiếp tục liên kết với nhóm Xađốc gài bẫy lần
nữa: Có bảy anh em trai cùng lấy một người vợ, ngày tận thế khi sống lại, người
đàn bà đó là vợ của ai trong bảy anh em?. Họ cũng thất bại.
Chưa chịu thua. Lần này, như bài Phúc Âm hôm nay thuật lại, họ
chọn ra một người thông luật để tranh luận với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, trong lề
luật giới răn nào trọng nhất?. Đây là một câu hỏi hóc búa, bởi vì đạo Do thái
có rất nhiều khoản luật mà luật nào cũng đều quan trọng cả. Luật Do thái có tất
cả 613 điều luật khác nhau, trong đó có 365 điều luật cấm và 248 luật phải giữ.
Điều răn nào quan trọng nhất? Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu là vì một
phần vì họ không nhất trí đựơc với nhau, phần vì muốn thử Chúa Giêsu để mong
đặt Người vào thế bí không thể giải quyết được.
Chúa Giêsu đã trả lời thật tuyệt vời: Ngươi phải yêu mến Đức Chúa,
Thiên Chúa ngươi hết lòng hết linh hồn hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn
nhất và là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn này là
ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
Như thế trong 613 điều luật, Chúa Giêsu đã chọn lọc ra hai điều
luật quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người từ sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và
sách Lêvi (Lv 19,18). Người liên kết hai điều đó lại: mến Chúa thì phải yêu
người, yêu người thì phải mến Chúa. Cả hai điều ấy có thể tóm lại thành một
điều duy nhất là yêu thương. Yêu thương là cốt lõi của tất cả mọi khoản luật
khác.
Suốt cuộc đời, Chúa Giêsu đã làm chứng về sự quan trọng của hai
luật đó. Người không chỉ làm chứng bằng lời giảng dạy mà còn bằng chính cuộc
sống và cái chết của mình.
Yêu Thiên Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh hồn. Lòng mến Chúa
phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc của con
người.Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi hoạt động tinh thần cũng
như thể xác. Chúa Giêsu đã yêu mến Chúa Cha, luôn sống đẹp lòng Cha, luôn dành
thời giờ cầu nguyện tâm sự với Cha. Chấp nhận cuộc khổ nạn và cái chết thập giá
bởi lòng yêu mến Cha và yêu thương nhân loại.
Yêu người thân cận như chính mình. Điều răn này cũng quan trọng
ngang với điều răn thứ nhất về lòng mến Chúa, vì lòng yêu người phát xuất từ
lòng mến Chúa và cũng cần thiết như lòng mến Chúa vậy. Đọc Phúc âm, chúng ta
thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu mến đối với hết mọi người.
- Với người ngoại giáo Samaria, trước đây người Do thái xa lánh
khinh khi, nay Chúa gần gũi trân trọng.
- Với người tội lỗi, trước đây người Do thái kết án loại trừ, nay
Chúa liên kết tìm về.
- Với người thù địch, trước đây người Do thái báo oán tiêu diệt,
nay Chúa cầu nguyện làm ơn.
- Với người nghèo, trước đây người Do thái dửng dưng coi thường,
nay Chúa chăm sóc tôn trọng.
- Với người anh em, trước đây người Do thái vị kỷ nhỏ nhen, nay
Chúa vị tha quảng đại.
Chúa Giêsu đã sống tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người thật
tuyệt hảo. Người còn ban thêm điều răn mới: Thầy ban cho anh em một điều răn
mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Yêu thương
nhau như Thầy đã yêu. Yêu Chúa và yêu người có một động từ chung là yêu. Đối
tượng của động từ yêu này có vẻ khác biệt nhưng lại không phân biệt. Hai điều
răn ấy tuy hai mà một, giống như hai trang của cùng một tờ giấy, tuy hai mặt
khác nhau nhưng cũng chỉ là một tờ giấy duy nhất. Yêu người là yêu Chúa và yêu
Chúa là yêu người. Người Kitô hữu có đức tin sẽ nhìn thấy Thiên Chúa nơi anh
chị em mà mình gặp gỡ hàng ngày, yêu Chúa nơi họ.
Hai điều răn mến Chúa, yêu người không thể tách rời nhau.Yêu Thiên
Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha nhân.Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên lòng yêu
mến Thiên Chúa. Người Kitô hữu đi từ nhà thờ ra nơi cuộc sống rồi từ cuộc sống
đi vào nhà thờ. Ngoài cuộc đời, họ gặp Chúa nơi anh em.Trong nhà thờ, họ gặp
anh em nơi Chúa. Thánh Gioan đã nói: Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên
Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ
không trông thấy (1Ga 4,20). Do đó, “Ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu
thương anh em mình” (Ga 4,21).
Chủ đề Sứ điệp Truyền Giáo năm 2011 của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI
là: “Hãy yêu người lân cận như chính mình” (Mt 23,39). Khi yêu thương người lân
cận là chúng ta yêu thương Chúa. Yêu thương người lân cận là thước đo tình yêu
của người tín hữu đối với Chúa. Sứ điệp viết: “Một trong các mục tiêu của Ngày
Thế Giới Truyền Giáo là … giúp cải thiện cuộc sống cho những người đang sống
trong các quốc gia nghèo khổ, đói kém, nhất là các trẻ em suy dinh dưỡng, bệnh
tật, thiếu chăm sóc y tế và giáo dục là những công tác quan trọng nhất. Tất cả
các công việc này đều đi kèm với sứ vụ truyền giáo của Giáo Hội. Khi loan báo
Tin Mừng, Giáo Hội sống gắn bó với cuộc sống con người theo nghĩa rộng nhất”.
Sứ điệp Truyền Giáo năm 2014, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi:
“Niềm vui của Tin Mừng phát sinh từ việc gặp gỡ Đức Kitô và việc chia sẻ với
người nghèo. Vì lý do này, tôi khuyến khích các cộng đoàn giáo xứ, các hội đoàn
và các nhóm hãy sống một đời sống huynh đệ đậm đà, đặt nền trên tình yêu đối
với Đức Kitô và quan tâm tới các nhu cầu của những người yếu thế nhất. Ở đâu có
niềm vui, sự phấn khởi và ước muốn đem Đức Kitô đến với người khác, ở đấy sẽ
phát sinh nhiều ơn gọi đích thực… loan báo Tin Mừng cho nhân loại cần dựa trên
tình thương.” (Số 4 và 5).
Mẹ Têrêxa Calcutta đã sống lời Chúa Giêsu dạy: “Hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,34). Mẹ Têrêxa đã thực thi lời
Thánh Phaolô: ”Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái, vì
ai yêu người thì đã chu toàn lề luật. Đã yêu thương thì không làm hại người
đồng loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy”(Rm 13,8-10).
Mẹ Têrêxa đã sống điều răn yêu thương cách trọn vẹn. Mẹ nhìn thấy
Chúa trong những người phong cùi. Mẹ gặp Chúa nơi những người bần cùng khốn
khổ. Mẹ yêu Chúa trong những con người bất hạnh. Mẹ tận tình chăm sóc họ. Mẹ
dạy các nữ tu: "Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa
trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ Têrêxa yêu mến Chúa hịện diện trong những người nghèo khổ. Mẹ
đã yêu Thiên Chúa trong con người. Tông huấn Giáo hội tại Á châu dạy: “ Việc
công bình, bác ái và thương xót phải gắn bó mật thiết với đời sống cầu nguyện
và chiêm niệm đích thực, và thật vậy, chính cũng một tu đức này là nguồn suối
của mọi công trình rao giảng Tin mừng của chúng ta”. Mẹ Têrêxa là nhà truyền
giáo “chiêm niệm trong hành động”.
Linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa chính là cầu nguyện và yêu
thương. Nét đặc sắc của cuộc đời truyền giáo Mẹ Têrêxa là niềm vui nội tâm phát
xuất từ đức tin thể hiện qua đời sống yêu thương phục vụ. Mẹ được Giáo hội
phong Chân Phước. Mẹ là một vị thánh của thời đại. Mẹ được người đời xem là vĩ
nhân. Mẹ được mọi người trên thế giới này yêu mến, cả những người Hồi giáo, Ấn
giáo, Cộng sản…
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho người khác nghe; sống như
Chúa Giêsu cho người khác thấy. Truyền giáo là giới thiệu Chúa Giêsu Kitô cho
mọi người bằng chính cuộc sống phục vụ và yêu thương của chúng ta.
Truyền giáo là nói về Chúa Giêsu cho mọi người biết bằng chính
cuộc sống yêu thương của mình. Truyền giáo khởi sự bằng cuộc sống và con tim.
Cuộc sống và con tim đòi hỏi các môn đệ Chúa Kitô sống có tấm lòng “yêu người
lân cận như chính mình”.
Sống linh đạo truyền giáo của Mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa
trong con người, chúng ta sẽ giới thiệu cho tha nhân Đạo Chúa là “Đạo những
người yêu nhau”, một Đạo rất đẹp, rất bác ái.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho nhân loại hai giới
răn quan trọng nhất là yêu Chúa và yêu người.
Xin dạy chúng con biết sống tâm tình biết ơn về những hồng ân Chúa
ban, xin cho chúng con biết yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người. Xin dạy
chúng con nhận ra hình ảnh Chúa nơi anh em để chúng con yêu Chúa và yêu người
với tâm hồn bác ái rộng mở. Amen.
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị Chúa bẻ gẫy không
dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho nên một nhà thông
luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật, giới răn nào trọng
nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248 điều phải làm và
365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những điều nhẹ. Phạm những
điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng, có thể bị án tử hình.
Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều luật nào quan trọng
nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả lời một cách rõ ràng
và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới răn quan trọng nhất.
Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là yãy yêu
thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người đặt ngang hàng với
luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi theo chiều hướng ấy, các
tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết: Thiên Chúa là tình yêu.
Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh Phaolô cũng căn dặn: Anh
em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn lành. Như vậy mến Chúa hết
lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao của sự thánh thiện và đó cũng
là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống trần gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị thánh suốt đời chẳng
làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không phạm tội bao giờ, vì
có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô, thánh Augustinô. Nên
thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya dậy sớm, làm mòn mỏi
thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng khen, đáng ca
ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên thánh cũng không
hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu nguyện lâu giờ. Những
việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện giúp chúng ta nên
thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu người. Bất kỳ
những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song được làm vì lòng mến
Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng ta. Bởi vậy, thánh
Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn nhà đạo đức thánh
thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa yêu người làm nền
tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt xuống, và họ chỉ là
những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời gian lâu mau. Chúa
không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả hay nhẹ nhàng, nhưng
Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng mức độ tình yêu để
đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó, yêu nhiều là làm
nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm. VIKINI – Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
Mẹ Têrêxa Calcutta kể: "Hôm ấy, một người lạ mặt đến nhà
dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối, nằm bên ống cống, mình đầy
giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt từng con bọ với vẻ mặt vui
tươi, thanh thản đầy thương mến... Rồi người lạ đến gặp tôi nói: Thưa mẹ, khi
con đến đây với lòng đầy căm hờn của một người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con
ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới. Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã
chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một cách cụ thể qua hành động và qua
cách Sơ ấy đã đối xử với người hấp hối bẩn thỉu kia. Bây giờ con tin thật Chúa
là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn, không thể nào có đủ nghị lực
để yêu tha nhân được".
Thực vậy, không mến Chúa, không thể yêu người vô vị lợi được. Vì
thế Chúa Giêsu đã nhấn mạnh cho mọi người nhận biết hai giới răn quan trọng
nhất là: " Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn ngươi... và điều thứ hai giống điều răn ấy: ngươi phải yêu người đồng loại
như chính mình".
Lời tuyên bố đó, chấm dứt sự tranh luận của các phe phái Do thái
về luật nào quan trọng nhất, giống như lời của bậc thầy chấm dứt cuộc tranh cãi
của các học trò.
Tuy nhiên Chúa Giêsu không nói rõ lý do tại sao phải mến Chúa trên
hết và thương người như chính mình. Thực ra lý do đã nằm sẵn trong lời tuyên bố
của Chúa rồi.
Trước nhất tại sao phải mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết linh
hồn, thánh Marcô còn thêm: hết sức, vì tất cả sức lực thể xác, lòng muốn, trí
khôn, linh hồn đều là của Thiên Chúa ban. Tất cả những khả năng ấy được có,
được sinh hoạt, được phát triển và thăng tiến đều do bàn tay Chúa. Nếu chúng
biết nhận ra Thiên Chúa là chủ của chúng, để nương tựa vào chủ, hướng về chủ,
hoạt động theo chủ, thì chúng sẽ được chủ quý chuộng, tô điểm xinh đẹp và cho
chúng sống muôn đời. Khi hoàn thành bức điêu khắc tượng Môisê, một kiệt tác thể
hiện được hết tinh thần sống động của mình đến nỗi thiên tài Michel-Ange đã hét
lớn vào tai tượng: Hãy nói đi. Thiên Chúa cũng đang hét lớn vào lòng trí, linh
hồn của mỗi người chúng ta: Hãy yêu mến đi để ngươi nên giống Ta! Vì Ngài đã
dựng nên ta, kiệt tác hơn muôn loài trong vũ trụ. Nhận biết mình được Thiên
Chúa dựng nên lạ lùng như thế, Salomon đã cầu nguyện thế này: "Lạy Chúa,
con sinh ra cốt cách tinh anh, được một hồn lương hảo, tốt lành, được vào một
thân xác không tì ố, nhưng Thiên Chúa không ban, con không thể có được khôn
ngoan... nên con thưa với Chúa và cầu xin Người hết lòng con" (Kn. 8,
19-21). "Như vậy, lạy Chúa, những đứa con mà Ngài yêu mến sẽ học biết rằng
không phải các thứ hoa quả nuôi sống con người. Nhưng là lời Người bảo tồn
những ai tin cậy vào Người" (Kn. 16, 26).
Thứ đến, tại sao phải yêu đồng loại như chính mình? Thưa vì đồng
loại là những người có ruột thịt, máu mủ giống mình, là những người gần gũi
mình, sống chung với mình, cùng loại với mình, cùng bản chất tinh thần và thân
xác như mình. Cho nên, đã cùng loại với mình thì dù đó là người Samari hay
Israel, Hy Lạp hay Do Thái, nô lệ hay tự do, chủ hay thợ, người sang hay hèn,
mình phải yêu họ như chính mình. Tại sao khi thấy họ bị đánh nhừ tử nửa sống
nửa chết lại bỏ tránh đi? Tại sao không biết lấy dầu, lấy rượu xoa bóp băng bó
vết thương cho họ như người Samari nhân hậu. Chỉ những ai như người Samari biết
thương xót người, thấy người khổ như mình khổ, cứu người đau như mình đau, mới
được Chúa Giêsu đánh giá là yêu người như chính mình. Từ trên núi Sinai, Chúa
đã truyền cho dân Israel phải thương mến giúp đỡ những người bị khinh bỉ, như
mẹ góa con côi, những người nghèo đói, ngoại kiều, thì mới thật sự xứng đáng là
dân riêng của Chúa (Bài đọc I - Xh. 22, 21-22)
Biết được những lý do tại sao phải mến Chúa và yêu người, ta còn
phải biết mến Chúa và yêu người đến mức độ nào, mới thật là mến Chúa yêu người.
Mức độ Chúa Giêsu kêu gọi là: hết lòng, hết linh hồn, hết trí
khôn. Đó là mức độ mến Chúa, còn yêu người đến mức độ như yêu chính mình. Nói
khác đi, mến Chúa và yêu người phải tới độ tuyệt đối. Sau đây chúng ta thử xét
xem lòng mến Chúa và yêu người của chúng ta đến mức độ nào?
Phần đông mến Chúa bằng làm những việc đạo như giữ mười điều răn,
đi lễ Chủ nhật, xưng tội, rước lễ v.v... ở mức độ sợ tội, sợ mất linh hồn, sa
hỏa ngục, nên chỉ cố gắng tránh những tội nặng, còn chửi tục, chửi nhau, bỏ học
lời Chúa, bỏ lễ thường, lỗi bổn phận hàng ngày, phạm tội nhẹ như uống nước. Họ
giống như đứa con sợ bố đánh mới nghe lời. Khi khuất mặt bố, nó không sợ nữa,
nó đánh nhau, phá phách nghịch quấy, trộm vụng bất kể. Người mến Chúa chỉ lo sợ
phạt chết đời đời cũng vậy. Họ chỉ yêu ai thân mình, chào kẻ chào mình, làm ơn
cho kẻ làm ơn cho mình " thì anh em còn được công chi?" (Mt. 5, 46).
Đó là hạng người mến Chúa yêu người vì lợi cho mình. Họ là những
kẻ ích kỷ.
Một số mến Chúa vì thấy Chúa tốt lành, nhận ra những công ơn vô
cùng của Chúa ban, nên họ cố gắng đền đáp; nhận ra lời Chúa là lời hằng sống,
chân thật, thánh thiện, nên họ cố gắng thực thi. Họ như đứa con hiếu thảo thấy
công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra vô tận, nên lo
sống xứng đáng đẹp lòng cha mẹ. Vì thế họ cũng cố gắng noi gương nhân hậu của
Chúa phần nào đó. Họ là những người tốt lành, cũng biết làm ơn giúp đỡ người
khác, hy sinh chịu đựng tha thứ kẻ làm khổ mình. Lúc bình thường họ giống như
các môn đệ Chúa, rất chịu khó đi công tác, làm việc tông đồ. Khi gặp thử thách
nguy khốn như lúc Thầy bị bắt... thì bỏ trốn. Họ trốn tránh những việc khó
khăn, gian lao, nguy hiểm. Họ mến Chúa và yêu người ở mức bình thường.
Một số rất ít họ là những người lành mến Chúa hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khôn nghĩa là mến Chúa trọn vẹn, sẵn sàng hy sinh mọi sự, kể cả
mạng sống mình vì mến Chúa. Ở mức độ mến Chúa tuyệt vời này, họ thương yêu hết
mọi người dù xa lạ, dù hèn mọn, dù là kẻ thù, họ thấy tất cả là chi thể của Đức
Kitô, lúc sáng láng trên núi Tabo cũng như lúc ô nhục khốn cùng trên núi Sọ.
