SUY NIỆM CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN C
1. Đức tin
2. Đầy tớ vô dụng
3. Đức tin
4. Đức tin và những điều kỳ diệu
5. Làm điều phải làm
6. Tin Tưởng Vào Chúa - An Phong
7. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
8. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi
9. Nếu các con có lòng tin
10. Hãy bật rễ lên
11. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi
12. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc
13. Đức tin và người đầy tớ vô dụng
14. Xin thêm niềm tin cho chúng con
15. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest
16. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller
17. Phép lạ của lòng tin
18. Đức tin – McCarthy
19. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương
20. Đức tin và khiêm nhường – Veritas.
21. Đức tin và khiêm nhường
22. Khiêm nhường và tin tưởng
23. Đức tin
24. Niềm tin
25. Đức tin giúp con người hạnh phúc
26. Máy thời gian – Lm. Vũ Minh Nghiễm
27. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn
28. Đức tin trong bóng tối
29. Chú giải của Noel Quesson
30. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ
31. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật
Hãy bật rễ đi Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Xin ban thêm đức tin Lm Giuse Đinh lập Liễm
Phục vụ Chúa cho phải đạo làm tôi Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Niềm tin thương mại Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Nếu bạn có đức tin Cha Mark Link, S.J.
Đức tin Sợi Chỉ Đỏ
Những đầy tớ bình thường của... Fiches Dominicales
Chứng tỏ ân điển từ ái William Barclay
Phục vụ McCarthy
Làm điều phải làm Sưu tầm
Hãy bật rễ lên Sưu tầm
Nhận và cho không vị lợi Sưu tầm
2. Đầy tớ vô dụng
3. Đức tin
4. Đức tin và những điều kỳ diệu
5. Làm điều phải làm
6. Tin Tưởng Vào Chúa - An Phong
7. Bổn phận – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
8. Phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi
9. Nếu các con có lòng tin
10. Hãy bật rễ lên
11. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi
12. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc
13. Đức tin và người đầy tớ vô dụng
14. Xin thêm niềm tin cho chúng con
15. Nhận và cho không vị lợi – Achille Degeest
16. Ai là người thay đổi? – Charles E. Miller
17. Phép lạ của lòng tin
18. Đức tin – McCarthy
19. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương
20. Đức tin và khiêm nhường – Veritas.
21. Đức tin và khiêm nhường
22. Khiêm nhường và tin tưởng
23. Đức tin
24. Niềm tin
25. Đức tin giúp con người hạnh phúc
26. Máy thời gian – Lm. Vũ Minh Nghiễm
27. Gian nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn
28. Đức tin trong bóng tối
29. Chú giải của Noel Quesson
30. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục vụ
31. Chỉ là người tôi tớ – Lm G. Nguyễn Cao Luật
Hãy bật rễ đi Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Xin ban thêm đức tin Lm Giuse Đinh lập Liễm
Phục vụ Chúa cho phải đạo làm tôi Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Niềm tin thương mại Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Nếu bạn có đức tin Cha Mark Link, S.J.
Đức tin Sợi Chỉ Đỏ
Những đầy tớ bình thường của... Fiches Dominicales
Chứng tỏ ân điển từ ái William Barclay
Phục vụ McCarthy
Làm điều phải làm Sưu tầm
Hãy bật rễ lên Sưu tầm
Nhận và cho không vị lợi Sưu tầm
1. Đức tin
Đọc lại Phúc Âm chúng
ta thấy được một bài học quý giá: Đức tin là một yếu tố quyết định cho việc can
thiệp của Thiên Chúa vào đời sống.
Chúa Giêsu đã làm phép
lạ tuỳ theo lòng tin của mỗi người. Rất nhiều lần Người đã phán với các bệnh
nhân: Đức tin của con đã cứu chữa con, con hãy về bình an. Hay: Con tin thế nào
thì sẽ được như vậy. Nơi khác, Chúa Giêsu còn xác quyết với chúng ta: Nếu các
con có được một đức tin bằng hạt cải, thì các con cũng có thể làm được những
việc hệ trọng như chuyển núi dời sông. Vậy chúng ta phải tin những gì?
Trước hết là hãy tin vào quyền năng của
Thiên Chúa. Đúng thế, Thiên Chúa là Đấng quyền năng. Với quyền năng ấy,
Ngài đã tạo dựng vũ trụ. Với quyền năng ấy, Ngài vẫn luôn yêu thương chăm sóc
chúng ta, bởi vì nơi Ngài không có biến dịch và thay đổi. Hay như lời thánh
Phaolô đã nói: Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn chỉ là một. Điều cần
thiết là chúng ta phải tin tưởng chạy đến với Người như lời Thánh vịnh: Ví như
Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành trì Chúa chẳng giữ
trọng, hùng binh kiện tướng cũng không ra gì. Trong Phúc Âm, chính Chúa Giêsu
cũng đã bảo: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Hay như lời sứ thần
Gabriel: Không có sự gì mà Thiên Chúa chẳng làm được. Tin tưởng chạy đến với
Chúa để rồi được Ngài nâng đỡ và phù trợ, như vậy chúng ta sẽ chẳng còn phải lo
sợ điều chi nữa. Với Chúa thì màng nhện cũng có thể trở nên tường thành, trái
lại, không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Tiếp đến, chúng ta hãy tin tưởng vào sự quan
phòng của Ngài. Như chúng ta cũng đã nhiều lần xác tín Thiên Chúa là một người
Cha nhân từ. Người Cha nhân từ ấy vốn hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Sự yêu
thương chăm sóc ấy nhiều khi chúng ta không để ý tới. Chẳng hạn không có khí để
thở, không có nước để uống, không có cơm để ăn, thì chỉ trong một thời gian
ngắn chúng ta sẽ không thể nào sống nổi.
Ngay cả trong những
giây phút đen tối dưới con mắt đức tin, chúng ta vẫn nhìn ra bàn tay uy quyền
của Thiên Chúa hướng dẫn dòng đời của chúng ta. Biết đâu nhờ những gian nguy
thử thách ấy mà chúng ta biết ăn năn sám hối, quay trở về cùng Thiên Chúa. Biết
đâu nhờ những đau khổ và buồn phiền mà nhân đức của chúng ta được củng cố và
niềm tin của chúng ta sẽ được kiên vững hơn lên, bởi vì tất cả đều là hồng ân
của Thiên Chúa. Hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu đã phán: Các con hãy nhìn
xem chim trời, chúng không gieo không gặt mà chẳng con nào bị chết đói. Các con
hãy nhìm xem cánh hoa đồng nội chúng không dệt không may mà ngay như áo cẩm bào
của Salomon cũng không rực rỡ cho bằng, các con hãy tin tưởng, các con càng quý
giá hơn chim trời và hơn cánh hoa đồng nội rất nhiều. Hay như Thánh vịnh cũng
đã bảo: Kẻ kính sợ Chúa sẽ không thiếu thốn chi. Sư tử con không kiếm ra mồi
chứ người kính sợ Chúa sẽ không hề đói, bởi vì Ngài hằng đoái nhìn kẻ công
chính. Bằng đó mà thôi cũng đủ để cho chúng ta an tâm cho tương lai, cho ngày
mai. Bởi vì, ngày mai và tương lai lại hệ tại ở lòng tin.
2. Đầy tớ vô
dụng
Dụ ngôn chúng ta vừa
nghe nói lên mối liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn kẻ nô
lệ của ông ta.
Thực vậy, nơi dân Do
Thái vào thời Chúa Giêsu vẫn còn tồn tại chế độ nô lệ. Kẻ nô lệ bị coi như là
một tài sản của ông chủ, khác với người làm công. Người làm công chỉ phục vụ
cho ông chủ trong một số công việc và trong một số giờ giấc nào đó, ngoài ra
anh ta là người tự do. Kẻ nô lệ sau những giờ giấc cực nhọc ở ngoài đồng ruộng,
khi trở về nhà, không được phép nghĩ đến việc ăn uống nghỉ ngơi. Ông chủ cũng
không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm hay hầu hạ để cám ơn. Kẻ nô lệ phải lập
tức làm những công việc khác để phục vụ cho ông chủ, đến khi chủ không còn sai
khiến điều gì nữa, thì kẻ nô lệ mới được nghỉ ngơi. Và không bao giờ ông chủ
nghĩ đến việc cám ơn hay trả lương cho nô lệ của mình vì nô lệ là tài sản của
chủ. Kẻ nô lệ được phép ăn uống, nhưng bị coi là phương tiện bảo vệ mạng sống
và sức lực mà ông chủ cần đến.
Vậy đâu là ý nghĩa
Chúa Giêsu muốn nhắn gởi qua câu chuyện kể trên? Chúng ta không được phép vội
vã kết án là Chúa Giêsu ủng hộ cho chế độ nô lệ, nhưng Ngài chỉ muốn dùng những
hình ảnh sống động và cụ thể để dạy cho chúng ta thái độ phải có đối với Thiên
Chúa. Đúng thế mục đích Ngài nhắm tới, đó là chống lại với giáo lý về công
nghiệp của bọn biệt phái. Những người này chủ trương, tất cả những việc lành,
việc thiện đều là công nghiệp trước mặt Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa phải tính
công và trả ơn cho họ theo lẽ công bằng.
Hẳn chúng ta còn nhớ
lời cầu nguyện của một người biệt phái trong đền thờ: Lạy Chúa, tôi đội ơn
Ngài, vì tôi không phải như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình
hay là như tên thu thuế kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập phân
về mọi thứ hoa lợi. Chính sự tính toán này, người Pharisêu đã biến Thiên Chúa
thành một con nợ của mình.
Thế nhưng qua dụ ngôn
này Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thái độ khiêm tốn
trước mặt Thiên Chúa bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân của Ngài hay
như lời Ngài đã nói: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Như thế thì
làm sao chúng ta có thể kể công trước mặt Thiên Chúa. Mọi cố gắng luân lý của
chúng ta không có giá trị gì trước mặt Ngài. Mọi việc đạo đức chúng ta làm chỉ
là bổn phận chúng ta phải chu toàn. Mọi hành động bác ái của chúng ta cũng
không đủ để cảm tạ những ơn huệ của Ngài và của anh em đồng loại. Suốt cuộc đời
chúng ta cũng chẳng đủ để cám ơn Ngài, thì làm gì gọi được là công lao. Cho dù
chúng ta có trung thành với Ngài đến hơi thở cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn
phả kêu lên: Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm việc bổn phận của
con mà thôi.
Lẽ tất nhiên, Thiên
Chúa không phải là một ông chủ hà khắc, nhưng Ngài là một người cha yêu thương,
luôn chăm sóc và mong muốn cho chúng ta được mọi sự tốt đẹp, và chắc chắn Ngài
sẽ không bao giờ chịu thua trước tình yêu của chúng ta.
3. Đức tin
Nếu các con có được
một đức tin bằng hạt cải.
Giả sử như chúng ta có
được một cỗ máy thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế kỷ. Khi
gặp gỡ những người của năm 1895 và đưa cho họ tờ nhật báo hôm nay, chắc hẳn tờ
nhật báo ấy là một cái gì xa lạ và họ chẳng hiểu được bao nhiêu. Chỉ cần nêu ra
một số từ ngữ, chẳng hạn như phi thuyền, siêu thị, chứng khoán, vi tính...
Nếu như họ hỏi: Truyền
hình là gì? Hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là một chiếc máy giúp
chúng ta nhìn thấy sự việc xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Tàu đúng lúc nó đang
thực sự xảy ra ở những nơi ấy. Giả sử họ hỏi: Hoả tiễn hạch tâm tầm xa là gì? Hẳn
chúng ta sẽ sẵn sàng trả lời đó là một trái đạn khổng lồ được bắn đi có thể
tiêu diệt bất kỳ thành phố nào cách xa hàng ngàn cây số. Giả sử họ hỏi: đổ bộ
mặt trăng là gì? Chúng ta sẽ mau mắn cắt nghĩa đó là việc con người dùng phi
thuyền bay lên và đáp xuống mặt trăng.
Trước những câu trả
lời này, dân chúng của thế kỷ trước sẽ nghĩ gì về chúng ta? Chắc hẳn họ sẽ cho
chúng ta là những kẻ điên khùng, bởi vì một người tỉnh táo thời bấy giờ sẽ cho
rằng chúng ta không thể ngồi ở Việt Nam mà lại biết được những việc đang xảy ra
ở bên Pháp, bên Mỹ và bên Tàu. Và họ cũng cho rằng chúng ta không thể nào bay
được như một con chim để lên tới mặt trăng. Câu chuyện khoa học giả tưởng trên
cho chúng ta thấy: điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với
dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường. Điều mà dân thế kỳ
này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện bình
thường. Và bây giờ cùng với cỗ máy thời gian ấy, chúng ta đi vào tương lai, tới
năm 3000. Trên những tờ báo lúc bấy giờ không còn đăng tải những tin tức về bạo
lực, nghèo đói và chiến tranh, mà chỉ có tình yêu, sự thịnh vượng, hoà bình và
thân hữu. Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ thầm rằng một thế giới như vậy chỉ là
chuyện mơ tưởng, không thực, bởi vì ở đâu có loài người thì ở đó có bạo lực, có
hận thù, có bóc lột và giàu nghèo.
Thế nhưng, từ đó chúng
ta đi tới một kết luận: Nếu chúng ta tin rằng hoà bình không thể có trên mặt
đất, thì làm sao chúng ta thành công trong việc xây dựng nó. Nếu chúng ta cho
rằng tự cõi lòng con người vốn ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể tạo được
một xã hội công bằng.
Tuy nhiên với đức tin,
chúng ta phải nhìn nhận rằng có thể có bình an trên mặt đất, có tình yêu giữa
con người và có sự hoà điệu giữa các dân tộc. Sở dĩ như vậy là vì Đức Kitô đã
đến giữa chúng ta, dạy cho chúng ta cách sống, cách thực hiện những điều trên.
Đây chính là sứ điệp Ngài muốn gởi gắm chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Nếu các ngươi có được
một đức tin bằng hạt cải, các ngươi có thể chuyển núi dời sông. Nhờ đức tin mà
chúng ta có được quyền năng của Thiên Chúa trong tầm tay của mình. Và với quyền
năng ấy, không gì là không có thể, kể cả một thế giới không còn chiến tranh,
hận thù và nghèo đói.
4. Đức tin và
những điều kỳ diệu
(Suy niệm của ĐGM.
Giuse Vũ Văn Thiên)
Đức tin có một sức
mạnh thật kỳ diệu. Các tác giả Tin Mừng đã chứng minh với chúng ta điều đó. Đối
với những ai đến với Chúa và tín thác nơi Ngài, họ nhận được những ơn lạ lùng
vượt xa sự mong đợi.
Một người bất toại đã
lâu năm, nay chỉ mong có thể cử động đi lại. Khi gặp gỡ Chúa và được Người chữa
bệnh, ông đã trở nên khỏe mạnh, không chỉ đi lại được như mọi người, mà ông còn
vác chõng mà đi, trước sự kinh ngạc của mọi người (x. Mc 2,3-12). Một người mù
từ bẩm sinh, chỉ ước mong con mắt mình sáng để được nhìn thấy mọi người và mọi
vật xung quanh. Khi được Chúa chữa, anh không chỉ sáng con mắt thể xác, mà còn
sáng cả con mắt tâm hồn. Anh được Ngài soi lòng mở trí để hiều biết những điều
cao siêu. Những suy tư về sự thánh thiện và tội lỗi của người mù vừa được chữa
lành, xem ra còn khôn ngoan hơn cả những người biệt phái và luật sĩ (x. Ga
9,1-41). Một người què, đi lại khó khăn, chỉ mong được bước đi như những người
khác. Nhờ tác động và quyền năng của Chúa, thông qua trung gian của hai vị tông
đồ là Phêrô và Gioan, không những anh có thể đi lại được, anh còn “vừa đi vừa
nhảy nhót và ca tụng Thiên Chúa”. Tác giả sách Công vụ Tông đồ trình bày anh
giống như một vũ công, múa nhảy ca hát để tỏ bày niềm vui trước những điều lạ
lùng Thiên Chúa vừa thực hiện (x. Cv 3,1-10). Một phụ nữ tội lỗi cả thành đều
biết tiếng, qua cuộc gặp gỡ với vị ngôn sứ có tên là Giêsu, chị đã sám hối ăn
năn và trở nên con người mới. Không chỉ được hội nhập vào xã hội, chị còn trở
nên một nữ tông đồ năng động nhiệt thành và là người đầu tiên loan báo Chúa đã
phục sinh (x. Lc 8,2).
Đức tin có thể mang
lại cho chúng ta những điều kỳ diệu. Những điều kỳ diệu ấy đến từ quyền năng
của Chúa. Ngài là chủ vũ trụ, là nguyên lý của mọi nguyên lý. Quyền năng của Chúa
bao trùm vũ trụ và cuộc sống con người. Trong xã hội văn minh hiện đại, con
người lầm tưởng rằng họ có thể thay thế Thiên Chúa. Ý tưởng điên rồ này đã phải
gánh lấy thất bại đắng cay. Một khi gạt bỏ Thiên Chúa khỏi cuộc sống, điều còn
lại sẽ là bạo lực, hận thù và tội ác.
Những điều kỳ diệu của
đức tin cũng đến từ nỗ lực cố gắng của con người. Đức Giêsu đã nói đến hiệu quả
của đức tin: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì các con có khiến
núi này rằng: ‘Hãy rời khỏi đây mà sang nơi kia’, thì nó liền đi sang, và chẳng
có gì các con không làm được” (Mt 17,20). Hạt cải thật nhỏ bé và núi đồi lớn
lao. Đó là hai hình ảnh tương phản nhau. Sự tương phản ấy càng làm nổi bật sức
mạnh của đức tin. Tác giả thư Do Thái đã nhắc đến gương mẫu đức tin của các Tổ
phụ và những nhân vật của lịch sử dân tộc, đã nhờ đức tin mà họ vượt lên biết
bao gian nan thử thách để trung thành với Chúa và thực hiện tốt đẹp những sứ vụ
Chúa trao (x. Dt 11). Họ là những người đã cộng tác với Chúa, nỗ lực làm cho
đức tin sinh hoa kết trái nơi cuộc đời của họ cũng như nơi tha nhân. Nếu được
liệt kê vào danh sách những gương mẫu đức tin trong thư gửi tín hữu Do Thái,
chúng ta sẽ nói đến các thánh tử đạo Việt Nam. Đức tin là bí quyết đem lại cho
các ngài sức mạnh. Các ngài là những người thuộc nhiều thành phần xã hội khác
nhau: từ những quan lại trong triều đình đến những nông dân chân lấm tay bùn;
từ những người giàu có đến những người nghèo nàn cơ khổ. Tất cả đều tìm được
nguồn sức mạnh đến từ đức tin vào Chúa, thà hy sinh mọi sự còn hơn là mất ơn
nghĩa với Chúa. Họ chấp nhận đánh đổi tất cả để được sự sống đời đời. Sức mạnh
của đức tin kỳ diệu là thế.
Sức mạnh của đức tin
còn thể hiện qua sự gắn bó của người tín hữu đối với Giáo Hội. Giáo Hội là bí
tích phổ quát của ơn cứu độ. Giáo Hội là chiếc thuyền chuyên chở các tín hữu
đến gặp gỡ Chúa, đồng thời cũng chuyên chở Chúa đến gặp Dân của Ngài. Lịch sử
hai ngàn năm đã chứng minh sức mạnh của Giáo Hội. Mặc dù thời nào cũng có những
tội lỗi và gương xấu, con thuyền Giáo Hội không vì thế mà bị nhấn chìm, vì Giáo
Hội được xây dựng trên nền tảng đức tin, được diễn tả qua hình ảnh tảng đá góc
là chính Đức Giêsu. Hãy chiêm ngắm một khung cảnh phụng vụ sẽ thấy sức mạnh của
đức tin thật kỳ diệu: những cụ ông cụ bà, những em bé thiếu nhi, những người
trưởng thành… tất cả đều toát lên niềm vui khôn tả, khi họ cảm nghiệm được sự
hiện diện của Chúa và được tâm sự với Ngài. Mặc dù cuộc đời vẫn còn lắm truân
chuyên, nhưng những giây phút tĩnh lặng ấy giúp họ gột bỏ bụi trần, tìm được
niềm vui vì có Chúa. Chính đức tin nói với họ về sự hiện diện nhiệm màu của
Chúa, đồng thời thúc đẩy họ đến với Chúa để được trang bị thêm sức mạnh và ý
chí vươn lên.
Trong cuộc sống hôm
nay, xung quanh chúng ta những điều kỳ diệu vẫn đang xảy đến. Biết bao người
đến với Chúa đã nhận được sự an ủi đỡ nâng thể xác cũng như tinh thần. Có thể
khi đến với Chúa, người què vẫn chưa tự mình đi được, người mù vẫn chưa thể
thấy được, người liệt chưa thể tự mình trỗi dậy, nhưng chắc chắn một điều, khi
đến với Chúa với đức tin và niềm phó thác, họ đã nhận được nghị lực và niềm vui
rất lạ lùng, để họ vươn lên, vượt qua khó khăn, đón nhận thực tại, lạc quan và
yêu đời hơn, vì họ tin chắc chắn rằng có Chúa cùng đi với họ trong cuộc đời
này. Có thể họ bị thiệt thòi về một điểm nào đó, nhưng Chúa lại bù cho họ những
khả năng phi thường ở một lãnh vực khác. Đức tin vẫn đem lại cho chúng ta những
điều kỳ diệu là thế.
