SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 1 MÙA VỌNG A
MỤC LỤC
1. Dấu chỉ thời đại
2. Chúa đến
3. Hãy sẵn sàng
4. Thánh hóa từng giây phút sống
5. Đừng ảo tưởng – Lm Ignatiô Trần Ngà
6. Sống tỉnh thức – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
7. Tỉnh thức và cầu nguyện
8. Suy niệm của Lm. Ignatiô Hồ Thông
9. Suy niệm của Ủy Ban Kinh Thánh – HĐGMVN
10. Niềm vui bất ngờ
11. Tỉnh để chờ – Anmai
12. Để Chúa đến trong cả cuộc đời
13. Niềm tin yêu phó thác.
14. Âm vang mùa vọng
15. Một ánh sáng trong đêm tối
16. Sống tỉnh thức và sẵn sàng
17. Chúa sẽ đến cho con người hạnh phúc.
18. Chờ đợi trong hy vọng – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
19. Sẵn sàng đón Chúa - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
20. Bất ngờ và thức tỉnh - ĐGM. Giuse Trần Văn Toản
21. Hãy sẵn sàng
22. Mùa Vọng: Mùa màu xanh – ĐGM Vũ Duy Thống
23. Dấu hiệu thời đại – Achille Degeest
24. Chống lại thói quen – André Sève
25. Các con hãy sẵn sàng – R. Veritas
26. Chờ đợi Chúa đến
27. Chuẩn bị cho một thời đại mới sắp đến
28. Sống tỉnh thức
29. Tai họa khủng khiếp
30. Hãy sẵn sàng
31. Tỉnh thức
32. Ngày và đêm - Lm Bùi Quang Tuấn
33. Lên tàu hy vọng - Lm Phạm Quốc Hưng
34. Hãy tỉnh thức
35. Đứng thẳng
36. Tỉnh thức
37. Sẵn sàng
38. Sẵn sàng
39. Ngạc nhiên
40. Chúa đến
41. Sẵn sàng
42. Tỉnh thức
43. Tỉnh thức
44. Tỉnh thức và sẵn sàng.
45. Tôi vui mừng cùng hoan lạc – Huỳnh Văn Ngọc
46. Mùa vọng: Người đến để con tim được vui trở lại
47. Chờ đón Chúa đến thăm
48. Không một ai biết giờ
49. Anh em hãy sẵn sàng Noel Quesson
Hãy sẵn sàng cho một tương... L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chúng con hãy tỉnh thức Lm Giuse Đinh lập Liễm
Sẵn sàng đón Chúa Lm Gioan M. Thiên Khải, CMC
Thánh vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh Vịnh Nauy
Mùa yêu thương PM. Cao Huy Hoàng
Không đợi đến ngày mai Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Hy vọng Lm Mark Link, S.J.
Tỉnh thức Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Chúa đến trong cuộc đời Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày và đêm Lm Bùi Quang Tuấn
Phải tỉnh thức Suy niệm của JKN
Sống tỉnh thức Chú giải của Fiches Dominicales
Tỉnh thức để khỏi bị bắt chợt Học Viện Đà Lạt
Dâu hiệu thời đại Lương Thực Ngày Chúa Nhật
Tỉnh thức chờ đợi Chúa đến Lm. Phêrô Lê văn Chính
Tỉnh táo bảo vệ phẩm chất ... Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Hãy sẵn sàng con người sẽ đến Catholic.org.tw
Hãy sẵn sàng Sưu tầm
Sẵn sàng đón Ngài Sưu tầm
Niềm vui Sưu tầm
Đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay nói về ngày tận thế sẽ bất ngờ xảy đến. Tất cả những biến cố được mô tả cho
thấy rằng trần gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thế nhưng mà nhiều người
lại dừng chân ở đó. Họ cố gắng tìm tòi vật chất và ra sức xây dựng một thiên
đường trần gian. Đó chính là trường hợp của những kẻ mà ngày xưa đã bị dòng
nước hồng thuỷ cuốn trôi. Những ai không biết đọc những dấu chỉ thời đại rồi
cũng bị những tai hoạ bất ngờ đổ xuống như vậy.
Trong chiều hướng ấy,
mỗi người chúng ta hãy tự hỏi: liệu tôi đã nhận ra những dấu chỉ thời đại hay
chưa? Liệu tôi có đọc được thánh ý Chúa qua những biến cố xảy ra trên mặt đất
này hay chưa? Công đồng Vatican II trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng đã viết:
Chúng ta đang gán cái ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác
động trên con người và trên nhân loại?
Trước hết về phía con
người. Chúng ta đang chứng kiến sự giảm sút niềm kính trọng đối với nhân vị.
Theo một số nhà khoa học thì con người chỉ là kết quả của một sự tình cờ ngẫu
nhiên trong đà tiến hoá của vật chất. Với một quan niệm như thế thì con người
còn có giá trị gì? Trong khi đó Phúc Âm đặt con người vào trong mối tương quan
với Đức Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Mặc dù tội lỗi,
nhưng đã được Đức Kitô cứu chuộc, để rồi trở nên con cái Thiên Chúa. Sự sống
con người là một cái gì linh thiêng. Từ đó chúng ta đi tới một kết luận: chủ
nghĩa duy vật hiện nay trong lý thuyết cũng như trọn cuộc sống là một dấu chỉ
thời đại thôi thúc chúng ta phải xác định lại phẩm giá con người một cách mạnh
mẽ.
Tiếp đến là cộng đồng
nhân loại. Trong thế giới ngày nay, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều
phương tiện kỹ thuật như ngày nay. Từ phương trời này đến phương trời kia chúng
ta có thể liên hệ với nhau chỉ trong giây lát. Phải chăng đó cũng là một dấu
chỉ thời đại khiến chúng ta phải tạo cho mình một não trạng phổ quát, một não
trạng công giáo bao trùm trên toàn thế giới. Nếu suy nghĩ một chút chúng ta sẽ
thấy hiện nay Thiên Chúa đang đi tới con người qua tất cả những phương tiện dễ
dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
Ngoài ra những thành
công của con người cũng là một dấu chỉ biểu lộ sự phong phú vô biên của Thiên
Chúa nơi tạo vật. Thế nhưng uy quyền của con người càng tăng thì trách nhiệm
của nó lại càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, trong một ý nghĩa
tích cực, nếu nó duy trì mối liên hệ với Thiên Chúa. Nếu nó xa lìa Thiên Chúa,
thì uy quyền càng nhiều, sức phá huỷ của nó càng gia tăng. Trước những chuyển
biến xảy ra hằng ngày, liệu chúng ta có tỉnh thức nhận ra sứ điệp Chúa muốn gởi
đến hay không?
2. Chúa đến
Mùa Vọng là mùa trông
chờ Chúa đến. Chúng ta trông chờ Chúa đến là bởi vì chúng ta không được thoả
mãn với tình trạng hiện tại của chúng ta. Dầu có tận tâm tận lực, chúng ta vẫn
gặp phải không biết bao nhiêu điều trái ý, chẳng hạn như bệnh tật, nghèo đói,
cô đơn, chia ly và chết chóc. Chúng ta tin rằng Chúa sẽ đến để lấp đầy những
khát vọng chính đáng của chúng ta, đồng thời sẽ mang lại một đời sống hạnh
phúc:
Sẽ không còn chiến
tranh, thù hận và hao tốn tiền của nữa, vì thời đại của Chúa là thời đại hoà
bình. Bản thân Chúa chính là sự bình an như lời các thiên thần hát vang trên
cánh đồng Bêlem: Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Thời đại của Chúa là
thời đại hòa bình như tiên tri Isaia đã diễn tả: Khi Chúa đến, người ta sẽ lấy
gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo mà rèn nên lưỡi hái. Nước này sẽ không còn
tuốt gươm ra xông đánh nước kia. Mọi người sẽ chung sống với nhau trong hoà
thuận và yêu thương. Sẽ không còn cái cảnh cá đớp cá, người trói người. Sẽ không
còn cái cung cách người với người là chó sói của nhau bởi vì tứ hai giai huynh
đệ, bốn bể đều là anh em ruột thịt vì cùng là con của Cha trên trời.
Người ta sẽ không còn
tranh chấp lừa đảo nhau nữa bởi vì Chúa sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và
chúng ta sẽ tuân theo ý định của Ngài. Mọi mơ ước của con người sẽ được thoả
mãn, sẽ trở thành sự thật. Vậy cảnh địa đàng này bao giờ sẽ tới? Bao giờ Chúa
mới ban cho chúng ta hoà bình và hạnh phúc đích thực và lâu dài?
Điều đó chúng ta không
hay biết bởi vì Chúa đã phán: Vào lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến.
Lúc Chúa đến có thể hiểu là giờ chết của mỗi người chúng ta, hay là ngày tận
thế. Chúng ta không biết lúc nào sẽ xảy ra hai việc ấy. Do đó, lo lắng tìm biết
lúc nào mình sẽ chết hay lúc nào sẽ là ngày tận thế? Đó là một việc làm luống
công và vô ích. Trái lại hãy phó thác tương lai cho Chúa như lời Ngài đã phán:
Chớ áy náy về ngày mai. Ngày mai sẽ lo cho ngày mai, ngày nào có sự khốn khổ
của ngày ấy, nhưng tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Trời và sự công chính của
Ngài.
Vì thế, nhiệm vụ của
chúng ta không phải là tìm biết ngày giờ lìa đời, hay ngày giờ tận thế, nhưng
là chuẩn bị tâm hồn để có thể đứng vững trước mặt Con Người, khi Ngài đến. Hay
như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và
mang lấy khí giới của ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban
ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ.
Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô và chớ lo lắng thoả mãn những dục vọng của xác thịt.
Có sống như vậy thì
khi Chúa đến, chúng ta sẽ được nghe những lời nói đầy êm dịu ngọt ngào và yêu
thương của Chúa: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến, lãnh lấy
phần gia nghiệp Nước Trời, đã được dọn sẵn cho các con từ muôn ngàn thuở trước.
3. Hãy sẵn sàng
Qua phần phụng vụ Lời
Chúa sáng hôm nay, Giáo Hội muốn đặt chúng ta trước số phận đời đời đang chờ
đón. Thực vậy, Giáo Hội đã lên tiếng khuyên nhủ chúng ta: đừng để cho những vui
thú ru ngủ, trái lại hãy tỉnh thức và sẵn sàng, vì Đức Kitô sẽ đến vào ngày
chúng ta không ngờ và giờ chúng ta không biết. Nhất là qua đoạn Tin Mừng, Chúa
Giêsu đã trình bày về ngày sau hết như là một biến cố bất ngờ, không ai nắm
vững. Thế nhưng, nhiều người trong chúng ta lại nghĩ rằng: Ngày ấy còn xa và có
lẽ sẽ chẳng bao giờ xảy đến.
Trong phạm vi cá nhân,
thì ngày sau hết chính là ngày cái chết gõ cửa. Đúng thế. Cái chết là một sự
kiện vừa chắc chắn lại vừa gần gũi. Với cái chết chúng ta sẽ phải ra trước toà
án tối cao của Thiên Chúa, để chịu phán xét về những việc lành dữ mình đã làm
khi còn sống ở trần gian này.
Bài Phúc Âm đã cho
chúng ta thấy hai giới tuyến rõ rệt: Bấy giờ, hai người đàn ông đang ở ngoài
đồng, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Và có hai người đàn bà
đang xay, một người được tiếp nhận còn một người bị bỏ rơi. Vậy thì Lời Chúa có
ý nghĩa gì?
Cả hai trường hợp đều
cho chúng ta thấy hai người đang làm việc trong ngày Đức Kitô trở lại, thế
nhưng số phận đời đời của họ thì lại hoàn toàn khác biệt nhau. Một người thì sẽ
được đưa về trời hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, còn một người thì sẽ bị đày đoạ
trong hoả ngục với muôn vàn khổ đau. Bởi vì họ đã chống đối ơn sủng và tình
thương của Chúa cho đến cùng. Chính vì thế mà vấn đề quan trọng nhất đó là sống
trong tình thương và ơn sủng của Chúa.
Vì yêu thương chúng ta
và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc nhở chúng ta:
Hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Trong một ngày mà thôi, có biết bao nhiêu người đã
phải vĩnh viễn ra đi vào lúc họ nghĩ rằng ngày ấy còn xa, nên chẳng kịp chuẩn
bị và sửa soạn. Một tai nạn xe hơi. Một cơn đau tim hay một ngọn gió độc bất
ngờ nào đó.
Chúng ta phải cảm phục
thái độ can đảm của những người tín hữu trưởng thành, khi phải đối đầu với cái
chết. Họ đã giục lòng ăn năn ám hối xin Chúa xoá bỏ tội lỗi. Họ coi đó như là
một hồng ân Chúa ban bởi vì họ đã kịp chuẩn bị cho mình một cái chết tốt lành
và thánh thiện. Cái chết là một biến cố quan trọng nhất của cuộc sống, còn quan
trọng hơn cả ngày chúng ta mở mắt chào đời, bởi vì kể từ đó, số phận đời đời
của chúng ta được ấn định.
Vì thế, bằng mọi cách
chúng ta phải chuẩn bị cho giờ chết, và phải được chết đi trong tình thương và
ơn sủng của Chúa. Để đạt tới mục đích này, không gì hơn là hãy thực hiện lời
khuyên của thánh Phaolô: Đừng ngủ quên, cũng đừng chìm đắm trong vui thú. Ngài nói:
Đêm sắp tàn và ngày gần đến. Hãy từ bỏ những hành vị ám muội và mang lấy khí
giới ánh sáng. Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống
say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tỵ. Chớ lo lắng thoả
mãn những dục vọng xác thịt. Nhưng hãy mặc lấy Đức Kitô.
Bởi vì chỉ mình Ngài
mới là đường, là sự thật và là sự sống của chúng ta mà thôi.
4. Thánh
hóa từng giây phút sống
(Suy niệm của Lm. JB.
Nguyễn Minh Hùng)
Hôm nay chúng ta bắt
đầu năm Phụng Vụ mới: năm Phụng vụ 2013-2014. Cùng với việc mừng “tết” Phụng
vụ, chúng ta cũng đồng thời bắt đầu bước vào mùa Vọng mới.
Mùa Vọng mang hai đặc
tính thiết thực: 1. Mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh, kính nhớ việc Con Thiên
Chúa nhập thể làm người. 2. Mùa mà qua cuộc kính nhớ ấy, mời gọi ta hướng lòng
trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày tận thế.
Ngay ngày đầu mùa
Vọng, cũng là ngày đầu năm, Hội Thánh, qua Lời Chúa, nhắc nhở ta tinh thần
chuẩn bị sẵn sàng cho việc đón chờ ngày Chúa đến. Đó là ngày bất ngờ, ngày đáng
sợ như đại lụt hồng thủy xưa:
“Thời ông Noê thế nào,
thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn
hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Noê
vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết
thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy”.
Theo cách viết của
thánh Matthêu, những người thời ông Noê chẳng làm gì nên tội. Họ chỉ làm những
việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ gả chồng”. Họ chết trong cơn nước lụt,
không phải là vì họ có tội, mà vì họ không thánh hóa mọi giờ khắc, mọi công
việc của mình.
Họ đã không làm mọi
việc trong tinh thần cầu nguyện, trong lòng yêu mến Chúa. Đúng hơn, họ làm rất
nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh
hồn cả. Họ đã không làm những việc phải làm. Ngược lại, họ chỉ làm những việc
không cần thiết.
Chúa Giêsu nhắc nhở ta
phải luôn sẵn sàng vì Người sẽ đến bất cứ lúc nào. Sự sẵn sàng của ta không như
những người thời Noê, nhưng là theo ý Chúa dạy. Nghĩa là, giữa cuộc sống trần
thế còn nhiều bộn bề, nhiều vất vả, lo âu, nhưng ta chỉ tin tưởng phó thác vào
Chúa mà thôi. Ta tập cho mình dù làm gì, ở đâu, bất cứ thời gian nào, đều biết
thánh hóa giây phút hiện tại, biết hiến dâng chính giờ này, việc này, hoàn cảnh
này cho Chúa.
Đức Hồng Y Phanxicô
Saviê Nguyễn Văn Thuận, con người của niềm hy vọng, đã nêu gương tuyệt hảo
trong việc sống và thánh hóa giây phút hiện tại. Ngài nói: “Con chỉ có một giây
phút đẹp nhất: giây phút hiện tại, sống trong tình yêu Chúa cách trọn vẹn; đời
con sẽ tuyệt đẹp nếu kết tinh bằng từng giây phút đẹp nhất. Con thấy đơn sơ, không
phải khó”. (Đường Hy vọng 997). Đức Hồng Y càng sống niềm hy vọng, ngài càng ra
sức thánh hóa phút hiện tại.
Ngày 15/8/1975, vừa
khi bị bắt, ngài hụt hẩng, cô đơn vì không còn được thực hành mục vụ của một
chủ chăn giáo phận. Nhưng ngay sau đó, Đức Hồng Y nhận ra, một tù nhân như
ngài, không thể chờ đợi bất cứ tương lai nào. Ngài quyết định: Chỉ có thánh hóa
và sống giây phút hiện tại. Ngài đã làm cho phút hiện tại chất chứa đầy tình
thương.
Quá khứ đã qua, tương
lai còn phía trước, chỉ có hiện tại nằm trong tầm tay của ta. Phút hiện tại sẵn
sàng đồng hành với ta, giúp ta thể hiện mọi tư tưởng, thi hành mọi hành động
trong cuộc sống và cho cuộc sống.
Chính khi thăng hoa
phút hiện tại bằng cách thánh hóa nó, ta càng cảm nhận bàn tay kỳ diệu của Chúa
vẽ thẳng trên những đường cong qua mọi ngày đời ta.
Như Đức Hồng Y, đón
nhận lời mời gọi hãy tỉnh thức của Chúa Giêsu, ta hãy triệt để thánh hóa và
sống thật tốt giây phút hiện tại của mình. Dù phải trăn trở, vất vả, lo âu, lao
nhọc, mồ hôi, nước mắt, ta vẫn thấy Chúa đang hiện diện với mình, và bản thân
đang ở trước mặt Chúa, ở trong Chúa.
Sống với Chúa luôn
luôn như thế, là ta đang chuẩn bị cho ngày Chúa đến, ngày mà Người mời gọi ta
về với Người.
Sống với Chúa luôn
luôn như thế, là ta đang sẵn sàng, đang tỉnh thức chờ đợi ngày của Chúa. Từng
giây phút sống sẵn sàng và tỉnh thức, cho thấy ta đang sống mãnh liệt niềm hy
vọng trong Chúa của mình.
Sống với Chúa mãnh
liệt và triền miên như thế, ta không còn sợ ngày tận thế sẽ là ngày bất ngờ với
ta, vì luôn luôn có Chúa, luôn luôn hiện diện trong Chúa, chẳng có gì là bất
ngờ cả.
Lạy Chúa Giêsu, xin
thương xót chúng con và tha thứ mọi tội lỗi, mọi thiếu sót mà trong một năm
qua, chúng con đã xúc phạm đến Chúa, đến anh chị em của mình. Xin cho mỗi chúng
con, bước vào năm Phụng vụ mới, biết ý thức từng giây phút sống, để chúng con
luôn sống cho Chúa và sống trong Chúa. Xin cho chúng con luôn nhận tinh thần
tĩnh thức, là sống thánh thiện, sống nhân đức, sống hiến dâng, sống phó thác
làm phương cách chuẩn bị cho giờ ra đi của mình.
5. Đừng ảo
tưởng – Lm Ignatiô Trần Ngà
Vào dịp cuối năm,
Lu-xi-phe triệu tập đại hội đồng quỷ sứ để kiểm điểm tình hình hoạt động suốt
năm qua.
Quỷ già, quỷ cái, quỷ
con đều họp mặt đông đủ và báo cáo cho Quỷ Vương Lu-xi-phe biết tình hình cám
dỗ của toàn bầy quỷ sứ.
Nói chung, hoạt động
cám dỗ không đạt kết quả như chỉ tiêu đã đề ra và tỉ số người phải xuống hoả
ngục xem ra không gia tăng đáng kể.
Vì thế, khi bước qua
phần hai của chương trình thảo luận, Quỷ Vương Lu-xi-phe kêu gọi hội đồng quỷ
hãy đề ra những chiêu thức cám dỗ hữu hiệu hơn, liệu sao để lôi kéo được nhiều
linh hồn sa hoả ngục hơn.
Các quỷ tham gia tranh
luận sôi nổi, bày ra nhiều mưu chước nhằm làm cho loài người sa vòng tội lỗi. Ý
kiến thì nhiều, nhưng chỉ nêu ra đây một số ý kiến tiêu biểu. Có quỷ đề nghị
hãy cám dỗ các bạn trẻ rằng: "Không có Thiên Chúa, không có thiên đàng hoả
ngục. Thiên đàng là ảo tưởng do Giáo Hội bày ra để dụ khị loài người; hoả ngục
chỉ là sản phẩm do Cha Cố thêu dệt để hù doạ những người yếu bóng vía. Đừng dại
dột tin vào Thiên Chúa, vào sự sống đời sau mà phí cả cuộc đời!". Mưu
chước nầy cũng chưa thuyết phục nên không được đa số chấp nhận.
Có quỷ thì hiến kế nên
thuyết phục người ta biết rằng Đức Giêsu chỉ là hạng phàm phu tục tử, Phúc Âm
của Ngài gồm toàn những chuyện bịa đặt viển vông..." nhưng rồi ý kiến nầy
cũng không được hưởng ứng.
Cuối cùng có lão quỷ
già có tiếng là đa mưu túc kế lên tiếng: "Theo tôi, chúng ta nên cám dỗ
thế nầy: "có Thiên Chúa, có thiên đàng hoả ngục, có linh hồn, có sự sống
đời sau... (mình phải nói như vậy để người ta tin mình đã, rồi ta sẽ thêm)
nhưng bạn hãy nhớ rằng: Đời bạn còn dài mà, bạn chưa chết đâu! Vậy hãy vui
hưởng lạc thú đời nầy đi! Đợi đến khi già yếu rồi ăn năn sám hối cũng chưa
muộn."
Một tràng pháo tay
giòn vang tán thưởng diệu kế của lão quỷ già thâm độc. Thế là hội nghị nhất trí
với phương thức cám dỗ được xem là sẽ rất kiến hiệu của lão quỷ già đa mưu.
Hiện nay, hầu như mọi
người đều tin theo lời cám dỗ độc hại ấy. Ai cũng tin rằng đời mình còn dài,
chưa đến lúc phải ăn năn hối cải. Ngày mai, ngày mốt, ngày kia, ta sẽ sám hối,
sẽ cải thiện cuộc đời, còn hôm nay, thì...
Qua bài trích thư gởi tín
hữu Rô-ma trích đọc hôm nay (Rm 13, 11-14) thánh Phaolô kêu gọi chúng ta hãy
mau quay về với Chúa, hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, đừng mơ tưởng đời còn dài
rồi cứ đắm mình trong lạc thú:
"Đêm sắp tàn,
ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những việc làm đen tối, và cầm lấy vũ
khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người đang
sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không
cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô, và đừng chiều theo
tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng."
Và Lời Chúa trong Tin
Mừng cũng kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức vì giờ Chúa đến thật bất ngờ; vì như
"Thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì
trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng,
mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng
thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy".
"Vậy anh em hãy
canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết
điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không
để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì
chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến".
Nếu hôm nay, lúc còn
an bình khoẻ mạnh, ta không tưởng gì đến Chúa; đợi đến lúc lâm nguy rồi mới
chạy đến với Ngài thì chúng ta xem Chúa có khác gì chiếc phao. Bình thường khi
trời quang mây tạnh, mọi sự an lành thì không ai thèm ngó lại chiếc phao, xem
nó như cái gì thừa thãi vô tích sự, có thấy nó nằm giữa lối đi thì người ta
cũng đá nó sang một bên, không ai thèm đoái hoài. Nhưng khi gặp phong ba bão
táp, nguy khốn đến nơi thì tranh nhau giành lấy phao cho bằng được!
Lạy Chúa, Chúa là Chúa
Tể quyền năng, là Thiên Chúa tối cao mà chúng con phải phụng thờ suốt đời, ngay
cả bây giờ, chứ không phải là chiếc phao cứu mạng chỉ cần dùng lúc gặp gian
nguy khốn khó.
Xin cho chúng con đừng
khờ khạo tin rằng đời còn dài, hãy tận hưởng đời và mê đắm trong tội mà lãng
quên phần rỗi đời đời của chúng con.
6. Sống tỉnh
thức – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Người Việt Nam có câu
"nước tới chân mới nhảy" thì quá trễ. Người Miền Trung đã quá thấm
thía câu nói này qua những ngày tháng lũ lụt kéo dài suốt gần 1 tháng qua.
Không có lương thực dự trữ, đa phần phải sống trong cảnh thiếu thốn, bữa no bữa
đói. Có những nơi chỉ còn biết trông chờ ở những đoàn cứu trợ từ khắp nơi mang
đến. Không ai nghĩ rằng lũ lụt lại quá kinh khủng như vậy. Thế nên, họ vẫn ăn
uống, vẫn vui chơi, vẫn không cần tích trữ cho ngày mai. Họ đâu ngờ rằng có
những ngày "gạo quế củi châu", khiến họ phải đói khổ cơ hàn, để rồi
phải ngửa tay van xin lòng thương xót của người khác. Họ đâu ngờ rằng những gì
họ tích luỹ, cất dấu lại bị nước cuốn trôi và trở nên trắng tay lại hoàn trắng
tay. Xem ra trên thế gian này chẳng có gì an toàn, chẳng có gì trường cửu. Tất
cả đều mong manh, kể cả kiếp người cũng mong manh như loài hoa trước gió, đến
độ "một cơn gió thoảng cũng làm nó biến đi. Nơi nó mọc cũng không còn mang
vết tích".
Hôm nay, Lời Chúa nhắc
nhở chúng ta hãy tỉnh thức đừng để ngày khốn đốn xảy đến mà chẳng hay biết gì,
như "thời ông Noe, người ta vẫn ăn uống, vẫn cưới vợ, lấy chồng".
Người ta tưởng rằng thế giới mãi mãi là thế, chẳng có gì thay đổi, chẳng có gì
phải lo, phải sợ. Chỉ có một mình Noe, ông đã vượt ra khỏi thói quen của mọi
người. Một mình ông đóng tàu. Một mình ông chuẩn bị đối phó với tai hoạ sẽ xảy
đến cho ông và cho toàn thế giới. Và vì vậy, cũng chỉ một mình ông và gia đình
lên tàu, còn những người khác vẫn ăn uống, vẫn đàn hát cho đến khi cơn hồng
thủy đến và nhậm chìm vạn vật và hàng triệu sinh linh trên mặt địa cầu.
Mùa vọng là mùa đợi
chờ, mùa trông mong. Người ta trông mong quà cáp, thư từ, tiền lương, xum họp
gia đình nhân dịp lễ Noel. Người tìn hữu được mời gọi trông mong ngày Chúa
quang lâm. Ngày đó sẽ đến, nhưng không biết khoảng thời gian nào. Ngày đó sẽ
đến như kẻ trộm. Ngày đó sẽ đến một cách bất chợt và thình lình. Sự khôn ngoan
luôn nhắc nhở chúng ta là hãy tỉnh thức để luôn sẵn sàng đón chờ ngày đó sẽ
đến.
Ngày xưa có một ông cụ
già cố cứu kinh thành Sôđôm khỏi bị Chúa tiêu diệt bằng cách mỗi ngày đi gặp người
dân trong thành để cảnh cáo và kêu gọi mọi người tin Chúa, thờ Chúa cho khỏi bị
tiêu diệt. Không ai chịu nghe lời ông cụ mà còn chế diễu là mê tín dị đoan nữa.
Ông cụ vẫn bền chí đi hết nhà này sang nhà nọ để kêu gọi họ thống hối ăn năn.
Thấy chuyện vô tích sự của cụ, nên có người hỏi:
- Tại sao cụ nói cho
họ biết làm gì cho mệt. Họ có nghe cụ và thay đổi gì đâu? Nói với họ cũng như
nước đổ đầu vịt!
Ông cụ bình tĩnh đáp:
- Có lẽ tôi không
thuyết phục nổi ai, cũng không thay đổi được ai đâu. Nhưng làm như thế cũng là
giúp tôi, đừng lao vào cuộc sống sa đoạ như họ.
Câu truyện kể trên chỉ
là một dụ ngôn. Nhưng trên thực tế ông Lót ngày xưa sống trong kinh thành
Sôđôm. Chính là ông già đó.
Trong thư thứ hai của
thánh Phêrô có ghi rằng: "Chúa cứu Lót ra khỏi Sôđôm vì ông là người công
chính, tâm hồn luôn luôn bị dày vò vì những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hàng
ngày quanh mình.
Ông Lót sinh sống tại
vùng Sôđôma. Khi Sôđôma bị các nước lân bang xâm chiếm, Lót bị bắt đi. Abraham
là chú phải ra tay tiếp cứu Lót. Nhưng Lót vẫn về sống ở kinh thành Sôđôma. Khi
Chúa quyết định giáng tai họa xuống kính thành Sôđôma, Abraham đã cầu xin Chúa
giải cứu, nhưng vì Sôđôma không có đến mười người kính thờ Chúa, nên đã bị tiêu
diệt. Trước khi tai họa xảy ra, có hai thiên sứ của Chúa đến giải cứu Lót.
Nhưng ông ta vẫn còn lần lữa. Khi đã ra khỏi Sôđôm, bà vợ ông Lót còn ngoái lại
nhìn và đã bị biến thành tượng muối.
Vâng, trong thế giới
ngày nay, tình trạng sa đoạ và trụy lạc ngày càng nhiều và lan rộng, đến độ
người ta cho rằng phải sống đồi trụy mới là tiến bộ. Chẳng hạn như: quan hệ
trước hôn nhân, đồng tính luyến ái, ngoại tình, phá thai và các sách báo, phim,
băng hình đồi trụy mỗi ngày đều gia tăng, mặc dù cơn đại dịch Sida, aid đã tiêu
diệt hàng trăm ngàn người mỗi năm, thế nhưng nhiều người vẫn nhắm mắt làm ngơ,
vẫn lao vào cuộc sống hưởng thụ, sa đoạ, bất chấp lề luật, bất chấp tai họa.
Cuộc sống sa đoạ đến mức Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II đã than thở rằng:
"cái đáng buồn của thế giới ngày này, đó chính là mất ý thức về tội, người
ta không còn nghĩ đến tội phúc, và cũng chẳng cần nghĩ đến danh dự của phẩm giá
con người, người ta chỉ cần thoả mãn nhu cầu dục vọng của mình đến độ bất chấp
cả lề luật mà Thượng Đế đã an bài".
Là người tin Chúa sống
trong xã hội băng hoại, ta cần cẩn thận. Phải nói về Chúa cho đồng bào mình vì
nếu không, chính chúng ta sẽ thay đổi theo chiều đồi trụy. Đó chính là phương
cách bảo vệ niềm tin Chúa và đưa người khác đến với Chúa. Nếu không làm như
vậy, không mấy lúc mà ta sẽ thay đổi theo với xu hướng tục hoá của xã hội, chứ
không phải xã hội chung quanh thay đổi vì ta.
Nguyện xin Chúa giúp
chúng ta luôn tỉnh thức trong từng giờ từng phút. Tỉnh thức để vượt ra khỏi những
cám dỗ của danh lợi thú, của những đam mê thấp hèn, hầu xứng đáng là người tôi
trung luôn cầm đèn dẫn dắt anh em đi trong chân lý và hồng ân của Chúa. Amen.
7. Tỉnh thức
và cầu nguyện
(Suy niệm của Lm. GB.
Trần Văn Hào)
Mọi người chúng ta đều
đã từng kinh qua kinh nghiệm về sự chờ đợi. Một người vợ thức đêm trằn trọc đợi
chồng đi xa trở về. Đôi tình nhân đợi chờ giây phút hẹn hò bên nhau với bao rạo
rực xao xuyến. Những bạn công nhân tha phương vẫn ngong ngóng đợi chờ ngày
tháng qua mau để mong tết đến được về quê xum họp. Có những cuộc chờ đợi với
bao xốn xang rộn rã, ngược lại cũng có những phút giây đợi chờ trong tuyệt vọng
và chán chường. Dầu sao, bất cứ sự đợi chờ nào cũng làm cho thời gian như chùng
lại, từng giờ từng khắc qua đi tựa như cả một thế kỷ dài đằng đẵng. Tất cả đều
lệ thuộc vào tâm trạng và thái độ của những kẻ đợi chờ.
Mùa vọng là mùa chờ
đợi, điều này ai cũng biết. Nhưng chờ đợi ai, chờ đợi những gì và mong đợi như
thế nào, không phải ai cũng biết và thực hành. Các bài đọc Lời Chúa khởi đầu
mùa vọng hôm nay sẽ gợi mở để giúp chúng ta thấu triệt những điều ấy.
Chờ đợi Đấng sẽ đến
Hạn từ Adventus (mùa
vọng) mang chở ý nghĩa này. Người tín hữu chúng ta đang mong chờ, nhưng không
phải chờ đón một biến cố hay một sự kiện sẽ xảy ra. Chúng ta chờ đợi một ‘Con
người’. Con người đó là chính Đức Giêsu, Đấng Thiên Chúa làm người và cũng là
Đấng Cứu thế. Ngài đã đến trần gian cách đây 2000 năm. Ngài cũng đang đến trong
từng biến cố của cuộc sống đời thường chúng ta. Đồng thời Ngài sẽ đến, sẽ trở
lại trong ngày chung thẩm để phán xử vũ trụ, khóa sổ trời cũ đất cũ và khai mở
một trời mới và đất mới. Trong Tông huấn ‘Tiến về Thiên niên kỷ thứ ba’ (Tertio
Milennio Adveniente), Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã diễn tả cuộc lữ
hành đức tin của chúng ta như một mùa vọng lớn. Mỗi khi cử hành Thánh lễ, Giáo
hội khơi dậy cảm thức đức tin và thắp lên niềm hy vọng khi mời gọi chúng ta
tuyên tín: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa
sống lại cho tới khi Chúa đến”. Đức Kitô là đối tượng của đức tin, cũng là điểm
quy chiếu của đức cậy giúp chúng ta canh tân mỗi ngày niềm hy vọng của những lữ
khách trên con đường tiến về quê hương. Chúng ta vẫn hằng ngày cầu xin Chúa ban
bình an, gìn giữ chúng ta khỏi vương tội lỗi, được an toàn giữa những biến
loạn, đang khi mong đợi niềm hy vọng hồng phúc, và ngày trở lại của Chúa Giêsu
Kitô Đấng Cứu độ chúng ta. Như vậy Giáo hội lữ hành hôm nay đóng vai một tân
nương chờ đón đức lang quân của mình. Trong suốt mùa vọng, Giáo hội mượn lời
kết trong sách khải huyền để dạy chúng ta thưa lên với Chúa tâm tình cầu
nguyện: “Maranatha, lạy Chúa Giêsu xin hãy đến”.
Chờ đợi trong hi vọng
Trên thế giới ngày nay
hiện có hai khối người đang sống cùng một niềm hy vọng chờ đợi, đó là tín hữu
Do thái và các Kitô hữu. Người Do thái vẫn mong chờ Đấng Messia như lời các
ngôn sứ đã loan báo, đặc biệt dựa vào lời tiên báo trong sách ngôn sứ Isaia,
nhưng họ không tin nhận Đức Giêsu là Đấng Cứu thế. Còn đối với Kitô hữu chúng
ta, Đức Giêsu Kitô chính là Đấng đã đến trần gian để quy tập dân Irael tản mác
từ khắp bốn phương và khai lập một vương quốc mới, vương quốc của thời thiên
sai. Ngài đã đến để thực hiện kế hoạch cứu độ, và ơn cứu độ này sẽ đạt đến viên
mãn trong ngày Người trở lại lần thứ hai để khóa sổ vũ trụ. Mùa vọng là thời
gian giúp chúng ta tái hiện tâm thức hy vọng trong chờ đợi. Niềm hy vọng chính
là chìa khóa then chốt để chúng ta sống tinh thần của mùa phụng vụ này.
Một triết gia đã nói:
“Một tôn giáo không đem lại cho ta niềm hy vọng, không phải là một tôn giáo
đáng để chúng ta tin theo”. Đúng như thế, không có hy vọng, chúng ta sẽ bị nhấn
chìm trong bóng tối của sự chết và hủy diệt. Một con người có thể sống mà chưa
có tình yêu, nhưng không ai có thể tồn tại nếu không hy vọng mình sẽ biết yêu
và sẽ được yêu. Trong những năm tháng tù ngục, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn
Văn Thuận đã viết cuốn sách tựa đề ‘Con đường hy vọng’ để diễn tả cuộc hành
trình đức tin trong những thời điểm đen tối nhất của cuộc đời Ngài. ‘Vui mừng
và hy vọng’ cũng chính là khẩu hiệu Ngài chọn khi được tấn phong Giám mục. Niềm
hy vọng Ngài nói đến không phải là một mơ ước hão huyền hay mông lung, nhưng đó
là một trong ba nhân đức đối thần: Tin - Cậy- Mến, quy chiếu vào chính Đức
Giêsu, Đấng đã đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào. Mỗi khi có dịp cử
hành Thánh lễ một cách lén lút trong căn phòng chật chội và tối tăm của nhà tù,
Ngài vẫn khơi lại nơi mình niềm hy vọng, đặc biệt khi cầm Mình Thánh Chúa trên
đôi tay chai sạn với chiếc áo tù sờn cũ. Ánh sáng hy vọng đó là sức mạnh sâu
xa, giúp Ngài vượt qua những ngày tháng đen tối nhất.
Cha Teilhard Chardin,
một linh mục dòng Tên cũng đã viết: “Ngóng đợi là nhiệm vụ hàng đầu của Kitô
hữu, và là nét nổi bật nhất để hiển thị đức tin. Người Kitô hữu luôn phải sống
trong sự đợi chờ với niềm tin và hy vọng”. Thái độ chờ đợi của người tín hữu
không phải là sự mỏi mòn trong tuyệt vọng giống như một tên tử tội khiếp sợ đợi
chờ giây phút bị đem đi hành quyết. Trái lại, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của
một cô dâu chờ đón chú rể đến giữa đêm khuya để tiến vào phòng cưới, tham dự
‘Tiệc Cưới Chiên Con’ cùng với Đấng đã chiến thắng tử thần và khải hoàn trong
vinh thắng.
Chờ đợi trong tỉnh
thức và sẵn sàng
Đây là sứ điệp mà cả
ba bài đọc trong phụng vụ hôm nay nhắn gửi đến chúng ta. Trong phần kết luận
của bài Tin mừng, sau khi tiên báo về ngày chung thẩm, Chúa Giêsu nhắc nhở:
“Vậy anh em hãy canh thức vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ
đến”. Đồng thời Chúa cũng khuyến mời chúng ta đừng ngủ mê trên chè chén say sưa
hay những lo toan trần thế, giống như dân chúng thời Noe năm xưa. Trong bài đọc
2, Thánh Phaolô cũng nhắc nhớ dân thành Rôma phải ‘thức dậy’, đừng ngủ mê trên
những việc làm đen tối, vì ngày cứu độ đang gần tới. Chúa đến để đem ơn cứu độ
cho trần gian. Ơn cứu chuộc được dàn trải trên tất cả mọi người và Đức Giêsu đã
tiến nhận cái chết để khai mở nguồn mạch cứu độ bất tận ấy. Nhưng hồng ân cứu
độ chỉ thực sự hoàn tất khi Chúa đến lần thứ hai, khai mở trời mới đất mới và
thiết lập vương quốc vinh hiển của Ngài. Vì vậy không chỉ trong mùa vọng kéo
dài bốn tuần lễ, nhưng trong suốt cả mùa vọng lớn là trọn cuộc hành trình lữ
thứ trần thế, chúng ta luôn phải sống với thái độ thức tỉnh và sẵn sàng.
Cách đây gần 30 năm,
có một trận động đất dữ dội xảy ra tại California, Hoa kỳ. Một cô gái trẻ bị
vùi lấp trong đống đổ nát, và người ta lập tức chuyển ngay cô vào bệnh viện.
Trước đây cô ta sống trong một gia đình khá đạo đức, nhưng từ khi lấy chồng, sự
giầu có đã làm cô gái lạc mất định hướng cuộc đời mình. Cô ta sống phóng túng
như một kẻ vô thần. Nằm trên giường cấp cứu, cô gái cố gắng thu gom hết tàn lực
cuối cùng để hỏi bác sĩ: “Liệu tôi có qua khỏi hay tôi còn sống được bao lâu
nữa?” Bác sĩ thành thật nói với cô ta rằng ông cố gắng lắm chỉ giúp cô sống
thêm được vài tiếng đồng hồ nữa thôi. Nghe nói thế, cô gái ôm mặt khóc nức nở
và đau đớn thốt lên: “ Ôi muộn quá rồi”. Có lẽ rất nhiều người
trong chúng ta cũng sẽ phải thốt lên câu này khi đối diện trước cái chết. Thánh
Gioan Bosco vẫn tổ chức tĩnh tâm hàng tháng cho các học sinh và Ngài gọi đó là
‘Ngày dọn mình chết lành’. Đây không phải là một động thái mang tính tâm lý,
nhưng là một việc thực hành trong đức tin. Chúa Giêsu cũng nói với chúng ta hôm
nay: “Anh em hãy sẵn sàng vì chính lúc anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.”
( Mt 24, 44 )
Chúng ta nhớ lại giai
thoại về tướng quân Archais của Hy Lạp năm xưa. Ông là một vị tướng giỏi, đánh
trận nào thắng trận đó. Sau một trận thắng lớn, ông khao quân lính một bữa tiệc
thịnh soạn. Giữa cuộc vui, một sứ giả đem đến cho ông bức thư khẩn và báo tin
là ông đang bị mưu sát để biết cách đề phòng. Thay vì mở thư ra đọc và cảnh
giác, ông nhét thư vào túi, vẫn tiếp tục nhậu nhẹt và tự nhủ: “Thôi để mai hãy
tính”. Ngay đêm đó, ông bị giết chết. Câu chuyện gợi nhắc sứ điệp mà các bài
đọc Lời Chúa hôm nay mang chở. Những gì cần phải làm hôm nay, đừng để đến ngày
mai.
Kết luận
Thánh Phanxico Salêsiô
đã viết “Thời để sống là lúc chúng ta đi tìm kiếm Thiên Chúa. Thời để chết là
lúc chúng ta đến gặp gỡ Ngài. Thời vĩnh cửu là lúc chúng ta sẽ chiếm hữu Ngài
cách trọn vẹn”. Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa vọng, một mùa vọng nhỏ
trong một mùa vọng khác lớn hơn. Mùa vọng là thời gian chúng ta đi tìm kiếm
Thiên Chúa và mong đợi Ngài đến. Chúa sẽ đến để đem ta đi vào vĩnh cửu trong sự
hiệp thông và gắn kết trọn vẹn với Ngài. Nhưng, ngày mai bắt đầu từ ngày hôm
nay. Trời mới và đất mới của ngày mai đang bắt đầu với cuộc sống hiện sinh của
chúng ta tại đây và ngay bây giờ. Chúng ta sống làm sao thì sẽ chết như thế.
Chúng ta hãy sống theo lời dạy của thánh Phaolô trong bài đọc 2 của phụng vụ
hôm nay: “Anh em hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống giữa ban ngày” (Rm
13,13). Sống giữa ban ngày là thời điểm có ánh sáng mặt trời soi chiếu. Xin ánh
sáng của Đức Giêsu là mặt trời công chính luôn tỏa sáng trên tâm hồn mỗi người
chúng ta.
8. Suy niệm của Lm.
Ignatiô Hồ Thông
Phụng Vụ Chúa Nhật I
Mùa Vọng năm C này là Phụng Vụ của niềm hy vọng.
