Lời Chúa cntn 28a _ các bài suy niệm

CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - A
Lời Chúa: Is. 25, 6-10a; Pl. 4, 12-14.19-20; Mt. 22, 1-14

MỤC LỤC
MỤC LỤC
 

1. Làm việc lành
2. Chiếc áo cưới
3. Lời mời gọi
4. Dụ ngôn tiệc cưới – R. Veritas
5. Mặc lấy Chúa Kitô – Lm. Ignatiô Trần Ngà
6. Lời mời dự tiệc
7. Tiệc cưới Nước Trời – Thiên Phúc
8. Cần một tấm lòng
9. Nếu cuộc sống thiếu tình yêu?
10. Ăn Bánh Trường Sinh
11. Tiệc cưới, áo cưới – Radio Veritas Asia
12. Y phục tiệc cưới
13. Tiệc cưới đã sẵn sàng
14. Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
15. Y phục xứng kỳ đức
16. “Những kẻ được mời không xứng đáng”
17. Hân hạnh vì được mời dự tiệc Nước Trời
18. Ăn cưới và y phục lễ cưới
19. Tiệc cưới và y phục tiệc cưới – Anmai.
20. Suy niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên
21. Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
22. Chúa Nhật 28 TN A
23. Tiệc cưới
24. Mặc áo cưới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
25. Không mặc y phục lễ cưới
26. Áo cưới – Achille Degeest.
27. Hãy đến dự tiệc cưới – Charles E. Miller.
28. Đám cưới vĩ đại
29. Lời mời gọi của Thiên Chúa
30. Dự tiệc – Lm. Vũ Đình Tường
31. Không có gì vui hơn tiệc cưới
32. Những người được chọn và được gọi.
33. Tiệc cưới hoàng tử
34. Tiệc cưới
35. Áo cưới
36. Tiệc Nước Trời
37. Áo cưới
38. Phòng tiệc Nước Trời
39. Cách đáp trả
40. San sẻ niềm vui
41. Suy niệm của Lm Hữu Độ
42. Suy niệm của Lm Nguyễn Tiến Huân
43. Dự tiệc miễn phí
44. Gọi nhiều, chọn ít - Lm. Minh Vận
45. Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia
46. Y phục tiệc cưới  Noel Quession
47. Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển
Chúa mời chúng ta dự tiệc cưới   Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Tiệc cưới nước trời  Lm Giuse Đinh lập Liễm
Mặc lấy Chúa Kitô  Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Hãy nghiêm chỉnh tham dự tiệc ...  Lm. Phêrô Lê văn Chính
Dụ ngôn tiệc cưới và áo cưới 
Dụ ngôn tiệc cưới  JKN
Công trình kỳ diệu  Lm Giuse Đinh tất Quý
Chúa mời chúng ta dự tiệc cưới  Lm Giuse Đinh tất Quý
Tiệc cưới    Sưu tầm
Tiệc cưới  Sưu tầm
Chúa mời dự tiệc cưới  catholic.org.tw



1. Làm việc lành
Câu chuyện vừa nghe đối với chúng ta có phần nào khó hiểu.
Tại sao một ông vua làm tiệc cưới cho hoàng tử, mà các khách mời lại đồng loạt từ chối, không tới dự? Có thể là Chúa Giêsu đã sử dụng một câu chuyện có sẵn, đang được loan truyền trong dân gian. Câu chuyện ấy như thế này: Có một người thu thuế, nhờ làm mà ăn phất lên mau chóng, nên cũng muốn học làm sang, nên đã mở tiệc và cho mời đông đảo khách khứa. Vì không muốn để cho người thu thuế, vốn dĩ bị mọi người coi rẻ, lợi dụng sự hiện diện của mình tại nhà y để huênh hoang. Tất cả những người được mời đã nhất loạt từ chối không đến.
Chúa Giêsu đã từng cho thấy là Ngài không ngần ngại sử dụng những câu chuyện dân gian để cho chúng ta hiểu về thái độ của Thiên Chúa. Thực vậy, các khách được mời dự tiệc cưới, đã được thông báo nhắc nhở tới hai lần nhưng chẳng những đã không tới, mà có người lại còn hành hạ và giết cả những người được chủ sai đi mời. Như thế khách được mời đã không tới, chẳng phải vì quên hay vì bận việc khác, mà hoàn toàn vì ác ý. Hậu quả là họ đã bị trừng trị vì thái độ của họ.
Thay vào chỗ của họ là tất cả mọi người mà các đầy tớ của nhà vua có thể gặp được ở khắp cả ngã đường. Tất cả mọi người đều được mời không phân biệt người tốt kẻ xấu. Chúng ta có thể hiểu chi tiết này bằng hai cách: hoặc là trong Nước Trời, trước ngày phán xét, kẻ tốt người xấu lẫn lộn như cỏ lùng mọc chung với lúa tốt. Hoặc là Thiên Chúa qua lòng nhân lành của Ngài, đã mời gọi mọi người nhất là những kẻ tội lỗi vào dự tiệc mừng của Nước Trời.
Thế nhưng ám chỉ của dụ ngôn xem ra khá rõ. Vị vua làm tiệc cưới cho hoàng tử là Thiên Chúa, Đấng sẽ thực hiện chương trình cứu độ. Những người được mời trước là các thành phần của dân được tuyển chọn, nghĩa là người Do Thái. Nhưng họ đã khước từ lời mời gọi của các tiên tri và cuối cùng là của chính Chúa Giêsu. Những người được mời gọi lần thứ hai, từ khắp các ngã đường, tượng trưng cho mọi dân tộc, không phân biệt cũ mới, nguồn gốc. Như thế dụ ngôn cho thấy diễn tiến của chương trình cứu chuộc. Sự khước từ của người Do Thái đối với giáo huấn của Chúa Giêsu, việc những người tội lỗi và những người không phải là dân Do Thái được đón nhận Tin Mừng của Ngài là những dấu chỉ cho thấy thời cứu độ đang thực sự diễn ra.
Tuy nhiên, phần cuối của dụ ngôn, có thể là do cộng đoàn tiên khởi thêm vào, lại là một lời cảnh cáo đối với các tín hữu. Chiếc áo cưới mà những người dự tiệc phải mặc tượng trưng cho lòng tin, cho niềm vui, cho sự công chính, nghĩa là những việc lành luôn luôn được thánh Matthêu nói tới. Lời kêu gọi của Chúa không phải là không có những đòi hỏi. Chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ từ tình thương của Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa cũng đòi hỏi chúng ta phải sống ơn cứu độ đó bằng cách làm những công việc tốt lành, để nhờ đó chúng ta xứng đáng được Chúa cho vào tham dự bàn tiệc Nước Trời.

Không ai biết đích xác được là con người đã bắt đầu biết may mặc từ thời nào, nhưng chắc chắn là rất xa xưa. Cái mặc đã đi theo cái ăn như là một trong hai cách thế hiện thân độc đáo của loài người, và ngay từ sớm, nó đã vượt ra ngoài cái ý nghĩa sở đẳng là một vật dụng để che thân cho kín đáo, cho ấm áp, hầu mang lấy những ý nghĩa khác có tính cách văn hoá, kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Thực vậy, cái áo có thể cho chúng ta biết được giai cấp, địa vị, nghề nghiệp, và thậm chí đến cả tư cách và tính tình của một người. Người nông dân nghèo không ăn mặc như một cậu công tử thành phố. Ông quan không mặc như người lính, thầy tu không mặc như dân thường. Người con gái nết na kín đáo thì không thích ăn mặc hở hang khêu gợi. Người khiêm tốn không ăn mặc loè loẹt phô trương. Cái áo do đó có một vai trò, một ý nghĩa quan trọng trong đời sống con người. Vì thế mà Chúa Giêsu đã sử dụng nó như một hình ảnh để nói lên cái tư cách của một người công dân Nước Trời.
Bài Tin Mừng vừa nghe ghi lại hai dụ ngôn. Dụ ngôn tiệc cưới và dụ ngôn chiếc áo cưới. Hai dụ ngôn này, nguyên thuỷ có lẽ đã được Chúa Giêsu nói trong hai trường hợp riêng biệt, nhưng đã được Matthêu chắp lại thành một đề tài chung vì thấy có liên hệ với nhau.
Dụ ngôn thứ nhất ám chỉ dân Do Thái là dân hai lần được mời gọi tham dự tiệc cưới, nhưng họ đã từ chối và không những thế, họ còn sát hại những sứ giả của Thiên Chúa. Bởi đó cuối cùng, Ngài lại sai các sứ giả đi khắp các ngả đường để mời gọi tất cả mọi người, không phân biệt tốt xấu. Tuy nhiên lời mời gọi ấy đã được đưa ra với điều kiện là phải sám hối, phải hoán cải, phải đổi đời.
Sám hối, hoán cải hay đổi đời được diễn tả qua dụ ngôn chiếc áo cưới, là dụ ngôn thứ hai đã được ghi lại. Như chúng ta đã nói cái áo không phải chỉ là một đồ dùng để che thân mà còn là một trang phục, nghĩa là một phương tiện tô điểm, đánh giá con người, nói lên địa vị, nghề nghiệp cũng như tư cách của một con người. Đã hẳn tuyệt đối mà nói, cái áo không làm nên thầy tu, nhưng bình thường thì thầy tu vẫn có cái áo của thầy tu. Nhưng lính có cái áo của người lính hay ít ra thầy tu không được ăn mặc loè loẹt diêm dúa.
Ngoài ra cái áo còn là điều kiện để cho con người nhập cuộc với tha nhân: không ai ở trần và và mặc quần xà lỏn mà đi ăn đám cưới, trái lại không ai mặc bộ đồ vét mà lại đi hôi cá dưới ao.
Khi Chúa Giêsu dùng dụ ngôn chiếc áo cưới để nói về những điều kiện mà kẻ đón nhận Tin Mừng phải có để được vào Nước Trời, dĩ nhiên Ngài không muốn nói đến cái áo theo nghĩa thông thường mà là nói tới cái thái độ bên trong, tới những đức tính, hay nói đúng hơn đến cái tinh thần mà người đó phải có. Nói theo thánh Phaolô thì mặc áo cưới ở đây là mặc lấy con người mới được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Hay nói một cách mạnh mẽ hơn, đó là hãy mặc lấy Đức Kitô.
Mặc lấy Đức Kitô là mang những tâm tình của Ngài, là sống hiền từ và khiêm tốn, biết chia sẻ nỗi bất hạnh của người anhem, biết yêu thương cho đến cùng như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta và hiến mạng sống mình vì chúng ta.
Mặc lấy Đức Kitô là nên giống Ngài, đó là chiếc áo cưới mà tất cả những ai được nghe Tin Mừng và đón nhận lời mời vào Nước Chúa phải mặc lấy. Thế nhưng, có mấy ai trong chúng ta đã thực sự mặc lấy Đức Kitô như thế hay chưa?

Tại một xứ đạo ở một thành phố lớn, trong lớp giáo lý cha sở để ý thấy một em nhỏ xanh xao khoảng 13 tuổi. Ngày kia em đến với cha và cặp mắt đỏ hoe, em nói: Con không thể xưng tội rước lễ lần đầu. Tại sao? Vì cha mẹ con ngăn cấm. Cha sở bảo: Con thử về xin phép cha mẹ con một lần nữa xem thế nào? Mấy ngày sau, em lại đến với một điệu bộ thất vọng: Không được đâu cha ạ, bố mẹ con đã nổi nóng và đã đánh con. Cha sở an ủi: Con hãy cầu nguyện và Chúa sẽ giúp đỡ con. Ngày trọng đại đã đến nhưng vẫn không có em nhỏ trong số những em được xưng tội rước lễ lần đầu. Rồi một tuần sau, vào một buổi sáng, em chạy đến nhà xứ, hổn hển thưa: Xin cha giải tội cho con, kẻo mẹ con hay biết. Cha sở giải tội cho em rồi nói: Bây giờ con hãy về kẻo má con biết được. Em do dự một lát rồi nói với một giọng van xin: Cha có thể cho con rước lễ được chứ? Dĩ nhiên cha sở chấp thuận và ngài đã phát biểu: Tôi đã tổ chức nhiều cuộc xưng tội rước lễ lần đầu một cách trọng thể nhưng không lần nào làm tôi cảm động cho bằng lần này.
Chúng ta cũng vậy, có lẽ chúng ta cảm phục em bé đói khát Mình Máu Thánh Chúa. Trong khi đó những người khách trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay lại có một thái độ lãnh đạm. Họ đã được mời nhưng lại không đến. Nhưng đâu là ý nghĩa của dụ ngôn?
Vào thời Chúa Giêsu những kẻ được mời là những người Do Thái. Còn bây giờ những kẻ được mời lại là những Kitô hữu. Mọi sự đã sẵn ngay từ lúc chúng ta còn nhỏ bé: Các bí tích và những ơn lành của Chúa. Hằng tuần bàn tiệc Thánh Thể và bàn tiệc Lời Chúa cũng đã được dọn sẵn. Chúa vẫn kêu mời: Hãy đến vì tất cả đã sẵn. Nhưng người ta đã đưa ra những lý do: tậu bò, cưới vợ, mua đất để từ chối. Nếu chúng ta coi bí tích Thánh Thể là một quà tặng quý giá và chúng ta là những kẻ túng thiếu thì lẽ nào chúng ta lại từ chối.
Không phải chúng ta chỉ là những khách dự tiệc, mà hơn thế nữa, chúng ta còn là những gia nhân của Chúa, chúng ta có bổn phận tiếp tay với Chúa và kêu mời những người khác còn ở ngoài đường trở về bàn tiệc của Chúa qua những hoạt động tông đồ và truyền giáo. Thiên Chúa muốn rằng mọi người đều được dự tiệc vì phòng tiệc thì lúc nào cũng còn chỗ. Những kẻ còn ở ngoài đường, còn ở ngoài Giáo Hội, đó là những anh em lương dân chưa nhận biết Chúa, nhất là những người khổ đau và túng thiếu, chúng ta không được phép bỏ rơi họ.
Phương thế hiệu nghiệm hơn cả để cảm hoá họ, đó chính là tình thương, đó chính là bác ái được biểu lộ qua việc thăm viếng và giúp đỡ. Nhờ tình thương và bác ái, chúng ta sẽ gây được những cảm tình tốt đẹp và tạo được những điều kiện cần thiết, để rồi một ngày kia họ quay trở về với Chúa và nhất là họ sẽ hưởng được sự dịu ngọt tình thương của Chúa và tiệc cưới chính là niềm hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho họ.

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Được một ông vua đích thân mời đến dự tiệc cưới của hoàng tử, nhưng các thần dân không những khước từ lời mời mà còn nhục mạ giết các sứ giả, đây quả là tột cùng của sự khiếm nhã. Qua dụ ngôn, chúng ta thấy rõ Chúa Giêsu nhắm vào dân Do Thái. Câu truyện gợi lên một sự đau thương của cả một dân tộc mà Thiên Chúa đã chọn họ làm dân riêng để thực hiện công cuộc cứu rỗi, nhưng họ đã khước từ ơn cứu rỗi ấy. Nhưng có lẽ trọng tâm của bài Tin Mừng được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay không hẳn là mời dự tiệc cưới cho bằng chiếc áo cưới.
Hai câu truyện xem ra bất thường, được Vua mời đến dự tiệc cưới, thần dân lại khước từ. Đây quả là một hành động nhục mạ đối với nhà Vua. Nhưng thách thức không kém là khi vào phòng cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, thái độ này khiêu khích đến nhà Vua phải truyền lệnh cho gia nhân trói tay chân người đó lại và ném ra ngoài.
Hình ảnh người thực khách vào dự tiệc cưới mà không chịu mặc y phục lễ cưới của nhà Vua qui định, gợi lại cho chúng ta lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Không phải những ai nói "Lạy Chúa, Lạy Chúa" mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa muốn, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
Anh chị em thân mến,
Mang danh hiệu Kitô nhưng sống hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng, đây vốn là điều thường xảy ra trong cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng như trong lịch sử của Giáo Hội. Trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi con cái Giáo Hội sám hối và thanh luyện ký ức lịch sử. Trong suốt 2,000 năm lịch sử của Giáo Hội, con cái Giáo Hội không biết bao nhiêu lần hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Những cuộc thập tự viễn chinh để sát hại người Hồi Giáo, các tòa điều tra thời Trung Cổ để kết án, ngay cả thiêu sống những người lạc giáo, các cuộc chém giết giữa các tín hữu Công Giáo và Tin Lành.
Đó là những vết nhơ trong lịch sử của Giáo Hội, nhưng gần đây là chủ nghĩa bài trừ Do Thái thời đệ nhị thế chiến, trong cuộc sát tế 6 triệu người Do Thái, dĩ nhiên do Đức Quốc Xã chủ xướng, nhưng nó lại diễn ra ngay trong lục địa tự xưng là Kitô giáo. Không ai tự mình có thể trở thành độc tài và đồ tể. Hitler chắc chắn không có đủ ba đầu sáu tay mà hiện diện khắp cả Âu Châu để truy lùng và sát hại người Do Thái. Đức Quốc Xã không chỉ là một mình Hitler tích cực hay tiêu cực, do xác tín hay do hèn nhát, do ác ý hay vì dửng dưng, biết bao người tín hữu trên khắp lục địa Âu Châu đã nhúng tay vào tội ác của Đức Quốc Xã, tự xưng là người tín hữu Kitô nhưng hành động hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng.
Đây là cách cư xử mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ qua người thực khách không chịu mặc y phục lễ cưới do nhà Vua qui định, một cách cư xử thiếu nhất quáng như thế vẫn xảy ra trong Giáo Hội ngày nay. Tại những nước vẫn tự xưng là Kitô giáo, đa số là những người tín hữu hữu danh vô thực, phép Rửa Tội chỉ còn là một nghi thức xã hội, ai sinh ra cũng phải đem đến nhà thờ để được rửa tội, nhưng suốt một đời nhiều người chỉ đến nhà thờ để được rửa tội, để được cưới hỏi và cuối cùng để gọi là được chết trong Giáo Hội.
Biết bao nhiêu đảng phái tự xưng là Kitô giáo nhưng đường hướng hoàn toàn ngược lại với Tin Mừng. Không ngược lại với Tin Mừng là gì khi những người mang danh hiệu Kitô lại cổ võ cho ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tính luyến ái v.v... Còn những nước trong đó Kitô giáo là thiểu số thì người ta thường tự hào về việc giữ đạo của các tín hữu Kitô, nhà thờ lúc nào cũng chật ních người, các cuộc biểu dương và rước sách lúc nào cũng đông người tham dự. Thế nhưng, chúng ta nghĩ gì về các tệ nạn xã hội đầy dẫy trong các giáo xứ, những người ngoài Công Giáo thấy gì về các tín hữu đến nhà thờ mỗi ngày Chúa Nhật, tối sớm đọc kinh làu làu, tích cực trong các buổi rước sách, nhưng sống ích kỷ, lường gạt, mánh mung như mọi người. Một cách sống như thế quả thực làm ố danh sự đạo. Không thể mang danh hiệu Kitô mà hoàn toàn xa lạ với Tin Mừng Kitô, không thể là người Công Giáo mà chủ trương sống ngược lại với giáo huấn của Giáo Hội, bỉ ổi hơn cả là khi người ta dùng danh hiệu Công Giáo để phục vụ cho một chế độ chủ trương bách hại Giáo Hội.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở cho chúng ta về những lời cam kết khi chịu Phép Rửa Tội, một trong những ý tưởng đầy ý nghĩa của Bí Tích này là chiếc áo trắng mà Giáo Hội phủ lên người chúng ta. Chiếc áo trắng ấy là căn cước Kitô của chúng ta, chúng ta không chỉ mang nó mỗi năm một lần, mỗi tuần một lần hay thậm chí chờ cho đến khi ta nhắm mắt lìa đời. Chiếc áo trắng ấy là từng hơi thở của chúng ta, chiếc áo trắng ấy là Tin Mừng Chúa Kitô mà chúng ta phải sống từng giây phút trong cuộc sống. Có sống như thế chúng ta mới thật sự cảm nhận được niềm vui khi tham dự vào bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa dọn ra cho chúng ta mỗi ngày, nhất là ngày Chúa Nhật. Có sống như thế những người xung quanh mới nhìn vào chúng ta mà ngợi khen Cha chúng ta ở trên trời. Amen.

Trong một trăm người đang sống trên lục địa Á châu, chỉ có hai người gia nhập Hội Thánh Chúa. Hạnh phúc cho ai được liệt vào số ít những người may mắn nầy. Trong số một trăm người đang sống trên giải đất Việt Nam, chỉ có bảy người có diễm phúc tham dự tiệc cưới vua trời, tức được gia nhập vào Hội Thánh Chúa. Chúng ta cũng được may mắn thuộc về thiểu số nầy. Đây quả là một hồng phúc lớn lao cho chúng ta.
Để xứng hợp với tư cách của vị khách được Thiên Chúa ưu ái mời vào dự tiệc Nước Trời, Thiên Chúa đòi buộc chúng ta phải vứt bỏ tấm áo dơ bẩn đang mặc để khoác vào mình y phục xứng đáng.
Khi mặc đồ tang chế mà đi dự tiệc cưới, người ta nghĩ là bạn bị khùng nặng và xua đuổi bạn tức khắc. Khi bước vào bệ kiến Đức Vua mà trang phục lôi thôi lếch thếch, nói năng hồ đồ lỗ mãng thì không khỏi bị kết tội khi quân. Khi bước vào đời quân ngũ mà ăn mặc rách rưới như kẻ bần cùng, thiếu tác phong quân nhân, thì bạn sẽ bị tống cổ ra ngay vì làm ô danh quân đội.
Hội Thánh của Chúa luôn mở rộng cửa để tiếp nhận tất cả mọi người từ khắp tứ phương thiên hạ bất kể sang hèn tốt xấu. Nhưng một khi đã gia nhập đại gia đình nầy, các thành viên phải cởi bỏ tấm áo xấu xa để khoác lên người trang phục xứng đáng, nghĩa là phải có những phẩm chất phù hợp với Tin Mừng.
Một con sâu tuy nhỏ nhưng cũng đủ để làm rầu nồi canh. Vài ba giọt mực tuy không nhiều nhưng cũng đủ để làm hư tấm vải trắng. Chỉ một ít tín hữu sống trái nghịch với Tin Mừng và giáo huấn Hội Thánh, cũng đủ để làm cho khuôn mặt của Giáo Hội trở nên khó thương trước mặt người khác.
Vì thế nên một khi đã gia nhập Hội Thánh mà cách ăn thói ở không phù hợp thì đương sự sẽ bị Thiên Chúa lên án nặng nề. Đoạn Tin Mừng sau đây nhắc nhở chúng ta điều đó.
"Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng."
Là người được Thiên Chúa mời gọi gia nhập vương quốc Thiên Chúa, chúng ta phải xem lại cách ăn thói ở của chúng ta sao cho thích đáng.
Xưa kia, Augustinô ban đầu theo đuổi phù du ảo ảnh của thế gian, nhưng đến năm 33 tuổi, lần đầu tiên con người lầm lạc nầy tiếp cận với kinh thánh và đoạn văn đầu tiên đập vào mắt Anh là lời dạy của thánh Phaolô trong thư Rô-ma như sau: "Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đảng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giêsu Kitô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt." (Rm 13, 13-14).
Nhờ ơn Thánh Linh tác động, Augustinô bừng tỉnh trước Lời Chúa. Anh cảm thấy những câu Lời Chúa nầy như nói riêng với chính mình. Thế là từ đây, Augustinô từ bỏ quãng đời tội lỗi, từ bỏ những đam mê xác thịt, rũ bỏ bộ áo bẩn thỉu hôi hám để mặc áo mới, mặc lấy Đức Giêsu Kitô. Anh được lãnh bí tích rửa tội vào năm 33 tuổi, hiến mình cho Chúa và ba năm sau, trở thành một linh mục thánh thiện, về sau được cất nhắc lên chức giám mục và trở thành vị thánh chói ngời đồng thời cũng là thầy dạy trong Giáo Hội với tước hiệu tiến sĩ Hội Thánh.
Trong ngày lãnh bí tích rửa tội, ngày chúng ta chính thức gia nhập Hội Thánh, linh mục chủ sự thay mặt Hội Thánh trao cho chúng ta tấm áo trắng với lời kêu gọi: "Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Chúa Kitô. Vậy con hãy nhận chiếc áo trắng nầy, hãy mang lấy và giữ nó tinh tuyền cho đến khi ra trước toà Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để con được sống muôn đời".
Xin cùng khẩn cầu Thiên Chúa giúp chúng ta đừng luyến tiếc áo cũ đã hoen ố vì vô vàn thói xấu tật hư. Hãy dứt khoát cởi bỏ nó để quyết tâm mặc lấy áo mới, mặc lấy Đức Kitô, mang những tâm tình cao đẹp như Chúa Giêsu, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Giêsu, biết thứ tha, yêu thương và phục vụ như Chúa Giêsu; Nhờ đó, chúng ta sẽ được cùng với Chúa dự tiệc vui muôn đời.

(Suy niệm của John W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Nước Trời ví như một ông vua kia mở tiệc cưới cho đứa con” (Mt 22,2).
Khi nói về nước Thiên Chúa, có lẽ không một hình tượng nào thú vị và hấp dẫn cho bằng quang cảnh một bữa tiệc. Mọi người trong chúng ta đều đã từng trải nghiệm sự hoan vui với đồ ăn thức uống khi tham dự một bữa tiệc như vậy. Nhiều nơi tôi đã đi qua, đã để lại những dấu ấn khó quên với những món đặc sản tại nơi đó. Vì vậy, hình ảnh bữa tiệc mà bài Tin Mừng nói tới hôm nay mang đậm nét văn hóa nhân sinh nơi cuộc sống đời thường của chúng ta. Bữa ăn gợi nhớ những thời khắc thư giãn trong cuộc sống, hoặc đó cũng là những giờ phút đầm ấm, cả gia đình cùng quây quần sum họp bên nhau. Isaia phác vẽ một viễn cảnh tương lai, đó là lúc “Đức Chúa sẽ thiết đãi muôn dân một bữa tiệc thịnh soạn, nào thịt béo, nào rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25,7). Vị tiên tri còn khai mở trong tâm tưởng chúng ta một chân trời tươi sáng hơn: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần” (Is 25,7). Người ta sẽ nhớ mãi đến Vương quốc này, vì không phải chỉ có thịt và rượu, nhưng còn có một đặc nét khác quan trọng hơn, đó là Thành đô sẽ dàn trải ơn cứu độ đến với muôn dân, và tử thần sẽ bị khuất phục.
Mọi người đều phải ngóng đợi, và hướng vọng về bữa tiệc này. Còn bạn, làm sao bạn có được vé mời để đến tham dự? Rất giản đơn và dễ dàng. Bởi vì chính bạn đã được mời từ lâu rồi. Đức Giêsu kể một dụ ngôn về một ông vua tổ chức tiệc cưới cho đứa con. Ông sai gia nhân đi mời các quan khách. Những người được mời, cho dù thiệp mời đã được trọng thị gửi đi từ trước, nhưng họ đã xem nhẹ và lạnh lùng từ chối. Người đi thăm nông trại, người khác mải mê công việc làm ăn...Một số khác còn bắt các gia nhân, ngược đãi và thậm chí còn giết chết họ. Thái độ phản kháng này xem ra rất dị thường trước một lời mời trang trọng như vậy. Thế thì, ai là những con người đã chối từ bữa tiệc của Đức Vua, mà chỉ chú tâm đến những bận rộn đời thường? Còn kỳ lạ và khó hiểu hơn nữa, chúng ta thử hỏi tiếp, ai là những người đã bắt các gia nhân, giết chết họ chỉ vì họ đi mời các quan khách? Dụ ngôn của Đức Giêsu vạch dẫn những ám dụ biểu thị sự từ chối lời gọi mời của chính Thiên Chúa trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta hôm nay.
Sự việc Vương quốc bị từ chối, còn nêu ra những thái độ kỳ lạ hơn nữa. Tự bản chất, Vương quốc của Thiên Chúa luôn là một bữa tiệc, là một lễ hội, lúc nào cũng được dọn sẵn và rộng mở cho mọi người. Các giáo phụ đã nói nhiều về điều này, ví dụ Thánh Clêment thành Alexandria đã viết “Trọn vẹn cuộc sống chúng ta là một ngày đại lễ”. Thánh Chrysostomo viết tiếp “Chúng ta có những ngày lễ bất tận”. Còn Thánh Augustinô cũng mô tả “ Lễ hội luôn mãi trường cửu trong nhà Thiên Chúa” và Thánh Hiêrônimô còn nói tổng quát hơn “Cuộc sống chúng ta, là một cuộc lễ hội không bao giờ chấm dứt”... Lễ hội hoan vui của Thiên Chúa luôn tuôn đổ niềm vui xuống trên chúng ta, giữa bao lao nhọc và khổ đau của kiếp người. Nhưng trớ trêu thay, con người lại đáp trả một cách vô tâm, hờ hững, và cuối cùng còn phản kháng một cách cuồng nộ nữa.
Cho dù bị chối từ, các gia nhân vẫn đi và kiếm tìm thực khách để lấp đầy phòng tiệc, bất kể người tốt hay kẻ xấu. Nhưng câu truyện lại nêu ra một khía cạnh khác khá nhức nhối. Nhiều nhà chú giải cho rằng chi tiết này thuộc về một dụ ngôn khác, nhưng đã được gượng ép gắn kết với dụ ngôn về bữa tiệc cưới. Đó là sự kiện xảy ra sau khi các gia nhân đã đi mời, và phòng tiệc đầy kín người, cả tốt lẫn xấu, nhà vua để ý thấy có một thực khách không mang y phục đám cưới. Nhà vua nói với anh ta “Này bạn, sao bạn đến đây mà không mặc áo cưới? Vị khách này đã được mời, và đã ngồi vào bàn, trong khi biết bao người khác lại chối từ. Nhưng tiếc thay, anh ta vẫn còn thiếu một điều quan trọng. Ông vua ra lệnh cho gia nhân “Hãy trói tay chân nó lại, đưa ra chỗ tối tăm bên ngoài, nơi chỉ có khóc lóc và nghiến răng”. Đây là một hình tượng nói về hỏa ngục, theo cách diễn tả truyền thống nơi Tin mừng Matthêu.
Dụ ngôn kết thúc với lời giáo huấn của Đức Giêsu “Người được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít”. Câu kết luận này đan nối câu chuyện tiệc cưới với sự kiện có một vị khách không mặc áo cưới. Khi chúng ta nhìn lại trình thuật của dụ ngôn, rõ ràng hạn từ “nhiều người” mà Chúa Giêsu nói tới, biểu trưng cho “tất cả mọi người”, cho tính phổ quát của ơn cứu độ. Tất cả mọi người, không loại trừ ai, đều được gọi mời vào bàn tiệc, người tốt cũng như kẻ xấu. Nhưng chỉ “ít người được chọn” mà thôi. Đó là những ai đã nhận được lời mời và thực lòng chấp nhận. Họ là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hoàn toàn do ân huệ trao ban cách nhưng không, chứ không phải do công lao của họ. Nhưng để được chọn, chỉ lời mời của Thiên Chúa mà thôi, thì không đủ. Còn phải có sự tự nguyện đáp trả từ phía con người, tức là những kẻ được mời. Hơn nữa, một khi chúng ta đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, chúng ta phải chuẩn bị chu đáo để đến dự tiệc. Y phục phải gọn gàng, khăn áo phải chỉnh tề, tức là chúng ta phải sẵn sàng mọi thứ để có thể ngồi vào bàn tiệc hầu thưởng lãm niềm vui. Y phục tiệc cưới là chính thái độ rộng mở của tâm hồn, sẵn sàng đáp trả lời gọi mời của Thiên Chúa và cộng tác với Ngài, Đấng đem đến cho ta ơn cứu độ. Điểm nhấn của Đức Giêsu nơi dụ ngôn, thể hiện trong câu nói cuối cùng. Không phải là Ngài có ý nói về số người được cứu sẽ ít ỏi. Ngài muốn nêu lên niềm khắc khoải, vì những người được mời thì nhiều, nhưng tiếc thay con số đáp trả lời mời gọi đó, và chuẩn bị sẵn sàng cho Vương quốc lại quá ít. Tất cả mọi người chúng ta được mời, nhưng chúng ta có được chọn hay không, tùy thuộc vào thái độ và sự tự do nơi chính chúng ta. Dầu sao, bạn hãy luôn sẵn sàng, không phải sẵn sàng ngồi vào bàn tiệc hôm nay, hay ngày mai, hay của một thời điểm nào đó, nhưng là bữa tiệc Nước Trời, bữa tiệc của ơn cứu độ, bữa tiệc lúc nào cũng được dọn sẵn và rộng mở để đem lại cho ta niềm vui vĩnh cửu tròn đầy.

(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Chuyện kể rằng: có một con gà rừng đang ấp trứng, nhưng lẫn trong ổ của nó một trứng đại bang. Đúng ngày giờ, trứng nở thành con. Đại bàng con nô đùa vui vẻ bên đàn gà rừng như anh chị em ruột.
Một ngày kia, đang bươi móc kiếm ăn cùng đàn gà rừng, đại bang con bỗng thấy một con chim đại bang lớn bay lượn trên không thật oai phong và đẹp mắt. Cậu liền hỏi mẹ gà:
- Mẹ ơi! Sao mình không bay như chim kia trên trời?
- Chúng ta đâu phải đại bàng mà bay được!
- Thế chúng ta là ai?
- Chúng ta là gà rừng!
Bỗng một ngày, đang khi bươi chải kiếm ăn trên đống rác cậu lại thấy đại bang mẹ bay lượn trên đầu gọi:
- Bay lên con ơi, bay lên đại bang con của mẹ. Thế giới của con là trời cao đất rộng, chứ không phải là đống rác này! Bay lên đi con.
Cậu cố bay lên, nhưng lại rơi xuống. Trong khi các chú gà rừng cười cợt chế nhạo:
- Chúng ta là gà rừng, làm sao mà bay được.
Cậu suy nghĩ, nếu ta là gà rừng sao đại bang kia cứ bảo ta là đại bang con. Và khi bay lên ta thấy cũng đâu có gì khó khăn, có lẽ chưa quen thôi. Nào hãy thứ lần nữa xem.
Thế là cậu đại bang đủ lông đủ cánh bay lên, và bay lên mãi. Cậu bay theo mẹ về một chân trời mới. Lần đầu tiên trong đời, cậu được nhìn thế giới từ trên cao, lòng cậu mênh mang, hạnh phúc ngập tràn.
*** 
Như đại bàng mẹ tha thiết mời gọi đại bàng con bay lên bầu trời thênh thang lộng gió, Thiên Chúa cũng gọi mời các tín hữu Kitô, hãy tiến lên dự tiệc cưới Nước Trời.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu ví: “Nước Trời cũng giống như chuyệm một vua kia mở tiệc cưới cho con mình” (Mt 22,20). Ông cho mời các quan khách, nhưng họ đều kếm lý do để từ chối; thậm chí, còn sỉ nhục các đầy tớ của vua và giết đi. Cuối cùng vua sai đầy tớ đi mời tất cả mọi người bắt kể tốt xấu vào dự tiệc của ông. Rủi thay, có một thực khách không mặc y phục lễ cưới. Ông liền ra lệnh cho gia nhân: “Trói chân tay nó lại quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó ngươì ta sẽ phải khóc lóc nghiến rằng. Vì kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít” (Mt 22,14).
Mỗi một kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là tấm áo trắng ngày chịu phép Rửa tội.
Tấm áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên.
Tấm áo trắng ấy được dệt  bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời.
Tấm áo trắng ấy luôn được mặc vào khi người tín hữu đi dự tiệc Thánh Thể.
Và nhất là, tấm áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày họ bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Kitô hữu là người đã được thiên Chúa tuyển chọn., làm con cái của Người. Họ là những con đại bang, luôn ngước mắt nhìn cao, mong bay lên cùng Thiên Chúa là cha đầy yêu thương. Họ luôn sống tâm tình của thánh Au-tinh: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa. Tâm hồn con luôn thao thức cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa”.
Đừng bao giờ nghĩ mình là giống gà rừng, để cúi đầu bươi chải, an phận với những hạnh phúc nhỏ nhoi tầm thường. Tuy được những con sâu bọ là miếng mồi ngon đấy, nhưng chúng cũng nằm trên đống rác, đống phân.
Đừng bao giờ quên rằng, những thành quả trong đời sống kinh tế, và những ân sủng trong đời sống đức tin, chỉ là phương tiện giúp ta đạt đến cứu cánh của cuộc đời, là được vào dự tiệc Nước Trời. Đức Giêsu nói: “Vì nếu người ta được cả thế giớ imà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?” (Mt 16,26).
Người do thái bị loại ra khỏi tiệc cưới, cho dù họ là quan khách được mời trước, chỉ vì họ đã không đón nhận Đức Kitô của Thiên Chúa. Mặc lấy “tấm áo trắng Rửa tội” là “Mặc lấy đức Kitô”, là tin tưởng vào Người và ơn cứu độ do Người mang đến.
Người Kitô hữu cũng có thể không vào được Nước Trời, nếu họ để mất “tấm áo trắng Rửa tội”. Chính là việc họ từ chối “mặc lấy Đức Kitô”, từ chối mặc y phục lễ cưới mà vua đã qui định. Đức giêsu nói với họ rằng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Rốt cuộc, “chỉ ai thi hành ý muốn của Cha” mới đúng là thực khách của bàn tiệc Nước Trời. Còn tất cả những ai mang danh hiệu Kitô, nhưng sống hòan toàn ngược lại với Tin Mừng, đều phải bị loại ra “chỗ tối tăm bên ngoài”, “nơi khóc lóc nghiến răng”.
***  
Lạy Chúa,
Xin giải thoát chúng con khỏi những mê hoặc của khoái lạc, giàu sang, danh vọng. Con đại bang dù có bị cột vào một sợi dây rất nhỏ ấy cũng không thể bay lên cao.
Xin cho chúng con luôn biết lắng nghe tiếng Chúa, và mau mắn đáp lại tiếng gọi yêu thương của ngài. Amen.

