SUY NIỆM CHÚA NHẬT 14 THƯỜNG NIÊN - A
MỤC LỤC
1. Ngược đời
2. Khiêm nhu
3. Hiền lành
4. Ách của Tôi êm ái
5. Khiêm nhường – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Gió và mặt trời
7. Ở hiền gặp lành – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
8. Dịu hiền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
9. Ai vất vả mang gánh nặng nề
10. Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an
11. "Hãy học cùng Ta..." – PM. Cao Huy Hoàng
12. Suy niệm của Lm. Trần Ngà
13. Hãy cầm lấy và đọc!
14. Học sồng hiền lành và ... Lm. Ignatiô Trần Ngà
15. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
16. Khiêm nhường
17. Mạc khải cho kẻ bé mọn – R. Veritas
18. Gánh nặng của Chúa Giêsu
19. Hiền lành và khiêm nhường
20. Ai là người mở mắt?
21. Thiên Chúa của chúng ta khiêm hạ thế nào.
22. Hiền lành
23. Mang lấy ách
24. Mang lấy ách
25. Hãy mang lấy ách của Ta
26. Gánh nặng
27. Vượt qua khổ đau
28. Con số không
29. Chướng ngại
30. Hiền lành
31. Chúa Cha
32. Hãy đến với Ta
33. Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
34. “Hãy đến với Ta”
35. Những kẻ bé mọn
36. Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi Noel Quesson.
37. Hãy mang lấy ''ách'' và ''gánh'' của Đức Giêsu
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Học hiền lành và ... với Chúa Giêsu catholic.org.tw
Khiêm nhường ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Học cùng Đức Giêsu .... Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Hiền lành và khiêm nhượng Lm Giuse Đinh lập Liễm
Học sống hiền lành và khiêm nhượng Lm Giuse Đinh tất Quý
Hiền lành và khiêm nhượng Lm Giuse Đinh tất Quý
Học khiêm nhượng Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Hãy học cùng Ta Suy niệm của Lm. Trần Ngà
Kinh tạ ơn của Chúa Giêsu Fiches Dominicales
Tin mừng mặc khải cho người... Học Viện Đà Lạt
Hãy học cùng Ta vì Ta.... Lm. Phêrô Lê văn Chính
2. Khiêm nhu
3. Hiền lành
4. Ách của Tôi êm ái
5. Khiêm nhường – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
6. Gió và mặt trời
7. Ở hiền gặp lành – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
8. Dịu hiền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
9. Ai vất vả mang gánh nặng nề
10. Mang ách của Chúa, sẽ gặp được bình an
11. "Hãy học cùng Ta..." – PM. Cao Huy Hoàng
12. Suy niệm của Lm. Trần Ngà
13. Hãy cầm lấy và đọc!
14. Học sồng hiền lành và ... Lm. Ignatiô Trần Ngà
15. Suy niệm của Lm. Giuse Trương Đình Hiền
16. Khiêm nhường
17. Mạc khải cho kẻ bé mọn – R. Veritas
18. Gánh nặng của Chúa Giêsu
19. Hiền lành và khiêm nhường
20. Ai là người mở mắt?
21. Thiên Chúa của chúng ta khiêm hạ thế nào.
22. Hiền lành
23. Mang lấy ách
24. Mang lấy ách
25. Hãy mang lấy ách của Ta
26. Gánh nặng
27. Vượt qua khổ đau
28. Con số không
29. Chướng ngại
30. Hiền lành
31. Chúa Cha
32. Hãy đến với Ta
33. Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long
34. “Hãy đến với Ta”
35. Những kẻ bé mọn
36. Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi Noel Quesson.
37. Hãy mang lấy ''ách'' và ''gánh'' của Đức Giêsu
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Học hiền lành và ... với Chúa Giêsu catholic.org.tw
Khiêm nhường ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Học cùng Đức Giêsu .... Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Hiền lành và khiêm nhượng Lm Giuse Đinh lập Liễm
Học sống hiền lành và khiêm nhượng Lm Giuse Đinh tất Quý
Hiền lành và khiêm nhượng Lm Giuse Đinh tất Quý
Học khiêm nhượng Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Hãy học cùng Ta Suy niệm của Lm. Trần Ngà
Kinh tạ ơn của Chúa Giêsu Fiches Dominicales
Tin mừng mặc khải cho người... Học Viện Đà Lạt
Hãy học cùng Ta vì Ta.... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Đọc lại Phúc Âm, chúng ta thấy
Chúa Giêsu hay dạy những điều ngược đời. Thực vậy, đang khi thiên hạ tranh nhau
ngồi chỗ nhất nơi đám tiệc, hay chiếm lấy một địa vị cao nơi một tập thể, thì
Chúa Giêsu lại dạy chúng ta phải tìm chỗ rốt hết: ai muốn cầm đầu thì hãy làm
kẻ đầy tớ. Đang khi thiên hạ tìm đủ mọi cách để trưng ra nào bằng cấp, nào địa
vị, nào chức tước thì Chúa Giêsu lại cho chúng ta hiểu rằng những kẻ bé mọn là
những người chiếm ưu thế nơi tình thương của Thiên Chúa: Con xưng tụng Cha vì
Cha đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy
mà lại mạc khải cho những kẻ bé mọn.
Về những điều ngược đời ấy Chúa
Giêsu không phải chỉ giảng dạy bằng lời nói, mà còn bằng cả cuộc đời của Ngài.
Từ trời cao Ngài đã xuống thế làm người. Khi mở mắt chào đời, Ngài có thể sinh
ra nơi đền hờ, vì đền thờ vốn được coi là nhà của Ngài, thế nhưng Ngài đã chọn
máng cỏ hang đá Bêlem. Ngài đến trong cương vị của Đấng cứu thế, nhưng Ngài lại
bị Hêrôđê tìm giết. Trên đường Ngài đi không có thảm đỏ, không có binh lính dàn
chào, cũng không có các tư tế nghinh đón. Những người bạn của Ngài và ngay cả
những người Ngài đã chọn để tiếp nối sứ mạng của Ngài đều là những kẻ quê mùa
dốt nát, những kẻ thu thuế bị đồng hoá với phường tội lỗi. Cả một thế giới
những con người không có chỗ đứng trong xã hội bấy giờ.
Và cuối cùng, bản thân Ngài đã
bị treo trên thập giá, một án phát cho hạng người nô lệ. Ngài đã ở vào chỗ rốt
hết, chẳng có chi là danh giá.
Trở lại đoạn Tin Mừng, những kẻ
bé mọn trước tiên là các tông đồ, rồi đến những kẻ nghèo túng, yếu thế, những
kẻ chẳng mấy được quan tâm. Vậy thì họ được Chúa mạc khải cho những gì? Tôi xin
thưa họ được Chúa mạc khải cho biết chương trình cứu độ mà Ngài thực hiện. Đồng
thời bản thân họ cũng đã đón nhận và tin vào Ngài như vị cứu tinh của họ.
Đứng trước ơn cứu độ Thiên Chúa
trao ban, hoàn toàn do sáng kiến tình thương của Ngài, những kẻ không có gì để
bám víu, để tự mãn, lại là những kẻ có ưu thế nhất. Và như vậy, kẻ rốt hết lại
là kẻ đầu hết. Còn chúng ta thì sao, mặc dù đã nghe và đã biết chủ trương ngược
đời của Chúa Giêsu như thế, nhưng trong thực tế chúng ta lại muốn xử sự theo sự
khôn ngoan của người đời, bởi vì nhiều khi chúng ta muốn rao giảng Tin Mừng
bằng uy quyền, bằng sự phô trương giàu sang và thanh thế, bằng sự xa lánh tất
cả những gì mang dấu vết của thập giá, thành thử chúng ta không còn những người
môn đệ đích thực của Đức Kitô nữa.
Một vị quan tể tướng đời Đường
rất lừng danh và có lòng mộ đạo chân thành. Thầy của ông là một bậc cao tăng.
Hai thầy trò rất tâm đồng ý hiệp với nhau, không phân biệt địa vị hay chức
quyền. Ngày kia quan tể tướng bèn hỏi: Xin thầy giải thích kiêu căng nghĩa là
gì? Thầy liền đổi sắc mặt, trợn mắt hỏi với một giọng khinh miệt: Mi hỏi ta gì
đó, đồ ngu. Cử chỉ và lời nói bất ngờ ấy làm cho gương mặt quan tể tưởng đỏ
bừng lên. Bấy giờ vị cao tăng mới ôn tồn nói: Thưa, đó chính là sự kiêu căng
đấy.
Câu chuyện trên như muốn vạch
trần cái gốc rễ của tính kiêu căng. Đó là không chấp nhận những giới hạn của
mình, không sẵn sàng đón nhận sự thật. Và tệ hơn nữa, sự kiêu căng còn là
nguyên nhân làm cho con người không còn biết mở rộng cõi lòng để đón nhận Thiên
Chúa. Chính vì thế mà Kinh Thánh đã xác quyết: Chúa hạ bệ những kẻ quyền hành
và nâng cao những người khiêm nhu. Hay nói một cách khác, Chúa chán ghét những
kẻ kiêu căng và yêu thương những người khiêm nhường.
Thực vậy, một Lucifer kiêu
căng, dám ngang nhiên tuyên bố: Tôi không phục tùng Thiên Chúa nữa. Một Adong
Eva kiêu căng muốn trở nên bằng Thiên Chúa, số phận họ như thế nào hẳn chúng ta
cũng đã biết: Lucifer và các thần dữ thì lãnh nhận bản án lưu đày hoả ngục. Còn
Adong Eva thì bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng với cảnh khổ đau và chết chóc.
Trong khi đó, một David khiêm
nhường sám hối đã được Thiên Chúa tha thứ và chọn dòng dõi ông làm nơi phát
sinh Đấng Cứu Thế. Một Maria khiêm nhường với thân phận người tôi tá Chúa nên
đã được đặt làm Mẹ Ngôi Hai giáng trần. Một Gioan khiêm nhường không xứng đáng
cúi xuống cởi dây giày cho Ngài, đã được khen ngợi là cao trong hơn hết mọi
người nam.
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay, một lần nữa, Chúa Giêsu lại xác quyết như thế: Lạy Cha là Chúa Tể trời
đất, con xưng tụng Cha vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái
biết những mầu nhiệm Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy
Cha, vì đó là sở thích của Cha.
Từ đó chúng ta có thể kết luận,
Chúa yêu thương những người khiêm nhu. Đó là một sự thật, một chân lý, một kinh
nghiệm sống ngàn đời không hề đổi thay. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực
sự sống tinh thần đơn sơ bé nhỏ và khiêm cung như Chúa mong muốn hay chưa?
Mặt trời và gió luôn tranh cãi
xem ai mạnh hơn ai. Hôm đó, có một người mặc áo choàng đi trên con đường vắng.
Mặt trời nói với gió:
- Ai làm cho người ấy cởi bỏ
chiếc áo choàng mau hơn thì sẽ thắng cuộc.
Gió đồng ý và ra tay trước.
Chàng ta càng thổi thì người kia lại càng giữ chặt lấy chiếc áo. Cuối cùng
chàng gió kiệt sức và đành chịu thua.
Lúc đó mặt trời mới ra tay. Bác
ta toả xuống những tia nắng khiến người kia cảm thấy nóng bức. Và thế là người
ấy phải cởi áo ra.
Tác giả câu chuyện trên đã kết
luận như sau: Bạn có thể thành công nhờ sự hiền lành dễ thương hơn là nhờ bạo
lực.
Ngày nay sự hiền lành dễ thương
không còn được đánh giá cao như trước, bởi vì ngày nay bạo lực được phổ biến và
có mặt khắp nơi, trên báo chí cũng như trên phim ảnh và truyền hình.
Thật khác xa với lời Chúa dạy:
Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Tiên tri Isaia đã nói trước về
sự hiền lành của Đức Kitô như sau: Ngài không la hét, không to tiếng hoặc ăn
nói ồn ào ngoài đường phố. Người không bẻ gẫy cây sậy bị giập, không thổi tắt
ngọn đèn còn leo loét.
Một thí dụ tuyệt hảo về sự hiền
lành dễ thương của Chúa là cách thức Ngài xử lư đối với người phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình. Ngài chẳng những dễ thương đối với người phụ nữ, mà
còn dễ thương với cả những kẻ tố cáo chị ta, vốn tự cho mình là công chính.
Chúa Giêsu không la hét, không quát mắng, nhưng Ngài chỉ cúi xuống và viết trên
cát.
Ngài khuyên chúng ta bắt chước
người mục tử hiền lành trong dụ ngôn con chiên lạc. Người ấy không hề đánh đập
hay lôi kéo con chiên về nhà, trái lại đã vác nó trên vai. Ngài cũng khuyên
chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng. Ông ta đã không
quở mắng đánh đập, trái lại đã ôm hôn cậu và mở tiệc ăn mừng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay chứa đứng
một lời mời gọi quan trọng, đó là hãy noi gương bắt chước Chúa sống hiền lành
và khiêm nhường. Cố gắng đối xử với mọi người bằng sự nồng thắm chân tình. Tiếp
đến là hãy đối xử với những kẻ làm hại chúng ta theo cách đối xử của Chúa đối
với người phụ nữ ngoại tình, của người cha đối với đứa con hoang đàng, của
người mục tử đối với con chiên lạc. Nghĩa là hãy cảm thông hơn là kết án.
Và sau cùng là hãy đối xử với
những người đang phải mang lấy gánh nặng của khổ đau, của bất hạnh một cách
khéo léo và tế nhị, hầu đem lại cho họ sự an ủi và khích lệ. Tóm lại, chúng ta
hãy thực thi lời khuyên nhủ của Chúa: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành
và khiêm nhường trong lòng.
Suy Niệm
Khi quy hoạch thành phố tương
lai, người ta không quên dành một khu vui chơi giải trí.
Nghỉ ngơi thư giãn là một nhu
cầu quan trọng cho những ai sống trong nền kinh tế thị trường.
Nghỉ ngơi không chỉ cần cho
thân xác hay trí óc. Nghỉ ngơi còn cần cho tâm hồn.
Cái tâm của chúng ta cần được
sống trong an tĩnh giữa sóng gió dao động, giữa chợ đời bon chen.
Nhiều người bị suy nhược thần
kinh, bị stress.
Có người tự tử vì không đủ sức
để tiếp tục sống.
Đức Giêsu mời chúng ta đến với
Ngài, tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề.
Gánh nặng của nỗi đau và vấp
ngã trong quá khứ
Gánh nặng của trách nhiệm và
yếu đuối hiện tại
Gánh nặng phải mang vì người
khác...
Tất cả những ai bị căng thẳng
và lo âu, chán chường và mệt mỏi. Tất cả những ai muốn tìm một chút nghỉ ngơi.
Hãy đến với Ngài, ta sẽ gặp được sự an tĩnh.
Hãy mang lấy ách của tôi.
Đức Giêsu không ngần ngại nói
đến ách của Ngài mà những kẻ đến với Ngài phải mang.
Ngài không giấu ta về những đòi
hỏi nghiêm túc, về con đường hẹp mà ít người muốn đi, về thánh giá mà ta phải
vác để theo Ngài.
Như thế sự an bình thư thái
Ngài hứa ban đâu phải là thứ bình an rẻ tiền, không cần từ bỏ.
Đó là thứ bình an ngay giữa khổ
đau và nước mắt, vì biết mình được Thiên Chúa yêu thương, vì xác tín là mình
đang làm đúng ý Thiên Chúa.
Nếu ách của Ngài êm và gánh của
Ngài nhẹ, thì là vì chúng được đón nhận trong tình yêu.
Tình yêu làm cho mọi sự trở nên
êm nhẹ.
"Chỗ nào có lòng yêu mến,
thì không cảm thấy vất vả; mà giả như có vất vả đi nữa thì người ta cũng thích
cái vất vả đó" (thánh Âutinh)
Hãy học với tôi.
Đức Giêsu kêu gọi chúng ta làm
học trò của Ngài.
Chúng ta học trường Giêsu, học
Thầy Giêsu, học bài Giêsu.
Bài học nằm nơi chính trái tim
Ngài: "Vì tôi có trái tim hiền hậu và khiêm nhu."
Khi mang trong mình những tâm
tình của Thầy Giêsu thì tâm hồn ta sẽ được bình an trở lại.
Chúng ta cần theo học Thầy
Giêsu suốt đời, cần lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, cần sống hồn
nhiên khiêm tốn như trẻ thơ.
Chỉ như thế chúng ta mới được
Thầy Giêsu mạc khải, và đưa vào thế giới của Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gánh
nặng mà con người hôm nay phải mang vác? Đâu là gánh nặng của người nghèo và
của người giàu? Đâu là nỗi vất vả và gánh nặng của người trẻ hôm nay?
Bạn thấy theo đạo có phải là
một gánh nặng không? Giữ đạo nặng nề ở điểm nào? Có cách nào làm cho nó nhẹ
nhàng hơn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho con trở nên đơn sơ bé
nhỏ, nhở đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và hoạt
động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc
lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ.
Xin dạy con sự hiền hậu để con
biết cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con sự khiêm nhu để con
dám buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng, xin cho con sự bình
an sâu thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc và được cùng
Ngài chịu khổ đau. Amen.
Chúng ta thường tuyên xưng
Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, phép tắc vô cùng. Khi tuyên xưng Thiên Chúa là
Đấng Toàn Năng, ta thường nghĩ đến một Thiên Chúa oai nghi bệ vệ, cao sang
quyền thế, xa cách. Ta không nghĩ hay không dám nghĩ rằng Thiên Chúa thật rất
khiêm nhường. Thực sự Thiên Chúa rất khiêm nhường.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa ẩn mình trong vô hình. Ở đời, một người quyền thế chiếm rất nhiều không gian
của người khác. Người quyền thế ở nhà lớn, ngồi ghế rộng. Sự hiện diện của họ
khiến mọi người khép nép, nói năng mất tự nhiên, đi đứng phải nhìn trước nhìn
sau. Nếu bây giờ Thiên Chúa hiện hình đứng giữa chúng ta. Chắc hẳn chúng ta
chẳng thể ngồi thoải mái như bây giờ. Trái lại chúng ta sẽ quì sụp xuống, gục
đầu, đấm ngực ăn năn. Nhưng Thiên Chúa đã che giấu dung nhan. Người ẩn mình
trong vô hình để cho ta được tự do. Người nhường không gian cho con người.
Người tự trở nên một Đấng nghèo hèn, bé nhỏ đến độ bị người đời quên lãng.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa im lặng. Trong xã hội, người uy quyền thường nói nhiều. Người nhỏ phải
nghe người lớn, người nhỏ có muốn nói cũng bị tiếng người lớn át đi. Thiên Chúa
đã tự trở nên bé nhỏ. Người im lặng nhường lời cho con người. Người lắng nghe
con người cả khi họ chỉ trích, chống đối, lên án Người. Người trở nên một Đấng
bé nhỏ nghèo hèn, khép nép, im lặng trong thế giới ồn ào của loài người.
Vì khiêm nhường nên Thiên Chúa
đã cúi xuống thân phận con người. Con người chẳng là gì mà Chúa vẫn thương.
Người còn cúi xuống sâu hơn nữa trước những kẻ tội lỗi để nâng họ lên. Khi
người ta cúi xuống trước một kẻ cao trọng, sự khiêm nhường ấy đáng nghi ngờ.
Nhưng khi người ta cúi xuống trước một thân phận tội lỗi, nghèo hèn, sự khiêm
nhường ấy rất chân thực.
Chính sự khiêm nhường thẳm sâu
làm chứng quyền năng vô biên của Thiên Chúa. Thông thường ở đời, quyền năng là
để chiến thắng, để chế ngự, để đè bẹp. Ai chống lại quyền lực, quyền lực sẽ
nghiền nát người ấy. Trái lại, nơi Thiên Chúa, quyền năng là để chịu thua, để
yêu thương, để tha thứ. Sức mạnh không ở nơi quyền lực. Quyền lực bộc phát là
quyền lực không tự kiềm chế được. Trái lại, khiêm nhường là chế ngự được sức
mạnh của mình. Đó mới chính là quyền năng thực sự mạnh mẽ.
Thiên Chúa vô hình. Có lẽ ta sẽ
khó mà hiểu biết sự khiêm nhường của Thiên Chúa, nếu ta không nhìn thấy sự
khiêm nhường của Chúa Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc
đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Ngài không ngừng đi xuống. Từ trời cao Người đã hạ mình xuống thế. Từ thân phận là Thiên Chúa
Người đã hạ mình xuống làm một người bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người
đã tự nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là thánh thiện vô cùng,
Người đã tự nhận lấy thân phận tội đồ. Là Đấng hằng sống, Người đã tự nguyện
chết đi. Suốt cuộc đời, Người đã không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối,
nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Và một cử chỉ không thể nào quên là trong bữa
tiệc ly, Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Người đã hạ mình xuống tận
cùng, không còn có thể xuống hơn được nữa.
Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn
tìm đường đi xuống, nên những ai kiêu căng tìm nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ
gặp được Người. Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường nhỏ bé mới gặp
được Người.
Hôm nay Chúa Giêsu tha thiết
mời gọi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm
nhường trong lòng”. Hãy ghi danh vào học trường
Chúa Giêsu. Hãy học bài học khiêm nhường. Hãy học bài học Giêsu. Hãy học với
Thầy Giêsu. Hãy bước theo Thầy Giêsu xuống những bậc thang khiêm nhường thẳm
sâu. Ở bậc thang cuối cùng, Thiên Chúa đang chờ đợi ta, ta sẽ gặp được Người.
Ta sẽ kết hiệp với Người. Ta sẽ rũ sạch mọi vất vả lo âu. Ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và
khiêm nhường trong lòng. Xin uốn lòng con nên giống như trái tim Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1. Những dấu nào cho thấy sự
khiêm nhường của Chúa?
2. Có quyền ăn nói, nhưng im
lặng nhường lời cho người khác. Có vị thế cao, nhưng ẩn mình nhường chỗ cho
người khác. Có dễ không?
3. Sức mạnh bùng nổ trên người
khác. Và sức mạnh chế ngự chính mình. Đàng nào mạnh hơn?
4. Thiên Chúa tuyệt đối khiêm
nhường. Khám phá này có tác động gì trên bạn không?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia
Sẻ’)
Trong tập “Những ngụ ngôn của
Ê-xốp”có một câu chuyện ngụ ngôn kể về cuộc tranh cãi giữa mặt trời và gió. Hai
nguồn năng lượng này cãi nhau xem ai mạnh hơn ai.
Ngày nọ, một cơ hội xảy đến
giúp cả hai dàn xếp được cuộc tranh cãi. Hôm đó, có một người mặc áo choàng
đang đi trên một con đường quê hoang vắng. Mặt trời liền thách thức với gió:
“Ai làm cho người ấy cởi bỏ chiếc áo choàng ra mau hơn thì người ấy là người
thắng cuộc”. Gió ta chẳng những đồng ý mà con quyết định ra tay trước. Chàng
gió bèn thổi tới tập, nhưng càng thổi thì người kia càng giữ chặt lấy chiếc áo
choàng, sợ nó tung bay mất. Cuối cùng, kiệt sức, gió ta đành phải chịu thua.
Lúc đó mặt trời mới ra tay. Ông mặt trời chiếu toả hết vinh quang của mình ra.
Chỉ trong mấy phút, người nọ nóng quá phải cởi bỏ chiếc áo choàng ra.
Cuối câu chuyện ngụ ngôn, Ê-xốp
bàn luận: “Bạn có thể thành công nhờ sự dịu hiền dễ thương hơn là nhờ bạo lực”.
Anh chị em thân mến,
Trong một thế giới mà những quy
luật “mạnh được yếu thua”, “lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng”, hoặc “được làm
vua thua làm giặc”, gần như là tất yếu và phổ biến, thì lời giảng dạy của Chúa
Giêsu về đức hiền lành và khiêm nhường, quả thực rất khó được chấp nhận và xác
tín, nếu không muốn nói là chướng tai và ngược đời.
Hôm nay, Lời Chúa vẫn tiếp tục
mời gọi chúng ta: “Hãy học cùng Thầy vì Thầy có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.
Hiền lành và khiêm nhường là hai đức tính đặc biệt nhất ở nơi Chúa Giêsu. Thánh
Phaolô đã nói: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế, Ngài lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”
(Pl 2,6-8). Phải chăng đó là một sự khiêm nhường tột cùng của một Thiên Chúa
làm người; hạ mình xuống rốt chót mọi người, lãnh nhận cái chết của tên nô lệ
bị đóng đinh thập giá.
Trong Tin Mừng hôm nay Chúa
Giêsu còn cho biết: những người có tâm hồn bé nhỏ, khiêm nhường là những người
được Chúa yêu thương đặc biệt và được Chúa tỏ ra cho biết những Mầu nhiệm Nước
Trời. Vì chỉ những ai có tâm hồn bé nhỏ mới có tinh thần và trái tim rộng mở
đón nhận Lời Chúa. trong lời cảm tạ Chúa Cha, Chúa Giêsu đã nói: “Lạy Cha, Con
ngợi khen Cha vì đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm
Nước Trời, mà lại mạc khải cho người bé mọn”.
Nhưng ai là những kẻ bé mọn?
Theo Tin Mừng Thánh Matthêu,
những kẻ bé mọn là những người nghèo khổ, những người yếu thế, những kẻ đang
vất vả và phải mang gánh nặng. Trong Do Thái giáo, cái ách hay là gánh nặng
thường là hình ảnh của những luật lệ. Các thầy thông luật tự cho mình là khôn
ngoan thông thái, thường hay bày vẽ ra đủ thứ luật lệ mà những kẻ đơn sơ, bé
mọn dù cố gắng đến đâu cũng chẳng thể nào tuân giữ trọn vẹn được. Làm sao đầu
óc đơn sơ chất phác của họ phân biệt nổi cái gì chính yếu, cái gì thứ yếu trong
những luật lệ chi li lắt léo mà đầu óc mấy ông Pharisêu, những kẻ có tinh thần
nệ luật, chỉ biết sống nô lệ, như cái máy, đã chỉ có khả năng là giăng lưới gài
bẫy, khiến những kẻ đơn sơ chất phác không thể nào lọt vào được bên trong cái
thế giới thánh thiêng cao cả mà họ đã dựng lên. Chúa Giêsu không thể chấp nhận
một thứ vương quốc của Thiên Chúa chỉ dành riêng cho những kẻ khôn ngoan thông
thái và những kẻ đạo đức giả chỉ biết cậy vào thành tích giữ luật của mình. Ngài
đã đến như một người nghèo sống giữa người nghèo và loan báo Tin Mừng cho người
nghèo. Nước Trời mà Ngài loan báo là một vương quốc mở ra cho những người bé
mọn, nghèo hèn, nghèo về thể chất đã đành, nhưng cũng nghèo về tinh thần nữa,
nghĩa là những người tội lỗi.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là
người chủ trương vô luật lệ. Ngài cũng có những đòi hỏi của Ngài. Nhưng luật lệ
của Ngài là “cái ách êm ái”, “cái gánh nhẹ nhàng”. Vì ách đó, gánh đó chính là
lòng yêu thương. Lòng yêu thương này Ngài mời gọi chúng ta cùng chia sẻ với
Ngài. Nhưng để có thể yêu thương, con người phải biết sống hiền từ và khiêm
tốn. Bởi vì kẻ kiêu ngạo không thể biết yêu thương: họ chỉ biết chiếm đoạt và
thống trị. Họ cũng không thể hiền từ với tha nhân, trái lại, luôn luôn là những
kẻ độc ác.
Thưa anh chị em,
Cuộc đời của Chúa Giêsu thật
đơn sơ giản dị. Ngài sống giữa loài người như một người anh em nhỏ bé nghèo
hèn, không thích giàu sang, chẳng muốn dùng quyền để thống trị và cũng chẳng tỏ
ra khinh khi chê ghét một người nào, cho dù là kẻ tội lỗi. Trái lại Ngài đã đặc
biệt ưu ái những người này, tới mức bị thiên hạ dị nghị, coi Ngài là bạn thân
của những người tội lỗi. Sở dĩ như thế là vì chân lý Ngài mặc khải không phải
là thứ chân lý trừu tượng cao siêu mà những bậc khôn ngoan thông thái của trần
gian ưa suy luận, nhưng chân lý của Chúa là chân lý của tình thương mà tình
thương là ngôn ngữ mà cả trẻ thơ măng sữa cũng hiểu được.