Gr 33: 14-16
Bài Đọc I là sấm ngôn
của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã được một bàn tay vô danh sửa lại, hay nói đúng hơn,
hiện tại hóa vào trong thời đại của mình, sau khi vương triều Đa-vít biến mất.
Bản văn này chuyển niềm hy vọng Mê-si-a sang Giê-ru-sa-lem, thành đô của Thiên
Chúa.
1Tx 3: 12-4: 2
Thánh Phaolô khuyên
các Kitô hữu Thê-xa-lô-ni-ca sống trong tư thế sẵn sàng chờ đón ngày Đức Giêsu
trở lại trong vinh quang bằng cách thực hành đức ái huynh đệ và thăng tiến trên
con đường thánh thiện.
Lc 21: 25-28, 34-36
Tin Mừng được trích từ
bài diễn từ của Đức Giêsu về ngày tận thế theo Tin Mừng Lu-ca. Đức Giêsu loan
báo cuộc trở lại trong vinh quang của Ngài để khai mạc một thế giới mới; các
tín hữu phải chờ đợi ngày này trong niềm tin tưởng chứa chan niềm hy vọng.
BÀI ĐỌC I (Gr 33:
14-16)
Bản văn Gr 33: 14-16
nầy lập lại sấm ngôn của Giê-rê-mi-a ở 23: 5-6, tuy nhiên đoạn cuối đã được một
nhà biên soạn vô danh sửa lại sau này: thay vì “Thời bấy giờ, Giu-đa sẽ được
cứu thoát, Ít-ra-en được sống yên hàn” (23: 6), thì lại “Trong những ngày ấy,
Giu-đa sẽ được cứu thoát, Giê-ru-sa-lem sẽ được an cư lập nghiệp” (33: 16).
Việc sửa lại này dâng hiến một lợi ích lớn lao về phương diện lịch sử cũng như
tâm lý.
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a
công bố sứ điệp hy vọng này vào lúc triều đại Đa-vít biến mất trong một cơn
phong ba bảo táp dữ dội và xem ra cuốn theo với triều đại này mọi lời hứa về
Đấng Mê-si-a thuộc dòng dõi vua Đa-vít.
1. Bối cảnh lịch sử:
Bối cảnh lịch sử được
định vị vào năm 597 trước Công Nguyên, khi vua Na-bu-cô-đô-nô-xo, vua
Ba-by-lon, xâm chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt vua Giơ-hô-gia-khin, hậu duệ của vua
Đa-vít, và các thân hào nhân sĩ đi lưu đày; đoạn, mười năm sau đó cướp sạch
thành thánh và triệt hạ Đền Thờ.
Trước khi tai họa xảy
đến cho đất nước, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã lãnh nhận một sứ mạng khó khăn là báo
trước cho các vị lãnh đạo và các thân hào nhân sĩ những biến cố bi thảm này,
nếu họ không chịu thay đổi cách ăn nếp ở, thực hành công chính và trung tín với
Đức Chúa. Nhưng khi những nỗi gian truân bất ngờ xảy đến, ngôn sứ Giê-rê-mi-a,
từ ngôn sứ loan báo những tai họa trở thành sứ giả loan báo niềm hy vọng, khẳng
định rằng không có gì mất cả; những lời hứa của Thiên Chúa liên quan đến dòng
dõi vua Đa-vít không bị hủy bỏ.
“Này, sẽ đến những
ngày” (biểu thức này ngôn sứ Giê-rê-mi-a rất tâm đắc, chắc chắn được mượn ở
ngôn sứ A-mốt) Thiên Chúa sẽ cho mọc lên từ dòng dõi Đa-vít một “mầm non”
(thuật ngữ này đã là một danh hiệu của Đấng Mê-si-a), Đấng này sẽ trị nước theo
lẽ công minh chính trực. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a kết thúc sấm ngôn của mình khi
trao tặng cho hậu duệ Đa-vít tương lai danh hiệu “Đức Chúa là
sự-công-chính-của-chúng-ta”, một trong những danh xưng biểu tượng mà các ngôn
sứ thường sử dụng (từ “công chính” được hiểu theo nghĩa Kinh Thánh là sự
thánh thiện của Thiên Chúa).
2. Ý nghĩa của việc
sửa lại.
Nhiều thế kỷ trôi qua,
nền độc lập không còn được khôi phục và vương triều không còn được tái lập. Dân
Thiên Chúa được tổ chức theo thần quyền, chung quanh các tư tế của họ và Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem được tái thiết. Vào lúc đó, sấm ngôn Giê-rê-mi-a được sửa lại.
Vì thế ai xứng đáng đón nhận danh hiệu Mê-si-a “Đức Chúa là
sự-công-chính-của-chúng-ta” này, nếu không là Giê-ru-sa-lem, một cách nào đó
được nhân cách hóa? Không phải từ nay Thành Thánh là nơi độc nhất mà các lời
hứa cứu độ được ký thác sao?
Các nhà chuyên môn có
thể ghi niên biểu của việc sửa đổi này vào hậu bán thế kỷ thứ ba trước Công
Nguyên, vì bản dịch Hy lạp, bản Bảy Mươi, không biết đoạn văn này. Ấy vậy, bản
dịch nầy được thực hiện ở A-lê-xan-ri-a vào những năm 285-246 trước Công
Nguyên.
Việc sửa đổi này rất
có ý nghĩa. Vào thời đó, dòng dõi Đa-vít bị mất hút vào trong tập thể. Vị
thượng tế lãnh nhận lễ xức dầu tấn phong thế vị vua. Trào lưu Mê-si-a vương đế
và trào lưu Mê-si-a tư tế được nhập thành một. Thành Thánh Giê-ru-sa-lem là
trung tâm độc nhất, dấu chỉ niềm hy vọng vĩnh hằng.
BÀI ĐỌC II (1Tx 3:
12-4: 2)
Thánh Phaolô viết Thư
thứ nhất gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca vào đầu năm 51, tức khoảng hai mươi
năm sau cái chết của Đức Giêsu. Đây là một văn kiện Tân Ước lâu đời nhất .
Thánh Phaolô viết hai
bức thư gởi cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca; trong cả hai bức thư, viễn cảnh
quang lâm của Đức Giêsu là một trong những chủ đề chính, viễn cảnh nầy đem lại
cho những lời khuyến dụ của thánh nhân một cung giọng khẩn thiết. Như vậy, đoạn
trích thư này hòa hợp với hai bài đọc còn lại của Chúa Nhật I Mùa Vọng năm C
này.
1. Bối cảnh:
Thánh Phaolô đã sáng
lập Giáo Đoàn Thê-xa-lô-ni-ca vào năm 50. Thê-xa-lô-ni-ca là thành phố thương
mại miền duyên hãi, thủ phủ của miền Ma-kê-đô-ni-a. Đây là thành phố thứ hai
thuộc Châu Âu đón nhận sứ điệp Tin Mừng, sau thành phố thứ nhất là Phi-líp-phê
(1Tx 2: 2). Việc thánh Phaolô rao giảng thành công đã khiến một nhóm người Do
thái ghen tức, họ xúi dục một nhóm người chống đối thánh nhân dữ dội đến mức
thánh nhân cùng với hai người bạn đồng hành là Xin-va-nô và Ti-mô-thê đang đêm
phải vội vã trốn khỏi thành phố (Cv 17: 5-10). Thánh Phaolô ra đi mang theo nỗi
bận lòng của ngài vì phải rời bỏ một giáo đoàn mà ngài vừa mới thành lập mà đức
tin của họ vẫn còn non yếu. Vì thế, khi thời thế thuận tiện, thánh nhân đã phái
ông Ti-mô-thê viếng thăm giáo đoàn Thê-xa-lô-ni-ca mà chính thánh nhân đã không
thể. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem đến những thông tin đầy khích lệ: các tín
hữu non trẻ vẫn “đứng vững trong Chúa” (Tx 3: 8), bất chấp những gian truân mà
họ phải chịu. Lúc đó, thánh Phaolô ở Cô-rin-tô, với niềm vui và tâm tình cảm tạ
tri ân, viết một bức thư chan chứa ân tình, thư thứ nhất gởi các tín hữu
Thê-xa-lô-ni-ca.
Thư này gồm hai phần.
Đoạn trích hôm nay là một bản lề: chúng ta đọc đoạn kết của phần thứ nhất (3:
12-13) và đoạn mở của phần thứ hai (4: 1-2).
2. Lời nguyện xin của
thánh Phaolô:
Phần thứ nhất kết thúc
với lời nguyện xin của thánh Phaolô (phần thứ hai cũng vậy). Qua những ngôn từ
của lời nguyện xin này, thánh nhân nhắc nhở cho các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca
nguyên tắc Kitô giáo tuyệt vời: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với
nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”. Giáo đoàn đa số là
các Kitô hữu gốc lương dân, như mạch văn để cho thấy điều đó, nhưng chắc chắn
cũng bao gồm những Kitô hữu gốc Do thái.
Trong Giáo Hội tiên
khởi việc sống chung không là vấn đề, nhưng thánh nhân còn đi xa hơn: khuyên
các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca không chỉ yêu thương nhau mà còn yêu thương hết mọi
người, “ngày càng thêm đậm đà thắm thiết”, lời khuyên này vào hoàn cảnh đó thật
quan trọng, tức là các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca phải yêu mến những người bách
hại mình, dù phải chịu nhiều nỗi gian truân. Để nâng đỡ và khích lệ họ, thánh
nhân nhắc họ nhớ lại tấm lòng mà ngài có đối với họ: “cũng như tình thương của
chúng tôi đối anh em vậy”.
Luật yêu thương là con
đường thánh thiện, “không có gì đáng chê trách, trước nhan Thiên Chúa là Cha
chúng ta, trong ngày Đức Giêsu, Chúa chúng ta, quang lâm cùng với các thánh của
Người”.
3. Ngày của Chúa:
Chúng ta ghi nhận rằng
ngay từ bản văn Tân Ước đầu tiên này, Đức Giêsu được gọi là Chúa (Đức Chúa),
danh xưng mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa. Như vậy, các Kitô hữu tiên khởi
đã khẳng định Thần Tính của Đức Giêsu. “Ngày của Chúa” mà các ngôn sứ đã loan
báo nay được dùng để chỉ “ngày Quang Lâm”, nghĩa là ngày Đức Giêsu trở lại
trong vinh quang cùng với “các thánh của Người”.
Các thánh này là ai?
Theo truyền thống Do thái, nhất là truyền thống khải huyền, vào ngày chung thẩm,
Đức Chúa được các thiên sứ đứng chầu chung quanh, thường được gọi “các thánh”
(x. Dcr 14: 5). Các sách Tin Mừng vang dội lại truyền thống này: “Khi Con Người
đến trong vinh quang của Ngài, có tất cả các thiên sứ theo hầu” (Mt 25: 31).
Tuy nhiên, thánh Phaolô vừa mới gợi lên sự thánh thiện của các tín hữu, vì thế,
không thể không nghĩ rằng thánh nhân liên kết sự hiện diện của những người được
tuyển chọn với sự hiện diện của các thiên sứ.
4. Trong ngày của Đức
Giêsu:
Đoạn văn này chỉ trích
dẫn lời mào đầu của phần thứ hai thư gởi các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (4: 1-2).
Trong lời mào đầu này, thánh Phaolô khuyên bảo các tín hữu hãy kiên vững và
thăng tiến trên con đường thánh thiện. Thánh nhân nhắc nhớ giáo huấn của ngài,
khi xác định ngài đã truyền đạt cho họ những chỉ thị mà ngài “đã lấy quyền Chúa
Giêsu”. Thánh nhân sẽ luôn luôn tự giới thiệu mình chỉ là người trung gian, sứ
giả phàm nhân của lời Thiên Chúa.
Mặt khác, thật đáng
chú ý là, ngay từ bản văn đầu tiên của thánh Phaolô, xuất hiện biểu thức thường
được lập đi lập lại dưới ngòi bút của thánh nhân, biểu thức then chốt phản ảnh
hồn tông đồ cũng như cuộc sống nội tâm của thánh nhân: “Nhân danh Chúa Giêsu”:
“Nhân danh Chúa Giêsu, chúng tôi xin, chúng tôi khuyên nhủ anh em”. Xa hơn một
chút, thánh nhân lập lại đến hai lần “Nhân danh Chúa Giêsu” (5: 12, 18). Phải
sống, hành động, suy nghĩ, cầu nguyện “nhân danh Chúa Kitô”. Đây là cách thức
duy nhất “làm vui lòng Thiên Chúa”.
TIN MỪNG (Lc 21:
25-28, 34-36)
Năm Phụng Vụ
khởi đầu và kết thúc trên viễn cảnh Đức Giêsu trở lại vào ngày tận thế để thiết
lập Triều Đại của Ngài một cách vĩnh viễn và tôn vinh các thánh. Như vậy, vào
Chúa Nhật trước, Lễ Chúa Giêsu Vua kết thúc năm Phụng Vụ, năm B, chúng ta đã cử
hành vương quyền hoàn vũ của Đức Giêsu. Vào Chúa Nhật I Mùa Vọng này, chúng ta
lấy lại sự gợi ý tương tự, nhưng trong viễn cảnh Giáng Sinh. Đức Giêsu đã trở
thành phàm nhân và đã hội nhập vào trong cuộc sống nhân loại để hướng dẫn nhân
loại đến vận mệnh siêu nhiên của Ngài; Ngài sẽ hoàn thành công trình của mình
vào ngày Quang lâm. Tương ứng với sự yếu đuối và khiêm hạ của biến cố Bê-lem
lại là quyền năng và sự cao cả của việc “Con Người ngự đến”.
1. Bối cảnh:
Cũng như thánh Mác-cô
và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca đặt bài diễn từ về ngày Quang Lâm của Đức Giêsu
vào lời giáo huấn sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, không bao lâu trước cuộc
Thương Khó của Ngài. Chúng ta đọc phần cuối của bài diễn từ này.
Trong cả ba Tin Mừng
nhất lãm, Chúa Giêsu công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp
đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21: 6).
Viễn cảnh này làm xao xuyến các môn đệ đến độ các ông liên kết nó với viễn cảnh
ngày tận thế. Về phần mình, thánh Lu-ca cẩn trọng ghi nhận giữa hai biến cố này
có một thời kỳ trung gian, “thời kỳ dân ngoại” ở 22: 24 ngay trước đoạn trích
này: “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và
Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại”.
Ở nơi thánh Mác-cô và
thánh Mát-thêu, Đức Giêsu công bố diễn từ này trên núi Ô-liu, khi ngỏ lời với
các môn đệ, hay chỉ một nhóm nhỏ, theo Mác-cô. Thánh Lu-ca định vị nó vào ở
trung tâm Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà việc sụp đổ sắp xảy ra (thành thánh
Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ luôn luôn là trọng tâm của những viễn cảnh sách Tin
Mừng Lu-ca). Bên kia các môn đệ, Đức Giêsu ngỏ lời với đám đông; như vậy thành
thánh Giê-ru-sa-lem nghe công bố ngày Quang Lâm của Đấng mà nó sẵn sàng giết
chết.
2. Truyền Thống Kinh
Thánh:
Trong Kinh Thánh,
những điềm báo về việc Thiên Chúa can thiệp dứt khoát trong lịch sử, đề tài này
xuất hiện rất sớm. Ví dụ như Đức Chúa gieo rắc sự kinh hoàng tại đất Ai-cập
trước khi giải phóng dân Ngài (Xh 7: 14-11: 8). Đức Giêsu loan báo ngày tận thế
theo cùng tiến trình: “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc”, trong khi những
người công chính “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”.
Những điềm trời thường
được các ngôn sứ sử dụng để loan báo những án phạt của Thiên Chúa trên các dân
ngoại áp bức dân Ít-ra-en, cũng như trên chính dân Chúa chọn khi dân bất trung
hay bất chính như Is 13: 10: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ
không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn
tỏa sáng”.
Khởi đi từ thế kỷ thứ
hai trước Công Nguyên, các sách khải huyền phóng đại những mô tả này bằng những
cảnh tượng huyền hoặc được gợi hứng từ Phương Đông (điều này đã để lại dấu vết
trên sách Khải Huyền của thánh Gioan). Thể loại văn chương này đưa vào trong Do
thái giáo một trào lưu suy luận rộng lớn về “thế giới tương lai” và “kỷ nguyên
cánh chung”. Vào thời Đức Giêsu, người ta rất quan tâm đến vấn đề này; chúng ta
cũng có thể nói rằng vào lúc đó nhiều thế hệ đã sống trong niềm mong đợi ngày
tận thế. Nhiều người Kitô hữu gốc Do thái sống trong niềm mong đợi ngày Quang
Lâm của Đức Kitô.
3. Con Người ngự đến:
Thánh Lu-ca gợi lên
những hình ảnh truyền thống và quy ước về những xáo động trên đất và biển như
khúc dạo đầu “Ngày của Chúa”, vì những hình ảnh nầy diễn tả những vùng vẫy sau
cùng của những quyền lực sự ác trước khi chúng bị tiêu diệt; nhưng thánh ký không
chú tâm đến những hình ảnh này; ông ngỏ lời với quần chúng ít quen thuộc với
thể loại văn chương khải huyền Do thái. Tất cả từ vựng này được sử dụng cốt
nhấn mạnh quyền tối thượng của Đấng “ngự trong đám mây mà đến”.
Đức Giêsu đã loan báo
nhiều lần rồi cho các môn đệ Ngài cuộc trở lại đầy quyền năng và vinh quang của
Ngài dưới danh xưng Con Người; ở đây Ngài đặt cách diễn tả vào trong bối cảnh
gốc của nó hầu như theo sát nguyên văn, thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai
như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7: 13). Do đó, danh hiệu mà
Đức Giêsu tự nhận cho mình được khám phá với tất cả trương độ ý nghĩa của nó.
Như Con Người trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en là thủ lãnh “dân thánh của
Đấng Tối Cao”, Đức Giêsu mang lấy vận mệnh nhân loại. Vinh quang của Ngài cũng
sẽ là tôn vinh tất cả những ai đã tin vào Ngài.
4. Bức tranh bộ đôi:
Thánh Lu-ca đặc biệt
nhạy bén trước chiều kích con người về tấn thảm kịch sau cùng; thánh ký đặt hai
bức tranh đối lập với nhau: bức tranh về quân vô đạo (chư dân) “sợ đến hồn xiêu
phách lạc” và bức tranh về các tín hữu phát hiện giờ mình được cứu độ, giờ mình
được giải thoát. Nói cách chính xác, nếu thánh ký không mô tả cuộc quy tụ những
người được tuyển chọn, thì những từ ngữ ông sử dụng có một âm vang rất ý nghĩa:
“đứng thẳng”, “ngẩng đầu lên”, diễn tả tư thế của những người được sống lại.
5. Biến cố bất ngờ:
Đức Giêsu không bác bỏ
những hình ảnh của văn chương khải huyền; nhưng Ngài đề nghị miêu tả Triều Đại
của Ngài theo một cách thức khác, khi dựa trên một truyền thống tuy ít được
chứng thực nhưng phổ biến: Ngày Quang Lâm của Ngài xảy đến bất ngờ không có dấu
hiệu nào báo trước; nó thình lình giáng xuống địa cầu. Đức Giêsu đã gợi lên rồi
viễn cảnh này ở nơi các dụ ngôn kêu gọi sự tỉnh thức của Ngài: “Anh em cũng
vậy, hãy sẵn sàng , vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến”
(Lc 12: 40) và ở nơi việc Ngài so sánh Triều Đại của Ngài với trận đại hồng
thủy xảy đến bất ngờ: “Vì ánh chớp lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương
trời kia thế nào, thì Con Người cũng là như vậy trong ngày của Người” (Lc 17:
20). Ở đây, Đức Giêsu sử dụng hình ảnh “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” mà
ngôn sứ I-sai-a đã dùng: “Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào dò lưới đang chờ đợi
ngươi, hỡi cư dân trái đất” (I s 24: 17). Khi căn dặn các tín hữu
Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phaolô cũng theo truyền thống như vậy: “Vì chính anh em
đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5: 2), điều nầy
không loại trừ thời kỳ gian nan khốn khó sau cùng: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến
như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu
tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2Pr 3: 10).
6. Tỉnh thức và cầu
nguyện:
Đức Giêsu đặt hai
truyền thống này bên cạnh nhau: một truyền thống đặt dấu nhấn trên chiều kích
hoàn vũ của biến cố, còn truyền thống kia – không loại trừ chiều kích hoàn vũ
này – nhấn mạnh sự gặp gỡ thân tình của mỗi cá nhân với Chúa. Từ đó, Đức Giêsu
mời gọi hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Thánh Lu-ca không bao giờ quên tầm quan
trọng của việc cầu nguyện; thánh nhân là thánh ký thường hằng ghi nhận tầm quan
trọng quan trọng của lời cầu nguyện trong cuộc đời của Đức Giêsu.
“Anh em hãy tỉnh thức
và cầu nguyện luôn”, đây là lời căn dặn sau cùng của Đức Giêsu cho các môn đệ
của Ngài; Ngài sẽ lập lại vài giờ sau này ở vườn Ô-liu…
9. Suy niệm của Ủy
Ban Kinh Thánh – HĐGMVN
(Trích từ
‘http://www.kinhthanhvn.org’)
Đức Giêsu đã đến xưa
kia, sẽ đến vào ngày Quang Lâm và vẫn đang đến mỗi ngày. Cần biết đón tiếp
Người đến dưới bất cứ dạng nào.
Năm Phụng vụ mới lại
bắt đầu bằng Mùa Vọng với tâm tình chuẩn bị, đón chờ ngày Chúa đến: Chúa đến
trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới, nhưng căn bản là ngày Chúa quang lâm: Chúa sẽ
trở lại trong vinh quang vào ngày thế tận, như lời tuyên xưng hằng ngày trong Thánh
lễ: Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa
sống lại cho tới khi Chúa lại đến.
1. Israel mong chờ
Đấng Thiên Sai (Messia)
Do-Thái, dân tuyển
chọn, lúc ấy đang sống trong thời kỳ bi thảm về chính trị, xã hội lẫn tôn giáo.
Phương Bắc đã hoàn toàn bị đế quốc Assyri tiêu diệt (721), Phương Nam, tức đất
nước Giuđa, sống dưới sức ép của đế quốc Babylone đang hăm he thôn tính. Xã hội
đầy những bất công, áp bức và chèn ép: người giàu cứ phè phỡn hưởng thụ trong
khi dân nghèo bị bỏ rơi và khốn khổ. Tôn giáo lỏng lẻo, pha trộn, vụ hình thức.
Chính trong thời buổi nhiễu nhương và thất vọng ấy, sấm ngôn Nathan (2S 7,14)
về việc Thiên Chúa hứa sẽ bảo đảm cho vương triều Đavít được miên trường khơi
dậy trong lòng người nỗi mong chờ một vị Thiên Sai thuộc dòng tộc Đavít xuất
hiện để giải cứu và phục hưng đất nước. Ngôn sứ Isaia cổ võ thêm cho sự mong
chờ ấy bằng lời sấm đầy tràn hy vọng về đấng Emmanuel: “Này đây một trinh nữ sẽ
thụ thai và hạ sinh một con trai, đặt tên là Emmanuel” (Is 7,14). Vị ngôn sứ
còn loan báo một cuộc hành hương vĩ đại vào thời thiên sai: mọi dân nước trên
mặt đất sẽ tiến về Giêrusalem, tập trung quanh Israel, để nhận biết và phụng
thờ Giavê (Is 2,2-5; x. Mk 4,1-5). Niềm hy vọng vội tan biến khi Israel bị Babylone
xâm lăng và bị lưu đày (587). Nếu trước đây Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi
ách nô lệ Ai-Cập, giờ đây Người lại giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày để họ được
hồi hương tái thiết Đền Thờ và đất nước. Một lần nữa, hy vọng lại dâng cao với
sự mong chờ vị Thiên Sai Ngôn sứ mà trước đây Môsê đã từng loan báo (Đnl
18,18). Đấng Thiên Sai Ngôn sứ này là người Tôi trung của Giavê mà Isaia II đã
phác hoạ là người được Thiên Chúa tuyển chọn và ban tràn đầy Thần Khí, sẽ phải
chịu nhiều đau khổ và chịu chết để cứu độ dân Người. Hy vọng và mong chờ vẫn
kéo dài cho đến lúc người ta lại chuyển sang việc mong đợi Con Người, một nhân
vật thiên quốc mà Daniel mô tả là Đấng ngồi bên hữu Thiên Chúa, được Thiên Chúa
trao cho toàn quyền chung thẩm nhân loại (Dn 7,13-14). Trong từng giai đoạn,
Israel lại mong chờ vị Thiên Sai cứu tinh. Niềm hy vọng mong chờ đó đã nâng đỡ
dân trong suốt thời kỳ đầy thảm hoạ. Sống là hy vọng và mong chờ. Suốt thời kỳ
đầu của Giáo Hội tiên khởi, giữa trăm chiều thử thách, các tín hữu hằng mong
chờ ngày Chúa trở lại và tha thiết kêu xin: Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin hãy
đến!
2. Đức Giêsu là Đấng
Thiên Sai đã đến hoàn tất niềm mong đợi Cựu Ước
Giữa lúc nhân loại
đang chìm sâu trong đêm tối của lầm lạc và tội lỗi, khát mong ơn cứu độ. Khi
Israel đang mòn mỏi mong chờ vị Thiên sai đến giải thoát. Một vì sao sáng xé
ngang màn đêm. Ánh sáng xuất hiện. Thiên Chúa đã nhập thể đến giữa loài người,
mang tên gọi Emmanuel, nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta (Mt 1,23). Loài
người khát khao cứu độ, nhưng nhận biết mình hoàn toàn bất lực, chỉ còn biết
trông đợi ở Chúa. Con người không thể lên được với Thiên Chúa thì Thiên Chúa
lại xuống với con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã
ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời” (Ga 3,16). Người Con một ấy chính là Ngôi Lời vĩnh cữu đã trở nên
người phàm (Ga 1,1.14), sinh bởi một người nữ và sống dưới Lề Luật để cứu những
ai đang sống dưới Lề Luật, hầu cho họ được ơn làm nghĩa tử (Gl 4,4-5). Đó là
lần thứ nhất Thiên Chúa xuống trong lịch sử mà ta vui mừng tưởng niệm trong
ngày lễ Giáng Sinh. Lễ Giáng Sinh sắp đến, hãy chuẩn bị tâm hồn để đón nhận
Chúa đến với ta, mang niềm vui, an bình và cứu độ.
3. Hướng về ngày Quang
Lâm
Tưởng niệm không phải
chỉ là một hoài niệm quá khứ, nhưng căn bản là hiện tại hoá việc Chúa đến hôm
nay trong mỗi giây phút cuộc sống và nhất là hướng lòng về ngày Chúa quang lâm
khi niên cùng nguyệt tận để phán xét toàn nhân loại. Lúc ấy Người sẽ phân định
sự sống đời đời cho những người lành và án phạt muôn đời cho những kẻ dữ là
những ai khi sống nơi dương thế đã chối từ Thiên Chúa để đặt mình dưới quyền
thống trị của ma quỷ và tội lỗi.
Ngày Chúa quang lâm
thật bất ngờ, không ai biết trước được sẽ xảy đến lúc nào. Vì thế, Chúa dạy
phải sẵn sàng tỉnh thức như người đầy tớ khôn ngoan chờ đợi chủ về vào lúc đêm
khuya, hoặc như các trinh nữ khôn ngoan chờ đợi chàng rễ đến chậm, như người
quản gia trung tín luôn biết chu toàn bổn phận khi chủ vắng nhà. “Hãy cầm đèn
cháy sáng trong tay và hãy thắt lưng như người chờ đợi chủ về ”. Hình ảnh Hồng
thuỷ và Sôđôma luôn là một cảnh tỉnh con người trong cuộc sống cần biết hướng
về ngày thế tận, chứ không phải sống như thể trần gian và hiện tại là tất cả.
Cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị và xác định cho định mệnh cuối cùng. Chúa
Giêsu đã có lần cảnh cáo qua dụ ngôn người giàu khờ dại: “Không phải sự sung
túc của cải đời này đảm bảo hạnh phúc đời đời” (Lc 12,15). Thánh Phaolô khuyên:
“Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Hãy loại bỏ mọi hành vi ám muội và mang lấy khí
giới ánh sáng để chiến đấu...” (Rm 13,11-14).
4. Chúa vẫn đến mỗi
ngày
Ngày Quang Lâm vào lúc
thế tận sẽ rất bất ngờ. Sự chuẩn bị sẵn sàng được xác định qua tư cách biết đón
Chúa đến mỗi ngày trong cuộc sống hiện tại. Sách Khải huyền viết: “Phúc cho ai
chết trong ân nghĩa của Chúa”. Nhưng để chết trong ân nghĩa thì phải biết sống
trong ân nghĩa. Chúa đứng ngoài cửa và gõ; ai sẵn lòng mở, Người sẽ vào và dự
bàn tiệc với người ấy.
- Chúa đến và đối
thoại với ta trong Kinh Thánh. Hãy biết lắng nghe, suy niệm và thực hành Lời
Chúa.
- Chúa đến và ở giữa
chúng ta trong Thánh Thể bằng tất cả tình yêu tự hiến, và trở nên Bánh hằng
sống nuôi dưỡng ta trên bước đường lữ thứ tiến về nhà Cha. Hãy siêng năng tham
dự thánh lễ và rước lễ, hãy chiêm ngắm, tôn thờ và sống bí tích Thánh Thể.
- Chúa đến trong anh
em: “Sự gì các ngươi làm cho một anh em bé mọn là làm cho chính Ta” (Mt 25,40).
Trọn cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu là yêu thương và phục vụ hết tình và hết
mình. Người đã rửa chân cho các môn đệ trong bữa Tiệc ly như mẫu gương của sự phục
vụ khiêm tốn và vô vị lợi (Ga 13,14-15). Người đã yêu thương đến tận cùng, đến
chết trên thập giá. Hãy sống yêu thương và phục vụ vì đó là lề luật quan trọng
nhất và là dấu chỉ của người môn đệ Chúa Giêsu (Ga 13,34-35).
10. Niềm vui bất
ngờ
(Trích “Như Thầy Đã
Yêu” của Thiên Phúc)
Tại chùa Tô châu, có
một nhà sư tên là Viên Phủ Trung, tu hành đắc đạo, nhà sư thường bày trên án
thư, trước chỗ ngồi, một cái quan tài con bằng gỗ bạch đàn, dài độ 5 tấc, có
một cái nắp đậy mở được.
Khách đến chơi trông
thấy cười nói rằng:
- Ngài chế ra cái này
dùng để làm gì?
Vị sư trả lời:
- Người ta sống tất có
chết, mà chết thì vào ngay cái này. Ta thực lấy làm lạ: người đời ai ai cũng
chỉ biết có phú quý, công danh, tài sắc thị hiếu lo buồn vất vả suốt đời, chẳng
biết cái chết là gì.
Như ta đây, mỗi khi có
việc không được như ý, ta cầm lấy cái này mà ngắm xem, là tức khắc trong lòng
được yên ổn, mà muôn nghìn sự tư lự đều biến tan đi.
***
Mới đây nhất ngày 8
tháng 11 năm 2013 người Phi Luật Tân đã bị siêu bão Haiyen quét đi biết bao nhà
cửa, nhân mạng chết hay bị thương. Hầu như tất cả mọi người không thể ngờ hay
biết trước siêu bão sẽ đến như thế nào! Hay tại tiểu bang Lousiana Hoa Kỳ năm 2005
với cơn bão Katrina tràn ngập nước bùn biết bao nhà cửa hư hỏng mặc dù con số
tử vong không có bao nhiêu người, nhưng tổn thất rất là nặng nề.
***
Nhà sư Viên Phủy Trung
quả là một con người biết tỉnh thức:
Tỉnh thức là biết nhìn
xa trông rộng; nhìn tới cùng đích của kiếp người là cái chết, trông đến mục
tiêu của nhân sinh là Nước Trời.
Tỉnh thức là biết lo
trước nghĩ xa, vì không lo xa ắt có buồn gần. Bỏ cái lợi nhỏ trước mắt để được
cái lợi lớn ở tương lai.
Tỉnh thức là biết phải
hành động tốt đẹp cho hôm nay, để chờ đón bao phúc lộc, vạn hạnh cho ngày mai.
“Anh em hãy tỉnh thức
vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến” (Mt 24,42).
Tỉnh thức để chờ đón
Chúa đến thì còn gì vui sướng hơn. Tỉnh thức để chuẩn bị cho cuộc hạnh ngộ thì
còn gì hạnh phúc bằng. Tuy nhiên, con người lại hay mê ngủ: tinh thần thì mau
mắn nhưng xác thịt lại nặng nề.
Sợ rằng khi Chúa đến
họ lại chẳng đủ sức để tỉnh thức ra đón Người. Thấu hiểu thân phận yếu của con
người nên Chúa đã khuyên dạy: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em
không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
“Lúc Con Người đến”
chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là giờ chết của mỗi
người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng thật trớ trêu là nó lại đến một cách
bất ngờ: bất ngờ như biến cố đại hồng thủy thời ông Noe, bất ngờ như kẻ trộm
đêm khuya đột kích vào nhà. Chẳng bao giờ kẻ trộm gọi điện thoại báo trước giờ
nó đến, vì vũ khí của hắn là sự bất ngờ. Chỉ có một cách duy nhất để tai họa
khỏi chộp xuống đầu chúng ta như “tiếng sấm đánh không kịp bịt tai”, là chúng
ta luôn tỉnh thức và sẵn sàng trong ơn nghĩa Chúa.
Con người có một nhược
điểm hết sức phổ biến, là luôn cho rằng vẫn còn ngày mai để chuẩn bị, còn ngày
mai để sám hối ăn năn, còn ngày mai để thay đổi nếp sống. Nhưng có một kinh
nghiệm hết sức chua xót đã từng đổ ập xuống bao người là ngày mai ấy không bao
giờ trở lại. Chần chừ, khất lần chính là cơn cám dỗ hiểm độc nhất của ma quỉ.
Xin đừng để quá muộn ! Muốn vậy hãy tỉnh thức và đợi chờ.
Mùa vọng là mùa của
đợi chờ:
Không phải đợi chờ
trong mỏi mòn, day dứt khôn nguôi nhưng là đợi chờ trong niềm hy vọng.
Không phải đợi chờ mà
không làm gì cả, nhưng là làm việc trong đợi chờ.
Không phải đợi chờ một
ai đó, nhưng là đợi chờ chính Con Thiên Chúa.
Chờ đợi như thế chính
là tỉnh thức, là sẵn sàng, là mở đường về tới Nước Trời.
Chờ đợi như thế chính
là chung tay xây dựng một thế giới công bằng và yêu thương, an vui và hạnh
phúc.
Chờ đợi như thế thì
ngày Chúa đến không còn là bất ngờ đáng sợ, nhưng lại là niềm vui bất ngờ.
Vui vì Chúa chúng ta
đã toàn thắng vinh quang.
Vui vì bao con người
được ơn cứu rỗi.
Vui vì vũ trụ này đã
được giải thoát.
Vui vì “trời mới đất
mới” sẽ mở ra, dẫn đưa chúng ta vào nơi vinh phúc.
***
Lạy Chúa Giêsu, trong
khi chúng con chuẩn bị mừng ky niệm Chúa đến lần thứ nhất, và mong chờ Chúa sẽ
đến lần thứ hai , xin cho chúng con luôn tỉnh thức để nhận ra biết bao lần Chúa
đến với chúng con nơi dung mạo những anh chị em nghèo khổ, bệnh tật, bị bỏ rơi,
để ngày Chúa đến sẽ là một ngày hội vui cho tất cả mọi người. Amen.
11. Tỉnh để chờ
– Anmai
Chắc ai trong chúng ta
cũng đã hơn một lần chờ xe, chờ đò, chờ máy bay ...
Kỷ niệm lại về khi nhớ
về ngày xưa ở vùng ven biển. Muốn đến nơi cần đến phải qua 2 chuyến phà. Chuyến
phà thứ nhất ngày xưa như thế này, vì sợ hao xăng hao dầu nên chạy cầm chừng và
rồi những chuyến đò ngang được cập bến phà để chở thêm người ngoài, vừa nhanh
vừa tiện. Thế nhưng từ khi báo động đến mức nguy hiểm khi dùng đò ngang đi qua
đoạn sông hơn một cây số thì tất cả đò ngang đều bị cấm, Thế là chỉ còn phương
tiện duy nhất là phà. Nếu tạm gọi là may mắn vừa chuyến phà thì kịp lên, bằng
không thì đành phải đợi. Hôm nào rơi vào ngày Tết ngày Lễ thì lượng người đi
tăng gấp đôi ba lần. Như vậy thì chỉ đành chờ và chờ. Tâm trạng người chờ thì
lúc nào cũng sốt ruột không biết khi nào đò sang để qua bờ bên kia.
Chờ đò là như thế, chờ
xe cũng chẳng khác gì. Vài lần, anh em đi chung với nhau nhưng chẳng hiểu sao
có vài anh ngủ quên cả dậy nên xe đã lăn bánh. Thế là lọ mọ dậy và chỉ còn cách
duy nhất là ra bến để tìm phương tiện đến nơi cần đến.
Chỉ cần mất tỉnh thức
một chút thì lỡ chuyến xe và lỡ chuyến đó. Chuyện này hết sức thực tiễn trong
cuộc đời con người.
Mới đây thôi, từ Phát
Diệm về Hà Nội để về lại Sài Gòn làm tôi phải sôi ruột. Cơm trễ, 1 giờ trưa
khởi hành về Hà Nội, trong khi đó chuyến bay về lại Sài Gòn cất cánh lúc 5 giờ.
Quán ăn từ Phát Diệm về Hà Nội khoảng hơn tám mươi cây số nhưng sợ cảnh kẹt xe.
3 giờ kém xe về đến quận Đống Đa. Chờ 10 phút, xe đưa tôi vào sân bay. Vừa ra
đường Nguyễn Lương Bằng thì chuyện không mong nó vẫn đến là kẹt xe. Xe này nối
xe kia một hàng dài. Thoát khỏi cảnh kẹt xe, tài xế biết gần đến giờ bay nên
tăng tốc. Đến sân bay thì hỡi ôi một hàng dài đang chờ để Hải Quan kiểm tra.
Đến lượt mình cũng là người cuối cùng bước chân vào máy bay. Một tí nữa coi như
phải ở lại Hà Nội để chờ đến ngày mai mới được vào Sài Gòn. Một hành trình đầy
kinh hãi!
Ngày hôm nay, bước vào
Chúa nhật đầu tiên của mùa Vọng. Sống tâm tình mùa Vọng là chờ mong, đợi chờ
Thiên Chúa đến trong cuộc đời chúng ta.
Chúa Giêsu ngày hôm
nay mời gọi các môn đệ cũng chính là mời chúng ta sống tâm tình tỉnh thức để
đợi Chúa đến.
Trong tâm tình nhắc
nhở này, Chúa Giêsu nhắc lại hình ảnh của gia đình ông Nôê ở Cựu Ước. Được báo
là sẽ có một trận lụt hồng thủy đến trên mặt đất này để rồi ông Nôê và gia đình
ông chuẩn bị đóng một con tàu thật lớn để lên đó tránh lụt. Như lời tiên báo
căn dặn, ông đã làm tất cả những gì cần thiết và sẵn sàng để "đối
phó" với cơn đại hồng thủy sắp đến. Trong khi đó, những người khác cùng
sống cùng thời với ông vẫn cứ vui vẻ để sống chứ không hề bận tâm chuyện gì cả.
Chuyện gì đến sẽ đến.
Như trong lời báo, nước ngày mỗi ngày một dâng cao. Và, dĩ nhiên là những ai
lên tàu, thậm chí súc vật mới được sống sót sau trận lụt hồng thủy kinh hoàng.
Chuyện hồng thủy trong
đời ông Nôê cũng chỉ là cảnh lụt lội. Sau cơn mưa trời lại sáng, sau bão lũ thì
mọi sự cũng sẽ trở lại bình thường và con người số gắng lao nhọc để kiếm sống
từ hai bàn tay trắng. Dù phải làm lại từ đầu, dù phải xuất phát điểm từ hai bàn
tây trắng nhưng con người còn có cơ hội sống để làm lại từ đầu. Những người
thời ông Nôê bị cơn lụt cuốn trôi thì muốn làm lại từ đầu như gia đình ông Nôê
cũng không làm được vì tất cả đã chết.
Sao bão tố, sau thiên
tai con người còn có thể sống. Như những nạn nhân trong cơn bão dữ để đời ở
Philippines là một bằng chứng hết sức cụ thể. Còn lại 5 người gia đình người
Việt sống trong vùng tâm bão sống sót. Những người này rơi vào cảnh hai bàn tay
trắng và phải làm lại từ đầu. Giờ này, họ cũng chẳng mong gì khác ngoài thực
phẩm để cứu sống họ sau những ngày tan thương này chứ cũng chưa nghĩ rằng phải
vực lại nền kinh tế như xưa. 5 người này may mắn hơn cả ngàn người khác vì họ
đã qua đi ngay khi bão đến.
Cuộc đời mỗi người
chúng ta cũng thế, chúng ta không chỉ là được báo trước như ông Nôê hay dự báo
bão dữ như những cơn bão năm này qua năm khác ập đến. Không phải báo trước mà
là thân phận con người đến một ngày nào cũng phải kết thúc.
Chúa Giêsu nói thẳng
chứ không mấp mé, không hoa mỹ, không gợi hình gợi ý gì cả. Chúa Giêsu nói
thẳng luôn là trong khi hai người đang xay bột thì có một người bị đem đi và
một người ở lại, có người đang trồng lúa thì cũng sẽ một người được ở lại.
Chân lý này không ai
có thể phủ nhận được vì lẽ ngày mỗi ngày đều diễn ra cái sự thật này, cái chân
lý này.
Nếu đến Từ Dũ, chúng
ta sẽ thấy nhiều và thật nhiều bà mẹ đang quằn quại trong cơn đau để sinh hạ
đứa con yêu của mình. Và, nếu chúng ta đến Đa Phước hay Bình Hưng Hòa, chúng ta
sẽ bắt gặp đoàn xe tang nối đuôi nhau đưa người quá cố lên đài hỏa táng. Nhìn
như thế, gặp như thế và rồi một ngày nào đó ta cũng như thế chứ không sai.
Chúa Giêsu, trong tâm
tình giờ người làm ruộng và người xay bột bị mang đi đó, mời gọi con người, mỗi
người, nhất là những người có niềm tin phải tỉnh tức.
Chuyện quan trọng nhất
của đời người đó là tỉnh thức. Lý do để chúng ta luôn canh thức là “vì anh em
không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ đến”. Sự kiện Chúa sẽ đến trong cuộc
quang lâm là một thực tại chắc chắn, nhưng đồng thời đó cũng là một thực tại sẽ
xảy đến hoàn toàn bất ngờ, vượt ra bên ngoài những dự đoán hay hiểu biết chính
xác của con người.
Ngày mỗi ngày, chúng
ta vẫn “xay bột”, vẫn “làm ruộng”, tức là vẫn sống trong các thực tại bình
thường hằng ngày của cuộc sống con người, nhưng bên trong phải là một sự canh
thức đích thực, tức là một sự tham dự thật sự vào số phận và mầu nhiệm của Đức
Giêsu. Đó mới là điều quan trọng.
