Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG C
CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG C
MỤC LỤC
1. Sa mạc.
Sa mạc vốn là một chủ đề quen thuộc trong Kinh Thánh. Thực vậy,
những cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc.
Maisen phải lẩn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và lãnh nhận sứ mạng
giải phóng dân tộc. Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt 40 năm
trời, đây là thời gian thanh luyện cần thiết trước khi được đặt chân vào miền
đất hứa. Và điển hình hơn cả đó là 40 đêm ngày trong sa mạc của Chúa Giêsu. Tại
đây, Ngài đã ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Qua phim ảnh, chúng ta thấy sa mạc đồng nghĩa với nắng cháy,
nghèo nàn và trơ trụi. Phải chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút
bỏ bớt đi những cái không cần thiết, chúng ta mới lắng nghe được tiếng Chúa và
thanh luyện được niềm tin?
Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh rằng những cuộc bách hại luôn là
yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau, trong
nghèo nàn và trơ trụi, Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được những
cái không cần thiết va làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng suốt và
giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc quyền đặc
lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Từ trong sa mạc, Gioan đã nghe được tiếng Chúa, đã lãnh nhận sứ
mạng của ngài và đã loan truyền cho mọi người: Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co
uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt
xuống. Lời kêu gọi này, Chúa chẳng những đã ngỏ với đám dân nghèo hèn, thấp cổ
bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị nữa.
Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố cáo hành vi
tội ác của Hêrôđê. Số phận của Gioan cho chúng ta thấy ông đã đi đến tận cùng
sứ mạng đã lãnh nhận. Ông đã dám nói thẳng và nói thật bởi vì ông không có gì
để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có gì để giữ lấy, không có gì để
mất mát.
Còn chúng ta thì khác. Chén cơm manh áo hay một ít vinh hoa có
thể là động lực thúc đẩy con người thoả hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là
cơn cám dỗ của mỗi người chúng ta trong thời buổi hiện nay. Một ít đặc lợi vật
chất, một vài ưu đãi và dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến nhiều người nếu
không bán đứng lương tâm, nếu không uốn cong miệng lưỡi, thì cũng chấp nhận
thoả hiệp bằng một thái độ yên lặng.
Mùa Vọng là mùa của sa mạc. Có đi vào sa mạc của nghèo khó và
siêu thoát, chúng ta mới dễ dàng nhận ra tiếng Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo
khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ nghị lực để gióng lên tiếng của Chúa: Hãy
dọn đường Chúa đến.
2. Chết.
Chúng ta đang sống trong Mùa Vọng. Mùa Vọng của năm phụng vụ
cũng như mùa vọng của cuộc đời chúng ta. Chúng ta không phải chỉ đón nhận việc
Chúa đến như một biến cố lịch sử trong đêm Giáng sinh, cũng không phải chỉ đón
nhận việc Ngài đến mỗi lần chúng ta lên rước lễ, mà đặc biệt là còn đón nhận
việc Ngài đến vào ngày cuối cùng của cuộc đời chúng ta, cũng như vào ngày sau
hết của vũ trụ vật chất này. Vậy để đón mừng Chúa đến, chúng ta đã chuẩn bị như
thế nào?
Chúng ta nên thực thi sứ điệp Gioan Tiền Hô đã gởi đến cho người
Do Thái bên bờ sông Giócđan, đó là hãy ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi
để quay trở về cùng Chúa. Ông đã thẳng thắn cảnh cáo họ: Hãy sinh hoa trái tốt
lành để chứng tỏ cõi lòng sám hối của các ngươi, bằng không thì này đây cái rìu
đã được đặt dưới gốc cây. Và cây nào không sinh trái tốt thì sẽ bị chặt và ném
vào lửa.
Chúng ta hãy nghiêm chỉnh tự vấn lương tâm xem: nếu như lúc này
Chúa đến với tôi, thì liệu tôi có sẵn sàng để trình diện, để tính sổ cuộc đời
với Ngài hay không?
Có một cậu bé 17 tuổi, người Hoà Lan, đã từng trốn khỏi trại tập
trung của Đức Quốc Xã hồi thế chiến lần thứ II, nhưng rồi cậu bị bắt trở lại và
bị kết án tử hình. Ngay trước khi bị hành quyết, cậu đã gởi cho bố cậu lá thư
như thế này:
“Thưa bố quý yêu!
Thật là khó khăn lắm con mới viết được những hàng chữ này cho
bố, để báo tin rằng con đã bị toà án quân sự kết tội tử hình. Xin bố đọc lá thư
này một mình và khéo léo báo cho mẹ biết giùm con. Chẳng bao lâu nữa, điều đó
sẽ xảy đến với con. Và chỉ trong thoáng chốc, thế là con sẽ về với Chúa. Nói
cho cùng đấy có phải là một cuộc chuyển tiếp đáng kinh hãi hay không? Con cảm
thấy rõ ràng mình đang ở gần bên Chúa. Con đã chuẩn bị mọi sự cần thiết để đón
chờ cái chết. Con nghĩ rằng con sẽ đỡ đau khổ hơn bố nhiều vì con biết rằng
mình đã xưng thú hết mọi tội lỗi và hiện tâm hồn con hoàn toàn thanh thản.
Con của bố”.
Ước chi vào những giây phút cuối cùng của cuộc đời, chúng ta
cũng nói lên được như vậy. Mùa Vọng là thời gian thuận tiện để chúng ta chuẩn
bị những hành trang cần thiết cho cuộc gặp gỡ định mệnh với Chúa. Thế nhưng cho
đến lúc này, chúng ta đã làm được những gì để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định
mạng ấy.
3. Sa mạc.
Thomas Morton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng. Mặc dù theo Anh
giáo, nhưng khi còn trẻ, chàng đã sống như một kẻ vô thần. Sau khi trở lại,
chàng đã vào dòng khổ tu. Chàng đã ghi lại biến cố làm đảo lộn cuộc đời chàng
như sau:
Hôm đó tình cờ tôi bước chân vào một nhà thờ Công giáo. Điều đầu
tiên lôi kéo sự chú ý của tôi đó là một cô gái duyên dáng đang quỳ cầu nguyện
một cách sốt sắng, không để ý tới những gì xảy ra chung quanh. Tôi tự hỏi: Tại
sao một thiếu nữ trẻ đẹp lại có thể quỳ cầu nguyện trong một ngôi thánh đường
lặng lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm như thể bị hút hồn?
Dĩ nhiên cô gái vào nhà thờ không phải là để cho người ta nhìn
ngắm, mà là để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Cuộc gặp gỡ thân tình
của cô gái với Thiên Chúa trong khung cảnh vắng lặng ấy đã là một trong những
yếu tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp Chúa và theo đạo sau này.
Ngôi thánh đường, trong bầu khí trang nghiêm và thinh lặng ấy,
phải chăng là hình ảnh của một sa mạc, nơi con người có thể gặp gỡ và sống thân
mật với Thiên Chúa giữa dòng chảy của một cuộc đời nhiều bon chen và dao động
này.
Thực vậy, theo Kinh Thánh sa mạc vừa là nơi con người chịu thử
thách, vừa là nơi con người gặp gỡ Thiên Chúa. Như chúng ta thường thấy: sa mạc
thì khô cằn sỏi đá. Ban ngày thì nắng cháy, còn ban đêm thì lạnh buốt.
Đó chính là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng
và sự hiện diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói
khát và lạc hướng. Thảm trạng ấy sẽ giúp con người ý thức được cái bé bỏng của
thân phận, cái vô nghĩa của đời mình, bởi vì con người là gì nếu không phải chỉ
là cát bụi.
Nhận thức này sẽ giúp chúng ta từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng và
ngạo mạn, đồng thời mở rộng tâm hồn mình cho ơn sủng của Chúa hoạt động.
Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con người đến điểm
hẹn, gặp gỡ với Thiên Chúa và đón nhận những ơn phúc của Ngài.
Trong cuộc sống thiêng liêng, càng biết vào sa mạc, nghĩa là
càng sống thinh lặng và cầu nguyện, thì càng cảm nghiệm được sự gặp gỡ với
Thiên Chúa một cách mật thiết và gắn bó hơn.
Dân Do Thái đã phải lang thang trong sa mạc suốt bốn mươi năm
trời. Trong thời gian này, họ đã phải gặp nhiều thử thách, nhưng cũng đã được
chứng kiến biết bao việc kỳ diệu Thiên Chúa đã làm vì yêu thương họ.
Chúa Giêsu trước khi bắt đầu cuộc sống công khai, cũng đã vào sa
mạc suốt bốn mươi đêm ngày. Và Phúc âm đã ghi nhận trong thời gian này, Ngài đã
ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ.
Còn chúng ta thì sao? Giữa những bon chen của cuộc sống, chúng
ta có biết vào sa mạc, có biết dành lấy những giây phút thinh lặng để thực sự
cầu nguyện, gặp gỡ và kết hiệp mật thiết với Chúa hay không?
4. Sám hối – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
Gioan con Zacaria xuất hiện rao giảng sám hối. Đây là sứ điệp
tiên tri Barúc đã từng loan báo: “hãy dọn đường cho Chúa, thung lũng hãy lấp
đầy, đồi núi hãy san phẳng…”. Dân Do Thái mong chờ Chúa, hàm chứa, Chúa sai vị
Thiên Sai (Kitô) để giải phóng họ khỏi cảnh lưu đầy ở Babylon. Tiên tri đã loan
báo phải bạt các núi đồi, san phẳng những thung lũng để dân Chúa trở về. Người
ta sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa qua việc Ngài đưa dân từ nơi lưu đầy trở
về quê hương. Điều này xảy ra khi vua Kyrô người Ba Tư ban hành chiếu chỉ cho
dân Do Thái lưu đầy được trở về quê cha đất tổ. Dân Do Thái vui mừng. Họ nhận
ra Thiên Chúa yêu thương họ. Mỗi người đều được mời gọi trở về để đón nhận hồng
ân của Thiên Chúa.
I. Sám hối để có thể sống hạnh phúc
Sám hối hàm chứa nhận ra mình chưa sống như phải sống. Thiên
Chúa vẫn yêu thương và mời gọi con người sống tốt hơn, sống như Thiên Chúa
muốn. Thiên Chúa muốn tôi sống hạnh phúc. Tôi có hạnh phúc như Thiên Chúa muốn
không? Tại sao tôi không hạnh phúc?
Phải chăng tôi đang quá bận tâm lo lắng về cơm ăn áo mặc? Phải
chăng tôi muốn có nhiều tiền, tôi muốn có những gì cần thiết về của ăn áo mặc
cho tôi và những người thân yêu trong khoảng thời gian an toàn? Phải chăng tôi
muốn có sự an toàn của người phú hộ ”hãy ngủ nghỉ yên vì ngươi có nhiều của”
(Lc.12, 13-21)? Phải chăng tôi lo lắng mọi sự và không biết rằng Thiên Chúa yêu
tôi, Ngài sẽ cho tôi những thứ tôi thật sự cần (Mt.6, 25-34)?
Tôi có buồn bực vì không được người tôi yêu đáp trả? Tôi có
thông cảm nỗi lòng của người tôi yêu, có thể họ cũng yêu ai đó mà cũng không
được đáp trả? Tôi có muốn người khác yêu tôi, và tôi không cần biết những bận
tâm và ao ước của người tôi yêu? Nếu tôi không chấp nhận con người của tôi, và
nếu tôi không tôn trọng tự do của người khác, thì làm sao tôi có thể sống hạnh
phúc đích thực?
II. Yêu thương để sống hạnh phúc
Con người tùy thuộc nhiều yếu tố để sống hạnh phúc. Có lẽ khi
dân lưu đầy trở về, sẽ gặp nhiều vấn đề phát sinh: chẳng hạn vấn đề nhà cửa,
cơm bánh hằng ngày, vấn đề tương giao giữa con người với nhau, vấn đề phát
triển tối đa con người của mình. Chỉ cần không dung hợp hài hòa những điều
trên, con người cũng không cảm thấy hạnh phúc; hoặc nữa, nếu con người muốn một
điều gì “quá mức” mà không có được, họ cũng không cảm thấy hạnh phúc. Đức Phật
đã đề xuất lý thuyết “diệt dục”, đừng muốn nữa, thì sẽ không khổ. Đức Yêsu dạy
con người: hãy yêu thương nhau (Ga.13, 34), nghĩa là, muốn điều tốt cho người
khác, vui với người vui khóc với người khóc, giúp người khác triển nở và hạnh
phúc.
Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa làm tất cả vì yêu. Con người
được mời gọi để trở nên giống Thiên Chúa, được mời gọi để chia sẻ hạnh phúc với
Thiên Chúa. Chính khi con người nên giống Thiên Chúa, thì con người được hạnh
phúc. Con người được mời gọi để sống yêu thương như Thiên Chúa là Đấng yêu
thương. Chính khi con người sống yêu thương, thì con người được hạnh phúc. Cho
đi thì hạnh phúc hơn là nhận. Con người hạnh phúc khi phục vụ và giúp người
khác triển nở.
Hãy lấp bằng những hố sâu ngăn cách, hãy bạt những núi đồi kiêu
kỳ làm ngăn trở mình sống yêu thương như Thiên Chúa. Mỗi người được mời gọi để
nhìn lại chính mình, để thấy mình chưa sống như Thiên Chúa muốn, để thấy mình
chưa yêu thương như Thiên Chúa mời gọi, để trở lại với Thiên Chúa là Đấng làm
tất cả vì yêu thương.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Chính khi yêu thương là đã hạnh phúc! Bạn có kinh nghiệm về
điều này không?
2. Yêu là làm đẹp mình, bạn có đồng ý với câu nói này không? Xin
dẫn chứng.
5. Hãy dọn đường – Lm. GB. Trần Văn Hào
Khi thành phố bắt đầu về đêm, dòng người và xe cộ trở nên thưa
thớt, người ta thấy xuất hiện những công nhân cặm cụi đi ra quét dọn các con
đường. Niềm vui của họ là nhìn những con đường sạch bóng cho ngàn người
đi qua. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một bài hát cũng mượn những vần thơ diễn tả
hình ảnh người phu quét rác: “Người phu quét lá bên đường, quét cả nắng vàng
quét cả chiều thu”. Có một vị chính khách nọ khi ra tranh cử tổng thống cũng
nói với mọi người: “Nếu tôi được bầu chọn làm nguyên thủ quốc gia, công việc
đầu tiên tôi sẽ làm là cho xây dựng những con đường”.
Cũng vậy, Giáo hội ngày hôm nay mời gọi chúng ta đóng vai người
phu quét lá để dọn con đường trong tâm hồn đón Chúa đến. Giáo hội trích mượn
lời hiệu triệu của Thánh Gioan tiền hô để nhắn gửi chúng ta: “Hãy dọn sẵn con
đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để người đi. Mọi thung lũng phải lấy cho
đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi
lõm phải san cho phẳng (Lc 3, 4 )”.
Nhưng dọn đường như thế nào?
Đạo là đường. Đạo Công giáo không phải là một pháo đài gồm chứa
những luật lệ cứng ngắc để chúng ta rút lui vào đó cố thủ. Đạo mà Chúa Giêsu
khai sáng là một con đường rộng mở thênh thang để chúng ta bước tới, đi đến gặp
gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa Giêsu đã nói: “Tôi là đường, là sự thật và là sự
sống” (Ga 14,6). Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng chính là con đường
đưa dẫn chúng ta tiến về ánh sáng và sự sống vĩnh cửu. Nhưng con đường đó nhiều
khi ngập đầy bụi bặm và rác rưởi của tội lỗi mà chúng ta cần phải quét dọn hằng
ngày.
Thánh Phaolô trong thư gửi giáo đoàn Rôma đã viết “Đêm sắp tàn,
ngày gần đến. Vậy anh em hãy loại bỏ những việc làm đen tối và cầm lấy vũ khí
của sự sáng để chiến đấu. Chúng ta hãy ăn ở cho đúng đắn như người đang sống
giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không chơi bời dâm đãng, cũng không cãi
cọ ghen tương” (Rm 13, 12.13). Bóng tối của màn đêm là hình tượng biểu trưng
tội lỗi và sự chết. Vũ khí của sự sáng mà Thánh Phaolô nhắc bảo chính là sức
mạnh Thiên Chúa ban cho những ai được Thần khí hướng dẫn để không sống theo xác
thịt. Điều mà Thánh Phaolô nói tới cũng tương hợp với lời hiệu triệu của thánh
Gioan mà chúng ta nghe trong bài Tin mừng hôm nay. Con đường cong queo của
những luồn lẹo gian dối phải uốn cho ngay. Lũng sâu chất chứa những thù hận và
cách ngăn phải lấp cho đầy. Núi cao của tham vọng và ích kỷ phải bạt cho bằng.
Muốn sửa lại những con đường đó, chúng ta phải đi vào hành trình hoán cải nội
tâm một cách sâu xa.
Hoán cải và trở về
Có một người đàn ông nọ vô tình đọc thấy một bản cáo phó trên
một trang báo. Người ta nhầm lẫn đưa tin ông vừa mới chết. Ông xúc động, nhưng
bàng hoàng hơn cả vì bản cáo phó xem ông như một kẻ giết người hàng loạt, vì
ông đã chế tạo nhiều vũ khí để sử dụng trong chiến tranh. Bản cáo phó đã đánh
động tâm hồn ông, và ông quyết định chuyển hướng. Thay vì phục vụ chiến tranh
như trước đây, ông bắt đầu dấn thân phục vụ cho hòa bình. Ông đã hiến
dâng toàn bộ tài sản ông sở hữu để cổ vũ cho công lý và hòa bình trên khắp thế
giới. Người đàn ông ấy chính là Alfred Nobel, người đã khai lập giải Nobel hòa
bình để phục vụ cho mục đích này. Đó là một con người đã biết thức tỉnh và trở
về trong sám hối.
Hoán cải (metanoia) theo nguyên ngữ Hy lạp chính là
trở về, trở về với Chúa và trở về với anh em. Trong mùa vọng cũng như trong mùa
chay, chúng ta được nhắc nhở thực hành việc sám hối. Tuy nhiên, nếu hiểu theo
nghĩa rộng, thì trong suốt cuộc lữ hành trần thế, chúng ta vẫn luôn cần phải
trở về liên tục, bởi vì đây là thái độ nội tâm căn bản thể hiện đức tin của mọi
tín hữu quy hướng về Thiên Chúa. Sám hối không phải chỉ là nhớ lại một vài lỗi
phạm và đến tòa cáo giải xưng thú để lương tâm được thanh thản. Sám hối trước
hết và trên hết chính là một tư thế nội tâm để quay trở về. Cuộc lữ hành đức
tin chúng ta giống như một con thuyền nhỏ trên dòng sông chảy ngược. Con
thuyền không thể đứng yên một chỗ mà phải tiến tới, nếu không, con thuyền sẽ bị
dòng nước cuốn ngược lại. Vì thế cuộc hành trình trở về được Giáo hội nhắc nhở
trong mùa vọng như một động thái cần thiết để đón chờ Chúa đến. Chúng ta không
thể trở về với Chúa mà lại không biết cách trở về làm hòa với nhau. Cũng thế,
sự hoán cải mà thánh Gioan Tiền hô nói đến, đòi hỏi chúng ta phải phá đổ bức
tường cách ngăn của những thù hận, phải uốn lại cho ngay những luồn lẹo gian
dối trong cách hành xử thường ngày làm phương hại đến cận nhân chung quanh.
Có lẽ chúng ta đều biết bức tranh nổi tiếng vẽ bữa tiệc ly của
danh họa Leonardo da Vinci. Ông tập trung cao độ để phác họa dung mạo Chúa
Giêsu ngồi giữa các học trò trong giờ phút ly biệt đầy thân thương và quyến
luyến. Nhưng cầm cọ lên, ông lại buông xuống vì không thể vẽ nổi. Nguyên nhân
vì chiều hôm trước, ông mới cự cãi kịch liệt với anh hàng xóm bên cạnh và tâm
hồn trở nên bất an. Cuối cùng ông quyết định gác bút, đi làm hòa với người bạn ấy
rồi mới trở về xưởng vẽ. Chúng ta thấy dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh rất
sống động và toát lên một tình yêu vô hạn. Không có bình an trong tâm hồn,
Leonardo da Vinci không tài nào thể hiện được chân dung Đức Giêsu trong bức họa
nổi tiếng ấy. Cũng vậy, chúng ta không thể nào đến với Chúa mà tâm hồn vẫn còn
những rào chắn khổng lồ cách ngăn chúng ta với anh chị em chung quanh mình.
Hình mẫu nơi Gioan tiền hô
Gioan tiền hô là người gác cổng dẫn vào Tin mừng. Ngài là nhịp
cầu nối giữa cựu ước và tân ước. Gioan mời gọi dân chúng sám hối để trở về,
nhưng ông tự thú ông không phải là đấng Messia, mà chỉ là người phu quét đường,
còn Đức Giêsu mới chính là con đường để chúng ta bước tới. Ông chỉ là tiếng kêu
giữa sa mạc vọng lại lời, còn Đức Giêsu mới chính là ‘Lời’, là ngôi Lời đã trở
thành xác phàm. Vì thế Gioan tóm kết sứ mạng của mình trong câu châm ngôn
‘Người phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại. Có Đấng đến sau tôi nhưng cao trọng
hơn tôi. Tôi không đáng cúi xuống xách dép cho Ngài’. Sự khiêm tốn mà Gioan nêu
gương chính là chìa khóa căn bản để chúng ta bày tỏ tâm thức sám hối, trở về
với Chúa và với nhau. Khiêm tốn nhận ra những giới hạn và bất toàn nơi mình,
chúng ta mới có thể quét sạch rác rưởi trong tâm hồn, dọn đường cho Chúa đến.
Thánh Gioan đã nêu gương mẫu cho chúng ta về thái độ khiêm tốn căn bản này.
Kết luận
Trong một cuộc triển lãm, họa sĩ Vangog có trưng bày một bức
tranh tuyệt đẹp với tựa đề ‘Chúa đến’. Ông vẽ Chúa Giêsu đang đứng gõ cửa trước
một căn phòng. Một người bạn đến xem tranh, tấm tắc khen ngợi tài nghệ của ông,
nhưng anh bạn góp ý: “Này Vangog, bức tranh của anh khá hoàn hảo nhưng còn
thiếu xót một chi tiết, có lẽ anh quên không để ý tới. Căn phòng Chúa đứng gõ
cửa còn thiếu một nắm đấm để mở ra”. Vangog trả lời: “ Không phải thế đâu. Chúa
đang đứng gõ cửa căn phòng tâm hồn mỗi người chúng ta. Còn bạn hay tôi, chúng
ta có mở hay không là do chúng ta quyết định. Nắm đấm để mở cửa phòng nằm ở bên
trong, chứ không nằm phía bên ngoài”.
Trong mùa vọng, chúng ta đợi chờ Chúa đến. Ngài đang đến gõ cửa
tâm hồn từng người. Cửa phòng có được mở ra hay không, và Chúa có đi vào được
căn phòng tâm hồn chúng ta hay không, còn tùy nơi cá nhân mỗi người.
6. Dọn đường cho Chúa đến – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Có vô vàn ngăn trở khiến con người không thể đến được với nhau.
Trước đây, những ngăn cách vì tường cao, luỹ sâu, vì đồi núi
chập chùng hiểm trở… đã từng là những trở ngại lớn cản trở con người qua lại
với nhau; hôm nay những ngăn cách như thế không còn đáng kể.
Ngăn cách vì đường xa vạn dặm đã dần dần bị thu ngắn lại; hai
người ở cách nhau nửa quả địa cầu có thể gặp nhau sau vài ngày du hành bằng máy
bay. Thậm chí ngăn cách giữa các hành tinh xa xôi diệu vợi cũng đã được bắc
cầu.
Bên cạnh những ngăn cách về không gian, về đường sá thì ngăn
cách về quan điểm, về ý thức hệ đáng quan ngại hơn nhiều.
Đã có thời, ngăn cách bởi ý thức hệ (cộng sản và tư bản), bởi
những quan điểm đối nghịch và những chủ trương khác nhau, đã tạo nên những chia
cắt rất sâu sắc giữa cộng đồng nhân loại, tạo nên những khoảng cách tưởng chừng
không bao giờ có thể vượt qua. Vậy mà hôm nay những ngăn cách như thế xem ra đã
được thu hẹp rất nhiều.
Rốt cuộc, chỉ còn ngăn cách vô hình trong lòng người, do lòng
hận thù, do ghen tị, do hiểu lầm nhau mới là ngăn cách đáng quan ngại nhất và tồn
tại lâu dài nhất trong lịch sử loài người.
Những ngăn cách loại nầy đã khiến cho hai người láng giềng cách
nhau một bức vách không thể đến với nhau được; khiến cho hai người bạn cùng
chung sở làm không nhìn mặt nhau; thậm chí hai anh em ruột thịt, hai vợ chồng
chung sống dưới một mái nhà, ngồi quanh một mâm cơm, nhưng tâm hồn xa nhau vạn
dặm.