Nhân loại chúng ta có quá nhiều
những nhà bác học, những nhà hiền triết thông hiểu những điều cao siêu huyền
bí. Và trong Giáo Hội chúng ta cũng không thiếu những bậc khôn ngoan thông
thái, nhưng có lẽ chúng ta hơn bao giờ hết lại cần đến thứ ngôn ngữ giản dị
nhất, đó là tình thương, một thứ ngôn ngữ có khả năng tuyệt vời để mặc khải
chân lý của Chúa, bởi vì Thiên Chúa là tình thương và chỉ có ai yêu thương mới
biết Thiên Chúa, còn ai không yêu thương thì không biết Ngài. Mà đã không biết
Thiên Chúa thì làm thế nào có thể rao giảng hay làm chứng về Ngài được?
Là con cái của Chúa và là anh
chị em của nhau, chúng ta hãy lấy tình thương, lòng hiền hoà mà đối xử với
nhau, thay vì tàn nhẫn, xâu xé lẫn nhau. Hãy khiêm tốn phục vụ nhau, thay vì tự
tôn, tự phụ mà đè đầu cỡi cổ người khác. Chính tình yêu làm cho con người trở
nên đơn sơ, hiền hoà và khiêm tốn. Cũng chính tình yêu làm cho con người sẵn
sàng nâng đỡ gánh nặng cho người khác, hơn làm khổ cho người mình yêu. Đó là lý
do tại sao Chúa Giêsu, Đấng là hiện thân của chân lý tình thương lại sống đơn
sơ, hiền từ, khiêm tốn và đã mời gọi chúng ta hãy đến học với Ngài.
Là Kitô hữu, chúng ta tin rằng
sự dịu hiền của Chúa Kitô và tình yêu của Ngài cuối cùng sẽ thắng được bạo lực
và áp bức.
Cha ông ta vẫn thường dạy con
cái: "Ở hiền gặp lành". Người ăn ở hiền lành, người sống có nhân, có nghĩa ắt trời sẽ ban
cho nhiều phúc lộc dư tràn. Ngược lại, nếu sống ác nhân ác đức, trời sẽ quả báo
những tai hoạ khó lường.
Thế nhưng, hiền lành có phải là
"tĩnh tọa như Bụt"? Ai muốn làm gì thì làm hay không? Thưa không, mà
hiền lành ở đây là biết sống đúng với vị trí của mình. Là biết sống đúng với
phẩm giá của mình. Là biết tôn trọng phẩm giá của mình. Một con người có phẩm
giá cao đẹp là một con người có lý trí đủ để suy biết điều hay lẽ phải, có ý
chí vững mạnh để không bị sự gian ác làm hại bản thân và tha nhân, có sự chọn
lựa đúng đắn và chuẩn mực về cái hay, cái đẹp, cái phải, cái trái. Là người
phải biết phân biệt phải quấy. Biết nói không với điều ác. Không thỏa hiệp với
gian tà. Vì "im lặng là đồng lõa" và hùa theo là "đồng
phạm". Người không có trí khôn, làm theo lời người khác thì không có tội,
nhưng người hiền lành không thể làm chuyện ác, chuyện lừa dối để rồi đổ lỗi cho
hoàn cảnh. Nếu đổ lỗi cho hoàn cảnh thì trên đời này ai phạm tội cũng vì hoàn
cảnh mà ra. "Túng quá hóa liều", "Nóng mất khôn", "Tức
nước vỡ bờ". Trong một phân tích về lý do phạm tội của các tù nhân thì có
80% tội nhân cho rằng mình phạm tội là do hoàn cảnh. Như vậy, sự hiền lành là
một thái độ sống dung hoà với mọi người. Sự hiền lành sẽ giúp cho con người
hành xử theo tình, theo lý và theo lẽ phải nhưng với một thái độ ôn hoà với đầy
lòng bác ái bao dung.
Hôm nay Chúa nói: "hãy học
cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". Sự hiền lành của
Chúa không phải là đi tìm sự thỏa hiệp với thế gian. Chúa không im lặng trước
sự dữ. Chúa đã từng lên án gắt gao thói giả hình và gian tà của những kẻ biệt
phái. Chúa đã từng xô đuổi con buôn ra khỏi đền thờ. Chính vì những điều Chúa
làm, những lời Chúa nói đã ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo, đến địa vị, chỗ
đứng của các biệt phái mà người ta tìm cách giết Chúa. Sự hiền lành của Chúa là
vì công lý mà chịu nhiều thiệt thòi không kháng cự. Vì dám nói sự thật mà phải
chết nhục nhã trên cây thập giá, nhưng Ngài không oán hận, và còn xin cùng Chúa
Cha tha cho họ vì họ không biết việc họ làm. Chúa đấu tranh nhưng bất bạo động,
vì "ai dùng gươm sẽ chết vì gươm", "oán báo oán, oán chập
chùng" và còn tha thứ cho sự xúc phạm của tha nhân không chỉ "7 lần
mà là 70 lần bảy".
Trong tám mối phúc, Chúa đã
chúc phúc những cho ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nườc Trời là của họ.
Như thế hiền lành ở đây là sống thật và
làm chứng cho sự thật. Không nhượng bộ, không thỏa
hiệp với dối gian. Cho dù vì lẽ công chính mà mình bị bách hại, bị thiệt thòi
vẫn chấp nhận, vì phần thưởng của chúng ta là Nước trời.
Sự hiền lành của Chúa còn hệ
tại ở sự cảm thông với lỗi lầm của
người khác. Không thành kiến đối với những người bị xã
hội ruồng bỏ. Ngài yêu thương họ. Ngài đến để đối thoại với họ. Ngài mở cho họ
một con đường mới. Ngài giúp họ làm lại cuộc đời như Madalena, như Giakêu, hay
như người thiếu phụ bên bờ giếng Giacóp.
Sự hiền lành thường đi song song với khiêm tốn. Hiền lành để tha nhân dễ gần chúng ta và khiêm tốn để ta dễ hòa
đồng với tha nhân. Tuy hai nhưng là một mục đích. Tạo cơ hội cho chúng ta đến
với tha nhân và tha nhân đến với ta. Kẻ kiêu căng thường phân loại để chơi.
Người khiêm nhường thì đối xử mọi người như nhau. Người hiền lành ai cũng muốn
tới gần. Kẻ gian ác ai cũng chạy xa. Chúa Giêsu Ngài hiền lành và khiêm nhường
nên ai cũng có thể tiếp xúc với Ngài, và Ngài cũng có thể gặp gỡ trao đổi với
mọi người. Từ em bé đến người già. Từ người giầu có đến kẻ hèn. Từ người công
chính đến tội lỗi.
Xin Chúa giúp chúng ta biết học
nơi trái tim yêu thương của Chúa: "sự hiền lành và khiêm nhường trong
lòng". Ngài không ở trên cao nhưng tự hạ mặc lấy thân phận con người. Ngài
còn dạy chúng ta bài học khiêm tốn khi quỳ gối rửa chân cho các môn đệ. Một cử
chỉ khiêm tốn đến nỗi Phêrô đã bộc trực thốt lên: "Không đời nào Thầy lại
rửa chân cho con sao?". Đó là một sự tự hạ không ủy mị hay luồn cúi mà là
bài giáo huấn sống động về tinh thần hy sinh phục vụ lẫn nhau. Ngài đã dạy
chúng ta hãy sống đúng với thân phận con người là lệ thuộc vào Chúa. Ngài đã
dạy chúng ta hãy hạ mình để sống hòa hợp với tha nhân. Đừng tự cao tự đại để
gạt Thiên Chúa ra bên ngoài như Adam - Evà năm xưa chỉ dẫn tới diệt vong. Đừng
tự cao tự đại đến nỗi đè bẹp người khác để mình được tôn vinh. Đừng khinh bỉ
người tội lỗi, bất hạnh nhưng yêu thương và tôn trọng họ. Và trên hết, hãy mang
lấy tâm hồn trẻ thơ để luôn đơn sơ và bé nhỏ trước mặt Chúa, trước mặt tha
nhân. Vì sự đơn sơ và bé nhỏ là dấu chỉ đặc thù của sự hiền lành và khiêm
nhường trong lòng. Đây cũng là phương thế để chúng ta đón nhận mạc khải Nước
Trời và đón nhận tình thương của Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta.
Amen.
Truyện kể: Thánh Jean Vianney,
lúc còn là chủng sinh học hành rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học thừa
lệnh Đức giám mục, đến khảo sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tiến tới
chức linh mục không. Vianney không thể trả lời xuông sẻ câu hỏi nào cả. Vị giáo
sư nổi nóng đập bàn nói: Vianney, anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như
anh, Giáo Hội hy vọng làm nên trò trống gì? Vianney khiêm tốn bình tĩnh trả
lời: Thưa Thầy, ngày xưa Samson chỉ dùng một cái xương con lừa mà đánh bại 3
ngàn quân Philistin. Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc
gì sao?
Sách tiên tri Giacaria được xếp
vào áp cuối của bộ sách Cựu Ước. Giacaria sinh sống tại Giêrusalem và thi hành
sứ vụ tiên tri vào khoảng năm 520-518 trước Công nguyên. Với việc lên ngôi của
Zerubbabel, dòng dõi vua Đavid, Thiên Chúa khai mở triều đại mới trong vinh
quang và sang giầu cho Giêrusalem. Thiên Chúa muốn Zerubbabel và Joshua xây
dựng lại Đền Thờ và lập lại hàng giáo sĩ giữ việc thờ phượng và dâng hương tại
đó. Giacaria cũng là một trong những người Do-thái bị lưu đầy được trở về
Giêrusalem. Ông cùng được dự phần trong nhóm các tiên tri Do-thái. Ông phấn
chấn lòng dân về tin mừng của Đấng cứu độ: Đây Chúa phán: Hỡi thiếu nữ Sion,
hãy nhảy mừng; hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy reo mừng: Nầy vua ngươi đến với
ngươi. Người là Đấng công chính và là Đấng cứu độ. Người khiêm tốn ngồi trên
lừa con của lừa mẹ (Zach 9, 9). Tiên báo về Đấng công chính ngồi trên lưng lừa
con bước vào thành thánh Giêrusalem với lời tung hô vạn tuế. Con cái Sion tung
hô nhảy mừng ca hát: Vạn tuế, tung hô Đấng nhân danh Chúa mà đến.
Người đời hãnh diện với danh
vọng và quyền lực để cai trị nhân dân. Có nhiều người tự cao tự đại làm như họ
sở hữu mọi gia sản trên đời. Sự khôn ngoan, tài trí, sức mạnh và cả sự sống đều
là ân huệ được trao ban. Mỗi người có khả năng để phát triển tất cả kho tàng
qúi báu được ẩn dấu và phú bẩm. Không có sự gì chúng ta sở hữu mà không do ơn
trên ban cho. Cho dù có thông giỏi, quyền thế và uy lực, con người cũng không
thể hiểu thấu chính mình và vũ trụ chung quanh. Chúa Giêsu Đấng trung gian vạn
vật đã lên tiếng nói rằng: Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha
đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà
lại mạc khải cho những kẻ bé mọn (Mt 11, 25). Thiên Chúa mạc khải nước trời cho
những tâm hồn đơn sơ và chân thành. Không phải cứ thông minh hiền triết là nắm
giữ được chìa khóa của sự khôn ngoan. Sự khôn ngoan gắn liền với sự đơn sơ
khiêm tốn.
Sau khi chịu chức linh mục, cha
Jean Vianney vì nổi tiếng nhân đức, giáo dân các giáo họ lân cận tuôn đến tham
dự thánh lễ, nghe giảng và xưng tội. Một cha sở kia tức giận vì tín hữu bỏ mình
đến với cha Vianney. Ông cha này đã viết thơ nhục mạ cha Vianney. Cha Vianney
nhận thơ, vội tìm tới xin cha sở kia tha lỗi và khẩn khoản xin cha sở kia giúp
trình Đức giám mục đổi Vianney đi vùng khác hay tốt hơn cho nhập dòng nào đó để
khỏi làm phiền các cha lân cận. Trước thái độ khiêm hạ đó, cha sở kia quì mọp
xuống xin lỗi và từ đó chọn cha Vianney là cha linh hướng.
Hãy tìm học với Chúa Kitô: Hãy
mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong
lòng và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an (Mt 11, 29). Chúa Giêsu là Con
Thiên Chúa toàn năng toàn mỹ. Chúa cư ngụ giữa xã hội con người đầy tội lỗi,
yếu đuối và mỏng dòn. Dù tình trạng con người xấu xa đến mức nào đi nữa, Chúa
vẫn yêu thương, chữa lành và cứu độ. Chúa không loại trừ sự dơ dáy tanh hôi của
bệnh tật và tội lỗi. Một Thiên Chúa tốt lành vô cùng lại phải đối đầu với sự tà
tâm của con người. Chúa đã nhiều lần tranh luận, thuyết phục, răn dậy, sửa sai,
hướng dẫn và dậy dỗ cả các Thượng tế, Tư tế, Biệt Phái, Luật sĩ, các Đầu mục
các phái, các vị lãnh đạo và toàn dân. Với lòng thương xót tuyệt đối, ánh sáng
của Chúa chiếu dọi vào từng tâm hồn. Chúa muốn chúng ta hãy học nơi Chúa sự dịu
hiền và khiêm nhượng trong lòng.
Trong khi loài người, gọi là
đồng loại, thì phân biệt và cách biệt. Phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa,
ngôn ngữ, truyền thống, mầu da, sắc tộc, giầu nghèo, học thức, chức vị và muôn
ngàn cách thế dị biệt. Hình như nhiều người luôn tìm cách đánh giá sự hơn thua
và vinh nhục ở đời như là cùng đích. Dân tộc nào cũng muốn trội hơn. Người nào
cũng muốn khoe tài, khoe của. Đâu mấy ai khoe sự khó nghèo, khiêm nhường hay
hiền lành. Nếu cứ mải mê chạy đua tìm kiếm những triều thiên giả tạo, chúng ta
sẽ bị chìm đắm trong vòng xoáy tục lụy trần đời. Biết rằng, sống là phải vươn
lên và phấn đấu không ngừng. Cho dù đứng trong bất cứ địa vị nào trong xã hội,
chúng ta cũng chỉ là một con người đầy khuyết điểm và yếu đuối. Đức Giáo Hoàng
Phanxicô, đấng kế vị thánh Phêrô, đã tiếp nhận được bài học qúi giá của sự dịu
hiền và khiêm hạ. Từng việc cụ thể ngài thực hiện trong những ngày tháng qua đã
làm nổi bật sứ vụ của đấng thay mặt Chúa. Đến để phục vụ, chứ không phải để
được phục vụ.
Chúa Giêsu là mẫu gương tuyệt
đối cho mọi người trong mọi thời. Là môn đệ của Chúa, chúng ta cần suy tư sâu
lắng tất cả những lời chỉ dậy và hành động gương sáng của Chúa. Chúa giảng về
sự tha thứ, thương xót, bác ái, khó nghèo, trong sạch, hiền lành, khiêm nhường,
chịu đựng, hy sinh và ngay cả chết cho bạn hữu. Chúa đã giảng và đã thực hành.
Trong khi chúng ta thích khoe mẽ, nói nhiều mà chẳng muốn áp dụng. Lời nói
chẳng đi đôi với việc làm, đôi khi còn ngược lại, nói một đường, làm một nẻo.
Khuyên dậy, giảng giải, trình bầy và thuyết phục điều hay lẽ phải thì ai cũng
có thể làm được, nhưng thực hành những điều này cần có một ý chí và quyết tâm
cao. Thực hành sống đạo cũng thế, chúng ta cần có thái độ chọn lựa dứt khoát
bước theo lề phải. Tu thân tích đức từng bước mỗi ngày. Các thói quen tốt lành
sẽ trở thành các nhân đức. Nhân đức dẫn chúng ta tiến gần trên con đường trọn
lành.
Thánh Phaolô khuyên dậy: Vì
chưng, nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ
thần trí mà anh em đã giết được các hành động thân xác, thì anh em sẽ được sống
(Rm 8, 13). Thân xác con người vốn có bản năng yếu đuối. Các cơn cám dỗ luôn
rình rập kéo lôi chúng ta trở lại tình trạng man rợ xa Chúa. Nhờ thần trí hướng
dẫn, chúng ta có thể thắng vượt những cạm bẫy giăng mắc quanh môi trường cuộc
sống. Xác thịt thì nặng nề yếu đuối nhưng thần trí cần phải dũng mạnh và cương
trực. Thân xác là máng chuyển các ơn huệ vào tâm hồn. Chúng ta cần bồi dưỡng
sức mạnh cho cả xác lẫn hồn để có hồn trong, xác mạnh. Sứ mệnh và cùng đích của
toàn diện cuộc sống con người là sự sống viên mãn ngày sau.
Lạy Chúa, dòng nước sẽ tuôn
chảy về chỗ thấp trũng. Ơn sủng của Chúa cũng tuôn đổ vào những tâm hồn biết
khiêm nhượng đón nhận. Xin cho chúng con biết mở rộng tâm hồn đón nhận hồng ân
của Chúa.
(Suy niệm của Lm. Gioan
Nguyễn Văn Ty)
“Hãy đến với ta….!” Đối tượng
của lời kêu mời tâm tình nhất Đức Giêsu từng làm là ‘những ai đang vất vả mang
gánh nặng nề’. Nhưng họ là những ai? Câu trả lời không viển vông chút nào và
rất cần thiết, vì nếu không xác định rõ, rất có thể chính tôi sẽ tự loại mình
ra khỏi số đối tượng được Chúa kêu mời cách khẩn thiết nhất.
Tra cứu một số nhà chú giải
kinh thánh để tìm đáp án, tôi đã khám phá ra điều đáng kinh ngạc. Ngoài ý nghĩa
gánh nặng luật pháp mà người Do Thái thời đó phải gánh chịu, với vô vàn các
nghi lễ và qui định đè nặng trên đầu trên cổ, căn cứ vào đoạn sách Công Vụ Tông
Đồ 15,10, phần đa các tác giả, dựa vào Thánh Vịnh 38 (37), nhất trí coi ‘ai
mang gánh nặng nề’ là những kẻ tội lỗi “Tội chồng chất ngập đầu ngập cổ, như
gánh nặng vượt quá sức con (câu 5). Xin đan cử ra đây lời chú giải tiêu biểu
của Barnes: ‘Không còn nghi ngờ gì nữa, đối tượng Ngài kêu mời chủ yếu là các
tội nhân đáng thương, lầm lạc và quị ngã: những con người bị đè bẹp dưới gánh
nặng của ý thức những lỗi lầm đã phạm, run rẩy trước hiểm nguy bị luận phạt, và
tìm mọi cách để được giải cứu. Trước tình trạng đó, một lối thoát đã được mở
ra. Đức Ki-tô kêu mời họ tới với Ngài, tin vào Ngài, và phó thác cho Ngài, và
chỉ mình Ngài mà thôi, hầu được giải thoát và cứu rỗi. Thực hành điều này, Ngài
sẽ cho họ an nghỉ - an nghỉ khỏi tội lỗi mình phạm, an nghỉ khỏi lương tâm cắn
rứt, an nghỉ khỏi các luật pháp đáng khiếp sợ, và an nghỉ khỏi nỗi sợ hãi phải
trầm luân muôn đời.’
Cuộc thổ lộ tâm tình nhất của
Thánh tâm Giêsu (Thánh Phanxicô Sa-lê gọi là ‘heart speaks to hearts’) có đối
tượng duy nhất là các tội nhân. Ai tự cho mình là thánh thiện, là đạo đức, là
khôn ngoan thông thái… đều tự tách mình ra khỏi lời mời gọi này. Quả không sai
khi Người dâng lời tạ ơn lên Chúa Cha vì ‘… đã giấu không cho bậc khôn ngoan
thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn!’
Điều này hoàn toàn ăn khớp với lời Người từng tuyên bố ngay từ thời gian đầu
của sứ vụ rao giảng: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới
cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám
hối ăn năm’ (Lc 5, 31-32). Trong thổ lộ tâm tình này, tầng số mà hai con tim
cùng rung lên, cùng đập để rồi gắn chặt lại với nhau là cực thấp cực trầm. Tầng
số đó không gì khác hơn là khiêm hạ, khiêm nhường thẳm sâu. “Hãy học với tôi,
vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”. Về phía Thiên Chúa, khiêm hạ có vẻ là
điều không tưởng vì địa vị quyền uy tột bậc của ngài, nhưng qua Đức Giêsu trong
việc nhập thể trở nên giống chúng ta mọi đàng, nó đã trở thành nét đặc sắc nhất
của Thiên Chúa. Còn lại là phía chúng ta. Vẫn tưởng rằng khiêm nhường sẽ dễ
lắm, nhưng thực tế không phải vậy. Kinh nghiệm cho thấy, gợi nhớ sự thấp hèn và
tội lỗi của thân phận mình vẫn là điều cực kỳ khó khăn, kinh tởm, hầu như không
thể vượt qua nổi đối với phần đa mọi người chúng ta. Thậm chí ngay trong nỗ lực
sống lành thánh, nhiều khi ta vẫn còn thấy lởn vởn đâu đó nỗi sợ hãi phải nhìn
nhận thân phận tội lỗi và thấp hèn của mình.
Lòng tôn sùng Thánh Tâm vì thế
đòi nơi tôi điều kiện sine qua non là đi sâu vào con người vất vả gánh nặng của
mình. Con tim tôi càng nặng nề, Trái Tim Chúa càng dễ dàng tiếp nhận và bao bọc
lấy; đồng thời, trong cái lỗ vết thương sâu hoắm của tội lỗi và luận phạt, nó
càng có khả năng đón nhận trọn vẹn lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa.
Vinh quang lớn nhất của Thánh Tâm Chúa chính là đây, “Lạy Cha là Chúa tể trời
đất, con xin ngợi khen cha!”
Lòng tôn sùng Thánh Tâm Chúa
được phổ biến sâu rộng trong thế kỷ 17 với thánh nữ Magarita A-la-cốc (1647-1690)
đã dẫn tới tôn sùng lòng thương xót Chúa vào thế kỷ 20 với thánh nữ Faustina
(1905-1938). Mong rằng hai ‘tôn sùng’ này không dừng lại ở một vài việc đạo
đức, mà sớm trở thành nét nổi bật nhất của Tin Mừng (cả trong suy tư thần học
nữa), để giúp Ki-tô hữu chúng ta khám phá ra dung mạo đích thực nhất của Thiên
Chúa.
Lạy Thánh Tâm Chúa Giêsu, qua
vết thương do lưỡi đòng khoét sâu nơi con tim Chúa, thánh Gioan đã nhận ra tình
yêu ‘làm của lễ đền tội’ (1Ga 4,10). Con biết mình chỉ có thể vào sâu trong
Trái Tim Chúa khi chân thành thú nhận tội lỗi mình đã phạm. Xin cho con học
thuộc bài học khiêm nhường mà Thánh Tâm Chúa là thày dạy lỗi lạc nhất. Xin dìm
con ngập sâu trong tội lỗi mình để con suy tôn và thờ lạy Thánh Tâm Giêsu Tình
Yêu cách chân thật nhất. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn
Văn Độ)
Sống trong một thế giới mà
người nghèo, kẻ yếu, người bị áp bức luôn phải lo lắng, vật lộn với cuộc sống
đầy vất vả. Không những thế, họ còn bị đồng loại chất lên vai những gánh nặng
trong khi những người kia lại chẳng buồn đưa lấy một ngón tay để nhấc những
gánh nặng ấy. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy đến với Ta” thật ý nghĩa và đầy
nguồn an ủi cho những ai vất vả mang gánh nặng nề. Đến với Chúa Giêsu, gánh
nặng sẽ vơi đi, mang ách của Người ta sẽ cảm thấy thoải mái nhẹ nhàng, vì ách
của Chúa là ách của tình yêu và tha thứ.
Lời Chúa Giêsu thân thưa với
Cha Người: “Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha đã giấu không
cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại mạc khải
cho những kẻ bé mọn” (Mt 11, 25). Chúa Giêsu hứa ban cho tất cả “sự bổ sức”,
nhưng đặt một điều kiện, đó là: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì
Ta dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11, 29). Cái “ách đó” là gì, mà
thay vì đè nặng thì lại làm vơi nhẹ, thay vì nghiền nát thì lại nâng lên?” Ách
của Chúa Giêsu là luật của tình yêu thương, là giới răn mà Người đã để lại cho
các môn đệ Người (x. Ga 13, 34; 15, 12).
Nói đến cái “ách”, luật Do thái
được xem như đặc quyền của họ, vì sự khôn ngoan là hồng ân của Thiên Chúa thể
hiện trong sống hàng ngày. Chúa Giêsu coi mình như là sự khôn ngoan của Thiên
Chúa và ban tặng những cái ách ấy cho ai đón nhận Người. Chúa Giêsu chính là
mặc khải trọn vẹn về Thiên Chúa và ý muốn của Thiên Chúa cho con người. Người
mời gọi: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng” hãy đến
với Người, hãy tin vào Người, “Người sẽ nâng đỡ bổ sức cho” (Mt 11, 28).
Ách, với mục đích là giúp con
vật kéo cầy, kéo xe một cách dễ dàng. Cũng thế, khi chúng ta mang ách của Chúa
Giêsu, Người không làm gì khác hơn là giúp đỡ chúng ta bớt đi những gánh nặng.
Người mời gọi chúng ta đến mang lấy ách của Người, Người cùng vác ách với chúng
ta. Chúa Giêsu mang ách ấy trước hết và đứng bên cạnh chúng ta. Khi hai người
cộng tác với nhau kéo chung một cái ách, chắc chắn hơn một khỏe mạnh. Đó chính
là điều Chúa Giêsu làm cho mỗi người trong chúng ta.
Thật là lạ, Chúa Giêsu mời gọi
kẻ khó nhọc đến với Người để được nghỉ ngơi dưỡng sức, nay Người lại trao thêm
ách. Ách là một công cụ để làm việc. Ách là để thi hành một tác vụ, phục vụ Đức
Kitô. Chúng ta có đón nhận cái ách mà Đức Giêsu ban cho hay không? Ách của
Người không phải là gánh nặng nhưng là êm ái và nhẹ nhàng (x. Mt 11, 30). Thánh
Phaolô nói cái ách này sẽ dẫn chúng ta đến tự do, nên khi đón nhận cái ách của
Đức Giêsu là chúng ta cũng đón nhận một người “cùng mang ách” với chúng ta.
Ở đoạn trước trong Tin mừng
Matthêu, Chúa Giêsu chúc phúc cho những ai “có tinh thần nghèo khó” (Mt 5,3)
như thể đã có được nước trời làm sản nghiệp. Hôm nay, Đức Giêsu nói đến “những
kẻ bé mọn” (Mt 11, 25) nghĩa là những người hèn mọn và khiêm nhường. Theo nghĩa
Kinh Thánh, họ là những người không có uy thế, quyền lực, địa vị hay chức vụ
cao sang, chẳng có gì để có thể khoe khoang. Vì thế, họ chấp nhận phó thác nơi
Thiên Chúa mà không chút do dự hay kiêu hãnh giả tạo nào.
Tiên tri Dacaria nói đến Vị vua
Mêssia lên Giêrusalem cưỡi trên con lười con là con của lừa mẹ, nhắc lại rằng
Chúa Giêsu liên kết với chúng ta, dưới ách nặng của sự khiêm nhường và dịu
dàng, Người đã mang thân phận người như chúng ta, chịu khổ nạn để cứu chuộc
chúng ta. Từ trên nơi cao thẳm, Người đã cúi xuống đất để nghe tiếng van nài,
Người đã hạ mình xuống để giải thoát chúng ta khỏi chết.
Chúa Giêsu đề nghị chúng ta
mang lấy ách của sự khiêm nhường và hiền hầu, của niềm tin vào tình thương
Thiên Chúa và phó thác trong tay Người, xin Người cứu giúp: “Trẻ trung thì mệt,
thì mỏi, tráng đinh nghiêng ngả bổ nhào, song những ai trông vào Thiên Chúa, sẽ
có sức mạnh luôn luôn đổi mới, chúng mọc cánh như những phụng hoàng; chúng chạy
mà không mỏi, chúng đi mà không mệt” (Is 40, 30-31). Thật hạnh phúc biết bao
khi chúng ta đón nhận vào lòng sự hiện diện của Chúa, chúng ta sẽ tìm thấy liều
thuốc bổ sức như lời Người hứa ; và giảm bớt gánh nặng đè trên chúng ta, vì có
Chúa vác đỡ chúng ta.
