CÁC BÀI SUY NIỆM LỄ CHÚA KITÔ VUA – C
MỤC LỤC
1. Làm vua
2. Vua tình yêu.
3. Kitô Vua.
4. Chúa Kitô Vua – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
5. Vương quốc Đức Kitô - ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
6. Vị vua không ngai vàng
7. Lạy Chúa, xin nhớ đến con – ĐGH. Phanxicô
8. Xin nhớ đến tôi.
9. ''... Để làm giá cứu chuộc''
10. Chúa Kitô Vua Tình Yêu – Radio Veritas Asia
11. Cùng chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
12. Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi
13. Vua tình yêu – Lm Giuse Đỗ Vân Lực
14. Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ – Lm Trần Đình Nhi
15. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
16. Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ
17. Suy niệm của Antôn P. Nguyễn Xuân Thuyên
18. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
19. Chúa Giêsu, Vua Yêu thương
20. Đức Giêsu Vua, Người tôi tớ Thiên Chúa
21. Đấng Kitô của Thiên Chúa.
22. “Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi”
23. Mở cửa về hướng tình thương.
24. Giêsu –Vua phục vụ.
25. Viên đá – McCarthy.
26. Nhân từ kêu gọi nhân từ – McCarthy.
27. Trên khổ giá - R. Gutzwiller.
28. Anh em và chị em của vua.
29. Ánh sáng, sức mạnh và hạnh phúc.
30. Vua vũ trụ.
31. Chúa Kitô, Vua vũ trụ – Veritas
32. Trộm lành.
33. Vua vũ trụ.
34. Cơn cám dỗ cuối cùng – Thiên Phúc
35. Chúa Giêsu là Vua
36. Vương quốc tình yêu.
37. Đức Giêsu, vua tình yêu - Lm. Phạm Thanh Liêm.
38. Vua kỳ lạ và một thần dân kỳ thú
39. Tên trộm lành và người chủng sinh.
40. Nếu ông là vua - Lm Âu Quốc Thanh.
41. Chúa Giêsu, vua tình yêu - Lm Bùi Quang Tuấn.
42. Suy niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu.
43. Vị Vua trên Thập giá
44. Chú giải của Lm Fx. Vũ Phan Long
45. Chú giải của Noel Quesson.
46. Đức Giêsu Vua Tình Yêu
47. Suy niệm của Andre Seve
48. Những điều lạ lùng – Jos. Vinc. Ngọc Biển
2. Vua tình yêu.
3. Kitô Vua.
4. Chúa Kitô Vua – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
5. Vương quốc Đức Kitô - ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
6. Vị vua không ngai vàng
7. Lạy Chúa, xin nhớ đến con – ĐGH. Phanxicô
8. Xin nhớ đến tôi.
9. ''... Để làm giá cứu chuộc''
10. Chúa Kitô Vua Tình Yêu – Radio Veritas Asia
11. Cùng chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
12. Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi
13. Vua tình yêu – Lm Giuse Đỗ Vân Lực
14. Chúa Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ – Lm Trần Đình Nhi
15. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
16. Đức Giêsu Kitô, Vua vũ trụ
17. Suy niệm của Antôn P. Nguyễn Xuân Thuyên
18. Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua.
19. Chúa Giêsu, Vua Yêu thương
20. Đức Giêsu Vua, Người tôi tớ Thiên Chúa
21. Đấng Kitô của Thiên Chúa.
22. “Thiên Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi”
23. Mở cửa về hướng tình thương.
24. Giêsu –Vua phục vụ.
25. Viên đá – McCarthy.
26. Nhân từ kêu gọi nhân từ – McCarthy.
27. Trên khổ giá - R. Gutzwiller.
28. Anh em và chị em của vua.
29. Ánh sáng, sức mạnh và hạnh phúc.
30. Vua vũ trụ.
31. Chúa Kitô, Vua vũ trụ – Veritas
32. Trộm lành.
33. Vua vũ trụ.
34. Cơn cám dỗ cuối cùng – Thiên Phúc
35. Chúa Giêsu là Vua
36. Vương quốc tình yêu.
37. Đức Giêsu, vua tình yêu - Lm. Phạm Thanh Liêm.
38. Vua kỳ lạ và một thần dân kỳ thú
39. Tên trộm lành và người chủng sinh.
40. Nếu ông là vua - Lm Âu Quốc Thanh.
41. Chúa Giêsu, vua tình yêu - Lm Bùi Quang Tuấn.
42. Suy niệm của Lm. Bùi Thượng Lưu.
43. Vị Vua trên Thập giá
44. Chú giải của Lm Fx. Vũ Phan Long
45. Chú giải của Noel Quesson.
46. Đức Giêsu Vua Tình Yêu
47. Suy niệm của Andre Seve
48. Những điều lạ lùng – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Cuộc thế giới đại
chiến lần thứ I (1914-1918) đã tàn phá thế giới, nhất là châu Âu ở một mức độ
kinh khủng. Mọi người đều hy vọng rằng với những vết thương còn loang lỗ vì
chiến tranh, loài người sẽ sợ hãi và sẽ không bao giờ tạo ra chiến tranh nữa.
Tuy nhiên thực tế lại khác hẳn, tàn tích của cuộc chiến còn đó nhưng con người
lại bắt đầu bước vào một cuộc phiêu lưu đầy nguy hiểm thứ hai. Chính trong bối
cảnh đau thương sau thế chiến lần thứ nhất này, mà Giáo Hội kêu gọi tình thương
gợi lên nghĩa huynh đệ, cùng là con một Cha, là công dân cùng một nước, bởi vì
Thiên Chúa sẽ quy tụ tất cả lại trong Ngài. Cũng chính trong tinh thần đó, Đức
Thánh Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Kitô Vua hôm nay vào năm 1925. Thế
nhưng Đức Kitô là Vua theo nghĩa nào?
Sau phép lạ bánh hoá
nhiều, người ta muốn suy tôn Ngài lên làm vua, nhưng Ngài đã từ chối một cách
quyết liệt. Hình như Ngài đã xua đuổi và giải tán tất cả những kẻ muốn phong
vương cho Ngài. Ngược lại ngay lúc thập tử nhất sinh, lúc mà mỗi lời nói đều có
thể đem đến bản án tử hình cho Ngài thì Ngài lại công khai tuyên bố: Quan nói
đúng, tôi là Vua, tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng cho
sự thật. Ai thuộc về sự thật thì nghe tôi. Chúa Giêsu là Vua, nhưng trong tước
hiệu Vua của Ngài có cái gì không ổn, có cái gì ngược đời, có cái gì khác
thường như bản án Philatô ghi trên cây thập tự: Giêsu Nadarét là Vua dân Do
Thái.
Quan niệm bình thường
của con người là gắn liền ông vua với ngai vàng, với quyền lực, với thống trị.
Người ta phải dùng tới bạo lực để đạt được ngôi vua, để rồi bắt mọi người phải
quy phục mình và ngày đăng quang sẽ là một ngày chiến thắng. Thế nhưng ngày
đăng quang của Đức Kitô lại là một ngày thê thảm nhất. Ngai vàng của Ngài là
cây thập giá đáng phỉ nhổ, vương miện của Ngài chỉ là một vòng gai làm trò cười
cho thiên hạ. Thế nhưng chính lúc ấy: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất Ta sẽ
kéo mọi người lại với Ta. Bấy giờ các ngươi sẽ biết Ta là ai và Đấng đã sai Ta
ở với Ta. Cái yếu tố thúc đẩy Ngài lên ngôi vua không phải chỉ vì Ngài là Thiên
Chúa, nhưng chính vì Ngài là tình yêu: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu. Thập giá là dấu chứng của tình yêu, của phục vụ.
Từ nay, làm Thiên Chúa
không còn có nghĩa là bắt con người phải phục dịch mình, nhưng là vác trên vai
các con chiên và chăm sóc cho đến độ hy sinh cả mạng sống của mình. Nếu có
Thiên Chúa thì chỉ có một Thiên Chúa của tình yêu, của tha thứ, của phục vụ:
Các ngươi biết thủ lãnh thế gian thì làm chúa trên họ và những kẻ làm lớn thì
bắt họ phục quyền mình. Nơi các ngươi thì không được như thế, ai muốn làm lớn
thì hãy hầu hạ các ngươi và ai muốn cầm đầu thì hãy làm tôi tớ cho các ngươi.
Cũng như Con Người đến không để được hầu hạ nhưng là hiến mạng sống mình làm
giá chuộc thay cho nhiều người.
Trong vương quốc ấy,
Ngài đã không cai trị bằng luật rừng, bằng bạo lực nhưng bằng luật yêu thương:
Thầy truyền cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau. Hãy
thực thi giới luật yêu thương để chúng ta xứng đáng là con dân của Nước Trời,
là con dân của Đức Kitô Vua.
Đọc lại Phúc Âm, chúng
ta thấy các thánh sử đã ghi lại những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu như
sau: Ngài vác thập giá, đi đến một nơi gọi là Golgotha, và tại đó, bị
đóng đinh vào thập giá cùng với hai người trộm, mỗi người một bên. Thế nhưng thánh
Gioan đã dừng lại ở một số chi tiết đáng cho chúng ta suy nghĩ về vương quyền
của Đức Kitô. Trước tiên là tấm bảng mà Philatô đã cho viết và được treo trên
thập giá: Giêsu Nadarét, vua dân Do Thái. Ngài nhấn mạnh đến tính cách phổ biến
của tấm bảng ấy, vì được viết bằng tiếng Do Thái, Latinh và Hy Lạp, mà nhiều
người có thể đọc được vì nơi đó gần thành. Danh hiệu này đã được lặp đi lặp lại
như một chủ đề trong suốt cuộc xử án. Philatô hỏi Chúa Giêsu: Ông có phải là
vua dân Do Thái hay không? Vậy ông là vua sao? Các người có muốn ta thả vua dân
Do Thái cho các người không? Chẳng lẽ ta lại đóng đinh vua các người sao? Sự
nhấn mạnh của Philatô như thể diễn tả sự châm biếm hay tố giác sự lo âu của
ông? Nhưng chính vì danh hiệu này, mà cuối cùng người Do Thái đạt được bản án:
Ai xưng mình là vua thì chống lại Xêda.
Một nghịch lý lạ lùng.
Đó là một người ngoại giáo đại diện của quyền bính Xêda, lại ban cho Đức Kitô
cái danh hiệu mà các thủ lãnh của dân Ngài thì lại khước từ. Những người dân
thấp cổ bé miệng lại cũng đã tung hô Ngài là vua Israel, khi Ngài long trọng
tiến vào Giêrusalem. Họ muốn tôn Ngài lên làm vua sau phép lạ bánh hoá nhiều. Vương
quyền của Đức Kitô không phải là một vương quyền thuộc thế gian này. Vì thế,
Ngài đã trốn lên núi để tránh đi sự hiểu lầm ấy. Bây giờ, Ngài không ngại gì
nữa. Bị lính tráng đánh đòn, Ngài là một vị vua khiêm nhường và nghèo nàn, theo
lời tiên tri Giacaria: Hỡi thiếu nữ Sion, đừng sợ, này vua ngươi ngự đến, ngồi
trên lưng lừa con. Đây là một vị vua đội mương miện là một vòng gai, mặc một
cẩm bào là chiếc áo đỏ để rồi bị chế giễu. Philatô có lý: Đây là vua các ngươi.
Điều ông viết là được viết cho muôn đời.
Với chúng ta thì lại
khác, bằng cái chết tủi hổ trên thập giá, Ngài đã trở nên một vị mục tử nhân
lành, hiến mạng sống cho đoàn chiên của mình. Ngài đã khai mạc vương quốc mới
của tình yêu, một tình yêu tự hiến: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình
vì bạn hữu. Cho đến tận cùng thời gian, các môn đệ của Ngài sẽ làm chứng về
vương quyền mới mẻ ấy. Họ không được phép mơ tưởng, dù đôi khi bị cám dỗ, về
một Giáo Hội quyền lực. Họ chỉ bày tỏ Đức Kitô ra cho thế giới bằng thứ vũ khí
của lòng khoan dung, nhân hậu, tha thứ và yêu thương.
Vào thời Chúa Giêsu,
dân Do Thái đang mong chờ một vị vua sẽ đến để giải thoát họ khỏi ách đô hộ của
đế quốc Lamã. Chính vì thế, sau phép lạ bánh hoá nhiều, họ đã tôn Chúa Giêsu
lên làm vua, nhưng Ngài lại rút lên núi một mình.
Rồi trước câu hỏi của
Philatô: Ông có phải là vua không? Chúa Giêsu chỉ đáp lại: Ông nói đúng. Và Ngài đã chết với
bản án: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái.
Tuy nhiên, nếu suy
nghĩ chúng ta sẽ thấy: Ngài là một vị Vua, không giống bất kỳ vị vua nào trên
trái đất. Một vị vua không ngai vàng, không cung điện, không binh đội và không
bờ cõi. Một vị vua nghèo túng và khổ đau, một vị vua bị lăng nhục, bị nguyền
rủa. Và đặc biệt, Ngài là một vị vua nhân hậu.
Đoạn Tin Mừng hôm nay
cho thấy, chính vào lúc Ngài hấp hối trên thánh giá giữa những lời sỉ nhục và
thách thức của các thủ lãnh và lính tráng, thì tiếng nói của anh trộm lành bất
ngờ vang lên. Anh ta chấp nhận hình phạt: Chúng ta chịu như thế này thật là đích
đáng vì xứng với việc chúng ta đã làm. Rồi anh tuyên xưng sự vô tội của Chúa
Giêsu: Còn ông này, ông có làm điều gì trái đâu.
Điều lạ lùng hơn nữa
là anh đã tuyên xưng vương quyền của Ngài, khi mà mọi sự dường như đã sụp đổ:
Khi nào Ngài về nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng. Trong cái nhìn của anh, thì
cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá không phải là một dấu chấm hết,
anh vẫn tin có ngày Ngài sẽ đến trong nước của Ngài và anh hy vọng mình sẽ được
dự phần vào ngày đó.
Và Chúa Giêsu đã ban
một ơn trọng đại vượt quá lòng anh mong ước: Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên
đàng với Ta.
Đức giám mục Bossuet
đã chú giải như sau: Hôm nay, quả là nhanh biết mấy. Ở với Ta, quả thân tình
biết bao. Trên thiên đàng, quả là nơi hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế anh trộm lành
là người đầu tiên được hứa ban ơn cứu độ. Kẻ gian phi lại là người trước hết được
hưởng hoa trái của cái chết trên thập giá.
Tất cả những việc ấy
đều nói lên lòng nhân hậu của Vua Giêsu đối với những kẻ bị gạt ra bên lề xã
hội. Vị vua bị đóng đinh đã bắt đầu cuộc chinh phục của Ngài trên các tâm hồn.
Và sau khi Ngài trút hơi thở cuối cùng, thì viên đội trưởng đã nhìn nhận Ngài
là Con Thiên Chúa và đã đấm ngực ăn năn.
Chúa Giêsu là một vị
vua khác thường, Ngài không thống trị bằng sức mạnh, nhưng Ngài phục vụ trong
yêu thương. Cho đến ngày tận thế, Ngài vẫn thu hút chúng ta đến với Ngài. Thập
giá là nơi vương quyền của Ngài được tỏ lộ mà không sợ bị hiểu lầm. Chúng ta
cần ngắm nhìn Ngài trên thập giá để biết cách chinh phục thế giới. Bởi vì thế
giới hôm nay xúc động trước lòng tha thứ.
Với những hành động bác ái và
yêu thương, cho dù là tầm thường và nhỏ bé, chúng ta vẫn có thể làm chứng
cho Đức Kitô. Mừng lễ Đức Kitô Vua, chúng ta hãy hạ bệ những thần tượng giả
mạo, để cho Ngài chiếm hữu từng khoảng khắc cuộc đời, và ngự trị trong cõi lòng
chúng ta.
4. Chúa
Kitô Vua – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích từ ‘Nút Vòng
Xoay’)
Trên báo Tuổi Trẻ cách
đây khá lâu, tôi gặp một chuyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, mang tựa đề
“Tôi thích làm vua”, truyện kể về một đội kịch khi đã dàn dựng xong một vở xoay
quanh vai chính là một ông vua. Nhưng đến lúc trình diễn, người thủ vai ông vua
đã không có mặt. Đang còn lúng túng thì may sao tác giả chuyện ngắn lù lù dẫn
xác tới. Bằng sức ép của tình thân người ta xếp ngay ông vào vai ông vua với
lời trấn an: “Làm vua dễ lắm! Chỉ cần áo mão cân đai, trong ngai bệ vệ thị oai
xong liền”. Tác giả đã làm như thế và buổi diễn được xem là thành công. Truyện
chỉ có thế, nhưng qua mạch kể, dẫn tới kết luận: làm vua quá dễ và xét cho
cùng, làm vua cũng có nghĩa là chẳng phải làm gì cả.
Phụng vụ hôm nay cũng
đặt tín hữu đối diện với một vị vua: Đức Kitô. Nhưng Người là vị Vua thế nào?
Đường lối làm vua của Người có nhàn hạ không?
1. Đức Kitô khởi đầu
sự nghiệp bằng việc tự hiến.
Ngay từ đời đời, Đức
Kitô đã là vua trên cả tạo thành, nhưng vì không muốn cho con người chỉ thấy
nơi Người tự bản tính đã là vua, mà còn muốn tỏ bài cho họ hiểu để “là vua”
Người phải “làm vua” nữa. Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người
đã trở thành Vua muôn vua.
Dẫu là Vua Trời, Người
đã chấp nhận từ bỏ tất cả để bước xuống với đời sống con người. Sự bước xuống
ấy chẳng phải là một chuyến vi hành như kiểu những ông vua trong truyện “Nghìn
lẻ một đêm”, ban ngày thì thét ra lửa, nhưng ban đêm lại cải trang giả dạng
thường dân len lỏi vào những ngõ ngách cuộc sống để nắm bắt tình hình dân
chúng, rồi bước sang ngày mới, lại áo mão nghêng ngang ra dáng đức vua oai vệ.
Sự bước xuống ấy cũng
chẳng phải là những chuyến du hành như những chuyến đi lại của những ông vua
hiện đại luôn được bao vây bởi những vệ sĩ cận kề hoặc những fan hâm mộ cuồng
nhiệt, có muốn quan sát sự tình cũng khó mà thấy sự thật.
Nhưng sự bước xuống ấy
là một chuyến đồng hành theo nghĩa mạnh nhất của từ ngữ này, nghĩa là Vua Trời
đã làm người thực thụ giữa muôn người trần gian để đồng hành với con người
trong cuộc phiêu lưu cứu độ.
Từ trời cao hạ cố bước
xuống với con người, chưa đủ; từ Thiên Chúa tự nguyện bước xuống làm người vì
chúng ta, cũng chưa đủ; từ con người vô danh tiểu tốt lại khiêm nhường bước
xuống làm một tội nhân dẫu chẳng mang tội gì, cũng chưa đủ. Qua Phúc Âm hôm
nay, người ta còn thấy Người bước xuống nữa, từ một tội nhân lại nhận vào mình
cái án của tên tử tội.
2. Đức Kitô xưng vương
bằng việc tận hiến.
Đọc kỹ trang Tin Mừng
hôm nay, người ta sẽ vô cùng sửng sốt, bởi vì hình ảnh vị vua thì quá nhạt nhòa
trong khi hình ảnh của người tử tội lại thật đậm nét, đến nỗi cái chết của
người ấy cũng không thể gọi là một cái chết bình thường nếu không muốn nói là
“cái chết dữ”, theo ngôn ngữ Việt Nam. Thay vì triều thiên là một vòng gai,
thay vì long ngai là một Thánh Giá, thay vì xa giá oai phong lẫm liệt lại chỉ
là những tiếng nhục mạ thách thức của đủ mọi thành phần dân chúng. Kỳ mục ghen
ghét nên nhục mạ đã đành, lính tráng liên quan gì mà phải lên tiếng, đến như
anh trộm dữ chết đến nơi rồi mà vẫn không hết cay xè cà cuống độc mồm độc
miệng.
Nhưng người ta càng
sửng sốt hơn nữa khi biết rằng người tử tội ấy là Chúa Kitô, và cái chết của
Người chính là đỉnh cao tận hiến, đi đến cùng trong lựa chọn hiến thân cho loài
người. Nếu sinh thời Người đã nói “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của
người hiến thân vì bạn hữu” thì câu nói đó trước hết đã ứng nghiệm nơi Người.
Người chết thay cho nhân loại mà Người hằng yêu mến, Người chết cho họ được
sống. Nhưng chính lúc Người chết lại là lúc Người tỏ mình là Vua như hàng chữ
trên Thánh Giá đã ghi rõ.
Người làm Vua bằng con
đường tận hiến. Như hạt lúa phải thối đi mới sinh nhiều bông hạt; như cỗ máy
phải chấp nhận hao mòn đi mới phát sinh công suất; như bông hoa phải chịu ngắt
đi mới trang hoàng đẹp bàn thờ; và cũng như cây nến phải chấp nhận hao mòn đi
mới có thể đem cho ngày lễ ánh sáng lung linh.
3. Chúa Kitô cai trị
bằng thánh hiến.
Nếu toàn cảnh Phúc Âm
hôm nay là một bầu khí ảm đạm thì câu kết thúc lại là một cảnh hoàn toàn khác.
Từ đỉnh cao Thập Giá, Chúa Kitô hứa Thiên Đàng cho anh trộm lành. Trong lời
hứa, người ta đã thấy tỏ hiện vương quyền trời cao; trong cách hứa, người ta đã
thấy vinh quang rạng ngời vương quốc; và vượt trên tất cả, trong tương quan của
người trao và người nhận lời hứa, là sáng lên dung mạo của vị Vua bao dung
thánh hiến tất cả để đặt vào tình trạnh sống mới.
“Hôm nay, anh sẽ ở
trên Thiên Đàng với Ta”. Trong bảy lời Chúa Giêsu phán ra từ Thập Giá, đây là
lời oai phong nhất, không là lời của người tử tội, mà là lời của một vị Vua
quyền uy trong Vương quốc của Người là Thiên đàng. Đây cũng là lời đậm màu cứu
độ nhất vì anh trộm khi chẳng còn hy vọng nào khác đã biết bám víu vào Chúa
Giêsu, nên anh đã nhận được ơn cứu rỗi, tức là được thánh hiến để sẵn sàng tháp
tùng Người bay thẳng vào chốn Thiên Đàng không cần qua một trạm trung chuyển
nào. Sướng thật. Rõ trộm chuyên nghiệp nên phút cuối cùng còn trộm được cả
Thiên Chúa.
Có lẽ cũng nên nói một
chút về hai chữ “hôm nay” của lời hứa đặc biệt này, một chữ nhiều gợi ý, nhưng
gắn liền với việc Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá, nên chữ ấy cũng
liên quan đến việc thánh hiến của vì Vua cứu độ. Ngay từ lúc Chúa Giêsu chịu
chết, Vương quốc Thiên Đàng của Người đã tỏ hiện, vương quyền thánh hiến của
Người đã phát huy, để chữ “hôm nay” trở thành chữ hiện thực muôn đời của tấm
lòng vị Vua Cứu Thế.
Qua việc thánh hiến
lòng cậy trông của ông trộm lành, Đức Kitô đã khẳng định đường lối làm vua của
Người mãi mãi. Người thánh hiến trọn vẹn mỗi người và mọi người, như kiểu nói
của thánh Phaolô: “Người thâu họp tất cả trong một đầu mối chính là Người, để
mà dâng lên Chúa Cha”.
Tóm lại, Đức Kitô là
một vị Vua rất khác lạ, Người làm tất cả chỉ vì muốn cứu độ muôn người: Người
tự hiến cúi xuống với con người; Người tận hiến mạng sống cho con người, và
Người thánh hiến để con người được sống muôn đời với Người trong vương quốc
vĩnh cửu. Vấn đề còn lại là hãy tôn vương Chúa Kitô ngay trong cuộc sống hôm
nay.
Có lần đến một xứ đạo
vùng Hố Nai dâng Thánh Lễ, tôi không xác định được phương hướng, phải nhờ một
bác tài xế chỉ cho. Bác bảo: tới ngã ba thấy tượng Chúa Kitô giang tay, hãy đi
về phía tay phải, sẽ gặp địa chỉ muốn tìm. Rõ ràng chỉ là một câu nói, nhưng
đầy gợi ý: hãy đi về phía tay phải Chúa Kitô bằng một cuộc sống tốt lành, người
ta sẽ gặp được địa chỉ mong ước, đó là Nước Chúa Kitô, là quê hương hạnh phúc.
5. Vương quốc Đức
Kitô - ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Nghe bài Tin Mừng hôm
nay, có lẽ nhiều người thắc mắc: Giáo Hội có nhầm không? Ngày lễ Chúa làm Vua
mà lại đọc bài tường thuật cái chết tủi nhục của Chúa. Thật khó hiểu.
Ta không hiểu, vì trí
ta luôn vẽ ra hình ảnh một ông Vua theo kiểu trần gian. Trong khi Chúa Giêsu đã
cho biết: “Nước tôi không thuộc trần gian này” (Ga 18,36). Bài Tin Mừng hôm nay
cho ta thấy ba tính cách của Vương quốc Đức Kitô.
Đó là Vương quốc của
lòng hiếu thảo. Thiên Chúa muốn thiết lập Vương quốc này ngay từ buổi sơ khai.
Nhưng ma quỷ phá hoại bằng cách xúi giục con người chống lại Thiên Chúa. Chúa
Giêsu xuống thế để tái lập mối liên hệ Cha-Con giữa Thiên Chúa với loài người.
Người đã sống như một người Con Hiếu Thảo của Đức Chúa Cha. Sống kết hiệp với
Đức Chúa Cha. Trong Phúc Âm, lời đầu tiên Người nói là nói về Đức Chúa Cha:
“Cha mẹ không biết con phải lo việc của Cha con ư?” (Lc 2,49). Lời cuối cùng
của Người cũng hướng về Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay
Cha” (Lc 23,46). Trọn cuộc đời Người luôn thi hành thánh ý Cha, cho dù có những
lúc phải đổ mồ hôi máu mới bỏ được ý riêng mình. Người đã sống đến cùng tâm
tình của người con hiếu thảo. Trên thập giá, Người đã hoàn tất việc thiết lập
Vương quốc ban đầu theo ý định của Thiên Chúa; quy tụ những người con hiếu thảo
trong nhà Cha trên trời.
Đó là Vương quốc của
sự tự do. Con người rời xa Thiên Chúa rơi vào vòng tay ma quỷ. Ma quỷ
trói buộc con người bằng những sợi dây nô lệ: nô lệ cho danh vọng, nô lệ cho
tiền bạc, nô lệ cho thú tính. Đức Giêsu xuống trần gian để giải thoát con người
khỏi ách nô lệ ma quỷ. Người cứu con người khỏi mọi thứ sợ hãi. Người giải
phóng ta khỏi mọi áp lực, mọi mặc cảm. Trọn đời Người nêu gương một đời sống tự
do. Thoát khỏi sự ràng buộc của của cải vật chất, Người sống như một người
nghèo: “Con chim có tổ, con chồn có hang, nhưng Con Người không có hòn đá gối
đầu” (Mt 8,20). Người đã chống lại những cơn cám dỗ về quyền lực từ ngày đầu
tiên trong sa mạc cho đến phút cuối đời trên thập giá: “Nếu Ông là Con Thiên
Chúa, hãy biến đá thành bánh mà ăn” (Mt 4,3). “Nếu Ông là Đức Kitô, hãy xuống
khỏi thập giá, chúng tôi sẽ tin”. Rất tự do, Người đã đi vào cái chết. Chính
khi bị treo trên thập giá, thân trần trụi, mất hết mọi uy tín, danh dự, Người
đã phá tung hết mọi thứ xiềng xích nô lệ, khai mạc một triều đại tự do cho con
người.
Đó là Vương quốc của
tình yêu. Chúa Giêsu xuống trần để làm chứng về tình yêu. Rao giảng, thi
ân, tha thứ. Tình yêu lên đến cực điểm trong những giây phút cuối đời khi Người
quỳ xuống rửa chân cho môn đệ, khi Người chữa lành tai cho kẻ đến bắt Người,
khi Người tha thứ cho kẻ phản bội, và nhất là khi Người cầu xin Đức Chúa Cha
tha thứ cho những kẻ giết Người. Thật là một tình yêu nguyên tuyền không hề
vương chút hận thù. Một tình yêu bao la lan tới mọi góc biển chân trời. Một
tình yêu cao cả đáp lại hận thù. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho
Đức Chúa Cha. Thánh giá diễn tả tình yêu Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Thánh
giá diễn tả tình yêu tha thứ Chúa Giêsu dành cho những kẻ thù ghét Người.
Cái chết trên thập giá
là một cuộc chiến thắng. Chiến thắng của tâm tình hiếu thảo. Chiến thắng của sự
tự do nội tâm. Chiến thắng của tình yêu. Chính trên cây thập giá, Chúa Giêsu đã
lên ngôi vua. Chính khi hứa cho người trộm lành vào thiên đàng, Chúa Giêsu đã
khai mạc vương quốc của Người.
Vương quốc Đức Kitô đã
rộng mở chào đón tất cả mọi người. Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của người con
hiếu thảo hoàn toàn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha, hãy sống tự do, dứt bỏ mọi
ràng buộc của danh, lợi, thú, hãy mở rộng trái tim yêu thương. Như thế ta mới
xứng đáng trở thành công dân trong Nước Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Vua
của tâm hồn con, xin nhận con vào Vương quốc của Người. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đã bao giờ bạn cảm
nghiệm được sự tự do hoàn toàn, không còn ham hố tiền tài, danh vọng, lạc thú
chưa? Nếu có, bạn cảm thấy thế nào?
2) Hình ảnh về Vua
Giêsu nghèo hèn, khiêm nhường, chịu thiệt thòi, luôn tha thứ gợi lên trong bạn
tâm tình nào?
3) Tuần này bạn sẽ làm
gì để Vương quốc Chúa Giêsu lan rộng tới những người chung quanh?
6. Vị vua
không ngai vàng
(Suy niệm của ĐGM.
Giuse Vũ Văn Thiên)
Mặc dù có nhiều ý kiến
phê phán cách dùng danh xưng “vua” để chỉ Chúa Giêsu, viện lẽ rằng danh xưng
này gắn liền với xã hội phong kiến lỗi thời, Giáo Hội vẫn tiếp tục dùng tước
hiệu này và tôn vinh long trọng trong ngày Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng
vụ. Chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Nhưng Ngưởi là một vị vua không có
ngai vàng. Nói đúng hơn, Người không dùng ngai vàng để biểu dương quyền lực
trần thế. Ngai vua của Người là một dụng cụ tử hình, là cây thập giá đã được
dựng nên trên đồi Canvê. Như thế, mặc dù dùng danh xưng vua để chỉ Chúa Giêsu,
thì khái niệm vua nơi Người vẫn hoàn toàn khác với một vị vua trần thế.
Không phải vô tình mà
thánh sử Luca nhấn mạnh đến tấm biển gắn phía trên của thập giá. Tấm biển này
mang dòng chữ "Người Này Là Vua Dân Do Thái”, được viết bằng
ba thứ tiếng: Hy lạp, Latinh và Do Thái. Thánh Gioan còn thêm một chi tiết: nơi
Chúa Giêsu chịu đóng đinh gần cổng thành, nơi có đông người qua lại nên rất
nhiều người đọc được dòng chữ này (x. Ga 19,20). Tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ của
nền văn hóa đương thời; tiếng Latinh là ngôn ngữ của chính trị; tiếng Do Thái
là ngôn ngữ của tôn giáo. Tước hiệu vương đế của Đức Giêsu được giới thiệu và
tuyên xưng trong mọi lãnh vực, cho cả thế giới, mọi nền văn hóa và ý thức hệ
chính trị. Thực tế hôm nay cho thấy điều “tiên tri” này đã được thực hiện: danh
Đức Giêsu được kêu cầu bằng mọi ngôn ngữ trên thế giới. Tin Mừng của Người đã
đến với mọi nền văn hóa, thấm nhập và làm cho thăng hoa phát triển.
Phụng vụ giới thiệu
với chúng ta một vị vua nổi tiếng là đạo hạnh của Cựu ước (Bài đọc I). Đó là
vua Đavít. Ông là vị vua thứ hai sau Sa-un, kể từ khi Ít-ra-en thiết lập nền
quân chủ. Việc Đavít được xức dầu phong vương được coi như một việc làm theo ý
của Thiên Chúa. Đavít là hình ảnh của Vị Vua Vũ Trụ là Đức Giêsu là chúng ta
tôn vinh hôm nay. Tuy vậy, vương quốc của Đức Giêsu không thu hẹp trong ranh
giới của Ít-ra-en như Đavít, nhưng lan rộng khắp thế giới, vì “Thiên Chúa đã
muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hoà vạn vật nhờ Người
và vì Người; nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hoà bình trên
trời dưới đất”. (Bài đọc II).
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, thánh Luca làm chúng ta ngỡ ngàng. Đức Giêsu thi hành quyền vương đế của
Người không bằng phong độ của một vị vua trần thế, nhưng lại quyền uy gấp bội
phần. Một người bị kết án treo trên thập giá, bị chế diễu nhục nhã, đang quằn
quại đau đớn và sắp trút hơi thở cuối cùng mà lại tuyên bố sẽ cho người trộm có
lòng sám hối được vào vương quốc của mình. Vương quốc ấy được chính Đức Giêsu
gọi là thiên đàng, là nơi mọi người đang ước ao và cố gắng đạt được sau khi đã
kết thúc cuộc sống ở trần gian. Quả thật đây là một vị vua không giống những vị
vua trần thế. Ngai vàng của Người là thập giá. Thập giá là biểu tượng của hy
sinh và tự hiến. Trên ngai vàng thập giá đó, Chúa Giêsu đã tỏ cho nhân loại
biết tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người mênh mông rộng lớn tới
mức nào. Và, đã hai mươi thế kỷ, vương quyền yêu thương của Người đã được một
phần lớn nhân loại đón nhận. Đức Giêsu là vua của vương quốc yêu thương, công
bình, vĩnh cửu (lời Tiền tụng thánh lễ). Ai sống yêu thương bác ái thì được
thuộc về vương quốc của Chúa.
Việc người trộm sám
hối được đón nhận vào thiên đàng là bằng chứng của tình yêu và lòng nhân hậu
của Thiên Chúa. Người tín hữu tìm thấy niềm hy vọng nơi nhân vật người trộm
này. Mặc dù tội lỗi, anh đã tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Anh muốn được vào
vương quốc của Người và ước vọng của anh đã được chấp nhận. "Ta bảo thật
ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Nhận ra vương quyền
của Đức Giêsu và cố gắng sống xứng đáng là công dân trong vương quốc của Người,
đó là ơn gọi của người tín hữu. Có những lúc người công dân trong vương quốc
của Chúa phải chấp nhận những thiệt thòi hy sinh mất mát để có thể trung thành
với Chúa và được hạnh phúc Nước Trời. Nhiều khi chúng ta có khuynh hướng chọn
lựa một Đức Giêsu vương hoàng theo kiểu trần gian. Lúc đó, chúng ta chỉ tôn thờ
hình ảnh của Người mà chưa chắc được gặp Người.
Việc tôn vinh Đức
Giêsu là Vua vào Chúa nhật cuối cùng của năm Phụng vụ mang một ý nghĩa đặc
biệt. Chúng ta được mời gọi hướng về ngày cánh chung, tức là ngày tận thế, ngày
tận cùng của lịch sử nhân loại. Khi ấy, mọi quyền bính trần thế sẽ chấm dứt;
mọi chia rẽ hận thù và chiến tranh tàn khốc sẽ không còn. Chỉ còn vương quốc
yêu thương và an bình tồn tại. Vương quốc ấy là vương quốc của Chúa Giêsu. Vị
Vua Giêsu vẫn đang hiện diện trong cuộc sống của Chúng ta. Một vị vua không
thực thi quyền thống trị. Người đang tiếp tục đi qua các ngả đường và ngõ xóm,
ngồi trên lưng một chú lừa con, như trên đường phố Giêrusalem xưa. Người đang
gõ cửa tâm hồn chúng ta, dù chúng ta không đón tiếp Người. Trước mặt chúng ta,
Người cũng trần trụi như khi đứng trước Philato và mời gọi chúng ta nhận ra
mình thuộc về chân lý. Mỗi tín hữu chúng ta được mời gọi nhận ra Người và cùng
với Người và anh chị em chung tay xây dựng vương quốc của Người ngay từ hôm
nay, khởi đi từ những cố gắng rất đơn giản dung dị trong cuộc sống đời thường.
Lạy Chúa Giê-su, chúng
con tôn nhận Chúa là vua của cõi lòng mỗi người chúng con. Xin Chúa thương chúc
phúc và trợ lực để chúng con xứng đáng là công dân của Nước Trời. Amen.
7. Lạy Chúa,
xin nhớ đến con – ĐGH. Phanxicô
(Bài giảng của Đức
Thánh Cha Phanxicô trong Thánh lễ bế mạc Năm Đức Tin tại Quảng trường Thánh
Phêrô - Chúa nhật Lễ Chúa Kitô Vua, 24-11-2013 - Huy Hoàng chuyển ngữ - Nguồn:
WHĐ)
Hôm nay, đại lễ Chúa
Kitô Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ, cũng là kết thúc Năm Đức tin đã được
Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI công bố. Giờ đây chúng ta hướng về Đức Bênêđictô
với đầy lòng yêu mến và biết ơn vì ngài đã tặng cho chúng ta món quà ấy. Nhờ
sáng kiến do Chúa quan phòng này, ngài đã cho chúng ta cơ hội khám phá lại vẻ
đẹp của hành trình đức tin đã khởi đầu từ ngày chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa
Tội, làm cho chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa và anh chị em với nhau trong
Giáo hội. Mục tiêu tối hậu của cuộc hành trình ấy là chúng ta được gặp gỡ Thiên
Chúa một cách trọn vẹn, và trong hành trình ấy Chúa Thánh Thần thanh tẩy chúng
ta, nâng chúng ta lên và thánh hoá chúng ta, để đưa chúng ta vào cõi phúc lòng
chúng ta hằng khát khao.
Tôi xin gửi lời chào
thân ái và huynh đệ đến các vị Thượng phụ và Tổng giám mục Trưởng của các Giáo
hội Công giáo Đông phương đang hiện diện ở đây. Lời chúc bình an mà tôi sẽ trao
đổi với các vị trước hết muốn nói lên rằng Giám mục Roma nhìn nhận các cộng
đoàn này đã tuyên xưng Danh Chúa Kitô với một lòng trung thành gương mẫu,
thường phải trả giá đắt.
Đồng thời, với cử chỉ
này, qua các vị, tôi cũng muốn liên kết với tất cả những Kitô hữu đang sống ở
Thánh Địa, ở Syria và trong toàn thế giới Đông phương, xin cho tất cả được ơn
bình an và hoà hợp.
Các bài đọc Kinh Thánh
vừa được công bố có cùng một chủ đề là vị thế trung tâm của Chúa Kitô. Chúa
Kitô ở trung tâm, Chúa Kitô là trung tâm. Chúa Kitô là trung tâm của tạo thành,
trung tâm của dân Người và trung tâm của lịch sử.
1. Thánh Tông đồ
Phaolô cho chúng ta một tầm nhìn sâu sắc về vị thế trung tâm của Chúa Giêsu.
Ngài trình bày với chúng ta Chúa Kitô là Trưởng tử của mọi loài thọ sinh: trong
Người, nhờ Người và với Người mà muôn vật được tạo thành. Người là trung tâm của
mọi vật, là khởi nguyên: Người là Đức Giêsu Kitô, là Chúa. Thiên Chúa đã ban
cho Người sự viên mãn, tất cả, để trong Người mọi vật được giao hòa (x. Co
1,12-20). Người là Chúa của tạo thành, Chúa của giao hoà.
Hình ảnh này cho chúng
ta hiểu rằng Chúa Giêsu là trung tâm của tạo thành; và, vì thế thái độ phải có
của người tín hữu –nếu muốn là người tín hữu– là phải nhận biết và chấp nhận vị
thế trung tâm ấy của Chúa Giêsu Kitô trong cuộc sống, trong tư tưởng, trong lời
nói và hành động của mình. Khi ấy tư tưởng của chúng ta sẽ là tư tưởng của
người Kitô hữu, của Chúa Kitô; hành động của chúng ta sẽ là hành động của người
Kitô hữu, của Chúa Kitô; lời nói của chúng ta sẽ là lời nói của người Kitô hữu,
của Chúa Kitô. Trái lại, khi chúng ta đánh mất trung tâm này, vì đã thay thế
bằng điều gì khác, thì sẽ chỉ là tác hại, cho môi trường chung quanh chúng ta
và cho chính chúng ta.
2. Không chỉ là trung
tâm của tạo thành và trung tâm của giao hoà, Chúa Kitô còn là trung tâm của dân
Thiên Chúa. Và ngay hôm nay, Người ở đây, giữa chúng ta. Lúc này Người đang ở
đây trong Lời Chúa, Người sẽ ở đây trên bàn thờ, sống động, hiện diện giữa
chúng ta là dân của Người. Đó là điều mà bài đọc thứ nhất mô tả cho chúng ta
thấy: khi các chi tộc Israel đi tìm Đavit và xức dầu tấn phong ông làm vua
Israel trước mặt Chúa (x. 2 Sm 5,1-3). Khi tìm kiếm một vị vua lý tưởng, thực
ra con người đang tìm kiếm chính Thiên Chúa: một Thiên Chúa trở nên gần gũi,
chấp nhận trở thành người bạn đồng hành của con người, trở nên một người anh em
của con người.
Chúa Kitô, hậu duệ của
vua Đavit, chính là người "anh em" mà dân Chúa vây quanh, là Đấng
chăm sóc dân, chăm sóc tất cả chúng ta, với cái giá phải trả là mạng sống của
Người. Trong Người chúng ta nên một; một dân duy nhất được kết hiệp với Người,
chúng ta chia sẻ một hành trình duy nhất, một vận mệnh duy nhất.
3. Cuối cùng, Đức Kitô
là trung tâm của lịch sử nhân loại và trung tâm của mỗi người. Chúng ta có thể
dâng lên Người những vui buồn, hy vọng và khó khăn trong cuộc sống của chúng
ta. Khi Chúa Giêsu ở trung tâm, ngay cả những lúc đen tối nhất của cuộc sống
chúng ta cũng sẽ bừng sáng. Người ban cho chúng ta hy vọng, như đã xảy ra với
người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay.
