SUY
NIỆM LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 26 TN C
MỤC LỤC
Đầu tư nhờ chia sẻ yêu thương Lm Giuse Đinh tất Quý
Ông Schweitzer và người nghèo Cha Mark Link, S.J.
1.
Tiền
Nghe qua dụ ngôn ông phú hộ giàu có và
Ladarô nghèo đói chúng ta dễ có cảm tưởng rằng hễ sung sướng ở đời này thì sẽ
bất hạnh ở đời sau và ngược lại nếu khổ đau ở đời này thì sẽ hạnh phúc ở đời
sau. Nhưng thực ra giáo huấn của Chúa Giêsu không phải là như vậy, bởi lẽ sang
giàu không phải là một tội và đói khổ chưa hẳn là một bảo đảm đưa tới ân
thưởng. Điều chúng ta cần lưu ý ở đây chính là sự cách biệt và phải khổ sở của
người giàu có mà bất nhân trong dụ ngôn Chúa Giêsu đã đưa ra.
Ngài không nói tới việc nhờ đâu mà ông
ta được giàu có nghĩa là không cần xét tới tính liêm chính của những điều kiện
sung túc ông ta có được. Thái độ đáng trách của ông ta chính là lối sống xa
cách đối với người nghèo đói bên cạnh mình. Ông ta quên rằng những của cải và
tự do của ông ta luôn hàm chứa trách nhiệm đối với những người chung quanh. Và
nó cũng là phương tiện giúp ông ta kiến tạo tình liên đới làm nên hạnh phúc thiên
đàng. Ông ta tưởng đâu mình có thể sống hạnh phúc được mãi trong ích kỷ, trong
tháp ngà của riêng mình. Và vì vậy chẳng cần gì phải quan tâm xây dựng mối liên
hệ với người khác. Nào ngờ đâu, sự chết đến. Nó buộc ông ta phải bỏ lại sau
lưng tất cả những điều kiệnđiều kiện sang giàu với những yến tiệc linh đình
hằng ngày. Lúc ấy ông ta hoảng sợ vì thấy mình quá xa cách đối với người khác.
Và sự xa cách đó đã khiến tông ta chới với, bất hạnh. Vực thẳm ngăn cách quá
sâu rộng mà chính ông ta tạo nên do những vô tâm và ích kỷ khi còn sống, giờ đã
làm cho ông ta vô phương vượt qua. Ước mong cậy nhờ kẻ mình đã khinh rẻ, bỏ rơi
thật trơ trẽn làm sao. Mà cũng chẳng được nữa, dù là một giọt nước. Lời đáp của
Abraham thật thấm thía. Nếu khi còn sống ông ta đã biết quan tâm chia sẻ những
phúc lộc mình được hưởng cho Ladarô nghèo khó và cho những người chung quanh
thì chắc chắn ông ta đã không phải đơn độc trong đau khổ nơi thế giới bên kia.
Theo một số nhà chú giải thì câu chuyện
được kể trong dụ ngôn không hẳn là do Chúa Giêsu sáng tác, mà là một câu chuyện
đã trở nên quen thuộc đối với quần chúng thời bấy giờ. Tựu chung bài học của dụ
ngôn này vẫn còn mang tính thời sự đối với chúng ta hôm nay. Chung quanh chúng
ta hiện giờ không thiếu những Ladarô nghèo túng. Có thể chúng ta không phải là
những phú hộ với những khả năng, lắm của cải nhiều bạc tiền, nhưng chắc chắn
bao giờ chúng ta cũng có một cái gì để chia sẻ. Và không thiếu cách để chúng ta
ngày càng trở nên gần gũi và thân thiết đối với những người chung quanh là hiện
thân của Chúa. Ước gì mỗi bước đường đời chúng ta đi là một bước tiến đến gần
Chúa và gần nhau hơn trong yêu thương và hạnh phúc.
2.
Tiền
Cách đây mấy năm, một nguyệt san xuất
bản tại Luân Đôn có yêu cầu độc giả đưa ra một định nghĩa về tiền bạc và cho
biết độc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ được trọng thưởng. Toà soạn
đã nhận được hàng ngàn câu định nghĩa khác nhau và đây là câu định nghĩa đã
trúng giải nhất: Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với nó chúng ta có thể
đi bất cứ nơi đâu trên thế giới này ngoại trừ lên thiên đàng là không được. Với
nó, chúng ta có thể mua sắm mọi sự, trừ hạnh phúc là không thể được.
Thật là một câu định nghĩa chí lý, nó
diễn tả một sự thật mà chúng ta thường quên, hay biết mà giả điếc làm ngơ không
muốn nghĩ tới và cũng không muốn nghe nói tới. Nó cũng giúp giải thích lý do
tại sao người giàu tiền bạc và của cải vật chất lại khó được ơn cứu độ hay
thường đánh mất đi ơn cứu độ của mình.
Từ câu định nghĩa trên, chúng ta đi vào
đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Ladarô không phải vì nghèo mà được
vào thiên đàng, còn ông phú hộ không phải vì giàu mà bị sa hoả ngục. Đúng thế,
Ladarô được hạnh phúc chắc hẳn là vì anh đã không oán trách và mất đi niềm tin
của mình vào Thiên Chúa, dù phải sống trong cảnh khốn cùng. Còn ông phú hộ đã
đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã sống ích kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và ăn
chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn thấy hay giả bộ không nhìn thấy để khỏi
phải trợ giúp cho Ladarô.
Và như thế tư tưởng và đường lối của
Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tư tưởng và đường lối của người đời, bởi vì
người đời coi danh vọng, tiền bạc và thành công là bảo đảm của ơn cứu độ để rồi
không cần và không trông đợi gì nơi Thiên Chúa nữa. Trong khi đó, đối với Thiên
Chúa thì chỉ có người nghèo, người biết sống theo quan niệm của Ngài, người có
được cái nhìn của Ngài mới là những cộng sự viên cần thiết mà thôi. Chỉ có
người biết sống theo tình thần nghèo khó, nghĩa là luôn ý thức những hạn hép và
bất toàn của mình, không tự cứu rỗi được, nên phải mở rộng cõi lòng đón nhận ơn
Chúa, cậy dựa vào lòng thương xót của Ngài là được cứu rỗi.
Và trong ý nghĩa đó, người có nhiều tiền
của cũng có thể là người nghèo và được cứu độ vì đã biết sống theo tinh thần
của Chúa, liêm chính trong công ăn việc làm, quảng đại chia sẻ tiền bạc vật
chất cũng như tinh thần cho anh em. Đồng thời kẻ không có một đồng xu dính túi
cũng vẫn có thể là người giàu vì tâm hồn bất chính, ích kỷ và kiêu căng, cậy
dựa vào sức riêng của mình không cần đến Chúa và ơn thánh của Ngài. Bởi đó hãy
hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút hiện tại mới thực là quan trọng, nó
chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể sống như chúng ta muốn và xây dựng
cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện nhất, vì ngày mai phải được bắt đầu từ
ngày hôm nay.
3.
Tiền bạc
Tại sao ông phú hộ lại bị trầm luân
trong hoả ngục?
Câu trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy
vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên nhung lụa, ăn sang mặc
quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng,
luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút của bố thí dư thừa.
Xem thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng
như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được phép sử dụng trước
hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm giá con người, cho
chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng ngoài mục đích đó ra
chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người chung quanh, nhất
là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận.
Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những hành động bác ái yêu thương
này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta thương giúp người khác là chúng
ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố thì là chúng ta hành
động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho tàng ở đời sau.
Để giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin
kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện này, là hãy biết dùng tiền bạc
vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp đỡ chúng ta bước vào
quê trời:
Ông chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng
hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm
chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em
lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không được đem trái nào đi.
Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các túi và hài lòng vì không thấy một
trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo
hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái gì đó. Đoán được cái mẹo
vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em đành phải thú nhận
rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ lượm và đem về cho
em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép hai em được mang
những quả chôm chôm ấy đi.
Hai em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông
chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta đang sống. Những
trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng hạn như tiền bạc,
cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem theo khi giã từ
cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để ném vào đời sau
những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết chia sẻ phần tiền bạc vật
chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người túng thiếu...
Điều này Chúa không cấm mà còn khuyến
khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta
đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần,
các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm… Nếu
hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng là những người con cái Chúa
và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác
chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống mai sau.
4.
Liên đới – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Toàn cầu hóa đã giúp nhân loại phát
triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh
mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người
chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng
lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được
trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là
một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân
loại đang đi vào con đường Phúc Âm.
Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần
nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều là anh em với nhau. Phải
liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó.
Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu
có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền
của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có
đâu phải là tội?”.
Vâng, giàu có đâu phải là một tội. Tuần
trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền bạc khi dạy ta hãy
dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc,
nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không biết sử dụng, sẽ trở
thành nguy cơ.
Nguy cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê
hoặc tâm hồn.
Khi đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây
trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột, không cất cánh bay
cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh
đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh muốn vươn lên, muốn
tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản bước tiến của anh. Chúa
Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc
quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa cũ.
Nguy cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho
trái tim thành xơ cứng, chai đá.
Người có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình
trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu sẽ không cần tới ai khác
và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà
giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa
là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng thụ, ông không có thời giờ
nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy.
Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến
trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô cảm trước những đau khổ của tha
nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ
nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi
Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu
thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.
Nguy cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn
tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.
Hạnh phúc trên Nước Trời là một cuộc
sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là
một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh được tất cả. Những
người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không thể tham dự vào sự
sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn con đường xuống hỏa
ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là người tự đào huyệt
chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục xuất mình ra khỏi
Nước Trời.
Bây giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông
nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ
có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông
đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu
thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được
Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông
nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần Ladarô cho mình một
giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế gian, khi chết rồi
sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết:
Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với người khác. Người ta không
phải là những đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh
chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên đới là không thể thiếu được.
Do đó cần phải quan tâm đến những người chung quanh mình. Sự quan tâm này không
phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng ngày. Phải rèn luyện một trái
tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh. Phải rèn luyện một trái
tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt con để con nhìn
thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở tai con để con nghe
được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để con biết chia sẻ
với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tôi có quan tâm đến những người sống
chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?
2) Đời sống tôi cần đến người khác cả về
phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3) Một đời sống quá đầy đủ có thể là
nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để tránh rơi vào nguy cơ
này?
4) Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa
ngục?
5.
Quy luật của sự sống
– Lm. Ignatiô Trần Ngà
Tội của lão phú hộ là tội gì? Xem ra,
lão chẳng làm gì nên tội. Lão chẳng trộm cắp, cướp giật của ai; lão chẳng đánh
đập hay chửi mắng La-da-rô…
Vậy tại sao lão lại sa vào chốn cực
hình? Hay là vì lão quá giàu? Giàu đâu phải là tội!
Thật ra, lão phú hộ phải sa hoả ngục
không phải vì lão giàu có, không phải vì lão đánh đập hay chửi mắng La-da-rô,
mà chỉ vì lão là người vô cảm và ích kỷ, chỉ chăm lo bản thân mình mà không
quan tâm đến người khác, chỉ biết thu tích cho riêng mình mà không biết chia
sớt cho tha nhân. Tội của lão là tội ích kỷ và chính sự ích kỷ nầy là nguyên
nhân khiến lão phải chịu đau thương khốn đốn trong chốn cực hình.
Quy luật của sự sống là có nhận có trao.
Ngừng nhận và ngừng trao thì phải chết. Quy luật sống trong xã hội là mình sống
cho mọi người và mọi người sống cho mình. Nếu ai đi ra ngoài quy luật đó là tự
hại mình và chuốc lấy cái chết.
Trước hết, ta thử xem quy luật nầy được
áp dụng trong phạm vi nhỏ là cơ thể. Để duy trì sự sống cho thân thể, tất cả
mọi thành phần trong thân mình đều phải vận hành theo quy luật nhận và trao.
Quả tim sau khi đã nhận được máu thì
liền bơm máu cho khắp châu thân, nhờ đó toàn thân được sống và lớn mạnh. Nếu có
ngày nào quả tim tỏ ra “ích kỷ”, không chuyển máu nuôi toàn thân mà chỉ giữ lại
cho riêng mình, thì đó là ngày tận cùng của nó và cũng là ngày hấp hối của toàn
thân.
Hai lá phổi của chúng ta cũng thế. Phổi
liên tục tiếp nhận dưỡng khí và liên tục trao ban. Ngày nào phổi “tham lam” cứ
giữ khư khư số lượng dưỡng khí đã nhận được mà không chịu phát ban, đó là ngày
tận số.
Nói chung, các cơ quan trong cơ thể muốn
tồn tại và phát triển thì chúng phải tuân theo quy luật của sự sống là biết
nhận và biết trao.
Trên bình diện rộng lớn hơn, mỗi cá nhân
là một thành phần trong một thân thể lớn lao là nhân loại. Vì thế, nếu mỗi
chúng ta không trao ban chia sớt những gì mình nhận được cho cộng đồng xã hội,
thì số phận chúng ta như số phận của “quả tim ích kỷ”, của “lá phổi tham lam”
đề cập trên đây. Có nhận, có trao là sống. Ngừng nhận, ngừng trao là chết.
Lão phú hộ trong Tin Mừng hôm nay chưa
hiểu được lẽ đời, chưa hiểu được quy luật của sự sống là nhận và trao, nên lão
chỉ biết nhận, biết tận hưởng một cách ích kỷ mà không biết sớt chia cho chàng
La-da-rô khốn khổ bần cùng, do đó sau nầy lão phải lâm vào cảnh đau thương khốn
đốn.
Trong cuộc đời nầy, chúng ta đã nhận
được rất nhiều thứ do người khác cống hiến cho mình từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở,
xe đi, và rất nhiều sản phẩm, dịch vụ khác… Ngoài ra lại còn được đón nhận vô
vàn ân huệ Thiên Chúa tuôn ban trong suốt cuộc đời… thì đến lượt mình, chúng ta
cũng phải cống hiến, phải biết trao ban cho người khác. Có vay phải có trả, có
nhận thì phải có trao. Người khác đã phục vụ mình thì mình cũng phải biết phục
vụ người khác.
Không phải chờ đến khi trở thành tỷ phú
hay trở nên giàu có như lão phú hộ trên đây, ta mới tính đến chuyện chia sớt
của cải mình cho người khác; nhưng ngay hôm nay, chúng ta vẫn có bổn phận cống
hiến cho người khác những ân huệ Chúa ban cho mình, như dùng thời gian, công
sức, tài năng Chúa ban để phục vụ những người chung quanh, để góp công xây dựng
xóm làng.
Nếu chúng ta chỉ khư khư giữ lấy những
ân huệ ấy cho riêng mình mà không biết cống hiến chia sẻ cho nhau, thì có khác
gì quả tim không bơm máu, khác gì buồng phổi không chuyển trao dưỡng khí, hay
dạ dày không cung cấp dinh dưỡng… Làm như thế là chúng ta cũng đang đi vào vết
xe của lão phú hộ, và chắc chắn mai sau sẽ cùng chịu chung số phận với lão mà
thôi.
Lạy Chúa Thánh Thần,
Xin Chúa khai mở lòng trí để chúng con
hiểu được sự thật lớn lao là mỗi người là một chi thể trong thân thể lớn lao là
nhân loại; vì thế, mọi người đều liên đới mật thiết với nhau như những cơ quan
trong cùng một thân mình. Sự thật nầy sẽ giải thoát con người khỏi nếp sống ích
kỷ, vô cảm vô tâm, nhưng sẽ thôi thúc mỗi người biết sống cho người khác, biết
quan tâm xây dựng phúc lợi cộng đồng. Amen.
6.
Cho thì có phúc – Lm Giuse Tạ Duy
Tuyền
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc
đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ ruộng, bên cạnh đó, một người tá
điền đang cày ruộng cho cha cậu. Người tá điền cởi đôi ủng để trên bờ ruộng,
cậu bé tinh nghịch muốn dấu đôi ủng ấy để chọc giận người nông dân, nhưng người
giám hộ nói với cậu rằng: "Con chớ làm cho người tá điền nghèo khổ này
buồn phiền, hãy làm cho ông ta vui lên thì tốt hơn. Ta khuyên con hãy bỏ tiền
vào mỗi chiếc ủng, chúng ta sẽ núp ở đằng sau, và xem thử ông ta sẽ làm
gì?"
Cậu bé đã làm như lời dạy của thầy mình.
Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi
chiếc một đồng bạc.
Một lát sau, người nông dân đã trở lại
với đôi ủng của mình. Vừa khám phá ra tiền trong đó ông đã vội qùy xuống và
ngước mắt lên trời để cảm tạ Chúa đã cứu giúp ông trong lúc túng cực. Ông cũng
xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh.
Nhìn được tất cả những gì người nông dân
đã cầu nguyện, cậu bé cảm động muốn khóc. Đó là ngày đầu tiên cậu cảm thấy hạnh
phúc nhất đời mình.
Vâng, có ai đó nói rằng: "Cho
thì có phúc hơn nhận lãnh". Phúc đức được tích luỹ nhờ trao
ban. Trao ban càng nhiều, phúc đức càng dầy. Thế nên, người có phúc là người
biết cho đi. Người có phúc là người giầu lòng quảng đại, biết chia sẻ cho người
cùng khốn. Cậu bé con nhà quyền quý một lần biết cho đi, cậu mới hiểu được đâu
là hạnh phúc của sự trao ban. Cậu đang ở thế giới của những kẻ quyền qúy, những
kẻ sống trong nhung lụa nên cậu đâu hiểu được cái khổ đau của cuộc đời "bán
lưng cho trời" nơi giai cấp nông dân nghèo hèn. Cậu càng không cảm nghiệm
được niềm vui khi kiếm được một đồng tiền ít ỏi do công khó mình làm ra. Có lẽ,
lần đầu tiên cậu chiêm ngưỡng khuôn mặt rạng ngời của người nông dân khi nhận
được đồng tiền bố thí. Lần đâu tiên cậu mới hiểu được giá trị của sự trao ban.
Có trao ban mới có hạnh phúc. Có trao ban mới tích lũy được phúc đức cho đời
này và đời sau. Và như thế, cuộc đời vô phúc là cuộc đời không có sự trao ban.
Kẻ vô phúc thường ích kỷ tham lam. Kẻ vô phúc chỉ biết nghĩ cho mình và sống
cho mình. Kẻ vô phúc không có cơ hội nhận lãnh niềm vui của sự trao ban. Kẻ vô
phúc sống không có hậu, vì không biết tích lũy phúc đức cho cuộc đời bằng hành
vi bác ái yêu thương.
Bài Phúc âm hôm nay nói về hai cảnh đời
khác nhau. Người phú hộ và anh Lagiaro nghèo khó. Người phú hộ hạnh phúc đời
này nhưng bất hạnh đời sau. Lagiaro nghèo khó thì ngược lại, anh phải chịu biết
bao cay đắng trong cuộc đời ô trọc thiếu vắng tình người này, nhưng anh lại
được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Cuộc đời của họ tuy cùng chung một thời gian
và không gian, nhưng xem ra họ lại qúa cách biệt với nhau. Kẻ ăn không hết,
người tìm không ra. Người sống trong nhung lụa, kẻ đói rách bần cùng. Bài phúc
âm không đả phá về sự giầu sang, và cũng không khuyến khích sống nghèo đói. Bài
Phúc âm chỉ nói đến trách nhiệm liên đới với anh em. Giầu có không phải là tội.
Cái tội của người phú hộ là dửng dưng với mảnh đời bất hạnh của đồng loại. Phúc
âm không nói đến việc ông xua đuổi người nghèo khó trước cửa nhà ông, nhưng
chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ với thái độ bàng quang lạnh lùng.
Người nghèo đói nằm ở trước cửa nhà ông, nhưng ông đã làm lơ khi đi ra đi vào.
Ông đã không áy láy lương tâm và cũng không một chút chạnh lòng thương đối với
bất hạnh của tha nhân. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện
diện của Lazarô. Một sự mù quáng đến thiếu trách nhiệm liên đới với tha nhân.
Ông có nhiều cơ hội để làm việc lành phúc đức, thế mà ông đã bỏ lỡ cơ hội mua
lấy phúc đức đời sau.
Song le, Lagiarô không phải vì nghèo mà
lên thiên đàng, điều quan yếu là anh không thất vọng về cuộc đời. Anh không oán
trời oán đất. Anh vẫn bình thản với cuộc sống vốn dĩ đầy khó khăn đối với anh.
Cho dù anh đã bị đẩy xuống đến tột cùng, làm bạn với những con chó, anh cũng
vui lòng chấp nhận thân phận mình. Chính vì thái độ chấp nhận đó mà anh đã được
đền bù xứng đáng, anh được giải thoát khỏi khổ đau đời này và an hưởng hạnh
phúc đời đời trong hạnh phúc thiên đàng.
Người xưa có câu: "Phú nhân bất
nhân - Bần bất nghĩa". Giầu có hay khinh người, và nghèo khó thiếu tử tế.
Xem ra giầu nghèo đều khó mà vào nước thiên đàng nếu không biết vượt qua những
trở ngại trong phận số đời mình. Vì thế mà cha ông ta đã từng khuyên con cháu
mình "đói cho sạch rách cho thơm", và "không ai giầu có ba
đời", thế nên cần phải biết sống có đức, để đề phòng khi sa cơ thất thế
vẫn còn có nhiều người hỗ trợ và giúp đỡ mình.
Là người kytô hữu phải biết thể hiện đức
ái trong đời sống hằng ngày của mình. Dù giầu hay nghèo mỗi người đều phải biết
sống vì người khác, và cho người khác. Dù sang hay hèn vẫn phải toả lan đức ái
trong cuộc sống của mình. Đức ái mà như thánh Phaolô tông đồ đã nói: "Đức
ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc.
Đức ái tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả". Đức ái sẽ giúp
chúng ta sống tốt với anh em và đảm bảo cho hạnh phúc Nước Trời mai sau. Đức ái
sẽ là nhịp cầu để ta đến với tha nhân và tiến vào bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu mai
sau. Và như thế, ở đời sau, Chúa sẽ thưởng phạt chúng ta tùy theo mức độ thể
hiện đức ái trong cuộc đời hôm nay. Amen.
7.
Khi con người bạc tình
(Suy niệm của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Thời gian vừa qua, một vụ kiện khiến dư
luận vô cùng phẫn nộ là việc cụ Nguyễn Thi Th. (SN 1922, ở Tam Đảo, Vĩnh Phúc) bị
chính người con trai cả đòi công nuôi dưỡng trong những ngày cụ ở nhà anh ta.
Cụ Th. từ khi chồng mất vào năm 1997 đã
về sống cùng với người con trai cả là Đỗ Xuân Thuận. "Nói là ở cùng vậy
nhưng tôi vẫn ăn riêng với gia đình con. Mọi việc trong sinh hoạt cá nhân, tôi
đều tự làm lấy cả", cụ Th. nói.
Đến một ngày năm 2005, trong nhà xảy ra
mâu thuẫn, bức xúc, ông Thuận quay sang cạn tình, cạn nghĩa làm đơn kiện cụ Th.
ra tòa và đòi công nuôi dưỡng trong những ngày cụ Th. sống cùng với vợ chồng
ông.
Tổng số tiền này là hơn 146 triệu đồng.
Ông còn đòi tiền công trông nom nhà cửa, vườn tược của cha mẹ và bộ đỉnh đồng
trị giá 4 triệu đồng mà cụ Th. đang dùng thờ cúng chồng và con trai út đã hy
sinh.
Tuy nhiên, hành động bất hiếu đó của ông
Thuận đã bị cả hai cấp xét xử huyện Tam Đảo bác đơn và bị dư luận lên án.
Có phải vì nghèo đói mà con người thành
ra bỉ ổi đánh mất tình người? Có phải vì tiền mà con người trở thành kẻ ti tiện
tiểu nhân? Có lẽ cái nghèo hay giầu sang không phải là nguyên nhân gây nên khổ
đau mà tất cả đều bắt đầu từ khi tình người đã mất. Vì khi tình người đã cạn
thì họ dễ dàng vô cảm và vô tâm với nhau. Đây là thảm kịch không chỉ xảy ra cho
gia đình bà cụ Th ở Tam Đảo mà dường như cho rất nhiều gia đình quanh chúng ta.
Có biết bao gia đình cạn tình nên cũng
cạn nghĩa với nhau, vợ chồng bỏ nhau, con cái ly tán. Có biết bao người đã vô
cảm trước nỗi thống khổ của các thành viên trong gia đình nên vẫn vô tâm chơi
bời, nghiện ngập, lười biếng thiếu trách nhiệm với gia đình. Có biết bao phận người
vẫn cô đơn thất vọng ngay trong mái nhà của mình. Họ bị bỏ rơi, bị khinh khi
ngay giữa những người thân của mình.
Có một bà mẹ đã tâm sự với tôi: cha biết
không, chỉ vì nghèo đói mà con cái chẳng đứa nào về thăm bao giờ! Có một người
chồng bại liệt đã than: con nằm đây như là một cái gai trong mắt vợ con, chẳng
ai muốn chăm sóc con.
Ky-tô giáo là đạo của yêu thương. Người
ky-tô hữu không thể vô cảm và càng không bao giờ được phép vô tâm trước nỗi
thống khổ của tha nhân. Giầu sang – nghèo khó không quan trọng, điều quan yếu
là biết sống tình liên đới sum họp với nhau. Đừng vì giầu có mà bỏ rơi đồng
loại, và cũng đừng vì nghèo khó mà sống hèn hạ với tha nhân.
Thời Chúa Giê-su, có lẽ cũng không thiếu
những loại người vô cảm trước nỗi thống khổ của tha nhân. Họ vô cảm đến nhẫn
tâm bước qua một phận người lây lấy trên đường từ Giê-ru-sa-lem tới Giê-ri-cô.
Họ có “rất nhiều của cải” nhưng lại không dám “bán những gì (họ) có mà
cho người nghèo”. Sự vô cảm đó còn len lỏi đến cả những môn đệ của Chúa khi họ xin
Chúa giải tán đám đông để tự đi mua thức ăn.
Có lẽ để đánh thức sự vô cảm nơi con
người thời đại của mình, Chúa Giê-su đã dạy cho họ một bài học qua dụ ngôn:
“ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó” .Ông nhà giàu và anh Lazaro nghèo khó
tuy “rất gần mà lại xa”! Họ rất gần nhau, gần đến nỗi chỉ cách “một cái cổng
nhà”, thế nhưng lại rất xa, xa bởi chính “sự-vô-cảm” nơi ông nhà giầu.
Sự vô cảm đến độ hằng ngày ông vẫn ăn
mặc lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình và để mặc cho anh Lazaro nghèo khó: “mụn
nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà của ông” sống lây lất từng ngày.
Thế nhưng, cuối câu chuyện là một sự đảo
ngược lạ thường. Ông nhà giàu lại là kẻ mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau
khổ của ông ta ! Trước kia Lazaro “thèm những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống
mà ăn cho no”… Thì hôm nay ông “thèm” được Lazaro: “nhúng đầu ngón tay vào
nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát, vì ở đây ông bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”
Như vậy, sự giầu có không là tội mà sự
vô cảm mới chính là nguyên do dẫn ông nhà giầu chịu cảnh đau khổ ở đời sau. Ông
đã bỏ rơi đồng loại trong khi ông có khả năng giúp đỡ họ. Ông đã phớt lờ những
mảnh đời bất hạnh bên cạnh sự giầu có xa xỉ của ông. Hậu quả là ông cũng bị mọi
người lương thiện nhân ái bỏ rơi ông trước cửa Nước Trời.
Thiên Chúa tạo dựng con người có một
trái tim để yêu thương, để cảm nhận nỗi thống khổ của tha nhân mà chạnh lòng
thương xót. Đừng vô cảm trước phận đời bất hạnh. Đừng bàng quan trước nỗi đau
của anh em. Ngày phán xét Chúa sẽ không hỏi chúng ta giầu có hay nghèo đói.
Chúa cũng không hỏi chúng ta chức tước địa vị gì, mà Chúa sẽ hỏi về tình yêu
liên đới của chúng ta với tha nhân. Chúng ta có bác ái với tha nhân hay không?
Chúng ta có quá vô cảm đến vô tâm với anh em không?
Nguyện xin Chúa Giêsu luôn chạnh lòng
thương xót mọi phận người, xin giúp chúng con luôn biết sống chia sẻ với những
anh em nghèo khó. Xin đừng để chúng con vô cảm mà bàng quan trước những phận
người khổ đau. Amen.
8.
Chia sẻ – Lm. Giuse Trần
Việt Hùng.
Truyện kể: Nhà Vua kia không có con nối
dòng, đã niêm yết mời những bạn trẻ điền đơn dự xét để được nhận làm con nuôi
trong hoàng tộc. Hai phẩm chất cần có là mến Chúa và yêu tha nhân. Có một cậu
bé nhà nghèo muốn điền đơn, nhưng cậu không có thể, vì cậu ăn mặc rách rưới
nghèo nàn. Được tin, cậu đã cố gắng làm việc chăm chỉ kiếm tiền mua bộ đồ mới
và vội vã lên đường tìm dịp may để được nhận nuôi trong gia đình của vua. Tuy
nhiên, đi dọc đường, khi gặp một người nghèo bên vệ đường đang chết lạnh. Anh
bạn trẻ tỏ lòng cảm thương và tráo đổi bộ quần áo cho lão ăn xin. Thật khó khăn
cho anh bạn trẻ này để được diện kiến nhà vua, vì bây giờ anh chỉ có bộ quần áo
rách tả tơi. Vì đã đi được quãng xa, anh nghĩ phải cố gắng hoàn thành được hành
trình. Khi anh tới dinh thự của nhà Vua, mặc dầu bị khinh rẻ và cười chê bởi
các cận thần của vua. Cuối cùng anh được diện kiến Vua. Anh thật ngạc nhiên
thấy vua chính là người ăn xin bên vệ đường và đang mặc bộ quần áo mà anh đã
tặng cho ông. Nhà Vua bước xuống khỏi ngai vàng, ôm lấy anh bạn trẻ và nói:
Chào đón, hỡi con của ta.
Sự giầu sang phú túc là ân phúc Chúa
ban. Người sang giầu hay nghèo hèn cũng chẳng khác gì nhau về sứ mệnh. Người
giầu có nỗi khổ của người giầu, kẻ nghèo có nỗi đau của kẻ nghèo. Cách thế tìm
kiếm và sử dụng của cải đời này mới là điều quan trọng. Người đời thường chúc
nhau làm ăn được phát tài phát đạt, của cải đầy dư, an cư lạc nghiệp và gia
đình hạnh phúc. Của cải sinh lợi là dấu hiệu được chúc phúc. Giầu có không phải
là cái tội, cái tội do tâm ý con người. Tiên tri Amos đã lên tiếng cảnh cáo
những người giầu sang phú quí tự kiêu đã hoang phí tài sản: Đây Chúa toàn năng
phán: "Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quý ở Sion và tự kiêu trên núi
Samaria”(Am 6, 1a). Những người giầu có hay lạm dụng quyền thế để chèn ép những
người bé nhỏ thấp kém. Chúng ta nhận biết Thiên Chúa luôn đứng về phía những
người nghèo bị đối xử bất công.