Con người đã xây dựng được nhiều nhịp cầu thật dài và kiên cố,
bắc qua những dòng sông rộng mênh mông, để nối kết đôi bờ; nhưng ai có thể xây
dựng những nhịp cầu thiêng liêng để kết nối những tâm hồn xa cách?
Thánh Gioan Tẩy Giả là người được sai đến để dựng xây những nhịp
cầu như thế.
Theo Tin Mừng hôm nay, Ngài được sai đến làm tiền hô, làm kẻ bắc
cầu, dọn đường cho Chúa đến: "Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn
sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Mọi thung lũng, phải
lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay,
đường lồi lõm, phải san cho phẳng." (Lc 3, 4-5)
Phải dọn đường đón tiếp Chúa thế nào đây?
Người con cái Chúa rất sùng mộ Thiên Chúa uy linh ngự trên cõi
trời cao thẳm nhưng lại hay thờ ơ, lạnh nhạt, thậm chí bạc đãi chính Thiên Chúa
đang hiện diện nơi những người chung quanh; Thế nên việc mở cửa lòng đón tiếp
anh chị em chung quanh vốn là hiện thân của Chúa là điều phải ưu tiên thực hiện
mỗi ngày.
Chúa Giêsu luôn nhắc nhở chúng ta nhớ rằng Ngài đang hiện diện
trong các anh chị em chung quanh và những gì chúng ta làm cho những người chung
quanh là làm cho chính Chúa. (Mt 25, 40)
Vậy thì dọn đường Chúa đến với ta không gì khác hơn là tiếp
nhận, yêu thương, phục vụ Chúa đang hiện diện nơi người cha, người mẹ, nơi
người láng giềng đang sống quanh ta.
Chính khi các chủ quán Bê-lem hôm xưa khước từ hai người lữ hành
lạc lõng đi tìm chỗ trọ (thánh Giu-se và Mẹ Maria) là họ trực tiếp khước từ
Thiên Chúa.
Chính khi các chủ quán Bê-lem không cho hai người khách lạ trọ
nhà là họ từ khước không cho Hài Nhi Giêsu được sinh ra trong nhà mình. Chính
Chúa Giêsu thường cảnh báo chúng ta về điều đó: "Ta là khách lạ mà các
ngươi không tiếp rước" (Mt 25, 43)
Vậy thì đón tiếp Chúa là sẵn lòng tiếp nhận mọi người không trừ
ai.
Dọn đường đón Chúa là xoá bỏ đi những ngăn cách do chúng ta dựng
lên giữa mình với tha nhân mà chúng ta giáp mặt hằng ngày.
Chỉ khi nào giữa chúng ta và mọi người chung quanh không còn
phân li ngăn cách, ấy mới là lúc đường sá đã dọn xong và Chúa mới có thể đến
được với mình.
7. Sửa đường Chúa đến – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Mùa vọng luôn mời gọi: hãy dọn đường cho Chúa - hãy sửa lối cho
thẳng để Chúa ngự đến. Hành vi dọn đường và sửa lối cho thẳng được thánh Gioan
tiền hô mời gọi là hãy "Sám Hối". Sám hối bao gồm nhận biết tội mình,
hối tiếc vì đã phạm tội, và trông cậy vào ơn Chúa giúp mình chừa bỏ nó. Thiếu
một trong ba yếu tố đó thì việc sám hối xem ra chưa trọn vẹn. Giuđa biết tội,
hối tiếc vì tội đã làm nhưng ông thiếu niềm tin tưởng cậy trông vào sự tha thứ
của Chúa, nên ông đã treo cổ tự vẫn. Thánh Phêrô cũng biết tội, cũng hối tiếc
tội, nhưng thánh nhân còn trông cậy vào ơn Chúa nên đã trở lại với tình thương
của Ngài.
Chúng ta thử nhìn lại lối đường của chúng ta là thẳng ngay hay
quanh co để sám hối những lối đường lầm lỗi của mình. Chúng ta có khúc quanh
co, lồi lõm nào cần uốn nắn, sửa đổi. Lối mòn của chúng ta đang đi là nhân đức
hay tội lỗi thành thói quen không thể sửa? Nhìn lại con đường chúng ta đang đi
để uốn nắn sửa đổi cho phù hợp với tin mừng của Chúa.
Trước tiên chúng ta cùng nhìn vào thế giới hôm nay, một thế giới
có quá nhiều những lối mòn sai lầm nhưng người ta cố tình không nhìn nhận và
không chịu sửa đổi như gian dối trong mọi lãnh vực: thông tin, giáo dục, thương
trường. Tình trạng đó dẫn đến sự phá sản khắp nơi và trong mọi lãnh vực từ vật
chất đến tinh thần.
Thực vậy, trong những năm gần đây, người ta thường hay xôn xao
về những vụ phá sản, bể nợ, thua lỗ và mất khả năng chi trả của rất nhiều công
ty xí nghiệp. Song song với những phá sản về tài chính, chúng ta cũng chứng
kiến những phá sản về đạo đức và tinh thần. Khủng bố, chiến tranh, bắt cóc,
giết người, các tệ nạn xã hội ngày một gia tăng: xì ke, ma tuý, mại dâm. Mỗi
ngày xem tivi chúng ta lại đau buồn khi thấy biết bao người đã chết do chiến
tranh, khủng bố, cướp bóc, đói nghèo, bệnh tật. Ở Việt Nam còn có một vụ phá
sản về tình người, ngay giữa gia đình vẫn không có tình yêu chân thành. Cụ thể:
mỗi ngày hơn 1 người tự tử vì thiếu tình yêu từ gia đình. Vợ chồng thiếu chung
thuỷ vơi nhau. Con cái thiếu tin tưởng nơi cha mẹ. Anh em lừa dối nhau.
Trước sự phá sản về đạo đức, về giá trị làm người, Đức Piô X đã
nói một cách xót xa: "Con người hôm nay đã đánh mất ý thức về tội".
Nghĩa là họ không còn sống theo lẽ phải, họ cố tình làm ngơ trước tiếng cảnh
tỉnh của lương tâm, họ quá quen với khuynh hướng tuyệt đối về tự do nên họ
không còn thấy những điều gì là cấm. Họ muốn, họ thích và họ làm mà không cần
suy xét có hợp với luân thường đạo lý hay không?
Có lẽ đây là lúc phải trực diện với một trong những chủ đề then
chốt nhất của mầu nhiệm cứu độ: vấn đề sự dữ, tức là tội. Tại sao sự dữ vẫn
hoành hành, tỗi lỗi vẫn tràn lan? Đâu là nguyên nhân đưa đến sự xấu hiện diện
trong thế giới hôm nay?
Trước tiên cũng nên nhớ lại: tội là toàn bộ những hành vi ác
hại, sai quấy, mất trật tự của con người; đó là hành động ác hại làm đổ máu
hoặc xúc phạm đến danh dự, là trộm cướp, vu khống, phẫn nộ, lười biếng, là kiêu
căng chà đạp người khác, là đam mê nhục dục, v.v... mà truyền thống gọi là bảy
mối tội đầu. Như vậy nguồn gốc sự dữ hệ tại ở chính lòng người. Chính lòng dạ
con người là nguyên nhân dẫn đến những sự dữ ở trần gian.
Căn nguyên của tội chính là con người đã dùng sai sự tự do. Sự
tự do đích thực là tự do hướng về sự thiện, là điều khiển hành vi nhân linh của
con người theo lề luật tự nhiên, theo những quy tắc của luân thường đạo lý, hay
nói cách khác chính là biết sử dụng tự do để điều khiển hành vi của mình theo
lẽ phải. Nhiều người lầm tưởng rằng, tự do là muốn làm gì thì làm, nhưng thực
ra họ đã đánh mất tự do khi buông mình theo những đam mê thấp hèn, những thói
hư tật xấu. Họ bị lệ thuộc vào đam mê nghĩa là họ mất tự do đích thực. Họ trở
thành nô lệ của những thói hư tật xấu mà các nhà luân lý gọi là nô lệ tội lội.
Adam tưởng đã sử dụng tự do theo ý mình nhưng thực ra ông đã đánh mất tự do khi
không chế ngự được bản tính kiêu căng của mình. Cain đã đánh mất tự do khi để
sự ghen tương làm chủ dẫn đến án mạng mà hậu quả là cả đời trốn chạy, bất an và
lo sợ. Con người ngày hôm nay tưởng rằng mình có khả năng làm ra vật chất và
tận hưởng theo ý mình, nhưng thực ra họ đã để mình lệ thuộc vào những tiện nghi
vật chất, trở thành nô lệ cho vật chất một cách mù quáng đến độ, số tiền làm ra
chỉ đủ để trang trải cho những tiện nghi, những trò vui chơi giải trí. Rốt cuộc
vẫn cảm thấy thiếu thốn vì chẳng bao giờ con người thỏa mãn những nhu cầu vật
chất tầm thường.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cần xét lại con đường chúng ta
đang đi có phải là con đường quanh co, thiếu chân thành với nhau, thế nên, vẫn
còn đó sự gian dối, thiếu cởi mở, với nhau không? Con đường chúng ta vẫn còn đó
khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt
xét lương tâm nên hành động hồ đồ và làn thương tổn đến tha nhân. Con đường
chúng ta đang đi là con đường gồ ghề bởi những lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu
bác ái, thiếu xây dựng, luôn chỉ trích nặng lời với nhau, dẫn đến một đời sống
thiếu hoà nhã với mọi người, thiếu khiêm tốn nên luôn bẳn gắt, luôn khó chịu về
người khác một cách vô cớ, đôi khi nóng giận một cách hồ đồ mà không có nguyên
do. Con đường chúng ta vẫn còn những thung lũng của những tư tưởng lỗi đức
trong sạch, những ước muốn lầm lạc, luôn làm chúng ta quyến luyến các tạo vật
mà xa lìa Chúa, vẫn còn đó những hố sâu của chia rẽ, hận thù, luôn gây ra bất
hoà, luôn ganh ghét, luôn nghi kỵ với nhau. Con đường chúng ta đang đi, vẫn còn
đó những đỉnh đồi kiêu ngạo luôn đề cao mình quá đáng đến coi khinh anh em,
không bao giờ chịu thua kém người khác.
Tất cả những ngọn đồi, những vực sâu, những khúc quanh co, những
lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta. Vì thế mùa vọng, là thời gian
mời gọi chúng ta hãy sửa chữa lại con đường thiêng liêng cho tốt đẹp để đón
Chúa đến. Hãy bạt đi thói kiêu căng tự mãn. Hãy bạt đi tính tự ái ngang ngạnh.
Hãy lấp đi những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà. Hãy lấp đi những sự trống
vắng Thiên Chúa nơi tâm hồn bằng đời sống cầu nguyện và hy sinh. Hãy uốn thẳng
lại những quanh co dối trá và giả hình. Hãy san bằng những nghi kỵ, ganh ghét,
bất hoà. Hãy san bằng những lượn sóng gồ ghề nói hành, nói xấu nhau nhưng hãy
luôn nói tốt, nghĩ tốt về nhau.
Đó là cách duy nhất để dọn lòng Chúa đến, để Chúa giáng sinh
mang lại niềm vui cho tâm hồn chúng ta.
Lạy Chúa, xin hãy cất khỏi chúng con tất cả những gì làm cho
chúng con xa lìa Chúa, và xin ban cho tâm tình thống hối ăn năn để sửa đổi con
người theo tinh thần phúc âm của Chúa. Amen.
8. Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui
(Suy niệm của Lm. Giacobê Tạ Chúc)
Lời của ca khúc: “Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui”, của cố nhạc
sỹ họ Trịnh, mang âm vọng của những ca từ mộc mạc, lạc quan và yêu đời cho mọi
người. Nhạc sỹ Trịnh Công Sơn không phải là người công Giáo, thế nhưng bài hát
của ông, dòng nhạc của ông trên một bình diện hết sức là con người, cũng có thể
mời gọi người Kitô hữu hãy mang tâm tình của một con người đầy hoan hỉ, để mặc
lấy chiếc áo cưới huy hoàng, diễm lệ và thật lộng lẫy mà đón mừng Mầu Nhiệm
Nhập Thể, Cứu Thế của Ngôi Lời là Đức Giêsu Kitô, Chúa của chúng ta. Mùa Vọng
đã khai mở một kỷ nguyên mới và đã dần khép lại với những sợi tơ lòng run rẫy,
bởi những niềm vui, và vui mãi trong cuộc đời có Chúa và có nhau.