Trong khi tất cả những
người khác nói với Chúa Giêsu một cách khinh miệt – "Nếu ông là Đấng Kitô,
là Đấng Mêsia, thì hãy cứu mình đi và hãy xuống khỏi cây thập tự!" – thì
người trộm đã phạm bao lỗi lầm trong cuộc sống, cuối cùng lại sám hối, níu lấy
Chúa Giêsu đang chịu đóng đinh và cầu xin: "Khi ông vào Nước của ông, xin
hãy nhớ đến tôi" (Lc 23,42). Và Chúa Giêsu hứa với anh: "Hôm nay anh
sẽ được ở trên Thiên đàng với tôi" (c. 43). Chúa Giêsu chỉ nói lời tha
thứ, chứ không nói lời kết án; và khi con người biết can đảm xin ơn tha thứ,
Chúa không bao giờ bỏ rơi lời cầu xin ấy. Ngày nay, tất cả chúng ta có thể nghĩ
đến câu chuyện của chúng ta, hành trình của chúng ta. Mỗi người chúng ta đều có
câu chuyện của mình; mỗi người chúng ta cũng có những sai lầm, tội lỗi, những
lúc hạnh phúc và những khi đen tối. Ngày hôm nay là dịp tốt để mỗi người nghĩ
đến câu chuyện của mình, và nhìn Chúa Giêsu rồi chân thành lặp đi lặp lại trong
thinh lặng: "Lạy Chúa, bây giờ Chúa đang ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến
con! Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến con, vì con muốn sống tốt, muốn nên tốt lành, nhưng
con yếu đuối, con không thể: con là người tội lỗi. Lạy Chúa Giêsu, xin nhớ đến
con. Chúa có thể nhớ đến con, vì Chúa là trung tâm, Chúa ở trong Nước
Chúa!" Thật đẹp biết bao! Tất cả chúng ta hãy làm điều đó trong ngày hôm
nay, mỗi người hãy làm điều đó trong tâm hồn mình, nhiều lần. "Lạy Chúa,
Chúa ở trung tâm, Chúa ở trong Nước Chúa, xin nhớ đến con".
Lời hứa của Chúa Giêsu
với người trộm lành cho chúng ta niềm hy vọng lớn lao: lời ấy nói với chúng ta
rằng ơn Chúa bao giờ cũng phong phú hơn lời cầu xin. Chúa luôn ban cho nhiều
hơn, Người rất quảng đại, luôn ban cho nhiều hơn điều con người cầu xin: bạn
xin Người nhớ đến bạn, còn Người lại đưa bạn vào Vương quốc của Người! Chúa
Giêsu chính là trung tâm những nỗi khát mong niềm vui và ơn cứu độ của chúng
ta. Nào chúng ta hãy cùng nhau lên đường!
8. Xin nhớ đến
tôi.
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
"Đáng lẽ tôi đã
được rửa tội từ lâu, nhưng vì vấn đề gia đình và làng xóm nên chưa được. Dù vậy
tôi rất ư là kitô hữu."
Đó là lời của nhạc sĩ
Văn Cao trong một cuộc gặp gỡ riêng tư năm 1990. Cụ đã sung sướng khoe với mọi
người như thế, và thẳng thắn nhìn nhận: "Chúng tôi đã được đào tạo, nhờ
đức tin và âm nhạc kitô giáo."
"Chúng tôi"
ở đây muốn ám chỉ giới trí thức và văn nghệ sĩ thế hệ của cụ.
Đức tin đã thấm vào
con người tài hoa ấy, và làm sản sinh những tác phẩm bất hủ.
"Nếu tôi không
hiểu Halêluia là gì, thì đã chẳng có bài "Làng tôi", cụ bảo vậy.
Chẳng ai ngờ Văn Cao
lại là con người say mê Giêsu, mà là Giêsu trên thánh giá. Từ năm 1954, cụ vẫn
treo một thánh giá trước mặt.
Giêsu trần trụi, Giêsu
không còn gì. Nhưng đối với Văn Cao, có ai hơn Giêsu?
Bài Tin Mừng trong lễ
Chúa Giêsu Vua vũ trụ lại đưa ta về với Chúa Giêsu trên thập giá. Chẳng lúc nào
Chúa làm vua rõ bằng lúc này. "Đây là vua người Do thái", tấm bảng
ghi như thế. Nhưng kiểu làm vua của Ngài thật khác thường. Không có vương miện,
chỉ có vòng gai. Không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhơ nhuốc. Không có câu tán
tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê.
Bị treo trên thập giá,
Đức Giêsu nghe những lời mời mọc, ngọt ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ buổi
đầu. "Nếu ông là Đức Kitô thì hãy cứu lấy mình”. “Hãy xuống khỏi thập
giá" (Mt 27,40). Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng hề nghĩ đến.
Chính vì Ngài thật là
Con của Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi thập giá như xưa Ngài đã từ chối
nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn
chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì
Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Chính vào lúc hấp hối,
mọi sự tưởng như sụp đổ, vị Vua bị đóng đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho
anh trộm lành có lòng thống hối, tin tưởng. "Hôm nay, anh sẽ được ở với
tôi trên Thiên Đàng." Như thế kẻ gian phi lại là người đầu tiên được ơn
cứu độ nhờ cái chết thập giá của Đức Giêsu.
Mừng lễ Chúa Giêsu
Kitô Vua vũ trụ, chúng ta muốn khước từ những thần tượng giả mạo, muốn để Ngài
làm vua của vũ trụ lòng mình. Chúng ta muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực cuộc
sống: văn chương, khoa học, nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội... Cần có
đức tin mạnh mẽ mới thấy Chúa Giêsu vẫn không ngừng lôi kéo cả thế giới về với
Ngài bằng trăm ngàn nẻo đường bất ngờ, trong đó có nẻo đường của cụ Văn Cao và
anh trộm lành.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người cho rằng:
"Khoa học kỹ thuật càng tiến bộ, con người càng có nhiều tiện nghi vật
chất, thì lòng đạo đức càng sa sút. Nước Chúa như bị thu hẹp lại." Bạn có
đồng ý với nhận xét trên không? Làm sao để tiện nghi vật chất không làm người
ta xa Chúa?
Bạn đã làm gì để Nước
Chúa đến với tập thể bạn đang sống như gia đình, xứ đạo, cộng đoàn, trường học,
nơi làm việc? Bạn có gặp những khó khăn khi xây dựng Nước Chúa trong môi trường
sống của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Vua vũ
trụ nếu Chúa là vua của hơn bốn trăm ngàn linh mục, nếu Chúa là vua của hơn tám
trăm ngàn nữ tu, nếu Chúa là vua của một tỉ người công giáo, thì thế giới này
sẽ đổi khác.
Chúng con không phải
là một lượng men quá nhỏ.
Nếu khối bột chẳng
được dậy lên, thì là vì men đã mất phẩm chất.
Chúng con phải chịu
trách nhiệm về sự dữ trên địa cầu, có nhiều sự dữ do chính chúng con gây ra.
Chúng con chỉ kêu cầu
cho Nước Chúa mau đến, nhưng lại không chịu xây dựng Nước ấy trên trần gian.
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ
trụ, chúng con thường cố ý thu hẹp vũ trụ của Chúa, giữ chặt Chúa ở trong nhà
thờ, nên nhiều nơi vẫn vắng bóng Chúa, dù Chúa đã đến trái đất này từ 2000 năm.
Chúng con sợ Chúa đến
làm phiền chúng con, và không cho chúng con được yên ổn.
Ước gì một tỉ người
Công giáo chịu để Chúa chi phối đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa
hề đến. Như thế vũ trụ này trở thành vũ trụ của Thiên Chúa.
9. ''... Để làm
giá cứu chuộc''
(Suy niệm của Lm. JB
Nguyễn Minh Hùng)
Hôm nay chúng ta tuyên
xưng Vương quyền của Chúa Giêsu, một Vương quyền tuyệt đối: Người là Vua Vũ
Trụ; Người là Vua của mọi tâm hồn; Người là Vua cứu độ, Vua nắm vận mệnh đời
đời của từng người. Lẽ ra, với quyền cao cả như thế, khuôn mặt của Vua Giêsu sẽ
đầy uy quyền, sẽ rạng rỡ, sẽ đáng khiếp sợ…
Nhưng không, trong khi
tuyên xưng Vương quyền cao cả của Chúa, Hội Thánh lại trình bày khuôn mặt của
một vị Vua đầy đau khổ, đầy chấp nhận, dù phải chịu roi đòn, dù phải chịu khổ
hình thập giá, dù phải bị giết chết, dù phải cam chịu ruồng bỏ…
Đặc biệt, ngay phần mở
đầu bài Tin Mừng, trong khi bị treo trên thánh giá, xung quanh Chúa Giêsu chỉ
toàn những lời nhạo báng. Những lời nhạo báng ấy, đại diện cho mọi tầng lớp,
mọi thành phần của loài người.
- Trước tiên là sự
cười nhạo của các thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: ‘Hắn cứu được
người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là
người được Chúa tuyển chọn!’ ”.
- Lính tráng, chỉ là
kẻ thừa lệnh, cũng lên tiếng cười nhạo Chúa: “Chúng lại gần, đưa giấm cho Người
uống và nói: ‘Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!’ ”.
- Kẻ trộm cướp, dù
mang thân phận đầy tội lỗi, cũng không đứng ngoài cuộc: “Một trong hai tên gian
phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: ‘Ông không phải là Đấng Kitô sao?
Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi nữa!’ ”.
Như vậy, với bài Tin
Mừng chứa đầy lời nhạo báng, Hội Thánh không nhắm trình bày khuôn mặt Vua của
Chúa Giêsu theo kiểu suy nghĩ của người trần thế, nhưng trình bày Vương quyền
của Đấng đã từng phán: “Các con biết thủ lãnh của các dân tộc thì thống trị họ
và những người làm lớn thì hành quyền trên họ. Giữa các con thì không được thế.
Trong các con, ai muốn làm lớn, thì hãy phục vụ các con, và ai muốn cầm đầu
trong các con, thì hãy làm tôi tớ các con. Cũng như Con Người đến không phải để
được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và phó mạng sống làm giá chuộc cho
nhiều người” (Mt 20.27-28).
Vì thế, nhìn vào khuôn
mặt Vua của Chúa Giêsu, chúng ta không ngần ngại khẳng định: Chúa làm Vua là để
phục vụ ơn cứu độ, phục vụ sự sống đời đời của loài người. Người làm Vua không
phải để thống trị, không phải để thể hiện quyền bính, nhưng là “phó mạng sống
làm giá cứu chuộc” loài người. Chính vì thế, trong kinh Tin Kính, chúng ta xác
tín mạnh mẽ: “Vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời
xuống thế” nhập thể làm người, chịu khổ hình, chịu đóng đinh vào thánh giá,
chịu chết và sống lại…
Vậy, đứng trước Vương
quyền tình yêu của Vua cao cả, chúng ta phải sống làm sao cho xứng hợp?
Trọn bài Tin Mừng,
không phải chỉ bao gồm những lời nhạo báng, mà còn có lời thú tội hết sức khiêm
nhường của người trộm cùng bị chết treo với Chúa Giêsu: “Lạy Ngài, khi nào về
nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Nếu có ba lời nhạo báng của ba hạng người, thì lời
cầu xin ơn tha thứ của người trộm cũng gợi lên trong ta ba tâm tình giúp ta
sống, nhằm khả dĩ đáp lại phần nào tình yêu của Đức Vua. Ba tâm tình đó là:
1. Như người trộm,
chúng ta hãy chân nhận Vương quyền của Chúa trên cuộc đời mình. Lời cầu nguyện:
“Khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi” của người trộm, cho thấy anh nhìn nhận
Chúa có quyền trên mình. Bằng sự chân nhận nhận Vương quyền của Chúa, chúng ta
trung thành và tận tụy từng giây phút của đời mình sống cho Chúa, vươn lên sự
thánh thiện và biết thanh luyện nội tâm để luôn luôn được là người sống trong
Chúa, sẵn sàng để Chúa làm chủ đời mình.
2. Như người trộm,
chúng ta tin tưởng phó mình trong tay Chúa. Lời cầu xin: “Xin nhớ đến tôi” của
người trộm, cho thấy anh một lòng tín thác cho Chúa. Cũng vậy, đã là người mang
lấy đức tin, chúng ta hãy tin tưởng, hãy trọn vẹn tín thác cho Chúa đời mình,
mọi hoàn cảnh xảy ra trong đời mình. Chúng ta không ngần ngại hiến dâng lên
Chúa mọi ngày sống, mọi năng lực sống, mọi sức sống, mọi chiều kích sống trong
suốt đời mình. Quyết một lòng để Chúa dẫn đưa đến bến bờ bình yên của ơn cứu độ
do Chúa thực hiện.
3. Như người trộm,
chúng ta chân thành nhìn nhận lỗi lầm của mình để ăn năn chừa tội. Trong lời
đối đáp với người đồng bọn, người trộm khẳng khái: “Chúng ta chịu xứng với việc
chúng ta làm”. Đó là bài học về lòng sám hối tội lỗi của chúng ta. Hãy mềm lòng
để ơn hoán cải Chúa ban có thể thấm vào cuộc đời, thấm vào từng hành động, từng
lời ăn tiếng nói, từng biểu hiện sống, từng mối tương quan… của chúng ta. Hãy
để ơn hoán cải thấm sâu vào tâm hồn, để chúng ta luôn biết ăn năn tội thật
lòng, và không ngần ngại dọn tâm hồn bằng bí tích hòa giải, bằng việc xin lỗi
Chúa và xin lỗi nhau.
(Trích từ ‘Những Bài
Suy Niệm và Cầu Nguyện Hằng Ngày’)
Giáo hội Kitô giáo
luôn luôn kết thúc năm phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ.
Lễ Chúa Kitô Vua chỉ
mới được thiết lập vào năm 1925 mà thôi. Trong cuộc đời Chúa Giêsu, biến cố thể
hiện vương quyền của Chúa Giêsu là biến cố Chúa lên trời, ngự bên hữu Thiên
Chúa Cha trong vinh quang. "Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao
ban cho Ta". Đó là lời quả quyết của Chúa Kitô Phục Sinh trước khi sai các
Tông Đồ ra đi rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật. Như vậy, ngày lễ Chúa Thăng
Thiên có thể nói là ngày mừng kính vương quyền của Chúa Giêsu Kitô một cách phù
hợp hơn cả. Thế nhưng tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Chúa Giêsu Kitô Vua vào Chúa
Nhật cuối cùng của năm phụng vụ?
Năm phụng vụ tượng
trưng cho chu kỳ thời gian bắt đầu từ Thiên Chúa và cuối cùng trở về với Ngài.
Thiên Chúa là khởi đầu và là cuối cùng của lịch sử. Kết thúc năm phụng vụ, Giáo
Hội nhắc lại giây phút chấm dứt, giây phút vũ trụ đạt đến cùng đích tột cùng là
Thiên Chúa, giây phút Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang. Trong viễn cảnh
này thật là điều thích hợp cho việc Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm
Chúa Giêsu Kitô Vua vũ trụ. Ngài đã nhập thể làm người trong một lịch sử dân
tộc, cụ thể để thiết lập Nước Thiên Chúa trong lịch sử con người, và kể từ giây
phút đó, Nước Thiên Chúa luôn luôn được phát triển, được lan rộng, cho đến mức
thành toàn cuối cùng khi Chúa Giêsu Kitô ngự đến và đưa tất cả về cùng Thiên
Chúa Cha.
Chúa Giêsu Kitô là Vua
không những vì Ngài đã sinh ra làm người, thuộc dòng dõi vua Đavid, mà hơn nữa
vì Ngài là Con Thiên Chúa, mọi sự nhờ Ngài mà được hiện hữu sinh động. Nhưng
trớ trêu thay, Chúa Giêsu Kitô không thiết lập vương quốc của Ngài như một
vương quốc phàm trần và bằng những phương tiện phàm trần như chiến tranh, chiếm
đoạt bằng sức mạnh bạo lực. Không, nước Thiên Chúa được Chúa Giêsu thiết lập
một cách kỳ diệu bằng một hành động hy sinh cao cả trên thập giá, tột đỉnh của
cuộc đời của Chúa trên trần gian để chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với
con người.
Chúa Giêsu Kitô là vua
khi Người bị treo lên thập giá. Thiên Chúa đã dùng hành động bêu xấu của quan Philatô khi quan
này cho khắc ghi trên thập giá Chúa dòng chữ: "Đây là Vua dân Do
Thái". Thiên Chúa đã muốn dùng hành động bêu xấu này như muốn nhắc nhở con
người, để mạc khải cho con người một sự thật không thể chối bỏ được rằng: Chúa
Giêsu Kitô là Vua. Ngài trổi vượt lên trên mọi người không những vì Ngài là Con
Thiên Chúa làm người, mà vì Ngài đã thực hiện một hành động cao cả tuyệt vời:
hy sinh mạng sống mình vì yêu thương con người để cứu rỗi con người.
Truyện cổ tích Ai-len
có kể lại một nhà vua không có con nối dòng. Muốn đi tìm hoàng tử để truyền
ngôi lại cho, và chỉ có một điều kiện duy nhất mà vị hoàng tử phải có là chứng
tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và đối với con người ở mức độ cao nhất.
Nhiều người đã đến trình diện với nhiều cách, nhiều bằng chứng về tình yêu của
mình đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em xung quanh, nhưng những bằng
chứng đó không có sức thuyết phục nhà vua. Cuối cùng, có một chàng thanh niên
đến trình diện với một bộ đồ cũ rách. Chàng thanh niên này được nhận. Chàng
không cần phải dài dòng thuyết phục nhà vua vì chàng thanh niên này chính là
người mà nhà vua đã gặp chiều hôm trước:
Số là vì nhà vua đã
cải trang làm một người hành khất để thử lòng những vị hoàng tử tương lai của
mình. Nhiều chàng thanh niên đã đi qua, nhìn thấy người ăn xin rách rưới, và xa
tránh, chỉ có người thanh niên này dám dừng lại, hy sinh luôn cả chiếc áo mới của
mình và dám mặc lại chiếc áo cũ để vào trình diện nhà vua. Tình yêu nằm trong
con tim con người chứ không nằm trong chiếc áo bên ngoài.
***
Quí vị và các bạn thân
mến,
Chúa Giêsu đã chứng tỏ
tình yêu của mình bằng cái chết trên thập giá. Ngài đáng làm vua nêu gương cho
chúng ta sống theo Ngài. Phúc Âm (Lc 23,35-43) ghi lại cảnh Chúa Giêsu chịu
treo trên thập giá làm căn bản cho những suy niệm cho chúng ta trong ngày lễ Chúa
Giêsu Kitô Vua.
Đọc lại đoạn Tin Mừng
trên, chúng ta có thể lưu ý rằng giữa bao người lăng mạ, nhạo báng Chúa và
vương quyền của Ngài thì có một người nhìn nhận vương quyền của Chúa, và người
đó lại chính là kẻ tội phạm cùng chịu đóng đinh với Chúa. Anh ta đã khám phá ra
tình thương bao la của Chúa: Một kẻ vô tội mà bị nguyền rủa nhưng lại tha thứ
cho những kẻ xúc phạm đến mình. Anh ta đã khám phá nơi hành động của Chúa như
một dấu chỉ mạc khải tình thương của Ngài, và từ đó nhìn Chúa là vua và bày tỏ
ước muốn được sống trong Nước Tình Thương này. "Lạy Chúa, khi nào về Nước
Ngài, thì xin nhớ đến tôi cùng".
Chúa Giêsu đã mạc khải
vương quyền của Ngài bằng hành động cao cả nhất của tình thương là hy sinh
chính mình. Không ái có tình yêu thương hơn kẻ hiến mạng sống mình cho người
mình thương và chỉ những ai khám phá ra tình thương của Chúa thì mới tin nhận
Chúa làm vua và đáng bước vào trong Nước Chúa.
Xưa cũng như nay, luôn
có những người không hiểu xuyên tạc, và cười nhạo vương quyền của Chúa Kitô:
Nếu Chúa là vua tại sao không dùng quyền của mình để thoát chết, để trả thù, để
thống trị, để hưởng lợi. Nhưng trớ trêu thay, con người đã dùng thập giá để bêu
xấu, để loại trừ Chúa Giêsu Kitô, nhưng lại chính đó là dấu chỉ Thiên Chúa dùng
để thiết lập và mạc khải vương quyền của Chúa trên cả mọi sự. Chúa Giêsu Kitô
là vua, Ngài làm vua bằng tình yêu thương và để gieo rắc khắp nơi tình yêu
thương đó.
Lạy Chúa Kitô Vua,
trước sự xấu xa và ngoan cố của con người. Xin cho chúng con được can đảm bước
vào trong nước yêu thương của Chúa bằng con đường thập giá mà Chúa đã đi qua.
Amen.
11. Cùng
chiến thắng cám dỗ với Chúa Giêsu
(Suy niệm của Lm
Ignatio Trần Ngà)
Thiên Chúa mong muốn
loài người đi theo đường lối Ngài để họ được hạnh phúc và được sống muôn đời.
Trong khi đó, ma quỷ luôn tìm mọi cách để lôi kéo con người đi trật đường lối
Thiên Chúa, để con người phải sa đoạ, phải đau khổ và diệt vong.
Ngay từ đầu, ma quỷ
tìm cách lôi kéo tổ tiên loài người là Adam - Evà đi trật đường Thiên Chúa. Hai
ông bà đã sa ngã và toàn thể con cái loài người phải mang họa.
Nay ma quỷ tiếp tục
cám dỗ, lôi kéo Đức Giêsu, một Ađam mới, đi trật đường lối của Thiên Chúa Cha
bằng nhiều chiêu thức khác nhau.
Mặc dầu Chúa Giêsu là
Thiên Chúa Ngôi Hai, nhưng Ngài đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy
thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế" (Philipphê
2, 7), do đó, "Ngài đã chịu thử thách (cám dỗ) về mọi phương diện cũng như
ta..." (Do thái 4, 15). Dựa vào đó, Sa-tan không ngừng cám dỗ Chúa Giêsu
đi trệch đường của Thiên Chúa Cha với hy vọng phá vỡ kế hoạch cứu độ của Thiên
Chúa dành cho loài người.
* * *
Lúc khởi đầu sứ vụ,
Chúa Giêsu bị cám dỗ ba lần trong hoang địa khi mới chuẩn bị bước vào đời sống
công khai. Ngài đã anh dũng chống lại và Ngài đã chiến thắng. Ma quỷ đành rút
lui để chờ dịp khác.
Trong đời rao giảng,
Chúa Giêsu từng bị cám dỗ lên làm vua (Gioan 6, 14), bị cám dỗ đừng lên
Giê-ru-sa-lem để chịu khổ nạn (Mt 16, 22-23) và đặc biệt, cơn cám dỗ hết sức
khốc liệt nơi vườn Dầu (Lc 22, 41-44).
Nơi đây, Chúa Giêsu bị
giằng co giữa hai chọn lựa quyết liệt: uống chén đắng hay khước từ chén đắng?
Chấp nhận làm theo ý Chúa Cha để rồi phải chết trong tủi nhục và vô cùng đau
thương hay là làm theo ý mình để được sống an bình?
Cuộc giằng co trong
nội tâm đã khiến Chúa Giêsu phải toát mồ hôi máu. Nhưng cuối cùng Đức Giêsu đã
chiến thắng: "xin đừng theo ý Con, một xin theo ý Cha". (Lc 22, 42)
Nhưng Sa-tan vẫn chưa
chịu lùi bước, lại còn đeo đẳng cám dỗ Chúa Giêsu đến giờ phút cuối cùng. Người
ta gọi đây là những cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu, được thánh Luca thuật
lại trong Tin Mừng hôm nay.
Trước hết, các thủ
lãnh cám dỗ: "hãy xuống khỏi thập giá đi!". Lý do mà các thủ lãnh đưa
ra là: "cứu được người khác, tại sao không tự cứu mình?". Nghe thật
chí lý!
Quân lính cũng đưa ra
cám dỗ tương tự: "hãy xuống khỏi thập giá". Lý do mà quân lính đưa
ra: "Ông là vua dân Do-Thái", tương lai đầy hứa hẹn, lẽ nào lại chọn
cho mình cái chết oan ức và ô nhục thế nầy, hãy tự cứu mình đi!
Ngay cả tên tử tội
cùng bị đóng đinh với Chúa Giêsu cũng cám dỗ Ngài với lý do: "Ông không
phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Phải rồi, mình đã cứu
được bao nhiêu người khác, lẽ nào lại không tự cứu mình? Mình là Vua dân
Do-Thái, lẽ nào ông vua mà lại thảm hại thế nầy ư? Mình là Đấng Kitô được Thiên
Chúa sai đến, lẽ nào Đấng Kitô lại kết thúc cuộc đời cách bi thảm thế nầy sao?
Nhưng Chúa Giêsu đã
không chịu lùi bước trước các cơn cám dỗ. Chúa Giêsu đã chiến đấu oanh liệt và
đã đi đến chiến thắng cuối cùng. Nhờ đó, Ngài mới được tôn vinh là Vua hoàn vũ,
đã sửa lại sự sai trật của tổ tông, mang lại ơn cứu độ cho muôn người.
* * *
Hôm nay chúng ta cũng
đang lâm chiến chống lại Sa-tan và tội lỗi như Chúa Giêsu ngày xưa. Vốn mang
tính xác thịt nặng nề, tự sức mình chúng ta không thể nào chống lại mưu chước
Satan. Phải cậy nhờ Chúa Giêsu thôi. Ngài là người bạn đồng minh đã không bao giờ
thua cuộc và hôm nay vẫn đang sống bên ta và đang cùng ta chiến đấu.
Vì thế, mỗi lần bị cám
dỗ, chúng ta hãy nhớ đến người bạn đồng minh và thưa với Ngài: Lạy Chúa Giêsu, xin
chiến đấu cùng con và giúp con chiến thắng. Nhờ Ngài, chúng ta sẽ thắng được các cám dỗ
và sẽ được thông phần vinh hiển với Ngài trên quê Trời mai sau.
12. Thiên
Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi
(Suy niệm của Lm. Jos
Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện cổ
tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại
yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước.
Nhà vua định cưới nàng
làm hoàng hậu nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo
suy nghĩ. Vì tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy
rằng ngài có đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám
quyết định. Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến nhà vua càng khó quyết
định, vì nhà vua sợ sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ
khó mà tự nhiên với nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự
yêu ngài. Vua vẫn là vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy
sinh một sáng kiến, ngài từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và
hoà đồng với nàng, nhưng nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu
rằng cô thôn nữ còn yêu mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua
vẫn đánh liều bỏ mọi sự để ngỏ lời yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở
đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón
nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã
chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo
ôn”, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng
không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai
trái tim vàng”.Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm
trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện
chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô
thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì
một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa
kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên
Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương
tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một vì
Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta đến
nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một
“Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã
không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang
trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên
Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động
theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang
thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài.
Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên
Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà
làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy
Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài
vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa
kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta.
Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn,
qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em
đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng
ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn
đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta
dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một
vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài
hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng
ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài
nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình
làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu
rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản thân
để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ
Chúa Giêsu là Vua, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên
Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình
ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta,
Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính
ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với
tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị
và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh
hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
13. Vua
tình yêu – Lm Giuse Đỗ Vân Lực
Tình yêu là mức đo giá
trị mọi thực tại. Chiếm được trái tim là chiếm được tất cả! Đó là trung tâm qui
tụ toàn thể tiểu vũ trụ. Từ tiểu vũ trụ sang đại vũ trụ, Đức Giêsu vẫn là vua,
vì Người đã đã chiếm trọn con tim nhân loại. Khi nằm trên thập giá, Đức Giêsu
thấy tất cả những giới hạn vô cùng hẹp hòi của người đời. Tất cả binh lính đều
một giọng như nhau: “Nếu ông là vua dân Do thái thì cứu lấy mình đi!” (Lc
23,37) Các thủ lãnh có vẻ thâm độc hơn: “Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy
mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!”
(Lc 23,35) Nhưng Đức Kitô vẫn im lặng. Tuy cười nhạo Chúa, bọn lý hình đã thâm
gan tím ruột khi đọc bản án tổng trấn Philatô truyền viết phía trên đầu tử tội:
“Đây là vua người Do thái.” (Lc 23,38) Không cưỡng nổi lệnh truyền đó, nên họ
đã tìm cách trả thù. Bao nhiêu căm tức đã đổ dồn lên con người Đức Giêsu.
Nhưng chẳng có đau khổ
nào lớn hơn khi chính người đồng cảnh ngộ cũng về hùa với bọn lý hình nhục mạ
Chúa: “Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứ mình đi, và cứu cả chúng tối
với!” (Lc 23,39) Trước những thách thức ồn ào đó, Đức Giêsu vẫn im lặng. Dân
chúng khi thì a dua (Lc 23,17-25), lúc lại bàng quang: “Dân chúng thì đứng
nhìn.” (Lc 23,35) Thái độ bất động của dân chúng rất phức tạp. Nhưng chắc chắn
không phải ai cũng như bọn binh lính hay người gian phi thiếu hiểu biết. Thật
vậy, “dân chúng theo Người đông lắm.” (Lc 23,26) Ngay trong hàng ngũ quân đội
cũng có “viên đại đội trưởng cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa: ‘Người này quả thật
là công chính.’” (Lc 23,47) Nếu Người là công chính, tất nhiên bản án tử hình
là một bất công lớn lao giáng xuống người vô tội. Như thế, Đức Giêsu đã chiếm
trọn được lòng người, kể cả những tên lý hình và người gian phi. Một trong hai
người gian phi đã thành tâm thưa với Chúa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của
ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23,41) Giữa lúc cùng khốn đó, trí óc ông vẫn minh
mẫn biện hộ cho Chúa, đối lại với đồng bọn: “Ông này đâu có làm điều gì trái!”
(Lc 23,42) Nghĩa là, chính những người đã từng chống cưỡng lệnh Thiên Chúa, giờ
đây cũng phải tuyên xưng Người là Đấng Công Chính. Chính vì thế, Đức Giêsu đã
mạc khải cho ông tất cả sự thật về Nước Chúa: “Tôi bảo thật anh: hôm nay anh sẽ
được ở với tôi trên Thiên Đàng.” (Lc 23,43) Tin Mừng luôn mang tính “hôm nay”
ngay cả khi gặp cảnh cùng khốn nhất. Khác hẳn với những kẻ lợi dụng tương lai
để biện hộ cho những ý đồ thống trị hiện tại, Đức Giêsu luôn tìm thấy nét hiện
thực trong Tin Mừng. Người không muốn trốn thoát hiện tại, dù hiện tại đau
thương nhất, để ẩn mình trong cái vỏ tương lai.
Chính vì thế, Tin Mừng
luôn mang tính hiện sinh, loan báo cho người hôm nay về một Vua Công Chính, Vua
Hòa Bình. Mọi đối kháng đều bị hóa giải trong chính trái tim Người. Nói khác,
Người đã xin Chúa Cha tha thứ cho những tên lý hình (x. Lc 23,34) và người gian
phi, như Người đã từng tha thứ cho Maria Mađalêna, phụ nữ Samaritana, Phêrô
v.v. “Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi
loài dưới đất và muôn vật trên trời.” (Cl 1,20) Là con dân trong Nước Chúa,
Kitô hữu không thể không nhớ tới sứ mệnh hòa bình, hòa giải của mình trong gia
đình cũng như xã hội. Sứ mệnh đó chúng ta đã đón nhận từ ngày tháp nhập vào
nhiệm thể Chúa Kitô trong bí tích thánh tẩy. Quả thực, “Người cũng là đầu của
thân thể, nghĩa là đầu của Hội thánh.” (Cl 1,18) Trở thành chi thể Đức Kitô,
chúng ta chia sẻ cùng sứ mệnh với Người. Chỉ khi nào thi hành sứ mệnh cao cả
đó, chúng ta mới được vinh phúc trở thành con Thiên Chúa (x. Mt 5,9)
Chính khi thi hành sứ
mệnh đó, chúng ta chia sẻ vương quyền Đức Giêsu. Trong bí tích thánh tẩy, chúng
ta đã được chia sẻ quyền làm vua với Chúa. Sứ mệnh vương giả đó chỉ được thể
hiện trong phục vụ. Phục vụ là đối thoại, lắng nghe, tôn trọng mọi người. Phục
vụ là sẵn sàng coi người khác hơn mình. Người phục vụ không có gì để tự hào.
Trái lại, họ biết mình phục vụ ai và tại sao phải phục vụ. Phục vụ cho một đối
tượng duy nhất là Đức Kitô, hiện thân nơi nhiệm thể là Giáo hội, tức là dân
Chúa. Họ noi gương Đức Giêsu, Đấng đã “sống giữa anh em như một người phục vụ.”
(Lc 22,27) Thầy phục vụ cho đến chết. Con đường phục vụ là con đường ngắn nhất
dẫn đến vinh quang Nước Chúa. Mỗi khi phục vụ, họ thấy mình trở nên giống Chúa
Kitô và thể hiện được tất cả nét dịu hiền và đầy lòng thương xót của Chúa. Phải
có một tấm lòng bao dung như Chúa mới có thể phục vụ một cách vô tư mọi người,
không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo. Đây là nét đặc trưng cao đẹp
nhất của Nước Chúa dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô. Có lẽ nhiều người sẽ đồng
ý với những người Hồi giáo Algerie rằng: “Giáo hội Công giáo rất nhạy cảm trước
nỗi khổ đau của người Algeria và mọi nơi, bất kể họ có tin vào Đức Kitô hay
không.” (VietCatholic 23/11/2001) Tính cách vô tư đó đã hấp dẫn mọi người tìm
đến với Đức Kitô Vua Tình Yêu. Nhờ Người, Thiên Chúa “đã giải thoát chúng ta khỏi
quyền lực tối tăm, và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.” (Cl 1,13)
Chính Người đang thúc
đẩy “triều đại Cha mau đến.” (Mt 6,10) Hằng ngày chúng ta vẫn đọc lời kinh cao
đẹp ấy. Nhưng hỏi mấy ai hiểu được ý nghĩa sâu xa trong lời kinh đó? Thú thật
cho đến gần đây, mỗi khi đọc lời kinh đó, cá nhân kẻ viết bài này rất run sợ vì
vẫn nghĩ rằng Nước Cha trị đến có nghĩa là Chúa sắp tái lâm để phán xét. Nhưng
suy nghĩ kỹ, mới thấy “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc
trong Thánh Thần.” (Rm 14,17) Như thế, càng lâm cảnh khổ đau, cô đơn, bị đàn áp
bất công, càng cần phải xin cho “triều đại Cha mau đến.” Nghĩa là, Đức Giêsu
luôn dạy chúng ta phải cầu xin Chúa Cha ban hòa bình và no ấm cho nhân loại.
Lời cầu xin đó chỉ có thể thành hiện thực trong Đức Giêsu Vua Tình yêu mà thôi!
Lý do “vì Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người,
cũng như muốn nhờ Người mà làm cho muôn vật được hòa giải với mình.” (Cl
1,19-20)
14. Chúa
Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ – Lm Trần Đình Nhi
Để diễn tả quyền bính
cai trị của Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, bài Tin Mừng mỗi năm Phụng vụ khai
triển về một khía cạnh đặc biệt. Năm A với bài Tin Mừng Mátthêu (25:31-46), đề
cao Vua Giêsu như vị Thẩm phán xét xử muôn loài. Năm B với bài Tin Mừng Gio-an
(18:33-37) cho ta một cái nhìn thần học về uy quyền của Vua Giêsu là Lời Thiên
Chúa nhập thể đến để làm chứng cho sự thật rằng Thiên Chúa hằng yêu thương nhân
loại và chờ đợi con người đáp lại tình yêu ấy bằng cách tin vào Đấng được sai
đến. Năm C với bài Tin Mừng Luca (23:35-43) trình bày Vua Giêsu hiển trị từ
trên thập giá. Vương quyền của Người là do việc Người tuyệt đối vâng phục Chúa
Cha để đem lại sự tha thứ tội lỗi cho nhân loại. Thánh danh Giêsu nghĩa là
“Thiên Chúa cứu” đã nói lên uy quyền cứu độ của Thiên Chúa dành cho muôn dân
qua sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần trong kế
hoạch cứu độ của Thiên Chúa Cha.
a) Những kẻ phủ nhận
vương quyền của Chúa Giêsu
Vua Giêsu bị đóng đinh
và treo trên thập giá. Tột đỉnh của kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thể
hiện trong giờ phút này. Khi quyền lực của tội lỗi tưởng như thắng thế qua cái
chết đang đến gần Chúa Giêsu thì đó lại là lúc quyền năng của Thiên Chúa sắp sửa
toàn thắng tội lỗi và đem lại hiệu quả ơn tha thứ cho toàn thể nhân loại.
Trong giờ phút trọng
đại ấy, thánh Luca cho ta một hình ảnh tương phản giữa những kẻ phủ nhận vương
quyền của Chúa và những kẻ tôn vinh Người. Một phía là các nhà lãnh đạo tôn giáo
Israel, đám lính tráng và một tên gian phi bị đóng đinh cùng nhau nhục mạ
Người. Một phía là đám dân chúng kính cẩn đứng nhìn và tên gian phi hối cải đã
can đảm bênh vực, tuyên xưng Chúa Giêsu vô tội và cầu xin Người cứu độ mình.
Những kẻ phủ nhận
vương quyền của Chúa Giêsu đã nhìn vương quyền ấy theo nhãn quan riêng của họ.
Đối với đám lính tráng, vương quyền chỉ có nghĩa đơn giản là quyền hành của một
ông vua trần gian, thí dụ như hoàng đế Rôma hoặc vua Hê-rốt chẳng hạn. Do đó họ
không thể chấp nhận một người đã bị họ đóng đinh vào thập giá lại có thể xưng
mình là “vua dân Do-thái” được. Nếu quả thực Chúa Giêsu là một tên tội phạm,
thì chính dân Do-thái cũng chẳng muốn chấp nhận một người như vậy là vua của
họ. Tên gian phi nhục mạ Chúa thì chỉ nhìn vương quyền của Chúa dựa trên nhu
cầu riêng tư của hắn. Vì Chúa Giêsu không thể tự cứu mình và cứu được hắn, nên
Chúa Giêsu cũng chẳng hơn gì hắn. Nhưng đối với những nhà lãnh đạo tôn giáo
Do-thái, cái nhìn của họ về vương quyền của Chúa Giêsu phức tạp hơn. Khi đặt
câu hỏi giả dụ Chúa Giêsu là “Đấng Kitô”, chắc chắn họ đã hiểu rõ ý nghĩa của
tước hiệu Kitô ấy. Là những người học biết và tin vào Kinh Thánh, họ hiểu Đấng
Kitô là ai theo sấm ngôn của I-sai-a nói về Người Tôi Trung được Thiên Chúa
tuyển chọn: “Nếu ngươi chỉ là tôi trung của Ta để tái lập các chi tộc Gia-cóp,
để dẫn đưa các người Israel sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta
đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi
đất” (Is 49:6). Nhưng đối với họ, Chúa Giêsu chỉ là một anh thợ mộc đến từ
Na-da-rét miền Ga-li-lê. Những người ở Giê-ru-sa-lem đặt câu hỏi Chúa Giêsu có
đích thực là Đấng Kitô không và họ tự trả lời: “Ông ấy, chúng ta biết ông xuất
thân từ đâu rồi; còn Đấng Kitô, khi Người đến thì chẳng ai biết Người xuất thân
từ đâu cả” (Ga 7:27). Tóm lại, họ không muốn nhìn nhận sứ mệnh cứu thế của
Chúa Giêsu, mặc dù Chúa Cha đã đích thân giới thiệu: “Đây là Con Ta, người đã
được Ta tuyển chọn” (Lc 9:35), hoặc chính Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định:
“Tôi đâu có tự mình mà đến. Đấng đã sai tôi đến là Đấng chân thật. Các ông
không biết Người. Phần tôi, tôi biết Người, bởi vì tôi từ nơi Người mà đến và
chính Người đã sai tôi” (Ga 7:28-29).
Có lẽ mỗi cách phủ
nhận vương quyền của Chúa Giêsu qua những hạng người ấy đều nói lên một cách
nào đó của những con người hôm nay không muốn nhìn nhận quyền năng cứu độ của
Chúa Giêsu. Những tham vọng, tự cao tự đại và lợi nhuận vật chất đã trở thành
những trở ngại, che lấp con mắt đức tin của ta để ta không nhận ra được con
người và sứ mệnh đích thực của Chúa Giêsu nữa.
b) Nhìn nhận Chúa
Giêsu là Vua cứu độ
Trái ngược với những
kẻ phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu là đám dân chúng “đứng nhìn” và nhất là
người gian phi thống hối. Những kẻ phủ nhận thì ồn ào buông lời chế giễu Người.
Còn những người nhận biết Chúa Giêsu thì giữ thái độ im lặng kính cẩn hoặc tha
thiết cầu xin Người. Bởi đâu họ nhận biết Người? Hẳn phải là do cung cách của
Chúa Giêsu ngay trong những giây phút trầm trọng cuối đời. Chính trên thập giá,
Người đã biểu lộ tột đỉnh của tình yêu, và tình yêu đã nói lên cung cách của
người “thí mạng sống mình vì bạn hữu” và sẵn sàng tha thứ tất cả. Tình yêu đã
biến đổi lòng đám dân chúng. Họ không theo thói a dua của người đời mà khinh bỉ
người tử tội Giêsu, giống như nhóm lãnh đạo tôn giáo, tên gian phi không hối
cải và đám lính tráng đã làm. Nhưng họ đang “đứng nhìn”, một thái độ chiêm
ngưỡng để cố gắng nhận ra chiều kích “dài, rộng, cao, sâu” của tình yêu Thiên
Chúa.
Tình yêu trên thập giá
cũng biến đổi tâm hồn người gian phi cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu. Nó
giúp anh nhìn xa hơn về tương lai. Không phải chỉ là sự sống tạm ở đời này, như
tên gian phi kia đã thách thức Chúa Giêsu: “Ông không phải là Đấng Kitô sao?
Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!” Nhưng là sự sống đời đời. Anh
khẩn cầu Chúa: “Khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” Tình yêu trên thập
giá đã giúp người gian phi thống hối nhận biết Chúa Giêsu là ai và mình là ai.
Anh đã nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình, qua lời đối đáp tên gian phi kia:
“Chúng ta chịu thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm!” Anh còn nhận ra
được Chúa Giêsu là Đấng nào nữa. Ngài không chỉ là một người vô tội. Nhưng hơn
thế nữa, Ngài còn là “ông Giêsu”. Đây là lần duy nhất trong sách Tin Mừng, Đức
Giêsu được gọi đích danh, chứ không phải bằng các tước hiệu. Anh đã hiểu được
nghĩa thực của thánh danh Người. “Giêsu” nghĩa là “Thiên Chúa cứu.” Người là
Vua của Nước Thiên Chúa, là Đấng đến cứu vớt mọi kẻ tội lỗi.
Chiêm ngưỡng tình yêu
Thiên Chúa được biểu lộ qua con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu, đồng thời kêu
cầu với Người: “Xin nhớ đến con” chắc chắn sẽ là điều mọi Kitô hữu phải lập đi
lập lại trong suốt cuộc sống mình.
c) Suy nghĩ và cầu
nguyện
Có khi nào tôi thuộc
nhóm người phủ nhận vương quyền của Chúa Giêsu không? Nếu có thì điều gì đã làm
cho tôi không muốn nhận Chúa làm vua tâm hồn tôi?
Tôi có chiêm ngưỡng
Chúa Giêsu và tình yêu Thiên Chúa khi cầu nguyện trước tượng Chúa chịu chết
trên thánh giá bao giờ không? Tôi thử tập thói quen cầu nguyện như vậy, bằng
cách quỳ trước tượng Chúa chịu chết trên thánh giá và ngước nhìn lên Chúa, để
cố gắng cảm nghiệm Chúa đã yêu thương tôi đến mức nào.
Những khi gặp đau khổ
hay bất công, tôi có dùng dịp ấy để biểu lộ tình yêu đối với người khác không?
Tôi có làm chứng cho tình yêu tha thứ của Thiên Chúa không?
Cầu nguyện:
“Lạy Cha, xin ban cho
con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh
giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau
của đời con,
và ơn bước theo Con Cha
trên đường Thánh giá,
bao lâu tùy ý Cha định
liệu.
Xin đừng để con trở
nên chua chát
nhưng được trưởng
thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn,
quảng đại, nhân từ
và lòng khao khát nóng
bỏng
có ngày sẽ được ở nơi
không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau
khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu
mến Cha,
đã tin vào tình yêu
Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của
Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì khổ
đau của con
nói lên lòng tin của
con vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào
tình yêu trung tín của Cha,
và lòng mến mà con
dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con
yêu Cha hơn yêu bản thân,
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở
nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm
tăm tối,
nhờ đó con không còn
coi khổ đau như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ
cho thấy con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
- Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời
nguyện 63)
15. Suy niệm của Lm.
Giuse Đỗ Đức Trí
ĐỨC VUA GIÊSU YÊU
THƯƠNG PHỤC VỤ VÀ BẢO VỆ BẠN
(Bế mạc Năm Đức Tin
24/11/2013)
Chế độ quân chủ ở Việt
nam đã chấm dứt năm 1945 với chiếu thoái vị của vua Bảo Đại. Từ đó đến nay,
người ta không ngừng phê phán chế độ quân chủ, coi các vua như là những kẻ chỉ
biết ăn chơi hưởng thụ, và ca ngợi chế độ mới, mà không công tâm để đánh giá
lại những đóng góp to lớn của các vua Nhà Nguyễn ở nước ta. Cũng vì thế khiến
cho nhiều thế hệ mang một hình ảnh không tốt đẹp về các vị vua. Thế nhưng từ
ban đầu các vua không phải là những con người xấu xa trụy lạc, mà là những thủ
lãnh hết mình vì dân, mở rộng bờ cõi, xây dựng hòa bình, bảo vệ dân, chăm lo
cho dân như cha mẹ lo cho con cái. Ngược lại, dân chúng cũng tỏ ra yêu mến kính
trọng và hết sức tùng phục nhà vua của họ. Chúng ta có thể nhìn điều đó nơi
thái đô cung kính và lòng yêu mến mà dân Thái Lan dành cho Đức Vua của họ, hoặc
dân Anh dành sự tôn kính cho Nữ Hoàng.
Hôm nay, bước vào tuần
lễ cuối cùng của năm phụng vụ, cũng là ngày bế mạc Năm Đức Tin, Giáo Hội tôn
xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ, để mời gọi chúng ta yêu mến, biết ơn, tôn vinh
và đặt Ngài làm vua hướng dẫn và làm chủ cuộc đời của mình.
Tôn vinh Chúa Giêsu
làm vua, Giáo hội muốn lấy lại hình ảnh đẹp nguyên thủy về một vị minh quân để
diễn tả về quyền năng và tình yêu thương của Đức Giêsu đối với chúng ta. Đồng
thời tôn vinh Ngài là Vua là Chúa, Đấng làm chủ của vũ trụ, mọi vật mọi loài
trên trời và dưới đất. Ngài là Vua vì chính Ngài là vị Thiên Chúa quyền năng
tạo dựng nên vũ trụ và muôn vật muôn loài, và Ngài vẫn tiếp tục quan phòng,
truyền hơi thổi sức sống cho vũ trụ để vũ trụ này chuyển vần theo một trật tự
tốt đẹp. Ngài là vua, là chủ, vì Ngài đã tạo dựng nên con người và còn cho con
người được cộng tác với Ngài trong việc duy trì và làm cho vũ trụ và cuộc sống
con nguời mỗi ngày tốt đẹp hơn.
Khác với nhiều vị vua
trần thế tìm kiếm quyền lực và vinh quang cho bản thân và dòng dõi, thì Đức vua
Giêsu là Đức Vua yêu thương dân Ngài như người cha yêu thương con cái, như mục
tử yêu thương đàn chiên. Kinh Thánh đã dùng hình ảnh của Vua Đavít để báo trước
về sứ mạng và vai trò của vua Giêsu, vì Đavít được gọi là một vi vua thánh. Ông
là người được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành người dẫn dắt dân Chúa. Chính
ông đã đem lại cho dân Chúa một thời kỳ thái bình thịnh vượng nhất trong lịch
sử. Bài đọc sách Samuel hôm nay thuật lại giai đoàn đầu triều đại nhà vua, khi
ông lên ngôi làm vua các chi tộc phía Nam đất Giuda, tiếng tăm về lòng đạo đức
cũng như sự tài khéo, lòng yêu thương của ông đã khiến cho các chi tộc miền Bắc
thuộc đất Israel kéo đến để xin ông cũng làm vua của họ, hường dẫn họ và bảo vệ
họ: Chúng tôi cũng là cốt nhục của Ngài, xin Ngài cũng hãy làm vua chúng tôi.
Chính Đức Chúa cũng đã nói với Ngài rằng: Chính Người sẽ chăn dắt Israel dân
ta.
Chúa Giêsu là vị vua
phục vụ. Khác với các vua chúa trần gian ngồi trên ngai vàng để được nguời khác
phục vụ, thì Vua Giêsu đã không chỉ bước xuống khỏi địa vị Thiên Chúa của mình,
mà Ngài còn bước đến với con người, và cúi xuống để phục vụ con người. Ngài
phục vụ bằng cách tìm kiếm con người nhất là những con người lầm lạc để đưa họ
về với con đường của Thiên Chúa, Ngài đã đem Tin Mừng tình thương cứu độ đến
cho mọi người, Ngài nâng dậy những ai gục ngã, an ủi kẻ đau khổ, chữa lành kẻ
bệnh tật. Ngài đã biến mình thành người phục vụ như một người tôi tớ, Ngài đã
cúi xuống để rửa chân cho các tông đồ, và cuối cùng Ngài đã trao tặng cả máu
thịt mình để phục vụ cho sự sống của con người.
Đức Giêsu là vị vua
bảo vệ chúng ta. Giống như vị vua phải xông pha trận mạc để bảo vệ dân mình,
thì Đức Giêsu, như người mục tử đã hết mình bảo vệ chúng ta là đàn chiên của
Ngài khỏi sự tấn cống của sói dữ là ma quỷ, và khỏi những nguy hiểm của tội
lỗi, chấp nhận mang lấy thương tích vào mình. Trong trận chiến quyết liệt cuối
cùng trên thập giá, Ngài đã chấp nhận cả cái chết để thế mạng cho chúng ta và
cứu chúng ta khỏi chết. Thánh Phaolô đã khuyên cộng đoàn Colose: Anh em hãy vui
mừng cảm tạ Chúa Cha đã làm cho anh em xứng đáng chung hưởng phần gia
nghệp…Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi uyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc
Thánh Tử chí ái. Trong Thánh Tử, ta được cứu chuộc, được thứ tha tội lỗi.
Tuy nhiên để nhận ra
Đức Giêsu là vua và tôn vinh Ngài, cần phải có một cái nhìn chính xác về Ngài
đó là cái nhìn trong đức tin và đón nhận vương quyền của Ngài. Nếu nhìn theo
con mắt bên ngoài, thì cuộc chiến của Chúa Giêsu trên thập giá là một cuộc thất
bại nặng nề. Tiêu biểu cho cái nhìn sai lạc và kiêu ngạo này là cái nhìn của
các thủ lãnh Do Thái và của tên trộm dữ. Những thủ lãnh Do Thái khi đã treo
được Người lên thập giá, họ thỏa mãn với sự căm thù, lòng ghen tương ích kỷ của
mình, họ tưởng rằng họ đã trả thù được ông Giêsu, và họ còn nhạo cưới thách
thức: Hắn đã cứu được người khác thì hãy cứu lấy mình đi, nếu thực sự hắn là
Đấng Kitô của Thiên Chúa! Để thỏa mãn cho sự cao ngạo của mình và gây nhục nhã
cho Chúa Giêsu, họ đã dâng cho Ngài giấm chua để uống, và còn đóng phía trên
thập giá bản án viết rằng: Đây là vua người Do Thái. Bản án ấy vô tình lại trở
thành lời giới thiệu và xác nhận vị thế của Chúa Giêsu là vua. Không khác gì
những nhà lãnh đạo do Thái, tên trộm bị đóng đinh cùng Đức Giêsu cũng dựa vào
cái nhìn bên ngoài để thách thức Chúa: Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu
mình và cứu cả tôi nữa!
Ngược lại, với cái
nhìn của lòng tin và sự khiêm nhường, người trộm lành đã đứng ra bênh vực Chúa
Giêsu, anh ta tin rằng Ông Giêsu này là một người công chính và là Thiên Chúa
và cái chết của Ngài chắc chắn khác với cái chết của anh, và anh nói cho tên
trộm dữ kia biết rằng: mày cùng chịu đồng một án, mà mày không kính sợ Thiên
Chúa sao? Chúng ta chịu như thế này là đích đáng với việc chúng ta đã làm, còn
ông này ông có làm gì xấu đâu? Vì tin, anh đã xin được gia nhập vào vương quốc
của Đức Giêsu và làm thần dân của Ngài và anh ta khiêm tốn thưa với Chúa Giêsu:
Lạy Ngài khi nào về Nước của Ngài xin nhớ đến tôi! Chúa Giêsu đã đón nhận anh
khi tuyên bố: Ngay hôm nay ngươi sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng.
Thưa quý OBACE, sau
một năm cử hành Năm Đức Tin, chúng ta cùng với cả Giáo Hội có dịp nhìn lại và
làm mới đời sống đức tin của mình, đồng thời mỗi người sẽ trở thành người bảo
vệ và giới thiệu đức tin cho mọi người chung quanh. Tin Đức Giêsu là vua, có nghĩa
là đón nhận và mời Ngài vào làm chủ cuộc đời của mình, của gia đình, như xưa
những người Israel đã đến mời Đavit làm vua của họ, để Ngài điều khiền, hướng
dẫn và bảo vệ bản thân và gia đình khỏi sự tấn công của ma qủy và những cám dỗ
ngày nay. Tin và tuyên xưng Chúa là vua là dám sống phó thác cho sự chăm sóc
quan phòng yêu thương của Ngài.
Với các bậc làm
ông bà cha mẹ, hãy để Đức Giêsu làm vua trong tâm hồn của mình, để Ngài điều
khiển hướng dẫn nếp sống của bản thân và gia đình, biết dành ưu tiên cuộc đời
và thời giờ cho Chúa. Tôn vinh Ngài làm vua còn là biết mở rộng tâm hồn đón
rước Ngài bước tâm hồn vào qua Bí Tích Giải tội và Thánh Thể. Vì qua Bí tich
Giải tội, Ngài thực sự là một vị vua nhân từ xét xử khoan dung và tha thứ, đồng
thời chăm sóc chữa lành cho tâm hồn chúng ta. Qua Bí tích Thánh Thể, Vua Giêsu
đã phục vụ chúng ta cho đến cùng, đã trao ban mình máu Người làm của ăn nuôi
dưỡng linh hồn và cuộc sống chúng ta. Hãy tôn vinh Ngài là vua của gia đình, để
hết mọi thành viên trong gia đình từ ông bà, cha mẹ, con cái luôn thấy Ngài
hiện diện và bảo vệ cho hạnh phúc gia đình của mình.
Ngày nay giới trẻ cũng
đang tìm và tôn cho mình những vị vua như vua bóng đá, vua nhạc rock, và các
thứ vua khác như là thần tượng của mình, mà họ lại quên rằng vua Giêsu mới thực
sự là lý tưởng là cùng đích cho cuộc đời của mỗi người. Chỉ có Ngài mới là Đấng
có thể giải thoát và cứu độ chúng ta, chỉ có Ngài mới có thể giải gỡ được những
băn khoăn trắc trở trong cuộc đời và chỉ có Ngài mới dẫn chúng ta tới hạnh phúc
đich thực mà thôi. Vì thế đừng sợ trở thành thần dân của vua Giêsu, đừng sợ suy
tôn Ngài và để Ngài dẫn dắt mình, vì Ngài không bao giờ lừa dối chúng ta trái
lại, Ngài luôn yêu thương phục vụ và bảo vệ chúng ta khỏi sự tấn công của các
trào lưu xấu của xã hội hôm nay. Amen.
16. Đức Giêsu
Kitô, Vua vũ trụ
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Thể Hiện)
"Lạy Đức Giêsu,
khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi!"
Bài tin mừng hôm nay
(Lc 23,35-43) trích trong trình thuật thương khó theo Thánh Luca, kể lại những
giây phút cuối cùng trước khi Đức Giêsu chết trên thập giá. Nhưng chính trong
khung cảnh bi thương đó, dung mạo và tư cách quân vương của Ngài đã được mạc
khải một cách rõ nét.
1. “Nếu hắn là Vua
Kitô” (cc.35-39)
Mở đầu bài tin mừng là
ba cảnh nhạo báng Đức Giêsu, do các thủ lãnh của dân, do lính tráng và do một
tên gian phi cùng chịu đóng đinh vời Đức Giêsu, thực hiện. Dân (laos) thì đứng
nhìn, trong một thái độ chăm chú mang tính tôn giáo (chứ không chỉ là tò mò).
Trước tiên là sự cười nhạo của các
vị thủ lãnh. “Các thủ lãnh buông lời cười nhạo: "Hắn cứu được người
khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người
được Chúa tuyển chọn!"” (c. 35). Lời của các vị thủ lãnh ở đây có hai giá
trị. Trước hết, do chỗ Đức Giêsu được trình bày như một người có tài làm phép
lạ (“cứu được người khác”), nên lời thách thức “cứu lấy mình đi” trong thực tế
là một lời nhạo báng tương tự như trong 4,23 “thầy lang ơi hãy chữa lấy mình”.
Thứ hai, đặt trong sự nghi ngờ về tư cách Mêsia của Đức Giêsu, lời yêu cầu “hãy
cứu lấy mình đi” đồng nghĩa với lời yêu cầu một dấu lạ chứng thực tư cách
Mêsia.
Sau lời nhạo báng của
các thủ lãnh là sự chế giễu của bọn lính tráng. Đây chắc chắn phải là những người lính Rôma
(x. 23,47). “Chúng lại gần, đưa giấm cho Ngài uống và nói: "Nếu ông là vua
dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!” (cc.36-37). Lời chế giễu của bọn lính Rôma
cũng tương tự như lời chế giễu của mấy ông lãnh đạo Do Thái, nhưng tập trung
trên khía cạnh chính trị, và như thế, làm nên đợt sóng thứ hai trong cuộc cười
nhạo Đức Giêsu bị đóng đinh. Tiếp nối ngay vào lời chế giễu này, tấm bảng ghi
bản án đặt phía trên đầu Đức Giêsu cũng là một thành phần của lời chế giễu về phương
diện “chính trị”: “Phía trên đầu Người, cũng có bản án viết: "Đây là vua
dân Do Thái” (c.38).
Lời nhạo báng thứ ba
tiếp ngay sau đó, là của một trong hai tên gian phi cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu. (Chúng ta không có
cơ sở nào để khẳng định chắc chắn anh này là một người Do Thái hay một người
dân ngoại). “Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ
Người: "Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả
chúng tôi nữa!" (c.39). Lần thứ ba xuất hiện ngữ đoạn “hãy tự cứu mình
đi”, sau đó là một yếu tố được thêm vào cho phù hợp với hoàn cảnh của tên gian
phi: “và cứu cả chúng tôi nữa”. Nhưng chính Đức Giêsu, trong thực tế, lại chỉ
chờ đợi ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa, đúng theo lôgích của lời Ngài đã nói trong
9,24: “Ai đành mất mạng sống mình… thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Nội dung sự cười nhạo
của ba hạng người trong bài tin mừng hôm nay đối với Chúa Giêsu, cho chúng ta
hiểu thế nào là niềm mong chờ phàm trần mà người ta đặt nơi vương quyền của Đức
Giêsu.
Là Vua Mêsia, Đức
Giêsu sẽ đem đến cho con người ơn giải thoát của Thiên Chúa? Câu hỏi trở nên vô
cùng gay cấn khi người ta phải đối diện với Đức Giêsu đang quằn quại đau đớn
trong những giờ phút cuối cùng trước khi chết thê thảm trên thập giá. Kẻ không
thể cứu nổi chính mình khỏi thảm cảnh thập giá, sẽ có thể cứu cả nhân loại này
không? Vua Mêsia đấy ư? Đặt vào trong một nhãn quan mang tính chính trị, câu
hỏi xem ra càng thêm gay cấn. Những kẻ đặt hy vọng vào Ngài sẽ không phải tuyệt
vọng và buồn tủi hay sao, khi đối diện với tình cảnh của Ngài trên thập giá?
Mỗi năm chúng ta đều
mừng lễ Đức Kitô Vua Vũ Trụ. Nhiều lần chúng ta tuyên xưng vương quyền của
Ngài. Chúng ta vẫn trông chờ Ngài sẽ tỏ vương quyền của Ngài trong gia đình,
trong nhóm, trong cộng đoàn và trong xã hội mà chúng ta đang sống, nhưng hình
như Ngài có vẻ yếu thế (vì Ngài vẫn là Đấng chịu đóng đinh). Thực ra, chúng ta
chờ đợi gì nơi Ngài? Một vị vua sẽ phô trương quyền lực trong các lãnh vực tôn
giáo, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội? Nếu Ngài không phô trương quyền lực
trong các lãnh vực đó cho chúng ta hưởng thụ và vinh vang, chúng ta sẽ nhìn lên
Ngài với cặp mắt nào? Có lẽ sẽ không phải là nhạo báng, nhưng chắc sẽ là oán
trách và than thở…
Hóa ra Đức Giêsu vẫn
có thể đang bị nhạo cười theo một nghĩa nào đó bởi chính chúng ta, những đồ đệ
của Ngài.
2. “Hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên Thiên Đàng” (cc.40-43)
Đối nghịch với ba lời
nhạo báng và nhục mạ ở phần thứ nhất của bài tin mừng là một cảnh tượng hết sức
ý nghĩa, bắt đầu bằng một phản ứng của người còn lại trong hai kẻ cùng chịu
đóng đinh với Đức Giêsu đối với thái độ nhục mạ vừa diễn ra: “Nhưng tên kia
mắng nó rằng: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa,
mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc
đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái" (cc.40-41). Người trộm lành
thừa nhận hành vi gian ác mà anh đã phạm và tính chính đáng của bản án dành cho
anh. Đó là dấu hiệu của sự sám hối.
“Rồi anh ta thưa với
Đức Giêsu: "Lạy Đức Giêsu, khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến
tôi!" (c.42). Người trộm lành trực tiếp thưa chuyện với Đức Giêsu sau khi
đã phê bình tên gian phi đồng bọn. Anh gọi: “Giêsu!”. Đây là lần duy nhất trong
Tân Ước Đức Giêsu được gọi tên riêng một cách gần gũi như thế này. Trong một số
trường hợp (không nhiều), Đức Giêsu được gọi bằng tên riêng nhưng luôn luôn kèm
theo một sự xác định như: “Lạy Thầy Giêsu…” hay “Giêsu Nadaret”… Người trộm
lành đã sám hối bây giờ không hướng về Thiên Chúa, mà hướng về Đức Giêsu và
công nhận tư cách và vai trò Mêsia của Ngài. Lời van xin của anh ta rõ ràng
mang đậm tính chất một lời cầu nguyện của những Kitô hữu gốc Do Thái. Đức
Giêsu, đối với anh trộm lành, là Đấng Mêsia Phục Sinh mà anh có thể có tương
quan thiết thân với Ngài. Trong lời cầu nguyện này, anh tuyên xưng lòng tin
mạnh mẽ vào vương quyền Mêsia của Đức Giêsu.
“Và Người nói với anh:
"Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng"
(c.43). Trong lời xin của mình, người trộm lành mong ước một ơn cứu độ tương
lai sẽ được thực hiện vào lúc cùng tận, khi vương quốc Mêsia được thực hiện
theo cách hiểu của niềm mong đợi Israel. Nhưng Đức Giêsu lại bảo đảm cho anh
một ơn cứu độ của “hôm nay” với một lời hứa long trọng. Ngài hứa ban cho người
trộm lành này một sự sống hiệp thông trọn vẹn với Ngài ngay hôm nay. Trong viễn
tượng Kitô giáo, sự hiệp thông này là sự sống viên mãn phúc lạc trong vinh
quang của Đấng chiến thắng sự chết và tội lỗi.
Đức Giêsu chịu đóng
đinh đã cho thấy Ngài không phải là vị Vua Cứu Độ bảo đảm cho con người ta những
sự thiện hảo thế tạm. Ngài chẳng giải thoát ngay cả chính bản thân Ngài khỏi
cái chết thảm thương trên thập giá. Ngài cũng chẳng hứa sẽ giải thoát chúng ta
khỏi bệnh tật hay đói nghèo. Quyền bính của ngài không liên quan trước hết đến
những thực tại trần gian, mà là ơn cứu độ và sự sống trong Thiên Chúa. Ngài hứa
với người trộm lành một sự hiệp thông trọn vẹn trong sự sống viên mãn trên
Thiên Đàng. Ngài phá bỏ những rào cản không cho con người hiệp thông trọn vẹn
với Thiên Chúa trong hạnh phúc miên viễn, cho dù con người ở đây là tên gian
phi đang bị kết án tử hình.
Lời tuyên bố long
trọng của Đức Giêsu dành cho người trộm lành cho thấy một nội dung quan trọng
của lòng tin Kitô giáo. Tương lai của nhân loại, cá nhân cũng như tập thể, là
chính Đức Kitô. Thiên Đàng được trình bày ở đây không phải trong nhãn quan khải
huyền, mà là trong những hạn từ diễn tả sự ở với Đức Kitô. Đàng khác, ơn cứu độ
là thực tại của “hôm nay” và của cá nhân, chứ không phải chỉ là thực tại của
tương lai và mang tính tập thể. Đức Kitô thực hiện vương quyền của Người ngay
hôm nay và cho từng người cũng như cho mọi người.
Trong viễn tượng của
tin mừng theo Thánh Luca, cảnh người trộm lành hối cải và cầu xin với Đức Giêsu
này tạo nên đỉnh điểm của trình thuật về sự kiện đóng đinh Đức Giêsu. Cảnh này
kết thúc chuỗi những lời nhạo báng và tạo ra một sự đảo ngược quan trọng, trong
đó, người trộm lành không chỉ tuyên bố sự vô tội của Đức Giêsu, mà xa hơn nữa,
anh tuyên xưng lòng tin vào vương quyền đích thực của Ngài, vương quyền bị các thủ
lãnh, lính tráng và tên gian phi đem ra nhục mạ. Đức Giêsu trong đoạn tin mừng
này quả thực là một vị vua, nhưng Ngài là vua theo một cách thức hoàn toàn khác
với những mong đợi mang tính chính trị. Ngài thật là Đấng Cứu Độ, nhưng không
phải là một nhà giải phóng chính trị và quân sự. Ba hạng người nhạo báng Ngài
đều đưa ra lời thách thức rằng nếu Ngài là Vua Kitô thì Ngài hãy tự cứu mình đi
và cứu cả những người khác nữa. Đức Giêsu sẽ đáp trả với thách thức ấy, nhưng
không phải là theo cách thế mà những người kia mong đợi. Ngài cứu một con
người, ngay khi ấy, tức là ngay khi Ngài trút hơi thở, nhưng không phải là cứu
khỏi cái chết tạm thời, song là đưa người đó đi vào sự sống viên mãn và niềm
phúc lạc đích thực. Ngài không làm những hành động chính trị hay những pha biểu
diễn ngoạn mục. Vương quyền của Ngài là vương quyền siêu việt và vĩnh cửu.Trong
ngày Lễ Chúa Kitô Vua Vũ Trụ, chúng ta mừng kính vương quyền đích thực đó và
đặt mình đầu phục vương quyền cứu độ đó, chứ không phải đi tìm hay khao khát những
thực tại thế trần và mau qua.
17. Suy niệm của
Antôn P. Nguyễn Xuân Thuyên
Chúa nhật 34 thường
niên hôm nay cũng là kết thúc năm Phụng Vụ, Giáo Hội tôn kính vương quyền của
Chúa Giêsu nhằm nói lên cùng đích của Phụng Vụ, là làm cho loài người được tôn
vinh một khi họ được thông dự vào vương quyền của Đức Kitô vua Tình Yêu. Đây là
dịp để chúng ta tìm hiểu Vị Vua Giêsu mà chúng ta tôn thờ, Ngài đã cai trị
vương quốc của Ngài bằng cách nào, để rồi Ngài thông chia vương quyền ấy cho
chúng ta?
Trước hết, Thánh Kinh
đã hé mở cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là vua. Có ít nhất 3 ngày Giáo Hội
đã long trọng nhắc đến tước hiệu “Vua” của Đức Kitô, tuy không rõ ràng tôn vinh
tước hiệu ấy: lần thứ nhất, trong ngày lễ hiển linh: “Khi Chúa Giêsu sinh ra
tại Belem, thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà đạo sĩ từ phương đông đến
Giêrusalem, và hỏi Đức vua dân Do thái mới sinh ra hiện đang ở đâu? Chúng tôi
đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy
Người”(Mt 2,1-2). Lần thứ hai trong Tuần Thánh, với việc Chúa Giêsu long trọng
tiến vào thành thánh Giêrusalem. Rồi trước toà án Philatô, ông cho Chúa Giêsu
ngồi ở Gabata, ghế dành riêng cho quan toà. Như vậy, vô tình Philatô công nhận
Ngài là vua. Chính Chúa Giêsu cũng khẳng định Ngài là vua (Ga 18,37). Và
Philatô đã truyền cho người ta viết tấm bảng gắn trên đầu thập giá với hàng
chữ: “Giêsu Nazareth Vua dân Do thái” (Ga 19,19). Và rồi lần thứ ba, trong ngày
Chúa Giêsu lên trời, Hội Thánh tôn vinh vua oai phong đi vào trong vinh quang
và đợi chờ ngày Người lại đến (Mc 16,19) để phán xét kẻ sống và kẻ chết trong
ngày cánh chung.
Và trong đoạn Tin mừng
hôm nay, chúng ta thấy nhiều người vô tình hay hữu ý đã ghi nhận Chúa Giêsu là
vua: “Nếu ông là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn, hãy tự cứu mình đi”
(Lc 23, 37); Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hylap, Latinh và Dothái như
sau “Người này là vua dân Do Thái” (Lc 23,38); và rồi với lời van xin của tên
trộm lành “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi” (lc 23,42).
Như thế, qua Thánh
Kinh đã mạc khải cho chúng ta biết Chúa Giêsu chính là Vua. Và vị Vua Giêsu mà
chúng hằng tôn thờ đó đã cai trị vương quốc của mình như thế nào?
Trước hết, Chúa Giêsu
không phủ nhận mình là Vua hay vương quyền của mình, vì trước toà án Philatô,
Chúa Giêsu đã xác nhận: “Tôi là Vua” (Ga 18,37). Thế nhưng, Ngài không phải là
một vị vua đi tranh giành ngôi với hoàng đế Xê-sa-rê hay Hê-rô-đê mà hội đồng
công toạ tố cáo (Lc 23,3). Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc trần gian này,
không có màu sắc chính trị phàm trần, xâm chiếm lãnh thổ. Ngài không xuất hiện
như các ông vua khải hoàn, ngựa xe ngợp trời, tù binh cả đám. Nhưng Ngài ngồi
trên con lừa khiêm tốn, hiền hoà theo lời sấm ngôn của Dacaria (Dcr 9,9; Mt
21,5), Ngài đến để đem sự bình an và ơn công chính đến cho mọi người chứ không
phải mang gươm giáo, súng đạn. Ngài đến để cứu kẻ khác chứ không phải để cứu
mình (Lc 23,35), bởi vì Ngài là Đấng Kitô đến để thực hiện chương trình của
Chúa Cha, mà chương trình này là “phải qua đau khổ mới bước vào vinh quang”.
Ngài là Vua nhưng không phải là vua bóc lột, mà là Vua “hiến mạng sống vì đoàn
chiên” (Ga 10,11). Ngài là Vua “đem công lý, hoà bình, hạnh phúc” cho toàn dân.
Nhưng việc này chỉ có thể thực hiện khi Ngài hoàn tất số phận của mình, một
“người tôi tớ Đức Chúa”. Trên thập giá Ngài đã đánh bại Xatan, triệt tiêu tử
thần, đã đem lại sự công chính hoá cho toàn dân và mở ra thời kỳ ân phúc cho
nhân loại (Lc 22,29).
Điều này cho chúng ta
hiểu được rằng vương quyền của Ngài không nhằm phục vụ tư lợi cá nhân. Việc
Ngài thống trị toàn vũ trụ không phải để tự mãn nhưng là cho con người được
sống và sống dồi dào. Chúa Giêsu Vua không cai trị Vương quốc bằng sức mạnh của
vũ lực, nhưng bằng phục vụ, yêu thương. Con người xem ra mạnh hơn Chúa Kitô
trong việc áp đảo và bắt bớ. Nhưng điều đó không làm cho Chúa Giêsu bận tâm.
Hơn nữa, chính việc Chúa Giêsu chấp nhận bị gây thương tích và chết đi nhằm mạc
khải cách tuyệt vời bản chất đích thực của Vương quốc Ngài là một Vương quốc
của tình yêu thương, yêu cho đến cùng: chết vì người mình yêu.
Nói tóm lại, Vương
quyền của Vua Giêsu là hoà giải trời với đất, giải thoát con người khỏi nô lệ
của ma quỷ, dẹp tan tội ác, thiết lập một vương quốc “chân lý, ánh sang, bình
an, sự sống, công bình và tình thương vĩnh cửu”, trong đó mọi người đều hạnh
phúc, không còn cảnh người bóc lột người, không còn cảnh khổ đau (Rm 14,17; Ga
18, 38).
Kính thưa cộng đoàn
phụng vụ,
Qua lễ Chúa Giêsu Vua
vũ trụ hôm nay, mỗi người chúng ta cần phải tự hỏi mình có chấp nhận vương
quyền của Ngài hay không? Ta có để cho Chúa làm chủ, làm vua tâm hồn và đời
sống của mình hay chưa? Ta đã tuyên xưng và loan truyền vương quốc của Chúa thế
nào trong đời sống của chúng ta? Chúng ta nhận Chúa là vua vũ trụ xem ra là một
việc dễ dàng, còn việc để Chúa làm vua tâm hồn và đời sống của mình không phải
là một việc dễ dàng tí nào, vì chúng ta còn quá nhiều lệ thuộc cho tự do ích kỷ
của chúng ta, chúng ta còn nô lệ cho quá nhiều những cám dỗ đầy ngon ngọt của
vương quốc ma quỉ.
Chúa Giêsu đã được
Thiên Chúa Cha phong làm vua vũ trụ và dĩ nhiên cũng là vua tâm hồn và cõi lòng
chúng ta. Chúng ta chỉ có hai thủ lãnh để theo: một là Chúa Giêsu, hai là ma
qủi. Chúng ta phải chọn một trong hai, hoặc là vị này hoặc là vị kia, là Chúa hay
là ma qủi. Trong vấn đề này chúng ta không thể trung lập để “bắt cá hai tay”,
bởi vì người ta thường nói:
Một nhà hai chủ không
hòa,
Hai vua một nước, ắt
là không yên.
Vậy chúng ta phải theo
vị thủ lãnh nào? Chắc chắn chúng ta chọn Chúa Giêsu là vua bởi vì tất cả chúng
ta đã được chịu phép rửa tội. Và qua phép Rửa tội, mỗi người chúng ta được
thông phần vào cái chết và sự sống của Chúa Giêsu, được tham dự vào chức năng
làm vua của Chúa Kitô. Vậy chúng ta đã làm cho vương quốc của Chúa Kitô cũng là
vương quốc của chúng ta phát triển và lan toả hay chưa? Hay nói cách khác đời
sống của chúng ta có nguyện cho danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến hay chưa?
Ước gì qua thánh lễ
hôm nay, xin Chúa Kitô là Vua vũ trụ và là Vua của lòng trí chúng ta đổ tràn
đầy tình yêu Chúa xuống trong tâm hồn mỗi người chúng ta, cho chúng ta bừng
cháy lửa tình yêu Chúa để chúng ta biết đón nhận Chúa trong anh em, để từ đó
ngọn lửa tình yêu Chúa lan toả ra những anh chị em sống bên cạnh chúng ta, và
nhờ đó mọi người nhận ra Nước Cha đang trị đến. Amen.
18. Lễ Chúa
Giêsu Kitô Vua.
(Bài giảng của ĐGM.
Giuse Vũ Văn Thiên)
Cách đây hai ngàn năm,
một tội nhân bị đưa ra trước công đường của một vị quan tổng trấn. Hai người
gặp nhau lần đầu, mặc dù đã nghe nói về nhau. Philatô, người tượng trưng cho
quyền lực trần thế, Đức Giêsu, người đại diện cho quyền lực trên cao. Cuộc gặp
gỡ này vừa là một vụ án, vừa là một vở kịch. Người sát hạch cũng là người bị
hỏi, bên bị cáo cũng là người thẩm vấn. Quả thật là một sự đổi vai giữa hai
nhân vật này.
“Ông có phải là vua
dân Do Thái không?”. Một câu hỏi kỳ lạ, thậm chí vô duyên. Có lẽ nào người hiện
diện trước mặt ông là một vị vua mà lại không được ông, một vị tổng trấn uy
quyền, biết đến? Điều đó cho thấy Đức Giêsu không phải là một vị vua theo quan
niệm thế gian. Vương quốc của Người không phải ở thế gian này.
Hai ngàn năm đã qua
sau vụ án, hôm nay vẫn có những người đang đặt câu hỏi mang tính thách thức như
Philatô về vương quốc của Chúa. Vẫn có biết bao người đang kiếm tìm vương quốc
ấy, và cũng có vô số tín hữu sẵn sàng đổ máu đào vì vương quốc kỳ diệu này.
“Vậy ông là vua sao?”
Lại một lần nữa, Philatô buông một câu hỏi vô nghĩa. Trước câu hỏi này, Đức
Giêsu cũng không đưa ra một câu trả lời trực tiếp. Người nói: “Chính ngài nói
rằng tôi là vua”. Tiếp đó, Người minh định rõ ràng chức năng vương hoàng của
Người, đó là chức năng làm chứng cho sự thật. Vậy là đã rõ, vương quốc của Chúa
là vương quốc của sự thật, mà sự thật thì không bị xiềng xích. Sự thật cũng như
trái tim, không bị chi phối bởi sắc tộc, ngôn ngữ hay thế mạnh quân sự. Sự thật
đã và đang đem lại chiến thắng cho con người.
“Nước tôi không thuộc
chốn này”. Đức Giêsu nhấn mạnh hai lần điều này. Người không muốn để cho
Philatô hiểu về chức vương hoàng của Người theo kiểu thế gian. Không chỉ Philatô,
mà suốt bề dầy của lịch sử, những ai muốn quan niệm hoặc trình bày tước vị
“Vua” của Đức Giêsu theo kiểu trần thế đều bị thất bại. Đã có thời trong, khá
nhiều người, kể cả một số vị lãnh đạo, mang quan niệm sai lầm về sức mạnh của
Giáo Hội, khi họ cho rằng Giáo Hội mạnh mẽ nhờ thế lực trần gian hoặc do sức
mạnh của đồng tiền. Quan điểm ấy đã chuốc lấy những bài học chua cay. Đức Giêsu
tuyên bố chức năng vương hoàng của Người vào lúc Người bị điệu ra trước pháp
đình. Qua đó, người muốn khẳng định rõ: Người làm vua để phục vụ và trao gửi
yêu thương. Sau bao thế kỷ, Giáo Hội cũng đã ngộ ra rằng sức mạnh của Giáo Hội
không đến từ quyền lực trần thế, mà là đến từ Đấng chịu đóng đinh. Cộng đoàn
tín hữu tiên khởi, mặc dù phải đối diện với biết bao khó khăn do thù nghịch đến
từ phía người Do Thái và nhà cầm quyền La-mã, nhưng vẫn tăng trưởng, vì họ tìm
được sức mạnh nơi Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá, đã chịu chết và đã Phục
Sinh.
Khi mừng lễ Chúa Kitô
Vua Vũ Trụ, Phụng vụ muốn nhắc cho chúng ta về khái niệm “vương quyền” của Đức
Giêsu. Vương quốc của Người đã được khởi đầu ở trần gian này rồi, như lời rao
giảng của Chúa khi khởi sự công cuộc loan báo Tin Mừng: “Thời kỳ đã mãn, và triều
đại Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15).
Tuy thế, vương quốc của Chúa vẫn chưa được thực hiện, mà đang trong thời kỳ đạt
tới thành toàn, vào thời điểm Chúa muốn. Sự thành toàn của vương quốc Thiên
Chúa sẽ được thực hiện trong tương lai, lúc ấy, Con Người sẽ từ mây trời ngự
đến, thống trị vinh quang mãi mãi (Bài đọc I).
Năm phụng vụ chấm dứt
với chúa nhật hôm nay. Chúng ta cũng được mời gọi suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời.
Là con dân của Nước Chúa, người tín hữu phải nỗ lực thực thi tình bác ái và xây
đắp an bình, vì Nước Chúa là nước của bình an, nhân ái, chan hòa tình Chúa tình
người. Khi cố gắng thực thi lời Chúa dạy là chúng ta làm cho vương quốc của
Chúa mau trị đến.
Tuyên xưng Chúa là
Vua, chúng ta cũng muốn thuộc trọn về Người. Đây cũng là dịp để chúng ta nghĩ
về lòng trung thành của chúng ta với Chúa. Tấm “hộ chiếu” của vương quốc vĩnh
cửu chính là đức tin vững vàng, đức cậy trung tín và đức mến thiết tha. Chúa sẽ
nhận ra chúng ta, qua việc thiện chí sống và thực thi những nhân đức này.
Suy Niệm:
Đức Giêsu Kitô là Ngôi
Lời Thiên Chúa. Trong Ngài muôn loài được tạo thành. Nhờ Ngài vạn vật được cứu
độ. Vì thế Ngài là chủ tể là vua vũ trụ. Nước của Ngài không hạn hẹp một quốc
gia nào, một dân tộc nào. Nhưng bao trùm toàn thể chúng sinh. Vinh quang uy
quyền của ngai báu Ngài không tỏ hiện bằng vũ lực, bằng cao sang thế trần,
nhưng êm đềm trong yêu thương, trong tình thân ái để đem hạnh phúc đích thực
cho mọi tâm hồn.
Cầu Nguyện:
Lạy Thiên Chúa toàn
năng hằng hữu, Chúa đã muốn cải tạo mọi sự trong Con yêu dấu Chúa, là vua vũ
trụ: Xin đoái thương cho mọi loài thọ tạo đã được giải thoát khỏi vòng nô lệ,
biết phụng thờ uy linh Chúa, và biết luôn luôn ngợi khen Chúa. Chúng con Cầu
xin nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm Phêrô
Bùi Quang Tuấn)
Sau khi Chiến tranh
Thế giới thứ Nhất chấm dứt, cả châu âu rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát. Balan
cũng không tránh khỏi thảm hoạ. Đất nước bị quân Đức và Nga thay nhau cày xéo.
Bao thanh niên ngã gục trên chiến trường. Nhiều làng mạc, thành phố bị bom đạn
thiêu rụi.
Trước tình hình đó,
Toà thánh muốn tìm một giáo sĩ xứng hợp, có thể đảm trách vai trò đặc sứ tại
quốc gia này. Linh mục Ambrose Ratti người Ý đã được đề cử và tuyển chọn. Ngay
sau đó, cha Ambrose lên đường đi nhận nhiệm sở mới với bao sứ mạng nặng nề.
Thế nhưng công việc
của cha Ambrose tại Balan đã tiến triển tốt đẹp. Toà thánh nhận ra điều đó. Rồi
chẳng bao lâu sau, ngài được triệu về Rôma và được tấn phong Hồng y coi sóc
tổng giáo phận Milan. Đến năm 1922, sau khi Đức Benêđictô XV qua đời, Hồng y Ambrose
Ratti được bầu làm Giáo hoàng với danh hiệu Piô XI.
Năm 1925, Đức Thánh
Cha Piô đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền dạy
Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong một
bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa Kitô
Vua: thế giới cần một nền hoà bình chân thật, nhưng hoà bình đó chỉ có được
dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình Thương và là Hoàng Tử Bình An.