Người giầu được hưởng thụ mọi sự sung
sướng trên đời. Một số người giầu còn dung dưỡng xác thịt thỏa mãn mọi nhu cầu
đòi hỏi của bản năng. Họ được hưởng nếm mọi của ngon vật lạ. Sự thụ hưởng qúa
độ sẽ làm cho thân xác ươn lười, tinh thần yếu đuối và con người hư hỏng. Amos
vạch trần những thói đời xa hoa: Các ngươi đã nằm ngủ trên giường ngà, mê đắm
trên ghế dài: ăn chiên con trong đoàn và bê béo trong đàn (Am 6, 4). Chúng ta
biết rằng không phải ăn nhiều, uống nhiều và hưởng thụ nhiều là hạnh phúc. Bất
cứ cái gì cũng có cái giá phải trả. Ăn nhiều sẽ béo phì, uống quá độ sẽ xay sưa
và hưởng thụ nhiều sẽ gây bệnh hoạn yếu liệt. Thật vậy, chẳng béo bở gì khi
ngày nào cũng có yến tiệc linh đình. Tuy nhiên, đôi khi chúng ta cũng cần có
những bữa tiệc vui, những món ngon và rượu nồng để vui thỏa lòng người.
Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn ông Phú hộ
giầu có và người hành khất Ladarô nghèo đói để giúp chúng ta suy nghĩ về cách
đối xử với đồng loại. Ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, còn Ladarô bệnh
hoạn đói khổ ngồi cạnh cổng và chẳng ai đoái hoài. Một người thì sung sướng,
tiệc tùng vui vẻ và hưởng phước cuộc đời. Một người cô thân cô thế, không nơi
cậy dựa và chịu thiệt thòi khổ đau. Khi mãn cuộc đời dương thế, mỗi người đi
theo một hướng. Kẻ được chúc phúc, người bị luận phạt. Vậy cuộc sống của người
giầu và người nghèo có liên đới với nhau. Không ai có thể nói rằng tôi chỉ có
nhiệm vụ lo cho chính tôi và người hàng xóm thì mặc kệ họ. Không phải thế,
chúng ta sống là sống cùng, sống với và sống hỗ tương nhau. Cùng giúp nhau hoàn
thành sứ mệnh của đời người.
Nhìn xem gương của người phú hộ, dụ ngôn
không nói về cách thế làm giầu của ông. Cũng không nói ông phạm tội ức hiếp,
khinh bỉ người nghèo hay làm thiệt hại ai điều gì. Ông xây tường cao vui hưởng
cuộc sống trong sang giầu cho riêng mình. Có một điều là ông thiếu trách nhiệm
với người hàng xóm. Mắt ông không nhìn thấy được sự khổ đau của người khác. Tâm
ông không cảm được nỗi cô đơn sầu khổ của người bên cạnh. Ông đã không đoái
hoài đến số phận đen đủi hẩm hiu của tha nhân. Kết qủa của cuộc đời, khi phải
đối diện với sư thật: Abraham nói lại: 'Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự
lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn
này, còn con thì chịu khốn khổ (Lc 16, 25). Phần thưởng không nằm ở sự giầu
sang hay nghèo hèn, mà là thái độ đối với tiền của và trái tim biết cảm thông
chia sẻ với tha nhân.
Sự giầu có tiền bạc của cải có thể làm
chúng ta bị mù lòa. Khi giầu có, chúng ta dễ quên mất sự nghèo khổ. Khi chúng
ta đi ngang qua người ăn xin, tại sao chúng ta thường ngó sang hướng khác? Có
lẽ vì chúng ta sợ tiếng nói của lương tâm làm phiền. Chúng ta giả vờ như không
nhìn thấy họ. Thường thì người nghèo không van xin, nhưng họ có đôi mắt với cái
nhìn rất tha thiết. Có khi người ăn xin giơ tay van nài và chúng ta phải rất
tôn trọng khi bố thí. Đừng quăng ném tiền cắc vào cóng long của người ăn xin
như là vất bỏ một vật gì. Thái độ cho đi quan trọng hơn qùa được cho. Có lần mẹ
Terêxa đã nói: Bệnh ghê tởm nhất của thế giới hôm nay là cảm thấy bị bỏ rơi và
sự dữ lớn nhất trong thế giới là thiếu vắng tình yêu và tỏ ra dửng dưng với
những nhu cầu cần thiếu của tha nhân.
Chúng ta không cần đợi người chết hiện
về để nói với chúng ta cách thế sống đạo. Lời Chúa dạy quá đủ để chúng ta học
hỏi và thi hành. Ông phú hộ xin Abraham cho người đã chết về loan tin. Abraham
đáp rằng: 'Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các ngài'. (Lc 16,
29). Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần rằng dù chỉ một bát nước, chúng
ta làm cho người nghèo vì danh Chúa, chúng ta sẽ không mất phần thưởng. Đôi khi
chúng ta dửng dưng và nghĩ rằng dụ ngôn Chúa nói là để dành cho những người
giầu sang phú quí. Còn chúng ta là những người nghèo, người lao động đầu tắt
mặt tối và còn đang hưởng tiền trợ cấp của chính phủ, lấy đâu ra mà giúp đỡ
người này người kia chứ. Biết rằng chúng ta không giầu có về tiền tài của cải,
chúng ta vẫn có cái để chia sẻ mà. Chúng ta có một trái tim đấy ắp tình thương.
Chia sẻ sự cảm thông, sự hiểu biết và tình người còn quan trọng hơn. Một nụ
cười, một lời nói nhẹ nhàng, một thái độ khoan dung và sự cảm mến cũng đủ nguôi
lòng người đang trong cơn sầu khổ.
Mang danh là Kitô hữu, chúng ta là mộn
đệ của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Hỡi người của Thiên Chúa,
hãy theo đuổi đức công chính, lòng đạo hạnh, đức tin, đức ái, đức nhẫn nại, đức
hiền lành (1Tm 6, 11). Các nhân đức là những bông hoa thơm hương tô điểm cho
đời sống đức tin. Các đức tính tốt làm cho đời sống đạo được trổ sinh hoa trái.
Đức ái là cao trọng vì đức ái sẽ mở cửa tâm hồn giúp chúng ta đến với tha nhân.
Tha nhân giúp chúng ta tiến tới trên con đường trọn lành. Không phải những
người giầu có đưa chúng ta tới cửa thiên đàng, nhưng nhờ chính những người bé
nhỏ, thấp kém, nghèo hèn và khổ đau. Họ là những ân nhân quí báu nhất của chúng
ta trong cuộc hành trần thế này.
Bước vào cuộc đua, chúng ta không thể bỏ
cuộc. Phải chiến đấu anh dũng cho đến cùng đường. Đừng khi nào nản chí về việc
bác ái giúp người. Bao lâu Thiên Chúa còn ban ân huệ cho chúng ta, bấy lâu
chúng ta còn có cơ hội chia sẻ khả năng, thời giờ và của cải của chúng ta với
người chung quanh. Người nghèo là hiện thân của Chúa Giêsu giữa dòng đời. Chúng
ta đừng khinh rể họ, vì họ đang được chia sẻ sự nghèo hèn thiếu thốn của Chúa
Kitô. Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Con hãy chiến đấu trong cuộc chiến đấu chính
nghĩa của đức tin. Hãy cố đoạt lấy sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi tới
và cũng vì đó, con đã mạnh dạn tuyên xưng đức tin trước mặt nhiều nhân chứng
(1Tm 6, 12).
Lạy Chúa, Chúa ban cho chúng con quá
nhiều hồng ân. Nhiều khi chúng con cứ khư khư giữ lại làm giầu cho chính mình
mà quên những nhu cầu cần thiết của anh chị em chung quanh. Xin cho con biết mở
mắt, mở tai và mở rộng tâm hồn để cùng chia sẻ niềm vui với mọi người.
9.
Người nghèo Thiên Chúa chọn
– An Phong
Tin mừng Chúa Nhật 26 Thường Niên C là
dụ ngôn về người giàu có và ông Lazarô nghèo khó. Tin mừng gồm hai phần: phần
thứ nhất nói về số phận của con người sau khi chết (c. 19-26); phần thứ hai là
cuộc đối thoại của Abraham và người giàu có. Trong phần thứ nhất, số phận của
người giàu có cả một đời được sung sướng "vận toàn gấm vóc lụa là, ngày
ngày yến tiệc linh đình", bên cạnh một Lazarô "mình đầy ghẻ
chốc" đã bị đảo lộn sau khi chết. "Trong hỏa ngục, phải chịu cực
hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đàng xa có Abraham và Lazarô trong lòng
ngài". Người giàu có ích kỷ là hình ảnh người không lắng nghe lời giáo
huấn của Thiên Chúa. Họ "lòng chai dạ đá", không quan tâm đến những
bất hạnh của người khác. Trong phần thứ hai, cuộc đối thoại cho thấy con người
phải tự nguyện và tự do để hoán cải, chứ không cần đến bất cứ một áp lực nào từ
bên ngoài. Hơn nữa, Thiên Chúa đã dự liệu những phương tiện cần thiết để con
người có thể hoán cải.
Dụ ngôn này không có ý an ủi những người
nghèo khó: "Anh em là những người nghèo ở đời này, hãy can đảm lên, một
ngày kia anh em sẽ được lên trời và anh em sẽ được đền bù những khốn khó đời
này như Lazarô". Thật vậy, bài Tin mừng hôm nay không chỉ khích lệ người
nghèo khổ hãy cam chịu nghèo khổ hiện tại để được hưởng hạnh phúc đời sau. Chỉ
vì lý do nghèo khó vật chất thôi vẫn chưa đủ, cần có nghèo khó tâm hồn
"phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó" (Mt 5).
Dụ ngôn này cũng không chỉ nói đến cuộc
sống bị đảo lộn sau cái chết của hai nhân vật chính: người giàu và người nghèo,
nhưng còn nói đến số phận của con người tùy thuộc vào cách sống, cách cư xử với
người khác ngay tại trần thế này. Đúng hơn, chỉ có một nhân vật chính là người
giàu. Người nghèo Lazarô đã chẳng nói một lời nào từ đầu đến cuối. Cuộc đối
thoại giữa Abraham và người giàu cho thấy số phận bi đát của người giàu, nếu họ
không chịu hoán cải. Hoán cải ở đây tức là quan tâm và giúp đỡ người nghèo.
Đóng cửa lòng mình lại trước những khốn khó của những người chung quanh là một
tội lớn. "Khi tôi nghèo, các anh đã không cho ăn, không cho quần áo mặc,
không thăm viếng, không giúp đỡ tôi" (Mt 25,41-46).
Hình ảnh Lazarô trong câu chuyện là một
hình ảnh đẹp. Ông là một người nghèo hoàn toàn. Ông cần người giàu giúp đỡ.
Nhưng, cũng cần phải nói thêm: người giàu cũng cần người nghèo "giúp
đỡ". Lazarô có thể "giúp đỡ" người giàu thoát khỏi tính ích kỷ
của mình. Mở rộng tấm lòng, có được một tình yêu vô vị lợi. Thật vậy, con người
"quên mình là lúc gặp lại bản thân" (thánh Phanxicô Assissi), cho đi
là nhận được. Con người được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là Tình
Yêu, Đấng đã tự hiến thân mình cho nhân loại. Thiên Chúa mời gọi con người hoàn
thành đời mình theo hình ảnh Thiên Chúa. Bao lâu con người còn ích kỷ, còn đóng
cửa lòng mình lại trước những người nghèo khổ, bấy lâu con người vẫn chỉ là một
nhân loại "thui chột", không theo hình ảnh Thiên Chúa.
Cho người nghèo khổ một chỗ đứng trong
cuộc đời chúng ta, quan tâm đến họ là một cách thế làm cho đời mình trở nên
"giàu có" trước mặt Thiên Chúa. "Mến Chúa yêu người" vẫn
mãi là luật vàng Kitô giáo.
Lạy Chúa,
Xin cho chúng con đầy lòng ưu ái,
đầy tình thương cảm đối với tha nhân,
khởi đầu với những người gần chúng con
nhất.
Xin dạy chúng con biết chia sẻ nỗi đau
khổ
của những người gặp buồn phiền,
biết đỡ gánh nặng của họ,
nhờ vậy mà chúng con được gần gũi với Chúa.
Lạy Chúa,
xin dạy chúng con biết nhìn thấy những
người đang đau khổ.
Chúa đang khóc với những giọt nước mắt
của họ.
Biết bao tiếng nức nở đã trôi dạt vào
đại dương của tình thương.
Xin dạy chúng con biết canh phòng
bên ngưỡng cửa đưa vào lãnh địa mênh
mông của khổ đau. Amen.
10.
Bạn hữu của Thiên Chúa –
Pm. Cao Huy Hoàng
Chúa thương người giàu
Tôi không bênh vực cho những người giàu
có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa
Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích kỷ, không bác ái, không
thương người của người phú hộ. Ngài có thương những người giàu có đấy chứ. Vì
thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy họ cách sống bác ái để
được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách người Do Thái thường suy
nghĩ.
Tiên tri Amos cũng đã từng được Thiên
Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm
trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa rập với những người có
chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng thượt trên sạp gụ” “ăn
chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu
thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như
một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu
quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản.
Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi
hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách
họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ
chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp
đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có
và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan
tác bè lũ quân phe phởn”.Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu
đây trong thế giới hôm nay:“ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có
ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos, tập
trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu:
“nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy thế nhiều hơn
giàu nhờ đức.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn
cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của Thiên Chúa. Vì Thiên
Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn con người làm giàu
cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên xương máu, mồ hôi
của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến diệt vong. Người
làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn người làm giàu bất
lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như Thánh Nicolas: “họ có
thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng vậy, “họ có thể hy sinh
một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách
sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị,
cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống nào.
Quả vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không
lẽ người giàu “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc”, có mắt mà không thấy
“Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng nhà ông” ấy sao? Con chó nhà
ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người
giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để
động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay “làm đơn xin” gì cả, nhưng anh
ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa
hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn
thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi
lòng.
Vậy tôi có thể kính thưa với những người
giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu
chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ
ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để mở mắt nhìn những
bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà
nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón nhận chính Đức
Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy,
để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và trong lòng
Thiên Chúa mai sau.
Chúa cứu người nghèo
Với những người nghèo, nghe đoạn Tin
Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc đời, những cái bang,
hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như chúng tôi, thường
phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không thiếu cái phấn khởi
do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những người giàu có, quyền
lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những người giàu, mà cả
những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của Lời Chúa dạy,
không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết chia sẻ, quảng
đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.
Cái thói quen trả thù của người nghèo
cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa “thấy ai hoạn nạn thì vui mừng”, nhất là những
người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn nạn thì càng mừng hơn- cho là
“ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc “Chúa phạt nhãn tiền” là không
hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro
nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh
nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau”, mà quên một điều
quan trọng là: “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn
phận phải chia sẻ cho nhau”. Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính
người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết
tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột… như thế mới
là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của
người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là
có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng
nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân
khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối
cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà,
và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi
nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái cũng đồng
nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.
Từ “Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là
“Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại
diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu. Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không
nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng hả dạ vì mấy người giàu “khó vào
nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời.. Ngược lại, là những người
nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ
hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận
ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ
với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và
khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro được “Thiên Chúa cứu
giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên
Chúa. “Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải những người nghèo vì họ
nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có.
Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được “Chúa thương cứu
giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng
Quang Tiến)
Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: -
Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian (16,19-21); - Số phận của
hai người sau khi chết (16,22-23); - Tình trạng cực hình của người giàu có
(16,24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về việc sử dụng của cải, đoạn nầy
bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc đời nầy qua đi. Số phận của
người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời bên kia. Luca nhấn mạnh rất
nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa người khiêm hạ và người quyền
thế (1,46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ (6,20-26), và ở đây giữa người
giàu và người nghèo (16,19-31).
Cuộc sống của người giàu có và Lazarô
trên trần gian
Trong hai câu dẫn nhập Luca mô tả hai
con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương phản nhau: một người giàu có (c.
19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có của người nầy được mô tả qua
cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua (x. Mc 15:17.20; Kh 18:12)
và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những đồ quí giá chung với vàng
bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ “mang” ở thì quá khứ chưa hoàn
thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ không phải chỉ một dịp lễ
lạc trọng thể nào đó. Việc ông “làm yến tiệc”, euphrain#, cũng kiên tục, và
việc nầy nhắc đến thái độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải ông đã
kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng lại ở đó (12:19).
Tương phản với người giàu có là người
nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói “tên là” (1:5.13.26.27.31…), ông muốn ám
chỉ đó là người được ưu ái trước mặt Thiên Chúa. Hơn nữa, tên “Lazarô” có nghĩa
là “Thiên Chúa trợ giúp”. Sự nghèo khốn của Lazarô được diễn tả qua tình cảnh
bệnh tật của ông: nằm liệt do bệnh, ball#, và nhức nhối (c. 20) do những vết
thương lở loét của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ ngôn không nêu lên một lỗi phạm
nào của người giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh của Lazarô được mô tả thêm
và sai lỗi của người giàu có mới được hình dung ra. Lazarô nằm ở trước cửa nhà
người giàu có: đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh của người con hoang đàng
(15:16). Động từ “ước muốn” nầy ở thể phân từ hiện tại diễn tả tình trạng kéo
dài. Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu bánh vụn từ trên bàn
rơi xuống. “Cái bàn” gợi lên yến tiệc của người giàu có; qua đó, cho thấy người
giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống giàu có của ông. Ông
chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước cửa nhà ông. Bởi lỗi
phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.
Số phận của hai người sau khi chết
(16:22-26)
Đoạn nầy và đoạn kế tiếp (16:27-31) được
trình bày dưới hình thức đối thoại giữa người giàu có và Abraham. Những gì được
nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm mô tả cuộc sống sau khi chết, mà sự khác
biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc sống của người giàu có và Lazarô. Câu 22
là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng như người nghèo khó đều chết như nhau
(c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau. Lazarô được các thiên thần đem vào
lòng Abraham; trong khi người giàu có “được chôn cất”. Abraham, tổ phụ của dân Do
thái (1:55.73; 3:8). “Lòng Abraham” là phần trước ngực. Ngồi vào lòng ai có
nghĩa là nằm dựa đầu vào ngực người ấy. Đây là vị trí cận kề và thân thiết (x.
Gio 1:18; 13:23). Hình ảnh nầy gợi lên bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó
có Abraham và tất cả các tổ phụ khác và các tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô
nghèo khó và thiếu thốn của ăn nuôi sống trên trần gian, nay được thông hiệp
với Abraham. Và Thiên Chúa của Abraham là Thiên Chúa của sự sống (20:37-38).
Trong khi đó, người giàu có “được chôn cất”, ám chỉ ông nằm giữa những kẻ chết
(x. 9:59-60). Điều nầy được xác định rõ hơn trong cách nói “trong âm
phủ” (c. 23). “âm phủ” là giang sơn của người chết và nơi của sự hủy
diệt (x. Cv 2:27.31), hình phạt (Kh 20:14). Đối nghịch với “âm phủ” là
trời, nơi cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).
Tình cảnh khốn khổ của người giàu có
(16:24-31)
Nội dung của phân đoạn nầy được trình
bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh cầu của ông (cc. 24.27-28.30) và
ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30). Qua cuộc đối thoại ngắn nầy, tình
cảnh khốn khổ của người giàu có được trình bày thêm.
Lời thỉnh cầu thứ nhất (c. 24): “xin thương xót tôi” (c. 24). Lời nầy trong Luca chỉ xuất hiện
trong trình thuật người mù thành Giêricô (18:38.39), và mười người phong cùi.
Người giàu có đang ở trong tình trạng vô phương cứu chữa như những người nầy.
Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông đã bị đảo ngược. Trước đây ông chỉ
mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu cực hình, odynaomai, giữa lửa
cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ. Trước đây, ông nằm trên
giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh bánh vụn rơi xuống từ bàn
tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy Lazarô, và nài xin một giọt
nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.
Trong câu trả lời của Abraham (cc.
25-26) Luca nhắc lại quá khứ “hãy nhớ lại”. Ông nói đến “điều tốt” và điều
xấu”, như là sự tương phản giữa hai người (c. 25). “Điều tốt” ở đây là của cải
đời nầy (6:45; 12:18.19). Sau đó, Luca khẳng định điều đang xảy ra, “bây
giờ” hai người. Động từ “an ủi” (c. 25) nhắc lại lời “Khốn cho các người
giàu có, vì các người đang được an ủi” (6:24). Người giàu có đã được an ủi đời
nầy, thì đời sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau. Đây là một
trong những cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham nói đến sự
phân cách tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một “vực thẳm” “được
đặt ra” (ở thể thụ động); không thể có hiệp thông giữa hai bên. Không thể qua
lại với nhau được. Như thế người giàu có bị loại hẳn khỏi sự hiệp thông với
Abraham.
Lời thỉnh cầu thứ hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy, ông không nghĩ đến bản thân
nữa, vì ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể cứu vớt của mình. Bởi đó,
ông kêu xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến những người anh em của
ông đang còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ khỏi rơi vào nơi khốn
khổ như ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương thế cứu khỏi nơi ấy,
chính là nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh lệnh “Hãy nghe” phải
dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy cách gián tiếp là
người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã không để ý đến những
người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không quan tâm nghe lời
của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan tâm đến sự giàu
có và sự thụ hưởng của ông.
Lời thỉnh cầu thứ ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài xin thêm một lần nữa cho anh em nhà
của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ “hoán cải” nếu như được người chết hiện ra.
Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi phép lạ, mà bởi lời rao giảng về
Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19). Hoán cải là mở lòng đón nhận, tin
vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu không nghe lời Môsê và các ngôn
sứ, không thể hoán cải được. Người chết có hiện ra chỉ vô ích mà thôi.
Luca sẽ không dừng lại ở việc mô tả hậu
quả của việc sử dụng của cải không đúng theo ý Thiên Chúa. Ông sẽ nói đến cách
hành động tích cực đối với của cải. Đó là phân phát cho người nghèo (4:18;
18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian không là tất cả. Số phận đời sau tùy
thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi đời sau, phải thi hành ý Thiên Chúa
hôm nay.
12.
Ra khỏi thế giới
nhỏ hẹp của lòng mình
(Suy niệm của Lm. G. Nguyễn Cao Luật)
Những bức tranh tương phản
Tin tức trên báo chí cho biết: khoảng
vài phần trăm dân số địa cầu nắm giữ gần hết tài nguyên của thế giới, trong khi
đa số dân còn lại chỉ được hưởng dùng một số nhỏ. Hố phân cách giữa các miền
của thế giới càng lúc càng rộng thêm, số người giàu chỉ tăng lên rất ít, còn số
người nghèo càng lúc càng tăng lên rất nhiều. Hình ảnh đó là một sự kiện rõ
ràng của thế giới hôm nay, và cũng xuất hiện tại nhiều quốc gia, nhiều vùng
đất, nhất là tại các thành thị.
Dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay nêu lên
một bức tranh với nhiều mầu sắc tương phản. Hình ảnh được vẽ lên là những thế
giới đóng kín, những vũ trụ tách biệt, với những vực sâu ngăn cách. Từ thế giới
này sang thế giới kia, không có mối liên lạc nào: mọi cây cầu đã bị phá đỗ.
- Bức tranh thứ nhất: Cuộc sống thường
nhật. Một người giàu, ăn mặc sang trọng, yến tiệc linh đình ; và một người
nghèo tên là La-da-rô, không có gì che thân, không có gì để ăn. Người giàu ở
trong nhà và người nghèo ở ngoài cổng. Ở giữa, một cánh cửa đóng kín.
Người giàu không có tên. Chỉ biết rằng
ông ta có nhiều của cải, nhiều đến dư thừa. Thái độ, cách cư xử của ông: không
để ý đến ai khác, ngay cả người nghèo đang ăn xin ở cổng nhà.
Còn người nghèo có tên là La-da-rô, có
nghĩa là Thiên Chúa giúp đỡ. Anh sống mà dường như đã chết. Thế nhưng anh bị
đói, anh đợi chờ và mong ước được sống. Cuộc sống của anh có những lỗ hổng và
vì vậy, Thiên Chúa có thể can thiệp.
Khi cái chết phủ xuống: người giàu được
đem chôn, còn người nghèo được đem lên trời.
- Bức tranh thứ hai: Tại thế giới kẻ
chết: trời cao và âm phủ. Người nghèo được hạnh phúc trong lòng tổ phụ
Áp-ra-ham: anh đã chết, mặc dù chưa được hưởng điều Thiên Chúa hứa ; nhưng anh
đã thấy từ xa và đón chào các điều ấy, vì đã xưng mình là ngoại kiều, là lữ khách
trên mặt đất (x. Dt 11,13).
Còn người giàu phải chịu muôn vàn đau
khổ. Ông muốn được hiệp thông, muốn được chia sớt một giọt nước, nhưng không
thể được: không có lối qua, dù đó là vì lòng bác ái, dù đó là những người đang
thèm khát. Giữa hai thế giới có một vực sâu, một vực sâu rất lớn. Trước kia
người nghèo không có gì cả: anh chỉ chờ đợi và khát mong được sống ; người giàu
thu hẹp đời mình vào trong những của đang nắm giữ. Bây giờ thì ngược lại, nhưng
không còn thay đổi gì được nữa.
- Bức tranh thứ ba: Vẫn tại thế giới kẻ
chết. Và ở phần cuối là cuộc sống con người trên trần gian, nơi năm anh em của
người giàu đang sống. Giữa hai thế giới này, có thể thông thương được. Thế
nhưng chỉ là điều vô ích, vì tâm hổn của những con người đang sống ấy đã bị
đóng kín.
Và dụ ngôn kết thúc với một câu nói có
liên hệ đến con người thời nay: "người chết có sống lại, họ cũng chẳng tin
đâu."
Cuộc sống trần gian chưa phải là tất cả
Dụ ngôn trước hết nhắm đến quan niệm sai
lầm của những người biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành
của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruổng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên
kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Ở trần gian này, nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là
con người đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn nếu ngược lại, thì chính vì con người
đã phạm tội. Đó là nguyên nhân người biệt phái chế giễu Đức Giê-su vì Người đòi
hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này của Đức Giê-su gây ra mâu thuẫn
gay gắt với xác tín tôn giáo của họ. Dụ ngôn đã khai triển sự tương phản đó một
cách không kiêng nể.
Thịnh vượng trần thế không minh chứng
giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa, cũng như nghèo khó không phải là
kết quả của sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruổng bỏ. Người biệt phái đã
quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ
ngôn.
Vì thế, không nên căn cứ vào một vài chi
tiết của dụ ngôn để rút ra những hệ luận thiêng liêng: chẳng hạn các hình khổ
dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiện những khổ hình của hoả ngục. Đó
chỉ là một hình ảnh. Việc người nghèo an nghỉ trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham cũng
thế ...
Đàng khác, dụ ngôn còn muốn cho thấy
rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan gì tới trạng thái tâm hổn.
Người ta vẫn thường cho rằng người giàu có, ăn sung mặc sướng là người biết tổ
chức tốt cuộc đời của mình, và người ta thương hại kẻ nghèo phải sống lệ thuộc
vào người khác, không có khả năng thoả mãn những ước vọng ở đời. Tuy nhiên,
Thiên Chúa không xét đoán như thế. Đây là một trong những quy tắc nền tảng của
Ki-tô giáo.
Như vậy, dụ ngôn không hề có ý mô tả
cuộc sống tương lai cũng như tình trạng đời này. Dụ ngôn muốn chứng tỏ rằng
cuộc sống hiện tại của người giàu chẳng có giá trị gì cả. Chính sự hiện diện
của người nghèo nói lên điều đó: anh đã muốn phá vỡ nếp sống an toàn giả tạo
của người giàu, kêu mời sự hiệp thông, nhưng không được, và thế là hết ...
Kể cả người chết sống lại
Không có ai, kể cả người chết sống lại,
có thể buộc một người đang sống phải yêu mến. Lời Chúa, luật lệ và các ngôn sứ
đã trình bày rõ ràng những điều gì cần được thực hiện. Mặc khải đã có sẵn, cuộc
đời là nơi duy nhất để cho những điều đó thành hiện thực.
Hoàn cảnh sống ở đời chưa phải là tất
cả. Vực sâu lớn nhất của cuộc đời chính là từ khước yêu mến.
Chỉ có thái độ quan tâm để ý đến người
khác mới có thể tạo nên những cây cầu, những lối đi để từ đó đưa đến sự hiệp
thông, đến tình liên đới.
Khi biết quan tâm đến những dấu chỉ của
tình yêu Thiên Chúa đang được bày tỏ trong cuộc đời con người ; khi biết lắng
nghe lời giáo huấn của tổ phụ Áp-ra-ham cũng như của các ngôn sứ ; khi biết để
ý đến người khác, dù chỉ là những cái nháy mắt, những lời thì thầm, và khi biết
nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa torng những biến cố, thì tất cả đều thay
đỗi, tất cả đều dễ thương, tất cả đều trở thành cơ hội để hành động.
Biết để ý quan tâm, biết nhạy cảm, đó là
biết bước chân ra khỏi lòng mình đang bị đóng kín với nỗi trống rộng của riêng
mình.
Vậy mà, trong cuộc đời, vẫn có biết bao
rào cản đã được dựng nên ; vẫn có những người đi qua cuộc đời một cách vô tình,
không cần chú ý đến ai khác, vẫn có những tiếng kêu than bị bỏ quên, vẫn có
những lời cầu cứu không được đáp trả ... Người ta vẫn thường dành nhiều thời
giờ để bảo vệ mình hơn là để ý đến người khác. Người ta vẫn không ngừng xây
những bức tường kiên cố để che chắn cho mình, đang khi lẽ ra cần phải mở ra
những cánh cửa, cửa ra vào lẫn cửa sỗ.
Cuộc đời vẫn có nhiều La-ra-rô đang than
thở, bị bỏ quên, trong lúc không ít người giàu có lại lẩn quẩn, lại đóng kín
trong những nỗi sợ hãi của riêng mình. Thực là những bức tranh tương phản.
Hôm nay, lúc này là thời gian để ra khỏi
mình: hãy mở toang những cánh cửa, những cánh cửa của hiệp thông, của liên đới.
Chỉ có những người đang sống mới mở được, những người khác, kể cả người chết
sống lại, không thể nào mở được.
* * *
Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Người Nghèo,
Chúa chẳng có gì cả,
dù là một viên đá gối đầu.
Chúa chẳng có gì cả,
dù chỉ là một cơn gió nhẹ,
vinh quang của Chúa chính là sự trần
trụi
cả một cái áo tả tơi của đứa trẻ mổ côi,
cũng còn đẹp hơn.