Có người viện cớ hỏi: Vậy tại
sao Thiên Chúa không cất đi gánh nặng nơi con người, giải thoát con người một
lần cho tất cả các gánh nặng? Thưa là vì Ngài không muốn cứu chúng ta mà không
có chúng ta. Thiên Chúa dành cho chúng sự tôn trọng và yêu thương trong lúc ấy.
Chúng ta đang đứng trước một
mầu nhiệm. Mầu nhiệm này là chỉ mạc khải cho những kẻ bé mọn nghĩa là những
người không cậy dựa và sức riêng mình để tự cứu mình mà chỉ cậy dựa vào Chúa,
những người không đặt an toàn vào sự hiểu biết nhân loại nhưng trong Người Con
đã được mạc khải cho họ, bởi vì họ biết ngoài Người ra, họ không thể làm gì
được.
Niềm vui cả thể của con người
là được gắn bó với Đức Kitô và phó thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa là
Cha. Biết được Chúa Cha yêu mến, kết hợp với Ngài và tin tưởng vào Ngài như
người con bé nhỏ đặt an toàn trong tay bố của mình.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con
biết khiêm nhường thật trong lòng, để chúng con được kể vào số những kẻ bé mọn
của Tin Mừng, những người Thiên Chúa Cha hứa mạc khải cho biết mầu nhiệm Nước
Trời.
Lạy Đức Trinh Nữ Maria, Nữ
Vương của lòng từ mẫu, xin giúp chúng con “ học” nơi Chúa Giêsu sự khiêm nhường
thật, cương quyết mang lấy ách êm ái Người trao, để sống an bình nội tâm, và
giúp chúng con an ủi các anh chi em khác đang mệt nhọc bước đi trên con đường
cuộc sống. Amen.
Cuối mỗi cấp, học sinh hoặc
sinh viên phải thi lấy bằng tốt nghiệp ra trường, gọi là tốt nghiệp trung học,
tốt nghiệp đại học. Không biết có ai đã dùng từ tốt nghiệp cho những người học
Giáo Lý, Giáo Lý Dự Tòng, Giáo Lý Hôn Nhân không, nhưng hình như mới đây, hai
từ “tốt nghiệp” cũng dành cho những Đại Chủng Sinh hoàn tất chương trình Đào Tạo
Linh Mục tại các Đại Chủng Viện.
Thiết tưởng, ấy cũng chỉ là
chuyện từ ngữ theo cách của xã hội mà thôi.
Điều quan trọng ở chỗ: học
không phải chỉ để tốt nghiệp, càng không phải để lấy bằng tốt nghiệp, nhưng là
để có một cuộc biển đổi nên người trưởng thành. Học sinh nên người trưởng thành
là có ý thức và trách nhiệm về tư tưởng, lời nói việc làm của mình. Cũng vậy,
người học Giáo Lý nên người trưởng thành, ấy là có ý thức chuẩn xác về ơn gọi
được làm con cái Thiên Chúa, nhờ Chúa Giêsu Kitô, và có trách nhiệm sống cho ra
người con của Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay cũng nhắc đến
chữ “học”: “Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
Trong Tin Mừng, tất cả những
câu mệnh lệnh của Chúa Giêsu đều nói đến việc “làm”, như: “Hãy tin”, “hãy từ
bỏ”, “hãy cầu nguyện”, “hãy tha thứ”, “hãy yêu nhau”... “Đừng thù oán”, “đừng
lên án”… Và chỉ có một câu duy nhất này, Chúa bảo “hãy học”.
Như vậy, hẳn là môn học mà Chúa
Giêsu bảo chúng ta hãy học, ấy là môn học quan trọng lắm. Đã vậy Chúa lại bảo
“hãy học cùng Ta”, không học ở nơi thầy nào khác, cho thấy rằng chỉ có Chúa
Giêsu mới xứng đáng là thầy dạy môn học nầy. Môn học đó là “hiền lành và khiêm
nhượng trong lòng”.
Hãy học cùng Chúa Giêsu, vì
Chúa hiền lành và khiêm nhượng trong lòng.
Quả thật, chỉ có Chúa Giêsu mới
là người hiền lành kiểu mẫu, hiền lành đến mức chấp nhận thương tích mà không
đánh trả, hay báo thù; hiền lành vì yêu và yêu cả người phản bội, sỉ nhục, thóa
mạ hay hành hung tàn nhẫn… đúng như Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Người hiến thân
vì Người tình nguyện và không mở miệng như con chiên hiền lành bị đem đi giết,
và như chiên non trước mặt người xén lông, Người thinh lặng chẳng hé môi” (Is
53, 7). Và Thánh Vịnh 30 mô tả chân dung của Chúa Giêsu: “Con đã nên trò cười
cho thù địch và cho cả hàng xóm láng giềng. Bạn bè thân thích đều kinh hãi,
thấy con ngoài đường, ai cũng tránh xa” (Tv 30).
Sự hiền lành ấy còn mang nét
đẹp trung tín đến ngàn đời, không có gì thay đổi được bản tính “hiền lành, hay
thương xót” của Thiên Chúa Cha, phản chiếu nơi Chúa Giêsu, Người Con chí ái. Ấy
vậy, Ngôn Sứ Giêrêmia nói: “Tôi giống như con chiên trung tín bị đem đi giết,
và tôi không hề biết họ đang trù tính những điều độc ác chống lại tôi” (Gr 11,
19).
Chỉ có Chúa Giêsu mới là người
khiêm tốn, như Ngôn Sứ Dacaria ca tụng: “Này vua ngươi đến với ngươi. Người
khiêm tốn ngồi trên lừa con, con của lừa mẹ” (Dcr 9, 9).
Và Thánh Tông Đồ Phaolô còn
khẳng định lòng khiêm nhượng của Chúa Giêsu sâu thẳm đến mức không giữ cho mình
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng lại khiêm hạ vâng phục Thiên Chúa Cha
mọi đàng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang,
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
(Pl 2, 6-8)
Bài học “hiền lành và khiêm
nhượng” của Chúa Giêsu quả là một bài học khó nuốt, vì có vẻ như bài học ấy
muốn dẫn học viên đến cái chết vì yêu, như Ngài đã chết vì yêu vậy. Hơn nữa,
lại không thấy Chúa nói gì đến lễ tốt nghiệp, hay được vinh quang gì khi tốt
nghiệp.
Thực ra, Chúa đã nói đến lễ tốt
nghiệp ấy rồi: “và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an”.
Chúa muốn chúng ta được bình an
trong cuộc đời. Bình an có một giá trị lớn lao trong đời sống con người, vì khi
có bình an hồn xác, ta mới có được hạnh phúc. Bình an là kết quả của lòng hiền
lành khiêm nhượng, vì Chúa biết khi không có lòng hiền lành và khiêm nhượng thì
chỉ chuốc lấy đau khổ, khó nhọc và gánh nặng.
Vì muốn chúng ta được bình an,
Chúa Giêsu đang mời gọi chúng ta đến và học cùng Ngài: "Tất cả hãy đến với
Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy
mang lấy ách của Ta và hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp được bình an. Vì ách của Ta thì êm ái, và
gánh của Ta thì nhẹ nhàng".
Nhìn lại cuộc sống chúng ta,
quả là đang khó nhọc và gánh nặng.
Khó nhọc, gánh nặng là vì chưa
khiêm nhượng trong lòng đủ để có thể ký thác đường đời cho Chúa, lại ảo tưởng
với trí tuệ, khả năng, sự khôn khéo của mình có thể giải quyết mọi vấn đề để
mang lại cho mình bình an hạnh phúc.
Khó nhọc và gánh nặng là vì
không đủ hiền lành nhẫn nhịn chấp nhận sự thua kém, lại nông nổi lao mình vào
chỗ tranh chấp hơn thua để chuốc lấy cái mất bình an cứ dày vò, đày đọa tâm
hồn.
Khó nhọc và gánh nặng cho nhau
trong cuộc đời, là vì không đủ hiền lành và khiêm tốn nhìn nhận mỗi sự hiện
diện của người bạn đời, của tha nhân, kể cả của người nghèo hèn thấp kém, mất
tư cách, mất phẩm hạnh… đều có thể mang lại cho ta một hồng ân quí giá của
Thiên Chúa.
Khó nhọc và gánh nặng vì lòng
tự phụ, vì tính chủ quan của người lớn hoặc tự cho mình là lớn, hoặc chỉ thích
“chức” quyền, mà không chấp nhận thi hành nhiệm “vụ”, chắc chắn sẽ có lúc vấp
ngã trên đường đời, để lộ chân tướng dối trá của lòng mình ra cho thiên hạ đàm
tiếu.
Khó nhọc và gánh nặng là vì
mình đành lòng chấp nhận làm nô lệ cho những đam mê xác thịt hay hư nát này: hư
danh, lạc thú, giàu sang, hưởng thụ…dẫn đến sự suy sụp tinh thần, kiệt quệ sức
lực, mất cả ý chí nghị lực trong cuộc đời.
Thánh Phaolô khuyến cáo: “Chúng
ta không phải là những kẻ mắc nợ xác thịt, để chúng ta sống theo xác thịt. Vì
chưng, nếu anh em đã sống theo xác thịt, anh em sẽ phải chết; nhưng nếu nhờ
Thần Trí mà anh em đã giết được các hành động xấu xa của thân xác, thì anh em
sẽ được sống” (Rm 8, 11 – 13).
Vâng, chính những món nợ xác
thịt làm cho chúng ta ra khó nhọc và gánh nặng, ra đau khổ và mất bình an. Món
nợ hư danh, món nợ nhục dục, món nợ của cải phù vân, món nợ hưởng thụ. Như tâm
sự của một tác giả:
...Tôi đã vay của trần gian,
mấy ngàn mảnh hữu danh vô thực
Tôi đã mượn của thân xác phù
vân,
những thoáng mơ màng hạnh phúc
Tôi phải trả cho người,
bằng sự nô lệ cả đời tôi
Tôi phải trả cho phù vân,
bằng sự chết nghìn thu tan tác.
Có còn được nghe niềm bình an
ca hát
Nơi vực thẳm lòng kiêu ngạo của
tôi?
Ôi ! Đức Khiêm Hạ trên cao vời
Hãy nhỏ xuống lòng tôi,
mấy giọt ân tình lòng thứ tha,
thương xót
một kiếp đời không chịu học
Chúa Giêsu.
(Tuyết Mai Texas)
Chúa Giêsu luôn mời gọi chúng
ta sống “hiền lành và khiêm nhượng” theo gương Ngài, không phải để chúng ta
phải chết, nhưng là để chúng ta được vinh dự chết cái tôi kiêu hãnh, cái tôi
mặt dày mặt dạn của mình, cái tôi khó từ bỏ của mình để sống cho người khác
được sống; để chúng ta cất được những khó nhọc, những gánh nặng do làm nô lệ
tính xác thịt của mình; và cuối cùng, là để tâm hồn chúng ta được bình an.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành khiêm
nhượng trong lòng, xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, tin tưởng Chúa và học
cùng Chúa sự hiền lành khiêm nhượng, để chúng con được thanh thản, bình an,
hạnh phúc trong Chúa luôn. Amen.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu dạy chúng ta một bài học rất quý báu. Xét về mặt tâm linh hay tu đức thì
đây là một bài học có tác dụng giúp ta có những phẩm chất đạo đức đáng quý; xét
về mặt đối nhân xử thế thì bài học nầy cống hiến cho ta bí quyết thu phục nhân tâm.
Bài học nầy được Chúa Giêsu rút
ra từ kinh nghiệm cuộc sống của Ngài và truyền dạy lại cho chúng ta, đó là:
"Hãy học cùng Ta, vì Ta
dịu hiền và khiêm nhượng trong lòng."
Người dịu hiền khiêm nhường là
người nhận ra thân phận mình vốn thấp hèn yếu đuối nên biết hạ mình xuống thấp.
Nước lúc nào cũng chảy về chỗ
trũng; cũng thế, tình thương và ân sủng của Thiên Chúa cùng với tình thương và
lòng quý mến của mọi người thường tuôn về với những người có đức tính dịu hiền
và khiêm nhượng.
Vậy ai học được tâm tình dịu
hiền và khiêm nhượng như Chúa Giêsu, người ấy sẽ được đón nhận tình yêu và ân
sủng của Thiên Chúa cũng như của mọi người chung quanh. Ay là người thành đạt
nhất, hạnh phúc nhất.
Tôi xin mượn lại hai câu chuyện
sau đây để làm sáng tỏ chân lý nầy.
Chuyện ngụ ngôn của Esop: gió
và mặt trời.
Ngày nọ, thần gió gặp thần Mặt
Trời và hai bên muốn so tài hơn thua. Mặt trời nói với gió:
- Ai trong chúng ta lột được áo
choàng của người bộ hành đang đi kia được là người chiến thắng.
Gió chấp nhận ngay cuộc so tài
và đòi ra tay trước. Nó thổi tới tấp, cát bụi tung bay mịt mù, nhưng càng thổi
mạnh bao nhiêu thì người bộ hành càng ghì chặt chiếc áo choàng của mình bấy
nhiêu. Cuối cùng gió kiệt sức và nhường lại cho Mặt Trời thi thố tài năng.
Mặt trời từ từ chiếu dọi ánh
sáng của nó xuống, cách nhẹ nhàng nhưng tạo nên sức nóng hầm hập, khiến người
bộ hành không chịu nổi hơi nóng đành phải cởi áo khoác ra.
Thế là mặc dù Gió hung bạo mạnh
mẽ nhưng đành thua cuộc; còn Mặt Trời dùng đường lối êm dịu nhẹ nhàng mà dành
được chiến thắng.
Đó mới là chuyện ngụ ngôn tây
phương, có tính cách sáng tạo để răn đời, còn đây mới là chuyện thực, vào đời
chiến quốc bên Trung quốc.
Liêm Pha và Lạn Tương Như
Vua Triệu phong Lạn Tương Như
làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có công hơn mà lại đứng dưới nên tức giận,
hăm hễ gặp mặt Lạn Tương Như là giết.
Tương Như nghe nói thế thì tìm
cách lánh mặt Liêm Pha mãi.
Một hôm, Tương Như ra đường,
gặp toán lính tiền đạo của Liêm Pha, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong
ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới đi ra.
Bọn xa nhân thấy thế tức giận,
bèn họp nhau hỏi Tương Như:
"Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa
thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc trượng phu nên yêu mến mà đi
theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở trên. Liêm
tướng quân doạ ngài, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều nay lại tránh ở
ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá thể vậy? Chúng tôi thật lấy làm xấu hổ, vậy
xin đi thôi, không ở nữa."
Tương Như nói: "Các ngươi
xem Liêm tướng quân có hơn được vua Tần không?"
Bọn xa nhân thưa:
"Không".
Tương Như nói: "Lấy như
cái oai của vua Tần, thiên hạ không ai dám chống, Tương Như nầy một mình dám
mắng giữa triều đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại
sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì
ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ tranh nhau, tất không cùng sống.
Tần mà nghe tin ấy tất thừa cơ đánh Trịêu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng
quân là vì coi việc nước là trọng mà thù riêng là nhẹ vậy thôi".
Bọn xa nhân quỳ mọp tâu rằng:
"Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao độ nổi đại chí của tướng công".
Liêm Pha hay được tin nầy, cả
thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", bèn trần
vai áo đến trước cửa Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ân tương quốc
bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"
Tương Như đỡ dậy, nắm tay cùng
khóc và kết bạn sống chết có nhau.
(Trích lại của Thu Giang Nguyễn
Duy Cần, trong cuốn: ‘Thuật xử thế của người xưa’)
Thế là bằng đường lối nhịn
nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh
phục được cả con người lẫn tâm hồn Liêm Pha.
Đúng như Pascal nhận xét:
"Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi biết quỳ gối xuống...."
Người tự cao tự đại cho mình là
giỏi, cho mình là đúng, không cần học ai, nên không bao giờ giỏi, không bao giờ
thành công trên đường đời; trái lại chỉ thu tích thêm căm ghét của người khác.
Người khiêm tốn là người thấy
được mình còn nhiều mặt yếu kém, nên sẵn sàng nghe người khác chỉ giáo cho và
nhờ đó sẽ trở thành người khôn ngoan và giành được thắng lợi.
Nhưng nói cho cùng, cái thắng
lợi lớn nhất đời người là được mọi người chung quanh yêu thương quý mến và chỉ
có những ai có tâm hồn dịu hiền khiêm nhượng mới đón nhận được diễm phúc nầy.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn
Hữu An)
Chúa Giêsu không chỉ giảng dạy
về đời sống đức tin và siêu nhiên mà còn dạy cách sống nhân bản. Những ai học
theo giáo huấn của Người sẽ trở thành con người sống dễ thương, dễ mến và do đó
sẽ thành công trong cuộc đời.
Sứ điệp Chúa Giêsu gởi đến Chúa
nhật hôm nay là: “Anh em hãy học với Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường” (Mt
11,29).
- Hiền lành là dịu dàng, ngọt
ngào, không thô bạo, không cứng cỏi. Hiền lành là nhân đức bao gồm tâm thế bên
trong và phản ứng bên ngoài. Tâm thế bên trong luôn êm ái, hoà nhã, nghĩ tốt về
người khác, yêu thương, khoan dung, thông cảm; phản ứng bên ngoài luôn nhẹ
nhàng, tôn trọng.
- Khiêm tốn là chấp nhận đứng
thấp, ở dưới như Gioan Tẩy Giả khiêm tốn “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ
bé lại”.
Chúa Giêsu hiền lành, dễ thương
trong lòng. Người luôn yêu thương người khác. Đặc biệt là những người bé mọn.
Người luôn muốn và làm điều tốt cho mọi người. Người không lên án, không thành
kiến với những người mà xã hội coi là xấu xa, tội lỗi. Lời nói và hành động của
Người luôn toả ra sự dịu dàng, nâng đỡ, khích lệ, ủi an. Người không nặng lời,
không kết án, Người sống bằng tình thương. Người phụ nữ bị bắt quả tang phạm
tội ngoại tình, Chúa Giêsu chẳng những dễ thương với người phụ nữ mà còn dễ
thương đối với những người đã tố cáo chị ta. Những người này tự cho mình là
công chính. Chúa Giêsu không la, không quát, không hét, không hò, Người chỉ
thinh lặng cúi xuống hiền từ dùng ngón tay viết lên cát. Bị hỏi mãi Chúa mới
trả lời: “Ai trong các ông sạch tội, hãy ném đá trước đi”. Họ rút lui bắt đầu
từ những người lớn tuổi. “Tôi cũng không kết án chị đâu, chị hãy ra về và từ
nay đừng phạm tội nữa” (x.Ga 8,1-11).
Chúa Giêsu dạy chúng ta sống
hiền lành, dễ thương. Người khuyên chúng ta bắt chước người mục tử trong dụ
ngôn “Con chiên lạc” (Lc 15, 4-7). Người mục tử không hề đánh đập, giận dữ,
quát tháo, hay kéo lê con chiên lạc về mà lại tử tế đặt nó lên vai mình, vác về
đàn. Chúa Giêsu cũng khuyên chúng ta bắt chước người cha trong dụ ngôn “Đứa con
hoang đàng” (Lc 15,11-32). Người cha không mắng chửi đứa con đầy lầm lỗi trở
về, cũng không cãi cọ, không xua đuổi mà lại ôm hôn và dọn tiệc ăn mừng. Chúng
ta có thể kể rất nhiều ví dụ trong Phúc âm về sự hiền lành, dễ thương của Chúa
Giêsu.
Cuộc đời Chúa Giêsu là một cuộc
đời khiêm nhường. Vì khiêm nhường nên Người không ngừng đi xuống. Từ trời cao,
Người đã hạ mình xuống trần thế. Từ thân phận là Thiên Chúa, Người đã hạ mình
xuống làm một người lao động bình thường. Là Thiên Chúa cao sang, Người đã tự
nguyện xuống làm một người dân dã nghèo hèn. Là Đấng thánh thiện vô cùng, Người
đã tự nhận lấy thân phận tôi đòi. Là Đấng Hằng Sống, Người đã tự nguyện chết
khổ đau. Suốt cuộc đời, Người không ngừng cúi xuống những thân phận tăm tối,
nghèo hèn, tội lỗi, bị loại trừ. Người đã quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ.
Thiên Chúa đã quỳ trước mặt nhân loại, Thiên Chúa rửa chân cho con người. Ôi lạ
lùng thay! sự khiêm nhường thẳm sâu của Thiên Chúa. Trong khi con người kiêu
ngạo, muốn vươn lên làm Chúa thì Thiên Chúa lại hạ mình xuống làm người. Trong khi
con người thấp hèn, muốn nâng mình lên bằng cách chà đạp người khác thì Thiên
Chúa cao cả lại hạ mình xuống nâng con người lên. Khiêm tốn như Chúa Giêsu
không phải là hèn nhát mà trái lại là dũng mãnh cam đảm, hạ mình để phục vụ.
Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, nhưng trái lại là một cử chỉ đầy
tình yêu. Hạ mình là con đường của Thiên Chúa. Khiêm tốn là khuôn mặt của Thiên
Chúa. (ĐTGM Ngô Quang Kiệt).Vì Thiên Chúa khiêm nhường luôn tìm đường đi xuống
nên những ai kiêu căng, tìm cách nâng mình lên sẽ chẳng bao giờ gặp được Người.
Thiên Chúa khiêm nhường nên chỉ ai khiêm nhường, nhỏ bé mới gặp được Người. Vì
thế, Chúa Giêsu đã “ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan
thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho người bé mọn. Vâng, lạy
Cha, vì đó là điều đẹp lòng Cha” (Mt 11,25-26).
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa
Giêsu tha thiết mời gọi: Hãy học cùng Tôi vì Tôi hiền lành và khiêm nhường
trong lòng. (Mt 11,29).
Vậy hãy ghi danh vào học trường
Giêsu. Hãy học bài học hiền lành, dễ thương, không những chúng ta sẽ gặp được
Thiên Chúa mà Thiên Chúa sẽ rũ sạch mọi vất vả, âu lo và chúng ta sẽ tìm được
nguồn bình an cho tâm hồn (Mt 11,28). Hãy học bài học Giêsu, hãy học với Thầy
Giêsu.
Augustinô là một thanh niên có
tư chất thông minh nhưng lỡ đi lạc đường. Về phương diện trí thức, Augustinô ỷ
mình thông thái, dùng kiến thức của mình để truy tìm những học thuyết uyên bác.
Kết quả là lạc vào bè rối Manikê. Về phương diện luân lý, Augustinô sống buông
thả theo những đòi hỏi của xác thịt, kết quả là một cuộc sống tội lỗi. Thế rồi
một hôm, trong lúc tâm hồn đang trống rỗng, vô vị, Augustinô bỗng nghe một
tiếng nói từ đâu đó vang lên: “Tolle et lege” (hãy cầm lấy và đọc). Augustinô
thấy trước mặt một cuốn Kinh Thánh, Ngài cầm lên, mở ra và gặp ngay đoạn thư
Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Đừng sống theo xác thịt nữa, mà hãy sống theo
Thánh Thần”. Cuộc hoán cải của Augustinô đã được dọn đường nhờ sự cầu nguyện và
hãm mình của mẹ Ngài là thánh Monica, nhưng chính câu Thánh kinh này là yếu tố
quyết định thay đổi cuộc đời Thánh nhân. Trở nên một giáo phụ, một triết gia,
một thần học gia, một vị thánh lỗi lạc, rất mực thánh thiện của Giáo hội,
Augustinô nhờ việc học hỏi về Chúa Giêsu qua Thánh kinh.
Chúng ta cũng hãy học với Thầy
Giêsu qua Lời Chúa mỗi ngày. Yêu mến Lời Chúa, sống Lời Chúa để Lời Chúa biến
đổi đời chúng ta sống theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Hãy học hỏi Tin mừng
và hãy để Tin Mừng soi sáng lòng trí của mình. Hãy múc lấy sức mạnh từ ân sủng
của Bí tích Hoà Giải và Bí tích Thánh Thể. Hãy siêng năng Chầu Thánh Thể. Đó là
sứ điệp Lời Chúa gởi đến cho chúng ta trong Chúa nhật này.
Học với Thầy Giêsu suốt đời,
lột bỏ những tự hào về khôn ngoan thông thái, sống hồn nhiên khiêm tốn như trẻ
thơ, đó là điều cần thiết để mỗi người được Thầy Giêsu mạc khải và đưa vào thế
giới của Thiên Chúa.
HỌC SỐNG HIỀN LÀNH VÀ KHIÊM
NHƯỢNG VỚI CHÚA GIÊSU
Anh em hãy mang lấy ách của
tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em
sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng (Mt 11,
29-30).
Người đời tưởng rằng muốn trở
nên hùng mạnh và thắng được người khác thì mình phải hung tợn hơn, tàn ác hơn,
phải tôn mình lên và hạ bệ người khác xuống, phải dùng sức mạnh để quật ngã,
phải dùng khí giới để huỷ diệt và khủng bố kẻ thù... Nhưng nghĩ như vậy là
thiển cận và sai lầm.
Lịch sử loài người đã tỏ cho
thấy cho dù những bạo chúa hung tàn nhất như Nê-rô hay Tần Thuỷ Hoàng chẳng
hạn, cũng chỉ có thể dùng cường quyền và bạo lực để chiếm lấy ngai vàng trong
một thời gian nhưng không thể chinh phục được lòng người. Những nhân vật nầy
cũng chưa hề được xem là hùng mạnh, là anh dũng. Trong khi đó, lịch sử đánh giá
rất cao những con người hiền lành, khiêm nhượng, ôn hoà bất bạo động như
Mahatma Gandhi, Martin Luther King... Lịch sử nhân loại nhìn nhận họ là những
bậc vĩ nhân đáng ngưỡng mộ, biết dùng sự hiền hoà, bất bạo động để chiến thắng
bạo tàn, biết "dùng nhu để thắng cương, biết dụng nhược để thắng
cường" (Lão Tử).
Thế nên, mặc dù Chúa Giêsu có
rất nhiều phẩm chất cao đẹp đáng nêu gương, nhưng phẩm chất đầu tiên mà Người
kêu gọi mọi người nên học nơi Người là đức tính hiền hậu và khiêm nhường.
"Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhượng." (Mt 11,
29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp"
(Mt 5, 4)
Câu chuyện sau đây minh chứng
cho thấy sự hiền lành khiêm nhu có thể chiến thắng hung hăng và thô bạo.
Thời chiến quốc, vua nước Triệu
phong Lạn Tương Như làm tướng quốc. Tướng Liêm Pha cậy mình có công lớn hơn mà
lại bị đặt dưới quyền Tương Như nên đâm ra căm tức, thề rằng nếu gặp mặt Lạn
Tương Như là giết.
Tương Như nghe nói thế bèn tìm
cách lánh mặt Liêm Pha hoài. Một hôm, Tương Như ra đường, gặp toán lính tiền
đạo của Liêm Pha đi tới, vội bảo tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm
Pha đi qua rồi mới đi ra tiếp tục hành trình.
Bọn xa nhân thấy thế tức giận,
bèn hỏi Tương Như: "Chúng tôi tưởng ngài là bậc đại trượng phu nên đem
lòng quý trọng, từ bỏ nhà cửa, xa lìa thân thích để đến đây hầu ngài. Nay thấy
ngài là tướng quốc, thứ hạng còn cao hơn Liêm tướng quân, lại để Liêm tướng
quân doạ giết mà không đáp lại; ngài đã tránh mặt Liêm tướng quân ở triều đình,
nay lại tránh ở ngoài đường. Sao ngài lại sợ Liêm tướng quân quá vậy? Chúng tôi
rất lấy làm xấu hổ, vậy chúng tôi xin rút lui, không theo hầu ngài nữa."
Tương Như nói: "Các ngươi
xem Liêm tướng quân có oai phong, cao trọng bằng vua Tần không?" Bọn xa
nhân thưa: "Không".
Tương Như nói: "Uy danh
của vua Tần, thiên hạ đều kinh sợ không ai dám chống, vậy mà một mình Tương Như
nầy dám mắng nhà vua giữa triều đình, lại dám làm nhục cả đám quần thần nữa.
Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm Tướng Quân ư? Nhưng ta nghĩ sở dĩ Tần
không dám đánh nước ta là vì ngại có ta và Liêm tướng quân. Nay hai con hổ
tranh nhau, tất không cùng sống. Tần mà nghe tin ấy tất sẽ thừa cơ tiến đánh
nước ta. Sở dĩ ta chịu nhục tránh Liêm tướng quân là vì coi việc nước là trọng
mà thù riêng là nhẹ đó thôi".
Nghe vậy, bọn xa nhân quỳ mọp
tâu rằng: "Tiểu nhân chúng tôi trí hẹp làm sao hiểu được đại chí của tướng
công".
Liêm Pha hay được tin nầy, cả
thẹn than rằng: "Ta thật còn kém Lạn Tương Như nhiều lắm", rồi trần
vai áo đến trước cửa nhà Tương Như tạ tội: "Tính tôi thô bạo, đội ơn tướng
quốc bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá!"
Tương Như đỡ Liêm Pha dậy, hai
người nắm tay nhau khóc và thề nguyền kết bạn suốt đời sống chết có nhau.
(Trích "Thuật xử thế của
người xưa" của Thu Giang Nguyễn Duy Cần).
Thế là bằng đường lối nhịn
nhục, hiền lành và khiêm nhượng, Lạn Tương Như hoàn toàn chiến thắng và chinh
phục được cả con người lẫn tâm hồn của Liêm Pha. Đúng như Pascal nhận xét:
"Người ta chỉ thực sự vĩ đại khi hạ mình quỳ xuống."
Một trong những hình tượng rất
sinh động để diễn tả sự khiêm hạ là hình tượng về nước. Nước luôn tỏ ra mềm
mỏng, dịu dàng, tránh va chạm và xô xát. Cho dù nước có bị tấn công thô bạo,
nước cũng không hề kháng cự bao giờ.
Khi người ta dùng búa tạ đập
vào khối đá rắn chắc, đá dùng sự cứng rắn của mình để kháng cự lại nên bị vỡ
tan. Khi người ta dùng búa tạ giáng vào nước, nước dùng sự mềm mại dịu hiền của
mình đối lại, thế là nước không hề bị sứt mẻ hư hao, còn búa thì bị chìm lĩm
xuống tận đáy bùn!
Nước luôn luôn tìm chỗ rốt hết,
tìm chỗ thấp mà chảy xuống, chẳng bao giờ muốn leo cao, nên nước luôn được bảo
toàn.
Tuy mềm mại và luôn tìm chỗ
thấp hèn như thế, nhưng nước lại có sức mạnh phi thường.
Khi có một đám cháy rừng bộc
phát thiêu rụi hàng ngàn mẫu rừng nguyên sinh và trong khi bao nhiêu nỗ lực của
con người với những phương tiện hiện đại nhất không tài nào dập tắt được, thì
người ta chỉ còn biết cầu mưa! Khi mưa trút xuống hàng tỉ mét khối nước thì
thần hỏa mới chịu bó tay và rừng xanh mới có thể phục hồi.
Nước tuy mềm mại dịu dàng nhưng
có thể bào mòn đá cứng. Nước tuy không cánh nhưng có thể bay tới mây trời; nước
không có mũi dùi mũi khoan nhưng có thể thấm nhập đến tầng sâu nhất trong lòng
đất. Nước đi đến đâu thì đem lại sự sống dồi dào cho nơi đó.
Như thế, nước tuy thấp kém, mềm
mỏng, dịu hiền nhưng lại có sức mạnh vô song.
Những minh hoạ trên đây giúp
chúng ta xác tín hơn vào lời dạy đầy khôn ngoan của Chúa Giêsu được trích đọc
trong Tin Mừng hôm nay: "Hãy học với tôi vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhượng." (Mt 11, 29) và "phúc thay ai hiền lành vì họ sẽ được Đất
Nước làm cơ nghiệp" (Mt 5, 4).
KHI CÁI ÁCH MANG TÊN TÌNH YÊU
Kính thưa ông bà và anh chị em,
Trong những tuần lễ qua, cả
hành tinh đang nóng lên cùng với quả bóng đang lăn trên các sân vận động tại
quốc gia Brazil. Nước mắt và nụ cười, thành công hay thất bại, ở lại hay ra
đi…tất cả đã làm nên một bức tranh tuyệt vời của cuộc sống, của xã hội, của
kiếp người.
Có một điều không ai phủ nhận
là, nét đặc trưng của kỳ world cup nầy chính là hình ảnh của bức tượng Chúa Cứu
Thế, một biểu tượng của thành phố lớn Rio de janeiro, luôn thấp thoáng trên màn
ảnh tv trong các chương trình world cup. Đó là chưa kể, trong mọi cuộc thi đấu
bóng đá, hầu hết các cầu thủ của vùng Nam Mỹ, Trung Mỹ và một số các nước Châu
Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nhà, Croatia, Ý…mỗi khi ra sân hay rời sân, họ đều
làm Dấu Thánh Giá, một cử chỉ, một biểu tượng của niềm tin vào Chúa Giêsu…
Mà không chỉ biểu tượng thôi
đâu ! Cả câu chuyện của Thánh Kinh cũng được nhắc đến. Chẳng hạn như trong trận
Hà Lan gặp Costa Rica, một bình luận viên trên kênh VTV3 đã ví von rằng: đội
Costa Rica như một chàng Đa-vít tí hon đang chiến đấu với gã khổng lồ Goliat
Hòa Lan…
Trong Kinh Thánh Cựu Ước, chàng
chăn chiên Đa-vít, con út của Giê-sê, thuộc dân Ít-ra-en chiến đấu tay đôi với
đại tướng Goliat của dân Philitinh, và đã chiến thắng ngoạn mục chỉ với vài
viên đá cuội và chiếc ná. Tuy nhiên, trước đó, khi đối diện với tên Goliat,
Đa-vít đã mạnh mẽ và xác tín tuyên bố rằng: “Mầy mang gươm, mang giáo, cầm lao
đến với tao. Còn tao, tao đến với mầy nhân danh Đức Chúa các đạo binh là Thiên
Chúa các hàng ngũ Ít-ra-en mà mầy thách thức…” (1 Sm 17,45).
Có lẽ đây là mô hình mẫu cho
mọi cuộc chiến đấu của niềm tin mà Thiên Chúa đã vạch ra trên suốt chiều dài
của lịch sử cứu độ. Ngài đã sử dụng những con người, những phương tiện xem ra
bé nhỏ, giản đơn, nghèo hèn, để chiến thắng những đầu óc ngông cuồng, những
trái tim kiêu căng hợm hĩnh. Một Môsê bé bỏng trôi nổi bồng bềnh trong cái
thúng đã vươn lên chiến thắng Pharaô kiêu hùng…; một Juđitha liễu yếu đào tơ đã
chặt đầu đại tướng Hôlôphecnê (Gđt 13, 1-17), một Esther hoàng hậu cùng với dân
tộc Ít-ra-en đứng bên bờ vực thẳm của sự tiêu diệt, đã quật ngược thế cờ (Et 7,
1-10)… Và đến thời Tân ước, lại những chuyện lạ lụng, vĩ đại vẫn cứ được ký
thác nơi những thân phận bé nhỏ nghèo hèn: Đức Maria, Thánh Giuse, các anh dân
chài chất phác, thất học bên bờ hồ Gailiê, cô gái làng chơi Maria
Mađalêna…Vâng, chính những con người bé mọn ấy, những thân phận khiêm tốn ấy đã
làm cho công trình cứu độ vĩ đại của Thiên Chúa từng bước hiện thực trong lịch
sử trần gian, đã mang Tin Mừng Cứu Độ giải sáng khắp thế giới.
Và trên hết, như cách diễn tả
của sứ ngôn Gia-ca-ri-a trong Bài đọc 1 hôm nay, Đấng Cứu Thế là “Đấng chính
trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn
theo mẹ…”. Nhưng lại là Đấng “quét sạch chiến xa khỏi Ep-ra-im và chiến mã khỏi
Giê-ru-sa-lem…”. Đó chính là hình ảnh tiên trưng về Chúa Giêsu, Đấng đã tiến
vào Giê-ru-sa-lem cũng trong cung cách hiền lành như thế để hoàn tất sứ mệnh
cứu thế bằng cái chết tủi nhục thương đau trên thập giá, một sự hạ mình khiêm
nhượng thẳm sâu, một sự hiền lành cho đến mức cuối cùng.
Chắc chắn, chính trong cái trực
cảm sâu sắc và đầy xác tín nầy, Chúa Cứu Thế đã thốt lên lời nguyện tạ ơn sốt
sắng với Chúa Cha: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha
đã dấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm nước Trời, nhưng lại
mặc khải cho những người bé mọn…”.
Và như thế, bài học đầu tiên,
xuyên suốt và cuối cùng mà Đức Ki-tô đề nghị với chúng ta hôm nay vẫn là hoán
cải để trở nên khiêm hạ, bé nhỏ: “hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền lành và
khiêm nhường”.
Thế nhưng, đối với nhiều người,
chấp nhận đi con đường của Đức Ki-tô, chấp nhận thực hành bài học khiêm nhường
và hiền lành của Chúa Cứu Thế, con đường của Tám Mối Phước Thật…vẫn luôn là một
cái “ách”, một “gánh nặng” mà họ không thể mang nổi, hay nếu có mang, thì cũng
trầy trật, dở dang, chẳng đem lại ích lợi gì. Bằng chứng là đã có biết bao
người đã ra đi khỏi mái nhà Hội Thánh, đã chọn những bước chân tự do của Giu-đa
Is-ca-ri-ốt ra đi trong “bóng tối” với 30 đồng bạc phản bội, thay vì ở lại nơi
Bàn Tiệc Lý với Thầy và anh em.
Cũng y chang như thế, ngày hôm
nay, có biết bao đôi vợ chồng đã vất đi cái “ách của bí tích Hôn Phối” mà họ đã
long trọng cử hành để được được tự do chạy theo những xúc cảm và đam mê của
riêng mình ; đối với họ đã “xưa rồi diễm ơi cái thứ hôn nhân một túp lều tranh
hai trái tim vàng”, còn chăng chỉ là một “của nợ” phải thanh toán, một địa ngục
phải thoát ra…. Biết bao bạn trẻ đã khức từ cái “gánh nặng của nhân đức khiết
tịnh, trong sạch” để được tự do luyến ái trước hoặc ngoài hôn nhân ; biết bao
những người mẹ, ông cha sẵn sàng vất đi mạng sống của chính con mình vì sợ
“gánh nặng phải đẻ đau, nuôi dạy hay những phiền phức khác cho hạnh phúc cá
nhân…”…
Nói chung, vẫn còn biết bao
người Ki-tô hữu vẫn xem các giá trị của Tin Mừng và bao lề luật khác của Chúa
và Hội Thánh như một cái “ách khó chịu” chẳng cần phải giữ, và mọi cuộc dấn
thân để phục vụ cho Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh như một “gánh nặng nề” chẳng
đáng để dấn thân…Bởi vì trên đôi vai và cái cỗ của họ không bao giờ xuất hiện
một bóng dáng tình yêu như trên vai và trên cỗ của người cha Lê Văn Hồng, đã
cõng người con là Lê Xuân Bách suốt 18 năm[1], hay đã lâu rồi, như trên cuộc
đời thủy chung, tha thiết của tình yêu nơi người chồng Trương Văn Chín và người
vợ tật nguyền đi xe lăn Nguyễn Thị Phương[2]…
Và như thế, với sứ điệp lời
Chúa được đề nghị hôm nay, chúng ta lại được dẫn tới một bài học thứ hai: để
học được với Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhượng thì trước hết và trên hết,
chúng ta phải đón nhận tất cả trong tình yêu, phải nhận ra cái “ách” và cái
“gánh nặng” trên đôi vai cuộc đời chính là “tình yêu”.
Thế nhưng, muốn được như thế,
Lời Chúa hôm nay lại đề nghị: phải cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Bởi vì, chỉ
có những ai mang Thần Khí của Đức Ki-tô thì mới thuộc về Ngài và mới có cuộc
sống mới để bước đi trên những nẻo đường của Ngài (Bđ 2). Nói cách khác, chính
Chúa Thánh Thần sẽ biến đổi con tim và cuộc sống để từ hôm nay, cái “ách” và
“gánh nặng” của Tin Mừng, của Chúa Giêsu sẽ mang một tên mới, đó là “Tình Yêu”.
Amen.
--------------------------------
[1] Ông Lê Văn Hồng cõng con là
thí sinh Lê Xuân Bách, bị teo cơ, lên Hà Nội thi vào Đại học. Ông đã cõng con
như thế suốt từ 18 năm nay, kể từ Lê Xuân bách lên 4 tuổi. bản tin của trang
mang vnExpress đăng ngày 5/7/2014.
[2] Chị Nguyễn Thị Phương,
người phụ nữ nằm liệt giường suốt 9 năm trời, và anh Trương Văn Chín, một người
đàn ông khỏe mạnh bình thường, đã vì tình yêu cũng như tình thương sâu sắc mà
hy sinh cuộc đời, chấp nhận làm chồng của chị mặc dầu chị bị tật nguyền.
Nếu phải kể ra những điều chúng
ta cần học hỏi nơi Chúa Giêsu, thì hẳn là nhiều lắm. Tuy nhiên, cái khó là phải
bắt đầu từ đâu? May thay chính Chúa Giêsu đã chỉ rõ cho chúng ta bài học đầu
tiên và cần thiết nhất, đó là lòng khiêm tốn, đức từ bi và nhân hậu. Chính
Người đã nói: Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong
lòng.
Khi xây một căn nhà, thì trước
hết chúng ta phải làm nền, phải xuống móng. Nền móng càng sâu, càng chắc thì
ngôi nhà càng có thể xây lên cao. Nền móng đâu có phải được làm bằng những vật
liệu quí giá và đẹp đẽ, nó chỉ là đá cát, đôi khi cả xà bần, gạch vụn được nện sâu
và nện thật chắc. Nó là cái phải không phải để khoe khoang, nhưng luôn bị chôn
vùi, bị che đậy và bị người ta chà đạp lên trên. Quả thế, khi chúng ta bước vào
bên trong một tòa lâu đài, một hoàng cung hay một ngôi nhà tầm thường nào cũng
vậy, chẳng ai để ý đến cái nền, chẳng ai thắc mắ xem nó được làm bằng gì, và
chứa đựng những cái chi ở bên trong, nhưng chúng ta sẽ dẫm bước lên nó mà đi.
Con người xét về phương diện cá
nhân cũng như tập thể, cũng là một công trình xây dựng, mà nền móng phải là
lòng khiêm tốn. Không có nền móng này, không sớm thì muộn chúng ta cũng sẽ bị
sụp đổ, bởi vì ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xống, thì
sẽ được nâng lên. Hơn thế nữa, trong lời kinh Ngợi Khen, Mẹ Maria đã xác quyết:
Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhau.
Lão Tử ngày xưa cũng đã nói:
Giàu sang mà kiêu căng là tự rước lấy họa vào thân. Kẻ tự cao tự đại giống như
kẻ nhón gót chân để cao hơn người, xoạc chân ra để lớn hơn người. Như vậy sẽ
chẳng thể đứng vững và tiến bước. Trái lại bậc thánh nhân cho đến ngày cùng,
vẫn không cho mình là lớn, nên mới thành được việc to.
Lịch sử cho chúng ta đầy rẫy
những mẫu gương về những cá nhân cũng những tập thể, đặc biệt là những đế quốc
hùng mạnh, nhưng kiêu căng, đã bị sụp đổ như thế nào. Những con người như
Néron, Napoléon, Hitler…Nhưng đế quốc như Rôma, Mông Cổ…ngày xưa đã thảm bại ra
sao, thì ai cũng đều biết. Sự tự cao tự đại thường đi đôi với lòng tạn bạo và
bất nhân. Bởi vì kẻ kiêu căng thường bắt mọi người phải khuất phục mình, làm nô
lệ cho mình và không ngần ngại dùng bạo lực để đàn áp, chế ngự và tiêu diệt
những ai không chịu khuất phục.
Thế nhưng, Chúa Giêsu thì khác.
Người đã dạy chúng ta: Ai muốn làm đầu, thì phải trở nên rốt hết và hầu hạ mọi
người. Chính Người, trong suốt cả cuộc đời, đã sống khiêm nhu và trong giờ từ
biệt các môn đệ, để ra đi chịu chết, Người đã không ngần ngại quì xuống rửa
chân cho các ông, để nêu gương khiêm nhường, dồng thời kèm theo đó là bài học
bác ái yêu thương, như lời Người đã phán: Con người đến không phải để được hầu
hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều
người.
Xưa nay trong Hội Thánh vãn có
thói quen đề cao đức khiêm nhường. Nhưng đức khiêm nhường ấy thường được ghép
đôi với sự vâng phục. Như vậy xem ra khiêm nhường chỉ là nhân đức của kẻ bề
dưới. Trong khi đó, Chúa Giêsu đã liên kết đức khiêm nhương với lòng bác ái và
tinh thần phục vụ. Người coi đó là đức tính của người lãnh đạo, của bậc bề
trên. Bởi vì chỉ kẻ khiêm nhường mới có khả năng yêu thương thực sự. Và chỉ kẻ
yêu thương thực sự mới thích phục vụ người khác.
Như thế, khiêm nhương không
phải là thái độ của kẻ hèn nhát, sẵn sàng chịu khuất phục, nhưng là đức tính
của bậc anh hùng, của người đã làm chủ được bản thân mình.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Bài Phúc Âm của Chúa nhật XIV
Mùa thường niên hôm nay được trích trong một đoạn văn hay nhất của thánh
Matthêu, người ta gọi đoạn văn này là “Hạt Ngọc Quý Nhất” của Thánh Matthêu.
Dòng tư tưởng của đoạn Phúc Âm này thật cao siêu và êm dịu, chúng ta thấy ngay
về sự bay bổng và suy tư về Nước Trời. Có lẽ lời cầu nguyện này được thốt ra
khi Chúa Giêsu nghe các Tông đồ đi truyền giáo trở về và kể lại cho Chúa các
điều họ đã thực hiện, các mối liên lạc giữa Chúa và Chúa Cha về sứ mệnh cứu rỗi
làm trung gian, và mời gọi mọi người đến với Ngài. Điều ấy là các mầu nhiệm
Nước Trời.
Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được
mạc khải này cho chính mình và cho các Tông đồ: “Hết thảy những ai khó nhọc và
gánh nặng…” Theo mạch văn và ý muốn của Chúa mà chúng ta hiểu, đây là những
người Do thái đang bị đè nặng bởi lề luật và các truyền thống của những biệt
phái. Chúa Giêsu đã giải thoát họ khỏi ách lề luật và đem họ đến chỗ thảnh
thơi. Vì từ nay những ai đến với Chúa phải đến với tất cả tâm hồn, phải được
ghi khắc lề luật mới là luật của Thánh Thần ở bên trong và tự nguyện.
Đoạn văn này rất súc tích tư
tưởng, không bao giờ khám phá ra hết, song ít ra chúng ta có thể nhận thấy
chính những tư tưởng sau:
Trước hết là lời cầu nguyện của
Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài
trên trời vì đã mạc khải những điều này cho các trẻ nhỏ, mà lại không cho những
kẻ thông thái và quân tử biết. Những nhà thông thái tự cao tự đại thường cho
rằng mình biết tất cả. Lòng tự ái tự cao làm cho họ không nhận ra Lời Chúa, còn
những bậc quân tử thì lại tự mãn về lối sống của mình, tự cho mình là chân
chính và không cần đến sự giúp đỡ của Thiên Chúa, không cần ơn cứu rỗi của
Ngài. Trái lại những kẻ bé mọn lại biết rằng mình dốt nát trước sự cao cả của
Thiên Chúa, họ thấy mình bé nhỏ khốn nạn, và sẵn sàng đón nhận với lòng biết ơn
về những hồng ân của Thiên Chúa, sẵn sàng đón nhận ơn cứu rỗi, cảm thấy cần
Chúa: “Chúa hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao và nâng người hèn mọn lên”.
Chúa Giêsu tự mạc khải Ngài:
“Sự thực đã được Cha trao phó cho Ta và không ai biết Cha trừ ra Ta, và cũng
không ai biết Ta trừ ra Cha” (Mt 11,27). Lời đó mạc khải về Chúa Giêsu, Ngài
đồng bản tính với Thiên Chúa Cha. Một mình Cha biết đầy đủ về Con, vì Cha đã
sinh ra Con trong trí và do sự hoàn toàn sung mãn của Ngài. Và chỉ có Con mới
biết đầy đủ về Cha và hình ảnh của Con là sự trung thực nhất, là tư tưởng, ý
nghĩ của Cha. Chỉ có Thiên Chúa mới hiểu biết Thiên Chúa, chỉ có Thiên Chúa mới
hiểu biết đầy đủ về Thiên Chúa. Đây là một mạc khải vô cùng quí báu cho chúng
ta. Chúa Giêsu sống giữa chúng ta, song không phải hoàn toàn như chúng ta: “Mọi
sự đã được Chúa Cha trao, không ai biết Con trừ ra Cha, và kẻ nào Con muốn mạc
khải cho”.
Một tư tưởng nữa của Phúc Âm
hôm nay đó là lời kêu gọi những kẻ đói khát, những ai mệt nhọc hãy đến với
Ngài: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những kẻ khó nhọc gánh nặng, Ta sẽ bổ sức lại
cho”.
Lời kêu gọi đầy lòng nhân hậu
và giàu lòng thương xót mà Chúa hứa cho những ai đói khát, những ai mệt nhọc,
Chúa sẽ nâng đỡ và Chúa luôn luôn trung thành giữ lời hứa của Ngài. Qua mọi
thời đại, tất cả những ai đói khát công chính đều no nê, những ai nặng trĩu tội
lỗi đến với Ngài đều được nhẹ nhõm, được bổ sức và được tha thứ. Chỉ có Chúa
Giêsu mới nói được: “Tội con đã được tha thứ” (Mt 9,2), và chỉ có Chúa Giêsu
mới nói được: “Đừng sợ, Ta đã thắng thế gian”, (Ga 16,33) và “Ách Ta thì êm ái,
gánh Ta thì nhẹ nhàng”, (Mt 11,30).
Chúng ta hết thảy đều phải mang
gánh nặng và vất vả, nhưng ở đây chúng ta không có ý nói đến những gánh nặng bên
ngoài đè trên vai của mình. Như khốn nỗi, chính trong lãnh vực của tâem linh,
thường thì chúng ta cũng phải vất vả nặng nề, xác thịt đè nặng, các ham muốn
của tình dục, nhiều tật xấu nào đó kìm hãm tinh thần con người, và sức nặng nào
đó đã cản trở con người cũ, không chịu buông tha cuộc đời chúng ta để chúng ta
được đi theo Chúa một cách an vui.
Hôm nay Chúa Giêsu kêu gọi
chúng ta hãy đến với Ngài, Ngài muốn cất gánh nặng đi cho chúng ta. Đúng hơn,
Ngài muốn đặt trên vai chúng ta một ách khác êm ái hơn, Ngài đến để phục hồi
con người vất vả của chúng ta. Chính Ngài đã nói: “Hãy mang lấy ách của Ta và
hãy thụ giáo với Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và các ngươi
sẽ tìm ra được sự nghỉ ngơi cho tâm hồn”. (Mt 11, 29-30).
Vậy chúng ta hãy năng chạy đến
với Chúa, để tìm được nguồn an vui và sự bình an trong tâm hồn. Amen.
Chưa bao giờ Chúa Giêsu nói về
Cha Ngài một cách long trọng như vậy: “Lạy Cha là Chúa trời đất”. Đây là một
trong những lúc mãnh liệt nhất của Tin Mừng. Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài biết rõ
vị Chúa tể trời đất đến nỗi chúng ta ngạc nhiên về những ánh sáng đầu tiên của
mầu nhiệm khôn lường này: nơi Thiên Chuá duy nhất có những động thái tình yêu,
những mối “quan hệ” mà chúng ta trình bày bằng những tiếng: Cha, Con và Thánh
Thần. Tôi nghĩ rằng phải dành ra một lúc để chiêm ngắm và cảm tạ vì những ánh
sáng đã không thể đến với chúng ta được: “Con chúc tụng Ngài, lạy Cha, Đấng mạc
khải cho những kẻ bé mọn”. Có lúc chúng ta nghĩ rằng chúng ta không là gì cả.
Điều này không đúng. Thiên Chúa không yêu thương cái không là gì cả. Chúng ta
là một cái gì đó và thậm chí vĩ đại bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Đến
sống cuộc sống của chúng ta và biết rõ cuộc sống đó, nhất là cuộc sống của
những người bé mọn, Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến cùng Ta, hỡi tất cả những
ai mỏi mệt và gánh nặng”.
Gánh nặng nào? Gánh nặng của
cuộc đời hết sức khó khăn và đôi khi người ta còn chất thêm luật lệ tôn giáo
quá đáng hay được chỉ dẫn không đúng. Thế là người ta cảm thấy sợ hãi không thể
tuân giữ các giới răn, không bao giờ có thể làm vui lòng Chúa. Điều đó lấy mất
tự do nội tâm và niềm vui của chúng ta, tước mất Thiên Chúa khỏi chúng ta. Nếu
Ngài là Đấng làm cuộc sống chúng ta nặng nề, thế thì Ngài đâu phải là Thiên
Chúa Tình yêu?
Chúa Giêsu đã mạnh mẽ tố giác
những kẻ làm gương xấu cho những người bé mọn: “Các luật sĩ và Pharisêu nói mà
không làm: họ đặt những gánh nặng lên vai những người khác trong khi họ không
muốn đụng ngón tay vào: (Mt 23,3-4).
Có lẽ chúng ta đã bị chấn thương
do những kẻ ra sức làm cho chúng ta trở thành những người luôn luôn có mặc cảm
tội lỗi. Thật rất khó mà thoát ra được một sự giáo dục vụng về. Tôi chỉ biết có
mỗi một cách là không ngừng đến với Chúa Giêsu, chiêm ngắm Ngài, lắng nghe
Ngài, hoàn toàn tin tưởng vào Ngài là Đấng đã nói: “Ta, Ta có thể cho người
nghỉ ngơi an bình cùng với Chúa”.
Đó không phải là một an bình
với một Thiên Chúa giả hiệu là Đấng luôn luôn bằng lòng với chúng ta theo giá
rẻ mạt, Chúa Giêsu nói: “Hãy mang lấy ách của Ta”. Đây thật là một cái ách bởi
vì đây là một điều luật. Không ai có thể bỏ qua điều luật, và luật của Chúa
Giêsu, tức luật tình yêu, cho dầu bó buộc nhất, vẫn là một sự đòi hỏi vô cùng.
Nhưng đây là một sự nghịch lý được Chúa Giêsu khẳng định nếu không thì chúng ta
khó mà chấp nhận: “Ách ta êm ái, gánh ta nhẹ nhàng”. Luật của Chúa Giêsu duy
trì chúng ta trong sự cố gắng nhưng để cho chúng ta được an bình. Nếu một gánh
nặng làm tê liệt chúng ta và làm cho chúng ta buồn khổ thì chắc hẳn đó không
phải là gánh nặng của Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Nguyễn
Hương)
Lời Chúa hôm nay thật là phong
phú, mỗi câu là một đề tài đáng suy nghĩ. Chúng ta chỉ tập trung suy niệm một
câu thôi: “Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt
11,29).
Hiền lành và khiêm nhường là
hai đức tính căn bản và nền tảng mà mỗi người chúng ta phải có để làm người.
1. Người hiền lành (meek)
Vậy người hiền lành là ai?
Trước hết người hiền lành là người có đức độ, lương thiện (good); có lòng thương
người (helpful); người tỏ ra kiên nhẫn (patient), dễ tùng phục (submissive), tử
tế và hòa nhã với người khác (kind). Người ở hiền thì sẽ có hậu: “Ở hiền gặp
lành”, “Cha mẹ hiền lành thì để đức cho con” (ngạn ngữ Việt nam).