Về sau, khi có cuộc
cải cách phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại
trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm
phụng vụ, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu
kỳ mới.
Một linh mục đã nhận
xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý
nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức
vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu
sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ
hương, và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ
thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ
phút cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như một vị
quốc vương cao cả.
Thói thường khi quân
Rôma đóng đinh ai cũng đều kèm theo một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm
pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng
cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua Dân Do thái”. Việc
làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức
Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là hoàng đế (x. Thomas Kemp,
Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của
Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi
Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu.
Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế
diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh
hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của
mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ
đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu
là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta
ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù
giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức
Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha xin tha
cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”.
Chính việc “thấy” và
“nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương
người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng
con người kia đâu có hận thù, tham lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê
lương sầu thảm, dù khổ đau đang giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan
nát mất hết hình tượng, nơi con người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng
khoan dung tha thứ. Thế rồi anh can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này
đâu có làm gì sai trái”(Lc 23: 41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền
của Ngài khi thành khẩn nài xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến
trong Nước của Ngài”(Lc 23: 42).
Làm sao trong cảnh hấp
hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên
được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh
đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn
ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang
bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả
lời: tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu
người, xót thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình Yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại
muôn đời, anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh
vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha
thứ, xoá tan hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến
miệng anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi”.
“Ngày hôm nay ngươi sẽ
ở trên thiên đàng làm một với Ta”(Lc 23: 43). Không lời nào yên ủi cho người
sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình
thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến
mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu
nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình
yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự
lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng”.
Trên thánh giá, Chúa
Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển
chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là
Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành
trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hoà
bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
20. Đức Giêsu
Vua, Người tôi tớ Thiên Chúa
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn An Khang)
Hôm nay, Chúa nhật
cuối cùng năm Phụng vụ, Giáo hội mừng lễ Chúa Kitô Vua. Thật nghịch lý, để mừng
lễ Đức Kitô Vua, Giáo hội đưa ra cảnh tượng Đức Giêsu mạc khải triều đại Người:
ngai vàng là thập giá, vương miện là một vòng gai, lễ phong vương là một danh
hiệu của việc kết án tử đóng đinh bên trên đầu Người, nam tước là hai tên gian
phi. Nghịch lý cao cả của Tin mừng! Vua? Phải! Nhưng chắc chắn không hiểu theo
nghĩa của những người đứng về phía Người, cũng không theo nghĩa của những đối
thủ lên án Người, nhưng theo cách của Thiên Chúa.
Luca viết: "Khi
đến nơi gọi là Núi Sọ, họ đóng đinh Người vào thập giá". Thực ra đây chỉ
là quả đồi nằm ở cổng thành Giêrusalem, cổng Ephraim, một nơi khai thác đá cũ,
nhưng thợ khai thác còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng hơn chỗ khác, một khối
đá biệt lập cao khoảng 5m. Vì hình dạng của tảng đá giống như cái sọ, nên gọi
là núi Sọ, tiếng Dothái là Gôlgôtha tiếng Hylạp là Kranion, tiếng Latinh là
Calvario. Theo truyền thuyết đó là cái sọ của Ađam được chôn cất mãi mãi ở đó.
Bởi là một nơi gần đường, nên người ta hay đóng đinh các tội nhân ở đó để mọi
người qua lại xỉ nhục hoặc để làm gương cho người khác.
Cùng bị đóng đinh với
Đức Giêsu có hai tên gian phi. Để chứng minh Đức Giêsu không phải là gian phi,
Luca đặt nơi môi miệng Người một lời nguyện: "Lạy Cha xin tha cho họ, vì
họ không biết việc họ làm". Họ đây là ai? Đó là các vị thân hào. Luca
thường ghi nhận, đối với Đức Giêsu thì "dân chúng" khác với các thân
hào (Lc 20,1-20.45, 21.38). Trước biến cố Đức Giêsu chịu đóng đinh, dân chúng
chán ngán, yên lặng đứng nhìn. Sự yên lặng của dân chúng thật ấn tượng và đáng
trân trọng. Dân chúng Israel hiền lành không hiểu gì cả. Họ chờ đợi Đức Giêsu
như¬ Đấng Messia, như một vua Đavít mới.
Trong lịch sử dân tộc
họ, không thiếu vua, nhưng tầm cỡ vua Đavít và Salomon thì không có, đó là thời
kỳ huy hoàng của Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị
vua là Đấng Messia, hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù, làm vị thẩm phán của Thiên
Chúa, họ ngờ rằng Đức Giêsu đến để phục hưng vương quyền của Israel. Họ đã thử
tôn Người làm vua, Người lại tránh né. Giờ đây, Người kia kìa, Người bị kết án
tử hình, Người đang bị treo trên thập giá.
Khác với những người
dân đen đang đứng nhìn ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh buông lời
cười nhạo, thách đố Người: "Nếu ngươi là cứu Chúa, trước tiên cứu mình
đi". Đó là tiếng vang của ma quỷ trong sa mạc (Lc 4,3), của người đồng
hương Nadarét (Lc 4,23). Trong thế giới ngày nay, những kẻ chế nhạo Thiên Chúa
cũng cùng giọng điệu như thế: "Nếu Thiên Chúa có, hãy hiện diện đi, để mọi
người thấy".
Câu trả lời của Thiên
Chúa vẫn là câu trả lời của Đức Giêsu: "Người im lặng". Người không
biện hộ cho mình. Người để cho mình bị lên án là bất lực, là không hiện hữu.
Đức Giêsu cũng như Thiên Chúa, không bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ, hành động vì
mình, sử dụng quyền năng của mình chỉ vì chính mình.
Còn lính tráng? Lính
tráng cũng chế giễu Người: "Nếu ông là vua dân Dothái thì cứu mình
đi". Thế nhưng, những binh lính này vẫn còn chút lương tri, họ đã lấy một
chút giấm đưa cho Ngài uống. Giấm đây là thứ rượu chua thời ấy binh lính Lamã
quen dùng, nếu pha thêm một chút mộc dược, sẽ thành một thứ thuốc gây mê, các
bà Dothái thường cho các nạn nhân uống như thế để giảm đau. ở đây, Luca không
cho biết Chúa có uống hay không, nhưng Mátthêu nói rõ, Chúa chỉ nếm một chút để
tỏ lòng biết ơn người đã có thiện chí giúp đỡ mình (Mt 27,34).
Khi phong vương, theo
tục lệ Dothái, ông vua được phong ngồi trên ngai, một thượng tế nhân danh Thiên
Chúa ban cho nhà vua danh hiệu như thường thấy trong Thánh vịnh 109: "Ngày
đăng quang con nắm quyền thủ lãnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần linh. Ngay
trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh ra Con". Ở đây,
ngai vàng của Đức Giêsu là thập giá, bản văn phong vương Người chính là bản án
của Philatô ghi trên đầu Người: "Đây là vua người Dothái ".
Dĩ nhiên Đức Giêsu là
vua không theo cách thức thế gian, Nước Người không thuộc về thế gian này (Ga
18,36). Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế, nhưng không cạnh tranh
với các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần thế. Thập giá ấy, ngai vàng ấy,
danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy vọng hoang tưởng của Vua Israel, của
chủ nghĩa Messia.
Bi kịch thập giá của
Đức Giêsu, được Luca xây dựng theo kiểu căng thẳng tịnh tiến: dân chúng đứng
nhìn, các thủ lãnh cười nhạo, lính tráng chế giễu, và tên gian phi nhục mạ.
Đúng thế, một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người:
"Ông không phải là Đấng Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi
với!"
Cứu mình? Đó là thách
thức ghê tởm nó bộc lộ luận lý khôn ngoan của loài người tội lỗi mà các thủ
lãnh, lính tráng cũng như tên gian phi đã đưa ra. Phải nghĩ đến mình trước rồi
mới đến người khác. Còn đâu ý nghĩa phục vụ? Câu "Mục tử tốt thí mạng vì
đàn chiên" còn có ý nghĩa nào nữa? Và những câu như: "Ai tìm sự sống
thì sẽ mất" bây giờ ở đâu?
Vậy, ta có thể kết
luận Đức Giêsu là Vua, Người làm Vua trên thập giá, trong hành vi trở thành của
lễ đền tội mọi người. Ai không bỏ mình theo Người thì không được cứu độ. Còn ai
kính sợ Thiên Chúa, tin Người được đưa vào Nước của Người. Người thực hiện các
lời ngôn sứ về vua thiên sai, vua hòa bình, vua cứu thế; quá sự chờ mong của
mọi người vì trên thập giá, không những Người là vua mục tử hơn Đavít mà còn là
người tôi tớ đau thương của Thiên Chúa sẽ thống trị địa cầu.
21. Đấng Kitô
của Thiên Chúa.
(Suy niệm của Lm Louis
Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn 23:35-43 là màn
chế giễu cuối cùng (x. 22:63; 23:11) Chúa Giêsu chịu trước khi Người trút hơi
thở cuối cùng (23:44-49). Người đã đến Núi Sọ, bị đóng đinh giữa hai phạm nhân.
Áo xống của Người cũng bị tước đoạt (23:33-34). Trình thuật nầy có rất nhiều
nhân vật: dân chúng, các thủ lãnh, lính tráng, hai phạm nhân với hai thái độ khác
nhau và Chúa Giêsu. Có thể chia đoạn nầy làm hai: - Nhóm dân chúng, thủ lãnh và
quân lính (23:35-38); - Hai phạm nhân (23:39-44). Chúa Giêsu là trung tâm của
cảnh chế giễu nầy.
Luca đã dùng phân từ
“kai”, “và” để lên kết các nhóm người lại “và dân chúng (c. 35) - và các thủ
lãnh” - “và quân lính” - “và tấm bảng”. Mỗi người mỗi cách, nhưng chung một
thái độ chế giễu Chúa Giêsu. Điểm chung là họ dùng câu điều kiện “nếu”, trong
đó họ có lời thách thức giống nhau “Hãy tự cứu mình” (cc. 35.37.39), và họ gọi Chúa
Giêsu bằng những tước hiệu tương tự nhau “Đấng Kitô” (c. 35), “Vua dân Do thái”
(c. 37); “Đấng Kitô” (c. 39). Câu trả lời cho những thách thức và chế giễu nầy
nằm trong lời tuyên xưng của phạm nhân thứ hai (c. 42), và trong lời hứa thiên
đàng cho phạm nhân nầy (c. 43).
Dân chúng (c. 35)
Luca chỉ ghi nhận “dân
chúng đứng nhìn”. Dân chúng không chỉ đứng đó nhìn cách bàng quan, mà tham dự
vào sự khinh rẻ và chế nhạo diễn ra lúc ấy. Xem Tv 22:8: “Ai thấy (theôreô) tôi
cũng nhạo báng (ekmyktçrizô) lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai”. Trong 14:29,
Luca cho thấy “cái nhìn” (theôreô) gắn liền với “chế giễu” (empaizô) (14:29).
Chính dân chúng đã đứng chung với các thượng tế và thủ lãnh trước toà Philatô
(23;13) và đồng ý kết án tử Chúa Giêsu (23:18). Vậy, dân chúng đứng nhìn lâu
(động từ ở thể phân từ hiện tại) mà không phản đối, chính là đồng loã với những
người lên tiếng chế giễu Người.
Các thủ lãnh (c. 35)
Ở đây Luca chỉ nói đến
“các thủ lãnh”, trong khi ở 23:13 và 24:20, ông nhắc đến cả các thượng tế. Động
từ ekmyktçrizô nghĩa là “nhạo báng”; chỉ gặp trong 16:14; 23:35. Có thể có mối
liên hệ giữa đoạn nầy với Tv 22:8. Trong lời họ nhạo báng, Luca nhấn mạnh đến
khía cạnh cứu chuộc của Chúa Giêsu, tư cách Con Thiên Chúa được Thiên Chúa sai
đến. Cụm từ “Hãy cứu lấy chính mình” được lập lại 3 lần bởi các thủ lãnh (c.
35), quân lính (c. 37) và phạm nhân (c. 39). Động từ “sozô” “cứu” dùng rất
nhiều trong trình thuật nầy (cc. 35[2x].37.39). Nó mang ý nghĩa rộng hơn sự
chữa lành bệnh. Đó là cứu khỏi tội và đưa vào Nước Trời (x. 7:50; 8:48.50;
17:19; 18:42). Động từ “sozô” và tước hiệu “Christos”, Kitô, liên hệ với nhau.
Sau lời Phêrô tuyên xưng Người là “Đấng Kitô” (9:20), Chúa Giêsu nói đến sự cứu
độ cho những ai bỏ mình và vác thánh giá đi theo Người (9:24). Tước hiệu “Đấng
Kitô của Thiên Chúa” đã được Phêrô tuyên xưng lần đầu tiên (9:20). Tước hiệu
nầy nhấn mạnh nguồn gốc của Đấng Kitô và tương quan và sự thông hiệp của Người
với Thiên Chúa. “Của Thiên Chúa” có nghĩa là do Thiên Chúa tuyển chọn và sai
đến. Tước hiệu “Kitô” đứng một mình như trong lời của phạm nhân thứ nhất (c.
39) có thể hiểu là một đấng thiên sai, một vị vua được xức dầu nào đó. Rồi tước
hiệu “Người được tuyển chọn” cũng nói lên liên hệ với Thiên Chúa (18:7). Chính
Thiên Chúa xác nhận điều nầy về Chúa Giêsu trong biến cố biến hình (9:35).
Nhóm quân lính (c. 36)
Sau các thủ lãnh tôn
giáo, đến dân ngoại chế giễu Chúa Giêsu. Họ là những người canh giữ (22:63),
Hêrôđê (23:11), lính tráng (23:36). Điều nầy đã được nói đến trong lời tiên báo
thứ ba về cuộc khổ nạn (18:32; 22:62). “Empaizô” “chế giễu” là khinh rẻ và lấy
người khác làm trò chơi cho mình. Những người canh giữ Chúa Giêsu đã bịt mắt
Người, đánh Người và bảo Người đoán xem ai đã làm điều ấy (x. 22:63-65); Hêrôđê
muốn Người làm những phép lạ để thoả mãn sự tò mò của ông (23:8-9). Lính tráng
bên thập giá đưa giấm lên cho Người uống (23:36). Tước hiệu “Vua dân Do thái”
nầy phát xuất từ dân ngoại mà thôi: Philatô (x. 23:3), tấm bảng treo trên đầu
Người (23:38) và lính tráng ở đây. Lần đầu tiên Chúa Giêsu được dân Do thái gọi
là vua, basileus, khi Người vào thành Giêrusalem: “Chúc tụng Đức Vua, Đấng nhân
danh Chúa mà đến” (x. 19:38). Chúa Giêsu là vua, basileus, mà cũng là Christos
(x. 23:2).
Cho đến lúc nầy, cả
các thủ lãnh lẫn dân ngoại chẳng ai biết rõ và chắc chắn Chúa Giêsu là ai.
Người ta thắc mắc về căn tính của Người (x. 20:41; 22:67; 23:2); ngoại trừ ma
quỉ (4:34; 4:41; 8:28) và nhóm Mười Hai (9:20), không ai biết rõ căn tính của
Người. Người ta thắc mắc về Người (x. 20:41; 22:67; 23:2). Bởi đó, họ nghĩ đây
là cơ hội cuối cùng họ có thể buộc Chúa Giêsu chứng tỏ ra Người là ai, bằng
cách làm theo yêu cầu của họ. Chúa Giêsu đã không làm theo yêu cầu của họ, vì
Người biết họ không tin vào Người ( 22:67), và chính khi chịu đóng đinh, Người
tỏ ra cách tỏ tường nhất Người là Đấng Kitô của Thiên Chúa; nói cách khác là
Đấng Thiên Sai, được gởi đến để cứu chuộc con người. Không làm theo điều kiện
họ đặt ra, Chúa Giêsu không phải là Đấng Kitô theo ý nghĩ của họ.
Tấm bảng (cc. 23:38)
“Và” (xem trên) liên
kết tấm bảng nầy với những nhóm người nhạo báng Chúa Giêsu. Có sự khác biệt ít
nhiều giữa các tin mừng về điều ghi trên tấm bảng treo trên đầu Chúa Giêsu (x.
Mt 27:37; Mc 15:26; Gio 19:19). “Houtos” chỉ Đấng bị đóng đinh dưới tấm bảng.
Cách trình bày đơn sơ “Và có tấm bảng trên đầu Người” muốn ám chỉ điều ghi trên
tấm bảng “Người nầy là Vua dân Do thái” tương phản với người đang bị đóng đinh.
Như thế, tấm bảng nối dài lời nhạo báng của lính tráng.
Phạm nhân thứ nhất (cc. 23:39)
Luca dùng động từ
blasphçmçô, “nói phạm thượng”, để chỉ thái độ của người nầy đối với Chúa Giêsu.
Động từ nầy chỉ dùng ba lần trong Luca: nói phạm thượng đến Chúa Thánh Thần
(12:10), những người canh giữ và phạm nhân nầy nói phạm thượng đến Chúa Giêsu
(22:65; 23:39). Như thế, blasphçmçô là nói những lời chống lại Thiên Chúa. Người
nầy nói phạm thượng vì tình cảnh bất lực và vô vọng của mình. Anh muốn Chúa
Giêsu dùng quyền năng của Đấng Kitô để giải thoát anh khỏi cái chết gần kề.
Phạm nhân thứ hai (cc. 40-42)
Người nầy ngỏ lời
trước tiên với người đồng chịu án (23:40-41) và với Chúa Giêsu (23:42). Trong
lời ngỏ với phạm nhân kia, người nầy nói đến sự kính sợ Thiên Chúa, đến việc
nhìn nhận tội và chấp nhận hình phạt xứng với việc đã làm và bênh vực Chúa
Giêsu là vô tội. Khi trách phạm nhân kia không kính sợ Thiên Chúa bằng câu hỏi,
người nầy gián tiếp cho thấy ông có lòng kính sợ Thiên Chúa. Ông quan toà là
tiêu biểu của những người không kính sợ Thiên Chúa (18:2-4). Ngược lại, Mẹ
Maria là gương mẫu của người kính sợ Thiên Chúa. Ai kính sợ Thiên Chúa thì được
Người xót thương (1:50). Phạm nhân thứ hai nầy tỏ ra kính sợ Thiên Chúa khi ông
dám nói nghịch lại phạm nhân kia, cũng là nghịch lại dân chúng, các thủ lãnh và
lính tráng. Cái chết gần kề, ông không sợ. Ông chỉ sợ Đấng có thể ném cả thân
xác và linh hồn ông vào hoả ngục (x. 12:4-9). Bởi có lòng kính sợ nầy, ông sẽ
được Thiên Chúa xót thương và cứu lấy ông.
Nói về Chúa Giêsu, ông
bênh vực Người là vô tội (23:41). Chính Philatô cũng đã nhận ra như thế
(23:22). Ngỏ lời với Chúa Giêsu, ông gọi Người bằng tên “Giêsu”, chứ không bằng
bất cứ tước hiệu nào. Tên “Giêsu” nầy liên kết với “Đấng Thánh của Thiên Chúa
(4:34), với “Con của Đấng Tối Cao” (8:28), với “Con vua Đavít” (18:38), với
“Thầy” (17:13) và “Chúa” (Cv 7:59). Ông xin Người nhớ đến ông trong Nước của
Người. Mimneskomai, “nhớ”, bao hàm ý nghĩa cứu độ. Thiên Chúa nhớ tỏ lòng
thương xót trên Abraham và con cháu ông đến muôn đời (1:54). Thiên Chúa nhớ đến
giao ước mà cứu khỏi tay kẻ thù (1:72). Ông nói đến “Nước”, basileia, của
Người. Nước của Chúa Giêsu đồng hóa với Nước của Thiên Chúa (22:29.30); “Nước
Thiên Chúa” được nhắc đến tới 31 lần trong Luca. Như thế lời của phạm nhân thứ
hai nầy ngỏ với Chúa Giêsu trở thành câu trả lời gián tiếp cho những người nhạo
báng trên, và đó cũng là lời tuyên xưng đức tin của ông: - “Giêsu” là Con Thiên
Chúa, nên Người mới có thể nhớ và tỏ lòng thương xót ông như Thiên Chúa; -
“Giêsu” là Đấng Kitô, là Vua nên Người mới có “Nước của Người”; - Nước của
Người là Nước của Thiên Chúa và Người là Con Thiên Chúa; đồng thời cũng là Con
vua Đavít. Vậy Người thật sự là “Đấng Kitô của Thiên Chúa”, và cũng là “Vua dân
Do thái”.
Chúa Giêsu trả lời với
phạm nhân nầy bằng lời hứa là hôm nay ông sẽ cùng với Người trong thiên đàng.
Đây là thiên đàng của Thiên Chúa (x. Kh 2:7). “Ở trong thiên đàng” là ở trong
sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Nói cách khác là “trong tay” của Người
(x. 23:46). Phạm nhân thứ hai đã tuyên xưng Chúa Giêsu trước mặt mọi người,
nhất là những người chối bỏ Người; bởi đó ông được Người nhận biết và cho hưởng
Nước Trời (x. 12:8).
Chúa Giêsu không chết
trong thinh lặng. Người chết sau khi được tuyên xưng cách công khai là “Đấng
Kitô của Thiên Chúa”. Như thế cái chết trên thập giá của Người có tính cách cứu
độ và mang ơn giải thoát đến cho mọi người.
22. “Thiên
Chúa đã trở nên giống như bạn và tôi”
(Suy niệm của Lm Giuse
Tạ Duy Tuyền)
Có một câu chuyện cổ
tích kể rằng: ở một vương quốc nọ. Có một vị vua cao sang quyền qúy, thế mà lại
yêu say đắm một cô thôn nữ miền sơn cước. Nhà vua định cưới nàng làm hoàng hậu
nhưng có quá nhiều trở ngại, khiến nhà vua phải nhiều đêm đắn đo suy nghĩ. Vì
tục lệ chỉ cho phép nhà vua cưới các công nương vương triều. Tuy rằng ngài có
đầy quyền lực để xem thường truyền thống nhưng ngài vẫn không dám quyết định.
Hơn nữa, một ý nghĩ khác nảy sinh khiến ngài càng khó quyết định, vì nhà vua sợ
sự khác biệt về địa vị khiến tương quan giữa hai người sẽ khó mà tự nhiên với
nhau, cô gái có thể thán phục đức vua nhưng không thực sự yêu ngài. Vua vẫn là
vua, nàng vẫn là thôn nữ chốn hồng hoang. Vua liền nảy sinh một sáng kiến, ngài
từ bỏ ngôi vua để sống như một nông dân, để gần gũi và hoà đồng với nàng, nhưng
nhà vua lại sợ, với cương vị một chàng nông dân liệu rằng cô thôn nữ còn yêu
mình nữa hay không? Cuối cùng, vì quá yêu nàng, nhà vua vẫn đánh liều bỏ mọi sự
để ngỏ lời yêu thương với nàng.
Câu chuyện bỏ ngỏ ở
đây. Câu chuyện không dẫn thính giả đến lời đáp trả của nàng thôn nữ, có đón
nhận tình yêu của nhà vua hay từ chối tình yêu. Nhà vua đã rời bỏ ngai vàng, đã
chấp nhận trắng tay vì nàng, nhưng liệu rằng nàng có dám yêu anh “khố rách áo
ôm, khi địa vị, danh vọng, tiền bạc của nhà vua đã không còn? Câu chuyện cũng
không dẫn độc giả tới tuyệt đỉnh của một tình yêu là “một túp lều tranh, hai
trái tim vàng”. Câu chuyện không có đoạn kết, vì đoạn kết tùy thuộc vào tâm
trạng của mỗi người đều có quyền điền vào cho hợp với ý của mình. Câu chuyện
chỉ muốn gợi lên cho độc giả về một tình yêu cao cả mà nhà vua đã dành cho cô
thôn nữ hèn kém này. Một tình yêu thật lớn lao đến độ dám từ bỏ ngai vàng vì
một cô thôn nữ xa lạ chỉ một lần thấy thoáng qua trong đời.
Vâng, câu chuyện chưa
kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Đây là một câu chuyện có thực về tình yêu của Thiên
Chúa đối với mỗi người chúng ta. Thiên Chúa hằng yêu thương bạn, yêu thương
tôi. Ngài là một vị vua đã tự bỏ ngai vàng, cung điện và cả cung cách của một
vì Thiên Chúa để mặc lấy thân phận tôi đòi như chúng ta. Ngài quá yêu chúng ta
đến nỗi đã trở nên “đồng hình đồng dạng vì chúng ta”. Ngài đã trở thành một
“Emmanuel vì chúng ta”. Nhưng tiếc thay nhân loại hôm qua cũng như hôm nay đã
không nhận ra Ngài. Họ cần một vì Thiên Chúa đánh đông dẹp tây, quyền uy sang
trọng. Họ cần một vì Thiên Chúa để họ điều khiển theo ý của họ. Họ đòi Thiên
Chúa đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng của họ hơn là chính họ phải hành động
theo ý của Thiên Chúa. Năm xưa dân Do Thái đã không nhận ra Chúa khi Ngài mang
thân phận của một con người như họ. Họ còn xem thường về nguồn gốc của Ngài.
Cho dù họ đã chứng kiến biết bao phép lạ phi thường mà chỉ có bàn tay Thiên
Chúa mới có thể thực hiện được. Thế mà, họ lại xuyên tạc là nhờ tướng quỷ mà
làm được những việc này việc nọ. Từ việc xem thường gốc gác về Ngài, họ đã đẩy
Ngài đến án tử trên đồi Golgotha. Chúa vẫn một lòng yêu thương tha thứ, ngài
vẫn tiếp tục yêu thương và yêu thương cho đến cùng, vì Ngài là tình yêu.
Vâng, câu chuyện chưa
kết thúc, nó vẫn tiếp diễn. Thiên Chúa vẫn đang gõ cửa từng cuộc đời chúng ta.
Ngài hằng mong chúng ta đón nhận Ngài qua những con người túng thiếu cơ hàn,
qua những mảnh đời tha phương cầu thực, qua những bất hạnh của những anh em
đang ở bên cạnh chúng ta. Thiên Chúa đã trở nên đồng hình đồng dạng vì chúng
ta, Ngài vẫn cần chúng ta trao ban cho Ngài những nghĩa cử yêu thương. Ngài vẫn
đang cần chúng ta săn sóc Ngài trong tôn trọng và vị tha. Ngài vẫn cần chúng ta
dâng hiến cuộc đời để phục vụ Ngài một cách quảng đại và bao dung. Ngài là một
vì Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người, nhưng liệu rằng, bạn còn yêu Ngài
hay không? Chúng ta yêu một vì Thiên Chúa quyền uy thì dễ nhưng liệu rằng chúng
ta có dễ dàng yêu một vì Thiên Chúa đã hoá thân làm người trong thân phận hài
nhi yếu đuối, bị truy đuổi, bị loại trừ hay không? Chúng ta sẵn lòng cúi mình
làm tôi cho những ai mang lại cho ta tiền bạc, danh vọng, niềm vui, nhưng liệu
rằng chúng ta có muốn cùng Chúa đi trên con đường thập giá, đường hy sinh bản
thân để trở nên nguồn hạnh phúc cho anh chị em mình không?
Hôm nay, là ngày lễ
Chúa Giêsu là Vua, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy sống đáp lại tình yêu mà Thiên
Chúa dành cho chúng ta. Vì yêu thương ta Ngài đã tạo dựng chúng ta giống hình
ảnh Ngài, chúng ta hãy phục vụ Ngài qua anh em của chúng ta. Vì yêu thương ta,
Ngài đã chấp nhận chết để cứu độ chúng ta, chúng ta hãy biết chết đi bản tính
ích kỷ của mình, chết đi những toan tính tội lỗi của mình để sống xứng đáng với
tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu là Vua cai trị
và dẫn dắt chúng ta đi trong đường chính nẻo ngay, và xin Ngài ngự trị thánh
hoá cuộc đời chúng ta trong hồng ân và tình thương của Ngài. Amen.
23. Mở cửa
về hướng tình thương.
(Suy niệm của Achille
Degeest)
Bài Phúc Âm nêu rõ ngộ
nhận cơ bản ngăn cách kẻ thiển cận với Đức Giêsu. Một bên là những kẻ luẩn quẩn
trong cái nhìn thuần tuý trần tục về sự vật, bên kia là những tâm hồn được Đức
Kitô tác động cho nên mở rộng đến cực độ. Địch thủ của Chúa đứng ở bình diện
những viễn ảnh sơ đẳng mà tước hiệu ‘Vua’ gợi ra trong trí họ. Trái lại, Đức
Giêsu mở ra cho kẻ tội lỗi những viễn ảnh vô tận về một Vương quốc của tha thứ
và yêu thương. Hai bình diện hoàn toàn khác biệt. Con người bị ràng buộc nặng
nề vào những chân trời hạ giới, cho nên thảm trạng của Đức Kitô (cũng là thảm
trạng Giáo Hội) ở chỗ rất khó đưa con người lên tới tầm cao định mệnh toàn diện
và siêu nhiên của nhân loại. Bản thân Đức Giêsu là một cơ may lịch sử tặng cho
con người để gặp Thiên Chúa. Thế mà trong lịch sử thời Phúc Âm và trong Giáo
Hội ngày nay, chúng ta thấy gì? Một số từ chối Đức Kitô vì mắt họ vấp phải cái
khía cạnh trông thấy được của Đức Kitô làm người, của Giáo Hội gồm toàn những
con người với bản chất rất nhân loại. Những kẻ khác thì thích ứng, đức tin họ
chỗi dậy, và nhờ được tha thứ cho những giây phút yếu đuối, họ tiến vào Nước
Thiên Chúa. Chúng ta nhận xét thêm. Đứng trước nhân loại, Giáo Hội có trọng
trách phải có bộ mặt giống tôn nhan Đức Kitô khiêm hạ, nghèo khổ, không vị lợi,
quay về cả hai phía Thiên Chúa và con người, cho nên Giáo Hội thu hút những tâm
hồn muốn tiến lên trong đức tin. Chúng ta nhấn thêm vào hai điểm trọng yếu
trong bài Phúc Âm hôm nay.
1) Đức Kitô không
thiết lập một triều đại thế gian có quyền năng kỳ diệu hoặc nhiều phép thần
thông. Con
người, nhất là kẻ không tin, rất háo hức muốn được chứng kiến những cuộc biểu
diễn phép thần. Kẻ thù của Chúa đứng bên chân thập giá, tấn công về điểm tâm lý
ấy. Họ nói: Chúa hãy làm cử chỉ phi thường xuống khỏi thập giá là người ta sẽ
tin vào Chúa ngay. Chúa đáp lại bằng sự im lặng. Chúa sống trên một bình diện
quá cao. Ở đây chúng ta có nên đặt ra một câu hỏi có tính chất thời sự không?
Phải chăng một số nào đó, gồm cả Kitô hữu, đòi Đức Kitô dùng phép thần làm cho
thế giới hết đau khổ, bất công, giặc giã, …? Có những kẻ dám nói, nếu Đức Kitô
có quyền năng của một ông vua thì xin hãy cải thiện xã hội! Với những kẻ ấy,
Đức Giêsu không đáp lời bằng phép lạ, bằng điều phi thường.
2) Đức Kitô thiết lập
triều đại tha thứ yêu thương. Tha thứ yêu thương là những ân huệ nhận được từ Trên, như thể
muốn biểu hiện luật nội tâm của Trái Tim Thiên Chúa. Kẻ nào lãnh nhận ân huệ đó
cũng phải lấy tha thứ yêu thương làm luật nội tâm cho mình trong cách đối xử
với anh em. Đứng trước Đức Giêsu chịu đóng đinh, mỗi người chúng ta có thể,
trong sự thật, nói như kẻ trộm lành: Lạy Chúa, xin nhớ đến con khi vào Nước
Trời. Thốt lên như thế là cầu xin cho định mệnh vĩnh cửu của chúng ta, nhưng
cũng là xin được hưởng ngay bây giờ ơn yêu thương tha thứ của Chúa. Toàn bộ
Phúc Âm khẳng định: Trong cách đối xử với anh em, chúng ta không được chậm trễ,
ngay hôm nay chúng ta phải sống ơn tha thứ, sống tình thương yêu. Đó là hai
thực tại cực kỳ ý nghĩa của vương quốc Đức Kitô.
24. Giêsu
–Vua phục vụ.
(Trích từ ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Vua, một tước vị đã bị
dìm dưới bùn đen do những vua chúa, những hoàng đế độc tài, tham quyền cố vị,
giết cả bạn cả anh em, kể cả cha mẹ như một Nêron bạo vương, dìm mình trong dâm
ô với hàng ngàn cung phi. Tai chúng ta vừa nghe tiếng vua, trí chúng ta liên
tưởng ngay đến cảnh tượng ghê tởm khủng khiếp đó.
Thế nhưng tại sao
chúng ta lại mừng lễ Chúa Giêsu là Vua. Vua Giêsu của chúng ta có như thế
không? Hay là cần phải thay đổi tiếng vua thành chủ tịch, tổng thống, quốc
trưởng cho hợp thời? Nhưng có thay đổi danh xưng, thì bản chất của những kẻ
tham quyền cố vị, háo danh háo sắc chẳng có gì thay đổi. Điều đó đang diễn ra
trước mắt chúng ta, vì “ai lấy thúng úp được voi”? đổi danh xưng làm gì, đổi
bản chất người mới đáng kể.
Bài đọc I cho thấy dân
Do Thái truất phế vua Saolê, một vị vua bất xứng, để chọn Đavit lên thay thế.
Hết vua nầy đến vua khác. Vua nào cũng thế thôi. Suốt đời Chúa Giêsu, Ngài chưa
hề một lần ngồi trên ngai vàng. Ngài không hề làm vua của một quốc gia hày trên
một mảnh đất nào. Ngài đã không tỏ vẻ gì là một hoàng đế, là một ông vua. Ngài
còn nhất quyết từ chối và lẫn trốn mỗi khi dân chúng có ý định tôn Ngài lên làm
vua. Cũng có lần người ta gọi Ngài là “Vua Dân Do Thái”, nhưng là để chế nhạo
Ngài, như chúng ta thấy trong Tin Mừng hôm nay.
Lúc đó Chúa Giêsu đang
là một tên tử tội bị kết án đóng đinh thập giá giữa hai tên gian ác. Từ dưới
chân thập giá, giới lạnh đạo cũng như quân lính và dân chúng đều chế giễu thách
thức Ngài. Những lời giảng dạy và những việc Ngài làm để cứu chữa người khác
được đưa ra để nhạo báng Ngài: “Nếu ông là vua dân Do Thái thì ông hãy tự cứu
mình đi!” Một trong hai tên gian ác bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu cũng lặp
lại lời chế giễu thách thức đó: “Nếu ông là Đức Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu
cả chúng tôi nữa!” Trên đầu thập giá của Chúa Giêsu, tấm bảng cáo trạng đã ghi
rõ: “Giêsu – Nagiaret, Vua dân Do Thái”. Còn Chúa Giêsu thì vẫn im lặng trước
những lời chế nhạo và thách thức của họ. Sự im lặng của Chúa Giêsu cho thấy
Ngài không phải là vua theo kiểu người dân Do Thái chờ đợi, một vị vua chính
trị giải phóng dân tộc, cũng không phải là vua theo kiểu là người “cướp chính
quyền”, tranh giành quyền thống trị của hoàng đế Xêda hay của bất cứ vị lãnh tụ
nào trên trần gian nầy. Trước toà án của Tổng trấn Philatô, Chúa Giêsu đã tuyên
bố: “Tôi là Vua, nhưng nước Tôi không thuộc về thế gian nầy”.
Lúc nầy, đang khi
người ta chế nhạo vương quyền của Chúa Giêsu, thì tên ác kia – mà người ta gọi
là “tên trộm lành” đã nhận ra vương quyền đích thực của Chúa Giêsu. Anh nhìn
nhận Chúa Giêsu là người vô tội, Ngài thạt là Đức Kitô, là Đấng Thiên Chúa sai
đến cứu độ nhân loại. Anh đã diễn tả lòng tin của anh bằng một lời cầu xin:
“Lạy Ngài, khi nào về Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi”. Chúa Giêsu đã xác
nhận vương quyền của Ngài bằng cách nhận lời cầu xin của anh: “Tôi nói thật với
anh, ngay hôm nay, anh sẽ ở với Tôi trên Nước Trời”.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu là Vua. Vua
là người dựng nước, Vua là người cứu nước, Vua là người của dân tộc. Thánh Phaolô
đã triển khai ba điểm nầy trong Bài đọc II hôm nay. Chúa Giêsu là Vua, vì Ngài
là Con Một của Thiên Chúa Cha. Vương quốc là của Con, là Trưởng Tử của mọi tạo
vật, vì Ngài hiện hữu trước mọi tạo thành, mọi sự được dựng nên “nhờ Ngài và
trong Ngài”. Như vậy Chúa Giêsu Kitô là đầu toàn thể vụ trụ: vật hữu hình và vô
hình, trái đất chúng ta và không gian liên hành tinh, cả những tinh vân cực xa.
Sau cùng, Hội Thánh là Thân Thể của Ngài và thế giới người chết cũng là nơi
Ngài cai trị như là Trưởng Tử, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Lịch sử
sẽ hoàn tất nơi Chúa Kitô, bởi vì toàn thể vũ trụ đang tiến tới chỗ hòa giải
trọn vẹn “nhờ Ngài và trong Ngài” và chính máu Ngài đổ ra trên thập giá để
thiết lập nền hòa bình vĩnh cửu.
Chúa Giêsu là Vua,
nghĩa là Ngài đã lãnh đạo, mở đường đưa cả loài người vào cõi sống vĩnh cửu,
vào Nước Trời. Ngài đã giải thoát loài người khỏi mọi ách thống trị của sự ác
và sự chết, để con người được gặp Thiên Chúa, được tham dự vào tình yêu, sự
thật và sự sống của Thiên Chúa. Để hoàn thành sứ mạng đó, Ngài đã chấp nhận bị
liệt vào hàng gian ác và đã chết cùng với những kẻ gian ác để đem họ vào cõi
sống với Ngài.
Chúa Giêsu là Vua vũ
trụ là Vua cả nhân loại, nhưng Ngài đã thi hành vương quyền của Ngài bằng cách
yêu thương loài người đến nỗi sẵn sàng chết cho loài người ngay chính lúc loài
người từ chối Ngài, chế giễu Ngài, thậm chí thách thức Ngài.
Chúa Giêsu Vua, ngai
vàng là thập giá, vương miện là mão gai, thay cho tiếng hoan hô là những tiếng
chữi rủa, thách thách, nhạo cười, đả đảo…
Chắc hẳn không ai
thích làm vua kiểu đó. Nhưng thích hay không, chúng ta cũng phải làm vua, vì
khi được rửa tội, chúng ta đã là dân tộc vương đế, vương đế theo kiểu Chúa
Giêsu: Phải làm vua dục vọng của mình, phải dám lên tiếng bênh vực sự thật,
phải dám hy sinh cho những người nghèo khổ. “Ai biết phục vụ anh em, người đó
là người chỉ huy”: Phục vụ là cai trị.
Muốn được vào Nước của
Thiên Chúa, được làm công dân Nước Chúa, không có con đường nào khác ngoài con
đường của “người trộm lành”, đó là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ có tội “Phần
chúng ta, thế này là phải lắm”. Tin tưởng: “Còn Ngài có làm gì xấu đâu”, và cầu
xin: “Lạy Ngài, xin nhớ đến tôi’.
Nếu Chúa Giêsu thực sự
là Vua của lòng chúng ta, là Vua của đời ta, thay cho các “thần tượng” vua chúa
khác, thì chắc chắn chúng ta sẽ được nghe Chúa đáp lại vào lúc cuối đời mình:
“Ta bảo thật với con, hôm nay con sẽ ở với Ta trên Nước Trời”.
25. Viên đá –
McCarthy.
Một lần nọ, hai người
lữ khách đi qua một khu rừng khi màn đêm buông xuống. Chỉ trong ít phút, con
đường nhỏ hẹp mà họ đang đi trở nên tăm tối. Một bóng tối khủng khiếp bao trùm
mọi vật. Kế đó sự việc còn tệ hại hơn, một cơn bão có sấm sét nổ ra trong khu rừng.
Ánh sáng của chớp lóe lên kèm theo những tràng sấm làm rung chuyển mặt đất dưới
chân họ. Mưa đổ xuống như trút nước trên người họ. Cây cối rung chuyển một cách
nguy hiểm. Người thứ nhất coi cơn bão như một tai họa ghê gớm. Mỗi khi có chớp
lóe ra, anh ta nhìn lên bầu trời và nguyền rủa. Kết quả là anh ta đi chệch khỏi
con đường và lạc vào rừng. Người thứ hai trái lại coi cơn bão như như một ơn
lành hóa trang. Mỗi lần tia chớp lóe lên, soi sáng một đoạn đường trước mặt
anh, và do đó anh có thể tiến lên từng bước một. Luôn giữ đầu cúi xuống sẵn
sàng nhìn cho rõ, anh vẫn luôn theo đúng con đường. Và cứ thế, bước đi từng
bước một, anh theo con đường để ra khỏi khu rừng.
Một đôi khi, đó là con
đường trong cuộc đời: chỉ có đủ ánh sáng để bước được bước kế tiếp; chỉ có đủ
sức mạnh để làm nhiệm vụ hiện nay. Cơn bão có sấm chớp đều như nhau đối với hai
người lữ khách. Tuy nhiên, đối với người kia, nó là viên đá dùng để bước qua.
Những người lữ khách
ấy nhắc chúng ta nhớ đến hai người gian phi trong câu chuyện Tin Mừng. Cả hai
đều bị rơi vào bóng tối khủng khiếp. Trước hết là bóng tối của đời sống tội lỗi
của họ. Rồi bóng tối khủng khiếp bao trùm trên núi Canvariô lúc Đức Giêsu bị
đóng đinh.
Một người thì nguyền
rủa bóng tối. Người kia đã thấy một tia sáng yếu ớt xuyên qua bóng tối. Ánh
sáng ấy đến từ sự hiện diện của Đức Giêsu, Đức Giêsu người bạn của những người
tội lỗi, đã đến để tìm và cứu những người lạc mất. Lời xưng tội trong sáng và
khiêm nhường đi thẳng vào tâm hồn của Đức Giêsu để rồi anh ta nhận được không
những ơn tha thứ, mà còn nhận được chính thiên đàng.