Chứng minh điều này không khó, Tiên tri Sô-phô-ni-a trong bài
đọc thứ nhất đã gợi lên: “Reo vui lên, hỡi thiếu nữ Xi-on, hò vang dậy đi nào,
nhà It-ra-el hỡi! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy nức lòng phấn khởi” (Xp
3,14). Thánh Phao-lô Tông đồ cũng hồ hỡi bảo mọi người rằng: “ Thưa anh em, anh
em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa” (Pl 4,4). Như thế niềm vui và nối tiếp
những niềm vui trong Chúa Nhật thứ 3 mùa vọng, không phải là màu tím buồn mà là
màu hồng hớn hở và hân hoan. Niềm vui trong lòng, niềm hạnh phúc sung sướng sẽ
toát ra trên khuôn mặt, trong giọng nói và trong những nụ cười rạng rỡ trên
môi. Vui vì Chúa sắp đến, vui vì một đại lễ Giáng sinh, chất chứa biết bao là
ân tình, là tín thác, là bác ái, sẻ chia. Người Kitô yêu đời và nhìn đời dưới
lăng kính của đức tin. Một làn gió, một sợi sương, một nghĩa cử yêu thương, bốn
phương xa gần là anh em, là hình ảnh của Đấng Tạo thành vạn vật. Không lạ gì mà
Gioan Tẩy Giả, một con người của sa mạc lại là người có sức mạnh giảng thuyết
để thu hút đám đông lũ lượt kéo nhau đến xin đón nhận đức tin. Niềm hạnh phúc
của mỗi người không chỉ giữ riêng mình, mà phải biết trao ban. Thánh Gioan Tẩy
Giả đề nghị những người đến với ông: “ Ai có hai áo, thì chia cho những người
không có, ai có gì ăn thì cũng làm như vậy”. Người Kitô hữu không sống với một
đức tin sáo rỗng, không có hành động cụ thể. Trái lại, niềm vui vủa Tin mừng
luôn là một xác tín, một hướng đi cho mọi người thực ý Thánh ý Chúa. Những
người dân, hay những người thu thuế, hoặc binh sỹ, phải biết thực thi trách
nhiệm với toà án lương tâm của mình.
Chúng tôi phải làm gì? Biết và làm chẳng
phải là hai thái độ của con người trước những sức công phá của chủ thuyết hoài
nghi, hưởng thụ, của những lối sống hẹp hòi, ích kỷ. Tin Mừng đòi hỏi những
việc làm cụ thể, những trách nhiệm liên đới và yêu thương. Mong đợi Chúa đến,
đón mừng ngày Chúa Quang lâm là một biểu hiện của những người có niềm tin vào
sự xuất hiện của Chúa trong thế giới ngày hôm nay. Cuộc sống có Chúa thì niềm
vui mới trường tồn mãi được. Đó chính là những đòi buộc đầy thách đố của Tin
Mừng, mà Thánh Gioan Tẩy Giả đã đề nghị với từng lớp người đến với ông qua
trang Tin Mừng, của Chúa Nhật Mùa Vọng thứ 3, Phụng vụ năm C.
Lời Chúa là Tin vui mang con người thoát khỏi những nỗi sầu
thương, những đoạn trường khổ đau. Trong mọi hoàn cảnh rất thực của cuộc đời,
niềm tin vào sự yêu thương của Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người, anh em hãy
vui luôn, hãy hân hoan và ca hát, hãy lạc quan vì Chúa đến và vì luôn có Chúa
trong cuộc đời của mỗi chúng ta.
9. Sám hối, hoán cải tâm lòng – Radio Veritas Asia.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’)
Thomas Merton là một tiểu thuyết gia nổi tiếng lan rộng khắp thế
giới. Vào thập niên 60, chàng theo Anh giáo, nhưng sống như người vô thần. Một
ngày nọ, tình cờ đi ngang một nhà thờ Công Giáo, chàng được Chúa thúc đẩy ghé
vào nhà thờ trong chốc lát. Từ trước tới nay Thomas Merton cũng đôi lần đi nhà
thờ đó, nhưng vì tò mò, vì theo anh em bạn cho vui hơn là vì lòng tin, dầu
chàng đã được cha mẹ cho rửa tội ngày còn nhỏ. Sau này, khi đã theo đạo Công
Giáo và nhập vào Trappiste khổ tu, Thomas Merton đã kể lại biến cố ấy như sau:
"Khi bước vào trong nhà thờ, điều đầu tiên lôi kéo sự chú ý
của tôi đó là, tôi trông thấy một cô gái duyên dáng tuổi chừng 15, 16 đang quì
cầu nguyện một cách vô cùng sốt sắng, không để ý đến chuyện gì khác xảy ra
chung quanh. Khi cả lúc tôi bước vào nhà thờ, tôi rất đỗi ngạc nhiên trước sự
kiện, một thiếu nữ từng ấy tuổi lại quì cầu nguyện trong ngôi thánh đường lặng
lẽ, một cách hết sức tự nhiên và say đắm trong lời cầu, như thể bị hút hồn. Dĩ
nhiên, là cô gái nọ vào nhà thờ không phải là để cho người ta ngắm nghía, mà là
để cầu nguyện và chỉ để cầu nguyện mà thôi. Và nàng đã cầu nguyện chăm chú, sốt
sắng như các thánh trong một ngôi thánh đường thanh vắng. Cuộc gặp gỡ và thân
tình ấy của thiếu nữ đó với Thiên Chúa trong khung cảnh hoàn toàn vắng lặng của
ngôi thánh đường hôm đó, đó là một trong các nhân tố dẫn đưa tôi đến chỗ gặp
Chúa và theo đạo sau này".
Ngôi thánh đường công giáo vắng lặng ấy, đó là một bãi sa mạc
nơi con người có thể gặp gỡ Thiên Chúa giữa lòng xã hội loài người nhiều bôn
chôn, dao động này. Qua các bài đọc Chúa nhật II Mùa Vọng, Giáo Hội cũng kêu
mời chúng ta hãy biết tạo ra sa mạc trong tâm lòng mình khi nào đó để gặp gỡ
Thiên Chúa. Chương 5,1-9 sách tiên tri Barúc, là một lời sấm liên quan đến ơn
cứu độ theo truyền thống Kinh Thánh. Barúc đã là bạn kiêm thư ký của tiên tri
Giêrêmia, nhưng thật ra sách Barúc là một tổng hợp các văn bản thần học góp
nhặt đó đây và được soạn chung lại bằng tiếng Hy Lạp vào thế kỷ thứ II trước
Tây lịch. Tiên tri Barúc muốn khẳng định với dân Do Thái rằng: Cuộc sống và
niềm hạnh phúc là những điều có thể thực hiện được sau những năm tháng họ phải
sống trong cay đắng, tủi nhục, đen tối của kiếp sống lưu vong. Để diễn tả sứ
điệp hy vọng và tin tưởng ấy, tiên tri dùng một số hình ảnh biểu tượng như
chiếc áo, tên gọi, và các kỳ công vĩ đại của Thiên Chúa. Chiếc áo đó ám chỉ
phẩm giá của con người khi giới thiệu thành thánh Giêrusalem, là biểu tượng của
toàn dân Chúa. Trong chiếc áo mới rực rỡ của mừng vui, chớ không phải chiếc áo
tang của sầu buồn mà tiên tri Barúc cố ý loan báo cho dân chúng biết, Thiên
Chúa sẽ trao ban trở lại cho họ phẩm giá làm dân riêng Chúa chọn và chấm dứt sự
sống khổ nhục họ phải chịu trong thời lưu đày. Chiếc áo tang của sầu thương
diễn tả thời gian và khung cảnh sống lưu đày tủi nhục. Hình ảnh chiếc áo mới
mừng vui trên đây hé mở cho chúng ta thấy ý nghĩa việc Thiên Chúa can thiệp vào
lịch sử nhân loại khi cho Đức Giêsu Kitô nhập thể làm người. Chúa Giêsu Kitô
mặc lấy chiếc áo yếu hèn của thân phận làm người, mặc lấy chiếc áo rách nát, tả
tơi, hôi thúi của tội lỗi từng biến dạng con người khiến cho nó không còn giống
Thiên Chúa nữa, vì đã đánh mất đi phẩm giá làm con Thiên Chúa và là thụ tạo
tuyệt diệu nhất trong mọi loài thụ tạo. Chúa Giêsu mặc lấy nó để đánh đổi cho
loài người chiếc áo mới, chiếc áo mừng vui được làm con cái Thiên Chúa và giống
hình ảnh Ngài. Với phẩm giá mới ấy, thành thánh Giêrusalem đại diện cho dân
Chúa, cũng mang một tên gọi mới trong ngôn ngữ của Kinh Thánh.
Đặt tên cho một người, một vật, có nghĩa là tuyên bố người đó
hay vật đó thuộc quyền sở hữu của mình. Nó cũng có nghĩa là người đó hay vật đó
được che chở yêu thương và săn sóc. Giêrusalem từ nay, Thiên Chúa sẽ đặt tên
cho là Hòa Bình, Công Chính và Vinh Quang của lòng thương xót. Dân riêng của
Thiên Chúa từ nay, sẽ làm một dân tộc diễn tả sự an bình, công chính, lòng nhân
từ, thương xót và vinh quang mà Thiên Chúa hiện thực trong vương quốc thiêng
linh của Ngài. Vương quốc mà Thiên Chúa cống hiến cho nhân loại ngay từ bây
giờ, trên trần gian này, với biến cố Đấng Thiên Sai nhập thể làm người. Trong
tên gọi mới này cũng tiềm ẩn tên gọi Giêsu mà Thiên Chúa sẽ dành riêng cho Đấng
Cứu Thế. Chúa Giêsu là ơn cứu rỗi, là sự che chở Thiên Chúa gởi đến cho loài
người luôn bị sự dữ cám dỗ và thường bị tội lỗi chiếm hữu. Công trình cứu độ và
giải phóng ấy được Thiên Chúa ra tay hiện thực và trao ban cho dân Người, với
sự cộng tác của mọi loài, mọi vật, y như trong biến cố xuất hành khỏi Ai Cập
thời xa xưa. Thiên Chúa sẽ ra tay gạt bỏ mọi chướng ngại, khó khăn. Đường vào
sa mạc dẫn đưa dân Ngài vào Đất Hứa sẽ thẳng băng, không còn gò cao. Sa mạc
nắng cháy khô cằn sẽ nở hoa xanh tươi.
Trong chương 3 Phúc Âm của mình, thánh sử Luca ghi lại các biến
cố ấy trong khung cảnh lịch sử của thế giới chính trị và tôn giáo thời bấy giờ.
Ơn gọi và hoạt động loan báo Tin Mừng của thánh Gioan Tẩy Giả xảy ra vào năm
thứ 15, dưới thời hoàng đế Tibêriô, năm 28, sau Tây lịch, bởi vì hoàng đế lên
ngôi năm thứ 14. Quan toàn quyền Giuđêa lúc đó là Phongxiô Philatô, Palestine
hồi ấy cũng gồm 3 châu quận do 3 quận vương cai trị là Hêrôđê Antipa, Philipphê
và Lysania. Hai thượng tế vào thời này là thượng tế Anna (vào năm thứ 6 đến năm
14 sau Tây lịch) và thượng tế Caipha (trị vì từ năm 18 đến năm 36 sau Tây
lịch).
Tuy nhiên, điểm thánh sử Luca cố ý nêu bật ở đây chẳng phải là
các biến cố lịch sử chính trị và xã hội, mà là ý nghĩa thần học của lịch sử.
Thánh Luca muốn khẳng định rằng, chính Lời của Thiên Chúa tạo ra lịch sử. Tất
cả mọi biến cố, mọi nhân vật, mọi thời đại, cách tiếp nối của các quyền bính và
giới lãnh đạo trần gian, chỉ là khung cảnh trong đó Ngôi lời của Thiên Chúa
nhập thể làm người để cống hiến ơn cứu độ cho nhân loại. Lời thánh Gioan Tẩy
Giả rao giảng diễn tả trước sứ điệp mà Chúa Giêsu Kitô loan báo sau này: Muốn
được ơn cứu độ, con người phải lãnh nhận bí tích rửa tội, sám hối, hoán cải tâm
lòng, thay đổi lối sống, canh tân tư tưởng và cung cách hành sự của mình, bởi
vì Đấng Thiên Sai đã hiện diện giữa lòng trần gian.