Chỉ có các thánh đã mến Chúa và thương người được thế thôi, như thánh Phaolô
nói: " Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng
là gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo? như có lời
chép: chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết. Nhưng trong mọi thử thách
ấy, chúng ta toàn thắng, nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta" (Rm. 8, 35-37).
Lạy Chúa Giêsu, xin thêm lòng mến cho con. Xin đốt lửa kính mến
Chúa và yêu người trong trái tim con.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân
chơi, ông dừng lại quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với
nhau. Thấy chúng chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ nhốn nháo trả lời:
- Chúng cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn
giải thích:
- Tại sao các cháu chỉ chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ,
đánh nhau hay chiến tranh có gì là đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem
nào.
Ông vừa dứt lời, một em bé reo lên:
- Phải rồi, tụi mình thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy
chúng chấp nhận ý kiến của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng
chưa được mấy bước ông nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông
đã nghe giọng của một em bé hỏi:
- Ông ơi, trò chơi hòa bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi người
lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa bình, khi trong nhà,
cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ người lớn chửi bới, đánh
nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi chúng vẫn thấy trên Tivi, báo
chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải quyết những tranh chấp,
những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết người. Mặc dù thế giới
đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng chỉ một ít người biết
sử dụng:
- Mục sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình
yêu. Ông đã ngã gục, nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người
như những người da trắng.
- Đức Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết
chân của Ganđi và Luther King.
- Mẹ Têrêsa thành Calcutta cũng đang dùng khí giới của tình yêu để
những người không nhà không cửa, những người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được
sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là phản bội của một Tình
Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết cho người mình yêu.
Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình. Đó là tình yêu: Yêu
Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp lại vấn nạn của
nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép lại hai điều
luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu người như yêu
mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ. Nhưng cái độc
đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất của Luật Môsê:
yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật đều có tầm quan
trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một khối lượng lớn các
điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để rồi tập trung vào
việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ được hai điều
luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng yêu mến Chúa.
“Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không thể yêu mến
Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ chúng ta thường quen
tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều luật hoàn toàn không
liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn rõ rệt: làm việc gọi
là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những việc ám hại tha nhân
để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu cấp bách của người
khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà không tha thiết gì đến
việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có thể trục lợi được, chứ
không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái Chúa và vì là anh em
với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là cách thế tỏ lòng yêu
mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha nhân phải được nền
trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về Thiên Chúa thì ngay
lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả năng yêu tha nhân
đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong Chúa, tôi bắt gặp
tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm giá đích thực và
trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay già yếu, một phạm
nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một thiếu nữ lầm lỡ,
một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra chính khuôn mặt
của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở tù, cô thế cô
thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa tôi về với anh em.
Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên Chúa, nguồn mạch tình
yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó là nhịp sống bình thường
của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu. Chính nhờ sự đong đưa này mà
trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống như trái tim Chúa Giêsu trên
Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống bằng chính sức sống và
tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta. Chừng nào thế giới của
người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết giải quyết những tranh
chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông cảm và tha thứ, chừng đó
thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển nở được trong bầu khí
hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho gia đình, xã hội và
thế giới.
Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có thái độ duy Lề Luật.
Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều nào là chính điều nào
là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho ta biết chỉ có một
điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa
là yêu mến hết khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp
tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là nguồn mạch mọi sự thiện
hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không có một tì vết,
khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì tốt đẹp. Chúa là
Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu biết cũng đều yêu
mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta. Chính Chúa ban cho ta
tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả nhừng gì chúng ta có
và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất của ta. Yêu mến Chúa
là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà
Chúa Giêsu nói cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn
vì những lý do sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của một tình yêu. Tình yêu
chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại trừ. Vì thế đã yêu Chúa
thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại trừ thì sẽ trở thành giả
tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu đối với Thiên Chúa.
Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh
em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ
trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy. Đây là
điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu
thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính Chúa. Vì Chúa ở trong
anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé mọn nhất. Vì thế trong
ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các người: mỗi lần các
người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các
người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều răn này. Nếu ta giữ
trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà còn góp phần xây dựng
một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa tình người. Và đó
chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có
hợp tình hợp lý không?
2) Tại sao ta phải yêu tha nhân?
3) Bạn có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
4) Bạn nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người
yêu thương nhau.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Vào thời Chúa Giêsu có 2 phong trào đối địch cố gắng nắm lấy uy
thế lãnh đạo dân Do thái, đó là phái sa-đốc và biệt phái. Những người sa-đốc đã
bị Thày chí thánh khóa miệng, đến lượt những người Biệt phái tìm cách gây khó
cho Ngài; nếu thành công họ sẽ được hai cái lợi: qua mặt người sa-đốc và tiêu
hủy uy tín của Chúa Giêsu. Họ hội họp nhau trong ý định ấy và thỏa thuận gởi
một người trong bọn họ, chuyên gia về Lề luật, đến gặp Chúa Giêsu để hỏi Người
về vấn đề tranh luận bất tận trong giới ký lục và luật sĩ. Thực vậy họ đã mổ xẻ
lề luật và đã chia lề luật làm 613 huấn giới, 365 điều cấm, 48 chỉ thị. Trước
một toàn bộ như thế, một số người Do thái bỏ hết thời giờ xem xét cách sống của
mình để sao cho phù hợp với lề luật, một số thì chịu. Do đó một số mới tự hào
xem mình là công chính và một số khác sinh lo âu thấy mình là kẻ phạm luật. Cả
2 đều không biết đến sự tự do tinh thần của tình yêu. Vì thế hiểu được có nhu
cầu tổng hợp và đơn giản hóa lề luật. Các người Biệt phái chất vấn Chúa Giêsu
về vấn đề tế nhị này. Ngài tổng hợp ra sao, Ngài đơn giản theo nguyên tắc nào?
Câu trả lời của Chúa Giêsu không muốn mới mẻ và đề ra cái độc đáo. Chỉ có thể
nằm trong đường hướng nguyên thủy của một bản luật do Thiên Chúa ban truyền.
Câu trả lời chỉ nhắc lại. Thái độ vụ luật tỉ mỉ chi li của người Biệt phái hay
khiến họ quên điều chính yếu của lề luật: do Thiên Chúa ban truyền. Luật thánh
nhằm nối kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc lại ngọn nguồn và ý
nghĩa của lề luật là gì. Lề luật nhằm tạo tương quan yêu thương với Thiên Chúa
là Tình thương; bởi đó tình yêu đồng đều Thiên Chúa ban phát cho mỗi người phải
liên kết người ta lại với nhau bằng một phản ảnh của tình yêu ấy. Giới răn thứ
nhất là kính mến Thiên Chúa và giới răn thứ hai giống như vậy yêu mến người lân
cận.
1) Người ta có thể yêu mến Tuyệt đối được không? Có thể yêu mến
Đấng xưng mình bằng danh “Ta có” không? Thờ phượng Ngài thì được, nhưng yêu mến
Ngài? Thế nhưng tôn giáo Israel và Kinh thánh không ngừng diễn tả một tác động
của tâm hồn phải gọi là tình yêu mến. Như vậy có nghĩa là mạc khải ban cho dân
Thiên Chúa, khác hẳn các tôn giáo khác. Thông thường các dân chọn và tạo lấy
cho mình các huyền thoại, các thần thánh. Trong trường hợp Israel, chúng ta
thấy chính Thiên Chúa đã chọn lấy một dân, hành động khởi đầu do từ Thiên Chúa
đến và là một hành động yêu mến. Israel được kêu mời yêu mến một Thiên Chúa
không phải trừu tượng xa vời, nhưng là sống động và có mặt điều khiển lịch sử
của dân. Hiểu cho đúng, lề luật đã khơi động tiềm lực của trái tim. Ta sẽ đặt
Luật Ta vào đáy lòng chúng và sẽ viết lên trái tim chúng (Gr 31,33). Phải,
người ta có thể yêu mến Tuyệt đối khi Tuyệt đối mang tên Thiên Chúa Israel. Do
đó Chúa Giêsu quả quyết rằng giới răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa.
2) Nhưng Thiên Chúa Israel đã có mặt và tích cực hoạt động trong
lịch sử một dân tộc và trong tâm hồn các tín hữu, còn muốn hơn nữa, Con Thiên
Chúa khi làm người ước ao được người ta yêu mến bằng tất cả tiềm năng của trái
tim loài người. Yêu mến Đấng “Hằng có” được mạc khải cho Môi-sê là một giai
đoạn đáng kể của quá trình nhân loại vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chưa phải
là trình độ của Phúc âm. Từ Nhập thể Thiên Chúa đã làm người. Ngài có thể làm
đối tượng cho toàn thể tác động thâm sâu bao gồm trí khôn, ý chí, cảm xúc, tóm
gọn trong chữ “yêu mến” và tác động ấy đặt vào một ai có thể đến gần. Con Thiên
Chúa đã đích thân đặt mình vào chỗ khả năng yêu mến của con người có thể tới.
Một sự kiện đầy ý nghĩa. Chúng ta đều biết tầm quan trọng của tên người mà mình
yêu trong khi yêu. Vậy mà Israel có lề luật tóm tắt trong việc yêu mến đã đánh
mất cách đọc chân thật tên Thiên Chúa mình. Người ta không biết danh hiệu
“Giavê” có phù hợp với cách đọc nguyên thủy của tên Thiên Chúa hay không. Từ
Phúc âm thì không còn như thế nữa. Giáo hội (nghĩa là những người con ưu tú
nhất của Giáo Hội) yêu mến Chúa mình là Đức Kitô đến nỗi sẽ không bao giờ quên
Tên mà chỉ đọc lên đã làm vui thỏa các thánh. Tên cực trọng Giêsu.
Dựa theo những điều Thiên Chúa truyền dạy trong sách Luật (Ngũ
thư: Sáng Thế, Xuật hành, Dân số, Lêvi và Đệ Nhị Luật), những người lãnh đạo
tôn giáo Do thái đã làm thành Bộ luật gồm 613 điều khoản và buộc mọi người phải
tuân giữ. Vì thế, cuộc sống của người Do thái trở nên rất nặng nề. Họ cảm thấy
như bị bao vây bởi "Bức tường luật" kiên cố. Đâu đâu cũng thấy sự
ràng buộc mà không thấy sự cảm thông và tình yêu nâng đỡ. Từ đó, người ta bắt
đầu có thái độ sống vị luật, sống giả hình. Một số người đem luật ra làm thước
đo cho mọi chiều kích của con người trong cuộc sống. Ai giữ luật càng kỹ thì
càng được coi là công chính.
Chúa Giêsu đã kịch liệt chỉ trích và lên án thái độ giả hình và vị
luật của những người Biệt phái và những nhà thông luật. Bởi vì họ "đã chất
lên vai người khác những bó nặng không thể vác nổi, còn họ thì không buồn đọng
ngón tay vào lay thử".
Tin mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu bị những người Biệt
Phái âm mưu hại Ngài bằng việc họ đặt ra câu hỏi đâu là giới luật quan trọng
nhất giữa một rừng luật như thế? Dù biết họ thử mình, nhưng Đức Giêsu vẫn trả
lời cho họ để mở mắt cho họ thấy đâu là vấn đề quan trọng nhất cần phải làm để
làm đẹp lòng Thiên Chúa và chu toàn Lề Luật của Chúa. Chúa nói: Toàn thể Lề
luật và các tiên tri đều tóm trong hai giới răn này: Mến Chúa trên hết mọi sự
và yêu thương anh em như chính mình.
Chúa Giêsu đã làm một điều mới mẻ là Ngài đã nâng giới luật yêu
người lên tầm mức quan trọng ngang bằng với việc yêu mến hiên Chúa: Yêu người
là yêu Chúa, và yêu mến Chúa thì phải yêu anh em mình. Vì thế, Thánh Gioan tông
đồ nói: "ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình thì đó là
kẻ nói dối"; "ai yêu thương thì được Thiên Chúa sinh ra".
Làm sao biết được mình yêu mến Thiên Chúa nhiều hay ít? Làm sao
biết mình yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự hay chưa? Chúa Giêsu đã cho chúng
ta câu trả lời rất rõ ràng: "Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy". Giữ
lời Thiên Chúa là ghi nhớ, yêu mến và đem ra thực hành. Điều quan trọng là làm
theo Lời Chúa dạy chứ không phải nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa". Thi hành
lời Chúa dạy là điều đòi hỏi con người phải có nhiều cố gắng, hy sinh và quên
mình. Những điều Chúa truyền dạy xem ra rất khó thi hành và đi ngược lại với
những gì là tính toán của con người. Sống giá trị của Tin Mừng đòi hỏi con
người phải lột xác, chấp nhận trở thành kẻ khờ dại giữa thế gian này.
Nếu yêu mến Thiên Chúa đã khó như thế thì yêu người lại càng khó
khăn hơn, nhất là khi Chúa dạy phải yêu thương kẻ thù của mình. Nhưng chúng ta
cần nhớ rằng: Chúa không chơi xấu! Chúa không bao giờ bắt chúng ta làm điều gì
quá sức mình. Vì thế, ở đâu khó thì ở đó có ơn Chúa. Điều quan trọng là chúng
ta hãy cộng tác với ơn Chúa và hãy sống hết mình trong nỗ lực yêu thương con
người.
"Yêu anh em như yêu chính mình". Không ai lại ghét mình
bao giờ! Vì thế, nói yêu anh em mình thì hãy yêu cách chân tình, không yêu trên
đầu môi chót lưỡi. Yêu thương thật sự là muốn điều tốt cho người mình yêu, là
chia sẻ thật sự cho anh em mình ngay cả những gì mình yêu quí và gắn bó. Câu
chuyện về hai vợ chống trẻ tỉ phú Bill Gate, người giàu nhất thế giới, đã làm
cho mọi người kinh ngạc. Họ đã tự nguyện tặng 95% giá trị tài sản của họ để làm
từ thiện. Ước tính khoảng hơn 43 tỷ USD được trao tặng và có khoảng 43 triệu
trẻ em nghèo được hưởng lợi từ tấm lòng của những con người hảo tâm này. Giờ
đây, có lẽ vợ chống Bill Gate không còn là người giàu nhất thế giới về tiền bạc
nữa, nhưng họ sẽ là người giàu nhất thế giới về tấm lòng quảng đại và chia sẻ!
Yêu thương là biết hành động theo điều thiện, là thật tình chia sẻ!
Chúng ta hãy tập yêu thương anh em mình bằng cách tập nghĩ tốt,
nói tốt và làm những điều tốt cho họ. Đừng dừng lại ở việc cầu chúc những lời
tốt cho người khác, nhưng hãy tiến tới hành động. Bởi lẽ, không ít những kẻ:
"Miệng thì chúc phúc cầu an, mà lòng nguyền rủa chứa chan những lời".
Con người phức tạp lắm! Chúng ta đừng đóng kịch với nhau trong cuộc sống. Bởi
lẽ, không ai giữ được những điều giả dối suốt cuộc đời mình. Hơn nữa, chúng ta
có thể qua mặt được hết mọi người, nhưng không thể qua mặt được lương tâm của
mình và càng không thể qua mặt được Thiên Chúa. Thái độ giả hình luôn là điều
mà Đức Giêsu lên án nặng nề nhất. Harret Beecher Stowe đã chia sẻ cho chúng ta
một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa quí báu như sau: "Tôi tìm kiếm linh hồn
tôi nhưng tôi không thấy. Tôi tìm kiếm Thiên Chúa nhưng Ngài ở ngoài tầm tay tôi.
Tôi tìm kiếm anh em và tôi gặp được cả ba". Quả thật, yêu người là yêu
Chúa. Gặp được anh em mình chính là gặp được Chúa vậy!
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Nếu một cuộc trưng cầu dân ý được hỏi ý kiến của mọi người xem ai
là người đá banh hay nhất trong mọi thời, hoặc ai là diễn viên giỏi nhất, hoặc
ai là nhà soạn nhạc giỏi nhất, thì sẽ có rất nhiều ý kiến. Vì hôm nay những
người đương thời với Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: điều nào trong lề luật là cao
trọng nhất? Điều đó có một câu trả lời đơn giản hiển nhiên cho bất cứ một ngươi
Do thái sốt sắng nào. Dù cho lề luật của người Do thái rất nhiều những không có
gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu trả lời: “Các người hãy yêu mến Thiên Chúa là
Thiên Chúa của các ngươi với hết tâm hồn, hết trái tim, hết trí khôn ngươi”.
Những điều đáng ngạc nhiên là Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm: “Các người sẽ yêu
mến người láng giềng của các người như chính mình”. Câu hỏi: “Lề luật nào là
cao trọng nhất?” chỉ có một câu trả lời: Chúa Giêsu đã cho hai câu:
- Câu trả lời đầu tiên được trích từ sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 2
- Câu trả lời thứ hai từ sách Lêvi đoạn 19 câu 18.
Chúa Giêsu không nói một điều gì mới. Sự góp phần độc nhất của
Người là nối kết hai điều luật, trong hai sách tách biệt của Thánh Kinh và làm
chúng nên một. Sự nhấn mạnh của người là không thể có tình yêu thật, tình yêu
Thiên Chúa thật, nếu không có tình yêu người láng giềng, tình yêu tha nhân, và
không có tình yêu tha nhân nếu không có tình yêu Thiên Chúa.
Hầu hết mọi người có ý ngay lành đều thường nghĩ dễ dàng hơn hoặc
ít đòi hỏi hơn, để yêu mến Thiên Chúa thì dễ hơn yêu mến con người. Sau hết
chúng ta biết rằng Thiên Chúa là hoàn hảo. Nếu như chúng ta cảm thấy rằng Thiên
Chúa không làm đúng bằng chúng ta, thì những lỗi nằm trong sự thất bại của
chúng ta, chúng ta dễ hiễu vì chúng ta không phải là Thiên Chúa. Không thể nói
về sự liên hệ của chúng ta với con người cách tương tự. Ngay cả những người mà
chúng ta yêu mến cũng có thể làm phiền chúng ta lúc chúng ta đang tìm kiếm một
chút bình an và thinh lặng, cản trở chúng ta khi chúng ta đang nói chuyện, hoặc
khi chúng ta đang dò các kênh của TV, để tìm một chương trình đặc biệt, lời lẽ
hùng biện của chính trị có thể khiến chúng ta chống lại những người mẹ không
kết hôn đang phải nhờ vào trợ cấp an ninh xã hội, hay là những người tự mãn có
thể ảnh hưởng chúng ta trong việc coi rẽ, khinh thường, những người không có
việc làm và những người vô gia cư, và ý kiến chung có thể chuyển chúng ta tới
một sự coi thường nền tảng sự sống con người qua việc phá thai, chết êm dịu, án
tử hình.