Người tín hữu còn có
sứ mạng đem những điều kỳ diệu của đức tin cho anh chị em đồng loại. Hình ảnh
những nữ tu dấn thân hy sinh phục vụ người phong cùi hay những trẻ mồ côi, hình
ảnh những tín hữu nhiệt thành bất chấp mọi ngờ vực để đến với người nghèo,
người nhiễm HIV, hình ảnh các linh mục đến với người dân tộc thiểu số hay những
nơi vùng sâu vùng xa để đem ánh sáng Tin Mừng cho những anh chị em vừa nghèo về
vật chất vừa nghèo về tình người. Những thực hành bác ái này là những điểm sáng
trong đời sống đức tin, đồng thời thể hiện sứ mạng cao cả của người tín hữu, đó
là đến với con người để mang cho họ niềm vui và góp phần củng cố đức tin nơi
họ. Thiên Chúa đang qua chúng ta để ban phúc lành cho nhân thế. Đức Giêsu mời
gọi chúng ta hãy trở nên những cánh tay nối dài của Người, để làm những việc
chính Người đã làm cho con người đương thời tại xứ Palêtin. Chính qua chúng ta
mà Chúa vẫn tiếp tục thực hiện những điều kỳ diệu.
Chúng ta đang cùng
chiêm ngưỡng vinh quang của Chúa thể hiện qua một trẻ thơ vừa chào đời. Hài nhi
nằm trong máng cỏ lại là chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng mọi sự từ ban đầu của
lịch sử, nay trở nên người phàm để sống cùng, sống với và sống cho chúng ta.
Hai ngàn năm đã qua, biến cố Máng cỏ Bêlem và mầu nhiệm Thập giá đồi Canvê vẫn
gửi đến chúng ta những sứ điệp quan trọng. Đó là sứ điệp của tình Chúa tình
người. Tình Chúa sẽ biển đổi đời ta nên cao thượng. Tình người sẽ giúp ta tìm
thấy niềm vui, bởi khi cho đi là ta được nhận lãnh.
Một tác giả là Robert
Schuller viết: “Việc bạn hiện hữu trên cuộc đời đã là một quà tặng lớn lao của
Thiên Chúa”. Ý thức mình là điều kỳ diệu của Chúa, mỗi chúng ta cần làm cho ánh
sáng và vinh quang của Chúa thể hiện nơi cuộc đời mình. Có những điều kỳ diệu
được xây nền trên những điều rất bình dị của đời thường. Các thánh là những
người đã nỗ lực cố gắng để nên thánh khởi đi từ những điều rất đơn giản của
cuộc sống. Một người nông dân, một người ít học, một người sống trong cảnh đạm
bạc thanh bần, một người cha người mẹ âm thầm nuôi dạy con cái… tất cả đều có
thể làm tỏa sáng vinh quang của Chúa và làm nên những điều kỳ diệu trong cuộc
sống thân yêu của chúng ta.
5. Làm điều phải
làm
Suy Niệm
Người đầy tớ đi cày
hay đi chăn chiên suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho chủ.
Anh chỉ được ăn uống nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong. Đó là chuyện hết sức bình
thường và tự nhiên đối với một người làm công được ông chủ mướn. Chủ không cần
phải tỏ lòng biết ơn anh đầy tớ vì anh đã vâng phục mọi lệnh truyền của ông.
Chúng ta có thể là một
Kitô hữu đạo đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời. Nhưng
Thiên Chúa không phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có quyền đòi
Ngài phải trả công cho xứng. Đơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, chúng
ta chỉ làm điều phải làm.
Khó biết chừng nào khi
làm được nhiều điều tốt đẹp mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu.
Những việc đạo đức
chúng ta làm có thể khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Đó là sa ngã của
một số người Pharisêu và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta.
Người Pharisêu lên đền
thờ cầu nguyện, mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).
Công trạng, công đức,
công nghiệp có thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi mà
không thấy, cũng chẳng cần tình thương của Chúa.
Việc tốt tôi làm có
thể làm tôi tự tôn trước anh em.
Người anh cả chỉ thấy
những năm dài phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón nhận
người em út.
Làm thế nào để chúng
ta thật sự khiêm hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình.
Nhận mình chỉ là đầy
tớ bình thường, không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao.
Có nhiều bổn phận ta
phải chu toàn.
Bổn phận của một thụ
tạo trước Thiên Chúa Chí Thánh.
Bổn phận là con cái
của Cha trên trời.
Bổn phận là môn đệ
trung tín của Đức Kitô.
Bổn phận là anh em của
mọi người.
Yêu mến, phụng sự, tôn
kính, ca ngợi Thiên Chúa: đó là điều ta chẳng dám tự hào mình đã vuông tròn.
Giả như ta có làm được
điều gì sáng danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.
Cả một ước muốn tốt
lành nơi ta cũng đến từ Chúa.
Thiên đàng không phải
là sự trả công của Thiên Chúa. Ngài không ký hợp đồng với người sống đạo đức để
rồi Ngài buộc phải cho họ thiên đàng.
Thiên đàng là một quà
tặng bất ngờ, ngỡ ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên
Chúa.
Thiên đàng hạnh phúc
vì tôi được gần Chúa hơn bao giờ.
Chúng ta không chọn
Chúa để được thiên đàng.
Chúng ta mong thiên
đàng để được gần Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dám hy
sinh hạnh phúc đời này để được hạnh phúc đời sau, đó có phải là một tính toán
vụ lợi không? Con người có quyền tìm cho mình hạnh phúc thực sự không?
Con người khao khát
hạnh phúc thực sự và lâu bền. Bạn nghĩ mình có thể tìm được hạnh phúc đó ở đâu?
Ở thiên đàng có thứ hạnh phúc đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ
đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết
đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê
hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất
này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang
ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm
chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân
chúng con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc sống
hàng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
6. Tin Tưởng Vào
Chúa - An Phong
Ngôn sứ Kha-ba-cúc
thốt lên lời than thở như một người gặp hoạn nạn mà không được Thiên Chúa đoái
nhìn: "Lạy Chúa, đến bao giờ con kêu cứu mà Chúa chẳng đoái nghe: con kêu
la trước cảnh hung tàn mà Chúa không cứu vớt?"
Và Thiên Chúa, qua
miệng ngôn sứ Kha-ba-cúc đã trả lời: "Kẻ nào không có tâm hồn ngay thẳng
thì ngã gục; còn người công chính sẽ được sống, nhờ lòng thành tín của
mình".
Các môn đệ của Chúa
Giêsu cũng vậy, các ngài thấy mình bơ vơ, yếu đuối và cầu xin: "Thưa Thầy,
xin cho chúng con được thêm lòng Tin". Chúa Giêsu nhắc nhủ các ông cứ kiên
tâm thi thành những điều Người truyền dạy, không phải để đổi chác, để đòi lấy
công lênh của mình, nhưng như người đầy tớ trung tín, tận tâm thi hành những
điều thuộc trách vụ của mình.
Nhìn lại chính mình,
chúng ta cũng nhận thấy đời mình chẳng thiếu những khó khăn, cũng bao lần đầy
đau khổ; và có lẽ cũng không ít lần chúng ta phàn nàn kêu trách Thiên Chúa.
Lời Chúa hôm nay nhắc
nhủ: "Nếu anh em có đức Tin lớn bằng hạt cải thôi...". Nếu chúng ta
nhận ra đức Tin của mình, đức Tin chỉ bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể làm
được mọi sự; nếu chúng ta tín trung với Niềm Tin của một người đầy tớ "làm
việc bổn phận mình", thì Thiên Chúa sẽ chẳng "thua" lòng trung
tín của chúng ta.
Thiên Chúa không ban
cho chúng ta một "kho Đức Tin" để dành ở đó, để khoe mẽ hay để trang
trí mà thôi. Nếu chúng ta biết khởi sự sống niềm Tin bằng hạt cải, Người sẽ làm
tăng trưởng Niềm Tin trong ta; nếu chúng ta biết thể hiện Niềm Tin của mình
trong việc bổn phận thường ngày, thì dù là không xứng đáng... "chủ sẽ thắt
lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ" (Lc 12,37).
Lạy Chúa Giêsu,
Chẳng có chi của chúng
con xứng đáng dâng cho Chúa, nhưng Chúa lại sẵn sàng đón nhận tất cả.
Chẳng có chi trong
chúng con có thể "chứa đựng" được Chúa; nhưng Chúa lại ban đầy tràn,
khởi sự từ một "Đức Tin bằng hạt cải" của chúng con.
Chẳng có chi do chúng
con, để được phép đòi công lênh, nhưng Chúa đã vui lòng ban tặng cho chúng con chính
"Thịt và Máu" Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin
giúp chúng con mãi mãi là người tôi tớ tín trung của Chúa.
7. Bổn phận –
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Chúng ta biết rằng đức
tin không là một mớ kiến thức trong tâm trí mà là đức tin sống động trong việc
làm. Đức tin sống với cả con người trong niềm tin, suy tưởng, lời nói và hành
động. Truyện kể: Một nhà truyền giáo tới Phi Châu giảng đạo. Ngài muốn
chuyển dịch phúc âm thánh Gioan sang thổ ngữ địa phương. Ngài gặp nhiều khó
khăn vì ngôn từ rất giới hạn, khó tìm được những chữ thích hợp ý nghĩa từ tiếng
Anh. Thí dụ: chữ ‘to believe”. Không có ngôn từ nào trong thổ ngữ địa phương
phỏng dịch chính xác. Ngài đến hỏi một trong những người dân làng xin giúp đỡ.
Khi ngài giải thích những khó khăn, ông ta trả lời theo sự hiểu biết của ông
‘to bebieve - tin’ nên dịch là ‘to listen with the heart- lắng nghe với trái
tim’.
Một số người nghĩ rằng
họ đang làm ơn cho Chúa khi họ giữ các giới răn và thờ phượng Chúa. Chúng ta
phục vụ thờ phượng Thiên Chúa là một đặc ân. Tiên tri Khabacúc than phiền với
Chúa về sự bị đối xử bất công. Ông kêu van: Lạy Chúa, con kêu cầu Chúa cho đến
bao giờ mà Chúa không nghe? Con phải ức ép kêu lên cùng Chúa, mà Chúa không cứu
con sao? (Kb 1, 2). Ai cầu xin cũng muốn được nhậm lời. Tiên tri đối diện nhiều
khó khăn và chịu nhiều đắng cay, ông cầu xin Chúa mau đáp lời và giải thoát.
Ông kêu cầu Chúa và muốn rằng Chúa phải thực hành trá oán cho những bất công
ngay. Chúa hứa với ông là sự công chính sẽ được vãn hòa và sửa phạt công minh.
Người làm ác sẽ bị oán phạt: Người không có lòng ngay thì ngã gục, nhưng người
công chính sẽ sống nhờ trung tín (Kb 2, 4).
Trong đời sống đạo,
đôi khi chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta một số điều. Chúng ta là
những người rất chân thành thực thi các giới răn, tham dự đầy đủ các nghi lễ,
tụ nhóm cầu nguyện hằng tuần và chu toàn mọi điều luật dạy. Chúng ta nghĩ rằng
Chúa phải ban phần thưởng. Có người tưởng nghĩ rằng Chúa như ông chủ, chúng ta
là những người làm công. Làm xong việc là phải trả lương sòng phẳng. Chúng ta
thường quan niệm giữ đạo và thực hành đạo để được an tâm và lãnh phần phúc.
Thái độ phục vụ Thiên Chúa bị giảm bớt coi như một khế ước trao đổi. Phần
thưởng trên nước trời là công lao chúng ta phục vụ dưới thế. Sự phục vụ như thế
sẽ mất đi ý nghĩa tinh ròng. Thực ra việc làm của chúng ta chẳng có công lênh
gì trước mặt Chúa. Phần thưởng ngày sau hoàn toàn là hồng ân Chúa ban. Chúng ta
cũng chỉ là người đầy tớ phục vụ Chúa trong tin yêu.
Có lần nghe có vị đại
diện tôn giáo bạn thuyết pháp rằng các tín đồ không nên tin thờ Thượng đế hay
chúa bà nào cả, không có thần thánh, không có niềm tin và mọi sự do chính con
người phấn đấu và tu luyện mà thành. Không lệ thuộc vào thế giới thần thánh vì
mọi quyền lực ở trong tay con người. Vị thuyết pháp đặt vấn đề: Nếu tin có sự
hiện diện của Thiên Chúa quyền năng, vậy bây giờ tôi sẽ cầu xin Chúa hãy làm
cây xoài sinh ra trái khế. Nếu Chúa không làm được, vậy là không có Thiên Chúa.
Cách lý luận nghe cũng lạ lạ. Thách thức Thiên Chúa qua lời cầu nguyện thể theo
ý mình. Về vấn đề niềm tin, Chúa Giêsu đi xa hơn: "Nếu các con có lòng tin
bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: 'Hãy bứng rễ lên mà đi
trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con (Lc 17, 6).
Chúng ta tin vào Kinh
Thánh mạc khải và tin vào Đấng Trung Gian được sai đến. Chúa Giêsu đến từ Chúa
Cha và đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm về Thiên Chúa Ba Ngôi và chương trình
cứu độ nhân loại. Tất cả những điều mà chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính
là nguồn mạch và cốt lõi của đạo. Tìm đọc lại từng chi tiết trong Kinh Tin,
chúng ta sẽ thấy sự quan phòng của Thiên Chúa cách đặc biệt cho sự sống con
người. Con người là chi mà Chúa để ý chăm nom. Con người được tạo nên giống
hình ảnh của Thiên Chúa nên cũng được mời tham dự vào sự sống đời đời. Chúng ta
hãy lắng nghe và thực hành tin mừng của Chúa. Vì Lời Chúa là lời hằng sống ban
cho chúng ta sự sống đời đời. Tất cả là hồng ân.
Đức tin là nhân đức
đối thần. Tin là lần bước trong đêm tối của sự phó thác. Tin như tổ phụ
Abraham, ông tuyệt đối tin tưởng vào sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Tin là thái
độ không nghi ngờ, không cần lý luận và không đòi hỏi phải hiểu thấu. Nếu mọi
sự nhãn tiền trước mắt, chúng ta không cần phải có đức tin. Trong đời sống tôn
giáo, niềm tin là cột trụ và là tâm điểm của mọi sinh hoạt sống đạo. Tiên tri
Khahabúc kêu cầu Chúa trong sự mong mỏi đợi chờ. Hầu như Chúa vẫn lặng im nhưng
ông luôn đặt niềm tin tưởng nơi Chúa. Sống đức tin là biết sống phó thác mọi sự
trong tay Chúa.
Con người là loài thụ
tạo giống như chiếc bình gốm mỏng dòn dễ bể. Người thợ gốm muốn nắn nên hình
thể nào mặc ý, bình gốm không có quyền đòi hỏi. Bình gốm được trưng bày trang
trí mỹ thuật là một hạnh phúc tuyệt vời. Con người cũng thế, được hiện hữu là
một ơn trọng. Tất cả những gì chúng ta làm chẳng thêm gì cho Chúa nhưng mang
lại lợi ích cho chính chúng ta. Chúa Giêsu nói: Phần các con cũng vậy, khi các
con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: 'Chúng
tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm' (Lc 17,
10). Nhận ra chân giá trị của đời sống để chúng ta tôn thờ Chúa cho phải đạo.
Truyện kể: Có một bà
cụ già trải qua thời gian rất nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bà bồn
chồn lo lắng vì chưa bao giờ xảy đến với bà như thế. Trong thất vọng, bà chạy
đến với một vị linh mục xin lời khuyên. Bà hy vọng vị linh mục sẽ lý luận để
chứng minh cho bà là Thiên Chúa hằng sống và tốt lành. Bà rất ngạc nhiên rằng
linh mục chẳng nói gì về vấn đề này. Lời khuyên rất đơn sơ và xem ra không ăn
nhập gì cả. Linh mục nói với bà hãy ra đi và thực hành những nghĩa cử yêu
thương, tử tế và cảm thông với những người bà gặp trong đời, mọi sự sẽ tốt đẹp.
Bà thực hành lời khuyên và thời gian trôi qua, tất cả những nghi ngờ về Thiên
Chúa hoàn toàn biến mất.
Thánh Phaolô là tông
đồ nhiệt thành luôn khuyến khích mọi người liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô. Kêu
gọi sống kiên tâm và vững mạnh trong ơn nghĩa của Chúa. Phaolô phó dâng hoàn
toàn cuộc đời trong Chúa. Những thơ viết cho cá nhân hay các giáo đoàn luôn là
những lời khuyên răn, khích lệ và hướng dẫn sống đạo: Vì chưng, Thiên Chúa
không ban cho chúng ta một thần khí nhát sợ, mà là thần khí dũng mạnh, bác ái
và tiết độ (2Tm 1, 7). Phaolô say mê trong việc rao truyền Chúa Kitô phục sinh
và mọi sự đều qui hướng về Đức Kitô. Đến nỗi ngài đã phải thốt lên rằng tôi
sống nhưng không phải là tôi, mà là Chúa Kitô sống trong tôi. Ngài tiếp tục
khuyên răn môn đệ luôn sống trong sự thật của đức ái: Con hãy lấy những lời
lành lẽ phải, con đã nghe cha nói, làm mẫu mực trong đức tin và lòng mến nơi
Đức Giêsu Kitô (2Tm 1, 13).
Lạy Chúa, chúng con
chỉ là đầy tớ vô dụng. Tất cả cuộc sống đều nhờ bởi ơn Chúa. Xin Chúa đừng để
chúng chìm đắm trong sự hão danh và háo thắng. Mọi công trình vĩ đại thuộc tinh
thần cũng như vật chất đều qui hướng để làm sáng danh Chúa hơn nữa. Xin Chúa
chúc lành cho mọi công việc bổn phận hằng ngày của chúng con. Amen.
8. Phụng sự Chúa
cho phải đạo làm tôi
(Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Với trí tưởng tượng
phong phú kết hợp với tài nghệ văn chương tuyệt vời, nhà văn Đan-mạch Hans
Christian Andersen đã dựng nên một nhân vật rất độc đáo là “Chiếc bóng.”
Ai cũng có chiếc bóng
đi theo mình. Chiếc bóng hoàn toàn lệ thuộc chủ: khi chủ đi, bóng đi theo, khi
chủ chạy, bóng chạy; khi chủ dừng, bóng dừng; chủ đi đâu, bóng theo đến đó.
Vậy mà nhân vật “Chiếc
Bóng” trong chuyện của Andersen lại tách ra khỏi người chủ của mình vốn là một
nhà khoa học, để trở thành một nhân vật độc lập, đòi sống riêng không lệ thuộc
chủ, rồi dần dà y dám gọi mày xưng tao với chủ… Một thời gian sau, y
lên mặt sai khiến cả chủ của mình, và thật trớ trêu, y tự tôn mình lên làm chủ
và bắt chủ phải làm “chiếc bóng” của y và cuối cùng, y lập kế tống giam chủ
mình vào ngục và sát hại người chủ ngay trong tù.
Tương quan giữa con
người với Thiên Chúa cũng như bóng với hình. Thiên Chúa đã tạo dựng nên loài
người và mọi người hoàn toàn lệ thuộc vào Chúa, nhờ Chúa con người mới tồn tại
được. Chúa là Chủ, con người là tôi tớ. Chúa là Hình, con người là bóng. Vậy mà
nực cười thay, một số người lại làm như nhân vật “Chiếc Bóng” trong tác phẩm
của Andersen. Họ đòi quyền làm chủ và bắt Thiên Chúa lệ thuộc họ. Họ đòi Thiên
Chúa đáp ứng những đòi hỏi của họ mà không nghĩ rằng họ phải đáp ứng những đòi
hỏi của Thiên Chúa trước đã.
Chẳng hạn khi yếu đau,
người ta yêu cầu Chúa chữa họ cho lành. Khi túng thiếu, người ta đòi hỏi Chúa
cho no đủ. Khi gặp thất bại trong cuộc đời, người ta yêu cầu Chúa đem lại sự
thành công!… Nếu Chúa không mau mắn làm theo yêu cầu, người ta sẽ trách móc
Chúa, oán ghét Chúa, loại trừ Chúa ra khỏi đời mình!
Vì yêu thương loài
người, Thiên Chúa sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu chính đáng của họ, nhưng không
phải vì thế mà con người có quyền đòi Thiên Chúa phải luôn luôn phục vụ mình mà
quên rằng mình là người tôi tớ của Thiên Chúa nên phải lo phụng sự và thực hiện
ý Chúa trước đã.
Qua đoạn Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu muốn đưa chúng ta trở về lại đúng vị trí của mình, vị trí của
người tôi tớ và nhiệm vụ của người tôi tớ là lo phục dịch hầu hạ chủ mình mà
không được kể lể công lao.
Chúa nói: “Ai trong
anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại
bảo nó: "Mau vào ăn cơm đi", chứ không bảo: "Hãy dọn cơm cho ta
ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau!? Chẳng
lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Đối với anh em cũng
vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là
những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."
Hai vị tôi tớ vĩ đại
của Thiên Chúa
Một trong những nét
đẹp của Mẹ Maria là Mẹ biết nhìn nhận mình là tôi tớ Thiên Chúa nên sẵn sàng
vâng lệnh Chúa truyền. Khi được sứ thần Gáp-ri-en cho biết Thiên Chúa muốn trao
cho Mẹ một sứ mạng thật cao cả nhưng cũng đầy khó khăn, Mẹ sẵn sàng vâng phục
vì ý thức mình chỉ là tớ nữ hèn mọn của Thiên Chúa. Mẹ thưa với sứ thần: “Nầy
tôi là tớ nữ của Chúa. Tôi xin vâng như lời Chúa truyền.” Vì thế, Mẹ làm đẹp
lòng Thiên Chúa và được Thiên Chúa nâng lên địa vị tối cao.