Trái nghịch với hiền lành là
người độc ác, ích kỷ, nóng tính (nóng tính thì hỏng việc!); người thích mệnh
lệnh, ưa “ăn trên ngồi trốc”; người “giận cá bằm thớt”; người hay gây lộn
“thượng cảng chân hạ cẳng tay!”; người hay “bới lông tìm vết”; người hay nói
xiên nói xỏ, nói móc nói me, gây chia rẽ trong gia đình, cộng đoàn, xã hội, vv
và vv…!
2. Người khiêm nhường (humble)
Còn người khiêm nhường là ai?
Người khiêm nhường là người biết mình, biết người, biết sự vật đúng như nó là;
người không khoe khoang, không phô trương, dù có thành công (not proud or
arrogant although successful); người biết tôn trọng người khác và nhường - nhận
người khác hơn mình.
Ngược với khiêm tốn là người
kiêu ngạo: người tự coi mình là hơn người, khoe khang, nói quá sự thật, hay “vơ
đũa cả nắm”, kiểu “cả vú lấp miệng em!”, lúc nào cũng cho mình đúng còn người
khác thì sai vv…!
3. Gương khiêm nhường
Đức Giêsu hôm nay mời gọi chúng
ta: “Hãy học cùng Ta vì ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”. Hãy học cùng
Người, hãy học trường Giêsu. Bởi nơi Người, chúng ta gặp một mẫu gương đích
thực về sự hiền lành và khiêm nhường: Người là Thiên Chúa nhưng đã hạ mình mặc
lấy thân phận tôi đòi (Phil 2,6), là vị Thầy nhưng đã cúi xuống rửa chân cho
các môn đệ, Người hiền lành như chiên con bị xén lông mà chẳng mở miệng (Is
53,5-7), và Người đã sống sự khiêm tốn tới tột cùng là cái chết nhục nhã trên
thập giá. Nhưng sự hiền lành và khiêm tốn đó lại trở thành dũng lực, là sức
mạnh của Tình Yêu và ơn cứu độ cho chúng ta. Người được Thiên Chúa tôn vinh với
danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (Phil 2,9). Đúng là “ai hạ mình xuống thì sẽ
được nâng lên” (Lc 18,14)!
Khi nói về những vị thánh đã
học được gương của Chúa Giêsu, ta nhớ tới câu chuyện về Đức Giáo Hoàng Gioan
XXIII: Tên thật ngài Roncalli, trước khi làm giáo hoàng, ngài là khâm sứ ở
Bungari và Thổ. Trong khi thi hành công vụ, ngài nhận được một bức thư của một
linh mục chỉ trích ngài đủ mọi thứ. Ngài đọc thư và không nói gì. Sau đó ngài
làm Hồng Y, rồi làm Giáo Hoàng (1958). Về sau vị linh mục đó cùng với giáo dân
sang Rôma để yết kiến Đức Giáo Hoàng. Vị linh mục này kể lại buổi yết kiến này:
trong khi đứng chờ, đầu óc của ngài cứ nghĩ tới bức thư đó và vừa hối hận vừa
lo sợ. Thời gian lâu rồi chắc Đức Thánh Cha đã quên. Không ngờ tới liền, Đức
Thánh Cha kéo lá thư trong cuốn sách kinh ra. Cha hoảng sợ, chuyện gì sẽ xảy ra
cho tôi? Nhưng Đức Giáo Hoàng ôn tồn nói: “Con đừng sợ, Cha cám ơn Con. Cha để
lá thư trong sách để mỗi ngày đọc và xét mình. Hầu dứt khoát với những khuyết
điểm còn tồn tại và tránh những lầm lỡ có thể xảy ra trong tương lai. Mỗi lần
như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con”.
Các thánh thật hiền lành và
khiêm tốn như Chúa Giêsu! Chúng ta chưa giống Chúa vì chúng ta chưa học và sống
sự hiền lành và khiêm nhường Người. Nên hôm nay Chúa mời gọi chúng ta hãy đến
với Người và học nơi Người. Khi chúng ta học được sự hiền lành và khiêm nhường
thì lòng chúng ta, gia đình và xã hội sẽ có bình an. Amen!
Ba chương 11, 12 và 13 của
thánh Matthêu xoay chung quanh các chủ đề ‘dấu kín’ và ‘tỏ bày’. Chúa tỏ bày
một giáo huấn và tự tỏ bày chính mình. Giáo huấn không phải là hoàn toàn mới lạ
vì dân Do thái đã được Thiên Chúa dậy dỗ nhiều. Nhưng Đức Kitô mở những viễn
ảnh mới cho những chân lý cũ và có được điều ấy là vì Ngài liên kết những chân
lý ấy với con người của Ngài. Mục đích của Ngài là hướng dẫn các tâm trí khám
ra bản tính con Thiên Chúa của Ngài. Vì vậy ở đây chân lý không phải là sự khám
phá của trí khôn sau những cố gắng học hỏi cho bằng là một cuộc gặp gỡ của toàn
thể con người đáp lại một sự sẵn sàng thâm sâu. Chúa Giêsu chúc tụng Cha Ngài
vì Chân Lý được tỏ ra như một cuộc gặp gỡ cho những ai có tâm trí không chất
chứa và tấm lòng sẵn sàng đón nhận. Đáng lẽ những kẻ đầu tiên đón nhận ra Chúa
Giêsu là Đức Kitô của Thiên Chúa phải là các vị tiến sĩ luật pháp, vì Lề Luật
và các tiên tri loan báo Đức Kitô. Rủi thay, cái học tinh thần quá họ chất chứa
nặng nề những lý luận tinh tế, những ý niệm trí thức, những tranh luận diễn
giải. Mọi thứ ấy sinh ra tri thức tự mãn và bởi nó sinh ra kiêu ngạo. Vô tình
họ đã dựng nên trước tâm trí một bức màn chắn. Trên đó họ thích thú nhìn ngắm
hình dáng chính mình và do đó không còn có thể nhận ra lối Chúa đi qua, ở bên
kia bức màn. Ý thích của Chúa Cha không phải là muốn các người khôn ngoan và
tài khéo dựng nên một màn chắn trước họ, điều này thật tai hại, nhưng là muốn
cho các người hèn kém và nhỏ bé có khả năng nhận diện Đấng yêu mến và giải
thoát họ.
1) Cho người ‘nhỏ bé’ Chúa ban
khả năng nhận biết Chúa Cha qua Chúa Giêsu. Qua các lời nói, việc làm và con người Chúa Giêsu, họ thấy được
rằng giữa Đấng tỏ lộ trước mắt họ và Thiên Chúa có một tương quan đặc biệt tạo
bằng gắn bó mật thiết và sanh thành như Cha với Con. Tư tưởng Do thái không
quan niệm Thiên Chúa như là Cha, nhưng chỉ theo nghĩa Thiên Chúa tốt lành, chăm
sóc và tạo thành. Quan niệm Thiên Chúa là Cha đến mức độ con người mang tên
Giêsu lại là con đồng bản tính với Ngài, quả thật quá đáng và phạm thượng. Thực
ra, mặc khải một việc như thế vượt quá những khả năng nhân loại, đó là một ơn
Thiên Chúa ban. Những kẻ được lãnh nhận ơn ấy là các tâm trí hèn kém, đơn giản,
cởi mở, ‘nhỏ bé’.
2) Đức Giêsu mà Chúa Cha dùng làm
trung gian để tự biểu lộ, Người là ai?Người hiền lành và khiêm nhượng
trong lòng. Chúa Giêsu sống tận cùng mầu nhiệm nhập thể. Đến chia sẻ thân phận
làm người. Người muốn xuống tận kinh nghiệm nhân loại của kẻ hèn kém, nhỏ bé
nhất và kẻ ấy phải có được một lối đi đến Người. Hơn nữa, vì những kẻ sẵn sàng
đón nhận Chân lý, nhất là những tâm trí giản đơn và tình nguyện, vì những kẻ dễ
dàng cảm nhận nhu cầu đến Chúa Cha nhiều nhất (ngay cả qua những thái độ phản
kháng tiêu cực) là những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn nhất, cho nên Chúa Giêsu thích
mặc khải Chúa Cha cho những kẻ nhỏ bé và nghèo hèn.
Mọi tôn giáo trên thế giới đều
đòi hỏi những tín hữu phải tự hạ trước vị thần linh của họ, nhưng tôn giáo của
chúng ta là tôn giáo duy nhất mà Con Thiên Chúa đã tự hạ trước dân của Người.
Chúa Cha đã sống với Chúa Con
trong tình âu yếm của Chúa Thánh Thần tự đời đời. Đời sống của Thiên Chúa là
một đời sống vinh quang và hoàn hảo, nhưng đến khi thời gian viên mãn Thiên
Chúa đã sai Con của Người làm Đấng Cứu Độ chúng ta, làm con người giống như
chúng ta mọi đàng ngoại từ tội lỗi. Một lời kinh của Giáo hội đã dâng lên Chúa
Giêsu: “Khi Người trở nên con người để giải thoát chúng ta, Người đã không
khinh chê lòng dạ của Đức Nữ Trinh” (Te Deum). Sự Nhập Thể là một hành động cao
cả của sự khiêm nhượng.
Một số người nói rằng nếu chúng
ta có thể thấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể với tất cả sự rực rỡ vinh
quang thần tính của Người, chúng ta sẽ sấp mình thờ lạy trong sự sợ hãi, không
dám đưa mắt nhìn lên vẻ mặt huy hoàng của Người. Nhưng đó không phải là mối
quan hệ mà Chúa Giêsu muốn chúng ta có với Người. Chúa Giêsu hiến tặng cho
chúng ta một sự mời gọi nồng ấm, hãy sống thân mật với Người trong tin tưởng và
yêu mến mà không có sợ hãi. Người đã không thể nói thẳng cách rõ ràng hơn.
Người nói: “Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”.
Kể từ khi chúng ta không còn sợ
hãi Chúa Giêsu, nhưng là thân mật với Người. Chúng ta đừng bao giờ ngần ngại
mang đến cho Người những gánh nặng của chúng ta để Người nâng đỡ cho. Chúa
Giêsu đã nói về ách của Người. Ách là một cái cày bằng gỗ nặng, nó được đóng để
đặt lên cổ của đôi bò, để giữ chúng lại và để chúng kéo xe. Có lẽ khi còn nhỏ,
Chúa Giêsu đã thấy thánh Giuse đóng những cái ách như vậy và đã biết nó nặng
như thế nào rồi. Người quyết định sẽ dạy cho mọi người biết tôn giáo của Người
không giống như cái ách nặng nề bằng gỗ đó. Đó là lý do vì sao Người phán: “Ách
của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng”.
Tiên tri Zacaria, được linh ứng
bởi Thánh Thần đã thấy một hình ảnh Đấng Mêsia ngự đến. Ông tuyên bố với toàn
dân: “Hãy nhìn xem Vua ngươi đang đến”. Và vụ Vua này không đến với hoàng bào
vương giả và không cỡi trên một con ngựa chiến. Đúng hơn Người hiền lành, cỡi
trên một con lừa non nớt, con lừa con của lừa mẹ. Người đã đến không phải cỡi
trên mình ngựa như một vị vua oai nghi tiến vào cuộc chiến nhưng trên một con
vật chậm chạp mà người nông dân dùng để dọn đất.
Chúa Giêsu đã làm viên mãn hình
ảnh này bằng việc Người tiến vào thành phố Giêrusalem vào Chúa Nhật Lễ Lá. Nơi
đó, Người đã trải qua hành vi lớn lao nhất của sự khiêm nhượng: ấy là cuộc
thương khó và cái chết của Người trên thánh giá để cứu chuộc chúng ta. Ý tưởng
về một Thiên Chúa khiêm hạ như vậy khiến cho không một trí tưởng tượng của con
người nào có thể nghĩ tới. Chỉ khi Thiên Chúa mạc khải, tư tưởng chúng ta mới
có thể nghĩ tới và tình yêu của người dành cho chúng ta trở thành một thực tại
trong đời sống của chúng ta.
Trong mỗi thánh lễ chúng ta
lắng nghe trong lòng chúng ta lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Hãy đến với Ta, hỡi
những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ đến bổ sức cho các ngươi”. Khi đi đến với
Chúa Giêsu là chúng ta xếp hàng đi hướng về vị chủ tế để rước lễ, vị chủ tế
hành sự như Chúa Giêsu, giới thiệu với chúng ta Mình và Máu Thánh của Người,
làm của nuôi thiêng liêng bổ sức thần linh cho chúng ta. Chúng ta đến với Chúa
Giêsu bởi vì Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Trong Người, linh hồn
của chúng ta tìm thấy sự nghỉ ngơi vì ách của Người thì êm ái và gánh của Người
thì nhẹ nhàng.
Ngài sẽ chẳng bẻ gãy cây sậy đã
dập nát, cũng chẳng thổi tắt tim đèn còn khói. Đó là những lời tiên tri Isaia
đã loan báo về Đấng Cứu Thế, qua đó chúng ta thấy được khuôn mặt của Ngài. Một
khuôn mặt hiền hòa khả ái.
Thực vậy, Ngài đã không đến
trong sấm chớp mưa dông, nhưng đến trong một đêm đông lạnh giá. Ngài không phải
là một vị tướng lãnh oai hùng trong chiến trận, nhưng là một người cha giàu
lòng thương xót.
Khí giới của Ngài không phải là
gươm giáo và súng đạn, nhưng là giới luật yêu thương. Đúng thế, Ngài đã xác
quyết:
- Thầy truyền cho các con một
điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau.
Và Ngài còn nhấn mạnh hơn nữa:
- Nếu ai tát má bên phải của
con, thì hãy đưa cả má bên trái cho nó nữa.
Đồng thời, Ngài đã khuyến khích
chúng ta hãy noi gương bắt chước Ngài. Thế nhưng noi gương bắt chước Ngài ở
điểm nào, nếu không phải như Ngài đã khẳng định:
- Các con hãy học cùng Ta, vì
Ta hiền lành và khiêm nhưỡng trong lòng.
Ngài là Thiên Chúa quyền năng,
thế mà đã trở nên như một con chiên hiền lành trước người thợ xén lông.. Vì
thế, hiền lành chính nhân đức của người mạnh và phải có bản lãnh mới kiềm chế
nổi sự nóng giận của mình. Vậy nhân đức hiền lành nắm giữ vai trò nào trong
cuộc sống mỗi người chúng ta?
Kinh nghiệm cho thấy: chúng ta
không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một
pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác. Và trong
cuộc sống chung này, chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm,
những bực bội, những buồn phiền, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai
lỗi, khuyết điểm của mình. Hơn thế nữa, bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một
tính tình riêng.
Bởi đó, chúng ta cần phải biết
quên đi và tha thứ, nhường nhịn và chịu đựng, vì một sự nhịn là chín sự lành.
Chính sự hiền lành sẽ tạo nên
trong gia đình một bầu khí hòa thuận và êm ấm:
- Chồng giận thì vợ bớt lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, chẳng đời nào
khê.
Chính sự hịền lành sẽ bắc được
một nhịp cầu cảm thông và sẽ tạo được những mối liên hệ tốt ngoài xã hội giữa
chúng ta với nhau, bởi vì:
- Già néo thì đứt giây.
- Bên thẳng thì bên phải chùng,
Cả hai đều thẳng, thì cùng đứt
dây.
Kinh nghiệm cũng cho thấy những
đổ vỡ xảy ra phần lớn chỉ vì sự nóng giận, nhiều khi rất vô lý của chúng ta.
Thực vậy, quan sát một con sư
tử mắc bẫy. Bẫy chỉ là những sợi dây. Thế nhưng, nếu con sư tử càng lồng gầm
gừ, càng dãy dụa thì những sợi dây lại càng xiết chặt. Còn nếu nó bình tĩnh,
dùng hàm răng nhọn hoắt mà cắn dần những sợi dây, thì chẳng mấy chốc, nó sẽ
được giải thóat.
Bởi đó, người ta thường bảo:
- Giận quá thì mất khôn.
Sự nóng giận là như dầu đổ vào
lửa, làm cho lửa bùng cháy lên. Trong khi đó, sự hiền lành là như thùng nước
dập tắt ngọn lửa. Đúng thế, sự hiền lành bao giờ cũng xoa dịu, cũng hàn gắn.
Một thanh sắt nóng đỏ, nếu đem ngâm trong nước, nó sẽ nguội ngay lập tức.
Để kết luận, tôi xin kể lại mẫu
gương của thánh Phanxicô Salêsiô. Thời còn trai trẻ, ngài là một
người có tính nóng như lửa đốt, hơi một chút là nổi sùng, hơi một chút là quát
tháo. Phải mất hơn hai mươi năm tập luyện. ngài mới trở thành một vị thánh hiền
dịu và dễ thương.
Ngày kia, có một người đang tức
giận đối với ngài. Ông ta xua bày chó sang tòa giám mục để chúng sủa vang. Còn
ông ta và đám gia nhân thì bước vào phòng ngài và chửi bới om xòm. Chính ông ta
đã nhổ nước miếng vào mặt ngài. Thế nhưng, ngài vẫn yên lặng, bình tĩnh rút
khăn ra lau. Chính thái độ hiền hòa khả ái này đã cảm hóa được ông ta, khiến
ông ta sám hối và quay trở về cùng Chúa.
Như vậy, hiền lành không phải
là hèn nhát, nhưng là anh hùng. Kẻ khác đánh chúng ta và chúng ta đánh trả lại,
thì đó chỉ lả phản ứng thông thường của loài vật. Trái lại, kẻ khác đánh chúng
ta mà chúng ta vẫn tha thứ, vẫn cầu nguyện cho họ, thì đó mới là thái độ anh
hùng, xứng đáng với địa vị của con người.
Hơn thế nữa. sự hiển lành còn
là một phương tiện hữu hiệu nhất để cảm hóa người khác, bởi vì chỉ với một giọt
mật, người ta có thể bắt được nhiều ruồi hơn cả một thùng dấm chua.
Báo Văn Học số 193 tháng 5 năm
2002, trong mục Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng tin về em bé Mattie
Stepanek 11 tuổi, hiện sống với mẹ ở Upper Marlboro, bang Maryland. “Mới sinh
ra, em đã mang một căn bệnh di truyền quái ác có tên là “dysautonomic
mitochondrial myopathy”, một hình thức khá hiếm hoi của bệnh yếu cơ – muscular
dystrophy. Bệnh này đã giết chết ba anh chị em của Mattie, còn bản thân em thì
đời sống bị dính liền vào chiếc xe lăn với một bình ốcxy thường xuyên bên cạnh.
Nhỏ nhắn, yếu ớt, thiếu sức khỏe và mang một căn bệnh vô phương cứu chữa như
thế, nhưng em luôn vui vẻ, lạc quan. Em rất ham học và sáng tạo. Em bắt đầu làm
thơ và viết văn vào lúc 3 tuổi. Em đọc và mẹ em đánh máy lại. Lúc 5 tuổi, em đã
có mấy trăm bài thơ và đến nay đã có hàng ngàn bài thơ”.
“Em có ba ước mơ: thứ nhất là
xuất bản một tập thơ của riêng em, thứ hai là được diện kiến với “model” của em
là cựu tổng thống Jimmy Carter và cuối cùng là được xuất hiện trong chương
trình truyền hình của Oprah. Năm 2001, cả ba ước mơ của em không những đã thành
đạt mà còn thành đạt ngoài ý muốn. Tháng 7 năm 2001, hai nhà xuất bản “VPS
Books” và “Hyperion Books” hợp tác nhau xuất bản thi tập đầu tiên của em, tựa
đề là “Heartsongs”. Ngay lập tức, nó trở thành “bestseller” trên toàn quốc.
Tháng 10 năm 2001, em được diện kiến cựu tổng thống Carter trong chương trình
truyền hình “Good Morning America”. Và ngày 19 tháng 10 năm 2001, em xuất hiện
trong chương trình truyền hình Oprah.
Tối ngày 17 tháng 4 năm 2002,
Mattie xuất hiện trong chương trình “Lary King Live” của hệ thống truyền hình
CNN. Trong cuộc trò chuyện này, bằng một giọng nói lưu loát, cử chỉ sống động,
em trả lời nhiều câu hỏi về cuộc sống, việc học, việc làm thơ và những mơ ước
của em một cách thông minh, chân thành và đôi khi còn pha chút dí dỏm. Trả lời
câu hỏi liên quan đến căn bệnh nan y của em, Mattie nói: “Các bác sĩ không tin
rằng cháu sẽ sống nổi một ngày. Nhưng cháu đã sống được. Rồi họ lại bảo “OK,
thằng nhỏ sống đến 6 tháng là cùng”. Cháu đã sống… Khi cháu lên 2, họ nói “OK,
10 tuổi thôi”. Bây giờ đây cháu đã được 11 tuổi. Họ sẽ có thể nói “đến mười mấy
thôi, quá lắm là đến hết tuổi thiếu niên, nhưng cháu dự tính sẽ sống đến 101
tuổi lận”.
Đề cập đến sự kiên trì phấn đấu
của mình để tồn tại và sáng tác, em phát biểu: “Đôi khi, cháu tự hỏi: Tại sao
lại là cháu? Tại sao cháu lại có một đời sống khó khăn như thế này? Tại sao mấy
anh chị em của cháu lại chết? Tại sao bệnh không lành? Nhưng rồi cháu nghĩ lại
và tự hỏi: Tại sao không phải là cháu chứ? Cháu có thể chịu đựng được tốt hơn
một đứa trẻ khác đã phải chịu những khó khăn trong đời của nó. Hoặc là cháu có
thể chịu đựng tốt hơn một đứa nhỏ chẳng hiểu gì chuyện đó cả và có thể còn đau
khổ hơn”.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người trên đôi vai chúng ta. Phải chấp
nhận những nhọc nhằn vất vả, bệnh tật ốm yếu, khổ đau buồn sầu, và tất cả những
ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.
Người Do Thái dùng thành ngữ
cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách
của các giới răn, cái ách của Vương Quốc, và cái ách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu
đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.
Theo William Barclay, Chúa
Giêsu nói, “Ach của Ta thì êm ái”. Chữ “êm ái”, tiếng Hy Lạp là “chrestos” có
nghĩa là vừa vặn. Trong xứ Palestine những cái ách của con bò được làm bằng gỗ;
con bò phải được dẫn đến tiệm thợ mộc để đo kích thước phù hợp với từng con.
Sau đó cái ách phải được thợ mộc đẽo gọt, điều chỉnh, sửa chữa cẩn thận cho
thật vừa vặn để không làm trầy da hay tổn thương đến con vật.
Có một huyền thoại cổ kể lại
rằng Chúa Giêsu là người thợ mộc sản xuất ra những cái ách vừa vặn vào loại
hạng nhất ở xứ Galilêa, và trong khắp cả nước người ta ùn ùn kéo đến với Người
để mua những cái ách hạng nhất do Người làm ra. Thời ấy, các cửa tiệm cũng có
những nhãn hiệu dán trên cửa, và cái nhãn hiệu của tiệm thợ mộc ở Nagiarét nổi
tiếng với hàng chữ: “My yokes fit well” – “Ach Ta rất vừa vặn”.
Chúa Giêsu nói: “Ach của Ta thì
êm ái”, có nghĩa là: “Cuộc sống Ta ban cho con không phải là gánh nặng làm tổn
hại đến con; bổn phận của con đã được đo lường thích hợp với con rồi”. Bất cứ
điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đã được làm để phù hợp chính xác với
những nhu cầu và khả năng của chúng ta.
Chúa Giêsu nói: “Gánh của Ta
thì nhẹ nhàng”. Đúng như lời của một thầy Rabbi đã nói: “Gánh của tôi đã trở
nên bài ca của tôi”. Điều này không có nghĩa là gánh nặng thì dễ dàng mang vác;
nhưng có nghĩa rằng nó được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu. Nó sẽ được
mang vác trong tình yêu. Và tình yêu sẽ làm cho những gánh nặng nề nhất cũng
trở nên nhẹ nhàng như thánh Augustinô đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó hết khó
nhọc”.
Có một câu chuyện cổ kể về một
người đàn ông đang đi trên đường, tình cờ gặp một em bé trai đang cõng một em
bé trai khác nhỏ hơn nhưng đã bị cụt hai chân trên lưng. Người đàn ông đó nói
với bé trai rằng: “Đó quả thật là một gánh nặng cho em phải mang”. Nhưng em bé
trai đã trả lời rằng: “Đó không phải là một gánh nặng. Đó là đứa em nhỏ của
cháu”. Gánh nặng được trao ban trong tình yêu và mang lấy bằng tình yêu sẽ luôn
nhẹ nhàng!
Trong chuyện “Ngụ ngôn về những
con chim” kể rằng thuở sáng tạo trời đất và các loài súc vật, tất cả đều bước
đi bằng chân loanh quanh trên mặt đất, trừ những con chim! Nhưng những con chim
này chẳng chịu làm gì hết mà chỉ phàn nàn về gánh nặng Thiên Chúa bắt chúng
phải mang trên vai, trong khi đó chẳng có một loài vật nào phải mang cả. Thoạt
đầu, đối với loài chim, đôi cánh là những bộ phận xấu xí và luộm thuộm nhất
chúng phải mang. Chúng nghĩ rằng đó là cách chúng đã bị Thiên Chúa phạt vì một
lý do nào đó. Tại sao cứ phải mang lấy những cái cánh vướng vít gây cản trở và
khó khăn mỗi khi cất bước? Tại sao? Tại sao lại là chúng mình? Sau cùng có hai
hay ba con chim mạo hiểm hơn bắt đầu tập cử động những bộ phận phụ thuộc này.
Chúng bắt đầu chớp cánh phất phơ, và sớm khám phá ra rằng cái mà chúng coi như
một gánh nặng trên vai thực ra đã làm cho chúng có thể cất cánh bay lên cao
được. Cái “gánh nặng” đã biến thành một món quà đẹp đẽ.
Con người sinh ra đời kèm theo
với cái ách, gánh nặng và trách nhiệm. Đó là cuộc đời! Và chúng ta cũng không
thể tránh được lòng mong ước thoát khỏi chúng. Đó cũng là cuộc đời! Chúng ta
muốn được giải thoát, nhưng tự sức chúng ta không làm nổi. Chúa Giêsu nói với
chúng ta: “Tất cả hãy đến với Ta, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, Ta sẽ
nâng đỡ bổ sức cho các người”. Chúng ta không mang vác một mình, nhưng với sự
giúp đỡ của Chúa Giêsu, cái ách sẽ trở nên êm ái và gánh nặng sẽ nên nhẹ nhàng.
Với sự trợ giúp của Thiên Chúa, cái ách trở nên giống như đôi cánh chim giúp ta
bay lên cao hơn trong đời sống tinh thần.
Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ
Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống
lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay.
Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo
nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương”. Trong bài suy
niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm
– thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến
hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ,
hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích
của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng. Chúng ta có một Thiên Chúa cùng đồng hành với chúng ta. Ngài
biết sự phấn đấu và hiểu nỗi đau khổ của chúng ta.
Cái ách ở thế kỷ thứ nhất
thường được mang bởi hai con vật cùng kéo cày hay kéo xe chung với nhau. Khi
chúng ta mang lấy trách nhiệm phục vụ Chúa Kitô, chúng ta cũng mang lấy ân sủng
và sức mạnh của Chúa Kitô. Thiên Chúa là Đấng đã ra lệnh cho chúng ta phải cúi
xuống để Người đặt lên chúng ta cái ách của Người, cũng sẽ ở bên cạnh chúng ta
để cùng mang vác với chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Trần
Quang Hiền)
Trong bài Phúc Âm Chúa Nhật
tuần này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách củaNgười trên đôi vai chúng
ta. Phải chấp nhận những lao nhọc, vất vả, bệnh tật, khổ đau và tất cả những
ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.
Người Do Thái dùng thành ngữ
cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng. Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách
của các giới răn, cái ách của Vương Quốc và cái ách của Thiên Chúa. Chúa Giêsu
đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.
Ai trong chúng ta cũng phải
mang nhiều cái ách trong cuộc sống của mình, dù nặng hay nhẹ đều phải vác cả.