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Một trong những cung cách giảng dạy của các danh sư là dùng các câu chuyện kể. Khi sinh thời, Chúa Giêsu cũng đã từng làm người kể chuyện. Cách kể chuyện của Chúa hẳn rất có duyên khiến cho đám đông thính giả say sưa nuốt từng lời, từng câu nói. Chúa Nhật 28 TN A này, Mẹ Hội Thánh cho chúng ta nghe lại câu chuyện Chúa Giêsu kể năm nào: "Nước Trời giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho hoàng tử. Đến hẹn, vua sai gia nhân đi mời quan khách. Ngày xưa, đi dự tiệc cưới của hoàng cung có phải mang theo quà cáp hay phong bì chăng? Ngày nay rất nhiều người cứ đến mùa cưới là như trong tư thế sẵn sàng đi trả nợ đời. Cứ mỗi tấm thiệp mời ăn cưới là một tờ giấy báo nợ không bằng. Tìm được cớ hợp lý để thoái thác tham dự một tiệc cưới kể như lập một chiến công, dù không trọn vẹn, vì cũng phải nhờ người gửi quà biếu, nhưng dẩu sao cũng tiết kiệm được một buổi công làm. Tuy nhiên hầu hết đây là những trường hợp "được hay bị mời", kiểu phải đáp lễ, ít có liên hệ họ hàng hay thân thuộc.
Trở lại với câu chuyện dụ ngôn Chúa kể. Được vua mời dự tiệc cưới hoàng tử quả là một vinh dự to lớn mà nhiều người thời phong kiến hằng ước ao. Không chỉ vì mình được nhà vua sủng ái mà còn có nhiều vận hội lớn, mỗi khi được dịp vào hoàng cung, được dịp gặp gỡ bao vị quyền chức cao trọng. Hơn nữa, ngôn sứ Isaia đã minh nhiên nói rõ sự hào phóng của đức vua: Thịt thì béo, rượu thì ngon mà khỏi phải trả đồng nào (x. Is 25,6; 55,1). Thế mà những người được mời lại nỡ tâm từ chối với những lý do không chút tương xứng: đi thăm nông trại, đi buôn bán. Có kẻ lại bắt đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết! Không thể hình dung và cũng chẳng thể hiểu được.
Chuyện hình như không thể xảy ra trong đời thường thì lại rất có thể có trong đời sống đức tin, và thực sự đã hiển nhiên với lịch sử đoàn dân được tuyển chọn ngày xưa. Israel, họ được Thiên Chúa ưu ái mời gọi đến hưởng nhận bao ân phúc của Người. Chỉ là một dân nhỏ bé giữa các dân, họ chẳng có gì xứng đáng. Tất thảy chỉ vì tình Chúa bao la. Chúa sủng ái họ cách đặc biệt hơn các dân. Thế mà khi sai các đầy tớ là các sứ ngôn đến mời gọi thì họ lại chối từ và còn nhẫn tâm hãm hại các ngài. Chính sự vô tình và sự nhẫn tâm của họ đã kết án họ, đã loại họ ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Và rồi muôn dân khắp thiên hạ đã được mời vào dự tiệc của Thiên Chúa. Thiên hạ sẽ từ Đông chí Tây, từ Bắc chí Nam đến dự tiệc Nước Thiên Chúa, còn con cái trong nhà sẽ bị loại ra ngoài. Người ta bị loại chỉ vì thiếu một tấm lòng.
Chúa Giêsu kể thêm một câu chuyện khác cũng về tiệc cưới của hoàng tử. Khi đức vua vào phòng tiệc thì thấy một người không mặc y phục lễ cưới. Đi dự một đám cưới mà trên người chỉ có chiếc "may - ô" và cái quần cộc hay với bộ đồ đen của "đám tang" thì quả là xấc xược với đôi tân hôn, với chủ tiệc và với cả quan khách. Lại còn ương ngạnh, không thèm trả lời khi được chất vấn, thì quả là người chẳng coi ai ra gì, đúng hơn là chẳng biết nghĩ đến kẻ khác. Đi dự một lễ hội, tiệc tùng hay đình đám thì chuyện mặc y phục gì, kiểu dáng ra sao, màu sắc thế nào... không nguyên là để làm đẹp bản thân mà tiên vàn là để tôn trọng chủ nhà, tôn trọng nội dung, bầu khí buổi lễ, buổi tiệc... Đã là người biết nghĩ, thì không ai ăn mặc hở hang, lòe loẹt đi dự đám tang và cũng chẳng có ai mặc toàn màu đen đi dự đám cưới.
Nguời không biết nghĩ đến kẻ khác thì không xứng đáng dự tiệc nước trời, vương quốc của tình yêu. Vào đạo, gia nhập Hội Thánh...mà chỉ biết lo cho bản thân mà thôi, cho dù là phần rỗi linh hồn mình, thì không xứng đáng lãnh nhận ân tình của Chúa. Chốn khóc lóc và nghiến răng là nơi dành cho những kẻ chỉ biết sống cho riêng mình.
Được làm con cái Chúa thì phải lấy danh Chúa làm trọng. Nguyện xin cho danh Cha cả sáng. Được làm tín hữu trong Hội Thánh thì phải mến yêu người mẹ sinh ta trong đức tin. Xin gìn giữ Hội Thánh Chúa trong chân lý và binh an. Được làm con dân nước Việt thì phải đồng hành với dân tộc trong mọi hoàn cảnh lịch sử. Xin cho quê hương được thái bình thịnh vượng trong công lý. Những lời cầu xin cũng là những ý chỉ định hướng cuộc đời ta, hành vi của ta.
Những ngày vừa qua, truyền thông đại chúng nước nhà đất Việt chúng ta đã dùng xảo kế làm méo mó chân dung một vài đấng bậc trong Hội Thánh, gieo rắc ác cảm nơi tâm hồn nhiều bà con lương dân và khác đạo. Chính quyền Hà Nội lại còn dùng bạo lực đối xử cách bất công với nhiều tín hữu Công giáo. Là người đang cùng chung bữa căn nhà Hội Thánh, chúng ta hẳn đau xót cách này cách khác. Thế nhưng, sau một vài ngày, một vài tuần, lòng ta có lại dửng dưng như chưa có chuyện gì xảy ra? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai tự bằng lòng với một vài lời kinh hiệp thông cầu nguyện để che dấu tấm lòng ích kỷ chỉ lo cho riêng mình, sợ bị phiền toái, sợ bị bách hại hay sợ ảnh hưởng đến đường thăng tiến tương lai.
Trước tình cảnh đất nước nhiễu nhương vì nạn tham nhũng, gian dối, bạo lực, bất công... là đồng bào, là người con cùng một dạ mẹ tổ quốc, chúng ta có dừng lại ở một vài xuýt xoa, than thở, tán gấu vĩa hè...để rồi phủi tay xem như chuyện của người khác phải lo, phải liệu, chứ không phải của tôi? Hy vọng rằng sẽ chẳng có ai đóng khung các mối lo toan bằng vòng tay của bản thân hay các cánh cửa gia đình riêng mình.
Lạy Chúa xin cho chúng con có một tấm lòng.

(Trích trong ‘Cùng Nhau Suy Niệm’ – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Ở đời có yêu nhau người ta mới dám hy sinh dành thời giờ cho nhau, mới hy sinh làm vui lòng nhau. Có yêu nhau người ta mới chẳng quản ngại ngăn sông cách núi để "Tam tứ núi cũng trèo - Thất bát sông cũng lội, thập cửu đèo cũng qua". Ngược lại nếu không có tình yêu thì cuộc đời sẽ không có hy sinh và càng không cần làm vui lòng nhau. Phải chăng đó cũng là lối cư xử thiếu tình yêu của con người đối với Thiên Chúa mà bài tin mừng hôm nay Chúa Giêsu đề cập đến? Phải chăng lời Chúa hôm nay là bức tranh tương phản giữa tình yêu quảng đại của Thiên Chúa và thái độ vô ơn, bất kính của con người?
Thiên Chúa là chủ tiệc. Thiên Chúa thiết đãi một bữa tiệc chứa chan hạnh phúc cho con người. Nhưng tiếc thay, con người đã từ chối lòng tốt của Thiên Chúa. Ngay từ đầu trong vườn địa đàng, Adam đã từ chối chung bàn với Thiên Chúa. Ông muốn loại trừ Thiên Chúa. Ông muốn bước đi theo lối đi của ông. Một lối đi theo ý mình. Một lối đi không có Thiên Chúa. Hậu quả là đau khổ và sự chết đã đi vào kiếp người. Cũng từ đây tình yêu của Thiên Chúa theo đuổi con người suốt dọc dài lịch sử ơn cứu độ. Thiên Chúa vẫn tiếp tục kiên nhẫn mời gọi, dẫn dắt con người trở về trong sự hiệp nhất với Ngài. Các tiên tri và Chúa Giêsu đều dùng hình ảnh bữa tiệc để nói về niềm vui của sự xum vầy bên Chúa và bên nhau trong hoan lạc hạnh phúc.
Thế nhưng, cho thì nhiều mà đáp trả chẳng bao nhiêu. Con người qua mọi thời đại vẫn tìm nhiều cách để khước từ lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa. Nhiều người vẫn đang tìm cho mình một lối đi không có Thiên Chúa. Họ muốn tự hành xử theo ý mình và bắt người khác theo ý mình. Một thế giới không có Thiên Chúa chỉ dẫn đến chiến tranh hận thù, nghị kỵ và kết án lẫn nhau. Một thế giới không có Thiên Chúa sẽ dẫn đến một nhân loại gồm toàn những người quá đề cao cái tôi đến nỗi chẳng ai chịu nghe ai. Đó là kinh nghiệm đắng cay nhưng đáng tiếc, chẳng mấy ai chịu sửa sai!
Có nhiều người hôm nay nhân danh đạo tại tâm để từ chối việc đến nhà thờ, ngay cả thánh lễ Chúa nhật họ vẫn dửng dưng xem thường. Họ cho rằng đạo tại tâm là không cần biểu lộ ra bên ngoài nhưng họ quên rằng cái tâm đó phải thể hiện ra bên ngoài bằng thái độ giữ đạo chân thành, không giả dối, không khoe trương. Đây là điều mà Chúa Giêsu đã từng nói: "nghe và thực hành Lời Chúa" mới là điều quan trọng. Và chính Chúa thêm rằng: "Ai xưng mình là môn đệ của Thầy trước mặt người đời, thì Thầy mới xưng nó trước mặt Cha Thầy".
Có nhiều người viện lý do ghét người này người nọ để từ chối việc đến nhà thờ. Họ cho rằng "tin đạo nhưng không tin người có đạo". Điều đó có thể đúng, nhưng không thể "vơ đũa cả nắm" càng không thể "đánh lận con đen", Đạo và người có đạo như nhau. Đạo là đường. Người có đạo đang đi trên con đường đó. Đường ta ta đi. Tại sao vì một vài người mà mình lại bỏ đạo? Tại sao ta không tiếp tục đi để nâng đỡ anh em đang vấp té trên đường? Tại sao ta không trở thành bạn đồng hành để giúp anh em sai lỗi biết sống và thực hành đạo? Xem ra đó chỉ là nguỵ biện cho thái độ từ chối thông hiệp với Thiên Chúa của chính mình!
Bên cạnh những người bỏ đạo còn có những người lấp lửng nửa vời. Họ nại vào lý do "có thực mới vực được đạo". Họ không đi lễ vì phải lo kế sinh nhau. Lo đồng tiền bát gạo trước, rồi khi rãnh mới tranh thủ đi lễ. Họ là những người thờ thần tài trên cả Thiên Chúa. Họ say mê tìm kiếm của cải trần gian mau qua, mà lãng quên giá trị vĩnh cửu là Nước Trời. Họ là những người sống theo chủ nghĩa thực dụng. Cái gì có lợi trước mắt là làm ngay. Họ quên rằng: mọi sự thế gian này sẽ qua đi, và những gì họ đã một đời bán mạng để tìm kiếm cũng thuộc về người khác. Công việc tìm kiếm danh vọng của họ chỉ là "dã tràng xe cát biển đông".
Hình ảnh vị khách đã không mặc áo "xứng kỳ đức" có thể là chính chúng ta. Những người mang danh ky-tô hữu nhưng không có nếp sống phù hợp với tư cách của người môn đệ Chúa. Chúng ta vẫn khoác trên mình biết bao thói hư tật xấu, biết bao những đam mê lầm lạc. Chúng ta chưa dám mặc lấy Đức Ky-tô. Chúng ta không dám sống như lời thánh Phaolo đã từng nói: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Ky-tô sống trong tôi". Vì thế, cuộc đời chúng ta vẫn đầy những lầm lạc, gian dối và tội lỗi.
Phải chăng, bài dụ ngôn này là lời nhắc nhở chúng ta hãy chỉnh đốn lại lối sống cho phù hợp với tình yêu của Thiên Chúa? Hãy nhìn lại tương quan của mình với Thiên Chúa cho đúng, để có cách sống cho phù hợp. Chúng ta là thụ tạo hãy biết lệ thuộc vào Đấng tạo hoá. Chúng ta là tôi tớ hãy sống theo ý của chủ. Chúng ta là môn đệ của Chúa hãy từ bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới. Con người của ân sủng không bị lệ thuộc vào những đam mê thấp hèn làm mờ lương tri. Chúng ta là con Chúa hãy sống thông hiệp với Chúa và với nhau để xây dựng một thế giới hiệp nhất, yêu thương, thắm đượm tình Chúa tình người.
Ước gì chúng ta luôn biết chọn Chúa làm gia nghiệp thay cho những phù vân ở đời mau qua. Ước gì chúng ta luôn trân trọng tình Chúa để dám dành thời giờ cho Chúa hơn là lao mình vào những danh vọng trần gian. Xin Chúa giúp chúng ta gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người bằng chiếc áo ân sủng của Chúa luôn gìn giữ chúng ta trong sạch và tinh tuyền. Amen.

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Năm 2005, Hội Đồng Giám Mục Anh đã cho phát hành bản báo cáo dài 90 trang do Đức Giám Mục John Hine soạn thảo trên cơ sở một cuộc điều tra kéo dài hơn một năm. Với hơn 15,000 gia đình Công Giáo về một vấn đề duy nhất là tại sao người ta không đi nhà thờ ngày Chúa Nhật.
Qua điều tra người ta nhận định rằng: 1/ chủ nghĩa vật chất, 2/ tình trạng tài chính khó khăn, và 3/ lề lối làm việc hiện đại là ba yếu tố chính đẩy đưa người ta đến chỗ bỏ lễ ngày Chúa Nhật.
Ở thời đại hôm nay người ta bỏ lễ ngày Chúa nhật rất dễ dàng. Người ta viện vào nhiều lý do để hợp thức hóa cho việc bỏ lễ. Họ cho rằng cuộc sống luôn phải làm việc vất vả để kiếm ăn. Họ còn phải chạy đua theo những tiện nghi vật chất. Cuộc sống quá vất vả, căng thăng vì cơm áo gạo tiền khiến người ta quá mệt sau một tuần vật lộn với cuộc sống. Tâm trí không thảnh thơi. Thân xác thì mệt mỏi khiến họ chỉ muốn tìm giây phút thư giãn qua việc giải trí, mua sắm ...
Tệ hơn nữa là nhiều người vẫn coi nhẹ việc tham dự thánh lễ. Thánh lễ không phải là việc tối quan trọng. Thánh lễ chỉ là tùy phụ rảnh thì đi, bận thì thôi. Hay tệ hơn nữa, là lạm dụng lòng thương xót Chúa, bỏ lễ rồi xưng tội là xong!
Ở miền quê chúng tôi chỉ cần một cơn mưa nho nhỏ cũng khiến người tham dự thánh lễ vơi đi. Xem ra chỉ cần một khó khăn nho nhỏ cũng là lý do để họ bỏ lễ.
Chúa Giêsu ví Nước Trời là một bữa tiệc. Thiên Chúa mời mọi người vui lòng đến dự bữa tiệc do Ngài thiết đãi. Thế nhưng người ta nại vào nhiều lý do để không tới dự tiệc. Đa phần cũng chỉ vì công việc, vì nhu cầu vật chất, vì cuộc sống bận rộn khiến họ chú tâm vào cuộc sống phần xác mà quên dành thời giờ cho phần hồn. Họ khước từ vì họ còn mải mê với nhu cầu vật chất trần gian.
Bữa tiệc Nước Trời chính là bữa tiệc cánh chung. Đó là bữa tiệc Thiên Chúa khoản đãi cho tất cả những ai đón nhận lời mời của Ngài. Thiên Chúa mời gọi không phân biệt chủng tộc, màu da. Ngài hân hoan chào đón mọi thành phần vào tham dự bữa tiệc. Tuy nhiên, để được dự tiệc Ngài cũng đòi hỏi mỗi người phải khoác chiếc áo dự tiệc. Chiếc áo thể hiện lòng kính trọng với chủ tiệc. Chiếc áo mà Ngài đã trao cho mỗi người khi chấp nhận lời mời bước vào bữa tiệc cánh chung. Đó chính là chiếc áo trắng trong ngày rửa tội. Chiếc áo của ân sủng. Chiếc áo tinh tuyền không tì vết tội lỗi.
Nhưng đáng tiếc, có người đã đánh mất chiếc áo. Có người đã làm bẩn chiếc áo. Có người đã để chiếc áo nhàu nát, rách rưới. Có người đã bỏ lại chiếc áo ân sủng mà khoác trên mình chiếc áo của tính hư nết xấu. Họ đã thiếu y phục cần có khi dự tiệc. Nhìn lại mình nhơ nhớp tội nên không dám bước vào bữa tiệc cánh chung vì không còn xứng đáng với ân huệ của Thiên Chúa.
Bữa tiệc Nước Trời hôm nay còn là bàn tiệc Thánh Thể mà Chúa mời gọi chúng ta hãy đến tham dự. Chính Chúa thiết đãi chúng ta của ăn không bao giờ hư nát chính là bánh trường sinh, vì Ngài đã nói: “Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời”. Bánh Thánh Thể của Chúa luôn dành cho mọi người. Không phân biệt màu da sắc tộc. Chúa muốn mọi người đều được quy tụ bên nhau quanh bàn tiệc Thánh Thể. Chúa muốn qua bữa tiệc Thánh Thể này sẽ bảo đảm cho con người sự sống đời đời.
Đó là lý do mà Chúa muốn không trừ một ai mà không đến tham dự bữa tiệc. Ai cũng muốn trường sinh, thì đây là cơ hội để chúng ta sống chính sức sống phục sinh của Chúa. Chúng ta được bồi dưỡng bằng của ăn không hư nát trên hành trình về miền Đất Trường Sinh.
Ước gì chúng ta luôn biết ưu tiên dành thời giờ cho việc tham dự thánh lễ để được rước Thánh Thể Chúa là bánh thánh trường sinh. Ước gì chúng ta luôn biết chuẩn bị lòng mình cho xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh. Xin gìn giữ chiếc áo ân sủng hầu xứng đáng tham dự bàn tiệc thánh. Amen.

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Dụ ngôn tiệc cưới và chiếc áo cưới trong Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta mặc lấy một trong những tâm tình cơ bản nhất của Kitô giáo, đó là hân hoan, vui mừng. Kitô giáo thiết yếu là đạo của Tin Mừng.
Trong rất nhiều sinh hoạt và hình ảnh của cuộc sống, Chúa Giêsu đã chọn bữa ăn như dấu chỉ ưu việt nhất để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Nước Trời giống như một tiệc cưới, đây là một trong những hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng nhiều nhất để nói lên niềm vui của Nước Trời. Chúa Giêsu cũng mặc cho bữa tiệc của Ngài một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt. Chúng ta chỉ cần nhớ lại tiệc cưới Cana, trong đó Chúa Giêsu đã biến nước thành rượu để khách dự tiệc được tiếp tục cuộc vui. Ngài dự tiệc do Lêvi, do Zakêu và rất nhiều người thu thuế khoản đãi; Ngài đồng bàn với họ, chia sẻ một tấm bánh và uống một chén rượu với họ.
Không những đồng bàn với những người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng không từ chối lời mời của những người Biệt phái, những người giàu có. Ngài chia sẻ bữa ăn thân thiết với gia đình Marta, Maria và Lazarô tại Bêtania. Ngài thiết lập Bí Tích Thánh Thể trong bữa ăn cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Sau khi sống lại, Ngài ngồi đồng bàn với hai môn đệ trên đường Emmau. Ngài hiện ra trên bờ hồ và chuẩn bị bữa ăn cho các môn đệ, rồi Ngài cùng ăn cùng uống với các ông.
Bữa ăn là nơi thể hiện của những giá trị cao quí nhất trong cuộc sống của con người, như gặp gỡ, hiệp thông, trao ban, chia sẻ, hân hoan. Chính vì ý nghĩa cao quí ấy, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh bữa tiệc để nói lên những thực tại Nước Trời. Đến đây, chúng ta hiểu được ý nghĩa của hình ảnh chiếc áo cưới mà thực khách phải mặc vào khi dự tiệc cưới. Chiếc áo cưới ấy chính là tâm tình gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, hân hoan mà con người phải mặc lấy để thuộc về Nước Trời.
Có người đã tưởng tượng ra Thiên đàng, hỏa ngục như hai bàn tiệc. Bàn tiệc dưới hỏa ngục cũng mâm cao cỗ đầy, thế nhưng khách dự tiệc thì ngồi ủ rũ buồn thiu, bởi vì mỗi người đều cầm trong tay một đôi đũa dài đến độ thức ăn thì gắp được, nhưng không thể đưa thức ăn vào miệng. Bàn tiệc trên Thiên đàng cũng y hệt, nhưng khác một điều, là thay vì gắp thức ăn cho vào miệng mình, người ta lại gắp thức ăn và đưa vào miệng người đối diện, thế là vui vẻ cả, vì ai cũng được ăn uống no nê.
Ước gì niềm vui bàn tiệc thánh mà chúng ta tham dự cũng được tiếp tục thể hiện trong đời thường của chúng ta. Ước gì cả cuộc sống chúng ta luôn được diễn ra trong gặp gỡ, chia sẻ, trao ban, vui tươi, nhờ đó chúng ta cảm nhận được niềm vui đích thực của Nước Trời và thắng vượt được mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống.

(Suy niệm của Barbara E. Reid – Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Mọi sự đã sẵn sàng, xin mời đến dự tiệc”. (Mt 22,4).
Tuần vừa qua tôi nhận được hai lá thư. Lá thứ nhất do một người giàu sang quý tộc  gửi đến qua đường bưu điện. Bức thư được gửi đi một cách trọng thị, với phong bì dán kín, được trang trí kiểu cách, và có dấu bảo đảm của bưu điện. Lá thứ hai được gửi qua đường email, gửi cho tôi cũng như cho nhiều người khác cùng lúc. Nội dung lá thư thứ hai này nói với người nhận hãy chuyển sứ điệp cho nhiều người khác nữa, càng nhiều càng tốt, không cần họ trả lời. Kẻ gửi thư email này, giống như một người xóc đĩa, cứ xóc đại, trúng ai thì trúng.
Trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, ông vua sắp tổ chức tiệc cưới cho đứa con trai, dường như đã gửi thư mời theo cả hai dạng thức này. Những người đầu tiên được mời rất trang trọng, nhưng họ lạnh lùng từ chối, cho dù các gia nhân đã đi mời họ đến hai lần. Nhà vua sau đó truyền lệnh cho các gia nhân ra khắp các nẻo đường phố xá, mời tất cả những ai họ gặp để đến cho đầy nhà, bất kể người tốt lẫn kẻ xấu. Và cuối cùng, phòng tiệc đã chật kín người.
Trong mạch văn của Tin mừng Matthêu, dụ ngôn dường như không phân định sự khác biệt giữa hai nhóm người được mời. Thánh ký cũng chẳng đá động gì tới những người được mời thuộc tầng lớp xã hội nào, có khi chỉ là những người nghèo kiết xác, thậm chí bị què quặt hay đui mù như trong trình thuật của Luca (Lc 14,15-24). Matthêu cũng không để ý đến sự kiếu từ mà nhóm thứ nhất đưa ra, xem lý do của họ có chính đáng hay không. Hơn nữa, thánh ký cũng chẳng cần điều tra lý lịch những người ở nhóm thứ hai, xem họ thuộc giai tầng nào, và đặt điều kiện ra sao đối với họ. Thay vào đó, Matthêu chỉ nhấn mạnh đến tính cách đại trà không cần tính toán nơi lời mời, và sự kỳ vọng duy nhất của đức vua đặt để nơi những người được mời, là mong họ chấp nhận.
Đây là dụ ngôn thứ ba trong một loạt những dụ ngôn nhắm đến các lãnh đạo tôn giáo thời Chúa Giêsu. Họ là những người đầu tiên đã được Thiên Chúa gọi mời, và Ngài hy vọng họ sẽ chấp thuận lời mời trọng thị đó, ngang qua Đức Giêsu. Tuy nhiên đây không phải là những nhân vật đã mau mắn sẵn sàng đáp trả, và đến để ngồi vào bàn tiệc. Đức Giêsu, qua hình tượng Người Nữ Khôn ngoan mà sách châm ngôn trong cựu ước nói tới, “đã lên các nơi cao trên thành phố (Cn 9,3) mời gọi mọi người: Hãy bước đi trên con đường hiểu biết” (Cn 9,6).
Tuy nhiên, có một điều kiện khá giản đơn được đặt ra, là khi đến tham dự bữa tiệc, người ta phải “mặc” y phục chỉnh tề. Trong các lá thư của Thánh Phaolô, chúng ta thường thấy hạn từ “mặc lấy” mang một ý nghĩa biểu trưng, nói về chính cách sống của người Kitô hữu. Ngài nhắn nhủ giáo đoàn Colossê “Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển chọn, hiến thánh và yêu thương. Anh em hãy mặc lấy lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại” (Col 3,12; xem Rm 13,14; Gal 3,37). Cũng tương tự, Thánh Matthêu muốn khách dự tiệc cưới phải mặc y phục. Những việc làm tốt lành và thái độ đức tin, chính là biểu thị cụ thể của y phục lễ cưới. Thực khách phải “mặc vào” để có thể xứng đáng ngồi vào bàn. Những cách sống cụ thể như thế sẽ rất cần thiết, chứ không phải chỉ có thái độ hình thức xuông bề ngoài mà thôi.
Câu văn trong Tin mừng Matthêu hôm nay đổi hướng từ hình thái dụ ngôn, dường như chuyển sang hình thức ám dụ, để nói về lịch sử ơn cứu độ. Trong khi đức vua đã quảng đại và hào phóng vượt bậc khi mở phòng tiệc, là một hình ảnh tương thích với lời mời của Thiên Chúa ngang qua Đức Giêsu, thì sự truy diệt không thương tiếc của nhà vua đối với những kẻ đã giết các đầy tớ và việc đốt phá các làng mạc của họ, chắc chắn không biểu thị về cách hành xử của Thiên Chúa. Tội ác của họ đã rõ ràng, cụ thể là sát hại các gia nhân, như trường hợp đã xảy ra khi Herôđê ra lệnh chém đầu Gioan Tẩy giả, hoặc như những người Rôma phá hủy thành Jêrusalem năm 70. Nhưng Thiên Chúa đã xử đối như thế nào?
Cũng như trong các dụ ngôn khác nơi Tin Mừng Matthêu, những nhân vật chống đối sẽ bị “ném ra ngoài nơi tối tăm, chỗ khóc lóc và nghiến răng (8,12; 13,42; 13,50; 24,51;25,30). Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý một điều quan trọng. Sự từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa, tự nó sẽ gánh lấy hậu quả. Thiên Chúa không giáng phạt chúng ta một cách cuồng nộ để trả thù, như nhiều người vẫn nghĩ tưởng. Tuy nhiên, những ai phớt lờ lời mời gọi của Ngài, và không mặc lấy áo cưới, tức là không sống theo đường lối yêu thương và tha thứ của Đức Giêsu, thì chính họ đã tự chọn cho mình một chỗ dẫn đến hủy diệt và bạo tàn. Không phải Thiên Chúa ra hình phạt, nhưng chính họ, họ đã tự kết án chính mình.

(Suy niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Dụ ngôn hôm nay nói về một tình yêu bị từ chối.
Chẳng có gì long trọng và tưng bừng cho bằng tiệc cưới của hoàng tử.
Tiệc cưới này do chính nhà vua khoản đãi với sự chuẩn bị chu đáo.
Vua đã mời các quan khách từ trước, và còn mời nhiều lần sau đó.
Trước những lời mời trân trọng của nhà vua, họ đã chối từ.
Thái độ của quan khách thật không sao hiểu nổi.
Họ chẳng sợ xúc phạm đến nhà vua khi coi chuyện đi buôn và chăn nuôi
quan trọng hơn chuyện dự tiệc cưới hoàng tử (c. 5).
Thậm chí có kẻ còn bắt các đầy tớ, hành hạ và giết đi (c. 6).
Những khách quý bây giờ trở thành kẻ sát nhân.
Họ sẽ phải chịu cơn thịnh nộ ghê gớm của nhà vua về sự xúc phạm đó.
Như thế tiệc cưới cho hoàng tử sẽ đi về đâu?
Ai là người sẽ được mời tiếp theo, khi những người trước tỏ ra bất xứng?
Nhà vua đã đưa ra một quyết định rất bất ngờ.
“Hãy đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới” (c. 9).
Như thế phòng tiệc bây giờ vẫn đầy người được mời, có cả tốt lẫn xấu.
Dụ ngôn trên đây lại được kết nối với một dụ ngôn khác.
Chúng ta ngạc nhiên khi thấy nhà vua đi vào phòng tiệc
để quan sát cách ăn mặc của những vị khách đến từ đường phố (c. 11).
Có người không mặc y phục lễ cưới và đã bị trừng phạt nặng nề (c. 13).
Tại sao lại phạt anh, khi anh bất ngờ được đưa vào ăn cưới?
Nhưng đừng quên các người khác đều mang y phục lễ cưới đầy đủ,
nên anh chẳng nói được gì để tự biện minh (c. 12).
Lịch sự với Thiên Chúa là điều ta dễ quên.
Ngài vẫn trân trọng mời ta dự tiệc chung vui với Ngài, với Con của Ngài.
“Mọi sự đã sẵn, mời quý vị đến dự tiệc cưới” (c. 4).
Đối với Ngài, sự hiện diện của chúng ta đem lại niềm vui lớn.
Khi đa số dân Do-thái, những khách quý được mời trước, từ chối Ngài,
Ngài đã không muốn phòng tiệc bị trống, tiệc cưới bị đình hoãn.
Thiên Chúa chấp nhận mở cửa phòng tiệc cho mọi người.
Họ đến từ muôn phương, có người tốt người xấu, để làm nên Giáo hội.
Giáo hội gồm những người được mời và được gọi một cách nhưng không.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần lịch sự với Thiên Chúa, người chủ tiệc,
cần mặc y phục lễ cưới một cách đàng hoàng.
Y phục ấy chính là một đời sống nghiêm túc theo giáo huấn của Đức Giêsu.
Các kitô hữu chúng ta đã được ngồi trong phòng tiệc của Thiên Chúa.
Chúng ta đã được mời và được gọi để sống trong Giáo hội,
nhưng chưa chắc chúng ta nằm trong số những người được tuyển chọn.
Số người được chọn bao giờ cũng ít hơn số người được gọi.
Để vào số những người được chọn, chúng ta phải biết trân trọng ơn ban.
Có khi chúng ta cũng coi chuyện buôn bán làm ăn của mình
quan trọng hơn những lời mời khẩn thiết đến từ Thiên Chúa.
Làm thế nào để chúng ta giữ được ơn cứu độ Chúa đang ban hôm nay?
Lời nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương nhìn đến Hội Thánh
là đàn chiên của Chúa.
Xin ban cho Hội Thánh
sự hiệp nhất và yêu thương,
để làm chứng cho Chúa
giữa một thế giới đầy chia rẽ.
Xin cho Hội Thánh
không ngừng lớn lên như hạt lúa.
Xin đừng để khó khăn làm chúng con chùn bước,
đừng để dễ dãi làm chúng con ngủ quên.
Ước gì Hội Thánh trở nên men
được vùi sâu trong khối bột loài người
để bột được dậy lên và trở nên tấm bánh.
Ước gì Hội Thánh thành cây to bóng rợp
để chim trời muôn phương rủ nhau đến làm tổ.
Xin cho Hội Thánh
trở nên bàn tiệc của mọi dân nước,
nơi mọi người được hưởng niềm vui và tự do.
Cuối cùng xin cho chúng con
biết xây dựng một Hội Thánh tuyệt vời,
nhưng vẫn chấp nhận cỏ lùng trong Hội Thánh.
Ước gì khi thấy Hội Thánh ở trần gian,
nhân loại nhận ra Nước Trời ở gần bên. Amen.

Cửa Nước Trời luôn mở, nhưng y phục phải xứng hợp
Lại một dụ ngôn khác về Nước Trời được trình bày cho chúng ta với chủ đề sâu xa tương tự như các Chúa nhật trước. Thiên Chúa luôn đi bước trước, “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ” (Tv 22) “đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25, 6) ; “ Đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa ” (x. Tv 22) “theo sự phú túc vinh sang của Người trong Đức Giêsu Kitô” (Pl 4, 12). Nước Trời luôn rộng mở cho hết thảy mọi người, bất luận tốt xấu, miễn là phải có y phục xứng hợp: “Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới ” (Mt 22, 9).
Lời mời gọi phổ quát
Qua dòng thời gian, Thiên Chúa đã mời gọi dân Ngài đi vào trong giao ước, chia sẻ tình yêu với Ngài. Nhưng tiếc thay, con người luôn đáp lại một cách khác, ngược đãi, xua đuổi các tiên tri. Giao ước không được đáp trả. Nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, tiếp tục mở tiệc mời con người tới dự tiệc giao ước mới và đó chính là niềm vui cho mỗi người chúng ta.
Những người đầu tiên được đức vua mời đến dự tiệc cưới, nhưng viện cớ lấy lý do “như đi thăm trại…đi buôn bán” để từ chối (Mt 22, 5-6). Vì họ từ chối, nên những người khác được mời vào chia sẻ niềm vui với gia đình hai bên và đôi bạn trẻ.
Khác với những người được mời trước, những người được mời sau chẳng có công gì cũng được mời dự tiệc cưới. Họ chỉ có cơ may là được các người đầy tớ gặp ở ngã ba đường. Họ thuộc đủ mọi thành phần, bình thường không ai để ý tới.
Chúng ta tự hỏi: Liệu họ có hy vọng, có trông đợi mình được mời dự tiệc cưới kia không? Isaia trả lời. Mọi người đều sống niềm hy vọng vì trong con người có một sự chờ đợi vô song. “Này đây Chúa chúng ta…nơi Người, chúng ta đã tin tưởng…vì ơn Người cứu độ” (Is 25). Họ hy vọng và chờ đợi chứ.
Hy vọng vào lời mời gọi phổ quát này, giả thiết không có một điều kiện tiên quyết nào, cũng không phải là lời mời của những người có lên hệ với nhà vua: “Chúa dọn ra cho con mâm cỗ…”, cho hết mọi người (Tv 22). Thật khó có thể tưởng tượng, hoặc tin rằng Thiên Chúa ban ơn ơn cứu độ nhưng không cho hết mọi người. Đây chính là Tin Mừng Thiên Chúa kêu gọi chúng ta.
Hạnh phúc vì được mời
“Tiệc cưới Con Chiên” được sách Khải Huyền mô tả (19, 7, 9) hàm chứa một ý nghĩa sâu xa: “Phúc cho những ai được mời dự tiệc cưới của Chiên Con!” Thật hạnh phúc cho chúng ta, phúc này vượt quá những gì chúng ta có thể nếm hưởng trên trần gian, đây là yến tiệc Chúa Giêsu ban cho chúng ta.
Sau Chiên Thiên Chúa linh mục mời gọi: “Đây Chiên Thiên Chúa… phúc cho ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa” (Thánh lễ). Lời này gửi đến tất cả những ai sẽ tham dự vào tiệc cưới Con Chiên. Mỗi Thánh lễ là một lời loan báo và tham dự trước vào yến tiệc Nước Trời, tiệc của Hoàng Tử, Con yếu dấu của Chúa Cha, tiệc của Đức Kitô kết ước với nhân loại. Thánh Têrêsa Avila nói: “Lạy Chúa vị Hôn Thê của con, giờ đã đến, giờ con hằng mong đợi, giờ chúng ta gặp nhau. Ôi lạy Thiên Chúa là tình yêu duy nhất của con! Này là giờ con ao ước từ lâu, tâm hồn con vui sướng khi được kết hợp với Chúa! ” Chúng ta không thể gần Chúa mà không mặc lấy tâm tình của Chúa.
Nhưng phải có y phục lễ cưới
Có một điều khiến người đọc không khỏi thắc mắc và tìm lời giải đáp cho người được mời không mặc y phục lễ cưới, họ vào và bị đức vua ra lệnh: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! " (Mt 22, 13). Họ đang ở ngã ba đường, đầy tớ đức vua tình cờ gặp họ, mời họ vào bất luận họ là ai, sao lại đòi họ phải có y phục lễ cưới?
Áo cưới mà Tin Mừng nói tới ở đây là áo nào? Có phải các bí tích không? Hay là Phép Rửa tội? Vì không chịu phép Rửa tội, không ai có thể đạt tới Thiên Chúa được, nhưng có một số người lãnh nhận phép Rửa tội, không đến cùng Thiên Chúa... Có thể là bàn thờ hay điều người ta lãnh nhận từ bàn thờ không? “Vì kẻ ăn và uống, mà không phân biệt được Thân mình, tức là ăn và uống án phạt cho mình” (1Cr 11, 29). Vậy thì là cái gì? Ăn chay ư? Những kẻ gian ác cũng làm thế. Đi nhà thờ ư? Những kẻ gian ác cũng đi nhà thờ như bao người khác … Vậy áo cưới này là áo nào?
Ở đây, người vào dự tiệc cưới không thụ động, chấp nhận vào thì phải tìm cách thể hiện mình xứng đáng, và đó là áo cưới. Ơn cứu độ là phổ quát, đồng ý để được cứu độ là chấp nhận sống theo những đòi hỏi của Nước Trời, áo cưới vừa thể hiện sự đồng ý, vừa chứng tỏ trách nhiệm của chúng ta.
Đời sống luân lý không phải là điều kiện duy nhất để được cứu độ, Maria Mađalêna, Giakêu và nhiều người khác được mời, họ đã hoán cải để trở nên xứng đáng với Chúa hơn. Áo cưới là những điều tốt, người dự tiệc phải có. Thánh Phaolô nói: “Điều lời truyền dạy phải nhằm đưa tới đức mến, phát tự tấm lòng trong sạch, lương tâm thiện hảo, và đức tin không giả hình” (1Tm 1, 5). Đây là y phục lễ cưới.
Người được mời đến dự tiệc cưới không đơn giản chỉ ăn, nhưng chia sẻ niềm vui với họ hàng hai bên, mừng hạnh phúc cho đôi bạn trẻ, nên phải có y phục xứng đáng.
Chúng ta là những tội nhân được Thiên Chúa mời dự tiệc Nước Trời. Chắc chắn ai cũng muốn mặc chiếc áo cưới tinh tuyền, không vương tội lỗi. Giáo hội Chúa không phải là một xã hội hoàn hảo, gồm có tội nhân, nhưng ý thức được tội lỗi của mình và mong muốn được tha thứ: “mặc lấy Đức Kitô” (Gl 3, 27), chấp nhận hoán cải, thanh tẩy chính mình “để sao cho xứng với Chúa, mà làm đẹp lòng Ngài trong mọi sự”  (Cl 3, 10). Giờ đây hãy chúng ta hãy nghe lời Chúa: “Mọi sự đã sẵn sàng hãy đến!”
Lạy Chúa, ước gì ân sủng Chúa vừa mở đường cho chúng con đi, vừa đồng hành với chúng con luôn mãi, để chúng con sốt sắng thực hành những điều Chúa truyền dạy. Amen.