Ngay cả Chúa Giêsu,
“vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng
với Thiên Chúa Cha, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ,…
Người lại còn hạ mình vâng lời Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên
cây thập tự…” (Philip 2, 6-8)
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa là Thiên Chúa
quyền năng mà còn hạ mình làm tôi tớ, vâng phục Chúa Cha trong mọi sự cho dù
phải chết trên thập giá và Đức Maria là hiền mẫu của Chúa, dù được diễm phúc
làm Mẹ của Chúa, mà vẫn sẵn sàng phụng sự Thiên Chúa Cha như nữ tỳ khiêm tốn,
thì xin cho chúng con là người phàm hèn mọn, luôn biết nhìn nhận mình chỉ là
tôi tớ thấp hèn của Thiên Chúa và hết lòng phụng sự Chúa cho phải đạo làm tôi.
9. Nếu các con
có lòng tin
(Suy niệm của Lm.
Antôn Nguyễn Văn Độ)
Khi nghe giáo huấn của
Chúa Giêsu về điều kiện điều kiện để vào Nước Trời, các Tông đồ cảm thầy mình
bất xứng. Xót thương cho thân phận bất toàn của chính mình, các ông thấy cần
phải có ơn phù trợ đến từ Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời, nên đã kêu
lên: “Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con!”(Lc 17,5).
Bài Tin Mừng Chúa Nhật
này bắt đầu bằng lời van xin các tông đồ với Chúa Giêsu là xin ban thêm lòng
tin. Thay vì thỏa mãn lòng ao ước của các ông, Chúa Giêsu xem ra muốn làm đức
tin lớn mạnh hơn, nên Ngài nói: “Nếu các con có lòng tin lớn bằng hạt cải...”
Đức tin là chủ đề nổi
bật của Chúa Nhật này, Chúng ta cũng nghe về đức tin trong bài đọc thứ nhất,
trong hàng danh tiếng của Khabacúc, được Thánh Phaolo lấy lại trong thơ gởi tín
hữu Roma: “Người công chính sẽ nhờ đức tin mà được sống” (1,17).
Các môn đệ hiểu rằng
lời dạy của Thầy Giêsu không phải là tư tưởng mới, nhưng kêu gọi họ hoán cái
tận căn, từ bỏ hoàn toàn để theo Đấng mà họ gọi là “Chúa” và là “Thầy”. Đức
Giêsu khẳng định rằng nếu có đức tin, họ sẽ tìm được câu trả lời. Vì thế, khi
đối diện với lời van xin của họ là gia tăng về số lượng, Ngài liền phán rằng:
“Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng:
'Hãy bứng rễ lên mà đi trồng dưới biển', nó liền vâng lời các con”.
Đức tin không hành
động theo trật tự lô gích của thế giới này. Đức tin hành động các tổng quát bất
ngờ và không thể dự kiến trước được, như: “Gió muốn thổi đâu thì thổi: ông nghe
tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà
sinh ra thì cũng vậy”. (Ga 3, 8). Theo nguyên lý sự sống: “Cái gì bởi xác thịt
mà sinh ra, thì là xác thịt; còn cái gì bởi Thần Khí mà sinh ra, thì là thần
khí.” (Ga 3, 6). Thế nên, đức tin đặt chúng ta vào trong tương quan trực tiếp
với Thiên Chúa và cho phép chúng làm điều tưởng chừng như không thể.
Tiếp theo Đức Giêsu
trình bày cho chúng ta một dụ rất thường ngày, có tính so sánh trong tương quan
giữa chủ nhà và đầy tớ, đúng hơn giữa ông chủ với nô lệ của ông. Người nô lệ
chu toàn bổn phận thường ngày đúng như ông chủ mong đợi như: cày bừa hay là
chăm sóc đàn vật. Khi về đến nhà, ông chủ lại gọi người đầy tớ vào hầu bàn ăn,
từ 'hầu hạ' bắt nguồn từ chữ “phó tế” trong sách Công vụ Tông đồ, ám chỉ tích
đặc thù của việc bồi bàn là bằng lòng phục vụ vì đức ái.
Ông chủ được phục vụ nhưng
lại không mang ơn người đầy tớ; đây là việc đầy tớ phải làm, không có đòi hỏi
khắt khe, nặng nề gì cả, anh đã làm việc suốt cả ngày, nhưng là nhiệm vụ của
anh, đó là sứ mệnh được ông chủ trao cho với tất cả sự tín nhiệm, ngay cả con
trai ông. Khi hoàn thành nhiệm vụ, người đầy tớ được được cất nhắc lên, nhưng
không biết lý do tại sao. Giống như kẻ có đức tin bằng một hạt cải có thể
chuyển núi, rời non cũng không hiểu tại sao.
Từ những lời dạy trên,
Đức Giêsu muốn người kitô hữu chúng ta cố gắng chu toàn bổn phận, từ việc nhỏ
nhất, để có thể thay đổi tình trạng hiện hữu của chúng ta, điều này thật là cần
thiết. Chúng ta tham dự bàn tiệc Lời Chúa hay Thánh Thể, để tái khám phá ra
trong đức tin, mình không phải là “quân nô lệ, mọi người vẫn còn sợ; Vì Thần
Khí mà anh em đã lãnh nhận được, đâu là tinh thần nô lệ, khiến anh em phải sợ
hãi như xưa; nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, khiến chúng ta được
kêu lên: “Ápba! Cha ơi!” Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng
chúng ta là con cái Thiên Chúa. Vậy đã là con, thì cũng là thừa kế, mà được
Thiên Chúa cho thừa kế, thì tức là đồng thừa kế với Đức Kitô; vì một khi cùng
chịu đau
khổ với Người, chúng
ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người” (Rm 8, 15-17) ).
Qui chiếu về khổ đau
có thể làm chúng ta lo sợ; nhưng đức tin giúp chúng ta không bị chi phối bởi
những thất bại của thế gian này; vì “người công chính sẽ sống nhờ trung tín”
(Hab 2, 4)), nghĩa là đức tin chịu thử thách. Đúng là để có thể cầm cự tốt cho
đến thời đã ấn định, như Thánh Phaolô mời gọi Timôthê người con yêu quý của
ngài “Con thân mến, cha khuyên con hãy làm sống lại ơn Thiên Chúa đã ban cho
con do việc đặt tay của cha” (2 Tim 1, 6-8). Đức tin là tham dự vào “sức mạnh
của Thiên Chúa” trong Thánh Thần của tình yêu và lý trí, làm cho chúng ta trở
nên người phục vụ, đầy tớ đức ái, nghĩa là tôi tớ của Tin Mừng, mà chúng ta
được “ủy thác” như thánh Phaolô kêu gọi chúng ta.
Trong khi đợi chờ sự
can thiệp cuối cùng của Thiên Chúa và ngày trở lại trong vinh quang của Chúa
Kitô, vẫn còn hạt giống của niềm tin cho phép chúng ta tuyên xưng rằng Chúa đến
là điều chắc chắn như lời Ngài hứa: “Người sẽ thực hiện, không chỉ với thời
gian ấn định. Chắc chắn giờ sẽ đến”. Chúa không cho chúng ta biết ngày giờ khi
ánh sáng Phục Sinh xua tan bóng tối Thứ Sáu Tuần Thánh, mở rộng màn che sự chết
trên trái đất của chúng ta (Mt 25, 13). Đó là lý do tại sao chúng ta tiếp tục
cuộc hành trình trên thế gian này, trong tin tưởng và hy vọng vào lời Chúa hứa.
Lạy Chúa, xin ban thêm
đức tin cho chúng con và ban Thánh Thần tình yêu xuống đầy lòng chúng con, để
chúng con có sức nhổ tận gốc tất cả những ngờ vực và sống bằng lòng trung thành
của chúng con. Amen.
10. Hãy bật rễ lên
Suy Niệm
Cây dâu là một loại
cây tương đối lớn ở đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là thứ
hạt nhỏ xíu như đầu kim. Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói lên
sức mạnh của lòng tin: “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh em có thể
ra lệnh cho cây dâu bật rễ lên, mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời anh em.”
Để làm bật rễ một cây
dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin
vững vàng mạnh mẽ.
Có nhiều thứ bám rễ
trong đời tôi: những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối nhìn,
lối nghĩ, lối đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức... Rễ
chằng chịt khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển.
Chỉ khi có lòng tin
vào quyền năng Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm
được những điều tưởng như không sao làm nổi.
Với lòng tin đơn sơ,
kiên vững, các ngư phủ đầu tiên của Hội Thánh chẳng những đã chuyển được núi,
dời được non, mà còn làm chuyển rung cả thế giới.
“Xin thêm lòng tin cho
chúng con”:
Lời nài xin của các
tông đồ cũng là của chúng ta, những người có đức tin nhỏ hơn hạt cải.
Tin là nghe theo lời
Chúa, bước ra khỏi thuyền, đi trên sóng gió và tin mặt nước sẽ cứng như đá.
Tin như thế là dấn
thân, là buông mình trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự nhiên.
Tin là thái độ can đảm
của người trưởng thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu trĩ.
Người có lòng tin thì
làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên Chúa và để
cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.
Thế giới hôm nay có vẻ
từ chối niềm tin, thật ra nó đang tìm kiếm một niềm tin nào đó.
Có biết bao giáo phái
đủ loại xuất hiện khắp nơi.
Một số thanh niên Nhật
tìm lẽ sống nơi giáo chủ Asahara.
Khi thanh niên
Singapore có nhà, có xe và thẻ tín dụng, thì họ lại thấy thiếu một cái gì đó
rất sâu.
Con người còn khắc
khoải hoài cho đến khi gặp được Đấng Tuyệt Đối.
Chúng ta xin Chúa ban
thêm lòng tin cho ta, để cuộc sống của ta bừng tỏa ánh sáng cho những người
đang tìm kiếm Chân Lý cứu độ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay, nhiều bạn
trẻ đánh mất niềm tin vào cuộc sống và không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Theo
bạn, đâu là những nguyên nhân dẫn đến thái độ chán nản trên đây?
Có những bạn trẻ không
tin vào Thiên Chúa, nhưng lại tin vào những nỗ lực của mình. Họ cố xây dựng
cuộc đời bằng đôi tay và khối óc. Bạn nghĩ gì về họ? Đức Tin có giúp gì cho bạn
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho
con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và
khép kín.
Xin cho con đức tin
can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con
cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin
sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô
Hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo
khổ.
Xin cho con đức tin
liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng
đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin
vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì
biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con
đức tin cứng cáp qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm
dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.
11. Suy niệm của Lm Đaminh
Trần Đình Nhi
Chúa Giêsu mời gọi ta
tin vào Người. Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh đạo
của họ từ chối không nhìn nhận Chúa Giêsu cũng như sứ mệnh cứu thế của Người.
Trái lại, các môn đệ và Kitô hữu thì khẩn cầu Người: “Thưa Thầy, xin thêm lòng
tin cho chúng con.” Lời cầu xin của các môn đệ và lời giải thích của Chúa Giêsu
giúp ta hiểu được những chiều kích khác biệt của đức tin. Tại sao ta xin Chúa
thêm lòng tin cho ta? Đâu là sức mạnh của lòng tin? Ngoài ra, Chúa Giêsu dùng
tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về lòng tin của
ta?
a) Lòng tin là một ân
huệ Chúa ban
Giáo lý Công giáo gọi
đức tin là nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của
lòng tin. Đức tin không khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin
vào Chúa mà là Chúa muốn ta hãy tin vào Người. Nhưng tại sao Người muốn ta phải
tin vào Người? Bởi vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể nhìn nhận
Người là Đấng nào, phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất là có
thể lãnh nhận tình yêu Người dành cho ta. Tất cả những đặc tính ấy làm cho
Người trở nên đối tượng lòng tin của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết về Người,
đó là một ân huệ cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn thiết lập
giữa Người với ta. Vì thế, đức tin có hai phía: về phần Chúa, Người là Đấng
“trung thành” trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần ta, ta có bổn phận
phải đáp lại lòng trung thành của Người. Người muốn đưa ta tới cùng đích của
đời ta là được cứu rỗi và sống bên Người mãi mãi.
Đức tin có lịch sử của
nó, lịch sử gắn liền với lịch sử của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ
tin, đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông “đã tin
vào Thiên Chúa” (St 15,6). Người gọi ông thi hành sứ mệnh dẫn đầu một dân tộc
để chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu rỗi. Ông là gương mẫu sống
đức tin. Cả cuộc đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung thành và
toàn năng (Dt 11,11; Rm 4,21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người và
thi hành những điều Người dạy. Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những
người được Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin vào Người
và kế hoạch cứu độ Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái. Thăng trầm của lịch sử
đức tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái. Tuy nhiên cuối cùng, theo thiên ý
nhiệm mầu của Thiên Chúa, lịch sử đức tin vẫn diễn tiến theo “kế hoạch yêu
thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên
mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô”
(Ep 1,9-10). Đức tin đạt tới mức hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đã lên
đường đi Giê-ru-sa-lem mà “vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl 2,7t) để dẫn đưa
đức tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12,2).
Như vậy, đối với một
cá nhân hay đối với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn tiến quy chiếu về
Chúa Kitô và đưa ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với Người ta đến với
Thiên Chúa Cha.
b) Sức mạnh của lòng
tin
Các môn đệ xin Chúa
Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho
các ông tin vào Người mỗi ngày một hơn. Lập tức Chúa nói đến hiệu quả của lòng
tin ấy. Dĩ nhiên, Chúa không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng tin
là những điều họ đã chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào Người.
Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ xảy ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ
theo Người. Người hứa: “Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có
bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng
lời anh em.” Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu đã mọc rễ sâu
trong tâm hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm
môn đệ: “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.” Chúa Giêsu bảo ta hãy để cho lòng
tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội lỗi của ta, nhờ đó ta
được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống như Người Tôi Tớ của
Thiên Chúa.
c) Phục vụ trong khiêm
tốn
Đức tin luôn ràng buộc
với sứ mệnh. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin
vào tình yêu của Chúa Cha. Trước khi chết, Người chỉ nói: “Thế là đã hoàn tất”
(Ga 19,30). Một câu nói ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao tâm tình. Tâm tình
cảm tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục. Và tâm tình khiêm tốn,
không kể công hoặc khoe khoang. Sở dĩ Chúa Giêsu có được những tâm tình ấy là
vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý
Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi. Cho nên hôm nay Người dạy ta cùng
một bài học ấy: “Đối với anh em cũng vậy. Khi đã làm tất cả những gì theo lệnh
phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm
việc bổn phận đấy thôi.”
Tỷ dụ người đầy tớ chu
toàn bổn phận cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin. Ta có được
lòng tin vào Chúa, đó là ân huệ Chúa ban nhưng không. Mà Chúa đã dạy: ta nhận
được nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không. Nhận lấy và cho đi là năng động
của đức tin được thể hiện trong đời sống phục vụ của người môn đệ, y hệt như
Chúa Giêsu đã lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho các môn
đệ Người, kể cả sự sống của chính Người. Một đức tin như thế mới đích thực là
đức tin sinh động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2,17).
d) Suy nghĩ và cầu
nguyện
“Thưa Thầy, xin thêm
lòng tin cho chúng con” là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay chỉ là lời kêu cứu khi
tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có đồng nghĩa với lời cầu xin cho
tôi “được biết Chúa Giêsu rõ ràng hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo Người
mỗi ngày một trung thành hơn”?
Tôi thử nhìn lại lịch
sử đức tin của tôi. Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào? Vẫn còn là những điều
học thuộc lòng về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai đoạn nhận ra ơn gọi và sứ
mệnh của mình, để sống mối quan hệ với Chúa?
“Những cây dâu” nào
trong tôi cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa quả đạo đức?
Cầu nguyện:
“Lạy Chúa Giêsu, con
chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống
đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió
đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của
thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ
dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con
hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con
khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin
yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa.
A-men.”
(Trích RABBOUNI, lời
nguyện 55)
12. Chiếc bình
trống rỗng – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như
Thầy Đã Yêu’)
Một thầy Rabbi già đau
bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời
ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ
nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy”. Người khác nói:
“Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham”. Người thứ ba nói:
“Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp”. Người
thứ tư châm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà
thôi”.
Vị Rabbi tỏ ra bồn
chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca
tụng ông không? - Có.
- Thế tại sao ông lại
tỏ ra bực dọc như thế?
Vị Rabbi than phiền: -
Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?
Mong người ta ca ngợi
sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan
như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật
với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng
chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các
việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì
ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền
tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: “Khi đã làm
tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: “Chúng tôi là những đầy tớ vô
dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”. Thật vậy, chúng ta là những
đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là Đức Thánh
Cha cũng luôn luôn nhận mình là “Đầy tớ của các đầy tớ Chúa”. Đã là đầy tớ thì
phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể công, cũng
không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện bổn phận.
Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận “Mến Chúa yêu người”, có ai
dám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên
Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao
giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn
cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ
kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người
chúng ta.
Người khiêm tốn trái
lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng
phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui
mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu
thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là
thân phận nhỏ bé, là “đầy tớ vô dụng”, thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng
không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu
hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có
những kẻ xóa mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình
trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
13. Đức tin và
người đầy tớ vô dụng
(Trích dẫn từ ‘Bước
Theo’ – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Chúa nhật XXVII thường
niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa nhật đầu
tháng Mân Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép suy tư về
Đức Mẹ. Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:
- Sức mạnh của ĐỨC TIN
- Khiêm tốn khi phục
vụ
Hai chủ đề của đoạn
Tin Mừng hôm nay thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ nhất
là chủ đề của sự cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề không dễ
suy tư, nhưng giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của Chúa Giêsu,
thì đức tin không cần “to lớn”, chỉ cần như hạt cải là đủ. Kích thước và sự đo
đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ thể. Theo đó, lòng tin
của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải. Đức tin là một khái niệm
trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ thể bằng một hình ảnh rõ
ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng cây cải bên Israel thì
không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải ở Việt Nam, nó có cành
lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu nói: “Nếu anh em có
lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: ‘Hãy bật rễ lên,
xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em’ (Lc 17, 6). Từ đó, chúng ta hiểu
rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải. Điểm quan trọng của việc bước
theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính là niềm tin. Niềm tin mà không
đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không vươn mầm được, vì mọi nhân tố
sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy? Thưa, vì tất cả mọi sự thiêng
liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là điều không thể nhìn thấy qua con
mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu nhiệm thiêng liêng, chúng ta cần
đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là một mầu nhiệm. Như vậy, theo
đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin cho các
ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ bằng cách nào? Rõ ràng,
chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ không phải như cho thêm
bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban thêm cho các ông bằng
cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.
Theo đó, đức tin càng
lớn thì sự khiêm tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể đo
lường được. Vì đức tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường. Qua
đó, chúng ta thấy chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói,
ngoại trừ chính Thân Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh
Mân Côi. Mẹ Maria là người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải
thôi, cũng đủ chứng minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu,
Con của Mẹ là một hành trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và
không giữ vững đức tin, Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã
hội đương thời, đa số chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút
đó, từ lúc Mẹ thưa tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của
Thiên Chúa, Mẹ luôn trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu
rỗi nhân loại của Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng
hạt cải thôi, của Mẹ đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay,
Đức Maria luôn là người dẫn đầu, “người có đức tin bằng hạt cải”, bởi vì sao?
Thưa, vì tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành trình cứu
chuộc của Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho thấy sự
công bằng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ lực nơi
Mẹ cùng với Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức tin
bằng hạt cải.
Phần hai của Đoạn Tin
Mừng: Khiêm tốn khi phục vụ
Tuy đoạn hai có nhiều
câu hơn, nhưng ý dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng ta
đừng câu nệ về công trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng bữa
trước khi chủ mình chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để phục
vụ Hội Thánh, dù phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm việc
theo bổn phận. Vì Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta, Thiên
Chúa toàn quyền trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài thụ
tạo, nên chi, khi con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích khiêm
tốn, chứ không nên tự cao, tự mãn.
Hai chủ đề riêng biệt,
nhưng được bổ túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân là lý
tường cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin Thiên
Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục vụ,
Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết kich thước của “Đức Tin”.
Lạy Chúa Giêsu, xin
thương xót chúng con.
Lạy Nữ Vương Rất Thánh
Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen.
14. Xin
thêm niềm tin cho chúng con
(Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn An Khang)
"Thưa Thầy, xin
thêm lòng tin cho chúng con". Đây là lần duy nhất, các tông đồ xin Đức
Giêsu một điều như thế. Tại sao các Tông đồ không xin quyền cao chức trọng,
giàu có mà lại xin đức tin? Đối với các Tông đồ, đức tin là điều quan trọng
nhất, không có đức tin, các ông không thể là tông đồ, không hoàn thành sứ mạng.