Nếu tôn giáo của chúng ta nhấn mạnh không gì hơn là đến nhà thờ
cám ơn Chúa vì những đặc ân Ngài ban và để cầu nguyện xin Ngài trợ giúp, điều
đó sẽ hầu như luôn luôn là một sự thích thú và một kinh nghiệm dễ dàng. Nhưng
ngay trong thánh lễ, chúng ta được kêu gọi để diễn tả tình yêu của chúng ta cho
anh em đồng loại thấp kém hơn.
Sau bài giảng chúng ta cất tiếng nài xin cho những dự định quảng
đại được thực hiện. Chúng ta thường cầu nguyện cho những nhu cầu của Giáo hội,
cho nhà cầm quyền, cho sự cứu độ của thế giới, cho những người bị bất công, bị
cướp mất những nhu cầu, cho cộng đoàn địa phương của chúng ta. Lời cầu nguyện
này là một phần hợp pháp trong sự thờ lạy Thiên Chúa giúp chúng ta làm viên mãn
lề luật yêu thương tha nhân, chúng ta trao cho nhau những dấu chỉ chúc bình an,
và điều này thật sự là một lời cầu nguyện khiến chúng ta có thể hoàn tất sự hợp
nhất và bình an với những người khác mà Chúa Giêsu trong Thánh Thể đã dự định
dành cho chúng ta.
Sự cám dỗ là tách biệt tình yêu Thiên Chúa ra khỏi tình yêu tha
nhân. Chúa Giêsu sẽ không nghe những lời nguyện ấy. Lề luật yêu mến Thiên Chúa
và lề luật yêu mến tha nhân tuy đã được giới thiệu trong hai sách riêng biệt
của Thánh Kinh, nhưng chúng không được tách riêng trong trái tim của chúng ta,
trong hành động của chúng ta.
Tại thành phố Miami, nước Mỹ, ngày 03/10/1970, cô Edwarda, mới 16
tuổi, đã lâm vào tình trạng hôn mê, do bệnh tiểu đường. Trước lúc sự việc xảy ra,
cô quay sang mẹ nài nỉ: "Mẹ ơi, mẹ hứa đừng bao giờ bỏ con mẹ nhé!"
Đến hôm nay, hơn 30 năm rồi, cô gái sống như "thực vật" không còn
biết gì cả. Vậy mà bà Kaye O'Bara, mẹ cô, vẫn can đảm chăm sóc cho con. Cứ hai
giờ là bà phải lấy máu để thử, đo độ đường trong máu, rồi tiêm insuline, hút
đờm dãi, tắm rửa, cả cho con ăn nữa. Bà còn gội đầu, chải tóc, vuốt ve, thủ thỉ
nói chuyện với con, dù con bà không hề trả lời. Thật là điều kỳ diệu của tình
yêu. Khoa học không tài nào giải thích được sức mạnh này. Bà Kaye đã giữ đuợc
lòng yêu thương hiếm thấy trên đời (Những điều kỳ diệu, D.P. Eich, trg. 80).
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa cũng nêu cho chúng ta rõ: điều răn của Thiên Chúa
quan trọng chính là luật yêu thương. Kính mời anh chị em cùng suy niệm...
a/. Có vài điều chúng ta cần hiểu rõ:
* Người pharisêu hỏi Chúa: Trong luật Môisen, điều răn nào là quan
trọng hơn hết? Luật cũ của người Do thái có rất nhiều điều: Bộ luật có tất cả
613 điều khác nhau, trong đó có 365 điều cấm và 248 luật phải giữ. Nhiều như
thế, nên phân biệt khoảng nào chính, khoảng nào phụ là một điều khó. Sở dĩ họ
đặt câu hỏi này với Chúa Giêsu, chính là vừa để thử Chúa, vừa là vì chính họ
cũng không nhất trí với nhau khoảng luật nào là chính, là phụ nữa.
* Chúa trả lời: Phải yêu mến Thiên Chúa ngươi hết linh hồn, hết
trí khôn... Đó là điều răn thứ nhất... Còn điều thứ hai cũng quan trọng: hãy
yêu tha nhân như chính mình... Hai điều răn này Chúa trích từ sách Đệ nhị luật
6,5 và sách Lêvi 19,18. Chính Chúa Giêsu là người đầu tiên nối kết hai khoảng
luật này lại với nhau. Người đặt: luật kính yêu Chúa trước tiên, sau đó là luật
thương người. Vậy yêu thương chính là cốt lõi của mọi khoản luật khác và đối
tượng của tình yêu chính là Thiên Chúa và anh em mình.
b/. Bài Tin mừng chúa nhật hôm nay muốn dạy cho chúng ta điều gì?
* Chúa Giêsu xác định: hai giới răn yêu mến Chúa và yêu thương tha
nhân là gồm tóm hết mọi giới răn khác. Xem ra con người không còn phải bận tâm
lo giữ cả 613 điều luật. Ai chu toàn hai giới răn này thì có thể tin mình đã
chu toàn lề luật rồi. Thánh Phaolô giải thích ý của Chúa Giêsu trong thư Rôma
như sau: "Ai yêu người là đã chu toàn Lề luật. Thật vậy, các điều răn như:
Ngươi không được ngoại tình, không được giết người, không được trộm cắp, không
được ham muốn, cũng như các điều răn khác, đều tóm lại trong lời này: Ngươi
phải yêu đồng loại như chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng
loại; yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy." (Rm 13, 8-10).
* Giới luật yêu thuơng: Qua bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu xác định
luật yêu thương là quan trọng. Lòng mến Thiên Chúa phải toàn diện liên quan đến
trái tim, linh hồn, cả khối óc của con người nữa. Tình yêu này phải là động lực
thúc đẩy mọi hoạt động tinh thần cũng như thể xác của chúng ta. Chính vì thế mà
Chúa nói: tất cả luật Môisen và sách các ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều ấy.
Nói như thế, người ta sẽ hỏi lại: Tại sao luật yêu thương là trên
hết và gồm tóm mọi lề luật? Thưa là vì: Thiên Chúa là Tình yêu và bản chất của
Thiên Chúa chính là Tình yêu. Kinh thánh cũng đã dạy cho chúng ta biết: con
người được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa; điều đó có nghĩa là con người
được Thiên Chúa dựng nên chính là để yêu thương, và để yêu thương như Thiên
Chúa. Bản chất Thiên Chúa chính là tình yêu, vì thế không thể nói Thiên Chúa
không yêu thương, hay không thể nói Chúa dựng nên con người ta, mà Chúa lại
không yêu họ; hay cũng không thể nói, con người được sinh ra lại không yêu
thương Thiên Chúa và yêu thương nhau....
Chúa Giêsu chính là tấm gương cao cả về việc thực thi luật yêu
thương. Người trước hết luôn yêu mến Chúa Cha, sống đẹp lòng Chúa, và vì vâng
lời trọn hảo mà Chúa chấp nhận sinh làm người đền thay tội lỗi cho nhân loại
chúng ta. Đọc qua Phúc âm, ta thấy Chúa Giêsu thể hiện lòng yêu thương bằng
việc hoàn toàn vâng phục Ý Chúa Cha. Hơn thế nữa, Người tỏ ra lòng yếu mến Chúa
Cha qua việc quan tâm yêu thương, cứu giúp hết mọi người, kể cả người tội lỗi,
đỉ điếm, thu thuế, người ngoại giáo samaritanô, những người mà các kinh sư,
biệt phái xa lánh, khinh thị. Lại nữa, Chúa yêu mến nhân loại không chỉ bằng
lời nói thôi, nhưng bằng việc làm cụ thể là lễ tế trên thánh giá. Yêu mến là
cho đi, là chết đi, là quên mình cho người khác. Vì thế cái chết của Chúa trên
thánh giá chính là cái chết vì TÌNH YÊU.
Bà Keye O'Bara, trong câu chuyện kể trên, cũng là tấm gương cao cả
của Tình Yêu...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Tất cả mọi luật lệ đạo đời đều gồm tóm lại trong hai chữ yêu
thương mà thôi. Là người kitô hữu, chúng ta nghĩ làm sao, bao lâu nay thực tâm
khi giữ đạo chúng ta có thấy điều này là quan trọng, và mình có cố gắng sống
điều răn này. Chính Chúa Giêsu còn dạy hãy yêu kẻ thù như chính mình nữa, chúng
ta có tin không?
Anh chị em thân mến.
Một lần tôi chứng kiến hai con gà đá nhau. Hai con gà vừa nhìn
thấy nhau, chúng không thể chấp nhận nhau, chúng vươn những bộ lông của mình ra
biểu lộ sự uy nghi trước đối phương, đôi mắt đỏ ngầu hướng về nhau. Chúng nhìn
nhau tìm sơ hở của, bất ngờ chúng tung những cú đá, những cú cắn xé, dường như
có mối thù truyền kiếp từ lúc nào. Bỗng có một con ngã lăn ra, nhưng vì không
có trọng tài nên con kia vẫn còn hung hăng, chạy đến bên đối phương cho dù đã
ngã quỵ, tiếp tục cho những ngọn đòn thù bằng chiếc mỏ sắc bén và đôi chân vững
chắc của mình. Tôi chợt nhớ đến hình ảnh cảnh gà mẹ ấp ủ đàn con, sao êm đềm
quá, thân thương quá. Biết đâu hai chú gà vừa một mất một còn với nhau đây,
cũng đã từng được ấp ủ chung cùng một người mẹ. Nếu những chú gà biết yêu
thương nhau, chúng lo bảo vệ cho nhau, như gà mẹ bảo vệ cho đàn con, thì chúng
đâu tìm cách loại trừ nhau như thế. Một chú gà phải chết đi vì chúng không biết
yêu thương nên muốn loại trừ nhau. Yêu thương là sống, còn không biết yêu
thương thì không thể tồn tại được, chỉ có đi đến cái chết mà thôi.
Ngươi phải yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi, hết lòng, hết sức,
hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn trọng nhất.
Ngươi phải yêu thương tha nhân như chính mình. Tất cả luật Môisen
và sách các ngôn sứ đều tóm về hai giới răn đó.
Người ta đến hỏi Chúa Giêsu về giới răn để sống theo thánh ý Chúa,
Ngài cũng trả lời thật sự cho họ như thế. Tất cả lề luật đều tóm trong giới răn
Yêu Thương. Sống yêu thương là sống theo lề luật, vậy mà khi người ta đến hỏi
về sự sống lại muốn đưa Chúa Giêsu vào con đường chết. Nhưng Ngài đưa con người
đến sự sống, Ngài đưa con người đến nguồn yêu thương. Tất cả lề luật đều giúp
cho con người sống, nên lề luật được gồm tóm trong luật yêu thương. Không biết
yêu thương là không giữ tròn lề luật, nghĩa là không thể sống được.
Chúng ta là những người đang sống, những người đang được yêu
thương và cũng là những người đang biết yêu thương. Hơn thế nữa, chúng ta còn
là những người Công Giáo, chúng ta biết mình được Thiên Chúa yêu thương như thế
nào, đồng thời chúng ta cũng biết mình phải yêu thương như thế nào cho hợp
thánh ý Chúa. Nhưng rất nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta hành động giống như
những luật sĩ và biệt phái của thời xưa, muốn đưa người khác vào con đường
chết, muốn loại trừ người khác ra khỏi sự sống con người.
Trong cuộc sống đời thường có những lần con người không chấp nhận
nhau được, vì người khác được ưu đãi, được hạnh phúc, được thành công hơn mình,
nên tìm cách loại trừ để đưa người đó vào con đường chết. Khi đó nếu con người
nhớ đến mình đã từng được yêu thương, được chăm sóc như bao người khác, tại sao
mình không yêu thương, như đã từng được yêu thương. Khi đó chúng ta giống như
hai chú gà đá nhau mà không cần biết mình đang làm gì và muốn gì. Không cần
biết mình đang đi trên con đường sống hay đang bước đi trên con đường chết.
Nếu trong cuộc sống mà chúng ta biết đặt câu hỏi: mình đang yêu
thương hay đang loại trừ, đang sống hay đang chết. Nếu câu hỏi đó thường xuyên
có trong đời sống để biết trả lời thật chính đáng, thì thật là hạnh phúc cho
chúng ta.
Nếu chúng ta nhìn thấy được người khác như là một con người thật
sự đang hiện diện trước mắt, để biết đối xử cho xứng đáng với nhân phẩm của họ
với tất cả những gì cần thiết có thể được. Khi đó chúng ta đang sống, vì biết
dùng tình yêu thương. Nếu trong mỗi công việc mà nhớ đến lề luật Chúa Giêsu
dạy, để biết thi hành cách chính đáng trong mọi trường hợp, thì thật là hạnh
phúc cho chúng ta, vì chúng ta đang biết yêu thương và thi hành lề luật yêu
thương. Nếu chúng ta chấp nhận được người khác với tất cả những gì là con người
của người đó, để cùng nhau bước đi trên con đường yêu thương. Khi đó lề luật
Chúa không phải chỉ ở trên môi miệng, nhưng nó là chính cuộc sống của con
người, mà chúng ta đang sống, đang hành động.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, đốt nóng tình yêu Chúa trong mỗi
người, để biết yêu thương thật sự như Chúa đã yêu thương.
(Suy niệm của Lm JB. Nguyễn Minh Hùng)
"Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn ngươi. Và yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi".
Có bao giờ bạn tự hỏi xem, vì sao Chúa lại dạy phải yêu Chúa và yêu người? Lấy
ví dụ: bạn có con đi học. Khi thấy nó lười học, thì nói với nó: "Con học
bài đi, con phãi siêng học". Sở dĩ bạn bảo con mình chịu khó học là vì nó
chưa chăm học. Chúa dạy loài người phải yêu Chúa yêu người vì loài người chưa
yêu Chúa và cũng chưa yêu người. Hoặc chưa yêu một cách trọn vẹn như Chúa muốn.
Yêu như Chúa muốn đó là: "Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh
hồn, hết trí khốn. Và yêu kẻ khác như yêu chính mình".
Yêu Chúa là phải yêu bằng cả tấm lòng, cả linh hồn, cả trí khôn.
Tấm lòng, linh hồn, trí khôn là thành phần trọng yếu nhất của con người. Nếu
thiếu tấm lòng, nghĩa là thiếu trái tim, con người chỉ là một cái xác. Nếu
không có linh hồn, không phải là người nữa. Nếu thiếu trí khôn, dù mang hình
dáng con người, người đó cũng trở nên ngu đần. Yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng,
cả linh hồn và trí khôn, yêu bằng tất cả thành phần chủ yếu của một con người
là yêu vô cùng, yêu không tính toán, yêu Chúa một cách mạnh mẽ. Nhưng chỉ có
lòng mến Chúa thôi, chưa đủ. Lòng yêu mến Chúa đòi phải có một giới răn khác bổ
túc. Đó là yêu người. Yêu người cũng quan trọng không kém giới răn yêu Chúa.
Chính Chúa Giêsu nói: "Giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ
nhất là: ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi". Yêu Chúa và
yêu người luôn đi đôi với nhau. Nếu nói rằng yêu Chúa mà trong thực tế không
yêu tha nhân, không giúp đỡ người khác, là nói dối.
Ngược lại, chính khi yêu thương và giúp đỡ người khác là bằng chứng
chứng tỏ mình yêu mến Thiên Chúa.
Tuần trước chúng ta cử hành ngày thế giới truyền giáo. Nhưng tôi
nghĩ, sẽ không có truyền giáo đúng nghĩa nếu không biết yêu thương. Lòng yêu
thương anh em là phương thế truyền giáo hữu hiệu, vì nhân loại luôn luôn cần
đến tình yêu. Chính vì đặt tình yêu lên trên mọi chuẩn mực của một hành vi đạo
đức nào đó, nên đạo Công giáo cũng là đạo của tình yêu. Không thể nói với ai,
rao giảng cho ai về tình yêu mà bản thân ta không hề biết yêu thương. Đó là sự
mâu thuẫn lớn mà ta phải trút bỏ đi. Nếu ta không biết yêu thương thì cũng
không thể truyền giáo. Ngược lại, ta có một đời sống yêu thương thật sự, tử tế,
vui vẻ với mọi người, sẵn sàng giúp đỡ người khác, những việc làm tốt đó, tự
bản thân nó đã chứng minh ta là người có đạo, đã là truyền giáo rồi.
Nhưng không thể lúc nào cũng có thể nói về Chúa được. Lấy ví dụ:
một thầy cô giáo có đạo, đi dạy ở một trường học nào đó, chắc chắn thầy cô đó
không thể vào lớp học để nói về đạo, về Chúa được. Nhưng điều mà người thầy hay
cô đó có thể làm được là chứng minh đời sống đạo của mình như: vui vẻ với đồng
nghiệp, yêu thương, độ lượng với học trò... Trong đời sống hằng ngày, mọi người
có thể làm được những chuyện rất bình thường như: lượm một cục đá trên đường bỏ
vào một nơi nào đó để các em nhỏ đi không bị vấp, các cụ già không bị té. Hoặc
là ta biết giữ vệ sinh chung, đừng ném mọi thứ rác rưởi ra đường, ở nơi công
cộng... tất cả những việc làm đó đều là những việc làm cụ thể, ai cũng làm
được.
Với tất cả những phương thế thực hành vừa đề nghị bên trên, không
phải là thể hiện lòng yêu Chúa, yêu tha nhân hay sao? Đó cũng không là phương
thế truyền giáo hay sao? tin rằng bạn và tôi đều luôn là những người cố gắng
sống tốt, để người ngoài nhìn vào có thể nói rằng: anh hay chị ấy sống tốt vì họ
là người Công giáo.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)
Điên rồ hay là đơn giản
Sau nhóm Xađốc, đến nhóm Pharisêu đặt câu hỏi với Đức Giêsu cũng
với ý định bắt bẻ Người. Trước câu hỏi được nêu lên như một cái bẫy, Đức Giêsu
đã trả lời ngay, không cần suy nghĩ. Chỉ trong một câu ngắn, Đức Giêsu đã rút
gọn toàn bộ lề luật, đổng thời cho thấy tinh thần cũng như nét phong phú của
luật pháp.