Sau cùng, Đấng duy
nhất biết và hiểu chúng ta trọn vẹn là Thiên Chúa. Người là nhà viết tiểu sử mà
chúng ta hoàn toàn tín thác vào sự chính xác của Người bởi vì chỉ có Người nhìn
thấu suốt tâm hồn chúng ta. Người thấy ở đó những tổn thương và đau buồn, những
tì vết và tật nguyền, những hy vọng và khát khao của chúng ta. Đức Giêsu nhìn
vào người gian phi và thấy những mảnh vụn đau buồn của đời anh, và động lòng
trắc ẩn, thương xót anh.
Người gian phi tốt
lành đem lại niềm hy vọng cho tất cả chúng ta, nhưng đặc biệt cho những người
mà đến cuối đời không có gì để khoe mình ngoài những việc làm của bóng tối. Cho
dù là giờ thứ mười một, người ta vẫn còn có khả năng để ánh sáng mặt trời chiếu
vào. Nhờ lòng nhân hậu tuyệt đối của Người, Đức Giêsu biến đổi bóng tối thành
ánh sáng. Sự cứu chuộc luôn luôn là một ơn của Thiên Chúa. Người ban một cách
quảng đại nhất cho những người (giống như người gian phi tốt lành) biết mình
nghèo khó và cầu xin với đôi bàn tay không và tâm hồn trông cậy.
26. Nhân từ kêu
gọi nhân từ – McCarthy.
Vào một đêm khuya ở
Dublin, một cô y tá vội vã đi dọc theo một bến cảng để đón xe buýt, bỗng cô
thấy một thanh niên đang nằm trên vỉa hè ngay phía trước cô. Anh ta có vẻ bị
bệnh hoặc bị thương. Cô dừng lại để xem cô có thể giúp gì cho anh ta. Nhưng khi
cô cúi xuống, anh ta nhảy dựng lên và giật cái túi xách của cô. Cô ghì chặt
lại. Sau đó một cuộc chiến đấu xảy ra. Đến một lúc nào đó, hai cặp mắt gặp
nhau. Thình lình, người thanh niên buông ra và nói: Ồ, cô có phải là y tá
O’Reilly!”
Họ bắt đầu chuyện trò
thân mật. Thì ra trước đó ít lâu, anh ta phải vào bệnh viện vì bị gãy chân, và
y tá O’Reilly đã rất tử tế với anh ta. Anh hỏi cô định đi đâu. Cô nói cô định
đón xe buýt. Anh ta đưa cô đến trạm xe buýt và chờ cho đến khi xe buýt đến. Rồi
xin lỗi những gì đã xảy ra, anh ta nói lời chào.
Đó là một câu chuyện
có thật. Nó dạy chúng ta điều gì? Có lẽ bài học chính là: Người ta không bao
giờ hoàn toàn đánh mất mình trong điều xấu chừng nào người ta còn nhận ra lòng
nhân từ và đáp lại nó.
Một đôi khi chỉ cần
nhìn sự nhân từ tỏa sáng nơi một người khác đủ để người ta khám phá ra sự nhân
từ ấy nơi chính mình. Một kỷ niệm tốt đẹp sẽ cứu được một số tính cách vào
những lúc quyết định. Sự thấu cảm là điều kêu gọi một người quay lưng lại bóng
tối.
Nếu đêm hôm ấy, một
người phụ nữ khác đi dọc theo bến cảng thì người thanh niên sẽ không hành động
như thế. Anh ta sẽ cướp giật người ấy và không cảm thấy hối hận vì đã làm thế.
Nhưng vì là một người mà bản thân anh có kinh nghiệm là một cô y tá tốt lành,
anh không thể tìm thấy điều gì làm anh đối xử tồi tệ với cô. Lòng nhân từ của
cô làm cho anh ta thấy điều xấu anh đang làm. Điều gì còn quan trọng hơn nữa:
sự việc làm cho anh ta nhận thức khả năng của mình về lòng nhân từ. Nó đánh
thức chút nhân từ vẫn còn sót lại trong anh.
Câu chuyện trên nhắc
chúng ta đôi điều về sự gặp gỡ giữa Đức Giêsu và các gian phi trên núi
Canvariô. Một gian phi đã hoàn toàn lạc mất trong bóng tối của điều xấu đến nỗi
không còn thích ánh sáng. Người kia nhận ra ánh sáng của lòng nhân từ của Đức
Giêsu và đáp lại lòng nhân từ ấy.
Người gian phi tốt
lành nhận ra rằng Đức Giêsu vô tội. Và hơn thế nữa, người ấy còn bênh vực Người
trước người gian phi kia. Anh ta là người duy nhất làm chứng về sự vô tội của
Đức Giêsu. Lòng nhân từ của Đức Giêsu làm cho anh nhìn thấy cuộc đời anh ta quả
là xấu nhưng cũng đánh thức lòng nhân từ đã mất của anh ta. Anh ta quay về với
Đức Giêsu, nhận biết rằng Người là Đấng duy nhất có thể giúp anh trong phút
cuối cùng của đời mình. Và Đức Giêsu đã không làm cho anh thất vọng.
Dĩ nhiên, Đức Giêsu là
vua, nhưng là một loại vua lạ lùng. Người đã đến không phải để chinh phục mà để
hoán cải, không phải để thống trị nhưng để giải phóng, không phải để chỉ huy
nhưng để phục vụ. Người đã chết như một tội phạm, nhưng trị vì từ trên thập giá.
Người đáp lại điều xấu nhất với điều tốt nhất trong Người. Tại sao Người không
phản ứng lại những kẻ xử Người? Thi sĩ Seamus Heaney nói về thứ “quyền lực
không được thi hành bằng quyền lực”.
Tất cả những gì chúng
ta có thể làm là lặp lại lời thánh Phaolô đã nói: “Hãy cảm tạ Chúa Cha, Đấng đã
giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí
ái; trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được tha thứ tội lỗi”.
CÁCH TIẾP CẬN KHÁC
Câu chuyện về người
gian phi sám hối trên núi Canvariô làm nổi lên một vấn đề quan trọng: Có phải
người ta chết theo cách người ta đã sống? Và câu trả lời dường như là: Không
nhất thiết như thế. Có những người đã sống một đời sống như trong địa ngục
nhưng lại có cái chết rạng rỡ. Ân sủng của Thiên Chúa không liên quan gì đến
công nghiệp.
MỘT CÂU CHUYỆN
Mẹ Têrêxa kể lại một
ngày nọ ở Calcutta, mẹ đã nhặt được một người đàn ông ở một rãnh nước và đưa
ông ta về nhà nuôi người hấp hối. Trước khi chết, ông ta nói với mẹ: “Tôi đã
sống như một con vật nhưng tôi đã chết như một thiên thần, được yêu thương và
chăm sóc”. Mẹ Têrêxa nhận thấy sự cao cả của ông ta, người có thể nói được như
thế và có thể chết mà không trách móc hoặc chửi rủa một ai. Mẹ cảm thấy mình
được đặc ân đã có thể giúp ông ta sống những giờ phút cuối đời trong sự cảm
nhận mình được yêu thương và quý trọng.
MỘT MINH HOẠ
Những cảnh hoàng hôn
đẹp nhất không phải xảy ra khi bầu trời không có mây nhưng xảy ra khi có vài
đám mây trong bầu trời. Mây phản chiếu ánh sáng mặt trời và làm ánh sáng toả
lan qua bầu trời, một đôi khi với những màu sắc kỳ ảo.
Ở Mỹ, có một ngày
tháng tám lạ lùng. Suốt buổi sáng có sấm chớp và những cơn mua ngắn nặng hạt.
Suốt buổi chiều trời nóng và ẩm. Buổi tối thì tối đen và khốn khổ. Tuy nhiên,
khi màn đêm buông xuống một ngày tồi tệ thì một cảnh tượng rất đẹp xảy ra. Đó
là một trong những buổi hoàng hôn đẹp nhất mà người ta vẫn mong ước ngắm xem.
Và như thế ngày tháng tám với thời tiết xấu ấy kết thúc trong cảnh đẹp.
Nó nhắc chúng ta nhớ
đến điều đã xảy ra với người gian phi tốt lành trên núi Canvariô. Khi bức màn
đã buông xuống trên đời sống tội phạm tăm tối của anh ta. Một điều gì đó đã
khiến anh ta bênh vực Đức Giêsu và đây là lời bênh vực duy nhất trên núi Canvariô.
Rồi anh ta quay về Đức Giêsu và nói: “Ông Giêsu ơn, khi ông vào Vương Quốc của
ông, xin nhớ đến tôi”. Và Đức Giêsu nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên Thiên Đàng”.
Người gian phi tốt
lành đã sống một đời tồi tệ, tuy nhiên, nhờ gặp gỡ với Đức Giêsu, anh ta đã tìm
thấy yêu thương, bình an và hy vọng vào lúc cuối đời. Câu chuyện về anh dạy
chúng ta rằng không có sự gì quá trễ. Đức Kitô Vua có thể làm cho sự kết thúc
đen tối nhất toả sáng niềm hy vọng. Người có thể biến đổi sa mạc thành khu
vườn, và gỉ sắt thành vàng ròng.
27. Trên
khổ giá - R. Gutzwiller.
Qua trình thuật trên,
Thánh Luca không trình bày gì về những đau khổ thể xác hay tinh thần Đức Kitô
phải chịu. Thánh Sử chú trọng đến việc trình bày Đức Giêsu như một Đấng đem lại
ơn cứu thoát, là Đấng Cứu Thế thực sự và vì thế số đông đã ghét bỏ Ngài.
Sự đối kháng: Sự đối kháng này xảy
ra ngay trong khi đóng đinh Chúa. Đức Kitô đã bị đóng đinh vào thập giá, bị đối
xử ngang hàng với hai tên gian phi, một tên bên hữu, một tên bên tả Ngài,
(Thánh Luca ghi rõ sự kiện này) hành hạ phạm nhân rồi, họ mới đem đi xử tử.
Chính Israel dân Ngài, đã lên án loại trừ Ngài, và đối với họ, phải làm như thế
mới rảnh mắt. Ngay cả các lý hình cũng chia chác áo xống Ngài. Phần còn lại,
chúng sẽ bắt thăm. Nhưng ta còn thấy sự đối kháng cũng xuất hiện trong ngôn ngữ
nữa. Các thành viên của Hội đồng nhạo cười Ngài, họ cố ý nhạo báng cười chê
Đấng Xức dầu, Người được Thiên Chúa tuyển chọn. Tất nhiên Ngài là Đấng Thiên
Sai làm sao được khi mà cái chết của Ngài trên thập giá quá đủ. Họ rêu rao như
thế và đang khi trông chờ một đấng khác, họ loại trừ, tẩy chay người mà họ đóng
đinh. Binh lính cũng hành động như vậy. Họ cũng chế diễu Vua dân Do thái và
vương quyền Ngài. Philatô cũng tỏ dấu khinh khi Ngài qua việc ông cho viết tấm
bảng treo trên thập giá với hàng chữ mỉa mai: ‘Vua dân Do thái’ và sau hết sự
đối kháng còn phát khởi từ câu hỏi: ‘Nếu ông là Đức Kitô của Thiên Chúa, hãy
cứu lấy mình và chúng tôi nữa’. Đó là một lời xúc phạm ghê gớm của một kẻ cùng
chịu một án với Ngài. Ơn cứu thoát do cây thập tự luôn luôn gặp phải nhẫn tâm,
đối kháng và chối từ. Con người quan niệm cứu thoát bao hàm thoải mái, mạnh
khoẻ, hứng thú, đầy sức sống, tất cả những gì đối nghịch với Thập giá. Vì thế
ơn cứu thoát bắt nguồn từ cây Thập giá đối với con người là một thách đố đối
nghịch mà con người không thể lý hoà được. Tuy nhiên Đức Kitô đã dùng Thập tự
như là khí cụ cứu thoát được đặt trên bình diện khác và sẽ được hoàn tất trong
những thời gian khác. Ở đây điều gì được thực hiện vô hình trong lãnh vực tâm
hồn và siêu nhiên thì đối với con người là một nghịch lý nguy hiểm, và sẽ chỉ
hoàn tất ở trên trời cách nhãn tiền, cả về thể chất lẫn tinh thần. Bởi thế Thập
giá hẳn là một giá trị đảm bảo của Đức Giêsu Cứu Thế.
Giải đáp: Thánh Luca đã trình
bày lối giải đáp của Đức Kitô qua hai câu nói sau. Câu thứ nhất Chúa nói
với mọi người. Đó là lời trối khi hấp hối: ‘Lạy Cha xin tha
thứ cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm’. Không một lời than trách
không một tiếng rủa nguyền, nhưng đầy lòng tha thứ và còn khẩn nài Cha trên
trời thứ tha… Đức Giêsu chết với tư cách là Đấng Cứu Thế. Ngài phó nộp sự sống
Ngài để chuộc lại nhân loại, và lời cầu xin cuối cùng là xin cho mọi người được
ơn cứu thoát.
Họ không biết việc họ
làm. Vì nếu họ hiểu thấu ý nghĩa sâu xa của giờ cứu thoát này, nhận biết một
nhân loại mới đang phát sinh, một Giáo Hội đang khai mở, nhận ra giai đoạn từ
gian nan đến cứu thoát, từ cái chết đến sự sống thì hẳn họ sẽ không hành động
như thế. Thái độ vô tri sâu xa ấy có tội chăng. Không nên đề cập đến vấn nạn
này. Một điều chắc là họ không biết và vì đó Đấng bị lên án, đang khi bị hành
xử vẫn luôn bênh vực những kẻ lên án và hành xử Ngài. ‘Nemo contra Deum nini
Deus solus”. (không ai chống nổi Thiên Chúa trừ một mình Ngài). Ở đây phải hiểu
Thiên Chúa đối nghịch laị mình để biện hộ bênh đỡ con người. Ân sủng con Thiên
Chúa đối nghịch với sự công thẳng của Chúa Cha như thế để ân sủng vượt trên hẳn
lề luật và sức mạnh, tình yêu phải thắng vượt công lý nghiêm nhặt.
Câu nói thứ hai Chúa
nói với một người thôi. Người này cũng bị treo trên Thập giá đã ghé nhìn Đức Giêsu
khẩn nài Ngài. Hắn là một trong hai tội phạm: ‘Lạy Đức Giêsu, khi Ngài đến
trong nước của Ngài’. Chính tên trộm này là kẻ duy nhất nói đến vinh quang
Chúa, vào lúc Ngài hạ mình chịu nạn và chỉ có hắn mới nhận ra nơi Người bị hành
quyết đây thực là một vị Vua. Chính hắn tuyên cáo tội mình: ‘Phần chúng ta, như
thế này là đích đáng vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm’. Và hắn
tuyên dương sự vô tội của Đức Kitô, ‘nhưng ông này, ông không hề làm điều gì
sai trái’. Ngoài ra, hắn còn công bố rằng Ngài sẽ trở lại trong vinh quang. Nơi
người này đã có một đức tin vững mạnh, kèm theo một cái nhìn về vĩnh cửu nữa.
Vì thế hắn sẽ được cứu thoát. Đức Giêsu lên tiếng đáp lại: ‘Quả thật, tôi bảo
anh, hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi’. Vì tội mà cửa đóng kín lại, nhờ
ơn cứu độ mà nay được mở ra, tội lỗi bị ơn cứu độ vượt thắng. Nhân loại sa ngã
và lầm lạc giờ đây bắt đầu trở lại. Sự lầm lạc đã đi đến chỗ cùng đường. Phải
quay đầu trở lại, phải bước qua một khúc quanh dứt khoát. Chính con người bị
lên án vì tội lỗi mình lại là người đầu tiên được bước đi trên con đường mới
đó. Trong cuộc sống, tội đã phạm không phải là yếu tố quyết định, nhưng chính
là Đức tin có dẫn đến Đức Kitô và đem lại ân sủng mới là yếu tố quyết định.
Nhìn lại mình để nhận ra lỗi lầm mình phạm là một điều kiện tiên quyết để quay
về, cải tạo đích thực và sống cuộc sống mới trong Đức Kitô và nhờ Ngài được
hưởng ơn cứu thoát.
Như thế qua trình
thuật Chúa chịu đóng đinh trên cây Thập giá, Thánh Luca cho ta thấy hai câu nói
của Chúa đã làm đảo ngược sự tối tăm và thê thảm của những tiếng ‘phản kháng’:
Một lời Ngài ‘nài’ xin lòng nhân từ thương xót của Chúa Cha và một lời ‘chấp
nhận’ Ngài nói với người tội lỗi ăn năn xin tha thứ. Ơn cứu độ vinh thăng sự
dữ. Đấng hấp hối chính là Đấng Cứu chuộc thế gian.
28. Anh em
và chị em của vua.
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Đôi khi chúng ta là
những người Mỹ suy nghĩ vì sao người Anh lại chán chế độ quân chủ của họ. Sự
kiện thí dụ như là Nữ hoàng, điều đó đối với chúng ta có vẻ như là một người
đại diện hầu như không có quyền lực. Và trong chúng ta cũng có một số người ước
muốn có một người nào đó mà chúng ta có thể nhìn lên, một người nào đó hiện
thân cho những giá trị và chinh phục sự kính trọng của chúng ta, một người làm
cho chúng ta cảm thấy tốt hơn là chính chúng ta.
Nhiều người Mỹ một
cách nào đó, đã tìm thấy môt con người như vậy trong cuộc bầu cử tổng thống, đó
là tổng thống Kennedy, tổng thống của nước Mỹ. Ông còn trẻ, đẹp trai, thông
minh, và ăn nói lưu loát. Ông kết hôn với một phụ nữ xinh đẹp và đối với chúng
ta có thể trở thành nữ hoàng và người đó có thể giới thiệu với nước Mỹ những
đưa con xinh đẹp, những công chúa và những hoàng tử. Nhà Trắng được biết đã trở
thành giống như điện Camelot, nước Mỹ có một gia đình mà người Mỹ coi như là
một vương triều. Vào ngày thứ sáu 22-11-1963 giấc mơ đó bị tan vỡ. Trong suốt bốn
ngày người Mỹ đã kinh ngạc trước máy truyền hình, họ xem đi xem lại những hình
ảnh không thể tin được về cuộc ám sát và đám tang đau khổ, mà đám tang đó đã
giúp thuyết phục chúng ta rằng, cái chết của vị tổng thống là thật sự. Từ đó
những câu chuyện dần dần trở nên hé mở và tiết lộ mọi sự đều không hoàn hảo như
chúng ta tưởng tượng. Giấc mơ về một Camelot đã bị tan vỡ, và những ảo tưởng về
vương triều đã hoen úa.
Hầu hết tất cả chúng
ta đã định hướng sai lầm khi hướng về nhà Trắng ở Washington D.C như là một
hoàng cung. Chúng ta sẽ nhìn trở lại Calvariô bởi vì thánh giá thật sự là ngai
của Đức Kitô Vua. Cái chết của Ngài không phải là một bi kịch, không phải là
một cú sốc mau qua. Nó là một cuộc khải hoàn chiến thắng trên cả hai kẻ thù của
chúng ta, đó là tội lỗi và sự chết. Trên đầu của Chúa Giêsu trên thánh giá nhà
cầm quyền Philatô đã đặt lên một bảng khắc: “Đây là Vua dân Do Thái”. Chúng ta
đã thay thế bảng khắc đó bằng lời tuyên xưng đức tin của chúng ta: “Đức Kitô là
Vua của chúng tôi”. Với Người chúng ta cầu xin: “Xin hãy nhớ đến chúng con khi
Ngài bước vào vương quốc của Ngài”.
Đó là lời cầu nguyện
đã được đáp lời bởi vì qua Đức Kitô chúng ta đã được cứu chuộc. Chúng ta đã
được cứu thoát khỏi vương quốc của tội lỗi, việc cử hành hy tế Thánh Thể của
chúng ta vào ngày Chúa Nhật: “Là dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa Cha đã làm cho
chúng ta trở nên giá trị, chia sẻ với các thánh trong ánh sáng. Ngài đã cứu
thoát chúng ta khỏi quyền lực của tối tăm và đưa chúng ta vào vương quốc của
Con yêu dấu Ngài”.
Thiên Chúa đã làm cho
chúng ta trở nên những thần dân của Đức Kitô Vua. Ngài đã biến đổi chúng ta qua
những đặc ân là ân sủng để chúng ta trở nên anh chị em của Người. Anh chị em
của Vua là những hoàng thân và quận chúa. Chúng ta là thần dân của vương quốc,
đã được sở hữu những giá trị và phẩm giá mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban
cho.
Chúng ta không cần
những quyền lực thuộc thế gian này làm cho chúng ta được kính trọng. Vua của
chúng ta thật sự là thuộc vương triều. Nước của Ngài không phải là một Camelot
tưởng tượng. Đó là vương quốc hoàn vũ và vững bền, một vương quốc của sự thật
và sự sống, một vương quốc của sự thánh thiện và ân sủng, một vương quốc của
công lý và công chính, của tình yêu và sự bình an. Vua của chúng tôi là Đức
Kitô, là Chúa Kitô.
Lời nài xin trung
thành với Đức Kitô Vua.
Ngày Chúa Nhật này là
thời gian thích hợp để nài xin cho chúng ta sự trung thành với Đức Kitô Vua.
Theo những hình thức đề nghị bài kinh làm nền tảng cho kinh tiền tụng của kinh
nguyện Thánh Thể vào lễ trọng hôm nay, kinh này có thể dùng vào Thánh Lễ bởi
những người lập lại những dòng nài xin theo sau linh mục hoặc vị thừa tác.
Chúng con nài xin được
trung thành với Đức Kitô Vua. Chúng con âu yếm vương quốc vũ hoàn và đời đời
của Ngài. Chúng con nhận biết vương quốc của Ngài là một vương quốc của sự thật
và sự sống, của sự thánh thiện và ân sủng. Chúng con ước ao làm một điều gì đó
mà chúng con có thể, qua hành động và cầu nguyện. Để mang thế giới đến với
vương quốc của Ngài. Vương quốc công chính, tình yêu và sự bình an.
29. Ánh
sáng, sức mạnh và hạnh phúc.
Khi tuyên xưng Đức
Kitô là vua, thì điều ấy có ý nghĩa gì? Hay nói cách khác Đức Kitô là gì đối
với chúng ta?
Tôi xin trả lời:
- Trước hết Ngài là
ánh sáng.
Chúng ta thường nói:
- Người là một con vật
có trí khôn.
Với trí khôn, chúng ta
không ngừng băn khoăn và thắt mắc, để rồi tạo được những tiến bộ trong mọi lãnh
vực.
Vì thế, hai chữ “tại
sao” thường được lặp đi lặp lại trên đôi môi của chúng ta, nhất là đối với
những vấn đề quan trọng.
Chẳng hạn: Ai đã dựng
nên tôi? Tại sao tôi lại sống trên trần gian này? Tôi từ đâu mà đến? Và tôi sẽ
đi về đâu? Đâu là con đường tôi phải bức đi và đâu là những bổn phận tôi phải
tuân giữ?
Nếu Đức Kitô không trả
lời được cho tôi những băn khoăn và thắc mắc kể trên, thì cuộc đời tôi sẽ chìm
vào trong tăm tồi, trong tuyệt vọng.
Thế nhưng, Ngài đã xác
quyết:
- Thầy là đường, là sự
thật và là sự sống.
Ngài không lừa dối ai.
Ngài đến để tỏ lộ cho chúng ta biết những chân lý, những sự thật. Nhờ Ngài,
chúng ta biết được chúng ta bởi đâu mà đến và chúng ta sẽ đi về đâu. Ngài đã
chỉ cho chúng ta biết con đường và đã xác định cho chúng ta những bổn phận phải
tuân giữ, nếu chúng ta muốn tiến đến với chân lý, với Nước Trời.
Vua thánh Đavít đã
diễn tả niềm vui mừng và hạnh phúc của những người sống gắn bó kết hiệp với
Thiên Chúa trong thánh vịnh 23 như sau:
- Chúa chăn nuôi tôi,
Tôi chẳng thiếu thốn
chi.
Trên đồng cỏ xanh rì,
Ngài để tôi nằm nghỉ.
Tới nguồn nước,
Chỗ nghỉ ngơi.
Ngài hướng dẩn tôi.
Tâm hồn tôi,
Ngài lo bồi dưỡng.
Tiếp đến, Đức Kitô là
sức mạnh.
Thực vậy, Chúa Giêsu
không phải chỉ nói, mà Ngài còn làm gương trước cho chúng ta noi theo và bắt
chước. Ngài không phải chỉ chiếu tỏa ánh sáng và truyền ban những mệnh lệnh,
nhưng chính Ngài đã thực thi trước đã. Nhìn vào Ngài, chúng ta sẽ tìm thấy được
niềm an ủi và sức mạnh.
Ngài không truyền cho
chúng ta:
- Hãy sống hiền lành
và khiêm nhường.
Nhưng Ngài đã bảo
chúng ta:
- Các con hãy học cùng
Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Ngài cũng đã phải lần
từng bước một trên con đường lên đỉnh Canvê. Ngài đã sống tinh thần nghèo khó.
Ngài đã thực sự cầu nguyện, kết hiệp mật thiết với Chúa Cha. Ngài đã thực thi
những hành động bác ái yêu thương trước khi truyền dạy.
Hơn thế nữa, Ngài còn
ban sức mạnh để chúng ta tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, với điều kiện là
chúng ta phải gắn bó và cộng tác với Ngài.
Sau cùng, Đức Kitô còn
là niềm hạnh phúc của mỗi người chúng ta.
Thực vậy, nếu chúng ta
sống kết hiệp mật thiết với Ngài và chu toàn những điều Ngài mong muốn, thì
định mệnh cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm, như lời sách “Gương Phúc” đã viết:
- Gắn bó với Đức Kitô,
chúng ta sẽ tìm thấy được niềm hạnh phúc Nước trời. Tìm thấy Đức Kitô là tìm
thấy cả một kho tàng quí giá. Trái lại, mất Đức Kitô là mất tất cả.
Ngày kia, thánh Bemoit
mệt mỏi vì đường xa, đã ngồi nghỉ dưới một gốc cây và dùng bữa. Bữa trưa của
Ngài chỉ có bánh mì đen và nước lạnh. Giữa lúc đó có một đám người đi dự tiệc
cưới trở về. Nhìn thấy thánh nhân với bữa cơm thanh đạm, họ liền tỏ lòng thương
xót. Nhưng thánh nhân đã trả lời như sau:
- Không, có nhiều
người còn đáng thương hơn tôi nữa. Tôi là một người bạn hữu nghĩa thiết cùng
Chúa, chỉ điều này mà thôi cũng đã là làm cho tôi được hạnh phúc.
Hãy gắn bó mật thiết
với Chúa, để rồi chúng ta sẽ tìm thấy hạnh phúc Nước trời, một niềm hạnh phúc
tuyệt vời như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Tai chưa hề nghe,
mắt chưa hề thấy và trái tim chưa một lần cảm nghiệm được những gì Thiên Chúa
sẽ dành cho những người trung thành phụng sự Ngài.
30. Vua vũ trụ.
Hôm nay Chúa nhật cuối
cùng trong năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính lễ Chúa Kitô Vua. Đặt lễ Chúa Kitô
Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta rằng,
Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, của lịch sử nhân
loại và Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta.
Với tâm tình của người
trộm lành bên cạnh Chúa Giêsu trong những giờ phút cuối cùng, chúng ta cũng hãy
tuyên xưng vương quyền của Ngài và nói lên với Ngài tất cả niềm tín thác của
mình, xin Ngài tiếp tục đồng hành và gìn giữ chúng ta trong cuộc sống hằng
ngày.
Thật vậy, nếu phong
thánh là một cữ hành, qua đó Giáo Hội long trọng tuyên bố rằng, một người nào
đó đang được hưởng phúc trên thiên đàng, thì con người đầu tiên phải được phong
thánh chính là một trong hai người cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu, tức là
người thường được mệnh danh là “kẻ trộm lành”.
Trong một số tài liệu
không được Giáo Hội nhìn nhận là linh hứng thì kẻ trộm có tên là Dysmas, theo
truyền thuyết thì ngay cả thập giá của Dysmas cũng đã được mang về bên Italia.
Nhiều vị thánh trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo đã kính nhớ một cách đặc
biệt vị thánh Dysmas này. Dysmas kẻ trộm lành quả thật là một vị thánh đầu tiên
trong Giáo Hội đã được chính Đức Giêsu phong thánh khi Ngài tuyên bố rằng:
“Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. Còn bằng chứng nào hùng hồn
hơn chính lời của Chúa Giêsu. Dysmas đã được Chúa Giêsu phong thánh, bởi vì ông
là người đầu tiên trong nhân loại đã tuyên xưng niềm tin vào vương quyền của
Chúa Giêsu, khi ông thưa với Chúa rằng: “Lạy Ngài, khi nào về về Nước Ngài, xin
Ngài nhớ đến tôi”.
Vậy có thể nói được
rằng, hẳn phải có một niềm tin sâu sắc của một vị thánh thì người ta mới có thể
thốt lên được một lời tuyên xưng như thế trong một hoàn cảnh nghiệt ngã hầu như
tuyệt vọng. Dysmas kẻ trộm lành đã có thể thách thức và nguyền rủa Chúa Giêsu
như người bạn cùng treo với ông hoặc như đám lý hình đang đứng dưới chân thập
giá. Thế nhưng ông đã không làm thế, ông đã có tâm hồn của một vị thánh khi ông
biết nhìn xuyên qua cái bề ngoài tất tưởi thương đau bất lực của Chúa Giêsu để
thấy được quyền năng của một vị vua mà vương quốc của Ngài không thuộc về trần
thế này. Chính trong cái cảnh trơ trụi và tàn bạo nhất do con người tạo ra đó
mà Chúa Giêsu đã đăng quang như một vị vua.
Thật thế, các sách Tin
Mừng đã đặt lễ đăng quang của Chúa Giêsu trong chính cuộc tử nạn của Ngài. Khởi
đầu là cuộc khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem, trong đó Chúa Giêsu đã ngồi
trên lưng của một con lừa con. Qua cử chỉ này, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng
Ngài là Vua, nhưng Ngài là Vua không theo các cung cách của vua chúa trần gian.
Tất cả bản án của Chúa Giêsu đều xoay quanh tước hiệu Vua của Ngài.
Mặt khác, lời tố cáo
mà nhiều người đã đưa ra để buộc tội Ngài là: “Hắn đã tự xưng mình là vua”, và
quan tổng trấn Philatô đại diện cho chính quyền Lamã cũng hỏi Ngài: “Ông có
phải là vua dân Do thái không? Và Chúa Giêsu đã trả lời: Ta là Vua”. Sau cùng,
bản án của Ngài được ghi trên thập giá và được viết bằng ba thứ tiếng: Hy lạp,
Latinh và tiếng Do thái, bản án được ghi như sau: “Jesu Nazareth, vua người Do
thái”.
Chính trong niềm đau
tột cùng và cái chết tất tưởi trên thập giá mà Chúa Giêsu đã đăng quang như một
vị vua, nhưng cũng chính trong cuộc tử nạn ấy mà Ngài đã xác quyết rằng: “Vương
quốc của Ngài không thuộc về thế gian này”, và Ngài không làm Vua theo các cung
cách của vua chúa ở trần gian. Chúa Giêsu là Vua, nhưng Ngài là Vua của phục
vụ, của khiêm hạ, của quên mình và nhất là của tha thứ trong yêu thương.
Thật vậy, còn gì vương
giả cho bằng khi Ngài cầu nguyện với Thiên Chúa Cha để xin ơn tha thứ cho những
kẻ đã làm hại Ngài. Chúa Giêsu là Vua của Tình Yêu, chính tình yêu là sức mạnh
của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho Ngài tuyên bố: “Khi nào Ta chịu
treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người đến với Ta”.
Qua hơn 2000 năm, lời
ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần
gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không
chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy Đức Giêsu làm cái mốc để tính
thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời gian sau Đức Kitô và
dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên thì con người nói như
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: “Con người sẽ không bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra
khỏi lịch sử của mình”. Đức Kitô đang lôi kéo mọi người về với Ngài, Ngài đang
đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này
có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người
đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và
tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn
sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và
tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng.
Tiếp nhận và tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của
Ngài ngay trên trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu
thương, vương quốc của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng
vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe
được lời hứa của Ngài cho người trộm lành: “Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong
vương quốc của Ta”.
31. Chúa
Kitô, Vua vũ trụ – Veritas
(Trích từ ‘Hãy Ra
Khơi’)
Các tông đồ ngày xưa,
từ khi bắt đầu theo Chúa cho đến khi được Chúa Thánh Thần biến đổi sau biến cố
Phục sinh, và chúng ta hôm nay nếu không được Chúa Thánh Thần soi sáng thì
không thể nào hiểu được mầu nhiệm thập giá. Trong cuộc đời của Chúa cũng như trong
cuộc đời của mỗi lần Chúa mạc khải mầu nhiệm thập giá mà chính Ngài đã thực
hiện là mỗi lần các tông đồ hoặc né tránh hoặc hiểu sai ý nghĩa và tranh nhau
chỗ vinh quang tả hữu, nhất nhì trong Nước Chúa.
Trong ngày lễ Chúa
Kitô Vua hôm nay, kết thúc năm phụng vụ theo chu kỳ C, để rồi vào tuần tới Chúa
nhật I Mùa vọng, khai mào năm phụng vụ mới theo chu kỳ A, Giáo Hội mời gọi
chúng ta suy niệm và sống mầu nhiệm Nước Chúa, tôn vinh Chúa Kitô làm Vua vũ
trụ dựa theo Tin Mừng thánh Luca mà chúng ta vừa đọc lại trên đây, mô tả cảnh
Chúa Giêsu chịu chết treo trên thập giá giữa hai kẻ trộm, một kẻ dữ buông lời
xúc phạm và một kẻ lành thành tâm thống hối ăn năn và nhận được lời bảo đảm của
Chúa: “Hôm nay con sẽ được ở với Ta trên thiên đàng”.
Tại sao trong ngày lễ
Chúa Kitô Vua mang màu sắc đầy vinh quang chiến thắng, Giáo Hội lại nêu cao
biến cố đau thương Chúa chịu chết treo trên thập giá như vậy? Chúng ta không có
nhiều giờ để chú giải sâu rộng đoạn Phúc âm trên, nhưng một cách vắn tắt chúng
ta có thể nói trước hết bản chất của Nước Chúa được Chúa Giêsu mạc khải nơi đây
cho người trộm lành, đó là được ở với Chúa. Nước Chúa là nơi Chúa ở với ta, ta
ở với Chúa, được vui hưởng sự hiện diện của Ngài và Chúa Giêsu đã thực hiện
Nước Chúa là ban ơn cứu rỗi cho con người qua cái chết hy sinh trên thập giá,
không có con đường nào khác và Chúa Giêsu đã nhiều lần xác nhận: “Ai muốn theo
Ta hãy từ bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.
Chúa Giêsu chiến thắng
những sự dữ, những bạo lực, những sự ác ôn âm mưu mánh mung trong tâm hồn con
người bằng cái chết hy sinh trên thập giá và Chúa vẫn còn tiếp tục làm như vậy,
tiếp tục chịu chết như vậy, cả trong ngày hôm nay nữa để thực hiện quyền làm
chủ của Ngài trên mọi sự.
Thật ra, là Đấng Tạo
Hóa mọi loài, mọi vật, Chúa làm chủ mọi loài mọi vật, Chúa đã làm vua mọi loài
mọi vật, nhưng Chúa đã tạo dựng con người có tự do và con người đã dùng tự do
này để thoát ra khỏi bàn tay Chúa, thoát ra khỏi quyền làm chủ của Ngài. Không
những con người thoát ra khỏi quyền làm chủ của Ngài, mà con người còn dùng
quyền tự do của mình để làm cho vạn vật này thoát ra khỏi quyền làm chủ của
Thiên Chúa.
Chúa làm vua, nhưng
Chúa muốn cho con người nhìn nhận Ngài làm vua qua con đường thập giá. Chúa
biết rõ đây là cách thế duy nhất để chiến thắng sự tự do của con người, để
chiến thắng sự dữ mà tự do của con người gây ra trên trần gian này đó là cái
nhìn từ Thiên Chúa, Thiên Chúa Cha luôn nhìn về lịch sử của con người từ trên
cao xuống qua thập giá của Chúa Giêsu.
Nói đến đây tôi nhớ
lại một bức tranh của một nghệ sĩ tài ba về cảnh Chúa Giêsu chịu chết treo trên
thập giá không theo cách thông thường nhìn từ dưới lên, mà một cách đặc biệt
nhìn từ trên cao xuống. Thiên Chúa Cha nhìn vào trần gian qua thập giá của Chúa
Giêsu từ trên cao xuống và nhìn từ phía con người thì sao?
Bài Phúc âm hôm nay
cũng gợi lại cho chúng ta một khía cạnh căn bản thường bị bỏ quên, đó là khía
cạnh được người trộm lành thực hiện việc ý thức về tội lỗi của mình, anh đã
thống hối nhìn nhận lỗi lầm, khiêm tốn xin Chúa tha thứ. Thiên Chúa không thể
cứu rỗi con người, nếu con người không muốn được cứu rỗi. Con người có tự do,
họ có thể chống lại Ngài, khước từ ơn cứu rỗi Ngài ban, hoặc lãnh nhận một cách
tích cực và sốt sắng. Chúa Giêsu chỉ thực hiện quyền làm vua của Ngài, quyền làm
Chủ của Ngài trên con người, khi con người biết thống hối ăn năn quay trở về
với Ngài. Chúng ta chỉ có thể nhìn nhận Chúa Giêsu là Vua, nhìn nhận ơn cứu rỗi
của Chúa để Chúa thực hiện nơi mình và để mình được hiện diện với Chúa.
Đây là bước đầu tiên
căn bản không thể thiếu được. Chính vì thế mà tác giả Phúc âm thánh Marcô khi
mô tả giây phút khởi đầu cuộc đời rao giảng Tin Mừng của Chúa đã xác nhận một
cách mạnh mẽ qua lời Chúa Giêsu: “Nước Trời đã gần đến. Hãy ăn năn thống hối và
tin vào Tin Mừng”.
Mừng lễ Chúa Kitô Vua
hôm nay, chúng ta không nên dừng lại ở nơi những khẩu hiệu hoan hô bên ngoài:
“Chúa là Vua”, nhưng mỗi người chúng ta cần phải ý thức về những lỗi lầm của
mình và thống hối ăn năn trở lại xin Chúa tha thứ. Xin Chúa thực hiện quyền làm
chủ của Chúa trên con người của chúng ta, trên cuộc đời chúng ta. Xin Chúa tha
thứ tất cả tội lỗi mà chúng ta đã xúc phạm đến Chúa, để chúng ta được trở nên
con cái Chúa, để Chúa thực sự là chủ, là Vua trên cuộc đời của mỗi người chúng
ta. Xin Chúa củng cố đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh
Tin Kính.
32. Trộm lành.
Khi nói Chúa Giêsu là
vua, chúng ta có thể thắc mắc ngay: Chúa là vua của nước nào? Nước Chúa ở đâu?
Và ai là dân của Chúa? Những thắc mắc này, chính Chúa đã trả lời khi Chúa nói
với tổng trấn Philatô: “Nước tôi không thuộc về thế gian này. Tôi đã sinh ra và
đã đến thế gian nhằm mục đích: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật
thì nghe tiếng tôi”. Câu trả lời ấy cho chúng ta biết: đâu không phải là Nước
Chúa và đâu là Nước Chúa. Nước Chúa không thuộc về thế gian, có nghĩa là bất cứ
nước nào, bất cứ chế độ nào, với nền văn minh nào, cũng không thể đồng hóa với
nước Chúa. Vậy Nước Chúa ở đâu? Thưa Nước Chúa ở trong các tâm hồn, những tâm
hồn khao khát sự thật, tôn trọng sự thật, và nhất là đón nhận sự thật. Như vậy,
Nước Chúa gồm tất cả các tâm hồn yêu chuộng sự thật. Do đó, Nước Chúa rộng hơn
Hội thánh, bởi vì ngoài Hội thánh, vẫn có biết bao nhiêu người yêu chuộng sự
thật. Đang khi đó, trong Hội thánh cũng có thể có nhiều người không thuộc về
Nước Chúa, vì họ không yêu chuộng sự thật, không đón nhận sự thật. Sự thật đó
là tình yêu cứu độ Chúa Giêsu đem đến.
Vậy, tất cả những ai
đón nhận tình yêu cứu độ đó, họ sẽ được nhận vào Nước Chúa, điển hình như người
trộm lành kể lại trong bài Tin Mừng. Khi Chúa Giêsu bị đóng đinh trên thập giá,
những người chứng kiến đã có những thái độ khác nhau: có kẻ xót thương, có
người lãnh đạm vô tình, có kẻ thách thức, nhục mạ, nhưng cũng có người nhận ra
Chúa và van xin Chúa. Đó chính là người trộm lành. Anh không dám thách thức
Chúa như người trộm khác cùng bị đóng đinh với anh hay như những người vô lễ
khác, nhưng anh biết tội mình và suy đoán rằng vương quyền mà Chúa liều chết vì
nó phải là một vương quyền tốt đẹp vô lường nên anh kêu xin Chúa cứu vớt để
được đưa vào vương quốc ấy. Đúng vậy, giữa đám đông mù quáng, ngược ngạo, ít ra
cũng còn một tâm hồn ngay tình. Đó là người trộm lành trong một hoàn cảnh thật
bi đát bị treo trên thập giá, anh đã biết nhận tội của mình và nhìn nhận sự vô
tội của Chúa Giêsu. Giữa lúc mọi người đều bỏ rơi Chúa, đã quên hết những phép
lạ, những lần đi theo Chúa lúc Ngài được tôn vinh, người trộm đã nhận ra vương
quyền của Chúa và tuyên xưng đức tin của mình bằng một lời van xin đầy hy vọng
sâu xa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi”. Lời cầu
nguyện khiêm hạ của anh đã mở được cửa vương quốc đó cho anh.