Bởi lẽ, sứ mạng của các tông đồ là rao truyền cho mọi người biết: Giêsu
Nagiaret bị đóng đinh, chết, đã sống lại vì Người là Thiên Chúa. Điều đó ngược
với trí khôn của con người không bao giờ xảy ra trong lịch sử, muốn chấp nhận
thì phải có Đức tin. Đức tin là ân ban của Thiên Chúa. Dĩ nhiên cũng cần có sự
cộng tác của con người. Tựa như muốn có ánh sáng vào nhà, bạn phải mở cửa, muốn
có Đức tin, bạn phải mở cửa lòng mình. Ơn Chúa được ban nhưng không, nhưng phải
cầu xin. Lời cầu nguyện là cánh cửa của đức tin, phải được mở ra để đón nhận ơn
Thiên Chúa.
Để nói về đức tin, Đức
Giêsu dùng một kiểu nói của người Palestin, kiểu nói nghịch lý. Hạt cải là loại
nhỏ nhất trong các loại hạt, nó chỉ bằng mũi đinh ghim. Cây dâu là cây đại cổ
thụ sống tới 600 năm, rất khó bật rễ. Thế mà, Đức Giêsu bảo: "Chỉ cần có
đức tin bằng hạt cải, có thể bảo cây dâu bật rễ mọc dưới biển".
Dĩ nhiên, Đức Giêsu
không khuyên ta cầu xin những phép lạ lẫy lừng. Người không bao giờ dời cây dâu
xuống biển. Nhiều lần Người đã từ chối các dấu chỉ kỳ diệu người Dothái yêu
cầu. Nhưng bằng hình ảnh hạt cải và cây dâu, cũng như hình ảnh con lạc đà chui
qua lỗ kim, Đức Giêsu mạnh mẽ nói với ta, điều con người không thể, đức tin mở
cho ta thấy lại dễ dàng với Thiên Chúa.
Chỉ cần một đức tin
nhỏ xíu, ta có thể làm được những việc lớn lao cả thể, con người không làm
được, bởi ta được tham dự vào sức mạnh của Thiên Chúa. Thật vậy, ta hãy nhìn
xem, chỉ một chút đức tin, bà Sara già nua 90 tuổi, bỗng sinh con hồng hào khỏe
mạnh. Chỉ một chút đức tin, Đavít thắng Gôliát. Chỉ một chút đức tin, Maria một
trinh nữ, sinh con.
B. Bessière kể: Tôi biết một người nhờ
ngọn cỏ mà sống. Một cô gái đã bị tai ương hoạn nạn đè bẹp cô. Trước mặt cô chỉ
là một tương lai xám xịt, dễ chịu nhất đối với cô là được ra đi cho rảnh nợ
đời. Những bước chân vô hồn vô định trên hè phố, đã tình cờ dẫn cô đến một cọng
cỏ. Cọng cỏ xanh non đang cố trổi lên khỏi kẽ nứt bê tông để vươn lên ánh sáng.
Sự sống nhỏ nhoi yếu ớt nhưng xanh tươi có vẻ mạnh hơn cả tấm xi măng nặng nề,
đã cho cô một dấu chỉ. Cô lấy lại can đảm, để đương đầu với những năm tháng lê
thê đầy khó khăn. Hỏi rằng trong số nhan nhản những người qua đường, có bao
nhiêu người đã trông thấy cọng cỏ ấy. Chắc hẳn chỉ có cô là người duy nhất nhận
ra từ cọng cỏ ấy một sứ điệp. Cọng cỏ đã cứu sống cô.
Trong các nhân đức đối
thần: Đức tin, đức cậy, đức mến, Thánh Phaolô dậy: đức mến là cao trọng hơn cả,
bởi lẽ về thiên đàng, không có đức tin và đức cậy chỉ còn đức mến. Nhưng trong
cuộc sống trần thế, đức tin lại cần thiết, bởi không có đức tin thì không có
đức cậy và đức mến. Đức tin khai mở cho người ta được lãnh các bí tích, là căn
cước để vào được Thiên đàng. Bởi thế, khi ban bí tích rửa tội, linh mục chủ sự
hỏi người dự tòng: "Con xin sự gì cùng Hội thánh?" Người dự tòng
thưa: "Con xin đức tin". Linh mục hỏi tiếp: "Đức tin sinh ơn ích
gì cho con?" Người dự tòng đáp: "Thưa đức tin đem lại cho con sự sống
đời đời ".
Thật may mắn cho ta,
được sinh ra trong đức tin từ nhỏ. Đức tin không phải là tĩnh tại, đức tin cần
phát triển. Để lớn mạnh trong đức tin, người tín hữu cần phải nuôi dưỡng, bằng
việc làm, cầu nguyện, học hỏi lời Chúa, đặc biệt với người trí thức trình độ
văn hóa và giáo lý phải cân xứng. Họ phải có khả năng biện bạch đức tin của
mình cho người khác, cũng như cho chính mình. Họ cũng cần có khả năng đó khi
mỗi ngày phải chạm trán nhiều hơn với thuyết vô thần và thái độ dửng dưng đối
với tôn giáo. Họ buộc lòng phải lý giải niềm tin đối với Thiên Chúa của mình.
Bởi thế, đức tin không
chỉ được khẳng định suông, nó đòi lý lẽ. Đức tin có lý lẽ là một đức tin vững
mạnh. Đức tin đó giúp ta giải đáp những vấn nạn sâu xa nhất của cuộc sống, nó
cho ta thấy mọi sự trở thành có ý nghĩa, kể cả đau khổ và cái chết, nó cũng đem
lại niềm mơ ước. Cuộc sống không có mơ ước, khác nào đêm tối không có trăng
sao. Cuộc sống cần hy vọng, ta cần có hy vọng, như cần thức ăn. Nhưng không thể
có hy vọng nếu ta không có niềm tin. Niềm tin dẫn đến niềm vui. Phúc cho những
ai khám phá ra niềm vui trong niềm tin. Niềm vui sướng mê li của lòng tin vào
Thiên Chúa, sự ngất ngây hướng theo lời mời gọi và nắm chặt bàn tay của Chúa
chìa ra khi nhắm mắt lìa đời.
Tuy nhiên, ta đừng
mong rằng, đức tin làm sáng tỏ mọi điều. Ta sống trong một thế giới có biết bao
cuộc tìm kiếm hão huyền, nhằm tìm ra mọi lời giải đáp. Ta có đức tin, không có
nghĩa ta hiểu biết mọi điều. Mà ta cũng không cần biết mọi lời giải đáp. Một
điều cần, ta phải vững niềm tin. Và như các Tông đồ đã xin: "Lạy Chúa, xin
thêm lòng tin cho chúng con!".
15. Nhận và
cho không vị lợi – Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Hình như chọn đoạn
Phúc Âm hôm nay Giáo Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức tin và phục
vụ không vị lợi vì đức tin. Đức tin làm được những việc phi thường, nhưng xong
việc người ta không có quyền chờ mong ân thưởng. Hành động theo đức tin của
mình, người tín hữu không được cho là mình có công trạng đặc biệt, nhưng phải
nghĩ rằng hành động như vậy là bình thường, là tất nhiên, thế thôi –cũng như
người nội trợ chu tất công việc gia đình là điều bình thường, không cần gì khen
ngợi. Dụ ngôn mang cái tựa hơi lạ ‘những người đầy tớ vô dụng’, do một sự phiên
dịch dễ gây hiểu lầm. Nói đúng ra, đầy tớ nào cũng hữu dụng. ‘Đầy tớ vô dụng’ ở
đây có nghĩa đầy tớ làm bổn phận cách bình thường. Chúng ta suy niệm về thái độ
người có đức tin.
1) Trước hết chúng ta
ý thức rằng đức tin là một ân huệ.
Khi các tông đồ nài
xin Chúa: Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con, chắc chắn các ông được Chúa
Thánh Linh thần ứng. Thật vậy, đức tin phát sinh và lớn mạnh là trực tiếp nhờ
ơn Thiên Chúa. Cũng như cuộc sống hồn xác của chúng ta tùy thuộc một hành vi
sáng tạo thiên nhiên, đời sống đức tin của chúng ta tùy thuộc một hành vi yêu
thương nâng chúng ta lên tầm cao đời sống siêu nhiên. Trong cả hai hành vi, ân
huệ Thiên Chúa tuyệt đối không vị lợi, sáng kiến hoàn toàn là của Thiên Chúa.
Có ý thức được như thế mới không dám nghĩ đến đòi hỏi yêu sách Thiên Chúa, mới
có được tâm tình thực tiễn vui sướng, thờ kính cảm tạ. Vả lại tinh thần Phúc Âm
của chúng ta nhờ đó được tiếp sức sinh động bằng những việc nhận và cho không
vị lợi, bởi lẽ chúng ta nhận được đức tin Thiên Chúa cho không và chúng ta cảm
tạ Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người trả công, ban thưởng.
2) Đức tin phải ở
trong thế hành động
Nhân danh đức tin mình,
Kitô hữu là một người đầy tớ. Đầy tớ làm việc và phục dịch. Công việc cơ bản
người Kitô hữu phải chu tất là ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Hai
việc ấy dính liền mật thiết trong một hành vi bác ái duy nhất. Ngợi khen là bày
tỏ niềm xác tín và cảm biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối hoàn toàn hay thương
xót, vì vậy Người có quyền đòi hỏi con người thờ kính, vâng phục, cảm tạ. Phục
vụ đồng loại là biểu lộ niềm xác tín rằng họ có quyền đòi hỏi chúng ta phục vụ
họ. Con người đối với nhau trong tư cách anh em, đối với Thiên Chúa trong tư
cách con cái. Vậy thì thờ kính, ngợi khen là gì? Đó là hình thái cao nhất của
cầu nguyện. Phục vụ, bác ái là gì? Đó là sự biểu lộ tình yêu thương của Thiên
Chúa sống động trong con người, là thực hành những điều cảm biết được nhờ cầu
nguyện, tức là nhờ việc thờ phụng Thiên Chúa và thực thi bác ái. Đức tin thêm
sức mạnh vì ở trong thế hành động. Sức mạnh tăng thêm cho đức tin, đó là phần
thưởng vậy.
16. Ai là
người thay đổi? – Charles E. Miller
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những
Kho Tàng’)
Chúng ta sống trong
một thế giới đầy bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển bởi
những kẻ sát nhân và điên cuồng. Đó là một thế giới mà những đứa trẻ đã bị phá
thai, những trẻ nhỏ đã bị lạm dụng tình dục và bị giết chết bởi cha mẹ chúng.
Đó là một thế giới mà chính trị, kinh tế đã hư đốn. Có phải sự xấu ở nơi thế
giới bây giờ đã hình thành từ nhiều thế hệ, hoặc đó là phương tiện truyền thông
đã làm cho chúng ta ý thức hơn về những gì đang xảy ra?
Habacuc, một tiên tri
Do Thái đã sống sáu thế kỷ trước Chúa Kitô. Đó là một thời gian thật sự tồi tệ
như thời đại của chúng ta bây giờ. Ở Giuđa, sự nhầy nhụa của chính trị đã lan
rộng, nền luân lý hư hỏng, xã hội bất công, sự khinh bỉ những người nghèo, và
việc thờ lạy ngẫu tượng đã lờ đi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacop.
Thiên Chúa đã cứu Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, đưa dân vào đất hứa, đám
dân mà Người đã làm Giao Ước quan trọng đối với họ.
Habacuc là một vị tiên
tri bị chán ghét, hầu hết mọi người không ai để ý tới, hoặc là ước mong thống
hối và canh tân. Habacuc đã nói một cách rõ ràng không úp mở. Ông ta đã trở lại
với Thiên Chúa trong cầu nguyện nhưng không phải trong cách lịch sự của lời
kinh cầu, có vẻ thích hợp với oai nghi của Thiên Chúa. Habacuc đã phàn nàn một
cách cay đắng với Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn của ông đã đến chỗ tận cùng, ông ta
đã cầu nguyện: “Ôi Lạy Chúa còn bao lâu nữa? Con đã kêu khóc để cầu xin sự giúp
đỡ nhưng Ngài đã không lắng nghe. Con đã kêu lên Chúa. Ôi sự dữ! Nhưng Ngài đã
không can thiệp”.
Những người khác có
thể đã cầu nguyện với Thiên Chúa theo cách này trước Habacuc trong Thánh Kinh
như hầu như không ai chú ý tới những điều đó. Habacuc có vẻ như là một tiếng
vang mới đã can đảm nói thẳng lên với Thiên Chúa. Sự nhấn mạnh của ông với
Thiên Chúa đã được chú ý tới, nhưng sự đáp trả của Thiên Chúa thì đáng chú ý
hơn. Ngài đã không ra lời sấm sét để khiển trách những tạo vật nhỏ bé của Ngài.
Thiên Chúa không hỏi: “Tại sao con dám nói với Ta cách như thế”. Đúng hơn Thiên
Chúa đã yêu cầu Habacuc kiên nhẫn, tiếp đó Ngài thêm: “Người công chính, bởi vì
đức tin của ngươi sẽ được sống”.
Habacuc là một con
người của đức tin. Ông tin rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo phải có trách nhiệm
với những tạo vật của Người. Ông ta kêu lên Thiên Chúa, Đấng đã làm một Giao
Ước với dân Người hãy nhớ lại sự trung thành của Người, tình yêu của Người đối
với họ. Habacuc đã phàn nàn đó là sự thật, nhưng ông đã phàn nàn như một người
công chính với một Thiên Chúa thật, Đấng có thể tẩy rửa sự xấu xa nơi thế gian
này. Ông đã tin rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi. Habacuc là
một người có đức tin lớn lao.
Đức tin là một đặc ân.
Các tông đồ sợ rằng đức tin của họ đã không mạnh đủ, có lẽ họ nghĩ rằng một
điều gì đó giống như Habacuc khi họ hỏi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa xin tăng thêm đức
tin cho chúng con”. Lời nài xin này làm lớn đức tin của họ cách chắc chắn và
cần thiết cho chính chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là
lời cầu nguyện sau khi hiệp lễ, chúng ta xin Chúa sửa lại những điều sai trái
trong xã hội của chúng ta.
Sự cầu nguyện của
chúng ta sẽ được tràn đầy với sự can đảm, điều đó sẽ đến từ đức tin. Thánh
Phaolô đã bảo đảm với Timôthêô;”Thánh Thần của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta
không phải là một sự hèn nhát nhưng đúng hơn đã làm cho chúng ta mạnh sức, yêu
thương và khôn ngoan”. Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa.
Thánh Thần đó sẽ thúc đẩy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa với sự trông đợi
nhưng cũng với sự khẩn nài không chỉ trong Thánh Lễ và bất cứ nơi nào mà chúng
ta cầu nguyện. Khi nào chúng ta cầu nguyện, một người cầu nguyện là một người
khôn ngoan, yêu mến và mạnh mẽ để nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và
là Đấng công chính bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thay đổi.
17. Phép lạ của
lòng tin
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Tại một cộng hoà thuộc
Liên Xô cũ, trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng minh cho cử tọa
thấy rằng Chúa Giêsu chỉ là một tên phù thủy lừa bịp. Ông lấy một ly nước, đổ
vào đó một ít bột, nước liền đổi ra màu đỏ. Ông tuyên bố với cử tọa như sau:
“Thưa quý vị, tôi vừa
mới làm một phép lạ. Ngày xưa Ông Giêsu cũng chỉ làm như tôi vừa làm mà thôi.
Ông Giêsu đã biến nước thành rượu theo cách thế tôi vừa làm đó. Nhưng quý vị
hãy xem tôi còn làm được điều ngoạn mục hơn nữa”. Nói xong, ông lấy một thứ bột
khác cho vào nước. Nước từ từ đổi màu, rồi trở lại nguyên trạng.
Trong đám cử tọa, một
người đứng lên phát biểu: “Thưa ông, ông quả thực là người tài ba nhưng liệu
ông có dám uống thử thứ rượu mà ông vừa chế biến hay không?” Quả thực, ông giáo
sư biết mình đang làm trò bịp. Nước mà ông đã cho đổi màu ấy chỉ là một hóa
chất độc hại. Thấy ông giáo sư chần chừ, người vừa lên tiếng phát biểu mới quay
xuống đám đông và bình tĩnh giải thích như sau:
“Thưa quý vị, đây là
sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và ông giáosư nầy: với rượu nho của Ngài, Chúa
Giêsu đã rót cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc rồi. Còn với thứ rượu mà vị
giáo sư nầy chế biến, nhân loại hẳn sẽ bị đầu độc”.
Anh chị em thân mến,
Hai ngàn năm qua, Chúa
Giêsu vẫn tiếp tục làm phép lạ trong cuộc sống của mọi con người, đặc biệt là
trong cuộc sống của những ai tin vào Chúa. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một phép lạ
phi thường của Chúa Giêsu. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ
khác nữa. Chúa Giêsu hôm nay đã nói: “Nếu anh em có lòng tin nhỏ xíu bằng hạt
cải thôi, anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên, xuống mọc dưới
biển kia cũng được”. Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói rằng đức tin có khả
năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu theo nghĩa đen là
“chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển”. Nhưng Ngài muốn nói: đức
tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm những việc to lớn, phi
thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta không dám hành động. Bởi vì, người có
lòng tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa, chứ không phải bằng khả
năng giới hạn của mình. Do đó, người có lòng tin có thể làm được những việc mà
chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được. Thực ra, không phải là
người ấy hành động nữa mà là chính Thiên Chúa hành động trong người ấy và qua
người ấy.
Nhờ đức tin thúc đẩy,
chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị
em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của
Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công
trình to lớn, vĩ đại, phi thường. Nếu chúng ta không bắt tay vào việc là dấu
chứng tỏ chúng ta chưa tin, hoặc không tin. Có tin, chúng ta mới dám làm, chưa
làm hay không làm là vì chưa tin hay không tin. Đức tin đòi phải có hành động.
Thánh Giacôbê tông đồ đã nói: “Đức tin không có việc làm là đức tin đã chết
rồi” (Gc 2,17). Ngài lấy ví dụ: “Nào có ích gì, nếu người nào rêu rao mình có
đức tin trong khi chẳng chịu làm gì cả? Nếu có anh chị em nào thiếu ăn thiếu
mặc mà một người nào trong anh chị em lại nói với họ: ‘chúc anh chị em đi bình
an, ăn no mặc ấm’, mà không cho họ những gì cần thiết để ăn mặc, thì nào có ích
gì? Đức tin đó có cứu được người ấy không? Cũng vậy, đức tin không có việc làm
là đức tin đã chết mất rồi” (Gc 2,14-17). Bởi vì đức tin sống bằng đức ái. Đức
tin phải được biểu lộ trong sự thông cảm, tha thứ, chia sẻ cho nhau cái ăn cái
mặc, và nhất là biểu hiện trong sự phục vụ, làm tôi tớ lẫn nhau một cách vô
điều kiện.
Thưa anh chị em,
Sống đức tin là sống phục
vụ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện bình dân trong chế
độ xã hội phong kiến ở thời đại Ngài mà dạy chúng ta bài học phục vụ. Chế độ
phong kiến là chế độ có chủ có tớ, có địa chủ và nông nô. Tớ phải hầu hạ chủ
như là chuyện đương nhiên. Chủ không bao giờ mang ơn tớ, cũng là chuyện coi như
đương nhiên. Nhưng Chúa Giêsu công bố một đạo lý Tin Mừng khác hẳn quan điểm
phong kiến đó. Chính Ngài đã “đến không phải để được hầu hạ, nhưng để làm tôi
tớ mọi người” (Mt 20,28), và Ngài đòi hỏi: “Ai lớn nhất trong anh em phải làm
tôi tớ mọi người” (Mc 9,35). Tin Chúa, theo Chúa là đem cả cuộc đời mình hiến
thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi hỏi được đền ơn, đáp
nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo Chúa không để chi lo cho
phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc, không tìm thăng quan tiến
chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình. Thái độ phục vụ không kể
công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối với đời sống cộng đồng Giáo Hội
cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn và đền ơn, đó là hành động của
ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống trị trên người khác. Muốn cho
tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong sáng là tương quan huynh đệ,
Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không kể công. Có làm được điều gì
tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì để mà vênh vang tự đắc, nghĩa
là mình có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn. Do đó, mỗi khi hoàn thành
nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ là “người tôi tớ tầm
thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi.”
Anh chị em thân mến,
Nếu nhờ đức tin, mọi
người đều lấy mình làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được
những việc phi thường. Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính
hành động nầy sẽ kiểm tra chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu
sánh với hạt cải bé nhỏ. Vì nếu chúng ta có được lòng tin nhỏ bé bằng hạt cải
thôi, chúng ta có thể “chuyển núi dời non”, “bứng rừng trồng xuống biển” cũng
được. Đức tin có một sức bật kỳ diệu như vậy. Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu
có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẫy, người ta có
thể nâng bổng cả vũ trụ lên”. Và văn hào Kierkegaard đã nói: “Điểm tựa ấy chính
là đức tin”. Đức tin có cả một sức bật như vậy, nó có khả năng biến đổi cả xã
hội, cả thế giới đầy những bất công, bạo lực, chia rẽ, chiến tranh nầy thành
một vương quốc của tình yêu, thành một “Trời Mới Đất Mới” trong ngày Cánh
Chung.
18. Đức tin –
McCarthy
(Trích dẫn từ ‘Phụng
Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’)
Maurice là một người
nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con
chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong
căn nhà để rồi chia tay.
Anh ta đã có một cuộc
sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh.
Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói
thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng
khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh
không thể bóp cò.
“Con vẫn còn tin Thiên
Chúa” anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp “Nhưng con ao ước
có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ”.
“Điều gì làm cho đức
tin ấy đẹp đến thế?”linh mục hỏi.
“Khi con còn trẻ, con
đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ
đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con
tra hỏi mọi việc. “ Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: “Có thể vợ con và
con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô
ấy”.