Xưa kia, bộ luật Do-thái gồm những quy định phức tạp, chặt chẽ với
613 điều -368 điều cấm và 245 điều phải làm, nay được Đức Giêsu đơn giản hoá
thành 2 điều, hay đúng hơn chỉ là một: "yêu mến Thiên Chúa và người thân
cận." Qua việc nối kết lòng yêu mến Thiên Chúa với tình yêu thương đồng
loại, Đức Giêsu đã tóm tắt toàn bộ Kinh Thánh, coi đó như giá trị luân lý nền
tảng hay quy tắc của đời sống. Khi tuyên bố điều răn thứ hai cũng quan trọng
như điều răn thứ nhất, Đức Giêsu muốn cho thấy rằng tình yêu thương đồng loại
có giá trị ngang hàng với lòng yêu mến Thiên Chúa.
Thế là từ nay, những khoản luật phức tạp, những chi tiết khắt khe
đã được đơn giản hoá và trở nên thật dễ dàng. Tất cả bộ luật được thu tóm lại
trong hai điều răn có liên hệ với nhau cách chặt chẽ. Nói cách khác, toàn bộ
các điều răn khác được đặt nền trên hai điều răn này như là những điều cơ bản
không thể thiếu, đồng thời cũng hướng tới hai điều răn này như là mục đích sau
cùng, như tiêu chuẩn phán đoán. Tất cả những khoản luật đi ngược với tinh thần
của hai điều răn này đều trở thành vô giá trị.
Như vậy, Đức Giêsu mở rộng cánh cửa hướng đến sự công chính. Luật
pháp chỉ là phương tiện và chỉ có được ý nghĩa khi nó diễn tả được điều cốt yếu
là sự thánh thiện nội tâm, là đức tin sống động, là tình yêu nổng nàn thúc đẩy
mọi hoạt động.
Thế nhưng, chính tóm tắt có vẻ đơn giản và dễ dàng này lại buộc
những người theo Đức Kitô phải sống tích cực hơn và mỗi ngày một hơn. Người ta
sẽ không chỉ tuân thủ những chi tiết luật pháp, nhưng là tình yêu mến. Mà lòng
yêu mến không thể bị giới hạn ở một mức độ nào đó. Đức Giêsu không nói: "Hãy
yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bao nhiêu có thể", nhưng Người đã
trích dẫn luật Mô-sê: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi."Tại sao Thiên Chúa lại đòi
buộc con người phải yêu mến "hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn"?
Bản tính con người vốn yếu đuối, giới hạn và hay thay đỗi: điều này Người quá
biết. Tại sao Người lại yêu cầu con người phải vượt quá khả năng của mình?
Thật ra, nếu đứng trên quan điểm sự khôn ngoan loài người, thì Tin
Mừng toàn là những đòi hỏi vô lý, điên rổ. Những ai mong muốn tìm thấy trong
Tin Mừng những câu châm ngôn hợp lý và dễ dàng, người ấy sẽ thất vọng. Quan
niệm loài người sao có thể chấp nhận nỗi "Bài giảng trên núi", trong
đó người nghèo được đề cao, người hèn kém được vào Nước Thiên Chúa, còn những
người được coi là đạo đức lại bị loại trừ? Lý luận của con người làm sao có thể
hiểu nỗi câu nói: "Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống
mình vì Thầy, thì sẽ giữ lấy được". (Mt 10,39)? Và sau cùng, còn gì gây
chướng kỳ hơn khi chứng kiến con người tự nhận là Đấng Cứu độ, Đấng ban sự
sống, lại chịu treo trên thập giá? Toàn là những chuyện điên rồ!
Nên nhớ rằng, Kitô giáo không phải là một tôn giáo có thể lý luận
được cách có hệ thống. Tinh thần Kitô giáo luôn hàm chứa một khả năng gây bất
ngờ, và cả khó khăn nữa. Kitô giáo không phải là một thứ tôn giáo trong đó mọi
sự được sắp xếp cách trật tự và hoàn hảo như một tài sản được quản lý tốt. Trái
lại, Kitô giáo luôn là một sự hướng tới: hướng tới vô biên, tới Đấng mà
"tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối của
các ngươi không phải là đường lối của Ta."(Is 55,8). Đó là một sự điên rồ,
điên rồ của tình yêu và đó cũng là tình yêu, tình yêu đối với Thiên Chúa và với
đồng loại.
Từ "và" đến "trong"
Vào thời Đức Kitô và cả ngày nay nữa, vẫn có những trường phái tự
cho rằng mình có quyền ưu tiên đưa ra giải thích đúng đắn về chân lý. Họ cho
rằng quan niệm của mình là có lý còn của người khác thì sai lầm. Có lẽ con
người ngày nay không cần quan tâm đến việc tìm hiểu những chi tiết trong các
cuộc tranh luận của người Do-thái. Thế nhưng, khi suy niệm lời giải thích của
Đức Giêsu, người ta sẽ thấy đòi hỏi luân lý được sáng tỏ và tìm ra được nét
thống nhất cho mọi hoạt động và suy nghĩ của mình. Phải yêu mến Thiên Chúa
"hay là" yêu mến người thân cận? Nên theo chủ trương chiều dọc
"hay là" chiều ngang? Đó là những câu hỏi con người thời nay thường
nêu lên. Với một số người, sự quan tâm đến những vấn đề cụ thể của con người có
thể gây nguy hại cho lòng tin vào Thiên Chúa. Với những người khác, thời giờ
dành cho Thiên Chúa có nguy cơ làm quên lãng người thân cận. Thật ra, ngày nay
cũng như ngày xưa, Đức Giêsu luôn mời gọi và bó buộc phải vượt ra khỏi những
song quan luận theo kiểu này. Chúng chỉ là những thứ mặt nạ che dấu thái độ từ
khước cũng như những nỗi sợ hãi của con người. Trả lời cho nhà thông luật về
điều răn trọng nhất, Đức Giêsu đã khẳng định đó là lòng yêu mến Thiên Chúa. Tuy
vậy, Người còn đưa ra, hay đúng hơn, còn nối kết tình yêu thương đồng loại với
lòng yêu mến Thiên Chúa, "cũng giống điều răn ấy".
Điều răn thứ hai này "cũng giống" điều răn thứ nhất, tức
là cả hai đều quan trọng. Nói cách khác, điều răn thứ hai có bản chất và tầm
quan trọng cũng "lớn" như điều răn thứ nhất. Dầu vậy, giống nhau chứ
không phải là đồng nhất: hai việc đó vẫn khác nhau và có thứ tự trước sau,
không thể đổi qua đổi lại với nhau như thể yêu đồng loại cũng là yêu mến Thiên
Chúa, và yêu mến Thiên Chúa tức là yêu mến đồng loại: Thiên Chúa luôn ở phía
chân trời và luôn mời gọi con người tiến xa hơn; đồng loại là thực tại gần gũi
với những giới hạn cụ thể. Giáo huấn của Đức Giêsu có ý nhấn mạnh rằng yêu mến
đồng loại cũng có tính cách khẩn thiết như là yêu mến Thiên Chúa, và không được
xao lãng nhiệm vụ nào.
Do đó, không có vấn đề bên này hay bên kia. Không được quyền nói
"hay là", nhưng phải nói "và". Một cách chính xác hơn: chỉ
có thái độ mở ra với Thiên Chúa mới dẫn đến tình yêu thương đồng loại cách đích
thực; và chỉ có thái độ sẵn sàng với người khác mới cho phép con người nói rằng
mình yêu mến Thiên Chúa mà không dối trá. Sau đó, "và" sẽ biến thành
"trong": con người yêu mến Thiên Chúa "trong" người thân
cận, và yêu mến người thân cận "trong" Thiên Chúa. Huyền nhiệm và con
người hành động không phải là kẻ thù của nhau, nhưng là anh em của nhau.
Bài học phải thuộc lòng
Bài Tin Mừng này con đã thuộc lòng con biết rất rõ điều răn phải
yêu mến Thiên Chúa và người thân cận bắt nguồn từ một tâm tình duy nhất. Thế
nhưng, hình như bản Tin Mừng chỉ là một thứ kỷ niệm, tựa những câu chuyện cổ
tích thời thơ ấu, như một điều không có thực. Làm sao con có thể yêu nỗi mình
và cả người khác đang vắng mặt?
Không, con chỉ mới thuộc mặt chữ, con quên rằng chính Thầy đang
thì thầm trong hồn con, và đang thúc đẩy con ra khỏi mình. Con đã quên rằng lề
luật không phải là nhà tù, cũng không phải là một sự sắp xếp. Trái lại, đó là
một lời mời gọi hướng tới tình yêu, đó là lời kêu mời hãy nhận ra rằng: bàn tay
con được dựng nên để nắm lấy, và trái tim con được dựng nên để thứ tha. Lắng nghe
lời Thầy, con sẽ không cảm thấy gì khác hơn là con đang mang trong mình một
khát vọng vô biên. Con nghĩ rằng mình thuộc lòng bài Tin Mừng, nhưng con đã
không hiểu thấu Thầy là ai, cũng chẳng hiểu rõ các điều răn. Thầy là tình yêu,
và con đã quên mất - Thầy đã đến gặp con để con được sinh ra, và cũng trở thành
tình yêu. Thầy biết rõ con không hiểu về chính con, cũng không hiểu về người
khác, về Thiên Chúa. Chính vì vậy, Thầy đã đến trần gian. Hãy đến và sống theo
Thầy bấy giờ con sẽ thuộc và hiểu rõ về Tin Mừng.
Một lần nữa những người Pharisêu muốn giăng bẫy Chúa Giêsu, kiểm
tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn Ngài vào trong sự rắc rối
của hàng ngàn luật lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết, sắp thấy Ngài có dạy
dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay không.
Chúa Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một sự tự do, một sự trong
sáng và một sức mạnh sáng tạo làm cho những người Pharisêu không nói được một
lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa... Ngươi
phải yêu thương anh em ngươi...”. Đây là câu trả lời đơn giản của học trò giỏi,
nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều luật tới gần nhau bằng cách cho
hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể từ giây phút này tình yêu
thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương Thiên Chúa và sẽ không rời
ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên ngọc duy nhất nay sáng lên bằng
cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều chúng ta nghĩ và làm: tất cả đều
tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những điều phải làm hoặc không được
làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một câu hỏi: tôi có thể yêu thương
như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng trong Kinh Thánh, lề luật
và các tiên tri, và do đó tất cả những gì Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta, phát
xuất từ hai điều răn gắn với nhau này. Những người chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi
Ngài nay bị buộc quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu thương”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng tuân giữ hoàn toàn hai
giới răn lớn này là một cách thức triệt để, nhưng có tính cách bó buộc đến nỗi
chúng ta thích đi quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui định. Đàng khác, những qui
định này là cần thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ, phải hun đúc yêu thương bằng
những bó buộc khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi thật sự yêu mến Thiên Chúa và
anh em của tôi nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời: làm mất tác dụng sự bó
buộc yêu thương bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc đó. Với ít nhiều ý thức
chúng ta lý luận theo cách này: nếu tôi làm tất cả những gì được yêu cầu thì đã
yêu thương rồi đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng, bởi vì điểm xuất phát thì xấu.
Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng tất cả trước tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt
để đó là yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt đầu bằng hàng ngàn điều phải làm
nhưng là bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là: trước hết phải thực hành
yêu thương điều gì đó một cách hoàn toàn vô điều kiện. Thế rồi ý thức muốn yêu
thương này sẽ dần dần hóa thân vào trong tất cả các biến cố, các cuộc gặp gỡ và
các sự tuân phục –nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ là bất hạnh nếu lại rơi
vào trong sự âu lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau khi đã nhận được từ Chúa
điều răn ngắn nhất và tự do nhất trong số các điều răn của cuộc sống: Tôi có
yêu thương hay không?
Nếu tình cờ có ai hỏi: "Đối với bạn, điều gì quan trọng
nhất?"; chắc hẳn sẽ có rất nhiều câu trả lời. Có người sẽ cho rằng đó là
chu toàn trách nhiệm; vì ai sinh ra đời cũng đều lãnh nhận trách nhiệm, trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội.
Có người sẽ không ngần ngại trả lời: đó là sống trong sạch; vì quả
thật, theo nhà phân tâm học Freud, chúng ta chào đời với đầy những ám ảnh về
những cấm kỵ, những cám dỗ về điều răn thứ 6, tội dâm dục…
Người khác lại sẽ cho rằng đó là sự công bằng. Bởi lẽ phải có công
bằng trước đã, rồi mới có thể nói đến bác ái, tình yêu. Một xã hội công bằng,
đó đã là một điều tuyệt vời lắm rồi.
Và còn có thể có nhiều câu trả lời khác nữa cho câu hỏi này; cũng
như người Do Thái khi xưa đã tranh luận mãi về một giới răn trọng nhất.
Đức Giêsu, Ngài tóm tắt điều quan trọng nhất trong một giới luật:
"Mến Chúa, yêu người". Tất cả những câu trả lời khác đều tốt, nếu
chúng thể hiện được lòng "mến Chúa yêu người"; và sẽ chẳng là gì nếu
chúng không xuất phát từ lòng "mến Chúa yêu người". Có thể chúng ta
đã coi trọng chuyện "nhà thờ nhà thánh" hơn là quan tâm đến một người
hàng xóm đang gặp túng quẫn; có thể chúng ta giữ kỹ mọi lề luật, nhưng lại so
đo tính toán với Chúa từng ly từng tí… như thế thì còn đâu là "mến Chúa
yêu người" được.
Thái độ căn bản của tình yêu là cởi mở, đón nhận. Mở lòng ra với
Thiên Chúa và quảng đại đón nhận anh chị em. Mở lòng ra với Chúa để chu toàn
những luật lệ đòi buộc ta không làm như người nô lệ; quảng đại đón nhận anh chị
em để mối tuơng quan con người với nhau không bị đổ vỡ, méo mó vì những chấp
nhất, tỵ hiềm, ganh ghét.
Thánh Phaolô đã diễn tả tình yêu đó như sau: "Đức Mến thì
nhẫn nhục, hiền hậu; không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm
điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không
mừng vui khi thấy sự ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất
cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả" (1Cr 13,4-7).
Chỉ có một điều quan trọng nhất là lòng Mến; nhưng lòng Mến lại
được thể hiện trong muôn vàn cách thức khác nhau.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu thương;
và vì tình yêu đó,
Chúa đã dám làm tất cả cho người Chúa yêu.
Xin cho chúng con
cũng được tràn đầy tình yêu như Chúa.
Xin cho chúng con cũng dám vì yêu thương
mà tận tâm phục vụ anh chị em của con.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy
giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn giới răn thứ hai
cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương anh em như chính
mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm tưởng dường như Chúa
Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi việc yêu người là
cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã phán: Mỗi khi lên
đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất bình với ngươi thì
hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước đã rồi mới tới mà
dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng ta thực hiện cho
người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng đặc điểm của lòng
yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ một cách nhưng
không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không mưu cầu danh vọng
địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã từng làm gương
cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và
hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình yêu Ngài dành cho
chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho chúng ta. Hơn thế
nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài cũng phải sống tinh
thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ xuống rửa chân cho các
môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa chân cho các con, thì các
con cũng phải rửa chân cho nhau. Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi vào
một vấn đề thời sự nóng bỏng trong giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi
thi hành chức vụ của ban hành giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần
phục vụ đối với Chúa cũng như đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong
những ngày qua, tôi rất xúc động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình
không thể ra ban hành giáo được, cho nên đã tích cực động viên chồng con của
mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào
ban hành giáo, ông sẽ đạo đức hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của
mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì
lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và
băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô
Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội
đủ điều kiện, có dư thiện chí và tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý
do này lý do khác, đã không thể ra được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những
anh em có lý do chính đáng. Thế nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố,
nhưng rồi khi đến việc lại chẳng thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa
khôi hài lại vừa chua chát, chẳng hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né…
Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc
làm. Một trong những lý do thường được đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà
xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh
vác việc chung thì thế nào cũng phải chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà.
Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc quyền, không muốn ông xã của mình bị chia
sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân, đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra.
Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá siêng năng việc chung mà bê trễ việc
riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập, cho nên khi có người đến vận động
thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì chối bai bải. Hành động như thế,
chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu trách nhiệm chung, cũng như
thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ
Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong
những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa
lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như
vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô
Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi
người.
Một em bé tuyên bố em yêu mẹ em hết sức của em. Người bác hỏi xem
em nói điều đó có ý nghĩa gì. Em trả lời: "Thưa Bác, cháu và mẹ cháu sống
ở tầng lầu thứ ba trong khu nhà thuê. Nhà này không có thang máy, và đống củi
thì để ở dưới hầm nhà, dưới basement. Mẹ cháu bận rộn suốt ngày và người cũng
không được khoẻ cho lắm. Vì thể bổn phận và trách nhiệm của cháu là đem củi từ
dưới hầm lên lò sưởi trên nhà. Cháu đã phải dùng hết sức của cháu để có thể bê
củi lên đến tầng lầu thứ ba. Như vậy chẳng phải là cháu yêu mẹ cháu hết sức đó sao?"
Là Kitô hữu, chúng ta thường tự hỏi: Đâu là mức độ chúng ta phải
yêu Thiên Chúa và tha nhân? Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay bảo chúng ta
rằng, trước hết chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết
trí khôn, và thứ hai là thương yêu tha nhân như chính mình.
Chúa Giêsu trích hai điều luật này trong sách thánh Cựu ước. Điều
luật thứ nhất về yêu mến Thiên Chúa trích ở sách Đệ Nhị Luật (Đnl 6,5) và điều
luật thứ hai về yêu thương tha nhân trích sách Lêvi (Lv 19,18).