Cái ách gánh nặng của chồng, vợ, con cái, cái ách của công ăn việc làm, cái ách
của nghèo khổ, của bệnh tật, của thử thách.... Có những lúc chúng ta chán
chường và mệt mỏi, có những lúc chúng ta muốn bỏ hết tất cả cho yên thân vì
không muốn đối diện với nó. Có những lúc chúng ta quá căng thẳng, bị stress vì
áp lực của cuộc sống. Cái ách trở nên quá nặng nề, vì thế chúng ta thường trách
Chúa tại sao Ngài gởi quá nhiều thánh giá, nhiều cái ách nặng nề quá sức chịu
đựng cho chúng ta thế. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy đến với Ngài vì ách của
Ngài thì êm ái, gánh của Ngài thì nhẹ nhàng. Không phải Chúa Giêsu cất hết tất
cả những cái ách nặng nề của chúng ta, mà Chúa Giêsu sẽ nâng đỡ và dạy chúng ta
biết cách đón nhận và vác cái ách của chúng ta như thế nào cho nhẹ nhàng. Chúa
không muốn chúng ta phải trốn tránh cái ách của mình cho dẫu nó có nặng nề và
đòi hỏi chúng ta phải trả giá rất đắt. Chúa Giêsu đã làm gương trước cho mỗi
người chúng ta, Ngài đã mang lấy ách của chúng ta là tội lỗi của chúng ta trên
vai của Ngài và Ngài đã vác hết chặng đường khổ nạn của mình, cho đến chết trên
thập giá.
Là người kitô hữu, chúng ta
cũng phải mang lấy ách của mình và bước đi trên con đường thập giá mà Chúa đã
đi xưa kia. Chúa Giêsu sẽ không bỏ rơi chúng ta, Ngài vác cái ách cùng đi với
chúng ta, Ngài không để chúng ta vác một mình, Ngài không để chúng ta quá sức
chịu đựng.
Cùng mang lấy ách và vác đi
cùng với Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấy nhẹ nhàng và được an ủi biết chừng
nào.
Cái ách sẽ trở thành nhẹ nhàng
khi chúng ta vác nó với một niềm tin tưởng, phó thác vào tình yêu thương của Thiên
Chúa, Ngài là người Cha luôn muốn điều tốt lành cho mỗi người chúng ta, không
bao giờ muốn những điều đau khổ cho chúng ta. Cái ách và đau khổ là thước đo
cho lòng mến của chúng ta đối với Chúa, cho sự kiên trung trong tình yêu mến,
vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa. Cái ách cũng là cơ hội để chúng ta biết kết
hiệp vào mầu nhiệm khổ nạn đang còn dở dang của Đức Kitô.
Trong tiểu sử cuộc đời thánh nữ
Têrêsa Avila có kể một câu chuyện về việc ma quỉ giả dạng giống Chúa Giêsu sống
lại hiện ra với thánh nữ. Vừa nhận ra sự giả dạng thánh nữ đuổi nó đi ngay.
Trước khi ra đi, Satan hỏi: “Làm thế nào bà đã biết được tôi là một người mạo
nhận?” Thánh nữ đáp lại: “Bởi vì mày không có những vết thương”. Trong bài suy
niệm của thánh nữ về đời sống tinh thần, The Interior Castle – Lâu Đài Nội Tâm
– thánh nữ Têrêsa đã nói đi nói lại về hình ảnh của Chúa Kitô chịu đau khổ đến
hơn 40 lần. Thánh nữ thường xuyên đề cập đến đau khổ là vì, đối với thánh nữ,
hình ảnh Chúa Kitô mang thương tích đã đến với chúng ta trong chính thương tích
của chúng ta là chìa khóa để tìm hiểu cuộc hành trình thiêng liêng.
Mầu nhiệm đau khổ là mầu nhiệm
mà mỗi người kitô hữu được mời gọi thông phần, suy niệm và sống trong mọi giây
phút của cuộc sống mình. Cuộc đời kitô hữu của chúng ta không thể nào vắng bóng
cái ách, đau khổ, thập giá... đó chính là một phần trong chương trình cứu độ
của Thiên Chúa và là con đường dẫn chúng ta đến mầu nhiệm phục sinh. Phải qua
thập giá mới đến vinh quang.
“Tất cả những ai đang vất vả
mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. Đó là một
lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa
Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta.
Theo nguyên nghĩa Hy Lạp, thì
chữ “vất vả mang gánh nặng nề” Chúa Giêsu nói ở đây được hiểu là cái bao đựng
vật dụng cá nhân như cái ba-lô người ta đeo trên lưng, còn theo nghĩa thông
thường, đó là những vất vả, khó khăn, trách nhiệm mà người ta phải chấp nhận.
Dù theo nghĩa nào thì chúng ta cũng hiểu ngay là mỗi người đều có những vất vả
và đau khổ, được gọi chung là gánh nặng riêng cho đời mình.
Thực vậy, đời người giỏi lắm là
được trăm năm trần thế. Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Trăm năm nào có gì đâu?
Nhưng từ lúc trắng răng đến lúc bạc đầu, không lúc nào vất vả, đau khổ không
theo đuổi chúng ta, đến nỗi ca dao tục ngữ đã nói: “Gánh khổ mà đổ lên non.
Còng lưng mà chạy khổ còn chạy theo”. Đời là bể khổ, đời là thung lũng nước
mắt, không ai chối cãi, không ai phủ nhận, sinh ra và có mặt trên đời là khổ:
“Hữu sinh hữu khổ” là thế. Với thời gian, lớn lên, đau khổ, vất vả hằng theo
sát gót con người, dù ở đâu và làm gì, ai cũng có những vất vả và đau khổ của
riêng mình.
Chúa Giêsu đã nhận thấy điều
đó, Chúa đã hình dung bằng hai tiếng “vất vả và gánh nặng”, và Chúa động viên,
khích lệ, kêu gọi: “Hãy đến với Chúa” để Chúa an ủi, nâng đỡ. Thực vậy, ở đời
này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh nặng xã
hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình
đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu sinh,
vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi
vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất
vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá.
Ngoài ra, “gánh nặng” còn được
hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng
thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng mình:
người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác,
người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau khổ.
Cuộc đời trần gian là thế.
Như vậy, chúng ta dễ dàng chấp
nhận: vất vả và gánh nặng đời này thì nhiều thứ, nhiều cỡ, nhiều kiểu và chúng
ta cũng nhìn nhận rằng: trước những gánh nặng đó, nhiều khi tự sức chúng ta,
chúng ta không làm gì được, chúng ta buông xuôi, chán nản ư? Thậm chí có những
người khi gặp khó khăn, khủng hoảng thì bỏ cả việc đạo đức và chán cả cầu
nguyện, như vậy là sai lầm lớn. Những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều
và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với
Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Nhưng chúng ta nên nhớ:
Chúa nói Ngài nâng đỡ và bổ sức cho chúng ta thôi chứ Ngài không cất gánh nặng
cho chúng ta, Ngài làm cho nhẹ gánh chứ không cất gánh nặng đi. Có nghĩa là
chính chúng ta phải cố gắng làm việc và tìm mọi cách để giải tỏa gánh nặng đời
mình rồi Chúa sẽ giúp sức thêm, chứ đừng ngồi mà than thân trách phận, hoặc chỉ
cầu xin, khấn vái thôi thì chưa đủ.
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể
rằng: Có một bác tiều phu đi kiếm được một xe bò củi
chất đầy, nhưng khi đi tới một khúc đường sình lội thì đôi bò khựng lại, vì xe
của bác bị sụp lún xuống bùn, bác ta ngồi than vãn, rồi sực nhớ ra một vị thần
và kêu xin cứu giúp. Vị thần hiện ra nói: “Thay vì ngồi than vãn thì hãy cố đẩy
xem sao”, bác đứng lên cố sức đẩy, đang đẩy thì có hai thanh niên tình cờ đi
qua, thương tình giúp đỡ bác, thế là xe bác vượt qua được. Đó là một câu chuyện
ngụ ngôn dạy chúng ta phải cộng tác với một sức mạnh hơn để làm việc, để giải
quyết những khó khăn. Nếu trong cuộc sống chúng ta
còn biết nhờ vả vào những người quyền thế hơn, tài năng hơn, thì tại sao chúng
ta lại không cậy nhờ vào Chúa. Cho nên, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta:
trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, nhất là những khi vất vả hay khổ đau, chúng
ta hãy đến với Chúa, Chúa sẽ nâng đỡ, bổ sức cho chúng ta.
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn
Văn Nghĩa)
Người ta luôn không hài lòng về
số phận của mình (On n’est pas toujours content de son sort). Câu ngạn ngữ trên
đây một cách nào đó nói lên thực trạng của con người trong kiếp nhân sinh lữ
thứ. Đời là một bể trời khổ dâu. “Thoặt sinh ra thì đà khóc chóe. Trần có vui
sao chẳng cười khì?” Lời than của một thi nhân Việt Nam như chứng thực điều
này. Hết chuyện ngày ngày lo kế sinh nhai “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”,
thì lại đến chuyện gia thất “con là nợ, vợ (chồng) là oan gia, cửa nhà là
nghiệp chướng ! Những cảnh vui, cảnh an bình thì thấp thoáng như vó câu qua
cửa, còn các chuyện buồn, cảnh khổ thì cứ đằng đẵng tiếp nối dù lòng chẳng
mong, chẳng đợi bao giờ.
“Tất cả những ai đang vất vả
mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi,tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Một lời mời gọi vừa đượm tình vừa rất hiện sinh. Hiện sinh vì nó nó đáp ứng nhu
cầu của mọi người mọi thời và mọi nơi. Ngoại trừ các em bé còn trong nôi hay
các bé thơ chưa biết nhìn đời với con mắt phản tỉnh, hầu như khi đã biết nghĩ
suy một cách nào đó thì ngay cả các bé thiếu nhi, thiếu niên cũng không thoát
được sự “bể dâu” của cuộc đời. Nó đượm tình vì nó nói lên việc Đức Kitô đã
chung thân, đồng phận với nhân trần chúng ta khi làm người, đặc biệt trong mọi
cảnh tình khốn khó.
Cũng có thể như lời Đức Phật
dạy: vì quá ham muốn (dục), mà không toại nguyện thì chuốc lấy sự khổ đau.
Nhưng đã là người thì tránh sao được cái sự muốn. Ý chí tự do là một trong nhữg
ưu phẩm của con người trổi vượt trên các loài thụ tạo hữu hình. Khi anh không
muốn cũng là lúc anh muốn cái sự không muốn. Để giải thoát khỏi mọi cảnh khổ,
Đức Phật đề ra con đường “tri –kiến” là nhận thức sự vô thường của vạn vật để
rồi tạo lập một thái độ tạm gọi là “dửng dưng” vô niệm, vô úy, vô chấp. Đây là
một trong những con đường tự giải thoát bản thân khỏi cái vòng lẫn quẩn của vô
minh. Thế nhưng, dù sao đó cũng là một kiểu “giác ngộ” của con người, là sản
phẩm của loài thụ tạo. Đức Khổng Tử thì đề ra con đường “trung dung”, chính
danh, chính phận. Tức là sống đúng danh phận của mình cách hài hòa cân đối,
không bất cập mà cũng chẳng thái quá. Khi mọi sự ở trong trật tự của chúng thì
cái sự khổ sẽ dần mất đi. Lão Tử thì vẽ ra con đường “vô vi”: Làm mà như không
làm… Mỗi hiền nhân mỗi con đường, nhưng thảy đếu là những con đường xuất phát
từ người trần gian.
Để vượt qua bao khổ lụy kiếp
người, Chúa Kitô mời gọi nhân trần chúng ta hãy mang lấy ách của Người, tức là
hãy làm môn đệ của Người. Làm môn đệ của Người là bước đi theo con đường Người
đã đi. Để có thể tiếp bước theo Người thì Người mời gọi chúng ta là hãy học
cùng Người sự hiền lành và khiêm nhượng. “Hãy học cùng tôi vì tôi có lòng hiền
hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).
Hai từ khiêm nhu rất dễ khiến
chúng ta liên tưởng đến thái độ, cung cách hạ mình. Thế nhưng, thái độ khiêm
nhường đích thực là nhìn nhận bản thân đúng như mình là trong các mối tương
quan với tha nhân, với các loài thụ tạo và với Thiên Chúa, Đấng Tạo thành mọi
sự. Người khiêm nhu là người trên hết, trước hết, biết nhìn nhận mình là loài
được tạo nên và vì thế, mình chỉ là mình, khi sống, hoạt động theo ý muốn của
Đấng dựng nên mình. Ý thức được điều này và tin nhận sự thật này, đồng thời tin
nhận Chúa Kitô là Thiên Chúa thật thì việc bước theo Đức Kitô, làm môn đệ của
Người, là lẽ tất yếu đương nhiên.
Hai từ hiền lành cũng đễ làm ta
liên tưởng đến một thái độ sống mềm mại, dịu dàng. Thế nhưng sự hiền lành đích
thực là một thái độ sống vuông tròn bổn phận trong mọi hoàn cảnh thuận nghịch.
Hình ảnh người mẹ hiền, cô dâu hiền minh chứng cho sự thật này. Học ở Đức Kitô
sự hiền lành là biết đi đến cùng trong bổn phận của “người tôi tớ vô dụng” (x.
Lc 177-10) chỉ làm những gì phải làm. Và điều chúng ta cần phải làm xuyên suốt
mọi hoạt động đó là trả món nợ yêu thương. Bởi tình yêu, ta được chào đời, thì
cho tình yêu ta sống kiếp người.
Khi đã tự nguyện làm môn đệ Đức
Kitô thì chúng ta cần phải bước đi trên con đường đạo lý yêu thương Người đã
đi. “ Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Đây
chính là giới răn mới, giới răn mà Chúa Kitô truyền lại khi Người sắp từ bỏ trần
gian mà về cùng Chúa Cha. Sự êm ái ngọt ngào khi mang lấy ách của Chúa Kitô đó
là biết sống yêu thương như Người đã yêu.
Thánh giáo phụ Âugustinô đã
nói: “ Hãy yêu đi, rồi làm gì thì làm”. Khi đã yêu thì sẽ không còn đau khổ. Dù
cho đau khổ vẫn có đó, còn đó, nhưng nó đã được yêu rồi. Với thánh Tông Đồ dân
ngoại thì khi đã được yêu rồi thì thập giá không còn là sự điên rồ hay nổi ô
nhục mà trở thành niềm vinh dự.
Đau khổ phát sinh, có thể là do
lỗi hay tội của bản thân hay của tha nhân. Nhưng dù sao đi nữa vẫn có đó nhiều
nổi khổ đau thật khó tìm ra nguyên do, căn cớ. Đau khổ là một huyền nhiệm. Chúa
Kitô đã không đưa ra một lời giải đáp rạch ròi về nguyên nhân của khổ đau,
nhưng Người đã tự nguyện mang nó vào chính bản thân mình để thể hiện tình yêu.
Đó là mầu nhiệm thập giá. Đau khổ quả là một sự dữ, nhưng nó sẽ chẳng là gì
trước sức mạnh của tình yêu. Tình yêu Thiên Chúa trong Đức Kitô đã biến khổ đau
thành ân phúc.
Hãy đến với Ta, hỡi những ai
khó nhọc và gánh nặng… Nếu ta vẫn đang ngụp lặn trong bao đau khổ, chắc hẳn vì
ta chưa đáp lại lời mời của Đấng Cứu Độ là hãy đến với Người. Đến với Người ta
sẽ gặp “Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…, Đấng
bẻ gãy mọi cung nỏ của chiến tranh, Đấng công bố hòa bình cho muôn dân” (Dcr 9,9-10).
Đến với Đấng Cứu độ, ta sẽ được Thần Khí của Người đổi mới và “chúng ta sẽ diệt
trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi chúng ta và chúng ta sẽ được sống,
sống trong an bình.” (x. Rm 8,13).
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’
– Thiên Phúc)
Truyện Tây Du Ký kể lại cuộc
hành trình của thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc thỉnh Kinh, đem về phổ biến
cho dân gian.
Trên cuộc ra ra đi đầy gian nan
thử thách của thầy Tam Tạng, không chỉ là núi rừng hiểm trở với yêu ma quỷ
quái, mà còn là những tật xấu của ba người đồ đệ thân tín. Tôn Ngộ Không, Trư
Bát Giới và Sa tăng, ba tên này chính là ba nết xấu mà thiền sư họ Đường cũng
như bao người khác phải vượt qua để đạt chánh quả. Đó là tính kiêu căng, lòng
ham vật dục và sự lười biếng.
***
Trên cuộc hành trình về quê
trời, mỗi người tín hữu cũng phải vượt qua bao gian nan thử thách, pải chiến
đấu với những cơn cám dỗ triền miên. Thấu hiểu nỗi truân chuyên của con người,
hôm nay Đức Giêsu đã kêu gọi: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy
đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồ dưỡng” (Mt 11,28).
Hãy đến với Người, tất cả những
ai đang phải “bán lưng cho trời, bán mặt cho đất”, những ai “đầu tắt mặt tối”
để kiếm sống, những ai “thấp cổ bé miệng”, Người sẽ ủi an bổ sức, sẽ cho họ
được an dưỡng nghỉ ngơi.
Hãy đến với Người, tất cả những
ai đang mang gánh nặng của quá khứ tội lỗi, của hiện tại yếu hèn, của tương lai
chống chênh, Người sẽ xoa dịu vỗ về, sẽ ban cho họ sự bình an thanh thản.
Đức Giêsu còn tha thiết mời
gọi: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi… Vì ách của tôi êm ái, và gánh tội nhẹ
nhàng” (Mt 11,29-30). Nếu bất ngờ chúng ta bị một “cái ách giữa đàng mà quàng
vào cổ” thì thật là gay go. Nhưng nếu chúng ta tình nguyện đón nhận cái ách của
Đức Giêsu, là thánh giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách của Đức Giêsu, là thánh
giá bổn phận hàng ngày, thì cái ách kia sẽ trở nên êm ái, và gánh kia sẽ nhẹ
nhàng. Vì chính con đường chúng ta đang tiến bước là con đường tình yêu, hành
trình mà chúng ta đi tới là hành trình Nước Trời.
Chính trong tình yêu mà chúng
ta cảm thấy bình an giữa cơn giông tố, niềm hân hoan trong lúc khổ đau.
Chính trong tình yêu mà cái ách
sần sùi trở nên êm ái, và cái gánh nặng nề hóa ra nhẹ nhàng.
Thánh Augustine nói: “Nơi đâu
có tình yêu thì không có vất vả, mà nếu như có vất vả thì người ta cũng yêu cả
nỗi vất vả ấy”.
Để có được thanh thản giữa bao
lo toan của cuộc sống, để có được bình an giữa muôn bão tố cuộc đời, để có được
thư thái giữa bao gánh nặng chồng chất, chúng ta hãy học nơi Thầy Giêsu: “Hiền
lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
Kẻ kiêu ngạo phô trương, cậy
mình khôn ngoan tài đức, nên chẳng mấy ai ưa, mà Thiên Chúa cũng khinh chê loại
bỏ. Còn người hiền hậu khiêm tốn nhận mình bé mọn, chỉ biết cậy dựa vào Chúa,
nên được mọi người quí mến, mà Thiên Chúa lại yêu thương và ban cho Nước Trời,
Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì cha đã
giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc
khải cho những người bé mọn” (Mt 11,25). Một ly nước đầy không thể đổ thêm thứ
gì vào đó. Cũng vậy, một kẻ chất đầy kiêu căng tự mãn thì không còn chỗ cho
Thiên Chúa dạy dỗ và ban ơn. Chỉ có những tâm hồn nhận mình bé mọn, nhận mình
là con số không, là trống rỗng thì lại có đủ chỗ cho Đấng Vô Cùng.
Đức Giêsu đã làm gương trước
khi dạy chúng ta này sống “hiền lành và khiêm nhường”.
Là Thiên Chúa cao cả quyền
năng, nhưng Người lại hạ mình xuống làm kiếp phàm nhân để yêu thương và cứu
chộc con người (Pl 2,7-8).
Người không lên án người phụ nữ
ngoại tình bị bắt quả tang mà còn cứu bà khỏi trận mưa đá hãi hùng.
Người không khiến lửa trời
xuống đốt cả làng Samari theo đề nghị của hai môn đệ háo thắng.
Người ví mình như người cha
nhân hậu tha thứ cho đứa con hoang đàng.
Người xem mình như mục tử nhân
lành chăm sóc từng con chiên.
Người xin Cha tha thứ cho những
kẻ lăng nhục, hành hạ, và đóng đinh Người.
Tột đỉnh của sự “hiền lành và
khiêm nhường” nơi Đức Giêsu chính là Người đã hạ mình, vâng lời cho đến chết,
và chết trên cây thập tự mây cứ thong thả bay, suối cứ lững lờ trôi. Và lời
kinh cứ tiếp tục xuôi thời gian gởi vào cuộc đời: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì
họ không biết việc họ làm”. Trong cõi lòng hiền lành và khiêm nhường bao giờ
cũng gói trọn con tim bao dung độ lượng.
***
Lạy Chúa, xin dạy chúng con sự
hiền lành , để chúng con có được tất cả thế giới là anh em. Xin dạy chúng con
sự khiêm nhường, để chúng con có Chúa là tất cả cho cuộc đời chúng con. Amen.
Trên chuyến xe lửa tiến về
Paris, một anh sinh viên trẻ ngồi bên cạnh một cụ già. Sau khi đoàn tàu chuyển
bánh, cụ già rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và từ từ chìm đắm trong việc
cầu nguyện.
Anh sinh viên nhìn cụ già với
vẻ khinh bỉ. Một lát sau anh nói: - Thưa ông, ông vẫn còn tin vào những chuyện
nhảm nhí à?
Cụ già thản nhiên đáp:
- Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn
cậu, cậu không tin sao?
Anh sinh viên cười ngạo nghễ
rồi nói:
- Lúc còn con nít tôi có tin.
Nhưng bây giờ khoa học đã mở mắt cho tôi và tôi không thể tin được nữa. Ông hãy
quăng xâu chuỗi ấy đi và hãy học hỏi những khám phá mới, ông sẽ thấy những gì
ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan.
Cụ già khiêm tốn hỏi:
- Cậu vừa nói về những khám phá
khoa học mới. Cậu có thể giúp tôi hiểu được những khám phá ấy?
Anh sinh viên hăng hái trả lời:
- Được chứ. Ông cứ cho tôi địa
chỉ, tôi sẽ gửi tặng ông những cuốn sách khoa học rồi ông sẽ thấy sự phong phú
kỳ diệu của nó.
Cụ già rút trong túi ra một tấm
danh thiếp và đưa cho anh sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, anh thanh niên tái
mặt và lặng lẽ cúi đầu đi sang toa khác, bởi vì trên tấm danh thiếp có ghi:
Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris. Ông Louis Pasteur là một nhà bác
học đã có nhiều phát minh trong lãnh vực hóa học và sinh vật học. Chính ông đã
tìm ra thuốc chích ngừa bệnh chó dại. Dù thông thái như thế, nhưng
ông vẫn khiêm tốn nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng Tối Cao, vẫn nỗ lực tìm kiếm
Chúa để sống gắn bó với Người. Vì thế ông đã nghe được tiếng Chúa và đón nhận
được những mặc khải của Người.
Còn anh sinh viên kia khả năng
và sự hiểu biết không được bao nhiêu, nhưng đã tỏ ra kiêu căng tự phụ về sự
hiểu biết ấy. Sự kiêu căng của anh đã che khuất đi khuôn mặt của Thiên Chúa, đã
làm át đi tiếng nói của Người trong tâm hồn anh. Chính vì thế anh đã không thể
nhận ra dung mạo của Thiên Chúa, không nghe được tiếng nói của Người trong cuộc
đời mình.
Thời đại hôm nay nền khoa học
kỹ thuật tiến bộ vượt bực. Cuộc sống kinh tế của con người càng ngày càng phát
triển. Người ta giàu có hơn, đầy đủ tiện nghi hơn. Nhưng tất cả những tiến bộ
và phát triển ấy không đủ để phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa và niềm tin
tôn giáo. Chỉ có điều là người ta quá tự hào về những thành quả khám phá của
mình, tự hào về sự giàu sang của mình. Và sự tự hào ấy đã ngăn cản, đã che mờ
đôi mắt làm họ không còn nhận ra được những mặc khải của Thiên Chúa cho họ.
Phần chúng ta thì sao? Chúng ta
chọn thái độ của nhà bác học Louis Pateur hay của anh sinh viên trong câu
chuyện trên?
Trước hết, chúng ta biết hiền
lành là một trong những đức tính Chúa Giêsu đã đặt vào số tám mối phúc: “Phúc
thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”. Rồi hôm nay, chúng ta
lại thấy Chúa nói: “Hãy học với tôi vì tôi hiền lành”. Có lẽ không ai dám
khuyên một lời như thế. Chúa Giêsu đả đưa ra lời khuyên đó, vì chính Ngài đã
sống gương mẫu và kêu mời mọi người hãy sống như thế để chính mình được an
bình, hạnh phúc, và đồng thời cũng đem lại bình an và phúc lộc cho những người
chung quanh.
Quả thực, Chúa Giêsu đã sống
hiền lành và làm gương mẫu cho chúng ta. Chúng ta có thể nêu ra một số trường
hợp cụ thể: Chẳng hạn, khi những người Pharisêu nhục mạ Ngài là bị quỉ ám, Ngài
vẫn bình thản và nhắc nhở họ: “Đừng xét đoán theo bề ngoài. Hãy xét đoán cho
công minh”. Chúa rao giảng giáo lý của Chúa một cách hiền hòa, không chua cay,
nóng nảy, bực tức hay thách đố những người chống đối, xuyên tạc và bắt bẻ Ngài.
Nhiều khi thấy đương đầu với họ không có lợi, Ngài tự ý lánh đi, để cho sự tức
giận hay ghen ghét của họ dần dần lắng xuống. Đối với các môn đệ quê mùa, nóng
tính, tham vọng. Ngài bình thản chấp nhận và nhẹ nhàng dạy bảo. Trước tòa án Do
thái, người ta đổ vạ vu oan cho Ngài đủ điều, Ngài chỉ làm thinh. Tại dinh
Philatô cũng thế, Ngài không nói nửa lời để minh oan, bào chữa, đến nỗi Philatô
phải ngạc nhiên. Bị tát vào má, nhổ vào mặt, đánh trên lưng, đội vòng gai trên
đầu, bị nhạo cười mắng nhiếc, Ngài chịu đựng tất cả, không một lời phản đối,
bực tức, phẫn uất. Trên thập giá, Ngài còn biện hộ cho những người làm khổ
mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm”. Ngài đã tắt thở
và an nghỉ trong sự suy phục sứ mạng Chúa Cha trao cho Ngài một cách toàn vẹn:
“Mọi sự đã hoàn tất”, “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”.
Đó, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã
sống hiền lành một cách trọn vẹn, nên Ngài dám nói, dám kêu gọi chúng ta hãy
học, hãy sống như Ngài. Ngài thực sự là mẫu gương cho mọi người. Qua mẫu gương
hiền lành của Chúa, chúng ta rút ra được ý nghĩa của sự hiền lành là tự chủ,
kiên nhẫn, chịu đựng và tha thứ hết lòng.
Người hiền lành là người làm
chủ được chính mình, chiến thắng được chính mình, tức là thắng được cái tôi
kiêu hãnh, ganh tị, giận hờn, tự ái, nóng nảy, tham lam của mình. Trong mỗi
người có hai phần: phần thượng là ơn thánh, lý trí và ý chí. Còn phần hạ là cái
dục vọng. Chiến thắng được chính mình là biết dùng ơn Chúa, dùng lý trí và ý
chí điều khiển các dục vọng của mình, không để ngoại cảnh hoặc người khác chi
phối, không phản ứng theo niềm vui nỗi buồn để đưa mình lên hay hạ người khác
xuống.
Cũng thế, người hiền lành thì
kiên nhẫn, chịu đựng mọi hoàn cảnh bất trắc hay những điều ngoài ý muốn của
mình. Không tự mãn hay phóng đại công việc của mình, khoe mã, cầu danh, tự hào
về những chuyện nhỏ nhen, bắt bẻ hay bực tức về chuyện sơ suất của người khác.
Chúng ta mỗi người mỗi tính, mỗi người mỗi sở thích, và có những khả năng, tài
năng khác nhau, không ai giống ai. Chúng ta sống với nhau, chúng ta phải biết
kiên nhẫn, chịu đựng để hòa hợp với nhau, chia sẻ cho nhau. Vì thế, đòi hỏi
chúng ta phải biết chịu đựng nhau, chấp nhận nhau. Chịu đựng chấp nhận cái hay
cái tốt của người khác thì dễ nhưng chấp nhận chịu đựng cái xấu cái dở của
người khác mới khó và đó mới là nhân đức. Có những trường hợp chúng ta phải
chịu đựng, chấp nhận không phải một hai lần mà rất nhiều lần. Chấp nhận và chịu
đựng được mới thực sự là người hiền lành.