“Anh đã đau khổ nhiều
phải không Maurice?” linh mục nói.
“Cha khỏi phải nói
điều đó”, anh đáp.
“Anh có cảm thấy Thiên
Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa?” linh mục hỏi.
“Con cảm thấy điều đó,
có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng”.
Ở đây, người ta có thể
cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà
đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự
vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác
tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.
Vì thế, anh bám chặt
lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn.
Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực
thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.
Chúng ta không thể
không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi
còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:
Chúng ta bắt đầu hiểu
rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.
Niềm tin không hợp lắm
khi thường hay biến đổi.
Chúng ta thẹn đỏ mặt,
nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.
Chúng ta hẳn đã tránh
xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.
Chúng ta cứ mãi nắm
lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả
chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của
những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy
nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên,
cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả
điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.
Đức tin thơ mộng của
tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời
như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ.
Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua
những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.
Mọi người chúng ta có
thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: “Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin
cho chúng con”, bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải trưởng thành
trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành
nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào? Bằng việc
cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.
19. Phục vụ Thiên
Chúa vì yêu thương
(Trích dẫn từ ‘Phụng
Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng’ – McCarthy)
Trong số những người
có đạo, có một xu hướng nghĩ rằng Thiên Chúa phải ban cho họ một điều gì đó. Họ
tưởng tượng Thiên Chúa như một ông chủ điển hình. Nếu chúng ta thực hiện xong
công việc thì theo lẽ công bằng, ông chủ trả tiền lương cho chúng ta. Thiên
Chúa ban cho chúng ta phần thưởng thiên đàng vì chúng ta đã trung tín phục vụ
Người khi ở trần gian. Đây là thái độ rất dễ hiểu. Nhưng nó đưa ra một thái độ
làm thuê, vụ lợi vào điều mà chủ yếu phải được xem là một việc làm yêu thương
giữa Thiên Chúa và chúng ta. Mặt khác, nó hoàn toàn không giống với Tin Mừng.
Sự thật nổi bật là:
chúng ta không bao giờ có thể đặt Thiên Chúa trong tư thế mắc nợ chúng ta. Đức
Giêsu nói rằng dù khi chúng ta đã làm hết mọi việc mà chúng ta hy vọng làm được
(và ai trong ta dám liều lĩnh xác nhận điều đó?) Chúng ta cũng không thể đưa ra
bất cứ đòi hỏi nào với Thiên Chúa. Trong thời đại của Đức Giêsu, đạo Do thái đã
bị ý tưởng công nghiệp chi phối. Đức Giêsu đã đối đầu với thái độ đó.
Chân lý nền tảng về
Kitô giáo là chúng ta có một tôn giáo của ân sủng chứ không phải một tôn giáo
của công nghiệp. Sự cứu chuộc không thể kiếm được. Chúng ta không bao giờ có
thể cho rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta. Nhưng chúng ta cũng không nên có quan
niệm đó. Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Người. Con cái
không thực hiện ý muốn của cha mình để được thưởng công. Chúng làm điều đó bởi
vì chúng muốn cố gắng đáp lại tình yêu thương của người cha dành cho chúng.
Quả là một niềm vui
lớn khi chúng ta khám phá rằng không phải chúng ta không cần chứng tỏ mình với
Thiên Chúa. Không phải chúng ta kiếm được tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu
thương chúng ta từ lâu trước khi chúng ta có thể làm một điều gì đó xứng đáng
với tình yêu đó. Và Người yêu thương chúng ta cả khi chúng ta là những tội
nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta không giữ các
giới răn để Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta; chúng ta giữ các giới răn bởi vì
Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tin Mừng có thể được tóm tắt như sau: Một Thiên
Chúa quảng đại muốn các môn đệ phục vụ Người vì yêu thương không phải vì bổn
phận. Vì thế, đức tin không đủ; chúng ta cũng cần có tình yêu. Trong khi đức
tin làm cho mọi việc có thể, tình yêu làm cho mọi việc dễ dàng.
Các công việc quảng
đại nhất và anh hùng nhất trong đời sống là những công việc hoàn thành, không
phải trong đường lối của bổn phận hoặc với niềm hy vọng có được tiền bạc hoặc
những phần thưởng nào khác, nhưng chỉ thuần túy vì tình yêu. Chúng ta hãy xem
xét tấm gương sau đây.
Buổi chiều muộn của
một ngày mùa đông giá rét. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Thình lình một
tiếng kêu vang lên: “Có một người dưới lòng sông”. Người ta chạy đến bờ hè và
nhìn xuống dòng nước đầy bùn, dơ bẩn. Đúng là có một người đàn ông đang dập
dềnh trong nước đen. Tiếng kêu cứu tuyệt vọng đến những người đứng nhìn trong
tiếng ồn ào của xe cộ.
Rồi với một tiếng két
của thắng xe, một chiếc xe hơi quẹo ra khỏi luồng xe và cặp vào chỗ đậu xe sát
lề đường. Một thanh niên nhảy ra khỏi xe, cởi áo và giày rồi leo lên chỗ bờ hè,
quan sát thật nhanh và lao xuống nước bùn. Sau một vài nỗ lực không thành công,
anh ta đã túm được người bị nạn và đưa người này đến chỗ an toàn.
Trên lề đường, một đám
đông tụ tập xung quanh người bị nạn và chờ cho xe cứu thương đến. Ngay lúc đó,
xe cứu thương đến và đưa người ấy đến bệnh viện. Ít lâu sau người ấy khỏe hẳn
sau cơn thử thách. Một phóng viên đi qua, thấy câu chuyện có thể được khai
thác, bắt đầu tìm kiếm thông tin. Nhưng thay vì tìm kiếm sự tôn vinh và tán
thưởng của dân chúng, người cứu nạn đã biến mất.
Điều Thiên Chúa muốn
chúng ta làm là chúng ta phải đến với Người như con cái đến với Cha mình, Người
muốn chúng ta xử sự một cách vinh dự, không phải vì hy vọng được thưởng, mà vì
yêu thương Người và nhiệt thành phục vụ Người.
Sự cứu chuộc là một ơn
huệ chứ không phải là một phần thưởng. Một phần thưởng là một vật to lớn, nhưng
nó không thể so sánh với niềm vui của một người cảm thấy khi nhận được một ân
huệ.
20. Đức tin và
khiêm nhường – Veritas.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra
Khơi’)
Linh mục văn sĩ Marlin
Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm
tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta
vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị
chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá
khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà
thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách
chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà
những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta
hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình
v.v…, chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ
thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm.
Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi
thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng
ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn
nữa.
Rồi tác giả Marlin mời
chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như
có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta
hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù,
không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không? Hay
chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp
thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường
tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại
nhau… Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều
khác được.
Quả thật, giữa con
người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau
rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói
cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này
hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết
khẩn xin Chúa: “Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” mà chúng ta vừa đọc
nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.
Trước đó, Chúa Giêsu
vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc
sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như
người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng
hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại
thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin
có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.
“Lạy Chúa xin thêm đức
tin cho chúng con”. Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài
cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin
cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một
đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ
ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ,
nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không
nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta
mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi
mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin
chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.
Lời cầu nguyện của các
tông đồ: “Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con”. Chúng con đang sống giữa
cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay; lung lay
trong đức tin hay lạc mất đức tin.
Bài Phúc âm hôm nay
nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển
đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không
có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều
nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn
những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống
chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những
khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ
đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.
Lạy Chúa, xin thêm đức
tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong
đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
21. Đức tin và
khiêm nhường
Có một vị ẩn tu nổi
tiếng bên Ai Cập trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, ngài là một con người luôn
lấy sự khiêm nhượng làm nền tảng cho tòa nhà tu đức. Một hôm, ngài và một số đệ
tử cùng đi dạo trong sa mạc, thình lình có một con rắn lớn xuất hiện như muốn
cản đường họ. Với phản ứng tự nhiên, tất cả mọi người kể cả vị thánh đều bỏ
chạy.
Vài năm sau, vị ẩn tu
đang hấp hối trên giường bệnh, các đệ tử hỏi ngài như sau:
- Thưa cha, hẳn cha
còn nhớ ngày nọ khi chúng ta gặp một con rắn rất lớn, tất cả mọi người đều sợ
hãi và bỏ chạy. Chúng con không hiểu tại sao cha cũng bỏ chạy. Phải chăng cha
cũng run sợ như chúng con.
Con người thánh thiện
ấy trả lời như sau:
- Không! Cha không hề
sợ hãi trước con vật ấy. Thế tại sao cha cũng bỏ chạy như chúng con.
Vị ẩn tu đang hấp hối
giải thích như sau:
- Lúc ấy cha nghĩ
rằng, thà bỏ chạy còn hơn là dung dưỡng cho tính kiêu ngạo sẽ chồi lên trong
cha sau này.
Kitô giáo đề cao sự
khiêm nhượng như một trong những nhân đức nền tảng mà người tín hữu Kitô phải
luôn trang bị cho mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ
đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ
quan niệm Thiên Chúa như một chủ chăn hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo
công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn
chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí… là những việc lành mà Thiên Chúa ân thưởng
bội hậu cho họ.
Sự giàu có và địa vị
cao trọng của họ trong xã hội được họ xem như là một thứ ân thưởng rất công
bình và hợp lý mà Thiên Chúa dành cho họ. Đánh giá như thế về công nghiệp của
mình nên những người biệt phái và giàu có sẽ nhìn những người nghèo khổ bần
cùng trong xã hội như những người tội lỗi bị bàn tay công thẳng của Thiên Chúa
đang đè nặng trên họ.
Đối lại với những tính
toán khôn lường và khôn ngoan ấy của những người biệt phái và giàu có, Chúa
Giêsu đề ra lòng tin tưởng vô điều kiện mà con người phải có đối với Thiên
Chúa. Qua hình ảnh của người đầy tớ sau khi đã vất vả nhọc nhằn suốt ngày ở
đồng áng, để rồi khi về nhà còn phải hầu hạ phục vụ ông chủ, Chúa Giêsu có ý
nói rằng, tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan chủ tớ.
Thiên Chúa mà Chúa
Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta là một người Cha yêu thương, nhân từ. Một Thiên
Chúa là Cha yêu thương chỉ muốn con người luôn đặt tin tưởng phó thác nơi Ngài
mà thôi. Sau khi đã làm hết phận sự của mình, người đầy tớ chỉ có thể thốt lên:
“Tôi chỉ là một đầy tớ vô dụng”.
Hình ảnh của người đầy
tớ tự cho mình là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý
nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của mình để
buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng
không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân
và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được,
con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác.
Lời Chúa hôm nay mời
gọi chúng ta điều chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có, cũng
như cách diễn tả niềm tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không tính toán
so đo với Chúa trên cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không
giơ tay cầu nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình, còn làm bao nhiêu những việc
lành phúc đức khác để cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công việc
làm ăn và cuộc sống của chúng ta. Phải chăng có những lúc chúng ta tự phụ rằng,
những thành công và may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên Chúa đã
ban tặng vì công nghiệp và hy sinh của chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi
chúng ta đi vào mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Tình yêu đích thực
không bao giờ so đo tính toán hơn thiệt. Tình yêu đích thực luôn mời gọi niềm
tin tưởng và phó thác. Qua đó, con người mới thể hiện được chính lòng khiêm
nhượng đích thực của Kitô giáo. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy luôn tâm
niệm: “Nếu phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về những yếu hèn của tôi mà
thôi, nhưng nhờ đó mà quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện”.
22. Khiêm
nhường và tin tưởng
Trong phạm vi đời sống
tự nhiên cũng như siêu nhiên, tôi nhận thấy có nhiều người quá tự tin, luôn ỷ
lại vào sức riêng của mình. Họ cho rằng những nhân đức hay những thành công họ
gặt hái được, hoàn toàn do sức lực và tài năng riêng của họ, để rồi họ vênh
vang tự đắc, coi trời bằng nửa con mắt.
Dĩ nhiên, tôi không phủ
nhận rằng: tin tưởng vào sức lực và tài năng riêng của mình là điều tốt trong
một phạm vi nào đó. Vì tục ngữ tây phương vốn thường bảo:
- Vouloir c’est
pouvoir. Muốn là được.
Một khi mình đã dứt
khoát lập trường và tiến hành không nghi ngại, thì kể như đã giải quyết được
một nửa vấn đề. Vì thế, người xưa đã bảo:
- Thành như quả quyết,
bại như do dự.
Hơn thế nữa, kinh
nghiệm cũng cho thấy:
- Hãy tự cứu lấy mình,
rồi trời sẽ cứu.
Bụng đói mà cứ nằm chờ
cho sung rụng vào miệng, thì đến bao giờ một nhận được một trái.
Tuy nhiên, nếu suy
nghĩ chúng ta sẽ thấy: tài năng và sức lực riêng của mình là điều cần, nhưng
không phải là điều quyết định. Yếu tố căn bản cho mọi thành công, đó là tình
thương và sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Tôi xin đưa ra một vài
thí dụ cụ thể.
Chẳng hạn trong đời
sống tự nhiên, chúng ta ra sức cày sâu cuốc bẩm, vất vả đổ mồ hôi xuống trên
ruộng đồng, nhưng nếu Chúa không cho mưa thuận gió hòa, thì mùa màng lúa thóc
của chúng ta cũng khó mà trúng được. Vì thế, thánh Phaolô đã quả quyết:
- Phaolô trồng, Apollô
tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là đấng làm cho đâm bông kết trái.
Chẳng hạn trong đời
sống trí thức, chúng ta chăm chỉ căm cụi học hành để được thi đỗ, để được trau
dồi thêm những kiến thức cần thiết, làm giàu cho bản thân và làm đẹp cho cuộc
đời, nhưng nếu Chúa không ban cho khỏe mạnh, nay yếu mai đau, thì công việc học
hành của chúng ta cũng sẽ bị cản trở.
Chẳng hạn trong đời
sống siêu nhiên, chúng ta muốn khử trừ một nết xấu, nhưng nếu không có ơn Chúa
trợ giúp, thì điều chúng ta dốc quyết chưa chắc đã được ba bảy hai mươi mốt
ngày, để rồi cuối cùng bị rơi vào quên lãng, mèo vẫn hoàn mèo, chó đen vẫn giữ
mực và chúng ta vẫn chứng nào tật ấy.
Chúng ta hãy nhớ lại
lời Chúa đã phán:
- Không có Thầy, các con
không thể làm gì được.
Hay như lời tục ngữ
Việt Nam cũng đã xác quyết:
- Mưu sụ tại nhân,
thành sự tại thiên.
- Không thầy đố mày
làm nên.
Trong mọi hoàn cảnh,
hãy khiêm nhường và tin tưởng vào Chúa. Đồng thời, cùng với sự trợ giúp của
Chúa, chúng ta dù tài năng thấp kém cũng có thể làm được những việc kỳ diệu.
Năm 1683, đoàn quân
Thổ Nhĩ Kỳ tiến đến kinh thành Vienne, đe dọa toàn thể thế giới công giáo. Tình
hình đen tối. Phương tiện lại thiếu thốn. Mặc dầu vậy, Đức thánh cha Innôcentê
XI, một mặt kêu gọi mọi người cầu nguyện, nhất là lần hạt mân côi. Một mặt hoài
giải những bất đồng giữa các vua chúa, kêu gọi họ sát cánh bên nhau để chiến
đấu, cũng như tin tưởng Chúa sẽ phù trợ.
Khắp nơi đều vang lên
những tiếng khẩn cầu tha thiết. Và sự gì phải đến, đã đến. Đoàn quân công giáo
đã chiến thắng tại vịnh Lépante, giải thoát toàn thể Âu Châu khỏi sự tàn phá
của Thổ Nhĩ Kỳ.
Chúng ta đừng bao giờ
quên rằng:
- Không có Chúa, chúng
ta không thể làm gì được. Nhưng với Chúa, chúng ta có thể làm được mọi sự.
Hãy tin tưởng và phó
thác vào Chúa, như lời khuyên của thánh Phanxicô Salêsiô:
- Chúng ta có thể hái
những bông hoa bên vệ đường, miễn là bàn tay phải nắm chặt lấy Chúa.
Cũng vậy, trong khi
thu lượm những thành quả trần thế, hãy giơ một bàn tay cho Chúa, đừng bao giờ
rời xa Ngài, vì nếu Ngài không gìn giữ chở che, chắc chắn chúng ta sẽ té ngã.
Hãy làm việc như chỉ
có mình chúng ta. Đồng thời hãy tin tưởng như kết quả chỉ do một mình Thiên
Chúa ban mà thôi.
23. Đức tin
Có lẽ chúng ta bỡ ngỡ
và thắc mắc: Tại sao Chúa Giêsu lại so sánh đức tin với hạt cải? Hạt cải đây
không phải là cải bẹ, cải bắp hay cải hoa, mà là một thứ cải đặc biệt ở xứ
Palestin, nhỏ hơn hạt quả trứng cá, mà cây thì tương đương với cây trứng cá cao
khoảng 4 – 5 thước. Hạt cải nhỏ bé như vậy mà chẳng lẽ người tín hữu Chúa lại
không có được một lòng tin nhỏ bé như thế sao? Nếu có, thì tại sao họ không
thực hiện được những việc vĩ đại kỳ lạ như Chúa đã hứa? Vậy, hoặc là họ không
có một chút đức tin nào, dù chỉ bằng hạt cải. Hoặc là lời Chúa phải có ý nghĩa
khác?
Đúng vậy, khi lấy hạt
cải làm thí dụ, Chúa không có ý dạy rằng đức tin có thể đo lường được, vì không
những đức tin thuộc lãnh vực tinh thần, thiêng liêng mà còn là một yếu tố siêu
nhiên, siêu phàm mà chúng ta chỉ lãnh hội được qua dấu hiệu hay việc làm bên
ngoài thôi. Thực vậy, người ta không thể nhìn thấy đức tin, vì nó không phải là
vật chất. Nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc thế giới tính thần. Người ta
không thể thấy được nó, nhưng có thể biết nó có, nhờ khi nó biểu lộ qua hành động
bên ngoài. Thí dụ: tôi có đức tin không, chẳng ai biết nhưng khi thấy tôi đi
lễ, thấy tôi đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được tôi là
người có đức tin. Vì tin có Chúa, tôi mới đi lễ để thờ phượng Ngài, tôi mới
nghiêm trang để tôn kính Ngài. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận: đức
tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ, mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa.
Tuy nhiên, đức tin
không phải là một năng lực diệu kỳ ban cho chúng ta để chúng ta làm những
chuyện động trời, giật gân như những nhà ảo thuật, pháp sư hay phù thủy cao tay
ấn hầu trình diễn cho mọi người giải trí. Vì thế, khi Chúa Giêsu nói đức tin
bằng hạt cải có năng lực chuyển núi rời non, truyền khiến cho cây khô héo, hoặc
tự bứng đi xuống sống dưới biển, Ngài chỉ có ý đề cập tới sức mạnh siêu phàm
của đức tin mà thôi. Cũng như người ta không thể đo lường đức tin như đo lường
hạt cải, thì đức tin cũng không phải dùng để làm trò ảo thuật. Việc chuyển núi
rời non không phải chỉ tùy thuộc vào đức tin mà còn tùy ở nhiều yếu tố khác
nữa.
Chúng ta có đức tin
không? Chúng ta cần phân biệt niềm tin và đức tin. Niềm tin thì ai ai cũng có.
Còn đức tin thì chỉ những ai đã lãnh bí tích rửa tội mới có mà thôi. Vậy tất cả
chúng ta đều có đức tin. Nhưng hiện giờ đức tin của chúng ta thế nào? Có lẽ vẫn
còn rất yếu kém phải không? Có bao giờ chúng ta noi gương các tông đồ xin Chúa
gia tăng đức tin cho chúng ta không? Các tông đồ xin Chúa gia tăng đức tin, có
nghĩa là các ngài đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta cũng vậy, chúng ta
đã có đức tin, nhưng còn yếu kém, chúng ta phải xin Chúa gia tăng đức tin để
chúng ta sống và hành động theo đức tin.
Người ta kể rằng: tại
một giáo xứ kia, người ta tụ họp nhau rất đông trong nhà thờ để cầu xin Chúa
cho trời đổ mưa, vì trời hạn hán quá lâu rồi, trong khi mọi người đến nhà thờ
cầu nguyện thì có một em thiếu niên cũng đến và đem theo một cái dù. Mọi người
thấy em cầm cây dù tới nhà thờ thì xì xào với nhau: “Thật là dở hơi, trời đang
hạn hán ai mà lại mang dù đến thế kia”. Cậu bé trả lời: “Ông bà cầu xin Chúa
cho mưa, ông bà tin như thế phải không? Chắc chắn là Chúa sẽ cho mưa, nên tôi
phải đem dù theo để lát nữa còn về được”. Quả thật, Chúa liền cho một trận mưa
thật lớn sau giờ cầu xin của mọi người. Nhưng có lẽ không phải vì đức tin của
những người khác mà là do đức tin vững chắc của em thiếu niên đem theo cây dù
kia.
Tôi xin nói thêm một
chút nữa: cũng giống như mọi tài năng khác nơi con người, đức tin cần phải được
triển nở, cần phải được sinh lợi. Năng khiếu không được rèn luyện sẽ mai một
với thời gian, một đức tin không được vun trồng cũng sẽ chết dần chết mòn.
Chúng ta diễn tả đức tin bằng những việc đạo đức, và chúng ta còn phải nuôi
dưỡng đức tin bằng nhiều cố gắng khác nữa, nhất là sống quảng đại, vị tha và
yêu thương.