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin mừng hôm nay là sự nối kết của hai dụ ngôn "hai người con" và "các tá điền sát nhân" thành một đề tài giáo huấn về tính phổ quát của ơn cứu độ, con người cần phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện, phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi lẽ gọi thì nhiều mà chọn thì ít.
1. Tính phổ quát của ơn cứu độ
Câu chuyện Tin mừng gồm hai phần rõ rệt. Nhà vua mời thực khách dự tiệc cưới của hoàng tử (câu 1-10) và người khách không mặc y phục lễ cưới (câu 11-14).
a. Điều khó hiểu
- Thái độ của khách mời: Bình thường khi được các bậc vị vọng mời dự tiệc, khách được mời sẽ rất hãnh diện. Ở đây nhà vua mời dự tiệc cưới của hoàng tử. Vậy mà các khách được mời đều từ chối. Thánh Mátthêu ghi lại hai lý do: "người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán". Thánh Luca thì ghi tới ba lý do: "Người thứ nhất nói: tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm; người khác nói: tôi mới tậu 5 cặp bò, tôi đi thử đây; người khác nói: tôi mới cưới vợ, nên không thể đến được" (Lc 14,18-19). Họ khước từ vì lo làm ăn và hưởng thụ cá nhân. Họ bận rộn, mải mê kiếm sống, không còn giờ cho tình người.Một số khách được mời nóng nảy quá khích, đã không dự tiệc vua mời còn bắt đầy tớ của vua, đánh đập, sỉ nhục và giết chết.
- Hành động của ông vua: Ông mời khách đến mấy lần, mời đi mời lại, năn nỉ họ tham dự. Ông còn tỏ ra hào phóng là thu nạp mọi người, bất luận tốt xấu, giàu nghèo.Thế nhưng, khi thấy một thực khách không mặc y phục lễ cưới ông ra lệnh trói chân tay, bỏ vào nơi tối tăm bên ngoài mà khóc lóc nghiến răng. Người đọc cảm thấy thật khó hiểu: những người đang ở ngoài đường đột nhiên được mời vào dự tiệc cưới thì làm sao có sẵn áo lễ mà mặc?
b. Ý nghĩa dụ ngôn
Nên nhớ, đây là một dụ ngôn nằm trong chuỗi ba dụ ngôn theo cùng một chủ đề mà Chúa Giêsu kể cho các thượng tế và kỳ mục Do thái khi họ đến chất vấn Người về thẩm quyền của Người (x. Mt 21,23). Hai Chúa Nhật trước qua hai dụ ngôn "hai người con" (21,28-32) và "các tá điền sát nhân" (21,33-43). Dụ ngôn “tiệc cưới” (22,1-14) là câu trả lời cho những thái độ của các thượng tế và pharisiêu.Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời trước tiên cho dân Do Thái, nhưng họ đã từ chối vì chuộng những giá trị trần gian hơn; Thiên Chúa lại ban hạnh phúc ấy cho muôn dân. Tuy nhiên, cũng như người dự tiệc cưới phải mặc áo cưới, tượng trưng cho cách sống. Những người được mời gia nhập Nước Trời cũng phải có một nếp sống mới phù hợp với Tin Mừng.
2. Được mời dự tiệc là niềm vinh dự và là hạnh phúc
Người Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài để chuẩn bị ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Thế nhưng họ đã từ chối đặc ân. Họ thờ ơ, không đếm xỉa gì đến lời mời gọi dự tiệc cưới: người thì đi thăm trại, kẻ thì đi buôn, người khác thì bắt đầy tớ nhục mạ và giết đi…
Con người có thái độ thờ ơ, lãnh đạm và coi thường như thế bởi vì họ không yêu mến Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa. Nếu yêu thương, tôn trọng người chủ tiệc thì chắc chắn cho dù có vướng bận đến đâu họ cũng sẵn sàng sắp xếp công việc, thời gian để đi dự tiệc. Được mời là một vinh dự, nhưng đáp lời mời là biểu lộ tình cảm của bản thân dành cho gia chủ. Cũng thế, Thiên Chúa mời gọi con người vào hưởng hạnh phúc Nước Trời là do tình yêu của Ngài dành cho nhân loại, còn đáp lời mời này để hân hoan tiến vào Nước Chúa là lời đáp trả tình yêu của con người với Thiên Chúa.
Thiên Chúa mời con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu chú rễ. Chúa Giêsu là chàng rễ, Giáo hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đền bàn tiệc để chia sẽ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài (GLCG # 1384).
Được mời và đón nhận lời mời là một biểu lộ của tình yêu từ hai phía, Thiên Chúa và con người dành cho nhau. Thế nhưng, trong cuộc sống Kitô hữu ngày hôm nay, thái độ từ chối Thiên Chúa, thờ ơ với lời mời gọi của Ngài vẫn còn tiếp diễn nơi nhiều người.
Dụ ngôn tiệc cưới luôn mang tính thời sự. Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Những người không tham dự Thánh Lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh. Người ta có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời tha thiết của Chúa đến dự bàn tiệc Thánh Thể, bàn tiệc Lời Chúa. Nào là chuyện gia đình, bạn bè, chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện giải trí, chuyện tương lai… nào là quá bận rộn không có thời gian. Có khi chỉ là một cuốn phim đang xem, một trận đá bóng trên tivi, một bữa nhậu… nhiều người đã bỏ lễ Chúa nhật.
Người ta nại vào rất nhiều lý do từ công ăn việc làm đến những lý do bận rộn với những sinh họat xã hội để từ chối các sinh hoạt đạo đức, từ chối tham dự Thánh Lễ. Người ta nại đến nhiều lý do, nhiều hoàn cảnh khó khăn để từ chối gặp gỡ, đón nhận Chúa qua anh chị em chung quanh, để khước từ sống giới răn yêu thương của Chúa.
Là Kitô hữu, chúng ta cần xét mình về thái độ của bản thân trước những lời mời gọi dấn thân vì Nước Trời, vì tha nhân của Chúa. Đừng lấy lý do tôi quá bận rộn với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là bình phong che đậy những lười biếng, những ích kỷ. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi toan tính.
Thánh lễ chính là tiệc cưới Nước Trời mà Thiên Chúa thiết đãi cho chúng ta hưởng nếm trước hạnh phúc, vinh quang và sự sống thần linh. Vậy chúng ta hãy dẹp bỏ đi mọi lo toan của công việc, mọi vướng bận của cuộc sống đời thường để hân hoan tiến đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể. Sau khi đã vui hưởng Tiệc Thánh, mỗi người sẽ thêm nghị lực, thêm niềm tin, thêm tình yêu.
3. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Muốn tham dự tiệc cưới, vào bàn tiệc chưa đủ mà còn phải mặc y phục cho thích hợp. Y phục đó tượng trưng cung cách sống đạo, trang phục bằng những đức tính và tinh thần của Đức Kitô. Là người Kitô hữu, cần sống cho xứng đáng với danh hiệu Kitô hữu mới được vào Nước Trời. Ân sủng không chỉ là một quà tặng mà còn là một trách nhiệm phải chu toàn.
Chiếc áo cưới vào dự tiệc Nước Trời chính là ơn Thánh tẩy của Bí tích Rửa Tội. Ngày chịu phép rửa tội, tất cả mọi Kitô hữu được nhắn nhủ: "Con đã trở nên tạo vật mới và đã mặc lấy Đức Ktiô. Chiếc áo trắng này là dấu chỉ tước vị của con. Nhờ lời chỉ bảo và gương lành của thân nhân giúp đỡ, con hãy mang nó tinh tuyền mãi cho đến cõi trường sinh."
Mỗi một Kitô hữu đều có một bộ y phục lễ cưới, đó là chiếc áo trắng ngày chịu phép Rửa tội. Chiếc áo trắng ấy là tâm hồn thanh khiết của những người con cái Chúa đã được tẩy trắng trong máu Con Chiên. Chiếc áo trắng ấy được dệt bằng sợi tơ Lời Chúa mà người tín hữu phải nâng niu, gìn giữ suốt cuộc đời. Chiếc áo trắng ấy phải tinh tuyền cho đến ngày bước vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất chiếc áo trắng ngày Rửa tội. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Như thế, chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải tâm hồn, một tâm hồn trong sạch, một tấm lòng bác ái yêu thương và một đức tin vững mạnh.
Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, chúng ta mặc y phục đẹp nhất của mình, chứng tỏ mình kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng anh chị trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.
Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi. Y phục của lòng tin, cậy, mến. Y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.
Y phục phải xứng với kỳ đức. Chiếc áo cưới của Kitô hữu không được dệt bằng lụa là gấm vóc, không được mua từ hàng hiệu đắt tiền nhưng chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa, lòng mến đối với mọi người.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Augustinô)

(Suy niệm của Lm Gioan B. Phan Kế Sự)
1. “Làm sao bạn vào đây mà không có y phục lễ cưới”
Chuyện dài nhiều tập của những kẻ coi thường mọi hành rào của luân thường đạo lý. Chuyện thật dễ hiểu của nét văn hóa dành cho những người học thức: khi ta biết tôn trọng người khác thì người khác cũng sẽ tôn trọng mình. Thường người ta chỉ thích và bắt người khác tôn trọng ý riêng mình, còn ngược lại thì lại làm lơ tất cả, thậm chí coi thường và tỏ ra mình là phường vô học. Thái độ không đúng mức sẽ bị trừng phạt như những kẻ được mời nhưng không xứng đáng.
Thật hớ hênh và lố bịch khi chúng ta “không có lòng tự trọng”. Thật khó coi, khi chính mình muốn được người khác kính trọng và đánh giá cao về mình, thì chính hành động lố bịch của chúng ta tự tố cáo sự trơ trẽn của mình. Cũng thật công bằng, khi chính mình không biết tôn trọng tha nhân hay không biết tự trọng mình, thì chẳng ai dại gì mà kính trọng chúng ta.
Thật trơ trẽn khi chúng ta không biết trân trọng “lời mời” của Đức Vua khi vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử. Được mời vào dự tiệc cưới của Hoàng Tử, được chung chia vinh dự cùng với khách dự tiệc, được hưởng dùng những “cao lương mỹ vị”… Quả là điều vượt mọi ước mơ của mỗi người chúng ta. Không còn biết đâu là trọng, đâu là hèn, đâu là điều cần phải làm, đâu là điều phải tránh; thì tự thân giá trị của người đó trở thành con số không. Chẳng ai dại gì mà phải kính trọng những hạng người chỉ biết sống cho mình, vì mình, vì cái chỗ đứng của mình mà chẳng bao giờ biết trân trọng những giá trị khác ngòai mình!
Thật xấu hổ khi chúng ta không biết chuẩn bị, không biết sắm sửa được một “bộ cánh đàng hoàng” cho chính mình. Và cũng thật nhục nhã khi chính chúng ta bị “tống vào ngục”, không tự lo được cho phần rỗi mình. Con cái trong nhà, lẽ ra là người được ưu tiên hơn cả, nay lại bị đuổi ra ngoài đường, là kẻ ngoại cuộc. Quả thực là quá xấu hổ và đáng thương thay cho họ.
2. “Những kẻ được mời không xứng đáng”
Trong tình thương của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta có “một chỗ đứng rất riêng và khác biệt” Ngài muốn tất cả chúng ta thuộc về Ngài và không để một ai phải hư mất. Ngài mời gọi từng người chúng ta vào vui hưởng hạnh phúc của bàn tiệc muôn đời.
Trong tình thương của Thiên Chúa, Ngài mời gọi tất cả chúng ta dự tiệc cưới của Hoàng Tử không loại trừ ai, dù là những người nghèo khổ, hèn kém “không có tiền để mua rượu và thịt” Trong tình thương của Ngài không có từ ngữ loại trừ, nhưng rộng mở để đón nhận tất cả, ôm trọn tất cả và tha thứ tất cả.
Nhưng Thiên Chúa lại luôn tôn trọng tự do của mỗi người chúng ta. Ngài không áp đặt quyền của Ngài trên sự tự do và chọn lựa của mỗi người chúng ta. Ngài muốn tất cả chúng ta tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Chiếc áo cưới mà mỗi người phải biết chuẩn bị cho mình, chính là chiếc áo tình thương mà mỗi người phải tự sắm. Trong bữa tiệc vui của gia đình, chẳng ai dại mời một người xa lạ vào dự tiệc, khi họ không hề có một chút liên hệ tình cảm hay chút tình nghĩa gì. Khoác tấm áo Lời Chúa, mặc vào thân giới răn yêu thương của Chúa, chúng ta sẽ trở thành người nhà của Chúa.
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, thật vinh dự cho mỗi người chúng con khi được Chúa mời gọi vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời. Nhưng Chúa cũng đòi hỏi chúng con phải tự kiếm cho mình chiếc áo cưới. Thật xấu hổ khi cả đời chúng con không tự dệt nổi cho mình chiếc áo cưới. Xin giúp chúng con biết tích cực tích lũy những giá trị cho đời mình, để xứng đáng hơn với lời mời của Chúa. Amen.

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Người ta nói rằng ở Việt Nam hiện nay có ba mùa: đó là, mùa mưa, mùa nắng và mùa cưới. Việc cưới hỏi của người Việt trước đây thể hiện tình xóm làng cùng chung niềm vui khi có một thành viên trong làng xóm trưởng thành bước vào đời sống hôn nhân gia đình. Mỗi khi trong xóm có đám cưới, cả xóm kéo nhau đến giúp trang trí, dựng rạp, làm cổng hoa, mọi người ăn uống đơn giản vui vẻ. Tuy nhiên xã hội văn minh, tương quan rộng rãi, thời buổi kinh tế khó khăn thì việc tổ chức đám cưới ngày nay được cân nhắc chi li sao cho không lỗ hoặc phải có lời. Vì vậy, mỗi khi có đám cưới, gia chủ đi mời cũng cân nhắc xem mời những ai, và người được mời cũng cân nhắc dự đám nào, bỏ đám nào. Cứ như thế, đám cưới không còn là dịp gặp gỡ để chia vui, mà chỉ là để trả nợ trả nghĩa nhau, người đi ăn cưới mạnh ai nấy ăn, chẳng cần chờ đợi ai, chẳng cần tuyên bố lý do, chẳng cần làm dấu thánh hóa, hay lời khai mạc của gia chủ. Họ tranh thủ ăn cho xong để còn ra về đi dám khác. Ở cấp độ khác, khi quan chức tổ chức đám cưới cho con, họ làm hết sức rềnh rang để phô trương sự giàu có và đẳng cấp của mình. Các tấm thiệp được gửi đến giới làm ăn hoặc cho cấp dưới không ai dám từ chối, ai đến dự tiệc cũng hớn hở, hãnh diện và dĩ nhiên việc hồi âm chúc mừng cũng không thể nhẹ tay.
Thưa quý OBACE, bữa tiệc là hình ảnh đẹp diễn tả niềm vui và hạnh phúc. Trong bữa tiệc, mọi người cùng ăn uống chuyện trò vui vẻ, quên hết ưu tư phiền muộn. Mọi người được thưởng thức những món ngon, rượu nồng. Hơn nữa khi ngồi cùng bàn, mọi người thể hiện tình yêu thương gắn bó giữa những người bạn, họ dễ dàng hiểu nhau và thông cảm với nhau hơn. Ngày nay, tiệc tùng đã bị lạm dụng trở nên dư thừa phí phạm và trở thành dịp trao đổi làm ăn hoặc ký kết những phi vụ ngầm. Nó mất đi vẻ đẹp ban đầu, và biến thành một thứ “ngoại giao bàn nhậu”.
Vì mục đích, ý nghĩa tốt đẹp của bữa tiệc nên Kinh Thánh nói chung và sau này Chúa Giêsu luôn dùng hình ảnh bữa tiệc để diễn tả về hạnh phúc Nước Trời. Trong lúc dân Israel rơi vào cảnh đau khổ bởi chiến tranh, bởi sự áp bức của dân ngoại và sự nghèo đói, tiên tri Isaia đã nói đến Ngày Hoàng Tử Vua Trời sẽ đến: “Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ thiết đãi các dân trên núi này một bữa tiệc, tiệc thịt béo, rượu thì ngon”. Lời tiên báo này chỉ nghe thôi đã thấy tâm hồn rạo rực niềm vui và hy vọng. Người ta sẽ hình dung đoàn đoàn lớp lớp người cùng rủ nhau lên núi nhà Đức Chúa để dự tiệc vui của Chúa. Thiên Chúa không chỉ báo trước một niềm vui gặp gỡ, ăn uống đồng bàn với Thiên Chúa, mà Ngài còn xóa đi mọi chết chóc, đau khổ. Những gì là tang tóc, u ám sẽ được Thiên Chúa thay bằng niềm vui ngập tràn: Người sẽ cất chiếc khăn tang bao trùm muôn dân, và bỏ đi tấm khăn liệm phủ trên mọi nước.
Vị Hoàng Tử mà tiên tri Isai tiên báo đã đến, Ngài chính là Chúa Giêsu Con Thiên Chúa, đến để giải thoát con người chúng ta khỏi mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần. Ngài sẽ vĩnh viễn tiêu diệt sự chết bằng chính cái chết và sự sống lại của Ngài, để đem lại cho chúng ta sự sống. Chúa Giêsu đã mời gọi tất cả mọi người tin nhận Ngài, yêu mến Ngài, thực hành những điều Ngài truyền dạy vào tham dự hạnh phúc Nước Trời cùng với Ngài. Đây là hạnh phúc mà triên tri Isaia đã tiên báo như là một bữa tiệc gặp gỡ vui tươi mà giờ đây Chúa Giêsu đang dọn ra cho hết mọi người. Tuy nhiên dù đang đói đang khát, đang đau khổ, nhưng nhiều người đã không đếm xỉa gì đến lời mời của Chúa, họ còn tìm nhiều cách để từ chối lời mời.
Thực tế này đã được Chúa Giêsu kể qua câu chuyện dụ ngôn: Một ông Vua tổ chức đám cưới cho hoàng tử, nhưng các quan khách được mời đã không cảm thấy hãnh diện vì được Vua mời. Trái lại, họ đã tìm cách từ chối với nhiều lý do: kẻ thì đi thăm ruộng, người thì đi buôn bán, người khác còn khinh thường và hành hạ những đầy tớ của Vua. Cuối cùng, tiệc rượu đã sẵn, những kẻ được mời không đến, nhà Vua đã cho người ra mời tất cả mọi người, bất cứ ai, thế là phòng tiệc đã đầy khách. Câu chuyện cho thấy, những kẻ ưu tiên được mời trước hết là những nhà lãnh đạo và toàn dân Do Thái. Họ là những người được Chúa ưu ái chọn thành dân riêng, và cho họ cơ hội được gia nhập vào tiệc cưới Nước Trời. Nhưng rất tiếc, các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã không đếm xỉa gì đến lời mời của Thiên Chúa. Họ từ chối Thiên Chúa để đi tìm kiếm lợi lộc vật chất. Họ tìm kiếm đất đai ở thế gian mà từ chối gia nghiệp Nước Trời. Họ từ chối việc chung hưởng niềm vui hạnh phúc với Thiên Chúa và với nhau để đi tìm kiếm của cải trần thế. Hơn nữa, họ đã nhiều lần hành hạ, nhục mạ, giết hại các ngôn sứ là những đầy tớ được Chúa sai đến để mời họ, cảnh báo họ.
Thiên Chúa đã mở cửa phòng tiệc để đón nhận mọi người thuộc mọi dân tộc, ngôn ngữ cùng vào Nước Trời để được dự tiệc cưới của Hoàng Tử. Bất cứ ai đáp lại lời mời của Thiên Chúa, không kể giàu nghèo địa vị, mọi người đều có chỗ trong Nhà của Thiên Chúa. Phòng tiệc đầy khách, những người xa lạ giờ đây trở nên thân thuộc, những người đau khổ đón nhận được niềm vui, những người đói khát thì được no thỏa. Tuy nhiên, dù tất cả mọi người được mời vào, nhưng Thiên Chúa vẫn đòi ở nơi mọi người một sự thay đổi và có những điều kiện thích hợp. Câu chuyện cho thấy, nhà Vua thấy có một người đã không mặc y phục cưới. Vua hỏi người ấy: Này bạn, sao bạn vào đây mà không mặc y phục lễ cưới? Người ấy câm miệng không nói gì. Nhà Vua đã cho trói anh và ném ra ngoài, nơi sẽ phải khóc lóc nghiến răng. Điều đó có nghĩa là, để trở thành thành viên của Nước Trời, thành người đồng bàn với Thiên Chúa, thì chúng ta sẽ phải thay đổi con người cũ với sự rách nát tả tơi để mặc lấy con người mới, đời sống mới như khoác chiếc áo cưới vậy. Thiên Chúa như vị vua trong câu chuyện sẽ đến với từng người, từng bàn để thăm hỏi, để khuyến khích. Ngài muốn thấy nơi chúng ta vẻ đẹp của sự biến đổi, thấy chúng ta tỏ ra thiện chí và xứng đáng trước mặt Ngài.
Tiệc cưới Nước Trời không chỉ là một lời hứa hẹn mai sau trên thiên đàng, mà phòng tiệc của Thiên Chúa đang được mở rộng, và Thiên Chúa đang mời mọi người bước vào, đó là Giáo Hội. Trong Giáo Hội, chúng ta thực sự được Thiên Chúa thiết đãi không chỉ bằng thịt béo rượu ngon, mà Hoàng Tử Giêsu sẽ thiết đãi mọi người bằng lương thực là chính Mình và Máu Thánh Ngài. Tiệc này đang được dọn ra mỗi ngày ở nơi đây và mời gọi tất cả mọi người cùng tham dự. Trong phòng tiệc là Giáo Hội, chúng ta còn được gặp gỡ Đức Vua, gặp gỡ Hoàng Tử Giêsu qua lời dạy bảo của Ngài, được vui hưởng Tin Mừng Cứu độ của Ngài. Trong phòng tiệc là giáo Hội, chúng ta còn được chăm sóc bằng các Bí Tích, từ khi chúng ta sinh ra cho đến khi trưởng thành và nhắm mắt lìa đời. Chúa Giêsu qua Giáo Hội của Ngài vẫn yêu thương săn sóc chúng ta. Cũng ở trong phòng tiệc của Thiên Chúa, chúng ta được sống chan hòa tình anh em, đồng bàn với Chúa, đồng bàn với nhau, cùng chia sẻ cho nhau niềm vui nỗi buồn, nâng đỡ nhau khi gặp khó khăn thử thách. Thánh Phaolô đã chia sẻ kinh nghiệm sống tình huynh đệ trong bài đọc hai rằng: khi ngài gặp khó khăn thử thách, ngài đã được cộng đoàn Giáo Hội chia sẻ, an ủi, nâng đỡ.
Thưa quý OBACE, Thiên Chúa vẫn đang tiếp tục mời gọi chúng ta mỗi ngày vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Đi dự đám cưới trần gian, không ai dám ăn mặc quá xuềnh xoàng. Trái lại, người dự tiệc cũng phải chuẩn bị, chau chuốt, trang điểm cho đẹp hơn ngày thường. Thiên Chúa đang chờ đợi nơi chúng ta sự biến đổi, thanh tẩy khỏi hôi hám của tội lỗi, khỏi bẩn thỉu rách rưới của những đam mê, thói quen xấu. Hãy mang trên mình một con người mới, như chiếc áo mới để chia sẻ tiệc vui với Chúa. Tuy nhiên nhiều người, nhiều gia đình, nhiều bạn trẻ đã không cảm thấy vinh dự vì lời mời gọi này. Nhiều người đã bỏ ngoài tai lời mời của Chúa, có những kẻ cân nhắc thiệt hơn trước lời mời gọi này. Họ từ chối vì lý do cuộc sống kinh tế, vì bận công ăn việc làm.
Giống như khi nhận nhiều thiệp mời trong mùa đám cưới, nếu lấy lý do để từ chối thì ai cũng có lý do, và sẽ có rất nhiều lý do. Nhưng lý do quan trọng là do người ta cân nhắc tình cảm và sự thiệt hơn khi quyết định tham dự hay không tham dự. Nhưng chắc chắn nếu người mời và người được mời có ân nghĩa với nhau, thì người ta sẽ không thể không tham dự. Cũng vậy, nhiều người từ chối đến với bàn tiệc Thánh Lễ mỗi ngày, là vì họ không nhận ra ân nghĩa với Thiên Chúa, không nhận ra Đấng mời mình là Đấng đã và đang làm ơn cho mình. Một khi nhận ra ân tình với Thiên Chúa, chúng ta không thể từ chối lời mời của Chúa, trái lại, chúng ta còn cảm thấy vui và hãnh diện vì được đến với Chúa mỗi ngày.
Xin Chúa cho chúng ta luôn tự hào vì mình là những người được Chúa mời gọi để biết mau mắn đến với bàn tiệc Nước Chúa. Đồng thời, không chỉ là người được mời, song mỗi chúng ta còn là người đầy tớ được Chúa sai đi mời những người khác cùng vào dự tiệc Nước Trời. Xin cho nhúng ta luôn biết ra đi để đem nhiều người vào phòng tiệc Nước Chúa. Amen.

Làm vườn nho, nộp phần hoa lợi, mời ăn "Tiệc cưới Nước Trời". Làm thì phải có ăn. Làm ăn. Ăn là kết thúc. Thiên Chúa dọn tiệc mời tất cả. Công bình. Đáp lại là tự do của mỗi người. Tự do thì phải nhận kết quả của sự thực hiện của mình. Thiên Chúa phán xét cũng tuỳ theo sự thể hiện của mỗi người. "Vua đến quan sát và thấy". Thấy sao thì phán xét vậy.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Vua dọn tiệc cưới cho con mình: Israel và Đức Giêsu. Đức Giêsu là tân lang..là một tỉ dụ. Nước Trời là tiệc cưới Thiên Chúa dọn cho Con mình.
- Họ không chịu đến: Israel từ chối Đức Giêsu và công trình cứu độ mà Thiên Chúa đã dùng họ để chuẩn bị. Không chịu đến là khinh dễ, từ khước Thiên Chúa, từ chối Nước Trời.
- Vua lại sai... nhưng họ không thèm đếm xỉa gì tới, lại bỏ đi, người thì đi thăm trại, kẻ khác đi buôn, có người lại bắt đầy tớ vua mà sỉ nhục và giết chết: cố chấp từ khước. Do thái từ chối Đức Giêsu. Còn tín hữu ngày nay, Chúa Nhật mắc đi nầy đi nọ...không đến nhà thờ.
- Vua thịnh nộ sai quân lính đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thánh trì của họ: Trước là Do thái và Giêrusalem (năm 70), kế đến là phán xét cho mọi người. Không đơn giản như có nhiều ngưới lầm nghĩ "Thiên Chúa nhân từ vô cùng, cưối cùng Người sẽ "xả dàn" cho tất cả vào ăn, không bỏ ai". Thiên Chúa không bỏ nhưng tự mình bỏ. Đoạn Phúc Âm nầy là câu trả lời rõ ràng.
- Các ngươi hãy đi ra các ngả đường gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới: "xả dàn". Thời cánh chung. Mời thì mời tất cả (không ép) nhưng đáp lại là quyền tự do và phải chấp nhận một số điều kiện.
-..bất luận tốt xấu, tập hợp tất cả và phòng tiệc cưới đã đấy thực khách: Muốn đi dự tiệc cưới của vua thì phải áo quần "tử tế" kẻo mắc tội "khi quân". Phạm thượng khi quân là tội chém đầu. Nhiều người không đến mà đến thì phải....
- Bấy giờ vua đến quan sát khách dự tiệc thấy có người không có y phục lễ cưới: Ăn tiệc cưới của vua mà không có y phục lễ cưới là không được.
- Vua hỏi "sao bạn vào đây (được) mà không có y phục lễ cưới: Vào lậu (chui) phải không? Có kiểu nói lén chui vào thiên đàng bằng cách nầy cách khác..
- Người ấy câm miệng: không cãi lại được vì đúng vậy.
-Trói chân tay nó lại quăng ra chổ tối tăm bên ngoài ở đó mà khóc lóc nghiến răng: Hình phạt tuyệt đối. Không có van xin, không có tha thứ. Ngày phán xét đó. Đừng lơ mơ.
- Vì kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít: Ai cũng có thể. Chúa không đặt giới hạn. Tình thương bao la của Chúa là thế ấy. Đức Giêsu truyền đi rao giảng, ai nghe và tin thì chịu phép rửa gia nhập cộng đoàn cúư độ của Chúa và "nhập gia tuỳ tục", phải vô khuôn đổi mới, "giữ những điều Đức Giêsu dạy", không như trước nữa. Có đủ điều kiện mới chọn. Vì số nầy ít nên chọn ít. Chọn thì không thể bất luận tốt xấu.
Thiên Chúa thết tiệc. Tiệc của Chúa đã dọn sẳn. Tiệc Thánh Thể, tiệc Nước Trời. Thiên Chúa mời tất cả mọi người.
Những người khinh rẻ, từ chối mắc đi nầy đi nọ.....còn sỉ nhục đấy tớ vua thì số phận là tru diệt và phá huỷ thành trì của họ.
Còn những người vào ăn tiệc thì dụ ngôn y phục lễ cưới nói rõ "không phải muốn ăn thì cứ nhào vô". Tiệc của Chúa đòi hỏi phải có y phục xứng đáng: Ơn thánh hoá (không thể miễn). Bắt dầu là nghe lời rao giảng của những kẻ Chúa sai. Tin, chịu phép rửa nhân danh Cha và Con và Thánh Thần và nhất là "giữ mọi điều Đức Giêsu truyên".
Bây giờ Thiên Chúa nhân từ, chờ đợi kẻ xấu hối cải, hết xấu bằng "giữ mọi điều ĐứC GIÊSU truyền". Giữ mọi điều Đức Giêsu truyền là có y phục lễ cưới.
Phaolô: Ăn tiệc Chúa không xứng đáng là rước hình phạt cho mình. Hoặc mắc đi đây đi kia không đến hoặc đến ăn tiệc mà xứng đáng, bây giờ thì không thấy rõ. Nhưng khi vua đến thì là lúc.....
Tiệc cưới trong Nước Thiên Chúa là ngày chung thẩm, quyết định số phận vĩnh cữu của mỗi người, ai từ chối lời mời gọi, mắc đi buôn, đi đám nầy đám kia... còn khinh dể Chúa còn sỉ nhục, giết hại các đầy tớ Chúa thì bị tru diệt và phá huỷ thành trì. Còn những ai vào ăn tiệc cưới (tín hữu) mà không có y phục lễ cưới (tình trạng công chính hoá) thì bị trói tay chân (hết còn làm gì được) ném ra bên ngoài (Nước Thiên Chúa) ở đó mà đói khát và khóc lóc nghiến răng...
Được ăn tiệc cưới trong Nước Thiên Chúa là kết cục vĩnh viễn, là hạnh phúc đời đời.
Đức Giêsu nói ai có tai thì hãy nghe.