.....
Chúa là người ăn xin với bộ mặt ẩn giấu,
là người không có chỗ trên mặt địa cầu.
Nhưng đàng sau sự nghèo khó,
là ánh sáng rực rỡ.
Phỏng theo R.M. Rilke
13. Hậu quả của việc sử dụng tiền bạc
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu)
Chủ nhật tuần trước, Chúa Giêsu dạy chúng
ta: "Anh em hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để khi hết tiền bạc, anh
em sẽ được họ mời đón vào sự sống đời đời".
Chủ nhật hôm nay, Chúa kể dụ ngôn về một
người phú hộ giàu có không biết sử dụng tiền bạc, để rồi phải chết đời đời
trong chốn cực hình.
Ông phú hộ chịu cực hình trong cõi chết
đời đời, không phải ông làm giàu bất chính, chuyên vơ vét và bóc lột người
khác. Nhưng chỉ vì ông đã thờ ơ lãnh đạm, không nhìn thấy Lazarô nghèo khó cần
giúp đỡ đang nằm ngoài cổng nhà ông mà thôi. Vâng, chỉ đơn giản có thế thôi, đã
đủ làm cho ông phải chịu cực hình.
Tiền bạc đã làm mờ mắt tâm hồn ông,
khiến ông chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy Lazarô. Ông giống như một người
soi gương, chỉ thấy hình bóng mình trong gương mà không nhìn thấy người khác.
Tiền bạc đã tạo ra một hố ngăn cách giữa
ông và người nghèo Lazarô mà cái cổng là một biểu tượng.
Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư
thừa vận toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Còn bên kia là thế
giới nghèo khó bần cùng, nằm lay lắt trước cổng nhà giàu muốn được ăn những của
dư thừa từ bàn tiệc của nhà giàu rớt xuống mà chẳng ai thèm cho, chỉ có mấy con
chó thỉnh thoảng đến liếm ghẻ chốc xoa dịu, an ủi ông thôi!
Sự phân cách chênh lệnh đó, đã được cái
chết đón nhận và thể hiện một cách rõ nét. Chỉ có điều là thay ngôi đổi chủ và
mang tính cách vĩnh viễn:
Trước kia Lazarô đói nghèo bất hạnh ước
một mẩu bánh vụn cũng không được, giờ đây ông no đầy hạnh phúc đời đời nơi lòng
tổ phụ Abraham.
Trước kia người phú hộ giàu có dư thừa,
giờ đây phải đói khát túng thiếu đời đời nơi hoả ngục, túng thiếu đến nỗi một
giọt nước nhỏ làm mát lưỡi cũng chẳng thể có.
Trước kia trên trần gian, ông phú hộ và
Lazarô bị ngăn cách bởi một cái cổng, thì giờ đây giữa họ là một vực thẳm lớn,
khiến hai bên không thể qua lại giúp đỡ nhau được. Đó là khoảng cách giữa Thiên
đàng và Hoả ngục.
Đối với ông phú hộ thì Hoả ngục chỉ kéo
dài và tiếp nối cái tình trạng đói khổ mà vô tình ông đã tạo nên cho người
nghèo Lazarô trên trần gian. Như thế, Hoả ngục là do ông tự xây cho mình chứ
không phải Thiên Chúa.
Tóm lại: Con người tự tạo lập Thiên đàng
hay hoả ngục cho mình ngay từ trên trần gian này tuỳ thuộc vào cách thế con
người xử dụng tiền bạc.
Ông phú hộ giàu có một cách chính đáng,
nhưng vô tâm vô tính, nhắm mắt làm ngơ, không quan tâm giúp đỡ những người
chung quanh đã có một kết cục bi thảm như vậy, thì những người làm giàu một
cách bất nhân bất chính, làm giàu trên xương máu, mồ hôi và mạng sống của người
khác sẽ ra sao? Chắc chắn sẽ không khá hơn ông phú hộ trong dụ ngôn Tin mừng.
Lạy Chúa, xin giúp con biết dùng của cải
và tài năng Chúa ban để mưu cầu hạnh phúc cho mình và cho tha nhân ở đời này và
đời sau. Amen.
14.
Khoảng cách – Lm. Giuse
Nguyễn Hữu An
Dụ ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một
bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất xa, hai con người với
hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.
1. Khoảng cách đời này
Người phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo
nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người
phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng ăn xin. Người phú hộ ngày ngày
yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên
đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Hai con người ấy thật gần nhau trong
khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn khép kín như lòng
người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.
Thánh Luca với ngòi bút sắc bén, linh
hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm
thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng
cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so sánh đầy ấn tượng: người
phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút
bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú
hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng
được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ không ai thương, người không
thương ai.
2. Khoảng cách đời sau
Cái chết đến làm đổi thay tất cả. Cái
chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau. Một cuộc
hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn được đưa lên mây
trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày xuống vực thẳm.
Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Một lần nữa,
dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên
kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Lazarô hạnh phúc
trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai
Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa
thiêu đốt.”
3. Khoảng cách đời này và đời sau
Khoảng cách nơi cuộc sống trần gian sẽ
được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn
nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực hình ở đời sau? Hôm nay
khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung sướng? Có phải đó là lối an
ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo hãy chấp nhận, hãy an phận?
Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng phúc thiên đàng?
Chắc chắn Thánh Kinh không bao giờ trình
bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo khổ không là giấy thông
hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với toàn bộ tác phẩm, trong
đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ
trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo huấn về việc sử dụng
tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người phú hộ bị luận phạt hoả ngục không
phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ
trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ mắc phạm là phớt lờ người
nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không
la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông
ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn. Tội của người phú hộ chính là tội
hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau, không biết nhau, không giúp đỡ
nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ
thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta
lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú hộ trở thành tội nặng làm
cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối
nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt khủng khiếp dành cho
những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót thương người khốn khổ.
Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người giàu có sống an toàn
mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra khoảng cách vực
thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân, khoảng cách đó
lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do
con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô không phải vì nghèo khổ mà được
trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì biết chấp
nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng
Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi”. Người nghèo biết
tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho họ ơn phúc làm con tổ phụ
Abraham, cha những kẻ tin.
Con người đi đến vong thân khi sống
thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng mình với Thiên Chúa,
chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống vĩnh cữu; và khi khép
kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng không xúc động trước các
nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình thương. Dụ ngôn phú hộ và
Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, hưởng thụ trần gian
mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm
xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Chúa Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ
khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người khi Ngài làm người,
một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo,
giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là anh em của nhau, là con
cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin Mừng, sống liên đới với
nhau và với người nghèo.
Lý tướng Kitô giáo không phải là yêu mến
sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã
trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên đới với người nghèo. Vì
vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên giống Ngài. Tông huấn Giáo
Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên đới với kẻ nghèo, nếu chính
Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu. Sự đơn sơ trong cách sống đức
tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi người, nhất là người nghèo và
bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong hành động (GHAC số 34).
Vẫn còn quá nhiều người nghèo vật chất,
nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại,
liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu thương, cho chia sẽ
trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện một trái tim nhạy
bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại chia sẽ với những
người thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở
trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm vui nổi buồn, hạnh
phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.
15.
Người phú hộ và Ladarô
nghèo khó
Dụ ngôn người quản gia, dạy chúng ta
biết cách sử dụng của cải trần gian sao cho đúng. Dụ ngôn người phú hộ và Ladarô
nghèo khó, cho thấy người phú hộ đã sử dụng của cải cách sai lầm. Dụ ngôn được
chia làm ba phần.
Phần I: Cái cổng, một vực thẳm
Mở đầu, Đức Giêsu đưa ra hai nhân vật:
Người giàu không được nêu tên, người nghèo tên là Ladarô, tiếng Dothái, El'azar
có nghĩa là Thiên Chúa phù hộ.
Không chỗ nào nói, Ladarô là một con
người nhân đức, anh chỉ được giới thiệu là "một người nghèo". Cũng
vậy, không chỗ nào nói, ông nhà giầu là kẻ ác ôn, đã vơ vét của cải một cách mờ
ám, đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi
Ladarô. Đức Giêsu không nói, ông nhà giầu không bố thí cho Ladarô. Chúa cũng
không bảo Ladarô là người đức hạnh và ông nhà giầu là người xấu xa. Chỉ đơn
giản, ông nhà giầu là người giầu, Ladarô là người nghèo. Ông nhà giầu đã không
nhìn thấy Ladarô nghèo đói khốn cùng, đang nằm ở ngoài cổng. Cánh cổng là một
vực thẳm khủng khiếp ngăn cách giữa ông và Ladarô nghèo khó. Hai vũ trụ, hai
thế giới song song. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với ông nhà giầu
"mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình". Bên kia là
thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó: "Nằm trước cổng, mụn
nhọt đầy mình, thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống ăn cho
no cũng không được. Chỉ có mấy con chó đến liếm ghẻ chốc anh ta". Thật là
một cảnh trái ngược giầu và nghèo. Cảnh đó vẫn diễn ra trên thế giới, trên các
thành phố, làng xóm xưa cũng như nay.
Ngày 3 tháng 7 năm 1980, tại Sao Paulô ở
Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện
đại, ngài nói: "Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ
chuột. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để phát
triển... Bên cạnh đó những khu phố với những cao ốc, ở đó, người ta sống với
mọi tiện nghi hiện đại... Sự phát triển nhiều khi trở thành một sự thuật lại
không lề dụ ngôn ông nhà giầu và Ladarô nghèo khó".
Phần II: Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh hai cho thấy cả hai nhân vật của
chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết, thay vì làm cho họ xích gần nhau, lại
làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự thật cho thấy, từ nay tình
thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay
được thiên thần đem vào lòng Abraham, hưởng phúc vô tận. Còn viên phú hộ, trái
lại, trước đây hưởng thụ giầu sang chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước
cửa nhà mình, nay phải ở dưới âm phủ, đang chịu cực hình.
Đức Giêsu dùng những hình ảnh, những tư
tưởng người đương thời, để nói về thế giới bên kia cho người ta hiểu, Ngài
không thể nói khác được. Thế giới bên kia được hình dung như một âm phủ bao la
(Sheol) với những thân thể, những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước. Nơi những kẻ
bị kết án nhìn từ xa, những người được ưu tuyển, cách mình bằng một vực thẳm.
Trong cực hình, người giầu năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô. Ông nêu rõ tên,
cái tên ông chẳng biết đến khi còn sống ở trên đời, nhúng đầu ngón tay vào
nước, nhỏ trên lưỡi ông cho mát.
Nhưng muộn quá, cuộc chơi đã mãn. Cả
Abraham lẫn Ladarô, chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Cái cổng nhà ông đã phân
chia hai thế giới trở thành vực thẳm. Cái chết đã làm cho nó trở thành vực thẳm
vĩnh viễn không thể vượt qua.
Theo Hugues Cousin nhận định: "Vực
thẳm chia cách, giữa những người đang được hưởng hạnh phúc quanh Abraham và
những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ là sự nối dài của vực thẳm
đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và bàn tiệc cao lương mỹ vị mà
suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp cho đầy". Hình phạt khủng
khiếp ở hỏa ngục đơn giản là khoảng cách mà kẻ giầu có đặt ở giữa họ với Thiên
Chúa, và ở giữa họ với những người khác. Xa cách Thiên Chúa như ở trần thế
người ta vẫn xa cách, xa cách những người khác, như ở trần gian người ta vẫn
làm. Chúng ta ghi nhận: hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng
này, chính con người tự phân xử mình ngay từ trần gian. Mỗi người chúng ta đang
kiến tạo Thiên đàng hay hỏa ngục cho mình. Mỗi lần ta mở lòng cho Thiên Chúa
hoặc cho những người khác, là chúng ta bước một bước lên thiên đàng. Mỗi lần ta
khép kín mình trong chính mình là bước một bước xuống hoả ngục. Trần gian này
là nơi rèn luyện bước đầu của Thiên đàng và hỏa ngục.
Phần III: Hãy nghe Lời Chúa, đừng chần
chừ nữa
Xin cho mình không được, người giầu có
chợt nhớ đến năm người anh em còn sống trên trần thế, họ cũng đang rơi vào thói
ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm trước cửa nhà
mình. Cả bọn năm người cũng đang lơ lửng trước tai họa, nếu không có ai đó cảnh
báo cho biết. Nghĩ vậy người giầu cất tiếng: "Xin tổ phụ sai anh Ladarô
đến cảnh cáo họ, kẻo họ cũng sa vào chốn cực hình này. Bởi, nếu có sự can thiệp
của ai đó từ cõi chết hiện về, họ sẽ ăn năn sám hối".
Chỉ là ảo tưởng, nếu ở hỏa ngục, ai đó
có một chút tình yêu dù là nhỏ xíu, cũng được Chúa tha thứ, không bị kết án.
Bởi lẽ Chúa là tình yêu và tình yêu vô tận.
Ở đây chỉ là một cảnh dựng để đưa vào
câu trả lời theo sau là lời đáp của Abraham: "Chúng đã có Maisen và các
ngôn sứ, chúng cứ nghe lời các vị đó". Vâng, người ta luôn luôn đòi một
dấu chỉ khác thường: "Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để chúng tôi
tin"... "Ông hãy xuống khỏi thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa...
Ông hãy gieo mình từ nóc đền thờ xuống đi". Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp
tục dựa vào những phép lạ và những lần hiện ra. Người giầu xin cho Ladarô hiện
về. Thế nh¬ưng, sự sống lại của Ladarô em trai của Mácta và Maria ở Bêtania
không những không thuyết phục đ¬ược những ngư¬ời Pharisêu và các giáo trư¬ởng,
mà con thúc đẩy họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11,45-53). Con đ¬ường
chân chính duy nhất đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền, mà là
sự khiêm nh¬ờng lắng nghe Lời Chúa (Maisen và các ngôn sứ).
Hugues Cousin viết: "Đại diện cho
lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay, ông nhà giầu t¬ưởng rằng một
phép lạ sẽ làm đ¬ược cái mà Kinh Thánh không làm đ¬ược. Lầm to! Một phép lạ cho
dù phép lạ người chết sống lại, cũng không thể làm thay lòng đổi dạ những kẻ
cứng lòng không đón nhận sứ điệp của lề luật và các ngôn sứ. Ngay trong Hội
thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại một điều như
thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng kiến phép
lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ ăn năn sửa đổi đời sống... Trong
lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta. Chỉ khi
biết nghe lời Chúa, con người mới có thể hoán cải... Đó chính là sứ điệp lưu
truyền lâu đời, có sẵn tại trung tâm lề luật và các ngôn sứ".
16.
Giấy thông hành Nước Trời –
Thiên Phúc
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho
mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ
của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến tiệc linh đình, trang hoàng cung
điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa dị thảo, để mong được nở mày nở
mặt với lân quốc.
Một hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi
chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm, từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao
phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư trụ trì là ông sẽ đến thăm để
biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và được biết giờ vua sẽ đến, vị sư
liền cắt tất cả những đóa hồng xinh tươi đổ vào hố rác chỉ để lại một bông duy
nhất đang thắm nở.
Vào đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực
tế khắc hẳn với tin đồn. Khi biết được sự việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm
như thế. Vị sư từ tốn trả lời:
- Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa
nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì
thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.
Thiên Chúa của chúng ta không có thói
quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm đến từng con người. Thiên Chúa yêu
thương con người không có tính cách chung chung, nhưng Người chăm sóc cho từng
người một. Mỗi một con người là một nhân vị, có nhân phẩm cao quí. Mỗi một con
người là một tác phẩm tuyệt vời của Người, với những ơn riêng mà người khác
không có được. Mỗi một con người là một bông hồng rực rỡ sắc mầu, thơm ngát
hương hoa.
Người phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay
sở dĩ phải trầm luân muôn kiếp, vì ông ta đã không nhìn người nghèo khó Ladarô
với cái nhìn ấy. Thậm chí ông cũng chẳng thèm nhìn con người khốn khổ ngày ngày
lê lết bên cổng nhà ông.
Người phú hộ phải “chịu cực hình” không
phải vì ông nhiều của cải, nhưng vì ông đã không san sẻ của cải cho người thiếu
thốn, ngay cả những của thừa thãi trên bàn tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người phú hộ phải tống xuống biển lửa
không phải vì ông đã làm ra nhiều của cải, nhưng vì ông đã quá cậy dựa vào tiền
của, trong khi người nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa; Ladarô có nghĩa là
“Thiên Chúa giúp đỡ”.
Vậy tội của người phú hộ chính là tội
làm ngơ, tội phớt lờ, tội không nhìn, không nghe, không thấy những Ladarô đang
van xin cứu giúp trong cơn túng quẫn cùng cực. Tội của người phú hộ chính là
tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho một ai đó đang
cần trợ giúp. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết gia tài kếch xù của
ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người cùng khổ nhất Châu
Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: “Làm sao chúng ta có thể sống hạnh phúc
trong khi có biết bao người đang đau khổ?”
Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào
một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu.
Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ có một ngày người phú hộ chẳng còn
yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ
phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hỏa hào muôn kiếp.
Sẽ có một ngày người Ladarô nghèo khó
chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn nhặt những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc
người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên “trong lòng Abraham” vui hưởng hạnh phúc
muôn đời.
Lời giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên ngày 2.10.1979 đáng cho chúng ta
suy nghĩ: “Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu
bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo khó Ladarô của thế kỷ 20 vẫn còn đang đứng
chờ chúng ta ngoài cửa… Các bạn đừng bao giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ
những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu
của cuộc sống mà thôi chứ đừng tìm cách sống cho sung túc dư dật, để nhờ đó các
bạn có thể giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng thời, các bạn hãy đối xử với họ
như những thực khách trong gia đình các bạn”.
Lạy Chúa, thánh Tôma Aquinô đã dạy:
“Những người giàu có đã đánh cắp của người nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí
những của cải dư thừa”. Xin cho chúng con biết san sẻ cho nhau, để trái đất này
trở nên sung túc và yêu thương, vì giàu có thật là yêu thương và nghèo nàn thật
là ích kỷ.
Xin dạy chúng con bí quyết làm giàu bằng
cách chia sẻ cho nhau những của cải Chúa ban. Amen.
Có hai nhân vật trong câu chuyện này.
Trước hết là người giàu có, tạm gọi là Dives. “Dives” tiếng La-tinh, có nghĩa
là “giàu có”. Ông ta sống trong sự giàu sang. Ông ăn uống no say mỗi ngày trong
một đất nước mà thường dân may mắn lắm mới có được một bữa no bụng mỗi tuần.
Nhân vật thứ hai là anh Lazarô nằm trước
cổng, ngửa tay xin của ăn dư thừa. Anh rất đau yếu bệnh hoạn. Mình mẩy anh đầy
ghẻ chốc. Anh yếu đuối cho đến nỗi không đủ sức chống đỡ những con chó ngoài
đường đến quấy phá, liếm ghẻ chốc của anh.
Thời đó trên bàn ăn không có dao nĩa và
khăn lau, bởi vì người ta ăn bằng tay. Trong những gia đình phong lưu, những
miếng bánh mì rẻ tiền được vứt bỏ sau bữa ăn. Họ rửa tay bằng cách lau chùi tay
trong bánh mì và bánh mì dơ bẩn được thu nhặt cho vào thùng đựng rác. Chính đó
là những mảnh vụn bánh mì mà người nghèo khổ Lazarô đang mong đợi để nuôi sống
mình.
Câu chuyện anh Lazarô và ông Dives nhắc
tôi nhớ lại mẩu chuyện một người đàn bà đĩ thoã và ông trưởng giả đi chung
trong một chuyến tàu. Người đàn bà nói: “Ông ơi,ông sặc mùi hôi.” Ông kia đáp
lại: “Thưa bà, tôi xông mùi thối, còn bà đánh hơi.”
Do đó, anh Lazarô là hình ảnh của sự
nghèo nàn khốn khổ, còn ông nhà giàu là hình ảnh của sự bê tha ăn uống. Nên để
ý điểm này là ở đây người ta nhắc đến tên người đàn ông nghèo khó nhưng người
giàu sang thì lại không có tên. Trong nền văn hoá ngày nay, người giàu sang
cũng như người nổi tiếng thì đều có danh xưng, còn người nghèo hèn thì vô danh
tiểu tốt.
Điều đó cho thấy Chúa Giêsu chú trọng
đến những người mà xã hội ruồng bỏ. Ngài đã dành nhiều thời giờ cho những kẻ bị
bỏ rơi, những người vô danh tiểu tốt, chứ không phải với những người nổi tiếng.
Vai trò đảo ngược
Rồi cả hai người đều chết. Người giàu có
rơi xuống hoả ngục, còn anh Lazarô lên thiên đàng, ở trong lòng tổ phụ Ápraham.
Câu chuyện đã diễn tiến theo cuộc đối thoại giữa ông nhà giàu với tổ phụ
Ápraham.
Từ dưới vực sâu hoả ngục, người giàu có
đã kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót con và sai anh Lazarô nhúngđầu
ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ
lắm!” (Lc 16, 24).
Tổ phụ Ap-ra-ham đã trả lời: “Con ơi,
hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Lazarô suốt
một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được an ủi nơi đây, còn con
thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực
thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có
qua bên chúng ta đây cũng không được.” (Lc 16, 25-26)
Ông nhà giàu lại thưa: “Lạy tổ phụ, vậy
thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người
anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình
này!” (Lc 16, 27). Ông Ápraham đáp: “Môsê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu
nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.” (Lc 16, 31)
Khỏi phải nói ra, ai cũng rõ là người
giàu có đã đối xử có phần nào tàn nhẫn với anh Lazarô. Nhưng xét theo nhiều
khía cạnh, ông nhà giàu không phải là một người xấu. Ông đã không bạo hành đối
với anh Lazarô bằng lời nói, như nhiếc mắng anh đáng xuống hoả ngục. Ông cũng
không xua đuổi anh Lazarô, không cho nằm trước cổng nhà mình. Ông cũng không
báo cáo với cảnh sát, hoặc với những người kiểm tra vệ sinh về anh ta như là
một nguy cơ đối với sức khoẻ của công chúng.
Ông không chống đối việc anh Lazarô chìa
tay ra xin thức ăn thừa và cũng không chỉ thị cho đầy tớ ném bánh mì dơ ở nơi
khác. Vấn đề là mỗi lần Dives đi ra hay đi vào nhà thì đều phải đi qua nơi anh
Lazarô nằm trước cổng.
Tội lơ là chểnh mảng
Ông Dives không bao giờ nhận ra anh
Lazarô. Ông không để ý tới anh Lazarô trong những năm tháng đó, khi anh ngồi ăn
xin trước cổng nhà ông và ngay cả khi ở dưới hoả ngục, ông cũng không đếm xỉa
đến anh. Ông vẫn không thay đổi. Những người ở trong hoả ngục không thay đổi
bao giờ.
Phần người giàu có, ông nghĩ về anh
Lazarô không khác gì hơn ngoài một sứ giả, qua câu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì
con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em
nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!”
(Lc 16, 27).
Anh Lazarô chỉ là một con người tùy tiện
đối với ông phú hộ, chỉ là một thứ khí cụ được sử dụng mà thôi. Anh không phải
là một con người đáng được kính trọng. Lazarô chỉ là một đồ vật được sử dụng và
đó là lý do tại sao ông Dives đã xuống hoả ngục.
Tội lỗi của người giàu có đối với anh
Lazarô là tội lơ là chểnh mảng – thứ tội quên làm! Những tội lỗi tệ hại nhất
của chúng ta thường khi chính là những tội lơ là chểng mảng và đó là những tội
mà chúng ta không bao giờ xưng ra. Nhưng đó chính là những tội của ông Dives.
Có thể đó là những tội mà chúng ta không chút ý thức vì không gây nên thương
tổn hay chết chóc cho ai.
Chúng ta có thể là ông Dives đối với
người phối ngẫu, đối với cha mẹ, anh chị em, người làng giềng, đối với những
trẻ nít non dại trong lớp học, đối với những bạn đồng nghiệp trở thành trò cười
cho bất cứ cuộc đùa cợt nào. Không phải chúng ta cố ý tàn nhẫn. Điều đó hiếm
khi xảy ra, vì chúng ta không đần độn hơn những người khác. Nhưng có những
người trong cuộc sống chúng ta đangchết dần chết mòn về mặt thể xác, tình cảm,
tinh thần và cả tâm linh nữa, bởi vì có những việc chúng ta có thể làm cho họ,
nhưng đã không làm.
Tôi có dịp trò chuyện với một người láng
giềng đã ra vào nhà thương như cơm bữa trong nhiều năm. Tôi hỏi cảm tưởng của
ông như thế nào mỗi khi ra vào nhà thương như vậy. Ông trả lời: “Khi cha liên
hệ với nhà thương lâu dài như con đây, cha sẽ nhận thấy điều khác biệt lớn lao
giữa những kẻ đối xử với cha như một con người và những kẻ đối xử với cha như
một trường hợp y khoa trong bệnh viện.”
Lòng trắc ẩn
Rồi đây khi tôi gặp gỡ một người ăn xin
hay người nghiện ngập, tôi sẽ để ý đến họ. Tôi sẽ nhận ra họ như một con người
và tỏ ra kính trọng họ. Đồng thời, một việc thật chính đáng, có thể làm được là
tôi sẽ hỏi tên họ. Tôi có thể trả lời “không” khi họ xin tiền, nếu tôi nói một
cách dịu dàng, bởi vì tôi biết rằng tiếng “không” cũng là một từ ngữ của yêu
thương!
Bài học của Thánh Luca nhấn mạnh điểm
này: chỗ đứng của chúng ta để được cứu rỗi tùy thuộc nơi chỗ đứng của lòng trắc
ẩn chúng ta trước mặt anh chị em chúng ta.
18.
Người phú hộ giàu có và
Ladarô nghèo khổ
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’ – Veritas)
Một câu chuyện kể rằng, có một em thiếu
nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu nguyện với Chúa rằng, con chúc
tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một gia đình đạo đức và hạnh phúc.
Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của con phải cực khổ, gia đình nghèo
khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình nay bị đau nặng. Mấy anh chị em
vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải nghỉ vì không đóng học phí.
Chúa không thưởng bạn của con sao?
Chúa trả lời: Con thật là một thiếu nhi
ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến người khác, biết nghĩ đến người bạn
kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta
thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết bạn với con.
Đã có lần Chúa Giêsu tuyên bố: “Người
nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa
ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc
sống trong xã hội trần gian, và đó cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai
sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống
trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác
và nghèo đói. Một bên là quằn quại trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc
ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài
đọc I trích sách tiên tri Amos chúng ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người
giàu có và an phận trong sự khốn nạn của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ
dành cho những người nghèo, còn những người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục.
Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ
gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.
Giàu có chưa phải là hạnh phúc đích thực
của con người. Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng được bình an đó sao?
Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những gia đình phải tan nát đó sao?
Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên là bị loại ra khỏi Nước Trời.
Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng, như thánh nữ Elizabeth, hoàng
hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ là những vua chúa, hoàng
hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh. Chúng ta cũng
không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo khổ
để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự bần cùng, nghèo đói, khổ
đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín chính
là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng
nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ được lặp đi lặp lại
nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn sứ, đặc biệt qua
Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không thể nào an phận
trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực
kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ
trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn của Chúa.
Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống trở nên
thánh thiện và công chính hơn.
Thánh thiện chính là tin tưởng vào lòng
yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại chia sẻ với người khác
một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi, không lợi dụng.
Quả thật, không có cái giàu nào cho bằng
cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về
tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi
chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng như thánh thiện không phải lúc
nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập luyện và thi hành.
Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được hạnh phúc không những cho đời
sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu người như Ladarô nghèo khó
xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương đón nhận và chia sẻ. Và
rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng ta phải tích lũy làm giàu, đó
là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại và hiền hòa.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên
người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm tốn trước tình thương của Thiên
Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người chúng ta trở nên giàu có về
lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.
Xin mọi người chúng ta cùng nhau tuyên
xưng đức tin.
19.
Hai cảnh đời trái nhau
- Lm Giacôbê Tạ Chúc
Nhà thơ Tố Hữu trong bài thơ: “Hai đứa
trẻ” đã viết:
“Hai đứa bé cùng chung nhà một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim con
Bụi đời dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới”.
Hai đứa trẻ xem ra giống nhau vô cùng,
cùng ngây thơ, khờ dại và hồn nhiên, nhưng lại quá khác xa nhau:
“Ồ lạ chửa! Đứa xinh tròn mũm mĩm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi tím!
Đứa chồm chập vồ ôm ly sữa trắng
Rồi cau mày: "Nhạt lắm! Em không
ăn!".
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho củ sắn!
Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa nga, đây lính thổi kèn Tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng
chửi!” (Tố Hữu-Hai đứa trẻ)
Đó cũng là bức tranh hiện sinh của xã
hội con người ngày hôm nay, khi sự chênh lệch ngày một quá lớn giữa các nước
trên thế giới, và giữa những người quá giàu và quá nghèo. Người ta ước tính tài
sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát
triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ
nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo
dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian
dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu
và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô
thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng
cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói
mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống. Dụ ngôn của Chúa
nhật 26 năm C lại một lần nữa cho chúng ta thấy sự liên đới, cách sử dụng tiền
của Chúa ban quan trọng biết bao cho phần rỗi đời đời của mỗi người.
Liên đới trong trách nhiệm chia sẻ
Ông phú hộ giàu có xét cho cùng cũng
chẳng có tội tình gì. Nhà của ông làm tiệc, linh đình trong hoan lạc, ngây ngất
lẫn men nồng, đắm say trong yến tiệc. Ông mặc gấm vóc lụa là, người hầu kẻ hạ.
Ông sung sướng hưởng thụ những gì mình có. Chung quy lại, trước mặt mọi người
ông chẳng có gì để lên án. Thế nhưng chuyện không dễ như vậy. Oái ăm thay, lại
có kẻ: “mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng nhà ông giàu có, thèm được những thứ
trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no”(Lc 16,20). Ông nhà phú hộ đáng
ra phải lưu tâm đến một Lazaro nghèo khó đang cần đến sự giúp đỡ của mình.
Trong thế giới toàn cầu hóa, trách nhiệm liên đới luôn là một đòi hỏi cấp bách.
Người ta không thể dửng dâng và đứng nhìn những La-za-rô đang chết dần chết mòn
trong những nỗi thống khổ của họ. Cũng như ông Phú Hộ, con người sẽ bị án phạt
khi sống vô cảm và thiếu sự chia sẻ cho những hoàn cảnh éo le trong cuộc đời.