Để minh họa cho tính
chất bất ngờ đó của cuộc quang lâm, Chúa Giêsu kể dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya:
“Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn ông
đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình” (24, 43). Tân Ước vẫn thường
dùng hình ảnh kẻ trộm để nói về tính chất bất ngờ của ngày Chúa đến (1 Tx 5,2;
2Pr 3,10; Kh 3,3; 16,15). Vì tính chất bất ngờ này, các đồ đệ của Chúa được yêu
cầu phải luôn luôn hiện diện trong tư thế sẵn sàng đối diện với biến cố đó
(c.44), tức là luôn hiện diện một cách tròn đầy trong từng phút giây hiện tại
trong sự liên kết mật thiết với cuộc vượt qua của chính Đức Kitô Giêsu. Cuộc
quang lâm của Chúa là biến có cứu độ, vì Ngài ngự đến để tập hợp những người
được tuyển chọn ( 24, 31), và khi ấy, “kẻ nào bền chí đến cùng kẻ ấy sẽ được
cứu độ” (24, 13).
Chúa Giêsu kết luận:
“Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em sẽ
đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm đến, hẳn
ông đã canh thức, không để nó khoét vách nhà mình.44 Cho nên anh em cũng vậy,
hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ phút anh em không ngờ, Con Người sẽ đến” (Mt
24.42-44).
Căn cốt của trang Tin
Mừng hôm nay là động từ “canh thức” trong câu 42. "Canh thức" có
nghĩa là không ngủ, là tỉnh thức. Động từ này xuất hiện trong trình thuật về
Chúa Giêsu trong vườn Dầu (26, 38.40.41). Nó diễn tả sự liên đới và đồng nhất
hóa với cái chết mà Chúa Giêsu trải qua trong chiều sâu kinh hoàng thật sự của
cái chết cứu độ đó. Vậy đây không chỉ là sự không mê ngủ, mà còn là sự nên một
với Chúa Giêsu trong mầu nhiệm vượt qua của Ngài. Đây chính là tâm tình lời mời
gọi của Chúa Giêsu mời các môn sinh của Ngài cũng như mời gọi mỗi người chúng
ta: “Anh em hãy canh thức”.
"Canh thức"
như Chúa Giêsu mời gọi có nghĩa là ngồi đó thức và chờ đợi chứ không làm gì cả.
Thái độ, tâm tình như thế là tâm tình tiêu cực, tâm tình bi quan và chẳng có ý
nghĩa gì với ta cả.
Tâm tình "canh
thức" được Thánh Phaolô mời gọi rất rõ qua đoạn thư của Ngài: " ...
vì anh em biết chúng ta đang sống trong thời nào. Đã đến lúc anh em phải thức
dậy, vì hiện nay ngày Thiên Chúa cứu độ chúng ta đã gần hơn trước kia, khi
chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy chúng ta hãy loại bỏ những
việc làm đen tối, và cầm lấy vũ khí của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở
cho đứng đắn như người đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không
chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa
Giêsu Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn các dục vọng.
Xin cho chúng ta sống
tâm tình "canh thức" như Thánh Phaolô mời gọi để bất cứ khi nào Chúa
đến với đời ta, ta sẵn sàng đón chờ Chúa và Chúa đưa ta vào hưởng hạnh phúc Quê
Trời với Ngài.
12. Để Chúa
đến trong cả cuộc đời
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Hữu An)
Bài đọc 1 trích sách
Ngôn sứ Isaia: "Người sẽ đứng làm trọng tài giữa các quốc gia và phân xử
cho muôn dân tộc. Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên
liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ
thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Gicop hỡi, ta cùng đi, nhờ ánh sáng
Đức Chúa soi đường" (Is 2,1-5).
Ngôn sứ Isaia ước mơ
về một tương lai thế giới hoà bình, không còn đánh nhau, không còn chinh chiến
nữa, gươm đao giáo mác trở nên liềm hái làm dụng cụ lao động. Bức tranh về một
nền hoà bình tuyệt đẹp: sói với chiên con sẽ cùng nhau ăn cỏ, sư tử cũng ăn rơm
như bò (Is 65,25), trẻ con thọc tay vào hang rắn lục ...
Isaia hướng nhân loại
về niềm hy vọng: Này đây Ta sáng tạo trời mới đất mới, không còn ai nhớ đến
thuở ban đầu và nhắc lại trong tâm trí nữa. Nhưng thiên hạ sẽ vui mừng và luôn
mãi hỷ hoan (Is 65,17-18).
Khát vọng của Ngôn sứ
Isaia cũng như của nhân loại ngàn đời là một nền hoà bình vĩnh cữu. Chính trong
niềm khát vọng ấy mà Tu sĩ Hermann Schaluck, Ofm đã ước mơ đến: Trình Thuật Mới
Về Công Việc Sáng Tạo:
- Và Thiên Chúa nhìn
thấy cách thức loài người khắp cõi trần, từ Đông sang Tây, từ Nam chí Bắc,
không phân biệt nòi giống, nam nữ, đang khởi công liên hệ cùng nhau cách chân
tình. Các dân tộc tự chọn giữa họ những người nam nữ tốt lành nhất và gởi họ
tới lâu đài trứ danh bằng kính trên hòn đảo Manhattan (Trụ sở Liên Hiệp Quốc),
nơi mở cửa đón tiếp tất cả các quốc gia hoàn cầu. Tại đây, họ lắng nghe đối
thoại thân mật, thông cảm lẫn nhau và khai triển những dự án cộng đồng.
Và Thiên Chúa phán:
"Như thế là tốt". Và đây là ngày đầu tiên của kỷ nguyên mới.
- Và Thiên Chúa nhìn
thấy cách các chiến sĩ hoà bình tách biệt các đạo quân đang lâm chiến với nhau,
các tranh chấp được dàn xếp bằng lẽ phải và điều đình, chứ không phải bằng khí
giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia biết lắng nghe tiếng nói của các dân tộc, biết
cùng nhau khởi sự coi trọng lợi ích toàn cầu và hoà bình thế giới kết hợp với
lợi ích riêng biệt.
Và Thiên Chúa phán:
"Như thế là tốt". Và đó là ngày thứ hai của hành tinh mới.
- Và Thiên Chúa nhìn
thấy cách loài người bắt đầu yêu chuộng và bảo vệ thay vì khai thác tạo vật:
bầu khí quyển với lớp ozon, nước sông, nước biển, trái đất và nguyên liệu cũng
như tất cả những gì sinh sống và phát triển tại đó. Và Thiên Chúa cũng thấy rằng
bắt đầu loài người không còn thống trị và khai thác lẫn nhau, nhưng tự coi là
con một Cha duy nhất và đối xử đồng đều với nhau.
Và Thiên Chúa phán:
"Như thế là tốt". Và đó là ngày thứ ba của kỷ nguyên tư tưởng mới.
- Và Thiên Chúa thấy
cách loài người khắp hoàn cầu khởi công khám phá và loại trừ các nguyên nhân
gây nên đói khát, bệnh tật, dốt nát và nghèo đói bất công. Họ khởi sự san sẻ
cùng nhau những gì thuộc về tất cả và vì lợi ích chung và sự sống còn của toàn
cầu, họ khởi sự xem xét các khía cạnh tích cực và quan điểm chung của các dân
tộc và tôn giáo.
Và Thiên Chúa phán:
"Sự việc phải như vậy". Và đó là ngày thứ tư của cuộc sáng tạo mới.
- Và Thiên Chúa thấy
cách loài người, với một ý thức hoàn hảo, có trách nhiệm chứ không vì ham muốn
quyền lực, khởi sự sử dụng tài nguyên thiên nhiên được giao phó cho mình, đặc
biệt là chất đốt rút ra từ lòng đất và năng lượng nguyên tử. Thiên Chúa thấy
cách lương tâm họ luôn thức tỉnh thúc đẩy họ tự vấn xem lại các dự án mới mà họ
định nghiên cứu có thích hợp với việc phục vụ Thiên Chúa và nhân loại không. Họ
từ bỏ ương ngạnh để chủ trương tế nhị, từ bỏ tham lam để chủ trương không vụ
lợi, ích kỷ cá nhân và quốc gia để chủ trương tinh thần liên đới.
Và Thiên Chúa phán:
"Như thế là tốt". Đó là ngày thứ năm của một thế giới nhân đạo hơn.
- Và Thiên Chúa thấy
cách loài người năm châu khởi sự tháo gỡ và phá bỏ các dàn phóng hoả tiễn, các
kho bom đạn, vũ khí hoá học, vi trùng cũng như các vệ tinh do thám và hệ thống
truy tầm, giải phóng quân đội và vì thế phổ biến trong học đường và chương
trình giáo dục những mô hình sư phạm về hoà bình minh bạch và hữu hiệu đến nỗi
các cuộc tranh chấp có thể được giải quyết bằng đường lối hoà bình.
Và Thiên Chúa phán:
"Tất cả như thế là tốt". Đó là ngày thứ sáu của một bầu trời mới.
- Và Thiên Chúa nhận
thấy cách loài người bắt đầu tái nhận biết Ngài nơi mọi sự, Ngài, Thiên Chúa
hằng yêu quý sự sống. Họ coi cuộc tranh đấu cho sự sống, cho phẩm giá và cho
việc nhìn nhận quyền lợi mỗi cá nhân là một việc phụng vụ Thiên Chúa. Và mỗi lần
một trong những ý thức hệ họ sụp đổ, lúc thảo lại một hiến pháp mới, họ ghi vào
đó rằng: Ta đừng bao giờ quên lãng Thiên Chúa là nguồn gốc và tận cùng một thế
giới công bình và nhân đạo. Và họ nhìn nhận con người được sống và được giải
phóng là dấu chỉ của Thiên Chúa trong lịch sử.
Và Thiên Chúa phán:
"Bây giờ, tất cả đều trở nên tốt lành". Đó là ngày thứ bảy của việc
sáng tạo hoàn cầu. Từ đây hoàn cầu đồng thuộc về nhân loại mới và Thiên Chúa.
Một nền hoà bình đích
thực dẫn đưa con người đến "trời mới, đất mới" (Kh 21,1) hiệp thông
với Đấng là sự Thật và là Sự Sống. Loại bỏ những việc làm đen tối (Rm 13,13),
mặc lấy Chúa Giêsu Kitô (Rm 13,14), nhân loại sẽ xây dựng được nền hoà bình
vĩnh cửu. Niềm hy vọng một nền hòa bình vĩnh cửu gắn liền với lòng tin vào Đức
Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân loại bởi lẽ: Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì
dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện
lời hứa. Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn. Vì thế
người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện
trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử. Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy
vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo
tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng
hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.Thiên Chúa hy vọng
vào con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên
Chúa luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ
có cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Thiên Chúa là Sự Sống,
là Tình Yêu. Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm Người. Đức Giêsu Kitô
chính là Tin Mừng Sự Sống và Tình Yêu.Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu loan báo cho
loài người là Tin Mừng Sự Sống, Tin Mừng Tình Yêu. Ngài luôn mời gọi mọi người
thiện tâm chung sức kiến tạo nền văn hoá sự sống và văn minh tình thương.
Năm Phụng Vụ khởi đầu
bằng Mùa Vọng. Bài thánh ca quen thuộc ngân vang trong những sinh hoạt đạo đức
hàng ngày: Xin cho lòng chúng con luôn mở rộng chờ mong Chúa đến, xin cho lòng
chúng con luôn thắm đượm một tình yêu mến, xin cho lòng chúng con luôn ước ao,
luôn khát khao, một thế giới sướng vui dạt dào, một thế giới không còn khổ đau....
để Chúa đến trong cuộc đời, để Chúa đến mang ơn trời, nguồn hạnh phúc cho con
người, nguồn cứu rỗi cho mọi nơi...
Để đón chờ Chúa đến,
cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Chúa Giêsu dạy trong trang Tin Mừng: ngày Con
Người đến thật bất ngờ: vào ngày nào, giờ nào không một ai biết. "Lúc Con
Người đến" chính là ngày tận thế, ngày Chúa quang lâm, và cũng chính là
giờ chết của mỗi người. Ngày ấy chắc chắn phải đến, nhưng nó lại đến một cách
bất ngờ. Bất ngờ như trận lụt đại hồng thủy thời ông Noê. Bất ngờ như hai người
đàn ông đang làm ruộng, hai người đàn bà đang xay bột, một người bị đem đi, một
người để lại. Không ai biết được mình sẽ ra đi lúc nào. Không ai biết được
tương lai của mình ra sao. Không ai biết được ngày tận thế. Vào thời ông Noê,
trong khi không ai để ý chuyện gì sắp xảy ra, cuộc sống vẫn cứ tiếp tục với
những dấu hiệu bình an: "Thiên hạ vẫn ăn uống, dựng vợ gả chồng". Chỉ
có ông Noê là người tỉnh thức và sẵn sàng. Vâng lệnh Chúa, ông Noê đóng một
chiếc tàu rất lớn. Đang khi đóng tàu, dân chúng chế giễu ông lẩm cẩm. Sau khi
hoàn tất, ông và gia đình cùng với súc vật vào tàu, trời bắt đầu sấm chớp và đổ
mưa như trút ngày đêm. Lụt đại hồng thủy dâng lên bất chợt. Tất cả đều bị cuốn
trôi trong nước lũ. Chỉ còn lại gia đình ông Noê được cứu sống. Chúa đến sẽ bất
chợt khi chúng ta đang làm việc, đang sinh sống, đang ăn uống, đang ngũ nghỉ.
Chúa đã đến và vẫn đến
mỗi ngày. Để đón chờ Chúa đến, cần phải tỉnh thức và cầu nguyện. Tỉnh thức
không "chè chén say sưa", là đừng quá đam mê những hưởng thụ đời này.
Tỉnh thức không "lo lắng sự đời", là không quá mê say danh, lợi, thú.
Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân
trời cao thượng. Người tỉnh thức sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những
giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau. Tỉnh thức để không đánh mất phẩm chất cao
đẹp của mình.Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện
để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới
vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con
người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa
giúp ta mới thoát khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới
thiêng liêng.
Có tỉnh thức và cầu
nguyện để khỏi sa chước cám dỗ và những lôi cuốn mời mọc hấp dẫn trong cuộc
đời. Cầu nguyện trong tỉnh thức để luôn sẵn sàng vì không biết ngày giờ Chúa
viếng thăm. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới "đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp
xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người". Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới
khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và
ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức
cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa.
Tỉnh thức cầu nguyện,
ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện, chắc
chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào
hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn
lụi.
Mùa Vọng chúng ta
trông chờ Chúa hay Chúa trông chờ chúng ta?
Mùa Vọng được khai mở
với lời mời gọi của Chúa Giêsu: Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn. Bước đầu là
bước quyết định cho cả một cuộc đời, một chương trình kế tiếp như như sách Nho
có câu: Nhất nhật chi kế tại ư thần, nhất niên chi kế tại ư xuân ( Kế hoạch một
ngày hệ tại giờ ban mai, kế hoạch một năm hệ tại mùa xuân).
Tỉnh thức và cầu
nguyện là thái độ sống của người tín hữu suốt năm phụng vụ.
Xin Chúa cho chúng con
như ngọn đèn chầu trong nhà thờ, thức luôn và sáng luôn trước nhan Chúa. Amen.
13. Niềm tin yêu
phó thác.
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
CON THUYỀN KHÔNG BẾN
Trong một lớp giáo lý
Rước Lễ Trọng Thể, khi được hỏi: “Con tàu No-ê đã trôi về đâu”, một em học viên
tuổi vào đời đã trả lời nhanh: “Dạ, nó trôi lênh đênh như con thuyền không
bến”.
Hay! Giữa trời biển
bao la, còn đâu là bến bờ, câu trả lời thật thơ mộng và chính xác!
Nhưng đó chỉ là hình
ảnh được hiểu theo kiểu “người trần mắt thịt”, thấy sau biết vậy. Con thuyền
No-ê không trôi vô định, phó mặc dòng đời tùy hên xui may rủi, kiểu “con thuyền
không bến” của người đời: “cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay
vần đến đâu”. Con thuyền No-ê đã được tạo thành có mục đích, nó trôi nổi giữa
dòng đời theo mục đích, và sẽ dừng lại đúng mục đích.
Đó là một cuộc hành
trình có khởi điểm, có lộ trình, và có điểm đến. Đó là một cuộc hành trình do
Thiên Chúa hoạch định. Đó là ơn gọi vì yêu thương.
Bến cũ không còn an
toàn, Thiên Chúa muốn ông No-ê rời bỏ nơi ấy, để đến bến bờ mới của sự sống,
nơi sẽ là Trời Mới, Đất mới - một Thế Giới Mới. No-ê đã vâng lời. Ông tin những
gì Thiên Chúa nói. Ông vâng phục những gì Thiên Chúa dạy. Ông phó thác mọi sự
trong chương trình của Thiên Chúa.
Nên, giữa trời biển
bao la, vẫn có một bến bờ mà nếu không có đôi mắt đức tin không thể nào thấy
được, đó là bến bờ vô hình đang chờ đợi “con thuyền không bến” của No-ê cập
bến: - bến bờ sự sống mới.
Như vậy, cuộc hành
trình của con tàu No-ê là một cuộc hành trình hy vọng. Hy vọng những điểu tốt
lành Thiên Chúa sẽ trao ban như lời Ngài đã hứa.
CHỜ ĐỢI VÀ HY VỌNG
Chờ đợi luôn chứa đựng
hy vọng. Hy vọng đòi hỏi đợi chờ. Có những người tự tử vì họ không còn hy vọng.
Họ không còn gì để đợi chờ. Có những người đầy nghị lực vượt gian khổ, vì họ
luôn hy vọng điều tốt lành đang ở phía trước. Họ kiên nhẫn đợi chờ. Họ đợi chờ
trong hy vọng.
Tháng ngày lênh đênh
trên sóng nước bao la của con tàu No-ê là cuộc hành trình chờ đợi trong hy
vọng. Mong đợi thấy được ánh mặt trời của ngày mới rực sáng trên mặt đất hồi
sinh.
Đó là Mùa Vọng của con
tàu Nô-ê. Mùa Vọng của những người luôn được Chúa yêu mến và luôn biết yêu mến
Chúa. Những người luôn tỉnh thức để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên
Chúa.
Muốn có được niềm hy
vọng, người ta luôn phải phấn đấu. Không ai đạt được mục đích mà chỉ “nằm há
miệng chờ sung”. Để trung thành với niềm tin yêu vào Thiên Chúa đòi hỏi con
người luôn nổ lực để tự hoàn thiện bản thân. Phải có hy sinh, đau đớn, khổ
luyện, con người mới vươn lên được. “Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài. Cũng thành
vô dụng, cũng hoài ngọc đi”.
Cuộc sống chỉ để thỏa
mãn những thú vui thấp hèn. Theo đuổi những giá trị nhất thời. Hưởng thụ những
thứ phàm tục thoáng qua. Buông thả theo bản năng. Mất phương hướng đời người.
Không còn cảm nhận được những giá trị cao cả lâu bền. Cuộc sống ấy sẽ thật sự
chấm hết trong thế giới tan biến phù hoa ảo ảnh. Vì cuộc sống ấy không nối kết
được với nguồn sống vĩnh cửu là Thiên Chúa. “Thời ông Nô-ê thế nào, thì con
người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên
hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không
hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày con người
quan lâm cũng sẽ như vậy”. (Mt.24,37-39).
VÀO GIỜ PHÚT KHÔNG
NGỜ...
Ở quê tôi, không nhớ
rõ năm nào, chỉ biết là trước năm 1975, người ta báo tin một chiến sĩ tên Sang
tử trận. Phải mất gần ba ngày sau, gia đình người thân mới đi lãnh xác về được
trong chiếc quan tài được hàn chì bên trong cẩn thận.
Thật khó mà tả được
hình ảnh người mẹ đau khổ. Bà ôm chiếc quan tài và tha thiết xin được nhìn mặt
con lần cuối, nhưng không ai đáp lại nguyện vọng của bà. Vì ai cũng hiểu: chẳng
còn hình thù gì nữa để nhìn. Người ta giữ lại chiếc quan tài một đêm để cầu lễ
và dự định ngày hôm sau thánh lễ an táng sẽ cử hành lúc 2 giờ chiều.
Buổi sáng ngày dự định
chôn cất, lúc ấy khoảng 8g, khi người mẹ còn đang thỉnh thoảng bước lại nhìn di
ảnh đứa con trai cưng của mình, thắp vài nén hương trong nước mắt, thì một
người ở ngoài đường hối hả chạy vào nhà báo tin: “Mẹ ơi, người ta điện về xã
cho biết tên Sang đó không phải là người ở xã của mình, ở nơi khác. Mẹ ơi, anh
Sang còn sống! Mẹ ơi, anh Sang còn sống!”.
Người mẹ đứng chết
trân, ngỡ ngàng, không biết mơ hay thực, nước mắt tiếc thương chưa kịp khô,
những giọt nước mắt vui mừng trào trào ra tuôn dòng trên đôi má nhăn nheo.
Ngay ngày hôm sau,
người ta cho anh Sang về phép. Có lẽ ai đó có trách nhiệm trong việc lầm lẫn
tai hại này muốn chuộc lại lỗi lầm chăng. Hay muốn bảo đảm chắc chắc rằng người
nằm trong quan tài kia không phải là Sang ở gia đình này. Sau đó, người ta đem
chôn tạm chiếc quan tài kia ở phía sau ruộng. Gần một tháng sau mới có thân
nhân đến tìm mộ.
Mấy ngày sau, tôi đến
thăm người mẹ đó. Bà nói câu nào cũng khóc. Khóc rồi cười. Cười rồi lại khóc.
Đó là thứ ngôn ngữ diễn tả niềm vui quá sức lớn lao đến mức người ta có thể
điên lên được vì hạnh phúc đến quá bất ngờ. Thật không ngờ! Tôi cứng rắn lắm,
vậy mà cũng khóc. Tôi khóc vì cảm động trước lòng mẹ...
Ôi, sự sống quý trọng
biết bao và là khát vọng muôn thuở của con người!
Tôi chợt nhớ đến hình
ảnh của Chúa Giêsu đã xúc động trước đám tang của con trai bà góa thành Na-im
(Lc.7,11-17). “Trông thấy bà Chúa chạnh lòng thương và nói: ‘Bà đừng khóc
nữa’”. Niềm hạnh phúc của bà mẹ này chắc chắc rất lớn lao và thật không ngờ.
“Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ”.
Niềm vui ấy không chỉ
riêng của bà mẹ thành Na-im và bản thân người chết, mà còn là niềm vui của mọi
người. Đó là nỗi khắc khoải chờ mong của mọi người, của kiếp nhân sinh. “Mọi
người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: ‘Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất
hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người ’”. (Lc.7,16).
Đó là niềm vui lớn
nhất mà chúng ta chờ đợi. Đó là hy vọng mà chúng ta ấp ủ trọn cả kiếp người.
Cuộc đời của chúng ta
có rất nhiều điều không ngờ. Chúng ta là thân cát bụi mà Chúa đã yêu thương
chúng ta đến mức không ngờ. Ngài tha thứ chúng ta đến mức không ngờ. Ngài là
Thiên Chúa mà chọn cái chết vì chúng ta thật không ngờ. Ngài sẽ đến vào ngày không
ngờ. Ngài sẽ đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc không ngờ.
Chỉ có điều, ta đáp
lại tình Ngài như thế nào qua cách sống của chúng ta. Nếu ta bước đi vững vàng
trong niềm tin yêu Thiên Chúa. Nếu ta biết lắng nghe Lời Chúa. Nếu ta biết chọn
lựa những gì thuộc về Chúa. Nào ta còn sợ gì lạc lối. Mặc cho cuộc đời có đổi
thay. Sóng gió tư bề bao phủ. Chuyện kinh thiên động địa tràn lan, ta chẳng hề
sợ đến “hồn xiêu phách lạc”, vì ta tin vững Thiên Chúa không hề bỏ rơi những ai
trung thành và hằng kêu cầu đến Thánh danh Ngài. “Khi những biến cố ấy bắt đầu
xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và hãy ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ” (Lc.21.28).
Có một chút màu trắng
trinh nguyên,
Có một chút màu đen
bóng tối,
Có một chút màu xanh
hy vọng,
Có một chút màu đỏ
tình yêu.
Đan quyện lấy nhau.
Pha trộn vào nhau.
Để cho ra màu tím.
Màu Tím Mùa Vọng.
Màu của đợi chờ.
Lạy Chúa,
Cho con cúi xuống,
chẳng dám nhìn lên,
Dòng lệ ăn năn khóc
đời lầm lỡ.
Cho con ngước lên,
dòng lệ òa vỡ,
Trông chờ Chúa thương
cứu chuộc đời con. Amen.
(Suy niệm của Lm.
Giuse Lê Quan Trung)
Thiên tai, địch họa,
bão lũ, cuồng phong trong thời gian gần đây đã gieo bao tai ương! Đã gây bao đổ
vỡ! Đã cướp bao sinh mạng! Đã vùi bao mái ấm! Tại trời? Tại đất? Tại đời?
Cuộc sống ngày càng
mang tới nhiều nơm nớp lo âu: bạo hành từ gia đình! Bạo lực nơi học đường! Bạo
ngược trong cuộc sống! Bạo thiên nghịch địa mất hết nghĩa nhân! Tại Trời? Tại
đất? Tại đời?
Đạo đức ngày càng thêm
tuột dốc! Nhân cách ngày càng lúc nhạt phai! Lọc lừa ngày một thêm táo tợn!
Tình đời ngày tráo trở liên hồi! Nào phải tại trời! Đâu phải tại đất! Cũng
chẳng tại đời! Mà tại lòng người không thích lắng nghe lời hay, không muốn đi
vào đường thiện, không cùng hòa nhịp yêu thương!
Tất cả những điều bất
hạnh ấy đã được vị Mục Tử nhân lành Giêsu cảnh báo từ ngàn xưa: “Hãy tỉnh
thức!”(Lc 21,36); “ Sẽ có những điềm lạ trên trời, mặt trăng và các vì sao.
Dưới đất, muôn dân sẻ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”(Lc
21,25).
“Hãy tỉnh thức”: - để
sống cho ra sống, sống có mục đích, có lý tưởng, cố gắng hoàn thiện đời mình!
“Hãy tỉnh thức”: - để
tỉnh táo phân biệt chính- tà; tội- phước; cố gắng thoát kiếp “con”để sống đẹp
kiếp “người”!
“Hãy tỉnh thức”: - để
làm vui lòng cha, để làm mát dạ mẹ, để gia đình luôn là bến đậu vững chắc trước
bão đời đang vùi dập tình thân huyết thống; đang phá tan đạo Hiếu gia phong;
đang hủy hoại nếp đời nếp đạo.
Lũ lụt miền trung
Bởi từ lòng tham không
đáy, mà chính mình đã gây họa cho nhau: rừng không còn bóng râm ươm mát, giữ
nước chặn nguồn, nên lũ trôi nước cuốn là lẽ đương nhiên! Những dãy núi xanh
thẫm bị khai thác vô tội vạ, còn biết lấy đâu ra bức bình phong ngăn cơn thịnh
nộ của cuồng phong, nên đồi sạt đá lở nào phải tại trời? Nếu đủ tỉnh thức, bao
dòng sông đã không ô nhiễm! Bao khí trời đâu mất tinh khôi! Bao kiếp người đâu
vương nhiều mầm bệnh!
Do từ lòng tham không
đáy, mà chính mình đã giết chết đời nhau: bao cô gái chàng trai, bỗng trở thành
món hàng bị bán buôn, trao đổi, bị xóa đi nhân phẩm một thời! Danh- Lợi- Thú đã
giết chết đường tương lai rạng rỡ. Đam mê, dục vọng, bạc tiền, quyền lực đã dìm
chết bao lứa tuổi mộng mơ!
Rồi cũng từ lòng tham
không đáy, nơi được gọi là rèn đúc nền tảng đạo đức làm người, đã đâm thủng cái
tâm của bao nhà giáo chân chính: loạn học đường cũng do thiếu Tỉnh Thức từ đầu.
Nỗi đau này ai gánh, ai mang?
Mùa Đông se lạnh đang
về. Mùa Vọng chờ mong một cuộc hoán chuyển lòng người đã tới. Có mấy ai muốn
nghe lời nhắn nhủ đầy yêu thương của Đấng muốn ban mầm sống vĩnh cửu cho mình:
“Hãy tỉnh thức đi con! Hãy quay về đi con! Hãy can đảm đi đến tận cùng của sự
lột xác, để đời không còn bị trói buộc trong ganh tỵ, trong thù hận, trong ghen
tương, trong tính toán tom góp vật chất mà quên rằng: cuộc sống này rồi cũng
qua đi nhưng điểm dừng đâu chỉ là cái chết! Nếu nghĩ vậy, con chỉ mới đi hết
phần “con” chứ đâu đã hưởng trọn vẹn phần “người”!
Nếu sống phút giây
hiện tại như giây phút cuối đời mình: Chắc không mấy ai mãi mê chạy theo danh
vọng!
Nếu sáng thức dậy mà
biết hoàng hôn chưa xuống thì cuộc đời mình sẽ không thấy ngày mai: chắc chẳng
mấy ai đắm chìm trong biển vàng rừng bạc!
Nếu sống mà tỉnh thức
như thế, tận thế hay không cũng chẳng còn là nỗi âu lo! Cuộc sống mỗi ngày sẽ
trở nên niềm vui hạnh phúc! Nỗi lo lắng cơm- áo- gạo- tiền không còn là gánh
trĩu nặng trên vai!
Chúa không cảnh báo,
răn đe, mà Chúa đang khuyên nhủ, đang mời gọi, đang mở đường để ta không phải
lệch đường, sai lối trên con đường lữ hành hoàn thiện kiếp người! Âm vang đầy
yêu thương ấy; lời mời gọi đầy ân tình ấy; có phút nào ta mở rộng tim mình để
cảm nhận, để đáp trả, để Chúa có thể vào trú ngụ không đây?
15. Một ánh
sáng trong đêm tối
(Suy niệm của Bernard
Lafrenière – BTGH chuyển ngữ)
Trong hành trình, ban
đêm, trên một con đường xa lạ, chúng ta chỉ cần nhìn thấy một ánh sáng hoặc một
ngôi nhà để cảm thấy được an tâm. Như vậy, khi chúng ta vượt qua những giai
đoạn khó khăn, chúng ta tìm một ánh sáng trong đêm tối. Trong ba bài đọc hôm
nay, nói về giấc ngủ, đêm tối và ánh sáng.
“Hãy đến – lời tiên
tri Isaia nói với chúng ta – hãy bước đi trong ánh sáng của Đức Chúa”. Thánh
Phaolô viết: “Giờ đã đến để ra khỏi giấc ngủ... Đêm sắp tàn,ngày đang đến
gần…”. Chúa Giêsu nói thêm: “Hãy sẵn sàng: Chính vào giờ các con không ngờ, Con
Người sẽ đến…”. Và như để nhấn mạnh tầm quan trọng của thông điệp nầy, Chúa
Giêsu đưa ra ba ví dụ, trong đó những người không nghi ngờ gì hết trong khi một
biến cố hệ trọng xảy ra.
Trong trình thuật của
sách Sáng Thế Ký, một tình huống khác thường sắp sửa đảo lộn nhân loại,nhưng
không ai mảy may nghi ngờ, trừ một người tên là Noé. Xung quanh Ông, người cưới
hỏi, ăn uống như thể không gì có thể xảy ra. Chỉ có Ông Noé là làm cho mình một
con tàu ngay giữa nông thôn. Vả lại, Ông đã rất già yếu và người ta thích chí
ngắm ông làm. Chúa Giêsu nói thêm: “Người ta không nghi ngờ gì hết, cho tới khi
nạn hồng thủy ập tới chôn vùi tất cả bọn họ: đó cũng sẽ là ngày Con Người đến.
Hai người đàn ông sẽ ở
ngoài đồng, làm công việc rất bình thường, giữa thiên nhiên: “một người được
đem đi, người kia bị bỏ lại”. Hai người phụ nữ sẽ ở cối xay bột. Người ta vẫn
còn tìm thấy những chiếc cối nhỏ Phương Đông được làm với hai hòn đá đặt chồng
lên nhau và một hòn có một tay nắm, mà hai phụ nữ ngồi chuyển cho nhau để làm
cho viên đá nầy quay. Đây là một công việc rất đơn giản. Cả ở đó nữa, – Chúa
Giêsu nói – “một người được đem đi, một người bị bỏ lại”.
Nhưng biến cố nào sẽ
chợt xảy đến với chúng ta? Tại sao lại phải thức dậy khi đang ngủ và để cho
mình được dẫn đi theo ánh sáng? Muốn hiểu nó, chỉ cần nhìn những người sống
xung quanh ta và tự hỏi: “Điều gì làm họ chăm chú vậy?”
Nhiều người an toạ tốt
bao nhiêu hay bấy nhiêu trong thế gian chóng qua nầy. Đã hẳn tiện nghi cung cấp
cho chúng ta một sự thoải mái nhất định. Nhưng cuộc sống qua đi và không có gì
mỏng manh như là những lời hứa của thế gian nầy. Phải thức dậy: Đức Chúa đang
đến! Chúng ta phải chỉnh tề khi Nước Thiên Chúa sắp đến!
16. Sống tỉnh
thức và sẵn sàng
(Suy niệm của Lm Giuse
Nguyễn Văn Nghĩa)
Một năm Phụng Vụ lại
đến. Thời gian cứ thế trôi đều theo nhịp dường như chẳng có gì mới dưới trần
gian này. Đông qua, xuân đến, hạ đi, thu lại về. Hết mùa thường niên, đoàn tín
hữu Kitô bước vào mùa Vọng, mùa Giáng Sinh. Tuy nhiên vẫn có đó cái gì mới lạ khi
ta bước vào một điểm mốc của thời gian, cho dù đó chỉ là sản phẩm có tính quy
ước của con người. Bắt đầu một chu kỳ mới, được gọi là năm dựa trên vòng xoay
của vũ trụ nói chung, của thái dương hệ mặt trời và trái đất chúng ta nói riêng
hay khởi đầu một chu kỳ lịch sử ơn cứu độ theo niên lịch Phụng vụ Kitô giáo,
hẳn nhiên vẫn tiềm tàng một khao khát, ước mơ, hy vọng nào đó. Chắc chắn đó là
những hy vọng, mơ ước về nhiều điều tốt đẹp, có thể là hợp lý, phải đạo, cũng
có thể là không và không thể loại trừ những ước vọng cao cả.
Bước vào một chu kỳ
mới của niên lịch Phụng vụ, Hội Thánh mẹ, trong năm Phụng vụ năm A này có vẻ
hơi lạ thường khi mời gọi chúng ta hướng cái nhìn đến ngày chung cục của thế
giới, của đời người chúng ta. Bài tin mừng theo thánh Matthêu tường thuật những
lời cảnh báo của Chúa Giêsu về tính bất ngờ, đột ngột của cái ngày chung cục
ấy. Đồng thời Người kêu gọi các khán thính giả lúc bấy giờ cũng như chúng ta
hôm nay rằng hãy tỉnh thức và sẵn sàng. Quy luật tự nhiên giúp ta thêm xác tín
rằng sự gì khi đã có khởi đầu thì hẳn có lúc kết thúc.
Vòng đời “thành, trụ,
hoại, không” của nhiều vật, nhiều loài hữu hình trước mắt chúng ta là một dấu
chứng cho sự kết thúc của vạn vật nói chung và của đời người chúng ta nói
riêng. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh là tính bất ngờ. Hình ảnh cơn
lụt đại hồng thủy thời Noe hay hình ảnh hai người đàn ông đang làm ruộng, hai
người đàn bà đang xay bột, thì một người bị đem đi, một người bị để lại, tất
thảy đều muốn mô tả sự bất ngờ. Khi nói đến sự bất ngờ người ta thường nói đến
hệ quả của nó là sự mất mát, sự thiệt hại hơn là sự may mắn hay là được lợi,
cho dù thỉnh thoảng nhiều sự may mắn có xảy đến cách bất ngờ như chuyện trúng
số độc đắc. Để tránh những hệ quả xấu, di hại cho hạnh phúc chúng ta đời này,
nhất là cho hạnh phúc vĩnh cửu mai sau, Chúa Giêsu lặp đi lặp lại là hãy tỉnh
thức và sẵn sàng. Vậy thế nào là thái độ biết sẵn sàng và tỉnh thức? Hội Thánh,
qua bài đọc thứ nhất trích Sách Tiên tri Isaia và bài đọc thứ hai trích thư
Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Roma, muốn trình bày hai phương thế sống tỉnh
thức sẵn sàng, xét theo phương diện tiêu cực và tích cực.
1. Sống tỉnh thức sẵn
sàng theo phương diện tiêu cực: Hãy loại bỏ những việc
làm đen tối. Hãy dứt khoát với việc chè chén say sưa, chơi bời dâm đãng, cãi cọ
ghen tương. Không chìu theo tính tự nhiên mà thỏa mãn các dục vọng bất chính,
đê hèn. Những hành vi bất chính, những thái độ bất xứng, những việc làm ám muội
thường là những thái độ, hành vi, việc làm mà ta ít dám thể hiện công khai và thường
không muốn cho ai hay, ai biết, ngoại trừ người đồng lõa, người tòng phạm.
Để sống tỉnh thức sẵn
sàng theo nghĩa này thì xin hãy nhớ rằng không có sự gì mà sẽ không bị tỏ lộ.
Chúng ta có thể che giấu một người nhiều lần. Chúng ta cũng có thể che giấu
nhiều người một vài lần. Nhưng chúng ta khó mà che giấu mọi người nhiều lần.
Nhất là chúng ta không thể nào che giấu được Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi bí
ẩn tâm can con người, từn người và mọi người (x.Tv 139)
Để sống sẵn sàng tỉnh
thức theo ý hướng này không gì hơn hãy minh bạch hóa các việc làm của ta. Một
người không ngần ngại công khai hóa các lời nói, tâm tư và hành động của mình
thì sẽ tránh được nhiều sai sót, lỗi lầm. Và nếu có lỡ lầm hay sai sót thì cũng
sẽ dễ có cơ hội khắc phục, sữa sai nhờ tha nhân góp ý, nhận định, phê bình.
2. Sống tỉnh thức sẵn
sàng theo phương diện tích cực: Lấy gươm đao rèn thành
cuốc thành cày; lấy giáo mác đúc thành liềm, lưỡi hái. Một động thái tích cực
thật tuyệt vời. Đó là quay ngược 180 độ các xu hướng xấu xa, các việc làm ám
muội, các hành vi gian ác. Một ngày kia, người ta hỏi văn hào Bernard Shaw, một
văn hào rất thông minh và dí dỏm trong lối ứng xử: Nhờ đâu, và bằng cách nào
ngài có được những câu ứng xử vừa thông minh vừa dí dỏm như thế? Có gì đâu. Tôi
cứ tưởng tượng ra một câu nói thật ngu ngốc và nhạt nhẽo, rồi tôi tìm cách nói
ngược lại.
Ai trong chúng ta lại
không có những điểm yếu, những nghiêng chiều bất chính, những thói quen không
tốt, chẳng hay, nếu chưa muốn nói là xấu xa? Ai trong chúng ta lại không có
những tội lỗi mà nếu công khai ra thì thật ngượng ngùng? Ai trong chúng ta lại
không có nhũng lầm lỗi hay tái phạm nhiều lần, khó chữa, khó chừa? Cứ vạch rõ
chúng ra rồi hãy làm điều ngược lại. Giả như tôi có tật xấu hay bủn xỉn, keo
kiệt về tiền bạc thì ước gì tôi tích cực tập chia sẻ cho tha nhân cách cụ thể
bằng những đồng tiền rút từ hầu bao của tôi.
Kinh “Cải tội bảy mối,
có bảy đức” chúng ta dường như thuộc nằm lòng. Kinh ấy có ra không phải là để
chỉ đọc trong các ngày Chúa Nhật và Lễ trọng mà là để chúng ta sống. Có thể nói
một cách chắc chắn rằng những ai sống nội dung kinh “Cải tội bảy mối…” là đang
thật sự tỉnh thức và sẵn sàng.
Người đang sẵn sàng và
tỉnh thức thì không có gì là đột ngột hay bất ngờ mà là luôn trong tư thế chuẩn
bị và đón chờ. Người biết đón chờ trong tư thế chuẩn bị thì hẳn sẽ gặp nhiều
may lành khi giờ Chúa đến. Nói đến giờ Chúa gọi thì có thể có người cho là còn
xa. Nhưng chắc chắn người biết chuẩn bị và đón chờ thì sẽ gặt hái nhiều kết quả
tốt đẹp trong dịp kỷ niệm Chúa Kitô đến thế gian lần thứ nhất là Đại Lễ mừng
Chúa Giáng Sinh.
17. Chúa sẽ đến cho
con người hạnh phúc.
(Suy niệm của Lm Jos
Phạm Thanh Liêm)
Mùa vọng là thời gian
chờ mong Chúa đến. Kitô hữu không còn chờ Chúa sinh lại trong máng cỏ hang lừa,
nhưng chờ mong Chúa đến trong vinh quang để giải phóng trọn vẹn con người, cho
con người được sống vĩnh cửu với Thiên Chúa.
1) Không có hạnh phúc
trọn vẹn nơi cuộc đời chóng qua này
Thế gian này không
phải là nơi ngập tràn hạnh phúc. Nghèo đói, bệnh tật, làm cho con người đau
khổ. Không phải những người nghèo, vì bản thân bị đói nên họ cảm thấy khổ. Cái
nghèo của bản thân, còn kéo theo những hậu quả xảy đến cho những người thân như
con cái, cha mẹ, anh em. Cái nghèo khổ thể xác, đôi khi kéo theo cái nghèo khổ
về tinh thần.
Những thất bại trên
đường đời, thất bại trên đường tình (yêu mà không được đáp trả), thất bại về
công danh sự nghiệp, cũng làm con người chán nản và đôi khi không muốn sống.
Đời người tuy có những lúc hạnh phúc nhưng cũng nhiều vất vả, gian nan và đau
khổ.
Cái chết, làm người ta
phải xa lìa những người thân yêu, và nó cũng là một điều làm con người đau khổ.
Có ai muốn xa người mình thương yêu, có ai an lòng khi phải xa những người thân
yêu của mình, mà mình biết nếu thiếu vắng mình người đó sẽ bị đe doạ hay nguy
hiểm. Cái chết làm người ta phải xa lìa những người thân yêu mà không ai cản
được.
Những áp bức bất công
thường xảy đến với con người. Những bất công xã hội và chiến tranh chết chóc
vẫn đang tiếp diễn. Tất cả những điều này làm con người đau khổ. Ai giúp con
người thoát cảnh súng đạn chết chóc và sống trong an bình? Ai giúp mang lại
công bằng cho những người này? Ai có thể mang lại hạnh phúc bền vững cho con người?
2) Ơn cứu độ nơi Thiên
Chúa
Cái chết làm con người
khổ, vì thế con người mong có thuốc trường sinh bất tử. Con người ngày nay như
muốn tìm trường sinh bất tử nơi “cloning”, nhưng “cloning” lại làm nảy sinh bao
nhiêu điều đáng lo sợ. Trong cuộc sống có nhiều người “tàng tàng” đã sát hại
bao người khác. Con người mới chỉ “cloning” được thân xác, nhưng đâu “cloning”
được tinh thần. Con người được “cloning” này với bao yếu tố tâm lý ảnh hưởng,
có chắc gì những người đó là những người bình thường, biết đâu những người đó
có thể là mối đe dọa cho xã hội con người. Liều thuốc trường sinh còn xa vời
với con người hôm nay. Hơn nữa, ngay cả người được sống hoài, có thể sau một
thời gian sống lâu, cũng cảm thấy chán và muốn chết. Câu chuyện tưởng tượng một
người được thuốc trường sinh bất tử nên sống hoài khi những người thân cùng thế
hệ chết, rồi con cháu của người đó cũng chết; rồi cứ thế mãi cho đến một ngày
người đó cảm thấy cô độc, và rồi cảm thấy sống hoài lại là nỗi khổ. Sau cùng,
người đó lại ao ước được chết như tất cả mọi người. Phải chăng con người chỉ
muốn sống, khi cuộc sống hạnh phúc? Phải chăng hạnh phúc không chỉ hoàn toàn
nằm trong tầm tay con người? Ai có thể cứu độ con người? Ai có thể đong đầy ao
ước hạnh phúc của con người?