Xin Chúa ban thêm đức
tin để chúng ta không ngừng ra khỏi cái nhìn gò bó, hẹp hòi của chúng ta, và
không ngừng nhận ra Ngài vẫn luôn hiện diện trong cuộc sống của chúng ta. Xin
Chúa ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận Ngài trong những biến cố bất
ngờ và nghịch thường nhất. Xin Ngài ban thêm đức tin để chúng ta biết đón nhận
Ngài trong mọi người anh em, nhất là nơi những người thấp hèn, những người bất
hạnh, và ngay cả nơi những người thù ghét chúng ta.
Người Kitô hữu tin vào
tình yêu Chúa Kitô, tin vào bản thân Ngài. Đức tin ấy không chỉ là hạt giống
gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy. Một đức tin như thế có lẽ chẳng ích
lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai. Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh
hoa trái bằng việc làm để mọi người có thể hiểu được thế nào là tình yêu mà
chúng ta tin, có thể nhận ra khuôn mặt của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Người Kitô hữu luôn
được mời gọi lớn lên trong đời sống đức tin của mình. Đức tin là một mầm sống
phải không ngừng được triển nở và lớn lên mãi. Người Kitô hữu cần được lớn lên
mỗi ngày. Nhưng giữa những thực tế của cuộc đời, biết bao bóng tối có thể bủa
vây chúng ta, có thể làm chúng ta sợ hãi. Những lúc ấy đức tin non yếu của
chúng ta dễ dàng bị lung lay. Chính vì thế chúng ta luôn phải cầu xin Chúa ban
thêm đức tin cho chúng ta.
24. Niềm tin
Thử thách đau khổ là
điều chúng ta không thích lắm. Vậy mà chúng ta vẫn gặp trong cuộc đời. Thế
nhưng nếu biết tín thác vào Thiên Chúa, vươn lên bằng một sức mạnh của niềm
tin. Sứ điệp lời Chúa hôm nay sẽ giúp chúng ta củng cố và khám phá lại xem niềm
tin của mình lãnh nhận từ đâu? Và chúng ta đón nhận sức mạnh niềm tin đó bằng
cách nào và thể hiện niềm tin đó ra sao trong môi trường sống của mình. Tôi đã
chấp nhận điều mình không thấy dựa vào lời chứng của người khác đáng tín nhiệm
hơn. Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với con người trong việc thể hiện niềm
tin, nếu Ngài không giúp, không ban sức mạnh, chúng ta không thể dấn thân và
hướng về Ngài được. Bởi vậy, đức tin trước hết là một hồng ân, một món quà
chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa một cách nhưng không, nhưng rất có giá trị. Vì
thế, người Kitô hữu không được tự mãn với giá trị đó nhưng phải khao khát tìm
kiếm như các tông đồ hôm nay trong bài Tin Mừng này, tìm Ngài xin Ngài hướng
đi.
Trong những năm tháng
đi theo Thầy, sống bên Thầy, học cùng Thầy, các tông đồ vẫn chưa đặt trọn cả
con tim, tấm lòng của mình vào Thầy, bởi thế đứng trước những khó khăn, điều
khiển cộng đoàn, các ông cảm thấy chưa đủ can đảm để chu toàn bổn phận cao cả
ấy, nên đã chạy đến cầu cứu Thầy gia tăng sức mạnh để gánh vác cộng đoàn. Tại
sao các ông lại khao khát đến thế? Bởi vì các ông đang cần, đang thiếu nên mới
xin Thầy ban cho, ban thêm đức tin cho mình. Trong khi các ông đang khao khát
một lòng tin vững mạnh thì Thầy lại ban cho một hạt đức tin bé nhỏ như hạt cải.
Trước lời cầu xin đó Chúa mời gọi các ông ý thức lại tầm quan trọng và giá trị
của niềm tin mình. Bằng cách hãy rời bỏ chỗ đứng của mình chuyển sang chỗ đứng
đức tin, rời xa tầm nhìn của mình chuyển đến tầm nhìn đức tin. Ngày nay khi
khoa học ngày càng phát triển, người ta tin vào nỗ lực tri thức mình hơn là tin
Chúa. Theo bạn nghĩ gì về vấn đề này? Như thế để có được sức mạnh của niềm tin
người tông đồ phải làm gì? Thiết nghĩ rằng cần mở lòng đón nhận qua sự gặp gỡ
và cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Cảm nhận sự hiện diện
Thiên Chúa sẽ giúp người ta đón nhận được niềm tin đối diện với thử thách trong
việc lựa chọn: dấn thân hay lùi bước, củng cố niềm tin hay đành đánh mất niềm
tin. Cần sống tích cực hơn để tránh rơi vào tình trạng ngã lòng, kêu trách
Thiên Chúa như dân Cựu ước năm xưa mà ngôn sứ Habacúc trong bài đọc I vừa nêu
lên cho chúng ta. Cảm nhận sự hiện diện của Thiên Chúa còn là tin Chúa, để Chúa
lôi kéo, dẫn đi, biến đổi và gia tăng sức mạnh giúp người tông đồ can đảm chịu
đựng đau khổ, không hổ thẹn làm chứng cho Tin Mừng như bài đọc II trong thư thứ
2 thánh Phaolô tông đồ gửi cho Timothê vừa nhắn gửi chúng ta tư tưởng này. Vì
thế đón nhận niềm tin là dịp để chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa và tín thác vào
Ngài.
Gặp gỡ Thiên Chúa là
tín thác vào Ngài để lãnh nhận một sức mạnh mới thôi thúc người tông đồ dám mạo
hiểm trong cách nghĩ, dám hành động trong cách làm ngay cả những công việc vượt
sức con người. Gặp gỡ Chúa trong niềm tin giúp người ta dễ dàng qui hướng về
Chúa, vượt ra khỏi sự hiểu biết hạn hẹp nơi mình. Lúc đó, người ta mới có đủ
sức mạnh để chuyển núi dời non… mới phát sinh hiệu quả kỳ diệu trong cuộc sống
và thể hiện hoa trái của niềm tin.
Sống đức tin đòi người
ta phải hành động như lời thánh Giacôbê: “Đức tin không hành động là đức tin
chết”. Hành động ở đây là hành động vô vị lợi, phục vụ nhưng không. Cách phục
vụ này ngoài đời rất khó gặp, bởi vì không ai làm công không cho người khác bao
giờ. Để đức tin sinh ơn ích, người Kitô phải sống như người đầy tớ tầm thường
trước mặt Chúa, phải hành động như người làm công vô dụng, vô dụng không phải
là vô tích sự nhưng có nghĩa là chu toàn bổn phận những công việc hàng ngày một
cách khiêm nhường không cần ai biết đến, không tìm quyền lợi cho mình. Đó là
cách trao ban niềm tin, phục vụ niềm tin cho người khác.
Đã đón nhận thì phải
có trao ban, trao ban với tinh thần trách nhiệm: Không đòi Chúa trả công, bắt
người ta đền ơn mình. Vì đức tin chúng ta lãnh nhận nhưng không từ Thiên Chúa
thì giờ đây chúng ta phải trả lại nhưng không trong việc trao ban tình thương,
chia sẻ tình bác ái cho tha nhân.
Là người Kitô hữu:
không phải lúc nào niềm tin của chúng ta cũng vững mạnh cả đâu: có những lúc
tôi cảm thấy có Chúa, tin Chúa, yêu Chúa bởi vì tôi gặp điều tốt lành, nhận
nhiều hồng ân…
Có những lúc tôi cảm
thấy không có Chúa, chán Chúa, đâm ra nghi ngờ không tin Chúa nữa bởi vì tôi
gặp nhiều bất hạnh đau khổ, thử thách: cháy nhà, gặp tai nạn, thiên tai, lũ
lụt, mất mùa, mất nhà, mất của mất người thân, hoặc thất nghiệp, thất bại, thất
tình… Những lúc đó chúng ta đừng quá bi quan nhưng cần phải bình tĩnh suy nghĩ
lại cho dù ta có đay nghiến ông trời, nguyền rủa Thiên Chúa, than thân trách
phận, chúng ta cũng không tránh khỏi những đau khổ thử thách. Cho bằng chúng
ta:
. Hãy lắng nghe tiếng
Chúa, ý Chúa muốn tôi trong hoàn cảnh nào?
. Cầu nguyện, đón
nhận, phó thác, tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa.
Niềm tin luôn là một
ân huệ Chúa ban: nên để có được sức mạnh niềm tin mình, người tông đồ cần phải
biết mở lòng đón nhận, khao khát tìm kiếm ơn Chúa và thể hiện trong cuộc sống
để niềm tin chúng ta mỗi ngày càng sinh nhiều hoa trái. Hoa trái này cần phải
cụ thể bằng một quyết tâm cho mình: “Sống điều mình tin bằng việc yêu thương,
giúp đỡ, nâng đỡ anh em đang gặp thử thách bên chúng ta”.
25. Đức tin
giúp con người hạnh phúc
Trong một lần đi chia
sẻ với các em sinh viên tại bờ hồ cạnh ký túc xá Tân Phú Thủ Đức, một em sinh
viên khi chia sẻ trả lời câu hỏi “Là Kitô hữu, bạn được gì?” nói: “người bạn
trong phòng của em thấy em thường cầu nguyện ban tối trước khi ngủ cũng như đi
lễ Chúa Nhật, có lần đã nói với em: bạn có đạo, bạn hạnh phúc hơn mình, vì bạn
có Chúa. Khi bạn buồn bạn có Chúa để nói, còn mình không có Chúa và bạn thân
không ở gần, nên khi có điều buồn chẳng biết chia sẻ cùng ai”. Đức tin không vô bổ
như có một số người hay “rêu rao”. Đức tin giúp con người vượt qua những khủng
hoảng trong cuộc sống, giúp người ta sống an bình và chấp nhận cuộc đời.
Nhờ tin, được sống
Đức tin cứu độ không
chỉ là tin có Thiên Chúa. Vì tin có Thiên Chúa, ngay cả ma quỷ cũng tin có
Thiên Chúa (Gc.2, 19). Tin có Thiên Chúa, chưa đủ để giúp con người vượt qua
những khó khăn và được bình an trong cuộc sống. Đức tin cứu độ, là tin tuyệt
đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài đang làm những điều tốt nhất cho
mình.
Đức tin cũng là hồng
ân Thiên Chúa ban cho con người. Không có ơn Thánh Thần, con người không thể
tin tuyệt đối vào Thiên Chúa. Chính đức tin tuyệt đối vào Thiên Chúa này, mà
con người xin Thiên Chúa “gia tăng lòng tin của chúng con”. Đức tin, cũng bao
hàm thái độ phó thác tất cả nơi Thiên Chúa. Thái độ phó thác chỉ có, khi tin
tuyệt đối rằng Thiên Chúa yêu thương mình. Chính thái độ tin này, làm con người
bình an ngay trong nghịch cảnh, ngay khi những điều trái ý đang xảy ra với
mình, ngay cả khi dưới con mắt nhân loại đó là tuyệt vọng.
Trong cuộc sống, ai
lại không gặp những khó khăn. Có những lúc, ngay cả những người thân yêu cũng
như thể chẳng hiểu mình, như thể mình cô độc trên đời. Tin vào Thiên Chúa là
Đấng yêu thương mình, Ngài sẽ giúp mình vượt qua sự cô độc đó. Có nhiều trường
hợp gặp quá nhiều khủng hoảng, một người muốn tự tử để “được giải thoát” khỏi
tất cả. Tuy vậy, vì tin rằng Thiên Chúa yêu thương và Ngài tạo dựng mình, Ngài
yêu thương mình, và nếu có ai làm hại mình thì Thiên Chúa vẫn có thể lèo lái để
ngay cả điều hại cũng thành tốt cho mình, nên người đó đã vượt qua khủng hoảng
kinh khiếp đó. Cũng có thể mình và gia đình mình gặp gian nan thử thách như thể
không thể vượt qua, tin vào Thiên Chúa yêu thương và phó thác tất cả cho Ngài,
sẽ giúp mình và gia đình vượt qua những gian nan thử thách.
Kinh Thánh Cựu Ước có
rất nhiều trình thuật cho thấy lòng tin của con người đối với Thiên Chúa. Chẳng
hạn ông Nô-ê đóng tàu trong một hoàn cảnh không có gì đe dọa, và cam chịu những
tiếng cười chê khinh bỉ (St.6, 5tt). Khi lụt hồng thủy đến, ông và gia đình đã
sống nhờ chiếc tàu. Chính nhờ tin và vâng lời Thiên Chúa, mà ông và gia đình đã
được cứu.
Đức Maria- người tin
tuyệt đối vào Thiên Chúa
Hôm nay là lễ Mân Côi
(07.10.01), cũng là dịp chúng ta nhìn lên Đức Mẹ, để thấy Mẹ tin vào Thiên Chúa
như thế nào. Nhiều người Công Giáo chịu ảnh hưởng bởi quan niệm Đức Maria được
Thiên Chúa yêu thương và được chuẩn bị cho là Mẹ Thiên Chúa, nên nhìn Đức Maria
như thể rất xa vời với mình, bởi vậy khó nhận ra Đức Mẹ có những điểm giống
mình và mình được mời gọi nhìn lên Mẹ để noi gương bắt chước.
Hãy nhìn Mẹ trước biến
cố truyền tin, như bất kỳ một cô gái nhà quê nào khác ở Nazarét. Maria đã yêu
Yuse và muốn lập gia đình với Yuse như chuyện thế gian thường tình. Nhưng Thiên
Chúa đã can thiệp, và Maria đã chấp nhận đề nghị của Thiên Chúa bất chấp:
Nguy cơ mất người mình
yêu mến là Yuse, vì làm sao Yuse có thể hiểu “tự nhiên” mà Maria có thai;
Nguy hiểm đến tính
mạng, vì chỉ cần Yuse nói sự thật, cái thai đó không phải của Yuse, thì tính
mạng Maria vô cùng nguy hiểm. Luật Do Thái truyền ném đá những người ngoại
tình;
Danh tiếng gia đình bị
ô nhơ, vì con gái “không chồng mà có con”.
Với tất cả những điều
này, Maria vẫn thưa tiếng xin vâng, nghĩa là, Maria chọn Thiên Chúa trên tất
cả, trên cả tình yêu riêng của mình, trên cả danh giá gia đình, trên cả mạng
sống của mình. Maria chỉ có thể thưa tiếng xin vâng, khi Maria tin tuyệt đối
rằng Thiên Chúa sẽ lo tất cả cho mình.
Mẹ Maria tin tưởng
tuyệt đối vào Thiên Chúa, và sẵn sàng để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài
muốn trên cuộc đời mình. Chính điều này, làm Mẹ trở thành người tuyệt vời. Thái
độ này không chỉ xảy ra một lần trong cả đời của Mẹ, nhưng đã liên tục xảy ra
suốt đời của Mẹ, chẳng hạn như lúc sinh hạ Con trong chuồng chiên cừu, khi Đức
Giêsu cố tình ở lại đền thờ, khi Mẹ đứng dưới chân thập giá. Cuộc đời của Mẹ,
có lẽ còn nhiều gian nan và thập giá hơn cuộc đời mỗi người chúng ta. Chúng ta được
mời gọi, để có thái độ tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa như Mẹ.
Nếu có đức tin bằng
hạt cải
Đức Giêsu nói: “Nếu
anh em có đức tin bằng hạt cải, anh em có thể nói với cây dâu này, nhổ rễ và
chuyển xuống biển mà mọc, thì nó sẽ vâng lời”. Không ai đã làm như vậy, hoặc vì
không ai có đức tin bằng hạt cải, hoặc vì những điều “lạ thường” đó vẫn đang
xảy ra mà con người không nhận ra thôi. Chính Đức Giêsu cũng không chuyển núi
dời non, nhưng Ngài đã làm những điều rất “không bình thường” trong cuộc sống: Ngài
đã chấp nhận cái chết, cái chết ô nhục trên thập giá, vì yêu.
Xin Chúa cho chúng ta
có đức tin “bằng hạt cải”, hầu có thể khiêm tốn và kiên nhẫn phục vụ anh em
trong cuộc sống thường ngày. Xin cho chúng ta có đức tin tuyệt đối vào Thiên
Chúa tình yêu, hầu chúng ta sống hạnh phúc không chỉ ở đời sau, nhưng ngay ở
đời này và ở đây, giây phút này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Để có thể phục vụ
cách khiêm tốn, có cần đức tin không? Tại sao?
2. Không đức tin, con
người có thể sống hạnh phúc không? Tại sao?
3. Với kinh nghiệm bản
thân, đức tin (tin vào Thiên Chúa) giúp gì cho bạn?
26. Máy thời gian –
Lm. Vũ Minh Nghiễm
“Nếu đức tin bằng hạt
cải”
Hôm nay, kính mời bà
con cô bác cùng làm một chuyến du hành.
Chúng ta hãy ngồi vào
máy điện toán thời gian, và đi giựt lùi trở lại vào lịch sử. Đi đến năm 1776,
trong tay không quên mang theo một tờ nhựt báo hôm nay.
Đến nơi rồi, chúng ta
hãy dâng tặng cho tổ tiên của chúng ta tờ báo mang theo. Chúng ta thấy các ngài
mới vừa đọc là đã chau mày lại, vì có nhiều danh từ trên tờ bác các Ngài không
hiểu nổi. Ví dụ: xe hơi, máy bay, phi hành gia, radio, TV, vân vân...
- Nầy các cháu, xe hơi
nghĩa là gì? các ngài hỏi.
- Kính thưa tiên tổ,
xe hơi là thứ xe chạy bằng dầu, bằng xăng, hay một thứ nhiên liệu nào khác,
không cần người đẩy hoặc ngựa kéo.
- Xe mà không cần ngựa
hoặc người kéo hay đẩy, làm sao có thể chạy được? Chứ máy bay nghĩa là gì?.
Tiên tổ hỏi tiếp.
- Thưa tiên tổ, máy
bay là một thứ máy xe hay tàu, ngồi lên là nó nổ ầm ầm, rồi cất mình bay bổng
lên thượng tầng không khí, mang hành khách đi thật mau, thật xe, nước nầy sang
nước khác, châu họ sang châu kia.
- Xe hay tàu, bay sao
được? Bay là phải có cánh. Chim nhờ có cánh mới bay, chứ xe, hay tàu, làm thế
nào mà bay? Các cháu khùng rồi. Chứ TV nghĩa là gì?
- Thưa, TV là một cái
máy truyền hình. Người ta ngồi ở nhà mà có thể xem được và nghe được những việc
đang xảy đến cách xa ngàn vạn dậm, như bên Tàu chẳng hạn.
- Thôi! Thôi! Tổ tiên
các cháu hiểu cả rồi. Các cháu khùng khùng hạng nặng! Xe không người đẩy, không
ngựa kéo mà có thể chạy được. Tàu mà có thể bay được, máy mà có thể chiếu hình
sống động xa từ bên Trung Quốc, chiếu vào tận trong nhà được! Quả thực, các
cháu đau bệnh thần kinh nặng lắm. Nghe nói ở VN có những nhà thương Dưỡng Trí
tại tỉnh Biên Hoà, hay chỡ Rẫy gì đó. Các cháu nên đến ghi tên vào gấp trước
khi quá trễ.
Thấy ông bà tổ tiên
chẳng ai hiểu được chúng ta, đi tới đâu chúng ta cũng bị các ngài mắng cho là
điên là khùng, chúng ta buồn rầu, lại ngồi vào máy thời gian, trở về với vị trí
hiện thời của chúng ta.
Bấy giờ chúng ta thấy
rõ rằng những điều mà người một thế hệ coi là tầm thường thì người của thế hệ
khác lại cho là lạ lùng không thể có được. Điều mà người của thế kỷ kia không
bao giờ dám mơ tưởng đến thì người của thế hệ này lại coi như dĩ nhiên.
Và đây là bài học của
chuyến du hành đi về quá khứ.
Sống trên đời, nếu
chúng ta có được thái độ tin tưởng rằng một việc nào đó có thể thực hiện được,
chúng ta sẽ có cơ may thành công. Trái lại, nếu chúng ta giữ cái thái độ chủ
bại, hoài nghi rằng việc đó không thể thực hiện được, thì hầu như chắc chắn là
chúng ta sẽ thất bại.
Bây giờ mời bà con cô
bác lại tiếp tục cuộc thử nghiệm của chúng ta.
Nầy đây có một đứa
chắt chút của chúng ta từ năm 3000 cũng ngồi máy thời gian trở về thăm chúng ta
là những người đang sống trên quả đất nầy hôm nay. Khi ngồi máy thời gian trở
về, người chắt chút nầy cũng mang theo trong tay một tờ nhựt báo biếu cho chúng
ta. Khi đọc, chúng ta tuyệt nhiên không thấy có một chỗ nào nói đến nạn cao bồi
du đãng, ma túy nghiệm ngập, cướp của giết người. Không có chỗ nào nói đến
nghèo khổ, giặc giã chiến tranh giữa phe nầy với phái khác, giữa nước nọ với
nước kia. Không có những chuyện đau thương, hỗn loạn như chúng ta đang mục kích
trong thế kỷ 21 nầy. Tờ nhựt báo chỉ nói toàn những chuyện an bình thịnh vượng,
tương trợ, tương ái, tương thân.
Đọc qua tờ báo, chúng
ta có cảm tưởng như thế nào?