Tài sản mà nhân loại đang sở hữu chính là do Thiên Chúa ban một cách nhưng
không. Người Phú Hộ đã sai lầm khi cho rằng mình có quyền hưởng những gì mình
thích, mà không hề biết quan tâm đến một số phận của một con người. Người đó
không đâu xa mà là nằm ngay trước cổng nhà mình. Thiếu trách nhiệm với tha
nhân, nhất là trong tình liên đới đại đồng. Ông Phú Hộ đã trầm luân trong bể
khổ, mà không thể nào quay lại được.
Liên đới trong trách nhiệm yêu thương
Người Việt Nam có những câu ca dao rất
đẹp trong tình yêu thương nhau:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống mà chung một giàn”
Hoặc: “ Những điều phủ lấy giá gươm,
Người trong một nước phải thương nhau
cùng”…
Vâng đúng như vậy, giới răn thương yêu
là cốt lõi của mọi lề luật, bác ái chính là khởi xuất từ yêu thương, mà yêu
thương chính là ở trong tình yêu của Thiên Chúa. Những người giàu có nếu biết
dùng những của cải chóng qua ở đời tạm này, mà làm những việc lành phúc đức,
thì họ sẽ trở nên rạng ngời trước Danh Thánh Chúa. Ông Phú Hộ mời rất nhiều
khách để dự tiệc. Nhưng tiếc rằng người nghèo khó ngay trước cổng nhà mình thì
không được quan tâm giúp đỡ. Giống như nhận xét của Mẹ Terexa “Cái xấu lớn nhất
trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với
người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
So sánh hai cuộc đời của nhà Phú hộ và
ông La-za-rô để cho thấy:
- Hai lối sống khác nhau đã làm nên hai
điều trái ngược. Nếu như người nghèo khó La-za-rô suốt đời phải sống trong túng
cực, bị mọi người khinh chê thì khi chết, ông lại được trọn vẹn phần thưởng lớn
lao ở trên Thiên đàng.
- Ông Phú Hộ thì ngược lại lúc sống đã
hưởng thụ hết bao điều tốt đẹp trên trần gian, thì số phận của ông lại là một
kết cục bi thảm hoàn toàn. Ông phải trọn kiếp trong đau đớn của ngày phán xét
chung thẩm.
Lạy Chúa xin cho chúng con biết giúp đỡ
mọi người, thực thi các giới răn Chúa dạy, và luôn quảng đại chia sẻ với những
anh chị em đang trong những cảnh đời vô cùng éo le. Amen.
20.
Niềm hy vọng của nhân loại
(Suy niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư;
người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc 1:52-53). Lời kinh Magnificat của
Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét
hơn qua dụ ngôn "Phú ông và Lazarô."
Hai con người rất gần nhau trong không
gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống. Phú ông mặc toàn gấm vóc, lụa là;
người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú ông ở nơi nhà cao cửa rộng; Lazarô
lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày yến tiệc linh đình; Lazarô không
một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong thiên đàng dương thế; Lazarô chịu
cảnh hoả ngục trần gian.
Thế giới của hai người chỉ cách nhau
bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau vô cùng. Người nhà giàu chẳng
khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới người nghèo. Ông ta chôn mình
trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi
mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh "lau tay" đi
vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn "có lòng" hơn phú ông khi
không "cắn gậy ăn mày," nhưng đến liếm các mụn ghẻ cho anh ta.
Thời xưa, trên các bàn ăn của người Do
thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau tay như ngày nay. Người ta dùng tay
để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang trọng hay trong những nơi quyền quí,
người ta có thói quen lau tay ngay trên những miếng ruột bánh mì mà sau bữa ăn
sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh "lau tay" mà Lazarô khao khát trông
chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn làm ngơ, vô tình.
Nhưng rồi cái chết ập đến làm đổi thay
tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì được đưa lên mây trời; còn người
ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng;
còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải chăng Kinh thánh muốn nói: hễ sung túc
đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ hôm nay sẽ được hạnh phúc ngày mai?
Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là tội và nghèo khổ cũng chưa chắc là
tấm vé thiên đàng.
Ân phúc là việc người nghèo biết tựa
nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh xưng duy nhất mà Thánh Luca đã đặt
cho nhân vật "ăn mày" trong dụ ngôn trên. Lazarô có nghĩa là
"Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi." Như thế, kẻ ăn mày này đã biết tin
tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù đang nghèo rớt mồng tơi. Chính
niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho anh ta ơn phúc làm con tổ phụ
Abraham--cha những kẻ tin.
Còn người phú hộ, ông ta đâu có bóc lột
hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra lệnh tống cổ tên ăn mày khỏi cổng nhà
mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận gì của Lazarô, vậy cớ sao lại bị đoạ
đày trong chốn cực hình như vậy?
Thái độ đáng trách của Phú ông là đã làm
ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh. Tội của ông là sự dửng dưng, coi
như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng phải vì người phú hộ đã làm điều gì
thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không làm gì cả cho kẻ khốn cùng.
Không phải chỉ có làm điều xấu mới là
tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa cách Thiên Chúa và
tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không hề vương vấn đã làm cho hố sâu
ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi không thể qua được.
Người nghèo phải đau khổ vì sự bần cùng
đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn nạn vì sự giàu sang, nếu trong đó
không có tình yêu và xót thương.
Một nhà tư tưởng đã chỉ ra hai nguy cơ
của sự giàu có thiếu tình thương như sau:
Một là nó khép kín lòng mình với Thiên
Chúa: người ta bằng lòng với những lạc thú
trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan trọng.
Hai là nó khép kín lòng mình với tha
nhân: người ta không còn nhìn thấy người
nghèo nằm ngay bên cổng nhà mình.
Hoả ngục chính là sự kéo dài của tình
trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Hố ngăn
cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời sau người ta sẽ hết phương trở về
bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng: "Con người đã tự phán xử
chính mình ngay ở đời này"(Noel Quesson).
Nếu tôi yêu mến và liên kết với Thiên
Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan Nước Trời. Trái lại, nếu tôi ích
kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm đến việc chia sẻ phúc lộc mình
có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp đời đời cho tôi.
Dụ ngôn "Phú ông và Lazarô" là
lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, say hưởng trần gian, quên đi
tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng liên
đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Mẹ Têrêsa Calcutta có nói: "Ngay
trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể chúng ta là ai, đã từng sinh sống
nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả chúng ta, những người được tạo dựng
theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay yêu thương của Ngài, chúng ta sẽ phải
đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ theo những gì đã sống và làm cho người
nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu mực cho việc phán xét sẽ được đưa
ra."
"Chúng ta phải càng ngày càng ý
thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của nhân loại, bởi vì chúng ta
sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử với họ. Chúng ta sẽ đối đầu
với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên Chúa. Và Ngài sẽ nói: "Xưa
ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và những gì ngươi đã làm cho một
trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta."
"Kẻ bé mọn" không chỉ là những
người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là những ai đang thiếu thốn về tinh
thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng không ít người nghèo giáo lý,
kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai trao ban.
Thế nên, hôm nay, sau khi nghe tiếng
Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy rộng mở cho yêu thương
và sẻ chia.
21.
Người nghèo… nằm bên cổng
nhà
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn
Văn Độ)
Dụ ngôn Đức Giêsu kể cho chúng ta hôm
nay được xếp vào loại chú giải “các dụ ngôn khủng hoảng đạo đức”, giúp chúng ta
nhận thức được vấn đề đích thực trong đời sống, và đặc biệt cảnh báo chúng ta
rằng sau thời gian của lòng thương xót, chắc chắn đến sự phán xét bất ngờ .
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta,
Ngài đã xây dựng cốt truyện hợp tình hợp lý khi dựng cảnh và giới thiệu các
nhân vật, rồi kết luận bất ngờ, buộc chúng ta phải im lặng và suy nghĩ.
Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc,
lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đinh” báo trước, đây là người không có nhân đức
chừng mực; nhưng không nói ông đã làm giầu cách bất lương: ông dùng của cải ông
có. Tương phản liền với câu văn sau (anh Lazarô nghèo), gợi lên những chỉ trích
phê bình. Người phú hộ, nếu có điều kiện ông sẽ chè chén, đó là việc làm của
ông; nhưng ông không nhận ra anh Lazarô nghèo nằm ngày ở cổng nhà mình là một
điều không thể chấp nhận được.
Đời sống ích kỷ khiến ông chỉ chú ý đến
mình và qui mọi sự về mình, nên ông bị mắc kẹt trong sự thờ ơ, trở thành tù
nhân của nhà tù mạ vàng của chính ông. Ông đã trở nên mù quáng trước nhu cầu
của người anh em đồng loại, và điếc trước tiếng gọi của Thiên Chúa từ bi ái
tuất.
Sự kiện bất ngờ ập đến với nhà phú hộ và
anh Lazarô nghèo là cả hai cùng chết, cùng chịu xét xử cách. Đức Giêsu cho thấy
rõ bản án thật nghiêm khắc: người nghèo vui mừng và đầy tràn hoan lạc, được đem
lên trời nơi lòng Abraham, vui mừng giữa các triều thần thánh. Còn nhà phú hộ được
đem đi chôn cất trong lòng đất. Mỗi người bằng bắt đầu cuộc sống của mình sau
cái chết: người nghèo được tách khỏi thế gian này, anh có thể được cất nhắc lên
trời; người giầu khám phá ra sự hư không của một cuộc đời với những thú vui
trần thế.
Thật đáng ngạc nhiên khi tình thế hoàn
toàn bị đảo ngược sau khi chết, cuộc đối thoại giữa Abraham và người giầu có
khẳng định điều đó: nhà phú hộ đau khổ tột cùng, ông nài xin Lazarô cho ông một
chút nước để làm mát lưỡi. Thật không thể nào hiều nổi một “vực thẳm” ngăn
cách, khiến người ta không thể làm được một cử chỉ nào với lòng thương xót .
“Vực thẳm không thể qua được này” đề cập đến sự cần thiết phải hoán cải ngay
lập tức. Ngay hôm nay cần phải thức tình “Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy
bạn hữu, để khi mất hết tiền bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ
đời đời” (Lc 16, 9), ngày mai sẽ quá muộn.
Dụ ngôn kết thúc ở đây: như một lời nhắc
nhở hữu ích về ảo tưởng của sự giầu sang mà tiên tri Amos đã loan báo mạnh mẽ
trong bài đọc I. Tuy nhiên, trong trình thuật Đức Giêsu lại làm nổi bật hơn,
khi đưa ra một vấn đề thời sự khá bất ngờ, buộc người nghe phải đặt mình trong
tương quan với bản thân.
Nhà phú hộ xin với Cha Abraham, nếu
không bớt được đau khổ cho ông thì ít ra cũng cảnh báo anh em ông khỏi rơi vào
cảnh buồn tủi thế này. Câu trả lời của tổ phụ Abraham nại đến “Môisen và các
tiên tri” sẽ thức tỉnh lương tâm họ: nhưng theo nhà phú hộ thì các chứng nhân
Cựu Ước không đủ để thức tỉnh anh em ông về sự quyến rũ của thế gian này. Nên
ông nài nỉ: “Nhưng nếu có ai đó trong kẻ chết hiện về với họ, thì ắt họ sẽ hối
cải”. Lời khước từ của Abraham khép lại dụ ngôn ngày lập tức: “Nếu chúng không
chịu nghe Môisen và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng
cũng chẳng chịu nghe đâu”.
Rõ ràng: nếu chúng ta từ chối nghe lời
Thiên Chúa không ngừng kêu gọi sám hối ăn năn, cứ đóng kín lòng mình trong sự
ích kỷ của cái tôi, chúng ta sẽ không thể gia nhập cộng đoàn huynh đệ đã được
Đức Kitô Phục sinh khai mở.
Cánh cửa Năm Đức Tin đang từ từ khép
lại, thiết tưởng chúng ta cùng nhau nghe lời dạy của Thánh Công Đồng Vaticanô
II:
Của cải trần gian là để cho mọi người
hưởng dụng. Thiên Chúa đã đặt định trái đất và mọi vật trên trái đất thuộc
quyền xử dụng của mọi người và mọi dân tộc. Chính vì thế, của cải được tạo dựng
phải được phân phối cho tất cả mọi người một cách hợp lý theo luật công bằng là
luật đi liền với bác ái. Dù chấp nhận bất cứ hình thức tư hữu nào đã được nhìn
nhận bằng các định chế hợp pháp của các dân tộc, tuy nhiên tùy theo hoàn cảnh
khác biệt và thay đổi, phải luôn luôn lưu ý đến mục đích chung hưởng của cải.
Vì thế, khi xử dụng của cải, con người phải coi của cải vất chất mà mình làm
chủ một cách chính đáng không chỉ như của riêng mình, nhưng còn là của chung
nữa: nghĩa là, của cải đó có thể sinh ích không những cho riêng mình mà còn cho
cả người khác. Vả lại, mọi người đều có quyền có một phần của cải đầy đủ cho
mình và cho gia đình mình. Các Giáo Phụ và các Tiến Sĩ Giáo Hội đã nghĩ như
thế. Các ngài dạy rằng mọi người có bổn phận phải nâng đỡ người nghèo và không
phải chỉ giúp đỡ bằng của dư thừa. Còn những người sống trong cảnh cùng quẫn
cực độ, họ có quyền lấy ở của cải người khác những gì cần thiết cho mình. Trước
con số quá lớn những người đói khổ trong thế giới, Thánh Công Đồng thiết tha
kêu gọi mọi người hoặc mọi chính quyền hãy nhớ laị lời sau đây của các Giáo
Phụ: "hãy cho kẻ sắp chết đói của ăn, vì nếu không cho họ ăn tức là đã
giết họ". Tùy theo khả năng, họ nên thực sự san sẻ và dùng của cải của
mình đặc biệt để giúp phương tiện cho mỗi người hoặc cả một dân tộc để chính họ
có thể tự túc và phát triển. “Gaudium et Spes”, • 69.
Vậy, hãy hướng nhìn về Chúa Giêsu, là
nguồn gốc và cùng đích của đời sống đức tin, hãy sống “trong tình yêu, kiên trì
và hiền hậu; tuân giữ huấn lệnh Chúa truyền”, nghĩa là: sống trong tình bác ái
huynh đệ chịu đựng lẫn nhau, cho tới ngày chúng ta ra trước tòa Thiên Chúa, “là
Chúa tể duy nhất, là Vua các vua, Chúa các chúa, chỉ mình Ngài tồn tại đến muôn
đời” đón chúng ta vào nhà của Chúa và ban cho chúng ta sự sống của Chúa, thể
theo sự quan phòng nhân từ của Ngài đối với chúng ta, qua Đức Giêsu Kitô (Ep
1). “Nơi Người, mọi vinh quang và quyền lực dến muôn đời. Amen!”
22.
Trái tim tình người
– Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng
KHOẢNG CÁCH VẬT CHẤT
“Trong lịch sử, chưa bao giờ nhân loại
đạt được một sự bình đẳng dù ở bất cứ một mức độ tương đối nào, nhưng những gì
đang tồn tại, thực sự gây nên những mối lo ngại lớn” (Theo nghiên cứu lịch sử
kinh tế thế giới 2000 năm qua, The World Economy: History Statistics).
“Mối lo ngại” trước tiên chính là khoảng
cách ngày một xa giữa người nghèo và người giàu, giữa nước giàu và nước nghèo.
Đó là điều tồi tệ không mong gì cải thiện được.
Lướt qua số liệu tổng kết khoảng cách
giữa các nước kém phát triển và các nước phát triển – giữa dân nghèo và dân
giàu – càng lúc càng tăng cao, chúng ta mới thấy rõ đúng là “mối lo lớn” thật
sự. Nếu năm 1820 khoảng cách là 3:1, sau 30 năm là 35:1, và đến năm 2002 đã là
75:1.
Khoảng cách giàu - nghèo tiếp tục gia
tăng
Cuộc đấu tranh vì công bằng của nhân
loại hẳn còn cả chặng đường dài: báo cáo mới của Tổ chức Hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD - Organization for Economic Cooperation and Development) cho thấy
khoảng cách giàu - nghèo ở 30 nước giàu nhất vẫn tiếp tục tăng trong 20 năm
qua, đặc biệt là ở Mỹ. Các tiến bộ về thương mại và kỹ thuật đã giúp kinh tế
các nước thành viên OECD phát triển nhanh chóng, nhưng đời sống tầng lớp thấp
không cải thiện là mấy.
Nghiên cứu trong suốt 20 năm của OECD
cho thấy có đến 27/30 nước có tình trạng thu nhập người giàu thì tăng trong khi
nhóm còn lại giậm chân tại chỗ. Mỹ là nước có tỉ lệ chênh lệch giàu nghèo cao
nhất, chỉ sau Mexico và Thổ Nhĩ Kỳ, và khoảng cách này đã tăng nhanh kể từ năm
2000 tới nay. Pháp trong khi đó giảm được phần nào sự bất bình đẳng này khi
công nhân nghèo đã được trả lương tốt hơn. Ở Mỹ, 10% người giàu nhất thu nhập
trung bình 93.000 USD/năm (cao nhất trong OECD) trong khi 10% người nghèo nhất
chỉ thu nhập 5.800 USD/năm, thấp hơn khoảng 20% so với mức trung bình của OECD.
Nhóm 10% giàu nhất chiếm tới 71% tài sản của toàn bộ nước Mỹ. Thu nhập 10% giàu
nhất ở Pháp là 54.000 USD/năm so với 9.000 USD/năm của 10% nghèo nhất. Con số
tương ứng ở Nhật Bản là 60.000 USD và 6.000 USD.
Đằng sau sự văn minh của thế giới, vẫn
là thiên tai, ô nhiễm, dịch bệnh, cái nghèo cùng cực và chết đói. Đằng sau sự
hào nhoáng của các quốc gia đều là những mảng tối. Chiếc bánh kinh tế toàn cầu
đã nở phồng lên theo tỷ lệ chưa từng thấy, nhưng đáng buồn là người giàu đã ăn
hầu hết phần bánh này. Họ dùng cả quyền lực để bảo đảm phần béo bở nhất và chỉ
nhường phần vụn thừa rơi rớt cho người người nghèo đói (góp nhặt từ Internet).
Đó là câu chuyện Phú ông và Lagiarô thời
đại.
KHOẢNG CÁCH TINH THẦN
Khoảng cách tinh thần: đó là sự “lạnh
lùng” đáng sợ của một bộ phận đông đảo những người giàu có. Sự ấm áp đã làm cho
họ không thể hiểu nổi thế nào là băng giá. Sự no đủ đã làm cho họ không thể
hình dung được thế nào là đói khát. Sự hưởng thụ sung túc đã làm cho họ không
thể tưởng tượng được thế nào là cùng khổ.
Ánh mắt của đa số những người giàu có
luôn chỉ có một hướng nhìn về “thế giới thiên đàng vật chất” và họ chìm đắm
trong mơ ước không ngừng vươn lên cao hơn nữa trong khoái lạc riêng tư với niềm
tự hào, tham vọng, và cả lòng ganh tỵ đua chen.
Họ bỏ mặc - hay không còn nhận ra - một
thế giới khác đang ở ngay bên cạnh họ. Thế giới của một Lagiarô cùng khổ và cực
kỳ bất hạnh. Có khi không phải họ khinh miệt người cùng khổ, thật ra - và là
điều đáng sợ - họ quên sự hiện diện của người cùng khổ đang cùng sống với họ
trên hành tinh này.
Họ sống trong thế giới hiện thực đầy no
thỏa và hóa thân thành thần thánh đầy hạnh phúc trong thế giới thiên đàng ảo -
thế giới giàu có vật chất và dư đầy hưởng thụ - cho đến một ngày nào, khi tài
khoản thời gian của họ đã hết. Đó là lúc họ mới nhìn thấy thế giới của Lagiarô,
một thế giới thần thánh hiện thực mà Lagiarô đã vươn đến được từ thế giới cùng
khổ với một đời bất hạnh luôn đói khát no ấm và tình yêu. Nhưng khát vọng ấy
Lagiarô đã không tìm thấy được trong thế giới hữu hình mà Lagiarô đã trải qua.
Bây giờ, khi ông nhà giàu chết, ông mới
bước vào một thế giới thật - đây mới là thế giới thật! - Ngỡ ngàng nhận ra đây
không phải là Thiên Đàng sau những tháng ngày sống trong cõi thiên thai của
“thiên đàng ảo” đã tan biến!
Bây giờ, họ - những con người của thế
giới phú hộ - mới nhận thấy Lagiarô từ xa. Con người bần cùng, mà trước đây -
và cũng là thế giới bần cùng mà trước đây - đã ở ngay bên cạnh họ, ngay trước
mắt họ, chỉ cần bước một vài bước là đã thấy, chỉ cần cúi xuống một chút là đã
chạm tới - nhưng họ đã không hề biết đến! "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực
hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh
Lagiarô trong lòng tổ phụ”(Lc.16,23).
Trên đỉnh cao của sự sang trọng, giờ ở
tận cùng của sự đọa đày, những con người như nhân vật phú ông mới ngộ ra được
thế nào là đau khổ tận tâm cang. “Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ
Áp-ra-ham, xin thương xót con, và sai anh Lagiarô nhúng đầu ngón tay vào nước,
nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!”(Lc.
16.19-31).
LẠC LỐI
Trong nơi đọa đày, phú ông mới biết mình
đã lầm đường lạc lối."Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ
phụ sai anh Lagiarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin
sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!’” (Lc.
16.27-28).
Có phải vì thiếu thông tin, thiếu sự
hướng dẫn, thiếu giáo huấn, mà phú ông đây “sa vào chốn cực hình” không? – Chắc
hẳn là không rồi.
Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên
Chúa đã đặt để Giáo Huấn Tình Thương của Ngài trong lòng trí con người. Thiên
Chúa không ngừng Giáo Huấn con người tiệm tiến theo thời gian. Cho đến khi Ngài
chọn Dân Riêng của Ngài để ban tặng cho con người Đấng Cứu Thế. Nhưng Lịch Sử
Cứu Độ cho thấy con người đã nhiều lần “để ngoài tai” lời răn dạy của Chúa. Và
lịch sử con người cũng chứng minh con người luôn nuôi tham vọng riêng mình,
sống ích kỷ chỉ vì bản thân, không biết chia sẻ và yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
“Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời
các vị đó’. Ông nhà giàu nói: "Thưa tổ phụ Áp-ra-ham, họ không chịu nghe
đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối. Ông
Áp-ra-ham đáp: "Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người
chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin.’”(Lc.16,29-31).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có kể một câu
chuyện:
Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, khi
được quyền nhiếp chính chức vụ tể tướng, nét mặt có vẻ vui mừng. Trò của ngài
là Trạng Do liền hỏi:
- Do này vẫn được nghe là những người
quân tử, thấy tai họa đến cũng không sợ, thấy hạnh phúc tới cũng không vui
mừng, thầy mới được có địa vị mà vui mừng như thế là cớ làm sao?
Khổng Tử đáp:
- Phải có câu nói ấy thực, nhưng há
chẳng có câu nói rằng: “Người ta vui vì được đem địa vị cao quí của mình mà hạ
xuống cùng với mọi người sao?
Giới Luật Yêu Thương đòi hỏi sự chia sẻ
trong tình liên đới giữa người với người. Tội lỗi không chỉ là lánh xa những
điều độc ác, mà còn phải làm những điều chân thiện. Dân gian cũng có câu: “làm
lành lánh dữ”. (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn…Mt.25,31-46).
Câu chuyện phú hộ và Lagiarô vẫn còn
tiếp diễn trong thế giới hôm nay. “Ông Áp-ra-ham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà
họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu
tin.’”(Lc.16,31).
Còn hơn thế nữa, chính Đấng Cứu Thế đã
đến với nhân loại. Giáo Huấn Tình Thương của Ngài đem đến cho con người sự an
bình và dịu ngọt biết bao! Thế nhưng, vẫn còn đó “những người giàu có” lạnh
lùng trước những “Lagiarô” đầy đau khổ và bất hạnh. Trong rất nhiều hoàn cảnh,
Giới Luật Yêu Thương vẫn còn nằm bên lề cuộc sống.
Nhưng, dù thế nào đi nữa, người Kitô-hữu
chúng ta vẫn luôn sống trong hy vọng. Ánh sáng Tin Mừng vẫn tiếp tục chiếu soi
trong thế giới tối tăm này. “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không
diệt được ánh sáng” (Ga.1,5).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống
tình liên đới bằng con tim rộng mở, để biết chia sẻ với đồng loại nhân danh
Tình Yêu Thiên Chúa. Amen.
23.
Có một vực thẳm – Lm Antôn
Nguyễn Cao Siêu
(Trích dẫn từ ‘Manna’)
Suy Niệm
Tài sản của ba người Mỹ giàu nhất thế
giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ
nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo
dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới trong một thời gian
dài.
Khi nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu
và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế giới.
Hố sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô
thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng
cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói
mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi xuống.
Ông nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có
biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô trên đời. Tiện nghi vật
chất đã thành bức tường kín. Ông sống an toàn mãn nguyện trong khoảng không
gian riêng. Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn cách.
Không cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến
anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự cô lập mình không thể
đảo ngược được. Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau
là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông nhà giàu bị phạt, không phải vì ông
đã bóc lột ai, nhưng vì ông không bị sốc chút nào trước sự chênh lệch ghê gớm
giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn
đến hoán cải.
Nhiều nước giàu vẫn trợ giúp các nước
nghèo, nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài
nguyên, nhân công, và bị nô lệ cho những món nợ không sao trả hết.
Ông nhà giàu bị phạt không phải vì ông
đã nhận nhiều, nhưng vì ông đã không san sẻ những gì mình nhận.
Giàu không phải là một tội, của cải tự
nó không xấu.
Có bao người giàu tốt như Dakêu,
Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ
nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn, hưởng thụ, bị ám ảnh
bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng ta có thể nghèo của cải, nhưng
giàu có về các mặt khác: giàu kiến thức chuyên môn, giàu thế lực ảnh hưởng,
giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn Chúa.
Hãy tập nhìn xuống để thấy bao người
dưới mình.
Chia sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác
lên bằng mình.
Ước gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán
cải, để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô nằm ngay nơi cửa, trong
khu xóm... Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta cũng đủ làm nhiều người
no nê hạnh phúc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa
đến sự chênh lệch lớn lao giữa kẻ giàu người nghèo? Có cách nào làm giảm bớt sự
chênh lệch đó không?
Nếu bạn là Bill Gates, với tài sản 50 tỉ
đô la, bạn có muốn làm gì cho người nghèo trên thế giới không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng tấm
bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong tủ thuộc về người
trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao điều con giữ mà chẳng
dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng quẫn, có bao điều con
hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều con định mua sắm dù
chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng nguồn gốc sự bất công
chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi sự khép kín của lòng
con.
Con phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo
trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và
tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có quyền hưởng.
Cha để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt,
vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn nhiều người đói nghèo là vì
chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con biết cách đầu tư làm
giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
24.
Hai khuôn mặt trái ngược nhau
(Trích dẫn từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu)
Suy Niệm
Dụ ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái
ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói
lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.
Hai người ở gần nhau, chỉ cách nhau một
cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau.
Ông nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà
nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ chức tiệc tùng và mời
quan khách.
Ladarô đã chết trong cảnh đói nghèo và
bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.
Cái chết đồng đều cho mọi người, nhưng
số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu
bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở
hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ điều mình có dư thừa.
Ông nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng
đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén cho hạnh phúc của
mình.
Không phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo
được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp
nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Thế giới văn minh lại càng đào sâu hố
ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người giàu và đa số người
nghèo.
Chính tôi cũng giàu về một mặt nào đó:
giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng trong xã hội, giàu đời
sống thiêng liêng.
Hố sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở
tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên thế giới là của mọi
người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một nhân vị, sống như con
cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.
Mỗi người chúng ta đều có một Ladarô chờ
ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở
nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn trong nhân cách.
Dù người chết hiện về, dù kẻ chết sống
lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.
Chỉ Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối
ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga 3,17).
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ trưởng thành khi biết quên
mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành
của mình dựa trên nguyên tắc đó không?
Ai cũng giàu có về một phương diện nào
đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm
giàu có không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con nhìn thấy những
người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến con.
Bất cứ ai đang cần đến con đều là người
nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu rằng cả người giàu cũng
nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp nhận rằng cả bản thân
mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm khi con cần một nụ cười, một ánh
mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai
cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người khác. Như thế là chúng
con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu có.
Cám ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa
rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để
nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
25.
Môi trường đức tin –
Achille Degeest
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’)
Phần đầu dụ ngôn người phú hộ xấu trình
bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng dạy mà các ngôn sứ nhắc đi nhắc lại
nhiều lần. Nhờ thế chúng ta biết rõ hình phạt cuối cùng nào chờ đợi những kẻ
sống trong xa hoa mà tuyệt nhiên không động lòng bố thí cho kẻ cùng khổ nằm
dưới mái hiên nhà mình. Dụ ngôn nhấn thêm vào khía cạnh thảm hại một cuộc sống
ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng được tâm hồn đón nhận đức tin. Đó
là phần kết của dụ ngôn. Đức Kitô dạy rằng cuộc sống vĩnh cửu được chuẩn bị
ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian khiến cho tâm hồn khép kín đối
với đức tin, thì mai ngày sẽ không thể đón nhận hạnh phúc vĩnh cửu. Vấn đề
nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận đức tin hay không –chắc hẳn
dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin nảy rễ trong những tâm hồn
tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.
1) Tự do của tâm hồn.
Đây là sự tự do quyết định thái độ trước
những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian và tiền bạc hiến cho một số người.
Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên địa vị chủ nhân ông, nó trở nên ám
ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn bản của tiền bạc là nó ngăn chặn
chuyển động của tâm hồn đi tìm Nước Thiên Chúa trước hết mọi sự. Tiền bạc là
công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt; tiền bạc làm đồi bại những tâm
hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến. Khi con người buông mình theo
sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù quáng về hai diện. Trước hết,
mất ý niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng gọi của đức tin –mất luôn cả
ý niệm về chính mình và không nghe thấy những đòi hỏi của đức công bằng. Trong
một thế giới đóng kính như thế, nếu có những lúc thấy vắng thiếu Thiên Chúa,
thấy anh em đau khổ thì cũng thản nhiên cho là thường, chẳng đáng bận tâm. Sa
đoạ tới mức ấy chính vì đã mất hết quyền tự do làm một con người thật sự, mất
quyền tự do cao quý để có thể chấp nhận đức tin.
2) Tâm hồn khiêm hạ dễ chấp nhận.
Sự thể tiến trình mặc khải phải qua
những trung gian nhân loại. Một số người xử sự như mấy người Do thái xưa kia
đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ mình ra cho họ trong ánh hào quang chói
loà của một quang cảnh hiển linh không ai chối cãi được. Họ chẳng hiểu gì hết.
Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà không chết vì thế. Tiếp đến, nhìn
thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể không tin. Rất nhiều người Do thái
chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà goá ở Naim và ông Ladarô ở Bêtania sống
lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin vào Đức Kitô không? Tại sao họ vẫn cứng
lòng? Họ không tin vì tâm hồn họ không có đức khiêm hạ, họ không đầu hàng sự
thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ thì chấp nhận những định chế nhân loại (ví dụ
Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền thông đức tin.