Sa mạc nơi thánh Gioan Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối là một
điểm thần học nổi bật khác của truyền thống Kinh Thánh. Trong Kinh Thánh, sa
mạc là nơi gặp gỡ Thiên Chúa. Sa mạc khô cằn, nóng bỏng ban ngày, giá buốt ban
đêm, là hình ảnh cuộc sống của con người không có bóng dáng và không có sự hiện
diện của Thiên Chúa. Giữa cảnh hoang vu của cát đá, con người đói khát và lạc
hướng. Những tình trạng đó giúp con người ý thức được cái bé bỏng hư không, vô
nghĩa của đời mình. Bởi vì nó chỉ là gì, nếu không phải là cát bụi, hư vô? Nhận
thức ấy khiến cho con người từ bỏ mọi ý nghĩ kiêu căng, ngạo mạn, mọi chủ
trương coi mình là thần thánh và có thể tự giải thoát lấy mình. Thái độ và tâm
tình ấy khiến cho con người rộng mở tâm lòng mình, cho hành động và ơn thánh
cứu độ của Thiên Chúa. Đường vào sa mạc như thế là con đường dẫn đưa con ngươì
về đến chỗ gặp gỡ Thiên Chúa và đón nhận ơn cứu độ Ngài ban. Trong cuộc sống
thiêng liêng càng biết năng vào sa mạc, chúng ta càng sống cảm nghiệm gặp gỡ
Thiên Chúa sâu đậm hơn.
Sông Giođan, cũng là hình ảnh thần học nổi bật khác. Như tường
thuật Phúc Âm thánh Luca, Giođan là con sông của hai thời giao ước, nó là chứng
nhân của các biến cố lịch sử ý nghĩa của dân Do Thái. Nước sông Giođan là nước
thanh tẩy của cuộc sống phục sinh và của bí tích rửa tội.
Hình ảnh nổi bật sau cùng trong tường thuật Tin Mừng của thánh
Luca là hình ảnh thánh Gioan Tẩy Giả, vị tiên tri của hai thời giao ước, người
đã nhận được Lời Chúa trong sa mạc, Thánh nhân loan báo rằng chính Ngôi Lời của
Thiên Chúa là động lực hướng dẫn dòng lịch sử của nhân loại, chớ không phải con
người và các chương trình loài người đưa ra. Do đó, càng biết san bằng các
chướng ngại ngăn cách chúng ta nhìn thấy Thiên Chúa, chúng ta càng dễ nhận ra
sự hiện diện cứu độ của Chúa Giêsu trong đời ta, giữa lòng thế giới.
Trong chương 1 thư gởi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô chỉ cho
chúng ta một con đường, một cách thế giúp chuẩn bị hữu hiệu cho ngày Chúa trở
lại. Đó là luôn kiên trì sống tình yêu thương, bác ái, biết vun trồng lòng tin,
cậy, mến và khả năng bén nhạy giúp nhận ra đâu là thánh ý Chúa và điều đẹp lòng
Ngài. Sống được như thế, là tín hữu sinh hoa trái thiêng liêng phong phú và
hiện thực nơi con người điều gọi là con cái Chúa và là dân riêng của Ngài.
10. Đổi mới – Lm Nguyễn Nguyên
Có thể nói, cuộc đời của mỗi người chúng ta được ví như một con
đường. Và trên con đường ấy, mỗi người phải tiến về cùng đích của mình. Cuộc
đời chỉ có ý nghĩa nếu ta biết chọn cho mình đường đi đúng đắn. Cho nên, cuộc
sống mỗi người cũng là quyết định của một sự chọn lựa tự do. Chúa muốn mỗi
người trong chúng ta hãy tự quyết định phần rỗi cho chính mình. Ngài là Người
Cha đầy yêu thương và cũng ban đủ mọi phương thế để giúp chúng ta chọn lựa con
đường đúng đắn nhất để chúng ta có thể trở về với Ngài. Cũng có những chọn lựa
thật đúng đắn, khôn ngoan ; nhưng cũng có những chọn lựa lệch lạc, chủ quan dẫn
tới những sai lầm, khiến chúng ta ngày càng xa Thiên Chúa, lắm khi trở thành kẻ
đối nghịch với Ngài. Vì thế, mỗi năm vào mùa vọng chúng ta luôn được nghe lại
lời kêu mời của Thánh Gioan Tẩy Giả là “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” để
nhắc nhở chúng ta hãy uốn nắn con đường tâm hồn, cách sống cho thích hợp, để
sẵn sàng đón chào ngày Chúa đến.
Chúa muốn chúng ta “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”, bởi Ngài
không thích và không muốn chúng ta đi trong sự quanh co, sống trong sự lừa đảo
và lệch lạc. Thiên Chúa, Ngài muốn con cái của mình luôn sống và đi trong đường
lối của Ngài, con đường dẫn đến sự sống. Gioan Tẩy giả đã dùng lời tiên tri
Isaia mà kêu gọi “hãy lấp mọi hố sâu, bạt mọi núi đồi, nắn lại con đường cong
queo, san bằng con đường gồ ghề”. Chúa muốn chúng ta hãy sống trong sự công
chính, trong sự thánh thiện và cũng đừng chậm trễ thi hành những giới luật của
Chúa, vì “ngày của Chúa đến như kẻ trộm”. Chúa muốn ta sống trong sự trung
thực, thẳng thắn.
“Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”. Chúa đang đến gần và thực
sự Ngài đang bên cạnh, ngày đêm chờ đợi sự sám hối, ăn năn của mỗi người chúng
ta. Chúa không muốn chúng ta đánh mất cuộc đời mình bằng “sự thiếu hiểu biết”.
Chính Ngài đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, để chỉ mong chúng ta sống và đi trong
đường lối của Ngài, con đường sự thật dẫn đến sự sống. Điều quan trọng là mỗi
người chúng ta biết nắn lại cho thẳng những gì đang quanh co của gian dối, lừa
đảo; lấp đi mọi hố sâu đam mê, ích kỷ, tham vọng; bạt đi mọi gò nổng kiêu ngạo,
tự mãn, để tâm hồn chúng ta thật xứng đáng và bình an đón nhận tin mừng cứu rỗi
của Chúa.
“Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” Chúa muốn đến với tất cả
chúng ta bằng con đường thẳng, ngắn nhất, bởi con đường mà Ngài giới thiệu và
sống chính là con đường của tình yêu, của tha thứ và cứu độ. Chính bản thân
Ngài đã không chọn lựa con đường nào ngoài con đường của thí mạng, để làm gương
cho tất cả chúng ta. Chính khi yêu thương là lúc chúng ta đang đi đúng con
đường của Chúa. Chính khi yêu thương và tha thứ cho anh em, là chúng ta đang
đến gần hồng ân cứu rỗi và thuộc trọn về Ngài.
Lời mời gọi “Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng” đang đặt ra cho
chúng ta sự lựa chọn : ưu tiên cho những gì thuộc về Chúa, loại trừ ra khỏi tâm
hồn chúng ta sự dối trá, quanh co. Uốn nắn những gì lệch lạc, điều đó luôn đòi
hỏi mỗi chúng ta phải nỗ lực hằng ngày để cải thiện cuộc sống, đổi mới cách
sống để xứng đáng hơn với tình thương của Chúa. Chúa đã và đang đến thật gần
với từng người chúng ta, đừng chậm trễ, đừng ươn hèn trong chính những lẫm lỗi
của mình, nhưng can đảm và quảng đại để ngày càng xứng đáng hơn với tình yêu
của Thiên Chúa.
Dọn đường cho Chúa bằng cách lấp đầy những thung lũng, bạt những
núi cao ấy và sửa lại những con đường quanh co hiện đang ở trong tâm hồn từng
người chúng ta. Đó là những trở ngại khiến cho Chúa không đến được với ta.
Những trở ngại ấy ở từng người không ai giống ai. Nhưng chắc chắn có chung một
điểm : để chuẩn bị một con đường cho Chúa ngự đến trong tâm hồn mỗi người chúng
ta không gì khác hơn là chúng ta phải luôn ý thức được tình trạng yếu đuối và
tội lỗi của mình để sám hối và thay đổi. Thay đổi cuộc sống, thay đổi lối nhìn,
thay đổi cách suy nghĩ. Chúng ta thường nhìn người khác bằng những định kiến,
những nhãn hiệu do chính chúng ta tạo nên. Những định kiến đó là những lũng sâu
tăm tối, nơi thiếu vắng ánh sáng tình yêu làm chúng ta không thể đến với tha nhân.
Chúng ta thường vô cảm trước những nhu cầu của người khác, nhưng
chỉ lo toan tính tìm lợi ích cho bản thân mình. Những toan tính ích kỷ đó, là
những khúc quanh co, những mấp mô, lồi lõm của tâm hồn khiến chúng ta không thể
mở rộng cõi lòng để cảm nhận và chia sẻ những nhu cầu của người khác.
Chúng ta thường tự mãn về những khả năng và thành quả mình thủ
đắc được. Chúng ta luôn xem mình là “trung tâm”, luôn muốn áp đặt quan điểm,
suy nghĩ của mình trên người khác nhằm thỏa mãn khát vọng thống trị của bản thân.
Những khát vọng đó, là những núi đồi ngạo nghễ của tự cao, tự mãn làm chúng ta
không thể khiêm nhường đến với người khác.
Đổi mới một con đường thì dễ, nhưng đổi mới tâm hồn không dễ
chút nào. Đổi nơi sinh sống thì dễ, nhưng thật khó mà thay đổi lối sống. Ước gì
qua lời Chúa hôm nay, xin Chúa cho chúng ta luôn ý thức rằng: con đường sám hối
và thay đổi bản thân mỗi ngày chính là con đường xứng đáng để Chúa ngự vào tâm
hồn mỗi người chúng ta, để từ đó chúng ta biết từ bỏ những ham muốn ích kỷ của
bản thân để có thể nhạy cảm hơn trước những nhu cầu của người khác và khiêm
nhường mở rộng tâm hồn chia sẻ với tha nhân. Amen.
11. Dọn đường cho Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Gioan Tiền hô có sứ mạng dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến.
Luca, như một sử gia, nhập đề một cách trang trọng. Người viết:
“Đời Hoàng đế Tibêriô năm thứ mười lăm…” Bằng sáu mốc điểm, Người định vị trí
cuộc rao giảng Tin Mừng cho thế giới được coi như những trang đầu của lịch sử
nhân loại mới. Năm thứ 15 thời Vua Tibêriô (14-17) khởi đầu tháng 10 năm 27.
Vậy Gioan “xuống núi” như một nhà đạo sĩ, bắt đầu rao giảng vào cuối mùa thu
năm ấy và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa đã xảy ra vào đầu tháng giêng năm 28 kỷ
nguyên.
Gioan xuất hiện như một nhà ẩn sĩ, mình mặc áo da thú, ăn châu
chấu, uống mật ong rừng và bắt đầu rao giảng. Ông là một nhà tiên tri chuyển
tiếp từ đạo cũ Do-thái sang đạo mới của Chúa Giêsu và đề tài rao giảng cũng là
đề tài của các nhà tiên tri, là “Hãy ăn năn trở lại, hãy dọn đường Chúa”.
Qua đoạn Phúc âm này, chúng ta chú trọng đến hai điểm.
Một là “Lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, từ trong hoang
địa”. Nói một cách chung, chúng ta thấy rằng trong Thánh Kinh, Thiên
Chúa thường kêu gọi các vị sứ giả từ trong hoang địa, sau một thời gian sống
trong thinh lặng, suy tư và cầu nguyện. Moisê lùa đàn chiên của nhạc phụ ở
Madian đi vào sa mạc đến núi của Chúa là Koreb (X.H. 3,1). Isaia kêu lên: “Tôi
phải nín thinh, vì môi tôi nhơ uế” (Is. 6,5).
Sống suy tư, thinh lặng và cầu nguyện vẫn là đòi hỏi hiện nay
của mọi Kitô hữu; không phải đòi hỏi sống đời tu trì, nhưng phải có những lúc
đi vào nội tâm, suy tư cầu nguyện, nhất là đối với những ai giữ trọng trách
trong Giáo hội, những người làm việc Tông đồ. Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn
Philiphê (bài đọc II) đã minh xác như vậy. Lời kinh đó ôm choàng cả Giáo hội
hoàn vũ. Lời kinh chiêm ngắm ca tụng và “ngày đêm, trong mọi lúc”. Không phải
chỉ đọc máy móc bên ngoài mà là, như lời Thánh Augustinô, “một sự cầu mong, ước
muốn là cầu nguyện, lời kinh liên lỉ, vì yêu mến”.
Mùa Vọng là mùa mong đợi, ước muốn và cầu nguyện sốt sắng. Thánh
Gioan, Cha sở họ Ars, nhìn thấy một giáo dân ngồi cầu nguyện lâu trước nhà
Chầu, đến gần và hỏi:
-“Ông nói gì với Chúa?”
-“Tôi nhìn Ngài và Ngài nhìn tôi” (Je l’avise et II m’avise).
Đó là lời kinh Mùa Vọng.