Bài đọc thứ nhất trích sách ngôn sứ Isaia chúng ta vừa nghe đấy khá quen thuộc với Kitô Hữu chúng ta. Thường trong các thánh lễ an táng, lời ngôn sứ này được công bố để nói lên niềm tin, niềm an ủi, niềm cậy trông mà Thiên Chúa hứa ban cho con người, đặc biệt khi gia đình rơi vào cảnh chia ly, mất mát người thân yêu trong gia đình.
Niềm an ủi đấy được ngôn sứ Isaia công bố rõ rệt: "Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế". Không chỉ được đãi tiệc và rượu cách thịnh soạn mà còn: "Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần. Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy. "
Và ngôn sứ Isaia lại nói tiếp với chúng ta: "Ngày ấy, người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ."
Lời của ngôn sứ Isaia vang vọng cách đây hơn hai ngàn năm, lời hứa của Đức Chúa qua môi miệng ngôn sứ Isaia vẫn còn tồn tại và Đức Chúa vẫn đãi tiệc cho dân của Chúa mỗi ngày trên bàn tiệc Thánh, trên cuộc lữ hành trần thế. Hình ảnh bữa tiệc thịnh soạn mà Isaia loan báo đó được hiện tại hoá mỗi ngày nơi Bàn Tiệc Thánh Thể. Bàn Tiệc Thánh Thể mà Chúa mời gọi mỗi người đến tham dự như là hình ảnh Bàn Tiệc Nước Trời mà Chúa nói trong trang Tin Mừng theo Thánh Matthêu hôm nay.
Trang Tin Mừng kể một lễ cưới long trọng cu#a một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Câu chuyện tiệc cưới này có cái gì khác thường, từ thực khách cho đến những sự tham dự, và nhất là cách xử sự của chủ tiệc, cho chúng ta thấy có điều gì không bình thường, và đó chính là điều Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta. Trong thực tế, có lẽ chẳng có tiệc cưới nào diễn ra như thế. Đúng, đây không phải là một tiệc cưới bình thường, mà là tiệc cưới Nước Trời: đức vua mở tiệc cưới là Thiên Chúa. Hoàng tử của nhà vua là Chúa Giêsu. Các đầy tớ được sai đi mời khách là các ngôn sứ. Khách được mời lần đầu là dân Do Thái. Họ đã từ khước lời mời của Thiên Chúa và giết hại các ngôn sứ, thậm chí họ còn giết luôn cả hoàng tử Giêsu. Những người được mời kế tiếp là dân chúng ở khắp hang cùng ngõ hẻm, tức là mọi người, bất kỳ ở đâu, cũng được mời gọi vào nước Chúa.
Câu chuyện của Chúa Giêsu tưởng chừng như xa rời thực tế nhưng thật sự quá hay, quá thiết thực với mỗi Kitô Hữu.
Thử nhìn lại cuộc đời mỗi người, đành biết rằng cần phải kiếm miếng cơm manh áo để đắp đổi đời sống qua ngày nhưng xin hỏi rằng miếng cơm manh áo đấy có phải là tất cả cùng đích của cuộc đời, của con người không? Một thân xác xem ra "nặng ký": đẹp về ngọai hình, cân đối về thể chất, vạm vỡ về sức lực hay tròn trịa về ký lô đi nữa mà chẳng có một chút gì để cho Thiên Chúa hiện diện, chẳng có một chút gì dành cho đời sống tâm linh thì thử hỏi thân xác đó có thể làm được gì? Đẹp, to, béo, tròn nhưng chỉ cần một cơn gió thoảng qua thôi thì cái thân xác to béo đấy cũng chỉ nằm gọn trong chiếc quan tài 4 miếng dài và 2 miếng vuông thôi.
Phải nói thẳng với nhau một thực trạng đau lòng đó là ngày hôm nay, con người ta cứ mãi miết để lo cho thân xác mình mà lại đánh mất đi cái lương thực tâm linh, lương thực nuôi hồn người ta đó chính là Bàn Tiệc Thánh Thể.
Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc nhở các môn đệ cũng như nhắc nhở mỗi người chúng ta:" người ta sống không nguyên bởi cơm bánh nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra." Ngày hôm nay, chạy theo trào lưu của xã hội, con người đã đánh mất cái cảm thức về sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời. Họ đánh mất Thiên Chúa để rồi họ chẳng cần tìm đến Thiên Chúa nữa, họ cứ tưởng rằng: họ viện cớ này, viện cớ kia cho công việc làm ăn riêng tư của họ để họ khước từ Bàn Tiệc của Chúa thì họ thanh thản và bình an.
Họ cứ cắm cúi và thậm chí hao mòn sức khoẻ để đầu tư vào những kho tàng mà sẽ bị mối mọt đục khoét, họ quên đi kho tàng của họ là ở trên trời, nơi đó trộm cướp không đào ngạch và mối mọt không đục khoét được. Nhiều người ngày hôm nay đã vịn cớ vào công ăn việc làm, vào miếng cơm manh áo để không còn mặn mà với Bàn Tiệc Lời Chúa, Bàn Tiệc Thánh Thể nữa.
Con người ngày nay không chỉ khước từ và viện cớ là bận rộn với công việc để không đến được với Bàn Tiệc Thánh, mà như Chúa nói hôm nay trong Tin Mừng là họ có thể giết luôn cả người con yêu dấu của Đức Vua. Chính cái lối sống nhiều khi là phản chứng Tin Mừng, phản bội lòng tin, lòng cậy, lòng mến mà Đức Vua mời gọi đã nói lên việc họ giết Hòang Tử. Hoàng Tử được Đức Vua sai đến loan báo một lòng tin, một lòng cậy, một lòng mến, nhưng nhiều người đã không tha thiết gì với lời loan báo ấy, bằng cách đẩy ra khỏi mình lòng tin, cậy,mến và như thế là họ đã giết hoàng tử như nhà vua tiên báo.
Cũng chẳng cần đợi đến ngày chung cuộc, chủ tiệc sẽ mời họ ra không cho dự bàn tiệc Thiên Quốc nữa. Nhưng chính ngày hôm nay, bất cứ giây phút nào trong cuộc đời, Chủ Tiệc cũng có thể mời họ về và khi này họ phải về tay không và họ mất cả chì lẫn chài. Kho tàng dưới đất mà bấy lâu nay đổ mồ hôi, sôi con mắt tìm kiếm cũng đành phải để lại cho người khác hưởng dùng.Còn họ không thể bước vào Bàn Tiệc Thiên Quốc được vì ngày mỗi ngày trong đời tạm này họ có thiết tha gì với Thiên Chúa đâu?
Chúng ta để ý một chút, chi tiết này cực kỳ quan trọng đó là đang bữa tiệc diễn ra, đức vua phát hiện có một anh không mặc y phục lễ cưới nên đã bị vua sai đầy tớ đuổi anh ra ngoài không cho anh dự tiệc cưới nữa. Tôi trộm nghĩ rằng, anh ta là người cũng đon đả đi vào dự tiệc khi được mời nhưng anh ta không chuẩn bị một y phục của lễ cưới. Chúa Giêsu, trong trang Tin Mừng này không hề mô tả y phục của lễ cưới Nước Trời, lễ cưới của Hoàng Tử là gì nhưng ta có thể hiểu ý Chúa Giêsu rằng: anh ta đã không chuẩn bị cho mình tư cách để đi dự tiệc. Chúa hoàn toàn không đặt vấn đề gì về sính lễ, về qùa cáp như người đời thường suy tính. Chúa chỉ gợi lên là không mặc y phục lễ cưới! Y phục ấy phải chăng là thái độ, tâm tình phải có khi đi dự tiệc cưới Con Chiên. Thái độ, tâm tình đó phải chăng là lòng mến, là tình yêu, là lòng bác ái đối với Vua và Hoàng tử. Chắc có lẽ anh chàng này đi dự tiệc cưới của Hoàng Tử nhưng còn khoác trong mình bộ áo của hận thù, ghen ghét, kiêu căng nên bị Vua đuổi ra chăng?
Tiệc cưới của Hoàng tử này ta nên nhớ là mời tất cả mọi người khắp hang cùng ngõ hẻm, không phân biệt giàu nghèo. Chủ tiệc sai đầy tớ đi mời tất cả những người phải nói là đầu đường xó chợ vào dự tiệc thì chắc chắn rằng chiếc áo mà chủ tiệc nói không phù hợp với tiệc cưới đây không phải là chiếc áo bằng vải, bằng vật chất mà thực khách khi dự tiệc phải mang. Cái áo cưới ở đây được nhà vua nhắc đến chính xác là chiếc áo tâm hồn, là tấm lòng của thực khách mà chỉ duy nhất Nhà Vua - Thiên Chúa quyền năng - nhận ra mà thôi.
Rồi đây, ngày tận thế cũng sẽ đến và như lời Chúa đã hứa: bất luận ai đi nữa, giàu hay nghèo cũng được mời để vào dự tiệc cưới Hoàng tử. Chuyện quan trọng hôm nay Chúa nói rồi, Chúa nói cho mỗi người chúng ta là chúng ta phải chuẩn bị y phục như thế nào để khi vào dự tiệc cưới chúng ta sẽ không bị chủ tiệc đuổi ra ngoài. Y phục mà Chúa muốn, y phục mà Chúa cần mỗi người có không phải được dệt bằng lụa là gấm vóc, không phải được mua từ cửa hiệu Việt Tiến, may Nhà Bè hay thun Cá Sấu đắt tiền nhưng y phục ấy chính là lòng khiêm hạ, lòng tin, lòng cậy, lòng mến Chúa và nhất là lòng mến đối với anh chị em đồng loại là những người đang sống chung với chúng ta.
Chúng ta đang sống trong cuộc lữ hành trần gian, chúng ta đừng quên rằng quê hương đích thực của chúng ta ở quê Trời. Chúng ta cũng đừng quên rằng tiệc cưới quan trọng nhất, cùng đích nhất của chúng ta chính là tiệc trên Trời. Những tiệc cưới trần gian này ta đi dự sao cũng được, thậm chí ta không đi dự cũng được nhưng chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội như nhiều người đã khước từ trong trang Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Matthêu thuật lại.
Dâng Thánh lễ hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã cho chúng ta được tận hưởng trước tiệc cưới trên quê trời. Muốn chung vui với chủ tiệc lòng chúng ta phải thanh sạch, chúng ta phải dẹp bỏ mọi oán hờn ghen ghét để dự bàn tiệc Thánh Thể. Cũng thế, muốn tham dự bàn Tiệc Nước Trời, Chúa cũng mời gọi chúng ta hãy trang bị cho lòng chúng ta những bộ y phục xứng đáng với y phục mà Chúa mong muốn.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Chúa, là Vua của chúng ta đến giúp mỗi người chúng ta biết chuẩn bị y phục theo lòng Chúa mong muốn để ngày sau, chúng ta được cùng vào hưởng tiệc cưới Nhà Vua dọn sẵn trên Nước Trời.

GIỚI THIỆU CHỦ ĐỀ: Giữ quân bình cho cuộc sống
- Nhu cầu vật chất, nhất là ăn uống, có thể nói là nhu cầu căn bản nhất của con người. Để có thể thỏa mãn nhu cầu này, con người phải dành hầu hết thời gian để làm việc kiếm tiền, để chuẩn bị nấu nướng, và để thưởng thức. Tuy nhiên đây không phải là nhu cầu duy nhất của con người, bên cạnh đó, con người còn có những nhu cầu về tình cảm, hiểu biết, và nhất là mối tương quan với Thiên Chúa. Các Bài đọc Chủ Nhật tuần này đều hướng về nhu cầu ăn uống, nhưng với những bài học khác nhau.
- Trong Bài đọc I, tiên tri Isaiah hướng lòng con người về Bữa Tiệc Nước Trời. Chỉ có Bữa Tiệc này mới hòan tòan thỏa mãn mọi khát vọng của con người.
- Trong Bài đọc II, thánh Phaolô dạy cho chúng ta biết làm chủ cuộc đời, khi no cũng như khi đói, khi đầy đủ cũng như lúc tùng thiếu. Điều quan trọng là biết trông cậy vào Chúa trong mọi lúc; chỉ có Ngài mới có thể thỏa mãn mọi nhu cầu của con người.
- Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu gióng lên tiếng chuông để cảnh tỉnh mọi người: Quá bận rộn với nhu cầu vật chất có thể làm cho con người quên đi hay từ chối lời mời gọi của Thiên Chúa vào tham dự Bàn Tiệc Nước Trời.
KHAI TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài đọc I: Bàn Tiệc Nước Trời
Tiên tri Isaiah được Thiên Chúa cho thấy trước hòan cảnh đau khổ của dân tộc Do-Thái khi phải sống lưu đày bên Assyria và Babylon. Họ sẽ phải đau khổ vì đói khát, vì chết chóc, và vì bị Thiên Chúa bỏ rơi; nhưng ông cũng thấy trước ngày Thiên Chúa sẽ khôi phục và cho họ trở về. Đó là ngày họ sẽ được hân hoan vào dự Bàn Tiệc Nước Trời. Giống như cuộc lưu đày của dân Do-Thái, cuộc đời con người cũng được ví như những chuỗi ngàu lưu đày xa Chúa, con người cũng ra sức tìm kiếm để thỏa mãn các nhu cầu trong cuộc đời; nhưng con người sẽ không tìm thấy bất cứ đâu ngòai Bàn Tiệc Nước Trời. Những nhu cầu căn bản được tiên tri Isaiah ghi lại trong Bài đọc hôm nay:
(1) Hai nhu cầu căn bản cho cuộc sống con người là ăn và uống. Con người ra sức làm việc và dành rất nhiều thời gian cho hai nhu cầu này, nhưng vẫn không hòan tòan thỏa mãn cho đến ngày: “Ngày ấy, trên núi này, Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế.”
(2) Con người có thể đạt mọi ước mơ trong cuộc đời: vợ đẹp, con khôn, giàu có, danh vọng, quyền lực … Nhưng khi phải đối diện với tử thần, con người không thể kéo dài cho đời mình dù chỉ một giây phút ngắn ngủi. Sự chết là nỗi đau khổ lớn nhất của con người vì nó tước đọat tất cả những gì mà con người vất vả xây dựng. Nhưng con người vẫn còn hy vọng thắng được cái chết, vì ngày ấy: “Trên núi này, Người sẽ xé bỏ chiếc khăn che phủ mọi dân, và tấm màn trùm lên muôn nước. Người sẽ vĩnh viễn tiêu diệt tử thần.”
(3) Con người muốn hạnh phúc nhưng cuộc đời là bể khổ. Đau khổ vì trăm ngàn thứ bệnh tật, đau khổ vì hận thù chiến tranh, đau khổ vì thiên tai bão lụt... Con người chỉ tìm thấy sung sướng hạnh phúc trong Ngày ấy, ngày mà: “Đức Chúa là Chúa Thượng sẽ lau khô dòng lệ trên khuôn mặt mọi người, và trên toàn cõi đất, Người sẽ xoá sạch nỗi ô nhục của dân Người. Đức Chúa phán như vậy.”
(4) Không có sự dằn vặt nào lớn hơn sự dằn vặt của con người có mặt trong cuộc đời mà không biết ai sinh ra mình. Không những thế, con người còn được nghe và xem thấy rất nhiều những sự tốt lành và hứa hẹn của Đấng ấy, như lời của Thánh Augustine trong tác phẩm Tự Thú: “Thiên Chúa dựng nên con cho Ngài, và hồn con những khắc khỏai mong chờ, cho tới khi được an nghỉ trong Chúa.” Niềm mong đợi sâu xa nhất của con người cũng sẽ được thỏa mãn trong Ngày đó, ngày mà người ta sẽ nói: "Đây là Thiên Chúa chúng ta, chúng ta từng trông đợi Người, và đã được Người thương cứu độ. Chính Người là Đức Chúa chúng ta từng đợi trông. Nào ta cùng hoan hỷ vui mừng bởi được Người cứu độ."
Chỉ khi nào những niềm trông đợi trên của con người được hòan tòan thỏa mãn thì “Bàn tay Đức Chúa sẽ đặt trên núi này mà nghỉ.”
2/ Bài đọc II: Tin tưởng nơi Thiên Chúa hơn là tin tưởng nơi con người.
2.1/ Cần luyện tập để trở thành con người có bản lãnh: Có những người đã quá quen với cuộc sống sung túc nên cảm thấy rất đau khổ khi phải sống thiếu thốn. Ngược lại, có những người đã sống trong cảnh nghèo lâu năm, không biết phải cư xử làm sao khi bỗng chốc trở nên sang giầu vì trúng số hay được thừa hưởng gia tài; rốt cuộc, tiền của cũng hết mà cuộc sống còn tàn tệ hơn trước. Người có bản lãnh là người biết điều khiển cuộc sống mình trong mọi hòan cảnh như thánh Phaolô: “Tôi sống thiếu thốn cũng được, mà sống dư dật cũng được. Trong mọi hoàn cảnh, no hay đói, dư dật hay túng bấn, tôi đã tập quen cả. Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi chịu được hết. Tuy nhiên, anh em đã chia sẻ với tôi, khi tôi gặp cơn quẫn bách, như thế là phải.”
2.2/ Thiên Chúa sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời: Cái đau khổ nhất của con người là không tin nơi Thiên Chúa; vì thế, họ phải vất vả để lo cho mình. Thánh Phaolô nhắc nhở những người này: “Thiên Chúa của tôi sẽ thoả mãn mọi nhu cầu của anh em một cách tuyệt vời, theo sự giàu sang của Người trong Đức Giêsu Kitô.” Hơn nữa, có những điều mà con người không thể tự lo cho mình được: sức mạnh để chịu đau khổ, sự chết, ơn cứu độ. Một thái độ tin tưởng nơi quyền năng và tình yêu Thiên Chúa sẽ giúp con người sống vui vẻ, bình an, và hạnh phúc trong cuộc đời hơn.
3/ Phúc Âm: Tiệc cưới Nước Trời: Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.
3.1/ Quan khách được mời vào dự tiệc cưới Nước Trời: Giống như Bàn Tiệc Nước Trời trong Cựu Ước của tiên tri Isaiah, Chúa Giêsu cũng ví Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. Người Vua này là hình ảnh của Chúa Cha, Người Con đây là Chúa Giêsu, quan khách được mời là người Do-Thái, dân riêng được Chúa tuyển chọn. Các đầy tớ của nhà Vua là các tiên tri, các Tông Đồ, và những môn đệ của Chúa. Nhà vua tuy có quyền lực để truyền lệnh hay bắt tới, nhưng ông rất kiên nhẫn sai các đầy tớ đi mời quan khách ít là hai lần; nhưng các quan khách vẫn từ chối không chịu đến.
3.2/ Phản ứng của quan khách: Tuy nhà vua đã làm đủ mọi cách, nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới. Phúc Âm tường thuật 2 phản ứng chính:
- Kẻ thì ra đồng, người thì ra tiệm: Phản ứng này có lẽ là thông thường nhất. Con người vì quá bận rộn với công việc làm ăn khiến họ không còn thời giờ và từ chối lời mời gọi vào dự tiệc cưới Nước Trời.
- Còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. Phản ứng của hạng người này thật khó hiểu: không đi thì thôi, tại sao lại bắt người, sỉ nhục, và giết chết? Nếu chúng ta quan sát những gì đang xảy ra ở Hà-Nội, chúng ta có thể hiểu phản ứng của những người này. Được mời gọi để tôn trọng công bằng và sự thật, họ đáp lại bằng bất công, gian trá, đàn áp, và đe dọa tù đày! Được mời gọi để hướng lên Trời suy nghĩ về đích điểm của cuộc đời, họ từ chối không nhìn lên và tiếp tục nhìn vào những mối lợi vật chất mà họ sẽ mất. Nếu đã được chứng kiến niềm tin của biết bao tín hữu coi thường cái chết và sẵn sàng chịu đau khổ để làm chứng cho Tin Mừng, mà họ vẫn giả điếc làm ngơ thì con người mới thấu hiểu được sự tức giận của nhà vua khi biết họ đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình.
3.3/ Phản ứng của nhà Vua: Khi hay tin các phản ứng của quan khách đối xử tàn tệ với các đầy tớ của mình, nhà Vua liền nổi cơn thịnh nộ và làm 2 việc chính:
(1) Trước tiên, nhà vua sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. Sự phá hủy tan tành của Jerusalem vào năm 70 AD bởi đế quốc Rôma có lẽ là những gì mà Chúa Giêsu muốn ám chỉ ở đây.
(2) Thứ đến, nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới." Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. Vì người Do-Thái khước từ không chịu tiếp nhận Con Thiên Chúa, nên Tin Mừng được loan báo cho tất cả mọi người, mọi quốc gia, mọi thành phần trong xã hội: tốt cũng như xấu.
(3) Dự tiệc cưới mà không mặc y phục lễ cưới: Khi nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?" Người ấy câm miệng không nói được gì. Nhà vua liền bảo những người phục dịch: "Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng!” Nhiều người cho phản ứng của nhà Vua khó hiểu ở đây vì những khách dự tiệc được mời sau không có thời giờ để chuẩn bị y phục lễ cưới. Lý do này không vững chắc vì tại sao biết bao nhiêu người khác với hòan cảnh tương tự như anh ta lại có thời giờ chuẩn bị? Hơn nữa, không phải tất cả những người được mời là xứng đáng được chọn, như lời Chúa kết luận: “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít." Để được vào Nước Trời, con người cần đáp ứng những điều kiện đưa ra bởi Thiên Chúa.
ÁP DỤNG TRONG CUỘC SỐNG:
- Không có gì trên thế gian có thể thỏa mãn hòan tòan những khát vọng của con người. Chỉ có Bàn Tiệc Nước Trời mới có thể thỏa mãn mọi khát vọng đó.
- Chúng ta cần phải ăn uống để sống, nhưng đừng quá lệ thuộc vào chúng mà quên đi những nhu cầu khác. Như thánh Phaolô, chúng ta cần làm chủ cuộc sống khi đói cũng như khi no; và trong mọi lúc, chúng ta phải luôn trông cậy vào Chúa, là Đấng duy nhất có thể cho con người thỏa mãn hòan tòan.
- Chúng ta phải rất cẩn thận để đang khi phải lo lắng làm việc kiếm của ăn cho thân xác, chúng ta đừng quên lời mời gọi của Thiên Chúa vào dự Tiệc Cưới Nước Trời. Thiên Chúa đã gọi nhưng để được vào con người có tự do đáp trả, như Chúa Giêsu đã cảnh cáo: “Kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít."

TỪ BÀN TIỆC THÁNH
Câu chuyện về cái chết của triết gia Socrates như sau:
Năm 399 BC. Meletus và Anytus đã tố cáo Socrates là “vô đạo và làm hư hỏng thanh niên”. Socrates bị 11 vị Thẩm phán của chính quyền Hy Lạp kết án tử hình về tội dụ dỗ thanh niên theo tà thuyết và phản loạn. Trong các hình phạt dành cho tử tội, ông chọn chén thuốc độc. Apollodore luôn đầm đìa nước mắt, có lúc gào lên, làm cho Platon không thể cưỡng lời thầy, khóc theo. Còn Criton thì như đứt từng khúc ruột, nhưng sợ thầy, ông lén ra ngoài khóc cho bớt đau khổ. Tuy vậy, khi thấy các học trò khóc, Socrates phải quát lên: “Các con làm gì kỳ vậy? Sở dĩ thầy đuổi hết các bà các cô ra ngoài, là để tránh sự mất bình tĩnh như vậy. Các con phải cương nghị. Chúng ta phải chấm dứt cuộc đời một cách êm ái, thảnh thơi chứ!
Buổi chiều hôm ấy, mặt trời xuống dần, Socrates bước ra từ phòng tắm, ông gặp ba người con một lúc rồi bảo họ ra ngoài chỗ mấy người đàn bà đang sụt sùi. Chỉ mấy người môn đệ của ông là được ở lại. Người cai ngục bước ra bảo ông hãy tự uống chén thuốc độc, đã có người mang tới, sẵn sàng ở phòng bên. Người này tỏ ra mến phục nhân cách của ông, thậm chí anh ta cũng khóc sướt mướt lúc vĩnh biệt ông. Socrates ra dấu cho Criton môn sinh của mình, bảo người mang thuốc độc vào cho ông uống. Criton nói: “Thưa thầy, mặt trời chưa lặn. Đừng vội lìa bỏ chúng con. Thiếu gì người nấn ná, ăn uống, chuyện vãn với gia đình, họ hàng rất lâu”, Nhưng Socrates mắng ông: “Họ làm như vậy có được thêm lợi lộc gì đâu. Thầy không muốn bám chặt thêm cuộc sống, khi chẳng thể giữ nó mãi được! Con hãy nghe lời thầy”…
Cầm chén thuốc trong tay, ông căn dặn lại các môn đồ: “Hãy bình tĩnh, đừng thay đổi sắc diện” rồi từ từ đưa chén độc dược lên miệng uống một hơi êm ái hiền hoà. Lúc ấy, Plato và các môn đệ khác nhìn ông uống từng hớp tử thần mà chết đứng, tê cóng người. Nước mắt tuông trào như hai giòng suối mà không dám để tiếng nức nở thoát ra. Trong Phaedo Plato thốt lên: “Từ đây thế là hết!”, ông không khóc cho thầy, vì một người như thầy mình, không cần ai khóc khi qua đời. Tôi khóc cho chính tôi, vì từ đây, tôi đã mất đi một người thầy, một người anh, một người bạn, mà không sao có thể kiếm được người thứ hai trên cõi đời này.
Đó là một cái chết can đảm. Socrates đã bước vào thế giới vĩnh hằng với sự “chấm dứt cuộc đời một cách êm ái và thảnh thơi”. Đó là bài học cuối cùng ông dạy cho các môn sinh.
ĐẾN VỚI CHÚA VỚI TÂM HỒN TRONG TRẮNG
Đời ai cũng có một đoạn kết, để bước vào cõi bất tử. Cho dù con người có lý tưởng và tâm linh thế nào, một sự ra đi bình an vẫn là niềm mong đợi. Một sự ra đi bình an để vào thế giới hạnh phúc, đó là niềm tin tôn giáo. Thế giới Tình Yêu và được chung hưởng vinh quang Thiên Chúa, là niềm tin Kitô hữu.
Đối với niềm tin chân chính, người vào thế giới vĩnh hằng đều có một tâm hồn trong sáng. Họ rửa sạch tâm hồn họ theo tiếng gọi của Đấng Tối Cao mà nhiều khi họ chưa hiểu rõ về Ngài. Họ sống theo nẻo thiện lương, ăn ngay, ở lành, và họ được Thiên Chúa yêu thương vì tâm hồn đơn sơ như trẻ thơ của họ.
Đối với niềm tin Công Giáo, tâm hồn họ đã được tẩy rửa trắng tin trong máu Đức Kitô, và họ không ngừng được thanh luyện qua các bí tích.
Sau đó, tôi đã nhìn thấy đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng. Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế…
"Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên". (Kh.7,9-14).
“Chiếc áo trắng tinh” ấy là mặc lấy Đức Kitô, là “y phục lễ cưới” mà Thiên Chúa muốn con người mặc vào trong tiệc cưới dành cho mối duyên Con Thiên Chúa và nhân loại. Là tình yêu Thiên Chúa dành cho con người.
“Chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng; cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thỏa mãn các dục vọng”. (Rm 13, 12-14).
Thiên Chúa yêu thương con người vô điều kiện, nhưng để thật sự gọi là tình yêu, bao giờ cũng có sự tự nguyện đón nhận. Nó không phải là điều kiện để yêu, mà là điều kiện để có thể gọi là tình yêu. Yêu, là yêu ai. Tự dưng nói yêu, động từ yêu trơ trọi, nó chỉ là một từ ngữ vô nghĩa!
Tình yêu chỉ đạt được trọn vẹn, khi tình yêu có sự tự nguyện đáp lại. Con người đáp lại tình yêu Thiên Chúa khi họ đã tự nguyện thanh luyện để vươn lên với tình yêu của Ngài.
Nếu con người không đáp lại tình yêu Thiên Chúa, con người thuộc về thế giới đen tối - thế giới Sa-tan - thì làm sao có tình yêu tồn tại được?
Sao lại không mặc “y phục lễ cưới”? Y phục lễ cưới đã có sẵn ở phòng trang điểm, người không màng vì tới khâu chuẩn bị vào dự tiệc, chắc chắn lòng cũng không tha thiết gì đến niềm vui tiệc cưới. Không có sự tôn trọng, có tình yêu không?
TỪ BÀN TIỆC THÁNH ĐẾN TIỆC CƯỚI NƯỚC TRỜI.
Một bé gái bệnh nặng, một hôm biết mình khó qua khỏi, em gọi cha mình lại để nói chuyện. Người cha này rất nguội lạnh, lại hay chè chén ăn chơi, không bao giờ đến nhà thờ. Em hỏi: - “Cha có thương con không?”. Người cha cảm động nói: - “Sao con lại hỏi thế, cha rất yêu con!”. – “Con sắp xa cha rồi, con sắp về với Chúa rồi!”. – “Không! Con sẽ mạnh, cha thương con lắm!”. Người cha ôm con khóc nức nở. – “Con sẽ gặp Chúa, con yêu Chúa, nhưng con cũng yêu cha, con không muốn xa cha, cha có muốn gặp lại con không?” – Người cha nghẹn ngào đáp: - “Có, con yêu!”. – “Vậy cha hứa với con là cha sẽ đi nhà thờ nhé! Con muốn được gặp lại cha trên Thiên Đàng”. Người cha trả lời trong nước mắt: - “Cha hứa!”. - “Con vui lắm rồi, con sẽ gặp lại cha nhé!”. Bé gái nhìn cha mỉm cười, sau đó vài phút, nó ra đi.
Người cha từ đó trở thành một con chiên ngoan đạo, rồi ông giúp nhiều việc ở nhà thờ.
Để đến Bàn Tiệc Thánh, đến với bí tích Thánh Thể, người Công Giáo có sự chuẩn bị trước đó: “mặc chiếc áo tâm hồn trắng tinh” để đón nhận Mình Thánh Chúa.
Và từ Bàn Tiệc Thánh trong Giáo Hội Lữ Hành này, người Công Giáo đã sẵn sàng cho mình “y phục lễ cưới” để vào dự Tiệc Cưới Nước Trời.
“Họ đã giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên”, trong bí tích Rửa Tội, và họ không ngừng chiến đấu trong cuộc đời để giữ mãi màu áo trinh nguyên ấy trong ăn năn sám hối, trong bí tích Hòa Giải, trong ơn sủng của những bí tích thánh hóa, trong việc thực thi Giới Luật Yêu Thương.
Từ Bàn Tiệc Thánh, đời sống người có Đức Tin luôn thăng hoa, họ tránh xa được những dục vọng hạ đẳng, những ước muốn thấp hèn, đời sống nhân bản của họ được đặt trên nền tảng của Tình Yêu Thiên Chúa. Tình yêu biến đổi lòng họ để họ xứng đáng đón nhận tình yêu bao la mà Thiên Chúa dành cho họ. Người ta luôn vượt qua những thử thách, từ bên ngoài hay chính tại lòng mình, để gìn giữ tình yêu. Vì tình yêu cho ta hạnh phúc. Chúa là Tình Yêu, là suối nguồn hạnh phúc, sao ta không vượt qua thử thách để gìn giữ Tình Yêu đó. Sao ta không mặc “y phục lễ cưới” để bước vào Tiệc Vui của Ngài?
Chiếc áo trắng tinh nào mà không cần phải tẩy sạch. Tâm hồn trong sáng nào mà không cần sám hối ăn năn!
Vì thế, từ Bàn Tiệc Thánh, từ Thánh Thể, người Công Giáo đã chuẩn bị sẵn sàng “Y phục lễ cưới” vào dự Tiệc Cưới Nước Trời – “Bàn Tiệc Thánh Đời Đời” trong Vương Quốc Tình Yêu Thiên Chúa.
Lạy Chúa,
Xin rửa con sạch hết lỗi lầm
tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy…
Xin dùng cành hương thảo
rảy nước thanh tẩy con, con sẽ được tinh tuyền;
xin rửa con cho sạch, con sẽ trắng hơn tuyết… Amen.

Niềm vui gắn liền với con người. Con người không thể sống mà không có niềm vui. Nếu không có niềm vui, cuộc đời sẽ trở nên nặng nề và đáng chán. Vì thế, khoa học kỹ thuật, tiền tài và vật chất luôn cố gắng đem lại cho con người thật nhiều niềm vui, càng nhiều càng tốt. Thế nhưng những niềm vui ấy không khác gì những cánh phù du, sớm nở chiều tàn, để rồi càng lao mình vào những thú vui trần thế, con người càng cảm thấy thất vọng, chán nản và trống rỗng. Thấu hiểu được điều này nên khi đến trần gian Chúa Giêsu đã giới thiệu cho nhân loại một niềm vui mới, niềm vui vững bền. Niềm vui đó chính là Ngài. Không những Ngài mang niềm vui mà Ngài còn mang niềm hạnh phúc mãi mãi, mang đến niềm vui vĩnh cửu cho nhân loại. Hơn nữa, Ngài đã chỉ cách để con người sở hữu được niềm vui ấy mãi mãi. Ngài đúng là một Tin Mừng đem lại niềm hạnh phúc đời đời. Việc Ngài Nhập thể đáp ứng niềm khát khao của nhân loại từ bao đời. Ngài đến thế trần để ban sự sống, bình an, ơn cứu chuộc.
Đọc trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy chính Chúa Giêsu đã ví tiệc cưới này với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời (những khách quý đầu tiên) đã tỏ ra coi thường và đối xử tệ đối với các sứ giả của nhà Vua. Họ không những đã từ chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.
Bài học mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho thính giả thời của Ngài, tức là dân tộc Israel, một dân tộc ngay từ đầu đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài, làm những khách mời đặc biệt vào dự tiệc Nước Trời. Thế nhưng khi Chúa Giêsu đến loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ thì họ từ chối. Vì thế, các khách được mời đầu tiên này sẽ được thay thế bằng bất cứ ai.
Dụ ngôn tiệc cưới ấy vẫn có giá trị đối với chúng ta ngày nay. Là Kitô hữu, chúng ta là những khách được mời dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi chúng ta "do lòng từ bi của Ngài, chứ không do công trạng nào của chúng ta". Nhưng Chúa đòi hỏi ở chúng ta một điều kiện, cũng là vinh dự của chúng ta là con người có lý trí và tự do, đó là đáp lại lời mời gọi yêu thương quảng đại của Ngài.
Trong các khách được mời dự tiệc cưới, chúng ta là những khách mời gọi cuối cùng để thay thế vào chỗ những khách đặc biệt được mời từ đầu mà đã từ chối lời mời của Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa vẫn sai các sứ giả của Ngài đi qua mọi nẻo đường thế giới, mời gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt hay xấu. Thiên Chúa không loại bỏ ai, chính chúng ta tự loại mình. Nhưng không phải cứ vào phòng tiệc là được dự tiệc đâu, còn cần phải áo cưới nữa, nếu không sẽ bị tống cổ ra ngoài. Nói cách khác, không phải cứ là người Công Giáo, là người có đạo, là được vào Nước Trời đâu. Cần phải làm chứng cho Chúa Kitô, phải sống đời sống Kitô hữu, phải tin, yêu và theo Chúa Kitô nữa.
Kitô giáo không phải là một tin buồn, nhưng là một Tin mừng và nước trời là những bữa tiệc cưới không ngừng. Kẻ thì từ chối, người thì đáp trả lời mời gọi của Ngài. Lời mời gọi ấy được gửi đến cho mọi người không phân biệt giàu nghèo. Nhưng điều quan trọng đó là họ phải hiểu được rằng, sứ điệp của Tin mừng là một sứ điệp đem lại hạnh phúc. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại không muốn hiểu, đối với họ, đạo chỉ là những luật lệ ngăn cấm. Họ cho rằng mình phải đi lễ, phải đi xưng tội, không được làm điều này điều kia. Có người thì lại nghĩ rằng mình không thể nào sống đạo. Họ tiếc rằng mình đã là Kitô hữu, vì đạo làm thiệt hại đến lợi lộc riêng tư của họ. Đạo là một cái gì buồn thảm với những tiếng thở dài não nuột. Thế nhưng nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy họ mới chỉ biết được mặt trái của đạo. Trong khi đó người tín hữu đích thực lúc nào cũng ngập tràn niềm vui, vì tất cả đều có thể đem lại cho họ sự hân hoan sung sướng.
Dụ ngôn còn cho thấy, cuối cùng phòng tiệc đầy khách, gồm đủ hạng người. Cũng thế, Giáo Hội ngày càng đông, gồm đủ mọi dân dộc trên thế giới. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Có thể xem Giáo Hội là một "Bữa Tiệc của người tội lỗi", nhưng là người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến. Tình thương đòi hỏi tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự bữa tiệc tình thương.
Thánh Lễ là một bữa tiệc của Chúa. Giáo Hội là tập thể những người được mời dự tiệc, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, màu da, ngôn ngữ. Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là những món ăn " có chất lượng". Áo cưới trong trắng Chúa đã ban cho chúng ta trong bí tích Rửa Tội và Giải Tội là điều kiện để xứng đáng dự Tiệc Thánh này. Và Tiệc Thánh hôm nay bảo đảm cho việc dự tiệc cưới trong Nước Trời mai sau. Dưới ánh sáng đức tin thì mỗi ngày sống của chúng ta phải là một ngày lễ lớn, bởi vì từng giây từng phút chúng ta đã nhận lãnh biết bao ơn lành, biết bao nhiêu quà tặng của Thiên Chúa. Chính trong chiều hướng này mà mỗi ngày Chúa Nhật đều dẫn chúng ta tới đỉnh cao hoan lạc qua việc kết hiệp với Đức Kitô nơi bàn tiệc Thánh thể. Để rồi từ đó, niềm vui được chiếu toả trên toàn bộ cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con vui mừng và mau mắn vào dự tiệc Thánh Thể. Hơn nữa lòng chúng con đã chuẩn bị sẵn sàng những điều kiện để xứng đáng hưởng niềm vui bất diệt của Chúa. Chính Chúa là niềm vui và hạnh phúc của chúng con. Chúa là Nước Trời mà chúng con đang khát khao tìm kiếm. Amen.

Đâu là ý nghĩa của dụ ngôn chúng ta vừa nghe?
Nhà vua là Thiên Chúa, hoàng tử là Đức Kitô, tiệc cưới là hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Những kẻ được mời trước là dân Do Thái, và họ đã từ khước. Những đầy tớ được sai đến là các tiên tri, mà những lời giảng dạy chỉ là những tiếng kêu trong sa mạc và bản thân thì bị ngược đãi…Những đầy tớ được sai tiếp theo là các tông đồ, có nhiệm vụ chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng để dẫn đưa mọi người tới niềm hạnh phúc nước trời. Thế nhưng nhiều kẻ cũng đã từ chối sứ điệp Tin mừng, bắt bớ và hành hạ những người được Chúa sai đến. Phải chăng Giêrusalem đã bị phá hủy tan hoang cũng chỉ vì họ đã không biết đến ngày giờ Chúa viếng thăm.
Tiệc cưới nói lên niềm hạnh phúc nước trời, cũng như niềm vui của Bí tích Thánh Thể. Vì dân Do Thái đã từ chối, nên Thiên Chúa đã mời gọi những người khác, thuộc mọi quốc gia, thuộc mọi màu da, thuộc mọi tiếng nói, làm nên một dân riêng mới trong đó có mỗi người chúng ta.
Thế nhưng chúng ta hãy lưu ý: Đừng hành động như những người Do Thái, đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng gọi ân tình của Thiên Chúa.
Ngày xưa họ đã đưa ra những lý do, nào là tôi mới mua đất, mới tậu bò, mới cưới vợ… thì ngày nay chúng ta cũng có thể đưa ra những lý do như thế từ từ khước lời mời gọi của Thiên Chúa.
Và như chúng ta đã biết, Thiên Chúa là Đấng nhân từ, Ngài luôn tôn trọng sự tự do của chúng ta, nên Ngài không muốn cưỡng bức chúng ta phải đáp trả tình thương của Ngài. Tự bản thân chúng ta phải ý thức, để rồi có những thái độ đáp trả cho đúng mức.
Nước trời phải là viên ngọc quí để chúng ta dám hy sinh cả gia tài cho viên ngọc ấy. Nước trời phải là một kho tàng để chúng ta dám bán tất cả mà mua cho được thửa ruộng có kho tàng ấy. Nước trời phải là miền đất hứa, ở đó chảy sữa và mật để chúng ta bước tới, phải là bữa tiệc cho chúng ta tham dự.
Thế nhưng chúng ta không được phép đến tham dự bữa tiệc ấy với bộ quần áo lem luốc và bẩn thỉu. Không cần phải bỏ tiền ra mua sắm những thứ vải ngoại quốc đắt giá… Không cần phải là ông hoàng bà chúa mới có được tấm áo cưới.
Bộ áo cưới ở đây, ai trong chúng ta cũng có thể mua sắm mà không phải tốn kém chi hết, đó chính là tâm hồn trong sạch của chúng ta. Càng nghèo vật chất chúng ta càng dễ làm cho tâm hồn mình trở nên xinh đẹp. Bởi vì như một lời nói của Léon Bloy đáng cho chúng ta suy nghĩ:
- Không phải là ngày mai hay ngày mốt nhưng là chính ngày hôm nay chúng ta có thể bước vào thiên đàng, khi chúng ta sống nghèo khó và chịu đóng đinh.
Nghèo khó và chịu đóng đinh, phải chăng đó là điều mà con người thời nay không thể nào chịu đựng nổi. Chính vì thế, kẻ gọi thì nhiều còn người được chọn thì ít. Không phải ai cũng có thể vào được nước trời. Chúa Giêsu muốn tất cả chúng ta được cứu rỗi, chính vì thế mà Ngài đã phải chết trên thập giá. Nhưng Ngài không cưỡng bức chúng ta, Ngài đòi chúng ta phải cộng tác với Ngài, bởi vì chúng ta có thể từ chối ơn Ngài. Chúng ta hãy khắc ghi lời cảnh cáo sau đây của thánh Phaolô:
- Gieo gì thì gặt nấy. Gieo trong xác thịt thì sẽ gặt sự hư nát, gieo trong thần khí thì sẽ gặt cuộc sống vĩnh cửu.