Đó, chúng ta thấy, cả
hai người trộm cùng có những hoàn cảnh như nhau, nhưng chỉ có người trộm lành
bên phải Chúa đã được cứu rỗi, vì anh đã nhận ra tình yêu cứu độ và biết cầu
xin. Chắc chắn anh ta không phải là loại người thuộc giáo lý, hiểu biết lý
thuyết về đạo, nhưng vì anh ta đã tin và cầu nguyện với lòng khiêm tốn chân
thành, nên anh đã được cứu độ. Thánh Âu tinh đã nói về người trộm này như sau:
“Từ tội giết người, y được dẫn đến thẩm phán, từ thẩm phán đến thập giá, từ
thập giá đến thiên đàng”. Và thánh Gioan Kim Khẩu cũng nói: “Từ thập giá y đã
bay bổng lên trời. Thực vậy, tự thân là một tên ăn trộm chuyên nghiệp, y đã
dùng ngón nghề của mình để cướp lấy Nước Trời, bằng lòng sám hối và lời tuyên
xưng đức tin”.
Ngoài ra, về hai người
trộm này còn cho chúng ta một bài học khác nữa, đó là vác thập giá có công và
vác thập giá không có công. Chúng ta thấy: người trộm bên trái Chúa đã vác thập
giá, hơn nữa, đã bị đóng đinh trên thập giá nhưng không có công gì. Trái lại,
người trộm bên phải cũng vác thập giá và bị đóng đinh vào thập giá, sau cùng đã
được thưởng công lên thiên đàng. Cái khác nhau về sự thưởng phạt giữa hai người
là do cách vác thập giá của mỗi người: người trộm bên trái đã kiêu căng, khích
bác và chỉ trích Chúa, nên đã không có công trạng gì. Trái lại, người trộm bên
phải Chúa đã khiêm nhường, cậy tin vào Chúa, nên anh đã được công, được Chúa
ban phúc thiên đàng.
Trong Tin Mừng, chúng
ta thấy Chúa hứa trả công cho mỗi người tùy theo công việc họ đã làm. Công việc
của mỗi người chúng ta là vác thập giá theo Chúa. Lời Chúa hứa thật khích lệ
chúng ta. Giả sử Chúa căn cứ vào những thành tích to lớn hay lấy lương trả công
cho mỗi người, thì nhiều người chúng ta chắc sẽ là tay không, vì mình chẳng có
công trạng gì như thế. Nhưng Chúa nói Chúa sẽ căn cứ vào công việc của mỗi
người vác thập giá theo Chúa mà thưởng công. Như vậy thì tất cả chúng ta: những
người già yếu, những người khốn khó, những người nghèo túng, những người bệnh
tật, những người neo đơn, những người kém cõi… tất cả những ai đang vác thập
giá vì Chúa đều là đối tượng được Chúa thưởng sau này.
Lễ Chúa Kitô Vua kết
thúc năm phụng vụ là đoạn cực mạnh trong bản Allêluia của Giáo Hội, hô vang
niềm hy vọng, niềm vui và sự phấn khởi của người có lòng tin vào Chúa. Ngày lễ
hôm nay đem lại cho chúng ta một tâm tình lạc quan tin tưởng, một lòng quảng
đại vô bờ bến, một sức mạnh để vươn lên mà không chông gai nào làm chùn được, không
đau khổ nào ngăn được, Chúa Kitô Vua đã toàn thắng đau khổ và sự chết để cho
chúng ta được toàn thắng đau khổ và sự chết. Allêluia, Allêluia, Allêluia.
33. Vua vũ trụ.
Hôm nay chúng ta mừng
lễ Chúa Kitô – Vua vũ trụ, kết thúc năm phụng vụ. Năm phụng vụ mở đầu bằng mầu
nhiệm Nhập thể, khai triển qua cuộc tử nạn, Phục sinh để rồi kết thúc bằng
vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Như vậy, năm phụng vụ tượng trưng cho chu kỳ
thời gian bắt đầu từ Đức Kitô và cuối cùng trở về với Ngài. Đức Kitô chính là
khởi đầu và là cùng đích của vũ trụ và lịch sử nhân loại.
Cho nên thật thích hợp
khi kết thúc năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi con cái mình chiêm ngắm Đức Kitô,
Vua vũ trụ. Chỉ một mình Đức Kitô mới là vua đích thực. Chỉ một mình Ngài mới
là Đấng để con người lệ thuộc và tôn thờ.
Tuy nhiên để có thể
sống nội dung đích thực của ngày lễ Chúa Kitô vua hôm nay, chúng ta cần suy
nghĩ xem: tước hiệu Vua Kitô phải được hiểu như thế nào? Và việc tuyên xưng Đức
Kitô là vua mang lại ý nghĩa gì cho cuộc sống người Kitô hữu?
Lần giở những trang
Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giêsu không có thiện cảm lắm với tước hiệu vua, một
tước hiệu vốn gắn liền với hình ảnh độc tài, độc đoán. Và vì thế cũng dễ gây
cảm giác khó chịu cho con người thời đại dân chủ hôm nay. Đức Giêsu đã dứt
khoát thắng được cơn cám dỗ về quyền bính khi Ngài ở trong sa mạc chuẩn bị cho
sứ vụ công khai. Có lần, sau phép lạ hóa bánh ra nhiều, dân chúng tôn phong
Ngài làm vua, nhưng Ngài tránh đi nơi khác.
Vậy mà trong những giờ
đau đớn nhất, khi bị nộp trước quan tổng trấn của đế quốc Lamã, tay bị trói,
đầu đội mão gai, thì Đức Giêsu lại nhận mình là vua, nhưng Ngài minh định ngay:
Nước tôi không thuộc về thế gian này. Và Ngài không làm vua theo cung cách của
các vua chúa trần gian. Đức Giêsu là vua nhưng Ngài là vua của phục vụ, của
khiêm hạ, của quên mình, nhất là của vua tha thứ trong yêu thương.
Chính trong niềm đau
tột cùng và cái chết tất tưởi trên thập giá mà vương quyền của Đức Kitô được tỏ
hiện. Và điều này một số người đã không nhầm lẫn. Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe
nói về anh trộm lành. Anh trách mắng người bạn cùng chịu hình phạt với mình đã
chế nhạo vương quyền Đức Kitô, rồi quay sang Đức Kitô, anh bày tỏ với hết lòng
tin tưởng: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Và Đức Giêsu nhận
lời anh: “Ngay hôm nay, anh sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Cái vương quyền ấy,
vào thời điểm ấy mới đẹp làm sao! Đức Kitô trên thập giá hoàn toàn là kẻ bại
trận. Chỉ có người đặt lòng tin vào sự phục sinh của Ngài mới có thể hiểu được
vương quyền ấy. Ở đây, chúng ta đứng trước một vương quyền thiêng liêng, nghĩa
là vương quyền theo Thánh Thần Thiên Chúa, được trang bị chỉ bằng sức mạnh của
Chúa Thánh Thần. Nếu vị vua ấy có giải phóng thì theo một nghĩa sâu sắc là giải
phóng tâm hồn.
Vị vua ấy đòi hỏi gì ở
thần dân mình? Một điều duy nhất, đó là đức tin. Nghĩa là tin tưởng vào lời
Ngài, Ngài mới làm cho chúng ta nên cao trọng. Thay vì bắt buộc phải sống sát
mặt đất, đến với đêm đen, đối diện với một tương lai u tối và vô định, nhất
thiết dẫn đến sự chết thì Ngài lại cho phép chúng ta tin tưởng cậy trông. Và
như thế không phải Ngài đã làm cho chúng ta nên trưởng thành đó sao? Sự tin
tưởng cậy trông khiến con người lớn lên, chính là điều dẫn con người đến với sự
yêu thương. Sự tin tưởng cậy trông chính là điều cho phép con người trực diện
với cái chết bởi vì đã có lời loan báo sự yêu thương và sự sống vĩnh cửu.
Vua của chúng ta là
như thế đó! Chức vị vua của Ngài là để phục vụ cho thần dân. Uy quyền của Ngài,
sự toàn năng của Ngài đó là quyền tối thượng để yêu thương và tha thứ. Ngài đã
thi hành vương quyền ấy bằng cách lôi kéo con người ra khỏi tội lỗi và sự chết
để đưa vào vương quốc của sự sống vĩnh cửu. Không, vương quốc của Ngài không thuộc
về thế gian này. Nguồn gốc và uy quyền chính đáng của Ngài không tìm thấy trong
thế gian này. Ngài múc lấy nó từ Thiên Chúa để rồi Ngài cho phép chúng ta đi
suốt cuộc đời trần thế này, không phải trong điệu nhạc buồn thảm chết chóc
nhưng là trong lời ca vẻ vang của ngày lễ Phục sinh, vì được cùng Ngài sống lại
vinh quang.
Mừng lễ Chúa Kitô –
Vua vũ trụ, có nghĩa là chúng ta tuyên xưng vương quyền của Đức Kitô để bước đi
trong vương quốc của Ngài. Do đó việc tuyên xưng Đức Kitô là Vua phải dẫn đưa
người tín hữu đến một thái độ cần có trong đời sống đức tin.
Tuyên xưng Đức Kitô là
Vua chính là mặc lấy thái độ của anh trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay: biết
sám hối, ăn năn, tin vào quyền năng yêu thương của Ngài. Chỉ những ai biết kính
sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
Tuyên xưng Đức Kitô là
Vua là đi theo con đường của phục vụ và phục vụ cho đến cùng.
Khi vua Hêrôđê được
các đạo sĩ báo tin sự ra đời của vị Vua Israel, ông ta run sợ, ông sợ một sự
cạnh tranh… Xin tất cả các vua Hêrôđê trên trần gian hãy an tâm, vương quyền
của Đức Kitô không cạnh tranh với ai cả. Ngược lại, nó mời gọi tất cả những ai,
cách nào đó đang thực thi quyền bính, hãy noi theo vua vũ trụ, làm tôi tớ cho
những người mà họ cai trị.
Dĩ nhiên lời mời gọi
này ưu tiên hướng đến những Kitô hữu, những người mà nhờ Bí tích Rửa tội, đã
được tham dự vào vương quyền của Đức Kitô. Nếu Đức Kitô là Vua Tình Yêu thì
người Kitô hữu cũng được mời gọi đi theo con đường của Đức Kitô đã đi: con
đường của yêu thương, phục vụ để xây dựng vương quốc của Ngài trên trần gian
này;vương quốc của huynh đệ, vương quốc của tình thương, vương quốc của công lý
và hòa bình.
Và mỗi một lần, chúng
ta xây dựng vương quốc ấy bằng một cữ chỉ yêu thương, dù nhỏ bé nhất, thì chắc
chắn chúng ta cũng sẽ nhận được lời hứa của Đức Giêsu: Hôm nay đây, con sẽ ở
cùng ta trong vương quốc của Ta.
Lễ Chúa Kitô Vua vũ
trụ nhắc nhớ cho mỗi người Kitô hữu chúng ta về một vương quốc đích thực mà mỗi
người phải mong đợi bước vào, về một vương quyền đích thực mà mỗi người phải
tôn nhận và quy phục. Hãy thực sự chọn Đức Kitô là Vua và là Cứu Chúa của đời
ta và hãy bước đi trong đường lối của Ngài, vì chỉ nơi Đức Kitô chúng ta mới
tìm được sự sống viên mãn cho chính mình.
Giáo hội luôn nhắc nhở
chúng ta về phẩm giá cao cả của mỗi người Kitô hữu, đó là được tham dự vào
vương quyền của Đức Kitô. Mỗi người chúng ta được mời gọi tham dự vào vương
quyền của Đức Kitô bằng cuộc sống phục vụ, yêu thương quên mình. Lạy Chúa Kitô
Vua vũ trụ và Vua của mỗi người chúng con. Xin Chúa đón nhận chúng con vào
vương quốc của Chúa và thêm sức để chúng con sống xứng đáng với tước hiệu là
thần dân của Chúa.
34. Cơn cám dỗ cuối
cùng – Thiên Phúc
(Trích từ ‘Như Thầy Đã
Yêu’)
Vua Cảnh Công nước Tề,
một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm
vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tùy tùng
thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày
hỏi: - Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười
Án Tử trả lời:
- Nếu các vua đời
trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự
thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại
khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được?
Vua trần gian có thần
dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại,
Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định: “Nước tôi
không thuộc về thế gian này”. Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới
lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo
báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá,
đã nói lên vương quyền của Chúa Giêsu: “Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy
mình đi, nếu thật hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển
chọn” “Đấng Kitô” chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. “Người
Thiên Chúa tuyển chọn” chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là
lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người: “Khi nào
về Nước của Người, xin nhớ đến tôi”.
Tuy nhiên, Nước của
Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không
để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu,
vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không “xuống khỏi thập giá”
cách ngoạn mục, nhưng đã “kéo mọi người” lên với Người. Người đã không “cứu lấy
chính mình”, nhưng đã “cứu lấy mọi người” khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của
Người.
Người đã sẵn lòng chịu
chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh thánh rằng: “Người đã hiến thân chịu
chết và bị liệt vào hàng phạm nhân”. Người đã hòa mình trong đám người tội lỗi,
đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như
lời đồn đại về Người: “Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi”.
Vâng, vương quyền của
Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng “khối” tình
yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời
thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người
tội lỗi, chính là thần dân của Người.
Thần dân đầu tiên mà
vị vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục,
chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại
nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn
hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người: Anh
mắng người trộm dữ: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa,
mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với
việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái!” Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn
năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc
chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn; giữa
lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã
tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh
cầu nguyện: “Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi”. Người nhận lời
tức khắc: “Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.
Một lời hứa mà Người
chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực
hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng Phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào
vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc
cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ
số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn
khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối
chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính
từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự
sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì vua Giêsu tiếp tục lan rộng
cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên
Chúa: “Người này quả thật là công chính”.
Và trong suốt 2000 năm
qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người; những
thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai
biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh
trộm lành, mới được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính
sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho đức
tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với
Người.
Xin dạy chúng con luôn
cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy
lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen.
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa Nhật cuối cùng
của năm phụng vụ, Giáo hội cử hành lễ trọng kính Chúa Kitô Vua Vũ Trụ. Đức Kitô
là Chúa, là Vua chúng ta. Nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian
này. Trong năm phụng vụ chúng ta đã thấy xuất hiện các sự kiện tiên tri như sự
tôn kính của các nhà đạo sĩ, xức dầu tại Bêthania, hoặc qua các dụ ngôn... xác
định Đức Kitô như là "Vua", theo ý nghĩa "Thiên Sai", nghĩa
là "kẻ thừa tự ngai vua Đavid, thể theo những lời hứa của các tiên tri,
thừa hưởng vương quốc không bao giờ cùng tận (x. Lc 1,32-33).
Hôm nay, chúng ta cử
hành với niềm vui khôn tả và quả quyết rằng Đức Giêsu là Vua. Câu hỏi được đặt
ra: Vậy Ngài là Vua những gì? Câu trả lời: Đức Giêsu không là vua của những gì
hết. Ngài là Vua vinh quang, Vua mọi sự. Đơn giản, Ngài là Vua, hoàn toàn là
Vua. Thực tế xem ra khó chấp nhận, vì con người muốn biến Đức Giêsu trở nên trò
cười khi mặc cho Ngài áo tím và đội mão gãi.
Các bản văn phụng vụ
trình bày vương quốc của Đức Giêsu như một bức tranh đầy ấn tượng. Mỗi lần đọc
nhấn mạnh vai trò trung tâm của Chúa Kitô. Ngài là Chúa Cứu Thế, Người đã được
xức dầu (x. 1Col 1, 12-20), Ngài là Thiên Chúa duy nhất của vũ hoàn, trong đó
chúng ta là anh em, Ngài là Vua khiêm nhường, luôn nhớ kẻ có tội mà phải chịu
đau khổ.
Thánh giá thẳng đứng
trong vinh quang. Ngai vàng, gợi lên những sự khiêu khích. Ba lần Đức Giêsu bị
hỏi: "Nếu ông là Đấng Kitô" (x. Lc 23, 35-43). Mỗi nhóm cáo buộc Ngài
đều hỏi về tình trạng cá nhân của chính Ngài. Các nhà lãnh đạo tôn giáo mong
đợi Người Thiên Chúa tuyển chọn nên hỏi: "Nếu ông là Đấng Mê-si" (Lc
23, 35). Những tên lính bảo vệ sức mạnh của Đế chế La Mã, thách thức Ngài:
"Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi"(Lc 23, 38). Một
tên trôm cướp cùng bị đóng đinh cũng kêu lên trong đau đớn nhằm thoát khỏi cái
chết: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa"
( Lc 23, 40). Địa vị của họ khác nhau, nhưng họ lại giống nhau ở điểm thách thức
Chúa: "Ông hãy tự cứu mình đi!" Như thể thách Đức
Giêsu xuống khỏi thập
giá để chứng minh vương quốc của mình! Đây là cơn dám dỗ cuối cùng. Nhưng Chúa
Kitô đã không đến thế gian để biểu dương sức mạnh của Ngài cho ta thấy, Ngài
đến để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa Cha và nhân loại với nhau, đồng thời
ban lại cho chúng ta tự do đã bị đánh mất vì tội, nhất là trao ban cho chúng ta
chính tình yêu. Khi chịu treo thên thập giá Đức Giêsu đã mạc khải vinh quang
của Ngài, Ngài là Con Chiên bị sát tế để xóa tội trần gian.
Giữa những lời nhạo
báng và thách thức, có một lời công nhận vương quốc của Thiên Chúa. Anh thì
thầm: " Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi" (Lc 23, 42).
Một tên trộm bị đóng đinh công nhận Đức Giêsu là Vua, thế là Ngài cho anh vào
vương quốc của Ngài như anh xin: "Ta bảo thật ngươi: ngay hôm nay, ngươi
sẽ ở trên thiên đàng với Ta"(Lc 23, 42).
Vương quốc của Vua
Giêsu không hão huyền, trừu tượng, vương quốc ấy có mặt ngay hôm nay, nơi Chúa
Kitô hiện diện. Như vậy, bản cáo trạng chống lại Đức Giêsu viết, "Đây là
Vua dân Do Thái " là thật trớ trêu, bởi từ trên thập giá vương quốc của
Đức Kitô tỏa sáng vinh quang. Điều mà theo ý các kẻ thù của Người có thể là sự
biện minh cho bản án của Ngài, thì trong con mắt của Cha trên trời, đó là sự
công bố quyền cai trị phổ quát của Vua Giêsu. Cái chết của Ngài trên thập giá
là hành động đẹp nhất chứng tỏ tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người.
"Chúng ta hãy vui
mừng cảm tạ Chúa Cha, đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng chung hưởng phần
gia nghiệp... trong cõi đầy ánh sáng". Cùng với Thánh Phaolô, chúng ta vui
mừng hân hoan và biết ơn vì chúng ta được kêu gọi trở nên thành phần của Vương
quốc Vua Kitô: "Người giải thoát ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào
vương quốc Thánh Tử chí ái; trong Thánh Tử chúng ta được cứu chuộc, được thứ
tha tội lỗi" ( Cl 1, 12-20). Nhờ sự chết của Ngài, Vua Giêsu đã hòa giải
tất cả mọi sinh linh; "nhờ máu Người đổ ra trên thập giá" Ngài đã
đóng ấn một giao ước muôn đời. Khi phục sinh, Thiên Chúa Cha tôn phong Ngài làm
Vua và là "trưởng tử trong số những người từ cõi chết sống lại",
"Người là đầu của thân thể, nghĩa là đầu Hội Thánh." Bài thánh ca
được hát bởi Thánh Phaolô, kỷ niệm sự vĩ đại vô song của Chúa Kitô, và đưa
chúng ta đến chiêm ngắm Thánh giá, nơi vương quyền của Chúa Giêsu Kitô được tỏ
hiện.
Ai sẽ loan báo cho thế
giới vương quốc của Đức Giêsu, nếu không phải là những chi thể của Thân Thể
Người? Một vị vua không được thiết lập chỉ để ngưỡng mộ và tôn thờ, sứ mạng của
vị vua sẽ vô hiệu, nếu đối tượng của mình không phục vụ. Câu hỏi đặt ra cho chúng
ta trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, Chúa Kitô có phải là Vua và là Chúa của đời tôi
không? Ai hiển trị trong tôi, ai đặt những mục tiêu và thiết lập những ưu tiên:
Chúa Kitô hay ai khác? Theo Thánh Phaolô, có hai con đường có thể để sống:
"hoặc cho mình hay cho Chúa" (x. Rm 14:7-9), vậy tôi sống cho chính
mình hay sống cho Chúa?
Lạy Chúa Giêsu là Vua
các vua, Chúa các chúa, Vua của vũ hoàn. Chúng con cùng với muôn loại thụ tạo
cung chúc tôn thờ và cảm tạ Vua Giêsu, Vua Tình Yêu. Xin cho đời chúng con
thành lời ca ngợi, luôn làm theo ý Vua vũ hoàn nhiệt thành phục vụ Chúa và tha
nhân. Lạy Đức Giêsu Kitô là Vua vũ trụ, mọi vinh quang và danh dự cho Thiên
Chúa Cha đến muôn đời. Amen.
36. Vương quốc
tình yêu.
Benjamin Franklin, một
con người say mê sách vở, đã viết một tấm bia cho chính ông, mà ông hy vọng
rằng nó sẽ được đặt trên phần mộ của ông. Tấm bia như thế này: "Thân xác
của Benjamin Franklin, tựa như bao bìa của một cuốn sách cũ, những gì của nó bị
xé bỏ và tẩy đi cả chữ khắc mạ vàng của nó nữa, và nó nằm đây cho dòi bọ; nhưng
tác phẩm của nó sẽ không bị mất, vì nó sẽ được tái hiện một lần nữa trong hình
thức mới với nhiều vẻ đẹp huy hoàng hơn, và được tu sửa bởi tác giả, như nó đã
tin.
Franklin đã nói đúng:
"Tác phẩm của ông sẽ không bị mất!" Benjamin Franklin cũng không bị
mất! Quí bạn sẽ không bị mất! Cả tôi cũng không bị mất! Thiên Chúa, Cha chúng
ta, sẽ không bỏ rơi chúng ta. Đức Kitô, Vua chúng ta, đã hứa cho chúng ta được
vào Vương Quốc Tình Yêu muôn thuở của Ngài trong đời sống mới.
Vương Quốc Tình Yêu
được thể hiện qua tình yêu của chúng ta đối với mọi người. Qua cảm nghiệm của
tình yêu, ở nơi đây và trong lúc này, Thiên Chúa nhân từ đã ban cho chúng ta
một chút cảm nghiệm của sự toàn hảo để vào Nước Tình Yêu Vĩnh Hằng của Ngài.
"Chúa Giêsu đến không chỉ mang nhân loại vào thiên đàng, nhưng còn mang
thiên đàng vào trong nhân loại; lại nữa không chỉ mang nhân loại ra khỏi địa
ngục, nhưng còn mang địa ngục ra khỏi nhân loại."
Thật là lạ lùng cao cả
thay những chương trình và mục đích Mầu Nhiệm của Thiên Chúa! "Đây là Vua
dân Do thái," những chữ này có thể nhìn thấy nơi bảng viết được treo phía
trên đầu Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Vua gì? Chắc chắn không phải con người đầy
thương tích và máu me bị án phạt dã man đã bị treo trên Thánh Giá! Thưa Vâng! Chính
là Con Người này! Người đã nhận lấy dụng cụ xử hình mà biến đổi thành biểu ngữ
hy vọng chiến thắng của sự nhân từ.
Trong sách Samuel,
chúng ta đọc thấy Chúa phán cùng Đa-vít rằng, "Ngươi sẽ là người dắt dân
Israel của Ta, và ngươi sẽ là lãnh tụ của chúng. Bởi đó họ đã xức dầu tấn phong
Đa-vít làm vua Israel... và ông đã cai trị suốt 40 năm trên toàn Israel và
Giuđa" (2 Sam. 5:3,5). Kể từ đó Giáo Ước giữa Thiên Chúa, Vua Đa-vít, và
toàn dân được thiết lập, và Giao Ước đó ngày nay vẫn còn uy quyền.
Hiện nay, ở Jerusalem,
Pari, New York, Madrid, Morocco, Buenos Aries, trên toàn thế giới, và ngay tại
đây, Đức Kitô, Con Vua Đa-vít, được xưng tụng là Vua Kitô! Vua Kitô đã mang ý
nghĩa đến cho sự hiện hữu vô lý và không quan trọng mỗi người chúng ta. Vua Kitô
bảo đảm cho chúng ta rằng bất sự gì là sự thật, tốt lành, và đẹp đẽ -- bất kể
nó bị xem như hiện nay bị đả bại -- thì sẽ được bào chữa và hoàn hảo khi Thiên
Quốc ngự đến.
"Nước Ta không
thuộc thến gian này," Chúa Giêsu đã nói với Philatô như thế. Vương Quốc
của Đức Kitô không xây dựng như những vương quốc trần ai khác. Vương Quốc của
Đức Kitô không xây trên nền móng những hiến pháp, sắc lệnh, súng ống, và khủng
bố, cũng không dựa trên những giao tiếp xã hội mơ hồ, như những nhà chính trị
triết gia đặt nó. Không, Vương Quốc của Đức Kitô được thiết lập trên Giao Ước
Tình Yêu. Nhưng thế giới chưa được sẵn sàng để sống bằng Giao Ước này. Chỉ khi
nào Tình Yêu Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị trong mỗi tâm hồn và đời sống của mọi
người thì Vương Quốc đó sẽ toàn vẹn. Thời gian đó sẽ đến! Thiên Chúa đã hứa như
thế.
Qua cuộc chiến thắng
sự chết của Chúa Giêsu, Quyền Lực Hồi Sinh của Thiên Chúa đã ban phát. Từ khi
sự chết bị đánh gục, sợ hãi không còn thị oai hay đánh ngã được những ai sống
trong Chúa nhờ đức tin. Chúng ta, con dân của Giao Ước tin tưởng rằng: cùng một
Thiên Chúa, Đấng đã làm Chúa Giêsu phục sinh từ cõi chết cũng sẽ nâng dậy tất
cả những ai tin nơi Ngài.
Như một điệp khúc được
lập đi lập lại nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa Giêsu dạy rằng sự toàn hảo của
chúng ta là vô kỷ và vị tha. Chúa Giêsu nói, "Hãy yêu tha nhân như chính
Ngài đã yêu chúng ta." Chúa Giêsu đã dạy bài học này, bằng lời nói cũng
như việc làm cho tới hơi thở cuối cùng trên Thánh Giá. Ngài bị treo giữa hai
tên cướp, mà một kẻ thì chỉ lo cho riêng thân mình, còn người kia lại tỏ lộ sự
lo lắng cho Chúa Giêsu. "Chúng ta chỉ phải trả cho những gì chúng ta đã
làm," người ấy nói, "Nhưng ông này đã làm gì sai đâu." Bởi đó mà
Chúa Giêsu dù đang hấp hối cũng đã trả lời, "Ta bảo thật: ngay hôm nay
ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta" (Lk. 23:43).
Có một câu chuyện ở
Đông Phương kể rằng có một người đàn ông kêu xin từ vực sâu địa ngục cho được
thả ra. Ông ta bị hỏi là đã làm được gì tốt khi còn sống. Ông ta chỉ có thể nhớ
có một việc duy nhất là ông đã không giết một con nhện khi ông tản bộ trong
vườn. Ngay lúc ấy một sợi tơ nhện mong manh màu bạc được thà xuống cho ông. Ông
vội vã nắm thật chặt vào sợi tơ và ông đã từ từ kéo lên khỏi nơi khốn khổ ấy.
Lúc bấy giờ, những người cùng khổ với ông, thấy ông được cứu thoát, cũng vội
bám vào áo và chân ông ta, và thế là mọi người được kéo lên. Song ông ta sợ
rằng sợi tơ bạc mỏng manh ấy sẽ bị đứt nên ta đã la lên, "Bỏ ra! Buông tôi
ra!" Và khi những người kia buông ông ta ra, sợi tơ cũng bị đứt theo và
thế là tất cả lại tỏm xuống địa ngục. Mặc dầu sợi tơ nhện bền đủ để nâng tất cả
mọi người lên nhưng lại không đủ chắc để chịu sức nặng của một linh hồn ích kỷ.
"Lạy Chúa Giêsu,
xin nhớ đến tôi khi Ngài vào nước Ngài." Chúa Giêsu nhìn rõ chúng ta là ai
và yêu chúng ta như chúng ta là: Con cái yêu dấu của Thiên Chúa.
37. Đức Giêsu,
vua tình yêu - Lm. Phạm Thanh Liêm.
Ngày Chúa Nhật cuối
cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mừng kính trọng thể Đức Yêsu Kitô Vua.
Vua: người trổi vượt
trên tất cả
Vua là người trổi vượt
hơn người khác, thắng được tất cả, nên có quyền trên người khác. Lịch sử Việt
Nam cho thấy, sau “ngàn năm nô lệ giặc Tàu” Đinh Bộ Lĩnh là người đầu tiên
thắng được các sứ quân và là vị vua đầu tiên “Đinh Tiên Hoàng”. Ngày nay khi
người ta nói vua bóng đá, người ta nhắc tới người chơi bóng đá rất giỏi và trổi
vượt hơn người khác, chẳng hạn như Pélé và Maradona. Khi nhắc tới môn cờ vua,
người ta nhắc tới tên những vua cờ như Karpov và Kasparov.
Đức Yêsu là Vua. Ngài
là vua các vua, ngài làm vua cả hoàn vũ này, vì mọi quyền năng trên trời dưới
đất đều đã được ban cho Ngài (Mt.28, 18). Đức Yêsu chấp nhận thân phận con
người trọn vẹn, Ngài bất lực như tất cả mọi người khi Ngài đang sống đời tại
thế, nhưng khi Ngài chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá, Thiên Chúa đã cho Ngài
sống lại, và ban cho Ngài quyền năng trên tất cả trời và đất. Đức Yêsu là vua
cả hoàn vũ này.
“Chính để anh em được
tự do mà Đức Yêsu đã giải phóng anh em” (Gl.5, 1). Với tình yêu và bằng tình
yêu, Đức Yêsu đã giải phóng chúng ta khỏi tất cả, để chúng ta được tự do và làm
chủ tất cả. Tình yêu giải phóng chúng ta khỏi nô lệ, và giúp chúng ta làm chủ,
làm vua và là người tự do.
Đức Yêsu: người “yêu”
trổi vượt tất cả những người đang yêu
Thánh Phaolô trong thư
gởi tín hữu ở Colôsê cho thấy Thiên Chúa biểu lộ quyền năng và tình yêu của
Ngài nơi Đức Yêsu. Đức Yêsu là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình. Nhờ Ngài, mọi
vật được tạo thành, hữu hình hay vô hình. Mọi vật được tạo thành nhờ Ngài và cho
Ngài. Ngài là đầu của Giáo Hội, là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Ngài
hoà giải tất cả với Thiên Chúa trong máu Ngài.
Đức Yêsu trổi vượt
trên tất cả vì yêu. Ngài là vua tình yêu, không ai yêu mãnh liệt như Ngài. Ngài
dám chết, để người Ngài yêu được sống. Ngài hiến mạng Ngài, để thành lương thực
nuôi dân Ngài. Ngài để lại cho họ một mệnh lệnh rất đơn sơ: hãy yêu nhau như
Ngài yêu họ: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của thầy, là
các con yêu thương nhau” (Ga.13, 35). Ngài không đòi con người làm điều gì khác
ngoại trừ yêu thương, ngài muốn tất cả những người thuộc về Ngài làm mọi công
việc vì yêu thương. “Yêu thương là chu toàn tất cả lề luật”.
Trước những lời nhạo
báng của những người ghét Ngài, Ngài vẫn không oán hận. Ngài tha thứ. Ngay
trong những lúc cùng quẫn nhất, Ngài vẫn luôn độ lượng, quên mình để yêu thương
người khác: “hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng với Ta”. Lời của Đức Yêsu cũng
là lời tình yêu, đem lại an ủi và ban bình an.
Con vua lại được làm
vua: chúng ta được mời gọi làm vua
Vua là nét đặc trưng
của Thiên Chúa. Thiên Chúa có quyền trên tất cả, Ngài thống trị vũ trụ, vì vũ
trụ đều do Ngài tạo dựng, tất cả phải tùng phục Ngài. Thiên Chúa khi tạo dựng
nên con người, Ngài đã trao cho con người sứ mạng và quyền thống trị trên cá
biển chim trời (St.1, 28). Làm chủ vũ trụ này, là sứ mạng của con người và của
mỗi người chúng ta.
Thiên Chúa là Cha
chúng ta, Ngài tạo dựng chúng ta qua cha mẹ mỗi người chúng ta. Ngài không tạo
dựng chúng ta như những người nô lệ, nhưng như những người tự do, để chúng ta
làm chủ vũ trụ này, để chúng ta được cai trị vũ trụ này. “Con vua lại được làm
vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”. Chúng ta là con Thiên Chúa, Ngài cho chúng
ta quyền thống trị trên mặt đất, và Ngài muốn chúng ta làm chủ vũ trụ này với
lý trí và tài năng Ngài ban cho chúng ta.
“Được làm vua, thua
làm giặc”. Người thắng, làm chủ, làm vua. Người thua, làm nô lệ, làm tôi đòi.
Thiên Chúa muốn chúng ta làm chủ, Ngài không muốn chúng ta làm nô lệ, Ngài mời
gọi chúng ta chiến thắng chính con người chúng ta, chiến thắng những khuynh
chiều xấu nơi mỗi người. Nếu chúng ta thua, chúng ta làm nô lệ cho những khuynh
chiều hạ đẳng, chúng ta làm nô lệ xác thịt, nô lệ tiền bạc, nô lệ danh vọng hão
huyền. Thiên Chúa muốn chúng ta chiến thắng, Ngài muốn chúng ta làm vua với
Ngài, với Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì quý nhất
Đức Yêsu đã làm cho bạn?
2. Cách hành xử của
bạn có giống cách hành xử của Đức Yêsu không, khi có ai chọc tức làm cho bạn
muốn nổi khùng, hoặc khi bạn bị oan ức? Trên đời, liệu có ai có cách hành xử
giống cách hành xử của Đức Yêsu không?
3. Nếu được gọi Đức
Yêsu với một tước hiệu mà bạn ưng ý nhất, thay vì gọi Đức Kitô Vua thì bạn gọi
Ngài bằng tước hiệu nào?
38. Vua kỳ lạ và
một thần dân kỳ thú
(Suy niệm của Lm.
Anphong Nguyễn Công Minh – lấy phần chính từ cha Hàm)
Hôm nay Lễ Kitô Vua.
Nhưng bài Tin Mừng năm C lại cho ta một cung vua khác lạ. Năm A, hoàng cung là
nơi Vua phán xét: “Khi Con Người ngự đến trên mây trời…” Năm B, hoàng cung là
mượn tạm dinh Philatô: “Phải tôi là Vua.” Còn năm nay, cung điện của Vua Kitô
lại chỉ là 2 thanh gỗ kết hình khổ giá với hai thần dân đạo tặc hai bên.
Ta sẽ nói về một trong
hai thần dân này, y là tên trộm, mà là tên trộm biết ăn năn, thậm chí ở nhiều
nước đạo gốc có nơi còn thờ y như một vị thánh.
Anh ta được gọi bằng
những tên khác nhau như Dismas, Demas, Dumachus. Việt phiên âm là Đích Ma. Có
người kể hắn là một thứ Robin Hood của Do-thái, chuyên ăn cướp của người giàu
để phân phát cho người nghèo. Nhưng chuyện rất đáng yêu kể rằng khi Chúa Giê-su
còn nhỏ được gia đình đem sang Ai-cập trốn Herôđê, dọc đường bị một bọn cướp
tấn công. Một thanh niên là con của thủ lãnh bọn cướp thấy con trẻ Giê-su dễ
thương quá nên không nỡ ra tay, hắn tha Ngài và nói: "Hỡi con trẻ rất có
phước, nếu sau này có dịp nào để thương xót tôi, thì hãy nhớ đến tôi, đừng quên
giây phút này nhé!" Tên cướp đó là kẻ đã cứu Chúa Giê-su khi còn nhỏ, nay
lại gặp Ngài trên thập giá tại đồi Gôn-gô-tha. Lần này thì Chúa Giê-su đã cứu
lại anh ta.
Câu chuyện thực hư thế
nào không ai được rõ nhưng điều rõ rệt ấy là quang cảnh đóng đinh này đã ứng
nghiệm điều mà trước đó cả bảy trăm năm tiên tri I-sai-a đã tuyên sấm:
"Ngài đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân" (53,12).
Mà chẳng những trong hàng phạm nhân mà thôi, nhưng theo vị trí xếp đặt, Ngài
được coi là phạm nhân thượng hạng, là xếp sòng trong bọn đầu trộm đuôi cướp nữa,
nếu hai tử tội đứng bên cạnh Ngài đúng là những tên trộm cướp.
Không biết ai đã bày
ra cái trò này, xếp đặt thập giá của Ngài ở giữa hai tên cướp.
- Nếu là Phi-la-tô thì
quả ông quan xâm lược này muốn làm tăng vẻ khôi hài của bản án mà ông treo trên
đầu "Vua Do-thái".
- Cũng có thể do các
đầu mục Do-thái, theo dõi kẻ thù đến đỉnh núi Sọ, mua chuộc bọn lính sắp đặt để
tăng sỉ nhục cho nạn nhân, “cho biết mặt!”
- Hay có lẽ là chính
bọn lính sắp đặt như vậy vì hiển nhiên Ngài là tử tội đáng chú ý hơn cả trong
bọn.
Nhưng… nếu đây là một
cái gì hiểm độc về phía loài người, thì điều ti tiện trước mặt người đời, lại
cao sang trước mặt Thiên Chúa. Điều mà lòng độc ác của loài người bêu xấu Ngài,
thì lại tôn vinh Ngài trước mặt Thiên Chúa. Vì thế, vị trí của Ngài giữa hai
tên trộm cướp đúng là địa vị của Ngài.
Bởi, từ lâu Ngài được
gán cho danh hiệu "bạn của người thâu thuế và phường tội lỗi" (Mt
11,19). Giờ đây, qua hành động đóng đinh Ngài giữa hai người trộm cướp, ý tưởng
ấy được thực hiện cách rõ rệt nhất. Chúa Giê-su đã đến thế gian để tự hòa mình
vào đám tội nhân, Ngài đã chịu chung số phận của họ, Ngài đã sống giữa họ, và
thật là thích hợp Ngài chết giữa họ. Cho đến lúc này, Ngài đang ở giữa họ. Và
thái độ kỳ lạ của hai người đã bị treo hai bên Ngài, là một ứng nghiệm và và là
một báo hiệu.
Ứng nghiệm điều cụ
Simêon nói về Hài Nhi Giê-su trong Đền Thờ: "Con trẻ này có mệnh làm cho
nhiều người trong dân vấp ngã trong khi nhiều người được giải cứu." (Lc
2,34) Và báo hiệu điều sẽ xảy ra luôn luôn sau này, một số người tin nhận Ngài
và được cứu, trong lúc một số khác không tin. Lịch sử loài người luôn luôn như
thế, Tin Mừng sẽ đem lại sự sống cho nhiều người, và cũng đem lại án phạt cho
nhiều người. Tình trạng ấy sẽ kéo dài cho đến ngày tận cùng, Ngài sẽ ở giữa họ,
kẻ ăn năn đứng một bên, bên phải, và bên trái Ngài là những kẻ không ăn năn.
Mát-thêu và Lu-ca đều ghi lại: “Cả những kẻ bị đóng đinh với Ngài cũng xỉ nhục
Ngài,” Lu-ca ghi rõ hơn: Kẻ bên trái mắng nhiếc, kẻ bên phải ăn năn.
Ăn năn cách nào? -Lên
tiếng Bênh vực. Giữa lúc những kẻ trước đây cuồng nhiệt tung hô nay lại phản
đối Ngài, giữa lúc đám môn đệ thề quyết trung tín bỏ trốn hết, thì một mình tên
trộm lên tiếng bênh vực Ngài.
Nếu chàng thanh niên
con của góa phụ thành Na-im, được cải tử hoàn sinh, lên tiếng tin vào quyền
năng của Đấng xem ra mất hết quyền đế vương; nếu Phê-rô đã từng chứng kiến Chúa
biến hình trên núi, tuyên xưng Đấng “coi vậy chứ không phải vậy”; nếu anh mù
thành Giê-ri-khô đứng lên công nhận thần tính nơi Ngài …, chúng ta không ngạc
nhiên. Phải, nếu một trong những người trước đây đã hưởng ân huệ của Chúa lên
tiếng, có lẽ các môn đệ nhát sợ lấy lại can đảm, đám dân vô tâm sẽ tỉnh ngộ,
bọn ký lục và biệt phái sẽ tin theo … Nhưng giữa lúc cái chết gần kề, giữa lúc
Chúa Cứu Thế như hoàn toàn thất bại trước mặt người trần, chỉ có một người lên
tiếng tin nhận Ngài, đó lại là tên trộm bị đóng đinh:
Anh thấy cây thập giá
nhưng tôn thờ như ngai Vua Cả. Anh thấy người bị đóng đinh nhưng kêu cầu như
Chúa Tể. Anh thấy sự sống trong cõi chết, anh thấy vinh quang trong nhục nhã …
"Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi."
Có thể đây là lần đầu
tiên tên trộm cầu nguyện và có lẽ cũng là lần cuối cùng, dầu vậy Đấng đã được
tiên báo "Ngài không bẻ đứt cây sậy dập gẫy, không tắt hẳn tim đèn còn
khói" (Mt 12,20), lại không đáp ứng lại một niềm tin như vậy sao? Và đấng
tuyên bố: "Người nào đến với Ta, chẳng bao giờ bị Ta xua đuổi" (Ga
6,37) lại đuổi xua sao? Chúa Giê-su đã giữ lời và còn giữ hơn cả điều người ta
trông đợi.
Trong khi nhà cầm
quyền Giê-ru-sa-lem không thể làm Ngài rời khỏi thập giá; trong lúc mọi tố cáo
bất công không thắng được sự yên lặng của Ngài; trong lúc những lời gào thét
"nó đã cứu được người khác, mà không cứu nổi mình" không làm Ngài hé
môi …, thì Ngài nghiêng đầu về người yếu đuối cạnh Ngài, Ngài nói và cứu một
tên trộm: "Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta."
Trước đây không một ai
được hứa như thế, dầu người đó là Áp-ra-ham, quốc mẫu tổ phụ của Giêsu; dẫu
người đó là Mô-sê, đại ngôn sứ, thủ lãnh Dân Riêng; hay Gio-an, kẻ Giêsu yêu.