3) Đức tin sống động thì có tình yêu
thương.
Luật truyền lớn nhất của Đức Kitô là
kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu kẻ khác vì Thiên Chúa. Nếu
chẳng may tâm hồn sa đoạ, trở nên khô cằn, thậm chí khả năng yêu thương bị tê
bại, thì làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng thời cũng là một tình yêu?
Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn mạnh chính là môi trường
của một tâm hồn trong sạch tươi mát, vì chỉ những tâm hồn như thế mới có khả
năng thật sự yêu thương.
26.
Lazarô sẽ không bao
giờ tự mãn
(Trích dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ -
Charles E. Miller)
Trong suốt Thánh Lễ, chúng ta thường
nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ ngôn. Điều đó có thể đã giúp cho
chúng ta tự hỏi: “Tôi là ai trong dụ ngôn đó?”. Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói
môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người giàu có không hề chú ý đến người ngheo
trước cửa nhà mình. Người phú hộ trong câu chuyện không có tên (ông ta có biệt
danh là “Dives” từ này trong từ Latinh có nghĩa là giàu có). Có lẽ việc thiếu
tên là một dấu hiệu để cho chúng ta suy nghị xem chúng ta là người nào và người
đó là người tự mãn, thỏa mãn với những gì mình đang có và vì thế mà ông ta đã
không chú ý tới Lazarô nơi cổng nhà mình, ngay khi Lazarô bị ốm rất nặng, mình
bao bọc đầy những mụn, rất đói và ông ta thèm thuồng nhìn những miếng bánh vụn
rơi từ bàn người phú hộ xuống đất nhưng không có mà ăn.
Cũng có một cách khác để thấy chúng ta
trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng ta đồng ý rằng chúng ta được cảnh
báo để nhìn thấy và chăm sóc những người có những nhu cầu khẩn thiết, chúng ta
có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả chúng ta là Lazarô. Hay chính xác
hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù thiêng liêng chứ không theo một
cách thể lý.
Không có sự cứu chuộc bởi Đức Kitô thì
chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có những mụn nhọt bên ngoài nhưng
bên trong chúng ta thì đầy tội lỗi. Chúng ta đã thiếu những của ăn không chỉ là
những bánh vụn nhưng là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng
của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ không bao giờ bước qua ngưỡng
cửa nhà của Người ở trên mặt đất này, để một ngày kia chúng ta bước vào ngôi
nhà đời đời ở trên trời.
Thiên Chúa đã thương xót chúng ta. Người
đã gửi Con của Người là Thượng Tế tối cao, là Đấng trung gian của chúng ta,
Đấng đã băng qua khoảng cách lớn lao của vực thẳm tội lỗi mà Abraham đã nói với
người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi Thiên đàng. Thiên Chúa đã cho chúng ta
đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc của sự chết Đức Kitô, và để âu yếm chân
lý về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục Sinh đó là nguồn mạch bảo đảm cho niềm
hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên Chúa đã trao cho chúng ta sự khôn ngoan
để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa đã
hiến thân vì chúng ta, Máu quý giá của Ngài đã đổ ra vì chúng ta.
Cách thiêng liêng chúng ta có thể giống
như Lazarô trong sự khốn khổ thể lý của ông nhưng chúng ta đã trở thành giống
ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần. Chúng ta là những kẻ đã được chúc
phúc thật sự vì Chúa Giêsu đã không đối xử với chúng ta như là người phú hộ đối
xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà Chúa Giêsu đã giới thiệu trong dụ ngôn,
hãy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô trở lại trên mặt đất này. Thế bạn có
nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người phú hộ, người đàn ông giàu có đó
không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với những người bây giờ có hoàn cảnh
khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng Lazarô sẽ làm bất cứ điều gì để
thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có thể cho những người ăn xin những
miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?
Nhưng không cần chúng ta tưởng tượng
Lazarô đã trở về từ cõi chết. Chúng ta là những Lazarô, tất cả mọi người chúng
ta đều làm như thế. Tất cả những gì mà Thiên Chúa đã làm cho chúng ta sẽ là sự
thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối với những kẻ có nhu cầu, tử tế với
những người không có sự an ủi và yêu thương hướng đến mọi người như Thiên Chúa
đã hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng của Thánh Lễ, vị linh mục đã tuyên
bố nhân danh chúng ta: “Lạy Cha, chúng con xưng tụng Cha ở mọi nơi, dâng lên
Cha lời cảm tạ”. Lời kinh phụng vụ tạ ơn của chúng ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn
luôn và ở mọi nơi, để cư xử với mọi người bằng tình yêu quảng đại mà Thiên Chúa
đã trình bày cho chúng ta trong người Con của Người, vị Tư Tế và là vị Cứu
Chuộc chúng ta.
Ông phú hộ và Ladarô sống trong những
thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới.
Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, Ladarô không có gì để ăn. Ông phú hộ
mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống
trước cổng ông nhà giàu.
Thật vậy, nói rằng họ sống trong những
thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống trong một thế giới trái
ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; Ladarô sống trong một sa mạc.
Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian; Ladarô sống trong một địa ngục
loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác nhau như ngày và đêm, chúng lại ở
cạnh nhau.
Ladarô sống ở bên lề thế giới của ông
phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày anh nhìn vào thiên
đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế giới của ông, anh
cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung sướng biết bao khi
được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn của ông phú hộ rơi xuống.
Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm được việc đó mà chỉ vì
không ai muốn làm việc đó cho anh.
Dĩ nhiên, người ở vị trí tốt nhất để
giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể dễ dàng bước vào thế giới cô độc
và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đã không làm. Ông khép
kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ông lại.
Ladarô thuộc vào hạng người nghèo nhất.
Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế
nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.
Một nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời
mới của ông vào lề đường và đi làm một vài công việc. Khi ông trở lại chiếc xe,
ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi
mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.
- Thưa ông, có phải chiếc xe này của
ông? Cậu bé hỏi.
- Phải. Ông ta đáp.
- Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu
tiền để mua nó?
- Nói thật với chú bé là tôi không biết.
- Ông muốn nói ông mua nó và không thể
nhớ đã trả bao nhiêu?
- Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó.
Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.
- Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông
không mất một xu nào để mua?
- Đúng thế!
- Tôi ước gì tôi…
Nhà doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ
nói tiếp “Tôi ước gì tôi có một người bạn như thế”. Nhưng cậu bé lại nói: “Tôi
ước gì tôi có thể là một người bạn như thế”.
Và ông ta kết luận: “Đây là mình trong
bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một chiếc xe đời mới trong tay. Còn
kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm hồn cậu có nhiều tình yêu thương
hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu giàu sang hơn mình… Tôi thật sự xúc động đến
nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm
chân tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng với chiếc xe của tôi. Đó là những
giờ hạnh phúc nhất của đời tôi”.
Ông phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ
hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm hồn ông ta trống rỗng lòng thương
xót và yêu thương.
Ông không muốn cho Ladarô dù là những
mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những con chó hoang ngoài phố còn tử tế
với Ladarô hơn ông ta.
Người giàu có bị của cải làm tổn thương
cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương. “Cái xấu lớn nhất
trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ ơ khủng khiếp đối với
người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
Khoảng cách giữa ông phú hộ và Ladarô
đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những đứa trẻ trong thế giới thứ
ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi một thiếu niên:
“Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?”. “Cháu muốn sống để nhìn thấy tuổi hai
mươi”. Câu trả lời là như thế.
28.
Bác ái bắt đầu từ nhà
mình - McCarthy
Một tối nọ, một người giàu có nằm mộng
và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy một đám đông người nghèo,
bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy
sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết định bắt đầu dấn thân vào một
chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không bỏ phí thời gian, ông ngồi
vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho người nghèo cái gì.
Vừa mới đi qua cổng chính của tòa nhà
thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay đưa ra để cầu xin bố
thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn khổ của người ăn
mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy tiếp. Ông không
muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của người ăn mày này
có khốn khổ đến đâu.
Ông đi dọc ngang khắp thành phố và nhận
thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về
nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy
nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện,
một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?
Khi về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy
người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng. “Chỉ cần tưởng tượng
con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái nắng cháy da!”, ông tự
nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn nhưng một lần nữa, ông lại đi
qua không dừng lại.
Tối hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông
lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này không phải từ một đám
đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng
nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.
Mẹ Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng
yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành
phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ, nhưng không dễ khi yêu thương
những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng ta. Tôi không đồng ý với cách
thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để
yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn
phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn làm điều đó, bạn vượt qua con nước
to lớn ấy. Không còn những “triệu” người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp
xúc, gần gũi”.
Mẹ Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây:
“Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng nghèo khổ. Khi tôi đến
nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người đang nói về lương
thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà chúng
tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết vì đói. Trong lúc
những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười lăm năm, chúng ta
sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người đàn ông đó thì đã
chết.
“Tôi không bao giờ coi các đám đông là
trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ có thể yêu thương một người
ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có
lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể nhặt đến 42.000 người. Toàn
bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt
nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối với bạn, cũng giống thế.
Trong gia đình bạn, cũng giống thế”.
Người giàu có không mong cứu vớt thế
giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước cổng nhà mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một tu sĩ lang thang đến một ngôi làng.
Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một dân làng chạy đến gặp ông
và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quý”.
- Anh định nói về viên ngọc nào? Người
tu sĩ khẽ hỏi.
- Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi
ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ
cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có mãi”.
Tu sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy
một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên ngọc mà anh nói đến”, ông nói và
đưa nó cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh
hãy nhận lấy nó”.
Người đàn ông cầm viên ngọc và ngắm
nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn nhất mà anh ta chưa
bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta trằn trọc trên
giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp vị tu sĩ và
nói: “Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại viên kim cương này.
Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi viên kim cương ấy dễ
dàng đến thế”.
Người giàu có sống bằng đời sống tinh
thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống bên ngoài – điều mà người
kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.
29.
Suy niệm của R. Gutzwiller
KHÓ NGHÈO và SANG GIÀU.
Trong Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ
về vấn đề ‘hư mất’ kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người con hoang đàng. Các diễn
từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn người giàu hưởng thụ và Lagiarô
khốn khổ.
Ở đây, trình thuật không có ý nói đến
khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa người phú hộ và Lagiarô được diễn tả
bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không có ý (dầu người ta giải thích như
thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu theo nghĩa này, người ta ưa thêm
thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi nói ‘Lagiarô ước được ăn những
mụn bánh rớt từ bàn ăn’ cho đỡ đói. Người ta nghĩ nên thêm: ‘Nhưng không ai
thèm cho’. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn nữa diễn từ của Abraham cũng
ám chỉ không ít ý tưởng đó.
Dụ ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan
niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn
lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới
bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin đời sau, hành vi
đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương quan giữa Thiên
Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt, tức là giữ giới
luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương gian phần thưởng mà họ có thể được.
Người lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác
gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có nghĩa là con người đã làm
hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự trị trong lòng họ. Đó là
nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc
thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với xác tín tôn giáo của họ, và
dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không kiêng nể.
Hai nhân vật đối đầu nhau: một người
sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một người nghèo sống trong cảnh khốn
khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho đến lúc chết. Trong khoảnh khắc,
cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới bên kia, sự tương phản đôi bên cũng
gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược. Người hành khất được hạnh phúc trong
lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu muôn vàn đau khổ.
Thịnh vượng trần thế không minh chứng
giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa; cũng như nghèo khó không minh
chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng bỏ. Người biệt phái đã quan
niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.
Cho nên không thể rút ra những hệ luận
thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết trong bài trần thuật này: chẳng hạn
các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiệu những khổ hình của
hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an nghỉ trong lòng Abraham cũng thế…
Cũng không thể áp dụng trên khía cạnh
luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước ý muốn của Thiên Chúa. Thực sự,
dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số
phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh
ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ
ngôn muốn nói.
Giải thích này, vào đúng thời của nó, đã
đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt phái, đòi hỏi họ phải thay đổi toàn bộ
cảm nghĩ… Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn còn. Người ta luôn luôn đánh
giá cuộc đời của mình cũng như của người khác theo tiêu chuẩn vật sở hữu bề
ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được coi là người biết tổ
chức tốt đời của mình.
Vở kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn
hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng ta không ngại thán phục người quyền
thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công, ‘đã làm được một cái gì’ và chúng
ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống của họ đầy thất bại và không có
được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không nghĩ như chúng ta. Không nên
xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.
Tuy nhiên, con người tỏ ra xung khắc với
giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức Kitô quả quyết họ không muốn nghe
Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người chết sống lại đến bảo họ rằng họ
đang sống không đúng với đường lối của Thiên Chúa, họ không thể thay đổi lập
trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau, sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành
giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ thành quyền thế và ngược lại.
‘Chúa hạ bệ những ai quyền thế và nâng
cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi
về tay trắng’. Đức Kitô đã đến trần gian và Ngài đã nhắc đi nhắc lại điều đó
một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không tin và cũng không muốn tin Ngài…
Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của thiêng liêng, đời sống hiện tại hơn đời
sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn là số phận của Lagiarô, dù họ có
biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn toàn thay đổi.
Thực họ khó xét lại quan điểm và lề lối
suy nghĩ của mình.
30.
Thế giới cuả tình
yêu
“Ngươi đã được sự lành, còn Ladarô gặp
toàn khốn khổ”
Chương 16 của Tin Mừng Luca được lồng
vào giữa hai dụ ngôn mà mọi người nhất là người thừa tiền lắm của phải suy niệm
nằm lòng. Đó là dụ ngôn người quản lý bất lương (1-13) được đọc Chúa nhật tuần
trước, và dụ ngôn về Ladarô và người phú hộ (19-31) của Chúa nhật hôm nay.
Hai dụ ngôn đều qui về một ý tưởng:
người giàu có sẽ hư mất, sẽ trầm luân đời đời nếu không biết chia sẻ của cải
với những người túng thiếu. Chúa Giêsu đem đối chiếu hai nhân vật thật tương
phản: một nhà phú hộ chỉ biết tin cậy vào của cải để hưởng thụ, và một người
nghèo khổ chỉ biết trông cậy vào Chúa, Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
Hai người cách xa nhau một trời một vực.
Nhà phú hộ, nhà cao cửa rộng, trận vui suốt sáng trận cười suốt đêm. Người hành
khất ngồi dưới đất đen. Gần nhau mà xa nhau. Mảnh vụn bánh từ bàn tiệc của nhà
phú hộ rơi xuống cũng không đến tay người nghèo. Giữa hai người có một địa
ngục, một vực thẳm. Người giàu có thể giơ tay lôi kéo người nghèo lên, nước
giàu có thể cứu trợ nước nghèo khỏi phá sản. Có điều, họ có muốn không?
Điều bi đát là nhà phú hộ coi Ladarô như
không có. Ông chỉ biết thụ hưởng, sống chết mặc bay.
Nhưng bi đát hơn: một đêm kia sự chết
đánh gục cả hai người cùng một lúc. Ladarô được vào dự tiệc trên trời do
Abraham chủ lễ, được “ngồi trong lòng”, nghĩa là bên hữu vị tổ phụ (Ga 13,23).
Còn nhà phú hộ bị tống xuống biển lửa. Miệng ông khô đét không được một giọt
nước để làm dịu cơn khát đang giày vò, như xưa Ladarô không được một vụn bánh
rơi rớt để thoa dịu cơn đói hoành hành.
Hoàn cảnh và thời thế đã thay đổi.
Người giàu bị đuổi ra khỏi bàn tiệc,
không phải vì ông nhiều của, nhưng vì ông bị của cải đè bẹp trong chiếc hòm quí
giá người ta mang đi chôn. Người nghèo cũng chết nhưng được các Thiên Thần
“nâng bổng lên nơi lòng Abraham”. Thế giới bên kia đã mở, một thế giới không
phải của tiền bạc mà của tình yêu. Ai có tình yêu, yêu Chúa và yêu tha nhân,
mới được vào.
Thời gian viên mãn. Công tội được cân
nhắc và báo đền.
Abraham nói: “Suốt đời con, con được
toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn khốn khổ”. Một tuyên ngôn nặng nề vì là một
bản án vô phương giải toả.
Người chết đi, nhưng còn năm anh em ở
lại. Họ cũng sống trong nhung lụa, coi người nghèo như không có trên mặt đất.
Có thể trong một ngày tang lễ, họ cũng
đã đổ vài giọt nước mắt, nghe vài lời giảng thuyết: “Hỡi người hãy nhớ người là
bụi tro, sẽ hoàn về tro bụi” (Stk 3,19). Nhưng rồi đâu lại vào đấy, Người đi đi
mãi, kẻ ở vẫn tiếp tục cuộc sống lạc hoan. Phải một phép lạ, một người chết
hiện về may ra mới cảnh tỉnh được họ. Nhưng trong thực tế, họ đi “cầu cơ, gọi
hồn” vì tò mò, nhưng đời sống vẫn không thay đổi một gang một tấc.
Chỉ có Lời Chúa mới cứu vãn, nếu họ biết
lắng tai nghe.
Lạy Chúa, xin cho lòng con đầy ưu ái,
đầy tình thương cảm đối với tha nhân.
31.
Tôi có đọc Kinh Thánh hay không?
Chúng ta có thể tưởng tượng đang chứng
kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có sung sướng vui cười và Ladarô
nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có trở nên rất bất hạnh còn người
nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca thích loại đảo ngược này, và vì
ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết và viết bằng một văn phong xúc
tích vô cùng:
“Người nghèo chết và được thiên thần
mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và người ta chôn ông”.
Chúng ta không dự vào quang cảnh đó,
chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn đánh động. Và trước tiên dụ
ngôn không nói đến người giàu có “xấu xa”, nhưng đơn giản chỉ là “một người
giàu có” và thậm chí sáu người giàu: người giàu quá cố và năm người anh em của
ông ta còn sống. Trong khi tỏ cho chúng ta thấy họ mù và điếc đến độ nào, Chúa
Giêsu cảnh cáo tất cả chúng ta: “Các ngươi đừng chờ đợi cái chết mở mắt cho
mình về sự sống”.
Người giàu có không “thấy” Ladarô. Ông
đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của ông, điều đó không làm ông rầy rà:
ông không “thấy” gì cả. Thật là một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị
bỏ mặc, những người láng giềng nói: “Chúng ta đâu có thấy gì!”. Không phải tất
cả những người sung sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá,
nhưng họ không thấy. Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự
đau khổ chung quanh họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.
Đối với người giàu này, quá trễ rồi.
Cuối cùng, ông ta “thấy” Ladarô, ông cũng thấy điều phải trả giá đó là giàu
tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu đời này không còn có thể giúp
gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã
từng “hạnh phúc” trước đây: Ông sẽ không bao giờ có thể vượt qua “vực thẳm lớn
lao” được.
Vì không hoàn toàn xấu xa và rất gắn bó
với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo cho các anh em của ông.
- “Lạy tổ phụ Abraham,… xin sai anh đến
cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!”, ông nói với Abraham
như thế.
Abraham nói: “Chúng đã có Mô-sê và các
Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”.
Người giàu có có tính hoài nghi. Ông đã
có Lời Chúa, thế mà …. Cần phải khua chiêng gióng trống nhiều hơn nữa để làm
cho người ta ăn năn thống hối.
- Không, Abraham nói, để ăn năn thống
hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.
Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với
chúng ta:
Bài học của các dụ ngôn thường là nằm ở
kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là “mũi nhọn”. Ở đây, chính tầm quan trọng
được gán cho Lời Chúa. Chúa Giêsu nói qua Abraham: “Chúng đã có Mô-sê và các
Ngôn Sứ”.
Thậm chí tôi có thể dễ dàng vượt lên
trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng không thấy những người anh em
của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo Chúa Giêsu. Đối với tôi dường như
nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo trộn, một sự mặc khải, một cuộc hiện
ra chẳng hạn…
- Không, Chúa Giêsu nói, không có gì
khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ.
Tôi phải để cho mình bị thương thật sâu
do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng Kinh Thánh có được lật từng trang, được
đọc một cách không mệt mỏi hay chăng? Chúng ta có Lời Chúa tại sao chúng ta còn
tìm kiếm điều gì khác nữa?
32.
Sống trong thế giới
trái ngược
Đó là một ngày tháng bảy. Một người đàn
ông ngồi ở bàn giấy trong một phòng có máy điều hòa. Nhiệt độ trong phòng ở 23
độ, một nhiệt độ thích hợp. Ông ta cảm thấy đầy nghị lực. Từ cửa sổ ông nhìn
thấy mặt trời đang chiếu sáng rực rỡ ở bên ngoài và thỉnh thoảng một cơn gió
nhẹ lay động các ngọn cây. Đó là một ngày rất đẹp!
Ông ta nhìn một cậu thiếu niên đang làm việc
trong sân. Căn cứ vào những động tác chậm chạp của cậu, người ta phải nghĩ rằng
cậu là một tù nhân làm việc khổ sai. Cậu nghỉ ngơi thường xuyên. “Cậu ta có vấn
đề gì? Làm sao mà một người trẻ tuổi lại lười biếng như thế?”. Người đàn ông tự
hỏi.
Nhưng gần đến trưa, người đàn ông đi ra
ngoài để làm một vài công việc. Ngay khi ông bước ra khỏi phòng, ông đụng phải
hơi nóng như những làn sóng cản đường. Nhiệt độ bên ngoài là 34 độ và độ ẩm của
không khí khá cao. Bấy giờ ông mới biết cậu bé đã chống chọi với cái gì. Và
trong một ngày oi bức như thế này, ông ngạc nhiên vì cậu bé chưa bị ngất xỉu.
Mặc dù thế giới của ông được ngăn cách
với thế giới của cậu bé chỉ bằng bề dày của một bức tường, hai thế giới ấy khác
nhau nhiều lắm. Tuy nhiên nếu ông không rời khỏi thế giới của ông để bước vào
thế giới của cậu bé, hẳn ông sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau đó.
Chúng ta có thể cách người khác chỉ một
tầm tay, nhưng sống trong một thế giới khác với người ấy. Tuy nhiên, chúng ta
sẽ không bao giờ hiểu được sự khác nhau ấy trừ khi chúng ta rời bỏ thế giới của
chúng ta và bước vào thế giới của người đó. Chúng ta không bao giờ hiểu được
điều đó từ bên ngoài.
Ông nhà giàu (phú hộ) và Ladarô đã sống
trong những thế giới trái ngược, dù rằng những thế giới này nằm bên cạnh nhau.
Nhưng ông nhà giàu chưa lần nào bước vào thế giới của người nghèo. Ông không
nhìn thấy Ladarô như một con người, càng không phải là người anh em mà ông có
thể chia sẻ nhân tính chung. Ông lãnh đạm, thờ ơ với Ladarô, và lãnh đạm là một
thói xấu lớn.
Làm sao có thể như thế được? Của cải làm
cho một người chỉ nghĩ đến mình. Chúng làm cho người ấy mù lòa trước những nhu
cầu của những người khác và làm cho tâm hồn người ấy chai cứng. Đó là một bi
kịch thật sự. Một cá nhân hoặc một quốc gia đánh mất tâm hồn mình khi cứ mải lo
tích lũy những của cải lớn hơn.
Người giàu có không làm điều gì sai. Ông
không làm tổn thương hoặc bóc lột người nghèo. Tuy nhiên, sau cùng “ông ta phải
chịu cực hình trong âm phủ”. Ông ta bị lên án không phải vì ông ta giàu có mà
vì ông không bày tỏ lòng thương xót người nghèo. Ông sống chỉ vì bản thân mình.
Tội lỗi không chỉ vì làm điều sai trái,
mà còn là không làm điều tốt –tội không hoạt động, không làm gì và tệ hơn nữa
là sự thờ ơ. Đây là một dụ ngôn làm xúc động. Không có cái kết thúc của một câu
chuyện thần tiên– ít nhất là đối với ông phú hộ và ông này là nhân vật trung
tâm của câu chuyện.
Xin Chúa, Đấng đã bước vào thế giới
chúng ta một cách trọn vẹn, giúp chúng ta bước vào thế giới của những người đau
khổ và thiếu thốn. Rồi khi đã có kinh nghiệm về đời sống của họ như thế nào,
chúng ta chắc chắn sẽ được động viên để làm điều gì chúng ta có thể làm để giúp
đỡ họ.
Là những người cần đến lòng thương xót
và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện với đôi bàn tay mở ra như
những cái bát của người ăn mày, chúng ta đến lượt mình phải cố gắng sống nhân
từ, quảng đại và thương xót những người khác, bởi vì mức độ chúng ta cho sẽ trở
thành mức độ mà chúng ta nhận.
33.
Tiền bạc
Vào thời Chúa Giêsu, hẳn rằng tiền bạc
chưa chiếm được địa vị ưu tiên, địa vị số một như ngày nay, bởi vì người ta còn
sống gần gũi với thiên nhiên. Trong khi đó, ngày nay chúng ta không thể đi một
bước mà không cần đến tiền bạc, thế mà lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề tiền
bạc lại thật là dứt khoát:
- Các con không thể làm tôi hai chủ, vì
nếu mến chủ này thì sẽ ghét chủ kia. Cũng vậy, các con không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của được.
Như vậy, không thể nào có được sự thỏa
hiệp, sự đi nước đôi và đội trời chung giữa Thiên Chúa và tiền bạc. Do đó, phải
chọn lựa. Mà chọn lựa thì vữa có nghĩa là chấp nhận, lại vừa có nghĩa là từ bỏ.
Đúng thế, nếu muốn làm đẹp lòng Thiên
Chúa, thì chúng ta không thể nào làm tôi tớ cho tiền bạc, không thể nào quì gối
thờ lạy tượng con bò vàng. Hơn bao giờ hết, ngày nay con bò vàng, biểu tượng
của tiền bạc, đang hướng dẫn và lũng đoạn thế giới. Và số người thần phục nó
thật là đông đảo. Để kiếm được tiền bạc, người ta sẵn sàng làm mọi sự, dám bán
đi cả thân xác lẫn linh hồn, dám hy sinh cả danh dự lẫn thời giờ quí giá của
mình.
Sự chọn lựa căn bản này sẽ xác định
hướng đi cho cuộc đời và sẽ đem lại những hậu quả thật trái ngược. Thực vậy,
nếu tin tưởng và phụng thờ Thiên Chúa, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc.
Còn nếu chạy theo tiền bạc và thế gian, chúng ta sẽ chỉ thấy được những gian
tham và tội ác.
Đúng thế, Thiên Chúa của chúng ta không
phải là một ông vua tàn bạo, một ông chủ hà khắc, nhưng là một người cha giàu
lòng nhân ái, luôn yêu thương và chăm sóc chúng ta. Để giúp chúng ta hiểu được
điều đó, Chúa Giêsu đã đưa ra hai hình ảnh, hình ảnh chim trời và hình ảnh cánh
hoa đồng nội. Và rồi Ngài đã kết luận:
- Các con còn quí giá hơn gấp ngàn vạn
lần những cánh chim trời và những bông hoa đồng nội.
Dân ngoại thường lo lắng nhiều về vấn đề
cơm áo gạo tiền, còn chúng ta, những người con cái Thiên Chúa, chúng ta vừa
phải làm việc, nhưng lại vừa phải tin tưởng vào Ngài. Với niềm tin tưởng ấy,
chúng ta chắc chắn sẽ tìm thấy sự bình an và hạnh phúc.
Thế nhưng, chúng ta có thể nêu lên một
vài thắtc mắc. Thắc mắc thứ nhất: Đây có phải là một sự tin tưởng mù quáng, làm
tê liệt mọi hoạt động của chúng ta hay không? Chắc chắn là không, bởi vì Chúa
Giêsu không bao giờ cho phép chúng ta lười biếng với thái độ ngồi chờ sung
rụng. Hơn thế nữa, làm việc còn là một bổn phận của con người, như lời thánh
Phaolô đã nói:
- Ai không làm thì không đáng ăn.
Thắc mắc thứ hai: qua bài giảng trên núi
về tám mối phúc thật, cũng như qua nhiều lần trong Phúc âm, Chúa Giêsu đã có
một thái độ khinh chê tiền bạc. Điều này chỉ cò thể được thực hiện nơi các bậc
tu trì, chứ còn chúng ta, sống giữa lòng cuộc đời, làm sao chúng ta lại không
cần đến tiền bạc? Không có tiền, làm sao chúng ta có được những phương tiện để
sinh sống? Ấy là chưa nói tới những hậu quả thảm khốc do sự nghèo túng gây nên,
như những bệnh tật phần xác và những tội ác phần hồn, vì bần cùng sinh đạo tặc,
Điều băn khoăn này thật hợp tình và hớp
lý. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng lại lài
một ông chủ hà khắc, giết chết mọi tình cảm tốt đẹp của chúng ta đối với Thiên
Chúa cũng như đối với tha nhân.
Ông phú hộ qua đoạn Tin mừng hôm nay bị
kết án hỏa ngục, không phải vì ông ta giàu có, những vì trái tim ông ta đã trở
nên băng giá và chai đá, đã khép lại trước nỗi đau khổ của Ladarô nghèo túng.
Hơn thế nữa, kiếm sống bằng những nghề
nghiệp và những cách thức chính đáng là điều tốt. Chính Giáo hội đã đưa ra cho
chúng ta mẫu gương của Chúa Giêsu. Ngài cũng đã từng lao động vất vả.
Đồng thời, Giáo hội luôn bênh vực quyền
lợi của giới lao động và chống lại những chèn ép và bóc lột của giới chủ nhân.
Giáo hội như muốn nhắn nhủ chúng ta rằng:
- Hãy lao động, hãy kiếm tiền để làm cho
cuộc sống này được tươi đẹp hơn, nhưng đồng thời phải dứt khoát gạt bỏ những
bất công. Đừng bao giờ trở thành nô lệ cho tiền bạc. Hãy làm việc và hãy tin
tưởng vào Thiên Chúa.
Chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu đã
phán:
- Hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa, rồi
những sự khác sẽ được ban cho cac con sau.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng
ta hãy xét mình về thái độ sống đối với anh chị em xung quanh, nhất là trên
bình diện sử dụng nguồn vốn Thiên Chúa ban cho.
Bài đọc I trích từ sách tiên tri Amos:
“Khốn cho các ngươi là những kẻ phú quí tại Sion và tự kiêu trên núi Samaria”.
Những lời này tự cảnh tỉnh mỗi người trong chúng ta có thái độ tự kiêu, ỷ lại
vào của cải mà không nghĩ gì đến những anh chị em đang cần sự chia sẻ và tình
liên đới của chúng ta.