Với tình thương yêu, Thiên Chúa dọn tiệc mời.
Đọc dụ ngôn tiệc cưới, tôi không khỏi ngỡ ngàng trước tình yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa mời con người đến dự tiệc cưới Con của Người. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa yêu thương con người.
Đó là một tình yêu nhưng không.
Thiên Chúa là vị vua cao sang. Ta chỉ là đám tiện dân hèn hạ. Sao Chúa lại mời ta. Theo lẽ thường ở đời người ta chỉ mời những người ngang vai bằng vế. Một bữa tiệc thường có mục đích củng cố uy tín của chủ nhân và ràng buộc khách mời vị vọng để khi hữu sự cần nhờ. Vua Trời mời tiện dân hèn hạ thì có lợi gì. Không những hèn hạ mà còn đui, què, mẻ, sứt nữa. Ta là những hạng rác rưởi của xã hội, chẳng có gì đền đáp cho chủ nhân. Chẳng đem lại một chút vinh dự nào cho chủ nhân. Thế mà Người vẫn mời ta. Rõ ràng là do tình thương của Người. Đó là tình yêu nhưng không. Người không mong ta có gì đền đáp. Người mời ta chỉ vì yêu thương ta mà thôi.
Đó là tình yêu chia sẻ.
Thiên Chúa tràn đầy vinh quang không còn thiếu thốn gì. Tại sao Người còn mời những con người hèn hạ vào Nước Trời làm gì cho thêm bận. Thưa vì Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Người vô biên nên Người khao khát chia sẻ. Người vô cùng tốt lành nên Người muốn thông ban hạnh phúc cho loài người. Tình yêu mãnh liệt khiến người nảy sinh những sáng kiến kỳ diệu. Cho Con Một mặc lấy bản tình loài người để nâng loài người lên. Mời gọi loài người vào hưởng hạnh phúc với Người. Nâng loài người hèn hạ lên bậc thượng khách trong tiệc cưới. Nâng loài người tôi tớ lên hàng con cái trong Nước Trời. Đưa nhân loại bơ vơ đầu đường xó chợ vào ngồi đồng bàn với hàng thần thánh trên trời.
Chẳng có gì có thể giải thích được thái độ của Thiên Chúa. Chỉ có tình yêu. Đó là một tình yêu vô cùng mãnh liệt và hoàn toàn vô vị lợi. Tình yêu muốn chia sẻ hết những gì mình có. Tình yêu hoàn toàn vì người mình yêu. Mong muốn mọi sự tốt đẹp cho người mình yêu.
Tôi phải mặc áo cưới tới dự.
Tình yêu Thiên Chúa tha thiết nhưng vẫn tôn trọng tự do. Trước lời mời gọi của Thiên Chúa, tôi có thể nhận lời hoặc chối từ. Khi dọn tiệc, Chúa mong tôi tới dự. Khi mở rộng cửa trời, Chúa mong tôi bước vào. Khi mời gọi, Chúa mong tôi trả lời. Khi bày tỏ tình yêu, Chúa mong tôi đền đáp. Tuy nhiên, nhận lời đền đáp đòi phải có điều kiện. Đến dự tiệc cưới phải mặc áo cưới.
Mặc áo cưới là mặc lấy nhân phẩm. Được mời vào dự tiệc cưới Con Vua, tôi không còn là phường rác rưởi của xã hội nữa. Tôi đã được Chúa trân trọng. Nâng lên hàng thượng khách, là khách mời của Vua. Mặc áo cưới ở đây là tự trọng, cư xử như người tự do. Chúa đã phục hồi nhân phẩm cho tôi, tôi phải trân trọng giữ gìn.
Mặc áo cưới là mặc lấy tình yêu. Vì yêu thương Chúa đã mời tôi vào chung hưởng hạnh phúc với Người trong tiệc cưới. Đáp lại, tôi phải có tình yêu mến đối với Người. Tình yêu đáp đền tình yêu. Mặc áo cưới là trân trọng tình yêu của Chúa, là muốn đáp lại tình yêu của Chúa.
Mặc áo cưới là mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27). Được ơn cứu độ, ta trở thành em Chúa Kitô, vì thế ta phải noi gương Người mặc lấy tâm tình người con được Cha yêu thương và biết lấy tâm tình hiếu thảo đáp lại tình Cha. Mặc lấy Chúa Kitô cũng là mặc lấy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa công chính và thánh thiện (x. Ep 4,24).
Thiên Chúa yêu thương mời gọi ta vào hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đáp lại, ta phải đổi mới đời sống cho phù hợp với Nước Chúa, với tình yêu của Chúa và với địa vị mới của ta.
Lạy Chúa, xin cho con biết mạnh dạn đáp lại lời Chúa mời gọi.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hằng ngày Chúa vẫn mời gọi tôi đến dự tiệc Thánh Thể, tôi có mau mắn đáp lời hay tôi thường từ chối?
2) Mặc áo cưới là theo Chúa quyết liệt, không nửa vời tôi theo đạo nhưng tôi có thực hành Lời Chúa không?
3) Bạn phải làm những gì để được coi là “mặc áo cưới”?

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Thiên Chúa chúng ta chỉ toàn đưa ra những cấm đoán", một bạn trẻ đã bực bội nói như vậy khi anh nhớ lại nền giáo dục mình phải chịu.
Thật ra Thiên Chúa không phải là người khắt khe. Ngài mời chúng ta đến dự tiệc vui, tiệc cưới. Ngài thích chia sẻ niềm vui và sự sống cho con người. Ngài cần con người đáp lại lời mời đó, để sự hiệp thông giữa đôi bên được trọn vẹn.
Có ai nếm được nỗi chờ mong của Thiên Chúa không khi khách mời không chịu đến?
Có ai nếm được nỗi đau của Thiên Chúa không khi con người hờ hững trước bữa tiệc mà Ngài đã đặt vào đó cả lòng mình?
Tôi có trăm ngàn lý do để từ chối lời mời: Chuyện làm ăn, chuyện học hành, chuyện gia đình, bè bạn, chuyện giải trí, chuyện lo cho sự nghiệp tương lai... Tôi có nhiều thứ ưu tiên khác nên việc đến gặp gỡ Thiên Chúa bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
Biết bao lần chúng ta lỡ hẹn với Ngài, từ chối niềm vui và sự sống đích thực để chạy theo những cái bóng. Nhưng Thiên Chúa vẫn cứ sai người đi mời. Bàn tiệc lúc nào cũng sẵn sàng.
Vấn đề là tôi có đến không, tôi có đặt Chúa lên trên những bận tâm về mình không?
Dân tộc Do Thái chính thức được mời dự tiệc. Thiên Chúa đă sai đến với dân Ngài yêu mến những ngôn sứ và những nhà rao giảng Tin Mừng. Nhưng họ đã khước từ và một số bị giết đi. Bữa tiệc linh đình vốn dành cho khách quý nay trở thành bữa tiệc cho mọi người mà các đầy tớ tình cờ gặp ngoài đường phố. "Từ phương đông, phương tây, nhiều người sẽ dự tiệc cùng các tổ phụ Abraham, Isaác và Giacóp..."
Chúng ta là dân ngoại, được mời vào phòng tiệc, được gia nhập Hội Thánh qua phép Rửa.
Có người đã vào phòng tiệc mà vẫn bị mời ra, vì không mang y phục lễ cưới. Có người theo đạo mà vẫn không được vào Nước Trời vì họ đánh mất tấm áo trắng ngày Rửa tội.
Chúng ta phải coi chừng kẻo lại rơi vào sự tự mãn như người Do Thái. Được làm con cái Chúa, được sống trong Hội Thánh đó không phải chỉ là những ơn để nhận, mà còn là ơn để sống.
Mặc y phục lễ cưới là thực sự đổi đời, là cho thấy mình coi trọng bữa tiệc của Chúa. Chúng ta phải thường xuyên tự hỏi mình có mặc y phục lễ cưới không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa mời chúng ta chung hưởng hạnh phúc với Ngài, nhưng chúng ta luôn có lý do để từ chối lời mời đó. Bạn nghĩ gì về chỗ đứng của Chúa trong đời bạn?
Có những Kitô hữu bị loại khỏi Nước Trời và sa hoả ngục. Bạn tin có hỏa ngục không? Bạn có sợ hỏa ngục không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết con, xin cho con biết Chúa. Xin cho con chỉ khao khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa. Xin cho con biết tự hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa. Ước gì con biết hãm mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con, để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con, để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan Chúa đời đời. Amen (Thánh Âu-Tinh).

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Dụ ngôn tiệc cưới theo như Matthêu viết gồm có hai phần tách biệt rõ ràng. Phần thứ nhất kể viêc thay thế những khách không đến bằng những người nghèo. Phần thứ nhì không liên lạc được với phần thứ nhất, nên có thể tự hỏi có phải nó dùng kết luận một dụ ngôn khác thánh Matthêu tường thuật chăng? Phần ấy thuật lại việc mỗi người dự tiệc bất kính. Việc thay cho kẻ được mời bằng những người gặp ngoài đường báo trước việc các dân ngoại được vào vương quốc của Đấng Thiên sai thế chỗ dân Do thái đã bị các ký lục của họ lôi kéo về những viễn tượng khác nên đã không chịu vào. Các bài đọc của những Chúa nhật vừa rồi đã bàn đến đề tài này. Chúng ta hãy dừng lại ở dụ ngôn tóm tắt về người dự tiệc vô lễ. Phong tục thời ấy coi như thô lậu sỉ nhục việc vào dự một bữa tiệc cưới mà không mặc y phục xứng hợp. Trong dụ ngôn này chúng ta gặp lại ý tưởng chuẩn bị và tỉnh thức mà những ai chờ đợi vào Nước trời phải có, hãy nhớ lại dụ ngôn 10 trinh nữ; 5 cô bị loại, 5 cô được nhận. Có lẽ truyện người dự tiệc bị loại thuộc một dụ ngôn không thuật lại ở đây trong đó có thể Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tự chuẩn bị để được nhận vào đoàn thể các bạn hữu Thiên Chúa. Việc chuẩn bị ấy gồm hai khía cạnh: một khía cạnh tiêu cực từ bỏ, một khía cạnh tích cực bác ái.
1) Từ bỏ. Khi sửa soạn mặc áo dự hội, người khởi đầu bằng việc tắm rửa sạch sẽ. Sự sạch sẽ cần thiết để vào Nước Thiên Chúa đòi hỏi nỗ lực luân lý tẩy rửa khỏi những gì làm dơ bẩn tinh thần và tấm lòng. Các tiên tri thường nhấn mạnh đến sự cần thiết phải thanh tẩy tâm hồn để được đến gần Thiên Chúa. Các ngươi hãy tắm rửa, hãy tự thanh tẩy, hãy cất những hành động gian tà của các ngươi khỏi mắt Ta, hãy thôi làm điều dữ, hãy tìm kiếm sự công chính, hãy cứu giúp kẻ bị áp bức, hãy bênh đỡ kẻ mồ côi, hãy biện hộ cho người góa bụa (Is 1, 16-17). Ngày nay có một bữa tiệc thiêng liêng tối hậu, Lễ Tế Tạ Ơn. Phaolô viết cho tín hữu Cô-rin-tô dạy: ai ăn và uống bất xứng Mình và Máu Đức Kitô, tức là ăn và uống chính án phạt mình. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nói với một nhóm người hành hương ngày 9 tháng 6 năm 1971: “Phải có tâm hồn trong sạch- phải tìm lại được ân sủng bằng lòng thống hối và bằng bí tích phục hồi nếu cần, trước khi đến nhận cái hôn của Đức Kitô. Ngày nay có nhiều người mưu định miễn cho tín hữu việc chuẩn bị ấy. Nhưng họ có còn tin không, những người bỏ qua việc chuẩn bị ấy?”.
2) Bác ái. Một truyền thống bắt nguồn từ những thế kỷ đầu của GH, coi áo cưới như biểu hiệu của đức bác ái. Đức bác ái bao gồm hai động tác của tâm hồn, hướng về Thiên Chúa và hướng về người lân cận, cả hai tạo thành một thực tại siêu nhiên duy nhất. Người ta đã ví đức bác ái như một tấm vải. Có những khung dệt đặt một loại chỉ theo chiều ngang, một loại chỉ khác luồn theo chiều thẳng. Có đường canh và đường cửi của thợ dệt. Áo cưới cũng vậy, được dệt bằng hai chuyển động của tâm hồn, một dọc nghĩa là hướng về Thiên Chúa, một ngang nghĩa là hướng về loài người. Việc se kết sống động và không ngừng nghỉ của hai chiều hướng tình yêu ấy dệt nên tấm áo lễ hội xứng hợp với tiệc Thiên Chúa. Về điểm này không ai có thể viện cớ túng thiếu như cách một người nghèo có thể phân trần không có một bộ áo đẹp. Áo bác ái đòi buộc hết mọi Kitô hữu đều có bổn phận và khả năng dệt nên áo ấy.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Có vẻ như Chúa Giêsu không bao giờ từ chối một cuộc mời ăn tối, không có vấn đề người chủ đó là ai hay ai sẽ là những thực khách ở đó. Vào thời ấy, Người đã bị không ít phiền phức với những người công chính đương thời, họ bị sốc “khi Chúa tiếp đón những người tội lỗi và ăn uống với họ”. Có thể Chúa Giêsu chấp nhận cuộc mời ăn tối bởi vì Chúa là một người rao giảng lưu động, rày đây mai đó như chính Người đã thú nhận là nhiều lần, Người đã không có ngay cả một cục đá để tựa đầu nữa. Người sẵn sàng sự phần vào một bữa ăn ngon.
Sâu xa hơn là Chúa Giêsu Giêsu đã nhìn thấy bữa ăn trong kinh nghiệm của con người nhân loại là một biểu tưởng sự hiệp nhất chúng ta với Người và Cha Người trên thiên đàng, chúng ta sẽ trở nên một nhờ Chúa Thánh Thần, sự liên kết tình yêu. Đó là lý do vì sao người ám chỉ Nước Trời giống như một bữa tiệc cưới. Niềm vui và tình bạn bè, ngày lễ và tiệc mừng là những đặc tính của một bữa tối long trọng dành cho đôi bạn mới nối kết với nhau bằng sợi dây hôn nhân, là một hình ảnh không bao giờ tàn úa của những điều kỳ thú nơi Thiên đàng.
Vì sao những thực khách được mời trong dụ ngôn lại từ chối lời mời đến dự tiệc, một lời mời của một bậc vị vọng như là một vị vua? Dụ ngôn muốn ám chỉ đến những người chống đối Chúa Giêsu, những người đã bị sốc khi thấy Người thân mật với những người thu thuế và những người tôi lỗi. Trong sự tự kiêu giả dối của họ, họ không muốn Chúa Giêsu là Đấng Cứu Chuộc của họ chút nào. Thật ra họ đang âm mưu giết Người và khi đứng dưới chân thập giá chỉ để cười nhạo Người.
Một số ít biết tình yêu của Chúa Giêsu rất lớn lao, Người đã chết vì họ cũng như Người đã chết vì mẹ Người và các môn đệ của Người. Chúa Giêsu giang rộng đôi tay trên thánh giá là để tiếp đón hết thảy mọi người sẽ đến với Người trong đức tin và sự khiêm nhường. Thật ra, trên thánh giá mọi sự đã được biểu hiện bằng bữa tiệc cưới đã viên mãn.
Thánh giá cũng có nghĩa là sự giảng hoà của chúng ta với Thiên Chúa. Một cách nào đó thì nòi giống nhân loại giống như một người vợ bỏ chồng mà đi theo trai vậy, cô ta đã quên đi tình yêu thuở ban đầu mà họ đã cùng sống với nhau. Ly dị đã củng cố sự cách biệt. Chúa Giêsu đã can thiệp vào hoàn cảnh đáng buồn của chúng ta. Người được Cha Người sai đến để tìm lại cô dâu của mình. Bằng cái chết, Chúa Giêsu đã xé đi cái quyết định ly dị và bằng chính Máu của Mình, Chúa Giêsu đã viết và ký tên một bản hôn ước mới xác thực và vĩnh cửu, giao ước đã được đóng dấu sự hợp nhất của hôn nhân giữa Thiên Chúa và dân Người (hình ảnh minh hoạ này của tiên tri Hôsê, ngài đã trình bày Thiên Chúa như người chồng và dân Người như người vợ).
Giao ước hôn nhân mới và vĩnh cửu này được cử hành trong một bữa tiệc cưới cao cả, đó là hy tế Thánh Thể. Bữa tiệc cưới được cử hành một lần duy nhất, ngay lập tức sau khi cuộc hôn nhân vừa diễn ra. Nhưng sự hợp nhất của chúng ta với Thiên Chúa cũng quan trọng như vậy mỗi khi chúng ta đến nhà thờ tham dự thánh lễ. Chúng ta hiện diện nơi đây là vì chúng ta chấp nhận chứ không loại bỏ lời mời của Thiên Chúa.
Đừng để cho chúng ta bị sai lầm. Chúng ta hiểu rằng trong khi tìm kiếm tình yêu và hạnh phúc là chúng ta tìm kiếm Thiên Chúa. Trong lúc cử hành hy tế Thánh Thể, chúng ta sẽ vui mừng và sung sướng vì Chúa Giêsu đã cứu độ chúng ta, rằng Người đã đến để dắt chúng ta đến với Cha Người. Khi thời gian chúng ta ở trên thế gian này chấm dứt, Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta đến sống nơi nhà của Cha Người cho đến muôn đời. Ở đó chúng ta sẽ tiếp tục bữa tiệc cưới vĩ đại, bữa tiệc đời đời cho tình yêu hợp nhất của chúng ta với Thiên Chúa trên Nước trời. (Có vẻ tốt hơn khi dùng hình thức của Phúc âm, từ khi nhiều nhà thông thái nói rằng câu chuyện người không có trang phục áo cưới là một dụ ngôn riêng biệt).

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một trong những đám cưới được xem là vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại đó là đám cưới của Alexandre Đại đế với công chúa Roxane của Ba Tư vào thế kỷ thứ tư trước công nguyên.
Khi quyết định cưới một người Á Châu, dĩ nhiên, Alexandre theo tiếng gọi của con tim. Nhưng qua cuộc hôn nhân này, ông muốn biểu tỏ ý muốn thống nhất tất cả lãnh thổ đã được chinh phục từ Đông sang Tây. Ông cũng hy vọng có được một người con nối dõi với hai dòng máu Đông Tây để thống nhất hai phần đất của địa cầu.
Đám cưới được cử hành trong vòng bảy ngày, bảy đêm. Nơi nơi đều có yến tiệc. Và để tăng thêm phần long trọng, Alexandre đã cho tổ chức những cuộc tranh tài thể thao: Thế vận hội đã được khai sinh từ đó. Chính Đại đế là người đích thân trao giải thưởng cho những người thắng cuộc. Thông thường Hoàng đế trao tặng những chiếc cúp bằng vàng. Nhưng người được coi là đoạt nhiều giải nhất trong cuộc thi thế vận hội đầu tiên ấy chỉ nhận được một cành lá chiến thắng. Alexandre Đại đế giải thích như sau: Chỉ có vinh quang mới có thể tưởng thưởng được người xuất sắc nhất.
Thưa anh chị em,
Có một hôn lễ còn vĩ đại gấp bội so với hôn lễ của Alexandre Đại đế với Công chúa Roxane: đó là hôn lễ của Trời và Đất, của Thiên Chúa với nhân loại. Đây là hôn nhân mà loài người đã chờ đợi từ khi có mặt trên trái đất. Hôn lễ ấy đã diễn ra qua biến cố Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tất cả nhân loại đều được mời đến dự tiệc cưới vĩ đại này. Trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã sánh ví tiệc cưới nầy với tiệc cưới của một nhà Vua tổ chức cho Hoàng Tử. Chỉ có một điều khác biệt là những khách được mời -những khách quý đầu tiên- đã tỏ ra hết sức khinh thường và hung dữ đối với các sứ giả của Nhà Vua. Họ không những đã chối lời mời mà còn nhục mạ và sát hại những người được Nhà Vua phái tới.
Bài học mà Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho thính giả thời của Ngài, tức là Dân Israel, một dân tộc ngay từ đầu đã được Thiên Chúa mời gọi làm dân tuyển chọn của Ngài- làm những người khách mời đặc biệt vào dự Tiệc Nước Chúa- Nhưng đến khi Chúa Giêsu đến loan báo ngày mở tiệc và mời gọi họ thì họ lại từ chối. Vì thế, các khách được mời đầu tiên này sẽ được thay thế bằng bất cứ ai- người tốt cũng như kẻ xấu- gặp được ở các ngã đường. Dân Israel đã từ chối lời mời gọi gia nhập Nước Chúa sẽ được thay thế bằng lời các dân tộc khác, cả những người ngoại giáo và tội lỗi, những người thu thuế và các cô gái điếm.
Anh chị em thân mến,
Dụ ngôn tiệc cưới hoàng gia mà Chúa Giêsu đã kể lại luôn có giá trị đối với thính giả ngày xưa cũng như ngày nay. Là Kitô hữu, chúng ta là những khách được mời dự tiệc Nước Trời. Thiên Chúa là Đấng đã mời gọi chúng ta “do lòng từ bi của Ngài, chứ không do công trạng nào của chúng ta”. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta một điều kiện- cũng là vinh dự của chúng ta là con người có lý trí và tự do- đó là đáp trả lời mời gọi yêu thương quảng đại của Ngài.
Trong các khách được mời dự tiệc cưới, chúng ta là những khách được mời cuối cùng để thay thế vào chỗ những khách đặc biệt được mời từ đầu mà đã chối lời mời của Chúa. Qua các thời đại, Thiên Chúa vẫn sai các sứ giả của Ngài đi qua mọi nẻo đường thế giới, mời gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt hay xấu. Thiên Chúa không loại bỏ ai, chính chúng ta tự loại mình. Nhưng không phải cứ vào phòng tiệc là được dự tiệc đâu, còn cần phải có áo cưới nữa, nếu không sẽ bị tống cổ ra ngoài. Nói cách khác, không phải cứ ghi tên vào sổ Rửa Tội, là người Công Giáo, là người có đạo, là được vào Nước Trời đâu. Cần phải sống đời sống kitô hữu, phải tin, yêu và theo Chúa Kitô nữa.
Dụ ngôn cho thấy, cuối cùng phòng tiệc đầy khách, gồm đủ hạng người. Cũng thế, Giáo Hội ngày càng đông, gồm đủ mọi dân tộc trên thế giới. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương người có tội và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh. Nhưng dù sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi có một ước muốn trở lại chân thật, “một chiếc áo trắng Rửa Tội”, “mặc lấy con người mới, được Thiên Chúa tạo dựng và tái sinh trong công chính và thánh thiện”.
Phải, thưa anh chị em, Giáo Hội là một “Bữa Tiệc của người tội lỗi”, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến. Tình thương đòi hỏi tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.
Anh chị em thân mến,
Thánh lễ là một bữa tiệc của Chúa. Giáo Hội là tập thể những người được mời dự tiệc, không phân biệt giai cấp giàu nghèo, màu da, ngôn ngữ. Lời Chúa và Mình Thánh Chúa là những món ăn “có chất lượng”. Áo cưới trong trắng Chúa đã ban cho chúng ta trong bí tích Rửa Tội và Giải Tội là điều kiện xứng đáng dự Tiệc Thánh này. Và Tiệc Thánh hôm nay bảo đảm cho việc dự tiệc cưới trong Nước Trời mai sau.

Thiên Chúa là vị Vua đầy quyền năng, Ngài có thể làm được mọi sự theo ý Ngài muốn. Tuy nhiên, Ngài đã ban sự tự do cho con người để con người chọn điều tốt, làm điều lành hầu xứng đáng với phần thưởng đời đời Chúa ban.
Khi được tự do chọn lựa, con người có thể có xu hướng chọn những cái thấy được trước mắt, coi trọng vật chất hơn những ơn thiêng liêng Chúa ban, không biết thờ phượng Chúa cho phải đạo. Dụ ngôn tiệc cưới này đã nhắc nhở chúng ta biết chọn lựa đúng đắn. Thực tế cho thấy có rất nhiều người từ chối lời mời của Chúa, họ phủ nhận Thiên Chúa những vì mãi lo việc vật chất phần đời mà bỏ quên Thiên Chúa. Những khách được mời trong dụ ngôn này đã không chịu đến, sai người đến nhắc cũng không đến, Vua lại sai nhiều người khác đến mời mọc, họ cũng không đến, lại còn đối xử tệ bạc với những đầy tớ của Vua! Thật là quá lắm!
Ông chủ trong dụ ngôn thật là tốt bụng, ông kiên nhẫn với nhóm khách được mời, tạo cơ hội cho họ đến nhưng họ cứ khăng khăng từ chối: vua lại sai các đầy tớ khác... nhưng lần này họ còn ra mặt chống đối, đánh đứa này, giết đứa kia. Chúa Giêsu kể dụ ngôn này có ý ám chỉ đến những người Do thái, họ đã được các tiên tri kêu gọi, nhắc nhở, loan báo và chuẩn bị cho việc đón nhận Chúa Cứu Thế. Thế nhưng, khi Chúa Cứu Thế đến thì họ lại từ chối và còn đối xử cách bất công nữa.... Nghe dụ ngôn chúng ta thấy bất bình với những người được chủ mời dự tiệc này, nhưng có khi nào chúng ta cũng giống như họ chăng! Tiệc của hoàng tử mà chúng ta lo là, không lo sửa soạn sẵn sàng mà lại lo tìm những thú vui giả trá chóng qua!
Thiên Chúa quá nhân từ khi đối xử với con người, Ngài có quyền nhưng cứ nhân từ, nhẫn nại, không ép buộc mà chỉ mời; còn con người lại không biết nghĩ đến Chúa, cứ một lo chuyện đời theo ý riêng. Sẽ có lúc Chúa phải xét xử công bằng với chúng ta. Ngài không để sự dữ hoành hành mãi được. Lúc đó, không ai thoát khỏi kết quả mình làm lúc còn trên dương thế. Tội của những kẻ chối từ lời mời gọi của Thiên Chúa trầm trọng lắm vì đã không tin vào Đức Kitô, Đấng vì họ mà đến trong thế gian. Chúng ta không chống đối Thiên Chúa nhưng chúng ta hay chối từ lời mời gọi của Chúa trong Giáo hội, không tuân giữ lời Chúa dạy trong Kinh thánh, chưa nghe theo lời khuyên của những người Chúa chọn, chúng ta có thể sẽ bị chúa trách cứ về điểm này.
Giáo hội trần thế hôm nay còn có người lành kẻ dữ lẫn lộn. Thiên Chúa kêu gọi tất cả hãy đến với Người, mặc lấy tâm tình xứng hợp để được vào Nước Trời. Những ai hoán cải và giữ lời Chúa dạy, làm việc lành thì giống như người có mặc áo cưới, có tâm tình và diện mạo xứng hợp để vào dự tiệc cưới. Bao lâu chúng ta duy trì đời sống công chính, gia tăng những việc lành thì chúng ta đang khoác cho mình chiếc áo cưới sẵn sàng chờ Chúa gọi.
Bữa tiệc Thánh Thể vẫn được lặp lại hàng ngày trong Thánh lễ, ai muốn tham dự phải mặc áo ân sủng Chúa và sống theo Tin Mừng. Để đi vào Nước Trời, chúng ta phải giặt áo mình trong máu Con Chiên, phải mặc lấy Chúa Kitô và thể hiện ra bên ngoài bằng đời sống tốt đẹp hơn, bác ái, quảng đại hơn... (x. Ep 4, 24).
Lạy Chúa Giêsu, con xin cám tạ Chúa đã kêu gọi con vào nhà chúa, con sẽ cố gắng đáp trả tiếng Chúa và dùng những khả năng Chúa ban để phục vụ cho Nước Chúa mau trị đến trong các tâm hồn.

Hầu như ai trong chúng ta cũng có lần tham dự tiệc. Hoặc là do chính gia đình mình tổ chức hoặc là do người thân quen tổ chức mời tham dự. Tiệc có thịt và rượu là món chính, ngoài ra còn những món phụ khác làm cho bữa tiệc thêm thịnh soạn. Cũng có thể là món phòng trường hợp có thực khách thích rau hơn thịt, cá. Có bữa tiệc không có thịt cũng chẳng cá được gọi một tên đặc biệt là tiệc chay. Dù tiệc mặn hay chay vấn đề tổ chức, thiệp mời cũng đòi hỏi nhiều công sức. Nếu không cẩn thận sẽ quên việc này, sót việc nọ làm cho việc tổ chức thành luộm thuộm, vá víu và hậu quả là niềm vui giảm, lo lắng tăng và bất bình, cãi vã, đổ thừa là điều ắt phải có.
Tiệc mừng thường đi sau tin vui để đón tin vui. Tin vui dù lớn hay nhỏ đều quan trọng, cần thiết trong cuộc sống. Tin vui được coi là một phần trong cuộc sống, là ước vọng làm cho cuộc sống thêm hạnh phúc, ý vị. Tổ chức tiệc to nhỏ lệ thuộc vào niềm vui lớn nhỏ và hoàn cảnh tài chánh gia đình. Tùy theo cách mời mà thực khách đoán biết tầm mức quan trọng khi được mời. Mời qua điện thoại, mời lúc gặp ngoài đầu đường, cuối thôn, gặp nhau mời tới cho thêm vui. Mời có danh thiếp là tiệc mời quan trọng, trịnh trọng nhất. Theo phong cách đó người được mời dự tiệc nếu không là thân nhân thì cũng là người quen của gia đình. Vì thế vui mừng chấp thuận hay từ chối lời mời đều có ý nghĩa, nguyên nhân riêng của nó. Có nhiều lí do khách từ chối tham dự tiệc như cách trở ngàn trùng, giấy phép xuất nhập cảnh, sức khoẻ hay ngay cả hoàn cảnh tài chánh gia đình không cho phép và cũng có khi vì công ăn việc làm.
Dụ ngôn nhà vua tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử (Mat 22,1-14) bị các thực khách từ chối tham dự mang một ý nghĩa đặc biệt. Thứ nhất không phải một người mà nhiều người cùng từ chối. Thứ hai lí do đưa ra rất chung chung, bận công ăn việc làm. Thử hỏi mấy ai không bận công ăn việc làm. Thứ ba thiệp gởi mời trước ngày khai tiệc để khách có giờ chuẩn bị. Thứ tư đây là tiệc cưới hoàng gia, đúng ra phải hãnh diện, vui mừng mới phải. Thực khách lại chối từ không tham dự. Tệ hơn nữa còn xỉ vả, giết chết gia nhân hoàng tộc. Quả là hành động khiêu khích. Giết người vô tội trở thành kẻ có tội. Lí do khách vin vào từ chối là hành động phản kháng nhà vua. Hoàng tử chỉ là nạn nhân của phản kháng và gia nhân bị giết là vật tế thần của khiêu khích. Đối với thứ dân từ chối tham dự tiệc cưới của gia đình là hình thức phản kháng cho biết chưa thân thiết mấy, tình bạn còn lỏng lẻo nên coi nhẹ lời mời, không quan tâm, liệt vào ưu tiên hàng đầu.
Khách dự tiệc cũng cần chuẩn bị chu đáo vừa cho mình vừa khỏi làm mất mặt chủ tiệc. Một người tham dự tiệc cưới mà mà mặc áo công nhân đi dự sẽ lạc lõng. Dù không ai nói gì, mọi người nhìn vào cách ăn mặc lập dị đó cũng đủ cho chủ tiệc buồn. Như thế tham dự tiệc vui đã không chia vui, mang lại niềm vui; trái lại mang đến nỗi buồn, nỗi lo cho chủ tiệc.
Nước trời thường được ví như ngày hội vui, tiệc cưới. Tiệc thiên quốc do Chúa các đạo binh thiết đãi. Là ngày vui mừng hoan hỉ vì không còn tiếng rên xiết, không còn than van. Vui vì sự chết bị tiêu diệt. Ngày người ta không chôn xác người mà chôn chiếc khăn tang, vùi sâu vào lòng đất vì không bao giờ cần đến nó nữa. Nước trời được ví như tiệc cưới. Khách mời nằm trong danh sách chọn lựa. Không phải mời cách trống không, chung chung mà sai gia nhân đi mời. Tới ngày chủ còn sai gia nhân nhóm đi nhắc nhở khách, nhóm nhắc lại lời mời. Khách được mời không đáp nghĩa. Họ cũng không chuẩn bị để dự tiệc và cũng chẳng sẵn sàng. Trái lại còn chê trách, phản kháng lời mời gọi.
Nghĩ người rồi nghĩ đến ta. Tiệc Thánh Thể chính là hình ảnh tiệc cưới nước trời. Mỗi Kitô hữu hãy thành tâm nhìn lại thái độ, hình thức, phong cách chúng ta chuẩn bị tâm hồn, trong ngoài khi tham dự thánh lễ. Tham dự với tâm hồn sốt sắng, thành tâm, yêu mến. Trái lại tham dự có tính cách hời hợt, làm cho có lệ, cho xong tránh tội. Đến trễ về sớm, đứng ngoài sân ngó vào, vừa nói chuyện vừa tham dự thánh lễ. Tất cả những tâm tình thái độ trên cách nào đó bộc lộ nội tâm và tâm tình tham dự tiệc cưới nước trời. Coi thường bí tích Thánh Thể có khác chi nhóm thực khách được nhà vua mời tham dự tiệc cưới, họ đã không đi còn viện lí do bài bác, phê bình, chê trách.
Chúng ta hãy xin ơn biết yêu mến, quí trọng Bí Tích Thánh Thể.