Con người chỉ tìm thấy
nơi Thiên Chúa niềm hy vọng giải phóng trọn vẹn con người, làm con người hạnh
phúc vĩnh cửu. Bài đọc I cho thấy ao ước của người xưa về thời cánh chung, thời
đó người ta không còn chém giết đánh nhau nữa. Sở dĩ vậy vì người ta tin vào
Thiên Chúa, người ta sống theo ánh sáng của Thiên Chúa. Cũng với tinh thần này
các tín hữu mong chờ ngày Chúa trở lại trong vinh quang, để giải phóng trọn vẹn
con người.
Ngày Chúa tới trong
vinh quang, là ngày Ngài tới để cứu độ con người, ngày Ngài giải phóng con
người trọn vẹn, cả về tinh thần lẫn thân xác. Ngày đó con người sẽ sống lại, và
người lành được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngày đó, sách Khải
Huyền diễn tả, có trời mới đất mới. Sẽ không còn chết chóc, không còn khóc lóc
nữa. Con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn và vĩnh cửu.
3) Sống trọn vẹn đời
này
Bài đọc II thánh
Phaolô khuyên bảo tín hữu vì không biết khi nào mình chết, nên hãy từ bỏ những
công việc đen tối, đừng chiều theo những đòi hỏi của xác thịt. Tuy dù đời này
chỉ là “đời tạm” nhưng con người được mời gọi để sống trọn vẹn thời gian của
cuộc đời này một cách tuyệt vời.
Trở về với Thiên Chúa
là Cha và cùng đích của mình. Tâm niệm và xác tín Thiên Chúa yêu thương mình.
Phó thác đời mình cho Thiên Chúa. Cố gắng hoàn thiện và sống hạnh phúc trong
từng giây phút của đời mình. Chấp nhận những gì xảy ra sau khi đã cố gắng hết
sức để làm theo điều mình thấy tốt nhất. Tha thứ những gì người khác xúc phạm
đến mình ngay cả khi họ không nhận lỗi. Cố gắng làm cho đời này tươi đẹp hơn,
làm cho người khác vui hơn và hạnh phúc hơn, bằng cách yêu thương và tươi cười
với họ, giúp đỡ họ khi họ cần.
Thánh Thần của Đức
Yêsu đang ở với con người. Chính Thánh Thần sẽ giúp con người sống trọn vẹn
từng ngày khi mong chờ ngày Đức Yêsu trở lại trong vinh quang.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Thật lòng mà nói,
bạn có mong ước Chúa đến không? Tại sao?
2. Ngày Chúa đến trong
vinh quang, con người được gì?
3. Bạn cần làm gì
trong thời gian chờ mong Ngài đến? Điều bạn nói, có thể thực hiện được không?
18. Chờ đợi
trong hy vọng – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Mỗi người trong chúng
ta đã có lần chờ đợi. Chúng ta chờ đợi một biến cố quan trọng trong đời; chờ
đợi người đi xa trở về; chờ đợi một tin vui của người thân. Cuộc chờ đợi nào
cũng làm chúng ta hồi hộp lo lắng xen lẫn với khấp khởi mừng vui. Trong khi chờ
đợi, thời gian dường như trôi đi rất chậm, rất dài.
Mùa phụng vụ đầu tiên
trong năm mới có tên là Mùa Vọng hay Mùa Đợi. Chúng ta chờ đợi Chúa đến. Đức
Giêsu đã đến hai ngàn năm nay trong lịch sử, nhưng đối với mỗi cá nhân sống
trên cõi đời này, thì Người vẫn đang đến. Và thế là, mỗi ngày sống của chúng ta
trên trần gian là một ngày chờ đợi để gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ này mang màu sắc
lạc quan hay bi quan tùy thuộc vào thái độ sống của mỗi người. Đối với ai thành
tâm kiếm tìm Chúa thì cuộc gặp gỡ ấy là niềm vui và hạnh phúc. Đối với ai chỉ
coi giá trị vật chất đời này là đích điểm, thì cuộc gặp gỡ ấy là sự kết án đau
thương.
Để chuẩn bị cho cuộc
gặp gỡ yêu thương giữa Thiên Chúa với con người, Phụng vụ Mùa Vọng mở đầu bằng
lời kêu gọi chúng ta hãy tỉnh thức. Chúa Giêsu trích dẫn sự kiện trong lịch sử
Thánh Kinh mà người Do Thái nào cũng biết, đó là biến cố Đại Hồng thủy. Khi ông
Nôê đóng tàu thì có nhiều người chê cười ông. Nhưng khi nước dâng lên thì họ bị
nước cuốn trôi. Chúa kêu gọi mọi người hãy học bài học lịch sử đó như một kinh
nghiệm sống, để luôn chuẩn bị sẵn sàng, vì không biết giờ nào và ngày nào sẽ là
lúc tận cùng của cuộc sống cá nhân chúng ta. Lúc tận cùng ấy huyền nhiệm và khó
hiểu, được diễn tả như việc có hai người đang làm ruộng, hay hai người đang xay
bột, một người được để lại và người kia được đem đi. Hay cũng bất ngờ như người
chủ đi xa trở về bất chợt, vào lúc những người giúp việc không ngờ.
Tỉnh thức để đón Chúa,
người tín hữu cũng được kêu mời tỉnh thức đối với anh chị em mình. Ngày nay
người ta nói nhiều đến chứng bệnh vô cảm. Con người trở nên dửng dưng lạnh lùng
trước những nhu cầu và nỗi đau của người thân hoặc những người xung quanh. Con
đường dẫn ta đến gặp Chúa là con đường được nối kết bằng những việc bác ái ta
làm đối với anh chị em mình. Bởi lẽ chúng ta không chỉ đi một mình đơn lẻ để
gặp gỡ Chúa, mà ta đi với anh chị em, trong tình mến thân thiện của những người
có cùng một Cha trên trời là Thiên Chúa tối cao. Không thể sống tinh thần Mùa
Vọng mà lại dửng dưng hay thù ghét anh chị em của mình. Khi Chúa đến gặp ta,
Người sẽ xét xử về cách sống của ta đối với những người xung quanh, nhất là
những người nghèo khổ và bất hạnh. Như vậy, “tỉnh thức” có nghĩa là quan tâm
đến người khác và ân cần giúp đỡ họ.
Lời Chúa trong ngày mở
đầu Năm Phụng vụ mang sắc thái của một lời hiệu triệu, kêu gọi mọi tín hữu hãy
lên đường tiến về Giêrusalem để đón Chúa. Những hình ảnh được diễn tả trong Bài
đọc I cho thấy Giêrusalem là trung tâm điểm của thế giới. Mọi nơi đều hướng về
trong niềm vui mừng hân hoan. Đây là sự khai mở một triều đại mới của lịch sử.
Chúa đến để chúc phúc cho dân người. Nếu chúng ta lắng nghe lời hiệu triệu này
mà đón Chúa, thì cuộc sống của chúng ta sẽ an bình tốt đẹp và nở hoa. Có Chúa
hiện diện, sẽ không còn chiến tranh. Con người sẽ “đúc gươm đao thành cuốc
thành cày; rèn giáo mác nên liềm nên hái”. Một xã hội thanh bình sẽ được thiết
lập nếu ta biết mở rộng tâm hồn để đón Chúa và thực thi giáo huấn của Người.
Hãy thức dạy những ai
ngủ mê! Hãy ra khỏi bóng tối của ích kỷ hận thù, để bước vào ánh sáng huyền nhiệm
của bác ái thứ tha. Sống theo ánh sáng, đó là một điều kiện không thể thiếu đối
với những ai muốn đi theo và làm môn đệ của Đức Giêsu.
Cuộc đời này là sự chờ
đợi liên lỉ. Chờ đợi Chúa không giống như tìm kiếm sự may rủi hay một cơ hội có
thể đến mà cũng có thể không. Chúng ta chờ đợi Chúa trong sự xác tín vào quyền
năng của Ngài, và chắc chắn Người sẽ đến. Cuộc đời này được sánh ví như một con
đường. Mỗi người chúng ta đang đi trên con đường đó. Ở cuối của con đường này,
Chúa đang chờ đợi chúng ta, vì thế mà sự đợi của chúng ta là chờ đợi trong hy
vọng. Chúng ta cũng tin chắc Chúa là Đấng yêu thương, luôn dành những điều bất
ngờ cho những ai giữ một lòng trung tín và cậy trông nơi Người.
19. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
SẴN SÀNG ĐÓN CHÚA
Hôm nay cung thánh
đượm vẻ u buồn. Bàn thờ đạm bạc không hương hoa. Lễ phục mang màu tím. Màu tím
của lặng lẽ hy sinh. Màu tím của âm thầm cầu nguyện. Màu tím của tha thiết đợi
chờ. Màu tím ấy nhắc cho ta biết: hôm nay ta đã bước vào mùa Vọng.
Mùa Vọng là mùa đợi chờ. Đợi chờ Chúa đến cứu
độ ta. Cuộc đời ta quá nhiều đau khổ, quá nhiều tội lỗi, quá nhiều bế tắc. Chỉ
có Chúa mới có thể thay đổi đời ta, giải thoát ta khỏi ách nô lệ tội lỗi, đưa
ta vào tình trạng thánh thiện của con cái Chúa.
Như thế mùa Vọng cũng
là mùa hy vọng. Đợi chờ chính là hy vọng. Như thế trong màu tím buồn chờ đợi
đã thấy thấp thoáng màu xanh hy vọng vui tươi. Nhưng làm sao để màu tím biến
thành màu xanh? Làm sao nắm bắt được niềm hy vọng? Làm sao gặp được Chúa khi
Người ngự đến? Lời Chúa sẽ hướng dẫn ta sống tinh thần mùa Vọng này.
Trong tuần thứ nhất
mùa Vọng, Chúa Giêsu khuyên ta noi gương tổ phụ No-e. Tổ phụ No-e đã được cứu
thoát khỏi nạn hồng thủy nhờ thái độ sống tích cực trước lời hứa của Chúa. Thái
độ tích cực đó gồm hai điểm hỗ tương.
1) Chiếu ánh sáng hy
vọng tương lai vào cuộc đời tối tăm hiện tại
Người ta sống nhờ hy
vọng. Không có hy vọng, không ai sống nổi ở đời. Cuộc đời phù du mau qua. Cuộc
đời tràn ngập đau khổ. Cuộc đời quá nhiều thử thách. Nhờ hy vọng con người mới
có thể tiếp tục sống, làm việc, thăng tiến.
Chính vì hy vọng một
mùa gặt bội thu mà người nông dân không ngại dầm sương dãi nắng, thức khuya dậy
sớm, cần cù cày bừa, gieo vãi và vun tưới.
Chính vì hy vọng đậu
đạt mà học sinh, sinh viên không ngại vất vả, ăn uống đơn sơ, giảm bớt vui
chơi, đêm đêm chong đèn đọc sách.
Chính niềm hy vọng
được cứu thoát đã giúp tổ phụ No-e có đủ can đảm và kiên nhẫn, đầu tư thời giờ
và công sức để đóng một con tàu lớn như thế. Niềm hy vọng được nuôi dưỡng bằng
lời hứa của Chúa. Tin tưởng vững vàng vào Lời Chúa, tổ phụ No-e sống tràn đầy
niềm hy vọng vào tương lai. Niềm hy vọng đó giúp Ngài vượt qua những khó khăn
hiện tại.
2) Sống tích cực giây
phút hiện tại để chuẩn bị cho tương lai.
Niềm hy vọng vào tương
lai giúp ta thêm can đảm. Nhưng nó không cho phép ta thoát khỏi cuộc sống hiện
tại. Niềm hy vọng tách rời khỏi thực tế sẽ trở thành ảo vọng. Vì thế muốn đạt
tới niềm hy vọng tương lai, ta phải tích cực sống phút giây hiện tại. Phải tích
cực làm việc cho tương lai.
Người học trò muốn có
tương lai tươi sáng không thể chỉ ngồi đó chờ đợi, nhưng phải ngày đêm chăm lo
học hành.
Người nông phu muốn có
mùa gặt bội thu không thể khoán trắng công việc đồng áng cho trời đất. Nhưng
phải cần cù chăm chỉ dầm mưa dãi nắng.
Tổ phụ No-e không ngồi
khoanh tay chờ Chúa đến cứu, nhưng đã bắt tay vào việc. Ngài làm việc cật lực,
bất chấp những lời dèm pha, dị nghị của những người chung quanh.
Tục ngữ Pháp có câu:
Hãy tự giúp mình, rồi Trời sẽ giúp. Tổ phụ No-e đã thực hiện đúng như thế. Ngài
đã dồn hết công sức vào việc chuẩn bị tương lai. Và Chúa đã cứu Ngài như lời đã
hứa.
Đời sống ta là một mùa
Vọng kéo dài. Mùa Vọng trần gian muốn phủ ta trong màu tím buồn của những gian
nan thử thách, những thất bại, những chán nản, lo âu, nghi ngờ, mệt mỏi. Ta hãy
noi gương tổ phụ No-e, tin tưởng vững chắc vào lời Chúa hứa. Lời Chúa sẽ chiếu
ánh sáng hy vọng tương lai vào những tăm tối u buồn hiện tại. Như tổ phụ No-e,
ta không ngồi khoanh tay chờ đợi, nhưng tích cực làm việc bổn phận trong hiện
tại. Làm mọi việc thường ngày với lòng tin tưởng vững chắc. Làm những việc nhỏ
mọn với tình mến Chúa yêu người tha thiết. Đó chính là cách ta sẵn sàng chờ đón
Chúa đến. Đó chính là ta tỉnh thức không bị lỡ cơ hội khi Chúa đến.
Lạy Chúa Giêsu, xin
hãy đến. Amen.
GỢI Ý SUY NIỆM
1) Có nhiều người chỉ
quan tâm tới đời sau mà không chịu làm việc hiện tại. Có nhiều người lại chỉ lo
làm ăn sinh sống mà không nghĩ đến đời sau. Bạn nghĩ sao về hai thái độ đó?
2) Ta phải sống thế
nào để chu toàn nhiệm vụ hiện tại với bản thân, với gia đình mà không quên
Chúa, không quên phần linh hồn của mình?
3) Tuần này, bạn sẽ
làm gì để chuẩn bị đón Chúa đến?
20. Bất ngờ và
thức tỉnh - ĐGM. Giuse Trần Văn Toản
Giáo Hội bắt đầu năm
phụng vụ với mùa vọng. Đây là mùa đón chờ Chúa đến. Trong bài Phúc Âm của Chúa
Nhật I Mùa Vọng năm A, Mt 24, 37-44, Chúa Giêsu cảnh báo: “Các con hãy sẵn
sàng, vì lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Đây là tính bất ngờ
của việc Chúa đến, và vì bất ngờ, nên phải luôn tỉnh thức.
Tính bất ngờ của việc
Chúa đến: Trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu trưng dẫn sự kiện xảy ra thời ông
Noe: “Thời ông Noe thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như
vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy
chồng, mãi cho đến ngày ông Noe vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn
hồng thủy ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy” (c.37-39). Trong lịch
sử thánh, Chúa đã bất ngờ giáng sinh trong máng cỏ như một hài nhi của một gia
đình di dân không tìm được quán trọ tại Belem (Mt 2,7). Tính bất ngờ của việc
Chúa đến vẫn còn xảy ra trong hiện tại cho đến ngày cánh chung. Vì, một trong
những cách mà Chúa ưu tiên chọn lựa để đến với ta hàng ngày là Chúa đến qua
những người đói khát, người khách lạ, trần truồng, đau yếu, tù đày (Mt
25,31-46).
Vì bất ngờ nên phải
thức tỉnh: Chúa Giêsu so sánh với thái độ thức tỉnh canh chừng kẻ trộm của
người chủ nhà: “Anh em hãy biết điều này, nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm
sẽ đến, hẳn ông phải canh thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên
anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì
Con Người sẽ đến” (c.43-44). Trong biến cố Chúa đến lần thứ I tại Belem, chỉ một
nhóm nhỏ thức tỉnh và đã gặp Chúa. Đó là Mẹ Maria và Thánh Giuse, ông Giacaria
và bà Isave, các mục đồng và các nhà đạo sĩ, ông Simeon và bà Anna. Để đợi chờ
Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang, sách Khải Huyền dạy ta phải thức tỉnh
mới lắng nghe được tiếng Chúa gõ cửa đời ta: “Hãy nhiệt thành và
hối cải ăn năn. Này đây, Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa
với Ta” (Kh 3, 19-20).
Thức tỉnh là sống tốt
giây phút hiện tại: Quá khứ là những gì đã
qua, tương lai là những gì chưa tới, và ta chỉ có hiện tại để sống. Chính vì
thế, ta cần ý thức rằng: thường thì ta không thể thay đổi quá khứ, nhưng có thể
phá hủy hiện tại bằng cách quá tiếc nuối quá khứ, và quá lo lắng cho tương lai.
Thức tỉnh sống hiện tại là phải sống mỗi ngày như là ngày cuối cùng của đời ta.
Vì là ngày cuối cùng, nên phải “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi sự” (2Cr 5,9). Và lời
khuyên của Thánh Phaolô luôn là cần thiết và hữu ích: “Thưa anh em, chúng ta
đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy tỉnh thức và sống tiết độ (1Tx 5, 4-6)… Hãy từ bỏ những hành
vi ám muội… không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp
ghanh tị… chớ lo lắng và thỏa mãn những dục vọng xác thịt” (Rm 13,11-14).
Thức tỉnh cần thinh
lặng trở lại với lòng mình để thiết lập tương quan với Thiên Chúa:Thường xuyên trở lại
với lòng mình trong thinh lặng nội tâm, tâm hồn ta được coi như mảnh vườn
thiêng liêng, trong đó, Chúa Thánh Thần như “Bác Làm Vườn” thường xuyên chăm
sóc và chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Trong cuộc
gặp gỡ này, Chúa thức tỉnh hồn ta về khát vọng Thiên Chúa của ta vì ta được tạo dựng giống
hình ảnh Thiên Chúa. Từ khát vọng này, đi đến ý thức rằng không phải ta khát vọng
Thiên Chúa trước, mà thực ra, chính Thiên Chúa khát vọng ta, và vì thế Ngài
luôn đến tìm ta, chờ đợi ta, và vui thích ở với ta. “Mỗi buổi chiều, trong
gió hiu hiu, Thiên Chúa đến địa đàng đi dạo và đàm đạo với Adam và Eva (x. Kn 3,8). Đây là
lúc ta có thể thốt lên như Thánh Augustinô: “Lạy Chúa, Chúa đã tạo
dựng con cho Chúa, và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi nào con được nghỉ
yên trong Chúa mà thôi”. Khát vọng này tạo nên sự thức tỉnh trong cuộc sống, như hơi thở,
như nhịp đập của con tim, như dòng máu lưu thông trong thân thể…
Thiết lập tương quan
với Chúa để ta cũng thiết lập tương quan với tha nhân: Đó là tương quan của
ta với con người thời đại. Người môn đệ Chúa Kitô, theo gương mẫu của Thầy Chí
Thánh trong mầu nhiệm Nhập Thể, tìm thiết lập các tương quan bằng chia sẻ cuộc
sống với những cảm thông, bao dung, và đồng hành. Hiến chế Vui Mừng và Hy Vọng
của Công đồng Vaticanô II viết: “Vui Mừng và Hy Vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay,
nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu
sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô” (số 1). Hơn nữa, người
Kitô hữu, còn tìm thiết lập các tương quan bằng tinh thần yêu thương và khiêm
tốn phục vụ nhau như Đức Kitô trong mầu nhiệm Nhập Thế: “Nếu Ta là Chúa và là
Thầy mà còn rửa chân cho các con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau”. Nhất là, người môn đệ
của Đức Kitô sống theo lý tưởng của Đức Kitô trong mầu nhiệm Vượt Qua, đã hiến
thân vì anh chị em, “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng là phục vụ và hiến
mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho muôn người”. Trong tương quan với
tha nhân, không những ta gặp được Chúa mà còn bước theo gương mẫu yêu thương,
phục vụ, và tận hiến.
Thiết lập tương quan
với Chúa và với tha nhân, để ta cũng thiết lập tương quan với thiên nhiên trong
tâm tình ngợi khen, tạ ơn và trách nhiệm: Thông điệp “Chăm
sóc ngôi nhà chung –Laudato si” đã dùng bài ca vạn vật
của Thánh Phanxicô để ca tụng Đấng Tạo Thành: “Lạy Thiên Chúa của
con, chúc tụng Chúa qua người chị của chúng con, Mẹ trái đất, là người nuôi
dưỡng và chi phối chúng con, là người sản sinh hoa trái phong phú với biết bao
hoa thơm cỏ lạ” (số 1). Và số 9 viết: “Là Kitô hữu, chúng ta
cũng được mời gọi đón nhận thế giới như một bí tích của sự hiệp thông, một cách
chia sẻ cùng Thiên Chúa và anh chị em đồng loại trên quy mô toàn cầu…”. Chính trong tương
quan với thiên nhiên này, mà ta ý thức ta và thiên nhiên có cùng một nguồn gốc
là Đấng Tạo Thành, để ta tận hưởng thiên nhiên như ân phúc của Thiên Chúa, đồng
thời ta ý thức trách nhiệm cộng tác với Đấng Tạo Thành để chăm sóc thiên nhiên,
hướng về Trời Mới Đất Mới của Nước Thiên Chúa, ngày Chúa Giáng Lâm trong vinh
quang.
Lạy Chúa Giêsu, xin
hãy đến!
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Vào một ngày của tháng
10 năm 1992, một số người Nam Hàn tụ tập ở các nhà thờ để chờ ngày tận thế đến
vào lúc nửa đêm. Có người đã bán nhà và xin nghỉ việc, nhưng dĩ nhiên đó không
phải là ngày tận thế. Kinh Thánh chẳng hề nói tận thế đến vào lúc nào. Đức Giêsu cũng
bảo là Ngài không biết (Mt 24,36). Chính vì thế Kitô hữu không tin những lời
đồn thổi, nhưng kiên tâm chờ đợi trong hy vọng.
Đây không phải là thứ
nơm nớp chờ đợi, khoanh tay, nhưng là thứ chờ đợi bằng cách sống hết mình để
chuẩn bị cho trái đất đón Chúa trở lại.
Mùa Vọng là thời gian
đặc biệt để tập sống chờ đợi. Không phải chỉ là chờ mừng lễ Giáng sinh mà nhất
là chờ đợi Chúa đến kết thúc dòng lịch sử.
Ngày tận thế và ngày
Chúa quang lâm là một. Đó là một ngày đáng sợ, không phải vì những hiện tượng
kinh khủng sẽ xảy ra, nhưng vì là ngày Chúa đến phán xét kẻ sống người chết.
Ngày đó còn là một
ngày hội vui: ngày vui của Chúa Giêsu toàn thắng vinh quang, ngày vui của những
người được cứu chuộc, ngày vui của cả vũ trụ vật chất được giải phóng.
Tận thế là cánh cửa mở
ra trời mới đất mới. Tất cả được đưa vào thế giới vĩnh cửu.
Có lẽ chúng ta hôm nay
mong chờ Chúa đến ít hơn các Kitô hữu thuở ban đầu. Chẳng ai thích nghĩ đến
ngày tận thế. Tận thế bị coi là chuyện tương lai xa vời. Cuộc sống hiện tại có
vô số mối lo âu và hy vọng: ăn uống, cưới vợ, lấy chồng, làm ruộng, xay bột.
Thật ra, nghĩ đến ngày
tận thế cũng cần như nghĩ đến cái chết của mình.
Cái chết dạy người ta
biết cách sống. Ngày tận thế dạy người ta biết cách xây dựng thế giới trên nền
tảng vĩnh cửu, trên những giá trị trường tồn.
Đối với Kitô giáo,
ngày tận thế không phải là ngày buồn, ngày của hủy diệt và tang tóc, nhưng là
ngày của thân xác được sống lại, ngày khai sinh một thế giới mới không bị hận
thù và chết chóc đe dọa.
Ngày tận thế là ngày
Chúa quang lâm. Chúng ta phải sẵn sàng ra đón Ngài. Sẵn sàng là cùng với Chúa
xây dựng một trái đất đầy tình thương và công lý. Sẵn sàng là biến trái đất
thành con đường dẫn tới Thiên đàng.
Ngày Chúa quang lâm là
một ngày bất ngờ, nhưng nó sẽ ít bất ngờ đối với những ai biết sẵn sàng chờ
đợi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, có sự giằng
co giữa đời này và đời sau nơi người Kitô hữu không? Làm sao để mối lo toan về
đời này không làm ta sao nhãng đời sau? Làm sao để mối quan tâm về đời sau lại
thêm sức cho ta chu toàn bổn phận đối với đời này?
Nếu ngày mai tận thế,
hôm nay bạn làm gì?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, nếu
ngày mai Chúa quang lâm, chắc chúng con sẽ vô cùng lúng túng.
Thế giới này còn bao
điều khiếm khuyết, dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng tay của Chúa.
Chúa đâu muốn đến để
hủy diệt, Chúa đâu muốn mất một người nào
Xin cho chúng con biết
cộng tác với Chúa xây dựng một thế giới yêu thương và công bằng, vui tươi và
hạnh phúc, để ngày Chúa đến thực là một ngày vui trọn vẹn cho mọi người và cho
cả vũ trụ.
Xin nuôi dưỡng nơi
chúng con niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì
chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.
22. Mùa Vọng: Mùa
màu xanh
(Suy niệm của ĐGM.
Giuse Vũ Duy Thống – Trích từ ‘Nút Vòng Xoay’ – trg. 7)
Tuần qua có dịp về
quê, mới bước vào nhà, đứa cháu nhỏ ở tuổi mẫu giáo đi học giáo lý về tiến đến
chào mọi người. Khi biết tôi đang ở đó, nó chạy lại quấn quít hỏi: “Mùa Vọng,
bác có lì xì cho cháu không?”. Tôi chưa biết trả lời ra sao thì nó đã líu lo
quanh quẩn giải thích. Thì ra ở lớp giáo lý, giáo lý viên đã dạy rằng: tuần
tới, tức hôm nay, Phụng Vụ chuyển sang năm mới được khởi đầu bằng Mùa Vọng. Đứa
bé chẳng biết Phụng Vụ là gì, nhưng đã nhớ rất kỹ chữ “năm mới”, vì thế mới có
chuyện vòi lì xì. Đành phải chiều thôi. Nhưng chỉ được một lát, nó đã vòng lại
khoe: cháu còn biết viết chữ “mùa vọng” nữa. Tôi bảo nó viết. Nó nằm bò trên
sàn nhà nắn nót ra chiều khổ sở lắm, rồi cuối cùng cũng xong và đưa đến cho mọi
người xem. Nhưng ôi thôi, thay vì “Mùa Vọng”, cháu đã viết lộn một nét để thành
“Màu Vọng” khiến cả nhà được cười một trận.
Tôi ra đi trong tiếng
cười ấy và sự lẫn lộn của đứa cháu như đeo bám lấy mình, để cuối cùng bất giác
tự hỏi: Mùa Vọng màu gì nhỉ? Xin được mượn tâm tư ấy làm chủ đề cho Mùa Vọng
năm nay. Đó là gọi tên Mùa Vọng bằng những sắc màu.
Hôm nay Chúa Nhật I
Mùa Vọng, xin được gọi Mùa Vọng là mùa màu xanh, hay đúng hơn là mùa
xanh lên niềm hy vọng. Gọi thế sẽ nêu hai ý nghĩa:
1) Mùa Vọng là mùa
Thiên Chúa hy vọng vào con người.
Đã đành, lúc nào Thiên
Chúa mà chẳng hy vọng vào con người. Do hy vọng, Ngài đã tác sinh con người
giống hình ảnh Ngài, cho họ bước vào vận hành sự sống của chính Ngài. Cho hy
vọng, Ngài đã không ngừng hứa hẹn và kết ước yêu thương với họ, dù cho họ có
ngàn lần sa ngã lỗi phạm và xa bỏ Ngài. Nhưng Mùa Vọng chính là thời gian, chính
là một mùa qua đó Giáo Hội muốn khắc họa rõ hơn dung mạo của Thiên Chúa: Đấng
đã hy vọng vào con người qua lịch sử Dân Chúa, Đấng vẫn hy vọng vào con người
trong lịch sử Giáo Hội và Đấng mãi hy vọng vào người đời trong chính cảnh huống
cụ thể của từng đời người.
Dung mạo Thiên Chúa ấy
được thể hiện nơi Đức Kitô qua những chuyến viếng thăm chính thức của Người.
Lần thứ nhất trong mầu nhiệm Nhập Thể, Người đã đến âm thầm làm một người chan
hòa giữa muôn người để đảm lĩnh lấy thân phận con người cho đến tột cùng bằng
cái chết để rồi Phục Sinh mở ra nẻo đường cứu độ cho những kẻ tin. Thế nhưng,
lúc Người về trời, công trình của Người vẫn còn dở dang. Mọi sự dường như mới
bắt đầu. Ơn cứu độ khách quan đã xong, nhưng chủ quan, áp dụng cho từng con
người lại cứ tiếp tục phải khởi sự. Thế nên, Người hứa sẽ đến lần thứ hai vào
ngày chung kết vũ trụ và con người, trong vinh quang để đặt mỗi người đối diện
với chính Người như chuẩn mực phân chia đôi bờ thiện ác và đặt mỗi người đối
diện với chính mình như trách nhiệm cuối cùng đối với ơn cứu rỗi.
Lần thứ nhất, do hy
vọng, Người đến gieo ơn cứu rỗi và lần thứ hai, cho hy vọng, Người đến gặt
những gì mình đã gieo và giữa hai lần đến chính thức ấy là cơ man nào mà kể
những lần âm thầm đột xuất ngẫu hứng bất ngờ, Đức Kitô vẫn sáng kiến hy vọng mà
bước đến với con người, qua những biến cố xảy đến với Giáo Hội, cộng đoàn hoặc
cá nhân; qua những khuôn mặt người anh chị em dẫu lạ hay quen ta tiếp cận; và
nhất là qua những cảm nghiệm đến với lòng ta và lòng người, cho xanh lên niềm
hy vọng cứu rỗi. Và bất ngờ lớn nhất giữa những cái bất ngờ vẫn là cái giờ và
cái cách Chúa đến với mỗi cá nhân trong cảnh tranh sáng tranh tối của họ giữa
chốn chợ đời. Mùa Vọng là mùa Thiên Chúa hy vọng vào con người.
2) Mùa Vọng là mùa con
người hy vọng vào Thiên Chúa.
Thiên Chúa hy vọng vào
con người là để cho con người được hy vọng vào Thiên Chúa, và bởi Thiên Chúa
luôn hy vọng vào con người qua những đường đến bất ngờ, nên con người chỉ có
cách là hy vọng vào Thiên Chúa qua niềm tỉnh thức không mỏi mệt của mình.
Tỉnh thức trong hy
vọng là nhận thức rằng người đời có một Thiên Chúa yêu thương và đời người có một
vận mệnh tương lai. Có nhiều thứ tương lai lắm: tương lai gần như hôm nay đối
với ngày mai; tương lai xa như đời này đối với đời sau; tương lai hẹp như chỉ
giới hạn trong đời ta, tương lai rộng như mở ra với đời người; tương lai từng
phần tùy theo mức độ khả thi và tương lai toàn phần chỉ có thể có khi con người
tiến về vĩnh cửu. Nhưng điều quan trọng ở chỗ tương lai ấy không phải là một sự
kiện mà chính là một Đấng, mà Đấng ấy vốn đã hy vọng vào ta, đợi chờ ta từ thuở
nào, để khỏi phải tay chân thừa thãi ỏn ẻn làm quen mà gặp được là đã tay bắt
mặt mừng đến độ thân tình của lòng trông cậy, để khỏi phải rỉ tai nhau như thế
kỷ XIX với khẩu hiệu “con người là tương lai của con người" nên dẫn đến
chiến tranh đổ vỡ, mà sẽ là hô vang sứ điệp “Thiên Chúa là tương lai của con
người" cho xanh lên niềm hy vọng đượm thắm lẽ cậy trông.
Tỉnh thức trong hy
vọng cũng là canh thức để cộng tác với ơn Chúa mà thể hiện niềm hy vọng đời
mình. Sẽ là một thứ hy vọng quắt quay như những em bé ve chai gập mình bới tìm
sự sống trên đống phế thải; sẽ là một thứ hy vọng mong manh như kẻ qua đường
mua tấm vé số và sẽ là một thứ hy vọng đầy rủi ro như kẻ hùn hạp làm ăn mà không
nắm trong tay vốn kiến thức kinh doanh; nhưng sẽ là một niềm hy vọng “bốn mùa”
xanh tốt, khi con người biết kiên định phát triển vốn liếng ơn thánh và khả
năng nơi mình, cho dẫu cuộc sống vẫn còn đầy dẫy những thử thách cam go.
Và cuối cùng, tỉnh
thức trong hy vọng cũng có nghĩa là thao thức thường xuyên cùng với Giáo Hội để
gieo niềm hy vọng vào chính môi trường mình sống. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng
như một cuộc lên Đền từng bước, nhưng biết rằng ở đỉnh cao có Chúa đang chờ đợi.
Hy vọng vào Thiên Chúa cũng giống như kẻ đắp xây hòa bình, hãy đúc gươm đao
thành cuốc thành cày, hãy rèn giáo mác nên liềm nên hái. Từng hạt lúa gieo,
từng bước đi tới, rất âm thầm nhưng sẽ dẫn tới những cánh đồng bát ngát màu
xanh hy vọng. Hy vọng vào Thiên Chúa cũng như một chuyến đi có đích và có ích;
đừng để trở thành “Chuyến đi không đến đâu” như bộ phim Úc mới chiếu trên tivi.
Sống Mùa Vọng như thế
chính là sống niềm hy vọng vào Thiên Chúa là Đấng hy vọng vào con người. Và như
vậy là êm đềm gợn sóng màu xanh lên chính cuộc đời tín hữu của mình. Mùa Vọng
là mùa màu xanh.
Sáng nay ngang qua
cuối nhà thờ Tân Định thấy bày la liệt những cây thông Noel. Hai, ba tuần trước
đã thấy nhưng vẫn còn xa lạ, nhưng hôm nay cùng với tiết trời trở lạnh và nhịp
Phụng Vụ trở mình bước vào Mùa Vọng, tôi mới thấy những cây thông ấy đẹp làm
sao, không vì kiểu dáng chất liệu cho bằng chính sắc màu của nó. Trong mắt nhìn
của tôi, màu xanh của những cây thông ấy chính là màu xanh của niềm hy vọng
vươn lên.
Chúc mỗi người có một
cây thông xanh thiêng liêng hy vọng nơi mình, để dẫu sống giữa những vòng quay
điên đảo thử thách trăm bề, vẫn luôn kiên định trong niềm hy vọng vào Thiên
Chúa giống như đứa bé đòi lì xì, cứ “lì” ra trong niềm hy vọng, Thiên Chúa sẽ
“xì” ra bàn tay cứu độ. Và thế là gặp gỡ đẹp xanh hy vọng.
(Trích từ ‘Lương Thực
Ngày Chúa Nhật’)
Sau khi Chúa Giêsu đã
nói tới những dấu hiệu báo trước sự tàn phá thành Giêrusalem, thì hôm nay Người
nói về ngày tận thế. Ngày ấy sẽ xảy đến bất ngờ. Một cách nào đó, những dấu
hiệu mô tả trong Phúc Âm đã xảy ra trong lịch sử loài người, và nhân loại đã quen
với chúng rồi. Trong lúc mà bằng vô vàn cách thức khác nhau, các biến cố xảy ra
cho thấy rằng thế gian không phải là quê hương vĩnh viễn, thì con người vẫn
dừng lại ở trình độ tìm tòi duy vật trong nỗ lực xây dựng văn minh. Đó là
trường hợp của những người xưa kia bị hồng thủy thình lình ập xuống trên mình.
Những ai không biết đọc dấu hiệu thời đại, rồi cũng sẽ bị tai họa bất ngờ như
vậy. Cũng trong một viễn tượng gần như thế, ta hãy tự hỏi: Chúng ta có biết đọc
dấu hiệu thời đại không? Thật vậy, hành động liên tục của Chúa trong nhân loại
có thể quan niệm như một cuộc ngự đến không ngừng của Người trong nhân loại. Ta
có biết nhận ra những dấu hiệu của cuộc ngự đến ấy không? Dựa vào Hiến Chế Vui
Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vatican II, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta đang
gắn ý nghĩa Phúc Âm nào cho những biến cố hiện đại đang tác động trên con
người, trên cộng đồng nhân loại và hoạt động của loài người?
1) Con người
Chúng ta đang chứng
kiến sự giảm sút kính trọng đối với nhân vị. Theo một số khoa học gia, bậc thầy
trong khoa sinh vật học, con người là kết quả của một sự tình cờ may mắn trong
đà tiến hóa của vật chất. Trong cách thức người ta quan niệm thì con người có
giá trị gì? Con người có giá trị nào trước những vấn đề như phá thai, ngừa
thai, công bằng, chính trị v.v… Phúc Âm đặt con người vào trình độ của tương
quan giữa nó với Đức Giêsu Kitô. Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên
Chúa. Nó tội lỗi nhưng được cứu độ. Trong toàn con người nó, xác và hồn, nó là
con cái Chúa. Sự sống của nó là một điều thiêng liêng. Phẩm giá con người đòi
hỏi rằng trí khôn nó phải được soi sáng và con tim nó được huấn luyện. Chủ
nghĩa duy vật hiện đại là một dấu hiệu thời đại phải thôi thúc người Kitô hữu
quả quyết lại phẩm giá của con người một cách mạnh mẽ.
2) Cộng đồng nhân loại
Đang trên đường tìm
kiếm, chưa bao giờ con người được sử dụng nhiều phương tiện kỹ thuật như thể
gặp gỡ nhau khắp cùng trái đất. Đó là một dấu hiệu thời đại khiến người Kitô
hữu phải tạo cho mình một não trạng phổ quát ‘công giáo’, bao trùm toàn thế
giới. Hiện nay, đối với ai biết nhìn xem, Thiên Chúa đang đi tới con người qua
tất cả những phương tiện dễ dàng làm cho con người gặp gỡ nhau.
3) Hoạt động của con
người
Những cuộc chiến
thắng, những thành công của con người là dấu hiệu biểu lộ sự phong phú vô biên
của Chúa trong tạo vật. Nhưng uy quyền con người càng tăng, thì trách nhiệm của
nó càng lớn. Con người sẽ làm việc cho con người, và làm việc trong một ý nghĩa
tích cực, nếu nó duy trì liên quan của mình với Thiên Chúa. Nếu xa lìa Chúa,
thì uy quyền nó càng nhiều, sức mạnh phá hủy của nó càng tăng.
Trên các biến cố thời
sự làm xao động thế giới, ta hãy luôn luôn chiếu giãi ánh sáng Phúc Âm. Phải
tỉnh thức. Hơn nữa, ta hãy tùy theo phương tiện ta có mà can thiệp vào để giúp
cho Chúa ngự đến trong thế giới chúng ta.
“Anh em hãy tỉnh
thức!”
Giấc ngủ là thói quen
của chúng ta. Nó làm chúng ta không ý thức được ngày giờ trôi qua.
Chúa Giêsu mô tả thói
quen này như sau: “Vào thời Noe, người ta ăn uống, người ta dựng vợ gả chồng
…”. Có một người thoát ra khỏi thói quen này đúng lúc, đó là Noe. “Noe bước lên
tàu”. Còn những người khác vẫn sống “mà không nghi ngờ gì cả, cho đến khi trận
lụt nhận chìm họ”.
Thói quen nhận chìm
chúng ta. Bạn hãy nghĩ đến những câu: “Tôi phải phản ứng lại… Tôi phải bắt đầu…
Không thể tin được là thời gian trôi qua nhanh thế… Nếu có thể làm lại
điều đó… Nếu lúc trẻ mà biết thì …”.
Chúng ta biết chứ. Chỉ
cần lắng nghe Chúa Giêsu thì đủ rõ: “Hai người cùng ở trong ruộng, thì một sẽ bị
đem đi, và một sẽ được để lại; hai bà cùng xay bột nơi cối, thì một sẽ bị đem
đi và một sẽ được để lại. Vậy các ngươi hãy tỉnh thức”. Khi làm cùng những công
việc, có người thì chết, có người thì sống. Có người không chuẩn bị gì cả, có
người đã chuẩn bị sẵn sàng.
Sẵn sàng cho cái gì?
Phải lặp đi lặp lại lời kêu gọi cảnh giác này vì Chúa Giêsu cũng lặp đi lặp lại
lời kêu gọi cảnh giác đó, một sự cảnh giác thật sự. Sự cảnh giác có thể có vẻ
như một sự lo âu làm cho tê liệt, hoặc đi đến chỗ đặt câu hỏi “ích lợi gì cơ
chứ?” làm cho quay sang khinh dể thế gian và những công việc trần thế. Không,
trái lại, sự cảnh giác trong Phúc Âm là một sức sống mạnh mẽ hiện tại, bởi vì
người ta luôn luôn xác minh được ở đó ích lợi và sự biểu hiện thực sự của điều
mà người ta đang làm.
Những thói quen của
chúng ta (công việc, truyền hình, xe cộ), những lo toan của chúng ta (kiếm tiền
nhiều hơn, hoàn thành nhiệm vụ nào đó), những dự định nghỉ ngơi (mong ngày cuối
tuần mau đến, mong kỳ nghỉ hè mau đến), có phải những điều đó làm cho mỗi người
chúng ta sử dụng cuộc sống đến nơi đến chốn rồi chăng? Đâu là tình yêu, nghĩa
là cuộc sống 100%? Sự phục vụ huynh đệ, nỗi ám ảnh truyền giáo, kinh nguyện, ở
đâu?
“Tôi không có thời giờ” đôi khi là tiếng than
phiền của cuộc sống mãnh liệt. Nhưng thường thì đây là bài ca của thói quen.
Thói quen ca bài này rất hay.
Sự tỉnh thức của người
Kitô hữu không gì khác hơn là cuộc sống trước mặt Thiên Chúa, cuộc sống với
Thiên Chúa. Người ta làm đúng y cũng những điều đó, nhưng chúng có thêm một ích
lợi, một chiều dày. “Một sẽ bị đem đi, và một sẽ được để lại”. Những người tỉnh
thức đã bám rễ trong vĩnh cửu, những người thủ cựu thì ở trên bề mặt, lúc nào
họ cũng có nguy cơ bị quét đi.
Khác xa việc lấy mất
sở thích những gì thuộc về cuộc sống, sự tỉnh thức thật sự mang lại thú vị cho
những bước khai tâm, những bước đầu học tập lý thú. Tuyệt vời làm sao, qua
những gì người ta sống, khi trở thành một người được xây dựng cho sự vĩnh cửu
và xây dựng một phần của nhân loại vĩnh cửu!
Chống lại thói quen là
sao? Là suy nghĩ, lại tiếp tục, không buộc mình chỉ sống theo đồng hồ, lịch
hoặc sự đều đặn máy móc và bảo “tôi luôn luôn làm điều đó”.
Người tín hữu Kitô
“sẵn sàng” là người sống cái bình thường một cách hết sức tự do, ý thức, đến độ
điều này giữ cho họ tỉnh thức đối với điều bất ngờ, trong đó có giờ phút cuối
đời, giờ kẻ trộm đến: “Hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ các ngươi không ngờ, thì
Con Người sẽ đến".