Điểm thứ hai: Gioan rao giảng một “phép rửa xám hối, cầu ơn tha
tội”. Người Biệt phái và Saducêô cho rằng chỉ cần giữ Lề Luật là đủ,
là hết bổn phận với Thiên Chúa. Gioan khẳng định rằng điều cần thiết là phải có
một sự đổi mới tâm hồn: “hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu
(tội lỗi), hãy bạt mọi núi đồi, con đường gồ ghề hãy san cho bằng”. Sau này,
Chúa Giêsu sẽ nói: điều làm cho con người nên dơ bẩn là những điều xuất phát từ
tâm hồn như thù oán, ghen tương, dâm ô, bất chính, sống vật chất trụy lạc, và
Chúa dạy phải rửa sạch và đổi mới tâm hồn.
Vậy, mùa Vọng là mùa “dọn đường Chúa” (Isaia); khi một vị Thượng
khách đến, người ta trải thảm đỏ, khánh thành đại lộ mới. Chúng ta hãy canh tân
đời sống, dọn tâm hồn đón Chúa đến trong thân phận thấp hèn.
“Thuở ấy có một Hoàng đế, thuở ấy có một Hài nhi. Suốt ngày
Hoàng đế đến đếm đi đếm lại số người dân, số súc vật, số vàng bạc của cải. Còn
Hài nhi niềm nở đón tiếp các mục đồng, đám chiên cừu, đoàn thần thiêng…
Hoàng đế không còn nữa, chỉ còn lại Hài nhi. Ai cũng có thể đến
gần Người. Thời đại nào cũng có Người, vì thế mà có Giáng Sinh”. (Trích
“Prier”)
12. Sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Với Chúa nhật này, chúng ta đang bước sang tuần thứ II của Mùa
Vọng, Giáo Hội mời gọi chúng ta gia tăng niềm hy vọng bằng cách chuẩn bị tâm
hồn để đón Chúa đến cứu chuộc con người.
Nơi bài đọc thứ nhất, tiên tri Barúc gợi lên niềm hy vọng cho
dân chúng Israel đang tản mác khắp nơi. Sau khi thành thánh Giêrusalem bị thất
thủ, ông với một số người cùng với tiên tri Giêrêmia chạy trốn sang Ai Cập.
Barúc kêu gọi dân chúng đừng mất niềm tin, niềm hy vọng vào Thiên Chúa. Ông
phác họa cho dân lưu đày thời gian nô lệ, lưu vong sắp kết thúc. Một thời đại
huy hoàng của Giêrusalem đang gần kề. Và Giêrusalem sẽ vui mừng thấy mình trút
bỏ được áo tang chế, mặc lấy áo vinh quang, đầu đội vương miện và hớn hở mở
rộng tầm mắt, dang rộng đôi tay để nhìn xem và đón nhận con cái từ các nơi trở
về. Đó là hình ảnh của Giêrusalem thiên quốc. Nơi đó, Chúa Giêsu Kitô là vua
hiển trị các dân. Các nước tôn thờ Người, trở về với Người sau khi đã bị tội
lỗi và sự dữ phân tán tản mác khắp nơi. Và muốn cho sự trở về được dễ dàng, cho
sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người được nhanh chóng: "Hãy san bằng
những núi cao và những đồi gồ ghề. Hãy lấp đầy những hố sâu, những vực thẳm.
Uốn cho ngay những con đường quanh co, hiểm trở, để mọi người vững vàng bước đi
và cao rao vinh quang của Thiên Chúa".
Qua hình ảnh tiên tri đó, Barúc kêu gọi chúng ta hãy hoán cải
tâm hồn bằng cách hồi tâm, suy nghĩ về những việc hiện tại mình đang làm, để
xem con đường của mình có ngay thẳng không? Không những quanh co, lên đèo,
xuống hố, mà nhất là có phải là đường hầm không, con đường đi trong tối tăm và
mờ ám?
Nơi bài đọc thứ hai trong thư gởi tín hữu thành Philipphê, thánh
Phaolô mở ra con đường lạc quan trong công cuộc trở về cùng Thiên Chúa. Thánh
nhân tin tưởng rằng Thiên Chúa đã hứa, để thực hành lời hứa thì việc gì Thiên
Chúa đã bắt đầu, Người sẽ hướng dẫn cho đến hoàn thiện, nhất là trong đời sống
của những kẻ tin nơi Người. Tin tưởng vào Thiên Chúa thì thánh Phaolô hết lòng
tin tưởng. Nhưng điều ngài lo, ngài ao ước, ngài cầu nguyện, là làm sao cho mọi
người biết thương yêu nhau, biết thông minh sáng suốt và biết phán đoán mọi sự.
Việc yêu thương nhau còn gọi là bác ái, còn gọi là yêu người, sẽ dễ dàng thực
hiện khi tất cả mọi người trong một cộng đoàn, một tập thể biết suy nghĩ đến
hạnh phúc của nhau, biết sống vì ích lợi, vì sự thăng tiến của tập thể mình đang
sống. Bao lâu còn những kẻ lộng hành, chèn ép, bóp nghẹt người khác, thì thánh
Phaolô muốn mọi người phải biết sáng suốt phán đoán mọi việc. Một người bị ức
hiếp một cách bất công mà tôi bảo người đó cố gắng bằng lòng chịu vì Chúa, yêu
kẻ ghét mình và làm ơn cho kẻ làm khốn mình, tức là tôi đồng lõa với kẻ làm
điều gian ác, là tôi dùng tôn giáo như á phiện ru ngủ con người. Đành rằng Chúa
đã dạy: "Chúng con hãy yêu kẻ ghét chúng con và làm lành cho kẻ làm khốn
cho chúng con", nhưng phải sáng suốt phán đoán như thánh Phaolô dạy, để
phân biệt con người và điều ác người đó đang làm hại cho kẻ khác. Con người thì
phải yêu thương cầu nguyện cho họ, mong cho họ cải tà qui chánh, sống trong
tình anh em con một Cha trên trời. Nhưng điều ác họ đang thi hành là nọc độc
tác hại cho người khác, phải tận diệt những nọc độc đó mới là yêu thương nhau
thật sự.
Dầu vậy, thánh Phaolô cũng khuyên tất cả, trong hoàn cảnh nào
cũng hãy sống không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô. Và thánh nhân
đưa ra bằng chứng đời sống của ngài để làm gương nơi câu 7 của đoạn thánh thư
này. Nhưng rất tiếc, không hiểu sao khi chọn làm bài đọc phụng vụ thánh lễ,
người ta lại bỏ câu 7. Từ câu 6 nhảy đến câu 8 ngay, trong câu 7 đó thánh
Phaolô nói: "Tôi cầu xin anh em như thế là điều hợp lý, bởi vì tôi mang
anh em trong lòng tôi khi tôi bị xiềng xích, cũng như lúc tôi bênh vực củng cố
Tin Mừng, anh em đều thông phần vào ơn sủng tôi đã nhận được". Nói thế,
tức là trong mọi hoàn cảnh, thánh Phaolô đều dâng lên Thiên Chúa mọi vui buồn,
sướng khổ để cầu nguyện cho nhau.
Nơi bài Phúc Âm, thánh Luca ghi lại rất rõ ràng ngày tháng, niên
hiệu hẳn hoi của những nhà lãnh đạo Rôma cũng như Do Thái, đạo cũng như đời,
lúc Gioan Tẩy Giả bắt đầu rao giảng. Một phần vì thánh Luca chú ý đến khía cạnh
lịch sử, nhưng dựa vào đó chúng ta thấy rằng, ơn cứu độ bắt đầu thực hiện ngay
trên trần gian này, đừng chờ đâu nữa. hãy bắt đầu ngay và dĩ nhiên là đã bắt
đầu từ thời xa xưa trong Cựu Ước. Nhưng thời kỳ quyết liệt bắt đầu, với sứ mạng
của Gioan Tẩy Giả để cho thấy Cựu Ước và Tân Ước cũng là một công cuộc chuẩn
bị. Gioan đã lấy lại lời tiên tri của Barúc trong Cựu Ước mà chúng ta đọc thấy
trong bài đọc thứ nhất: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa soạn đường Chúa
cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Con đường cong queo
hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng và mọi người sẽ thấy
ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Trong khoảng ba tuần nữa, chúng ta sẽ mừng lễ Giáng sinh của
Đấng Cứu Thế. Ước gì lễ Chúa Giáng sinh không qua đi như bao ngày lễ tết khác
trong năm. Nhưng phải làm sao để Chúa Giêsu sinh lại trong đời sống, trong gia
đình, trong cộng đoàn của mỗi người chúng ta. Đó là ý nghĩa của Mùa Vọng và
sống được như thế tức là chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng trong ơn Chúa.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi nhìn lại xem, trong
những công việc mệt nhọc hằng ngày của tôi, cái gì giúp tôi càng ngày càng gần
Chúa hơn? Để được thế, tôi cũng hãy tìm xem chỗ nào trên con đường nối kết Chúa
với cá nhân tôi cần được sửa chữa, để khỏi cản trở việc Chúa đến với tôi. Và
nếu được, cũng hãy chuẩn bị tham dự một nghi thức thống hối và coi đó là một sự
khai thông bế tắc giữa tôi với Đấng tôi yêu mến và Người luôn yêu tôi hết lòng.
13. Lỗi tại tôi – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Ông Baruc là vị thơ ký của tiên tri Giêrêmia cũng đang bị lưu
đầy tại Babylon. Vào thời quân Canđê đánh chiếm và phóng hỏa thành Giêrusalem,
ông đã đứng ra qui tụ mọi người cùng đến để nghe đọc sách thánh, ăn chay cầu
nguyện và đóng góp tiền bạc gởi về Giêrusalem. Ông đã cầu khẩn và gióng lên
niềm hy vọng vào quyền năng can thiệp của Thiên Chúa. Ông dùng những cảnh thiên
nhiên sống động để diễn tả hình ảnh nội tâm bên trong: Vì Thiên Chúa đã ra lệnh
phải bạt thấp núi cao và gò nổng có tự lâu đời, phải lấp đầy thung lũng cho mặt
đất phẳng phiu, để Ít-ra-en tiến bước an toàn dưới ánh vinh quang của Thiên
Chúa (Bar 5, 7). Dân tin tưởng vào lượng từ bi của Thiên Chúa sẽ dẫn dắt họ trở
về trong vinh quang.
Từ bảy trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế xuất hiện, ngôn sứ Isaia
đã tiên báo rằng: Có tiếng người hô trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho
Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi (Lc 3, 4). Tiếng hô trong hoang địa
chính là lời kêu gọi của Gioan Tẩy Giả. Gioan xuất hiện mời gọi mọi người sám
hối trở về. Gioan đã dùng lại lời của tiên tri Isaia: Mọi thung lũng, phải lấp
cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho ngay,
đường lồi lõm, phải san cho phẳng (Lc 3, 5). Sám hối là một cách chữa lành bệnh
tật cả tâm bệnh lẫn thân bệnh. Ai trong chúng ta cũng vương vấn với sai lầm,
tội lỗi và bệnh tật thể xác. Lời mời gọi sám hối là phương cách chữa lành.
Con người gồm có xác và hồn. Xác hồn kết hợp và hòa lẫn trong
nhau. Nên sự mạnh khỏe của xác hồn luôn cuốn quyện lấy nhau. Xác khỏe thì hồn
cũng thư thái. Hồn an vui thì thân xác cũng thảnh thơi. Chúng ta cần chú tâm
đến cả hai phương diện thể xác và tâm hồn. Nếu chúng ta chỉ chú tâm lo lắng cho
thân xác mà quên phần bổ dưỡng tâm linh, cuộc sống sẽ bị khập khễnh. Vì kết hợp
với thân xác nên tâm linh con người cũng không thoát khỏi các thứ bệnh tật.
Chúng ta gọi là tâm bệnh. Tâm bệnh cũng cần tìm thầy và tìm thuốc chữa trị. Tâm
bệnh khởi đi từ tâm. Từ trong tâm phát xuất ra những sự xấu xa. Chúa Giêsu nói:
Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế (Mc 7,
20).
Chúng ta hãy tìm cội nguồn của bệnh tật cả hồn lẫn xác để chữa
lành. Trước hết là thân bệnh có trăm ngàn thứ. Chúng ta không biết có bao nhiêu
phương thuốc để chữa lành. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy người trẻ kẻ già,
người giầu kẻ nghèo, người sang kẻ hèn, ai ai cũng có thể mắc bệnh. Có các loại
bệnh nặng, bệnh nhẹ, bệnh mãn tĩnh hay cấp tính, nan y hay sơ cấp, bệnh ngoại
tạng hay nội tạng và thân bệnh hay tâm bệnh. Đã có bệnh thì phải chữa. Chúng ta
có thể uống thuốc, tập tành, kiêng cữ và chay tịnh. Trong các tiệm bán thuốc có
muôn vàn thứ thuốc chữa muôn ngàn loại bệnh. Chúng ta có thuốc Bắc, thuốc Nam,
thuốc Tây và thuốc gia truyền đủ loại. Bệnh nào thuốc đó. Có nhiều bệnh về phần
xác chúng ta không thể phát hiện. Biết rằng không có thuốc nào trị bá bệnh.