Mỗi thánh lễ nhắc lại dụ ngôn của sự mời gọi này: ”Phúc cho những người dược mời tới dự tiệc của Chúa!”. Nhưng Matthêu nhà đạo đức nhanh chón báo động với chúng ta: Khốn thay kẻ từ chối lời mời và khốn thay kẻ nào đến mà không cố gắng để làm cho mình xứng đáng dự tiệc.
Dầu sao tôi cũng muốn ở giây lát trong niềm vui trong sáng. “Nước Trời giống như một ông vua dọn tiệc cưới cho con trai mình”. Khi nói điều ấy, Chúa Giêsu thấy được nhiều điều! Chúa Cha và đám đông con người. Và Ngài, Con của vua và là người anh em phổ quát. Ngài là Đấng không chỉ “ở giữa” Chúa Cha và con người mà thôi, nhưng “hướng về Chúa Cha” và “được trao ban cho con người”. Kết hợp Thiên Chúa với nhân loại trong các tiệc cưới lạ lùng. Không có gì vui hơn tiệc cưới. Đừng bao giờ đánh mất cái nhìn về lễ hội vô cùng của Tin Mừng là lễ hội mở tất cả các cửa của Thiên Chuá cho tất cả mọi người.
Chúa Giêsu nhấn mạnh trên sự miệt mài của Chúa Cha để nói với chúng ta: các ngươi hãy đến, tất cả đã sẵn sàng! “Ngài sai các đầy tớ... Ngài lại sai các đầy tớ khác... Ngài nói với các đầy tớ: các ngươi hãy mời tất cả những người mà các ngươi có thể gặp”. Kẻ nào không cảm thấy vui vẻ vì được Thiên Chúa mời thì kẻ ấy không nhận biết Thiên Chúa.
Thế thì tại sao có nhiều người từ chối? Matthêu phác hoạ còn Luca thì xác định những lý do: “Người thì đi ra đồng, kẻ thì lo buôn bán”, Matthêu nói như thế. Còn Luca thì bảo: “Tôi vừa mua một đám ruộng... Tôi vừa mua mấy con bò... Tôi mới cưới vợ”.
Đó là những lý do tuyệt vời, và biết bao Kitô hữu cuối cùng từ chối những lời mời của Thiên Chúa bằng mọi lý do tốt đẹp! Giờ đây dụ ngôn không còn được nói lên cho những người Do thái bị đe doạ là những người ngoại đạo sẽ thay thế họ nữa, dụ ngôn được nói với những Kitô hữu. Trong các bài phỏng vấn về cách thức sống đức tin, những Kitô hữu nói với tôi: “Tôi không hành đạo, tôi không đọc kinh”. Những lý do họ nêu ra đôi khi bi đát, nhưng thường thường tôi nghe gần giống như những từ trong dụ ngôn: “Tôi quá bận bịu vì chuyện này chuyện nọ...”
Bởi vì bạn đang đọc những bài suy niệm này nên bạn không ở trong trường hợp đó, nhưng chúng ta hãy chú ý, Thiên Chúa lúc nào cũng mời gọi.
Chúng ta có thể nghĩ rằng có hai dụ ngôn: dụ ngôn vói về lời mời gọi lớn lao và những lời từ chối, và dụ ngôn người được mời bị loại ra. Thực ra, đây cũng cùng một ý tưởng mời gọi, nhưng sự mời gọi rộng rãi đến nỗi cuối cùng trong phòng tiệc có cả “người tốt lẫn kẻ xấu”. Điều này nhắc lại các dụ ngôn cỏ lùng và lưới cá trong đó Chúa Giêsu muốn chứng tỏ rằng bất cứ những người nào được Thiên Chúa mời gọi cũng sẽ có cơ may trở nên tốt lành.
Ở đây nữa họ cũng phải nỗ lực. Dụ ngôn bắt đầu bằng sự biết ơn đầy kinh ngạc: “Phúc cho những kẻ được Chúa mời dự tiệc!”. Dụ ngôn kết thúc bằng việc trở lại thái độ của người được mời. Chúng ta đang ở trong phòng tiệc, đây chính là Giáo hội, cộng đoàn dự lễ Chúa nhật, tiệc Thánh thể. Cũng không thiếu lời mời gọi chúng ta: “Chúng ta hãy nhìn nhận chúng ta là những kẻ tội lỗi...”. Và trước khi rước lễ: “Lạy Chiên Thiên Chúa, xin thương xót chúng con, xin cho chúng con một bộ đồ cưới”.

Thánh Matthêu trình bày ở đây ba dụ ngôn mà chắc chắn Chúa Giêsu đã nói đến trong những hoàn cảnh khác nhau. Nhưng đúng ra, được quy hợp thành một toàn thể, các dụ ngôn đó giúp khám phá những viễn tượng mới cách phong phú hơn, vì những dụ ngôn đó chứng tỏ lập trường của những nhóm khác biệt đối với nước Thiên Chúa. Nhóm thứ nhất gồm có nhiều hạng người lãnh đạm hờ hững. Thái độ lãnh đạm của họ rất trầm trọng, vì đây là một việc tối hệ, dụ ngôn nói về tiệc cưới của Thái Tử, đó là một cuộc lễ duy nhất chỉ có những ai sang trọng mới được dự. Hơn nữa, lời mời gọi được lập lại nhiều lần biểu thị tính chất bất nhất của khách mời. Thái độ nhửng nhưng hình như là một xúc phạm.
Áp dụng dụ ngôn vào giáo hội, họ là những người đáng lẽ phải hiểu biết ý nghĩa dụ ngôn để cải hóa, nhưng vẫn đứng ngoài như những kẻ không tha thiết gì cả. Thương mại làm họ chú tâm hơn kinh nguyện, dương thế có giá trị hơn Thiên đàng, thời gian có ý vị hơn vĩnh cửu, bản ngã quý hơn Thiên Chúa. Họ không phải là thù địch, cũng không phải là vô thần, cũng không phải là vô tôn giáo. Nhưng họ không có thì giờ, chỉ hoàn toàn bận tâm với những lo âu trần thế.
Rồi sẽ ra sao? Thiên Chúa cũng không chú ý đến họ, để họ bị bỏ rơi và quên lãng. Nếu họ ngoan cố trong tình trạng này, họ sẽ bị kết án vĩnh viễn: “Ta không biết các ngươi. Ngày nay trước nhiệt tình đấu tranh chính trị, trước nhịp độ vội vã của cuộc sống kinh tế, trước cảnh náo động của thế giới, nhóm này hình như quan trọng đặc biệt.
Nhóm thứ hai gồm những người tự xưng là đối thủ. Trong dụ ngôn, đó là những người xử dụng tiệc cưới để nổi loạn và từ chối không theo hoàng vương. Mọi việc đều sôi nổi tạo nên một cuộc tranh chấp đẫm máu và thanh trừng tàn bạo. Áp dụng vào giáo hội, họ là những người vô thần cuồng tín, chiến đấu mạnh mẽ, là những bè phái tự cho là sáng suốt, là những người coi Tôn giáo là một loại thuốc phiện mê dân, coi đức tin như một loại ký sinh trùng bám vào nhân loại; coi luân lý công giáo làm suy giảm ý thức quốc gia, coi Giáo Hội là một chế định do những người đen tối thiết lập để che chở những kẻ trí thức nhỏ bé. Họ chống đối Kitô giáo và Giáo Hội bằng lời nói, bút mực, hay hành động có tổ chức. Khi họ nắm chính quyền họ xử dụng luật pháp, cảnh sát, và trong trường hợp thất bại, họ dùng đến quân đội, thanh toán Kitô giáo: Đó là mục đích họ theo đuổi.
Tuy nhiên, cuộc nổi loạn chống lại Thiên Chúa luôn luôn thất bại thảm khốc. Quan niệm tạp chủng về một siêu nhân loại sẽ gây nên cảnh trụy lạc dưới ảnh hương củ ác quỷ và phi nhân. Khi cả gan chống lại Thiên đàng sẽ bị rơi xuống hỏa ngục.
Nhóm thứ ba, gồm những người bước vào phòng tiệc nhưng không mặc áo cưới. Bên ngoài, họ là những người được mời, nhưng tâm tình bên trong của họ không hòa hợp với hoàn cảnh. Có lẽ họ cũng có áo cưới, nhưng họ coi việc mặc áo vào là vô ích. Phong độ của họ chứng tỏ họ khinh bỉ chủ tiệc. Thuộc về nhóm này còn có những ai thực sự là thành phần của Giáo Hội và tham dự vào đời sống Giáo Hội như những người Công Giáo sùng tín, nhưng mặt khác, họ khinh chê lời các Tông đồ, không mặc lấy Đức Kitô, không thấm nhuần tinh thần của Ngài. Đó là những chi thể chết của nhiệm thể. Họ tha hóa nhiệm thể và bóp méo nhiệm thể. Họ là những cành cây héo úa của Thiên Chúa, những cành cho khô khẳng, là những người Công giáo trong ngày Chúa nhật. Bên ngoài họ có vẻ quen thuộc với tôn giáo, nhưng trong tâm hồn họ vẫn xa lạ với tinh thần Đức Kitô. Trong dụ ngôn, số phận của họ là bị trục xuất khỏi lễ tiệc vì họ đã làm phiền lụy đến buổi tiệc và bóp méo hình ảnh buổi tiệc. Nếu họ cố chấp trong tình trạng của họ, họ sẽ bị Chúa tuyên phạt đời đời.
Sau cùng, nhóm thứ tư gồm những người đã chấp nhận lời mời gọi và rất mực khôn ngoan vì được hạnh phúc bất ngờ. Họ đến từ khắp nơi, dù biết rằng họ không có liên quan gì đến đặc ân này. Họ vô cùng hân hoan. Đó là những người ý thức về ơn sủng. Họ biết rằng, tiếng gọi của Chúa là do lòng thương xót, được ban xuống cho những người xa lạ, những chiên lạc, những tội nhân và những người bất xứng. Nhưng khi đã nghe tiếng gọi đó, họ cố gắng trả lời. Vì thế đời sống của họ là một đại lễ. Họ được tham dự vào tiệc cưới Con chiên. Họ vui sướng như ở Cana, bên những bình đầy rượu cách lạ lùng. Họ sẽ vẫn là những người bạn của quân lang. Tiếng gọi được ban xuống cho nhiều người, nhưng trong số những người đó có những người biệt phái coi mình là những kẻ ưu tuyển rồi lên mặt khoe khoang. Họ chỉ là thiểu số. Ngược lại, trong nước Chúa, cũng có những người tùy thuộc vào một thành phần ưu tuyển luân lý và công giáo, song vẫn không dám giả hình kiêu ngạo, tự mãn với ơn chọn lựa.

Con người không thể sống mà không có niềm vui, bởi vì không có niềm vui, cuộc đời sẽ trở nên nặng nề và u buồn. Khoa học và tiến bộ cũng như tiền tài và vật chất luôn cố gắng đem lại cho con người thời nay thật nhiều niềm vui, thế nhưng những niềm vui ấy không khác gì những cánh phù du, sớm nở chiều tàn, để rồi càng lao mình vào những thú vui trần thế, con người càng cảm thấy thất vọng, chán nản và trống rỗng.
Tuy nhiên, cách đây hơn 2000 năm, có một người đã xác quyết rằng: sứ mạng của mình là một tin mừng, đem lại niềm hạnh phúc. Người ấy chính là Chúa Giêsu. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Ngài đã đưa ra một hình ảnh so sánh để nói lên niềm vui ấy, đó là hình ảnh tiệc cưới.
Nghĩ tới tiệc cưới là chúng ta nghĩ tới niềm vui ồn ào với rượu thịt đầy dẫy, có khi kéo dài tới hai ba ngày. Kitô giáo không phải là một tin buồn, nhưng là một tin mừng và nước trời là những bữa tiệc cưới không ngừng. Kẻ thì từ chối, người thì đáp trả lời mời gọi của Ngài. Lời mời gọi ấy được gửi đến cho mọi người không phân biệt giầu nghèo. Nhưng điều quan trọng đó là họ phải hiểu được rằng, sứ điệp của tin mừng là một sứ điệp đem lại hạnh phúc. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại không muốn hiểu, đối với họ, đạo chỉ là những lằn mức ngăn cấm, mà chúng ta không được phép vượt qua. Nào là phải đi tham dự thánh lễ, phải đi xưng tội, rồi thì không được làm điều nọ điều kia. Có người thì lại nghĩ rằng mình không thể nào sống đạo. Bộ mặt trần gian này sẽ tươi đẹp hơn nếu không có giới răn nọ giới răn kia. Họ tiếc rằng mình đã là Kitô hữu, vì đạo làm thiệt hại đến lợi lộc riêng tư của họ. Đạo là một cái gì buồn thảm với những tiếng thở dài não nuột. Thế nhưng nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy họ mới chỉ biết được mặt trái của đạo. Trong khi đó người tín hữu đích thực lúc nào cũng ngập tràn niềm vui, vì tất cả đều có thể đem lại cho họ sự hân hoan sung sướng.
Chẳng hạn, họ nhìn vào thiên nhiên và họ thấy rằng mình chỉ là một hạt cát, thế nhưng Tin Mừng cho họ biết chính hạt cát vô nghĩa ấy đã được Thiên Chúa yêu thương và chăm sóc, cũng vì hạt cát vô danh ấy mà Thiên Chúa đã từ bỏ trời cao, mang thân phận con người và chịu chết trên thập giá, Ngài đã yêu thương chúng ta đến nỗi đã ban chính Con Một của Ngài cho chúng ta. Phải chăng đó là điều mà chúng ta không dám mơ ước tới.
Chẳng hạn, hãy nhìn vào chính bản thân. Con người chúng ta chỉ là một hạt bụi so với mặt trời, thế nhưng hạt bụi này đã được Thiên Chúa quan phòng an bài sắp xếp như lời Ngài đã phán: Tóc trên đầu các con đã được đếm, và không một sợi nào rơi xuống mà Chúa Cha không biết. Ngài còn dành cho chúng ta cái đặc ân được gọi Ngài là Cha. Phải chăng đó chỉ là một câu chuyện thần tiên hay là một sự thật.
Dưới ánh sáng đức tin thì mỗi ngày sống của chúng ta phải là một ngày lễ lớn, bởi vì từng giây từng phút chúng ta đã nhận lãnh biết bao ơn lành, biết bao quà tặng của Thiên Chúa. Chính trong chiều hướng này mà mỗi ngày Chúa Nhật đều dẫn chúng ta tới đỉnh cao hoan lạc qua việc kết hiệp với Đức Kitô nơi bàn tiệc Thánh thể. Để rồi từ đó, niềm vui được chiếu toả trên toàn bộ cuộc sống của chúng ta.

Mùa xuân năm 1947, cả thế giới chú ý tới hàng tin lớn trên báo chí cho biết: công chúa Êlisabét của nước Anh sẽ đẹp duyên với hoàng tử Philip người Hy Lạp. Cuộc tình duyên này quan trọng, bởi vì công chúa Êlisabét sẽ lên ngôi kế vị vua cha trị vì không những trên vương quốc Anh và bắc Ailen mà còn đứng đầu khối thịnh vượng lớn, gồm trên 50 quốc gia lớn nhỏ như Ấn Độ, Canađa, Úc, Tân tây Lan… Ai cũng tò mò theo dõi lễ cưới lịch sử này. Cuộc lễ được tổ chức ngày 20-11-1947 tại tu viện cổ kính Oét-minh-tơ, nơi chôn cất các bậc vương quân và những nhân vật lớn nước Anh. Người ta không những theo dõi hai nhân vật chính là cô dâu chú rể mà còn chăm chú điểm danh từng nhân vật lớn trên thế giới. Không ai được mời tới dự mà muốn vắng mặt, từ những vị nguyên thủ quốc gia đến các vị thủ tướng và các nhà chính trị, từ những nhà quý tộc đến những nhà tỷ phú. Nói tắt, tất cả những nhân vật quan trọng hàng đầu của nước Anh và nhiều nước trên thế giới đều lấy làm vinh dự được mời và được xuất hiện trong lễ cưới long trọng đó.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng kể một lễ cưới long trọng được tổ chức do một ông vua mở tiệc cưới cho hoàng tử. Câu chuyện tiệc cưới này có cái gì khác thường, từ thực khách cho đến những sự tham dự, và nhất là cách xử sự của chủ tiệc, cho chúng ta thấy có điều gì không bình thường, và đó chính là điều Chúa Giêsu muốn dạy bảo và chúng ta cần tìm hiểu. Trong thực tế có lẽ chẳng có tiệc cưới nào diễn ra như thế. Đúng, đây không phải là một tiệc cưới bình thường mà là tiệc cưới nước trời. Bữa tiệc cưới này là hình ảnh tiệc cưới nước trời mà Thiên Chúa khoản đãi loài người, không phân biệt ai, đều được mời tham dự, chỉ với một điều kiện tối thiểu là mặc áo cưới.
Qua dụ ngôn này Chúa Giêsu đã phác hoạ cho chúng ta thấy các giai đoạn chính của lịch sử cứu chuộc. Từ khi Thiên Chúa gửi đến các ngôn sứ cho đến khi Ngài gửi đến chính Con Một Ngài, nhưng tất cả đều thất bại. Cây thánh giá như chóp đỉnh của lịch sử. Có phải thất bại thật không? Thưa không, qua biến cố phục sinh, lịch sử cứu chuộc vẫn tiếp diễn. Phòng tiệc cưới vẫn rộng mở, mời gọi hết mọi người, mọi dân tộc đến tham dự, làm sao cho đầy phòng tiệc. Không ai có thể từ chối, viện lý do nọ lẽ kia ti tiện, hẹp hòi để khước từ ơn Chúa. Nếu làm như vậy là họ tự chuốc lấy án phạt cho mình.
Quả thực, qua mọi thời đại, Thiên Chúa đã gửi các đầy tớ, các vị thừa sai, đi qua mọi nẻo đường thế giới kêu gọi mọi người vào Giáo Hội. Bất cứ họ là ai, tốt xấu bất kể, đều được mời tất cả. Thiên Chúa không loại bỏ ai bao giờ, nhưng chính chúng ta tự loại bỏ chính mình, đó là hình ảnh người không mặc áo cưới. Chúng ta cần hiểu rằng: Giáo Hội đón nhận tất cả mọi người, nhưng Giáo Hội không phải là một quán cơm bình dân, nên cũng đòi hỏi một chút điều kiện tối thiểu nào đó. Nói cách khác, đành rằng Thiên Chúa rất thương kẻ có tội, và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là thánh nhân, nhưng dầu sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi một điều kiện tối thiểu nào đó.
Y phục lễ cưới ở đây chính là điều kiện tối thiểu để được dự tiệc cưới trong nước Thiên Chúa. Theo ý kiến của một số giáo phụ, chiếc áo cưới ám chỉ đức ái, tối thiểu là cuộc sống ăn ngay ở lành. Còn theo ý kiến của các nhà chú giải Kinh Thánh hiện đại, thì chiếc áo cưới ám chỉ sự hoán cải hay sự trở về, tức là tinh thần sám hối chân thật. Nội dung của dụ ngôn cho thấy rõ điều đó: tất cả những người xấu và cả những người tốt đã được gọi vào dự tiệc. Vì lòng thương bao la của nhà vua, những người xấu này đã tỏ ra dấu hoán cải thật sự hay đã thi hành những công việc cụ thể do đức ái đòi hỏi. Chính vì thế họ đã thoát khỏi cặp mắt xét xử của nhà vua. Trong khi đó, con người kia đã không thèm để ý gì tới việc cố gắng và còn dám bước vào phòng tiệc mà không mặc áo cưới. Vì vậy, anh ta đã tự chứng tỏ rằng anh ta không xứng đáng tham dự bàn tiệc. Nói ngắn gọn hơn, Giáo Hội là một “bữa tiệc” của người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài đem đến, nên đã hoán cải để nhận được ơn đó. Tóm lại, Thiên Chúa yêu thương con người, nhất là người tội lỗi. Tình thương ấy đòi hỏi một chút tình thương đáp trả mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.
Như vậy, bài Tin Mừng này muốn dạy chúng ta ba điều: Thứ nhất, cho chúng ta thấy tính phổ quát của ơn cứu độ, bao gồm tất cả mọi người, ai cũng được mời gọi đón nhận ơn cứu độ, nhất là những người tội lỗi. Tất cả đều do sáng kiến nhân từ của Thiên Chúa hay thương xót. Thứ hai, ơn cứu độ Thiên Chúa mang đến là nhưng không, nhưng vẫn có điều kiện, là phải thống hối, ăn năn, hoán cải, phục thiện. Nói cách khác, Thiên Chúa yêu thương con người, nhất là người tội lỗi. Tình thương ấy đòi hỏi một chút tình thương đáp trả, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương. Thứ ba, chúng ta phải cố gắng không những vào số những người được gọi, mà còn phải vào số những người được chọn nữa, bởi vì gọi thì nhiều, chọn thì ít. Được rửa tội không có nghĩa là đã được cứu rỗi không cần phải làm gì nữa. Cũng thế, vào Giáo Hội của Chúa Kitô cũng không đương nhiên vào thẳng nước trời, mà còn phải tỉnh thức, phải ra sức lập công và bền đỗ đến cùng mới được cứu rỗi.
Bài Tin Mừng làm chúng ta rất phấn khởi: chúng ta biết Thiên Chúa là một người cha thương yêu chúng ta vô cùng, lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn trợ giúp chúng ta. Nhưng chính chúng ta phải đáp lại tình yêu thương đó bằng đời sống tốt đẹp hoặc bằng thái độ chân thành sám hối. Mọi người chúng ta hãy giúp đỡ nhau để cùng nhau sống đẹp lòng Chúa và rồi cùng nhau dự tiệc cưới nước trời vĩnh cửu mai sau.

Phong tục đám cưới của người Do Thái có hai giai đoạn. Lời mời được gửi đi trước, nhưng không nói rõ ngày và giờ của tiệc cưới. Khi chủ nhà chuẩn bị xong, mới sai đầy tớ đi mời khách dự tiệc cưới vào. Những người khách khôn ngoan tắm rửa sạch sẽ, sẵn sàng áo cưới và chờ đợi ngay cửa triều đình, khi có lệnh liền nhập vào tiệc cưới ngay. Những người khách ngu dại nghĩ rằng phải chờ đợi rất lâu mới có tiệc, nên họ vẫn đi lao động ngoài đồng ruộng, nơi lò gốm… Thình lình lệnh vua mời vào dự tiệc cưới, họ chưa sẵn sàng, không mặc áo cưới, nên bị loại ra ngoài phòng tiệc, buồn bã và đói khát.
Một lần nữa Chúa Giêsu dùng dụ ngôn này để tố cáo những người Do Thái là những người khác được mời đến dự tiệc cưới nhưng từ chối. Trải qua bao nhiêu thế hệ, Thiên Chúa đã sai các tiên tri và sứ giả đến mời họ, như dân tộc được tuyển chọn, họ đã từ chối, hành hạ và giết chết các đầy tớ của Thiên Chúa, ngay cả đến Con Thiên Chúa. Vì thế, những người ở ngoài đường sá là dân ngoại và những người tội lỗi đã được mời tham dự vào vương quốc Thiên Chúa.
Ngày xưa, một vị vua kia có bốn người con trai được yêu cầu phải tự chọn lựa nghề nghiệp cho tương lai của mình. Bốn người con mới bàn tính với nhau: “Nào chúng mình hãy đi khắp nơi trong thiên hạ và tìm kiếm lấy một nền khoa học đặc biệt”. Họ đồng ý sẽ gặp lại nhau ở một chỗ nào đó, và bốn anh em bắt đầu ra đi theo bốn hướng khác nhau. Thời gian qua đi, bốn anh em gặp lại nhau ở chỗ đã hẹn để tổng kết điều họ học hỏi được. “Tôi đã làm chủ một nền khoa học”. Người anh cả nói, “khoa học này cho phép tôi có thể làm ra một tạo vật có đầy đủ bắp thịt với điều kiện tôi phải có một miếng xương”. “Tôi”, người thứ hai nói, “học được cách làm ra da và lông nếu đã có các bắp thịt trên xương của nó”. Người thứ ba nói, “Tôi có thể tạo ra chân tay nếu tôi đã có thịt, da và tóc”. Và tôi”, người thứ tư kết luận, “biết cách ban cho tạo vật đó sự sống, nếu nó đã có đầy đủ hình thù tay chân”.
Sau khi bàn tính với nhau, bốn anh em đi vào rừng sâu tìm một miếng xương để có thể chứng tỏ những tài năng chuyên môn của họ. Như số phận đã định, miếng xương họ tìm thấy là miếng xương của một con sư tử, nhưng họ đã không biết. Một người đắp thịt vào xương, người thứ hai thêm da, lông và tóc, người thứ ba hoàn chỉnh với tay chân, và người thứ tư ban cho con sư tử sự sống. Đang khi lúc lắc bộ lông rậm rạp trên gáy, con sư tử hung dữ gầm lên một tiếng, nó chồm lên ngoác to miệng đe doạ với những chiếc răng nanh và móng vuốt nhọn hoắt. Nó nhẩy về phía những nhà sáng tạo, giết chết tất cả, rồi biến mất vào trong rừng.
Bất cứ khi nào chúng ta cố ý sống tách rời ra khỏi Thiên Chúa, chúng ta cũng có thể trở nên nạn nhân của chính những công trình do mình làm ra. Tách biệt ra khỏi Thiên Chúa, sự tự do và những khả năng trí tuệ cho phép con người tạo nên vũ khí hạch nhân, sử dụng quyền hành và của cải trần gian để áp đặt sự thống trị trên những người khác… cũng tiềm ẩn một khả năng tự huỷ diệt con người.
Những người từ chối dự tiệc cưới đã viện dẫn rất nhiều lý do chỉ vì họ không muốn đến. Và những người không muốn tham dự thánh lễ ngày Chúa nhật cũng có rất nhiều lý do để biện minh.
Người Ả Rập có một ngụ ngôn kể về một người sang nhà hàng xóm xin mượn một sợi dây thừng. Người hàng xóm trả lời: “Tôi không thể cho anh mượn được, vì tôi đang dùng nó để cột đống cát”. Về nhà suy nghĩ một lúc, anh trở sang nhà hàng xóm và phân trần: “Nhưng anh không thể nào cột đống cát bằng sợi dây thừng được!” Lúc đó người hàng xóm mới trả lời một cách xảo quyệt rằng “Phải rồi, bạn có thể… làm bất cứ điều gì bằng sợi dây thừng khi bạn không muốn cho người khác mượn!”
Thiên Chúa mời gọi con người đến tham dự tiệc cưới. Tiệc cưới là tiệc vui tươi, chúc mừng tình yêu của cô dâu, chú rể. Chúa Giêsu là chàng rể và Giáo Hội là cô dâu. Thiên Chúa đã mời gọi các Kitô hữu đến bàn tiệc để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài.
Niềm vui đó được trao ban ngay từ đời này và cả đời sau nữa. Kitô giáo không phải là thuốc phiện ru ngủ con người trong đau khổ, quên đi hạnh phúc của cuộc sống ở đời này để chỉ mơ tưởng nước thiên đàng ở đời sau.
Có một huyền thoại kể về một người câu cá tên là Aaron. Aaron sống ở bên bờ sông. Vào một buổi chiều, đang khi đi bộ về nhà, mắt nhắm mắt mở sau một ngày làm việc vất vả, anh mơ tưởng mình sẽ phải làm gì nếu giàu có. Đang khi bước đi, chân anh đá phải một cái túi da, trong lúc lơ mơ, anh nghĩ dường như đó là những hòn sỏi nhỏ. Đãng trí, anh nhặt cái túi lên và bắt đầu ném từng viên sỏi xuống mặt nước sông. “Khi ta giầu có”, anh nói, “Ta sẽ mua một cái nhà thật lớn”. Anh lại ném hòn sỏi khác xuống nước. Ném hết hòn này tới hòn khác rồi anh nghĩ, “Vợ ta và ta sẽ có những người đầy tớ phục vụ, đồ ăn dư giả với tất cả mọi sự sang trọng”. Và cứ như vậy xảy ra cho đến khi chỉ còn lại một hòn sỏi trong tay. Khi Aaron cầm nó trong tay và nhìn xuống, một luồng ánh sáng phát ra lấp lánh. Anh nhận ra rằng đây là một hòn ngọc quý giá. Anh ném xuống nước bao nhiêu viên ngọc quý đã có trong bàn tay, trong khi đó lại mơ tưởng những của cải không có thực ở tương lai.
Niềm vui trong tâm hồn giúp cho con người sống hy vọng và tin tưởng, giữa những khó khăn và khổ đau ở đời này. Bài đọc thứ hai, trích thư thánh Phaolô gửi tín hữu Philipphê: “Trong mọi trường hợp, và hết mọi cách, tôi đã học biết no, biết đói, biết dư thừa và thiếu thốn”. Ngài viết những lời khuyên nhủ này đang khi ở trong nhà tù. Ngài nói: “Trong mọi sự hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa”. “Trong mọi hoàn cảnh hãy tạ ơn Thiên Chúa”.

Trong một đời người chắc chắc ai ai cũng có rất nhiều lần dự tiệc, nào là tiệc cưới, sinh nhật, bổn mạng... nhưng vì tình nghĩa chúng ta cũng rất ít lần bỏ qua. Họa hoằn làm chúng ta mới bỏ qua một lần, nhưng lần đó chỉ là những trường hợp bất khả kháng chúng ta không thể nào đi được. Cho dù buổi tiệc đó có lớn đến đâu, nhân vật quan trọng như thế nào đi nưa thì đó cũng cũng chỉ là buổi tiệc mau tàn, chóng qua. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu cho chúng ta thấy một buổi tiệc vô giá, buổi tiệc quan trọng hơn gấp bội phần buổi tiệc của trần gian nay. Đó chính là buổi tiệc nước trời mà Thiên Chúa giống như vua kia tổ chức tiệc cưới cho hoàng tử. Nước Trời có nghĩa là gia đình Thiên Chúa trên trần gian. Tiệc cưới là bàn đặt lương thực thiêng liêng. Còn mỗi người chúng ta là đầy tớ của vua cao cả. Chúa Kitô là Con của Ngài. Cha trên trời sai chúng ta đi mời mọi người chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng do Giáo hội của Ngài khoản đãi.
Nhưng ai là người chúng ta có thể mời? Thực tế là mọi người. Có nhiều người Công Giáo không bao giờ tham dự những ngày đại phúc, tĩnh tâm hay học hỏi về đạo. Những người công giáo lơ là về đạo ấy, chỉ cần một chút thúc giục để họ bắt đầu quay về với gia đình của Thiên Chúa. Họ hăng say tham gia vào buổi tiệc mà chính Chúa đã dọn, đã mời gọi. Chính khi họ đi dự tiệc họ cũng có thể mời gọi người khác cùng đi
Hơn nữa chúng ta cũng cần nghĩ đến những người bạn chưa hề nghe, chưa hề biết, chưa hề cầm được tấm thiệp mời, đó chính là những người bạn khác niềm tin khác tôn giáo đang tìm kiếm của ăn thiêng liêng. Chúng ta có thể gặp những người khách này ở đâu? Họ có thể là người láng giềng, bạn học, bạn công nhân cả đến những người thân thuộc. Họ có thể là người quen biết trong cuộc chơi, ở tiệm bán hàng, trên xe buýt, ở phòng đợi bác sĩ, bạn đừng giới hạn sự mời đón vào những người gọi là đáng kính. Bạn hãy mời những người thấp kém, vô gia cư, tội lỗi. Như trong Tin Mừng hôm nay, ông vua truyền lệnh: "Hãy ra các ngả đường, mời bất cứ ai bất luận tốt xấu".
Hãy mời họ thường xuyên tới dự thánh lễ, hay những dịp lễ dặc biệt lễ Giáng sinh, viếng máng cỏ, nghi lễ rửa tội, lễ cưới, lễ an táng hay là viếng nhà thờ trong tuần một vài lần...
Nếu có thể, bạn hãy nói trước với cha sở về những người khách ấy. Có lẽ Ngài mong được biết có sự hiện diện của họ, và có một vào người hứơng dẫn cho họ chung quanh nhà thờ. Điều này làm họ cảm thấy được cần đến và giúp sửa được ý niệm sai lầm là người công giáo chúng ta không muốn người ngoài đạo tham dự các lễ nghi.
Giả sử như họ từ chối lời bạn mời, thì bạn cũng đã một trọn bổn phận của bạn, bổn phận của lòng tin và bác ái. Bạn đang cổ động sự hiểu biết giữa những người có niềm tin khác nhau. Bạn đang tỏ ra rằng: đức tin của bạn có một ý nghĩa đối với bạn. Bạn lưu tamâ và ân cần mong muốn người khác chia sẻ bữa tiệc thiêng liêng chúng ta tham dự trong chính giờ này.
Lạy Chúa, chỉ có tình yêu mới đáp trả được tình yêu, chỉ có lòng thành mới mới đáp trả được lời mời gọi thiết tha mà Thiên Chúa đã kêu gọi. Xin cho con biết nhân ra đâu là thánh Ý Chúa để con hăng say đáp trả bằng tình yêu và lòng nhiệt thành. Amen.

Dụ ngôn của các thầy Rabbi mô tả về một vị vua đã tin tưởng trao phó cho các đầy tớ những chiếc áo cưới của triều đình. Những người khôn ngoan nhận lấy, đưa về nhà cất giữ cẩn thận với lòng quý mến. Những người khờ dại mặc nó vào đi lao động, dính bùn đất dơ bẩn. Tới ngày nhà vua ra lệnh thu hồi áo về, những người khôn ngoan trả lại vua với những chiếc áo sạch sẽ và mới tinh được cất giữ trong nhà kho, nhà vua để họ ra về bằng an. Còn những người khờ dại với những chiếc áo dơ bẩn bị bắt bỏ vào ngục tù. Dụ ngôn này dạy con người bài học phải gìn giữ linh hồn tinh tuyền cho đến khi gặp lại Thiên Chúa; nếu linh hồn dơ bẩn sẽ bị Ngài trừng phạt.
Nối kết câu chuyện phải có y phục lễ cưới trong bữa tiệc, Chúa Giêsu đã ngụ ý rằng nhà vua dọn tiệc mời khách và cũng cung cấp cho họ những chiếc áo cưới. Khách dự tiệc đã chấp nhận lời mời, còn phải bắt buộc mặc áo cưới dự tiệc. Ân sủng không phải chỉ là một món quà; nó còn là một trách nhiệm phải được chu toàn. Một người khi đã gặp Đức Kitô, không được sống cuộc đời tội lỗi nữa, phải mặc lấy tinh thần mới, đời sống mới của sự thánh thiện!
Đành rằng “chiếc áo dòng không làm nên thầy tu”, nhưng qua cách ăn mặc cũng chứng tỏ cho người khác thấy phần nào con người của mình. Khi đến thăm gia đình của người bạn với quần áo lịch sự, chứng tỏ rằng chúng ta kính trọng người bạn đó. Khi đến nhà thờ dâng thánh lễ ngày Chúa nhật, các Kitô hữu mặc y phục đẹp đẽ nhất của mình, chứng tỏ chúng ta kính trọng Thiên Chúa, tôn trọng những người chúng ta gặp gỡ trong cộng đoàn, và biểu lộ sự tự trọng đối với chính bản thân mình.
Quần áo bề ngoài xã hội như vậy, nhưng còn y phục của tinh thần và linh hồn nữa. Mỗi lần đến tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng phải mặc lấy y phục phẩm hạnh của bàn tiệc mà Chúa Giêsu đòi hỏi; y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa.
Rất nhiều khi chúng ta đã coi thường bàn tiệc Thánh Thể. Chúng ta đến nhà Chúa với một tâm hồn không chuẩn bị gì, chẳng có tâm tình cầu nguyện, và cũng không chịu lắng nghe lời Chúa. Lời Chúa hôm nay cảnh cáo thái độ khinh thường đó rằng: “Trói chân tay nó lại, ném nó vào nơi khóc lóc nghiến răng! Vì những kẻ được mời gọi thì nhiều, còn những người được chọn thì ít”.

“Gặp bất cứ ai hãy mời vào…”
Qua các bài đọc Chúa nhật hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta tham dự bữa tiệc Nước Trời. Trong Thánh Kinh, nhiều bữa được nhắc đến; như bữa ăn Tổ Phụ Abraham khoản đãi ba người khách lạ dưới lều vải (St 18,1-8), như bữa tiệc người cha già mừng con đi hoang trở về (Lc 15,22-32). Chúa Giêsu đã đi dự đám cưới ở làng Canaan (Ga 2,1-10), Ngài cũng dọn bữa ăn cho các môn đệ sau một đêm lao lực (Ga 21,1-14), cho dân chúng được ăn no từ 5 chiếc bánh và 2 con cá. Tất cả để báo hiệu bữa tiệc Thánh Thể.
Thì, hôm nay, tiên tri Isaia ví Nước Trời như một bữa tiệc mà Chúa khoản đãi mọi dân tộc, nhất là những ai đói khát tự do, công chính. Chúng ta cũng hãy sốt sắng tham dự vào bữa tiệc thánh là LỜI và THÁNH THỂ Chúa, hãy “hân hoan vì Chúa khoản đãi và lau sạch nước mắt trên mọi khuôn mặt”.
Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu lấy lại ý tưởng của hai dụ ngôn của những người tá điền giết người. Chúa nhấn mạnh đến trách nhiệm của những đã nhúng tay vào máu của người con thừa tự, họ sẽ bị tiêu diệt và lời hứa được trao cho người khác. Chúa phác họa lịch sử cứu rỗi qua các giai đoạn chính. Từ khi Thiên Chúa gửi đến cho các tiên tri khi Ngài gửi đến chính Con Một Ngài, nhưng tất cả đều thất bại. Cây thánh giá như chóp đỉnh của lịch sử. Nhưng qua biến cố Phục sinh, lịch sử cứu rỗi vẫn tiếp diễn. phòng tiệc Nước Trời vẫn mở rộng, mời gọi hết mọi người, mọi dân tộc đến tham dự, làm sao cho phòng tiệc phải đầy ắp. Làm sao chúng ta có thể từ chối, viện lý nọ lẽ kia ti tiện hẹp hòi đòi để từ khước ơn Chúa?
Từ đời nọ qua đời kia, Ngài gửi các đầy tớ - các vị thừa sai – đi qua mọi nẻo đường thế giới, kêu gọi mọi người vào phòng tiệc, bất cứ họ là ai, tốt xấu. Thiên Chúa không loại bỏ, nhưng chính chúng ta tự loại bỏ mình.
Nhà vua đi vào bữa tiệc quan sát. Một câu hỏi được đặt ra. Làm sao nhà vua lại thịnh nộ khi đã ra lệnh “gặp bất cứ ai đều mời vào dự tiệc cưới” rồi.
Matthêu nhận thức rằng Giáo Hội càng ngày càng đông. Nhưng Giáo Hội không phải là quán cơm bình dân, ai vào cũng được, không có một chút điều kiện tối thiểu. Đành rằng Chúa rất thương kẻ có tội và Giáo Hội của Ngài đầy tội nhân hơn là vị thánh. Nhưng dẫu sao, muốn vào Giáo Hội, Chúa cũng đòi hỏi có một sự ước muốn trở lại chân thật, một “chiếc áo trắng Rửa tội”, một sự ao ước “mặ lấy Đức Kitô”.
Phải, Giáo Hội là một “bữa tiệc” của người tội lỗi, nhưng là những người tội lỗi tin tưởng vào Chúa Kitô và ơn cứu độ Ngài mang đến. Tình thương đòi hỏi chút tình thương đáp đền, mới xứng đáng dự vào bữa tiệc tình thương.
Charles de Foucauld (1858-1961) là một sĩ quan phóng khoáng, 12 năm không tin tưởng gì cả. Một hôm gặp một Linh mục, cha Huvelin, quen với gia đình. Foucauld nói với cha: “Từ ngày lên 15 tuổi, con không còn đức Tin”. Cha Huvelin như đọc được trong tâm hồn, chỉ nói: “Con hãy quỳ xuống xưng tội đã”. “từ đó tôi hiểu rằng tôi không còn cách nào khác là chỉ sống cho một mình Ngài”.
Hạ mình nhìn nhận tội lỗi là chiếc áo cưới của Charles de Foucauld, con người đã tìm thấy Chúa trong im lặng.