Thử hỏi hiện có bao nhiêu người trong xã
hội này hằng ngày đang lo lắng? Nhưng trớ trêu thay, không phải lo lắng vì
thiếu thốn nhưng lại lo lắng không biết phải ăn uống làm sao? Lo lắng không
phải vì thiếu mặc, nhưng lo lắng phải mặc những kiểu áo nào cho hợp thời trang,
vì có quá nhiều của cải dư thừa, không biết phải làm gì cho hết. Trong khi đó
thì hằng ngày bên cạnh ta, trước mắt ta, bên tai ta, ta có thể thấy, có thể
nghe không biết bao nhiêu thảm cảnh của những anh chị em đang phải chết đói,
đang cần của ăn áo mặc cho cuộc sống.
Trước viễn cảnh đau lòng như vậy, có thể
nào chúng ta im lặng, lãng quên được hay không? Mỗi người trong lãnh vực của
mình và nhất là những anh chị em có trách nhiệm trong xã hội, trong môi trường
sinh sống đều có bổn phận nghiên cứu để thăng tiến mức sống của những anh chị
em khác. Những anh chị em nào có trách nhiệm nhiều thì sẽ không thể nào ngủ yên
khi chỉ lo tìm tư lợi cho mình như người giàu có trong bài Phúc âm hôm nay. Ông
vui sống an nhàn trong ngôi nhà sang trọng của mình mà quên đi hay không thèm
biết đến nỗi thống khổ và sự cần được trợ giúp của anh người nghèo Ladarô ngay
trước cổng nhà mình. Ông đã không thực thi tình liên đới bác ái chia sẻ và ông
chỉ cảm thấy lời này khi qua đời. Lúc đó ông hiểu hơn: “Được lời lãi cả thế
gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích gì, người ta lấy gì mà đổi được linh
hồn mình”.
Một nhà tỷ phú trước khi chết đã phải
thốt lên: “Nếu tôi có thể đổi hết phần gia tài tôi có để thêm vài phút sống nữa
trên trần gian này thì tôi sẵn sàng đổi”. Vài phút trên trần gian này có là bao
so với sự sống đời đời. Vấn đề là chúng ta tin Chúa và tin vào sự sống đời đời
hay không mà thôi.
Đối với những tín hữu bình thường là như
vậy, rồi còn đối với những ai có trách nhiệm tôn danh Chúa lại còn phải đòi hỏi
nhiều hơn nữa. Chúng ta được lưu ý điểm này nơi bài đọc II, lời của thánh
Phaolô cảnh tỉnh người đồ đệ Timôthêô như sau: “Phần con, hỡi người của Thiên
Chúa, hãy tránh xa những điều đó, hãy cố gắng trở nên người công chính đạo đức,
giàu lòng tin và lòng mến. Hãy sống nhẫn nại và hiền lành. Con hãy thi đấu
trong cuộc thi đấu cao đẹp, vì đức tin dành cho được sự sống đời đời. Chính vì
sự sống này mà con đã được Thiên Chúa kêu gọi và con đã nói lên lời tuyên xưng
trước mặt nhiều nhân chứng.
Thực hiện được những điều này đòi buộc
người tông đồ của Chúa không những phải biết sống bác ái, chia sẻ tình liên
đới, không ham của cải giàu sang mà còn phải biết chăm lo cho ơn cứu rỗi, cho
sự sống đời đời của những ai được trao phó cho mình chăm sóc: “Hãy cố đạt lấy
sự sống đời đời mà con đã được kêu gọi, và vì đó con đã mạnh dạn tuyên xưng đức
tin trước mặt nhiều nhân chứng”. Lời rao giảng của người đồ đệ Chúa cần phải đi
đôi với việc làm, với đời sống đức tin, đức cậy và đức mến.
35.
Dại dột
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra hai cảnh
đối nghịch nhau một cách chát chúa, đó là số phận của nhà hộ phú và của người
nghèo khổ Ladarô, ở đời này và đời sau. Ở đời này, người phú hộ ăn sung mặc
sướng, lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình mỗi ngày, sống trụy lạc và danh vọng,
còn người nghèo khổ Ladarô thì không ai đoái hoài, một người hành khất khốn
cùng và bất lực, hằng ngày ngồi chầu chực trước cổng nhà người giàu có kia, hy
vọng kiếm được chút gì để độ thân cho qua ngày.
Hai nhân vật này không phải ở hai chân
trời xa cách nhau, nhưng ở kề bên nhau: người nghèo nằm ngay trước cổng nhà
người giàu. Ở kề bên nhau nhưng không có quan hệ với nhau. Cuộc sống cứ kéo dài
như thế cho đến khi người nghèo chết và người giàu cũng chết. Người nghèo chết,
không thấy nói có ai chôn, chỉ có thiên thần đến đưa người ấy vào thiên đàng.
Còn người giàu chết thì được chôn cất đàng hoàng. Chắc chắn đám tang của ông ta
lớn lắm, có nhiều người đi đưa, có nhiều vòng hoa, vòng cườm, chắc cũng có
nhiều người khóc nữa, nhưng không thấy nói có thiên thần đến đón ông ta. Như
vậy, số phận của hai người đã đảo ngược: Ladarô được thưởng sung sướng, hạnh
phúc. Còn nhà phú hộ bị phạt khổ cực, bất hạnh.
Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy hai
điều: thứ nhất, giàu có không phải là một tội và nghèo khổ cũng chưa hẳn là có
phúc, nếu người ta không có tinh thần nghèo khó thực sự. Thứ hai: mối quan hệ
giữa cách chúng ta sử dụng tiền của đời này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Trước hết, giàu có có phải là một tội
trọng không và nghèo khó có phải là có phúc không? Chúng ta thấy dụ ngôn không
đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú hộ, thế mà ông ta đã sa hỏa ngục,
điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên việc giàu có đã là một tội. Không,
giàu có tự nó không xấu cũng không phải là một tội, nếu không ai mà dám làm
giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi tiền của, thay vì là đầy tớ đã trở
nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên thần tượng, thay vì là phương tiện
đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu có chỉ biết ăn chơi phung phí mà
không một chút động lòng trắc ẩn trước những người nghèo khổ xung quanh mình.
Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên hết, hơn cả tình nghĩa. Những người
giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem lại cho họ đầy đủ, sung sướng ở đời
này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn nữa, lại là một ngăn trở làm cho họ
khó vào nước trời hay không vào được nước trời. Đó là trường hợp của nhà phú hộ
trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải vì ông ta là phú hộ, nhưng vì ông ta
đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta có thể nghi ngờ về nguồn gốc tài sản
của ông ta. Nhưng tội của ông ta không phải chỉ ở cách làm giàu bất chính, cũng
không phải vì ông ta là người giàu, nhưng vì ông ta đã sử dụng tiền của một
cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói rách,
nghèo khổ.
Ngược lại, nghèo khổ có phải là có phúc
không? Có, chắc chắn có và cũng có thể là không. Thực vậy, nghèo khổ, nhất là
nghèo đến cùng cực, có thể trở thành mối tội đầu thứ tám, thêm vào số bảy mối
tội đầu đã có. Bởi vì nghèo túng quá có thể làm cho người ta mắc nhiều tật xấu
và tội ác: nghèo đưa đến tham nhũng, trộm cắp, láo xược và ngang tàng; nghèo
làm cho người ta ghen tuông, bất mãn, xa cách Chúa, coi nhẹ linh hồn mình… Như
vậy, nghèo đâu có phải là phúc. Rồi có biết bao người, bên ngoài nghèo nàn,
túng thiếu, nhưng trong lòng họ mơ ước, tham lam đủ thứ. Những người như thế
chưa chắc đời sau sẽ được hạnh phúc. Do đó, không phải nguyên tình trạng nghèo
khổ đã là công phúc, mà cần phải cóp tinh thần, có tâm hồn nghèo khó và biết
chấp nhận tình trạng đó nữa. Như chúng ta thấy: công phúc của người hành khất
Ladarô nghèo khổ, hệ tại ông ta biết chấp nhận cảnh nghèo khổ, bệnh tật, tuân
theo thánh ý Chúa. Dĩ nhiên, sự chấp nhận này không ngăn trở người nghèo khổ cố
gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng đề thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh
tật.
Đàng khác, dụ ngôn còn nhằm nói lên mối
quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh phúc vĩnh cửu. Tiền của
vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để xây dựng, thăng tiến cuộc sống của
mình, đồng thời phát triển tình người, xây dựng yêu thươnggiữa người với người.
Ai biết sử dụng như thế không những được ấm no hạnh phúc ở đời này mà còn bảo
đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau nữa trên nước trời.
Ngược lại, ai khư khư hưởng dùng một
mình, không bao giờ muốn giúp đỡ hay chia sẻ cho người khác, nhất là những
người nghèo khổ, dù là một chút thôi, thì sẽ bị Thiên Chúa xét đoán nghiêm
ngặt. Bởi vậy, nếu ông phú hộ biết đem tiền của chia sẻ cho ông Ladarô, thì ông
đã sắm cho mình kho tàng trên trời, và khi chết ông sẽ được thiên thần rước vào
thiên đàng. Nhưng ông đã không hành động như vậy, nên ông đã mất tất cả và bị
phạt muôn đời.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hai
diều: thứ nhất, Chúa dạy chúng ta hãy sống theo đạo trung dung của trời. Chúng
ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi tiền của trọng hơn nhân nghĩa. Nếu
chúng ta nghèo khổ ư? Chúa bảo chúng ta: đừng lo lắng quá mà dùng những phương
thế bất chính để có tiền của và cũng đừng buồn chán, vì chúng ta đang ở trong
một tư thế thuận lợi để vào nước trời. Thứ hai, Chúa dạy chúng ta: chỉ có một
mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất, đó là sử dụng để đạt tới sự sống
vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là sử dụng để đem lại hữu ích cho
mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy
xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình đóng góp tiền của trong việc
phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
36.
Yêu thương
Sách thánh ngày hôm nay cho chúng ta
thấy hình ảnh của hai con người, là người như nhau nhưng cuộc sống rất khác
nhau. Một người thật giàu có, ăn sang mặc sướng đến độ dư thừa. Người giàu này
không làm hại ai, không lấy của ai và cũng chẳng cho ai điều gì ngay cả một
miếng bánh vụn.
Vâng! Cảnh giàu có, trâu ruộng bề hề,
lúa gạo đầy dư, vải mặc không hết, cồng chiêng quí giá… rượu uống quanh năm,
heo gà… đếm không xuể… Không gian tham, không lấy của ai, không sợ phải
cho ai thì làm sao mà lo, làm sao mà đói được…! Sống cảnh này, là người ai lại
không mong, không thích… và ai mà không nghĩ như thế!
Sách thánh cũng cho biết, bên cạnh người
giàu có là một người rất nghèo khổ, lúa gạo không có, áo quần rách rưới, mong
đồ thừa rớt ra từ bàn ăn của người kia mà cũng không có một tí mà ăn…
Thật thế! Sống nghèo đói, tủi nhục như
vậy ai mà ham được. Tuy nhiên, sẽ đến ngày mà ai cũng phải gặp; người giàu cũng
sẽ chết và người nghèo cũng phải trở về với ông bà tổ tiên…
Theo ông bà của chúng ta từ xa xưa cho
biết; mọi đồ đạc của người chết phải được mang theo để dùng như khi còn sống.
Nhưng thực tế, ai cũng thấy là không đúng như vậy, người chết không thể mang
theo điều gì, cũng chẳng có thể ăn được cái gì mình có hôm nay. Trộm cắp đã lợi
dụng phong tục chôn đồ của người chết để lấy cắp đồ đạc, nhất là vàng bạc quí
giá. Mồ mả ông bà bị họ đào tung lên hết! Thật là tội nghiệp họ, vì chết rồi
lại cũng không yên và cũng vì phong tục cũng không có đúng với thực tế và cũng
không đúng với sách thánh ngày hôm nay nữa… Như sách thánh cho thấy, cuộc sống
sau khi chết sẽ rất khác; người nghèo được Chúa thương và người giàu, vì không
cho người nghèo ăn nên Chúa không thương! Người nghèo được gặp ông Abraham là
người ông bà của chúng ta được Chúa thưởng và cho gặp lại con cháu… Người giàu
có thì không được gặp tổ tiên mà còn ở nơi đau khổ đói khát nữa…
Biết cuộc sống sẽ như vậy; không chia áo
cơm cho người nghèo thì Chúa không thương. Như năm người con của người giàu…
cũng không tin, cũng tham lam ích kỷ như cha của họ ngày trước… Tại sao lại như
thế!
Thưa, là vì họ gặp Chúa mà họ không nhận
ra Chúa, vì họ không nhận ra Chúa nên họ cũng không tin Chúa… nên người sống họ
đã không tin, và họ cũng không tin có người sống lại từ cõi chết, thì dù có
chăng nữa thì họ cũng chẳng tin.
Nhiều người trong chúng ta vẫn còn tin
người chết phải mang theo của cải để dùng nên họ không cho người khác, nhất là
người thiếu ăn, thiếu mặc hằng ngày ta vẫn gặp.
Ai cũng mến Chúa, ai cũng tin Chúa vì
Chúa có quyền đối với người sống lẫn người chết và Chúa có thể cho ta hạnh phúc
hôm nay cũng như sau khi chết. Như Chúa Giêsu đã nói: “Ta là sự sống và là sự
sống lại… Ai tin Ta sẽ được sự sống đời đời…” Và chính Chúa đã nói: “Ai yêu
thương người nghèo là thương chính Chúa”, nghĩa là, ai cho người nghèo một chén
cơm, một ly nước, một trái bắp… là cho chính Chúa, và Chúa sẽ cho lại gấp trăm
những gì ta đã cho Chúa. Chúng ta cho người nghèo Chúa sẽ cho lại ta, chúng ta
thương người nghèo Chúa sẽ thương ta.
Vậy chúng ta hãy tin tưởng lời Chúa
Giêsu: chia cái ăn cái mặc cho người nghèo, thì chúng ta sẽ có hạnh phúc cả hôm
nay lẫn mai sau nữa. Và vì chúng ta đã làm cho Chúa được no, được ấm suốt đời,
và qaun trọng nhất là được vui hưởng hạnh phúc với Chúa Giêsu nơi Nước Trời…
37.
Suy niệm của Lm. Giuse Phạm
Thanh Liêm
ĐỜI SỐNG MỚI SAU CÁI CHẾT ĐƯỢC HÌNH
THÀNH TỪ BÂY GIỜ
Nhiều người chê Ki-tô hữu là dại, vì các
Ki-tô hữu không tận hưởng những lạc thú trên đời, lại còn chuốc vất vả vào thân
khi lao vào giúp đỡ người khác. Những người này nghĩ vậy, vì họ chỉ biết đến
họ, và không động lòng trước nỗi khổ của bao anh em nghèo đói sống bên họ. Thế
nhưng, chết đâu phải là hết. Và những người chỉ biết sống cho mình, chỉ biết
sống như thể chỉ có đời sống này, lại trở thành người dại sau khi chết.
Ai cũng phải chết
Không phải ai cũng giầu, cũng đẹp, cũng
có địa vị. Nhưng có một điều rất công bằng cho mọi người: ai cũng phải chết.
Cái chết làm người ta bình đẳng: chẳng ai mang theo gì với mình ngoại trừ chính
con người của mình: không tiền bạc, không người thân, không quyền lực, không
sắc đẹp, không kiến thức. Sinh ra trần trụi, chết cũng trần trụi.
Cái chết làm con người trở lại với con
người thực của mình. Cái chết giúp người ta nhận ra sự thật, và cố gắng sống
cho ra người trong đời hiện tại. Trong nhãn quan này, cái chết không chỉ là mối
họa, nhưng còn là một hồng ân cho những ai đang sống, vì qua nó, con người nhận
ra đâu là quê hương thật của mình, đâu là điểm mà mỗi người sẽ đến. Chỉ lo đi
bắt bướm tìm hoa trên đường, mà không lo hoàn tất nhiệm vụ của mình, thì quả là
người dại biết bao.
Cái chết làm người ta đi vào vĩnh cửu
Thời gian thật là quý. Vì người ta có
thể xây dựng và hoàn thành con người của mình một cách tuyệt vời. Con người
mình như thế nào, tuỳ mình khi sống trên đời này. Khi chết rồi, mình không còn
thay đổi được nữa. Thời gian trên trần thế, là thời gian của mỗi người, thuộc
về mỗi người, mỗi người được quyền định đoạt và hình thành con người mình theo
như mình muốn. Với tự do Chúa ban, không ai hình thành đời mình, nếu không phải
chính mình. Chỉ cần một giây thôi, cũng đủ làm cho người ta ra khác, được sống
hạnh phúc vĩnh cửu hay không. Một giây thôi, quý như thế nào.
Cũng khó mà diễn tả tại sao cái chết lại
làm người ta thành vĩnh cửu. Theo nhãn quan của thánh Ynhã Loyola, ma quỷ và
những người ở dưới hoả ngục vẫn luôn chống đối và nguyền rủa Thiên Chúa. Thái
độ người ta chọn lúc chết, là thái độ vĩnh hằng của người đó. Bài Tin Mừng hôm
nay cho thấy như thể người giầu vẫn thương anh em của ông ta còn đang sống, nên
đề nghị Abraham cho người về. Chúng ta biết rằng, bởi vì đây là dụ ngôn, nên
không phải tất cả đều có ý nghĩa và phải được giải thích. Dụ ngôn trong bài Tin
Mừng hôm nay dạy con người hãy sống sao, để khi chết được hạnh phúc vĩnh cửu.
Mỗi người phải chọn lựa ngay trong đời sống của mình, với những lời dạy dỗ của
những người được sai tới với họ. Họ không cần phải chờ người chết hiện về, hoặc
thiên thần tới nói với họ. Như vậy, những người sống với chúng ta, những người
nói Lời Chúa cho chúng ta rất quan trọng. Không ai thay thế họ cho chúng ta.
Đừng đòi người chết hiện về để nói.
Hôm nay là ngày hồng phúc, hôm nay là
ngày cứu độ
Hôm nay, với những điều kiện tôi có và
hoàn cảnh cùng những người xung quanh tôi, tôi phải sống cho ra người, hình
thành con người của tôi. Người nghèo ăn xin, không có gì, vẫn có thể hình thành
con người của anh ta cách trọn vẹn. Những người làm vệ sinh đường phố, những
người quét rác ngoài đường, những giám đốc xí nghiệp lớn, hay những bác sĩ kỹ
sư, đều ngang nhau trong việc hình thành đời mình. Nếu một bác sĩ không tận tâm
cứu giúp bệnh nhân, là bác sĩ dở. Bác sĩ đó cũng tương tự như người giầu không
có lòng thương với người nghèo ăn xin Ladarô. Nếu một công nhân quét đường mà
không làm tròn bổn phận của mình, thì cũng dở như một giám đốc xí nghiệp không
cố gắng để xí nghiệp được trao cho mình phát triển. “Không có nghề dở, chỉ có
người dở”. Trước mặt Chúa, bác sĩ và công nhân vệ sinh trong bệnh viện đều
ngang nhau. Và ngay cả trước mặt con người, một người làm phu vệ sinh nhưng thương
yêu và giáo dục con nên người, thì tốt hơn một bác sĩ hay kỹ sư giầu có mà
không dành giờ để thương yêu và giáo dục con cái họ. Chính trong việc làm, và
trong việc giáo dục con cái, hình thành nhân cách và bản lãnh mỗi người, cũng
như hình thành con người vĩnh cửu của mình trong đời sống mai hậu.
Tài nguyên của cải, là của Cha trên trời
cho tất cả mọi người. Không ai được lợi dụng tài năng của mình để bóc lột người
khác. Tài nguyên, là để cho tất cả mọi người; và tài năng là để phục vụ mọi
người. Một giám đốc đi xe hơi giầu sang, không chắc đã tốt bằng người công nhân
xúc đất bên đường. Tốt hay không, tuỳ thuộc mỗi người dùng tài năng Chúa ban
cho mình, để phục vụ mọi người hay không. Nếu Chúa ban cho họ 5 nén, họ phải
làm lời 5 nén. Nếu Chúa chỉ ban cho tôi một nén, Ngài chỉ đòi tôi làm lời 1
nén. Đừng đem chôn nén bạc tài năng Ngài ký thác. Nếu không có người phu quét
đường và những người trồng và săn sóc cây trong công viên, cuộc đời đã không
đẹp như đang là. Những công nhân làm sạch đường phố, không chỉ làm đẹp phố
phường, nhưng làm đẹp cả đời tôi, và làm tôi hạnh phúc. Họ có thể là những
người tuyệt đẹp ở đời sống mai hậu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, Thiên Chúa có công bằng khi
để mỗi người đều phải chết không? Tại sao?
2. Người giầu và người nghèo, ai dễ hạnh
phúc hơn? Tại sao?
3. Có ai hình thành đời bạn giúp bạn
không? Bạn hình thành đời bạn mỗi ngày thế nào?
38.
Từ sự chết đi đến
sự sống
Robert Schuller viết trong nhiều cuốn
sách của ông: Vào năm 1923, một cuộc họp quan trọng đã được diễn ra tại thành
phố Chicago. Trong cuộc họp này gồm 9 chuyên gia tài chính quan trọng của toàn
thế giới. Sau đó 25 năm, những chuyên gia tài chính này đã trở thành những
người bần cùng và có một kết quả bi thảm:
Giám đốc công ty hãng sắt lớn nhất trở
thành một người nợ nần và sau đó tự vẫn. Giám đốc công ty điện nước lớn nhất
phải lánh nạn ở vùng đất khách và chết một cách nghèo khổ. Giám đốc công ty gas
lớn nhất bị điên. Người đầu cơ lúa mạch lớn nhất bị chết tại đất khách. Giám
đốc cổ phần tại New York lớn nhất (New York Stock) tự vẫn. Một nhân viên thân
cận của tổng thống phải ở tù. Một nhân viên nổi tiếng về tiền tệ Wall Street bị
ở tù. Một chuyên gia tư bản độc quyền tự vẫn. Giám đốc của một nhà băng cũng tự
vẫn.
Qua đó, chúng ta thấy rằng chúng ta phải
làm gì với cơ nghiệp chúng ta có để nó thực sự sinh ích lợi cho chúng ta?
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu kể
một câu truyện về một người đàn ông giàu có và một người đàn ông nghèo khổ,
Ladarô. Họ ở hai thế giới khác nhau, một người thì giàu có, và người kia thì
nghèo túng. Một người thì từ cái ăn uống đến cách ăn mặc đều sang trọng, còn
người kia thì ghẻ lở và ăn uống giống như một con chó. Cả hai đều đã chết, và
số phận của họ cũng khác nhau. Ladarô thì được phúc thiên đàng, còn người giàu
có phải bị trầm luân. Người giàu có thấy vậy thì liền xin cùng Abraham cho phép
ông về để cảnh cáo những người còn sống thay đổi cách sống ích kỷ của họ và
biết thương yêu chia sẻ cho những người khác để khỏi bị trầm luân giống như
ông. Câu truyện đã được kết thúc bằng lời của Abraham rằng, “Dù kẻ chết sống
lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu” (Lc 16:31).
Chúa Giêsu kể câu truyện trên để giúp
ích cho những người Pharisiêu, là những người mà Ngài thường lên án do trái tim
cứng cỏi và sự lì lợm của họ trước những chân lý Ngài rao giảng. Chúa Giêsu nói
với họ rằng thái độ đọc và sống luật bằng chữ nghiêm ngặt của họ không những
không làm cho họ mà còn làm cho cả những người khác cũng không thể nhận ra chân
lý. Có lẽ nhiều người chúng ta cũng như thế, cho nên câu truyện hôm nay cũng là
bài học áp dụng cho mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, cho dù là Chúa Kitô Phục
Sinh có muốn đến với chúng ta đi nữa mà chúng ta không đồng ý sẵn sàng thì cũng
vô dụng. Cái lúc mà chúng ta nhận thấy rằng mình không cần ơn trên phù trợ là
lúc mà chúng ta đóng cửa lòng mình lại. Phương thế duy nhất để chúng ta có thể
nhận lãnh ơn của Chúa là phải qua cây Thánh Giá. Không có một cách thức nào
khác để chúng ta có thể hiệp thông với Chúa Kitô Phục sinh mà không phải qua
Thánh Giá.
Cho dù là các bạn có ở trong tình trạng
nào đi nữa trong lúc này, vui mừng phấn khởi hay là chán nản, bệnh tật hay khỏe
mạnh, giàu có hay nghèo khổ, tình thương của Thiên Chúa hằng luôn ở cùng các
bạn. Nếu các bạn biết mở lòng ra trong sự khiêm nhượng, như chính Chúa Giêsu đã
làm trên thánh giá, Ngài sẽ đổ vào lòng các bạn tình yêu của Ngài. Qua Chúa
Giêsu, Thiên Chúa sẽ nói với các bạn về chính con người của các bạn và về mối
liên hệ của các bạn với tha nhân, là điều thường hay làm cho các bạn đau khổ.
Mối liên hệ đó có thể đã bị thương do sự hiểu lầm, cắt đứt, lạm dụng, và nó tạo
cho các bạn mặc cảm tội lỗi. Tuy nhiên, không bao giờ mà tình yêu của Thiên
Chúa không hiện diện cùng các bạn ở những lúc cùng quẫn đó để nâng đỡ, chữa
lành, và tẩy rửa các bạn.
Cũng giống như câu truyện trong bài Phúc
Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với chúng ta những lời của Thiên Chúa để cảnh cáo
chúng ta phải biết vâng theo. Chúng ta vâng theo vì chúng ta được một Thiên
Chúa quyền năng, Ngài yêu thương.
39.
Chúa nhật 26 Thường Niên
** Nhiều người có ý nghĩ rằng: Thiên
Chúa nhân từ vô cùng, thì chắc chắn Ngài không phạt ai mãi mãi trong hỏa ngục,
và do đó, không có hoả ngục! Đó là một ý nghĩ sai lầm! Bài Tin Mừng trên đây,
Chúa Giêsu đã xác quyết có hỏa ngục, nơi giam cầm mãi mãi những người cố tình
phạm trọng tội, nhất là tội thiếu yêu thương, không muốn chia xẻ những gì mình
có cho người túng thiếu, khổ cực! và hình phạt vô cùng thảm khốc sẽ đến cho họ
sau kiếp sống vắn vỏi này!
Chúa Giêsu kể một dụ ngôn đặc biệt nói
đến hai hạng người trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như ngày nay: Một hạng
người trọc-phú, và một hạng người bần cùng khốn khổ nhất trong xã hội, hạng
người rất đáng chúng ta thương xót! Thế nhưng số phận đời đời của 2 người mà
Chúa nói tới, hoàn toàn đảo ngược sau khi họ chết!
Người phú hộ: Ăn mặc toàn gấm vóc lụa
là, quần áo lộng lẫy, ngày nào cũng yến tiệc linh đình, ăn toàn cao lương, mỹ
vị, không thiếu sơn hào hải vị. Ông là một người giầu, một trọc phú điển hình
thời Chúa Giêsu, giầu theo kiểu đại phú gia La-Mã lúc bấy giờ. Ông quá giầu: Vì
ngày nào cũng yến tiệc linh đình, không như những người giầu vừa vừa, chỉ mở
đại tiệc dăm ba lần trong năm!
Lazarô: Một người cùng khổ nhất trong xã
hội, vừa ốm đau, ghẻ lở khắp mình, phải đi ăn xin cơm thừa canh cặn của những
người khá giả để sống qua ngày! Lazarô và nhà phú hộ là hai hình ảnh hoàn toàn
trái ngược: Một người quá giầu còn Lazarô lại ở mức cùng tận của cái nghèo! Tên
Lazarô có nghĩa là Chúa thương giúp. Trong Tin Mừng có 2 người khác nhau cùng
có tên là Lazarô: một người mà Tin Mừng Thánh Gioan nói tới trong đoạn XI, là
em của Bà Martha và Maria, được Chúa cho sống lại sau khi đã chết 4 ngày. Còn
Lazarô là người cùng khổ mà Chúa Giêsu nói tới. Ông là người duy nhất được Chúa
đặc biệt nói rõ tên trong các câu chuyện Tin Mừng.
** Giầu không phải là tội, tuy nhiên,
giầu mà không biết chia xẻ, không biết xót thương những người nghèo khổ, thì đó
mới là tội. Người phú hộ, quá dư thừa, ngày nào cũng yến tiệc linh đình, đồ ăn
thừa mứa, trong khi Lazarô chỉ ước ao những mụn bánh rớt xuống từ bàn ăn của
ông phú hộ, nhưng cũng không ai thèm cho! Mà Lazarô có ở đâu xa, ông nằm ăn xin
ngay bên cổng của người phú hộ, thế nhưng ông phú hộ đã không thèm để mắt tới!
Nếu ông ta đã quan tâm thì đâu Lazarô có phải túng thiếu, khổ sở tận cùng như
thế! Ông ta chỉ cần sai đầy tớ đem cho Lazarô chút cơm thừa, canh cặn thì
Lazarô đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng mơ ước quá nhỏ bé đó đã trở thành ảo vọng,
vì ông phú hộ đâu thèm xót thương thân phận hẩm hiu thê thảm ấy, thê thảm còn
hơn con vật nữa! Một cảnh thật thê lương: Lazarô nằm teo-tóp, chốc lở đầy mình,
không một ai thương cảm, chỉ có những con chó đến liếm những mụn ghẻ chốc của
ông mà thôi! Mà sự cảm thông, chia xẻ đây có làm bớt đi gia tài kếch xù của ông
ta đâu! Và sự chia sớt này chỉ cần ông ta để tâm một chút thì đã dễ dàng đem
lại hạnh phúc cho Lazarô, nhưng ông ta đã không làm!
** Người phú hộ ăn uống dư thừa, tiêu
sài hoang phí cho riêng mình nhưng từ chối chia xẻ cả những đồ ăn thừa mứa đối
với Lazarô, một người đói nghèo, cùng khổ, để làm giảm bớt một chút nào tình
cảnh nghèo khó... Đó là một trọng tội đối với Thiên Chúa. Ông không thèm để mắt
tới một người khốn cùng, túng đói, khốn khổ hơn cả một con vật, ngày ngày ăn
xin ngay trước cổng nhà mình, thì làm sao đáng Chúa xót thương?
** Trong đoạn Tin Mừng trên, Chúa Giêsu
vẽ ra 2 cảnh hoàn toàn trái ngược: Một cảnh ở trần thế: đó là cảnh tưng bừng
náo nhiệt, ăn sài cao lương mỹ vị dư thừa nơi nhà ông phú hộ, với cảnh cùng khổ
của của Lazarô, thiếu thốn cả những gì cần thiết nhất để sống còn. Một cảnh
khác ở kiếp sau: Đó là cảnh hạnh phúc bất tận nơi Thiên Quốc mà Abraham, Lazarô
và các con Chúa được hưởng sau kiếp sống vắn vỏi này, đối chiếu với cảnh lửa
hồng nung nấu, tuyệt vọng hoàn toàn của người phú hộ bị trầm luân muôn kiếp.