(Trích từ ‘Sống Tin
Mừng’)
Với Lễ Chúa Kitô Vua
được mừng vào hôm Chúa Nhật tuần vừa qua, Giáo Hội Công Giáo kết thúc năm Phụng
vụ theo chu kỳ Năm C và bắt đầu năm mới Phụng vụ theo chu kỳ Năm A bằng Chúa
Nhật thứ I Mùa vọng.
Bài đọc thứ nhất được
trích trong đoạn quan trọng nhất của sách tiên tri Isaia, ngài là vị ngôn sứ
cao cả nhất của thời Cựu Ước. Giáo huấn của ngài vang dội tại Giêrusalem từ
khoảng năm 742 cho đến năm 800 trước Chúa Kitô Giáng Sinh. Đây là thời kỳ đen
tối nhất trong lịch sử dân Chúa, vì lãnh thổ bị chia đôi, các bộ lạc miền Bắc
qui tụ thành vương quốc Israel, bị đế quốc Assyria chiếm cứ từ năm 772. Các bộ
lạc miền Nam qui tụ thành vương quốc Giuđa, càng ngày càng xa lìa Thiên Chúa,
sống bất trung với giao ước kết thúc trong đau thương của cuộc lưu đày Babylon.
Chính trong thời kỳ
này mà tiên tri Isaia đến công bố cho dân Chúa sứ điệp hy vọng vào sự phục hưng
huy hoàng ở tương lai. Mặc cho những bất trung của dân, Thiên Chúa vẫn trung
thành với lời Ngài đã hứa là sẽ qui tụ tất cả mọi dân tộc lại. Thật là hy vọng
biết chừng nào khi mà giữa những thử thách hiện tại, những xúc phạm của các dân
tộc đối với Thiên Chúa, thì cộng đoàn nhỏ bé Israel còn lại gồm những kẻ trung
thành với Thiên Chúa được nghe những lời loan báo Thiên Chúa sẽ ngự đến, sẽ xây
nhà Ngài trên đỉnh núi, nghĩa là Ngài sẽ đến ngự giữa loài người và nơi Ngài
hiện diện sẽ là trung tâm qui tụ tất cả mọi dân tộc.
Họ đang chống đối
Thiên Chúa, nhục mạ Ngài, nhưng rồi sẽ đến lúc họ trở lại nhìn nhận Ngài. Đó là
sứ điệp hy vọng của bài đọc thứ nhất trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng. Các dân
nước sẽ đổ về đó, nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: "Hãy đến, chúng ta hãy
lên núi Chúa, Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối của Ngài và chúng ta sẽ đi theo
thánh ý của Ngài. Và khi các dân tộc nhìn nhận Chúa, giữ các giới răn của Người
thì hoà bình sẽ ngự trị giữa họ. Đó là thời điểm. Đó là thời kỳ mà theo lời
tiên tri Isaia "các dân các nước sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo
mà rèn nên lưỡi liềm", nghĩa là biến các dụng cụ giết hại nhau thành
phương tiện tạo nên bánh nuôi sống và nâng đỡ cho cuộc sống con người.
Nơi bài đọc thứ nhất,
Isaia loan báo tiếp: "Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa,
người ta cũng không còn thao luyện để chiến đấu nữa". 700 năm sau, sau lời
tiên báo của Isaia, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa khi Ngài sai Con Một của
Ngài xuống trần gian làm người để cứu chuộc nhân loại, để hòa giải con người
với Thiên Chúa.
Những ai lắng nghe và
sống lời Ngài được qui tụ lại trong dân mới của Thiên Chúa là Giáo Hội gồm mọi
dân nước. Với sự hiện diện và ân sủng của mình, Thiên Chúa đã làm cho Giáo Hội
trở thành dấu chỉ và phương tiện để xây dựng sự hiệp nhất hòa bình giữa con
người với Thiên Chúa, và giữa con người với nhau. Qua đó, chúng ta thấy Giáo
Hội của Chúa vẫn kiên trì trung thành với sứ mạng làm trung gian hòa giải này,
giúp xây dựng hòa bình giữa con người với nhau trong thế giới ngày nay.
Mùa vọng mới mà Giáo
Hội bắt đầu cử hành trong Phụng vụ của mình với Chúa Nhật thứ nhất Mùa vọng,
không phải là thời gian để Giáo Hội nhìn lại quá khứ, nhìn về biến cố Con Thiên
Chúa đã Giáng Sinh và cử hành biến cố này với Lễ Giáng Sinh. Tắt một lời, Mùa
vọng không phải là mùa chuẩn bị mừng Lễ Giáng Sinh, nhưng Mùa vọng là thời gian
hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh
quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm
cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con
người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể
vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn,
nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con
người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sứ điệp mà
bài đọc II và Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô
gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: "Anh em thân mến! Anh em biết rằng
đã đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn
lúc chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những
hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban
ngày" (Rm 13, 11-14).
Đó là những lời khuyên
vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày
nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách
thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy
Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách
thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc Âm Chúa
Nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: "Vậy các con cũng
phải sẵn sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến" (Mt 24, 44).
Chúa đến như kẻ trộm,
Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta
chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của
mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện
lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp
chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón
Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong
thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày
sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Mùa Vọng đối với người
Kitô hữu chúng ta là mùa Xuân, vì nó khởi đầu một niên lịch Phụng Vụ. Trong mùa
Xuân, cây cối đâm chồi nẩy lộc, kết nụ đơm hoa, chuẩn bị cho mùa thu hoạch mới.
Như vậy, mùa Xuân cũng là mùa vọng, là thời gian trông chờ, mong đợi…
Nhưng, thưa anh chị
em, chúng ta mong đợi gì?
Sống là phải có hy
vọng, đợi chờ. Còn hy vọng, con người còn nỗ lực, phấn đấu để sống. Mất hy
vọng, con người sẽ không còn động lực nào để sống, để làm việc, dù bất cứ ở
lãnh vực nào. Khoảng thời gian từ lúc bắt đầu đến khi hy vọng được thành tựu,
là lúc người ta phải chờ đợi, ngóng trông. Làm sao tả hết được những tâm trạng
chờ đợi? Vì nó đa dạng và có nhiều mức độ thao thức khác nhau:
- Với một em bé, chắc
không còn nôn nóng nào hơn khi mong mẹ đi chợ về, mua cho bé gói bánh, món quà.
- Một học sinh đi thi,
chắc hẳn không một việc gì có thể làm cậu gián đoạn sự trông chờ kết quả với
đầy hồi hộp, bồn chồn.
- Với một thanh niên,
còn gì thú vị hơn lúc chờ đợi người yêu.
- Trong lãnh vực nghề
nghiệp, người ta cũng mong ngóng, đợi chờ: Người buôn bán thì mong trúng mối,
đắt hàng, nhiều lời. Người nông dân chẳng mong gì hơn là mưa thuận gió hòa, cho
mùa màng tốt tươi, hoa quả đầy vườn.
Ai cũng ôm một mối hy
vọng, chờ mong. Đó là động cơ của cuộc sống con người. Hy vọng với những kết
quả đạt được là hạnh phúc của con người: được mùa, thi đậu, là những món quà
hạnh phúc của tuổi trẻ. Người yêu đến thăm, đến đón, người chồng đi xa trở về,
là những hạnh phúc êm đềm, dịu ngọt. Được mùa, làm ăn phát đạt, là những hạnh
phúc ấm no… Tất cả đều là những hạnh phúc nho nhỏ của con người.
Nhưng, thưa anh chị
em,
Phải chăng con người
chỉ mong đợi có những hạnh phúc nho nhỏ đó thôi sao? Con người không còn gì lớn
lao hơn để đợi chờ sao? Bởi vì, những hạnh phúc cỏn con đó không thỏa mãn được
khát vọng của con người: Trong cuộc sống, rất nhiều lúc chúng ta cảm thấy buồn
chán, lạc lõng, không biết mình muốn cái gì và ước mơ điều gì nữa. Đó chính là
một cảm nghiệm thiếu vắng tình thương, thiếu một “ai đó” có thể thỏa mãn được
mọi khát vọng của chúng ta.
Hoặc có những người,
sau khi đã hưởng thụ tất cả, bỗng cảm thấy chán chường mọi giàu sang phú quý và
sống vất vưởng, tuyệt vọng. Nhưng họ không biết đó chính là tiếng réo gọi
thiêng liêng đang đòi hỏi một cái gì có giá trị vô cùng so với mọi thứ hạnh
phúc trần gian tổng hợp lại. Một hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu. Thật vậy, có
một đối tượng hy vọng, một đối tượng trông đợi hạnh phúc nhất, tuyệt vời nhất
đối với con người mà qua bao nhiêu thế hệ, con người vẫn mang khát vọng sâu xa
tìm kiếm: đó là Thiên Chúa.
Thật vậy, đời người là
cả một thời gian nôn nóng chờ đợi ngày giáp mặt Thiên Chúa tình thương. Chỉ có
Thiên Chúa mới lấp đầy mọi khát vọng của con người. Vũ trụ, tạo vật, nhất là
con người là kết quả của tình thương vô biên đó, nên con người luôn có những
khao khát vượt thoát trần gian, mong được giải thoát khỏi những ràng buộc vật
chất, thể xác và những đau khổ phiền muộn để sống với tình thương viên mãn, bất
diệt. Nhưng con người lại gắn chặt vào thân xác, vào mặt đất. Vì vậy, con người
luôn bị giằng co, ray rứt giữa trời và đất, giữa ước mơ siêu nhiên và thực tại
vật chất, nhu cần thể xác.
Với người tín hữu, đối
tượng mong chờ của chúng ta đã cụ thể: chúng ta mong chờ Chúa đến. Lẽ tất nhiên
không phải mong chờ Chúa đến như một cuộc Giáng Sinh ở hai ngàn năm trước,
nhưng là Chúa đến trong vinh quang, Chúa đến khi Nước Trời được hoàn tất. Chắc
chắn Chúa sẽ đến, nhưng ngày nào, giờ nào, thì chúng ta không biết được vì vậy,
“phải tỉnh thức, vì không biết giờ nào Chúa các con sẽ đến… Phải sẵn sàng, vì
lúc các con không ngờ, Con Người sẽ đến”. Phải sẵn sàng luôn, đừng để bị bất
chợt như dân chúng trong thời ông Noê đóng tàu, đã không ngờ nên bị Lụt Đại
Hồng Thủy cuốn trôi đi; hay như chủ nhà đã không tỉnh thức để bị trộm vào nhà
vét sạch tiền của.
Giờ Chúa đến chỉ mình
Thiên Chúa biết, chúng ta đi tìm tòi có ích gì. Điều hệ trọng là sống cho có ý
nghĩa ở ngày hôm nay, sống để tạo điều kiện cho Nước Trời mau đến. Như thánh
Phaolô đã dạy: “Anh em biết rằng thời này là lúc chúng ta phải thức dậy. Vì giờ
đây, phần rỗi chúng ta gần đến, hơn lúc chúng ta mới tin đạo. Đêm sắp tàn, ngày
gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng.
Chúng ta hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không
chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ganh tỵ. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô
và chớ lo lắng thỏa mãn những dục vọng xác thịt.
Anh chị em thân mến,
Mùa Vọng là những ngày
Giáo Hội giúp chúng ta ý thức đến ý nghĩa cuộc sống của mình, ý nghĩa đó nối
kết chặt chẽ với tương lai, với ngày Chúa đến. Tuy nhiên, chờ đợi Chúa đến,
không làm cho chúng ta xa rời cuộc sống, trái lại, đòi hỏi chúng ta sống triệt
để hơn, hoàn thành nhiệm vụ chu đáo hơn, bởi vì Thiên Chúa phán xét là tùy ở chỗ
chúng ta sống trung thành với Ngài và yêu như Ngài yêu chúng ta, thì chúng ta
có thể chờ đợi Chúa như đứa con chờ mẹ như người yêu chờ người yêu.
27. Chuẩn bị cho
một thời đại mới sắp đến
(Suy niệm của Lm.
Giuse Đỗ Đức Trí – Trích trong “Tin Vui Xuân Lộc”)
Thưa quý OBACE,
Các nhà khoa học cho
rằng cách đây khoảng 65 triệu năm đã có một thiên thạch rơi trúng trái đất, nó
đã làm cho trái đất hoàn toàn thay đổi về khí hậu, địa chất, nó cũng làm tuyệt
chủng một số loài sinh vật, chẳng hạn như loài khủng long đã bị biến mất, nhưng
đồng thời nó cũng tạo một môi trường mới cho nhiều loài mới xuất hiện và phát
triển. Cho đến ngày nay các nhà khoa học và nhiều dân tộc trên thế giới cũng
tin rằng trái đất này sẽ trải qua một cuộc biến đổi khác, và nó cũng sẽ hủy
diệt những loài nào không còn thích hợp, và chỉ những loài nào thích nghi được
thì sẽ tiếp tục phát triển. Còn các nhà tôn giáo lại trình bảy thời kỳ biến đổi
này dưới cái nhìn riêng, tùy theo niềm tin của mình.
Giống như sau những
ngày oi bức nắng hạn, người ta mong đợi một trận mưa rào, sau những ngày đông
băng giá, cây cối ủ rũ, người ta mong đợi những tia nắng ấm mùa xuân và sự đâm
chồi nảy lộc của vũ trụ, cũng vậy, hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào mùa
vọng, là mùa Giáo hội mời gọi chúng ta điều chỉnh cuộc sống chuẩn bị tâm hồn để
đón chờ một thời đại mới, thời đại của Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ đến để đem lại sự
hồi sinh cho nhân loại, đem nhân loại vào một thời đại của tình yêu thương và
ơn cứu độ.
Tiên tri Giêrêmia sống
cách Chúa Giêsu khoảng 500 năm, lúc mà dân tộc Israel đang phải cúi đầu chấp
nhận sự đô hộ của quân Babylon, tức là cả một dân tộc đang rơi vào cảnh tăm tối
khốc liệt, thì vị tiên tri Đã nhìn thấy một thời đại mới sắp đến đem lại hy vọng
cho dân Israel. Chính vì thế Giêrêmia đã dùng hình ảnh của một mùa xuân mới để
diễn tả về thời đại ấy: Trong những ngày ấy ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một
Đấng Công Chính để nối nghiệp Đavit. Chỉ cần nhắc đến chồi non nảy mầm từ nhà
Đavít cũng đủ để đem lại hy vọng cho dân Israel trong cảnh lưu đày, vì các tổ
phụ các tiên tri đều loan báo rằng một chồi lộc từ nhà Đavit sẽ phục hồi xứ sở,
sẽ đem đến hòa bình thịnh vượng cho dân tộc, sẽ cất khỏi họ nỗi nhục nhằn khổ
sở. Tiên tri Giêremia còn cho thấy thêm chi tiết: Người sẽ thống trị muôn nước
theo lẽ công bình chính trực, trong ngày ấy, Giuda sẽ được cứu thoát,
Giêrusalem sẽ được an vui, và người ta gọi tên thành là: Đức Chúa là sự công
chính của chúng ta. Với lời tiên báo này thì gương mặt của Đấng Giải Thoát đã
rõ dần, dưới triều đại của Ngài, muôn dân muôn nước sẽ được hưởng thái bình
thịnh vượng, Giêrusalem lại được muôn dân biết đến như là thành trì của Thiên
Chúa, là niềm tự hào của dân tộc.
Đức Giêsu chính là
Đấng các tổ phụ các tiên tri đã loan báo, việc Ngài bước vào lịch sử nhân loại
này, Ngài đã thay đổi hoàn toàn lịch sử nhân loại và đem đến một thời đại mới,
kỷ nguyên mới, thời đại của tình yêu thương và kỷ nguyên ơn cứu độ. Kể từ đây,
Thiên Chúa không còn là Đấng ở xa, hay ở trên trời để nhận hương khói của con
người nữa, mà là Đấng đã làm người, đến để ở với con người, cùng nói chung một
tiếng nói với con người, cùng chung một nhịp đập của con tim và cùng chung một
hơi thở với con người, để yêu thương, để nâng đỡ và để cứu con người khoi cảnh nô
lệ của tội lỗi và sự chết, để cho con người đựơc sống trong thời đại của ân
sủng, thứ tha và chữa lành.
Với sự xuất hiện của
Chúa Giêsu, Ngài đã đem đến cho nhân loại một niềm hy vọng và một nếp sống mới.
Ngài muốn con người sống theo luật mới của Ngài, là luật của yêu thương chứ
không phải là gánh nặng, ngài muốn cho con người tìm được hạnh phúc ngay tại
trần gian và nhất là đạt được hạnh phúc nước trời qua con đường của Tám Mối
Phúc Thật, qua con đường từ bỏ khỏi sự ràng buộc của vật chất và thế gian, Ngài
đem đến một nếp sống của tình yêu thương tha thứ và phục vụ, tha thứ đến bảy
mươi lần bảy, và phục vụ như một người đầy tớ. Với triều đại của Ngài, Đức
Giêsu đã mở ra cho nhân loại một con đường hy vọng, hy vọng được sống lại và
được sống đời đời mà không phải chết, vì Ngài đã dùng cái chết của chính mình
hủy diệt âm mưu của ma quỷ, trả lại sự sống và tư cách làm con Thiên Chúa cho
chúng ta.
Tin Mừng hôm nay, Đức
Giêsu lại mở ra và hướng mỗi người đến một thời đại mới, thời đại vĩnh cửu,
thời mà Đức Giêsu sẽ trở lại, thế nhưng trước khi thời ấy xảy ra, thì Ngài đã
cho những dấu hiệu báo trước: Những điềm lạ trên trời dưới đất sẽ xảy ra khiến
cho người ta hoang mang hoảng sợ, thiên tai động đất và những tai họa khủng
khiếp sẽ giáng xuống địa cầu khiến cho người ta hồn xiêu phách lạc. Nhắc đến
những sự kiện thiên tai như thế không phải để gây sợ hãi hoang mang cho con
người người, Nhưng Ngài chỉ muốn mỗi người nhìn những sự kiện thiên nhiên ấy để
chuẩn bị cho riêng mình một tư thế, một tình trạnh và nhưng hành trang cần
thiết. Các diễn biến của thiên nhiên giống như một sự chuyển mình của vũ trụ để
bước vào một thời đại mới, thời đại của vĩnh hằng của bất tử, Ngày ấy, Ngài sẽ
trở lại trong vinh quang của một vị Thiên Chúa và trong quyền uy của một vị
thẩm phán. Khi thấy những biến cố ấy xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu
lên, vì ngày cứu chuộc anh em đã đến gần.
Thưa quý OBACE, để có
thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu trong ngày của Chúa trở lại thì mỗi người cần
có một thái độ xứng đáng đó là: hãy đề phòng đừng để lòng mình ra nặng nề bởi
chè chén say sưa, bởi lo lắng sự đời. Đó là lời căn dặn đầu tiên của Chúa vì
lòng con người hay thay đổi dễ bị lôi kéo bởi tiên bạc của cải danh vọng, hưởng
thụ thỏa mãn, cậy dựa vào vật chất, kể cả công ăn việc làm, tất cả những cám dỗ
và lôi kéo đó khiến cho tâm hồn chúng ta thành nặng nề uể oải không còn mau mắn
tỉnh thức đề đón chờ Chúa, không còn siêng năng chăm chỉ đến với Chúa nữa.
Điều tiếp theo Chúa
căn dặn chúng ta: Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, để có thể đứng vững
trước mặt Con Người. Chỉ có những con người tỉnh thức và cầu nguyện mới có thể
đứng vững và chống chọi được với những cám dỗ của ma quỷ dục vọng thế gian, vì
cầu nguyện là đón nhận được sức mạnh và sự trợ lực từ nơi chính Thiên Chúa. Thánh
Phaolô còn giải thích thêm và mời gọi chúng ta: hãy lấy tình yêu thương mà đối
xử với nhau, và hãy sống ngay thẳng thật thà đửng để điều gì đáng trách trước
mặt Thiên Chúa, và hãy cố gắng không ngừng.
Để đón chờ một thời
đại mới mà Chúa cứu thế sẽ mang đến, để có thể đứng thẳng và ngẩng cao đầu chờ
ngày Ngài trở lại, chúng ta cần thực hiện những lời Chúa căn dặn hôm nay, phải
trở thành con người mới, đừng để mình ngủ quên trong sự thành công và sự kiêu
hãnh của mình, mà hãy tỉnh thức để nhận ra tình yêu Thiên Chúa và ân ban của
Ngài đang dành cho mỗi người chúng ta. Hãy luôn tỉnh thức bằng việc chuẩn bị
cho mình một tâm hồn thanh thản trong sạch trước mặt Chúa, đừng để cho đam mê
ăn uống, rượu chè, cờ bạc, dục vọng lôi kéo và chôn vùi cuộc đời chúng ta, cũng
đừng để cho sự lười biếng ru ngủ chúng ta, mà hãy kiên trì trong việc cầu
nguyện sớm tối, dâng lễ rước lễ mỗi ngày, và hãy làm cho vợ con và gia đình trở
thành một tổ ấm yêu thương và đạo đức.
Các bạn trẻ thân mến,
tuổi trẻ luôn mong chờ sự đổi mới, Lời Chúa hôm nay thực sự là một lời mời gọi
và cũng là một thách thức đối với các bạn, đừng để cho tuổi trẻ trở nên uổng
phí, và cũng đừng để tuổi trẻ của mình chìm ngập trong lối sống vô thần, hưởng
thụ, ích kỷ, xô bồ, hời hợt của ngày hôm nay, mà hãy bắt tay vào để góp phần
biến đổi thế giới và xã hội này. Hãy bắt đầu từ chính bản thân mình, sống con
người mới với một niềm vui hân hoan vì mình đã được cứu chuộc, vì mình thuộc về
Chúa Kitô; hãy tích cực giới thiệu cho mọi người, cho bạn bè xung quanh về một thời
đại mới của Chúa bằng thái độ sống yêu thương quảng đại dám đưa tay ra để giúp
đỡ và chia sẻ, dám cúi xuống để phục vụ, dám chịu thiệt thòi để đem đến bình an
cho gia đình cả công đồng.
Khi mỗi người và mỗi
bạn trẻ dám bắt tay vào làm những việc nêu trên, là chúng ta đang sống tâm tình
cùa mùa vọng, là chúng ta đang chuẩn bị đón chờ một thời đại mới mà Chúa Cứu
Thế đem đến cho nhân loại chúng ta. Amen.
28. Sống tỉnh
thức
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn An Khang)
Năm phụng vụ mới bắt
đầu, khởi đầu là mùa Vọng. Mùa Vọng, mùa mong chờ Chúa đến. Chúa đã đến lần thứ
nhất, trong ngày Ngài Giáng sinh. Ngài sẽ đến lần thứ hai, trong ngày Ngài
Quang lâm. Để đón chờ ngày Quang lâm, Đức Giêsu dạy: "Hãy tỉnh thức".
Tin mừng Matthêu, có bốn dụ ngôn minh hoạ về sự tỉnh thức: Lụt hồng thuỷ, kẻ
trộm, đầy tớ trung tín và mười trinh nữ. Hai dụ ngôn: Lụt hồng thuỷ và kẻ trộm,
được chọn cho Chúa nhật thứ I mùa Vọng này.
1. Dụ ngôn Lụt hồng
thuỷ
Mở đầu dụ ngôn, Đức
Giêsu nói: "Quả thế, thời ông Noe thế nào, ngày Quang lâm, Con Người cũng
như vậy".
Quang lâm là gì? Quang
là ánh sáng, lâm là đến. Tiếng Hylạp là "Parousia", nghĩa là sự hiện
diện. Xưa, trong thế giới La-Hy, người ta dùng từ ấy để chỉ những cuộc đi thăm
chính thức của hoàng đế: "Thánh thượng giáng lâm".
Theo Cựu ước, Quang
lâm là ngày của Chúa, ngày Đức Chúa can thiệp vào lịch sử thế giới, ngày vinh
quang đầy ánh sáng huy hoàng, đến xua đuổi bóng đen tội lỗi bao phủ dân Ngài.
Theo Tân ước, Quang lâm là ngày Đức Giêsu đến lần thứ hai, ngày Ngài trở lại
trong vinh quang, phán xét người lành kẻ dữ, có các Thiên thần hầu cận.
Lụt hồng thuỷ thời Noe
được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của con người. Rachi chú giải:
"Sự sa đoạ nhục dục của con người thời Noe, đã đi tới hủy hoại về đạo lý
và xã hội, đến nỗi loài người tự huỷ diệt chính mình mà không còn hy vọng sống
sót...". Đức Giêsu biết rõ điều đó, biết con người thời đó quá gian ác và
vô luân, lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày. Tuy nhiên, Đức
Giêsu không nói về tội vô luân, không trách sự sa đọa của những người thời Noe.
Ngài chỉ trách một điều: "Họ không biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ tới
cuốn đi hết thảy". Họ có vẻ tin là họ bất tử, ăn chơi trác táng. Mắt họ bị
bịt kín không thấy thân phận dòng mỏng con người. Họ phải chịu cái chết
"nuốt trôi", để rồi phút chốc khám phá thấy mình không phải là
"thần linh". Nếu muốn sống, họ cần phải có Thiên Chúa.
Để diễn tả ngày Quang
lâm, Đức Giêsu lấy lời Ngôn sứ Xôphônia: "Đang lúc người ta hăng say với
công việc đời thường của mình. Giữa lúc người nông dân đang cầy ruộng, người
nội trợ đang xay bột, Chúa đến. Chúa đến bất chợt như chiếc lưới thình lình
chụp xuống, như chớp loé từ Đông sang Tây". Và Ngài giải thích: "Bấy
giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, một người được đem đi, một người bị bỏ
lại. Hai người đàn bà đang kéo cối xay, một người được đem đi, một người bị bỏ
lại...". Tại sao thế? Hai người chẳng có gì khác nhau, cùng làm ruộng,
cùng xay bột, Chúa biết sự khác nhau của họ: Người sẵn sàng, người không. Bởi
thế, Chúa nói: "Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa
của anh em đến".
2. Dụ ngôn kẻ trộm
Để nhấn mạnh phải tỉnh
thức, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn kẻ trộm: "Anh em hãy biết điều này: Nếu chủ
nhà biết vào canh nào, kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông phải tỉnh thức". Đức Giêsu
không có ý so sánh Ngài với kẻ trộm, chỉ có ý nói sự bất chợt của ngày Quang
lâm. Gia chủ nọ, nếu ông biết canh kẻ trộm đến, hẳn ông phải thức, không để nó
khoét vách nhà mình. Ngày Quang lâm chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng không biết vào
ngày nào, vấn đề là phải tỉnh thức.
Tỉnh thức, Đức Giêsu
nói đây, chẳng phải là một thái độ tiêu cực, cứ ngồi đấy nôn nóng chờ đợi. Tỉnh
thức là trung thành với nhiệm vụ được trao phó, như người quản gia trung tín.
Tỉnh thức là chuẩn bị đón Chúa Kitô trở lại, như những trinh nữ khôn ngoan, là
yêu sách chu toàn trách nhiệm của mình như những đầy tớ được trao những nén
bạc, là bổn phận giúp đỡ các anh em hèn mọn nhất của Chúa Kitô.
Tỉnh thức, Đức Giêsu
mời gọi, không phải là sợ hãi, chỉ có những kẻ ngủ mê mới phải sợ hãi, bởi họ
không được Chúa đem đi. Lời mời gọi tỉnh thức của Đức Giêsu không chỉ nhắm vào
thời sau cùng, còn nhắm tới việc Người đến với mỗi người trong giờ chết. Không
ai hay được ngày giờ mình chết, chẳng ai biết cách tính toán, dự phòng. Giờ
chết có thể đến thình lình, bất ngờ, đang lúc làm việc, ngủ nghỉ, giải trí.
Việc chuẩn bị ngày chết, cũng là việc chuẩn bị ngày Quang lâm. Nếu thực sự quan
tâm đến tính cách bất ngờ và bí ẩn của ngày giờ đó, nếu sẵn sàng luôn luôn,
chính giờ phút không ngờ, cho dù Chúa có đến, ta vẫn hân hoan vui mừng, bởi giờ
cứu rỗi đã điểm, ta sẽ cùng với Chúa tiến vào tiệc cưới nước Trời.
Tai họa khủng khiếp,
đó là tựa đề một cuốn chuyện của Mark Twain, một nhà văn nổi tiếng người Mỹ, mô
tả một nhóm người đang lâm vào một tình cảnh bi đát. Chết đến nơi rồi mà họ vẫn
chưa tìm được lối thoát. Đúng là họ đang nằm trên bờ một tai họa khủng khiếp.
Tác giả không muốn cho câu chuyện kết thúc một cách bi thảm, nhưng ông không
biết làm cách nào để cứu nhóm người đó. Vì thế ông đã viết: Tôi lỡ đặt các nhân
vật của tôi vào một tình cảnh cực kỳ gian nan, đến nỗi tôi không thể nào cứu gỡ
được. Ai nghĩ rằng mình có thể cứu gỡ được thì xin vui lòng chỉ giùm.
Xét về một mặt thì đây
là một kết cục không hợp lý, nhưng xét về mặt khác thì đây lại là một kết cục
hay, vì nó đòi buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải can dự vào.
Cũng thế, hàng ngàn
năm trước, nhân loại đã rơi vào một tình cảnh thật bi đát. Tội lỗi đã đột nhập
vào trần gian và tràn lan như một đám cháy. Nhân loại bị vây khốn và không tìm
được lối thoát cho chính mình. Thiên Chúa đã nhìn thấy tình cảnh bi đát ấy.
Ngài không muốn câu chuyện kết thúc một cách buồn thảm, bởi vì Ngài quá yêu
thương nhân loại. Ngài đã nghĩ đến phương cách giải cứu, đó là sai chính Con
một Ngài đến trần gian, để cứu chúng ta khỏi vòng nô lệ tội lỗi và thiết lập
vương quốc của Ngài. Vương quốc ấy đã được khởi sự rồi, nhưng cho đến nay vẫn
chưa hoàn tất. Ngài ủy thác việc hoàn tất ấy cho chúng ta.
Mùa vọng nhắc nhở
chúng ta nhớ lại tình cảnh bi đát của nhân loại trước khi Đức Kitô đến. Nhưng
không phải chỉ có thế. Mùa vọng còn nhắc nhở chúng ta rằng Đức Kitô sẽ trở lại.
Ngài sẽ đích thân xét xử mỗi người chúng ta về việc chúng ta cộng tác với Ngài trong
công việc mà Ngài đã ủy thác cho chúng ta phải hoàn tất.
Chúng ta đang sống
giữa cái rồi và cái chưa. Giữa biến cố Giáng sinh của Ngài và việc Ngài sẽ trở
lại trong ngày sau hết. Hẳn chúng ta còn nhớ lời thiên thần nói với các môn đệ
vào buổi sáng ngày lễ Thăng thiên: Sao các ngươi còn đứng đó mà nhìn trời. Đức
Kitô vừa rời các ngươi mà về trời, thì Ngài cũng sẽ trở lại y như thế. Trong
khi đợi chờ Ngài lại đến, thì nhiệm vụ của chúng ta trên trái đất này, không
phải là đứng đó mà nhìn trời và chẳng làm gì hết, trái lại chúng ta phải nhập
cuộc, phải xắn tay áo lên để hoàn tất công việc Ngài đã trao phó. Đó là những
hành động bác ái yêu thương: Cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ trần
trụi được mặc, kẻ đau yếu được thăm viếng. Hãy xây dựng hòa bình bằng tình bác
ái yêu thương.
Mùa vọng là thời gian
giúp chúng ta kiểm điểm xem bản thân chúng ta đã thực thi những điều ấy như thế
nào? Là thời gian để chúng ta mong đợi Ngài lại đến trong vinh quang để phán
xét chúng ta. Vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ chúng ta: Đêm sắp tàn và ngày
đang tới, anh chị em hãy từ bỏ những hành vi ám muội để mặc lấy chiến bào sự
sáng.
Sách “Cổ Học Tinh Hoa”
có kể lại một câu chuyện như sau: Bấy giờ vua nước Ngô định đem quân đánh nước
Tề, nhiều người lên tiếng can ngăn, nhưng vua chẳng chịu nghe, lại còn ra lệnh
nếu ai nói tới việc đình chiến thì sẽ bị chém đầu.
Một vị quan trẻ tuổi
nhưng nổi tiếng khôn ngoan, luôn ba ngày liền cứ sáng sớm mang cung đến khu
vườn trong hoàng cung. Không đếm xỉa gì tới sương rơi và nắng gội. Ngày thứ ba,
vua gặp và hỏi:
- Khanh là chi đó?
- Thưa trên ngọn cây
cổ thụ này có con ve sầu hút gió, uống sương và kêu ve ve suốt ngày. Tưởng mình
yên thân, song đằng sau xa xa có con bọ ngựa đang rình nhảy tới vồ. Trong khi
bọ ngựa định tóm cổ ve sầu, thì ở gần đó có con chim sẻ dòm ngó, tính bắt con
bọ ngựa. Nhưng chính con chim sẻ này lại không dè dưới gốc cây có người đang
nhắm bắn mình. Chính tôi đây đang rình bắn con chim sẻ, thì lại quên rằng sương
rơi và nắng gội có thể làm mình bị cảm và chết. Cũng như nhiều người, tôi chỉ
nhìn thấy cái lợi nhỏ nhen trước mắt mà quên mất cái hại tày đình sau lưng.
Hiểu vị quan này có ý
thức tỉnh mình, vua nước Ngô đã nghĩ lại, đình chỉ việc đem quân xâm lấn nước
Tề.
Cũng vậy, vì đam mê
chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, chúng ta quên mất thần chết đang rình
rập ở sau lưng. Thực vậy, ai trong chúng ta cũng biết rằng mình sẽ phải chết và
hằng ngày luôn đối đầu với nó. Cái chết ở trước mặt người già và ở sau lưng
người trẻ. Cái chết thì chắc chắn, nhưng giờ chết lại bấp bênh vô định.
Mặc dù đã ý thức,
nhưng chúng ta lại quên, không chịu sống đạo và thu tích cho mình một kho tàng
thiêng liêng. Chúng ta mải miết chạy theo tiền tài, danh vọng và lạc thú, như
vua nước Ngô đem quân xâm lăng, mở thêm chút bờ cõi, kiếm thêm chút danh vọng,
không ngờ rằng một khi mình giàu sang, thì sẽ bị một nước khác nhòm ngó và
chiếm đoạt.
Bởi đó, trước hết
không được đặt trọng tâm đời mình vào tiền của, bởi vì càng lắm tiền của thì
càng nhiều lo âu, càng nhiều bè bạn giả tạo và càng nhiều cám dỗ, để rồi sa
chân vào vòng cờ bạc, rượu chè, ma túy và tội lỗi.
Nếu có chút dư thừa,
thì hãy biết sử dụng vào những việc bác ái, giúp đỡ những người chung quanh,
bởi vì chỉ những cái chúng ta cho đi hôm nay, thì ngày mai mới thuộc về chúng
mãi mãi mà thôi.
Tiếp đến không được
đặt trọng tâm đời mình vào danh vọng, bởi vì càng cao danh vọng càng dày gian
nan và càng lắm kẻ thù. Trèo cao thì ngã đau.
De Girandin là một vị
tổng thống, khi nằm trên giường bệnh, được bạn bè tới thăm và nhắc lại những
công lao sự nghiệp, thì ông đã trả lời:
- Mấy cái đó nào có ăn
thua chi. Hãy cầu nguyện cho tôi thì tốt hơn.
Sau cùng, cũng đừng
đặt trong tâm đời mình vào lạc thú vì lạc thú như một thứ rượu nồng, càng uống
càng khát, càng tìm kiếm càng thấy mình hèn kém và đáng khinh dễ.
Thánh Alphongsô, một
nhà thần học nổi tiếng, đã quả quyết:
- Có tới 90% những
người sa xuống hỏa ngục, chỉ vì đã phạm tội này.
Thực tế cho hay: phạm
những tội khác, chúng ta dễ dàng sám hối ăn năn, còn phạm tội này, chúng ta ít
khi chịu dừng lại, đã phạm một lần, thì thường cứ tiếp tục phạm mãi.
Hãy sẵn sàng vì thần
chết luôn rình rập sau lưng. Hãy sẵn sàng vì Chúa sẽ đến vào ngày chúng ta
không ngờ, vào giờ chúng ta không biết.
Hãy chuẩn bị cho mình
những hành trang cần thiết, là một tâm hồn trong trắng và một đôi tay chất đầy
công nghiệp, được kết đọng từ những hành động bác ái yêu thương chúng ta đã
thực hiện.
Bằng không, khi Chúa
đến vào cuối đoạn đường đời, chúng ta sẽ phải bẽ bàng và cay đắng vì thấy mình
trắng tay, vì thấy mình phá sản, vì thấy mình chẳng có gì để đầu tư cho cuộc sống
vĩnh cửu.
“Vì không biết ngày và
giờ, chúng ta phải theo lời Chúa dạy, luôn tỉnh thức, để khi cuộc đời độc nhất
của chúng ta ở trần gian chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với
Ngài…”. Tỉnh thức có nghĩa là chúng ta phải sống mỗi ngày như là một ngày cuối
cùng, “cố gắng làm đẹp lòng Thiên Chúa trong mọi việc”.
Một vị linh mục lớn
tuổi đã kể lại câu chuyện sau đây. Xưa kia ở New York, có một bà mẹ sống với
một người con trai. Chẳng may đứa con trai bị bệnh nặng. Bà mẹ không còn mong
muốn gì hơn là tìm gặp được người thầy thuốc giỏi chữa lành bệnh cho con bà. Bà
nghe người ta đồn về một ông bác sĩ rất giỏi từ Vienna, Aùo quốc, sẽ ghé thăm
thành phố New York, và bà hy vọng sẽ mang đứa con trai đến cho ông chữa bệnh.
Vào một buổi tối mùa đông, thời tiết rất xấu, bên ngoài trời mưa lạnh, bà nghe
rõ có tiếng gõ cửa. Mở hé cửa ngó ra ngoài bà chỉ nhìn thấy một người đàn ông
tóc phủ bờ vai cùng với bộ râu dài và lướt thướt. “Thưa bà, trời đêm tối lạnh
lẽo và ướt át, tôi có thể vào nhà bà được không?” Người đàn ông hỏi. “Rất
tiếc,” người đàn bà nói, “tôi không thể đón tiếp ông được!” Rồi bà đóng sầm
cánh cửa và khóa kín lại.
Ngày hôm sau, người
đàn bà mở tờ nhật báo ra. Ngay trang nhất, bà đọc được hàng chữ lớn in đậm: “Vị
Bác Sĩ Nổi Tiếng Từ Vienna Viếng Thăm New York.” Phía dưới hàng chữ là bức hình
chụp của ông bác sĩ. Với sự ngạc nhiên và buồn rầu, đây chính là người đàn ông
tóc dài với bộ râu lướt thướt đã gõ cửa nhà bà tối hôm qua!
Trái với sự tỉnh thức
là ngủ mê. Ngủ mê trong ảo tưởng của tội lỗi, vật chất và trần gian. Thánh
Phaolô khuyên dạy dân thành Thêxalônica như sau: “Thưa anh em, anh em không ở
trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con
cái ánh sáng, con cái của ban ngày. Chúng ta không thuộc về đêm, cũng không
thuộc về bóng tối. Vậy chúng ta đừng ngủ mê như những người khác, nhưng hãy
tỉnh thức và sống tiết độ”.
Vài thập niên vừa qua,
thành phố Pittsburgh, nơi có nhiều xưởng thép và những lò luyện kim vĩ đại gây
nên những tiếng đập ồn ào suốt ngày đêm. Dân chúng sống chung quanh vùng này đã
quen tai với những tiếng búa, tiếng nện đến nỗi họ vẫn ngủ yên an bình. Quả
vậy, tiếng động đã ru họ ngủ ngon giấc. Nhưng vào một đêm, bất chợt tai nạn xảy
đến làm ngưng trệ một nhà máy lớn. Tiếng nện ồn ào ngưng hẳn. Và mọi người đã
tỉnh thức.
Có một điều gì đó
giống như vậy cần xảy ra cho đời sống thiêng liêng của chúng ta. Chúng ta đang
bị vây hãm bởi sự ồn ào và những cám dỗ chia trí xung quanh. Chỉ có một điều
giúp tỉnh tức là sự im lặng. Sự im lặng thực sự của tâm hồn sẽ mang lại an bình
và nghe được tiếng Chúa như lời khuyên của thánh Ingatiô Antiôkia: “Lời của
Chúa phán ra trong thinh lặng”.
Thánh Phaolô đã khuyên
chúng ta: “Đêm sắp tàn, ngày gần hết. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội, không ăn
uống say xưa, không chơi bời dâm đãng, không tranh chấp ghen tị, chớ lo lắng
thỏa mãn những dục vọng xác thịt”.
“Các con phải sẵn
sàng” (Mt 24,44) vì “đêm sắp tàn, ngày gần đến” (Rm 13,12). “Hãy bước đi trong
ánh sáng của Chúa” (Is 2,5).
Đó là lời mời gọi cấp
thiết khởi đầu cho một năm phụng vụ. Thế là một mùa Vọng lại về. Bao tâm hồn
lại nao nức chuẩn bị cho ngày lễ Giáng sinh sắp đến.
“Đêm sắp tàn, ngày gần
tới” rồi sao? Nhưng khi nào là đêm và lúc nào là ngày? Làm sao biết được ranh
giới giữa ngày và đêm?
Một vị sư phụ đã nêu
câu hỏi với các học trò của mình: “Chúng con có biết khi nào đêm chấm dứt và
lúc nào ngày bắt đầu?” Một anh nhanh nhảu: “Thưa thầy, ấy là lúc ta thấy một
con vật từ đàng xa và phân biệt được nó là con bê hay con lừa.” Một anh khác,
sau lúc suy tư cũng xin góp ý: “Thưa thầy, khi nào ta nhìn thấy người bộ hành
và phân biệt được là thù hay bạn.” Nhiều câu trả lời khác cũng được đưa ra
nhưng dường như vị sư phụ không thoáng một chút hài lòng. Cuối cùng cả đám nhao
nhao xin thầy giải thích. Sau phút trầm ngâm như muốn thấm sâu giòng tư tưởng,
vị sư phụ lên tiếng: “Khi nào các con nhìn vào tha nhân và nhận ra đó chính là
anh chị em mình thì đêm đã tàn và ngày đã tới.”
Thế ra không phải việc
“phân biệt” con vật này hay con vật kia hoặc người này hay người nọ, song là
“nhận ra” tha nhân là anh chị em mình, mới làm cho bóng tối tan đi và ánh sáng
toả rạng.
Đêm đen sẽ mãi thống
trị tâm hồn nếu đời tôi cứ đắm chìm trong hiềm khích, hận thù, bất công, chia
rẽ, vô luân, lừa dối. Còn khi để cho yêu thương dẫn lối cuộc sống, ngày mới
cuộc đời đã bắt đầu lên ngôi, nhờ ánh quang soi tỏ mọi lối đường.
Nỗi khát mong đợi chờ
cho ánh sáng tình yêu thống trị địa cầu đã bắt đầu thành sự khi Đức Giêsu là
“Mặt Trời Công Chính” bừng lên và cũng là “Hoàng tử Bình An” ngự đến.
Ấy thế mà dường như
nỗi khát mong đợi chờ ấy vẫn không ngừng lập đi lập lại. Phải chăng vì tâm hồn
nhân thế cứ bị bóng đêm của thế gian đe dọa chiếm đoạt, nên ước nguyện ánh sáng
chân lý chiếu soi vẫn mãi là đặc tính của mùa Vọng hằng năm?
Ngày xưa, theo truyền
thuyết của dân Rôma, tối 24 tháng 12 là ngày sinh của thần mặt trời, để rồi
sáng hôm sau vị thần đó vươn mình đứng lên mang lại ánh sáng và sự sống cho
nhân gian. Thế nên, khắp cùng đế quốc, người ta mừng lễ Natalis Solis Invicti
vào ngày đông chí, tức là ngày 25 tháng 12, khởi đầu thời kỳ thần ánh sáng
thắng vượt tối tăm, bước qua giai đoạn ngày dài hơn đêm.