Hẳn chúng ta sẽ nói
với người cháu chắt chút từ năm 3000 trở về thăm chúng ta là tổ tiên rằng:
- Này cháu, những gì
nói trong tờ báo của cháu đây toàn là chuyện hoang đường, đầy luận điệu tuyên
truyền cho những người của thế kỷ 21. Một thế giới an bình thịnh vượng, và
người người được lạc nghiệp an cư, trong yêu thương thân thiện... thế giới đó chỉ
có trong giấc mơ mà thôi, cháu ạ. Một người có chút lương tri thấy rõ như ban
ngày rằng, ở đâu có con người, thì ở đó có giàu nghèo, có tranh chấp; ở đâu có
nước nầy nước nọ thì ở đó có bạo động, giặc giã chiến tranh...
Thấy chúng ta là tổ
tiên, không hiểu nổi những chuyện viết trên tờ nhựt báo, người chắt chút của
chúng ta buồn rầu từ giã ra về với thế giới năm 3000. Còn chúng ta ở lại với
thế giới năm 2000, trí lòng đầy suy tư...
Sau hai cuộc thử
nghiệm trên, chúg ta nhận thấy rằng những việc mà tổ tiên chúng ta của năm 1776
cho là hão huyền, như xe hơi, máy bay, radio, TV, thì chúng ta, con cháu của
năm 2000 nầy thấy đó là sự thật.
Vậy những điều người
chắt chút của năm 3000 nói về một thế giới an bình, thịnh vượng, mọi người đều
tương trợ, tương ái tương thân, hôm nay chúng ta cho là chuyện hoang đường,
biết đâu ngày mai sẽ thành sự thật?
Bài học quan trọng của
hai cuộc thử nghiệm trên là đây:
Trước hết, nếu chúng
ta sống với tâm trạng này rằng hòa bình trên quả đất hôm nay không thể có được,
chúng ta sẽ thất bại trong công việc kiến tạo hòa bình trên quả đất.
Thứ hai, nếu chúng ta
sống với tâm trạng nầy rằng thiên hạ chung quanh chúng ta toàn là người vô tâm
vô tình, vị kỷ, khó thương. Chúng ta sẽ thất bại trong công việc xây dựng một
xã hội tận tình, vị tha, dễ thương dễ mến.
Sau cùng, nếu chúng ta
sống với thái độ nầy rằng các nước thiên hạ, ngàn đời, cha truyền con nối, tiếp
tục bạo động, hận thù ghen ghét nhau, chúng ta sẽ thất bại trong cố gắng hòa
giải. Và Liên Hiệp Quốc vẫn bị mang tiếng xưa nay là con chó chết mà thôi.
Vậy, chúng ta phải kết
luận rằng:
- Hoà bình trên quả
đất nầy có thể có được.
- Tình tương thân
tương ái giữa những người chung quanh chúng ta có thể thành sự được.
- Sự thuận an giữa các
quốc gia có thể kiến tạo được.
Lý do khiến những viễn
tượng trên đây có thể thành sự thật là vì Chúa Yêsu đã đến với chúng ta, đang ở
giữa chúng ta, đang dạy bảo chúng ta phải ăn ở như thế nào cho hợp đạo làm
người.
Lý do khiến giấc mơ
hòa yêu thương giữa loài người nói chung, giữa những người chung quanh chúng ta
nói riêng, có thể thành tựu được là vì chính Chúa đã hứa với chúng ta như vậy.
Bằng không, Ngài đã chẳng hề dạy chúng ta cầu xin trong kinh “Lạy Cha” rằng:
Xin cho Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời vậy. Ngài
đã chết để làm cho “Nước Cha trị đến” được thành sự thật. Ngài đã sống lại để
khiến cho ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Đây cũng là chính điều
Chúa Yêsu dạy chúng ta trong bài Phúc âm hôm nay.
“Nếu các con có lòng
tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dầu có bảo cây dâu này: hãy bật gốc lên, xuống
dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời.”
Tin Mừng của Phúc Âm
hôm nay là đây: “Nhờ đức tin, quyền lực của Thiên Chúa ở trong tay chúng ta.”
Do đó, không còn việc gì gọi là không thể thực hiện được nữa. Dầu là một thế
giới trong đó không còn chiến tranh nữa, không còn đói khổ nữa, không còn hận
thù nữa.
Chúng ta hãy nhớ lại
cuộc du hành không gian. Những điều mà người thế kỷ trước coi như không thể có,
thì người thế kỷ sau cho là tầm thường. Và ngay trong cùng một thế kỷ, điều mà
người nầy cho là không có thể làm, thì ngươi khác lại làm được. Thánh
Grê-go-ri-ô đã chuyển một hòn núi đi nơi khác, lấy chỗ mà làm nhà thờ. Thánh
Raymond Pennafort lần kia đã lấy áo làm thuyền đi qua mặt biển...
Chỉ vì các Ngài đã có
lòng tin kiên vững vào lời Chúa phán trong ngày hôm nay: “Nếu các con có đức
tin lớn bằng hạt cải thôi...”
Vậy trong tất cả mọi
sự, làm được hay không làm được, và làm được thì làm đến mức nào, tất cả đều do
nơi lòng tin của chúng ta mạnh hay yếu mà thôi.
Lạy Chúa, con tin,
nhưng xin Chúa thêm đức tin cho con. Nếu không lớn bằng hạt cải, thì bằng nửa
hạt cải cũng tạm được cho con hôm nay.
27. Gian
nan cho một niềm tin- Lm. Bùi Quang Tuấn
“Lạy Chúa, xin tăng
thêm lòng tin cho chúng tôi” (Lc 17:5).
Khi trở thành người
Công giáo cũng có nghĩa là dám mất đi tất cả. Đây là tựa đề bài phóng sự của ký
giả Tim Drake trên tờ National Catholic Register, số ra tháng 2 năm 2001, nói
về những khó khăn mà một số các vị mục sư phải đương đầu khi trở lại với niềm tin
Công giáo. Chẳng hạn, mục sư tiến sĩ Kenneth Howell, thuộc phái Tin lành Trưởng
lão (Presbytarian church), đã tâm sự: “Sau khi nghiên cứu và học hỏi về Bí tích
Thánh Thể, tôi nhận ra rằng các giáo phụ thời Giáo hội sơ khai đã cùng đồng
nhất trong niềm tin vào Mình và Máu Đức Kitô.” Việc nhận biết này kèm với những
khám phá về nền tảng của thiên chức linh mục và tinh thần hiệp nhất Kitô hữu đã
khiến Kenneth tiếp cận thân thiết hơn với đạo. Tuy nhiên vì có những khác biệt
trong thực hành nên phải đến bốn năm sau Kenneth mới thật sự trở lại.
Nói đến trở lại là nói
đến những tác động khủng khiếp trên đời sống, nghề nghiệp, hôn nhân, gia đình,
bạn bè, thân hữu. Có những người từng là mục sư lâu năm như Kenneth, bây giờ
trở thành người Công giáo, ông ta sẽ làm gì để sống? Có ai trọng dụng tài năng
của ông? Làm thế nào để trợ cấp cho gia đình? Việc chịu chức của họ trong các
giáo hội trước đây có còn ý nghĩa gì nữa chăng?
Biết bao vấn đề được
nêu lên. Nhưng vấn đề lớn nhất là sự thiếu cảm thông trong gia đình và nơi bạn
bè. Maricus Grodi, 59 tuổi, một cựu mục sư phái Tin lành Trưởng lão tâm sự: có
lắm điều mà vợ con hay giáo hữu của mình không thể chấp nhận, có khi vì thành
kiến với Đạo, nhưng cũng có khi vì họ thiếu cơ hội nghiên cứu học hỏi. Họ không
thấy được những gì mình được thấy.
Ngoài những thách đố
trong niềm tin và liên hệ gia đình, còn có thách đố về nghề nghiệp sinh sống.
Như Kenneth từng dạy tại một chủng viện Trưởng Lão suốt 7 năm. Bắt đầu mỗi niên
học, các giáo sư thường được yêu cầu ký vào bản tuyên xưng niềm tin căn bản của
Giáo hội Trưởng lão. Nhưng đến một ngày, Kenneth đã không thể làm điều đó và
quyết định nghỉ việc. Nghỉ việc là phải đương đầu với bao khó khăn tài chánh
gia đình.
Khi đọc qua những
thách đố mà bao vị mục sư đã gặp phải khi trở lại với niềm tin Công giáo, tôi
tự hỏi: động lực nào đã khiến họ dám đánh đổi tất cả cho niềm tin Công giáo như
vậy? Họ nhận được gì, khi mà dưới cái nhìn khách quan thì dường như họ đang mất
đi rất nhiều: mất nghề nghiệp, giáo dân, bạn bè, và có khi còn mất cả tình cảm
cha mẹ, vợ con?
Phải chăng vì những
con người đó đang có cùng một tâm tư như Thánh Phaolô, vị tông đồ dân ngoại:
“Tôi coi mọi sự hết thảy là thua lỗ bất lợi cả, vì cái lợi tuyệt vời là được
biết Đức Kitô Giêsu, Chúa tôi. Vì Ngài, tôi đành thua lỗ mọi sự, và coi là phân
bón cả, để lợi được Đức Kitô, và được thuộc về Ngài” (Phil 3:8-9).
Lợi được Đức Kitô, và
là một Đức Kitô đang hiện hữu trọn vẹn trong Bí tích Thánh Thể, được thuộc về
Đức Kitô, và là thuộc về một Đức Kitô hiệp nhất, không bị xé mảnh, không bị
phân tán hay méo mó, đó là con đường giải thoát chân chính mà Thánh Phaolô đã
khám phá và không ngừng viết đi viết lại vì lợi ích của các Kitô hữu.
Thánh Phaolô là người
đã khám phá dung mạo tuyệt vời của Đức Kitô để sau đó làm một cuộc trở lại,
tiên phong cho bao cuộc trở lại khác. Việc trở lại của Phaolô, trước hết là một
sự hoán đổi cái nhìn về Đạo. Sự kiện mắt ông bị loà không thấy được gì trên
đường đi Đamas, để rồi sau đó được chữa lành và tiếp nhận một khả năng nhìn
mới, đã khẳng định: cái nhìn của Phaolô về Đạo đã được đổi thay, và từ đây một
đời sống mới bắt đầu.
Ngày hôm nay, được
chứng kiến bao cuộc trở lại, tôi tự hỏi: Có nhiều người thấy được những giá trị
vô biên của niềm tin Công giáo, của Bí tích Thánh Thể, của sứ mạng hiệp nhất
Kitô hữu, và đã dám đánh đổi những gì đáng yêu nhất trên thế gian hầu có được
những điều họ vừa tìm gặp. Phần tôi, người mang danh có Đạo, liệu tôi có thật
sự trân quí niềm tin của mình và nhiệt tâm chia sẻ sức sống múc được từ niềm
tin đó cho kẻ khác không? Tôi có dám đánh đổi chút gì trong đời để giữ gìn và
làm tăng trưởng niềm tin, nhất là niềm tin vào Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh
Thể… hay tôi đã đánh mất tất cả từ lâu rồi?
“Lạy Chúa, xin củng
cố đức tin còn đang yếu kém của chúng con.” Xin cho chúng con gặp được Chúa như
Thánh Phaolô đã gặp trên đường Đamas. Xin cho chúng con luôn biết trở lại mỗi
ngày trong tâm tình yêu mến Thánh Thể và Giáo hội. Để nhờ đó đời chúng con luôn
tràn đầy sức sống của trời cao và không ngừng trao ban tình Chúa cho mọi người.
Xin Chúa Thánh Thần kiện toàn đời sống và lời nguyện xin của chúng con. Amen”.
28. Đức tin
trong bóng tối
Một buổi chiều nọ, nhà
khảo cổ học Gene Savoy và các bạn đồng nghiệp bị lạc lối trong một khu rừng ở
nước Peru. Họ cảm thấy lo sợ vì nếu họ không tìm được doanh trại của họ thì sẽ
phải chết trong khu rừng này. Họ chạy toán loạn đi tìm con đường mòn đã dẫn họ
đi vào rừng. Thình lình họ nhận thấy rằng sự hỗn loạn đi tìm con đường mòn chỉ
làm tăng thêm sự mệt mỏi vô ích. Họ lấy lại bình tĩnh và đứng yên lặng suy
nghĩ. Một tia sáng đã bừng lên trong trí óc. Savoy ghi lại điều đó: “Tôi đưa
mắt nhìn vào một thế giới đẹp đẽ của những cánh hoa xinh xắn, mùi hương thơm từ
những cánh hoa nở rộ, và những con chim hót líu lo. Đúng thế, Thiên Chúa ở đây.
Tâm hồn tôi trầm tĩnh. Tôi bình tĩnh bước vài bước về bên trái và tôi tìm thấy
con đường mòn.”
Câu chuyện trên ăn
khớp với các bài đọc hôm nay. Trước hết, nó minh chứng những lời trong sách
Khabacúc, “Người công chính sẽ sống được nhờ trung tín.” Thứ đến, nó minh chứng
cho những lời Chúa Giêsu đã phán trong bài Phúc Âm, “Nếu các con có lòng tin
bằng hạt cải, thì dẫu các con khiếu cây dâu này rằng: ‘Hãy bứng rễ lên mà đi
trồng dưới biển’ nó liền vâng lời các con.”
Đây là điểm thường làm
cho chúng ta phải lo lắng, liệu đức tin của chúng ta có bằng được hạt cải? Cho
dù đức tin của chúng ta rất mạnh mẽ đến đâu, thì cũng có lúc nó mịt mù yếu ớt.
Điều mà hôm nay trong sáng, mai lại có thể tối tăm mù mịt. Giống như mặt trời
có lúc ẩn sau đám mây, rồi lại hiện ra trong sáng.
Đức tin chúng ta tăm
tối thường thì bởi ba lý do sau: Bản tính con người, chính chúng ta, hoặc Thiên
Chúa.
Trước hết, nó có thể
là do bởi bản tính con người nghĩ là có lúc “hứng cao” lúc “cụt hứng”.Nói cách khác, đức tin
của chúng ta bị ảnh hưởng bởi tâm trạng hoặc mất hứng trong con người.
Một tác giả đã viết về
cảm nghiệm này như sau: “Một ngày kia, cuộc sống thật đẹp đẽ, chúng ta cảm kích
mọi sự và mọi người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những gian
truân đau khổ trong cuộc đời. Một ngày khác, cuộc sống thật đen tối, đó là lúc
chúng ta có thể đếm được rất nhiều kẻ thù, tìm ra được khuyết điểm của mọi
người. Cái ngày như thế thật là khó khăn để nghĩ đến những lúc vui vẻ trong
cuộc đời” (Anthony Padovano, Belief in Human life).
Thứ hai, nguyên nhân
đức tin chúng ta trong đêm tối là bởi do chính chúng ta. Chúng ta có thể coi
trọng thân xác bên ngoài hơn là linh hồn bên trong. Nghĩa là, chúng ta để cho
đời sống đức tin yếu dần đi do bởi vì chúng ta phạm tội và không dùng những của
ăn thiêng liêng. Cũng giống như thân xác không ăn uống gì, lại còn thêm bệnh
tật nữa thì chết dần chết mòn.
Thứ ba, đức tin trong
đêm tối có thể là do chính Chúa an bài như thế. Nghĩa là, Thiên Chúa
để cho xảy ra như vậy để chúng ta đào sâu và tăng cường hơn trong đời sống đức
tin. Thiên Chúa dùng đêm tối này để giúp chúng ta trưởng thành hơn trong đời
sống đức tin, như Ngài đã từng thử thách Abraham khi Ngài nói phải sát tế người
con duy nhất.
Trong những hoàn cảnh
này, chúng ta hãy biết chấp nhận và dùng nó như là điều mà Chúa đã an bài cho
chúng ta. Đó là sứ điệp mà chúng ta nhận được qua bài đọc hôm nay.
29. Chú giải của
Noel Quesson
Các Tông Đồ thưa với
Chúa Giêsu rằng
Thánh Luca vẫn luôn tả
lại “cuộc hành trình cao cả và sau cùng” lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ơ đây,
Luca dùng một công thức trịnh trọng để dẫn nhập vào câu chuyện sắp kể.
Sau khi đã nói với
những người Pharisêu (Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc 17,14), Đức Giêsu
nói với các “Tông đồ”. Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này chỉ dành cho nhóm
Mười Hai và chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin Mừng của ngài và
hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông đồ. Dưới ngòi bút của ngài, chỉ Nhóm
Mười Hai mới có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng nhân chính thức của Tin Mừng
của Đấng Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. “Apostoloi” trong tiếng Hy Lạp có
nghĩa là “những người được sai đi”.
Trong đời sống hằng
ngày, tông đồ là một vai trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban cho
mình chức vụ đó. Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta không thể không ý thức về
đặc quyền không thể chuyển giao và không thể tuyền lại được đặt trên Nhóm Mười
Hai: Tính chất chính thống của “sứ vụ” và của việc “sai đi” do đích thân Đức
Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai họ đi. Họ là các “chứng nhân”
của Người. Họ dã nghe lời Người giảng dạy. Họ có thể nói lại: Những lời ấy đến
trực tiếp từ Người. Họ có những cử chỉ của Người. Họ có thể lặp lại những cử
chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của Người. Nhất là họ thấy Người sống động sau
khi đã sống lại: Họ không thể không cao rao điều đó cho đến tận cùng trời cuối
đất.
Theo một ý nghĩa loại
suy, Giáo Hội ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các “tông đồ”. Nhưng
những yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong sự súc tích của chúng:
Tôi cũng thế, tôi được đích thân Đức Giêsu sai đi... để trở thành chứng nhân
của Người, của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự cứu chuộc và tình yêu của Người.
Các Tông Đồ thưa với
Chúa Giêsu rằng: “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con”
Danh xưng “Chúa” chỉ
xuất hiện một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ Đức Giêsu khi còn sống. Luca
dùng danh xưng ấy mười chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng từ này không được sử
dụng bởi tình cờ: Ngài luôn luôn muốn chỉ đến vinh quang của Đấng Phục sinh.
Hơn nữa, lời cầu xin
của các tông đồ cũng không tầm thường. Đây là lần duy nhất mà người ta thấy bạn
hữu của Đức Giêsu nói với Người một lời “cầu xin”, “như thể” Người là Thiên
Chúa. Bằng một sự tham dự trước, họ cầu xin Đức Kitô trong vinh quang Tin Mừng,
với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự đồng nhất mầu nhiệm với Đức Chúa. Chúng
ta chớ quên rằng Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, sự kết thúc đến gần.
“Lạy Chúa, xin thêm
lòng tin cho chúng con”.
Trở thành tông đồ,
không đơn giản là một quyết định của con người.
Trở thành chứng nhân
của sự sống lại trước tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp đặt như khi
người ta đơn giản thừa nhận một sự kiện lịch sử bắt buộc.
Chỉ có đức tin mới mở
ra cho những thực tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi thứ duy
lý của khoa học. Và đức tin là một “ơn của nhiên Chúa” “Lạy Chúa, xin thêm lòng
tin cho chúng con!”
Vậy thì ai, nếu không
phải là chính Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông đồ sau sự bỏ trốn và chối
bỏ thảm hại của họ?
Vậy thì ai nếu không
phải là Thiên Chúa, đã làm họ trở thành những “chứng nhân can đảm” đến độ chịu
tử đạo? Không, đức tin không phải là một điều hiển nhiên, một điều chinh phục
được, một sự căng thẳng của trí tuệ và ý chí con người. Đức tin là sự đón nhận
khiêm tốn một ân huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa con người không làm
gì cả: “đón nhận” là một hành động tích cực cao độ của con người. Bạn không
phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn khép cửa lại thì mặt trời muốn vào nhà bạn để chiếu
sáng sẽ không bao giờ có thể vào được. Đức tin là một mặt trời. Một “ơn” luôn
luôn được ban tặng cho tất cả mọi người. Nhưng phải mở cõi lòng mình ra. “Ơn
của Thiên Chúa”, sáng kiến không mất tiền và siêu nhiên nên đức tin phải được
“cầu xin”: Lời cầu nguyện là cánh cửa sổ của đức tin; phải được mở ra để đón
nhận ơn Thiên Chúa. “Lạy Chúa, xin cho con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin
cho chúng con...”
Chúa đáp: “Nếu anh em
có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: ‘Hãy bật rễ lên,
xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em
Một hình ảnh khó quên
theo đúng kiểu mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong dùng nghịch lý của Đức
Giêsu. Hạt cải là loài “nhỏ nhất trong các loại hạt” (Mc 4,31). Còn cây dâu là
cây rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo trưởng Do Thái. Dĩ nhiên,
Đức Giêsu ở đây không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân: Người
không bao giờ dời cây dâu xuống biển; và nhiều lần, Người đã từ chối các “dấu
chỉ” kỳ diệu mà người ta yêu cầu Người. Nhưng bằng hình ảnh này, Người mạnh mẽ
nói với chúng ta rằng đức tin mở chúng ta cho điều bất khả, cho Thiên Chúa.
Một đức tin nhỏ nhất
còn mạnh hơn mọi cộng việc của con Người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh
của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả
đức tin của các Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ.
Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ
chức, báo chí, truyền hình, tóm lại không gì cả... thế mà họ đã thay đổi dòng
lịch sử. Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta
được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các
phương pháp về phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt
nhất... để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện.