Thuốc nào chữa lành bệnh, đó là thuốc tốt. Đây là những môn thuốc chữa về thân
bệnh.
Xét mình, ai trong chúng ta cũng bị con bệnh quấy rầy. Chỉ khi
mắc bệnh, chúng ta mới nhận ra sự yếu đuối, khổ đau và lệ thuộc của thân phận
con người. Thân bệnh thì dễ chữa hơn là tâm bệnh. Tuy nhiên có những bệnh chết
người như ung thư, tai biến và đột qụy. Thân bệnh có thể đưa đến cái chết tự
nhiên vì hết sinh lực. Tâm bệnh thì nguy hiểm hơn nhiều. Tâm bệnh cũng có thể
xuất hiện nơi mọi tâm hồn. Không phải những người nghèo đói, tàn tật và già cả
mới có tâm bệnh. Chúng ta được biết có nhiều người quyền cao chức trọng và giầu
sang phú quí cũng ngã đủ thứ bệnh. Những cặp trai trẻ khỏe mạnh đầy sức sống cũng
tự quyên sinh vì tâm bệnh. Bệnh về tâm linh là những đột phá thất vọng và tuyệt
vọng, đưa đến khổ tâm. Tâm bệnh rất cần các phương thuốc hữu hiệu là sự thức
tỉnh tìm giải thoát.
Bệnh tâm linh là các thứ tật bệnh nội tâm, thói hư tật xấu, tội
lỗi, mê lầm cả trong tư tưởng, lời nói và việc làm sai trái. Làm sao chúng ta
có thể biết được các tật bệnh trong tâm hồn? Có nhiều triệu chứng giúp chúng ta
nhận ra các loại bệnh này: Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý
định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá,
trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo và ngông cuồng (Mc 7, 21-22). Bệnh nào
cũng nguy hiểm xói mòn cuộc sống. Chúng ta cần tìm thầy chạy chữa cho kịp thời.
Có nhiều toa thuốc giúp chữa lành tâm linh. Chữa cho dứt các mầm bệnh trong
ngoài. Đôi khi chúng ta bị đánh lừa vì những xuất hiện da non bên ngoài, nhưng
bên trong còn âm ỷ mưng mủ đau nhức.Thánh Phaolô viết: Tôi cũng xin cho anh em
được nên tinh tuyền và không làm gì đáng trách, trong khi chờ đợi ngày Đức Kitô
quang lâm (Phil 1, 10).
Bệnh là khổ đế. Bệnh cũng là phương pháp giúp tu học. Một người
suốt đời khỏe mạnh không đau bệnh thì tâm tư dễ ngang tàng kiêu ngạo. Khi mắc
bệnh, chúng ta mới thấy đời sống mỏng manh, thời gian ngắn ngủi và mọi sự đều
thay đổi mau qua chóng hết. Người bệnh cần thức tỉnh nhận biết ý nghĩa cuộc đời
để sống vui. Nhờ có bệnh, chúng ta mới biết dừng lại. Chúng ta biết rằng nếu
sống không hạnh phúc thì chết không được an vui. Cuộc sống lê thê thì cái chết
sẽ đau khổ. Khi con người mang bệnh thì người ta thường có mặc cảm, rồi lo âu
sợ hãi bệnh nặng hay nhẹ, chết sớm hay muộn. Họ không dám tiếp xúc với bạn bè,
người thân và xa lánh mọi người. Thân tâm ray rứt khổ sở.
Lời mời gọi thung lũng lấp cho đầy. Nơi cao phải bạt xuống.
Quanh co uốn cho ngay. Đây là những đòi hỏi cấp bách trong qúa trình sám hối.
Muốn có một tâm hồn thanh thản và an vui, chúng ta phải chữa lành mọi tật bệnh.
Chẩn đúng bệnh. Tìm đúng thầy. Chữa đúng cách. Cả thân tâm được lành mạnh. Dù
thuốc tiên cũng không thể chữa hết mọi bệnh về tâm linh và thể xác. Chúng ta
hãy đặt niềm tin vào Đấng có thể chữa lành mọi loại bệnh hoạn tật nguyền. Cầu
nguyện để nhận lãnh ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh. Xin ơn can đảm, ơn chịu đựng
và ơn tha thứ để tâm hồn của chúng ta được gội sạch vết nhơ của kiêu căng, bất
tín và gian tà. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Philipphê đã tha thiết nài van:
Điều tôi khẩn khoản nài xin, là cho lòng mến của anh em ngày thêm dồi dào,
khiến anh em được ơn hiểu biết và tài trực giác siêu nhiên, để nhận ra cái gì
là tốt hơn (Phil 1, 9).
Sám hối được khởi đi từ tâm. Vượt qua mọi thách đố để giữ tâm an
lạc. Đời sống nội tâm mỗi người khác xa nhau rất nhiều. Để tiến bước trên con
đường nhân đức, chúng ta nên bớt bỏ nhưng vấn vương cuộc đời. Đừng quá chấp
nhất, đừng gieo hận thù, đừng gây chia rẽ, đừng gian dối hại người và đừng nuôi
lòng oán giận. Khi đó tâm hồn chúng ta sẽ tìm được niềm an vui trên con đường
thẳng tắp ngút ngàn. Chúng ta không thể lừa dối lương tâm sống đạo bằng những
hình thức phô trương bên ngoài làm cho đầy đủ lệ bộ, giống như khi chuẩn bị đón
tiếp những vị chính khách. Đời sống tâm linh của chúng ta cần đâm rễ sâu. Các
nhân đức cần có nền móng vững chắc. Đời sống đức tin mới có thể tăng triển vững
mạnh.
Lạy Chúa, tâm hồn con tội lỗi. Thân xác con
bệnh hoạn. Ý chí của con yếu đuối. Trí khôn con chậm chạp. Đức tin con yếu kém.
Lỗi tại con. Xin Chúa soi lòng mở trí để chúng con biết cách dọn đường Chúa cho
ngay thẳng. Xin giúp chúng con dọn tâm hồn thanh sạch để hân hoan mừng đón Con
Chúa đến viếng thăm.
14. Đi vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát.
(Trích trong ‘Suy Niệm Lời Chúa’ – Radio Veritas Asia)
Tin Mừng hôm nay giống như một bức tranh với hai cảnh trí đối
nghịch nhau. Trên một cái phông lờ mờ, chúng ta như thấy được cảnh đô thị giàu
sang nơi ngự trị của hoàng đế Lamã, người đại diện của ông là tổng trấn
Phongxiô Philatô, và các thứ vua bù nhìn là Hêrôđê và Philipphê. Cũng trong cái
phông lờ mờ ấy, người ta còn thấy được như hai cái bóng ẩn tàng là Anna và
Caipha, hai vị thượng tế lãnh đạo tôn giáo thời bấy giờ, Trên cái phông lờ mờ
ấy, thánh Luca như muốn tô đậm một cảnh trí khác đó là cảnh sa mạc vắng vẻ, nơi
cư ngụ của môt kẻ nghèo nàn ấy là Gioan, con của Giacaria. Thánh Luca có lẽ đã
muốn làm nổi bật cái cảnh sa mạc nghèo nàn vắng vẻ ấy, để nói với chúng ta rằng
chỉ có trong sa mạc vắng vẻ nghèo nàn, con người mới lắng nghe được tiếng nói
của Thiên Chúa.
Sa mạc vốn là một phạm trù ưu việt của Kinh Thánh. Những cuộc
gặp gỡ giữa Thiên Chúa và con người thường diễn ra trong sa mạc. Môisen đã phải
lẫn trốn vào sa mạc để được nhận biết Chúa và nhận lãnh sứ mạng giải phóng dân
tộc. Bốn mươi năm lang thang trong sa mạc là thời kỳ thanh luyện cần thiết để
dân riêng được vào đất Hứa. Truyền thống đi vào sa mạc đã không ngừng được các
tiên tri về sau sống lại như một kinh nghiệm cần thiết trước khi thi hành sứ
vụ. Nhưng điển hình và mang nhiều ý nghĩa hơn cả vẫn là 40 đêm ngày chay tịnh
của Chúa Giêsu trong sa mạc và những đêm cầu nguyện lâu giờ của Ngài trong nơi
vắng vẻ.
Sa mạc là đồng nghĩa với nắng cháy trơ trụi, nghèo nàn. Phải
chăng có trở nên trống rỗng và nghèo nàn, có trút bớt đi những cái không cần
thiết thì con người mới lắng nghe được tiếng nói của Chúa và thanh luyện được
niềm tin của mình. Lịch sử Giáo Hội luôn chứng minh rằng những cuộc bách hại
luôn là yếu tố thanh luyện và canh tân Giáo Hội. Trong thử thách và khổ đau,
trong nghèo nàn và trơ trụi Giáo Hội lại càng vững mạnh hơn. Có trút bỏ được
những cái không cần thiết và làm cho vướng mắc thì Giáo Hội mới trở nên sáng
suốt và giàu có. Giàu có không do những phương tiện vật chất và các thứ đặc
quyền đặc lợi, mà giàu có bởi một niềm tin được tinh luyện và can trường hơn.
Tư trong sa mạc của thánh Gioan Tẩy Giả, chúng ta cũng có thể
rút ra được một bài học khác cho niềm tin. Không những từ trong sa mạc Gioan đã
nắm được tiếng Chúa, mà còn can đảm để hô lớn tiếng Chúa cho mọi người được
nghe thấy: "Hãy dọn đường cho Chúa, hãy sửa đường cho ngay thẳng, hãy lấp
mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng, đường
gồ ghề hãy san cho bằng". Lời kêu gọi ấy, Gioan chẳng những đã ngỏ với đám
dân nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, mà còn nhắn gởi với cả giai cấp thống trị
trong cả nước nữa. Ngồi tù và cuối cùng bị chém đầu vì dám lên tiếng tố gaíc
hành vi tội ác của một Hêrôđê, số phận của Gioan cho chúng ta thấy rằng ngài đã
đi đến tận cùng sứ mạng tiên tri của ngài. Thánh nhân đã dám nói thẳng và sống
thực là bởi vì ngài không có gì để tiếc nuối, không có gì để bám víu, không có
gì để giữ lấy ngoài chiếc áo da thú của ngài.
Chiếc áo vẫn là tượng trưng của sứ mạng tiên tri. Đó là lý do
tại sao trong dịp tấn phong Hồng Y cho một số chức sắc trong Giáo Hội, Đức cố
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói đến ý nghĩa của phẩm phục màu đỏ mà chúng ta
quen gọi là Hồng Y. "Màu đỏ là màu của hy sinh, là màu của máu, các Hồng Y
phải là những người hy sinh đến độ có thể đổ máu đào". Lời nhắc nhở này
chắc phải có một giá trị đặc biệt đối với các vị Hồng Y đến từ những nơi Giáo
Hội đang bị bách hại và thử thách, những nơi mà các vị cần phải lên tiếng, cho
dẫu phải hy sinh mạng sống của mình. Gioan Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo và kêu
gọi san bằng bất công. Ngài đã can đảm lên tiếng là bởi vì ngài không có gì để
mất. Ngài không sợ phải mất một ít đặc quyền đặc lợi hay bất cứ một thứ ân huệ
nào.
Nồi cơm manh áo hay một ít bả vinh hoa có thể là động lực thúc
đẩy con người thỏa hiệp và sống dối trá. Đó cũng có thể là cơn cám dỗ của các
tín hữu chúng ta trong giai đoạn hiện nay. Một ít đặc lợi vật chất, một vài ưu
đãi, một số đặc quyền đặc lợi, một lời dễ dãi, đó là miếng mồi ngon khiến cho
nhiều người nếu không bán đứng lương tâm của mình, nếu không uốn cong miệng
lưỡi thì cũng chấp nhận thỏa hiệp im tiếng. Mùa Vọng là mùa của sa mạc, có đi
vào sa mạc của nghèo khó và siêu thoát chúng ta mới dễ dàng nhận ra được tiếng
nói của Chúa. Và có từ sa mạc của nghèo khó và siêu thoát, chúng ta mới có đủ
can đảm để gióng lên tiếng của Chúa: "Hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng,
hãy lấp mọi hố sâu, hãy bạt mọi núi đồi. Đường cong queo hãy làm cho ngay
thẳng, đường gồ ghề hãy san cho bằng".