Bị nung nấu trong lửa chẳng hề tắt, ông
phú hộ chỉ dám xin tổ phụ Abraham sai Lazarô nhúng một đầu ngón tay vào nước để
nhỏ xuống, cho ông ta đỡ khát một chút, nhưng không được, vì có một vực thẳm
ngăn cách 2 bên, không thể có ai còn giúp đỡ nhau được nữa! Bởi vì đã hết giờ
Cứu Độ! Sự chết đã vĩnh viễn đóng kín mọi cánh cửa hy vọng nơi các linh hồn bị
trầm đọa muôn kiếp! Không còn cơ hội để thay đổi số phận được nữa! Sự ngăn cách
giữa Thiện-ác trong kiếp sau là sự ngăn cách vĩnh viễn, không bao giờ có thể
thay đổi được!... Khi còn đang sống, thì bất cứ lúc nào, chúng ta lắng nghe và
thực thi Lời Chúa để sống Yêu Thương, thì số phận tức khắc thay đổi, nhưng sau
khi chết, thì hoàn toàn bất di bất dịch: Hoặc thiên thu hạnh phúc hay đời đời
khốn khổ!
** Ở đời này, có khi chúng ta cũng gặp
nhiều nghịch cảnh, túng thiếu, gian truân... nhưng nếu cứ bước đi tren đường
giáo huấn của Chúa để sống trong tình thương, yêu Chúa và tha nhân, thì chắc
chắn, tương lai tốt đẹp sẽ đến, Thiên Chúa sẽ trọng thưởng các con của Ngài
thiên thu hạnh phúc trên Nước Trời. Muốn thế, chúng ta đừng nhắm mắt, bịt tai
trước những thống khổ, túng thiếu của tha nhân, nhất là những người cùng khổ
bên cạnh chúng ta.
Sự đau khổ túng thiếu đời này chưa phải
là cùng tận, chỉ là một thử thách chóng qua, chúng ta cứ vững tâm sống trong
Thánh Luật Yêu Thương của Chúa, thì tương lai rực rỡ sẽ đến và thay đổi hoàn
toàn số phận chúng ta trong Cõi thiên thu vĩnh hằng!
40.
Thắp một ngọn đèn- Lm.
Vũ Minh Nghiễm
Barbara Varenhorst trong cuốn sách nhan
đề là Real Friends (Những người bạn chân thật) có viết về một phụ nữ tên Erma
như sau.
Hôm đó, một người đàn bà tên là Erma có
việc đi Chicago bằng phi cơ. Cô đến phi trường khoảng nửa tiếng trước khi máy
bay cất cánh. Làm thủ tục xong, Erma ngồi chờ nơi phòng đợi. Trong lòng cô còn
đang bực mình vì những chuyện không vui tuần vừa rồi. Cô lấy một cuốn sách hay
ra đọc.
Nhưng rồi bỗng Erma nghe tiếng một người
đàn bà khác đã có tuổi ngồi bên cạnh nói:
- Tôi đoán rằng tại Chicago trời lạnh
lắm.
Erma mắt không rời cuốn sách, đáp lại
cách lơ đễnh:
- Có thể lắm.
Người đàn bà có tuổi kia tiếp tục nói.
Erma tiếp tục trả lời lại bằng những câu cụt ngủn lạnh lùng.
Thế rồi bà ta nói ra một tin động trời.
- Tôi hiện đi theo xác chồng tôi đem về
Chicago. Anh ấy đã chết đột ngột sau 53 năm hôn phối.
Đến đây, quả tim Erma nhảy lên, đập
nhanh đập mạnh. Cô nhận thức được rằng người đàn bà đang ngồi bên cạnh mình là
người đau khổ, cần một người khác biết lắng tai nghe, biết cảm thông, hầu bà có
thể thổ lộ tâm tình, cho vơi sự đau khổ đang đè nặng tâm hồn bà. Bà ấy không
van xin một lời khuyên nhủ. Không van xin bạc tiền. Bà chỉ đi tìm một người
biết lắng tai nghe. Thế mà Erma đã vô tình, làm người hoàn toàn xa lạ.
Bây giờ cô xếp sách lại, bỏ xuống ghế,
đưa hai tay cầm lấy tay bà kia, và lắng tai nghe bà kể lể nỗi niềm đau thương
của bà.
Trong khi lắng tai nghe bà kia kể lể,
Erma quên hết các vấn đề khó khăn của mình. Cô bỗng cảm thấy tươi trẻ lại, can
đảm hơn, mạnh mẽ hơn.
Khi tiếng người nhân viên hàng không
vang lên trong máy phóng thanh, báo tin đã đến giời đi Chicago, Erma khoác tay
bà kia lên máy bay. Tới nơi, họ chia tay nhau, tới chỗ ngồi của mình. Họ ngồi
cách nhau vài ba hàng ghế.
Khi Erma đang đứng bỏ chiếc áo quàng lên
hộp đựng hành lý phía trên đầu, Erma nghe bà kia nói với người hành khách bên
cạnh bà y như đã nói với cô trước đây..
“Tôi đoán rằng ở Chicago trời lạnh
lắm...”
Nghe vậy, Erma tự nhiên thốt lên một lời
cầu nguyện: Lạy Chúa, xin Chúa ban cho người hành khách kia ơn biết nhẫn nại và
lắng tai nghe với tất cả tấm lòng thương yêu.
Câu chuyện đây giống như câu truyện Chúa
phán trong bài dụ ngôn hôm nay về người phú hộ và người ăn mày nghèo khổ tên là
Ladarô. Người giàu có đầy đủ hết mọi sự. Còn Ladarô thì thiếu thốn hết mọi sự.
Ladarô rất cần sự giúp đỡ và chỉ cần rất ít thôi. Nếu người phú hộ kia muốn
giúp đỡ Ladarô, thì chỉ cho anh ăn những mụn bánh từ bàn tiệc của ông rơi xuống
đất cũng đủ. Nhưng ông không bao giờ để ý đến Ladarô cả. Ông coi Ladarô như
không có. Cách xử trí của ông đối với Ladarô không khác gì cách xử trí của Erma
lúc ban đầu đối với người đàn bà đau khổ trong câu chuyện nói trên.
Cái tội làm cho người phú hộ trong dụ
ngôn hôm nay phải chịu cực hình trong địa ngục là tội gì?
Ông không bảo đầy tớ đuổi Ladarô ra khỏi
cổng nhà của ông.
Ông không đánh đập Ladarô mỗi khi ông đi
ngang qua chỗ anh nằm.
Ông không chưởi bới rủa nộp Ladarô mỗi
khi ông trông thấy anh.
Vậy tội làm cho người phú hộ phải chịu
cực hình là tội gì? - Thưa là tội ông ta coi Ladarô như không có! Tội ông ta
không phải là một tội phạm vì đã làm một điều không được làm. Tội ông là một
tội thiếu sót. Không làm điều đáng lý ông phải làm (sin of omission). Tội người
phú hộ là tội không lay một ngón tay để giúp đỡ một tí, một tí thôi, người
nghèo cực cần được giúp đỡ.
Bây giờ chúng ta hãy nhìn về chúng ta và
xã hội chúng ta hôm nay. Ai trong chúng ta mà không nhận thấy rằng câu chuyện
Ladarô đang tái hiện hằng ngày giữa chúng ta? Đang tái hiện trong mọi tầng lớp
của xã hội chúng ta đang sống?
Con người chúng ta, xã hội chúng ta đang
đặt ưu tiên của mình trên vật chất hơn là trên con người.
Tổng thống Eisenhower trước đây có nói:
“Mỗi một cái súng được đưa ra, mỗi một chiến hạm được hạ thủy, mỗi một hỏa tiễn
được bắn đi, xét cho cùng là một cuộc đánh cắp người nghèo đói, không cơm ăn áo
mặc.”
Tổng thống John K. Kennedy còn nói mạnh
hơn nữa: “Khi người ta đặt ưu tiên của vật chất trên con người, không những
người ta hủy hoại lớp người nghèo cực, mà còn hủy hoại cả xã hội mình đang ở
giữa. Nếu một nước tự do mà không lo cứu vớt lớp người nghèo, người ta cũng
không thể cứu vớt được lớp người giàu.”
Nếu chúng ta không lưu tâm đến những kẻ
túng thiếu ở giữa chúng ta, thì không những chúng ta hủy hoại họ, mà hủy hoại
cả chính bản thân chúng ta nữa.
Nói như vậy, có những người cũng còn cho
là mơ hồ, chưa nhìn thấy một câu trả lời cụ thể cho cá nhân mình trong hoàn
cảnh hiện tại. Vậy chúng ta có thể trả lời cho bài học của dụ ngôn hôm nay bằng
ba cách.
Thứ nhứt. Chúng ta xử sự như người phú hộ trong Phúc âm hôm nay: nhắm mắt lại
trước mọi hoàn cảnh không may mắn, trước mọi đau khổ đang xảy đến chung quanh
chúng ta.
Thứ hai. Chúng ta không nhắm mắt lại trước hoàn cảnh đau thương, khỗ cực, túng
thiếu đang xảy ra chung quanh. Chúng ta lên tiếng phản đối ầm ĩ, bằng lời nói,
hoặc bằng ngòi viết. Nhưng chỉ có bấy nhiêu thôi! Chúng ta không lay ngón tay
để làm một việc gì khác nữa cả, ngoài ra lời nói và ngòi viết.
Sau cùng, thay vì nhắm mắt lại trước những cảnh đau thương khổ cực, thay vì
đứng nguyền rủa bóng tối do hoàn cảnh tạo nên, chúng ta thắp lên một ngọn đèn, và
thực hành một cử chỉ cụ thể nào đó.
Ngọn đèn của một mình tôi xem ra mờ yếu.
Nhưng nếu ngần nầy người trong nhà thờ hôm nay, mỗi người cùng thắp lên một
ngọn đèn, thì sẽ tạo ra một rừng ánh sáng, đuổi bóng tối âm u ra khỏi khu vực
của chúng ta.
Nếu mỗi người con cái Chúa đều thắp lên
một ngọn đèn như vậy, thì không bao lâu ánh sáng sẽ lan toả ra khắp nơi, trong
làng mạc chúng ta sinh sống, trong thành thị chúng ta hoạt động, torng quốc gia
chúng ta đang cư ngụ, trong toàn thế giới. Vậy bây giờ chúng ta hãy bắt đầu
thực hành những việc nhỏ mọn, như Erma đã làm đối với người đàn bà đau khổ tại
phi trường trong câu chuyện mở đầu. Nghĩa là làm những gì chúng ta có thể làm.
Đây là sứ điệp của bài Tin Mừng mà Đức Yê-su thách đố chúng ta hôm nay: “Chúng
con hãy thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu chúng con.”
Khi chúng ta xử đại lạnh lùng đối với
nhau thì mọi sự đều bế tắc hỗn loạn. Khi chúng ta biết thương yêu lẫn nhau, thì
mọi sự thảy đếu xuôi gió thuận buồm.
41.
Cuộc sống trần
thế không phải là tất cả
(Suy niệm của Lm Phanxicô Xavie Vũ Phan
Long)
Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai
cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép
lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
1.- Ngữ cảnh
Tại đoạn Lc 16,14-18, tác giả đã mô tả
người Pharisêu là “vốn ham hố tiền bạc”. Lời mô tả này chủ ý được ghi vào cho
khó nghe, bởi vì là một nhận xét bất thường, không có chỗ nào trong TM III hay
Cv sử dụng. Đức Giêsu than trách rằng điều răn quan trọng nhất, yêu thương
người thân cận như chính mình, đã phải hy sinh cho việc giữ lấy của cải riêng,
và lòng yêu thương đối với chính mình, cho dù phải hy sinh người thân cận, đã
được ưa chuộng hơn – và điều này lại rõ ràng nơi những người Pharisêu đạo đức!
Những câu nói về sự ham hố tiền bạc dễ dàng tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về
việc sử dụng của cải cách bất chính (16,1-8) và từ những bài học về việc lạm
dụng của cải (16,9-13). Vậy bài dụ ngôn 16,19-31 là phần nối tiếp những nhận
định lâu dài của tác giả Lc về việc sử dụng không đúng đắn các của cải (kể từ
bài Người con hoang đàng). Bài dụ ngôn hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này.
Người Pharisêu chế nhạo Đức Giêsu khi nghe dụ ngôn của Người đề cập đến tiền
bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ ràng và mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách sử
dụng đúng đắn các của cải.
Những lời Đức Giêsu (16,15-18) tiếp theo
lời tác giả giới thiệu người Pharisêu ở c. 14 tập trung vào những gì Đức Giêsu
cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn trọng các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có
một con đường duy nhất đưa vào Nước Trời (16,16), đó là tuân giữ các giáo huấn
của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn liên hệ đến việc sử dụng đúng đắn các của
cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ không bao giờ qua đi, nhưng luôn hướng dẫn các
chọn lựa của con người (16,17). Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào các giáo huấn
đáng kính của Thiên Chúa là làm sáng tỏ cách người Do Thái hiểu Luật Môsê (x.
c. 18 như một ví dụ về cách Đức Giêsu làm sáng tỏ Lề Luật). Người Kitô hữu,
trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của Luật Cựu Ước, lại sống ý muốn của Thiên
Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là Đấng Cứu thế, là vị Hướng đạo và Đấng soi
sáng mình.
Vì không có một từ hay một câu nào để
nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu rằng dụ ngôn thuộc về những câu
đi trước nó.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô
(16,19-22);
2) Cuộc đối thoại (16,23-31):
a) Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của
cái chết (cc. 23-26);
b) Phần hai: Sứ điệp cho “năm người anh
em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (cc. 27-31).
3.- Vài điểm chú giải
- mặc toàn … (19): enedidysketo, thì vị hoàn của động từ endidyskô, “mặc”, cho
hiểu là đây là một hành động xảy ra thường xuyên.
- lụa là gấm vóc (19): dịch sát là “gấm tía và vải lanh mịn”. Theo ngôn ngữ của Cựu
Ước (Cn 31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một ông vua.
- Ladaro (20): Do từ Híp-ri ’El‘âzâr, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
- được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu “cũng chết, và người ta đem
chôn”, tức là linh đình và long trọng, ta hiểu anh Ladarô không được loài người
an táng, nên đã được các nhân vật thiên quốc đem đi.
- anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí danh dự khi người ta được dự tiệc đồng bàn với
Abraham tại bữa tiệc thiên sai (Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).
- âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy Lạp, để mô tả cuộc sống của
người ta sau cái chết. “Hadês” là tên của vị thần Hy Lạp cai trị âm phủ, và
được dùng để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do con chữ alpha có nghĩa là
thiếu mất đứng trước ngữ căn của động từ “nhìn thấy”. Đối với người Hy Lạp
không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất tử, linh hồn của
người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ sở không có mặt trời, trong
một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.
- ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang “ở dưới”, tượng trưng cho tình trạng đau khổ, nhục nhã
và thiếu thốn mà ông không tự giải quyết được.
- lòng tổ phụ (23): biểu tượng người Do Thái dùng để nói về tình trạng sống rất
thân tình và rất được ao ước, khi đó hai con người kết hợp với nhau. Công thức
này tương tự với công thức “lòng kề lòng”.
- Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa an ủi” Ladarô.
- đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là “đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm” (NTT). Đây là
thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã định sẵn một vực thẳm”.
- Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29): “Môsê và các ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh Do Thái
(tức Cựu Ước). Tổ phụ Abraham khẳng định rằng sứ điệp nòng cốt của Kinh Thánh
Do Thái vẫn còn là một cẩm nang có giá trị để hướng dẫn anh em ông nhà giàu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô
(19-22)
Ông nhà giàu không có tên, nhưng lại rất
giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó là cái tên. Hai người không có tương
quan gì với nhau cả.
Ông nhà giàu không làm điều gì xấu về
luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì
cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương trình sống như chương trình một ông
nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện trọn vẹn vì cái chết đến
sớm: “Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19). Y phục thường xuyên
của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc “gấm tía và vải lanh mịn”, chứ
không chỉ vào một số ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu
vương giả mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại Rôma.
Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính mỗi
ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là một
yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào nhoáng
như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một ông vua.
Các thính giả có thể khó chịu vì bức
tranh này, vì dường như “bôi bác” người nghèo. Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang
vấn đề cách thức sử dụng của cải và lý do vì sao của cải không cứu được mà lại
tiêu diệt người chủ của. Chính bài học hệ trọng này cho hiểu vì sao Đức Giêsu
giới thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu, một hình ảnh ở mức độ nào đó
đang có trong mỗi một người, ở dạng hiện thực hay ở dạng nguyện ước.
Thế rồi Đức Giêsu đưa ra một hình ảnh
đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người nghèo mạt. Bản văn không nói là
anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một tên, “Ladarô” có nghĩa là “Thiên
Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa đối với “những người nghèo khó, tàn tật,
què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình.
Phải chăng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không
thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để giúp anh tìm được
thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người
nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, người không được mời, có thể ở gần chủ
nhà nhất. Ông chủ và các khách mời không thể nào không biết có anh này ở ngoài
cổng, và quả thật, ông nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ
Abraham.
Ladarô đói, anh thèm được ăn những thứ
thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách rơi xuống. Rất có thể mấy con
chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu vậy, hẳn là Ladarô mong được
không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa những con chó. Chỉ có mấy con
chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông
nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy
con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị bỏ rơi, không được
ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức tranh Đức Giêsu phác ra kết thúc tại
điểm này: đây là một “kết thúc mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu không
mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống, không
có gì thay đổi cả: mỗi người cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả
Lc không hề xác định rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của
người tốt. Đấy là những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc sống
của hai bên: một bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc
sang trọng, còn bên kia thì gần như trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối
đang đứng trước mặt nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý
hằng ngày, dụ ngôn lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ
không nói với nhau là một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ
ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng nghe (16,29.31).
* Phần một của đối thoại: Cuộc sống dưới
ánh sáng của cái chết (23-26)
Nhưng cái tên “Ladarô”, có nghĩa là
“Thiên Chúa giúp đỡ”, Đức Giêsu cố tình gán cho anh, là để ta hiểu rằng cái tên
của anh phù hợp với hoàn cảnh của anh: Khi còn sống, anh đã không được người
nào giúp đỡ; sau khi chết, anh đã được Thiên Chúa an ủi.
Đứng trước cái chết, ông nhà giàu và anh
nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu cố đến cả hai người. Nhưng tại điểm này, số
phận của họ đảo ngược. Bản văn không nói gì về phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự
đảo lộn các số phận, đồng thời nói đến một tình trạng bất khả truyền thông giữa
hai bên. Những gì được nói ở đây về cuộc sống sau cái chết không phải là một mô
tả chính xác về cuộc sống ấy và không hề có ý phác ra một địa lý của thế giới
bên kia gồm những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức Giêsu chọn nói về đau khổ dành
cho những kẻ tội lỗi trong cuộc sống sau cái chết, Người thường vận dụng kinh
nghiệm của các cư dân của một thành phố qua hình ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên
một đống rác, liên tục cháy ngày đêm để thiêu đốt rác rưởi của thành ấy (Mc
9,48; x. Is 66,24).
Các hình ảnh này chỉ muốn diễn tả sự
khác biệt tận căn trong thế giới bên kia của đời sống một người đã rất giàu có
và đời sống của một người đã hết sức nghèo túng. Ladarô được đưa vào lòng tổ
phụ Abraham. Abraham, bạn của Thiên Chúa và tổ phụ của dân Israel, được coi như
người chủ tọa bữa tiệc mừng trong thế giới ấy (x. Mt 8,11). Ladarô, đã từng nằm
vạ vật bẩn thỉu trước cổng và chỉ có bầy chó làm bạn, nay nhận được một chỗ
danh dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông thân tình và tin tưởng với
ngài (x. Ga13,23). Còn ông nhà giàu, trước đây, ông ăn mặc tinh tế và xa hoa,
nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến ông rất đau đớn. Trước kia, ông luôn có sẵn
những thức ăn thơm ngon và thức uống ê hề, bây giờ ông phải xin một giọt nước.
Trước đây, trong cuộc sống trần gian, Ladarô đói khát mong ước được ăn những
thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống, nhưng không được; bây giờ ông nhà giàu xin Ladarô
đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho ông một giọt nước, mà cũng không được nhận.
Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết và chỉ quan tâm đến thú vui, thoải mái,
sự xa hoa và những thứ tinh tế. Với của cải của ông, ông có thể cho phép mình
có mọi sự. Nhưng cách thức ông đã sử dụng của cải và tiêu xài cuộc sống đã đẩy
ông vào một tình cảnh trong đó ông phải chịu đau đớn và dày vò, nhung nhớ và
nguyện ước không nguôi; chính ông tự tách khỏi sự hiệp thông với tổ phụ Abraham
và với Thiên Chúa.
Tác giả không giải thích trong bài dụ
ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ, còn Ladarô thì thoát khỏi đau khổ.
Các hoàn cảnh sau cái chết của họ chỉ được hiểu ngầm trong bài là xứng đáng với
họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng vì ông nhà giàu có của cải trên trần gian,
nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài chỉ muốn khẳng định rằng ông ấy đã có của
cải ở trần gian, nhưng sự giàu có không theo ông vào âm phủ được. Chúng ta hiểu
rằng đời sống trước đây trên mặt đất phải chịu trách nhiệm và là nguyên nhân
của những tình cảnh sau cái chết.
Lời ông nhà giàu kêu “lạy cha Abraham
(của con)” xin giúp đỡ và lời tổ phụ Abraham nói “con (của ta)” để từ chối cho
hiểu quan hệ thân thương này vẫn không chặn được các ngọn lửa và cơn khát nơi
âm phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông cũng cho hiểu là có một dây liên kết cốt
thiết giữa ông và Ladarô; mặc dù có những khác biệt lớn lao giữa hai người, họ
vẫn là anh em gần gũi và phải yêu thương nhau. Thế nhưng bây giờ, “giữa chúng
ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con
cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được” (c. 26),
nghĩa là không thể thay đổi phần thưởng hay hình phạt nữa, khi mà cuộc sống đã
chấm dứt. Mối quan tâm của ông nhà giàu cho số phận của năm người anh em sau
này gợi ý là sau khi chết, không còn có thể thay đổi được nữa.
Chúng ta ghi nhận là không phải là
Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông nhà giàu, mà là tổ phụ Abraham, tức Nguồn
Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất cả mọi con dân Israel giải
thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể giúp gì cho ông nhà giàu. Lý do thứ
nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở đời; còn Ladarô thì
chỉ toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn Ladarô được an ủi.
Điểm nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do vì sao đau khổ của
ông nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình trạng bị dày vò lúc này,
ông phải nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong cuộc sống trần gian và
nhớ là bây giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị buộc phải từ bỏ
tình trạng hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt đời, nên nay anh
được an ủi. Lời của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích một điều: không phải vì
sao mỗi người đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không thể yêu cầu Ladarô giúp
đỡ ông nhà giàu.
Lý do thứ hai: theo quan niệm về âm phủ
nói trên, có một sự ngăn cách không thể vượt qua giữa cái tốt và cái xấu: “giữa
chúng ta đây và các con”, tổ phụ Abraham kể cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn
cách này do một Đấng Khác quy định bất di bất dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo
nào. Tình trạng bất khả thông thương này chấm dứt mọi tranh luận về việc Ladarô
giúp đỡ ông nhà giàu.
* Phần hai của đối thoại: Sứ điệp cho
“năm người anh em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)
Ông nhà giàu nhìn nhận rằng chính lối
sống của ông trước đây trên mặt đất đã đưa ông đến tình trạng này. Do đó ông
mong muốn là anh em ông được nhắc nhở thay đổi đời sống để khỏi rơi vào số phận
đau đớn như ông. Rất có thể những người này đang sống dưới một mái nhà với ông,
nên ông biết rõ lối sống của họ. Cách thức thực hiện điều này, như ông đề nghị,
là gửi Ladarô về khuyến cáo các anh em ông về mối nguy hiểm đáng sợ đang ở
trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời: “Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng
cứ nghe lời các vị đó”. “Môsê và các Ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh.
Như thế, muốn tránh được lộ trình đưa đến số phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời
Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu rằng trong khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng
nghe, tức không vâng theo “Môsê và các Ngôn sứ”, Lời Chúa, với luật căn bản là
mến Chúa yêu người.
Nhờ trung gian của Kinh Thánh, Thiên
Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của Ngài, Ngài ban cho chúng ta những
quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến đích. Ý muốn của Thiên Chúa không hề
khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã khẳng định: “Quả thế, mệnh lệnh tôi
truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức lực hay ngoài tầm tay anh em.
Mệnh lệnh đó không ở trên trời […]. Mệnh lệnh đó cũng không ở bên kia biển […].
Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh
em đem ra thực hành” (Đnl 30,11-14). Trong Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về
trách nhiệm xã hội đối với những người nghèo. Nay ta có thể giải thích rõ ràng
nhất bức tranh Đức Giêsu đã vẽ ra trong bốn câu đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu
đã bỏ qua ý muốn của Thiên Chúa, không quan tâm đến Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm
tiện nghi và thú vui cho riêng mình. Do đó, ông đã phải đi đến đau khổ hiện
tại.
Ông nhà giàu không phủ nhận tính đúng
đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông nghĩ rằng anh em ông sẽ vâng theo
hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết trở về truyền đạt sứ điệp Môsê. Chắc
chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá trị của anh nằm ở chỗ anh có thể
làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời của tổ phụ Abraham là một lời
bình luận về trái tim con người. Nếu người ta không muốn vâng nghe Môsê và các
ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về cũng chẳng lay chuyển được lòng dạ của
họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con tim sống trong tội rất có thế giá: bài
dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở đây với nhận xét của tổ phụ Abraham.
Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ hoán cải!
+ Kết luận
Trong bài dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy một
cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của cuộc đảo lộn này. Những gì Người loan
báo ở đây là nhắm ban cho các “anh em” (c. 28) ông nhà giàu một lời giáo huấn
và khuyến cáo, để họ khỏi mất linh hồn vì những thú vui do của cải giàu sang,
trái lại biết nghiêm túc tìm thánh ý Thiên Chúa. Các lời này của Đức Giêsu cũng
là một an ủi cho người nghèo, vì tuy trên trần gian họ phải sống một số kiếp
đau thương nhưng họ vẫn có thề hoàn toàn cậy trông vào sự nhân lành của Thiên
Chúa.
Đức Giêsu mạnh mẽ loan báo rằng cuộc
sống trần gian không phải là tất cả và các hoàn cảnh hiện thời trong cuộc đời
không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai không nhìn sang bên kia cuộc sống
trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết sẽ phải gặp một chuyện kinh ngạc
đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo, cần phải quy hướng cuộc sống mình
về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường duy nhất để tránh được diệt vong và
đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Còn có một hướng suy nghĩ khác: sau
khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn này, phải chăng tác giả Lc muốn ám
chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết?
Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng về sự “không nghe” này. Nếu hiểu như
thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hai người ở cách nhau có ít bước, thế
mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ việc nằm vất vưởng đau
bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống như không hề có Ladarô. Khi
người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào “phát triển”, người ta trở
thành đui mù, không thấy người khác với các nhu cầu của họ. Sau này, ông nhà
giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc rối gì cho Ladarô. Tôi tôn trọng
quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều gì! Ông biết ông đã sai khi
không sống những điều Lời Chúa dạy.
2. Ông nhà giàu có tất cả mọi sự trên
đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu của cuộc đời. Nhưng chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian không phải là
tất cả. Phải sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của cải vật chất thế nào,
để sau khi chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu không
muốn nói đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng ta về giá trị của chọn
lựa căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi vì liên
hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
3. Ông nhà giàu chết, và phải chịu cực
hình. Điều này không có nghĩa là chỉ
nguyên vì ông có của cải trong cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành hạ
trong thế giới bên kia. Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã không biết sử dụng của
cải cho khôn khéo, như đã được nói đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng
được mời gọi xét lại xem chúng ta có chăng khả năng thấy nơi mỗi con người và
nơi các nhóm người và các dân tộc, một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà chúng
ta. Chúng ta có nhận ra được những nhu cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ
làm gì cho họ?
4. Sau khi chết, không còn có thể thay
đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức Giêsu đã ra sức
thúc bách người ta “thay đổi ngay bây giờ”. Không có một giáo huấn nào của Tân
Ước cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết. Lời Chúa có đó để hướng
dẫn chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa,
ta phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai
cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép
lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
5. Điều mà bài dụ ngôn lên án, đó là
không biết nhận ra tình trạng của bản thân để thay đổi.Có một cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn còn
có thể làm được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan đúng
lúc. Trong một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời như một cái kềm để nhổ các
cây đinh của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được thiên đàng: “Giêsu ơi,
xin nhớ đến tôi” (Lc 23,43).
42.
Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu đã nói dụ ngôn này: “Có một
ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”
Đức Giêsu đã trông thấy điều đó. Bấy giờ
đã có những bất bình đẳng... giữa những người quá giàu, và những người quá
nghèo.
Lại có một người nghèo khó tên là
Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu
Chúng ta nhận thấy rằng ông nhà giàu
không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể nhận ra mình nơi ông ta. Còn
người nghèo có cái tên “Ladarô”. Trước mắt Thiên Chúa, Ladarô là một con người.
Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy nhất mà một nhân vật của dụ
ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý nghĩa: Trong tiếng Do Thái, El'azar có
nghĩa là “Thiên Chúa - phù hộ”. Chúng ta đi đoán điều gì nơi ông nhà giàu bị...
chê trách. Đó là ông ta đã đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu cồ của ông, vào
nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù thiếu
thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh.
Thèm được những thứ trên bàn ăn của ông
ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta
Chúng ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu
đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà, người ta chè chén trong cảnh xa
hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa hai bên là một cái cổng. Cái
cổng này ví như một “vực thẳm” phân cách giàu nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông
nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên chính mình, và không vượt qua
cái cửa của ngôi nhà.
Phải sự giàu có, tài sản của chúng ta
ngăn không cho chúng ta “thấy được” những người khác. Và người nghèo khó, mình
đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà giàu, dường như cũng không tận
mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên sân khẩu.
Ngày 3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở
Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã áp dụng dụ ngôn này vào thế giới
hiện đại một cách tập thể: “Những làn sóng di dân chen chúc nhau trong những
khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết niềm hy vọng và chết trong
cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không tìm thấy không gian sống để
phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần, đi lang thang trong các
đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập giữa những tòa nhà bằng
bê-tông... Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống với mọi tiện nghi hiện
đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ bản nhất... Nhiều khi
sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn ông nhà giàu và Ladarô,
sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm trầm trọng tình cảm ức chế
của những người không may mắn”
Đó đúng là điều Đức Giêsu đã nói:
Những mô tả ấy có tác động tôi điều gì
không?
Thế rồi người nghèo này chết, và được
thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem
chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình”
Vậy đây là một sự lật ngược hoàn cảnh
tình thế.