Hãy đặt giả thiết là bạn đang định tổ chức một bữa tiệc. Khi đã ân định xong ngày tháng tổ chức bữa tiệc, bạn lên danh sách những người mà bạn dự định mời tham dự. Sau đó, bạn gửi thiệp mời đi khắp nơi, có đính kèm phần trả lời, và chờ đợi lời phản hồi. Về cơ bản, có thể bạn chờ đợi ba loại câu trả lời:
Một số người chấp nhận lời mời của bạn. Mỗi lời chấp nhận đều làm cho bạn cảm thấy hài lòng. Tất nhiên có thể có những mức độ chấp nhận khác nhau. Một số người chấp nhận nửa vời; họ đến tham dự chỉ vì theo cách nào đó, họ cảm thấy bắt buộc phải đến. Nhưng có những người khác có thể vui lòng chấp nhận lời mời; họ cảm thấy vinh dự và biết ơn vì đã được mời.
Còn những người khác lại từ chối lời mời của bạn. Mỗi lời từ chối đều làm cho bạn thất vọng, thậm chí còn gây đau lòng cho bạn nữa, nhưng ít nhất bạn nhận biết được tương quan của bạn đối với những người đó như thế nào. Cũng có thể có nhiều mức độ từ chối. Trong một số trường hợp, có thể có những người muốn đến tham dự, nhưng không thể được, bởi vì họ mắc bận một việc quan trọng nào đó trùng vào ngày mà bạn mời. Nhưng các trường hợp khác, có những người từ chối chỉ vì không thích; không phải vì họ không thể đến, mà vì họ không muốn đến.
Trong việc đáp trả lại lời mời, còn có một cách thứ ba nữa – đó là bằng cách không hề trả lời gì cả. Vâng, đây cũng là một cách trả lời. Bạn nóng lòng chờ đợi câu trả lời, nhưng không nhận được bất cứ một lời phản hồi nào. Đây là cách trả lời tệ hại nhất. Cách này còn tồi tệ hơn cả lời từ chối. Khi có ai từ chối lời mời, bạn nhận biết được tương quan của bạn đối với người đó. Nhưng trong trường hợp này, bạn không hiểu gì cả. Bạn cứ thắc mắc không biết có chuyện gì xảy ra hay không. Không hiểu bạn có vô tình làm điều gì xúc phạm đến người được mời không? Bạn không biết, và chắc hẳn sẽ không bao giờ bạn biết được. Nếu liên lạc được với họ, thì chắc chắn họ sẽ nói “Ồ, tôi có ý định trả lời, nhưng...”. Có ý định! Câu nói này để lại cho bạn một cảm giác trống rỗng làm sao!
Thiên Chúa không hề bắt buộc chúng ta. Người chỉ mời gọi chúng ta mà thôi. Bạn không thể quá dễ dàng phớt lờ một giới răn, nhưng lại có thể dễ dàng bỏ quên một lời mời gọi. Những nhà quảng cáo không thể bắt buộc chúng ta phải mua một sản phẩm nào đó của họ, nhưng họ phải viện dẫn đến tất cả mọi mánh lới quảng cáo, để thuyết phục và dụ dỗ chúng ta mua sản phẩm đó. Thiên Chúa không hành động giống như vậy. Người quá tôn trọng sự tự do của chúng ta.
Thông thường, chúng ta không biết mình thực sự muốn gì, hoặc thậm chí không biết cái gì là tốt đẹp đối với mình. Những gì chúng ta đang tìm kiếm, và những gì chúng ta thực sự coi trọng hoặc ao ước, đều không phải lúc nào cũng tương tự như nhau. Có lẽ chúng ta quá bận rộn, cuộc sống của chúng ta bị quá tải, đến nỗi ngay cả Thiên Chúa cũng gặp khó khăn, trong việc vượt qua những yếu tố gây cản trở đó, để đến được với chúng ta.
Chỉ một mình Thiên Chúa mới biết được điều gì thực sự là tốt đẹp nhất đối với chúng ta. Tương tự như cha mẹ luôn mong muốn điều tốt đẹp nhất cho con cái mình, Thiên Chúa cũng luôn mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng ta, là những con cái của Người.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta làm gì? Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta đi vào một cuộc sống sâu xa hơn và đích thực hơn ở nơi đây, trên trái đất này. Người đang mời gọi chúng ta đi vào tương quan thân mật với chính Người. Người cũng đang mời gọi chúng ta đi vào đời sống cộng đoàn với những người khác nữa. Và đến giờ chết, Người sẽ mời gọi chúng ta đi vào sự sống đời đời.
Nói chung, phớt lờ lời mời gọi là một cách từ chối tệ hại nhất. Điều này ám chỉ sự lãnh đạm. Người lãnh đạm là người gặp khó khăn nhất trong việc hoán cải.

Anh chị em thân mến.
Có lần vào tiệm ăn sáng, tôi nhìn thấy hai trường hợp trái ngược nhau:
Một đứa trẻ được mẹ dắt vào quán ăn, ngồi vào bàn, được một phần ăn riêng biệt. Nhưng nó tỏ vẻ khó chịu, không biết vì lý do gì mà nó không vui, nó không nhìn đến phần thức ăn của mình. Người mẹ thì nhìn con với vẻ ái ngại, bà năn nỉ con, nhưng vô hiệu. Cuối cùng hai người đứng lên với phần ăn còn nguyên.
Một đứa trẻ khác, trên tay có một cái lon, chạy ngay lại phần ăn còn nguyên trên bàn mà người chủ đã không cần dùng đến, nó cho tất cả vào trong chiếc lon và mang ra bên ngoài, cùng với một đứa trẻ khác nhỏ hơn, tận hưởng niềm vui của một người không cần đến.
Tôi chợt suy nghĩ: phần ăn là chất bổ dưỡng, là niềm vui cho một người, nhưng chính người đó không vui khi nhận thấy phần của mình. Một người khác nhận được niềm vui không phải chuẩn bị cho mình, nhưng lại được hưởng trọn vẹn. Nếu đứa trẻ cằm chiếc lon, không biết chuẩn bị những gì cần thiết để có thể mang phần ăn ra bên ngoài tận hưởng, thì làm sao nó có thể hưởng trọn niềm vui được.
Trong dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe, Chúa Giêsu cho mọi người nhìn thấy viễn ảnh một tiệc cưới, những vị khách quý đã được mời, sau đó còn được nhắc lại. Nhưng những người đã được mời đó, không một ai được dự tiệc vì có người không muốn tham dự, họ không còn nhớ đến lời mời gọi trước kia, họ chỉ sống cho mình và chỉ biết có chính mình. Có người không dự được vì họ đã bị trừng phạt. Họ không muốn dự tiệc, là một việc không phải phép, nhưng họ còn hành hạ những người đến nhắc nhở cho họ về những gì họ đã hứa, nên họ bị trừng phạt. Còn những người dự tiệc, là những người đang cần đến thức ăn và có sự chuẩn bị để đón nhận thức ăn một cách xứng đáng và không phung phí nó. Những người dự tiệc là những người không cần được báo trước, nhưng họ biết sẵn sàng đáp lại lời mời gọi với lòng chân thành.
Mỗi người trong chúng ta được mời gọi sống làm người, chúng còn được mời gọi để sống trong hồng ân Chúa cách đặc biệt hơn qua việc chúng ta được lãnh bí tích rửa tội. Đó là chúng ta được mời gọi để sống đời sống một người Công Giáo. Thiên Chúa còn mời gọi mỗi người sống trong môi trường sống của mình, sống xứng đáng với địa vị trong xã hội, trong môi trường thực tế của công việc để sống theo thánh ý Chúa. Lời mời gọi đó chúng ta cũng thường được nghe nhắc nhở lại rất nhiều trong đời sống hằng ngày: kêu gọi chu toàn trách nhiệm, kêu gọi sống xứng đáng hơn, kêu gọi sửa đỗi đời sống. Nhiều lúc những lời đó làm cho chúng ta khó chịu, không muốn nghe. Có những lúc chúng ta phản ứng mạnh mẽ hơn vì những lời đó làm cho chúng ta ái ngại. Những lời mời gọi và nhắc nhở đó, những lời làm cho chúng ta khó chịu đó là những lời kêu mời chúng ta đến dự bàn tiệc nước trời. Nhưng mỗi người đáp lại như thế nào? Cứ nhìn lại đời sống, nhìn lại những hành động đã qua, xem chúng ta đáp lại lời mời như thế nào?
Chúng ta hứa vào dự tiệc, nhưng nhiều lúc chúng mãi bận rộn với những toan tính thiệt hơn hằng ngày, chúng ta mất quá nhiều thời gian với gia tài riêng tư của mình: đó là sự ích kỷ, sự hẹp hòi và cả những cố chấp trong con người của mình, nên không còn nghe thấy gì ngoài bản thân mình. Chúng ta chỉ còn biết tính toán thiệt hơn, cố làm sao mang cho mình thật nhiều những gì mình muốn, không cần biết đó là đúng hay sai, đồng thời cũng để ngoài tai những lời nhắc nhở chân thành. Như thế thì làm sao chúng ta có thể ngồi vào bàn tiệc đã dọn sẵn và đang chờ đợi chúng ta. Chúng ta giống như đứa bé, ngồi trước phần ăn nhưng không chịu dùng những gì của mình.
Nếu chúng ta chu toàn trách nhiệm hằng ngày, cho dù những khó khăn vất vã, nhưng vẫn chấp nhận và can đảm vượt qua. Nếu chúng ta biết lắng nghe và nhìn lại chính mình, để nhận ra những gì sai lỗi, để làm lại cho tốt. Nếu chúng ta lắng nghe tiếng Chúa qua những việc làm tốt đẹp, những cử chỉ yêu thương, những lời nói ủi an khi cần thiết; đó là chúng ta đang bước vào phòng tiệc với chiếc áo cưới chuẩn bị sẳn sàng, và dự tiệc vui mừng với chủ.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa kêu mời, để xứng đáng dự tiệc Nước Trời.

THIÊN CHÚA: ĐẤNG ƯU TIÊN VÀ TỐI HẬU
Người Ba Tư kể lại câu chuyện ngụ ngôn sau:
Có một nhà hiền triết xuất hiện giữa phố chợ và nói sẽ giải đáp được mọi thắc mắc của bất cứ ai. Có một anh chăn chiên muốn hạ nhục nhà hiền triết giữa đám đông, anh cầm trong tay một con chim sẻ và đặt câu hỏi: “Thưa ngài, trong tay tôi có một con chim. Ngài là người thông thái giải đáp mọi vấn nạn, vậy xin hỏi ngài, con chim trong tay tôi còn sống hay chết”. Biết đây là cái bẫy, vì nếu nói chim sống thì tức khắc anh chăn chiên bóp nó chết trước khi mở bàn tay. Nếu nói chim chết thì anh ta mở bàn tay cho chim bay đi. Trước sự chờ đợi của đám đông, nhà hiền triết từ tốn trả lời như sau: Con chim trong tay ngươi sống hay chết là tùy ở ngươi. Nếu ngươi cho nó sống thì sống, nếu ngươi muốn nó chết thì nó chết.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc, đó là niềm khao khát thâm sâu nhất của con người, nhưng chúng ta được hạnh phúc hay không là tùy ở chúng ta, giống như con chim sống hay chết là tùy ở anh chăn chiên Hạnh phúc đích thực của mỗi người chúng ta là Thiên Chúa, là Nước Trời. Phúc Âm viết Thiên Chúa mời gọi con người tới dự tiệc cưới. Tiệc cưới đó là hình ảnh Nước Trời, là nơi đem lại hạnh phúc viên mãn và vĩnh cửu. Thế nhưng người ta không đáp lại, viện cớ đi thăm trại, viện cớ đi buôn bán. Đi thăm trại, đi buôn bán tự nó không phải là việc xấu, nhưng họ đã làm một việc khờ dại là chỉ chú ý đời này mà quên đi đời sau. Đi thăm trại, đi buôn bán tựu kỳ trung là lo làm giàu. Họ nghĩ lầm: giàu sang đem lại hạnh phúc. Nhưng cái nghịch lý lớn nhất của cuộc đời là khi con người tìm cách lấy đầy tâm hồn mình bằng những của cải chóng qua thì đó là lúc con người cảm thấy trống vắng nhất trong tâm hồn.
Đừng lấy lý do tôi quá bận rội với công việc làm, với gia đình mà không dành giờ cho Thiên Chúa, không dành giờ cho Nước Trời, không dành giờ lo đến linh hồn mình. Bận rộn chỉ là tấm ảnh dựng nên để che đậy những lười biếng, những tiêu cực của mình. Đừng hỏi tôi có bận hay không, nhưng hãy hỏi tôi có muốn hay không? Vì lòng muốn sẽ thắng vượt mọi trở ngại, mọi bận rộn.
Thiên Chúa không phải là bông hoa để trang trí cuộc đời. Thiên Chúa là một Đấng tối cần không thể thiếu vắng trong cuộc đời chúng ta. Hạnh phúc Nước Trời không phải là một con bài trong Casino, thua con bài này ta đánh con bài khác. Hạnh phúc Nước Trời là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng và can hệ vì chỉ có một lần thôi: Đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa thì muôn đời tôi được, trái lại từ chối thì tôi đánh mất đời đời.
Vậy thì Thiên Chúa phải là Đấng ưu tiên và tối hậu trong cuộc đời chúng ta. Ngài phải ỡ trên mọi lý do bận rộn, trên mọi của cải đời này. Và hạnh phúc Nước Trời là một thứ suốt đời tôi chuyên tâm tìm kiếm..

GỌI THÌ NHIỀU MÀ CHỌN THÌ ÍT
Quan niệm “Tiệc cánh chung” là một quan niệm rất phổ thông trong đạo Do Thái. Vì thế ví dụ “Đức Vua làm tiệc cưới” mà Chúa Giêsu nói trong đoạn Phúc Âm hôm nay cũng gợi lại tư tưởng bữa “Tiệc cánh chung” mà Tiên tri Isaia đá nói tới: “Ngày ấy, Chúa các đạo binh sẽ thiết đãi tất cả các dân trên núi nầy một bữa tiệc đầy thịt rượu, thịt thì béo, rượu thì ngon” (Is 25,6- Bài đọc 1)
Đức Vua đây, tức là Thiên Chúa, đã nhờ “Hoàng tử” của mình là Chúa Giêsu Kitô dọn tiệc Nước Trời. Khách được mời chính thức và trước hết là dân Do Thái. “Nhưng họ không thèm đếm xỉa và bỏ đi... Thậm chí có kẻ còn bắt đầy tớ Vua (là các Tiên tri và cả chính Con của Người là Chúa Giêsu, sứ giả cuối cùng (Mt 21, 35-39) mà nhục mạ và giết đi” (Mt 22, 5-6)
Vì thế Thiên Chúa là Vua bèn “thịnh nộ và phái quân binh đi tru diệt bọn sát nhân đó và thiêu hủy thành phố của chúng” (Mt 22,7). Sau đó Đức Vua Thiên Chúa phán: “Tiệc đã sẵn sàng nhưng những khách được mời đã không đáng dự”. (Mt 22,8) và ngài truyền cho đi mời “mọi người gặp được, bất luận tốt xấu”. (c 9).
Theo thánh Luca, họ gồm cả những kẻ ăn mày, tàn tật, đui mù, què quặt (Lc 14, 21). Đúng như lời Chúa nói: “Ta bảo các ngươi: nhiều kẻ từ đông sang tây sẽ đến và dự tiệc Nước Trời, còn chính con cái trong nhà lại bị loại ra” (Mt 8,11).
Nước Thiên Chúa, ơn Cứu Độ, vậy là từ nay thuộc về mọi dân tộc: “Bởi các người (Do thái) đã khước từ những lời của Thiên Chúa nên chúng tôi quay sang người ngoại” (Cv 14,46). Và “Bởi họ (Do thái) đã sa ngã, nên ơn Cứu Độ đã về phần dân ngoại” (Rm 11,11). Lại nữa, Nước Thiên Chúa ở trần gian với tự do chọn lựa lành dữ nên gồm có người lành lẫn kẻ ác, - như ruộng lúa có cỏ lùng, mẻ lưới đầy cá tốt lẫn cá xấu (Mt 13, 36-47).
Nhưng khi ngày Tận thế đến sẽ có sự phân biệt và chọn lọc (Mt 13,41-49): người lành người tốt thì được thưởng, còn kẻ dữ người xấu thì bị phạt. Cũng vậy, kẻ dự tiệc mà mặc y phục lễ cưới, là ơn Chúa đã sắm sẵn, thì sẽ được chọn, còn kẻ “không mặc y phục lễ cưới” thì sẽ bị “đuổi ra bên ngoài ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng” (Mt 22, 11-12).
Tục lệ Do Thái: ai vào ăn tiệc cưới cũng phải mặc y phục chủ đã may và treo sẵn ở cửa vào. Ai không mặc là lỗi luật, là khinh chủ. Ví thế “Anh ta câm miệng không nói được gì để tự bào chữa” (Mt 22,12).
Nhờ tình thương của Chúa, chúng ta đã được Thiên Chúa mời tham dự Tiệc cưới Nước Trời. Đó là một vinh dự, một ơn huệ đặc biệt chúng ta phải cảm tạ Chúa và phải lo “mặc y phục” ơn Cứu độ và các việc lành phúc đức, kẻo lại bị loại ra vì: “Kẻ được gọi thì nhiều mà người được chọn thì ít” đấy (Mt 22,14).
Lạy Chúa, tuần này con quyết tâm Suy niệm bài Phúc âm và xét xem con đã mặc “y phục lễ cưới” sẵn sàng để vào dự tiệc Nước Trời chưa?”.


Một lần nọ, tôi nghe được mẫu đối thoại như sau:
- Lúc này sao "giấy báo thuế" đến liền liền. Rầu hết sức!
- Giấy báo thuế là gì?
- Là thiệp mời đi đám đó.
- Được nhiều người mời là niềm vinh dự chứ sao lại rầu.
- Biết vậy rồi, nhưng đâu phải đến ăn không rồi về được. Phải có bao thơ chứ. Mày biết không trong vòng một tháng mà có đến 5 cái thiệp mời. Hầu hết là những chỗ không thể bỏ được nên phải bấm bụng vay tiền để đi chứ làm sao có đủ!!!
Qua mẫu chuyện nhỏ trên đây, chúng ta thấy được mời dự tiệc là một niềm vinh dự. Vì niềm vinh dự ấy chúng ta phải chịu mất tiền và mất thời gian. Niềm vinh dự ấy lại tăng thêm cho chủ nhà khi những người được mời đi dự đầy đủ. Thế nhưng, thật là buồn cho chủ nhà khi tiệc đã dọn sẵn mà những người được mời chẳng thấy ai. Tâm trạng này phần nào phản ảnh tâm trạng của ông vua trong dụ ngôn Chúa Giêsu nói với chúng ta hôm nay.
Nhà vua sai đầy tớ đi tận nhà những người được mời và dặn: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới! " (Mt 22, 4)
Đáng buồn thay, những người được mời họ viện đủ lý do: "Kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết" (Mt 22, 5b - 6). Họ đâu biết rằng làm như thế sẽ khiến nhà vua buồn như thế nào. Buồn ở đây không phải vì họ không ông nhưng ông buồn vì chính những người được mời này đã tự làm hại đến chính mình. Họ đã từ chối niềm hạnh phúc nhà vua chuẩn bị sẵn cho. Chắc chắn nhà vua là người giàu sang nên chẳng cần bao thơ làm chi. Nhà vua dọn tiệc và mời họ đến dự miễn phí nhưng họ lại từ chối.
Hình ảnh nhà vua này chính là Thiên Chúa của chúng ta. Thiên Chúa chuẩn bị sẵn cho chúng ta bữa tiệc Nước Trời và mỗi Thánh lễ cũng chính những bữa tiệc Thánh miễn phí. Thiên Chúa ban cho chúng ta một cách hoàn toàn nhưng không. Thế nhưng, đáng buồn thay có nhiều người lại tìm đủ mọi lý do để từ chối. Họ quên rằng khi từ chối như vậy là họ đang tự làm hại chính mình.
Hãy xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết nhanh chóng đáp lại lời mời gọi của Chúa đến hưởng hạnh phúc Nước Trời mà Người đã dọn sẵn cho chúng ta.

Chúng ta còn nhớ trước đây không lâu, một đám cưới thật vĩ đại, linh đình và sang trọng vào bậc nhất trong lịch sử của kỷ nguyên hiện đại. Đó là đám cưới của hoàng tử Charles và cô giáo vườn trẻ Diana tại Anh Quốc. Khắp thế giới cả mấy trăm triệu người chăm chú theo dõi những ngày dài nô nức chuẩn bị, với những lễ nghi cổ truyền, y phục hoàng triều lộng lẫy và sang trọng, những buổi yến tiệc tiếp tân triền miên; những cuộc hòa tấu ca hát nhảy múa, những lời trầm trồ ca ngợi mối tình đằm thắm của đôi bạn trẻ Hoàng Tử Charles và Công Chúa Diana... Báo chương và các đài truyền hình, truyền thanh, các phóng viên thi đua nhau loan tin; Chính Phủ các quốc gia gởi điện văn chúc mừng, các quà tặng đắt giá xứng bậc vua chúa tới tấp bay đến. Tưởng như niềm vui hạnh phúc đó không bao giờ tàn. Nhưng rồi ai nấy cũng học được một bài học khôn ngoan và đắt giá về hạnh phúc mau qua chóng tàn nơi trần gian này!
I. Những thực khách danh dự
Bài sách tiên tri Isaia và bài Tin Mừng theo Thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe, đều cùng dùng một hình ảnh tiệc cưới, để mặc khải cho chúng ta hiểu một phần nào hạnh phúc Nước Trời mà Thiên Chúa sẽ ban cho những kẻ Người tuyển chọn. Khi đó không còn chết chóc, không còn tang chế, không còn than khóc, tủi hổ hoặc sầu đau nữa. Chỉ còn hân hoan, vui mừng, sướng vui, an bình và hạnh phúc, một hạnh phúc vĩnh cửu và trường tồn trong vinh quang bất diệt không hề tàn phai. Nhưng những ai được vinh dự thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu đó?
Theo các nhà chú giải bài Tin Mừng hôm nay, thì những thực khách vinh dự được Nhà Vua mời dự tiệc cưới của Hoàng Tử, tức là những người được thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời. Đó chính là những người Do Thái, Dân Riêng của Chúa nói chung và phái Pharisêu nói riêng. Nhưng vì họ quá tự mãn kiêu căng, ham hố trần tục và bất trung với Chúa, nên chính tự họ đã loại mình ra khỏi Vương Quốc Thiên Chúa là Giáo Hội Chúa Kitô trên trần gian và Hạnh Phúc vĩnh cửu trên Quê Trời.
II. Để được thừa hưởng phúc vĩnh cửu
Qua bài Tin Mừng, chúng ta thấy mình được diễm phúc Chúa yêu thương mời gọi chúng ta vào dự yến tiệc của Chúa, sau khi những thực khách danh dự được mời trước không xứng đáng được nếm hưởng. Chính Chúa đã phán qua dụ ngôn: "Tiệc cưới đã dọn sẵn, nhưng những kẻ được mời không đáng dự. Vậy các ngươi hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
Dân tộc được diễm phúc là Dân Riêng của Chúa đã từ chối Chúa, không tiếp nhận Chúa Cứu Thế và giáo lý của Người, nên đã bị loại ra ngoài không được gia nhập Giáo Hội Chúa và thừa hưởng hạnh phúc Nước Trời, nên Chúa đã kêu gọi dân ngoại, thuộc bất cứ cấp bậc nào trong xã hội và qua mọi thời đại vào dự yến tiệc của Chúa, làm thành phần của Giáo Hội và thừa hưởng hạnh phúc Chúa đã sắm sẵn cho những kẻ Chúa yêu thương tuyển chọn.
III. Để sống xứng đáng ơn tuyển chọn
Là Kitô Hữu, những người được Chúa yêu thương tuyển chọn gia nhập Giáo Hội Chúa, với quyền thừa hưởng gia nghiệp hạnh phúc vĩnh cửu của con cái Chúa, chúng ta phải sống thế nào cho cân xứng với ơn cao cả đã lãnh nhận?
Hơn nữa, là những linh hồn sống Đời Thánh Hiến, đã được Chúa tuyển chọn giữa muôn người, tách biệt ra khỏi trần gian để sống một cuộc sống cao cả hơn, siêu thoát hơn, đảm trách một sứ mạng trọng đại hơn, với những phương thế hữu hiệu và có bảo đảm hơn, để đạt tới Hạnh Phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban, chúng ta càng phải sống thế nào hầu xứng đáng với những ơn chúng ta đã lãnh nhận?
Chúng ta cần phải trung thành với ơn Chúa tuyển chọn theo địa vị chức bậc của mỗi người, bằng cách tuân theo những giáo huấn của Chúa đã truyền dạy, theo gương Thánh Phaolô Tông Đồ dân ngoại: "Trong mọi trường hợp và hết mọi cách" ngài chỉ biết chu toàn thánh ý Thiên Chúa và do đó, ngài đã dám tin tưởng và quả quyết chắc chắn rằng: "Tôi có thể làm được mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi" (Phil 4:13).
Trái lại, nếu bất trung với ơn Chúa ban, chúng ta cũng sẽ bị loại ra ngoài đồng số phận với những thực khách danh dự được mời trước, nhưng lại kiêu căng tự phụ, không đáng nếm hưởng yến tiệc của Chúa, là chính Hạnh Phúc Chúa hứa ban cho các con cái Ngài đã yêu thương tuyển chọn, như lời Chúa đã quả quyết: "Những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít" (Mt 20:16).
Kết Luận
Mẹ Maria là Đấng hằng trung tín với ơn Chúa. Vậy là con Mẹ, xin Mẹ chia sẻ lòng trung tín của Mẹ cho chúng ta và tăng thêm sức mạnh, giúp chúng ta biết theo gương Mẹ, trung tín với ơn Chúa tuyển chọn tùy theo bậc sống và địa vị cuả mỗi người, để chúng ta đáng Chúa ban ơn trợ giúp sống xứng với ơn tuyển chọn làm con cái yêu dấu của Chúa và Giáo Hội, hầu đáng được hưởng Ơn Cứu Độ và hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban cho các con cái Chúa.