Lại nữa, bao lâu còn là người,
chúng ta còn lỗi lầm, còn cần được sửa sai, còn cần được tha thứ, và tha thứ
mãi. Tha thứ nhiều là dấu chúng ta chịu đựng nhiều. Tha thứ nhiều sẽ chứng tỏ
được tấm lòng quảng đại bao dung làm cho thêm bạn bớt thù. Tha thứ không phải
là yếu thế hơn người được tha thứ, nhưng chính là tấm lòng rộng lớn hơn họ.
Càng tha thứ sẽ làm cho đối phương nhận ra lỗi lầm của họ và họ sẽ thấy cần
được tha thứ hơn. Cho nên, người nào muốn tập đức tính hiền lành là phải tập
tha thứ.
Có lẽ tất cả chúng ta đều phải
thú nhận mình còn thiếu rất nhiều đức tính hiền lành. Sống trong gia đình và
sống trong bất cứ tập thể nào, chúng ta vẫn còn nhiều lần tỏ ra thiếu hiền
lành, chưa hiền lành hoặc không hiền lành. Cho nên, Lời Chúa hôm nay thực là
một bài học hữu ích, một lời kêu gọi chúng ta hãy sửa chữa hoặc cố gắng hơn
nữa, để sống hiền lành. Nếu lịch sự được coi là bông hoa của đức ái, thì huống
nữa là hiền lành. Vì thế, Chúa Giêsu đã kêu gọi chúng ta hãy sống theo gương
mẫu hiền lành của Ngài.
Biết được một người quan trọng
đem lại niềm vui cho chúng ta. Tuy nhiên, biết thường chỉ có nghĩa là biết
những sự kiện về người đó. Không biết một người khác theo cách đó chỉ có được
một kiến thức nông cạn về người ấy.
Thật sự biết một người là phải
có một quan hệ với người ấy, một quan hệ có nền tảng là yêu thương và tin cậy.
Và cũng thế khi chúng ta muốn biết mình có được người khác hiểu biết và yêu
thương không.
Trong cuốn sách viết về tiểu sử
của George Washington, Richard Brookhiser nói:
“George Washington ở nơi chúng
ta mỗi ngày, trên những tờ đô la và các khu phố. Từ núi Rushmore, ông nhìn
xuống chúng ta. Trong thủ đô mang tên ông, ông có một đài tưởng niệm nổi tiếng
nhất. Hơn bất kỳ người Mỹ nào, tên ông được dùng để đặt tên cho các trường học,
đường phố, thành phố. Các nhà sử học xếp ông vào số những Tổng thống vĩ đại của
nước Mỹ”.
“Tuy nhiên, sự hiện diện của
Washington không biến thành sự thân mật. Ông có mặt trong sách giáo khoa, trong
ví tiền, nhưng không hiện diện trong tâm hồn chúng ta. Khuyết điểm này một phần
do Washington, khi ông có khuynh hướng giữ khoảng cách giữa mình với dân
chúng”.
Một số người coi Thiên Chúa như
xa xôi cách biệt, không thật sự liên quan đến chúng ta và những đau khổ của
chúng ta. Tệ hơn nữa, những người khác coi Thiên Chúa như một quan tòa, hoặc
một thám tử sẵn sàng tóm lấy chúng ta để trừng phạt.
Đức Giêsu biết Chúa Cha và Chúa
Cha biết Người. Điều này làm Người đầy tràn niềm vui. Vì Đức Giêsu biết Chúa
Cha nên Người có thể mạc khải Chúa Cha cho người khác, đặc biệt cho những ai
sẵn sàng cởi mở và đón nhận như con cái. Đức Giêsu mạc khải Chúa Cha như một
người Cha yêu thương, từ bi hay tha thứ. Một Thiên Chúa âu yếm, quan tâm đến
chúng ta. Người quan tâm đến chúng ta không phải để xét đoán và lên án chúng ta
nhưng để chữa lành và cứu chuộc.
Nhiều người được gọi là thông
thái đã từ bỏ Đức Giêsu, nhưng những người đơn sơ đã chấp nhận Người. Những
người trí thức không cần đến Người, nhưng Người khiêm nhu lại chấp nhận Người.
Sự kiêu ngạo trí thức là một điều nguy hiểm. Người đơn sơ gần gũi Thiên Chúa
hơn người thông thái.
Đức Giêsu nói: “Lạy Cha là Chúa
Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan
thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn”.
Đức Giêsu không lên án khả năng
trí thức nhưng tính kiêu ngạo tri thức. Không thể gọi là thông minh, sáng suốt
khi khước từ Thiên Chúa, đó là lòng kiêu ngạo. Và không phải ngốc nghếch khi để
cho Thiên Chúa bước vào đời sống mình. Đó là sự khiêm nhu.
Vì Đức Giêsu đã đến với chúng
ta nên chúng ta không còn coi Thiên Chúa như một Đấng xa vời. Chúng ta nhìn
thấy Người như một Đấng rất gần với chúng ta, biết rõ mỗi người chúng ta và
quan tâm đến từng người một, vì chúng ta là con cái của Người. Người là Thiên
Chúa đặc biệt cho người yếu đuối, nghèo khó và gánh vác nặng nề.
Khi đức tin là vấn đề của chỉ
cái đầu, đức tin trở thành một việc lạnh lùng tri thức. Kết quả là Thiên Chúa
vẫn ở bên ngoài chúng ta, một hình ảnh xa xôi, cách biệt. Nhưng đức tin không
phải là vấn đề của cái đầu. Đúng ra nó là vấn đề của tâm hồn. Khi đức tin cắm
rễ trong tâm hồn, Thiên Chúa trở nên gần gũi và âu yếm. Như thế đức tin trở
thành một quan hệ ấm cúng với Thiên Chúa. Biết Thiên Chúa theo cách này, và có
một liên hệ thương yêu với Người, sẽ tạo ra cho chúng ta một niềm vui cao cả.
Thiên Chúa giống như một mùa xuân ở giữa chúng ta để mọi người trở nên tươi
tỉnh và nâng ly chúc tụng.
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta
lắng nghe lời kêu mời tha thiết của Chúa Giêsu: "Hỡi những ai khó nhọc và
gánh nặng hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi". Mỗi
người chúng ta có lẽ giờ phút này cũng mang đến đây một gánh nặng, gánh nặng
của những âu lo trong cuộc sống và nhất là gánh nặng của tội lỗi đang đè nặng
trong lương tâm của ta.
Tin ở tình yêu của Thiên Chúa,
chúng ta mang những gánh nặng đó cho Chúa Giêsu để xin Ngài tiếp tục độ trì,
nâng đỡ chúng ta và tin ở tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta cũng mang đến cho
Ngài những gánh nặng tội lỗi của mình để xin Ngài tẩy rửa tâm hồn chúng ta.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II,
Người đã làm một cử chỉ mang nhiều ý nghĩa cao cả, đó là Ngài đã tuyên bố phục
hồi danh dự cho ông Galilê, người đã bị Giáo Hội ở thế kỷ XVII kết án là lạc
đạo, vì ông cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời.
Từ hàng bao thế kỷ qua, nhiều
người xem ông Galilê như là nạn nhân của một Giáo Hội độc đoán, áp bức đối với
con người. Và hiện nay không thiếu những người vẫn tiếp tục nhìn vào Giáo Hội
như một sức kéo trì trệ, ngăn cản bước tiến của nhân loại. Với việc phục hồi
danh dự cho ông Galilê, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II không những nhìn nhận một
lỗi tầm của quá khứ, mà Ngài còn khẳng định một nguyên tắc nền tảng về sự tự
trị của tôn giáo và khoa học.
Trong sứ điệp gởi cho vị giám
đốc của đài thiên văn Vatican năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã khẳng
định như sau: "Tôn giáo không xây dựng trên khoa học, và khoa học cũng
không là một nối dài của tôn giáo". Mỗi bên có một phương pháp, một nguyên
tắc, một cách giải thích và những kết luận riêng của mình. Vì thế, Kitô giáo tự
biện minh cho mình mà không dựa vào khoa học.
Lời tuyên bố trên đây của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II đưa chúng ta vào một trong những chân lý nền tảng của
Kitô giáo, chân lý đó là: “Đức tin là một ơn nhưng không Thiên Chúa ban cho con
người". Điều đó có nghĩa là không phải tìm kiếm, lý giải uyên bác thì con
người mới đạt được đức tin. Nói như triết gia kiêm nhà toán học người Pháp là
Pascal: "Muốn có đức tin thì người ta phải quì gối xuống mà van xin".
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu
trong bài Tin Mừng hôm nay nêu bật tính cách nhưng không ấy của đức tin. Chúa
Giêsu đã cảm lạ Thiên Chúa Cha vì đã giấu ẩn không cho những nhà hiền triết và
khôn ngoan thông thái biết những chân lý về mầu nhiệm Nước Trời, mà chỉ mạc
khải cho những kẻ bé mọn đơn sơ.
Lời cầu nguyện này được Chúa
Giêsu thốt lên cho một loạt những thất bại của Ngài lại Bethsaida cũng như một
số thành phố khác lại Galilêa, quê hương của Ngài. Cho dẫu Chúa Giêsu đã làm
được rất nhiều phép lạ, nhưng nhiều người vẫn không tin Ngài, và một số thì
chống đối ra mặt. Điển hình và gay gắt nhất chính là thái độ cứng lòng tin của
các luật sĩ và biệt phái, tức là những hạng người được xem là khôn ngoan và trí
thức trong dân. Họ dựa vào những hiểu biết uyên thâm của mình để khước từ sứ
điệp của Chúa Giêsu.
Vì vậy, chỉ còn lại những dân
chài lưới dốt nát được Chúa Giêsu chọn làm môn đệ, chỉ còn lại một số nhỏ những
người thất học nghèo hèn bị xã hội đẩy ra bên lề, và Chúa Giêsu gọi họ là những
kẻ bé mọn. Họ là những người đã đón nhận tinh thần "Tám Mối Phúc Thật".
Họ là những con người nghèo khó, hiền lành và nhất là có tâm hồn trong sạcho Họ
là những người có tinh thần trẻ thơ mà Chúa Giêsu đã đề ra: "Nếu các con
không giống như trẻ nhỏ thì các con sẽ không được vào Nước Trời".
Thật vậy, đức tin là một hồng
ân nhưng không của Thiên Chúa ban cho, nhưng chỉ có những ai biết mở rộng tâm
hồn, biết dốc cạn chính mình, biết chối từ những chỗ dựa của trần thế như tiền
bạc, danh vọng, quyền bính, chỉ có những ai có tinh thần nghèo khó, đơn sơ như
thế mới cảm nhận được đức tin, mới hiểu biết được mầu nhiệm Nước Trời.
Lý luận của đức tin, của luân
lý và khoa học: Luận lý của đức tin là luận lý của lình yêu. Trong tình yêu
người ta không lý luận, tình yêu không là số thành của một mớ những cộng trừ
nhân chia. Tình yêu không là kết luận của một sự lý giải. Tình yêu là trao ban
và trao ban nhưng không, trao ban không tính toán, không so đo hơn thiệt.
Kitô giáo chúng ta không chỉ là
một hệ thống gồm những điều phải tin và phải giữ. Kitô giáo chúng ta thiết yếu
là một con người, con người ấy chính là Chúa Giêsu Kitô. Con người ấy không
ngừng mời gọi chúng ta đi vào quan hệ mật thiết với Ngài. Con người ấy không
ngừng nói với mỗi người chúng ta: "Hãy đi theo Ta". Đi theo Ngài tứ
là tiếp nhận sức sống củaNgài, là mặc lấy tâm tư, suy nghĩ hành động và nhất là
cái nhìn của Ngài.
Thánh Phaolô đã diễn tả một
cách chính xác cái nhìn ấy của Chúa Giêsu như sau: "Những gì con người cho
là yếu nhược thì lại là sức mạnh của Thiên Chúa. Những gì con người cho là ngu
dại thì đó lại chính là lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa". Tựu trung đó chính
là lý luận và lẽ khôn ngoan của Thập giá. Lý luận và khôn ngoan ấy cũng là lý
luận của tình yêu. Bởi vì cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một cái chết
của tình yêu.
Chúng ta đang tham dự vào mầu
nhiệm Thập giá của Chúa Giêsu, khi Ngài đã đoan hứa với chúng ta: "Hỡi
những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức nâng đỡ các
ngươi".
Nguyện xin sức sống của Ngài mà
chúng ta tiếp nhận trong Thánh lễ mỗi ngày bổ sức cho chúng ta, để chúng ta
bước đi theo Ngài và mãi mãi được thốt lên như thánh Phaolô: "Tôi sống
nhưng không phải là tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi".
THIÊN CHÚA MẠC KHẢI CHO NHỮNG
NGƯỜI BÉ MỌN
1.- Ngữ cảnh
Vị Tẩy Giả đã sai môn đệ đến
hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không?” (Mt 11,3). Các đối thủ
của Đức Giêsu thì đã tìm cách hạ giá Người (x. 11,18-19). Còn các thành miền
Galilê thì đã không đón nhận sứ điệp của Người (x. 11,21-24). Vậy Người là ai?
Tại sao lại phải tuyệt đối lắng nghe Người? Do đâu mà Người có thể đòi buộc như
thế? Bản văn chúng ta sắp tìm hiểu sẽ cung cấp câu trả lời.
Đức Giêsu xác định lập trường
của Người bằng những khẳng định hết sức đậm đặc và cũng vô cùng căn bản.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành
ba phần:
1) Đức Giêsu hân hoan dâng lời
ngợi khen Chúa Cha (11,25-26);
2) Tương quan của Đức Giêsu với
Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (11,27);
3) Đức Giêsu mời gọi loài người
lắng nghe sứ điệp của Người (11,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Lạy Cha (25): Trong Tin Mừng Mt, đây là lần đầu tiên
Đức Giêsu thưa gửi với Thiên Chúa bằng danh xưng “Cha”, sau khi đã nhiều lần
khuyến khích các môn đệ làm như thế (5,16.45.48; 6,1.4.8.14.15 …). Lời thưa này
giống như câu đáp cho lời giới thiệu “Đây là Con yêu dấu của Ta” (3,17) mà Đức
Giêsu đã nhận khi chịu phép rửa và chính Người sắp nhắc lại lúc này (x. 11,27).
- ngợi khen (25): Động từ Hy Lạp exomologoumai (praise)
luôn mang những sắc thái ca ngợi chúc tụng, tôn kính, biết ơn, và hân hoan.
- bậc khôn ngoan thông thái …
những người bé mọn (25): Trong ngữ cảnh Mt, “những
bậc khôn ngoan thông thái” là các luật sĩ và Pharisêu, còn “những người bé mọn”
(theo nghĩa chữ là “các em bé”) là đám đông dân chúng, các môn đệ, những đám
thợ thuyền, những kẻ tội lỗi.
- những điều này (25): Đức Giêsu không nói rõ, nhưng dựa vào
văn cảnh, có thể cho rằng “những điều này” chính là sứ mạng của Đức Giêsu, tức
là mầu nhiệm bản thân Người và các hoạt động của Người.
- điều đẹp ý Cha (26): Đây là ý muốn của Chúa Cha. Ý muốn này
chính là kế hoạch cứu độ.
- biết (27): Động từ Hy Lạp epigignôskein (know) dịch
động từ Híp-ri yada diễn tả một quan hệ thâm sâu, một sự hiệp thông giữa hai
bên; động từ này đồng nghĩa với “yêu mến”.
- trừ người Con và kẻ mà người
Con muốn mạc khải cho (27): Sự hiệp thông giữa Đức
Giêsu và Chúa Cha không phải là một vòng tròn khép kín, nhưng mở ra với loài
người, vì họ cũng được phép gọi Thiên Chúa là Cha (x. Mt 5,45-48).
- mang gánh nặng nề (28): Ở 23,4, Đức Giêsu trách
người Pharisêu đã chất những “gánh” nặng lên vai người ta. Đây là gánh nặng vác
không nổi gồm những truyền thống vị luật của các kinh sư, chứ không phải là các
thử thách và vất vả của cuộc đời, hay gánh nặng tội lỗi... Truyền thống này
cũng dùng công thức “mang ách”: ách của Nước Thiên Chúa, ách Luật Môsê, ách các
điều buộc …
- hiền hậu và khiêm nhường (29): Hai từ ngữ này có ý nghĩa tương tự. Đây
là Mối Phúc thứ hai. Đức Giêsu lại tự liên kết với những con người sầu khổ của
Mối Phúc thứ ba.
- ách tôi êm ái (30): Đức Giêsu cũng đề nghị “ách” của Người,
tức là các huấn lệnh của Người. Người không khẳng định rằng các huấn lệnh này
ít quan trọng và ít đòi buộc hơn các điều luật của các kinh sư; trái lại Người
đã cho thấy là Người đưa chúng đến để hoàn tất Luật cũ, chỉ có điều là con
đường Người theo không có chuyện luật lệ chi li giáo điều phức tạp nặng nề của
các kinh sư và Pharisêu. Nếu “ách” của Người “êm ái” là vì nó phát xuất từ toàn
bộ Tin Mừng, tức là từ những tương quan mới mà Thiên Chúa cứu độ đã thiết lập
với loài người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu hân hoan dâng lời
ngợi khen Chúa Cha (25-26)
Đức Giêsu đã ngỏ lời với Chúa
Cha trong mộtlời cầu nguyện tạ ơn và chúc tụng. Người gọi Thiên Chúa là Cha và
Chúa tể trời đất. Người đã mạc khải cho thấy là Cha, vị Thiên Chúa mà lâu nay
người ta chỉ biết là Đấng Tạo hóa và Chúa tể toàn thế giới. Thiên Chúa là Đấng
mà Đức Giêsu nhận biết là Cha, nhờ tương quan con cái mà Người có với Thiên
Chúa. Do ý muốn của Thiên Chúa mà sứ điệp của Đức Giêsu được đón nhận cách khác
nhau: những bậc khôn ngoan thông thái thì không hiểu gì, còn những người bé mọn
thì hiểu. Phải chăng sứ điệp của Người chỉ được dành cho những em bé hoặc những
người đã lớn tuổi mà vẫn còn ấu trĩ và chưa chín chắn? Phải chăng Kitô giáo đi
ngược lại với kiến thức và khoa học và khả năng tự quyết của con người? Phải
chăng Kitô giáo chỉ phù hợp với tình trạng thiếu khả năng tự cáng đáng bản thân
và chỉ hỗ trợ tình trạng lệ thuộc trong cách xử sự? Thật ra, với những con
người nghĩ rằng mình hiểu biết mọi sự, Đức Giêsu chẳng có gì để nói với họ cả.
Người không thể mạc khải cho họ biết Thiên Chúa là Cha và Chúa tể, bởi vì họ
không thể nhận được, vì họ không cần Thiên Chúa. Con người cứ việc tận dụng trí
thông minh và tất cả sức lực, và hành động với tự do và trách nhiệm, nhưng cần nhận
biết những giới hạn của mình. Nếu chúng ta lương thiện và biết nhìn nhận hoàn
cảnh thực sự của mình, chúng ta đang mở ra đón nhận mạc khải của Đức Giêsu.
Những người có tinh thần nghèo khó (5,3) là những người bé mọn. Họ sống lệ
thuộc Thiên Chúa và quy chiếu về Người, họ nhận biết Người là Chúa tể trời đất
và vui hưởng mạc khải bởi vì họ biết ký thác bản thân cho tình yêu và sự hướng
dẫn của Thiên Chúa.
* Tương quan của Đức Giêsu với
Thiên Chúa và bổn phận của Người đối với loài người (27)
Trung tâm của bản văn là những
khẳng định của Đức Giêsu về tương quan của Người với Thiên Chúa. Giữa Thiên
Chúa và Người có một quan hệ duy nhất Cha-Con: Thiên Chúa là Cha của Đức Giêsu
và Đức Giêsu là Con của Thiên Chúa. Chỉ duy có Thiên Chúa, trong tư cách là
Cha, mới biết Đức Giêsu là ai, và chỉ duy Đức Giêsu, trong tư cách là Con, mới
biết Thiên Chúa là ai. Hai Đấng hiểu biết lẫn nhau do có sự hiệp thông sâu xa
và chan hòa sức sống. Những con người đang phê phán Đức Giêsu với tất cả sự
trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng biết rõ Người, nhưng thật ra chẳng
biết gì về Người cả. Chúa Cha đã giao phó tất cả, mọi quyền bính và uy quyền
trên con người, cho Đức Giêsu. Duy mình Đức Giêsu có thể mạc khải Chúa Cha,
giúp người ta thực sự biết Chúa Cha. Vị trí này của Người là do tương quan của
Người với Chúa Cha: vì chỉ một mình Người biết Chúa Cha, do thực tại thâm sâu
của Người là Con, thì cũng chỉ một mình Người có thể mạc khải Chúa Cha trong
thực tại thâm sâu của Người là Cha. Do đó, loài người không thể tránh khỏi đối
diện với ý muốn của Thiên Chúa, khi quan hệ với Đức Giêsu.
* Đức Giêsu mời gọi loài người
lắng nghe sứ điệp của Người (28-30)
Đức Giêsu mời gọi tất cả những
ai mệt mỏi chán chường và vất vả với những gánh nặng hãy đến với Người. Người
ngỏ lời trực tiếp với những người đang nghe Người nói. Họ đang phải “gánh” 613
điều luật buọc mà các kinh sư đã bày ra khi giải thích Cựu Ước (23,4) và họ
đang vất vưởng như đàn chiên không có người chăn dắt (x. 9,36). Người hứa ban
cho họ được nghỉ ngơi và bồi dưỡng. Phải chăng chúng ta ngạc nhiên và thất vọng
vì Người cũng mời chúng ta nhận lấy ách của Người? Từ quan điểm của Đức Giêsu,
con người không “tự do” theo kiểu hoàn toàn là mình, không mắc bất cứ ràng buộc
nào. Trong tư cách là thọ tạo của Thiên Chúa, do chính bản tính của mình, con
người luôn ở trong thế quy chiếu về với Thiên Chúa. Hỏi về sự tự do đích thực
đúng ra là hỏi về mối dây ràng buộc đích thực. Chỉ khi chấp nhận được ràng buộc
với vị Chúa tể đích thực, người ta mới được tự do thật, thoát khỏi ràng buộc với
mọi chủ nhân khác. Vì thật sự biết Thiên Chúa nhờ hiệp thông sâu xa với Thiên
Chúa, Đức Giêsu có thể chỉ cho chúng ta thấy Thiên Chúa không phải cách méo mó
giới hạn, nhưng trong thực tại đúng đắn của Thiên Chúa. Và Người ra sức dẫn đưa
chúng ta về với Chúa Cha, đồng thời khuyến khích chúng ta tin tưởng tuyệt đối
nơi Người và ký thác trọn vẹn nơi Người. Nhận lấy ách của Người chính là đón
nhận tất cả sứ điệp của Người và sống như Người vẫn sống, đó là hết lòng yêu
mến Chúa Cha và dấn thân phục vụ loài người.
+ Kết luận
Đức Giêsu tự giới thiệu là Đấng
“hiền hậu và khiêm nhường trong lòng”: các từ ngữ này, chúng ta thấy có trong
các Mối Phúc, không hề có nghĩa là những người nhút nhát, rụt rè, nhưng là
những người nghèo và bị áp bức, những người đang chịu bất công và không sao
đứng dậy được. Đây là những người nghèo mà Đức Giêsu bảo: Hãy nghe tôi, hãy tin
tôi, vì tôi ở về phía các bạn, tôi là một người trong các bạn, tôi cũng nghèo
và bị loại trừ!
Muốn học được sự khôn ngoan của
Nước Trời, thì phải sống nghèo cùng với Đức Giêsu. Điều gây vấp phạm, chính là
sự mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người: quyền năng được tỏ bày trong sự
yếu đuối…
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những kẻ phê phán Đức Giêsu
cách trịch thượng và muốn loại trừ Người, tưởng là đã biết Đức Giêsu! Thật ra,
chỉ có Thiên Chúa mới biết Đức Giêsu trong tư cách là Con, trong sự quy hướng
hoàn toàn về Chúa Cha trong tình yêu trọn vẹn.
2. Đọc bản văn này trong liên
hệ với đoạn văn cuối cùng của Tin Mừng Mt (28,16-20), chúng ta sẽ thấy tất cả
tầm mức sâu xa của các lời khẳng định của Đức Giêsu. Sau khi sống lại, Người
chính là Đấng đã được Chúa Cha ban cho toàn quyền trên trời dưới đất. Chính
Người hiện diện bên các môn đệ “mọi ngày cho đến tận thế” để nâng đỡ các ông
trong nỗ lực chu toàn sứ mạng.
3. Hans Urs von Balthasar, một
nhà thần học Thụy Sĩ, đã nói đến một thứ “thần học bàn quỳ”: chúng ta chỉ thật
sự hiểu biết về Thiên Chúa không phải nhờ cứ khăng khăng dùng trí tuệ mà tìm
tòi suy luận, nhưng nhờ biết quỳ xuống nhận biết quyền năng của Người trên chúng
ta. Thánh Anselmô cũng nói: “Tôi tin để tôi có thể hiểu được Thiên Chúa”.
4. Thiên Chúa đã ban toàn quyền
cho Đức Giêsu; do đó, trong khi hành động, loài người luôn phải đặt mình đối
diện với ý muốn của Thiên Chúa về định mệnh của mình. Muốn cuộc đời mình đi
đúng hướng, loài người phải quan tâm đến ý muốn này.
5. Chúng ta sẽ cảm thấy sứ điệp
của Đức Giêsu về Chúa Cha và về ý muốn của Chúa Cha trở nên như một “cái ách”,
khi các ước muốn, các tâm trạng và các ý tưởng của chúng ta đi ngược lại với sứ
điệp ấy. Như thánh Âu-tinh đã nói: “Trái tim chúng con vẫn còn bồn chồn bất an,
cho đến khi nó được nghỉ yên trong Chúa”, chúng ta chỉ được yên hàn, thanh
thản, khi sống trong tình hiệp thông với Thiên Chúa.
Chúa mời gọi tất cả chúng ta: hãy
đến với Ngài. Chúa hiểu rõ chúng ta hơn chính chúng ta hiểu mình.Ngài muốn cất
nhẹ gánh lo cho chúng ta, để chúng ta được thanh thản, phó thác và cậy trông
Ngài. Ngài sẵn sàng chia sẻ và đồng hành để chúng ta được vơi nhẹ bao nỗi lo
toan chất chồng.
Chúa muốn tất cả chúng ta hãy
trút tất cả gánh lo đời người vào Ngài, bởi những lo toan có thể làm cho cuộc
đời chúng ta “bị tràn ngập” và không có lối thoát. Người ta vẫn luận “Cuộc đời
là bể khổ”, mà khổ thật. Bởi chẳng có gì là hạnh phúc thật, mà chỉ là sự lừa
dối và bất ổn. Tìm cho mình một chỗ dựa, kiếm cho mình một lối thóat,chắc chắn
chúng ta sẽ cảm thấy vơi nhẹ gánh lo và tìm gặp được bình an.
Ngài mời gọi chúng ta hãy đến
với Ngài, bởi Ngài muốn tham dự, đồng hành và chia sẻ với cuộc đời mỗi người.
Thực thế, Ngài là chỗ dựa an toàn và bình an nhất cho chúng ta. Chẳng ai thương
và bảo vệ chúng ta, ngay cả cha mẹ hay người thân ở trần gian, ngoại trừ Chúa
Ngài muốn chúng ta hãy học với
Ngài bởi Ngài hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng. Với giáo lý yêu thương
của Ngài, Chúa muốn chúng ta hãy học tha thứ, đón nhận anh em, sống khiêm
nhường và phó thác. Học với Ngài để chúng ta đón nhận và làm cho cuộc sống mình
hài hòa với mọi người, sống hiệp nhất và nên giống Ngài.
Trong tình thương Thiên Chúa,
chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc thật mà trên trần gian không ai có thể ban tặng.