Như chúng ta đã biết căn bản của đạo Do thái gồm tóm trong 10 giới
răn Chúa trao cho ông Maisen. Từ những giới răn này, các thầy thông giáo đã
thêm thắt thành 613 luật riêng rẽ, chia ra 248 luật phải giữ và 365 luật cấm.
Vì vậy thật khó mà nhớ hết tất cả các luật đó để giữ và chu toàn một cách tỉ mỉ
trong cuộc sống hằng ngày. Do đó việc nhận biết khoản luật nào quan trọng hơn
mà giữ là điều cần thiết.
Khi Chúa Giêsu nối kết hai khoản luật thành một, Ngài có ý cho
chúng ta hiểu rằng mến Chúa yêu người đó là hai mặt của một đồng tiền.
Trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, nhiều người đã bỏ thế gian,
trở thành những thầy dòng khổ tu, sống hãm mình khắc khổ trong sa mạc. Một dịp
mùa chay nọ, một nhóm thầy dòng cùng với Đức Viện phụ Maisen quyết định ăn chay
tuần lễ thánh. Tuy nhiên, vào khoảng giữa tuần, một vài thầy dòng ở một tu viện
khác đến thăm chòi của Đức Viện phụ Maisen. Thấy họ đói, Đức Viện phụ thương
hại và nấu cho họ chút đồ ăn, và để cho họ khỏi nghĩ ngợi, Đức Viện phụ cũng
dùng chút ít.
Trong khi đó, các thầy dòng khác thấy khói bốc lên từ chòi của Đức
Viện phụ. Điều đó chỉ có nghĩa là Đức Viện phụ đã nấu đồ ăn. Nói một cách khác,
ngài đã vi phạm luật giữ chay. Họ sửng sốt và thương hại cho sự yếu đuối của
Đức Viện phụ.
Họ đến chất vấn ngài. Đức Viện phụ bước ra khỏi chòi và hỏi:
" Tôi đã phạm tội gì mà các thầy nhìn tôi một cách khủng khiếp quá như
vậy?". Họ trả lời: "Đức Viện phụ đã vi phạm luật chay mà chúng ta
tình nguyện giữ vì yêu Chúa Kitô tử giá". Đức Viện phụ đáp: "Phải,
tôi đã vi phạm luật giữ chay. Tôi đã không giữ luật của con người, nhưng trong
khi chia sẻ đồ ăn với những thầy dòng nầy, tôi đã giữ luật của Thiên Chúa. Các
thầy không nghĩ là Chúa Giêsu cũng làm như vậy sao? Các thầy ạ, các thầy đã xé
tin mừng của Chúa ra làm hai. Có hai giới răn trọng, chứ không phải chỉ có một.
Chúa Giêsu bảo chúng ta rằng phải yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, và
yêu tha nhân như chính mình. Chúng ta không vào sa mạc để xa tránh nhân loại và
để sống một mình với Chúa. Chúng ta đến đây để tìm kiếm tha nhân và yêu thương
họ trong Thiên Chúa". Các thầy dòng ra về khiêm nhường và khôn ngoan hơn.
Có lẽ nếu không để ý chúng ta cũng đã phạm cùng một lầm lỗi các
thầy dòng, các luật sĩ và biệt phái đã phạm, đó là nghĩ chỉ có một giới luật
yêu mến Chúa. Chúng ta có thể chu toàn lề luật siêng năng đi lễ, ăn chay, đọc
kinh cầu nguyện, đi hành hương Đất Thánh, hoặc nơi này nơi kia... mà quên đi
giới luật yêu thương tha nhân.
Ngược lại, số người khác theo chủ thuyết duy nhân nhân bản, chú
trọng giúp đỡ con người, nhưng lại không bao giờ nghĩ đến Thiên Chúa hay cầu
nguyện với Ngài.
Thiên Chúa truyền dạy chúng ta yêu mến Chúa và yêu thương tha
nhân. Yêu Chúa nhiều thì không dễ, và yêu tha nhân - những con người với nhiều
khuyết điểm thiếu sót - lại càng không dễ hơn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm: Đạo chúng ta
là đạo của tình thương, và phải chăng thước đo lòng đạo của chúng ta là những
kinh kệ dài dòng và biểu dương tôn giáo, hay chính là tình yêu mà chúng ta thể
hiện với tha nhân?
Ngày xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một
đêm mùa đông, một bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ
chối. Chẳng may, bà lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có
lòng thương người, bà đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí
và hung dữ. Trước khi ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại
thành hoàng tử nếu có ai thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp
tên là Belle. Cô mồ côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn
thường xuyên quấy phá. Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu
đài, bị mãnh thú bắt giữ. Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì
thương cha, cô chấp nhận đổi mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha
được tự do ra về.
Về đến nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con
mãnh thú để cứu con gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và
đem lòng yêu mến mãnh thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú
vì yêu thương cô gái, không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô
về nhà với cha. Chiến trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú.
Đang khi giao chiến với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm
cha già, cô gái thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến
đúng khi mãnh thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không!
Xin đừng chết! Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ
hôn yêu thương đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú
như trước. Đó là câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình
“The Beauty and the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của tình yêu. Tình yêu có
khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu hết những vấn đề rắc
rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình thương. Rất nhiều phạm
nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và cần đến là tình yêu.
Thánh Kinh dạy rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là bản chất của Thiên
Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, nên cũng
luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản này của con
người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người Biệt phái
biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến Chúa là
Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ hai là:
“Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói:
“Thưa cha, chúng con sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết
ý kiến?” Cha sở suy nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh
dạy rằng con phải yêu thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội
Thánh. Con có thể thực hành được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không.
Con không nghĩ con giữ được điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở
mức độ thấp hơn vậy. Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như
yêu chính mình. Con có thể yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được
không?” Người chồng nói, “Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách
tuyệt vọng, sau cùng cha sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu
thương kẻ thù của con, thôi con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ trương phải tuân giữ
các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do truyền thống của các
thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và các tiên tri mà thôi,
không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được đặt ra cho Chúa
Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được tranh cãi giữa
những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt phái nhằm gài bẫy
Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa các phe nhóm tôn
giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù hận và ích kỷ
đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại
tị nạn Bihari ở Bangladesh trở về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau:
“Buổi sáng đầu tiên ở trại tị nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không
dám đụng vào bất cứ cái gì, nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị
nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé
gái, mục đích chính chỉ là chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã
cố gắng hết sức đừng cúi xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy,
một người nào đó tình cờ đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như
một phản xạ, tôi nắm lấy em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên
người em. Tôi nhớ mãi một thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức
tiếng khóc ngưng bặt. Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều
thực tế về tình yêu Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận xét rằng việc yêu
thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi sinh hoạt của con
người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình. Chính vì những đòi
hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác một cách thực sự.
Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui. Để thực sự yêu
thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để tiến tới việc
chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về Thiên Chúa và
tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
Vào thời Đệ Nhị Thế Chiến, tại San Francisco, có hai gia đình di
dân sống gần nhau và thuộc cùng một xứ đạo: một gia đình người Nhật và một gia
đình người Thụy sĩ. Sau nhiều năm làm việc khó nhọc, cả hai gia đình đã thành
công trong nghề trồng hoa hồng. Đột nhiên, ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn
công Trân Chân Cảng, và họ nghe đồn rằng những người Mỹ gốc Nhật sẽ bị bắt vào
trại tập trung. Gia đình người Thụy Sĩ hứa sẽ tiếp tục săn sóc vườn hoa cho gia
đình người Nhật, nếu thực sự họ bị bắt, vì đây là điều họ đã được Chúa dạy:
"Các con hãy thương yêu nhau." (Ga 15,17). Và quả thật, gia đình
người Nhật đã bị bắt. Một năm. Hai năm. Rồi ba năm qua đi, gia đình người Thụy
Sĩ đã hy sinh thời giờ và sức lực để trồng cấy và đem hoa ra chợ bán thay cho
gia đình người hàng xóm của mình. Khi chiến tranh chấm dứt, gia đình người Nhật
được trả tự do, và họ đã được gia đình người Thụy Sĩ ra tận bến xe để đón về.
Về đến nhà, họ thấy một vườn hoa xanh tươi, một căn nhà sạch sẽ tươm tất, và
một món tiền, sinh lời được trong ba năm họ xa nhà.
Được lòng yêu mến Thiên Chúa thúc đẩy, gia đình người Thụy sĩ trên
đây đã thực hành đúng lời Chúa đã truyền dạy: "Hãy yêu mến Thiên Chúa hết
lòng, hết sức, hết trí khôn... và hãy yêu thường anh em như chính mình."
Mến Chúa và yêu người, đó là hai khoản luật Thiên Chúa quan tâm
chú trọng ngay từ những ngày đầu tiên con người xuất hiện trên trái đất, và
cũng là hai khoản luật con người đã lỗi phạm ngay từ những trang sử đầu tiên
của nhân loại.
Vì nguyên tổ đã không hết lòng tin tưởng ở Thiên Chúa, nên đã tin
lời của ma quỉ; vì ghen tương, Cain đã giết chết em mình. Đến thời Xuất Hành,
khi Thiên Chúa ban bộ luật cho dân Do thái, một lần nữa, hai khoản luật quan
trọng vẫn là hết lòng tôn thờ một mình Thiên Chúa Giavê (Đnl 6,5), và yêu
thương anh em đồng loại như chính mình, cách riêng những người nghèo hèn yếu
thế ( x Lv 19,18.33-34)
Dẫu vậy, khi Chúa Giêsu liên kết hai giới luật này, và coi hai
điều này là giới luật cao trọng nhất trong toàn bộ lề luật, Chúa đã làm một
điều mới lạ. Nhưng vấn đề ở đây là sao Chúa Giêsu lại làm như vậy.
Khi truyền dạy chúng ta "yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết
trí khôn", đó là Chúa dạy chúng ta hãy yêu mến Chúa với toàn diện con
người của mình. Điều này có nghĩa là mọi việc chúng ta làm đều phải qui hướng
về Chúa. Thiên Chúa có quyền đòi buộc điều này là vì chúng ta là thụ tạo của
Người, và mọi cái chúng ta có đều là do Chúa ban cho. Chúng ta có thể tự tình
phụng sự mến yêu Chúa và được hưởng hạnh phúc với Người; hay với sự tự do Chúa
ban, chúng ta có thể từ chối phụng sự Chúa, và rồi sẽ phải lãnh chịu hiệu quả
của quyết định đó.
Một khi chúng ta quyết định sống với Chúa trong tâm tình thờ kính
mến yêu, chúng ta sẽ biết phải có tâm tình nào, hành động làm sao, nói năng thế
nào, trong mỗi hoàn cảnh của cuộc sống. Các giới luật khác lúc đó không còn là
gánh nặng, nhưng là những nhắc nhở cho chúng ta về bổn phận và trách nhiệm của
mình đối với Chúa. Nhưng vì đối với Chúa, chúng ta không thấy, và cũng không
cảm nghiệm được bằng giác quan, nên Chúa đã muốn chúng ta yêu mến Người qua các
thụ tạo của Người. Theo lời Thánh Augustinô, "Vì chúng ta không nhìn thấy
Chúa, nên Chúa đã muốn chúng ta thấy Chúa qua tha nhân. Vì khi yêu mến tha
nhân, ánh nhìn của chúng ta được thanh tẩy nên trong sáng hơn để có thể nhìn
thấy Thiên Chúa." Dĩ nhiên lòng mến yêu này không phải là tình yêu tự
nhiên, hay yêu tha nhân là vì một lợi lộc cá nhân nào đó, nhưng phải là tình
yêu được bắt nguồn và phản ảnh chính tình yêu thương của Chúa Kitô: Một tình
yêu rộng mở đến mọi người không kể giai cấp, mầu da, chủng tộc; một tình yêu
quảng đại quên mình; một tình yêu nhạy cảm, cách riêng đối với những nghèo khổ,
bệnh tật, những người bị gạt ra ngoài lề của xã hội.
Chắc rằng cho dù gia đình người Thụy sĩ có yêu mến gia đình người
hàng xóm đến đâu đi nữa. họ cũng không đủ sụ quảng đại và kiên nhẫn để tiếp tục
công việc bác ái đó trong suốt 3 năm trường, nếu lòng yêu mến đó không được
nâng đỡ và thúc đẩy bởi lòng yêu mến Thiên Chúa. Mến Chúa và yêu người do đó có
một mối liên hệ thật mật thiết với nhau. Lòng mến Chúa cần được bày tỏ qua tình
thương mến đối với tha nhân, và lòng yêu thương tha nhân chỉ bền vững và chân
thành khi nó được nuôi dưỡng và nâng đỡ bởi tình yêu mến Thiên Chúa.
Vào ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên
báo trong mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7
năm 1964. Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày
kỷ niệm 25 năm thành hôn của em, và em có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một
người mẹ và một người cha thực sự yêu thương nhau, do đó em biết được tình yêu
là gì. Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh
xuân vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ một cách an toàn, do đó em biết được
sự hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và những lời cầu nguyện của em đã được
lắng nghe, do đó em biết được đức tin là gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một
con người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng kể nhất trên đời, do đó em biết được
niềm vui là gì. Em yêu anh”.
Tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang lại niềm vui. Một
niềm vui không giống như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con người hư hỏng có thể
tìm được khoái lạc trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một con người tầm thường
cũng có những giây phút cảm thấy hạnh phúc trong đời. Nhưng niềm vui chân thật
theo ý nghĩa của Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình yêu biết hy sinh và
quên mình vì Thiên Chúa và tha nhân.
Niềm vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới từ một viễn tượng đã
được thăng hoa và phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó chính là biết “mến
yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ bình an của Chúa”.
Đó chính là tìm an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân và quên mình như
lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên
thực hiện một cuộc du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường
rất cao chận đứng trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem
cái gì ở phía bên kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la
lên trong khoái lạc cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng
làm tương tự như vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên,
chiêm ngắm một khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn.
Chưa bao giờ anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người
khác, anh cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi
chút, nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo
xuống chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt
trần cho những người khác biết.
Từng người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng
đất mới với những hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng
mình nên đã tự huỷ diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ
nó với những người khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái
nhìn nội tâm của chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với
những người khác.
Tôi rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích từ lá thư thứ nhất của
thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công giáo, Edgar Bruns:
“Phàm ai yêu thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được dịch đúng chữ như
sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”. Điều thực sự rằng
tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa được sinh ra, được
chia sẻ với hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế giới.
Thời Giáo Hội sơ khai, những người không phải Kitô hữu đã để tâm
lưu ý đến những người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ yêu thương nhau là
dường nào!” Theo một truyền thống của Thánh Gioan để lại, lúc đó ngài đã già
yếu và bước đi rất khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa nhật. Gioan phải nhờ
những người bạn dìu đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải giúp cho Gioan đứng lên
ban phép lành cho cộng đoàn và nói: “Các con thân mến, các con hãy yêu thương
nhau”.
Một ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị môn đệ già yếu đó lúc
nào cũng nói y như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi lập lại mãi một bài
giảng. Nhưng vị trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không còn gì hơn để nói nữa.
Đây là lời nói sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau, đó là tất cả mọi sự.
Cuối cùng, người ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những người Kitô hữu bằng
tình yêu thương của chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm của Chúa đến mọi nơi
con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và sức sống của Chúa. Xin
Chúa xâm chiếm toàn thân con để con chiếu toả sức sống của Chúa. Xin Chúa chiếu
sáng qua con, để những người con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang sống và hiện
diện trong con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa, không bằng lời nói suông,
nhưng bằng cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa” (Lời
cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta).
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Báo Tuổi trẻ có đăng bài “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi.
Câu chuyện như sau: “Tiệm phở A (đường Kỳ Đồng)” chiều hôm kia mưa như trút
nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men
cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở mang về. Lúc ông đang long lấy tiền – gói
trong hai ba lớp bịch ni-lông – ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi
ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng
tai ngớ ra không hiểu, người thanh niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm
cúi ăn: “Thằng này trả chứ không phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ để câu
chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn
còn chưa hết ngạc nhiên thật thà nói “có”. Người thanh niên kia bật cười, bảo
“nói chơi đó bác ơi”. Bút Bi tình cờ có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ
trong quán cũng cười ầm lên. Ông già hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui
vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò, Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang
dép, đi chiếc Cub đời cũ, trông có lẽ là những người lao động làm lũ, và cử chỉ
của họ thật dễ thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han,
chăm sóc. (Ông gìa phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm
ấy ông sẽ thấy vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của
ông, để ông đi kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn
quyết định ăn luôn… hai tô phở!!
***
Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa” trên đây, chúng ta cảm
thấy ấm áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế nhị, một lời thăm hỏi chân
thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho mối quan hệ giữa người với
người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu thương. Giới răn lớn nhất
của đạo cũng chỉ là “mến Chúa, yêu người”. Đó là sứ điệp mà Tin Mừng hôm nay
muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Còn
điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu ngời thân cận
như chính mình” (Mt 22, 37-39).
Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập giá. Cây thập giá ấy
có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá muốn nói rằng, người tín
hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêm mến Người với tất cả trái tim, với
trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá muốn nói với người tín hữu,
phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ như chính mình, không loại
trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có thanh ngang, thì đâu
phải là cây thập giá. Nếu có “Mến Chúa” mà không có “yêu người”, thì chưa phải
là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người Kitô hữu luôn phải
sống trọn vẹn hai giới răn “Mến Chúa và yêu người” mới đích danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ rằng “Mến Chúa” thì dễ quá. Tôi vẫn đọc kinh
sáng tối, đi lễ cầu nguyện hang ngày, năng tham dự các bí tích, và họ bằng lòng
với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy nghe lại điều răn lớn
nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ “hết”, chúng ta dã yêu được
mấy chữ “hết” đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu tùy hứng, yêu đại
khái, yêu theo vụ mùa.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết lòng” khi chúng ta dám hy sinh thì
giờ, công việc, lợi nhuận, để đi tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, hay các
buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống thiêng liêng.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết linh hồn” khi chúng ta dám từ bỏ
danh vọng, lợi lộc, chức quyền để trung thành với Chúa và các giới răn của
Người.