(Chú giải của Lm Phanxicô X. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cả ba dụ ngôn nối tiếp nhau – Hai người con (21,28-32), Những người thợ vườn nho (21,33-46) và Tiệc cưới hoàng gia (22,1-14) – đều được gửi đến cho các thượng tế và các kỳ mục của Dân (x. 21,23) và đều mang một sứ điệp rất giống nhau. Bằng các dụ ngôn này, với một lời khuyến cáo lặp đi lặp lại, nghiêm túc, mạnh mẽ, Đức Giêsu muốn làm cho họ mở mắt ra để hiểu tương quan của họ với Thiên Chúa. Các thượng tế và các kỳ mục không được chạy theo ảo tưởng nào, nhưng phải thấy rõ tương quan đó trước khi quá muộn và phải điều chỉnh bản thân cho kịp thời.
Thật ra các dụ ngôn và các lời khuyến cáo không phải chỉ được dành cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, nhưng cũng được gửi đến cho thính giả mọi thời. Thiên Chúa không ép buộc; Người ngỏ với chúng ta và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Các người con được mời đi làm việc trong vườn nho của cha; những người thợ vườn nho được nhắc nhở giao nộp hoa lợi thuộc về ông chủ; những khách được mời được kêu gọi đến dự tiệc cưới. Không một ai bị bó buộc phải xử sự theo cách nào cả. Thiên Chúa kiên nhẫn và đại lượng ước muốn rằng lời mời của Người được đón nhận.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Mở (22,1);
2) Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (22,2-7);
3) Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (22,8-13):
a) Mời mọi người (cc. 8-10),
b) Vấn đề áo cưới (cc. 11-13);
4) Kết luận: Lời bình của Đức Giêsu (22,14).
3.- Vài điểm chú giải
- mở tiệc cưới cho con mình (1): Hình ảnh bữa tiệc thiên sai có lẽ được mượn từ Cựu Ước (Is 25,6; 55,1-3). Nó diễn tả tính nhưng-không của ơn cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho Dân Người.
- nhưng họ không chịu đến (3): Dịch sát là “không muốn đến”. Mt dùng động từ “muốn” (thelô), là một động từ ngài ưa chuộng (x. 11,14; 16,24; 18,30; 19,17; 23,27b) để diễn tả một quyết định rõ ràng.
- Vậy các ngươi đi ra (9): Công thức mệnh lệnh poreuesthe (các ngươi hãy đi) oun (vậy) khiến chúng ta hướng tới công thức phân từ poreuthentes oun có giá trị như một mệnh lệnh ở Mt 28,19, khi Đức Giêsu sai phái các môn đệ đi đến với Dân ngoại (“muôn dân”).
- các ngả đường (9): Từ diexodos thuộc Bản LXX có nghĩa là điểm bắt đầu hay là điểm đến, phần xa nhất của một miền đất. Vậy dịch diexodoi tôn [h]odôn là “các ngả đường” dường như không chính xác. Đây là điểm mà từ đó con đường ([h]odos) bắt đầu hay kết thúc. Như thế các đầy tớ đi ra khỏi thành và tỏa ra khắp nơi cho đến tận biên cương của vương quốc.
- bất luận xấu tốt (10): Những người “xấu” này có thể là những người tội lỗi, một khi đã được kêu gọi nhưng-không, sẽ sửa mình khi đã vào trong Vương Quốc hoặc trong Hội Thánh; mà cũng có thể là những người xấu theo nghĩa tuyệt đối, sẽ bị loại trừ ngày nào đó khỏi Vương Quốc (hoặc khỏi Hội Thánh). Các câu 11-14 hiểu theo nghĩa thứ hai này.
- quan sát (11): Động từ theaomai có nghĩa là “nhìn xem; chiêm ngưỡng; quan sát”. Bên Đông phương, các nhân vật quan trọng không ngồi ăn chung với các khách mời, nhưng chỉ xuất hiện vào một lúc nào đó để chào cách quan khách. Phân đoạn gồm cc. 11-13 hẳn là một bản văn áp dụng cho đời sống Hội Thánh (trong khi cc. 1-10 áp dụng cho lịch sử dân Do Thái), nay được đưa vào đây để sửa chữa một lối giải thích quá tự do cc. 1-10. Quả thật, việc đi vào Hội Thánh là chuyện nhưng-không, nhưng cũng không được quên rằng đấy là Hội Thánh của Đức Vua! Đã nhận ơn, thì phải sống theo chiều hướng của ơn đã nhận.
- không có y phục lễ cưới (12): Vào thời Thượng Cổ, không có tập tục các khách mời phải mặc một bộ y phục riêng cho tiệc cưới; chỉ cần một bộ y phục sạch sẽ, trang trọng, là được. Do đó, công thức “y phục lễ cưới” khiến độc giả phải nghĩ đến nghĩa ẩn dụ. Cụm từ “y phục lễ cưới” (endyma gamou) này hẳn cũng là thực tại được dụ ngôn Những người thợ vườn nho nói đến, đó là các hoa trái của Vương Quốc, phải có trước khi ra trước tòa phán xét. Đây là “sự công chính” thường được TM Mt nói đến (ch. 5–7: 5,20; 6,33…). Xem thêm: Is 61,10; Ep 4,24; Gl 3,27; Kh 19,6-8; 7,9-17.
- kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít (14): Ngôn ngữ Híp-ri không có những hình thái đặc biệt cho các tính từ ở dạng so sánh (comparative: better; more) hay tối thượng cấp (superlative: best; most); do đó, người ta dùng cách kiểu nói quanh (paraphrases). Phải dựa vào ngữ cảnh thì mới xác định được nghĩa so sánh nằm ở dưới. Xem Mc 9,42; Mt 22,36; 26,24; Lc 10,42; 18,14…
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở (1)
Dụ ngôn này được ngỏ với những thính giả đã được nói đến (“họ” = “các thượng tế và người Pharisêu”, x. 21,45), những người phải gánh lấy tất cả trách nhiệm và tội lỗi, khi từ khước Đức Kitô.
Chính dụ ngôn gồm các câu 2-13. Câu 14 là một lời bình của người kể, tức Đức Giêsu. Sau lời giới thiệu ở c. 2, dụ ngôn được triển khai thành hai phân đoạn, cc. 3-7 và cc. 8-13. Mỗi phân đoạn bắt đầu bằng việc nhà vua sai các đầy tớ đi mời khách đến dự tiệc cưới. Lần mời thứ nhất thất bại; lần mời thứ hai thành công. Tuy nhiên, mỗi lần đều kết thúc bằng một tai họa. Trong trường hợp thứ nhất, tai họa đổ xuống trên những người được mời; trong trường hợp thứ hai, tai hoạ chỉ đổ xuống trên một người khách.
Ta thấy dụ ngôn này và dụ ngôn trước có những điểm giống nhau. Một bên, đó là ông chủ nhà có một vườn nho, ở đây là một vị vua. Ông chủ nhà sai đầy tớ hai lần đến vườn nho để nhận hoa lợi; đức vua sai các đầy tớ hai lần đi mời khách tới dự tiệc. Trong cả hai trường hợp, các tôi tớ đều thất bại vì những người họ đến gặp tỏ ra xấu xa. Trong cả hai trường hợp, có liên quan đến một “người con [trai]”. Những điểm song song đó cho hiểu rằng hai câu chuyện nhắm đến một số nhân vật như nhau. Ông chủ vườn nho và đức vua chỉ là một, đó là Cha trên trời; người con trai chắc chắn là Đấng đã tự gọi mình là “Người Con” (11,27). Các tôi tớ chính là các ngôn sứ. Còn những người được mời chính là Dân bất trung của Thiên Chúa.
Trong dụ ngôn Tiệc cưới, nhân vật duy nhất hành động tích cực là nhà vua. Chỉ một minh ông nói, chứ không có đối thoại. Ngoại trừ cc. 5-6 và c. 10, truyện hệ tại các hành vi hoặc các lệnh truyền của nhà vua.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thất bại (2-7)
Tuy nhiên, hai dụ ngôn cũng có những điểm khác nhau. Trong dụ ngôn Những người thợ vườn nho, vấn đề là một đòi hỏi về công bình; ở đây là một lời mời, một vinh dự diễn tả cho một ai đó. Một bên là ông chủ đòi hỏi điều thuộc về ông, bên kia là vị vua quảng đại, muốn mời tối đa người ta đến thông phần vào niềm vui của ngày cưới hoàng tử. Trong trường hợp sau này, thái độ thiếu quan tâm càng đáng trách hơn, vì ở đây không còn chuyện vi phạm một quyền, nhưng là một xúc phạm nặng nề đến danh dự. Đã thế, thái độ thiếu quan tâm còn trầm trọng đến mức trở thành sự căm thù chẳng hiểu vì sao. Ngay ở đây cũng có thể đặt lại câu hỏi của dụ ngôn trước: “Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (21,40). Câu trả lời không còn phải là một đe dọa, nhưng là một hành động trừng phạt. Như thế, từ dụ ngôn kia sang dụ ngôn này, có một sự tiệm tiến.
Những “người đã được mời” (keklêmenous) là những người được báo tin về tiệc cưới đúng thời điểm. Đây là các bạn hữu, những người đang sống trong những tương quan thân tình với nhà vua. Việc nhà vua sai đầy tớ đến và mời thúc bách (c. 4) cho thấy cử chỉ tối hậu của lòng tốt của nhà vua, nhưng đã không được đáp lại. Thế mà nhà vua chỉ nhận được một sự từ khước dứt khoát (“không muốn đến”, c. 3). Các động lực thâm sâu là họ có những mối quan tâm thực tiễn, những của cải vật chất (chủ đề của Mt: x. 8,18-22; 19,21). Dưới ánh sáng của dụ ngôn trước, qua việc nhà vua sai các đầy tớ lần đầu (c. 3), độc giả có thể nghĩ đến các ngôn sứ trong Cựu Ước; qua lần sai phái thứ hai (cc. 4-6), họ có thể nghĩ đến các tông đồ và các nhà thừa sai (x. 21,34.36). Các độc giả cũng đã biết Israel thường xử tệ và giết các ngôn sứ (x. 23,34-35). Còn những khách được mời, thoạt tiên độc giả sẽ nghĩ đến các thượng tế và người Pharisêu, vì các dụ ngôn được nói cho họ. Tuy nhiên, không nhất thiết chỉ nghĩ tới giới lạnh đạo Do Thái, bởi vì các sứ giả của Đức Giêsu được cử đến với toàn thể Israel (x. 10,5-6.23).
Câu 6 có vẻ đột ngột: đi từ “kẻ thì …, người thì …” (hos men … hos de), ta không chờ đợi “còn những kẻ khác” (hoi de loipoi), nhất là một tội ác (giết các đầy tớ). Nhưng các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái, thì hiểu rằng du ngôn đang nói về các thừa sai của họ, các vị này đã bị bách hại tại Israel (10,16-23) cũng như nói về các ngôn sứ Cựu Ước cũng đã bị bắt bớ trước rồi (5,12; 21,35-36). Nhưng c. 7 thì thật lạ, kể cả với các độc giả đã quen với truyền thống Do Thái. Không còn cỗ bàn, bò tơ, thú báo nữa. Nhà vua lên đường hành quân, chắc chắn đâu có thể làm một sớm một chiều. Dù sao, từ tư cách những người đầu tiên được ưu đãi, người Do Thái trở thành những đối thủ đầu tiên chống lại ơn cứu độ, và mục tiêu đầu tiên cơn giận Thiên Chúa nhắm tới. Họ bị đánh giá là “không xứng đáng” (c. 8) không phải vì họ có những thiếu sót hay sự ngu dốt nào tự nhiên, nhưng do họ từ khước.
Đức vua đã huy động quân lính đi “tru diệt bọn sát nhân và thiêu hủy thành phố của chúng” (c. 7). Các khách được mời nay được gọi đơn giản là “bọn sát nhân”. Tại sao sự việc lại trở nên gia trọng đến mức ấy? Dường như các khách được mời sống ngay trong thành phố nơi tổ chức lễ cưới. Các kẻ sát nhân chỉ là một vài người trong số khách được mời thôi. Chẳng lẽ mọi người khách mời khác đều đáng xử như những kẻ sát nhân? Đàng này, cả thành bị thiêu hủy, hẳn là với tất cả những người vô tội. Nếu muốn tiếp nối câu chuyện cho hợp lý, thì phải nói đến việc mời những người khác. Tất cả các thắc mắc này khiến ta phải nhìn nhận rằng cc. 6-7 là một câu lạc lõng. Rất có thể tác giả đang nghĩ đến cuộc tàn phá Giêrusalem đã xảy ra vào năm 70. Chỉ điều này mới giải thích được vì sao tác giả gán một tầm quan trọng đặc biệt cho chuyến hành quân trừng phạt và cuộc thiêu hủy thành phố. Và những kẻ sát nhân không phải chỉ là một vài người tạo cớ cho tác giả viết dụ ngôn, nhưng là tất cả các thợ làm vườn nho đã giết người con sau khi bàn bạc với nhau (21,38-39). Như thế ở đây tác giả Mt không chỉ làm chứng trung thành về các lời của Đức Giêsu đã được truyền đạt cho ngài, nhưng còn cung cấp cho chúng ta cách thức giải thích các lời này cho các thành viên của các cộng đoàn tiên khởi của Hội Thánh. Hai phương diện này được kết nối chặt chẽ với nhau. Chỉ lời được Hội Thánh phát xuất từ các tông đồ hiểu và giải thích đúng đắn mói có thể được coi như là Lời Chúa, được Chúa Thánh Thần linh hứng và buộc chúng ta tin nhận.
* Dụ ngôn Tiệc cưới thành công (8-13)
Phân đoạn này gồm hai truyện khác nhau được kết nối lỏng lẻo (cc. 8-10 và 11-13). Câu truyện có thể kết thúc ở c. 10. Chính cụm từ “xấu và tốt” ở c. 10 khiến độc giả nghĩ rằng câu truyện có thể còn tiếp.
Bây giờ các đầy tớ có nhiệm vụ ngỏ lời mời với những người khác, mà không chọn lựa. Họ có nhiệm vụ đưa tất cả những ai họ gặp trên đường khắp cùng bờ cõi vương quốc (diexodoi tôn [h]odôn) vào phòng tiệc. Tác giả Mt không nói là “người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt” như Lc 14,21, vì hiểu chữ “tất cả” (“mời hết vào”) theo nghĩa khác: kẻ xấu người tốt đều được mời. Lần mời này thành công. Chẳng mấy chốc phòng tiệc đã đầy một khối người đa tạp. Sự đa tạp này không do khác nhau về y phục, về địa vị xã hội hay về những yếu tố bên ngoài. Đây là một sự khác biệt bên trong, chủ yếu, giữa “người xấu và người tốt (c. 10). Chúng ta chỉ hiểu được tình trạng này nếu khởi đi từ thực tế tác giả đang nghĩ tới. Lời mời đã được ngỏ với dân Israel, nhưng họ đã không muốn đón nhận; thế là lời mời được gửi đến một dân mới, Dân ngoại. Đây không còn phải là một dân gồm những người trong sạch và các thánh, mà là một xã hội đa tạp gồm những người xấu và những người tốt. Ta gặp thấy có cả hai hạng người này trong Hội Thánh, như cỏ lùng giữa lúa tốt (13,28; x. dụ ngôn Chiếc lưới: 13,47-50). Dù sao, phòng tiệc cũng đã đầy vì mọi người được tự do đi vào. Thế nhưng đến đây, bài dụ ngôn vẫn chưa kết thúc “có hậu”. Bởi vì sẽ có một cuộc biện phân quyết định: lời mời không khẳng định là người ta sẽ thực sự được tham dự vào lễ cưới. Trước tiên phải có một cuộc phán xét: phải tách cỏ lùng khỏi lúa tốt. Đây chính là mục tiêu của phân đoạn thứ hai (cc. 11-13).
Đến đây khung cảnh vẫn là bữc tiệc, nhưng sự chú ý lại xoáy vào chiếc áo cưới. Ông chủ dường như không còn phải là vị vua trước đây nữa. Ông không đến để chiêu đãi một bữa tiệc linh đình nữa, mà đến để “quan sát” (theasasthai; x. 2 V 9,18) các khách dự tiệc. Ông đã thấy có một người không có “y phục lễ cưới” (endyma gamou). Nhà vua gọi anh ta là “này bạn” (hetairos), nhưng thái độ rất cứng rắn, không khoan nhượng. Dĩ nhiên người ta tự hỏi là làm thế nào người kia có thể có một cái áo cưới (và tất cả những người khác thì lại có sẵn áo cưới!) khi mà anh ta bị mời đột ngột giữa đường. Như thế là bất công trắng trợn! Chính điểm gây “sốc” này cho hiểu rằng đây không phải là vấn đề một cái áo theo nghĩa cụ thể. Chúng ta đã được chuẩn bị cho cách giải thích này bởi vì dụ ngôn đã ghi trước đó là trong phòng có kẻ xấu người tốt. Rõ ràng người không có áo cưới thuộc về hạng kẻ xấu. Cũng chính điểm này mới giúp hiểu cách đối xử người ấy sẽ phải chịu: không phải là đuổi ra ngoài, nhưng “quăng ra chỗ tối tăm” (x. 8,12; 25,30), nơi sẽ phải “khóc lóc nghiến răng” (x. 8,12; 13,42.50; 24,51; 25,30), tức là người ấy bị tiêu vong. Sự “câm miệng” của người khách này chứng tỏ lời trách của ông chủ là đúng. Người này, cũng như những người đầu tiên, đã không hề quan tâm đến vinh dự đã nhận; họ đã đến tiệc cưới với đầu óc tầm thường, thô thiển, không trân trọng, không biết ơn.
Bữa tiệc là hình ảnh Nước thiên sai; chiếc áo tượng trưng cho các tư thế căn bản để được vào và ở lại đó. Trong Bài Giảng trên núi, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ phải có một “sự công chính dồi dào hơn” (x. 5,20); đây chính là tinh thần mới người ta phải có để sống các tương quan với Thiên Chúa.
Nhận được lời mời không đương nhiên là được cứu độ vĩnh viễn. Con số những người được kêu gọi thì nhiều, điều này có nghĩa là nhiều người được để cho đi vào, không phân biệt, không điều kiện. Họ không cần phải giữ luật Môsê, họ không cần phải chịu cắt bì. Nhưng khả năng đi vào không có nghĩa là một bảo đảm; đi vào trong sự hiệp thông Hội Thánh không có nghĩa là được đi vào trong Nước Thiên Chúa và lúc tận thế. Phải phân biệt giữa niềm cậy trông đầy tín thác và phó thác với sự tự phụ, tự hào không cơ sở là mình có ơn cứu độ.
* Kết luận (14)
Câu kết luận này là một lời bình của Đức Giêsu. Câu này, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”, thường được giải thích theo hai cách. Cách thứ nhất cho rằng “những người được chọn” đây là những người được nhận một ơn đặc biệt khiến họ có thể sống gần kề hơn với những sự thuộc về Thiên Chúa và có thể cậy dựa nhiều hơn vào lòng từ bi thương xót của Thiên Chúa đối với họ. Dĩ nhiên con số này ít, còn đa số chỉ nhạn được một ơn thông thường. Cách thứ hai, phổ biến hơn, giới hạn khẳng định của Đức Giêsu vào trường hợp những người Do Thái thời Người mà thôi: tất cả đều được gọi vào Nước Trời theo nghĩa là tin vào Người, nhưng tuyệt đại đa số đã từ khước đi vào Nước ấy khi loại trừ Đấng Mêsia.
Cả hai cách giải thích này đều có phần giá trị, nhưng không khớp với dụ ngôn. Cách thứ nhất giả thiết rằng người khách bất xứng đã bị quăng ra ngoài bởi vì đã lén đi vào một nhóm nhỏ gồm những người được ưu tuyển; nhưng bản văn nói rõ là người ấy bị loại bởi vì thiếu điều tối thiểu cần thiết cho sự đoan trang của bữa tiệc. Cách thứ hai cũng không thỏa đáng. Bởi vì người khách bị loại đã đi vào với nhóm thứ hai, nên người này là một người ngoại chứ không phải là một người Do Thái; thế nhưng lại chính vào lúc loại trừ người ấy mà Đức Giêsu mới công bố lời nói về nhóm nhỏ những người được chọn. Đàng khác, hiểu sát bản văn, chúng ta thấy câu này không phù hợp với các sự hiện: trên con số lớn các khách dự tiệc, chỉ có người bất xứng này bị loại trừ; làm sao có thể nói đến một số “ít” (nhỏ) những người được chọn?
Do đó, giải pháp đơn giản nhất nằm ở bình diện ngữ học (philologie): đây là hai công thức so sánh theo ngôn ngữ Sê-mít ở thể ngầm, mà ta có thể dịch ra như sau: “Những kẻ được gọi thì nhiều [hơn], nhưng những người được chọn thì ít hơn”. Hiểu như thế, chúng ta thấy phù hợp với ngữ cảnh: con số người được gọi thì rất đông, nhưng rồi có những người từ khước và có người bị loại trừ. Quả thật, nhiều người được gọi, nhưng những người được chọn thì ít hơn. Do đó, điều hết sức quan trọng là để ý mà thực hiện những điều kiện cần thiết để cho việc chúng ta được kêu gọi đưa chúng ta đến chỗ được chọn vĩnh viễn (x. Lc 13.22-24 trong chiều hướng này).
+ Kết luận
Tầm nhìn của bản văn có thay đổi: Từ chỗ minh họa lời rao giảng của Đức Giêsu, dụ ngôn đã trở thành một minh họa đời sống của Hội Thánh. Đã là những người được thừa hưởng những lời hứa của Thiên Chúa, người Do Thái cũng là những người đầu tiên được đón nhận Tin Mừng, từ phía Đức Giêsu cũng như từ phía các tông đồ. Vậy mà họ vẫn không tin: thái độ cứng tin này quả là một mầu nhiệm, nhưng cũng không làm hỏng được các kế hoạch của Chúa quan phòng. Vào lúc tác giả Tin Mừng viết, thì Hội Thánh đã quy tụ lại nơi bàn tiệc thứ hai rồi. Các tín hữu thuộc về Hội Thánh cũng như các khách dự tiệc phải luôn luôn trong y phục chỉnh tề vì bất cứ khi nào vị thẩm phán cũng có thể xuất hiện và loại họ khỏi phòng tiệc vĩnh viễn. Cũng như dân Do Thái đã bị loại bởi vì họ đã tỏ ra bất xứng khi từ chối lời mời, người Kitô hữu cũng có thể bị loại trừ mặc dù đã đón nhận lời mời.
Tuy nhiên, chính chúng ta phải thấy mình được Thiên Chúa kêu gọi và chờ đợi chúng ta tự do quyết định. Thiên Chúa vẫn cứ nhắc lại các lời kêu gọi và tiếp tục gửi đến các sứ giả của Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hoàn cảnh hiện tại có đặc điểm là Thiên Chúa kêu gọi qua trung gian các tôi tớ, sự tự do của con người và sự đại lượng của Thiên Chúa. Từ hoàn cảnh này, ta không được rút ra những hậu quả sai lạc. Ta không được cho rằng tiếng gọi của Thiên Chúa là một đề nghị không quan trọng, rằng chúng ta có thể tùy nghi đón nhận hoặc từ khước, rằng chúng ta có một tự do không giới hạn có thể không những chọn lựa mà còn xác định được các hậu quả của sự chọn lựa, rằng sự tự do của Thiên Chúa là dấu cho thấy Ngài yếu đuối và dửng dưng. Bây giờ Thiên Chúa là Đấng kêu gọi và mời mọc; con người là những người hành động, đáp trả với khả năng quyết định tự do. Nhưng đến cuối, Thiên Chúa sẽ là Đấng hành động và xác định vĩnh viễn. Ai từ chối làm việc trong vườn nho sẽ bị loại khỏi Nước Trời (x. 21,31). Ai không giao nộp các hoa lợi của vườn nho và xử tệ với các tôi tớ của ông chủ sẽ bị mất vườn nho và phải chịu một kết thúc thảm thương (21,41). Ai không đón nhận lời mời đến dự tiệc, sẽ bị loại trừ (22,8).
2. Chúng ta có thể chọn lựa tự do, nhưng chúng ta không còn tự do nữa đối với các hậu quả của sự chọn lựa của chúng ta, bởi vì chúng ta không thể tự do xác định chúng, nhưng chúng thuộc về cách do Thiên Chúa xác định. Chúng ta có thể nói không với tiếng gọi của Thiên Chúa, nhưng chúng ta không thể đạt được sự thể hiện tốt đẹp cuộc sống chúng ta với tiếng không này. Cần phải ý thức như thế để không xử sự cách phi lý, khi không đón nhận tiếng gọi của Thiên Chúa.
3. Bữa tiệc không chứa những yếu tố khiến có thể nghĩ đến tiệc Thánh Thể, nhưng chính hình ảnh vẫn có thể gợi ra những bữa tiệc agapê và các cuộc cử hành phượng tự thường xuyên trong Hội Thánh. “Các đầy tớ” (douloi) của dụ ngôn thứ nhất ở đây được gọi là “những người phục dịch” (diakonoi); từ ngữ diakonoi khiến ta nghĩ đến các thừa tác viên trong các cử hành phụng vụ. Áo cưới nêu bật tình trạng thánh thiện và ân sủng mà người ta phải có để được đến gần bàn tiệc của Chúa.
4. Trong các dụ ngôn Cỏ lùng và Lưới cá (13,37-43.49-50), Đức Giêsu cũng đã nói rõ rằn Hội Thánh cũng là một phần của tập thể pha trộn là thế giới, “thửa ruộng” của Con Người. Như thế, các thành viên của Hội Thánh phải để ý đừng thuộc về “những kẻ xấu” đứng đó mà không có y phục lễ cưới. Chỉ có một người trong dụ ngôn bị cật vấn có nghĩa là từng người phải trả lẽ, chứ không thể cây dựa vào người khác.
5. Vào ngày chúng ta được rửa tội, chúng ta đã được mặc một áo trắng, và vị chủ lễ đã chúc chúng ta giữ cho nó được tinh tuyền cho đến ngày Phán xét. Nếu chúng ta đã làm hoen ố bộ áo rửa tội này, chúng ta vẫn có thể đến trình diện trước tòa của lòng từ bi thương xót, đo là bí tích hòa giải. Tại đây Đức Giêsu lại giặt sạch bộ áo cưới của chúng ta và lại mời chúng ta vào tham dự bữa tiệc vương giả của Người, trong niềm vui của tình thân mật đã tìm lại được. Như thế, cũng đừng bao giờ tự hào rằng mình đã “tới nơi”, cũng đừng phê phán ai. Không phải vì ta đang “ở trong” mà ta đã được bảo đảm, và có quyền xét đoán những người “ở ngoài”, những người chưa biết mà đi vào, hoặc thậm chí những người đã từ khước. Cho dù có ở trong Hội Thánh hay Nước Thiên Chúa, chúng ta vẫn chỉ là “khách được mời”, do ân huệ nhưng không.

Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình...
Tin Mừng không bao giờ cho chúng ta những định nghĩa to tát trừu tượng về Thiên Chúa, về thiên đàng, về Giáo hội. Không? Tin Mừng đúng ra là một là một cuốn sách cao cả bằng nhiều hình ảnh. Khi nhìn sự thành công về mặt truyền hình của các đám với hoàng gia thì hình ảnh mà Đức Giêsu sử dụng trong thời đại ấy xem ra còn mới... dù hình ảnh ấy có tính chất Phương Đông rõ nét.
Như thế, Đức Giêsu trình bày với chúng ta một Thiên Chúa làm đám cưới cho con trai mình: đây là câu chuyện đẹp nhất trần gian, câu chuyện tình yêu đẹp nhất! Rõ ràng là câu chuyện liên quan đến Người. Đức Giêsu là người yêu. Người đã cưới một hôn thê mà Người yêu say đắm: hôn thê đó là nhân loại. Hình ảnh hôn lễ này như “một sợi chỉ vàng" xuyến suốt toàn bộ Kinh Thánh: Hôsê 1 đến 3; I-sai-a 54,4-8 - 61,10 - 62,4-5; Giê-rê-mi-a 2,2 - 31,3; ê-đê-ki-en 16; Thánh vịnh 45,7-8,Diễm Ca, toàn bộ; Mác-cô 2, 19; Gioan 3;29; Mát-thêu 2 5, 1 -1 3 - 9, 1 5; Ê-phê-sô 5,25; 2 Cô-rin-tô 19,29 - 21,2-9' - 22,17; Khải Huyền 20,9 - 21,2-9 v.v...). Vâng, từ đầu này đến đầu kia của mạc khải, những quan hệ của Thiên Chúa với nhân loại là một "Giao ước" một "Lễ cưới". Điều đó sẽ thay đổi gì cho tôn giáo của tôi nếu như thay vì chỉ quan niệm tôn giáo ấy như những chân lý phải tin và những quy tắc về đạo đức phải tuân thủ, tôi đi đến chỗ quan niệm tôn giáo của tôi thật sự là "một câu chuyện tình yêu?
Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới...
Thiên Chúa mơ đến một bữa tiệc hoàn vũ cho nhân loại một bữa tiệc thật sự "vương giả"... một lễ hội! Bạn hãy thử hỏi bất cứ đứa trẻ nào để biết những trường hợp làm chúng rất sung sướng. "Đó là khi có nhiều khách mời đến nhà? ". Bữa ăn ngày lễ hội hoàn toàn là một biể u tượng của niềm vui được chia sẻ. Và ngày hôm nay vẫn thế, bữa tiệc cưới thường quy tụ nhiều khách khứa vui vẻ nhất: Món ăn chọn lọc, rượu ngon, tiếng nhạc lời ca, y phục lễ hội, khiêu vũ... Đến ngày lễ hội, bàn ăn đã sẵn sàng, Thiên Chúa cũng quy tụ các khách mời của Người. Nhưng khách được mời sắp làm gì?
Nhưng họ không chịu đến.
Ông vua tội nghiệp và thất vọng biết bao! Có gì mà chán nản.
Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi và dặn họ: "Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rãi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!".
Như trong dụ ngôn "những tá điền sát nhân", nhưng sự từ chối của nhân loại dường như không làm Thiên Chúa ngạc nhiên. Không chán nản, Người sai những đầy tớ khác đi để một lần nữa mời họ. Đây không phải là một câu chuyện cũ trong quá khứ. Hiện nay vẫn luôn luôn có những lời mời gọi. Trước tiên đây không phải là lời mời gọi của những người khác. Thiên Chúa đã gợi cho tôi một "thẻ" vào cửa. Tôi có nhận thức tôi đang được chờ đợi và có một chỗ đành cho tôi ở bàn ăn không? Thật vậy, tôi phải dùng thời gian để mỗi buổi tối tự hỏi về những lời mời gọi mà Thiên Chúa đã không ngừng gọi đến tôi suốt một ngày. Và mỗi Chúa nhật, hãy dùng thời gian để tự hỏi tôi đã bỏ lỡ những lời mời gọi nào của Thiên Chúa trong tuần.
Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì thăm trại, người thì đi buôn, còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết.
Nhu trong "mùa hái nho đẫm máu” của Chúa nhật vừa qua chúng ta như chìm ngập vào bi kịch. Tiệc cưới đẫm máu cũng là biểu tượng cho sự khước từ Thiên Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu kể lại câu chuyện này, có lẽ một ít ngày trước cuộc khổ nạn của Người... trong tuần lễ cuối cùng của Người. Cái chết của Người đã được các thủ lãnh ở Giêrusalem quyết định trong bóng tối. Nhưng, chúng ta biết rõ không chỉ liên quan đến những người đồng thời của Đức Giêsu. Chính tôi... chính thế giới hiện nay...đang từ chối lời mời của Thiên Chúa. Sự mô tả tâm trạng sâu kín của những khách được mời ấy có tính thời sự nóng bỏng. Đức Giêsu mô tả hai hạng người: 1. những người "thờ ơ” với một sự lãnh đạm hầu như tự nhiên không có vẻ gì quan tâm đến việc mình được mời, và một cách rất đơn giản họ để cho công việc của họ cuốn họ đi... 2. và đến những người."phản bác” họ từ chối lời mời một cách có ý thức và tham gia dùng bạo lực giết hại các đầy tớ.
Như thế Đức Giêsu mô tả cho chúng ta tình trạng của thế giới hiện đại một cách chính xác. Chỉ cần đưa ra một vài ví dụ xác đáng của ngày hôm nay dưới những từ ngữ của ngày xưa... "Làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ? Tôi chỉ có một ngày Chúa nhật để chơi bóng đá và quần vợt. Đó là ngày mà tôi sẽ di du lịch. Đó lâu ngày mà tôi sửa chữa máy móc trong nhà. Tôi đã nhảy đầm cả buổi tối thứ bảy, làm thế nào mà các ông muốn tôi đi lễ ngày Chúa nhật... Và rồi, tôi còn có bài tập phải làm và các kỳ thi phải ôn thi...". Thế đấy chúng ta đều bị xã hội tiêu thụ và chủ nghĩa duy vật ở xung quanh khống chế. Và chúng ta đều có nguy cơ cho Thiên Chúa đứng ở chỗ cuối. Biết bao âm thanh khác lấp mất những 'lời' kêu gọi của Người. "Hãy đến dự tiệc cưới của Ta?". Và chúng ta không hề nghe thấy!
Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng.
Lịch sử phương Đông cổ đại cung cấp cho chúng ta những giai thoại thuộc loại này. Nhưng một lần nữa, chúng ta biết mình đang ở trong thể loại dụ ngôn. Không nên tìm kiếm ý nghĩa chính xác cho mỗi chi tiết. Tuy nhiên, thành phố bị thiêu hủy làm chúng ta nghĩ đến một biến cố lịch sử chính xác đã lầm tổn thương những người Do Thái và những Kitô hữu của thế kỷ đầu tiên và đó là cơ hội để Hội Đường và Hội Thánh đoạn tuyệt nhau (Do Thái giáo và Kitô giáo tách rời nhau). Khi Mát-thêu viết câu chuyện này thì trong thực tế những đạo quân của Titus đã tàn phá thành Giêrusalem vào năm 70. Một số phận như thế đã có thể xảy đến cho thủ đô nổi tiếng của dân tộc ít-ra-en như thế nào? Những biến cố lịch sử có thể được giải thích theo nhiễu cách. Tuy nhiên, các ngôn sứ đã giải thích sự tàn phá của các thành phố lớn như một hình phạt của Thiên Chúa" (I-sai-a 5,26-29; Giê-rê-mi-a 5,15-17).
Rồi nhà vua bảo đầy tớ: "Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. Vậy các ngươi đi ra các ngã đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới". Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.
Vậy đây là những khách mời mà người ta không chờ đợi và chính họ chấp nhận lời mời. Những người Do Thái, những người khách mới đầu tiền, vì thế sẽ nhường chỗ cho dân ngoại.
Nhưng một lần nữa, chúng ta phải cảnh giác với sự tự mãn về chủng tộc. Bởi vì đây cũng là vấn đề của chính chúng ta. Một cách chân thật, chúng ta có thể đáp "vâng" với những lời mời gọi mà Thiên Chúa lặp lại trong đời sống hàng ngày của chúng ta hay không?
Đức Giêsu đã báo trước cho chúng ta: Căn phòng tiệc cưới sẽ đầy cho dù các "ông lớn" không thèm đáp lại. Người sẽ làm đầy phòng tiệc với những người rách rưới, bị loại trừ, những người đầu đường xó chợ. Thánh Luca trong bài dụ ngôn song song xác định rõ thành phần: "Các người nghèo khó, tàn tật, đui mù, què quặt" sẽ thế chỗ cho những người được mời đầu tiên (Luca 14,21). Và Mát-thêu, trong một đoạn văn khác cũng đã nói với chúng ta điều dó: Những người thu thuế và những cô gái.điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông"
Vậy các người đi ra các ngã động gặp ai cũng mời, tốt xấu gì cũng mời... ".
Chúng ta hãy để cho những lời khác thường ấy tra vấn chúng ta. Chúng ta có được tấm lòng cũng bao la như Thiên Chúa hay không? Chẳng phải chúng ta luôn luôn bị chủ nghĩa ưu tuyển cám dỗ sao? Chẳng phải chúng ta luôn luôn mơ đến một Giáo Hội của những người thanh khiết, những chiến sĩ, những người có đức tin hoàn toàn sáng suốt sao? Chẳng phải chúng ta coi nhẹ những thực hành của "tôn giáo bình dân sao?".
Còn Thiên Chúa, Người mời gọi mọi người, không phân biệt, đủ mọi thành phần. Người lại còn ưu ái đến những người nghèo, những người ở bên lề, những người bị bỏ rơi vì thiếu thốn, những người nghèo khổ.
Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, mới hỏi người ấy: "Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?". Người ấy câm miệng không nói được gì.
Lòng nhân từ của Thiên Chúa mời gọi tất cả mọi người xấu và tốt, không vì thế mà buông xuôi thành nhu nhược Biểu tượng về y phục thường gặp trong Kinh Thánh. Ơn cứu chuộc không bao giờ tự động có được: phải "đáp ứng" lời mời gọi của Thiên Chúa bằng sự biến đổi chính mình Phải "mặc lấy con người mới" (Ga-'lét 3,27; E-phê-sô 4,24; Cô-lô-xê 3,10).
Bấy giờ nhà vua bảo những người phục dịch: Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng?"
Hình phạt to lớn này và những từ ngữ khuôn sáo (Mt 8,12; 13,42; 24,51; 25,30) dùng để mô tả sự xét xử ấy làm nổi bật tính chất hoàn toàn tượng trưng của "Y phục lễ cưới", của chiếc áo dài hôn lễ! Đi vào trong phòng tiệc cưới một lần rồi thôi chưa đủ. Tiếp nhận Lời Chúa không phải để sau cùng cất Lời ấy vào chỗ an toàn.
Những người đã thay thế cho những khách mời đầu tiên cũng thế, không Phải là những người có quyền ưu tiên: nếu họ tỏ ra bất xứng với tiệc cưới của Thiên Chúa, họ sẽ bị ném "ra ngoài". Lời cảnh báo ấy rất nghiêm trọng? Nó cáo giác sự an toàn dễ dãi của chúng ta? Người tín hữu được nhắc nhở đến trách nhiệm của mình.
Lòng thương xót của Thiên Chúa thì vô cùng. Nhưng người ta không thể coi thường sự thánh thiện của Người. Khi chúng ta được linh mục "mời gọi" đến hiệp lễ trong thánh lễ chúng ta nghe Ngài đọc: "Phúc cho ai được mời đến dự tiệc Thiên Chúa". Và chúng ta chỉ có thể nói tiếng "vâng" nhưng trước hết phải nói rằng: “Lạy Chúa con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con... nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con được lành mạnh".

CẦN CÓ Y PHỤC XỨNG HỢP KHI DỰ TIỆC HOÀNG TỬ GIÊSU
Theo truyền thống, phong tục của nhiều dân tộc xưa, mỗi khi nhà vua cưới cho hoàng tử, thì các đại thần được ưu tiên mời, đồng thời mọi người dân cũng được hưởng ân lộc đó của nhà vua.
Còn với chúng ta hiện nay, không nhiều thì ít, hẳn mỗi người cũng đều được mời đi dự tiệc cưới của một ai đó.
Hôm nay, bài Tin Mừng cũng trình thuật câu chuyện Vua mở tiệc cưới cho Hoàng Tử. Một đám cưới rất đặc biệt cho cả người thiết đãi lẫn khách dự tiệc! Cách hành xử của Vua cũng như quan khách lại rất khác thường!
1. Ý nghĩa dụ ngôn
Trong dụ ngôn, chúng ta thấy Đức Giêsu đã khéo léo trình bày dung mạo của Thiên Chúa với lòng bao dung, độ lượng; đồng thời thấy được sự ích kỷ của khách mời. Mặt khác, Đức Giêsu còn mặc khải cho chúng ta biết rằng: hết mọi người đều được mời đến tham dự tiệc Nước Trời. Tuy nhiên, khi được mời thì cần phải có y phục xứng đáng.
Giờ đây, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của dụ ngôn:
Trước tiên, ông Vua chính là Thiên Chúa Cha: “Đức Chúa các đạo binh sẽ đãi muôn dân một bữa tiệc: tiệc thịt béo, tiệc rượu ngon, thịt béo ngậy, rượu ngon tinh chế” (Is 25, 6). Người luôn chuẩn bị sẵn sàng: “Này ta đã dọn tiệc sẵn rồi, đã hạ bò và súc vật béo tốt rồi, mọi sự đã sẵn sàng". Tuy nhiên, không chỉ những người ưu tuyển, mà Người còn quan tâm, để ý đến mọi người: “Hãy ra các ngả đường, gặp bất cứ ai, thì mời vào dự tiệc cưới".
Qua hình ảnh này, thần dân sẽ cảm thấy Người là vị Vua nhân hậu, hay thương xót và quảng đại với hết mọi người.
Thứ đến, Hoàng Tử chính là Đức Giêsu. Hôn Thê là Giáo Hội. Đây là hình ảnh đẹp tuyệt vời diễn tả tình yêu giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Hoàng Tử sẽ sống hết mình vì Hôn Thê. Chàng Rể này vì vâng lời Cha và yêu Hôn Thê của mình, mặc dù nhiều khi Hôn Thê phản bội, cố chấp, do sự hận thù, ích kỷ, bảo thủ, bất trung, bội nghĩa. Nhưng vị Hoàng Tử đặc biệt này đã sẵn sàng đón nhận tất cả, chịu đựng tất cả, yêu thương tất cả, đến nỗi chết cho người mình yêu.
Tiếp theo, khách được mời là dân Dothái, tuy nhiên họ đã khước từ và lấy lý do: “Người thì đi thăm trại, người thì đi buôn bán; những người khác thì bắt đầy tớ vua mà nhục mạ và giết đi”, vì thế, nhà Vua đã quyết định mời hết mọi người, không phân biệt. Ngày cưới là ngày chung cuộc, ngày phán xét, ngày Vua tập hợp tất cả mọi người trên mọi nẻo đường, mọi thành phần tốt cũng như xấu, và đến giờ, nhà Vua mới tiến vào và phán xét mọi người để phân biệt đâu là chiên và đâu là dê!
Cuối cùng là y phục lễ cưới: tiêu chuẩn để không bị xét xử là phải mặc y phục của lễ cưới. Nếu không sẽ bị đuổi ra ngoài.
Y phục mà Đức Giêsu muốn nói đến ở đây chính là sự đổi mới. Đổi mới là từ bỏ lòng ích kỷ cá nhân để mặc vào lòng bác ái vị tha. Từ bỏ sự hiềm khích, vô ơn, bất chính, để mặc vào  tình yêu thương chân chính và lòng biết ơn. Từ bỏ sự hờ hững, vô tâm để mặc lấy lòng nhiệt thành, liên đới, cảm thông.
Vì thế, mặc y phục lễ cưới là mặc lấy tinh thần mới, lối nhìn mới và cách sống mới. Tuy nhiên, thật tiếc thay, điều kiện của Vua thì rất là dễ, nhưng lại trở thành quá khó đối với một số người cố thủ trong ích kỷ, biếng nhác, tham lam và ghen ghét. Vì thế, họ bị đuổi ra ngoài: "Trói tay chân nó lại, ném nó vào nơi tối tăm, ở đó sẽ phải khóc lóc và nghiến răng! Vì những kẻ được gọi thì nhiều, còn những kẻ được chọn thì ít".
Như vậy, qua bài Tin Mừng, Đức Giêsu trình bày dung mạo một vị Vua hiền hậu lạ lùng: Ông tự ý mở tiệc và cho các đầy tớ hết lớp này đến lớp khác đi mời, dù khách được mời không thèm đến, lại còn giết các sứ giả được sai đến với họ.
Dung mạo vị Vua càng hiền hậu bao nhiêu thì càng làm nổi bật sự vô ơn bất xứng của khách được mời bấy nhiêu. Họ tỏ ra khinh mạn, hỗn xược với tấm lòng quảng đại của nhà Vua.
2. Thái độ của chúng ta trước lời mời gọi của Chúa
Trong đời sống Đạo của chúng ta hiện nay, nhiều khi không khác gì những người Dothái. Nên vẫn còn đó tình trạng: “Gần chùa gọi Bụt bằng anh”; hay không quan tâm đến việc sống đạo, mà chỉ quan tâm đến chuyện bề ngoài; hoặc không muốn nghe những lời giáo huấn của Chúa qua các đấng bậc trong Giáo Hội.
Tất cả đều khởi đi từ sự kiêu ngạo và ích kỷ. Họ để cho cái tôi quá lớn và coi mình đã đạo đức đủ nên không cần nghe và cũng chẳng có gì phải sửa!
Vì kiêu ngạo, nên không thể chấp nhận sửa sai, dù đó là Lời Chúa dạy.
Vì ích kỷ nên khó lòng chấp nhận ngồi lại với nhau để làm việc... bởi nghĩ rằng người anh chị em chúng ta không xứng tầm với mình, nên chẳng cần quan tâm.
Những người như vậy, họ như ly nước đã đầy, nên không thể tiếp thêm cho dù chỉ một giọt nước. Hay như mảnh đất quá khô cằn, nhưng khi mưa xuống thì họ lại che đậy lại, khiến nước mưa không thể tiếp xúc...
Sự hóng hách, khinh thường, chê bai, chỉ trích, bè phái... luôn luôn thường trực trong trái tim vốn đã hóa đá của họ, vì thế, nơi họ, không ai lấy đi được khỏi mắt họ cặp kính râm, vì thế họ nhìn mọi sự trước mắt đều là màu đen... tiêu cực.
Quả thật, họ đâu nhận ra tình thương của Thiên Chúa dành cho mình, nên việc khước từ ơn Chúa đến như những người được mời dự tiệc mà không hề để ý đến thiện tình của ông chủ là lẽ đương nhiên nơi những con người này.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đến tham dự bàn tiệc Nước Trời. Một cách cụ thể, đó là chúng ta được mời đến tham dự bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể Chúa hằng ngày nơi thánh lễ. Tuy nhiên, chúng ta đã đáp trả như thế nào? Thờ ơ lãnh đạm như dân Dothái xưa không đi dự tiệc vì quá nhiều bận rộn trong đời sống, hay chúng ta đi dự tiệc mà không mặc y phục lễ cưới là phẩm hạnh của bàn tiệc mà Đức Giêsu đòi hỏi như: y phục của lòng tin, cậy, mến; y phục của lòng ăn năn sám hối và sự kính trọng đối với Thiên Chúa; y phục của tình yêu thương, liên đới và chia sẻ với người nghèo!
Mỗi khi chúng ta hiệp dâng thánh lễ, ấy là lúc chúng ta được Thiên Chúa mời gọi vào dự bữa tiệc của tình yêu, chia sẻ, hiệp nhất. Khi được mời gọi như thế, hẳn chúng ta phải có một tâm hồn trong sạch để xứng đáng với hồng ân cao trọng này.
Đồng thời mỗi người chúng ta khi tham dự tiệc Thánh Thể, cần mặc lấy tinh thần tự hủy, liên đới vì tha thân để noi gương Đức Giêsu yêu thương hết mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con khi được tham dự bàn tiệc Thánh Thể và Lời Chúa thì cũng được biến đổi, để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa và đủ điều kiện để một ngày kia tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc. Amen.