Vào năm 336, Đức Giáo
Hoàng Jules I đã ấn định ngày đông chí như ngày kỷ niệm Đức Giêsu – “Mặt Trời
Công Chính” – đã giáng sinh cho nhân loại. Thế là ngày lễ ngoại giáo đã được
Kitô hoá. Nét truyền thuyết và thần thoại được thay bằng tính chất xác thực của
biết cố Nhập thể.
Từ đó trở đi, cứ mỗi
lần sắp đến 25 tháng 12, giáo dân khắp nơi nô nức chuẩn bị tâm hồn cho ngày đại
lễ Giáng Sinh. Họ không ngừng ăn chay hãm mình, quảng đại thứ tha, đổi mới đời
sống, chờ mừng ngày Chúa ngự đến. Dần dần những việc làm đó trở thành đặc tính
căn bản của mùa Vọng, mùa trông mong ngày sinh nhật Đấng Cứu thế.
Đã bao mùa Giáng sinh
trôi qua, nhưng có lẽ “tính chất căn bản” của mùa Vọng đó đã phai mờ trong lòng
nhiều người. Khi xưa, Giáo hội Kitô hóa ngày lễ ngoại giáo thành lễ Giáng sinh
để hướng con người đến với nguồn sáng và nguồn sống đích thực. Còn hôm nay,
không chừng tôi lại đang tục hóa ngày lễ thiêng liêng kia để rồi lòng mình cứ
mãi lắng lo trong bao sự đời.
Ngày xưa mùa Vọng đã
trở nên lời nhắc nhở canh tân lối sống, sửa sang tâm hồn, dọn lòng mừng Chúa
đến. Còn hôm nay, không chừng tôi chỉ nghĩ đến trang hoàng nhà cửa, giăng thêm
đèn màu, mua sắm quà cáp chuẩn bị cho những cuộc liên hoan say sưa, cuồng loạn,
có khi... tội lỗi.
Một lần nữa, lời nhắn
nhủ trong thơ của Thánh Phaolô lại thức tỉnh hồn tôi: “Đêm sắp tàn, ngày gần
đến. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mang khí giới ánh sáng. Hãy đi đứng
đàng hoàng như giữa ban ngày, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng,
không tranh chấp ganh tị. Nhưng hãy mặc lấy Chúa Kitô, và chớ lo lắng thoả mãn
các dục vọng xác thịt”. (Rm 13,12-14)
Thực hành lời khuyên
nhủ trên là khởi sự Kitô hoá cuộc đời, là sống trọn vẹn hơn ý nghĩa của mùa
Vọng năm nay, và chắc chắn, là bắt đầu cảm nếm niềm vui nhiệm mầu sâu lắng
trong lễ Giáng sinh sắp đến.
Hôm nay, chúng ta bước
vào Mùa Vọng, vào một năm phụng vụ mới của Giáo Hội. Giáo hội mời gọi chúng ta
phải nỗ lực canh tân đời sống đức tin và lòng nhiệt thành truyền giáo để đón
Chúa Giêsu xuống thế làm người.
Thật vậy, trong mùa
Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta nhớ lại việc Chúa Giêsu đã sinh ra làm người để
cứu chuộc nhân loại nơi hang Bêlem, và việc chúng ta phải chuẩn bị để chào đón
Người trở lại trong vinh quang để phán xét thế gian. Đồng thời, chúng ta cũng
được mời gọi phải luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống
hàng ngày nơi mọi người, mọi vật, mọi biết cố nhỏ to, nhất là nơi Thánh kinh,
Thánh Thể và các bí tích của Hột Thánh, để chuẩn bị sẵn sàng gặp gỡ Chúa trong
giờ chết, khi Chúa đến đưa chúng ta về bên Người trong cõi vĩnh hằng.
Chúng ta có cảm nghĩ
và phản ứng gì khi nhớ đến việc Chúa đã xuống thế làm người hơn 2000 năm trước
đây? Chúng ta phải làm gì để chào đón Người trở lại lần thứ hai? Chúng ta đã
luôn tỉnh thức để nhận biết và tiếp đón Chúa trong cuộc sống hàng ngày chưa?
Chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng để hân hoan đón nhận cái chết ngay giây phút này
đây, như một cuộc gặp gỡ mà chúng ta hằng chờ mong để được chiếm hữu Chúa trong
cõi vĩnh hằng chưa?
Nếu giờ đây lòng chúng
ta không rộn ràng sung sướng vì tin vui Chúa đã giáng trần, nếu hiện nay chúng
ta không thao thức mong chờ Chúa đến trong vinh quang, nếu lúc này chúng ta
chưa cảm nhận hiện diện đầy quyền năng và tình thương của Chúa trong cuộc sống
hàng ngày, nếu bây giờ chúng ta còn sợ chết, thì đó là dấu hiệu chắc chắn cho
thấy chúng ta chưa sẵn sàng đón tiếp Chúa. Đó là dấu chúng ta chưa thực sự tin
Chúa, chưa thực sự biết Chúa, chưa thực sự yêu Chúa, chưa thực sự thuộc về
Chúa. Đó là dấu chúng ta còn đang ngủ, đang mê, đang sống trong bóng đêm tội
lỗi.
Trong Tin Mừng của
phụng vụ hôm nay, một lần nữa Chúa đang nói với chúng ta một cách khẩn thiết và
thân thương như Chúa đã nói với các môn đệ khi xưa: “Hãy tỉnh thức... hãy sẵn
sàng...”
Chúa đã nhắc đến việc
Nôê đóng tàu để cứu sống ông và gia đình khi đại hồng thủy đến trong khi dân
chúng cùng thời với ông tiếp tục sống buông thả theo dục vọng và tội lỗi của
họ. Người dạy các môn đệ đừng bắt chước những người đồng thời với Nôê. Những
người thời Nôê đã dại dột không biết lắng nghe ông và cố ở lì trong nếp sống sa
đọa tội lỗi nên đã bị tru diệt. Chúa muốn các môn đệ của Người noi gương Nôê,
biết tỉnh thức làm theo lời Chúa, đóng tàu và lên tàu với hy vọng được cứu
sống.
Trong xã hội hôm nay,
nhiều ngưởi trong chúng ta còn dại dột hơn những người đồng thời với Nôê bội
phần. Vì chúng ta đã thấy đại lụt bắt đầu rồi mà vẫn lì lợm không chịu bước vào
con tàu hy vọng Chúa đã sắm sẵn cho chúng ta. Vì chúng ta đã được chính Chúa
Giêwu – Con Thiên Chúa làm người, chứ không phải một người phàm như Nôê – cảnh
cáo và kêu gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng, nhưng chúng ta vẫn giả điếc làm ngơ.
Hiện nay, trên thế
giới có hơn 50 triệu thai nhi bị giết hàng năm một cách hợp pháp tại hầu hết
các quốc gia. Đa số các cặp vợ chồng đi ngược lại luật Chúa khi xử dụng các
phương thế ngừa thai nhân tạo hay tuyệt sản để tránh bổn phận phục vụ sự sống.
Bao gia đình tan rã vì ly dị. Việc ăn chung ở chạ được nhiều người coi là
chuyện bình thường. Phim ảnh và sách báo đua nhau khai thác bản năng tính dục
của quần chúng. Không ít linh mục và giám mục Công giáo hổ thẹn vì giáo huấn
chân thực của Hội thánh về luân lý liên quan đến hôn nhân và tính dục. Nhiều
tín hữu dù đã đủ ăn đủ mặc vẫn gian lận trợ cấp xã hội dành cho người cùng khổ.
Có những chủ nhân Công giáo bóc lột nhân công cách tàn nhẫn. Có không ít những đố
kị ghen ghét bôi lọ nhau diễn ra ngay trong sinh hoạt của các giáo xứ và cộng
đoàn Kitô hữu. Đó là chưa kể đến những gương xấu của những người lãnh đạo tên
tuổi và những cuộc chém giết bạo động được ghi nhận trên báo chí hàng ngày.
Những sự kiện kinh hoàng
trên đây không đủ để làm thành một thứ “văn hóa tử vong” hay một cuộc đại hồng
thủy của tội lỗi còn ghê tởm hơn cuộc đại lụt thời Nôê đó ư? Lời kêu gọi thống
thiết của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II và các vị chủ chăn chính trực của Hội
Thánh nhằm ngăn chặn các tội ác chống lại sự sống và phẩm giá con người không
phải là sự lập lại lời kêu gọi của ông Nôê hay của chính Chúa Giêsu khi xưa
sao?
Nôê và gia đình của
ông năm xưa đã được cứu thoát khỏi đại hồng thủy vì đã đóng tàu và vào tàu như
lời Chúa truyền dạy. Con tàu Nôê đã là biểu tượng của hy vọng và của ơn cứu độ.
Cũng vậy, ngày nay
chúng ta sẽ được cứu thoát khỏi cơn đại lụt của tội lỗi đang dâng tràn trên thế
giới, nếu chúng ta biết nổ lực xây dựng và gắn bó với con tàu hy vọng là Hội
Thánh Công Giáo – Nhiệm thể Chúa Kitô và sự Hiện diện nối dài của chính Chúa
Kitô – và lắng nghe mệnh lệnh của viên thuyền trưởng là chính Chúa Kitô mà Đức
thánh Cha là vị đại diện hữu hình của Người.
Trong con tàu hy vọng
ấy, chúng ta không những được bảo đảm thoát khỏi hiểm họa của đại lụt của tội
lỗi, mà còn được diễm phúc gặp gỡ và kết hợp mật thiết với Chúa Kitô qua Lời
Chúa và các bí tích của Hội thánh cũng như các hoạt động bác ái và truyền giáo
của Hội thánh.
Những cây đinh, những
tấm ván, và những cây cột mà chúng ta dùng để dựng xây con tàu Hội thánh chính
là những lời cầu nguyện, những hy sinh hãm mình, những hành động yêu thương và
những hoạt động tông đồ mà chúng ta thực hiện trong sự yêu mến, vâng phục và
hiệp nhất với Hội thánh.
Chúng ta có tỉnh thức
và sẵn sàng để cùng các môn đệ yêu quý của Chúa Kitô qua mọi thời đại bước vào
con tàu hy vọng của Hội thánh và nỗ lực góp phần xây dựng Hội thánh chưa?
Một lần nữa, chúng ta
hãy nghe thánh Phaolô – một trong những người có công đầu trong việc dựng xây
và lèo lái con tàu Hội thánh theo ý Chúa Kitô – mời gọi chúng ta chuẩn bị để
bước lên tàu hy vọng với những lời tha thiết như sau:
“Phải như thế, vì anh
em biết thời buổi (nào ta đang sống). Đã đến giờ anh em phải tỉnh ngủ thức dậy,
vì nay ơn cứu thoát đã gần ta hơn là khi ta mới tin. Đêm hầu tàn, ngày sắp đến.
Vậy ta hãy vất bỏ những vật tối tăm và hãy mặc lấy khí giới sự sáng. Như giữa
ban ngày, ta hãy sống đoan trang, chứ không phải trong chè chén và say sưa,
trong dâm dật và phóng đãng, trong kình địch và ghen tuông. Nhưng anh em hãy
mặc lấy Đức Kitô và đừng lo toan về xác thịt, cho thỏa các đam mê.” (Rm
13,11-14)
Lạy Mẹ Maria là nguồn
hy vọng và cậy trông của chúng con, xin Mẹ chuyển cầu cùng Chúa Giêsu cho hết
thảy chúng con trong năm phụng vụ mới nầy và suốt cả đời chúng con, ơn luôn
nhận biết Hội thánh chính là con tàu hy vọng Chúa đã ban cho nhân loại để chúng
con được ơn cứu rổi. Xin Mẹ cầu cùng Chúa cho chúng con luôn trung thành, yêu
mến và vâng phục Hội thánh và Đức thánh cha để luôn được kết hợp mật thiết với
Chúa Giêsu Kitô Con Mẹ. Amen.
Đoạn Tin mừng hôm nay
làm cho chúng ta liên tưởng tới cái chết. Dầu vậy, Chúa không muốn cho cuộc đời
chúng ta chìm trong một màu tang tóc và một bàu khí nơm nớp lo sợ, nhưng để
chúng ta luôn sẵn dàng và nhìn cái chết bằng cặp mắt lạc quan.
Đúng thế, có một câu
danh ngôn đã bảo:
- Cái chết thì chắc
chắn, nhưng giờ chết thì lại bấp bênh vô định.
Có một mẩu chuyện cổ
tích kể lại rằng: Vào một buổi sáng mùa xuân, thày dòng giữ cửa trong một tu
viện, nghe thấy tiếng chim hót véo von. Thày ngước mắt trông xem và nhìn thấy
một con chim họa mi rất đẹp, thày liền đuổi theo, con chim cứ bay một quãng rồi
lại dừng, làm thày miệt đuổi theo, đến lúc thày lạc vào một khu rừng vắng thì
con chim biến mất.
Thày tìm đường trở lại
nhà dòng. Mãi tới chiều mới về đến. Cửa nhà dòng đóng chặt, thày nhấn chuông và
một người ra mở cổng. Thày ngơ ngác nhìn người lạ mặt và những sự đổi thay
trong nhà dòng. Thày tự giới thiệu nhưng không một ai nhận biết. Mãi sau cha bề
trên đem sổ sách ra tìm tòi, thì mới thấy một thày canh cổng trùng tên đã mất
tích cách đây 100 năm. Một trăm năm trôi qua mà thày cứ tưởng như là một tiếng
chim hót.
Thời giờ thấm thoát
tựa thoi đưa, vụt đến rồi vụt đi như ngựa hồng qua khung cửa. Và một khi đã qua
đi thì không bao giờ trở lại, như người ta thường bảo:
- Không ai tắm hai lần
trên cùng một dòng sông.
Mới hôm nào tôi còn là
một đứa bé, đầu để chỏm ba quả đào, mà hôm nay đã ngoài năm mươi, để rồi bắt
đầu bước vào tuổi già.
Những em thiếu nhi
đang ngồi đây, nhưng rồi 20, 30, 40 năm nữa sẽ như thế nào? Nhất là còn bao lâu
nữa sẽ đến giây phút trọng đại, giây phút cuối cùng của cuộc đời tôi. Nói như
thế, chắc hẳn sẽ có người cho tôi là lẫm cẩm, vì họ nghĩ rằng:
- Đời mình còn dài và
cứ dệt nhiều ước mơ, thân xác mình còn đầy tràn nhựa sống và hăng say hoạt
động.
Nhưng chúng ta sẽ lầm,
cái chết không dành riêng cho một người nào đó. Nó muốn gọi ai, thì người ấy
phải bước theo nó, dù là vua chúa quyền uy. Nó không bao giờ phân biệt giai
cấp, tuổi tác cũng như ngôn ngữ vàchủng tộc.
Trên mộ bia của của
một thanh niên người ta đọc thấy dòng chữ:
- Cái chết thật vô lễ
vì nó dám kéo người trai trẻ này đi trước cụ già.
Một làn gió nhẹ, một
sơ suất nhỏ bé cũng đủ đưa chúng ta sang thế giới bên kia bất cứ lúc nào. Ý
thức được sự mỏng manh, bèo bọt của kiếp sống là như thế, nên thái độ cần phải
có, đó là hãy tỉnh thức và sẵn sàng.
Đúng thế, cách đây khá
lâu tôi quen một gia đình ở Sài gòn. Mùa hè năm ấy, sau khi cậu con trai đỗ tú
tài phần hai, cả gia đình rủ nhau đi Vũng tàu. Buổi sáng Chúa nhật trời trong
xanh, giữa lúc mọi người đùa giỡn với sóng biển, thì cậu con trai bơi ra xa, xa
hơn một chút và rồi cậu không bao giờ trở lại nữa.
Một xoáy nước nào đó
đã cuốn mất cậu, người ta tìm kiếm hoài mà cũng không thấy, mãi sau xác cậu nổi
lên và dạt vào bờ.
Thế nhưng, chúng ta có
biết được niềm an ủi độc nhất của người cha và người mẹ đáng thương ấy không?
Hai ông bà đã nói với tôi rằng:
- Nó mới xưng tội và
vẫn còn rước lễ sáng hôm đó.
Thật tốt đẹp nếu chúng
ta có một linh hồn được chuẩn bị sẵn sàng, bằng không thì chúng ta sẽ mất cả
chì lẫn chài, mất cả vốn lẫn lãi, mất cả đời này lẫn đời sau.
Trên mộ bia của những
người thời xưa, chúng ta thường thấy ghi háng chữ tuyệt vời:
- Người này đã chết
sau nụ hôn của Chúa.
Chúng ta hãy sống thế
nào, để dù Chúa có đến vào lúc chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết
thì chúng ta vẫn sẵn sàng, vẫn bình an và vui sướng. Vậy mỗi ngày sống, chúng
ta có biết chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng này hay không?
Trong cơn hấp hối,
người ta đã hỏi thánh nữ Marguerite Alacoque rằng:
- Còn cần sự gì nữa
chăng?
Thánh nữ đã trả lời:
- Không, vì tôi đã sẵn
sàng.
Cũng vậy trong giờ
chơi, một xơ đã hỏi các em nhỏ:
- Nếu như bây giờ được
Chúa gọi về, các em sẽ làm gì?
Em thì bảo sẽ giục
lòng ăn năn tội cách trọn, em thì bảo sẽ vào nhà thờ đọc kinh cầu nguyện. Thế
nhưng có một em đã trả lời:
- Phần con, con vẫn
tiếp tục chơi như thường vì con đã sẵn sàng.
Em bé ấy sau này đã
trở nên một vị thánh đó là thánh Gioan Berchmans.
Nếu hôm nay tôi phải
đến trước tôn nhan Chúa, liệu tôi đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa? Tôi
đã trả hết những món nợ đối với Chúa và đối với anh em hay chưa? Tôi đã tẩy xóa
hết những vết nhơ tội lỗi qua bí tích cáo giải hay chưa?
Nếu chúng ta biết sửa
soạn ngay từ ngày hôm nay, nếu mỗi khi chiều xuống chúng ta biết xét mình, tự
vấn lương tâm và chỉ ngủ yên khi nào linh hồn mình đã được gột rửa qua tâm tình
thống hối, nếu chúng ta giữ được màu trắng của tấm áo ngày rửa tội, nếu chúng
ta giữ được ngọn nến đức tin luôn bừng cháy, thì thật là hạnh phúc và giờ chết
không còn là giờ kinh hoàng và đáng sợ nữa.
Nếu bây giờ chúng ta
biết chuẩn bị sẵn sàng, thì khi Chúa đến, chúng ta sẽ không chết, nhưng chính
lúc ấy chúng ta mới bát đầu sống. Cuộc sống nơi trần thế là một chuyến viễn du
trong đêm tối hay trên mặt biển dậy sóng. Nhưng ở đằng kia bình minh đang ló
dạng và Thiên Chúa đang mở rộng vòng tay chào đón chúng ta nơi bờ bến hạnh
phúc.
Hãy sống để chuẩn bị
cho cái chết và hãy chết để được sống muôn đời.
Càng ngày các thiên
tai càng xảy ra nhiều hơn trên toàn thế giới. Bão tố, lũ lụt, động đất, hạn
hán…Và sự tàn phá của các thiên tai thật là khủng khiếp. Các bình luận gia cho
rằng: Một trong những nguyên nhân đưa đến sự thiệt hại lớn lao về sinh mạng và
tài sản do các thiên tai gây ra, đó là vì người ta thiếu cảnh giác và đề phòng.
Thực vậy, nếu những nơi nào người ta biết cảnh giác, biết đề phòng thì sẽ tránh
được nhiều thiệt hại do thiên tai đem đến.
Tại Việt Nam, các cơn
bão, các trận lũ lụt thường xảy ra vào khoảng tháng 11, tháng mà Giáo hội nhắc
nhở người Kitô hữu suy nghĩ về sự chết. Thời gian này cũng là những tuần lễ
cuối cùng của năm phụng vụ và bắt đầu một năm phụng vụ mới. Các bài đọc Lời
Chúa trong các thành lễ của thời gian này nói nhiều về ngày cùng tận của thế
giới và về ngày cùng tận của mỗi người. Đó là những biến cố quan trọng mà con
người không thể dửng dưng. Trái lại, phải biết cảnh giác, biết đề phòng để khi
những biến cố ấy xảy đến, chúng không hủy diệt con người và cuộc sống của mình.
Quả là một sự trùng hợp về thời gian rất đáng để chúng ta suy nghĩ.
Tổng kết các thiệt hại
chúng ta thấy rằng: Thiên tai thường cất đi mạng sống của nhiều người. Trong số
đó có những con người còn rất khỏe mạnh, rất trẻ trung. Có lẽ gia đình và bản
thân những người ấy đã không nghĩ rằng họ sẽ chết trong tình trạng sức khỏe và
tuổi tác như thế. Vậy mà họ đã chết. Thì ra, sức khỏe và sự trẻ trung không
phải là những thế lực có thể thắng được cái chết.
Trong số những người chết
vì thiên tai, cũng có những người nắm giữ những chức vụ quan trọng trong xã
hội, có những người giàu sang quyền quí, có những người học cao hiểu rộng,
thông minh tài trí…Có thể họ là những người cần thiết và hữu ích cho nhân loại,
thế nhưng, cái chết vẫn không chừa họ ra.
Các thiên tai cũng phá
đổ nhiều công trình kiến trúc, nhiều ngôi nhà cao tầng kiên cố, đã quét sạch
tài sản của nhiều người. Những cao ốc và những tài sản này có khi là công sức
của nhiều thế hệ mới tạo lập nên được. Người ta đã tưởng chúng sẽ có thể tồn
tại lâu dài theo năm tháng và sẽ là điểm tựa, là chỗ ẩn náu vững chắc cho cuộc
sống. Vậy mà chỉ trong nháy mắt,tất cả đã biến thành tro bụi.
Thế đấy! Những gì mà
người ta nghĩ rằng không thể đến thì chúng đã đến. Những gì mà người ta nghĩ
rằng chúng chưa xảy ra thì chúng đã xảy ra. Và khi sự việc đã xảy ra thì người
ta mới tỏ ý hối tiếc. Hối tiếc rằng: Phải chi họ đã cảnh giác đề phòng, đã tiên
liệu, thì hậu quả đâu đến nỗi bi đát như vậy. Phải chi đài khí tượng thủy văn
đã được trang bị hiện đại hơn để có thể ghi nhận những thay đổi của thời tiết
một cách chính xác và mau lẹ hơn. Phải chi hệ thống thông tin đã loan báo tin
bão khẩn cấp, tin lũ lụt sớm hơn và kịp thời hơn. Phải chi họ đã di dời nhà cửa
trước khi cơn bão lũ xuất hiện. Phải chi họ đã không ra khơi trong những ngày
đó. Phải chi các tàu thuyền đã chuẩn bị phao cứu hộ đầy đủ hơn… Có cả hàng trăm
câu”phải chi”như vậy.
Tuy nhiên, dù người ta
hối tiếc về sự thiếu chuẩn bị, thiếu đề phòng trong những biến cố đã qua, thì
người ta vẫn quên hay cố tình quên không chuẩn bị, không cảnh giác đề phòng một
biến cố khác sẽ đến. Biến cố này quan trọng hơn cả các thiên tai dữ dội nhất và
là biến cố rất quan trọng của một đời người. Biến cố ấy chính là giờ chết của
mỗi người. Biết rằng cái chết sẽ đến, nhưng người ta vẫn né tránh không nghĩ
tới nó. Lý do có thể là người ta sợ hãi khi nghĩ tới giờ chết, tới cái chết của
chính mình. Người ta cũng lo sợ rằng khi nghĩ về giờ chết, về sự chết thì cuộc
đời của họ sẽ bị đảo lộn. Thật vậy, khi nghĩ tới giờ chết một cách nghiêm túc,
người ta sẽ phải thay đổi đời sống, sẽ phải bỏ đi một lối sống buông thả, một
lối sống ươn lười chỉ thích hưởng thụ, sẽ phải bỏ đi những lợi nhuận bất chính,
bỏ đi những đam mê thấp hèn, bỏ đi những khoái lạc mang nặng thú tính v.v… Phải
bỏ đi những trái cấm ngọt ngào ấy quả là đáng tiếc. Vì thế, người ta ngại nghĩ
đến giờ chết của mình. Nhưng dù nghĩ tới hay không thì giờ chết vẫn cứ đến như
một thứ định mệnh không thể né tránh. Đối với những ai không chuẩn bị để đón
nó, cái chết sẽ như những thiên tai khủng khiếp hủy diệt tất cả.
Lời Chúa hôm nay kêu
gọi ta hãy tỉnh thức, hãy cảnh giác đề phòng. Đề phòng bằng cách đứng thẳng và
ngẩng đầu lên. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để thấy được trời cao lồng lộng ở
trên đầu mình chứ không phải chỉ có cuộc tạm gửi này. Đứng thẳng và ngẩng đầu
lên để hướng tới hạnh phúc đích thực và trường cửu chứ không chỉ biết bám vào
những thứ hạnh phúc mau qua. Đứng thẳng và ngẩng đầu lên để vươn tới tầm cao
của sự thánh thiện chứ không chỉ biết cúi xuống với những lời mời chào của tội
lỗi.
Một người thuộc bộ lạc
miền núi cả đời như chưa từng thấy ánh sáng văn minh. Một hôm ông được đưa
xuống thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên, ông giật mình thức giấc vì tiếng
trống vang cùng khắp đô thị. Sau khi được người chung quanh cho biết đó là
tiếng trống báo động về một cuộc hỏa hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Người dân
miền núi nhìn ngọn lủa đang bốc cháy tại một góc trời, rồi ông trở lại giường
ngủ tiếp.
Trở về làng, ông báo
cáo với các chức sắc trong làng như sau: Người dân thành thị có một hệ thống
chữa cháy rất kỳ diệu. Khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa
được dập tắt ngay tức khắc. Nghe nói thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ
các loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hòa hoạn xảy đến trong
làng, tất cả dân làng đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ
xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa cứ vô tình thiêu rụi từ căn nhà này
đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng và thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ
lạc và được nghe kể lại diễn tiến cơn hỏa hoạn, một người dân thành thị mới
giải thích cho dân làng như sau: Các người thật ngây ngô, các người tưởng tiếng
trống có thể dập tắt được ngọn lửa ư? Không phải thế đâu. Tại thành phố, người
ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy,
chứ không ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Qua đoạn tin mừng hôm
nay, Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay mà
chờ đợi. Để nói lên sự tỉnh thức đích thực, Chúa Giêsu dùng hình ảnh người đầy
tớ đêm ngày trung thành với công việc được chủ trao phó. Sự tỉnh thức mà Chúa
Giêsu kêu mời là một sự tỉnh thức tích cực đòi hỏi lao tác và phấn đấu. Thánh
Phaolô cũng nhắc nhở cho các tín hữu Thessalonica về thái độ tích cực tỉnh thức
ấy. Trong những năm đầu của Kitô giáo, một số tín hữu tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ
trở lại trong một sớm một chiều, nên họ ăn không ngồi rồi và dây mình vào
chuyện người khác. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy tỉnh thức bằng cách hăng say
lao động và thực thi bác ái.
Tỉnh thức là thái độ
cơ bản của người Kitô hữu. Toàn bộ thánh kinh là một lời mời gọi tỉnh thức, bởi
vì Thiên Chúa là đấng đang đến trong từng phút giây cuộc đời, trong từng biến
cố và trong mỗi con người. Tỉnh thức để nhận ra Ngài và nhất là đáp trả một
cách tích cực tiếng gọi của Ngài, Ước gì cuộc sống đức tin của chúng ta không
chỉ là tiếng trống khua inh ỏi trong bốn bức tường nhà thờ, mà phải được thể
hiện bằng những gặp gỡ để cảm thông và phục vụ.
Chúng ta bắt đầu mùa
vọng với hai đặc tính: vừa chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh, kính nhớ việc con Thiên
Chúa đến lần thứ nhất, vừa trông đợi Ngài đến lần thứ hai trong ngày tận thế.
Vì vậy, mùa vọng được coi là mùa sốt sắng và hân hoan trông chờ.
Qua đoạn tin mừng sáng
hôm nay chúng ta thấy: Chúa Giêsu nói Ngài sẽ trở lại, nhưng không xác định
thời giờ. Vì thế, bổn phận của chúng ta không phải là tìm hiểu xem bao giờ ngày
trọng đại ấy sẽ xảy ra, nhưng là chuẩn bị cho mình bằng cách tỉnh thức và săn
sàng, bởi vì ngày đó sẽ đến thật hết sức bất ngờ cho những kẻ miệt mài chạy
theo vật chất trần gian. Trong câu chuyện ngày xưa, Noe đã chuẩn bị cho mình
khi thời tiết còn tốt, hầu sẵn sàng cho trận đại hồng thủy, đang khi ấy, những
kẻ còn lại thì mải mê ăn uống, cưới gả, nên đã bị nước lụt cuốn trôi. Vì thế,
đừng miệt mài trong cõi đời tạm mà quên đi cõi sống đời đời, đừng quá quan tâm
đến thế gian, mà quên rằng có một Thiên Chúa và vấn đề sống hay chết đều nằm ở
trong bàn tay của Ngài. Bất kỳ khi nào Ngài gọi, ban sáng, ban trưa, ban chiều
hay ban tối, chúng ta đều phải sẵn sàng.
Một tên trộm sẽ không
bao giờ gửi thư báo trước mình sẽ viếng thăm nhà nào. Lợi thế của hắn ta chính
là sự bất ngờ. Vì vậy chủ nhà lúc nào cĩng phải canh chừng. Tuy nhiên, chúng ta
cần phải nhớ rằng: Chúa cảnh giác chúng ta chứ không chơi khăm chúng ta bằng
cách cứ nhắm vào lúc chúng ta sơ hở mà trở lại. Hơnthế nữa, người Kitô hữu
không trông chờ trong sợ hãi kinh khiếp, nhưng trông chờ trong hân hoan vui
mừng vì Chúa sẽ đến và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta.
Ông thanh tra khi đến
thăm một trường tiểu học đã nói với các em học sinh rằng:
- Tôi sẽ trở lại đây.
Vậy từ nay cho đến ngày tôi trở lại, em nào giữ được bàn mình sạch gọn thì sẽ
được thưởng.
- Vậy bao giờ ông trở
lại?
- Chưa biết hôm nào.
Trong số các học sinh
có một cô bé quả quyết rằng mình sẽ chiếm được phần thưởng. Ai nghe cũng phải
mỉm cười vì cô bé ấy nổi tiếng là lười biếng. Có người hỏi:
- Bàn của cô có bao
giờ sạch đâu mà mong được thưởng?
- Từ nay, mỗi buổi
sáng tôi sẽ thu xếp một lần.
- Nhưng nếu ông thanh
tra đến vào buổi chiều hay buổi tối thì sao?
Cô bé yên lặêng một
lúc rồi nói:
-Tôi hiểu rồi, như thế
thì lúc nào tôi cũng phải giữ bàn của tôi cho được sạch sẽ và gọn ghẽ.
Nếu chúng ta muốn được
Chúa ân thưởng thì chúng ta cũng phải tỉnh thức và săn sàng như vậy.
Chúa sẽ đến nhưng bao
giờ Ngài đến thì đó là một điều bí ẩn, bởi vì Ngài sẽ đến vào ngày chúng ta
không ngờ vào giờ chúng ta không biết. Vì thế phải luôn tỉnh thức và sẵn sàng.
Đồng thời thái độ nguy hiểm nhất đó là cứ cho rằng mình còn nhiều thời giờ.
Trong một cuộc đại hội
của quỉ sứ, chúng bàn bạc và góp ý xem đâu là phương thế hữu hiệu nhất để cám
dỗ con người. Tên quỉ thứ nhất nói:
- Tôi sẽ bảo cho loài
người biết rằng chẳng có Thiên Chúa.
Tên quỉ thứ hai phát
biểu:
- Tôi sẽ bảo cho họ
hay rằng chẳng có hỏa ngục.
Satan trả lời:
- Các ngươi sẽ không
thể lừa dối được một ai bằng những phương cách đó, bởi vì cho đến ngay hôm nay,
loài người vẫn tin rằng có Thiên Chúa và vẫn biết có một hỏa ngục dành cho các
tội nhân.
Tên quỉ thứ ba hiến
kế:
- Tôi sẽ bảo với loài
người rằng còn nhiều thời gian, nên đừng có vội vã làm chi.
Satan đáp:
- Hãy đi đi, với
phương cách này, chúng ta sẽ làm hại được rất nhiều người.
Ảo tưởng nguy hiểm
nhất chính là ảo tưởng cho rằng mình còn nhiều thời giờ. Cái ngày tai hại nhất
trong cuộc sống con người chính là khi chúng ta học được hai chữ ngày mai và
trì hoãn công việc bởi vì không ai biết ngày mai có còn đến với mình nữa hay không.
Bởi đó, có một câu danh ngôn đã khuyên chúng ta: Việc hôm nay chớ để đến ngày
mai. Lịch sử còn ghi lai nhiều câu chuyện bi thảm.
Viên pháp quan ở
Thebea đang ngồi uống rượu với các dũng sĩ của mình, bỗng có sứ giả bước vào và
báo cho ông hay về một âm mưu sát hại ông. Thay vì lên phương án đối phó. Ông
nói: để đến mai hãy hay. Thế nhưng ngay đêm hôn đó, ông đã bị giết chết.
Một thiếu nữ Mã lai
lấy chồng giàu ở Nữu ước. Ngày kia trên đường từ Cali trở về, cô gặp tai nạn
giao thông và bị thương rất nặng. Lúc còn trẻ, cô là người đạo đức. Tuy nhiên
cuộc hôn nhân đã đưa cô vào một môi trường khác hẳn. Ở đây không còn một ai nói
với cô về Thiên Chúa và cuộc sống vĩnh cửu. Lúc đầu, thái độ và bàu khí dửng
dưng về tôn giáo này làm cho cô khó chịu, nhưng dần dần cô tiêm nhiễm sự xa hoa
để rồi cuối cùng chính cô cũng không còn lưu tân đến Thiên Chúa và linh hồn
nữa. Tai nạn bất ngờ đã kéo cô ra khỏi vùng xoáy của trần gian và ném cô vào
vòng tay tử thần. Cô khắc khoải hỏi vị bác sĩ:Tôi sẽ chết ư? Tôi còn sống được bao
lâu nữa? Chừng một giờ. Nghe vậy toàn thân côrun rẩy. Cô đưa tay che mặt lại và
nằm yên không động đậy trong giây lát. Sau đó, hình như cô lấy hết sức còn lại
và nói: Xin hãy đưa tôi về Nữu ước. Nhưng vị bác sĩ trả lời:
- Không thể được.
Với vẻ thất vọng, cô
nói:
- Tôi đã có thể làm
biết bao nhiêu điều tốt lành với tiền bạc của tôi nếu tôi trung thành với đức
tin. Thế nhưng tôi chỉ nghĩ đến những cuộc giải trí và trang điểm. tôi chỉ còn
sống được một giờ nữa mà thôi. Bây giờ thì đã quá muộn rồi.
Bởi đó, hãy chuẩn bị,
hãy tỉnh thức và hãy sẵn sàng, để chúng ta khỏi phải thốt lên trong tuyệt vọng:
đã quá muộn rồi.
Khi còn trẻ, ta ấp ủ
những hy vọng lớn nhất. Ta tưởng có thể thay đổi được thế giới. Ta hoàn toàn
tin tưởng vào khả năng của mình, và thấy dường như không gì mà không thực hiện
được. Khi đã lớn khôn ta lại thấy khác hẳn. Ta đã gặp thất bại. Ta biết rõ giới
hạn của mình và của những kẻ chung quanh mình hơn. Ta đã biết phát hiện rõ hơn
những gì trong lòng con người… và trong chính con tim của ta nữa. Lúc đó ta trở
thành cụ thể và thực tế, như người ta nói. Ta ngày càng ít ảo tưởng. Có lẽ ta
không bỏ hoàn toàn những giấc mơ tuổi trẻ của mình, nhưng ta nhận thấy rằng
chúng đã tàn phai. Bốn mươi, năm mươi tuổi, thường là thời kỳ mà người ta trở
nên ít nhiệt tình và e ngại trước nhiều sự việc mà trước kia ta cho là chính
yếu. Hòa bình thế giới ư? Lý tưởng đẹp đẽ thật; nhưng ta không bao giờ đạt tới
được đâu! Công lý cho mọi người, lương thực được phân phát đồng đều khắp nơi ư?
Có nhiều không tưởng trong những điều ấy! Nếu thời trẻ say mê tin tưởng sẽ có
được như thế, thì điều khôn ngoan là nên dè dặt hơn khi ta đã lớn tuổi. Những
tháng năm trôi qua, những biến cố xẩy đến trên thế giới, những kinh nghiệm sống
của bản thân, sẽ thử thách niềm hy vọng của chúng ta. Đấy là điều chắc chắn.
Vậy cần có thời gian để thức tỉnh, để làm cho niềm hy vọng ấy trở nên mạnh mẽ
hơn. Mùa Vọng là thời gian cần thiết đó. Năm này sang năm khác, mùa Vọng công
bố lại những lời sấm vĩ đại, nâng đỡ, soi sáng và kích thích tín hữu. Không
tưởng đối với loài người… Dự án đối với Thiên Chúa.
Điều làm chúng ta ngạc
nhiên trong các bản văn của thánh lễ hôm nay là dáng vẻ phi thực tế của chúng.
Đoạn sách ngôn sứ Isaia chúng ta vừa nghe là một thí dụ. Bản văn này loan báo
ngày mà tất cả các dân tộc sẽ hướng về Thiên Chúa, sẽ đón nhận và thực thi giáo
huấn của Ngài. Lúc đó họ sẽ sống trong hòa bình sâu xa nhất, và trong một tình
thương huynh đệ gương mẫu. Các bạn hãy tưởng tượng xem? “Gươm đao sẽ thành cuốc
thành cày, và giáo mác thành liềm thành hái. Nước này sẽ không chống nước kia
nữa, người ta sẽ thôi học nghề chinh chiến. Hết xung đột tại Trung đông! Hết
đấu tranh giữa người da trắng và da đen, người giàu và kẻ nghèo. Hoàn toàn hết
chạy đua vũ trang!... Ta tưởng như mình đang mơ. Thiên Chúa ngây thơ đến thế ư?
Không đâu! Ngài là Thiên Chúa. Ngài toàn năng. Ngài là chủ tể của cái chưa từng
thấy và của cái không thể được. Ngài muốn – và Ngài sẽ thực hiện – một hạnh
phúc hoàn toàn cho những con người mà ngài đã tạo dựng nên”. Thiên Chúa đã cho
thấy những gì Ngài đã làm cho những kẻ thuộc về Ngài rồi. Nhất là Ngài đã tự tỏ
mình ra từ ngày Con Một Ngài là Chúa Giêsu đến ở giữa chúng ta. Ta hãy nhớ!
Chúa Giêsu đã làm cho người què đi được, cho kẻ phong cùi được sạch, đã tha thứ
cho kẻ có tội. Nhờ Ngài, Nước Thiên Chúa đã đến giữa chúng ta, và mỗi ngày một
tiến triển. Đúng là nó tiến triển chậm chạp, và với nhiều khó khăn cản trở. Đôi
khi, dường như nó bị mất đất, diều này cũng đúng nữa. Tuy nhiên Thiên Chúa chăm
sóc tất cả những gì Ngài đã trồng và khi đến giờ Ngài lựa chọn, theo cách của
Ngài, Ngài sẽ biểu dương tất cả sức mạnh của Ngài, tất cả tình thương của Ngài.
Ngày mai sẽ tốt đẹp hơn hôm qua, tốt đẹp hơn hôm nay. Bao nhiêu điều gây ngạc
nhiên đang chờ đợi chúng ta.
Cụ thể hóa niềm hy
vọng
Những gì Thiên Chúa có
thể làm và muốn làm, Ngài đều chờ đợi sự đóng góp của chúng ta. Ngài đòi hỏi
chúng ta cộng tác vào. Trách nhiệm nặng nề, vì chúng ta có thể hợp tác hoặc
chống đối, làm cho nhanh hoặc chậm lại sự tiến triển của Nước Chúa. Để hỗ trợ
sự tiến triển này chúng ta phải là những kitô hữu “Tỉnh thức”, luôn luôn chờ
đợi, luôn luôn đẩy lui sự dữ và làm nẩy sinh sự thiện. Đó là giáo huấn của
thánh Phaolô và của Tin mừng. Chúng ta phải nói với thế giới, như Chúa Giêsu đã
làm, rằng mọi cuộc tái sinh đều có thể được, và bóng tối có thể biến thành ánh
sáng được. Sứ vụ của kitô hữu chúng ta hôm nay, là nhìn thế giới và những con
người sống trong đó với chính cái nhìn của Thiên Chúa: Tức là hành động, bằng
những công việc phản ánh những công việc của Chúa Kitô. Sứ vụ của chúng ta là
bỏ đi những sự nghi nan và những nỗi thất vọng để trở thành như Chúa Kitô, tức
là những con người không bao giờ thất vọng về điều gì cả, bởi vì họ hy vọng mọi
sự từ nơi Thiên Chúa, Đấng không ngớt làm chúng ta ngạc nhiên trong những điều
chúng ta mong đợi.
Vào năm 1987, người ta
cho trình chiếu cuốn phim mang tựa đề: “After day”, nghĩa là “ngày sau đó” kể
lại nghịch cảnh của ít người dân trong thành phố lớn thuộc miền bắc Hoa Kỳ còn
sống sót sau một trận bom nguyên tử. Vụ nổ bom hạt nhân đã xảy ra vì cái điên
loạn của con người khi quyết định dùng vũ khí hạt nhân để hủy diệt sự sống của
mọi sinh vật, thuộc mọi đại lục trên thế giới. Ngày tận thế ấy kéo theo cảnh
chết chóc, hoang tàn đổ nát, đau khổ và thất vọng của những người đang chờ đến
lượt mình phải chết, vì bị nhiễm chất phóng xạ, bị thương tích và bị thiếu đồ
ăn thức uống.
Trong cảnh đổ nát
hoang tàn và chết chóc ấy, những người còn sống sót đã tàn sát nhau để tranh
giành từng miếng bánh, từng chút bột, từng ngụm nước. Trong nháy mắt, thế giới
văn minh của loài người biến khỏi mặt đất và con người phải đứng trước cảnh đổ
nát với hai bàn tay trắng, bất lực và tuyệt vọng.
Các bài đọc trong Chúa
nhật I Mùa Vọng hôm nay cũng nói với chúng ta về ngày tận thế, nhưng không phải
là ngày tận thế bị chết chóc, buồn thương, mà là ngày tận thế khởi đầu cho một
cuộc sống mới. Đó cuộc sống của tự do và của ơn cứu độ. Muốn được như thế,
chúng ta phải sống đẹp lòng Thiên Chúa chứ không phải sống đẹp lòng người ta,
dù người ta ấy có là ai đi chăng nữa. Nhưng phải là gì để làm đẹp lòng Thiên
Chúa đây? Phải lớn lên, phải trưởng thành, phải sung mãn trong tình yêu thương
tha nhân. Thiên Chúa vui sướng hạnh phúc khi thấy chúng ta trưởng thành và lớn
lên trong tình yêu thương ấy, tình yêu thương mà Ngài đã trao ban cho chúng ta
qua chính con người của Chúa Giêsu Kitô, Đấng Cứu thế.