Ngay cả Ma-da-lê-na hay chính Đức Ma-ri-a, Mẹ Ngài cũng vậy, vậy mà, Ngài lại
hứa với tên trộm, thần dân đầu tiên của Ngài trên Nước Trời.
Augustino đã tinh ý
khi sánh ví: khen thay cho tên trộm này, cả một đời trộm cắp mà đến giờ chót
khi ra trước toà còn trổ nghề ăn trộm được cả Nước Trời. (Không biết vào Nước
Trời rồi, có ăn trộm chìa khoá của Phêrô để mở cửa thiên đàng cho đồng nghiệp
bên trái nhiếc mắng Chúa hay không? Biết đâu!
Có một người ăn xin nọ
ngày kia gặp một hiền sĩ ở dọc đường, ông ta đã chạy lại van xin hiền sĩ bố thí
cho mình. Nhà hiền sĩ đã từ chối và cứ đi tiếp con đường ông đang đi. Người ăn
xin vẫn tiếp tục đuổi theo, miệng không ngớt xin bố thí. Ông ta đã theo nhà
hiền triết ra đến tận đầu phố, cuối cùng nhà hiền triết tuyệt vọng, dừng lại và
nói:
- Được rồi, ta sẽ cho
ngươi tiền, nhưng với điều kiện: trong hai con mắt của ta có một con mắt thủy
tinh, ngươi hãy nói nó là mắt nào. Nếu nói đúng ngươi sẽ có tất cả những gì ta
có.
Người ăn xin nhìn ông
chăm chú, cuối cùng nghiêm giọng nói:
- Thưa thầy, con mắt
trái là thủy tinh ạ.
Hiền sĩ kinh ngạc kêu
lên:
- Hãy nói làm sao
ngươi biết được điều đó. Con mắt đó do một người thợ giỏi nhất thế gian này làm
ra, không thể nào phân biệt được mắt nào của ta là mắt thật, mắt nào là mắt
thủy tinh?
- Thưa thầy, vì -người
ăn xin chậm rãi đáp- mắt phải của thầy ánh lên lòng thương xót.
Vâng có lẽ người ăn
trộm bên phải cây Thánh giá của Chúa Giêsu cũng có được con mắt phải “ánh lên
lòng thương xót.” Chàng thương xót cho tử tội vô tội Giêsu, nên đã gặp được cặp
mắt giàu lòng thương xót của Vua Giêsu bị xét là tử tội.
Tin giờ chót tôi mới
nhận được qua email từ Giêsu.net, là trong vương quốc của Vua Giêsu, chỉ có
những người có cặp mắt ánh lên lòng thương xót mới vào được.
Bạn muốn vào, xin hãy
ánh lên lòng xót thương.
39. Tên trộm lành và
người chủng sinh.
Trong mục “Cánh cửa
rộng mở” của báo Catholic Digest có câu chuyện rất cảm động về một chủng
sinh. Anh lớn lên trong một gia đình Công giáo. Anh là một tín hữu rất mộ đạo
và thường tham gia vào các công việc ở nhà thờ. Anh đi chủng viện để học làm
Linh mục. Trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam, người chủng sinh đó đã bỏ
chủng viện và gia nhập đảng chống chiến tranh. Không những thế, anh còn bỏ luôn
cả Giáo hội, và còn hơn nữa, anh bắt đầu tìm cách chống lại đức tin và những lý
tưởng anh đã một lầm ôm ấp. Càng ngày, anh càng coi tôn giáo như là một kẻ thù.
Gia đình anh rất buồn và họ đều mất hy vọng cứu vãn được anh.
Vào một ngày thứ Sáu
Tuần thánh, người thanh niên đó lái xe đi ngang một nhà thờ Công giáo. Anh nhận
ra tên của linh mục mà anh đã kính trọng được ghi trên tấm bảng ở trước nhà
thờ. Một cái gì đó đã thúc đẩy anh ngừng xe lại và vào trong nhà thờ. Khi anh
vừa bước vô thì nghi lễ Suy tôn Thánh giá cũng vừa bắt đầu. Anh ngồi xuống ở
hàng ghế cuối hết và nhìn những người lên thờ lạy và hôn Thánh giá trong khi ca
đoàn hát bài: “Trong khi người ta đóng đinh Chúa tôi, bạn có ở đó không?”
Một sự việc đáng ghi
nhớ đã xảy ra. Người chủng sinh trẻ bỏ đạo đó đã viết lại như sau: “Trong tâm
hồn, tôi cảm thấy rất xúc động và tôi bắt đầu khóc. Cố gắng kìm hãm lại cảm
xúc, tôi nhớ lại những năm trước đây khi tôi còn là một chủng sinh sống trong
sự bình an. Đức tin đơn sơ của những ngày tháng xa xưa, đã bị phủ lấp và nằm
chìm sâu kín trong tâm hồn tôi bao năm qua nay vụt bùng dậy. Một sức lực nội
tại giục giã bắt tôi phải đứng lên, rời khỏi ghế đang ngồi và đến quì sụp lạy
trước Thánh giá và hôn Thánh giá. Vị linh mục trong nhà thờ đã nhận ra tôi và
đã đến ôm lấy tôi. Trong ngày đó, tôi lại được tái sinh trong đức tin Công
giáo.”
Câu chuyện ở trên rất
phù hợp với các bài đọc trong ngày Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay. Bài Phúc âm hôm
nay thuật lại một người thanh niên mà chúng ta thường gọi là tên trộm lành, đã
được ơn trở lại trong ngày thứ Sáu Tuần thánh cách đây hai ngàn năm. Điều mà
Chúa Giêsu đã nói với tên trộm lành trên Thánh Giá cũng chính là điều mà Ngài
đã phán với người chủng sinh trẻ: “Amen, Ta nói thật với con... hôm nay con sẽ
ở trên Thiên đàng với Ta.”
Chúng ta nhận thấy
không có bài đọc nào thích đáng hơn bài đọc hôm nay để kết thúc một năm phụng
vụ. Nó tóm tắt lý do tại sao Chúa Giêsu đã đến thế gian. Lý do đó là vì để tỏ
lòng tha thứ khoan nhân cho các tội nhân, giống như tên trộm lành và người chủng
sinh trẻ.
Điều đó đưa chúng ta
đến một điểm áp dụng thực tế trong cuộc sống của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu
muốn tha tất cả tội lỗi của chúng ta cho dù tội lỗi của chúng ta có chất đống
đến đâu đi nữa. Ngài muốn nói với chúng ta rằng: “Amen, Ta nói thật với con...
hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta.”
40. Nếu ông là
vua - Lm Âu Quốc Thanh.
Các thánh sử đều kể
lại câu truyện tang thương của cuộc khổ nạn một cách hết sức vắn gọn, mặc dù
trong truyền thống Do Thái tường thuật những vụ tử vì đạo rất tỉ mỉ (2 Macc
7:3-19). Phúc âm theo thánh sử Luca kể lại cách sơ sài sự kiện một tử tội mang
danh là Giêsu thành Nazareth đang hấp hối trên cây thập giá. Thánh Luca còn bỏ
cả chi tiết cho ông Giêsu uống rượu pha mật đắng. (Mk 15:22; Mt27:33). Tuy
nhiên trong bài trích Phúc âm cho Lễ Chúa Kitô Vua hôm nay, thánh Luca đã tỉ mỉ
nói lên bốn phản ứng của những người hiện diện tại đồi Golgotha để chứng minh
con người và căn tính siêu việt của Chúa Giêsu.
Thái độ thứ nhất là
thái độ dửng dưng của những người qua đường. Là khách bàng quang, họ đến xem
cho biết chuyện gì đang xảy ra. Thánh Luca phân biệt rõ những người dân và các
vị lãnh đạo. Đám dân thường chỉ đứng quan sát sự việc cách thụ động. Họ không
biết rõ căn tính và con người ông Giêsu. Chính vì thế mà họ được ơn thống hối
ăn năn. (Lc 23:48)
Còn hàng lãnh đạo tôn
giáo thời đó thì chủ động nhạo báng ông Giêsu. Họ không tin ông Giêsu là Vua
dân Do thái, đấng được tuyển chọn để cứu dân Chúa khỏi ách thống trị của tội
lỗi và sự dữ. Họ chế nhạo: “Nếu ông là vua dân Do thái. ông hãy tự cứu mình
đi.” Họ hiểu “Vua” theo nghĩa trần gian, một vị lãnh đạo chính trị sẽ giải
thoát dân Chúa thoát ách thống trị của Đế quốc Rôma. Một tử tội đang hấp hối
trên thập tự không thể giúp họ thực hiện ước mộng đó của họ.
Thái độ của người trộm
dữ cũng giống như thái độ của đám lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ. Hắn buông lời
hằn học và sỉ nhục: “Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi
nữa.” Hắn biết mình đã rơi vào tình trạng “thập tử nhất sinh” và biết chẳng còn
ai có thể cứu mình khỏi chết. Có thoát lời thóa mạ ai cũng chẳng thiệt thòi gì
hơn. Đối với hắn, chết là hết.
Nhưng người trộm lành
đã thực sự được ơn giải thoát khỏi sự ngu muội và sự không tin. Hắn nhận ra Đức
Giêsu là người vô tội nhưng lại bị án tử hình như những kẻ phạm trọng tội như
hắn. Hắn nhận ra rằng vị Vua này không phải là một nhà lãnh đạo chính trị,
nhưng là một lãnh đạo tinh thần, và nước của Ngài chính là thiên đàng vĩnh cửu.
Chính vì được ơn giác ngộ và thống hối, hắn đã thốt lên lời đầy tin tưởng: “Lạy
Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” (Bản dịch mới của nhóm Phiên Dịch
VN, 1998, có lẽ chính xác hơn: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin nhớ
đến tôi.” Người trộm lành đã kêu đích danh của Chúa Giêsu, danh hiệu có nghĩa
là “Chúa chữa.” Chính vì niềm tin nơi Chúa Giêsu, người trộm lành đã được tha
thứ mọi lỗi lầm và được hưởng phúc thiên đàng.
Chúng ta là những Kitô
hữu có lẽ chúng ta không bao giờ dám nhạo báng Chúa Giêsu như tay trộm dữ và
những vị lãnh đạo cứng lòng tin. Cùng lắm khi vì tính yếu đuối xác thịt để cho
mình rơi vào tình trạng dửng dưng với Chúa Kitô và công việc của Giáo Hội,
nhiệm thể của Ngài. Đôi khi chúng ta muốn Chúa Giêsu trở thành một vị lãnh đạo
chính trị giải thoát chúng ta khỏi những đau khổ phần xác và những bất công xã
hội. Bằng chứng của lòng mong ước này là phong trào thần học giải phóng, là
phong trào phụ nữ bình quyền... Dĩ nhiên khi còn ở thế gian, Chúa Giêsu đã cứu
chữa biết bao nhiêu tật nguyền và đả phá những hủ hóa của giới lãnh đạo. Nhưng
Ngài đã không giải phóng dân Israel khỏi ách thống trị Rôma và không làm phép
để giải vòng vây cho chính Ngài. Lý do: vì Ngài không phải là Vua trần gian.
Như Chúa Giêsu nói rõ với Philatô khi Ngài bị bắt: “Nước ta không thuộc về thế
gian này.” (Ga 18:36) Nước của Ngài là Thiên đàng mai sau, chỉ có nơi đó mới
không còn đau khổ phần hồn phần xác, không còn áp bức và bất công xã hội.
Chắc hẳn, chúng ta đều
muốn được ơn giác ngộ và trở lại như người trộm lành. Chúng ta muốn tôn thờ
Chúa Giêsu là Vua của vũ trụ và là vị Vua của từng tâm hồn mỗi người. Lời
nguyện nhập lễ trong thánh lễ Chúa Kitô Vua: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng
hữu, Chúa đã muốn quy tụ muôn loài dưới quyền lãnh đạo của Đức Kitô là Người
Con Chúa hằng ưu ái, và là Vua toàn thể vũ trụ. Xin cho hết mọi loài thọ sinh
đã được cứu khỏi vòng nô lệ tội lỗi biết phụng thờ Chúa là Đấng cao cả uy linh
và không ngớt lời ngợi khen chúc tụng.”
Năm 1925, Đức Thánh
Cha Piô XI đã thiết lập ngày lễ Chúa Giêsu Vua, đồng thời ban sắc lệnh truyền
dạy Dân Chúa khắp nơi mừng lễ này vào Chúa Nhật cuối cùng của tháng Mười. Trong
một bản tông huấn, Đức Thánh Cha cho biết lý do ngài thiết lập ngày lễ Chúa
Kitô Vua: thế giới cần một nền hòa bình chân thật, nhưng hòa bình đó chỉ có
được dưới triều đại của Đức Kitô là Vua Tình thương và Hoàng tử Bình an.
Về sau, khi có cuộc
cải cách Phụng vụ, một số ngày lễ được thay đổi, một số khác không còn lưu lại
trong lịch. Riêng lễ Chúa Kitô Vua được dời qua Chúa nhật cuối cùng của năm
phụng vu, tức Chúa nhật thứ 34, trước khi bước vào mùa Vọng, khởi đầu một chu
kỳ mới.
Một linh mục đã nhận
xét: Suy tôn Chúa Giêsu Vua là việc làm hoàn toàn chính đáng và mang nhiều ý
nghĩa, vì quả thực, Ngài đã chào đời như một quân vương và lìa đời như một đức
vua.
Nhớ lại ngày Đức Giêsu
sinh ra tại Bêlem, ba đạo sĩ phương Đông đã tìm đến dâng các lễ vật: vàng, nhũ
hương và mộc dược. Vàng là món quà tượng trưng cho vương quyền. Thế nên, từ
thuở ấu thơ, Ngài đã được nhìn nhận như một đức vua. Và rồi, trong những giờ
phúc cuối cùng của cuộc sống làm người, Đức Giêsu cũng được suy tôn như vị quốc
vương cao cả.
Thói thường khi quân
Rômma đóng đinh ai cũng đều kèm tho một tấm bảng ghi rõ tội danh của kẻ phạm
pháp. Riêng trường hợp Đức Giêsu, quan Philatô muốn chế nhạo người Do thái bằng
cách cho treo trên đầu Ngài tấm bảng có hàng chữ “Đây là Vua dân Do thái.” Việc
làm này đã vô tình khẳng định tính cách vô tội và vương quyền thực sự của Đức
Giêsu: Ngài không có tội để ghi và Ngài chính là Hoàng đế (x. Thomas Kemp,
Homilies on the Sunday Gospel).
Việc làm vô tình của
Philatô lại được một tên tội phạm nhận biết và tuyên xưng.
Số là trên đồi
Gôlgotha lúc bấy giờ có hai tên trộm cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu.
Các thủ lãnh và đoàn thể dân chúng cười nhạo Ngài. Quân lính thì mắng nhiếc chế
diễu. Cả một trong hai tên gian phi cũng khiêu khích sỉ nhục. Trong mớ âm thanh
hỗn độn, hằn học, và thù nghịch ấy lại dội lên một vài ngôn từ đáng suy nghĩ.
Ngay trên khổ giá của
mình, người gian phi thứ hai đã quan sát Đức Giêsu và suy nghĩ về những ngôn từ
đó. Anh ta thấy trong bao lời trách mắng về Ngài đều hở ra những câu như: “Nếu
là Đức Kitô”, “Nếu là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”, “Nếu là Vua Do thái”. Anh ta
ngước nhìn và đợi chờ những lời nguyền rủa đáp trả hay những tia nhìn hận thù
giáng xuống đoàn lũ dưới kia. Thế nhưng, những gì anh thấy được lại là “Đức
Giêsu ngước mắt lên trời”, và những gì anh nghe được lại là “Lạy Cha, xin tha
cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm.”
Chính việc “thấy” và
“nghe” kia đã hình thành trong anh một cảm xúc kính phục chân thành. Anh thương
người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh thương người chịu đóng đinh bên cạnh. Anh
thấy mình bị khổ nhục là đích đáng. Nhưng con người kia đâu có hận thù, tham
lam, độc ác gì. Trái lại, dù trong cảnh thê lương sầu thảm, dù khổ đau đang
giằng xé từng hơi thở, dù mặt mũi hình hài tan nát mất hết hình tượng, nơi con
người Giêsu đó vẫn toát lên tình thương và lòng khoan dung tha thứ. Thế rồi anh
can đảm lên tiếng bênh vực cho Ngài: “Ông này đâu có làm gì sai trái.” (Lc
33:41). Và xa hơn, anh còn khám phá ra vương quyền của Ngài khi thành khẩn nài
xin: “Lạy Đức Giêsu, xin nhớ đến tôi, khi Ngài đến trong Nước của Ngài.” (Lc
23:42).
Làm sao trong cảnh hấp
hối tột cùng của Đức Giêsu và của chính mình mà anh “trộm lành” lại cất lên
được lời thỉnh cầu như thế? Phải chăng khi rơi vào vòng xoáy của sự chết, anh
đã cố bám víu bất cứ thứ gì có thể bám được? Điều gì đã giúp anh, ngay giữa lằn
ranh của sự sống và sự chết, gặp thấy dung mạo của một quốc vương, Đấng đang
bước vào vương quốc của mình ngay trên thập giá?
Một nhà thần học trả
lời: Tình thương đã giúp anh khám phá Vua Giêsu. Chính lòng yêu người, xót
thương cho kẻ bị oan ức, đã giúp anh gặp gỡ Vua Tình yêu.
Mà tình yêu sẽ tồn tại
muôn đời anh xác tín như thế. Cho nên, dù vật vã với đớn đau của thân xác, anh
vẫn nhận ra tình yêu đang hiện hữu bên mình. Tình yêu đó đang rộng lòng tha
thứ, xóa hận thù, và mang lại bình an. Niềm xác tín gia tăng cường độ khiến miệng
anh bật lên lời nài van: “Xin Ngài nhớ đến tôi.”
“Ngày hôm nay ngươi sẽ
ở trên thiên đàng làm một với Ta” (Lc 23:43). Không lời nào yên ủi cho người
sắp chết bằng lời đó. Hận thù đã gây nên chiến tranh, phân ly. Nhưng tình
thương lại luôn bắt cầu liên kết. Anh trộm lành chỉ xin Chúa Giêsu nhớ đến
mình, nhưng Ngài lại hứa ở cùng anh. Nói đến nhớ là nói đến cách xa. Vì yêu
nhau nhưng không được gần nhau nên sinh ra nỗi nhớ. Tình yêu có nỗi nhớ là tình
yêu chưa được vuông tròn. Còn khi “ở làm một với nhau” thì tình yêu đã thật sự
lên ngôi. Trong tình yêu của Thiên Chúa luôn là “nên một” và “ở cùng.”
Trên thánh giá, Chúa
Giêsu đã lên ngôi. Ngài bộc bạch chính mình là Đức Kitô, Người Thiên Chúa tuyển
chọn, Đấng Cứu Thế, Vua Tình Yêu.
Suy tôn Chúa Giêsu là
Vua Yêu thương, nài xin Ngài “nhớ” đến mình trên mọi hành
trình dương thế, can đảm bênh vực cho chân lý tình yêu, là ta đang tìm thấy hòa
bình và sự sống phong phú nơi tâm hồn, gia đình, và thế giới.
42. Suy niệm của Lm.
Bùi Thượng Lưu.
Lạy Ngài, khi nào về
nước Ngài, xin nhớ đến tôi.
Khung cảnh đồi sọ vào
giờ tử nạn của Chúa Giêsu quả thực u ám. Đám đông dân chúng trước đây theo
Chúa, được chứng kiến những phép lạ nhãn tiền như việc Lazarô chết chôn ba ngày
được sống lại, phép lạ năm chiếc bánh và hai con cá nuôi năm ngàn người, không
kể đàn bà trẻ con, ăn no nê... Chính đám đông đã có lần định tôn Chúa lên làm
vua, đã trải áo và ngành ô liu đón mừng Chúa vào thành Thánh Giêrusalem hôm đầu
tuần, đám đông ấy đang hùa theo các thủ lãnh và quân lính cười nhạo và chế giễu
Chúa: “Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô,
người Thiên Chúa tuyển chọn.” Bên cạnh thập giá Chúa cũng có hai người trộm
cướp bị đóng đinh. Một trong hai kẻ trộm sỉ nhục Chúa rằng: “Nếu ông là Đấng
Kitô hãy tự cứu Ông và cứu chúng tôi nữa.”
Nếu đứng về khía cạnh
và quan điểm của nhân loại, thì quả thực Chúa Giêsu đã hoàn toàn bị thảm bại,
đúng như lời than thở của hai môn đệ Emmau: “Về Đức Giêsu Nagiarét, là Đấng
tiên tri, có quyền phép trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và
cả dân chúng: mà các trưởng tế, các nghị viên ta đã nạp Ngài để xử tử và đóng
đinh vào thập giá. Chúng tôi vốn trông mong Ngài sẽ cứu chữa dân Isarel: dầu
thể ấy, việc đã xảy ra đã được ba bốn hôm nay rồi.” Nhưng chính vào giây phút
tăm tối ấy, một ánh sáng vừa lóe lên. Một người trộm thưa với Chúa: “Lạy Ngài,
khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi.” Chúa Giêsu đáp: “Ta bảo thật ngươi ngày
hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với ta.” Lời tuyên xưng của người trộm lành
vào lúc sắp kết thúc tấn bi kịch thương khó của Chúa đã đảo ngược thế cờ: Chúa
Giêsu đã mạc khải cho người trộm lành, cho toàn thể dân chúng, quân lính, các
thủ lãnh và toàn dân Isarel đang đứng dưới thập giá: Người là vua nhân hiền,
đầy tình thương xót và tha thứ. Nước Người là Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Thần
dân của Ngài là tất cả những tâm hồn thành tâm thiện chí, biết mở rộng lòng đón
nhận Tin Mừng Cứu Độ. Cờ hiệu của Ngài là thập giá đưa đến vinh quang. Hiến
pháp của nước Thiên Chúa là giới luật yêu thương: yêu Thiên Chúa hết linh hồn,
hết sức, hết trí khôn và yêu thương và anh em đồng loại như chính mình.
Người trộm lành là
hình ảnh của cả nhân loại hư đốn và sa ngã, nhưng được cứu thoát nhờ biết nhìn
nhận ra Đấng Cứu Chuộc là Vua đầy tình lân mẫn. Đúng như thánh Phaolô đã ca
ngợi trong thư gửi cho tín hữu thành Colossê: “Chúa đã cứu chúng ta thoát khỏi
quyền lực u tối, đem chúng ta về nước Con yêu dấu của Chúa, trong Người chúng
ta được ơn cứu rỗi nhờ máu Người, và được ơn tha tội. Người là hình ảnh của
Thiên Chúa vô hình, là trưởng tử mọi tạo vật, vì trong Người, muôn loài trên
trời dưới đất đã được tác thành, mọi vật hữu hình và vô hình... Mọi vật đã được
tạo thành nhờ Người và trong Người và Người có trước mọi loài và mọi loài tồn
tại trong Người, Người là đầu thân thể tức là Hội Thánh, là nguyên thủy và là
trưởng tử giữa kẻ chết, để Người làm bá chủ mọi loài. Vì chưng Thiên Chúa đã
muốn đặt tất cả viên mãn nơi Người, và Thiên Chúa đã giao hòa vạn vật nhờ Người
và vì Người, nhờ máu Người đã đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa ban hòa bình trên
trời dưới đất.” Vương quyền của Chúa đã được thánh Phaolô tuyên xưng và tung
hô. Quả thực, Đức Kitô là đầu và là tận điểm của lịch sử nhân loại: Hội Thánh
đã tôn vinh vương quyền Chúa vào Chúa Nhật kết thúc năm phụng vụ.
Trước kia khi còn ở
Việt Nam, nhiều gia đình đã có thói quen mời cha xứ đến làm phép nhà mới và đặt
tượng Chúa là Vua trong bàn thờ của gia đình. Chính người gia trưởng đã đem
tượng Chúa lên bàn thờ, giữa lúc tất cả gia đình, thân tộc và hàng xóm láng
giềng đọc kinh tôn vương hay hát bài: “Lạy trái tim Chúa Giêsu, làm vua cai trị
mọi loài, xin trái tim Chúa làm vua, cai trị lòng con suốt đời.” Cảm động và ý
nghĩa thay hành động nhận Chúa làm vua gia đình và vua tâm hồn chúng ta. Chớ gì
thói quen tốt lành ấy được tái diễn ngay trong hoàn cảnh sống mới của chúng ta
ở xã hội Âu Mỹ này.
43. Vị Vua
trên Thập giá
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Hữu An)
Năm phụng vụ mở đầu
bằng mầu nhiệm Nhập thể và kết thúc bằng vương quyền viên mãn của Đức Kitô. Đặt
lễ Chúa Kitô Vua trong Chúa nhật cuối cùng năm phụng vụ, Giáo Hội nhắc nhở
rằng, Đức Kitô chính là Vua của vũ trụ, Ngài là Chủ của thời gian, Chủ của lịch
sử nhân loại và là Chủ của lịch sử mỗi người chúng ta. Chúa Kitô vượt trên thời
gian để mãi mãi là vị Vua vĩnh cửu.Chúa Giêsu đăng quang làm Vua khi bị đóng
đinh trên Thập giá. Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội công bố bài Tin Mừng Chúa chịu
đóng đinh. Giây phút Chúa được tuyên xưng là Vua chính là khi bị treo trên Thập
giá, đầu gục xuống. Thật lạ lùng! Chính vào lúc hấp hối, mọi sự tưởng như sụp
đổ, Vị Vua Bị Đóng Đinh lại hé lộ vương quyền của mình cho anh trộm lành có
lòng thống hối, tin tưởng: " Hôm nay, anh sẽ được ở với Tôi trên Thiên
Đàng" (Lc 23,43). Người trộm bên hữu đã nhận ra vị vua tình yêu, nên anh
đã xin với Ngài nhớ đến anh khi vào vương quốc của Ngài.Anh đã tuyên xưng vị
vua tình yêu chiến thắng.Tình yêu đã chiến thắng mọi trở ngại: từ những lời
thách thức của những người đòi một vị vua uy quyền đến cái chết khổ đau. Trên
Thập giá, Vua Giêsu đã mang lấy tất cả tội lỗi nhân loại, gánh chịu mọi khổ
đau, nhục nhã. Chính tình yêu chiến thắng của Vua Giêsu đã cứu chuộc nhân loại,
đã nối kết con người lại với Thiên Chúa như thánh Phaolô đã xác quyết:
"Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã giao hòa với mọi
loài dưới đất và muôn vật trên trời"(Cl 1,20).
Trong tất cả những gì
đã viết về Chúa Kitô, có lời nào bi đát hơn lời của Thánh Gioan ở lời tựa sách
Tin Mừng: "Ngài đã đến nơi nhà Ngài mà người nhà đã không tiếp nhận"
(Ga 1,11). Bêlem không có chỗ cho Ngài sinh hạ, Nadarét không có chỗ cho Ngài
sinh sống, Giêrusalem không có chỗ cho Ngài chết.
Bốn mươi ngày sau khi
Ngài sinh hạ, cụ già Simêon đã nói với Mẹ Maria: "Ngài sẽ là dấu gợi lên
chống đối"(Lc 2,34). Đó là một kiểu nói khác chứng thực điều Thánh Gioan
đã nói. Chưa được hai tuổi, Ngài đã bị binh lính Hêrôđê lùng sục để sát hại.
Suốt những năm tháng rao giảng Tin Mừng, Ngài cũng bị hiểu lầm, bị ghen ghét,
bị kết án loại trừ và bị đóng đinh khổ giá.
Chúa Giêsu Kitô đã
chọn Thập giá làm phương thế thực hiện Ơn Cứu Rỗi. Thập giá được tạo nên do hai
thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự hận thù
ghen ghét của thế gian; thanh đứng tượng trưng cho tình yêu và sự sống vươn
cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự
chết; giữa vui và buồn; cười và khóc; hận thù và thứ tha; ghen ghét và yêu
thương; giữa ý muốn của con người và ý muốn của Thiên Chúa. Đặt thanh sự sống
và tình yêu lên thanh sự chết và oán thù là cách duy nhất để làm nên một thập giá.
Chúa Kitô lên Ngôi Vua
vũ trụ trên Thập giá để thiết lập vương quyền Nước Thiên Chúa. Vì vậy Giáo hội
đã chọn bài Tin Mừng Đức Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá giữa hai người trộm
cướp cho ngày lễ hôm nay.
Nói đến vua, chúng ta
thường nghĩ đến con người uy quyền, đầu đội vương miện, mình mặc cẩm bào, ngồi
trên ngai vàng xét xử trăm họ.Ngày nay, người ta còn nói đến vua xe hơi, vua
bóng đá, vua dầu lửa, vua vi tính... Đó là những thần tượng giàu có, sang trọng
của con người thời đại. Chúa Giêsu là vua không phải theo kiểu trần thế, vương
quyền của Ngài không theo kiểu chính trị. Chúa Giêsu là vua sự thật, vua tình
yêu, vua niềm tin.Vương quyền Chúa Giêsu là vương quyền yêu thương, bình an và
hoan lạc trong Thánh Thần.
Bài Tin Mừng đưa chúng
ta về với Chúa Giêsu trên Thập giá.Vị Vua bị lăng nhục, các thủ lãnh thế gian
cười nhạo, lính tráng chế diễu, một trong hai kẻ gian phi cũng tranh thủ nhục
mạ. Những lời chế diễu cũng là những thách thức và cám dỗ gay gắt. Chẳng lúc nào
Chúa làm Vua rõ ràng bằng lúc này. Tấm bảng trên Thập giá ghi bằng tiếng Hípri,
Latinh và Hylạp chữ INRI – Jesus Nazarenus Rex Judaeorum – Giêsu Nadarét là Vua
dân Do Thái.
Nhưng kiểu làm Vua của
Ngài thật khác thường: không có vương miện mà chỉ có vòng gai, không có cẩm bào
mà chỉ có trần trụi nhơ nhuốc, không có câu tán tụng mà chỉ có lời nhạo báng
khinh chê. Bị treo trên Thập giá, Đức Giêsu nghe những lời mời mọc rất ngọt
ngào và tinh vi như các cơn cám dỗ của Satan buổi đầu: "Nếu ông là Đức Kitô
thì hãy cứu lấy mình.Hãy xuống khỏi thập giá" (Mt 27,40). Chỉ cần xuống
khỏi Thập giá là chinh phục được mọi người, từ giới lãnh đạo đến những người
chưa tin.Chỉ cần xuống khỏi Thập giá là có ngay được một thành công rực rỡ.
Nhưng Đức Giêsu đã không xuống khỏi Thập giá. Cứu lấy mình là điều Ngài chẳng
hề nghĩ đến. Chính vì Ngài là Con của Chúa Cha, nên Ngài không tự ý xuống khỏi
Thập giá, như xưa Ngài đã từ chối nhảy xuống từ nóc Đền Thờ.
Đức Giêsu không muốn
chúng ta tin Ngài vì những màn trình diễn ngoạn mục. Ngài muốn chúng ta tin, vì
Ngài đã buông mình cho Cha, đón nhận cái chết với niềm vâng phục tín thác.
Mừng Lễ Chúa Giêsu
Kitô, Vua vũ trụ, người Kitô hữu muốn khước từ những thần tượng trần thế, muốn
để Ngài làm vua của lòng mình.Người Kitô hữu muốn đưa Ngài đi vào mọi lãnh vực
của cuộc sống: văn chương, khoa học nghệ thuật, kinh tế, chính trị, xã hội...để
xây đắp hoà bình và tình thương cho trần thế.
Vương quốc Chúa Giêsu
không có sức mạnh của vũ khí và quân đội mà chỉ có sức mạnh của yêu thương và
tha thứ, vương quốc ấy không có tên trên bản đồ thế giới, nhưng lại ở trong
trái tim con người. Chỉ những ai tin và sống trong tình thương Thiên Chúa mới
thuộc vương quốc của Ngài.
Chúa Giêsu là Vua Tình
Yêu. Chính tình yêu là sức mạnh của Ngài và cũng chính tình yêu ấy đã khiến cho
Ngài tuyên bố: "Khi nào Ta chịu treo trên thập giá, Ta sẽ kéo mọi người
đến với Ta".
Qua hơn 2000 năm, lời
ấy vẫn mãi được ứng nghiệm. Ngoài Đức Kitô ra không có một vị vua nào trên trần
gian này được nhân loại chọn làm trọng tâm của lịch sử. Chấp nhận hay không
chấp nhận, tin hay không tin, ai cũng phải lấy ngày Giáng Sinh của Đức Giêsu
làm cột mốc để tính thời gian. Có một thời gian trước Đức Kitô và có một thời
gian sau Đức Kitô và dù có tránh tên của Ngài để nói trước hay sau Công nguyên
thì con người nói như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II: "Con người sẽ không
bao giờ loại bỏ Đức Kitô ra khỏi lịch sử của mình". Đức Kitô đang lôi kéo
mọi người về với Ngài, Ngài đang đồng hành trong lịch sử nhân loại và trong
cuộc đời của mỗi người. Cuộc đời này có giá trị và ý nghĩa hay không là tùy
thuộc ở thái độ tiếp nhận của mỗi người đối với Đức Kitô.
Tiếp nhận Ngài và
tuyên xưng Ngài là Vua chính là mặc lấy thái độ tín thác của kẻ trộm lành, sẵn
sàng trao phó tất cả cuộc đời trong tay Ngài và bước đi theo Ngài. Tiếp nhận và
tuyên xưng Ngài là Vua là đi theo con đường phục vụ cho đến cùng. Tiếp nhận và
tuyên xưng Ngài là Vua là cùng với Ngài xây dựng vương quốc của Ngài ngay trên
trần gian này, vương quốc của huynh đệ, vương quốc của yêu thương, vương quốc
của công lý và hòa bình. Và mỗi một lần chúng ta xây dựng vương quốc ấy bằng
một cử chỉ yêu thương thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ nghe được lời hứa của Ngài
cho người trộm lành: "Hôm nay đây con sẽ ở cùng Ta trong vương quốc của
Ta".
Mỗi người tự xét mình
xem Đức Giêsu đã thật sự là Vua của chính bản thân chưa? Ngài đã chiếm trọn vẹn
trái tim ta chưa, đã thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi tư tưởng, lời nói và
việc làm của ta chưa? Ngài là vua của tâm hồn ta, hay là tiền bạc, quyền lực,
danh vọng, địa vị, lạc thú, hoặc chính bản thân ta? "Xin nhớ đến
con", chúng ta phải lập đi lập lại lời ấy mỗi ngày trong suốt cuộc sống
mình.
Lạy Chúa Giêsu, Vua
Tình yêu, Chúa đã yêu thế giới đến nỗi đã ban chính sự sống mình, xin Chúa
chiếm trọn con người chúng con từ tư tưởng, lời nói đến việc làm, để chúng con
không còn thuộc về thế giới của bóng tối, của tội lỗi, nhưng thuộc về vương
quyền của Chúa, là vương quyền của sự sống và chân lý, của ân sủng và thánh
thiện, của công lý và hoà bình. Amen.
44. Chú giải của Lm
Fx. Vũ Phan Long
ĐỨC VUA CŨNG LÀ ĐẤNG
CỨU THẾ CHỊU ĐÓNG ĐINH
1.- Ngữ cảnh
Đây là đoạn văn trích
từ bài tường thuật của tác giả Luca về cuộc Thương Khó của Đức Giêsu. Trong bản
văn này, Đức Giêsu đã đến điểm chung kết số phận Người; cuộc "xuất
hành" của Người (9,31) đi từ cuộc đời này đã đưa Người đến chặng cuối này.
Người đã bị đóng đinh tại nơi gọi là "Cái Sọ" giữa hai tên gian phi
(23,33). "Quyền lực tối tăm" (22,53) đã khép lại trên Người. Bây giờ,
đến lúc các thủ lãnh và lính Rôma sỉ vả Người. Nhưng cũng trong tình cảnh này,
Người được chính thức gọi là "vua dân Do Thái".
Tiếp nối cảnh tang
thương này, là một bản văn chỉ có trong TM III: một tên gian phi nhục mạ Người,
nhưng tên kia đã mắng lại vì nhận biết sự vô tội của Đức Giêsu và xin Người nhớ
đến anh. Đức Giêsu đã ban một lời hứa thật đẹp.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Dân chúng, các thủ
lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (23,35-38);
2) Hai tên gian phi
đối với Đức Giêsu (23,39-43).
3.- Vài điểm chú giải
- Dân chúng đứng nhìn,
còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo (35): Theo thói quen
của ngài, tác giả Lc không trích nguyên văn bản văn Kinh Thánh, nhưng bản văn
thánh vẫn bàng bạc trong bài tường thuật. Ở c. 35 này, chúng ta có thể nhận ra
Tv 22,8 LXX ("Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa
mai" [Bd CGKPV]): "Hễ thấy (theôrountes) tôi là họ nhạo cười
(exemyktêrisan), họ trề môi, họ lắc đầu" (NTT), vì Lc 23,35 dùng lại hai
động từ này: "Dân chúng đứng nhìn (theôrôn), còn các thủ lãnh thì buông
lời cười nhạo (exemyktêrizon)". Bằng cách này, tác giả cho thấy là quang
cảnh này lại hoàn tất Kinh Thánh cách bí nhiệm.
- Đấng Kitô của Thiên
Chúa, người được Chúa tuyển chọn (35): "Đấng Kitô
của Thiên Chúa" là danh hiệu vương giả; "người được Chúa tuyển
chọn" là danh hiệu của Đấng Mêsia.
- đưa giấm cho Người
uống (36): Oxos (do tính từ oxys, "cay") được dùng trong
vùng đông Địa Trung Hải thời cổ. Đây là một thứ rượu chua, hoặc cay, khác với
oinos là rượu ngọt. Ta không rõ vì sao người ta lại cho Đức Giêsu uống thứ rượu
này, chỉ biết là Lc đã bỏ đi thứ "rượu pha mộc dược" nhằm giảm đau
(esmyrnismenon oinon) trong Mt 15,23.
- Nếu ông là vua dân
Do Thái (37): Câu này gợi ý tới lời quan Philatô hỏi Đức Giêsu (23,3)
cũng như tới tấm biển ghi bản án trên thập giá (23,38).
- Chúng ta chịu như
thế này là đích đáng (41): Tên gian phi thứ hai nhìn nhận tội mình, và như thế là mặc
nhiên diễn tả tâm tình metanoia (hoán cải) trước nhan Thiên Chúa.
- hôm nay, anh sẽ được
ở với tôi (43): "Hôm nay" đây không phải là "ngày đóng đinh
theo lịch", nhưng là ngày "ơn cứu độ thiên sai được ban", đặc
biệt nhờ cái chết của Đức Giêsu.
- thiên đàng (43): Danh từ Hy Lạp
paradeisos lấy từ tiếng Ba Tư cổ (pairidaêza) được dùng ba lần trong Kinh Thánh
với nghĩa là một khu vườn có cây cối (Dc 4,13; Nkm 2,8; Gv 2,5). Bản LXX đã
dịch "khu vườn" ở Êđen là paradeisos (St 2,8.9.210.15.16; 3,1…). Người
Do Thái diễn tả thế giới bên kia bằng những công thức liên hệ đến không gian:
"sheol" hoặc nơi cư ngụ của tất cả những người đã chết, "lòng
Abraham" hoặc "thiên đàng", là nơi mà những người công chính
quây quần quanh các tổ phụ mà chờ đợi được nhận vinh quang trọn vẹn vào lúc tận
thế.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
Vào lúc Đức Giêsu chào
đời, thần sứ Chúa đã loan báo: "Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho
anh em trong thành vua Đavít, Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa" (Lc 2,11).
Như thế, ngay từ khi mới xuất hiện, Đức Giêsu đã có một nhiệm vụ lớn lao. Ngay
từ đầu, câu hỏi này đã được nêu ra: Đức Giêsu sẽ thực hiện nhiệm vụ này như thế
nào? Người có ở ngang tầm với mọi tình cảnh bần khốn của con người chăng? Phải
chăng Người là Đức Kitô, là Đức Vua vĩnh viễn được Thiên Chúa sai phái đến, để
đưa lại ơn cứu độ trọn vẹn?
Câu hỏi này được đặt
ra hết sức trầm trọng sau khi Đức Giêsu bị đóng đinh, không phải là đặt ra trên
bàn giấy, trong cuộc tranh luận, nhưng được ném ra cho Đức Giêsu đang ở trên
thập giá, giữa hai tên gian phi. Toàn bản văn được đặt dưới dấu chỉ là
"đức vua", có khi là đối tượng cho người ta mỉa mai (cc. 35-39), có
khi là đối tượng cho người ta tin tưởng để rồi được ban thưởng (cc. 40-43).
* Dân chúng, các thủ
lãnh và lính tráng đối với Đức Giêsu (35-38)
Trước tiên, có đoàn
dân chúng. Họ có vẻ không hiểu những gì đang xảy ra. Rất có thể họ đang tự hỏi
làm thế nào mà con người đã không kháng cư lại cái chết lại có thể là đức vua
bao đời mong đợi và nếu Người là vị vua ấy, tại sao Thiên Chúa không cứu Người?
Chúng ta biết tác giả Lc vẫn có thiện cảm với những người nghèo nhất, những
người cùng rốt. Ngài cho thấy dân chúng đứng lặng thinh và cho biết rằng họ
không chịu trách nhiệm về cái chết của Đức Giêsu. Một vài câu sau, ngài sẽ nhận
xét: "Toàn thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã
xảy ra, đều đấm ngực trở về" (c. 48). Những con người này có thể đại diện
cho tất cả những người có thiện chí đang muốn hiểu được chương trình của Thiên
Chúa, nhưng không thể được, vì những người có thể soi sáng cho họ đều mù quáng
và không ý thức về điều dữ họ đang làm.
Dưới chân thập giá,
cũng có các nhà lãnh đạo, các đối thủ của Đức Giêsu, những người chịu trách
nhiệm về cái chết của Người. Bây giờ họ chỉ còn có thể chế nhạo Người về biết
bao tự phụ và điên rồ mà Người đã chứng tỏ trước đây thôi. Một kẻ đã bị buộc
phải đi đến thập giá và bị người ta làm cho mình tất cả những gì mình không
muốn, có thể nào lại là Đức Vua Cứu thế được Thiên Chúa gửi đến? Đáng giá gì
một Đức Kitô mà đến việc cứu chính mình khỏi chết cũng không làm nổi? Nếu ý đồ
của hắn ta là thật, hắn chỉ việc chứng minh ngay bây giờ đi!