Chúng ta chỉ yêu mến Chúa “hết trí khôn” khi chúng ta dám làm nhân
chứng cho Người trước lương dân, trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc
sống và tính mạng.
“Mến Chúa” đã khó, “Yêu người” lại càng khó hơn. Vì người ta đâu
phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện của chúng ta sẽ
có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. “Yêu người” như Chúa dạy là “Yêu như
chính mình”. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường yêu mình
quá độ.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng
ta tránh hết sức không làm tổn thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng
ta biết kính trọng người già yếu, an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo
đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô thân.
Chúng ta chỉ có thể “yêu người thân cận như chính mình” khi chúng
ta biết quảng đại trao ban và xả thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriao viết: “Ngày nào bạn không còn thắp sáng tình yêu, ngày đó
nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
***
Lạy Chúa, bác ái chính là đồng phục của người Kitô hữu. Nếu ngày
nào chúng con yêu anh em mà con tim sẽ thắt, thì xin nhắc cho chúng con nhớ lại
Lời Chúa: “Điều gì các con làm cho người bé nhỏ nhất là các con làm cho chính
Ta”. Amen.
Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu và Mẹ Giáo Hội muốn
nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người tín hữu Kitô, đó là
giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới răn được gồm tóm
tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa Giêsu không chỉ
đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng Ngài muốn giải
thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất công, khỏi mọi
độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu sống đúng với
phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong xã hội Do Thái
bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật. Bởi thế, người
ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh. ‘Nhất cử nhất
động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật. Đó là điều làm
cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không biết tôi làm
điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi không phải là
người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những luật lệ bó buộc như
vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho đời sống luân lý để
đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng ta không lạ gì thế
giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và biệt phái nhờ học
biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh thiện, là hoàn hảo hơn
người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số dân chúng là những
người không am tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền tảng sự công chính, đem
đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản đối những lề luật chẻ
cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con người, chứ không phải con
người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã đưa ra một giới luật yêu
thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó là điều răn thứ nhất, và
điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi hãy yêu thương
anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy làm điều chi
mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị Luật và Lêvi.
Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng cho đời sống
con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên Chúa là người Cha nhân
từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời dạy của Chúa Giêsu,
con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở trên trời". Một
người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc gì không cần phải coi
cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia không?
Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm đó có câu nào, tiếng
nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng một người con ngoan bao
giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có vui không? Và tôi chỉ
thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của Chúa Giêsu, ngài đã
đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì thì làm". Khi
chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố tình làm mất lòng
Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật lòng, thì làm sao
chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy người hoạn nạn mà
mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn "Mến Chúa và Yêu
Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là hai chiều kích trong
cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên hệ với Thiên Chúa và
chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó hợp lại thành cây Thánh
giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng ngày chúng ta thấy hình
ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà ở và chúng ta còn có
những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không ai có thể hình dung
cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà thôi.
Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở Việt Nam, một đêm nọ họ
đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ và thăm những
người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ hãi. Tôi ghé
thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày nào hết; Chúa
Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi ghé vào thăm
bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô cùng, vì đêm
rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức và Chúa đã
nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo kích đều rơi
ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa mà nhận lời
bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu người thì cũng lố bịch
và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi. Tình yêu đối với tha nhân
phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với Thiên Chúa. Tình yêu đối
với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không thể tách rời hai tình yêu
đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự nhiên chúng ta cảm
thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng ta yêu mến anh em
đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái vị tha, tự nhiên
tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai điều này:
"Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói dối. Còn ai
bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".
Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa hết tâm hồn, biết yêu
thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa được cả sáng, nước Cha
trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Có lẽ các bạn đã nghe bài thơ “Cây cối” kết thúc với những lời
“Những bài thơ được làm do những người ngốc như tôi, nhưng chỉ Thiên Chúa có
thể tạo dựng được một cây”. Tác giả của bài thơ đó theo đạo công giáo lúc 27
tuổi. Ông là một văn sĩ nhạy cảm, cởi mở và đơn sơ, lấy những vật thông thường
như thảo mộc và nói lên vẻ đẹp của chúng. Ong tòng quân vào thời thế chiến thứ
nhất và đã bị giết đi khi thi hành nghĩa vụ vào tuổi 32, để lại người vợ và gia
đình. Tinh thần tôn giáo sâu sắc của Klmer đạt tới sung mãn trong đức tin công
giáo. Ông yêu mến và sống đức tin ấy. Những bức thư ông gửi cho vợ, cũng là một
thi sĩ, cho các con và bạn hữu đầy tràn những hiểu biết thiêng liêng. Trong một
bức thư ông viết có một cái gì rất gần với Tin Mừng hôm nay: “Hãy cầu nguyện
cho tôi được yêu mến Chúa hơn. Đối với tôi, nếu tôi có thể yêu mến Chúa mãnh liệt
hơn, kiên trì hơn mà không sao nhãng thì thật không có gì khác đáng kể... Tôi
đạt được niềm tin do cầu xin ơn ấy. Tôi hy vọng đạt được lòng yêu mến cũng bằng
cách đó”.
Bao nhiêu người trong chúng ta đã xin Chúa giúp chúng ta yêu mến
Ngài? Yêu mến là một hồng ân do chính Thiên Chúa. Có nhiều người nghĩ lầm rằng
chúng ta có thể tiến triển trong lòng yêu mến Chúa do những nỗ lực của chính
mình, rằng hoàn toàn tùy thuộc ở cách chúng ta học biết yêu mến Thiên Chúa.
Chắc chắn là chúng ta cần làm mọi sự có thể để thực thi lệnh truyền Chúa Kitô:
“Hãy kính mến Thiên Chúa là Chúa con”. Nhưng trên hết và vượt mọi nỗ lực của
chúng ta, hồng ân này sẽ được ban cho chúng ta khi chúng ta cầu xin cùng cha
chúng ta trên trời.
Chúng ta muốn ám chỉ điều gì khi nói “Yêu mến Chúa?” Đây là định
nghĩa có giá trị giúp ta hiểu. Yêu mến Chúa nghĩa là ao ước làm vui lòng Chúa.
Lệnh truyền của Chúa Kitô có thể đọc là: “Con hãy ao ước làm vui lòng Chúa”.
Yêu mến tha nhân có nghĩa là ao ước làm điều thiện hảo cho họ. Chúng ta không thể
“làm điều thiện hảo” cho Chúa, nhưng chúng ta có thể ao ước làm vui lòng Ngài.
Chúng ta có thể và phải làm điều thiện hảo cho tha nhân. Một trong những cách
tốt nhất để làm vui lòng Chúa là làm điều thiện hảo cho tha nhân. Đã có những
lần Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: ai yêu mến Chúa thì tuân giữ giới răn của
Ngài. Cách đây vài Chúa nhật, chúng ta đã thấy rằng giới răn của Chúa là bằng
chứng tình yêu của chúng ta đối với Ngài.
Bạn đến tham dự Thánh lễ bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn
tôn thờ Ngài. Bạn năng rước lễ bởi vì Thiên Chúa muốn ở với bạn. Bạn cầu nguyện
bởi vì Thiên Chúa được vui lòng khi bạn thưa chuyện với Ngài. Bạn tôn kính danh
thánh Chúa bởi vì điều đó làm viu lòng Ngài. Bạn thảo kính cha mẹ bởi điều đó
là vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng sức khỏe và đời sống của tha nhân bởi vì điều
đó làm vui lòng Chúa. Bạn tôn trọng năng lực của phái tính vì điều đó làm vui
lòng Chúa. Bạn tôn trọng quyền lợi của tha nhân đối với của cải của họ, danh
thơm tiếng tốt, vợ con họ, bởi vì điều đó làm vui lòng Chúa.
Thưc hiện những điều này là yêu mến Thiên Chúa. Và để thực hành
những điều này, chúng ta cần đến sự trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta phải xin
Ngài giúp đỡ như Kilmer đã làm, như các thánh đã làm. Bạn hãy cầu xin như trong
lời nguyện nhập lễ: “Xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến, và biết yêu
chuộng những điều Chúa truyền dạy”.
Lạy Chúa, con muốn làm vui lòng Chúa. Xin Chúa giúp con làm vui
lòng Chúa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì trong hai điều răn quan trọng
nhất ấy, điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống điều răn nào?
2. Tại sao thánh Phao-lô tóm toàn bộ lề luật vào một điều răn duy
nhất: «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu
Chúa sao?
3. Nếu bạn là một người cha đông con, đồng thời là người cha tốt
lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình bằng cách nào?
CHIA SẺ
1. Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều
chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều «bì phu», điều cần thiết và điều ích
lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như thế không phải để
chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm được cả hai, thì
phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết định thành công,
không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được thì
rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm
được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần biết điều nào
là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều này thì coi như chưa phải là
giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những điều phụ thuộc một cách
thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết, giữa biết bao giới răn,
thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là cốt tủy của lề
luật: «Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn
ấy». Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào phụ, thì chúng ta
dễ giữ đạo theo «kiểu Pha-ri-siêu» đã bị Đức Giêsu tố cáo: «Các người nộp thuế
thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong
Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23); «Các người lọc
con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà» (23,24). Hướng dẫn người khác giữ đạo và
nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành «những kẻ dẫn đường mù
quáng» (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc biệt cho mọi
Kitô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
2. Hai điều răn tóm lại thành một điều răn: «yêu thương»
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục đặt
vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng, chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai giới răn
khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một giới răn duy
nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là «yêu», đối tượng của động
từ «yêu» này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân biệt rõ rệt
trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì dường như không thể phân
biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy «tuy hai mà một», tương
tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác nhau, nhưng chỉ là
một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình đồng hóa Thiên
Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét
cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với tha nhân, đặc
biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: «Ta bảo thật các
ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của
Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta», và «mỗi lần các ngươi không làm như
thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho
chính Ta».
Tại sao thế? Vì con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St
1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của người ấy không?
Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh của
nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng,
con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn
5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức, sau khi
họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và chết
để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10;
1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài,
những người mà Ngài hết mực yêu thương: «ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng
yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra» (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là hiện
thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những
người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính là không yêu Ngài.
Người Kitô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên Chúa ở nơi những
người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không thể yêu Ngài ở nơi một ai
khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói: «Nếu ai
nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ
nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể
yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên
Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã
tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà vào một giới răn duy
nhất: «Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức
Kitô» (Gl 6,2); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8); «Các điều
răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.
(...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (13,9-10); «Luật Kinh Thánh được đưa lên
hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình"» (Gc 2,8).
Không những ta phải yêu thương những người chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà
còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau sống yêu thương
nữa: «Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống
yêu thương và làm những việc tốt» (Dt 10,24).
3. Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường hợp của một người
cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng không cần thứ gì cả.
Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của chúng nên chúng trở nên
nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình trạng đau khổ ấy là
chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ cách để đàn con hạnh phúc
hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương hơn, vì một khi chúng
biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến với chúng. Thử hỏi
người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong chúng yêu thương nhau
(x. Ga 13,34-35).
Có một đứa con kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ
biết nghĩ đến cha, mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá
đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em
ruột thịt bên cạnh mình đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn
sóc, thì người ấy chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài lòng về
cách xử sự của người con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý không? Nếu ta
là người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là người cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy
con cái mình yêu thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm
được điều ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau
sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những
đứa biết yêu thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu
thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó
thương mà chúng còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha chúng hơn nhiều.
Còn những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo chăm chút cho cha đang khi
cha chẳng cần điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em mình, thì tình thương của
chúng đối với cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà
thôi, còn việc chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi
theo sự khôn ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa bằng cách
nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là «yêu mến Thiên Chúa hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn». Nhưng phải thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù
hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để
thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là thực hiện điều răn thứ
hai: «yêu người thân cận như chính mình». Đức Giêsu đã làm gương về điều ấy.
Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng loại của Ngài (với tư
cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là lễ hy sinh để thờ
phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách thờ phượng Thiên
Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người người chung
quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: «Cha là Thiên Chúa, Cha không cần
và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu con muốn yêu
Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người sống chung quanh con, họ
chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ, chính là con yêu Cha, và
đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với Cha».
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Giới răn yêu thương của Thiên Chúa là một giới răn mà người tín
hữu thường nghe và đọc đi đọc lại nhiều lần trong Thánh kinh, trong sách tu đức
và trong các bài giảng giải. Đồng thời ta cũng nghe nói đến những câu chuyện về
tình yêu trong tiểu thuyết, những loại phim ảnh về tình yêu và những mối tình
lãng mạn của những cặp trai gái mới lớn lên. Do đó mà quan niệm về tình yêu
trong Thánh kinh nơi loài người đã bị nhiễm độc bởi những quan niệm về tình yêu
trong sách vở, báo chí và phim ảnh. Vì thế nhiều khi chữ yêu vọng lên như một
lời nói trống rỗng bởi vì người ta nói về yêu mà không thực hành.
Còn tình yêu trong Thánh kinh không phải là trống rỗng và nông
cạn. Đức Kitô đến diễn tả tình yêu bằng cách chết cho người yêu là nhân loại
tội lỗi. Và tình yêu theo nghĩa Phúc âm đã trở thành một biến cố tử nạn trên
thập giá. Trong Phúc âm hôm nay Chúa trích sách Đệ nhị Luật (Đnl 6:5) để trả
lời người thông luật trong nhóm Pharisêu: Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của
ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi (Mt 22:37). Yêu hết lòng,
hết linh hồn và hết trí khôn.. là kiểu nói của người Do thái nói lên tính cách
toàn diện và trọn vẹn của tình yêu và có nghĩa là yêu bằng toàn diện con người.
Vì thế trong Phúc âm thánh sử Mác-cô có thêm hết sức (Mc 12:30) vào từ ngữ yêu
mến, thì mức độ yêu mến mà Chúa đòi nơi loài người phải dành cho Chúa trong
Phúc âm thánh sử Mát-thêu và thánh sử Mác-cô cũng vẫn như nhau, không hơn không
kém.
Còn giới răn thứ hai được trích từ sách Lêvi (Lv 19:18) cũng giống
giới răn thứ nhất là: Ngươi phải yêu cận nhân như chính mình (Mt 22:39). Mười
Giới luật Thiên Chúa truyền cho Môsê trên núi Sinai (Xh 20) là những đòi hỏi
tối thiểu mà người tin yêu và kính sợ Chúa phải thực hành. Những Giới luật này
được các nhà lãnh đạo Do thái giáo phân chia thành 613 khoản luật khác nhau gồm
248 khoản truyền dạy và 365 khoản cấm đoán. Bây giờ Đức Kitô tóm tắt lại chỉ
trong Hai Giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người hoặc có thể nói là
một Giới răn Yêu thương kép. Câu trả lời của Chúa cho thấy Chúa trung thành với
truyền thống và gia sản Do thái giáo. Đã yêu mến Chúa thì cũng phải yêu mến cận
nhân, nhìn nhận cận nhân như chính mình. Yêu mến Chúa và yêu mến cận nhân là
hai điều răn quan trọng nhất, gắn liền với nhau, không thể tách biệt như lời
Chúa phán: Tất cả luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn
ấy (Mt 22:40). Thánh Gioan, người môn đệ được Chúa yêu nhắc nhở cho ta: Nếu ai
nói họ yêu mến Chúa mà ghét tha nhân là người nói dối (1Ga 4:20-21).
Lý do ta phải yêu mến tha nhân vì tha nhân được tạo thành theo
hình ảnh Thiên Chúa và được máu Con Thiên Chúa đổ ra để cứu chuộc. Yêu mến tha
nhân có thể đi kèm với cảm giác, nhưng không phải là cảm giác. Yêu phải là việc
cam kết và quyết định của lí trí. Ta có thể không có cảm tình với người nọ
người kia vì tính tình, tập quán, cách nhìn đời cũng như cách nói năng hành
động của họ khác biệt với ta. Đó là cảm giác, cảm tình của ta. Tuy nhiên ta
phải làm quyết định không được ghét bỏ, ngược đãi và áp bức người tha nhân. Yêu
tha nhân còn là cầu nguyện cho họ và giúp đỡ người cần cơm ăn, áo mặc và nhà ở
như lời Chúa dạy trong sách Xuất hành hôm nay (Xh 22:20-25).
Chúa dạy ta phải yêu cận nhân như chính mình như thánh Phaolô vọng
lại: Không ai ghét thân xác mình bao giờ (Eph 5:29). Yêu mình đây không hiểu
theo nghĩa tự ái quá đáng. Yêu mình có nghĩa là biết đánh giá những gì Chúa
ban. Yêu mình là bằng lòng với thân phận và số phận, chấp nhận mình, thoả mãn
với những gì mình có: tài năng, sức khoẻ, của cải, nhan sắc. Yêu mình còn có
nghĩa là biết tha thứ cho mình, sau khi mình đã làm lỗi. Người ta thường chỉ
nghĩ đến việc tha thứ cho người khác, nhưng ít ai nghĩ đến chuyện phải tha thứ
cho mình ngay cả sau khi xưng thú tội lỗi và được thứ tha. Sở dĩ người ta không
nghĩ đến việc tha thứ cho mình, vì có những khi người ta muốn nuôi cảm tưởng
trách mình sau khi đã làm lỗi và phạm tội hoặc vì không muốn nhận mình có lỗi.
Khi người ta không yêu mình, người ta cũng khó có thể thực sự yêu
ai. Khi người ta không thoả hiệp với chính mình, với tài năng, của cải mình có,
với tầm thước, vóc dáng, diện mạo và điệu bộ của mình, thì người ta khó có thể
dành thời giờ lưu ý đến tha nhân. Khi người ta không bằng lòng với số phận hẩm
hiu, hoặc số kiếp lầm than của mình, người ta có thể đóng khung trong những cảm
tình thương hại mình. Khi người ta không bằng lòng với những sắc thái thuộc về
mình hoặc những gì mình có, người ta sẽ bận tâm, áy náy và lo ngại về mình. Do
đó người ta tìm cách biện hộ cho mình và phê bình chỉ trích người khác hầu che
đậy những khuyết điểm của mình. Đọc văn chương Việt Nam ta thấy có những nhân
vật không bằng lòng với số phận. Người có thiên hương quốc sắc như Vương Thúy
Kiều nhưng lại gặp mệnh bạc. Người có tài làm thơ với lời thanh, nhưng hàm chứa
hai ý: tục hoặc thanh như Hồ Xuân Hương, mà cứ phải làm kiếp vợ lẽ. Người ở
trong hoàng cung nhưng không còn được vua đoái hoài đến như Cung oán Ngâm khúc.