Ngoài ra, mỗi người
chúng ta cần phải luôn luôn đón chờ Chúa Giêsu đến trong tâm hồn và trong cuộc
đời bằng cách sống thánh thiện và kiên vững chờ đợi Chúa đến. Bởi vì sống thánh
thiện tức là sống yêu thương trọn vẹn. Các thánh là những người biết noi gương
Chúa Giêsu sống yêu thương trọn vẹn. Càng biết yêu thương tha nhân với một tình
yêu vô vị lợi, thì càng trở nên giống Chúa Giêsu bấy nhiêu. Càng giống Chúa
Giêsu bao nhiêu, thì chúng ta lại càng giống Thiên Chúa bấy nhiêu. Đó là điều
đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho Ngài vui sướng hạnh phúc nhất.
Thế giới và xã hội
loài người gặp nhiều khổ đau, vì con người không biết yêu thương nhau, hay
không yêu thương nhau theo tinh thần Tin mừng của Chúa mà Ngài mời gọi. Như
vậy, cách thức đón chờ Chúa Giêsu hữu hiệu nhất là hãy bắt đầu yêu thương nhau.
Bởi vì đó là bí quyết vun trồng mầm giống sự sống thần linh và xây dựng trời
mới đất mới cách cụ thể và hữu hiệu nhất.
Năm Phụng Vụ mới được
Giáo Hội hội bắt đầu với Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng.
Thế nhưng, mùa vọng
không phải chỉ là thời gian để Giáo Hội nhìn về quá khứ, nhìn về biến cố Con
Thiên Chúa đã giáng sinh và cử hành biến cố này với lễ Noel. Nghĩa là mùa vọng
không phải chỉ là mùa chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Nhưng mùa vọng còn là thời gian
hướng con người về tương lai, về biến cố Chúa ngự đến lần thứ hai trong vinh
quang vào lúc cuối cùng của lịch sử nhân loại, khai mạc trời mới đất mới, làm
cho mọi sự đạt đến cùng đích duy nhất của mình là Thiên Chúa.
Mùa vọng hướng con
người đến với Thiên Chúa, Đấng đang đến trong lịch sử, đang hướng dẫn toàn thể
vũ trụ đến sự thành toàn viên mãn cuối cùng. Thiên Chúa đến gặp con người trong
hoàn cảnh lịch sử cụ thể và hướng dẫn con người đến sự thành toàn viên mãn,
nhưng Ngài không áp đặt con người, vì Ngài tôn trọng tự do của con người. Con
người cần lắng nghe lời mời gọi tỉnh thức, canh tân đời sống, đó là sừ điệp mà
bài đọc II và Tin mừng Chúa nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta.
Nơi thơ thánh Phaolô
gởi tín hữu Rôma đã khuyên các tín hữu: “Anh em thân mến! Anh em biết rằng đã
đến lúc chúng ta phải thức dậy, vì giờ đây phần rỗi chúng ta đã gần đến hơn lúc
chúng ta mới tin đạo, đêm sắp tàn, ngày gần đến, chúng ta hãy từ bỏ những hành
vi ám muội và mang khí giới ánh sáng, hãy đi đứng đàng hoàng như giữa ban ngày”
(Rm 13,11-14).
Đó là những lời khuyên
vẫn còn thiết thực cho mỗi người tín hữu trong xã hội nhiều hưởng thụ như ngày
nay, ngõ hầu sống trong sự sẵn sàng khi Chúa ngự đến, và Ngài đến một cách
thình lình không ai ngờ trước được. Hãy từ bỏ những hành vi ám muội và mặc lấy
Chúa Kitô, hãy để cho dung mạo Chúa được chiếu sáng trong chúng ta. Đó là cách
thức tốt đẹp nhất để tiếp đón Chúa ngự đến vào lúc Ngài muốn, và Phúc âm Chúa
nhật thứ nhất Mùa vọng diễn tả Ngài đến như kẻ trộm: “Vậy các con cũng phải sẵn
sàng vì lúc các con không ngờ thì Con Người sẽ đến” (Mt 24,44).
Chúa đến như kẻ trộm,
Ngài đến gặp chúng ta trong chính cảnh sống của mình, trong chính lúc chúng ta
chu toàn bổn phận. Tỉnh thức đón Chúa không có nghĩa là chu toàn bổn phận của
mình, mà là chu toàn bổn phận như Chúa, với Chúa và trong Chúa. Đó là thực hiện
lời khuyên của thánh Phaolô là hãy mặc lấy Chúa Kitô để đón Chúa Kitô ngự đến.
Lạy Chúa, xin giúp
chúng con chu toàn bổn phận của mình như phương thế trọn hảo để sẵn sàng đón
Chúa ngự đến. Xin đừng để chúng con sống trong một thái độ ù lì, nhưng trong
thái độ tích cực từ bỏ các tật xấu, các công việc của bóng tối, để mỗi ngày
sống xứng đáng hơn hầu sẵn sàng đón Chúa ngự đến. Amen.
Chuyện kể rằng, một
thày dòng nọ đọc đâu được trong bộ sách khôn ngoan cũ kỹ mách bảo cho biết
rằng: “Tận cùng chân trời của trái đất là nơi trời với đất gặp gỡ nhau”.
Phấn khởi vui mừng,
thầy lên đường tìm kiếm nơi trời mới đất mới gặp nhau và sẽ không trở về nhà
cho tới khi tìm được. Ngày tháng trôi qua, thầy vẫn kiên nhẫn rảo bước khắp nơi
với niềm hy vọng mãnh liệt trong tâm hồn, bất chấp mọi khó khăn gian khổ và thử
thách, những lần phải chịu đói khát, giá rét và không gì có thể lay chuyển được
ý định của thầy.
Trong bộ sách khôn
ngoan cũ kỹ ấy có chỉ thêm rằng: “Khi tới chỗ đất với trời gặp nhau sẽ thấy có
một cánh cửa, chỉ cần gõ nhẹ cánh cửa sẽ mở ra và người ấy sẽ gặp thấy Thiên
Chúa”.
Thật vậy, sau nhiều
ngày tháng đi tìm kiếm đó đây khắp mặt đất, cuối cùng thầy dòng đã tới trước
cánh cửa. Thầy vui mừng gõ cửa bước vào, lúc đó thầy dòng mới hoảng hồn nhận ra
đó là Tu viện cũ của thầy, là cửa của căn phòng mà thầy đã từng sống bao nhiêu
năm qua.
Trong Phúc âm, Chúa
Giêsu đã hứa với dân chúng rằng: “Ai xin sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ cửa sẽ
mở cho”. Đời sống trần thế là thời gian tìm kiếm Chúa với hy vọng vững chắc là
sẽ được gặp Ngài, nhưng cần phải tìm kiếm Chúa ở đâu?
Thật sự không cần phải
đi tìm kiếm Chúa ở tận nơi xa xôi hoặc mãi nơi chân trời nào cả, Thiên Chúa
hiện diện ngay trong tâm hồn mỗi người, cùng đồng hành với mỗi người trong mọi
hoàn cảnh vui buồn, sướng khổ của cuộc sống. Vấn đề quan trọng là có biết nhận
ra những giờ, những nơi hẹn mà Chúa đang chờ đợi ta hay không?
Chúng ta biết tỉnh táo
và chuẩn bị sẵn sàng là thái độ của mỗi người đầy tớ trung tín, chứ không phải
là thái độ cần thiết của những người gác cổng mà thôi. Tỉnh thức có nghĩa là
các đầy tớ sẽ làm các công việc khác nhau của mình một cách ý thức, là tiến
hành công việc mà Thiên Chúa đã ủy thác cho họ thực hiện. Tỉnh thức là biết
mình đang làm gì đến nỗi vừa làm việc, vừa có thể nghe được hơi thở của mình.
Sự ý thức lựa chọn mà mỗi người làm trong giây phút hiện tại sẽ định đoạt số
phận vĩnh hằng của mình sau này.
Giáo Hội như người mẹ
hiền nhắc nhở con cái là những người có lòng tin phải sẵn sàng chờ đợi ngày trở
lại sau cùng của Chúa Giêsu, ngày trở lại đó ai cũng biết là chắc chắn mặc dù
không ai biết trước được khi nào ngày giờ đó sẽ xẩy đến. Cũng là điều tốt cho
chúng ta khi không biết chắc chắn lúc Chúa Kitô sẽ trở lại, bởi vì nếu biết
thời điểm đích xác chúng ta có thể bị cám dỗ ỷ lại, lười biếng trong công việc
của mình cho Chúa Kitô, hoặc tệ hại hơn nữa là tiếp tục ngồi lì trong con đường
tội lỗi với hy vọng sẽ trở lại với Chúa trong giờ phút cuối cùng.
Tỉnh thức và sẵn sàng,
tức là lúc nào cũng sẵn sàng chuẩn bị để bất cứ lúc nào ông chủ vềàbất thình
lình, Người vẫn thấy chúng ta có mặt thay vì ngủ nghê hoặc lêu lổng với công
việc bổn phận. Để được thế, chúng ta cần luyện tập, làm việc cách trung thành với
công việc Chúa đã ban cho chúng ta trong giây phút hiện tại, cũng đừng để cho
trí tuệ tinh thần của chúng ta ra u mê, sống buông thả hay sự mù quáng đuổi
theo các đam mê điên rồ hoặc để cho các lo âu đời sống đè bẹp, trói buộc chúng
ta mãi.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã phán bảo chúng con hãy luôn tỉnh thức kẻo sa chước cám dỗ, xin ban sức mạnh
cho chúng con để chúng con luôn bền tâm trong công việc thiện, trong khi chờ
ngày Chúa đến. Ước chi mỗi lần Chúa đến gõ cửa nhà tâm hồn chúng con, Chúa sẽ
hài lòng thấy chúng con luôn tỉnh thức trong cầu nguyện, vui mừng ca tụng Chúa
và nhiệt thành thực thi bác ái với mọi người. Amen.
Theo Phúc âm thánh
Matthêu thì việc canh phòng chờ đợi ngày Chúa đến được giải thích bằng ba dụ
ngôn: Dụ ngôn kẻ trộm đến bất ưng ban đêm và người đầy tớ bất trung, người
trinh nữ ban đêm chờ đợi chàng rể đến và các nén bạc phải được sinh lời cho
chủ.
Lời căn dặn chung của
ba dụ ngôn này: “Các con hãy tỉnh thức, bởi vì các con không biết Chúa đến lúc
nào”. Nếu dụ ngôn thứ nhất mà chúng ta suy niệm hôm nay không nói rõ việc cảnh
phòng ở tại cái gì, thì dụ ngôn thứ hai sẽ giúp chúng ta hiểu ra ngay, đó là
việc chu toàn sứ mệnh đã lãnh nhận. Việc Chúa trở lại được loan báo trong các
dụ ngôn là điều chắc chắn, nhưng ngày giờ Ngài đến lại không thể biết được. Vì
không thể biết trước, nên cần phải tỉnh thức và canh phòng đợi chờ.
Trong nhiều cộng đồng
kitô hữu thời các thánh Tông đồ, việc chờ đợi Chúa đến được lưu ý một cách đặc
biệt. Chúa đến trong ngày tận thế đã gây nên những phản ứng khác nhau nơi các
tín hữu thành Thessalônica, họ thất vọng vì chờ đợi quá lâu, nên họ lãng quên
vì công việc làm, vì ham thích thú vui. Chính thánh Phaolô tông đồ đã nhắc tới
tình trạng này trong thư gởi tín hữu Thessalônica như sau: “Kẻ thì sống qua
ngày không làm lụng gì cả, người thì luôn luôn lo lắng bối rối về nhiều
chuyện”.
Sau khi nhắc đi nhắc
lại cho các tín hữu biết ngày giờ của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm, thánh
Phaolô khuyên họ bằng những lời sau đây: “Thưa anh em, vì mình không ở trong
chỗ tối tăm, nên ngày ấy vụt đến với anh em như kẻ trộm. Anh em hết thảy đều là
con cái sự sáng, con cái ban ngày không thuộc về ban đêm hoặc bóng tối, nên
chúng ta chẳng phải chết như những người khác. Vậy chúng ta hãy tỉnh thức và
điều độ”.
Có những người đã dùng
những từ ngữ kinh hoàng gây nên sợ hãi về giờ chết và ngày phán xét, nhưng đây
không là mục tiêu, là nhân tố thiết yếu của việc canh phòng theo tinh thần Phúc
âm. Bởi vì việc chờ ngày Chúa đến không phải là lý do gây nên sợ hãi một cách
nô lệ cho những người theo Chúa Kitô. Trái lại, đây là lý do của niềm tin cậy,
của ước ao, của khát khao và của nguồn vui chan chứa được gặp Chúa. Ngài có thể
đến với chúng ta hôm nay và ngày mai như kẻ trộm đến bất ưng vào ban đêm. Chúng
ta không dễ gì nhận ra Ngài và đón tiếp Người, nếu chúng ta không chuẩn bị,
không canh phòng và sẵn sàng chờ đợi.
Nhờ đức tin chúng ta
biết rằng, Thiên Chúa ở gần chúng ta trong mọi nơi mọi lúc, nhưng đã nhiều lần
chúng ta không biết hoặc vô tình quên ngài. Để nhận biết Người, chúng ta phải
bỏ qua những gì ngăn cách giữa Ngài với chúng ta, chúng ta phải lắng nghe tiếng
Ngài và sống hiệp thông với Ngài. Do đó, sự chờ đợi của chúng ta sẽ được thỏa
mãn và được thưởng công: “Hỡi đầy tớ trung tín và tốt lành, hãy vào hưởng sự
sung sướng của chủ ngươi”.
Lạy Chúa, xin giúp
chúng con khám phá ra những lần Chúa đến trong lịch sử, trong cuộc sống hằng
ngày của mỗi người chúng con. Chúa đến nơi người anh em chúng con đang sống
trong cảnh cùng cực cần sự giúp đỡ, săn sóc và tình yêu thương của chúng con.
Chúa đến trong anh em đang đau khổ tinh thần và thể xác, như người bị cướp
đánh, bị đả thương bỏ bên lề đường Giêricô. Chúa đến trong những anh em đang
tìm Chúa để gặp được Ngài, tôn thờ và yêu mến Chúa như chúng con. Những người anh
em này cần đến chúng con, chúng con phải trở nên những người đem Tin mừng của
Chúa đến cho họ.
Lạy Chúa, xin cho
chúng con luôn biết tỉnh thức để nhận ra ngày giờ Chúa đến dưới nhiều hình thức
khác nhau, để đón tiếp Chúa với niềm hân hoan: “Phúc cho đầy tớ nào nếu chủ về
mà còn đang tỉnh thức”.
TỈNH THỨC VÀ SẴN SÀNG,
MỘT THÁI ĐỘ SỐNG ĐẠO TỐT ĐẸP
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có nghĩ rằng
sắp tận thế không? Bạn có biết rằng thời các tông đồ, ngay trước năm 1000 và
2000, rất nhiều Kitô hữu cũng đã nghĩ “tận thế đến nơi rồi” không? Nhưng cuối
cùng thì… tận thế vẫn chưa đến!
2. Giả như tháng sau,
tuần sau là tận thế, thì bây giờ bạn làm gì? Bạn chuẩn bị đón Chúa đến như thế
nào? Chúa muốn bạn phải chuẩn bị thế nào?
3. Có cách sống đạo
nào mang nhiều tính tỉnh thức và sẵn sàng không? Nếu lúc nào cũng tỉnh thức và
sẵn sàng, thì có phải lo tận thế không?
Suy tư gợi ý:
1. Nhiều Kitô hữu nghĩ
rằng ngày tận thế sắp đến
Hiện nay, rất nhiều
Kitô hữu đang quan tâm đến ngày tận thế. Nhiều người đoán rằng ngày ấy gần đến
rồi. Thực ra, ngay từ thời các tông đồ, rồi thời gian ngay trước năm 1000, rồi
mới đây ngay trước năm 2000, và hiện nay khi thấy chiến tranh thế giới có nguy
cơ xảy ra, các Kitô hữu nghĩ ngày tận thế sắp đến ngay tức thời. Vào những thời
điểm kể trên, có rất nhiều dấu hiệu phù hợp với những lời tiên tri của Đức
Giêsu về ngày tận thế: chiến tranh, thiên tai, động đất, lòng người nguội lạnh,
sự ác lan tràn… Những thời điểm ấy, thời điểm nào các Kitô hữu cũng đều thấy
rằng từ trước đến lúc ấy, chưa bao giờ những sự kiện được coi là điềm của tận
thế lại dồn dập đến như những thời điểm ấy. Nhưng rồi những thời điểm ấy qua
đi, và ngày tận thế vẫn chưa tới. Hiện nay, tâm lý người Kitô hữu vẫn y như
vậy. Đó cũng là một điều tốt để cảnh tỉnh người Kitô hữu.
2. Coi chừng kẻo bị
lường gạt
Đúng ra, khi nghĩ đến
tận thế và chuẩn bị cho tận thế, người Kitô hữu phải tỉnh thức như Đức Giêsu
khuyên nhủ, bằng cách sống tích cực tinh thần Tin Mừng của Ngài, cụ thể bằng sự
yêu thương nhau. Nhưng trong thực tế, thay vì sống tinh thần tỉnh thức, họ bị
lôi cuốn vào việc tìm những điềm thiêng dấu lạ, sưu tầm những lời khuyên nhủ
mới nhất của đấng này đấng kia hiện ra… Lòng họ vì thế bị chao đảo, sợ hãi:
thay vì cứ an tâm sống cho đúng tinh thần Tin Mừng, thì họ lại tìm cách đối phó
với ngày ấy, hoặc tìm những phương cách dễ dàng do người này chỉ người kia bảo,
những phương cách khôn ngoan kiểu thế gian… miễn sao được cứu rỗi vào ngày đó.
Vì thế, họ dễ bị thần khí xấu lường gạt.
Theo tôi, ta nên nghe
lời thánh Phaolô: “nếu có ai bảo rằng chúng tôi đã được thần khí mặc khải… quả
quyết rằng ngày của Chúa gần đến, thì anh em đừng vội để cho tinh thần dao
động, cũng đừng hoảng sợ. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Tx
2,2-3). Và cũng nên lưu ý lời thánh Gioan: “Anh em đừng cứ thần khí nào cũng
tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì
đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian” (1Ga 4,1). Thần khí giả thời
nay rất khôn khéo, không hề nói điều gì xấu hay sai trái, toàn nói những điều
hay lẽ thật, nhưng lại chỉ nhấn mạnh đến những điều tương đối phụ thuộc hầu làm
người ta quên đi điều cốt yếu của Tin Mừng. Hoặc cứ nhấn mạnh đến việc sử dụng
những phương tiện để làm người ta quên đi mục đích: dùng phương tiện thật hay
mà không xác định rõ ràng mục đích phải tới, thì mục đích ấy làm sao đạt được?
Mục đích không đạt được thì phương tiện có ích lợi gì? Nhờ khôn khéo như thế,
thần khí xấu ấy dối gạt được rất nhiều người (x. Mt 24,11), kể cả những người
được chọn (x. Mt 24,24). Chỉ cần làm người ta lạc hướng Tin Mừng như thế là ma
quỉ đã thành công lớn rồi! Chính Đức Giêsu cũng đã cảnh báo: “Anh em hãy coi
chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng:
"Chính ta đây", và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo
họ” (Lc 21,8). Thần khí xấu có thể không xưng mình là Đức Giêsu, vì như thế
sống sượng quá, không lừa gạt được ai, mà xưng mình là một nhân vật uy tín nào
đó!
Vì thế, thay vì quan
tâm sống cho đúng tinh thần của Đức Giêsu, thì nhiều Kitô hữu chuẩn bị đón Chúa
đến bằng sự gia tăng đọc kinh cầu nguyện cho nhiều và cho sốt sắng hơn, tham dự
các bí tích thường xuyên hơn, đồng thời hối thúc người khác cũng chuẩn bị giống
như họ, v.v… Quả thật, tất cả những việc ấy đều rất tốt, rất đáng làm, nhưng
lại không phải là việc chính yếu cần phải làm để chuẩn bị ngày Chúa đến. Nhiều
người còn nghĩ tới chuyện phải đối phó làm sao với cảnh tối ba ngày ba đêm bằng
cách mua thật nhiều đèn cầy rồi đem đến xin linh mục làm phép để đốt trong
những ngày ấy! Chỉ cần làm cho người ta quá quan tâm đến việc đối phó với tận
thế mà quên đi việc sống đạo hay những bổn phận trước mắt là ma quỉ đã thắng
lợi rồi!
3. Hãy chuẩn bị đón
Chúa đến một cách khôn ngoan, đúng ý Thiên Chúa muốn
Đúng ra, theo tinh
thần bài Tin Mừng trên, thì việc cần làm nhất là tỉnh thức và sẵn sàng, nghĩa
là phải từng giây từng phút sống sao cho đúng thánh ý của Thiên Chúa, đúng tinh
thần của Đức Giêsu. Cụ thể là:
– yêu mến Thiên Chúa
bằng cách sống cho có tình có nghĩa với mọi người chung quanh, nhất là những người
gần gũi mình nhất. Chính Đức Giêsu đã dùng tình yêu đối với loài người, được
biểu lộ hùng hồn nhất qua cái chết của Ngài, để thờ phượng và thể hiện tình yêu
của mình đối với Thiên Chúa.
– nhận ra tha nhân là
hình ảnh và là hiện thân của Thiên Chúa mà mình phải yêu thương. Làm sao ta dám
cho rằng mình yêu mến Thiên Chúa vô hình khi mà những hình ảnh hay hiện thân
hữu hình của Ngài thì mình lại chẳng yêu thương?
– thể hiện tình yêu
thương ấy bằng hành động cụ thể là sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho
họ. Tình yêu không được biểu lộ thành hành động cụ thể chỉ là thứ tình yêu giả
dối, ngoài môi miệng.
Cách chuẩn bị cho ngày
tận thế hay nhất vẫn là tỉnh thức theo kiểu thánh Louis Gonzaga, một vị thánh
chết khi còn rất trẻ tuổi. Một hôm, vào giờ chơi, Louis đang chơi banh ngoài
sân, cha linh hướng đến hỏi Louis: “Nếu một lát nữa Chúa gọi con về với Ngài,
thì bây giờ con làm gì?” Câu trả lời của Louis làm cha linh hướng rất hài lòng:
“Con sẽ tiếp tục chơi, vì bây giờ là giờ chơi, thánh ý của Thiên Chúa đối với
con vào giờ này là muốn con chơi”. Điều đó cho thấy Louis lúc nào cũng cố gắng
sống đúng thánh ý Chúa, đúng theo đòi hỏi của tình yêu đối với Thiên Chúa và
tha nhân, nên Louis có thể sẵn sàng về với Chúa bất kỳ lúc nào.
Nếu ta là Louis lúc
đó, chắc hẳn ta sẽ trả lời: “Con sẽ đi gặp một linh mục để xưng tội, và vào nhà
thờ cầu nguyện để chết trong khi cầu nguyện”. Trả lời như thế chứng tỏ ta không
thường xuyên sống trong tình trạng tỉnh thức chuẩn bị Chúa đến, mà đợi “nước
đến chân mới nhảy”. Như vậy, giả như Thiên Chúa gọi ta về với Ngài ngay lúc
này, khiến ta không có một phút nào để kịp ăn năn hay xưng tội, thì số phận ta
sẽ thế nào?
Nếu lúc nào ta cũng
sống đúng theo thánh ý Thiên Chúa, sống đẹp lòng Thiên Chúa, thì dù Chúa sắp
đến hay còn lâu mới đến, ta không có gì phải bận tâm. Đấy là cách chuẩn bị đón
Chúa đến hay nhất, cách mà Đức Giêsu muốn ta thực hiện nhất. Nghĩa là lúc nào
ta cũng sẵn sàng đến trình diện Chúa như Louis Gonzaga, nên luôn luôn làm mọi
việc như bình thường, có vẻ như chẳng chuẩn bị gì cả, cho dù biết Chúa sẽ đến
ngay ngày mai, hay chỉ trong chốc lát nữa! Đối với người luôn tỉnh thức và sẵn
sàng, Chúa đến lúc nào cũng vậy thôi!
4. Sống giây phút hiện
tại như giây phút cuối cùng đời mình
Một danh nhân nọ nói:
“Ngày nào tôi cũng tự nhủ: "tôi sống như thể hôm nay là ngày đầu tiên và
cũng là ngày cuối cùng cuộc đời tôi”. Đó cũng là một cách sống tỉnh thức và sẵn
sàng, rất phù hợp với tinh thần bài Tin Mừng hôm nay. Sống như thế, cuộc sống
mỗi ngày sẽ trở nên tràn đầy, ý vị, vì không bị những buồn phiền, rắc rối, hối
tiếc về quá khứ và những nỗi lo lắng cho tương lai làm bận tâm, làm mất năng
lực. Sáng dậy, nếu ta nghĩ như thể ngày hôm nay là ngày duy nhất của cuộc đời
ta, coi như không có quá khứ, cũng không có tương lai, chỉ có hiện tại, thì ta
dễ tập trung mọi năng lực để sống thật tốt, sống thật đẹp lòng Chúa, để làm cho
ngày hôm nay thành một của lễ sống động, thật giá trị dâng lên Thiên Chúa. Cuộc
đời ta cứ dệt bằng những ngày như vậy thì cần gì phải lo tận thế! Đừng quan tâm
hay thắc mắc bao giờ sẽ tận thế, nhưng hãy sống mỗi ngày như thể cuối ngày đó
là tận thế! Cứ sống thử như thế đi, bạn sẽ thấy cuộc đời bạn đổi mới từ đây,
với nhiều sức mạnh và hạnh phúc hơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin đừng để
con vì những dư luận về tận thế mà xao lãng việc sống đúng ý Cha, sống yêu
thương tha nhân, quan tâm đến những nhu cầu cấp thiết của những người chung
quanh con, chu toàn những bổn phận hằng ngày của con. Xin đừng để con bị lường
gạt bởi những thần khí xấu hoặc những ngôn sứ giả, khiến con chú tâm vào những
điều phụ thuộc cho dù rất tốt mà quên đi những điều chính yếu trong việc sống
đạo. Xin cho con phân biệt rõ ràng đâu là phương tiện, đâu là mục đích, để con
đừng lấy phương tiện làm mục đích. Vì một phương tiện rất tốt có thể trở thành
một mục đích rất xấu khi nó làm con lạc hướng và quên đi mục đích mà đúng ra
phương tiện ấy phải giúp con đạt tới.
Tôi vui mừng cùng hoan
lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên đền thánh Chúa” (Đáp ca, Tv 122)
Trước năm 1975, tôi
được thuyên chuyển vào làm việc tại Phan thiết. Cái cảm giác đầu tiên của tôi
tại đây là mùi mắm. Mấy ngày đầu, mùi mắm làm tôi rất khó chịu, ngứa ngáy và
buồn nôn. Nhưng dần dà sau vài ba tuần lễ, tôi không còn cảm thấy mùi mắm đâu
cà. Thì ra mũi tôi đả quen với mùi mắm rồi.
Thành phố Pittsburgh,
PA là thành phố luyện thép lớn nhất nước Mỹ. Lúc đầu khi các nhà máy mới hoạt
động, những động cơ khổng lồ phát ra những âm thanh làm rêm tai nhức óc. Dân
chúng địa phương ăn không được, ngũ không được, họ rất đồi khó chịu vì tiếng
động. Nhưng vì sinh kế, người ta ùn ùn kéo đến lập nghiệp, dần dà họ quen với
tiếng động và xem đó như là một loại âm nhạc kích động ru ngủ. Họ đã quen với
tiếng động. Bỗng một hôm, đang đêm bị cúp điện, các nhà máy im bặt, mọi người
đều thức giấc, hoảng hốt chạy tán loạn.
Xã hội càng văn minh,
người ta càng xa dần Thiên Chúa, càng làm mất đi cái “Tính Bản Thiện” mà Thiên
Chúa đã ban cho khi tạo dựng con người. Người ta đã mất đi cái cảm giác sợ tội.
Trước đây, trong xã
hôi VN, “không chồng mà chửa thế gian chê cười”. Nhưng ngày nay, ‘single
mother’ là chuyện thường. Hai người đàn ông lấy nhau, hai người đàn bà cưới
nhau rồi đem nhau ra toà làm hôn thú, chúng ta cho là một việc hết sức quái gở,
nhưng xã hội coi đó là chuyện thường. Đồng tính luyến ái, ‘gay marriage’, phá
thai, thụ thai nhân tạo, ly dị, tự do luyến ái v. v. đã được luật pháp che chở.
Giết người vô tội bằng cách ôm bom tự sát mà họ cho là tử đạo, là thánh
chiến...
Nhân loại đang đi
trong đêm tối. Nhân loại đang trong cơn ngủ mê. Thì đây, tiên tri Isaiah lớn
tiếng kêu lên: “Hãy chổi dậy, hởi nhà Gia cóp”. Thánh Phao lồ càng kêu to hơn
nữa: “Hãy thức dậy. Đêm đã sắp tàn, ngày đã gần đến. Hãy mặc lấy Đức Giêsu
Kitô”. Tiên tri Isaiah còn chỉ cho chúng ta hướng nhìn về tương lai, một vương
quốc hoà bình và yêu thương: Gươm giáo biến thành cuốc thành cày, dao mác biến
thành liềm thành hái.
Đó là sứ điệp của Mùa
vọng, sứ điệp đầu tiên của năm PV chu kỳ A năm 2005, mà giáo hội muốn kêu gọi
mọi người hãy tỉnh thức, chuẩn bị chờ ngày Chúa lại đến.
Người lại đến trong
vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Nước Người sẽ không bao giờ cùng.
Tôi tin xác loài người ngày sau sẽ sống lại và sự sống đời sau”. (Kinh Tin kính).
Thời ông Noe, trong
khi mọi người đang lo dựng vợ gã chồng, đang lo ăn uống say sưa, bình chân như
vại, xem như không có Thiên Chúa cũng chẳng có đời sau, thì ông Noe lo đóng
tàu, mặc dù trời còn đang nắng hạn. Rồi lụt đại hồng thuỷ thình lình ập đến,
nhân loại bị chết chìm, ông và gia đình ông đã được cứu thoát.
Đức Giêsu còn đưa ra
hai ví dụ khác: Hai người đàn ông cùng cày ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà
cùng xay bột trong nhà. Họ cùng sống trong một hoàn cảnh, cùng làm chung một
công việc, tại sao có người được cứu có người lại không? Thưa vì một người có
chuẩn bị và một người không chuẫn bị. Một người có đức tin và một người không
tin. Một người làm việc qua loa để lảnh tiền công, để ăn xài, chơi bời trác
táng, người kia cũng lảm việc cũng lãnh lương nhưng lòng quy hướng về đời sau
và về Thiên Chúa. Tiền của không làm hoa mắt họ. Mũi họ không bị ô nhiễm bởi
mùi hôi tanh của tội lỗi, tiếng động cơ nhà máy không làm lấn át tiếng nói
lưong tâm và sự bằng yên trong tâm hồn họ.
Đức Giêsu kết thúc lời
cảnh cáo bằng dụ ngôn kẻ trộm vào nhà. Nếu bạn biết đêm nay có kẻ trộm muốn vào
nhà lấy báu vật của bạn mà bạn lại không thức mà canh chừng sao? Báu vật ấy là
gì? Là kho tàng giấu trong ruộng, là viên ngọc quý người thương gia tìm được
(Mt 13: 44 - 46). Ấy chính là Đức Giêsu Kitô mà Thiên Chúa đã trao ban cho loài
người qua mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
Phụng vụ dùng những
lời trên đây để khai mạc Mùa vọng, không chỉ nhằm việc đón mừng lễ Giáng sinh
nhưng muốn khơi lại niềm tin về Ngày Chúa lại đến và cũng để nuôi dưỡng tâm hồn
chúng ta chờ đợi và chuẩn bị.
Chúng ta cần làm sống
lại Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể. Thái độ chờ đợi nầy đòi hỏi chúng ta phài có
một tâm hồn trong trắng, cầu nguyện và đón nhận. Đó cũng là thái độ mà chúng ta
phải có mỗi khi tham dự thánh lễ. Có Chúa ở trong tâm hồn qua bí tích Thánh thể
giúp chúng ta có khả năng đón mừng lễ Giáng sinh và sẳn sàng để được Chúa “đem
đi” khi Người lại đến.
Sẵn sàng, như 10 cô
trinh nữ khôn ngoan, cầm đèn đi đón chàng rể. Tỉnh thức và sẳn sàng khi Người lại
đến để đón ta về nhà Cha và miệng chúng ta sẽ không ngừng hát lên bài thánh
vịnh: “Tôi vui mùng cùng hoan lạc khi người ta đến nói cùng tôi: “Nào ta lên
đền thánh Chúa. Nào ta lên đền thánh Chúa”.
46. Mùa vọng: Người
đến để con tim được vui trở lại
(Suy niệm của Lm.
Giuse Trương Đình Hiền)
1. Bỏ quá khứ lại sau
lưng để tiến về phía trước:
Ý nghĩa đầu tiên của
Mùa Vọng gần như được diễn tả ngay trong tên gọi của tiếng la tinh: Adventus,
Mùa “Đến, mùa Quang lâm”. Vâng, Mùa Vọng chính là thời điểm thích hợp để chúng
ta sống tâm tình và thái độ đức tin đón chào cuộc viếng thăm của Thiên Chúa,
hay sống với nỗ lực dấn thân thực hiện cuộc canh tân và hoán cải tâm hồn theo
những lời mời gọi của Phúc Âm.
Vâng, Lời Chúa chúng
ta vừa nghe công bố gần như hết lòng hổ trợ ý tưởng nầy và lôi kéo chúng ta tập
chú suy tư và cầu nguyện theo ý hướng đó:
Bài đọc 1 đã trình
bày: giữa một hoàn cảnh éo le và đầy tăm tối thất vọng của kiếp sống nô lệ, mất
nước, lưu đày, Sứ Ngôn I-sa-i-a loan báo cho dân Ít-ra-en một viễn tượng huy
hoàng ở cuối chân trời lịch sử: “Trong tương lai, núi Nhà Đức Chúa đứng kiên
cường vượt đỉnh các non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi. Dân dân lũ lượt
đưa nhau tới, nước nước dập dìu kéo nhau đi…Họ sẽ đúc gươm đao thành cuốc thành
cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái”.
Tin Vui đó, viễn tượng
một thế giới hòa bình an lạc đó chắc chắn không phải là một thứ “tuyên truyền
ngẫu hứng” của một tay “thần kinh bất ổn” mà là của chính Thiên Chúa mặc khải
qua miệng của vị sứ ngôn được Ngài ra tay tuyển chọn. Và 600 năm sau lời tiên
tri đó, Đấng là Em-ma-nu-en, là Hoàng tử Bình An, là Đấng Cứu thế, là Thiên
Chúa Làm Người đã xuất hiện, Ngài đến để giải phóng toàn diện lịch sử con
người, là qui tụ toàn nhân loại trong một Vương Quốc bao la vĩnh cửu.
Hôm nay, bước vào Mùa
Vọng, khai mạc một Năm Phụng vụ mới, Lời Chúa cũng muốn nhắn gởi chúng ta qua
chính lời tiên tri ấy. Cũng như dân Ít-ra-en đang sống trong nổi ê chề thất
vọng của kiếp phận lưu đầy được nhà sứ ngôn loan tin giải thoát với niềm hy
vọng một ngày mai tươi sáng đang đến gần, cộng đoàn chúng ta hôm nay đang được
Lời Chúa mời gọi hãy vứt bỏ đi những nổi chán chường, thất vọng của một lối
diễn tả đức tin mang đầy dấu vết của nô lệ, của lưu đầy, của sự lựa chọn biếng
lười, ích kỷ và vô trách nhiệm. Hãy vứt bỏ đi lối sống buông trôi, lờ lững,
không biết tới ngày mai, không dám đối diện với tương lai. Hãy vứt bỏ đi cuộc
sống chỉ có biết bon chen, cặm cụi với cái lãi cái lời vật chất, cặm cụi đầu tư
bất kể cho những thứ chóng qua mà chẳng tính gì đến chuyện vĩnh hằng tối hậu.
Và cũng vứt bỏ đi cái lối sống đạo và hành xử đức tin vụ hình thức, giả tạo,
biệt phái và kiêu căng.
Một cuộc vứt bỏ như
thế để làm lại cuộc đời trong thánh thiện yêu thương phải chăng là tiêu đích
của Hành trình Mùa Vọng, của đức tin Kitô, mà theo theo cách nói của Thánh
Phaolô trong thư gởi giáo đoàn Rôma trong bài đọc 2 đó là một cuộc “bừng mắt
dậy sau đêm dài của giấc ngủ tội lỗi đen tối”: “Đêm sắp tàn, ngày gần đến. Vậy
chúng ta hãy loại bỏ những hành vi đen tối và cầm lấy vũ khí của sự sáng để
chiến đấu…”
2. Một cuộc hạnh ngộ
để đổi đời.
Nếu “Thiên Chúa của
chúng ta không bao giờ cũ", thì cuộc gặp gỡ Ngài, chọn lựa Ngài, đến với
Ngài phải luôn là một cuộc “hạnh ngộ” đầy hoan vui và hy
vọng, một cuộc hạnh ngộ để làm lại cuộc đời.
Trong trích đoạn Tin
mừng hôm nay, Thánh Mát-thêu đã thuật lại một bài giáo lý của Đức Kitô mà nội
dung cốt lỏi cũng chính là thể hiện niềm tin bằng lối sống luôn là “sắp sẳn,
tỉnh táo như người đang đón đợi khách quí, như kẻ đang nai nịt hành trang lên đường
hay như ngôi nhà đang thắp sáng với đầy đủ những con người đang tỉnh thức canh
phòng đến độ không còn chỗ hở nào để kẻ trộm thâm nhập”. Đây không phải là
chuyện dễ ợt, mà là một cuộc phấn đấu nhọc mệt, là cả một cuộc hành trình cam
go và mạo hiểm, một cuộc sống khôn ngoan biết tiên liệu và tỉnh táo đối diện
với những “bất trắc đột xuất”, như hình tượng Noe trong biến cố “Nạn Đại Hồng
Thủy”, hay hình ảnh canh chừng kẻ trộm trong đêm khuya mà Đức Kitô đã diễn tả.
Câu chuyện vui sau đây
là một minh họa cho ý nghĩa trên của Mùa Vọng:
Một người dân thuộc
một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật
mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó
là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng
bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức
sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu:
khi có hỏa hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức
khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân
làng. Không bao lâu sau đó, hỏa hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem
trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế
nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái
nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ
lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng
tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để
đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải
ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Trong Tin Mừng hôm nay
Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó
khoanh tay mà chờ đợi. ("Mỗi ngày một tin vui")
Mùa Vọng khơi gợi lên
một cuộc chiến đấu của đức tin, một hành trình sống đạo năng động, ra sức đẩy
lùi mọi biểu hiện tiêu cực, tầm thường, máy móc, vụ lợi, vụ hình thức. Chính
trong chiều kích tích cực đó mà chúng ý thức rằng:
- Mỗi một lời kinh tôi
đọc hôm nay phải là một đối thoại tuyệt vời, thực sự với Thiên Chúa.
- Mỗi một Thánh lễ tôi
dâng phải là một cử hành sống động lễ Vượt Qua của chính Chúa Kitô mà tôi được
diễm phúc cọng tác và kết hợp với Ngài.
- Mỗi một khi bước tới
tòa Giải tội là một lần hoán cải thực sự, một cuộc đổi đời.
- Mỗi một việc bác ái
tôi làm, một công tác mục vụ tôi đảm trách, phải là một biểu lộ thực sự của
tình yêu, một tình yêu vô vị lợi và quảng đại.
- Mỗi một việc làm cho
nhau trong đời thường giữa vợ chồng, con cái, anh em, bạn hữu…không còn là
chuyện đải bôi môi mép, lạm dụng và ích kỷ, nhưng tất cả phải là những nghĩa cử
của tinh thần trách nhiệm, phục vụ và yêu thương.
Nếu mọi Kitô hữu đều
xác tín và hành động như thế, thì Mùa Vọng trở về thật ý nghĩa và cần thiết
biết bao ! Khi ấy, Giáo Hội không còn là một tổ chức kềm kẹp sự tự do của tôi,
Ngày Chúa Nhật không còn là một bận rộn ngán ngẩm, Tòa Giải tội không còn là
một tòa án tàn nhẫn và đáng sợ, và ngay cả bệnh tật chết chóc cũng sẽ trở thành
cơ hội để tôi tìm thấy giá trị và niềm vui, như lời chứng sống động của Elena
Frings:
Elena Frings là một
thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống
được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện
nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến
New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này
giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại
sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người
khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô
không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề(Christopher Notes).
Vâng, sống Mùa Vọng là
sống như thế đó. Bởi chưng Mùa Vọng của Phụng vụ cũng chính là Mùa Vọng của
cuộc đời. Đức tin không cho phép chúng ta đầu hàng hay tìm một lối mòn dễ dãi ;
cũng không có quyền nhắm mắt đưa chân mặc tới đâu thì tới, hay tìm lãng quên
trong hưởng thụ, trong bon chen trong trác táng thả buông…Nhưng đức tin gọi mời
chúng ta ngẫng cao đầu tiến về phía trước trong một con tim mới, cõi lòng mới
như bài hát của nhạc sĩ Đức Huy: “và con tim đã vui trở lại”:
Và con tim đã vui trở
lại, Tình yêu đến cho tôi ngày mai. Tình yêu chiếu ánh sáng vào đời. Tôi hy
vọng được ơn cứu rỗi. Và con tim đã vui trở lại. Và niềm tin đã dâng về người.
Trọn tâm hồn, Nguyện yêu mãi riêng người mà thôi...
Giờ đây, một cuộc gặp
gỡ kỳ diệu đang và sắp xảy ra: Đức Kitô một lần nữa đang đến với chúng ta trong
bàn tiệc Tạ ơn nầy: Đức Kitô hôm, qua hôm nay và tận cùng vẫn là Đức Kitô của
một Mùa Xuân bất diệt, Đức Kitô mới mãi, trẻ mãi, sinh động và đầy ắp yêu thương.
Ngài là Mục Tử nhân lành hôm nay trở về để đưa ta vào đồng xanh suối mát. Chúng
ta vui mừng cử hành ngày “Tân Niên Phụng Vụ”trong tâm tình hân hoan, tin tưởng,
trong thái độ khiêm tốn tạ ơn. Chúng ta hãy cùng nhau nắm tay mà bước đi trên
hành trình Mùa Vọng để tiến vể Đại Lễ Giáng Sinh với tất cả niềm hăng say phấn
khởi và nỗ lực đổi mới cuộc đời cho đẹp hơn, thánh hơn, hiệp nhất hơn, yêu
thương hơn . Nói cách khác, đây là giờ phút không phải chúng ta hát mà là thực
sự sống chính cái ý nghĩa của lời ca Nhập Lễ vừa vang lên lúc khởi đầu: “Con
vươn linh hồn lên tới Chúa”. Amen.
Có một câu chuyện ngụ
ngôn nhiều ý nghĩa, tôi muốn kể cũng anh chị em nhân dịp chuẩn bị đón Chúa đến.
Chuyện kể rằng: Vào buổi chiều hôm ấy, bác thợ giầy thức giấc thật sớm. Bác
quyết định chuẩn bị căn phòng làm việc của mình cho gọn ghẽ, để chờ đón một vị
khách qúy là chính Chúa Giêsu, vì trong giấc mộng ban đêm, Ngài đã hiện ra báo
cho bác biết, Ngài sẽ ghé thăm ngay hôm nay.