“Các bạn hãy nhìn xem:
Một trinh nữ sinh con, một người được sinh ra từ Thiên Chúa; thiên đàng ở giữa
chúng ta; chỉ còn một dân tộc... Chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy
cây mọc trong biển, những người ăn mày trở thành những ông vua, những kẻ có
quyền thế bị lật đổ, người ta chia sẻ các kho tàng... Các bạn hãy nhìn: nước
biến thành rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra nhiều và dân chúng không còn
đói nữa... chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, các
sa mạc đầy hoa, người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm đầy tràn...”. Chỉ cần
một chút đức tin, nhỏ như một hạt cải để thấy những người chán nản lấy lại niềm
hy vọng, những người tội lỗi đứng dậy, những con đường không lối thoát được mở
ra, chiến tranh chấm dứt, tình yêu được tái sinh... vâng, cây mọc trong biển,
núi dời chỗ. Những ngọn núi của sự sợ hãi, ích kỷ và đê tiện. Thế giới đang
khủng hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ cần một chút Đức tin... Gia đình
đang khủng hoảng! Học đường đang khủng hoảng. Kinh tế đang khủng hoảng? Sự chết
chiến thắng, thập giá trống rỗng và trần trụi, nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra
và Người đứng đó, bên kia biển! Và “cây cối nhảy múa vui mừng” (Thánh Vịnh 95).
Ai trong anh em có
người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó:
‘Mau vào ăn cơm đi’, chứ không bảo: ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn
cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau
Trước tiên chúng ta cứ
để cho mình công phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh của nô lệ ở
Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La Hy vào thời
của Thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát đến nỗi
chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là
“vật sở hữu” của ông chủ mà ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.
Cần phải nói thêm rằng
chúng ta không có quyền dựa vào những lời nào đó của Đức Giêsu để biện minh cho
những thái độ chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin Mừng biện hộ
cho tình yêu thương, sự chia sẻ, sự tôn trọng người khác có quá đủ.
Chẳng lẽ ông chủ lại
biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Lạy Chúa, phải đấy.
Phải biết ơn. Chúa cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý đinh nói với chúng con một
chân lý rất quan trọng và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng những hình
ảnh nghịch lý hầu như khó bênh vực được theo những chuẩn mực của con người như
chúng con.
Đối với anh em cũng
vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm
Lạy Chúa, Chúa muốn
nói về điểm này. Vấn đề không phải là một bài học về các quan hệ xã hội! mà là
một bài học về các quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là con người
hướng về Thiên Chúa hoàn toàn và triệt để Người phá bỏ những thói tự phụ nực
cười của chúng ta. Người đặt mọi vật trở về vị trí chân thật của chúng ta. Lừa
phỉnh mình làm gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi không là gì cả trước
mặt Người.
Hơn bao giờ hết, ngày
hôm nay chúng ta phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là “ông chủ”!
Hình ảnh này khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không nên đặt nó đối lập với
nhiều hình ảnh khác qua đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa như một “người cha”, một
“người chồng”, kể cả một “người phục vụ”: “Chủ nhà sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh
em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ “ (Lc
12,37). Chúng ta phải chấp nhận những mâu thuẫn bên ngoài đó.
Vâng, lạy Chúa, con
chấp nhận đặt mình trước mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn toàn nhỏ bé, chăm
lo thực hiện với lòng trung tín tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con. Như
Đức Maria, như biết bao vị thánh sẵn sàng để “phục vụ”. Thánh nữ Jeanne d’Arc
đã nói: “Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên”. Đức Maria đã nói: “Tôi đây là nữ
tỳ của Chúa”.
Hãy nói: chúng tôi là
những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi
Trước khi yêu cầu
chúng ta, Đức Giêsu đã sống điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc
lấy thân nô lệ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết” (Pl. 2,6).
Những người Pharisêu
sau cùng đã tưởng rằng họ đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc của họ: Có
qua có lại mà. Vả lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không tính công
để trả lại cho chúng ta, Đấng mà không một ai có thể sai khiến. Tự phụ rằng
mình có một quyền năng đủ là ma thuật hay không là ở trước mặt một “thần tượng”
chứ không phải trước mặt Thiên Chúa.
Thái độ chân thật duy
nhất trước Thiên Chúa là tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn vô tư. Trở
thành người đầy tớ theo cách của Đức Giêsu không phải là nhục nhã: Phục vụ,
chính là thống trị!
30. Lòng
tin và thái độ sẵn sàng phục vụ
(Suy niệm của Lm FX Vũ
Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn Lc 17,7-9
[10] thường được trích như là một “dụ ngôn”. Kiểu gọi này được biện minh vì dựa
trên một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một ông chủ và những
người đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng đối với thế giới
tôn giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó lại phản ánh tương
quan ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu những chờ đợi của
ông chủ đối với đầy tớ của ông.
Tác giả Lc đã đặt dụ
ngôn này ở cuối một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc. 1-6).
Tuy nhiên, bài dụ ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở c. 7,
hẳn là ít ra phải liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo c. 6
mà không có chỗ nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.
Những gì chúng ta đọc
được ở cc. 5-6 liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua câu hỏi,
ta hiểu là họ đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi ý rằng
họ có ít đức tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt cải,
là thứ hạt giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội dung
lời rao giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số lần)
rất khó tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không phủ
nhận giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là các ông
không có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao
ước với họ.
Lời than thở này của
Đức Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ
ngôn. Nhận ra rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các
ông không có một đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm
“vâng lời” mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn đệ: họ là
những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo các lệnh của
ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng lời chủ trong
cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ tốt cho việc
sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận
lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ
được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là những đầy tớ
phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc. 5-6 rất khó
nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua Người, vâng
lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng theo các giáo
huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu như là những đầy
tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ
ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì cứng rắn (không được
làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận do không tha thứ),
nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của Người, chúng ta
biết vai trò của mình và vâng phục.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành hai phần:
1) Đức tin (17,5-6);
2) Dụ ngôn Người tôi
tớ (17,7-10).
3.- Vài điểm chú giải
- xin thêm lòng tin
(5): Câu này có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà
chúng con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh
nhận. Dựa theo văn cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.
- Hạt cải (6): Tiếng Hy Lạp là kokkos
sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây
sinapi (ta tạm dịch là “cây cải”) là một loại cây thông dụng bên Paléttina, có
thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng. Hạt của nó không
phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ nhất trong các loại hạt được
người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được tục ngữ Do Thái dùng mà chỉ
những gì nhỏ nhất.
- cây dâu (6): Từ Hy Lạp sykaminos (1
V 10,27; 1 Sb 27,28 … Bản LXX) để dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là
“cây sung” (HL sykomorea, “sycamore”). Vậy hẳn sykaminos ở đây cũng là
sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù sao, tác
giả muốn nêu ra hình ảnh một cây khá to.
- đầy tớ (7): Tiếng Hy Lạp là
doulos: người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận mọi sự từ người
chủ như những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được phân chia thành
các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ của một ông chủ
thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng
với một số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này chờ nơi quảng
trướng để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một loại đầy tớ
khác, đó là người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công
- lại bảo nó…? (7): Câu hỏi này chờ đợi
câu trả lời là “không”.
- Chẳng lẽ ông chủ lại
biết ơn…? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là “không”.
- vô dụng (10): Từ Hy Lạp là achreios
có nghĩa chữ là “vô ích, vô dụng” (useless), nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn,
đó là “không sinh lợi lộc” (unprofitable), bởi vì chỉ làm đúng bổn phận. TOB
dịch là quelconque (= bon à rien), NAB dịch là unprofitable, New International
Version dịch là unworthy. Dịch là “vô dụng” dường như không đúng, vì ba lý do:
1) Người đầy tớ trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh đồng suốt
ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng
ta là “vô dụng” cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ
Hy Lạp achreios này rất hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để
giúp xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu “vô dụng” đây
là người đầy tớ không có quyền gì mà yêu cầu được đối xử khác với những gì tư
cách anh cho anh được hưởng.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
* Đức tin (5-6)
Chúng ta không biết
động lực nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các ông.
Rất có thể đó là những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo Đức
Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không phải
bằng cách cho một định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của lòng
tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng
của đức tin. Nếu người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi
Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài
người. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là “chuyển núi dời non”
(x. Mt 17,20) hoặc “nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống biển”. Người muốn nói
rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông
dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là
giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn đệ trước những nhiệm vụ và đòi
hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả
năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều loài người thấy là không thể làm
được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng triệt để nhất, điều này xảy ra với
việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những kẻ được Người
giúp đỡ: “Lòng tin của con đã cứu con” (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).
* Dụ ngôn Người tôi tớ
(7-10)
Với công thức Người
chọn để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ được
mời gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ đều
đã trải qua kinh nghiệm Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy nhiên,
cũng có thể nói rằng câu chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp gửi đến
các thính giả, cũng nhắm đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở c. 10.
Dụ ngôn được kể trong
các câu 7-10 có thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo lý của
người Pharisêu về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18: “tôi phải làm
gì?”; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện). Nền tảng của tương
quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa của chúng ta, nên
chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không phải là
những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có điều gì đó để nói
với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã ban cho
chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả năng... Chúng ta mắc nợ Thiên
Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các bổn phận của chúng ta. Ngài
xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và đâu là mục tiêu. Chúng ta
chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng
thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu chúng ta điều vì võ đoán
và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là
Đấng tạo hóa và Chúa
tể của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho họ
phẩm giá của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những
người quản lý trung thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý
thức rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được
tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của
Ngài và chu toàn các bổn phận của chúng ta.
Dụ ngôn này cũng được
các nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các
ngài đừng dừng lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi lại
hoàn cảnh xã hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định rõ
ràng. Nô lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh.
Khi thi hành các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm “việc bổn phận” mà thôi. Tất cả thì
giờ, tài nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà phục vụ Thiên
Chúa. Rồi khi đã chu toàn công việc, con người không được khoe khoang hoặc đòi
hỏi những quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn khẳng định rằng nơi
người tín hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả
những gì con người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ đã làm. Mọi sự
đều là hồng ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa, chứ không
do một khoản hợp đồng giao kèo nào cả.
+ Kết luận
Đức tin là niềm tín
nhiệm không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài
người; Ngài đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến
chỗ thành toàn. Với cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ,
lại là tôi tớ “vô dụng” vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như thế chẳng
hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là
do Ngài. Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách xác định bản than
tùy theo tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy tớ của Thiên Chúa
và phải vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn đến đâu. Người ấy
không là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh quang vì là đầy tớ.
Người ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì khác, trong
tương quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho Ngài đã
là một vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và như thế, cuộc
sống mai sau cũng là một hồng ân.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đứng trước các trách
nhiệm cũng như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông đồ, không
tránh né, không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin.
Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa
mới có thế giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng sức con người
không sao làm nổi.
2. Nhờ đức tin, người tín
hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền
năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một
hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm
cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ
giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm
chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích.
3. Không chỉ khuyên chúng
ta tin, Chúa Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người đã từng
nói với Phêrô: “Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin” (Lc
22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các môn đệ là được thêm lòng
tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi gắm
các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời
chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.
4. Khi đọc Dụ ngôn Người
tôi tớ, chúng ta không nên đi lạc sang đề tài “chủ nô” của triết học Tây
phương, cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa chỉ coi
chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những đoạn văn nói
về những tương quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người với nội dung
hoàn toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả chỉ nhắc
lại một hoàn cảnh quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài học thần
học. Đó là: người tín hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có thái độ khiêm
tốn, mà không nô lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề nghị của Ngài.
5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn
mạnh rằng người môn đệ chỉ là một “tôi tớ” và là tôi tớ “vô dụng”, chúng ta
hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết bảo đảm cho
phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, người môn đệ vẫn
ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế giới cũng là một ân huệ. Như
thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào tự mãn cả.
6. Đôi khi chúng ta có
lối suy nghĩ y như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước theo
nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên
Chúa vui mừng về những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng
ta có thể tự hào rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề
lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của
chúng ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính
chúng ta mới cần sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở
thành những con người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa
không bao giờ thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ
cho các tôi tớ trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).
Xin thêm lòng tin cho
chúng con
Các tông đổ xin với
Đức Giêsu: "Xin cho chúng con thêm lòng tin!" Sao lại xin thêm lòng
tin? Tin là thuộc lãnh vực phẩm chất, đâu thuộc lãnh vực số lượng mà lại xin thêm
lòng tin. Có lẽ do tại cách nhìn về sự việc.
Và cũng như mọi lần,
Đức Giêsu trả lời theo một đường lối khác, một cái nhìn ngược lại.
Một hạt cải trở thành
một cây to lớn ... một cây dâu mọc giữa biển ... một ngọn núi di chuyển. Siêu
thực: một từ ngữ có thể diễn tả đặc tính của bức tranh về một thế giới mới, một
thế giới do Đức Giêsu công bố và trở thành hiện thực nhờ lòng tin. Người ta có
cảm tưởng như đang chiêm ngắm một bức tranh của những nhà danh hoạ về siêu
thực.
Đức tin quả là có tính
"siêu thực". Tin là một cái nhìn khác về điều có thể. Tin là vượt lên
trên những biểu hiện bên ngoài, vượt qua trật tự tự nhiên, để thấy được một
hiệu quả khác. Nhờ tin, con người đạt tới một đời sống hoàn toàn mới mẻ, không
chỉ là kết quả của những nguyên nhân vật chất, nhưng là một cuộc sống được tặng
ban, một sự trào vọt, một cuộc sáng tạo phát xuất từ Thiên Chúa.
Quà tặng! Phải nhấn
mạnh đến điều này. Tin là một hồng ân vô thường và nhờ tin mà nhận được những
hồng ân khác. Thế nhưng, có lẽ người ta quá chú trọng đến quà tặng mà không chú
ý đến chính việc làm. Người ta chờ có thể truyền lệnh cho núi non, người ta
muốn thấy cây dâu mọc giữa biển khơi. Nhưng ít khi người ta làm việc với lòng
tin, ít khi người ta biết đón nhận những điều giáo huấn. Người ta muốn có những
kết quả lạ lùng trước khi thi hành những lệnh truyền của Chúa.
Chỉ là người tôi tớ
Chất liệu của dụ ngôn
này dựa trên mối liên hệ giữa người nông dân và người đầy tớ của ông. Chắc chắn
rằng người đầy tớ không có quyền gì đối với ông chủ. Sau những giờ làm việc cực
nhọc ở ngoài đổng, người đầy tớ không được phép nhớ đến việc ăn uống, nghỉ
ngơi. Người chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm, hay hầu hạ để cám
ơn. Người đấy tớ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho chủ. Đến
khi nào người chủ không còn sai khiến gì cả, thì người đầy tớ mới được nghỉ
ngơi. Người đầy tớ không hề nghĩ đến việc tham dự vào thế giới của người chủ mà
anh có bỗn phận phải phục vụ. Đối với anh, một món tiền gọi là lương, được ăn
uống, chừng đó là tất cả.
Tại sao Đức Giêsu lại
nói dụ ngôn này?
Từ trước tới nay,
người biệt phái vẫn nghĩ rằng tất vả việc lành, việc thiện, việc đạo đức của họ
đều là những công nghiệp trước mặt Thiên Chúa mà người đời phải suy tôn và
Thiên Chúa phải tính công. Đoạn văn Tin Mừng kể về chuyện hai người lên đền thờ
cầu nguyện (xem Lc 18,11-12) cho thấy rõ ý tưởng này. Họ tưởng rằng những việc
họ làm đã biến họ thành con người thánh thiện, đạo đức, và không cần đến Thiên
Chúa, không cần sự can thiệp của Người. Chính sự tính toán này, thay vì làm cho
họ trở thành những người thánh thiện, lại phá đỗ tất cả mọi việc họ đã làm. Họ
ra về mà chẳng được tha tội, chẳng được Thiên Chúa xót thương. Trong khi đó,
người thu thuế nhận biết mình là người tội lôỵi, nên trông cậy vào tình thương
của Thiên Chúa, và anh đã trở thành người công chính.
Thiên Chúa không hề
mắc nợ ai. Con người chẳng có gì để tự hào trước Thiên Chúa, chẳng có gì để
khoe khoang. Thực ra, tất cả mọi hành vi của con người đều là hồng ân của Thiên
Chúa. "Không có Thầy, chúng con sẽ không làm gì được." Vậy thì, con
người có gì để mà kể công, để mà tự hào. Họ đừng ảo tưởng, đừng coi đó như công
trạng, nhưng phải nhận ra rằng đó chỉ là bỗn phận, là trách nhiệm của mình. Mọi
hành động phượng tự, mọi hành vi bác ái, thật ra vẫn chưa đủ để cảm tạ hồng ân
của Thiên Chúa và của người khác. Con người có tạ ơn Thiên Chúa suốt cả đời
mình cũng vẫn chưa đủ, vậy thì có gì mà tự hào, mà kể công. Cho dù có đem cả
sức lực của mình để phục vụ người khác, con người cũng chỉ thực hiện những điều
trong ơn gọi Ki-tô hữu của mình, cũng chỉ là để đáp lại hồng ân Thiên Chúa đã
ban cho mình. Có gì đâu để khoe khoang, để kể công.
Bởi đó, nếu có ai
tưởng rằng mình hữu dụng, nếu có ai nghĩ rằng mình đã thi hành trọn vẹn thánh ý
của Thiên Chúa, nếu có ai nghĩ rằng mình đã làm tròn bỗn phận của mình, thì rõ
ràng người đó không hiểu gì về Ki-tô giáo, về sự thánh thiện và công chính của
người môn đệ Đức Ki-tô.
Hồng ân của Thiên Chúa
và sự cộng tác của con người đều không chấp nhận sự tính toán. Bởi vì khi tính
toán, con người không phân biệt được vẻ lớn lao của Thiên Chúa và sự thấp hèn
của người phàm, không phân biệt được quà tặng với bỗn phận; họ là những con
người hữu hạn, nhưng lại muốn cân đo cái vô biên.
Lẽ tất nhiên, Thiên
Chúa không phải là người chủ độc tài, hà khắc, luôn áp bức những người tôi tớ
của mình. Trái lại, Người là Cha yêu thương. Qua dụ ngôn, Đức Giêsu chỉ muốn
cho con người, nhất là những người Biệt phái, hiểu rằng: Họ đã được Thiên Chúa
trao ban những quà tặng lớn lao, lớn lao hơn những việc họ làm. Con người có
làm gì chăng nữa cũng chưa xứng hợp với hồng ân đã lãnh nhận. Và để đón nhận
thêm những hồng ân khác, họ phải khiêm tốn, phải nhận ra sự yếu hèn của mình.
Theo gương Người Tôi
Tớ
Hơn một lần, Đức Giêsu
đã trình bày yêu cầu đặc biệt của Nước Thiên Chúa: thực hiện trọn vẹn lề luật.
Chính Người cũng cẩn thận thi hành những điều được coi là bỗn phận của người
được sai đến trần gian. Và trên thập giá, Người đã hoàn tất lề luật, hoàn tất
bỗn phận: "Mọi sự đã hoàn tất."
Chính Đấng Thiên Sai
cũng là người khắt khe với chính mình: là người chăn chiên, Người hiến dâng
mạng sống vì đàn chiên; là người trổng nho, Người dành mọi nôỵ lực cho vườn
nho.
Như thế, Đức Giêsu có
quyền để nói với chúng ta là những người tôi tớ của Thiên Chúa. Chúng ta phải
thể hiện trọn vẹn ơn gọi của mình, phải thi hành đầy đủ, đúng đắn những lời của
Thiên Chúa đã đặt nơi chúng ta. Chúng ta phải đem hết cả năng lực đã được Thiên
Chúa trao ban, để hoạ theo hình ảnh của Đấng đã gọi và chọn chúng ta. Có người
cho rằng lời mời gọi vượt qua và đạt tới sự thánh thiện này không phải là đặc
trưng của Ki-tô giáo. Thế nhưng, nên nhớ cho rằng, Tin Mừng có tính cách tuyệt
đối và một hình ảnh độc đáo là Đức Giêsu Ki-tô, mà không đâu có được.
Như thế, trong cách
diễn tả của Đức Giêsu, chúng ta là những người thợ, những người bị giới hạn vì
thời gian, vì không đủ khéo léo, và cũng có thể vì chất liệu kém. Kiêu căng,
tức là không nhận ra giới hạn của mình, và điều ấy làm chúng ta thành dị dạng,
bị méo mó. Chúng ta cần nhớ thân phận của mình như Đức Giêsu nhắc nhở: những
đầy tớ vô dụng, tầm thường. "Các con không thể làm cho mình cao hơn một
tấc được", và Người cũng thêm: "Cha trên trời biết rõ các con cần
gì", "Người sẽ trả lại cho các con gấp trăm."
Khi đưa ra dụ ngôn để
dạy bảo con người, Đức Giêsu đã thực hiện nơi chính mình. "Tôi đến không
phải để được hầu hạ, nhưng để phục vụ mọi người." Chính điều đó đã đưa
Người tới vinh quang, tới sự phục sinh. Đó là kết thúc của con người đã "làm
việc bỗn phận".
Vậy, tin không phải là
gì khác hơn là tín trung với bỗn phận của mình. Nhờ tín trung và khiêm tốn, mọi
sự đều trở thành có thể.
* * *
Lạy Thiên Chúa là Cha
giàu lòng nhân ái, xin ban cho con luôn khát khao điều làm vui lòng Cha.
Xin ban cho con một
tâm hồn thức tỉnh để không một tư tưởng hão huyền nào kéo con xa Cha.
Xin ban cho con tâm
hồn tự do mà không một đam mê mãnh liệt nào có thể lấn át được. ... (theo thánh Tô-ma
A-qui-nô).