Câu nói chế nhạo sau
đây trở đi trở lại như một điệp khúc: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu
lấy mình đi"; "Nếu ông là Đấng Kitô thì hãy chứng tỏ sức mạnh của mình
đi!". Các lời này, các thủ lãnh nói ra để sỉ vả Người. Thật ra, khi vừa
bắt đầu sứ vụ, Đức Giêsu đã bị Satan cám dỗ như thế (4,3), rồi tại Nadarét,
Người cũng đã bị yêu cầu như vậy (4,23); nay là tại chặng chót của hành trình
trần thế.
Còn một nhóm thứ ba có
mặt là toán lính. Họ cũng là những người nghèo, nên vì một ít tiền bạc, có thể
dùng vũ lực để áp đảo những người có lối ăn nói, thói tục và tôn giáo khác họ.
Họ có tội, nhưng họ cũng là nạn nhân của sự điên rồ của các sĩ quan của họ; họ
phải vâng lệnh. Họ đóng kịch như dâng rượu lên đức vua, để chế nhạo Người. Ngay
cả tấm biển ghi bản án, "Đây là vua dân Do Thái", thật ra là một cái
nhãn hiệu đầy mỉa mai do quan Philatô tạo ra (x. Ga 19,15.19.22). Tên gian phi
thứ nhất cũng yêu cầu được cứu với giọng cay độc. Thập giá đặt một dấu chấm hỏi
to lớn trên tất cả công trình trước đây của Đức Giêsu. Thập giá dường như đã
bác bỏ cao vọng của Người. Một con người đã bị đóng cứng trên thập giá và sắp
chết thì còn có thể giúp đỡ ai? Trong bầu khí đen tối này, chi tiết: "Toàn
thể dân chúng đã kéo đến xem cảnh tượng ấy, khi thấy sự việc đã xảy ra, đều đấm
ngực trở về" (c. 48), là chi tiết đầy an ủi và hy vọng.
Trước tất cả những lời
sỉ nhục và thách thức đó, Đức Giêsu không trả lời một tiếng nào.
* Hai tên gian phi đối
với Đức Giêsu (39-43)
Một tên gian phi cũng
cùng với tập thể kia hòa lời mỉa mai sỉ nhục Đức Giêsu. Thế nhưng tên gian phi
thứ hai lại trách bạn mình. Anh nhìn nhận tội lỗi mình và nhìn nhận cái chết
thập giá dành cho mình là xứng đáng, nhưng anh tuyên bố Đức Giêsu vô tội. Chẳng
những thế, anh còn công nhận rằng con người bị đóng đinh và bị chế giễu này,
con người không xuống khỏi thập giá dù bị thách thức, chính là Đức Vua Cứu thế.
Anh đã diễn tả lòng tin vào Đức Giêsu như Đấng Mêsia vương giả bằng lời thỉnh
cầu: "Khi vào Nước của Ngài, xin Ngài nhớ đến tôi"; lòng tin này được
bày tỏ với một tình yêu đặc biệt qua lời kêu cầu rất thân thương: "Giêsu
ơi!". Anh ta không xin Đức Giêsu cứu cho khỏi chết, vì anh chấp nhận cái
chết như là hình phạt đích đáng. Nhưng anh xác tín rằng Đức Giêsu không chấm
dứt cuộc đời với cái chết, mà qua cái chết, Người sẽ đi vào trong vương quốc
Người. Anh tin rằng Đức Giêsu cứu người ta không phải chỉ là khỏi cái chết,
nhưng là đưa sang bên kia cái chết. Như thế, câu viết trên bản án đầy vẻ bôi
bác, "Đây là vua dân Do Thái", lại đạt được nội dung đích thực: Đức
Giêsu đúng là Vua Cứu thế; Người đi vào vương quốc của Người và đưa vào đó tất
cả những ai tín thác nơi Người.
Với anh gian phi này,
Đức Giêsu trả lời: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên
Thiên Đàng". Qua câu nói này, Người cho hiểu rằng, với cái chết, Người sẽ
đi vào trong sự hiệp thông viên mãn với Thiên Chúa; nhưng cũng cho hiểu rằng
chính Người quyết định ai sẽ vào đó với Người: chính Người bố trí để đưa người
ta đi vào hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa.
+ Kết luận
Tất cả những điều xảy
ra trên Núi Sọ hôm ấy có thể được nhìn theo theo nhiều quan điểm: đối với các
thủ lãnh, đây là một thành công vì họ đã trừ khử được một kẻ lâu nay cứ ngáng
đường họ. Đối với dân chúng, dường như họ còn chờ đợi để hiểu rõ biến cố này
hơn. Nhưng đối với tác giả Lc khi suy gẫm về câu chuyện này, thì đây là chương
trình của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh nay đã hoàn tất.
Ngoài ra, tư cách
"Vua" của Đức Giêsu, điều mà các thủ lãnh và lính tráng đưa ra làm
trò cười bởi vì họ chỉ đầy ứ sự căm hờn và mỉa mai, lại đã được khẳng định tích
cực khi người gian phi thứ hai lấy đức tin nhìn nhận Người và được Người hứa
cho vào thiên đàng, "Nước của Ngài". Cho đến chết, Người vẫn là Đấng
cứu độ những người tội lỗi.
Chúng ta ghi nhận
trong mỗi phân đoạn có một cảnh đối lập:
- Trong phân đoạn 1: Trong khi dân chúng
đứng nhìn (rồi họ sẽ hoán cải: c. 38), các thủ lãnh và lính tráng lại chế giễu
Đức Giêsu;
- Trong phân đoạn 2: Trong khi tên gian phi
thứ nhất nhục mạ Người, tên gian phi thứ hai lại tin tưởng trao phó cuộc đời
cho Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ra sức làm một hành
vi vĩ đại, thì đã chứng tỏ mình đáng được nể trọng. Nhưng im lặng thản nhiên,
khi bị người ta khinh bỉ, sỉ nhục, bôi nhọ, thì càng chứng tỏ mình có tâm hồn
cao thượng và đáng nể trọng hơn. Đức Giêsu đã chứng tỏ như thế, nhất là khi
Người lại là chính Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, và các kẻ đang nhao nhao sỉ
nhục Người chỉ là những thọ tạo của Người. Đấy là bài học cho các Kitô hữu mỗi
khi cảm thấy mình không được tôn trọng đủ.
2. Bản văn nói lên sự
mỉa mai của loài người trước Đức Giêsu bị đóng đinh, nhưng cũng cho thấy có sự
mỉa mai của Thiên Chúa đối với sự "khôn ngoan ranh mãnh" của người
đời: Chính khi họ tưởng họ thắng được Thiên Chúa thì họ lại thua vĩnh viễn;
chính khi công trình cứu độ có vẻ thất bại, thì lại thành công mỹ mãn.
3. TM Luca ghi lại
biết bao người đã tin tưởng đến với Đức Giêsu và đã trải nghiệm sự giúp đỡ và
ơn cứu độ của Người. Người thường bảo họ: "Đức tin của con đã cứu
con" (7,50; 8,48; 17,19; 18,42). Cũng như người phụ nữ tội lỗi và như
Dakêu, có những người đã đến với Người từ tình trạng bị đẩy ra bên lề và đã
được Người ban ơn hoán cải và ơn cứu độ. Anh gian phi hoán cải là kết tinh của
công trình cứu chữa này. Anh ở trong tình trạng bị loại trừ tuyệt đối, anh nhìn
nhận mình đáng phải chết đóng đinh, nhưng anh cũng xứng đáng được Đức Giêsu áp
dụng câu nói: "Đức tin của anh đã cứu anh". Anh đã tin vào Đức Giêsu,
một con người bị đóng đinh như anh. Do đó, anh đã được ban cho ơn cứu độ toàn
vẹn.
4. Đức Giêsu chịu đóng
đinh là để cho thấy rằng Người không phải là một Đức Vua Cứu thế sẽ đảm bảo cho
họ có sự sung túc trần thế. Người đã không cứu chính mình khỏi chết, thì Người
cũng không gìn giữ chúng ta khỏi bệnh tật và cái chết. Quyền lực của Người
không nhắm đến đời sống thoải mái trần tục của chúng ta, nhưng nhắm đến đời
sống của chúng ta với Thiên Chúa. Ai tìm sự hiệp thông với Thiên Chúa, và biết
nhờ Đức Giêsu, Đức Giêsu sẽ cứu độ người ấy, cho dù người ấy đến với Người như
một tên gian phi.
45. Chú giải của
Noel Quesson.
Lễ Đức Kitô Vua là một
ngày lễ rất gần đây bởi vì lễ này đã cử hành lần đầu tiên năm 1925. Những canh
tân phụng vụ thời nào cũng có. Thật vậy, việc cử hành thật sự vương quyền của
Đức Giêsu là ngày lễ Thăng Thiên: Nhưng, trong Chúa nhật cuối cùng này của năm
phụng vụ, chúng ta chiêm niệm "Triều đại của Thiên Chúa" đến từ từ
xuyên qua, lịch sử và đạt đến sự thực hiện viên mãn vào thời cách chung.
Để mừng lễ Đức Kitô
Vua chúng ta, một cách rất nghịch lý, Giáo Hội đưa ra cho chúng ta cảnh tượng
mà Đức Giêsu khai mạc triều đại của Người: ngai vàng của Người là thập giá.
Vương miện Người là một vòng gai làm đổ máu khuôn mặt Người... lễ phong vương
của Người là một “danh hiệu" của việc kết án tử được đóng đinh bên trên
đầu Người. “Đây là vua dân Do Thái! Hai chứng nhân, hai nam tước của Người, là
hai tên gian phi bị kết án với Người.
Nghịch lý cao cả của
Tin Mừng! Vua ư? Phải! Nhưng chắc chắn không như cách hiểu của những người hoặc
muốn đứng về phe Người để hoan hô tôn phong Người hoặc là những đối thủ của
Người để lên án Người. Vua "theo cách của Thiên Chúa"!
Khi đến nơi gọi là
"Đồi Sọ", họ đóng đinh Người vào thập giá, cùng lúc với hai tên gian
phi, một tên bên phải, một tên bên trái. Bấy giờ Đức Giêsu cầu nguyện rằng:
"Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm." Rồi họ lấy
áo của Người chia ra mà bắt thăm. Dân chúng đứng nhìn.
Vậy đây là đinh điểm!
Đó là "đỉnh
núi" của Tin Mừng. Sau "Núi Bát Phúc" nơi Đức Giêsu lần đầu tiên
công bố sứ điệp của Người... sau "Núi Ta-bo" nơi Đức Giêsu biến hình
và nhận sự tấn phong của Chúa Cha: "Đây là Con Ta. Người đã được Ta tuyển
chọn, hãy vâng nghe lời Người!". Đây là đỉnh điểm thứ ba và cao siêu của
Tin Mừng. Ở cổng vào thành phố Giê-ru-sa-lem và gần cổng Ép-ra-im, trong một
nơi khai thác đá cũ những thợ khai thác đá còn để lại tại chỗ một tảng đá cứng
hơn chỗ khác, một khối đá biệt lập cao khoảng 5 mét. Đối với mọi người, đó là
"Golgotha", từ này có nghĩa là cái sọ (tiếng Hy-lạp là Kranion; tiếng
La-tinh là Calvanô) vì hình dạng của tảng đá. Một truyền thuyết lâu đời cho
rằng đó là cái sọ của A-đam được chôn cất mãi mãi ở đó! Đỉnh núi ấy của Tin
Mừng là một ngọn "núi trọc", một ngọn núi “cô độc". Một nơi buồn
thảm: một miếng đất nhỏ xíu, cao hơn mặt đất dùng để đặt giá treo cổ những tử
tội, gần con đường có nhiều người đi qua, để mọi người có thể nhìn thấy các tội
nhân bị hành hình và lấy đó mà làm gương!
Thật vậy đám đông đang
ở đó... và nhìn... ao ước nhìn! Ở đây, Luca dùng một từ rất có ý nghĩa: Ngài
không dùng từ "đám đông", nhưng dùng từ "dân chúng" (tiếng
Hy-lạp là saos), một từ thường dùng để chỉ "dân Thiên Chúa". Cũng từ
ấy dùng để nói "toàn dân say mê nghe Người giảng dạy trong Đền Thờ"
(Lc 19,48) trong lúc mà các thượng tế và kinh sư cả các thân hào trong dân tìm
cách giết Người (Lc 19,47). Luca thường ghi nhận rằng đối với Đức Giêsu,
"dân chúng” khác với các thân hào (Lc 20,1 -20,45 - 21,38)
“Và dân chúng đứng
nhìn" như biến cố làm họ chán ngán. Sự im lặng của dân chúng rất ấn tượng.
Dân chúng Israel hiền lành không còn hiểu gì cả. Họ đã chờ đợi Đấng Mêsia như
một "ông vua", một vua Đa-vít mới. Trong lịch sử của họ, vương quyền
không kéo dài được bao lâu và các ông vua của họ, không phải thiếu nhưng không
có được tầm cỡ của vua Đavít và Salômôn; nhưng đó là thời kỳ huy hoàng của
Israel. Từ nhiều thế kỷ, họ đã không ngừng mơ ước có một vị vua là Đấng Mêsia,
hưng thịnh, chiến thắng kẻ thù làm vị thẩm phân của Thiên Chúa. Vâng họ cứ ngỡ
rằng Đức Giêsu đến để "phục hưng vương quyền của Israel". Họ đã thử
tôn Người lên làm vua": Người lại tránh né (Ga 6,15; Lc 19,38). Và giờ
đây, Người kia kìa, bị kết án tử hình! Còn dân chúng đứng nhìn.
Còn các thủ lãnh thì
buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật
hắn là Đấng Kitô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!"
Khác với những người
dân đen đang đứng nhìn, đã hẳn, ngạc nhiên, đau đớn và thất vọng. Các thủ lãnh
cười nhạo và buông lời thách thức. Thách đố của họ là Đức Giêsu hãy tỏ vương
quyền của Người là Đấng Mêsia. Đấng được Thiên Chúa xức dầu là một danh hiệu
vương đế bởi vì các vua Israel được gọi như thế, và quả thực đã “thánh
hiến" bởi dầu thánh, (Chrême) làm họ trở thành những Đức Kitô (tiếng
Hy-lạp Christos dịch từ tiếng Mêsia trong tiếng Do Thái). Nếu Đức Giêsu là Đức
Kitô, Đấng được tuyển chọn (từ này lấy trong sách Isai-a 42,1) nếu Người là Cứu
Chúa của thế gian trước tiên Người phải tự cứu lấy mình.
Những lời gào la chế
nhạo ấy là tiếng vang của những lời ma quỷ cám dỗ trong sa mạc lúc Đức Giêsu
bắt đầu đời sống công khai của Người (Lc 4,3); cũng là tiếng vang của những lời
chê trách mà các người đồng hương Nagiarét đã nói với Người: "Thầy lang
ơi, hãy chữa lấy mình" (Lc 4,23) Trong thế giới hiện đại của chúng ta,
"những kẻ thế thạo Thiên Chúa" không còn lớn tiếng như thế, nhưng
chẳng phải vẫn luôn có cùng một vấn đề, cùng một lời khinh chê: "Thiên
Chúa phải tỏ mình ra đi, cho người ta thấy! Phải hiện ra đi, nếu Người hiện
diện! Và câu trả lời của Thiên Chúa vẫn luôn là câu trả lời của Đức Giêsu:
Người im lặng và không can thiệp vào bình diện các sự vật trần thế mà Người để
chúng tồn tại hoàn toàn tự lập. Người không biện hộ cho mình. Người để cho mình
bị lên án là bất lực và không hiện hữu. Đức Giêsu, cũng như Thiên Chúa, không
bao giờ nhượng bộ sự cám dỗ để "hành động vì mình", sử dụng sự Toàn
Năng của mình chỉ vì chính mình.
Lính tráng cũng chế
giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua
dân Do thái thì cứu lấy mình đi!"
Đó là những binh sĩ La
Mã, những dân ngoại trong đoàn quân xâm lăng; họ dùng từ “vua" mà họ nhìn
thấy ghi phía trên đầu Người. Một sự chế giễu cao siêu lại một lần nữa nhắm vào
kẻ bị loại trừ đó, bị treo trên thập giá... thở khò khè chờ tắt thở!
Phía trên đầu Người,
có bản án viết: "Đây là vua người Do thái”.
Nghi lễ lên ngôi của
các ông vua bao gồm một bản phong vương: một Thượng tế nhân danh Thiên Chúa ban
cho nhà vua "danh hiệu” của vua, như người ta thấy trong Thánh Vịnh 109:
"Ngày đăng quang con nắm tuyển thủ lĩnh, vẻ huy hoàng rực rỡ tựa thần
linh. Ngay trước lúc hừng đông xuất hiện, tự lòng Cha, Cha đã sinh con".
Ở đây bên trên "ngai
vàng" ứng biến là thập giá, bản án dùng làm bản phong vương, giống như Lời
của Chúa Cha tấn phong Con Người trên sông Giođan ngày Người chịu phép rửa:
"Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con" (Lc 3,22).
Trong Tin Mừng thánh Luca, bản án trên thập giá không được trình bày như một
"lời lên án". Đức Giêsu đã được giới thiệu như một ông vua, nhưng
"Nước Người không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Trong một sứ vụ
của Người, Người đã hết sức cẩn thận không cho người ta giải thích sứ vụ của Người
theo nghĩa chính trị. Vương quyền của Người được thiết lập ở trần thế nhưng
không cạnh tranh với "các vương quốc hoặc hệ thống chính trị trần
thế". Thập giá ấy, ngai vàng ấy, danh hiệu ấy đã làm tan tành mọi niềm hy
vọng hoang tưởng của chủ nghĩa Đấng Mêsia vua dân Israel.
Một trong hai tên gian
phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Kitô
sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!"
Câu chuyện của Luca
được xây dựng theo kiểu bi kịch, trong sự căng thẳng tăng lên dần: dân chúng
đứng "nhìn", các thủ lãnh "cười nhạo”, lính tráng "chế
giễu”, những tên gian phi "nhục mạ".
Luật của Môsê đòi phải
có "hai chứng nhân" để mọi hành động trở thành hợp pháp. Như thế, các
chứng nhân của việc tôn phong Chúa: Biến hình là hai nhân vật chính của Cựu
ước. Môsê và Êlia (Lc 9, 28.36). Hai chứng nhân của sự sống lại sẽ là hai người
lữ hành dễ thương và bí hiểm trên đường trở về Emmau (Lc 24,18), trước đó ít
lâu là hai chứng nhân không kém huyền bí của Ngôi Mộ trống (Lc 24,4). Nhưng ở
đây, hai chứng nhân cho sự lên ngôi ở Núi Sọ chỉ là hai tên cướp tầm thường.
Đức Giêsu, vị vua bị nhạo báng đến cùng!
Đức Giêsu, vị vua của
ngày thứ Sáu Tuần Thánh là một vị vua bị bóp méo xuyên tạc mà người ta ngần
ngại chỉ ra như một người bị nhạo báng, trần truồng, bị khạc nhổ và đầy những
vết thương đẫm máu, hai bên có hai tên gian phi.
Nhưng tên kia mắng nó:
"Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không
biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ
ông này đâu có làm điều gì trái!"
Trong tiếng ồn ào của
sự khinh bỉ chung, đây là một tiếng nói yếu ớt và nghèo nàn dám nói chen vào.
Chính Đức Maria ở dưới chân thập giá đã nghe được và đã thuật lại cho Luca, là
người duy nhất đã kể lại cho chúng ta. Luca vị thánh sử của lòng "nhân
hậu” và của những "người nghèo hèn" đã phải vui mừng đặc biệt về việc
này. Triều Đại của Đức Ki tô, Nước Thiên Chúa chỉ mở ra cho những người
"hối cải". Đối với Đức Kitô, cách thực thi vương quyền của Người trên
mọi người, kể cả những kẻ thù của Người, chính là ban cho họ ơn tha thứ (Lc 23,
34.43); một sự tha thứ không hạn chế? Để vào được Nước Chúa, không cần điều lớn
lao là "công chính". Người tội lỗi cũng có chỗ trong Nước Chúa với
một điều kiện duy nhất: đón nhận ơn tha thứ mà Thiên Chúa lúc nào cũng ban cho
chúng ta. Người đầu tiên sống sự hòa giải hoàn vũ này là một "kẻ
cắp", kẻ đã biết nhận ra tội lỗi của mình và đồng thời công bố sự vô tội
của Đức Giêsu.
Rồi anh ta thưa với
Đức Giêsu: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!"
Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên Thiên Đàng."
Đức Giêsu đúng là
“Ađam mới", giúp nhân loại về lại địa đàng đã mất. Chia sẻ "cùng một
nỗi khổ cực như Đức Giêsu, chết, đó là bắt đầu "sống với Đức Giêsu”.
46. Đức Giêsu
Vua Tình Yêu
(Suy niệm của Lm
Nguyễn Hồng Giáo)
Năm phụng vụ kết thúc
với lễ Đức Kitô Vua vũ trụ. Nhưng Chúa Kitô làm vua như thế nào? Vương quốc
Người ở đâu?
Trong suốt cuộc đời
của Người, Chúa Giêsu chưa hề một lần ngồi trên ngai vàng. Người không hề làm
vua một quốc gia hay một mảnh đất nào, dù là như một ông vua lưu vong. Có một
lần đám đông dân chúng phấn khởi vì Người đã làm phép lạ cho họ ăn uống no nê,
đã muốn tôn Người làm vua nhưng Người đã trốn khỏi họ. Cũng có lần người ta gọi
Người là vua dân Do Thái nhưng là để nhạo báng Người. Lúc đó Người chỉ là một
tên tử tội. Bọn quân lính đặt Người ngồi lên ghế, khoác cho Người chiếc cẩm bào
là tấm áo choàng đỏ, đặt lên đầu Người một vòng gai như vương miện và bắt cầm
cây sậy làm phủ việt, rồi họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: "Vạn
tuế Đức Vua dân Do Thái!" (x. Mt 27, 27-29) Trước lời vặn hỏi của quan
tổng trấn Philatô, Đức Giêsu đã nhận mình là vua, nhưng để tránh mọi ngộ nhận,
Người tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu Nước tôi thuộc
về thế gian này, thuộc hạ của tôi đã chiến đấu không để tôi bị nộp cho người Do
Thái. " (Ga 18, 36). Nhưng trong sách Tin Mừng của thánh Matthêu và thánh
Maccô, tước hiệu "vua dân Do Thái" chính là một lý do người ta trưng
ra để kết án Chúa Giêsu.
Cuộc đời trần thế của
Đức Giêsu đã chấm dứt trên thập giá. Bài Tin Mừng Lc 23, 35-43 trong ngày lễ
năm C giới thiệu Chúa Kitô Vua của chúng ta đang bị đóng đinh giữa hai tên trộm
cướp. Các đối thủ của Người muốn nói gì qua cách hành xử này thì đã quá rõ.
"Hắn ta xưng mình là vua, nhưng vua cái nỗi gì, chỉ là một tên bịp bợm
không hơn không kém, chỉ đáng chết như một tên gian phi mà thôi. "
Chọn đoạn Tin Mừng này
mà đọc trong ngày lễ Chúa Kitô Vua, thật cũng lạ thường. Nhưng chính cái lạ
thường đó lại giúp ta hiểu đúng, hiểu rõ hơn Chúa Giêsu làm vua như thế nào và
Nước của Người là gì?
Trên thập giá, chính
Chúa đã phong thánh cho một trong hai tên cướp bị đóng đinh cùng với Người. Anh
ta đã làm gì mà được phong thánh mau lẹ vậy? Anh thật lòng nhận mình đã lầm
đường lạc lối và nhìn nhận Đức Giêsu là Cứu Chúa, là Chúa cứu chuộc. Anh tin
vào ơn cứu rỗi do Người mang đến. Anh phó mình cho Đức Kitô Vua Tình Thương:
"Lạy Ngài, khi vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!" Và Đức Giêsu đã nhận
lời cầu xin của anh: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi
trên Thiên Đàng. " Làm thánh đơn giản thật! Tên cướp sám hối đã tuyên xưng
Đức Giêsu có một Nước, một Vương Quốc. Đức Giêsu xác nhận điều đó là đúng và
tuyên bố Người có quyền đưa anh ta vào vương quốc của mình.
Vậy Vương Quốc của
Chúa Giêsu là vương quốc tình yêu, quyền hành của Người cũng là quyền hành của
tình yêu, dùng để cứu độ con người.
Làm vua tình yêu như
thế, tất nhiên Chúa Giêsu đã không ngồi trên ngai vàng, đã không có dinh thự
lâu đài, không có ngân hàng hay kho báu, không có quân đội chinh nam dẹp
bắc..., Người không tìm kiếm thế lực, không thống trị ai, cũng như không có tôi
tớ ra vào phục dịch... nhưng trái lại đã hạ mình làm tôi tớ phục vụ mọi người
và hy sinh tính mạng vì hạnh phúc nọi người.
Chúa Giêsu làm vua và
thống trị bằng một cuộc đời hy sinh từ bỏ, và bằng cái chết đẫm máu trên thập
giá. Chính từ cái chết đó đã phát sinh sự sống. Người đã thực hiện điều Người
không ngừng dạy bảo: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ đã hy
sinh tính mạng vì bạn hữu mình" (Ga 15, 13). Và Người cũng đòi hỏi các môn
đệ mình: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà
theo. Quả thực, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng
sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy" (Mt16, 25)
Phục sinh sẽ là tột
đỉnh cuộc đời Chúa Giêsu và là sự thành tựu của công trình cứu thế Người thực
hiện. Tuy nhiên đường dẫn tới phục sinh không phải là một đại lộ thênh thang mà
là con đường thập giá cam go. Người tiến tới vinh quang theo con đường tự hiến,
liều mấy mạng sống mình vì tình yêu. Phục sinh là cùng đích, còn thập giá là
con đường dẫn tới đích. Nhưng linh hồn của thập giá là tình yêu. Thiếu tình
yêu, thập giá (tức là đau khổ, hy sinh và cái chết) sẽ trở nên không những là
nặng nề mà còn vô nghĩavà vô lý. Chúa Giêsu đã thiết lập vương quốc của mình
bằng một cái chết-vì-tình-yêu. Sống chính là chết vì tình yêu, và thống trị là
hạ mình phục vụ cho đến chết vì sự sống của kẻ khác.
Phải chăng lý tưởng
sống đó hoàn toàn đi ngược với nền văn minh hiện đại?
47. Suy niệm của
Andre Seve
Lễ Chúa Kitô Vua (Lc
23, 35-43)
Vương quyền của Chúa
Kitô là một dữ kiện của Tin Mừng, nhưng không dễ gì thấy được điều mà vương
quyền này mang lại cho cuộc sống chúng ta ngày nay. Chúa Giêsu có thể là vua
của chúng ta theo nghĩa nào?
Chúng ta hãy khởi đi
từ khái niện vương quyền: vương quyền này được làm cho rõ nét bằng mối liên quan
của nó với thực tại chính trị, nghĩa là với một quyền lực trên cuộc sống tập
thể. Một ông vua tạo ra hạnh phúc hoặc bất hạnh cho thần dân do nền chính trị
tốt hay xấu của ông. Chúa Giêsu vua có một nền chính trị hay không? Một số
người nghĩ rằng người ta có thể tìm thấy tất cả các yếu tố đó trong Tin mừng.
Trong khi áp dụng các yếu tố đó thì người ta sẽ thấy Chúa Giêsu là một vị vua.
Trong thực tế, điều
này đã không diễn ra xuôi chảy. Vào thời Trung Cổ chẳng hạn, Giáo hội đã nghĩ
rằng Chúa Kitô có thể thực thi quyền bính qua Giáo Hội. Điều này đã làm cho
Giáo Hội dấn sâu vào các hoạt động trấn áp và đàn áp. Đàn áp nhân danh Chúa
Kitô, loại trừ nhân danh Chúa Kitô, đây là những điều ngày nay có vẻ không thể
tưởng tượng được. Sau đó, Giáo Hội gắn bó khá chặt chẽ với các chế độ bảo thủ.
Hiện nay, một số Kitô hữu muốn liên kết Chúa Giêsu và Tin mừng với những ý thức
hệ tả khuynh.
Nhưng, đối với phần
lớn các Kitô hữu, Tin mừng không liên quan gì đến chính trị cả. Chúa Giêsu là
vua chăng? Không có vấn đề gì cả! Chỉ có vấn đề các “con tìm”, quan hệ rất cá
nhân và rất riêng tư với Chúa Giêsu mà thôi. Chúng ta hãy để cái chính trị xấu
xa, do bẩn cho “những người khác”. Mặc kệ nếu những cơ cấu tập thể làm cho
nhiều người trong các anh em của chúng ta bất hạnh, còn chúng ta, chúng ta hát
những bài thánh ca và cùng nhau đọc những bài kinh đẹp đẽ.
Trong khi giản lược
hóa đến cùng cực, chúng ta thấy hai khuynh hướng trái ngược nhau: gán Chúa
Giêsu vào một nền chính trị nào đó, hoặc tách Ngài ra khỏi mọi nền chính trị.
Chúng ta có thể thoát ra khỏi thế phải chọn giữa đôi ngả này hay không? Tôi
nghĩ là có thể được trong mức độ chúng ta thấm nhuần Bát Phúc, hiến chương
“chính trị” của Chúa Giêsu: “Khó nghèo còn hơn là giàu có mà ích kỷ và bóc
lột những người nghèo.”
-Các chính trị gia sẽ
nhạo cười.
-Nhưng chúng ta cũng
thế khi các chính trị gia này muốn thuyết phục chúng ta rằng học có thể làm cho
nhiều người sống chung với nhau một cách công bằng và hạnh phúc (đay là định
nghĩa của chính trị) mà không làm thay đổi các con tim.
Chúa Giêsu sẽ thực sự
là vị vua của chúng ta như sau, Ngài không chỉ ngự trị trên các con tim mà còn
trên các con tim đã được biến đổi. Các Kitô hữu phải ý thức hơn về tầm quan
trọng của các cộng đồng, và do đó ý thức về chính trị, vì hạnh phúc của nhiều người,
nhất là những người nghèo, những người thấp cổ bé miệng.
Thế là Tin mừng tỏ ra
sức mạnh xã hội cua mình. Tin mừng không cung cấp cho một nền chính trị lý
tưởng, mà là không ngừng phê bình tất cả các chế độ cụ thể. Tin mừng rèn luyện
những con người có khả năng hình dung ra những chế độ tốt nhất là có khả năng
dấn thân.
Khi con người vượt lên
trên những vấn đề cá nhân để cố gắng xây dựng theo Bát Phúc một thế giới huynh
đệ hơn thì ở đó Chúa Kitô ngự trị.
48. Những điều
lạ lùng – Jos. Vinc. Ngọc Biển
Ngày nay, trên thế
giới, chúng ta nhận thấy: cứ chuẩn bị đến dịp bầu cử là các ứng viên thường vận
động cử chi bầu cho mình, và muốn được trúng cử thì đương sự phải đưa ra những
kế hoạch mình sẽ làm trong nhiệm kỳ tới. Nếu lòng dân thấy thuận thì họ bầu cho.
Rồi đến khi đắc cử, thường họ hay mở tiệc ăn mừng. Đến ngày ra mắt công chúng,
đương sự phải có một bài diễn văn rất hay... như là một cách thức cám ơn dân
chúng đã bầu cho mình. Và khi thi hành, người ta dùng quyền để cai trị con dân
và giữ gìn an ninh quốc gia.
Hôm nay, kết thúc năm
Phụng vụ với lễ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Giáo Hội nhắc nhớ chúng ta có một vị Vua
là Vua các vua, Chúa các chúa, nhưng lại không theo kiểu người đời, vị Vua ấy
lại chọn cho mình một đời sống từ bỏ, khiêm hạ, yêu thương, khước từ vinh hoa
phú quý, lợi lộc trần gian. Vị Vua ấy không cai quản và điều hành bằng quyền
lực, mà bằng tình yêu. Rồi cuối cùng trở nên Đấng xóa tội trền gian qua cái
chết (x. Ga 1,29). Vị Vua ấy chính là Đức Giêsu Kitô.
1. Đức Giêsu là vua
cách lạ lùng
Nếu một vị vua theo
kiểu trần gian, ngày đăng quang và xưng vương phải là một ngày trọng đại, có
các lễ nghi trang trọng, có dân chúng reo hò chúc tụng, thì Đức Giêsu làm vua,
lại là vị vua âm thầm, khiêm hạ, cả cuộc đời, không hề có kiểu "diễu sĩ
dương oai" không kèn không trống.
Vương quyền của Ngài
được tỏ lộ không phải qua một nghi thức trọng thể, mà lại qua một tấm bảng bêu
xấu mà Philatô truyền lệnh đóng trên thập giá, phía đầu Ngài: "Đây là Vua
dân Do Thái". Ngai vàng không phải là một cái nghế được sơn son thiếp vàng
lộng lẫy cao sang, mà là hai thanh gỗ được ghép lại với nhau thành hình thập tự
để làm ngai cho Vua trời ngự giá. Đây là một hình khổ mà người Do thái thời bấy
giờ dành cho những kẻ bị kết án tử.
Vương niệm của Ngài
không phải là mũ làm bằng kim loại quý (thường là bằng Vàng) và được khảm những
châu báu, ngọc ngà, đá quý, kim cương. Còn Đức Giêsu lại có một vương niệm đặc
biệt, đó là một vòng gai được đội trên đầu. Vương trượng là cây sậy yếu ớt, được
người ta đưa cho để nhằm chế giễu, chọc ghẹo. Các quan hầu cận là 12 tông đồ,
ít học, kém hiểu biết và hoàn toàn không mảy may am tường về chuyện binh đao,
họ còn là kẻ bán Chúa, trối Thầy, những kẻ khác thì chạy trốn,... Áo cẩm bào
thì lại là thân hình ô nhục. Người thân dự lễ phong vương lại là kẻ thù, chỉ có
một vài người vỏn vẹn là Mẹ Ngài, Gioan, mấy phụ nữ và 2 tên gian phi cùng chịu
đóng đinh với Ngài. Lẽ ra thần dân tung hô "chúc tụng vạn tuế đức
vua" thì lại là: "đóng đinh nói đi", "đóng đinh nó vào thập
giá", đến nỗi ngay cả kẻ cùng chịu đóng đinh với Ngài cũng cất lên những
lời nguyền rủa, nhục mạ, thách thức: "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu
ông và cứu chúng tôi nữa". Khung cảnh phong vương thì lại ở trên núi sọ,
thay vì ở trong thành phố... Diễn từ khai mạc là: "Lạy Cha xin hãy tha cho
họ" và sau cùng: "Mọi sự đã hoàn tất".
Khi lập pháp thì lại
hoàn toàn "Vâng theo ý Cha". Khi truyền lệnh hành pháp thì lại chỉ có
vỏn vẹn trong giới luật Yêu thương: "Đây là giới răn của Thầy là các con
hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con". Và "Người đã bị
đối xử tàn tệ, nhưng đã khiêm tốn chịu đựng, như một con chiên sắp bị đưa tới
lò sát sinh. Người không hề thốt ra một lời. Người bị bắt, bị tuyên án, và vị
dẫn tới chỗ chết... Người đã phải chết vì tội lỗi chúng ta"(Is 53,7-8).
Suốt cả hành trình loan báo về Nước Trời, Ngài đã không ngồi yên, mà nay đây
mai đó, miễn sao Tin Mừng cứu độ được loan báo và không hề có một dinh thự, lâu
đài, mà là: "con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có
chỗ dựa đầu".
Như thế, triều đại của
Đức Giêsu được kết thúc qua cái chết ô nhục trên thập giá.
2. Đức Giêsu là vua
của Tình Yêu
Thế nhưng, đường lối
của Thiên Chúa thì vượt xa trí hiểu của con người. Thật vậy, Người đã dùng hành
động tưởng chừng như bêu xấu này để mặc khải một lần nữa về bản chất Tình Yêu
của Thiên Chúa qua người Con Một của Người là Đức Giê su Kitô.
Ngài là Vua, nhưng lại
là một vị vua khiêm nhường, nhân hậu, Ngài là Vua của Hoà bình, Vua Tình yêu.
Một vị vua thiếu thốn đủ điều: "Con Người không có nơi tựa đầu", một
vị Vua chết cho thần dân được sống. Ngài là một vị vua của lòng người, của nhân
tâm. Ngài xử dụng quyền lực, nhưng là thứ quyền lực "mềm" chứ không
phải là quyền lực "cứng" như các nhà lãnh đạo vẫn thường xử dụng.
Vị Vua ấy được ví như
người mục tử nhân lành, biết và hiểu rõ từng con chiên trong đàn. Người Mục Tử
ấy sẵn sàng bảo vệ đoàn chiên khi gặp sói dữ và chấp nhận hy sinh mạng sống vì
đoàn chiên của mình (x. Ed 34,11-12.15-17). Thật vậy, người mực tử chân chính
là người còn yêu thương cả những con chiên hư hỏng, đi lạc và tìm cách đưa nó
về ràn: vị Vua ấy đến trần gian để cứu vớt những gì đã hư mất (x. Lc 19,1-10).
Và vì yêu, Ngài đã "đền bù tội lỗi cả thế gian" (1 Ga 2,2), cũng vì
yêu mà: "Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành
hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong
Người" (2 Cr 5,21). Đức Vua ấy đã trở nên: "Người Tôi Tớ khổ đau của
Giavê Thiên Chúa", Đấng gánh lấy mọi tội lỗi của trần gian, và dùng chính
cái chết của mình để mưu cầu ơn tha tội cho nhân loại. Ngài "đã hiến thân
chịu chết, đã bị liệt vào hàng tội nhân; nhưng thực ra Ngài đã mang lấy tội
muôn người và can thiệp cho những kẻ tội lỗi" (x. Is 53,2-12). Vì yêu,
Ngài đã chấp nhận làm bạn với những ai bé nhỏ nghèo hèn, những kẻ tội lỗi, thu
thuế, gái điếm, những người ốm đau, bệnh tật, thấp cổ bé họng... Vì thế, Ngài
đã lên tiếng bênh vực những người cô thế cô thân. Và mời gọi mọi người hãy Yêu
như Thầy là hy sinh mạng sống cho người mình yêu: "Không có tình yêu nào
lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15,13).
Và như một quy luật:
sự sống, niềm vui và hạnh phúc nơi con người chính là vinh quang của Thiên
Chúa. Vì thế, mới nghe người trộm lành cất tiếng kêu xin: "Lạy Ngài, khi
vào Nước Ngài, xin nhớ đến tôi!" thì ngay lập tức, Ngài đã đưa anh ta vào
vương quốc của mình qua lời tuyên bố: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ
được ở với tôi trên Thiên Đàng ".
3. Người Kitô hữu tham
dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Giêsu
Mỗi người Kitô hữu đều
được tham dự vào sứ vụ Vương Đế của Đức Kitô ngày ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội.
Qua Bí tích này, chúng ta được dìm vào trong một khuôn đúc mới, để xuất hiện
một hình ảnh mới, hình ảnh của chính Đức Kitô, Đấng đã yêu mến, vâng phục Cha
hết lòng và, cuối cùng đã chết vì yêu để làm vinh danh Đấng đã sai mình đến
trần gian hầu biểu lộ tấm lòng từ ái của Thiên Chúa cho nhân loại.
Khi thông chia và được
thừa tự sứ vụ đó của Đức Giêsu qua Giáo Hội, nơi Bí tích Rửa Tội, mỗi chúng ta
đều có bổn phận thi hành sứ vụ đó trong cuộc đời Kitô hữu của mình.
Là người kitô hữu,
chúng ta chỉ có thể chu toàn bổn phận này với một cách tốt đẹp khi noi gương và
trở nên giống Đức Giêsu là dám chấp nhận khước từ những vinh hoa lợi lộc thuần
túy trần thế. Ở điểm này, thánh Phaolô đã diễn tả: "Đức Kitô, Đấng vốn dĩ
giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có nhờ cái
nghèo của Người (x. 2 Cr 8,9).
Thật vậy, muốn được
cứu độ, ta phải sống thực sự với tinh thần nghèo như Chúa, vì nghèo thì mới dễ
yêu và khi yêu mới mong được trọn vẹn. Nếu chúng ta là con người đúng nghĩa thì
phải có cả hồn và xác trong một thân thể, thì nghèo và yêu được ví như hai mặt
của cùng một tấm mề đai.
Lời mời gọi của Đức
Giêsu: "Hãy đến với tôi, hỡi những ai vất vả mang gánh nặng nề, tôi sẽ cho
nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì
tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường" (Mt 11: 28-29). "Mang lấy
ách" của Chúa là gì nếu không phải là: "Hãy yêu nhau như Thầy đã yêu
anh em". Ách này không thể mang vác được, nếu ta kiêu căng, ngạo mạn và tự
mãn, nhưng chỉ với sự hiền lành, khiêm nhường và tình yêu phát xuất từ con tim
chân thành.
Thật vậy, chúng ta
không thể cùng lúc vừa là Kitô hữu vừa mang tinh thần thế tục. Nếu để hai yếu
tố đó thường trực trong con người chúng ta cùng một thời điểm, thì mọi việc
chúng ta làm và suy nghĩ sẽ rơi vào tình trạng hư ảo, ngạo mạn, tự đắc.
Ước gì sống tinh thần
nghèo và đến với người nghèo bằng một trái tim yêu thương rộng mở sẽ là hướng
đích của mỗi chúng ta khi noi gương của vị Vua tình yêu, đã sống và chết vì
yêu.
Sống được như thế,
chúng ta mới có hy vọng được hưởng lời chúc phúc của Chúa: "Nào những kẻ
Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi" (Mt
25,34), nơi đó có Vua Tình Yêu ngự trị (x. Pl 2,6-11).
Lạy Đức Giêsu là Vua
vũ trụ, xin cho danh Cha được cả sáng, Nước Cha được hiển trị đến tận cùng bờ
cõi trái đất. Xin Chúa hãy thống trị lòng trí chúng con bằng tinh thần của
Chúa. Xin cho chúng con được sống trong quỹ đạo của tình yêu, để sau cuộc đời
này, chúng con được vào Vương Quốc của Chúa trên trời là nơi dành cho những
người yêu và được yêu. Amen.