Bác thợ đánh giầy ngồi
chờ, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Những tia nắng ban mai dọi qua khung cửa làm
cho căn phòng ấm áp thêm. Chợt nghe tiếng gõ cửa nhè nhẹ, lòng bác thêm hồi
hộp, sung sướng vì được Chúa ghé thăm. Nhưng khi cánh cửa mở ra, người khách
đối diện lại là ông đưa thư quen thuộc, tay chân tím bầm, mặt mũi xám ngoách,
vì trời cuối đông lạnh buốt. Không nỡ để ông run rẩy ra đi, bác mời ông vô nhà
pha trà tiếp khách. Sau khi được sưởi ấm tấm thân, người đưa thư đứng dậy cám
ơn rồi ra đi tiếp tục công việc.
Bác thợ giầy trở lại
chỗ cũ chờ đón Chúa đến. Nhìn qua khung cửa hàng, bác thấy một em bé đang khóc
xướt mướt trước cửa nhà. Bác ra mở cửa gọi nó lại, hỏi nguyên do, nó mếu máo
cho biết là nó lạc mất mẹ và không biết đường về. Bác thợ giầy lấy giấy viết
vài chữ nguệch ngoạc đặt trên bàn, báo cho người khách qúy biết mình phải đi ra
ngoài lo tìm nhà cho em bé. Nhưng tìm đường dẫn em về nhà không phải là chuyện
nhỏ. Mãi đến sẩm tối bác mới tìm được và khi trở về nhà thì phố đã lên đèn.
Vừa bước vào đã thấy
có người ngồi đợi, nhưng đó không phải là Chúa Giêsu, mà là một người đàn bà
tiều tụy, mệt lả vì có con ốm nặng cần giúp đỡ. Bác thợ giầy thấy thế liền vội
vàng đến nhà giúp đỡ em bé, đến nửa đêm mới về. Bác lăn vô giường ngủ chẳng kịp
thay quần áo.
Thế là một ngày qua đi
mà Chúa cũng chưa đến thăm bác nữa. Nhưng trong giấc ngủ vùi vì mệt mã, bác
nghe thấy tiếng Chúa nói: "Cám ơn con đã dọn trà cho Ta uống, đã dẫn Ta về
nhà, đã săn sóc an ủi Ta đau yếu. Cám ơn con đã tiếp đón Ta hôm nay".
Ý nghĩa câu chuyện quá
rõ ràng. Cuộc chờ đón Chúa không phải là một vinh quang trần thế, không phải
trong vui vẻ hài hòa, mà Chúa đến trong mọi hoạt cảnh, từ sáng đến trưa, từ
trưa tới khuya. Chúa đến qua hiện thân của mọi người ta gặp hàng ngày.
Điều quan trọng là ta
có sẵn sàng, có niềm nở, có vui tươi chấp nhận họ với cả sự hy sinh chính mình
không. Nén bạc tác động của tình thương, của tình yêu, của tình bác ái chân
thành và đầy ý nghĩa muốn như bác thợ giầy mới là tác động đón Chúa cách tích
cực. Việc làm ấy mới đem lại lợi lộc gấp trăm.
Hàng năm chúng ta vẫn
thích đón mừng Chúa Giáng Sinh, và hàng năm Ngài vẫn gõ của từng quán trọ, từng
cửa lòng mỗi người. Nhưng chúng ta tiếp đón Chúa thế nào? Có đến nỗi Chúa phải
sinh ra trong hang lạnh giá lòng chúng ta không? Và nếu còn như thế, Ngài cũng
sẽ tiếp tục nói mãi trong giấc mộng của chúng ta. Hãy mở rộng tâm hồn đón Ngài.
Hãy sửa soạn tâm hồn, sửa sang con tim cho ngay chính. Ngài cần tách trà ấm
tình cho người lạnh nhạt với chúng ta. Ngài cần cánh tay nâng đỡ những người
nhờ vả chúng ta. Ngài cần sự cảm thông tha thứ cho người có lỗi với chúng ta.
Ngài cần chúng ta cho đi những gì mình muốn giữ lại. Bao nhiêu nghĩa cử ấy là
bấy nhiêu lễ Giáng Sinh đẹp trong đời. Xin hãy suy nghĩ và thực hiện trong
những ngày chờ đón Chúa đến.
“Hãy leo lên núi Chúa,
tới nhà Thiên Chúa Giacóp”
Vâng, Chúa Kitô thật
sự là một Con Người Lịch Sử, là Đấng Thiên Sai, Đấng đến để “cứu dân mình khỏi
tội”, đúng như ý nghĩa tên Giêsu của Người đã được thiên thần nói đến khi báo
mộng cho Thánh Giuse trong Phúc Âm Thánh Mathêu đoạn 1 câu 21, cũng đúng như sứ
mệnh của Người đã được tư tế Giacaria thân phụ của Gioan tiên báo trong Phúc Âm
Thánh Luca ở đoạn 1 câu 77. Bởi thế Dân Do Thái của Người nói riêng, hơn ai
hết, đã trông đợi Người tới, như được tỏ hiện rõ ràng hơn hết qua việc họ tuốn
đến với Gioan Tẩy Giả để xin lãnh nhận phép rửa của thánh nhân, như Phúc Âm
theo Thánh Mathêu cho Chúa Nhật thứ hai và thứ ba Mùa Vọng thuật lại, vì họ
tưởng Gioan này là Đấng Thiên Sai, như Phúc Âm Thánh Gioan cho thấy ở đoạn 1 từ
câu 19 đến 22. Tuy nhiên, cho tới nay, dân Do Thái vẫn trông đợi Đấng Thiên Sai
của họ, vẫn sống trong một thời điểm như thời điểm Mùa Vọng Kitô hữu chúng ta
hôm nay bước vào đây. Dân Do Thái sở dĩ tiếp tục mông đợi Đấng Thiên Sai của
mình vì Con Người Lịch Sử Giêsu cách đây hơn 2000 năm không phải là Đấng Thiên
Sai họ đợi trông. Đúng thế, theo dự án cứu độ của Thiên Chúa, Con Người Lịch Sử
Giêsu là Đấng Thiên Sai này không phải chỉ đến để “cứu dân mình khỏi tội”, mà
còn cứu cả loài người khỏi tội lỗi và sự chết nữa, vì Người là Đấng Cứu Thế,
chứ không phải chỉ là Đấng Cứu Tinh Dân Tộc Do Thái như một vị anh hùng thời
thế vẫn xuất hiện trong giòng lịch sử của họ thôi. Đó là lý do vừa mở màn cho
phụng niên để cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, hình ảnh nhân loại nói chung đã được
Phụng Vụ Lời Chúa nhắc đến rồi, như bài đọc một của Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng
cho thấy: “Tất cả các dân nước sẽ tuốn về núi của nhà Chúa; nhiều người sẽ tới
mà nói: ‘Hãy đến, nào chúng ta hãy leo lên núi Chúa, tới nhà Thiên Chúa
Giacóp”, và bài đọc một của Chúa Nhật thứ hai Mùa Vọng cũng cho thấy: “Vào ngày
ấy, gốc Jesse mọc lên như một dấu hiệu cho các dân nước thấy, Các Dân Ngoại sẽ
tìm kiếm, vì nơi Người cư ngụ sẽ được vinh quang”. Chính Con Người Lịch Sử
Giêsu này là Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần “Redemptor Hominis” đã làm sáng tỏ ý
nghĩa của bốn tuần lễ Mùa Vọng, một thời đoạn tượng trưng cho 4 ngàn năm toàn
thể nhân loại trông đợi Đấng Thiên Sai, Đấng ngay từ đầu lịch sử thế giới đã
được Thiên Chúa Hóa Công hứa ban, như Sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 3 câu 15
về giòng dõi người nữ đạp đầu rắn quỉ.
Tuy nhiên, nếu thực sự
Đấng Cứu Chuộc Nhân Trần đã đến rồi, cách đây hơn 2000 năm, thì Kitô giáo nói
chung và Giáo Hội Công Giáo nói riêng còn cần gì phải cử hành Mùa Vọng để chờ
đón Người đến thế gian lần thứ nhất này nữa mà làm gì, còn cần gì phải như Dân
Do Thái cho tới bay giờ vẫn đợi trông Đấng Thiên Sai của họ, vì nhân vật Giêsu
Nazarét ở giữa họ cách đây hơn 2000 năm, một nhân vật đã hoàn toàn bị họ căm
hờn phủ nhận, đến nỗi, họ thà nhận giặc làm vua còn hơn nhìn nhận nhân vật lộng
ngôn phạm thượng này (xem Mt 26,65; Jn 19,7), như họ đã tuyên bố thẳng thắn với
tổng trấn Philatô: “Chúng tôi không có một vua nào khác ngoài Cêsa” (Jn 19,15)?
Thật vậy, theo lịch trình phụng niên, Mầu Nhiệm Chúa Kitô Giáng Sinh và Mầu
Nhiệm Chúa Kitô Phán Xét hoàn toàn khác nhau, ở chỗ, một mầu nhiệm mở màn cho
phụng niên và một mầu nhiệm kết thúc phụng niên. Thế nhưng, theo bản chất và ý
nghĩa của mình, nếu phụng vụ là việc long trọng cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô, cử
hành những gì do Vị Thiên Chúa Làm Người đã thực hiện trong lịch sử loài người,
như nhập thể, tử giá và phục sinh, những Biến Cố Thần Linh không thể qua đi như
mọi biến cố lịch sử trần gian khác, trái lại, chúng sẽ muôn đời tồn tại như
chính vị Tác Giả Thần Linh của chúng, với Tác Hiệu Thần Linh phát sinh từ những
Biến Cố Thiên Chúa thực hiện này, thì qua việc cử hành phụng vụ, Chúa Kitô quả
thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu nhiệm.
Bởi thế, bởi “Chúa
Kitô quả thực hiện diện nơi phụng vụ và tác động qua phụng vụ một cách mầu
nhiệm”, mà khi cử hành Mầu Nhiệm Chúa Kitô trong Mùa Vọng là thời đoạn trông
đợi Người đến lần thứ nhất, Giáo Hội chẳng những muốn hướng con cái mình về
biến cố Chúa Kitô đến lần thứ hai, mà còn muốn con cái mình, nhờ Phụng Vụ Lời
Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể, thực sự cảm nghiệm được việc Chúa Kitô đang hiện
diện trong Giáo Hội cho tới tận thế, cho tới khi Người đến lần thứ hai. Như
vậy, Kitô hữu chúng ta chỉ thực sự Sống Phụng Vụ nói chung và Sống Mùa Vọng nói
riêng, khi chúng ta có được Cảm Nghiệm Thần Linh này, một cảm nghiệm về “Ơn cứu
độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới chấp nhận đức tin”, như Thánh Phaolô
nhắc nhở một cách sâu xa trong Thư gửi Giáo Đoàn Rôma ở bài đọc thứ hai hôm
nay. Đó là lý do, trong cả ba chu kỳ phụng vụ A, B và C, của Chúa Nhật thứ nhất
Mùa Vọng, Giáo Hội bao giờ cũng chọn bài Phúc Âm về lời Chúa Giêsu cảnh giác
các môn đệ của Người, (chứ không phải cảnh giác chung dân Do Thái hay cảnh giác
riêng nhóm Pharisiêu hoặc cảnh giác thành phần thượng tế và kỳ lão lãnh đạo
trong dân), về việc “hãy tỉnh thức” chờ Chúa đến. Bài Phúc Âm theo Thánh Mathêu
Năm A hôm nay đã chứng thực điều này như sau: “Vậy các con hãy tỉnh thức! Các
con không biết được ngày nào Chúa của các con đến”.
Đúng vậy, cho dù Chúa
Kitô Cứu Thế đã đến với chung loài người và đang ở cùng Giáo Hội của Người cho
tới tận thế, tức cho tới khi Người đến lần thứ hai, thế nhưng, nếu xét về con
số, thì 4/5 nhân loại, tức đa số loài người vẫn chưa nhận biết Người, trong khi
đó, chính thành phần mang danh Kitô hữu, thành phần 1/5 dân số nhân loại hiện
nay đã chính thức chấp nhận Người qua Bí Tích Rửa Tội, cũng đã quay ra chối bỏ
Người, một thái độ được bộc lộ tỏ tường nơi thế giới Kitô Giáo Âu Mỹ qua hiện
tượng phá sản đức tin bằng văn hóa sự chết hiện nay. Như thế, đối với hầu hết
nhân loại, kể cả thành phần ngoài lẫn trong Kitô Giáo, Chúa Kitô Cứu Thế đã trở
thành vô nghĩa, không có giá trị gì cả, kể như không có, hay có chăng nữa, cùng
lắm cũng chỉ là một nhân vật lịch sử thuần túy vậy thôi, giống hệt như các vị
sáng lập những đạo giáo khác vậy. Chính vì để tránh khỏi tình trạng như Tiền Hô
Gioan đã cảnh giác dân Do Thái ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 1 câu 26: “Có một
Đấng ở giữa các người mà các người không biết”, một tình trạng chẳng những xẩy
ra cho Kitô hữu thời chúng ta, thời 2001 năm sau Chúa Kitô Giáng Sinh, mà còn
xẩy ra ngay cho cả Kitô hữu ở vào thời Giáo Hội sơ khai, thời Chúa Kitô vừa mới
về trời, Thánh Phaolô đã kêu gọi Giáo Đoàn Rôma rằng: “Anh em biết thời gian
chúng ta đang sống đây. Đó là thời giờ anh em phải tỉnh giấc… Đêm qua rồi; ngày
gần đến. Chúng ta hãy loại trừ những việc làm tối tăm và hãy mặc lấy khí giới
ánh sáng”.
Vâng, đúng thế, chính
“những việc làm tối tăm” của Kitô hữu đã khiến cho họ, dù ở bất cứ thời nào,
không còn thấy được hay thấy rõ Chúa Kitô “là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12) nữa,
đúng như Người đã cho Nicôđêmô biết ở Phúc Âm Thánh Gioan đoạn 3 câu 19: “Aùnh
sáng đã đến trong thế gian, song con người đã chuộng tối tăm hơn ánh sáng, vì
các việc họ làm đều là những việc gian ác”. Mà “những việc làm tối tăm” đây là
gì, nếu không phải là những việc liên quan đến đam mê nhục dục, như Chúa Giêsu
đã đề cập đến trong Phúc Âm hôm nay khi Người nhắc lại “thời Noe… người ta ăn
uống, cưới vợ gả chồng… hoàn toàn không còn để ý gì nữa cho đến khi lụt xẩy đến
mà hủy diệt họ”. Trong bài đọc hai hôm nay, Thánh Phaolô cũng khuyên Giáo Đoàn
Rôma “anh em hãy loại trừ những việc làm tối tăm” là những việc liên quan đến
đam mê nhục dục như sau: “Chúng ta hãy sống một cách đoan chính như giữa ban
ngày; đừng chè chén say sưa, đừng dâm ô lăng loàn, đừng cãi lẫy hờn ghen. Trái
lại, anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu Kitô và đừng chiều theo những ước muốn xác
thịt”.
Vấn đề thực hành sống
đạo: Để có được Cảm Nghiệm Thần Linh về thực tại Chúa Kitô là Lời đã nhập thể
2001 năm trước đây, cũng như về thực tại Người còn đang mầu nhiệm ở với Giáo
Hội của Người cho đến tận thế, trước hết, chúng ta cần phải “tỉnh thức”, bằng
cách “loại trừ những việc làm tối tăm”, như ý hướng của Thánh Phaolô trong bài
đọc hai cũng như của chính Chúa Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay huấn dụ. Phải
chăng chính lúc chúng ta “loại trừ những việc làm tối tăm” là lúc chúng ta đang
“leo lên núi Chúa”, đang lên cao hơn, đang từ từ được tự do thanh thoát hơn,
“cho tới khiù được mặc lấy quyền lực từ trên cao” (Lk 24:49), một tầm mức và
trạng thái đã được tiên tri Isaia bóng bẩy diễn tả như một “đỉnh núi cao nhất”
trong bài đọc thứ nhất hôm nay: “Trong những ngày tới đây, ngọn núi của nhà
Chúa sẽ được thiết lập như một đỉnh núi cao nhất, vượt trên các ngọn đồi… Chúng
ta hãy leo lên núi Chúa, đến nhà Thiên Chúa của Giacóp”? Phải chăng chỉ khi nào
chúng ta leo lên tới ngọn của “đỉnh núi cao nhất” này, tức lúc chúng ta được
tràn đầy “quyền lực từ trên cao”, chúng ta mới đến được “nhà Thiên Chúa của
Giacóp”, tức mới gặp được “Con Người Giêsu Kitô” (1Tim 2:5), Đấng “đã đến trong
xác thịt” (1Jn 4:2), Đấng chính là “Vị Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1:23)?
48. Không
một ai biết giờ
(Chú giải và Suy niệm
của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Khối diễn từ cuối cùng
gồm trọn chương 23 Mt, “Những lời nguyền rủa người Pharisêu”, trước đây vẫn
được coi như tách biệt, và phân đoạn Mt 24,1–25,46, “Diễn từ cánh chung”: Cả
khối từ câu 23,1 đến câu 25,46 làm thành bài diễn từ duy nhất có chức năng nhắc
nhở những người trong nhà sống một đời sống trung thực với những hành vi, công
bình, nhân ái, dưới ánh sáng của cuộc chiến thắng cánh chung của Thiên Chúa và
cuộc phán xét đang đến. Bài Tin Mừng Mt 24,37-44 nằm trong khối diễn từ cuối
cùng này.
Phụng vụ cho đọc từ c.
37, nhưng có lẽ nên đọc bản văn ngay từ câu 36, vì: 1) Tư tưởng của câu 36 này
được trình bày trong cc. 37-44; 2) Hai từ ngữ “ngày và giờ” trong c. 36 được nhắc
lại trong cc. 42 và 44 làm thành một lối hành văn “đóng khung”, khiến cả phân
đoạn 24,36-44 thành một đơn vị thống nhất. Các nhà chú giải thường cắt phân
đoạn ở c. 36 thay vì ở c. 37 như trong bản văn Phụng vụ.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành ba phần:
1) Bài học thời Nôê
(24,37-39), với công thức “cuộc quang lâm của Con Người cũng sẽ như vậy” ở c.
37 và c. 39 đóng khung đoạn văn thành một đơn vị; đơn vị này xoáy vào trọng tâm
là “ngày Quang Lâm của Con Người”;
2) Cuộc phân rẽ vào
ngày Quang Lâm (24, 40-41): Hai câu này vừa là kết luận cho đoạn 37-39, vừa là
tiền đề (và cũng là kết luận) cho lời kêu gọi và dụ ngôn ở cc. 42-44;
3) Bài học về canh
thức và sẵn sàng (24,42-44), với dụ ngôn “Kẻ trộm đêm khuya”, được đóng khung
thành một đơn vị bằng hai công thức tương tự “ngày Chúa của anh em đến” (c. 42)
và “giờ Con Người sẽ đến” (c. 44); đơn vị này xoáy vào hai từ cụ thể được tác
giả Mt dùng để gọi ngày Quang Lâm, “ngày và giờ”.
3.- Vài điểm chú giải
- thời ông Nôê (37): Kinh Thánh kể việc Nôê
đóng tàu trong sách Sáng thế (6,11-13).
- quang lâm (37.39) (HL: parousía, nghĩa
đen là “sự hiện diện”): Trong Mt 24,29-31, Đức Giêsu cho biết rằng Người sẽ trở
lại “uy nghi” (= với quyền lực), “ vinh hiển” (= với vinh quang), “ngự giá mây
trời” (= trên mây trời). Các hình ảnh đó cho hiểu Người sẽ trở lại trong tư
cách Đấng chiến thắng. Đây là một cuộc khải hoàn.
- một người được đem
đi, một người bị bỏ lại (40.41): Hai động từ của bản
văn Hy-lạp ở thái bị động paralambanetai và aphietai nên phải hiểu chủ ngữ là
Thiên Chúa. Dựa theo truyền thống, có thể hiểu: sự kiện các thiên thần “tập hợp
những kẻ được [Con Người] tuyển chọn” (c. 31; x. Mc 13,27) cho thấy
paralambanetai có nghĩa là “được cứu thoát”, nên phải dịch là “được đem đi”,
aphietai, có nghĩa là “bị kết án”, nên phải dịch là “bị bỏ lại”.
- canh thức (42) (HL: grêgoreô): có
nghĩa là “không ngủ”. Đây là thái độ Đức Giêsu yêu cầu phải có nơi những người
đang trông chờ Người đến (x. Mt 25,13; Mc 13,33-37; Lc 12,35-40). Sự canh thức,
ở trong tình trạng “báo động”, giả thiết phải có một niềm hy vọng vững chắc và
đòi hỏi tâm trí luôn sẵn sàng (đây cũng là “sự tiết độ”: 1 Tx 5,6-8; 1 Pr 5,8).
- không biết ngày nào
(42): Đức Giêsu vừa khẳng định mạnh mẽ rằng Người sẽ lại đến, vừa nhấn
mạnh rằng không ai biết được ngày giờ đó (24,36.42.44). Không ai biết và cũng
không ai có thể tính toán để tìm ra ngày giờ ấy cả.
- kẻ trộm (43): Kinh Thánh dùng hình
ảnh tên trộm để nói tới tính bất ngờ của ngày Chúa đến (x. 1 Tx 5,2; 2 Pr 3,10;
Kh 3,3; 16,15).
- vào canh nào (43): Một đêm thường được
chia thành bốn canh (HL: phylakê): chiều (từ khi mặt trời lặn đến 9g tối), nửa
đêm (từ 9g tối đến 12g đêm), khi gà gáy (từ 12g đêm đến 3g sáng) và sáng (từ 3g
sáng đến bình minh, khoảng 6g sáng).
- khoét vách (43): Nhà dân Do Thái thời
Đức Giêsu thường được làm bằng đất với cành cây khô, nên kẻ trộm có thể lọt vào
nhà bằng cách khoét thủng vách tường đất.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
Bài Tin Mừng chúng ta
đọc hôm nay, nếu không được hiểu đúng, sẽ gây khó khăn cho chúng ta.
Trước tiên, can phải
xem Đức Giêsu đang nói về chuyện gì. Tại sao Người đưa vào trong câu chuyện:
ông Nôê, hai người đàn ông đang làm việc trên cánh đồng, hai người đàn bà đang
xay bột, và một tên trộm? Câu trả lời nằm ở đầu chương 24: ở đây Đức Giêsu đang
nói về những dân cư Giêrusalem không muốn hoán cải. Các môn đệ sửng sốt vì
những lời Thầy nói, đã hỏi Người hai điều: khi nào chuyện ấy xảy ra và có dấu
hiệu báo trước chăng (cc. 2-3). Thay vì trả lời họ, Đức Giêsu dạy họ những điều
đến hôm nay vẫn còn giá trị: chúng ta phải luôn luôn canh thức. Rồi Người đưa
ra ba ví dụ.
* Bài học thời Nôê
(37-39)
Vào thời Nôê, có hai
hạng người: những người chỉ biết hưởng thụ cho bản thân và những người tỉnh
thức biết lắng nghe các lời lưu ý.
Những người hoàn toàn
để mình bị cuốn hút vào trong cuộc sống trần thế, với những sinh hoạt cụ thể và
những phương diện bề ngoài ai cũng thấy được (ăn uống, cưới vợ lấy chồng), thì
chỉ biết vui hưởng đời này, không muốn quan tâm đến bất cứ điều gì khác nữa. Vả
lại, nạn hồng thủy chỉ được loan báo, chứ chưa xảy ra. Cũng thế, cuộc Quang Lâm
của Chúa Giêsu cũng chỉ mới được loan báo, chứ chưa xảy ra. Tính cụ thể của các
sự việc trần thế và kinh nghiệm hiện tại dường như thực hữu hơn là bản thân Đức
Chúa như Người đã loan báo. Do đó, người ta bị hút vào hiện tại và hoàn toàn
không màng đến Người, không nghĩ đến trách nhiệm của mình đối với Người. Dù
sao, biến cố quan trọng ấy cũng đã được loan báo, nên chúng ta phải chịu trách
nhiệm về tình trạng bản thân khi Người đến. Cần phải luôn canh thức và sẵn
sàng.
Bài học là: Vào thời
Nôê, nhiều người đã bị chết; vậy những kẻ không chấp nhận Đức Giêsu hoặc tuân
theo lời Người, cũng sẽ chết khi thành thánh bị tàn phá. Còn những ai đón nhận
sứ điệp của Người, sẽ được cứu độ và sẽ trở thành những người đầu tiên thuộc
đoàn dân Người.
* Cuộc phân rẽ vào
ngày Quang Lâm (40-41)
Với ví dụ thứ hai rút
ra từ cuộc sống thường ngày, Đức Giêsu cho thấy rằng mọi người bình đẳng trong
các sinh hoạt trần thế, và không một hoàn cảnh bên ngoài nào bảo đảm cho người
ta có một tư cách xứng đáng cả. Về bề ngoài, không có nét nào phân biệt giữa
hai người đàn ông đang làm ruộng, hoặc hai người đàn bà đang kéo cối xay. Tuy
nhiên, khi Đức Giêsu quang lâm, sẽ xảy ra một cuộc phân rẽ tận căn: những ai đã
sẵn sàng với Người thì được đón vào sống hiệp thông với Người, còn những người
khác thì bị loại trừ. Số phận vĩnh viễn của mỗi người tùy thuộc cách thức mỗi
người sống với Người trong thời gian này. Từ chỗ thấy rằng mọi người đều có
phần công việc và lao khổ, hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ và niềm vui, sống và
chết, người ta dễ rơi vào ảo tưởng là sự vâng phục hoặc bất phục tùng đối với
Thiên Chúa, sự ngay thẳng hay gian tà không hề quan trọng gì cả, là mọi sự đều
như nhau, chẳng có ý nghĩa gì, bởi vì mọi sự sẽ kết thúc giống nhau cho mọi
người! Đức Giêsu điều chỉnh lối suy tư sai lạc này.
Bài học là: “Anh em
hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến” (c. 42).
* Bài học về canh thức
và sẵn sàng (42-44)
Đến đây, Đức Giêsu cho
ví dụ thứ ba. Nếu chúng ta biết ngày giờ Chúa đến, hẳn là chúng ta sẽ chuẩn bị
và chờ đợi. Nhưng Đức Giêsu dùng dụ ngôn kẻ trộm đêm khuya để báo cho chúng ta
rằng Người sẽ đến thật bất ngờ, chúng ta không thể tiên liệu. Do đó, chúng ta
phải luôn luôn sẵn sàng, từng giờ từng phút: “Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ
phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (c. 44).
Tất cả những lời kêu
gọi tỉnh thức này có ý nghĩa gì đối với chúng ta hôm nay? Phải chăng Thiên Chúa
thật sự đến như một kẻ trộm, và gọi người ta đến mà xét xử vào lúc họ ít sẵn
sàng nhất? Thật khó mà đặt lòng tin vào một vị Thiên Chúa như thế! Nếu đây là
cách giải thích đúng các lời nói của Đức Giêsu, hẳn là chúng ta sẽ không có một
sứ điệp cứu độ, mà chỉ có một lời đe dọa ác độc. Thật ra điều Người muốn nói
với chúng ta hoàn toàn khác hẳn.
Trong mỗi khoảnh khắc,
chúng ta phải sống một cuộc sống phù hợp với ý muốn của Người và có thể lãnh
trách nhiệm trước mặt Người. Chính vì Người không cho thấy tất cả ý định của
Người mà chúng ta phải hiểu rằng chúng ta hoàn toàn lệ thuộc vào Người. Sự kiện
lúc này Người còn đang ẩn mình và rất “ở yên” không được khiến chúng ta bị lừa.
Như thế, điều Đức Giêsu muốn nói với chúng ta hôm nay là Người luôn luôn muốn
cứu chúng ta, làm cho chúng ta hạnh phúc, nhưng chúng ta phải luôn ý thức về sự
hiện diện của Người.
+ Kết luận
Theo kinh nghiệm thông
thường, người ta cho rằng chính loài người và các sức mạnh thiên nhiên qui định
dòng lưu chuyển của từng số phận con người và toàn thể lịch sử nhân loại. Quan
niệm này khiến người ta nghĩ rằng sự việc vẫn cứ tiếp tục như thế, trừ phi là
xảy ra mộttai họa trên toàn thể vũ trụ. Nhưng Đức Giêsu lại đến loan báo rằng
Nước Trời đã gần kề, có nghĩa là Thiên Chúa dứt khoát quyết định bung mở quyền
chúa tể của Ngài ra (x. 4,17). Điều này sẽ được thể hiện khi Con Người đến với
quyền lực và vinh quang Thiên Chúa (24,30). Khi Người tỏ mình ra vĩnh viễn cho
hết mọi người với quyền lực thần linh của Người trước toàn thể thế giới, mỗi
người sẽ xuất hiện ra trước mặt Người trong chiều hướng và giá trị đã đạt được.
Với biến cố Đức Giêsu đến vĩnh viễn, mỗi người cũng sẽ đạt tới ánh sáng trong
bản chất thâm sâu của mình. Mỗi người bị liên kết sâu xa với ngày Đức Giêsu trở
lại, do đó phải sống trọn cuộc đời trong chiều hướng này. Và bởi vì không một
ai biết chính xác ngày giờ Người trở lại (24,36.42.44), mỗi người cần luôn luôn
sống trong tư thế sẵn sàng đón Người khi Người lại đến.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu khẳng
định là không một ai có thể biết được ngày giờ Người trở lại trần gian và tính
toán để tìm ra ngày giờ ấy. Do đó, điều hết sức hệ trọng là luôn sẵn sàng cho
biến cố ấy, tức là lưu ý đến tính bất xác, tính bất khả tri và bất khả tiên
liệu của ngày giờ đó, hầu tránh được lối sống mù quáng. Chúng ta vẫn đang hy
vọng Người trở lại. Nhưng đây không phải là một nỗi niềm chờ mong khắc khoải,
mà là một xác tín rằng Người cũng là Đấng đã đến và đang đến sống giữa chúng
ta: chính Người đang và sẽ đưa lại ý nghĩa chân thật cho cuộc đời và vũ trụ
chúng ta.
2. Vì đã được Đức
Giêsu dạy là không thể tìm ra đáp án cho các câu hỏi “khi nào và cách nào”,
người Kitô hữu chỉ càng chăm chú sống y như thể ngày đó đang đến rồi. Tuy
nhiên, canh thức và sẵn sàng không có nghĩa là cứ đưa mắt nhìn về trời! Lời
Chúa mời gọi chúng ta quan tâm đến những nhiệm vụ hằng ngày chúng ta đã và sẽ
đảm nhận. Sống và làm việc đúng như Người đã giáo huấn chúng ta, đó là cách
thức tốt nhất để đón Người vào ngày Người trở lại. Sự canh thức càng có tính
thúc bách khi chúng ta không biết giờ cùng tận. Tiếng hô của bài Tin Mừng: “Anh
em hãy sẵn sàng! Hãy canh thức!” phải vang lên trong tim của những người đang
chờ mong cuộc gặp gỡ vĩ đại.
3. Nhìn bề ngoài,
không có dấu chỉ nào giúp phân biệt người đang sống đúng thánh ý Thiên Chúa và
người không sống như thế, khi mà ai nấy đều đang sống chìm vào giữa những thực
tại trần gian. Do đó, chúng ta không được nhìn vào người khác để lượng định bản
thân và nhất là để mình rơi vào mộtthứ yên tâm giả tạo. Tốt nhất là hãy nhớ lại
các giáo huấn Đức Giêsu đã ban cho chúng ta, rà soát xem chúng ta đã đưa ra
thực hành như thế nào. Bài Giảng trên núi trong TM Mt chính là một cẩm nang
giúp người Kitô hữu sống canh thức và sẵn sàng.
4. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta luôn luôn lệ thuộc vào Đức Giêsu và chúng ta luôn chịu trách nhiệm
trước mặt Người. Đức Giêsu đến vào Ngày Quang Lâm không còn phải là trong tư
cách Đấng Cứu thế, nhưng trong tư cách vị Thẩm Phán tối cao. Do đó, ngày Người
đến sẽ là ngày giờ của sự thật, bởi vì sẽ là ngày giờ để trả lời (“trả lẽ”) với
Người về những nhiệm vụ chúng ta phải chu toàn và là ngày giờ chúng ta được vén
mở (= mạc khải) cho hiểu biết mọi sự.
49. Chú giải của
Noel Quesson
Một năm phụng vụ mới
bắt đầu. Năm nay (A), chúng ta sẽ đọc mỗi Chúa nhật một đoạn Tin Mừng theo
Thánh Matthêu. (Năm B là năm Tin Mừng Maccô, và năm C là năm Tin Mừng Luca).
Quả thế, thời ông Noê
thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng sẽ như vậy.
Đó là Mùa Vọng.
Ta biết từ này bắt
nguồn từ tiếng La-tinh adventum, nghĩa là sự đến, đã đến đấy là từ đầu tiên của
sách Tin Mừng này. Một ai đó. Đức Giêsu không giới thiệu mình cho chúng ta như
một người của quá khứ, nhưng như một người của tương lai. Người nói về việc
người đến, về việc người quang lâm như một biến cố tương lai.
Lễ Giáng sinh sắp đến,
đối với chúng ta không phả là một cách làm giả bộ, như chúng ta vui sướng chờ
một người đã đến và chúng ta nhớ nhung gợi lại một câu chuyện lạ lùng xưa.
Đức Giêsu đã nói với
chúng ta Người sắp đến; thời ông Noê thế nào, thì ngày quang lâm Con Người cũng
sẽ như vậy.
Này đây Chúa đến! Ta
hãy để cho Chúa đi qua!
Mỗi buổi sáng Thiên
Chúa đều mới mẻ.
Vì trong những ngày
trước nạn hồng thủy, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, cho mãi đến ngày
ông No-ê vào tàu.
Những đầu óc nông cạn
có lẽ sẽ nói: tại sao lại phải tìm quá xa và đi ngược mãi lên đến thời hồng
thủy và Tàu No-ê. Người ta phải làm chi đây? Này! Đức Giêsu, chính Người đang
nghĩ ta đang ở "vào thời No-ê". Và Người mô tả về điều người ta lo
lắng. Đó chính là bức tranh của xã hội ta đương. đại: làm việc, ăn uống, dựng
vợ, gả chồng. Tất cả những chuyện đó, chẳng có gì tự nhiên hơn!
Trong sách Sáng Thế
(16,5-13), cơn hồng thủy được trình bày như một hình phạt cái tội vô luân của
con người thời đó; "Đức Chúa thấy rằng con người quá gian ác trên mặt đất,
và lòng họ chỉ toan tính những ý đồ xấu xa suốt ngày". Truyền thống thượng
tế khi kéo dài và bi kịch hóa mạc khải Kinh Thánh, đã nghiêm khắc mô tả
"sự sa đọa nhục dục của những người đương thời No-ê kéo theo hỗn loạn sang
lãnh vực phong tục... và cuối cùng đi tới hủy hoại về đạo lý và xã hội đến nỗi
loài người tự hủy diệt chính mình mà không còn hy vọng sống xót…” (chú giải về
sách Sáng Thế của Rachi).
Đức Giêsu, trái lại,
tuyệt đối không hề nói gì về nạn vô luân. Người không trách móc những người
đương thời No-ê, đó chỉ là những đàn ông và đàn bà đang hít thở niềm vui của
cuộc sống! Người không trách họ về sự sa đọa của họ. Cuối cùng thì họ chẳng làm
chuyện chi xấu xa cả: họ chú tâm đến những nhu cầu hoàn toàn bình thường của
cuộc sống, chẳng có một hậu ý gì.
Thế thì họ quấy quá ở
chỗ nào? Đức Giêsu có thể trách móc họ điều gì nào?
Họ không hay biết gì,
cho đến khi nạn hồng thủy tới cuốn đi hết thảy.
Họ không bị khiển
trách vì phóng đãng mà cũng chẳng phải vì tội lỗi. Chính vì họ “không biết sớ
hãi gì cả!” không lo đến chuyện chính yếu... không có một nhận thức đúng đắn về
thực tại…
Họ có vẻ tin là họ bất
tử! Mắt họ bị bịt không thấy thân phận con người của mình. Họ phải chịu cái
chết "nuốt trôi” để rồi, trong phút chốc, họ khám phá thấy rằng họ không
phải là “những thần linh” và nếu muốn sống thì họ cần đến Chúa!
Chúng ta luôn luôn ở
vào "những ngày thời No-ê!".
Loài người hôm nay,
cũng thế, họ như bị đánh thuốc mê. Tiến bộ vật chất chính nó có xu hướng ru ngủ
chúng ta. Người ta tin thế gian này vững vàng, chỗ người ta đã quen sống, cho
đến ngày đến lúc chợt tỉnh ngộ, thì còn tàn bạo hơn cả trước kia người ta đã vô
ý thức quá về mối nguy hiểm. Có một cảnh tượng hiện đại của cận đại hồng thủy;
đấy là cuộc lạm phát tiền tệ quốc tế nhận chìm hết mọi nền kinh tế, đấy làm sự
tăng giá đột ngột như một cơn són triều của dầu khí và những nguyên liệu thiết
yếu nhất, đấy là một căn bệnh không tiên đoán được, đấy là một ta nạn … Và tất
cả mọi thứ an toàn của chúng ta đều bị cuốn trôi hết!
Ngày Con Người quang
lâm cũng sẽ như vậy.
Lần thứ hai, Đức Giêsu
dùng đến từ "quang lâm" “parousia" trong tiếng Hy Lạp. Thực sự,
từ này có nghĩa là sự "hiện diện", "đã đến": Có mặt ở đấy!
Xưa người ta dùng từ ấy, trong thế giới Hy-La để chỉ "những cuộc đi thăm
chính thức của các hoàng đế".
Chúng ta có xu hướng
hơi thái quá đem áp dụng nghĩa “parousia" cho Ngày Tận Cùng Các Thời Đại,
khi nghĩ rằng ta có những cơ may là không trông thấy ngày tận thế. Đúng là cách
ta đánh giá sai lầm về các sự vật mà Đức Giêsu muốn chúng ta cảnh giác: Thực
sự, Đức Giêsu nói với chúng ta rằng Người đến "thăm chính thức” chúng ta
trong lúc ta bận rộn những chuyện thường ngày nhất, tại nơi ta làm việc tại nhà
ta, ở nới ta ăn uống, trong các quan hệ giữa đàn ông và đàn bà của ta. Lúc lào
ta cũng phải sẵn sàng cho Đức Giêsu "ngự đến", "đến cuối
cùng", ' có mặt ở đó".
Bấy giờ hai người đàn
ông đang làm nương, thì một người được đem đi! một người bị bỏ lại; hai người
đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại...
Đó là cuộc sống hằng
ngày.
Chính trong những lúc
bận rộn rất thường ngày của chúng ta mà Đức Giêsu đến, giữa lúc người nông dân
đang làm, người nội trợ đang làm... và ta có thể thêm, nơi văn phòng, ngoại
phố, lúc ta đang lái ôtô.
Vậy anh em hãy canh
thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến.
Đức Giêsu khuyên chúng
ta phải "tỉnh thức": Hãy canh thức! Hãy chuẩn bị cho tương lai chúng
ta. Bởi lẽ Chúa "đến", Chúa "có mặt" mọi ngày.
Đức Giêsu "đến”
tạo ra một cách thế riêng của người ở chỗ mà người ta không thấy có gì khác
nhau, bởi lẽ không có gì phân biệt giữa hai người này đang cùng làm ruộng, hai
người đàn bà cùng kéo cối xay này. Chỉ có chính Chúa mới thấy cái khác nhau:
Một người thì sắn sàng, người kia thì không! Bấy giờ một người được ở với Chúa,
ở trong ánh sáng còn người kia không được ở với Chúa, phải ở trong tối tăm.
Hiển nhiên là không có vấn đề độc đoán.
Toàn bộ Kinh Thánh
nhắc lại rằng Thiên Chúa "cứu độ". Và nếu ta hiểu rõ đoạn nói về nạn
hồng thủy, thì phải thấy ở đó có một “hành vi cứu thoát”: Khi con người bấy giờ
đang đi tới đại họa, thì mọi chuyện đi theo chiều hướng ngược lại khi Thiên
Chúa can thiệp, để làm cho một nhân loại mới xuất hiện. No-ê, chính là người
được Thiên Chúa “cứu độ”.
Nhưng, hãy chú ý, tàu
đã sắn sàng, hôm nay, cho nạn hồng thủy của bạn. Đức Kitô Đấng Cứu Độ, đã vào
trong biển nước chết chóc, lôi kéo thêm người vào Giáo Hội, trên thuyền của
Người, tất cả những ai theo Người. Và khi vào thời No-ê theo nguyên văn Kinh
Thánh, loài người đầu tiên thực sự đã biến mất trọn vẹn, thì Đức Giêsu, nói đến
50% những người được cứu độ... một trên hai.. năm trinh nữ khôn ngoan, khác với
năm trinh nữ dại khờ (Mt 25,12). Và hiển nhiên chúng ta biết rằng đó không phải
là những phần trăm theo toán học.
Không hề muốn nói đến
một bầu không khí sợ hãi, Đức Giêsu lôi những người “đang đứng", những
người "canh thức", những người "đang rình". Cái "liều
lĩnh" trong cuộc sống kinh tế, xã hội, gia đình, mời gọi ta thấy trước, lo
chuẩn bị tỉ mỉ. Ong chủ doanh nghiệp đang "thiêm thiếp ngủ” sẽ kết án chính cái
doanh nghiệp của mình. Chàng trai trẻ không lo chuẩn bị tái lai của mình, thì
chính mình sẽ chịu trách nhiệm làm hỏng cuộc đời mình, giống hệt như nhau.
Người đàn ông hay đàn bà không bao giờ nghĩ đến Chúa sẽ làm hỏng cuộc
"viếng thăm" của Người.
Vậy anh em hãy canh
thức, bởi vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hay biết
điều này: nếu chủ nhà biết vào canh kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức...
Đừng làm cho cuộc đời
mình cứ ngủ! Hãy tỉnh thức!
Sinh vật nào thức
tỉnh, con vật đang săn mồi, cuối cùng chính là thứ "được sống". Tỉnh
thức không hề có nghĩa là "tích lũy cho nhiều hệ thống an ninh",
"chắn rào chung quanh nhà để tránh cướp": Không! Tỉnh thức, chính là
“sắn sàng" để đối phó, chính là "được vận động liên tục” để hành
động:.. Tỉnh thức, chính là trái nghịch với "để buông trôi", lo lắng,
bất cần.
Không nên nói
"giá mà tôi đã biết trước" vì đã quá muộn rồi, bởi lẽ chúng ta đã
được cảnh báo trước rồi.
Nếu chủ: nhà biết vào
canh nào kẻ trộm sẽ đến... Hẳn ông đã thức không để nó khoét vách nhà mình đâu.
Trong tâm trí chúng
ta, hiển nhiên hình ảnh của “người kẻ trộm" gắn liền với sợ hãi. Chắc chắn
ta có thể đọc một bài khác về hình ảnh này. Thế thì theo Đức Giêsu, kẻ trộm đến
làm gì? Nó "khoét vách nhà" anh" ta đến mở cái gì đang bị đóng
lại, bỗng nhiên ta khám phá một ý nghĩa tượng trưng kỳ diệu; qua những lời lẽ
chân thực củ dụ ngôn: Chúa luôn luôn:đến "để mở" thế gian cứ đóng
không cho Người vào. Khi Người đến cửa nhà chúng ta, Chúa sẽ vào nhà ai tỉnh
thức để mở cho người! Nhưng ai để cho mình phải bất ngờ …coi chừng! Cửa không
phải lúc nào cũng mở luôn luôn đâu.
Chúng ta có lỡ không
để chúng ta ngỏ vào thế giới của Thiên Chúa không?
Cho nên anh em cũng
vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ
đến.
Người Kitô hữu sẽ được
giải thoát khỏi cái ngày..luôn luôn sắn sàng. Vâng! Con Người đến bất cứ lúc
nào trong đời. Người đến thường xuyên, đơn giản đến độ có vẻ như luôn luôn
không ngờ đến.
Ta có tin vào điều mạc
khải này của Chúa không?