Khi người ta phải mang những bệnh tật về thể xác và tinh thần lâu
dài, người ta có thể phàn nàn, kêu trách và oán hận Chúa. Mà trách móc và oán
hận Chúa thì không thể nói được rằng người ta yêu mến Chúa bằng một tình yêu
thanh thoát và bình thản. Vậy thì bao lâu ta còn mang bệnh tật, khổ đau, thiệt
thòi trong thân xác và tâm hồn mặc dầu đã đi nhà thương và cộng tác với bác sĩ
y khoa hoặc bác sĩ tâm linh để điều trị, ta cầu xin Chúa cho được biết chịu
đựng, vác thánh giá của bệnh tật, đau khổ vì yêu mến Chúa. Ta dâng lên Chúa
bệnh tật, đau khổ ta đang phải chịu để được hòa lẫn với những hi sinh thánh giá
của Chúa để đền bù tội lỗi mình và tội lỗi thế gian. Ta xin Chúa giúp để biết
tìm ra ý nghĩa của thánh giá đau khổ. Chấp nhận đau khổ và thánh giá vì yêu,
thánh giá và đau khổ mới có thể biến đổi tâm hồn và đời sống và trở thành
phương thế cữu rỗi.
Lời cầu nguyện xin Chúa dạy cho biết yêu ba chiều:
Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến
dạy bảo loài người về hai giới răn quan trọng nhất
là mến Chúa và yêu người.
Xin dạy con biết sống trong tâm tình biết ơn
về những hồng ân Chúa ban: lớn hoặc nhỏ, ít hay nhiều.
Cũng xin dạy con nhận ra hình ảnh của Chúa nơi tha nhân.
Và xin cho con biết chấp nhận bản thân và hoàn cảnh,
biết bằng lòng với số phận và thoả hiệp với đời sống,
để con có thể yêu Chúa và tha nhân với tâm hồn rộng mở. Amen.
Để làm cho mọi người chú ý, một nhà giảng thuyết thường hay bày ra
nhiều kiểu cách có tính khôi hài trong khi ông giảng. Một lần kia, khi bắt đầu
đọc kinh Lạy Cha, ông đọc to hai chữ đầu "Lạy Cha" rồi bất ngờ ông la
to "Ngừng lại". Ngay lập tức ông vào bài giảng của ông. Điều ông làm
đó gây cho dân chúng cảm thấy xấu hổ khi họ đọc tiếp kinh Lạy Cha, vì họ không
hiểu ý nghĩa của nó.
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng có đoạn mà chúng ta không nên để
cho nó thoáng qua khi nghe, nhưng chúng ta phải tìm hiểu thâm sâu về ý nghĩa
của nó. Câu Phúc Âm đó như sau: "Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa
ngươi." Chúng ta hãy ngừng tại đây để suy nghĩ. Giới luật này có ý ám chỉ
về điều gì? Làm thế nào để chúng ta có thể bày tỏ lòng chúng ta yêu mến Thiên
Chúa? Chúng ta đối thoại với Chúa qua việc chúng ta cầu nguyện. Chúng ta tôn
thờ Chúa hiện diện nơi mỗi người chúng ta và chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài
thương yêu chúng ta. Chúng ta cám tạ Chúa vì Ngài ban sự sống cho chúng ta và
tất cả mọi sự mà chúng ta đang hưởng dùng tại cõi đời này. Chúng ta cảm tạ Chúa
vì qua Chúa Giêsu chúng ta biết được rằng Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta và
còn ban nhiều ơn lành cho chúng ta khi chúng ta còn sống. Chúng ta có thể
nói" Cám tạ Chúa, Cám tạ Chúa" triệu triệu lần nhưng chúng ta vẫn
chưa hiểu ý nghĩ của nó ám chỉ về điều gì thì có ích gì cho chúng ta.
Giới luật mến Chúa mà chúng ta không thể hiểu thấu được vì chúng
ta còn hay lỗi phạm đến giới luật "yêu mến kẻ khác." Trong bài Phúc
Âm hôm nay, Chúa Giêsu được hỏi "Giới luật nào cao trọng nhất?" Ngài
dùng một câu trong Cựu Ứơc để trả lời cho chúng ta. Thứ nhất, "Ngươi phải
yêu mến Thiên Chúa ngươi," thứ hai, "Ngươi phải yêu thương kẻ khác như
chính mình ngươi." Chúa Giêsu muốn chúng ta phải hiểu cao sâu hơn nữa về
giới luật tình yêu trong mọi khía cạnh. Giới luật yêu mến Chúa và yêu mến kẻ
khác không thể nào tách rời nhau được. Chúng ta không thể nói chúng ta yêu mến
Thiên Chúa nhưng đồng thời lại ghét anh em mình.
Chúa Giêsu phán: "Ta ban cho các ngươi giới luật mới... Hãy
yêu mến kẻ khác như Thầy đã yêu thương các con. Nếu các con yêu thương nhau,
mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Thầy" (Jn 14:34-35).
Chúng ta hãy bày tỏ lòng yêu mến Chúa tha thiết của chúng ta qua
việc chúng ta yêu thương tha nhân. Nếu sự quan tâm của chúng ta nơi tha nhân
quá nông cạn thì việc chúng ta yêu mến Chúa cũng nông cạn như vậy. Việc đến nhà
thờ chỉ có ý nghĩa khi chúng ta thay đổi lối nhìn của chúng ta đối với tha
nhân.
Một nhóm linh mục tu sĩ đã mời một nhà quảng cáo thật nổi tiếng
đến để hướng dẫn họ biết làm cách nào để cho cộng đoàn của họ được tăng triển
và mọi người trong cộng đoàn sống hăng hái hơn. Họ hy vọng có thể đạt được
nhiều kết quả nơi vị thuyết trình này. Nhưng nhà thuyết trình này đã làm cho họ
trở nên bỡ ngỡ giống như nhà giảng thuyết trong câu truyện trên. Ông ta không
một lời chào hỏi hoặc giới thiệu. Ông ta nhập đề vào buổi thuyết trình với một
câu như sau: "Nếu Thiên Chúa đã quên các bạn thì một người hèn kém như tôi
thì có thể làm gì cho các bạn được đây? Các bạn có biết rằng sức mạnh nào đã
làm cho các môn đệ Chúa Giêsu trở nên bạo dạn và thay đổi cả Tây phương như vậy
không? Đó chính là sức mạnh của Đức tin và phép lạ." Sau đó ông ta kết
thúc bài thuyết trình của ông ta như sau: "Bởi vì các bạn không còn niềm
tin Chúa nơi các bạn nữa, các bạn đã tìm kiếm những sự khôn ngoan thầm kín để
thay vào niềm tin đó. Khi các bạn làm như vậy thì các bạn đã tự đưa mình vào hố
sâu không lối ra." Quả thật như vậy, trong đời sống mỗi người chúng ta ai
cũng tìm cách nào đó để cho những sự khôn ngoan thế tục làm lu mờ niềm tin
trong tâm hồn chúng ta. Do đó chúng ta khó lòng đáp trả tiếng nói của Đức tin,
vì lòng tin của chúng ta về giới luật yêu thương của Chúa Giêsu đã không còn
nơi chúng ta. Chúa Giêsu phán: Chúng ta sẽ được nhận biết chúng ta là con Thiên
Chúa qua việc chúng ta thương yêu kẻ khác, nhưng chúng ta đã không chấp nhận
điều đó. Chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa, nhưng chúng ta lại oán hận kẻ khác.
Điều đó không thể nào xẩy ra được.
Chúng ta hãy ngừng lại, suy nghĩ và kiểm điểm cõi lòng nơi mỗi
người chúng ta xem coi chúng ta đã hiểu được ý nghĩa thật sự về lòng yêu mến
Chúa của chúng ta như thế nào. Chúng ta chân nhận rằng yêu mến Thiên Chúa và
yêu thương tha nhân là hai giới luật không bao giờ tách rời ra được.
Người ta hỏi Đức Giêsu điều răn nào trọng nhất. Ngoài việc tranh
luận để tìm cách bắt bẻ Đức Giêsu họ còn lòi ra tính lười "muốn ít, càng
ít càng tốt và tính nệ luật "làm đủ luật" là xong và bảo đảm, đủ
luật, đủ bổn phận rồi thì yên tâm, khỏi lo. Cụ thể thì đỡ phải suy tính như
phải làm việc lành nào đọc mấy kinh thì được bao nhiêu ân xá. Đức Giêsu không
trả lời theo ý họ vì không đủ.
Vài điểm CHÚ GIẢI
“Ngươi phải yêu mến Đức Chúa.... hết lòng, hết linh hồn và hết trí
khôn ngươi:”
Ba cái hết. Ngôn ngữ Do thái không có cách nói tuyệt đối, tối da
(superlatif) mà nói ba lần. Ba cái hết là hết ráo trọi, hết trơn. Chỉ cần hết
lòng. Chúa muốn tấm lòng. Tấm lòng là con người. Hết lòng là hết cả con người
gồm luôn hết linh hồn và hết trí khôn. Việt Nam nói "yêu mến Thiên Chúa
trên hết mọi sự". Không nổi lắm. Nhưng tại sao, cách nào?
Điều răn thứ hai giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người lân
cận như chính mình: Người lân cận: Với Do thái là thân cận và là người Do thái.
Còn với chúng ta là người lân cận, ở gần bên. Như chính mình: Muốn cái gì cho
mình thì cũng hãy muốn cho người khác. Yêu thương còn nói nhiều hơn: hy sinh
cho nguời khác.
Đức Giêsu chỉ lập lại công thức trong sách luật. Nhưng thêm làm
thành khác biệt: điều răn thứ hai giống điều răn ấy. Là một, không tách biệt.
Tất cả luật Mosê và các tiên tri đều gồm trong ấy:
Tóm nhưng không gạt ra ngoài gì hết.
Nếu chỉ coi là vấn đề tranh luận, tìm cách làm khó thì không cần
đi vào chi tiết nội dung. Văn mạch của Matthêu là vậy. Nhưng chúng ta cần làm
rõ nội dung để thực hành cho có ích.
Tiếng Việt làm cho đơn giản, rất đơn giản là "mến Chúa yêu
người". Đơn giản quá thì không chi tiết. Cũng như có câu kinh "Lạy
Chúa Giêsu, con yêu mến, xin cữu rỗi các linh hôn". Đọc hoài, ngon miệng
nhưng chẳng biết là gì và cũng chẳng biết làm gì nên chẳng có gì.
Chúng ta cũng nói lai lải "mến Chúa yêu người" rồi kể là
đủ. Phải giải thích chi tiết, thật chi tiết mới biết rõ để làm và phải làm đủ
chi tiết mới gọi là đủ, mới có kết quả.
Mến Chúa hết lòng hoặc trên hết mọi sự: là làm đẹp lòng Chúa trong
mọi sự. Không làm gì mất lòng Chúa. Quá mênh mông. Hết lòng là bằng cả tấm
lòng. Chúa thấy tấm lòng chứ không thấy bề ngoài. Thường, người ta chỉ làm bề
ngoài, không một chút tấm lòng nói chi hết lòng. Không biết làm sao là hết
lòng. "Trên hết mọi sự" thì có mùi vật chất hơn dể hiểu hơn. Đặt Chúa
trên hết mọi sự là không để bất cứ cái gì trên Chúa. Không dể tí nào và không
mấy ai làm được nhưng lý thuyết thì được.
Có mến Chúa mới có yêu người. Yêu người vì là điều răn của Chúa,
là luật buộc thì phải yêu. Không có Thiên Chúa thì cũng không có con người.
Người ta loại bỏ Thiên Chúa thì trở thành độc ác đối với nhau. Hoàng Đế Julien
(Julien le rénégat) của Rôma thấy người công giáo gây được ảnh hưởng lớn trong
dân, người ta theo đạo nhiều mà không theo Hoàng Đế mặc dù ông có uy quyền
tuyệt đối, sinh sát nắm trong tay. Ông ra lệnh làm việc bác ái hơn người công
giáo vì ông có nhiều phương tiện hơn. Nhưng không kết quả vì thiếu tình thương.
Không phải "mến Chúa yêu người".
Không phải là điều răn thứ hai mà là vế hai của một điều răn duy
nhất. Người ta xin Đức Giêsu tóm tắt trong một điều răn trọng nhất, ắc và đủ.
Người ta sợ nhiều. Ít thì khoẻ. Nên Đức Giêsu tóm tất cả trong "một"
là mến Chúa yêu người. Rất gọn, rất ngắn. Nhưng lại mênh mong "tất cả luật
Môsê và các tiên tri" đều gồm trong ấy.
Yêu người vì mến Chúa thì mới hết lòng. Yêu người vì mến Chúa thì
làm trọn lề luật. Mến Chúa thì làm trọn mọi lề luật đối với Chúa. Yêu người thì
làm trọn mọi lề luật đối với nhau. Yêu là nói tình cảm chứ không lý trí. Lý trí
không "yêu" mà chỉ làm cái nầy cái nọ. Yêu mới hết lòng. Yêu là không
tính toán đến nổi sẳn sàng hy sinh tới cả mạng sống.
Yêu người là mến Chúa. Không yêu người là không mến Chúa như Thánh
Gioan nói "anh em mà ngươi thấy trước mắt mà không yêu lại nói yêu mến
Thiên Chúa mà ngưoi không thấy là nói dối".
Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với
người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản một
sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống bên
ngoài.
1.- Ngữ cảnh
Trong cấu trúc văn chương của TM Mt, đoạn văn 22,34-40 phải được
coi như một bài tường thuật về một cuộc tranh luận nữa của Đức Giêsu với các
đối thủ, là các đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu
bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng
thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê,
Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn
đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do Thái
tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra
cho một vị Rabbi: “Thưa Thầy” (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là danh hiệu
cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Vấn đề cuối cùng được chính
Đức Giêsu nêu ra sẽ là vấn đề “con vua Đavít” (22,41-46). Đây là bốn vấn đề
thường được người Do Thái thời Đức Giêsu tranh luận nhiều nhất.
Có lẽ bản văn hôm nay cũng phác lại một cuộc gặp gỡ nào đó giữa
Đức Giêsu và một vị tôn sư của Do Thái giáo; vị này hẳn là muốn làm sáng tỏ
hoặc đào sâu các điều răn. Ở Mc 12,28-34 và Lc 10,25-28, ta không thấy có giọng
điệu bút chiến như ở bản văn Mt (x. c. 34). Riêng trong bản văn Mt, vị thông
luật hỏi là để “thử” Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (22,34);
2) Câu hỏi về điều răn trọng nhất: mục tiêu và nội dung
(22,35-36);
3) Câu trả lời của Đức Giêsu (22,37-40).
3.- Vài điểm chú giải
- Điều răn nào là điều răn trọng nhất (36): Do Thái giáo vẫn đang
đi tìm một nguyên tắc thống nhất. Các kinh sư cũng tìm cách xác lập một hệ
thống tổng hợp với các đường hướng chủ đạo: Đavít xác định mười một điều (Tv
15,2-5), Isaia sáu (Is 33,15), Mikha ba (Mk 6,8), Amốt hai (Am 5,4), và
Khabacúc một (Kb 2,4). Đây là bản tóm lược của Rabbi Simbai (tk iii).
- yêu mến (37): Động từ Híp-ri ’âhav có một loạt ý nghĩa, từ tình
yêu tính dục đến tình yêu đới với người trong gia đình, đối với bạn bè, sự
trung thành trong đời sống chính trị đến tình yêu đối với Thiên Chúa. Theo cách
giải thích của người Do Thái về Đnl 6,5, “tình yêu đối với Thiên Chúa” được
diễn tả trước tiên bằng những hành vi vâng phục, trung thành với Torah. Yêu mến
Thiên Chúa là hy sinh mạng sống vì các điều răn của Người.
- hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn (37): Theo nhân học Híp-ri,
“trái tim” (lòng) là cơ sở của tình cảm; còn “linh hồn” là phương diện sinh lực
của con người. “Trí khôn” (dianoia) là từ Hy Lạp cũng có ý nghĩa như “trái tim”
theo ngôn ngữ Híp-ri. Tác giả Mt đã lấy từ Mc 12,30 (“lòng, linh hồn, trí khôn
và sức lực”), nhưng bỏ “sức lực” và chọn giữ lại “trí khôn” để có bộ ba. Cả ba
danh từ này được dùng theo nghĩa tổng hợp: tình yêu đối với Thiên Chúa phải
trọn vẹn, huy động tất cả con người, thậm chí phải chết.
- yêu người thân cận (39): Ngữ cảnh của Lv 19,11-18 là như sau:
Đây là những điều khoản luân lý căn bản của Thiên Chúa liên hệ đến người thân
cận, kể cả người yếu thế về mặt xã hội hoặc một đối thủ tại tòa án. Song song
với “yêu” là: không trộm cắp, cư xử sai lệch, nói dối, thề gian, lừa gạt, cướp
đoạt, nguyền rủa, xét xử bất công, vu khống, thù ghét. Lv 19,34 thêm: không vi
phạm quyền lợi của tha nhân.
- thân cận (39): Theo bản văn căn bản Lv 19,18 và theo hầu như
cách giải thích Lv 19,18 của toàn thể Do Thái Paléttina, “thân cận” (đồng loại)
đây là người Israel mà thôi, những người đã được Thiên Chúa ban Lề Luật cho.
Chỉ những người ngoại quốc đang sống tại đất Israel, cũng đước áp dụng một nền
công lý này, mới được kể vào số “người thân cận” (Lv 19,34); sau này, chỉ những
người dự tòng mới được coi như thế. Đức Giêsu theo truyền thống Mt đã mở rộng
nghĩa của từ ngữ này mà áp dụng cho tất cả mọi người (x. Mt 5,43-48; 7,12;
19,19).
- Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ (40): Đức Giêsu không chỉ
đặt hai điều răn này đứng đầu 613 quy định của Luật Môsê, như thể ở bên cạnh
các quy định ấy; Người còn làm thành một tổng hợp. “Luật và các Ngôn sứ” là
cách gọi tên bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước thu hẹp), cũng có thể hiểu là ý
muốn của Thiên Chúa đã được ghi giữ trong Kinh Thánh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu chuyển tiếp: Người Pharisêu quy tụ lại (34)
Bản văn hôm nay vẫn nằm trong chiều hướng các cuộc tranh luận các
nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức gây ra với Đức Giêsu. Tuy vậy, các hoàn
cảnh tiêu cực này vẫn không ngăn cản Đức Giêsu cống hiến những mạc khải hoặc
giáo huấn quan trọng.
Để đáp lại tin tức về sự thất bại của phái Xađốc, người Pharisêu
đã họp nhau lại.
* Câu hỏi về điều răn trọng nhất (35-36)
Một người thông luật trong nhóm đã hỏi để “thử” (peirazôn) Người
(c. 35), như họ đã từng làm (x. Mt 22,15.18). Tuy nhiên, câu hỏi này cũng có lý
do của nó: các trường phái và các vị thầy Israel vẫn đang cống hiến những lối
phân phối và giải thích Lề Luật (Torah) khác nhau. Họ đã phân tích Luật ra
thành 613 điều khoản khác nhau. Các kinh sư đã chọn chủ trương giữ luật thật
chi li (“vị luật”). Xu hướng vị luật tỉ mỉ này làm phát sinh khi thì niềm vui
do tuân giữ được trọn vẹn các điều khoản, khi thì sự tự mãn kiểu Pharisêu (x.
Lc 15,29), khi thì sự lo lắng vì không tuân giữ được tất cả (x. Mt 19,18). Dù
sao, cần phải tìm ra một nguyên tắc thống nhất giúp người ta biết định hướng
trong cuộc đời và nhất là biết cách quyết định trong các chọn lựa thực tiễn. Vì
thế, câu hỏi của vị thông luật để “thử” Đức Giêsu có lý do: không chỉ là một
tranh luận lý thuyết nhà trường, nhưng cũng có một nhu cầu thực tế. Bởi vì có
khi họ đã phải chỉ cho biết những điều răn nào không được vi phạm, cho dù người
ta có bị giết, hoặc phải dạy điều gì là quan trọng nhất đối với Lề Luật và các
điều răn này dẫn xuất từ các điều răn khác thế nào. Vì vậy, họ có nói tới một
kơlal (tiếng Híp-ri có nghĩa là phổ quát tính, nguyên tắc căn bản, tóm tắt,
danh hiệu) và một guph (tiếng Híp-ri có nghĩa là phần thân, phần cốt yếu) trong
Lề Luật.
* Câu trả lời của Đức Giêsu (37-40)
Câu trả lời của Đức Giêsu cũng chẳng độc đáo, dù là trong lời nhắc
lại giới răn tình yêu đối với Thiên Chúa, hay trong lời nhắc nhớ về tình yêu
đối với người thân cận. Cả hai điều răn này đều được nói đến trong Lề Luật, và
bất cứ người Israel tốt lành nào cũng đều ghi nhớ mà tuân giữ. Đức Giêsu đã chỉ
làm một việc là trích sách Đệ nhị luật (6,4-5) và Lêvi (19,18). Nếu có lạ là ở
chỗ Người đã đặt hai điều răn này ngang hàng với nhau: “cũng giống” (homoia) có
nghĩa là điều răn thứ hai cũng đáng được quan tâm tuân giữ như đối với điều răn
thứ nhất, tức là Người nối kết hai điều răn với nhau và dành cho chúng vị trí
cao nhất. Hơn nữa, Đức Giêsu còn tuyên bố rằng “tất cả Luật (Môsê) và các sách
ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy”, có nghĩa là hai điều răn này diễn
tả trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa trong Kinh Thánh, do đó hàm chứa tất cả mọi điều
răn khác, hay là tất cả các điều răn khác quy về hai điều răn này. Như thế yêu
mến người thân cận có nghĩa là phải dành cho người thân cận một sự chăm sóc,
một tình yêu y như dành cho Thiên Chúa. Nói cách khác, người thân cận cũng phải
được yêu mến “hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Không cần phải phân biệt
giữa ba từ ngữ này, bởi vì hy-ngữ thường dùng hai từ “trái tim” và “trí khôn”
để dịch từ lev Híp-ri (= trái tim). Câu văn có nghĩa là phải vận dụng tất cả
bản thân mà yêu mến Thiên Chúa.
Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu đã rõ. Phải yêu mến người khác
với trọn vẹn bản thân mình, tức là trong thực tế không chỉ bằng lời nói, còn về
phương diện con người, bằng cách giúp đỡ tận tình, nồng nhiệt. Cách đặt ngang
hàng hai điều răn như thế, chúng ta đã thấy trong Bài Giảng trên núi, trong đó
Đức Giêsu mời gọi người ta làm hành vi phượng tự sau khi đã giao hòa với người
anh em (5,23-24) và yêu mến cả kẻ thù như Thiên Chúa yêu họ (5,44-48).
Có thể nói ở c. 40, tác giả Mt tóm tắt cái nhìn của ngài về hai
điều răn trọng nhất. Công thức “ Luật (Môsê) và các sách ngôn sứ” đưa chúng ta
trở lại với hai đoạn trung tâm ở 5,17 và 7,12. Ở đó, bản văn nói rằng Đức Giêsu
làm trọn Lề Luật và các ngôn sứ, và cả hai khối này tập trung vào hoàng kim quy
tắc. Như vậy, c. 40 hàm ý là Lề Luật và các sách ngôn sứ được hoàn tất qua Đức
Giêsu. Đồng từ “tùy thuộc vào” (kremannymi en) cho chúng ta biết quan niệm của
tác giả Mt về Lề Luật. Hai điều răn này, cũng như hoàng kim quy tắc, chính là
nguyên tắc căn bản hướng dẫn việc giải thích bài Giảng trên núi, cũng như Lề
Luật và các sách ngôn sứ.
+ Kết luận
Câu trả lời của Đức Giêsu không phải là câu trả lời của một kinh
sư, dù Người được các người Pharisêu coi như thế. Đây là câu trả lời của vị
Chúa Tể Lề Luật. Chính Người công bố Luật và chính Người hoàn tất Luật (x.
5,17). Chính do sự kiện Đức Giêsu hoàn tất Luật mà Người mang lại cho Luật tính
chất mới mẻ đích thật. Tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân
không phải chỉ là những thái độ con người bị buộc phải có; hai tình yêu này
nhập thể nơi bản thân Đức Giêsu. Chính vì Người đã đến dùng cuộc đời, cái chết
và sự sống lại của Người mà hoàn tất “Luật và các Ngôn sứ”, mà Người có thể
công bố với giọng uy quyền rằng toàn thể Giao ước cũ đều “tùy thuộc” vào việc
yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Chính nơi Người mà không những Lề
Luật, dưới dạng điều răn, mà cả lời hứa ân phúc, được các Ngôn sứ loan báo, đã
được thực hiện trọn vẹn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khi tuyên bố về điều răn trọng nhất (“hai trong một”), Đức
Giêsu đã công bố sự giải phóng tuyệt vời cho con người. Bây giờ, ta chỉ còn
phải tuân giữ hai điều mà thôi. Người nào chu toàn thật sự những gì được yêu
cầu trong hai điều răn này thì có thể chắc chắn là đã hoàn tất Lề Luật và thực
hiện ý muốn của Thiên Chúa (x. Mt 7,12; Gl 5,14; Rm 13,8-10). Đây chính là điều
Thiên Chúa nhắm khi tạo thành con người. Họ được tạo nên để vâng phục Thiên
Chúa như chủ và chúa của mình, và cũng để yêu thương Người như cha của mình.
Thế mà sự vâng phục chỉ nên trọn vẹn trong tình yêu mà thôi.
2. Người thân cận không phải chỉ là người thuộc về cùng một dân
tộc, ở trong cùng một quốc gia, nói cùng một ngôn ngữ. Bất cứ ai cũng có thể là
người thân cận của tôi, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Tránh né luật yêu
thương bằng cách nói đến những người thân cận ở xa, để lơ đi những người ở bên
mình đang cần được mình quan tâm, là một cám dỗ dễ rơi vào. Chính tình yêu của
chúng ta đối với Thiên Chúa và tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta phải là
mẫu mực cho tình yêu của con người đối với nhau.
3. Yêu thương anh em không phải chỉ bởi vì Thiên Chúa yêu cầu, để
vâng lời Thiên Chúa. Liên hệ giữa hai tình yêu này không phải là một liên hệ
pháp lý, võ đoán, mà là liên hệ nội tại: ta không thể yêu mến Thiên Chúa nếu
không yêu thương anh em. Trong khi yêu thương người khác vì chính họ, ta yêu
mến Thiên Chúa vì chính Người. Chỉ có một tình yêu duy nhất, vì con người chỉ
có một con tim. Ta có thể suy ngẫm lại bài thánh ca đức mến của thánh Phaolô để
thêm xác tín về điểm này (1 Cr 13,4-6).
4. Sự liên kết giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối
với người thân cận, đồng thời sự khác biệt giữa hai tình yêu đó, giúp ngăn cản
một sự tách biệt giữa tôn giáo và xã hội, giữa bản tính bên trong và đời sống
bên ngoài. Yêu mến bản thân mình có thể được nhờ tình yêu đối với Thiên Chúa;
chính tình yêu đối với Thiên Chúa đưa tới chỗ không tuyệt đối hóa bản thân, mà
lại có một sự nội tâm hóa mới, đồng thời có một tình yêu nồng nàn hơn đối với
người thân cận.
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Khi nói về tình yêu, hẳn đã có quá nhiều người biết và định nghĩa
về chúng. Tuy nhiên, khi sống căn tính về tình yêu, thì có lẽ không mấy người
đạt được! Đôi khi còn hiểu sai hay hành động lệch lạc hoặc phiến diện. Vì thế,
sự cao quý của nó đôi khi bị mất ý nghĩa...!
Tin Mừng hôm nay được Đức Giêsu nói đến là một thứ tình yêu hoàn
hảo và phong phú. Hoàn hảo là vì khi yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì chúng ta
sẽ được kín múc nguồn lực để yêu mến tất cả mọi người không trừ ai. Phong phú
vì: “Giới hạn của tình yêu là không có giới hạn nào” (thánh Augustinô). Thật
thế, mến Chúa và yêu người là hai mặt nhưng chỉ có một tình yêu. Vì thế, nó
không thể tách rời nhau, mà là hòa quyện lại với nhau để làm nên điều thiện
hảo.
1. Mến Chúa gắn liền với yêu người
Những người Biệt Phái vốn đã có sẵn sự hiềm khích với Đức Giêsu.
Có lẽ, với người Biệt Phái, họ không mong muốn gì hơn là việc loại bỏ Đức Giêsu
càng sớm càng tốt cho đỡ ngang tai trái mắt, bởi vì Đức Giêsu chẳng khác gì cái
đó ngáng chỗ của họ. Vì Ngài, mà những người này đã phải mất ăn mất ngủ để tìm
ra những mưu kế nhằm gài bẫy Đức Giêsu.
Hôm nay, vẫn nằm trong ý định đó, nên họ đã nhất trí với nhau là
đề cử một người đại diện để đứng lên hỏi Đức Giêsu về điều răn nào là trọng
nhất trong Sách Luật. Đây là câu hỏi khó, không dễ trả lời.
Tại sao họ lại hỏi câu nói đó? Thưa vì trong Sách Luật Môsê có tới
613 điều luật, được chia thành 248 điều phải làm và 365 điều phải tránh. Tuy
nhiên, ngay trong các nhóm của họ cũng bất đồng với nhau: mỗi nhóm thích giữ
một điều luật và cho điều luật ấy là quan trọng hơn cả. Như vậy, nếu Đức Giêsu
nói điều này hơn điều kia, thì hẳn Ngài sẽ làm phật lòng các nhóm còn lại, và
như thế, không có lợi gì cho Ngài.
Tuy nhiên, lại một lần nữa, Đức Giêsu đã làm cho mục đích của họ
bại lộ và phải câm miệng như nhóm Sađốc. Ngài nói: "Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là
điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều
răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Môsê và
các sách ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy". (Mt 22,37-40).
Khi nói "Điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy", Đức
Giêsu muốn dạy cho họ một chân lý rằng: mến Chúa thì phải yêu thương anh chị em
mình. Hai điều răn này luôn gắn liền với nhau. Kẻ nào mến Chúa mà không yêu
người thì mâu thuẫn, hay yêu người mà không mến Chúa cũng chẳng khác gì “trống
đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Thánh Gioan cũng nói trong thư của ngài như sau: "Nếu ai nói:
‘Tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).
Qua câu trả lời của Đức Giêsu, chúng ta thấy có sự mới mẻ và phổ
quát, không hàm hồ mà thực tế. Bởi lẽ, câu trả lời này đều được rút ra từ chính
trong sách Luật Môsê và nó có sự liên đới với nhau mật thiết đến độ không thể
bỏ một lấy một hay coi trọng điều này mà giảm khinh điều kia.
Đây chính là điều răn mới và đây cũng chính là tiêu chuẩn để mặc
khải dung mạo của một vị Thiên Chúa giàu tình thương, nhưng lại được hiện tại
hóa nơi người loan truyền: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy
yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Ở điểm này, mọi người sẽ nhận
biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga
13,34-35).
Thật vậy, tình yêu thương là quan trọng. Thiếu đi tình yêu thương,
chúng ta đánh mất đi cốt lõi của luật. Vì thế, thánh Phaolô cũng quả quyết:
“Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả
là đức mến” (1 Cr 13, 13).
2. Mến Chúa, yêu người gắn liền với lòng bác ái và hy sinh
Như vậy, chúng ta đã nhận ra điều quan trọng trong toàn bộ Lề Luật,
đó là lòng mến. Lòng mến này được thể hiện qua đức ái. Nếu không có đức ái, thì
tình yêu của chúng ta sẽ chẳng khác gì một sự lừa bịp. Hay như trò “khua chiêng
gõ mõ”.
Khi nói về vấn đề này, thánh Phaolô đã giải thích như sau:
"Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ [...] Dầu tôi được
ơn nói tiên tri, cùng biết đủ các sự mầu nhiệm, và mọi sự hay biết; dầu tôi có
cả đức tin đến nỗi dời núi được,[...] Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ
nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì
điều đó chẳng ích chi cho tôi" (x. 1 Cr 13,1-3).
Như vậy, đối với chúng ta, những người Công Giáo, dấu chỉ để nhận
biết chúng ta có yêu Chúa thật lòng hay không lại phụ thuộc vào tình yêu của
chúng ta dành cho tha nhân. Và để nhận biết được tình yêu đó lớn hay nhỏ lại
phụ thuộc vào đức ái được đặt để trong tình yêu. Thật vậy: “Đức mến tha thứ tất
cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả” (x. 1Cr 13,7).
Khi yêu thương anh chị em mình cách chân thành, đấy là dấu chỉ
chúng ta đang thuộc về Chúa, vì: "Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong
tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy"
(1 Ga 4,16), còn nếu: "Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì
Thiên Chúa là tình yêu" (1 Ga 4,8).
Nói cách khác, chúng ta biết yêu và có động lực để yêu là vì chúng
ta được Thiên Chúa yêu thương trước: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người
vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta" (Rm 5,5).
Như vậy, ta cũng có thể hiểu tình yêu được khơi nguồn từ chính Thiên
Chúa, và ai có được tình yêu với tha nhân thì đã hội ngộ cùng Thiên Chúa và đã
ở trong Ngài.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Cả cuộc đời của Đức Giêsu là hiện thân của một cuộc tình giữa
Thiên Chúa và loài người. Cuộc tình đó, Đức Giêsu là người đi bước trước để đến
với loài người. Tình yêu của Ngài là một tình yêu hướng tha.
Khi khai mở một cuộc tình như thế, Đức Giêsu mời gọi mỗi người
chúng ta hãy đi trên lộ trình của cuộc tình như Ngài là chấp nhận hy sinh, phục
vụ và hiến thân vì người mình yêu. Bởi vì: “Không ai có tình thương lớn hơn
tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15,13).
Ngày nay, có rất nhiều người lầm tưởng và nghĩ rằng: muốn nên
thánh thì phải làm được những chuyện lớn lao, vĩ đại, siêu quần bạt chúng; hay
phải là một người đạo đức trổi vượt, ăn chay quanh năm suốt tháng, sáng lễ,
chiều kinh, tối chầu; rồi luôn tham gia hết hội đoàn này đến hội đoàn kia; hoặc
ở đâu có hành hương là đầu tư tiền bạc để đi cho kỳ được... Những việc làm này
thật đáng ca ngợi, bởi vì một cách nào đó thể hiện sự anh hùng, trung thành,
tin tưởng... Tuy nhiên, đây không phải là cốt lõi của Đạo, và đây cũng chưa hẳn
là bản chất của sự thánh thiện...
Thật vậy, sự thánh thiện không hệ tại ở việc tuân giữ giới luật
của Chúa bề ngoài. Bề ngoài thực sự chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy bởi
lòng mến mà thôi. Nếu có lòng yêu mến Chúa và yêu thương anh chị em thực sự thì
những việc ta làm ở trên mới có giá trị, bằng không nó sẽ vô nghĩa nếu không
muốn nói là sẽ nguy hại cho linh hồn vì: chúng ta sẽ dễ rơi vào tình trạng như
những người Biệt Phái, Luật Sĩ khi xưa là sống hình thức, giả hình bên ngoài.
Thiên Chúa sẽ không căn cứ vào chuyện ta làm được nhiều hay ít;
đọc nhiều kinh; cầu nguyện lâu giờ cũng như đi hết nơi này nơi kia..., nhưng,
Chúa sẽ dựa trên tình yêu ta đặt vào đó nhiều hay ít mà trọng thưởng chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con hiểu được rằng: mọi sự sẽ vô
nghĩa nếu không có tình yêu. Xin Chúa ban cho chúng con luôn luôn lấy tình yêu
làm căn cốt, để chúng con được ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Amen.