Người nghèo đã ở giữa hỏa ngục trên trần
gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là một hỏa ngục thật sự. Giờ đây,
ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu trước đây không thiếu thứ gì,
giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng lưu ý của hai dụ ngôn, là Chúa
không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản
người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế thôi. Ông nhà giàu không bị buộc
tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh bang một nghiệp vụ khéo léo về bất
động sản hay thương mại, hoặc không trả lương Ladarô cho công bằng, hoặc đã
ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói rằng ông nhà giàu không bố thí cho
Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy anh ta! ông đã để một vực thẳm
khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau, người này xa cách người kia.
Ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ
Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu
lên: ‘Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón
tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
Dĩ nhiên không nên tìm kiếm một sự mô tả
thế giới bên kia trong những hình ảnh này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ
của tư tưởng người đồng thời. Người không thể nói cách khác để người ta hiểu
Người: Thế giới bên kia được hình dung (!) như một âm phủ bao la (“Shéol”) với
những thân thể (!), những cái lưỡi, ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ
bị kết án nhìn từ xa những người được ưu tuyển cách mình bằng một vực thẳm.
Điều rõ ràng bên kia những hình ảnh bình dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở
trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần đến anh nhà nghèo.
Ông Abraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại:
suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu
toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu
khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi
bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây
cũng không được’
Đức Giêsu một lần nữa tái khẳng định
“đặc quyền của những người nghèo” bởi miệng của Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại.
Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): “Kẻ đói nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu
có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Chúng ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác
họa chương trình của Đức Giêsu ở hội đường Nagiarét: “Chúa đã xức dầu tấn phong
tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại
mối phúc thật và mối họa: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho các
ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo
chống lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 - 16,9-11).
Đối với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm
hai nguy cơ chết người:
1. Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa:
Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là
điều chủ yếu.
2. Nó khép kín lòng mình với những người
khác: Người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay cổng nhà mình.
Chúng ta hãy lưu ý rằng, hỏa ngục dường
như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa cách Thiên Chúa như ở trần gian
người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở trần gian Người ta vẫn thế.
Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người “tự phán xử mình ngay từ
trần gian này”.
Hình phạt khủng khiếp ấy đơn giản là
khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người ấy và Thiên Chúa, ở giữa người ấy
và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa là sự hiệp thông của tình yêu. Kẻ
giàu có đã tự kết án chính mình: “cái cổng nhà” hắn phân chia hai thế giới đã
trở thành “vực thẳm”.
Tôi có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo
thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi mở lòng tôi cho Thiên Chúa hoặc
cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình trong chính mình? Trần gian này
là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa ngục.
Người nào không yêu thương ở trần gian
này đã tự loại mình ra khỏi “bữa tiệc của Thiên Chúa” nơi chỉ có những người
nghèo được vào, những người này đã “mở lòng mình ra cho những người khác”. Đức
Giêsu đã mạc khải cho chúng ta thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Người là Tình
yêu phổ quát. Một người cha đã giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh
đình để đón nhận đứa con hoang đàng; Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè
chén với bạn bè mình để lợi dụng của cải mình: Khác nhau biết bao!
Ông nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì
con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em
nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này’
Chi tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi
cần rằng người ta không thể dùng những hình ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau:
Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành nhỏ nhất trong một Người, thì đương nhiên
nơi này sẽ thôi không còn bị kết án nữa. Tình yêu của Thiên Chúa thì vô tận.
Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để đưa vào câu trả lời sẽ theo sau.
Ông Abraham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và
các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.' Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ
Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến với họ, thì
họ sẽ ăn năn sám hối’
Vậy một lần nữa, chúng ta đứng trước một
lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường. Ông hãy làm cho chúng tôi một phép
lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! ông
hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào
các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc
11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).
Ông Abraham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ
mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’
Thật vậy, sự sống lại của Ladarô, em
trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết phục được những
người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy họ có quyết định loại trừ
Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất đến với đức tin không
phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng nghe Lời Chúa
(Môsê và các ngôn sứ)... sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy các nhu cầu của
anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)...
Nhưng Đức Giêsu xem ra đã khẳng định
rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một cách bi thảm: Tính ích kỷ sự
buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín lòng họ... sau cùng làm họ
“không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa”. Thỉnh thoảng, cái chết theo
lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm linh là điều bấp bênh, và sự
giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất cả đều vô ích: tài sản của họ đã làm
họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác và trước sự mỏng dòn của bản
thân họ. Họ tự mãn về chính họ... bị giam hãm trong của cải của họ... Thiên
Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc một ai yêu mến.
Để kết luận suy niệm bài Tin Mừng này,
chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng
đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những người khác sẽ tai hại như khi nói
rằng: “Tôi đâu có phải là ông vua dầu hỏa”.
Hãy nhìn kỹ lòng mình... Nó có mở ra cho
Thiên Chúa, cho người khác không?
Bạn có nghèo không?
43.
Sự công bằng của Thiên
Chúa
(Trích dẫn từ ‘Bước Theo’ – Pet. Trần
Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý vị, khởi đi từ Bài
đọc I (Am 6, 1a. 4-7), tiên tri Amốt đã cho biết rõ về sự công bằng của Thiên
Chúa bằng những lời lẽ hết sức rõ ràng. Thiên Chúa đã chúc dữ cho những ai sống
cuộc sống phong vận tại Sion và trên núi Samaria. Theo đó, sống một cuộc sống
xa hoa, phung phí, không biết tôn kính Thiên Chúa và tha nhân, mặc sức sống một
cuộc sống vàng son, trụy lạc, nên chi họ đã bị lên án.
Bài đọc II, thánh Phaolô cho biết Đức
Kitô- Giêsu cho chúng ta sống một mẫu gương Bác ái, đạo đức. Chính cuộc sống
ấy, một cách kiên nhẫn, chúng ta sẽ nhận được một sự sống từ Thiên Chúa qua
Đấng cứu chuộc Giêsu- Kitô, Đấng ấy sẽ xét xử mọi loài. Đấng ấy là Vua các vua,
Chúa các chúa.
Qua đó, Lời Chúa hôm nay (Lc 16, 19-31),
có hai ý chính cho chúng ta thấy sự công bằng của Thiên Chúa và tiên báo mầu
nhiệm sự chết và phục sinh của Đức Giêsu.
Đó là dụ ngôn người giàu có và người
nghèo Lazarô.
Theo đó, chúng ta thấy, Chúa Giêsu đến
để dạy cho chúng ta một chân lý về của cải, sự giàu có về tài sản thế trần. Bên
cạnh thứ tài sản hiện hữu ở trần thế, chúng ta còn có một thứ tài sản vô cùng
quý giá ở Nước Trời. Đó là Thiên Chúa, vâng! Thiên Chúa chính là “khối tài sản”
quý giá nhất của con người. Vì vậy, chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa và sống
Lời Chúa một cách có ý thức, như vậy Lời Chúa mới giúp chúng ta nhận ra chân lý
để chân nhận Thiên Chúa mới chính là tài sản mà chúng ta hướng đến.
Qua sự trình thuật của thánh Luca hôm
nay, giữa người giàu và người nghèo, chúng ta thấy rõ sự ngăn các, sự khác biệt
đối với cuộc sống giữa hai người khi còn sống, một bên là xa hoa, sang trọng
quá mức, một bên thiếu thốn, nghèo hèn quá mức. Một bên là ăn vận lụa là, gấm
vóc, một bên là ghẻ lở đầy mình, đến nỗi chó đến liếm ghẻ.
Như vậy, sự khác biệt giữa hai cuộc sống
là quá lớn, người phú hộ giàu có kia đã sống một cuộc sống đầy đủ, trọn vẹn nơi
trần gian. Còn người ăn mày Lazaro thì thiếu thốn mọi thứ trong cuộc sống trần
thế. Nhưng đến lúc hai người cũng phải chết, rồi thì cuộc sống sau khi cuộc
sống trần gian kết thúc, người ăn mày Lazaro được các Thiên Sứ đem vào lòng Tổ
Phụ Apraham. Còn người phú hộ thì vào nơi dành riêng cho ông ta. Lúc nầy, cuộc
đời đổi lại 360 độ, Người nghèo Lazaro được hưởng những gì mà người phú hộ kia
không thể hưởng được. Như vậy, chúng ta thấy, mầu nhiệm của sự sống không phải
là ở nơi của cải, mà là ở nơi tình yêu Thiên Chúa ngự trị và chính Thiên Chúa
mới là tài sản đích thực của chúng ta. Vì điều gì hiện hữu nơi chúng ta nhìn
thấy, thì không còn là mầu nhiệm nữa, mà là một sự hiện nhiên, một sự bộc bạch
từ Thiên Chúa.
Qua dụ ngôn trên, chúng ta nhìn thấy hai
cuộc đời, hai số phận khác nhau, sự chênh lệch quá lớn nơi sự hiện hữu ở trần
gian. Sự bất hạnh và sự hạnh phúc nơi trần gian, mà nhân trần nhìn thấy được
thì hoàn toàn khác biệt với những gì mà phàm nhân chưa nhin thấy được, đó là
mầu nhiệm của sự sống nơi có Thiên Chúa hiện hữu.
Dụ ngôn trên, cho chúng ta biết sự công
bằng của Thiên Chúa và sự giáo huấn của Chúa Giêsu, mà chúng ta phải nhận ra
chân lý ấy. Để chúng ta không phải hối tiếc như người phú hộ kia.
Chúng ta may mắn hơn người phú hộ, vì
Chúa Giêsu đã đến trực tiếp giáo huấn chúng ta, và Người đã tử nạn và Phục Sinh
để cho chúng ta tin vào Người.
Mầu nhiệm của sự sống sau cái chết trần
thế, không ai biết rõ, trừ phi “Người Ấy” từ cõi chết sống lại. Qua sự đối đáp
giữa Tổ Phụ Apraham và người phú hộ, chúng ta thấy, ông ta sau khi nhận ra sự
thật thì đã muộn màng. Và muốn xin một đặc ân sau cùng cũng không được, vì sự
sống và sự chết thật có một hố sâu ngăn cách, không thể liên thông được. Ông ta
ao ước có một người từ cõi chết sống lại để nói cho người thân của ông ta biết
đừng sống một cuộc sống như ông ta. Đó là lý do, mà Lời Chúa hôm nay nhắc nhở
cho chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng công bằng vô cùng, đời nầy nếu chúng ta
biết sống công bằng hợp lý, thì chúng at sẽ không phải ân hận như người phú hộ
kia.
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay cho chúng ta:
* Một sự hy vọng chắc chắn vào đời sau
* Một niềm cậy trông vững vàng vào Chúa
Giêsu và những Lời dạy của Người.
* Vì Thiên Chúa là Đấng công bằng và
công minh đối với mọi người.
* Thiên Chúa chính là tài sản quý giá
nhất, vì những gì ở nơi Thiên Chúa và thuộc về Ngài là vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến và dạy cho
loài người những bài học về Nước Trời. Trong dụ ngôn trên, không phải Chúa muốn
trừng phạt kẻ giàu có, mà là cho họ một bài học để thức tỉnh vì tình thương.
Chúa đã yêu thương người giàu cũng như kẻ nghèo, và muốn cứu độ tất cả họ. Xin
thương ban cho mọi người giàu cũng như nghèo, biết nhận ra chân lý của tình yêu
là Thiên Chúa duy nhất. Đó là tài sản quý giá nhất của họ mà thôi. Amen.
44. Đừng vô cảm… - Petrus.tran
Kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam rất
phong phú. Có thể nói rằng, nó là một kho tàng tốt cho việc giáo dục con người
xưa cũng như nay.
Thật vậy, có ai trong chúng ta lại không
hơn một lần được dạy dỗ rằng, "thương người như thế thương thân",
hoặc "một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ", hay "một miếng khi
đói bằng gói khi no" v.v... Tiếc thay! có vẻ như, những lời dạy dỗ tốt đẹp
đó ngày càng xa rời cuộc sống của không ít người hôm nay.
Nhớ, ngày 13/10/2011, tại thành
phố Phật Sơn, Nam Hải, Trung Quốc. Một bé gái ba tuổi tên Yue Yue đang chơi
trong khu chợ, có một chiếc xe tải đi qua, chiếc xe đó cán lên người cô bé.
Nhiều người qua lại nơi đây, thấy, nhưng họ vẫn dửng dưng bỏ đi. Theo dõi trên
clip, có khoảng 20 người qua lại nơi tai nạn xảy ra, nhưng không ai dừng lại
cứu cô bé.
Rồi cũng trong năm 2011, vào ngày 07/10,
một vị bác sĩ, trong lúc lái xe bất cẩn, đã gây ra một tai nạn hàng loạt khiến
cho hai người chết và mười bảy người khác bị thương. Điều đáng tiếc là, khi tai
nạn xảy ra, những người hiếu kỳ thay vì đưa nạn nhân cấp cứu, họ lại nhảy vào
“hôi của” cướp đồ nạn nhân…
Tại sao lại có những chuyện như thế xảy
ra? Thưa, đó chính là do “sự vô cảm”, sự vô cảm đã chế ngự con người, nó làm
cho con người trở nên ích kỷ, dửng dưng, không rung động, không cảm xúc trước
nổi đau, hoạn nạn của người khác...
Nói đến sự “vô cảm”, có thể nói, hàng
ngày, nó đã gây ra biết bao nhiêu “… điều trông thấy mà đau đớn lòng”, từ
chuyện một chú bé “cuộc sống đói rách bơ vơ…Hỏi ai ai cho nương nhờ! Chuỗi ngày
tăm tối bơ vơ…” cho tới chuyện, có những đại gia, tỷ phú… đã dám chi hàng
tỷ đồng chỉ để “ăn một bữa trưa” theo sở thích của mình.
Niềm tin Kitô giáo không dạy con người
sống vô cảm. Niềm tin Kitô giáo dạy rằng, một Kitô hữu không chỉ mến Chúa nhưng
còn phải yêu thương người. Thương người có mười bốn mối, thương xác bảy mối:
“Thứ nhất cho kẻ đói ăn. Thứ hai cho kẻ khát uống. Thứ ba cho kẻ rách rưới ăn
mặc. v.v…”
Vâng, “cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống,
cho kẻ rách rưới ăn mặc” cũng chính là điều Chúa Giêsu luôn đem ra khuyên dạy
và đề cao.
Thật vậy, với sự giàu có, Ngài đã khuyên
dạy rằng: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt
làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho
tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy
đi” (Mt 6, 19-21)
Với những người, có “rất nhiều của cải”,
như trường hợp ông thủ lãnh nhà giàu, Đức Giêsu khuyên “hãy bán tất cả những gì
ông có mà phân phát cho người nghèo và ông sẽ được một kho tàng trên trời”.
Và để cho mọi người cảm nhận rõ lời
khuyên đó, Đức Giêsu đã dạy cho họ một bài học qua dụ ngôn “ông nhà giàu và anh
Lazaro nghèo khó” (x.Lc 16, 19-31).
Dụ ngôn được kể rằng: “Có một ông nhà
giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”.(x.Lc 16, 19)
Câu chuyện sẽ không có gì để nói, nếu “trước cổng ông nhà giàu” không có “một
người nghèo khó… nằm (ở đó)”.
Người nghèo khó đó tên là Lazaro, anh ta
trông thật thảm thương. Trên cơ thể anh ta “mụn nhọt đầy mình”.
*Thưa bạn, bạn có bị “ghẻ” bao giờ
chưa! Tôi đã bị. Năm học lớp đệ thất (lớp sáu bây giờ), chân tay của tôi “mụn
nhọt đầy mình”, phải nói rằng, nhức nhối khủng khiếp. Thế nhưng, cái nhức nhối
của thể xác không sánh bằng cái nhức nhối tinh thần. Cái nhức nhối tinh thần,
đó là sự cô đơn, một lớp học gần bốn mươi học sinh, nhưng không có một người
nào muốn đến gần tôi. Thật ra, cũng có người đến, nhưng họ đến chỉ để nói với
tôi rằng “đồ ghẻ tàu!”.
Với “ngưòi nghèo khó tên là Lazaro” ư!
Có phần chắc, anh ta cũng nhức nhối, anh ta không chỉ nhức nhối thể xác bởi mụn
nhọt, bởi cái dạ dày “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà
ăn cho no”, anh ta còn nhức nhối tinh thần. Từ tâm can, anh ta nhận ra "sự
vô cảm" của ông nhà giàu, phải chi ông ta đến và chỉ nói “đồ ghẻ La Mã” có
lẽ anh ta cũng vui vui chút ít!
Sự vô cảm của ông nhà giàu, có thể ví
như “cục lơ Pháp”, đã được ông ta “thoa” lên “cây cơ” là đám mụn nhọt và
sự đói khát trong nỗi cô đơn của anh Lazaro. Vâng, chỉ là một cách diễn tả, kết
thúc hồi một, buồn thay! chỉ có “mấy con chó… đến liếm ghẻ chốc anh ta”.
Với hồi hai, như người ta thường nói
“mồm chó vó ngựa”. Anh Lazaro, phần vì đói, phần vì mồm những con chó liếm vào
những vết ghẻ của anh ta… Ôi! vết thương của anh ta, không nhiễm trùng mới là
chuyện lạ! Lazaro chết, có phần chắc, vì đói và vì nhiễm trùng. Sau đó, “ông
nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22).
Và như lời một bài kinh đã viết “sự chết
chỉ là sự biến đổi chứ không hề tiêu tan”. Cuộc đời Lazaro được biến đổi, anh
ta không còn cô đơn bên “mấy con chó” nhưng tràn đầy hạnh phúc “trong lòng tổ
phụ”.
Còn ông nhà giàu ư! Chuyện được kể tiếp
rằng: “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta…” - ông nhà giàu - lại là kẻ
mong Lazaro “đừng-vô-cảm” trước sự đau khổ của ông ta.
Trước kia, nơi trần gian, Lazaro “thèm
những thứ trên bàn ăn của ông rớt xuống mà ăn cho no”… Nay, dưới âm phủ, ông
nhà giàu “thèm” được Lazaro “nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi (ông)
cho mát, vì ở đây (ông) bị lửa thiêu đốt khổ lắm” (Lc 16, 24).
Kết thúc dụ ngôn, như đã nói ở trên, anh
nhà nghèo tên là Lazaro được ở “trong lòng tổ phụ”. Còn ông nhà giàu thì “Phải
chịu khốn khổ” (Lc 16, …23).
**
Qua dụ ngôn này, có thể nói rằng, “sự vô
cảm” chính là con đường dẫn chúng ta đến “âm phủ”. Chính vì thế, là một Kitô
hữu, chúng ta đừng quên rằng, những gì chúng ta làm hôm nay, ở đời này, sẽ là
“tấm chiếu khán” đưa chúng ta đến đời sau, nơi “hỏa ngục” hay “thiên đàng”.
Giàu có ư! Tốt, vì đó là ơn phúc Chúa
ban.
Giàu có không phải là một cái tội. Câu
chuyện dụ ngôn trên không thấy một câu hay một chữ nào lên án về việc “giàu có”
của ông nhà giàu. Hãy nhìn xem sự giàu có của ông Gióp khi xưa. Kinh Thánh có
chép rằng, Ông ta có “một đàn súc vật bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm
trăm đôi bò, năm trăm lừa cái”. Chính Xatan cũng phải công nhận Đức Chúa đã
“ban phúc lành cho công việc do tay (Gióp) làm, và các đàn gia súc của (Gióp)
lan tràn khắp xứ” (G 1, 10).
Chỉ có điều, nếu giàu có thì, hãy nghe
tông đồ Phaolô nói: “Đừng tự cao tự đại, cũng đừng đặt hy vọng vào của phù vân,
nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự cho chúng ta hưởng dùng”(1Tm
6,17).
Thánh nhân thêm một lời khuyên rằng :
“Phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc tốt lành, phải ăn ở rộng
rãi, sẵn sàng chia sẻ. Như vậy (sẽ) tích trữ cho mình một vốn liếng vững chắc
cho tương lai”.
Cho nên, khi ta giàu có “Hãy rộng lượng
với kẻ nghèo hèn, đừng chần chừ khi phải bố thí. Hãy đón tiếp kẻ khó nghèo, vì
họ túng quẫn, đừng để họ ra về tay trắng” (Hc 28, 8-9).
Hãy nhớ, sự giàu có không ngăn cách ta
đến bên “lòng tổ phụ” Apraham, sự vô cảm mới chính là “hố sâu” , là
“vực-thẳm-lớn” ngăn cách ta với ngài, sau này, cũng như với những người anh em,
những người đồng loại, ngay hôm nay.
Nếu hôm nay, trong cuộc sống thường
nhật, chúng ta “không vô cảm” với những người anh em, những người đồng loại,
những người mà họ đói chúng ta cho ăn, họ khát chúng ta cho uống, họ rách rưới
chúng ta cho mặc, họ bịnh hoạn chúng ta thăm viếng v.v… thì, sau này, trong
ngày phán xét, Chúa cũng sẽ không nhìn chúng ta bằng ánh mắt “vô cảm”.
Trái lại, Ngài sẽ nói với chúng ta rằng,
“Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các
ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các người đã cho Ta ăn; Ta
khát, các người đã cho Ta uống… Ta là khách đau yếu, các ngươi đã thăm
viếng…”(Mt 26, 34-36)
“Ta” là ai? Thưa, Ta là “họ”.
“Họ” là ai? Thưa, họ là những người chúng ta “không vô cảm”.
Nói tắt một lời, để đời sau, chúng ta
không phải lớn tiếng kêu, “Lạy tổ phụ Apraham, xin thương xót con”, thì đời
nay, nguyên tắc sống của chúng ta chỉ cần gói gọn trong ba chữ “đừng vô cảm”.
45. Đừng “dửng dưng” và “vô cảm” như thế!
(Suy niệm của Lm. Jos. Vinc. Ngọc Biển)
Trong bài viết “Giới trẻ trước căn bệnh
vô cảm”, đăng trên http://www.giaophanvinhlong.net, tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình,
M.F. đã nhận định như sau: “Nhân loại đã bước vào kỷ nguyên mới, một kỷ nguyên
với rất nhiều thuận lợi, giúp cho con người […]tiếp cận với nhiều phương tiện
hiện đại. Tiếc thay, giá trị đạo đức lại bị xói mòn bởi chủ nghĩa thực dụng,
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến ‘bệnh vô cảm’”. Và, tác giả xót
xa cho truyền thống nhân văn của dân tộc đang bị gậm nhấm và sói mòn. Thật vậy,
còn đâu câu ca dao: “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung
một giàn”; hay “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; hoặc “Thương người như thể
thương thân…?”.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng
ta thấy sự “vô cảm”, “dửng dưng”, trước nỗi thống khổ của người anh em. Một
Lazarô nghèo khổ, bệnh tật nằm ở ngay gầm cầu thang của nhà phú hộ. Một khoảng
cách rất gần về không gian, nhưng tiếc thay, chính sự gần gũi đó lại làm cho họ
xa nhau trong cuộc sống vĩnh cửu.
Ý Nghĩa Lời Chúa
Người phú hộ giàu có hôm nay được thánh
Luca trình bày rất gợi cảm: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc,
ngày ngày yến tiệc linh đình” (Lc 16, 19). Tác giả không nói rõ người đó to
cao, mập mạp thế nào? Nhưng cứ sự thường thì đây phải là một người tốt tướng.
Ông ta mang trên mình những thứ sang trọng theo kiểu cung đình. Ông được nhiều
người hầu hạ. Và, ăn uống tối ngày với những món ăn đặc sản thời bấy giờ. Nhưng
ngược lại với hình ảnh của nhà phú hộ, là một Lazarô nghèo khổ: “Có một người
nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu” (Lc
16, 20). Hai hình ảnh của hai con người trái ngược nhau ngay trong một căn nhà.
Nếu ông phú hộ là một người oai phong
lẫm liệt, thì Lazarô lại là một người thấp cổ bé họng, bệnh tật.
Nếu ông phú hộ mặc những thứ vải vóc
sang trọng, thì Lazarô có lẽ chỉ có mảnh vải rách che thân.
Nếu nhà phú hộ ăn uống linh đình,
thì Lazarô chỉ mong được những mảnh vụn từ bàn chủ rơi xuống mà cũng không ai
cho. Chỉ có những con chó đến liếm ghẻ chốc của Lazarô mà thôi.
Một sự phân hóa giàu nghèo rõ rệt.
Tuy nhiên, hình ảnh đó đã bị đảo lộn khi cả hai cùng chết. Tin Mừng cho
thấy:“Thế rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông
Ápraham. Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn” (Lc 16, 22). Chính cái
chết làm cho tình trạng của hai người hoán đổi cho nhau. Tại sao lại có tình
trạng như vậy? Thưa, chính là sự “vô cảm”; “dửng dưng” của nhà phú hộ khi còn
sống.
Tin Mừng làm nổi bật sự mỏng dòn của
tiền bạc, một lúc nào đó tiền của không còn là chỗ dựa duy nhất. Hình ảnh
của nhà phú hộ luôn coi tiền bạc như lá bùa hộ mệnh của mình; còn Lazarô thì
sống dở, chết dở ngay ở cổng nhà ông. Vì vậy, ông chỉ còn một chỗ dựa duy nhất
đó là Thiên Chúa.
Sứ Điệp Lời Chúa
Trong cuộc sống, hẳn mỗi chúng ta đều biết
câu ngạn ngữ: “Sinh hữu hạn, tử bất kỳ”. Sự giàu sang ở đời không đảm bảo được
sự sống. Mọi người đều có thể chết bất cứ lúc nào. Muốn cho cuộc sống của mình
có hậu sau khi chết, thì hãy chuẩn bị cho mình những giấy “thông hành” chính là
tình huynh đệ, lòng bác ái, yêu thương ngay khi còn sống. Đây là cách làm giàu
trước mặt Thiên Chúa. Hạnh phúc hay không là do thái độ của mỗi người khi còn
sống. Nhà phú hộ trong dụ ngôn ta không thấy có những chuyện bóc lột, đàn áp,
hay có lối sống bất chính. Như vậy, ông không có lỗi để đáng phải trừng phạt
trong hỏa ngục. Trong toàn dụ ngôn, Đức Giêsu không nói về bất cứ lỗi nào ông
ta phạm, chỉ đưa ra hai hình ảnh trái ngược nhau khi sống và lúc chết. Như vậy,
tội của nhà phú hộ kia chính là sự “vô cảm”; “dửng dưng” với người anh em đang
đau khổ.
Hai thái độ, dẫn đến hai sự lựa chọn và
đi đến những hệ quả khác nhau. Nhà phú hộ thì an tâm vì của cải dư thừa mình
có; còn Lazarô thì nghèo khổ, ốm đau; nhà phú hộ giàu về vật chất, nhưng ông
lại quá nghèo về tinh thần chia sẻ; Lazarô thì nghèo về vật chất, nhưng ông lại
rất giàu về đường thiêng liêng, nên sau khi chết, Lazarô lại là người giàu, còn
nhà phú hộ lại là kẻ nghèo nàn trước mặt Thiên Chúa. Lazarô được hạnh phúc, con
nhà phú hộ thì đau khổ. Một khoảng cách vĩnh viễn được thiết lập. Cuộc chơi đã
hết. Thắng bại phân minh.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy: giàu
có không hẳn là tội, và nghèo chưa chắc đã phải là nhân đức. Nó trở nên
tội hay không là do thái độ lựa chọn và sử dụng nó. Nước Trời không có
chỗ cho những người ích kỷ, vì đã không biết yêu thương, do thái độ “vô
cảm”; “dửng dưng” trước nỗi khốn cùng của anh chị em.
Sống Lời Chúa hôm nay
“Mọi sự đều bởi Chúa mà ra, từ Chúa mà
đến”. Thật vậy “Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên”. Khi đã xác định như
thế, chúng ta chỉ là người quản lý của Thiên Chúa mà thôi. Nếu quản lý tốt và
biết sinh lợi cho Chúa thì Chúa để cho chúng ta tiếp tục, mà nếu không biết
cách sinh lời thì Chúa cất đi, mà chuyện làm lợi cho Chúa là gì nếu không phải
là tình liên đới, bác ái với những người nghèo chung quanh chúng ta hằng ngày.
“Hữu lộc bất khả hưởng tận” thật đúng với tinh thần kitô giáo, có lộc không nên
một mình hưởng, cần phải nghĩ đến người khác.
Chúa không phạt nhà phú hộ vì ông ta
giàu. Chúa cũng không cổ súy cho sự nghèo nàn của Ladarô. Nhưng Chúa mời gọi
hãy sống có sự liên đới với nhau để người giàu không dư, người nghèo không đói.
Vì thế, ngay từ khi còn sống trên trần gian này, chúng ta hãy gấp rút sửa mình
để kẻo quá trễ như nhà phú hộ. Mọi chuyện sẽ có ngày phân định. Cái chết chính
là lúc phân minh. Thưởng hay phạt chính là lúc này.
Nhưng, thật xót xa cho xã hội của chúng
ta, vẫn còn đó những nhà phú hộ giàu có “dửng dưng”; “vô cảm”. Thật vậy, căn
bệnh này đang trong tình trạng báo động. Vì thế, chúng ta hãy “tiêu diệt” căn
bệnh này một cách triệt để, bằng cử chỉ yêu thương, tình liên đới. Bao lâu, một
xã hội không biết cách vượt ra khỏi căn bệnh trên, là một xã hội chết! Một cuộc
sống vô vị và tẻ nhạt của một cỗ máy vô tri (x. Tu sĩ Lôrensô Vũ Văn Trình,
M.F. “Giới trẻ trước căn bệnh vô cảm”, đăng trên
http://www.giaophanvinhlong.net).
Ước gì xã hội chúng ta có nhiều người
quay lưng lại với sự “vô cảm”; “dửng dưng” và hướng lòng về “tình yêu thương”.
Mong thay đâu đó có nhiều con người biết đồng lòng và thương cảm như học sinh
Nguyễn Văn Nam. Em đã xả thân cứu bạn em khỏi bị nước cuốn trôi. Em đã coi sự
sống của bạn là của mình, nên bất chấp nguy hiểm để hy sinh thay cho bạn của
mình được sống. Không cần biết em Nam có phải là người Công Giáo hay không?
Cũng chẳng cần biết em có bà con họ hàng gì với những em gặp nạn hôm đó không?
Chỉ biết rằng em có trái tim rất đẹp và tình yêu thương vô vị lợi, đáng để cho
chúng ta noi gương (x. Theo Khánh Hoan,Thanh Niên Online, ngày 6.5.2013).
Lạy Chúa Giêsu, giàu không phải là
tội, mà nghèo chưa chắc đã là nhân đức. Xin cho mỗi người chúng con biết sống
tình liên đới trong cuộc sống, để dù giàu hay nghèo, chúng con trở thành những
người quản lý trung tín và khôn ngoan của Chúa. Xin cũng cho chúng con đừng rơi
vào tình trạng “dửng dưng”; “vô cảm” như nhà phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Amen.