Đón nhận tình thương của Thiên Chúa, được học nơi trường: khiêm nhường và hiền
lành của Ngài, tâm hồn chúng ta như được yên nghỉ an toàn và tìm được con đường
dẫn đến sự sống.
Khiêm nhường và hiền lành thật
khi chúng ta biết chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ anh em như Chúa, bởi tình
thương của Ngài không loại trừ hay xua đuổi ai, và để xây dựng sự hiệp nhất
trong anh em.
Khiêm nhường và hiền lành thật
khi chúng ta không cướp công của người khác mà biết trân trọng và đánh gía đúng
công sức của anh em mình, để tránh được căn bệnh ung thư di căn “cả vú lấp
miệng em”, phí phạm hoặc đối xử kiểu “vắt chanh bỏ vỏ” trên chính anh em hoặc
cộng sự mình
Khiêm nhường và hiền lành thật
cũng chính là biết phục vụ với hết khả năng và biết tự ẩn mình như người đầy tớ
bé nhỏ,để ngăn ngừa phần nào căn bệnh “say mê quyền lực, đánh bóng tên tuổi”
bằng chính công sức của người khác, nhưng biết cảm thông và chia sẻ với những
yếu đuối của anh em như của chính mình.
Khiêm nhường và hiền lành thật
là không khoe khoang hay lên mặt với anh em mình dẫu rằng mình có hơn họ một
mặt nào đó, bởi “Không có Thầy, chúng con chẳng làm được việc gì!”
Khiêm nhường và hiền lành thật
còn là sẵn sàng chịu phần thiệt về mình để anh em được chia sẻ, được hạnh phúc.
Có mất mát, có đau đớn, có chịu thiệt thòi mới hiểu và thương xót được anh em
mình. Bởi trước mặt Chúa, chúng ta đã chẳng là gì và sẽ mãi mãi chẳng là ai cả!
Lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin dạy chúng con
sống khiêm nhường và hiền lành trong trường học yêu thương của Chúa. Xin dạy
chúng con luôn biết cho đi mà không tính toán và củng chẳng bao giờ đòi hỏi
quyền lợi. Xin dạy chúng con biết quên mình khi phục vụ, để phần lợi luôn thuộc
về anh em, để Chúa được biết đến và lớn lên; còn chính chúng con “phải nhỏ
lại”. Amen.
Suy niệm:
Lạy Cha là Chúa trời đất, con
xin chúc tụng ngợi khen Cha... vì Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn”. Chữ bé
mọn đây không phải là dáng người thấp bé hay là trẻ con. Nhưng là người có tấm
lòng đơn thành như trẻ con, một tấm lòng biết mình là nhỏ bé trước Nước trời
bao la, biết mình túng thiếu đơn độc mà bám vào tay Thiên Chúa quan phòng. Là
những ai tự hạ tự khiêm phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Đã có một lần nào
Chúa xác nhận “nếu các ngươi không trở nên giống trẻ thơ, các ngươi sẽ không
được vào nước trời” (Mt 18,3).”Ai trong các ngươi lớn nhất là người bé nhỏ
nhất” (Lc 9,48). “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta, vì Nước Trời thuộc về những ai
giống như chúng” (Mc 10,14)
Tại sao Chúa Giêsu cứ lấy mẫu
mấy em bé làm gương vậy? Chúng ta có thấy và có biết cái gì đã từng làm những
bậc cha mẹ không thể cầm lòng được trước một đứa con nhỏ. Cái gì đã làm Chúa
những người lớn đều ưa thích trẻ nhỏ? Thưa, đó chính là sự yếu đuối nhỏ bé.
Vâng, chính cái sự yếu đuối nhỏ bé đó làm cho mọi người dễ thương dễ mến. Chính
cái yếu đuối ấy của chúng ta là sức mạnh của tuổi thơ măng sữa. Đúng như lời
thánh Phaolô “Lúc tôi yếu đuối nhất là lúc tôi mạnh mẽ” (2C 12,9-10). Nếu chúng
ta trao phó hoàn toàn cho Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lo trọn vẹn cho chúng ta
như một người mẹ nuôi con thơ.
Con thơ còn trẻ chẳng biết gì.
Chúng không biết ăn, chúng chẳng biết mặc, không biết đi, không biết nói. Các
bà mẹ lành nghề đều công nhận các bà cưng chiều đứa con mình khi chúng nhỏ xíu
“Nâng như trứng, hứng như hoa”. Khi chúng lớn lên, khi chúng càng có thể tự
túc, thì các bà bớt quyến luyến, hoặc khi chúng tự cao khinh dể mình. Tình mẫu
tử rất gần với tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Thật sự không gì làm cho
Thiên Chúa xa lánh loài người, cho bằng tính kiêu ngạo, tự mãn, tự phụ. Tính
này phá hủy các nhân đức. Những mẫu gương tự cao tự đại vẫn còn đó, với Adong,
Eva, Luxife, babel, với các nền văn minh xa xưa còn đâu...
Trong Tân ước, đã mấy lần Chúa
Giêsu phàn nàn về nhóm biệt phái cũng mắc bệnh này, là tự cho mình chữ nghĩa
đầy mình, đầy dẫy sự khôn ngoan, cho mình là đủ và tự tạo ra ơn cứu rỗi. Chúa
Giêsu đã mấy lần cảnh cáo (Mt 23,13). Ai tin vào sức mạnh của mình sẽ bị Thiên
Chúa để mặc và tất cả trở về hư vô cát bụi. Trái lại, kẻ tự khiêm sẽ được Thiên
Chúa nhìn đến. Thánh Phaolô nói “Thiên Chúa thích dùng người khiêm nhường, bị
thế gian bỏ chê để tỏ lộ mình ra” (1C 25,28t). Kẻ khiêm nhường được Thiên Chúa
tha tội (Lc 18,14). Thánh nhân còn đặt khiêm nhường bên cạnh đức tin (Gal
5,22).
Thánh Augustinô nói “Đâu có
khiêm nhường, đấy có đức ái”. Sự khiêm nhường là dấu chỉ thuộc về đức Kitô.
Kinh thánh còn nói trong cơn thử thách ai hạ mình xuống dưới cánh tay toàn năng
của Thiên Chúa thì đến bây giờ họ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh như Đức Kitô và
được thông phần vinh quang của con Thiên Chúa. Gương khiêm nhường của David
trước Goliath, của Mẹ Maria, của chính Chúa Giêsu (Mt 11,29) của Têrêsa hài
đồng, của một Cha sở xứ Ars.
Chúng ta hãy suy niệm câu nói
của thánh nữ Têrêsa Lixieux “Chính Chúa Giêsu đã làm hết tất cả trong tôi, tôi
chỉ trở nên bé nhỏ và hèn yếu”.
“Hỡi những ai khó nhọc và gánh
nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ bổ sức cho” (c.28)
Câu nói này hiểu được trên hai
phương diện. Trên phạm vi siêu nhiên, Chúa Giêsu nói đến những lề luật Cựu ước
và luật lệ mới của biệt phái không giải thoát con người tội lỗi để được cứu
rỗi. Cho nên cần phải đến với Ngài và qua Ngài. “Không ai đến được với Thiên
Chúa mà không qua Ngài”. Câu nói trên cũng hiểu được là những ai đau khổ bất an
tinh thần vật chất cũng hãy đến để Ngài nâng đỡ.
Có một điều cần ghi nhận giữa
những đau khổ ở đời, nếu chúng ta chỉ một mình loay hoay dậm chân tại chỗ, thì
không giải quyết được gì. Một gánh nặng mà đã để xuống là khó mang đi nữa. Chúa
Giêsu căn dặn chúng ta: “Hãy vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16,24). Và Chúa
kêu mời “hãy đến với Ta...” (c.28). Chúng ta hãy đến với Chúa hôm nay để thực
sự cảm nghiệm được sức nâng đỡ đó. Có một điểm cần lưu ý trong câu trên là Chúa
nói: Ngài bổ sức cho chúng ta thôi, chứ Ngài không cất hết gánh nặng đi cho
đâu. Chắc chắn Chúa Giêsu xuống trần gian, không phải vì mục đích để làm cho
hết khổ đâu. Ngài qủa quyết là quê trời mới hết khóc than. Mặc dầu đã nhiều
phép lạ chữa bệnh tật đau khổ phần xác, nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn đem lại cho
đau khổ một giá trị thực tiễn của Nước trời.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, chính Chúa đã
dâng lời ngợi khen Cha vì đã mặc khải cho những kẻ bé mọn. Tinh thần nhỏ bé
khiêm tốn luôn được Chúa đề cao, được mọi người trân trọng. Biết thế, nhưng Chúa
ơi! Ở đời chúng con vẫn ham danh vọng, trọng quyền lợi. Chỉ có tình yêu Chúa
mới uốn mềm lòng chúng con nên khiêm nhường bé nhỏ. Xin Chúa biến đổi tâm hồn
chúng con trở nên nhỏ bé trước Thiên Chúa để chúng con được Ngài đổ đầy lòng
chúng con hồng ân của Ngài.
Lạy Chúa, hôm nay là ngày thế
giới xin ơn thánh hóa các Linh mục. Xin Chúa ban ơn nâng đỡ các Linh mục là
những người Chúa chọn để chăm sóc đoàn chiên Chúa. Xin cho các Ngài ơn khôn
ngoan thánh thiện. Một đời sống thánh đức sẽ toát lên qua việc cầu nguyện trong
khiêm tốn. Để trong cầu nguyện, các Linh mục sẽ tiếp nhận được nguồn tình yêu
và sức mạnh từ trái tim nhân hậu của Chúa hầu chuyển trao cho đoàn chiên sức
sống dồi dào. Amen.
Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng
nói…
Thành ngữ. "vào lúc ấy”
thường là công thức về văn phong mà các sách Kinh dùng làm lễ đã thêm vào để
bắt đầu một đoạn Tin Mừng một cách tự nhiên hơn. Nhưng ở đây là môt ngoại lệ,
nó có trong bản văn của Matthêu. Vậy trong bối cảnh nào mà lời cầu nguyện chúng
ta sắp đọc được đưa vào?
“Lúc ấy" là một thời điểm bi đát. Đức Giêsu sống trong
một bầu khí căng thẳng và thất bại. Ở chương 11 thánh Matthêu vừa mô tả sự
"hoài nghi" của Gioan Tẩy trong nhà tù: "Thầy có đúng là Đấng
phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác? "Đức Giêsu kế đó đã
thuật lại cách thức mà những kẻ đồng thời với Người đã từ chối ông Gioan vị ẩn
sĩ khổ hạnh và cả Đức Giêsu Đấng Hằng Sống nhân từ (11,16-19). Rồi Đức Giêsu
lên án nghiêm khắc những thành phố bên bờ hồ Ti-bê-ri-a đã không đón nhận sứ
điệp và các phép lạ của Người. Nhiều người trong hoàn cảnh thất bại này hẳn sẽ
rơi vào sự thất vọng và chán nản. Vả lại, đây là một “bài ca vui mừng"
trào dâng từ đôi môi Người. Vậy tâm tình thầm kín của Đức Giêsu là gì?
Lạy Cha là Chúa Tể trời đất...
Trong một vài dòng, chúng ta
nghe Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là "Cha" năm lần. Chúng ta đã quá quen
nên không nhận thấy rằng cách gọi Thiên Chúa này mở ra một cuộc cách mạng tôn
giáo thật sự. Những nhà chú giải đã tìm trong toàn bộ Kinh Thánh và tất cả văn
chương Do Thái trước Đức Giêsu chưa bao giờ từ ngữ ấy, "Cha” được dùng một
cách tuyệt đối và dùng để cầu khẩn trực tiếp Thiên Chúa. Không một Thánh Vịnh
nào dám gọi Thiên Chúa một cách thân mật.
Như thế, những người Do Thái,
ngày nay cũng thế, bởi lòng tôn kính, không dám phát âm cái tên khôn tả của
Thiên Chúa nhưng dùng mọi cách nói tránh, ví dụ như: "Đấng Hằng Hữu, xin
chúc tụng..." Dường như các tông đồ không thể nghĩ ra một từ ngữ như thế,
bởi họ cũng là người Do Thái, nếu như họ đã không nghe thấy trên đôi môi Đức
Giêsu đang cầu nguyện. Và đàng sau từ ngữ ấy, ngày hôm nay đã trở thành thông
thường, chúng ta nhận ra tiếng “Abba!" trong ngôn ngữ A-ra-men. Đây là một
từ âu yếm của các con nhỏ dùng nói với cha chúng, tương đương với chữ Ba (Bố)
của chúng ta..
Cha! Ba, Chúa của trời đất!
Sự đối chiếu của hai khía cạnh
ấy của Thiên Chúa thật cảm động. Đây là Thiên Chúa cao cả, Tạo Hóa của toàn thể
vũ trụ! Lạy Chúa, xin ban cho chúng con theo gương Chúa có đủ hai thái độ cầu
nguyện ấy: sự đơn sơ của tình cảm; sự tôn thờ chân chính.
Con xin ngợi khen Cha.
Động từ Hy Lạp dùng ở đây là
"exomologeisthai" có nghĩa là "xưng thú”, "tuyên xưng công
khai đức tin" "dâng lời ngợi khen", "cảm tạ". Như thế,
giữa những thất bại trong việc rao giảng, đây là một lời cầu nguyện ngợi khen
tràn ngập linh hồn; một thứ Thánh Thể ".
Và chúng ta không thể không
ngạc nhiên bởi sự giống nhau đáng ngạc nhiên giữa lời Đức Giêsu cầu nguyện với
bài ca ngợi khen (Magnificat) của Mẹ Người. "Linh hồn tôi ngợi khen Đức
Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng". Cả hai bài kinh này đều được cấu kết
bằng những ẩn dụ trong Kinh Thánh (Cn 8,9; Xi-ra-cít 51,1-30; Kn 6,9; Đn
7,13-l4). Và cả hai ca hát niềm vui của những người nghèo khó mà Thiên Chúa ưa
thích.
Vì Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng mạc khải cho người bé mọn.
Đức Giêsu cầu nguyện và đi từ
đời sống cụ thể của Người. Người đi từ sự thất bại mà các kinh sư và các Thầy
dạy Luật đã gây ra cho Người... từ sự tiếp đón mà Người đã nhận từ những người
khiêm nhượng và nghèo khó. Còn tôi thì sao? Tôi có cầu nguyện từ' đời sống và
những lo lắng của tôi? Tôi có dám thử tìm ra "lời để ngợi khen" giữa
những hoàn cảnh bất lợi đang làm tổn thương tôi? Khi đọc lời kinh này của Đức
Giêsu người ta có thể bị đụng chạm bởi cảm tưởng Thiên Chúa "giấu
giếm" một điều gì đó cho một số người Và mạc khải điều đó cho những người
khác! Trong toàn bộ Cựu ước, chúng ta tìm thấy ngôn ngữ Sê-mít này rất mạnh xem
ra bất chấp tự do của con người. Ví dụ như, chính Thiên Chúa làm cho "lòng
vua Pha-ra-on thành ra chai cứng" (Xh 9,12). Công thức này muốn diễn tả
tất cả không ngoại trừ, hoàn toàn tất cả đều phụ thuộc vào Thiên Chúa, nhưng
đúng là con người phải chịu trách nhiệm về những sự khước từ của mình, mà không
phải là Thiên Chúa. Chính vì thế người ta tìm thấy công thức rõ ràng là trái
ngược: "Vua Pha-ra-on làm cho lòng mình ra chai cứng (Xh 8,11). Dĩ nhiên ở
đây vấn đề không phải là Đức Giêsu cám ơn Cha Người về việc truyền giảng thất
bại và Người cũng không đổ cho Thiên Chúa sự thất bại ấy... Nhưng với sức mạnh
trong ngôn ngữ mà chúng ta không còn sử dụng nhưng đã được điển hình hóa về mặt
văn hóa, Người cám ơn Cha Người vì đám đông không học vấn đã tiếp đón Lời trong
khi những người trí thức, than ôi lại tha hồ bị kẹt cứng trên sự chắc chắn của
họ.. Chúng ta còn nhận thấy rằng đây không phải là một thứ kết án trí tuệ.
Nhưng Đức Giêsu thừa nhận rằng thông thường trí tuệ quý báu của con người thực
ra sẽ dẫn tới chỗ kiêu ngạo mù quáng vì tự phụ. Lý trí con người là khả năng
phi thường để con người hiểu biết những sự vật của thế giới này và thiết lập
những quy luật khoa học... nhưng lý trí bị giới hạn trong thế giới, và không
thể nhận ra Nước Thiên Chúa bởi chỉ ánh sáng duy lý. Thánh Phaolô sẽ nói về đức
tin như một thứ điên rồ": "Tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc
triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa" (1Cr 2,1).
"Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ, nhưng cái điên rồ của Thiên
Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người" (1Cr 1,18-30).
Vâng, lạy Cha, vì đó là điều
đẹp ý Cha.
Để giải thích sự tiếp nhận của
những người bé mọn và nghèo khó, đối diện với sự khước từ của các người thông
thái và tự mãn, Đức Giêsu không phân tích khuynh hướng tâm lý và đức hạnh của
họ. Người lập tức cho rằng đặc quyền của- những kẻ bé mọn là "lòng nhân từ
của Thiên Chúa". Họ không tốt hơn những người khác nhưng vì họ chịu thua
thiệt, họ đặc biệt lôi kéo "lòng nhân hậu của Chúa Cha. Đó là một tư tưởng
bền bỉ của Đức Giêsu: bạn là kẻ tội lỗi; bạn bị coi chẳng ra gì; bạn bị khinh bỉ
bạn, bị đè bẹp... Cha của Đức Giêsu nhìn bạn với một tình yêu thương đặc biệt.
Cha tôi đã giao phó mọi sự cho
tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ
Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mạc khải cho.
Một lần nữa, phải nhận thức về
lòng tự hào không chịu nổi của ông Giêsu người Na-da-rét. Người khẳng định có
mối liên hệ đặc biệt với Thiên Chúa và chính Người là một người nghèo giữa
những người nghèo. Vả lại, Người dám nói rằng không một ai biết Người. Không một
ai có thể thâm nhập vào căn tính sâu xa của Đức Giêsu trừ Chúa Cha! Và, ngược
lại Đức Giêsu thực sự cho rằng chỉ có Người biết được Thiên Chúa!
Trong những công thức ấy, người
ta nhận ra những tư tưởng thường được Thánh Gioan hòa điệu: "Không ai đến
Chúa Cha mà không qua Thầy" (Ga 14,6). Khi các Công đồng của thế kỷ thứ IV
và thứ V định nghĩa Đức Giêsu như “Thiên Chúa thật, và người thật", khi
các Công đồng ấy định nghĩa Ba Ngôi với sự bằng nhau về bản tính của Chúa Cha,
Chúa Con và. Chúa Thánh Thần, thì các Công đồng ấy chỉ nói lại bằng những từ
ngữ chính xác hơn điều mà các sách Tin Mừng và giáo lý tiên khởi đều đã khẳng
định. Một bản văn nhân bản văn này, trong số nhiều bản văn khác, chứng tỏ rằng
những giáo huấn về Chúa Giêsu đã đồng hóa "con người này" với
"Đức Chúa Giavê. Phải, những người Do Thái đã gán cho con người Giêsu
những câu nói chỉ thuộc về một mình Thiên Chúa: "Không ai biết Tôi ngoài
Thiên Chúa; và không ai biết Thiên Chúa ngoài Tôi. Vả lại, giả thuyết những
người Do Thái "thần linh hóa" một người Do Thái quả là một điều không
có thật.
Trong các tôn giáo khác của Đế
quốc La Mã, có thể nghĩ đến những con người, ví dụ như những Hoàng đế đã được
thần linh hóa. Nhưng điều này không thể nghĩ ra được trong môi trường Do Thái:
họ thờ phượng một Thiên Chúa độc nhất siêu việt không thể diễn tả, mà người ta
không bao giờ đám gọi tên! Kết hợp Đức Chúa Giavê với một con người, dù người
này là ai là một sự phạm thánh ghê tởm.
Để đi đến điều đó, cần phải có
những sự bó buộc mạnh mẽ trên bình diện các "sự kiện" và những
"lời" của Đức Giêsu; tác động đến những người đã là các chứng nhân.
Phần chúng ta, sau 2000 năm,
chúng ta chiêm niệm mầu nhiệm kỳ diệu ấy với nhiều sự đơn sơ và tôn thờ? Con
người mà người ta thấy ăn bánh và quả ô-liu là người nông dân bé mọn ở
Na-da-rét đã từng đốt lửa trên bờ hồ, là người mà người ta đã thấy lúc khóc và
lúc cười, lúc tức giận và lúc đói khát. Một con người mà ban đêm người ta nghe
thấy tiếng ngáy trong những lúc cắm trại ở giữa cảnh trời sao diễm ảo; người ta
đã nghe Người trong lúc cầu nguyện, đã gọi Thiên Chúa "'Abba?". Và,
với một vẻ bề ngoài tầm thường nhất, người khẳng định: "Không ai biết rõ
Chúa Cha, trừ người Con, và kẻ mà Người Con muốn mạc khải cho!". Mạc khải?
Thật vậy, người ta chỉ biết Thiên Chúa qua điều mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng
ta!
Mạc khải. Một cách hiểu biết khác với sự nhận thức duy
lý Thiên Chúa không được chinh phục sau một quá trình suy luận thông thái.
Thiên Chúa được tiếp đón trong một tấm lòng nghèo khó: "Thầy sẽ chỉ cho
con bí mật của Thầy nếu con yêu mến Thầy Điều đã bị giấu đối với các bậc khôn
ngoan và thông thái được mạc khải cho người bé mọn! Người ta không đổ đầy một
cái chén đã đầy rồi phải có một tấm lòng trống trải để Thiên Chúa tìm được chỗ
cho Người. Phải có một trí tuệ khiêm tốn để Thiên Chúa bày tỏ Người ra. Lạy
Chúa, xin tạo ra trong chúng con sự sẵn sàng để đón nhận mạc khải.
Tất cả những ai đang vất vả
mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy
mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi,.vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm
nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh
tôi nhẹ nhàng.
Đức Giêsu khẳng định rằng
"ách tôi êm ái và gánh tôi nhẹ nhàng”. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Tin
Mừng có những yêu sách rất mạnh mẽ. Điều quan trọng là không nên giản lược
những yêu sách ấy. Nhưng Đức Giêsu tự giới thiệu như đầy sự hiền hậu và khiêm
nhường: Người là lòng nhân hậu của Thiên Chúa nhập thể. Lúc đó có thể nói sự
hoàn thành những yêu sách ấy xuất phát tự bản chất của hữu thể. Rõ ràng Người
đến đề nghị một cách sống mới cho những người không thể mạng gánh nặng của Luật
pháp; tức những người nghèo và những người tội lỗi.
Các ngôn sứ đã loan báo rằng
Thiên Chúa từ chối viết Luật trên các bảng đá, theo cách ở bên ngoài của con
người, nhưng Người sẽ viết Luật trên lòng người: đó là sự loan báo của Tân ước
(Gr 32,31-34). Chúng ta nhận thấy sự nhất quán của tư tưởng ấy. Luôn luôn là
vấn đề những người "nhỏ bé", hèn mọn. Đức Giêsu, chính là Thiên Chúa
cao cả, Con của Đức Chúa trời đất, đến chia sẻ sự đau khổ của những người
nghèo, để giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy. Người đề nghị làm nhẹ bớt những
gánh nặng của chúng ta. Phải luôn suy niệm thấu đáo hình ảnh này: người nào
mang gánh nặng nề; dừng lại một giây lát để đặt gánh xuống! Và đây là điều Đức
Giêsu đề nghị chúng ta: "Thầy sẽ cho anh em nghỉ ngơi bồi dưỡng!".
(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc
Biển)
Trong cuộc sống hiện nay, khoa
học phát triển, con người được nhàn nhã hơn. Nhận định đó không sai. Tuy nhiên,
nó chỉ đúng với những gì là thực dụng, hay đúng trong lãnh vực khoa học, còn
trong lãnh vực tinh thần thì vẫn còn đó những buồn sầu, lo lắng; vẫn còn đó
những đau khổ tinh thần; và vẫn còn đó những điều bất bình an khi con người có
nhiều thứ phục vụ cho thân xác và chất lượng hiện sinh của cuộc sống. Câu hỏi
được đặt ra là: làm sao cho cuộc sống này được hạnh phúc và bình an thực sự?
1. Những gánh nặng cuộc đời
Trước khi nói đến sự bình an,
chúng ta cùng nhau tìm hiểu những gánh nặng của con người trong cuộc sống hiện
nay.
Những gánh nặng đó là:
Gánh nặng của những quá khứ với
biết bao nhiêu điều chưa làm được;
Gánh nặng của hiện tại với biết
bao bất công;
Gánh nặng của ham muốn, tham
lam mà không đạt được;
Gánh nặng của những nghi ngờ,
bon chen, hà tiện, ganh tỵ;
Gánh nặng của những khát vọng
thống lĩnh xã hội bằng chiến tranh;
Gánh nặng của những người bị áp
bức bạo tàn;
Gánh nặng của những kỳ thị
chủng tộc và loại trừ;
Gánh nặng khi mang trên mình
những căn bệnh nguy hiểm của thế kỷ;
Gánh nặng của những thất vọng,
lo âu;
Khi mang trên mình những gánh
nặng về thể lý hay tinh thần như thế, con người cần phải được nghỉ ngơi, bồi
dưỡng để đem lại bình an. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể đạt được khi chúng ta
mang lấy “ách” và “gánh” của Đức Giêsu, và hãy học cùng Đức Giêsu, vì Ngài
“hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.
2. Ý nghĩa sự “hiền hậu” và
“khiêm nhường” theo tinh thần Tin Mừng
Khi nói đến sự“hiền hậu”, người
ta nghĩ ngay đến những đặc tính của nó như: dịu dàng, nhẹ nhàng, ngọt ngào,
không thô bạo, cứng cỏi, cộc cằn...; "hiền hậu" còn có nghĩa là êm
ái, hòa nhã, yêu thương, nhân hậu, thông cảm, tôn trọng và khoan dung; luôn
nghĩ tốt và hành động tốt cho người khác. Sẵn sàng đối thoại, không đối đầu và
chấp nhận sửa sai.
Còn khi nói đến sự "khiêm
tốn”, chúng ta sẵn sàng xuống thấp, ở dưới hay chấp nhận bị hạ xuống, biết sự
giới hạn của mình để sống khiêm tốn, sống thật với bản chất, khả năng của mình,
không thêu dệt quá những gì mình có.
3. Hãy học với Đức Giêsu vì
Ngài “hiền hậu” và “khiêm nhường”
Hôm nay, Đức Giêsu lên tiếng
mời gọi các môn đệ hãy mang lấy "ách" và "gánh" của Ngài,
bởi vì Ngài có lòng “hiền hậu” và “khiêm nhường” trong lòng.
Thật vậy, hễ mang “ách” của ai
là học với người đó; còn mang "gánh" của ai thì được mời gọi giữ
những điều luật của người đó đang giữ hay điều luật của chính người đó ban
hành. Đức Giêsu mời gọi mang lấy "ách" và “gánh” của Mình, Ngài muốn
chúng taphải sống“hiền hậu”, “khiêm nhường”, “êm ái”, “nhẹ nhàng” và giữ “luật
yêu thương”.
Khi mang lấy “ách” và “gánh”
của Đức Giêsu, chúng ta sẽ được hạnh phúc và bình an, vì “ách” của Đức Giêsu
thì êm ái và “gánh ” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đến với và mang lấy tinh thần của
Đức Giêsu, chúng ta sẽ được nghỉ ngơi lại sức vì có ơn Chúa phù trợ, chở che.
Khi ấy, tinh thần của chúng ta sẽ hạnh phúc và an vui, dẫu có gặp phải những
điều khó khăn, thử thách.
Khi mang trong mình những “ách”
và “gánh” của Đức Giêsu, ấy là lúc chúng ta đang sống trong quỹ đạo của tình
yêu và làm cho tình yêu đó được lên ngôi chứ không phải nhu nhược, nhát đảm,
hèn hạ, mù quáng, hay lầm lạc...
Lạy Chúa, xin cho chúng con
được kiên trì trung thành mang lấy “ách” và “gánh” của Chúa để chúng con được
bình an. Amen.