Khi cuộc sống của các tín hữu trở thành một lời mời gọi, khi
miệng lưỡi của họ nói lên những lời can đảm chân thực, thì lúc đó như Tin Mừng
nói với chúng ta, mọi người sẽ được thấy ơn cứu độ của Chúa.
15. Con đường nội tâm - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Bài Tin Mừng mở đầu thật long trọng khi nêu tên tất cả những vị
lãnh đạo cao cấp thời đó. Từ Tibêriô, hoàng đế của đế quốc La mã, quyền uy phủ
trên toàn thế giới thời ấy, đến Philatô, tổng trấn, đại diện cho hoàng đế cai
trị nước Do Thái. Từ Hêrôđê, dù là bù nhìn, cai trị miền Bắc, đến em ông cai
trị miền Nam. Từ Anna đến Caipha cùng trong gia đình làm thượng tế nắm giữ
quyền đạo Do Thái. Tên tuổi những vị lãnh đạo cao cấp đầy quyền uy nói lên thực
trạng của đất nước Do Thái thời đó: bị nô lệ. Chính vì thế, hơn bao giờ hết
người Do Thái mong chờ Đấng Cứu Thế đến giải thoát dân Người. Chúa đã đến,
không phải bằng con đường phô trương nhưng bằng con đường nội tâm. Thánh Gioan
Baotixita hôm nay khi kêu gọi mở đường cũng nhắm đến con đường nội tâm. Chỉ
những ai đi đường nội tâm mới gặp được Chúa. Qua lời rao giảng của Thánh Gioan
Tiền Hô, đường nội tâm có những đặc điểm sau:
Đường nội tâm đi trong cô tịch. Thật
lạ lùng. Một chương trình cứu thế lớn lao như thế mà Chúa chẳng ngỏ lời với các
vị lãnh đạo cao cấp uy quyền, nhưng lại ngỏ với Thánh Gioan Baotixita. Một
chương trình lớn lao như thế không khởi đầu từ thủ đô đất nuớc nhưng lại phát
xuất từ vùng hoang địa xa xôi. Thực ra Chúa vẫn ngỏ lời với nhân loại. Nhưng
tiếng Chúa nói âm thầm, sâu thẳm. Các vị lãnh đạo cao cấp sống trong ồn ào của
đô thị phồn hoa, bị tiếng thét gào của đam mê, dục vọng, quyền lực lấn át, nên
không nghe được tiếng Chúa. Thánh Gioan Baotixita nghe được tiếng Chúa nhờ đi
vào con đường cô tịch. Sống ẩn thân nơi hoang địa. Chuyên chăm cầu nguyện trong
tu viện. Bỏ ngoài tai tất cả những tiếng ồn ao thế tục. Chỉ khao khát lắng nghe
Lời Chúa. Nên đã gặp được Chúa và được biết chương trình cứu độ của Chúa.
Đường nội tâm đi trong đi trong khiêm nhường. Chúa
là Đấng vô cùng khiêm nhường. Chỉ những ai khiêm nhường mới gặp được Chúa. Các
vị lãnh đạo uy quyền nói trên rất tự mãn. Tự mãn vì Tự mãn vì quyền uy bao trùm
khắp mặt đất. Tự mãn vì dinh thự đền đài nguy nga. Tự mãn vì quần áo lụa sang
trọng. Tự mãn yến tiệc linh đình. Thánh Gioan Baotixita thật khiêm nhường.
Khiêm nhường trong đời sống âm thầm nơi hoang địa. Khiêm nhường trong tu viện
đơn sơ. Khiêm nhường trong thực phẩm tự nhiên rất đạm bạc: chỉ ăn châu chấu và
mật ong rừng. Khiêm nhường trong trang phục giản dị bằng da thú, chỉ có mục
đích che thân. Khiêm nhường xưng mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa. Nhờ thế
đã gặp được Chúa, được Chúa tuyển chọn trở thành người mở đường cho Chúa.
Đường nội tâm đi trong chiến đấu. Không
phải chiến đấu với người khác. Nhưng chiến đấu với chính mình. Cuộc chiến đấu
được Thánh Gioan Tiền Hô dùng lời tiên tri Isaia diễn tả trong việc sửa chữa
con đường. Con đường là tâm hồn. Sửa chữa con đường vật chất tuy khó mà dễ. Sửa
chữa con đường tâm hồn khó biết bao. Tâm hồn có những núi đồi kiêu ngạo tự mãn.
Để sửa chữa phải bát núi đồi xuống. Phải cắt đi một phần tâm hồn không phải dễ
dàng. Tâm hồn có những khúc quanh co, để uốn nắn lại phải vạt bớt chỗ quanh co.
Gọt dũa tâm hồn đau đớn lắm. Từ bỏ mình là một cuộc chiến khốc liệt. Thắng được
mình khó hơn thắng vạn quân.
Đời sống ta quá lo lắng bon chen nên thiếu chiều sâu nội tâm.
Hôm nay ta hãy nghe lời Thánh Gioan Tiền Hô dạy, biết ăn năn sám hối trở
về với Chúa. Biết rửa sạch tội lỗi. Biết đổi mới tâm hồn bằng cuộc sống đi vào
nội tâm. Tìm những giờ phút thanh vắng cô tịch để lắng nghe tiếng Chúa.
Sống đơn sơ khiêm nhường để nên giống Chúa. Muốn được như thế ta phải chiến đấu
để từ bỏ ý riêng. Chúa đã đến ở đầu đường. Ta chưa nhìn thấy chỉ vì con đường
tâm hồn còn lồi lõm quanh co. khi nào ta cắt bỏ được hết những lồi lõm quanh co
trong tâm hồn, ta sẽ được thấy Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Đường nội tâm có những đặc điểm nào? Cô tịch, khiêm nhường và
chiến đấu, đặc điểm nào cần thiết nhất cho đời sống bạn hiện nay?
2. Thánh Gioan Tiền Hô có sống những lời Ngài rao giảng không?
3. Con đường nội tâm của bạn còn phải sửa chữa ở những đoạn nào?
Có dễ không? Tại sao?
16. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA
Trong những trận bão lụt tại miền Trung nước Việt, nhiều làng bị
nước ngập; nhiều đoạn đường bị nước lũ cuốn đi hay bị sạt lở, xe cộ không đi
lại được… Dân làng muốn thoát ra nhưng không đi được vì đường sá không còn xử
dụng được nữa. Nhiều đoàn cứu trợ muốn đến những làng xa xôi, nhưng không có
đường đi, nên đành chịu bó tay.
Những con đường thật là quan trọng. Đường đi giúp cho người bị
nạn có thể thoát ra. Đường đi giúp cho người bị nạn đón nhận được sự cứu trợ.
Đường đi nối liên lạc giữa người với người.
Đường sá hư hỏng làm giao thông ngừng trệ, chậm trễ việc cứu
trợ, ngăn cách người với người. Muốn cho giao thông mau lẹ, muốn việc cứu trợ
có kết quả, muốn cho con người gần gũi nhau, phải sửa chữa đường đi cho thật
tốt.
* * * * *
Bạn thân mến, Con đường vật lý đã cần, nhưng “con đường thiêng
liêng” còn cần hơn…Con đường thiêng liêng có thật tốt mới giúp ta lãnh nhận Ơn
Chúa và nhất là đón nhận chính Chúa đến. Thật ra Chúa đã đến từ lâu, nhưng ta
chưa đón nhận được Ngài vì con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta đã bị hư
hỏng.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những đỉnh đồi kiêu
ngạo, luôn muốn nâng mình lên, luôn khoe khoang, không chịu
thua kém người khác. Tâm hồn ta có những ngọn núi tự ái cao ngất trời
xanh, không bao giờ chịu nhận lỗi, không bao giờ chịu tha thứ.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những hố sâu tham lam
muốn chiếm đoạt tất cả, muốn thu vén tất cả vào túi riêng.
Tâm hồn ta có những hố sâu chia rẽ, luôn gây ra bất hoà, luôn giận hờn, luôn
ganh ghét, luôn nghi kỵ. Tâm hồn ta có những hố sâu đam mê, miệt mài đuổi theo
danh lợi, thú vui dục vọng
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những khúc quanh co
của sự dối trá, không thành thật với Chúa, không thành thật với người khác và
không thành thật với chính mình. Tâm hồn ta có những
khúc quanh co của sự trốn tránh bổn phận, của sự giả hình, của sự thiếu duyệt
xét lương tâm.
Con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta có những lượn sóng gồ
ghề của những lời nói độc ác, tàn nhẫn. Tâm hồn ta gồ ghề vì
sự lười biếng không chịu cố gắng thăng tiến bản thân. Tâm hồn ta gồ ghề vì
những phê bình chỉ trích thiếu tính cách xây dựng.
Tất cả những ngọn đồi, những hố sâu, những khúc quanh co, những
lượn sóng gồ ghề ấy ngăn chặn Chúa đến với ta.. Trong Mùa vọng này, chúng ta
được mời gọi hãy sửa chữa con đường thiêng liêng trong tâm hồn ta cho tốt đẹp
hơn để đón Chúa đến
Hãy bạt đi những thói kiêu căng tự mãn; tính tự ái ngang ngạnh.
Hãy lấp đầy những hố sâu tham lam, chia rẽ, bất hoà; những đam mê, dục vọng.
Hãy uốn thẳng lại những quanh co dối trá, giả hình. Hãy san bằng những lượn
sóng gồ ghề độc ác; những câu nói hành nói xấu trong cuộc sống hằng ngày.
* * * * *
Lạy Chúa,
Đổi mới một con đường bằng cách lấp đầy những hố sâu, uốn thẳng
những khúc quanh thì thật dễ, dọn dẹp cho sạch sẽ một con đường thì dễ hơn…
Nhưng đổi mới tâm hồn, dọn dẹp con đường thiêng liêng trong tâm hồn thì không
dễ chút nào. Để chuẩn bị cho ngày Con Thiên Chúa lại đến, xin ban ơn giúp sức
cho con trên con đường phấn đấu bản thân, để mỗi ngày con biết "bắt đầu
lại" công việc dọn dẹp đổi mới con đường thiêng liêng trong tâm hồn con.
Amen.
17. Sửa lại con đường tâm hồn – Lm. John Nguyễn
Khi thánh Gioan Tẩy giả đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép
rửa sám hối, cầu ơn tha tội, thì ngài dùng lời trong sách Tiên tri Isaia nói
rằng:
"Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa
đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường
cong queo hãy làm cho ngay thẳng, con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi
người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa".
Đoạn Tin mừng này thì rất quen thuộc với chúng ta. Nhưng, khi
suy nghĩ đến việc dọn đường Chúa, sửa lại đường Chúa cho ngay thẳng, thì chúng
ta có thể tự hỏi: Con đường của Chúa là con đường nào?. Và con đường nào cần
sửa lại?.Tại sao Gioan Tẩy Giả đi rao giảng trong hoang địa lại kêu dân chúng
dọn đường?. Từ những vấn đề được đặt ra, tôi thiết nghĩ chúng ta sẽ có một cái
nhìn thấu đáo hơn về ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay. Đó là: Thiên Chúa không cần
chúng ta sửa đường cho Ngài, vì Ngài là Thiên Chúa toàn năng, nhưng chính chúng
ta mới cần sửa lại những con đường quanh co, gồ ghề và hố sâu nơi trong tâm hồn
của mỗi người chúng ta.
Trở về bối cảnh của Tin mừng, chúng ta nhận thấy rằng, dân Do
thái phải sống nô lệ, lầm than khốn khổ bởi các vua chúa quan quyền. Thánh Luca
đã thuật lại như sau:" Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô,
Phongxiô Philatô làm toàn quyền xứ Giuđêa, Hêrôđê làm thủ hiến xứ Galilêa, còn
em là Philipphê làm thủ hiến xứ Ituria và Tracônitêđê; Lysania làm thủ hiến xứ
Abilêna; Anna và Caipha làm thượng tế". Điều này nói lên rằng, lời kêu gọi
của Gioan Tẩy Giả lúc bấy giờ là rất quan trọng và cấp bách. Nó không chỉ cho
những dân Do thái đang sống trong cảnh nô lệ, lầm than, đói khổ mà là cho các
vua chúa quan quyền hãy sửa lại lối sống của họ. Sự thống trị kiêu căng, độc
tài, gian ác của họ trên dân chúng. Hình ảnh con đường là lối minh họa dẫn
chúng ta đi vào con đường của nội tâm, con đường của tâm hồn đang mắc phải bởi
hố sâu của tội lỗi, bởi những dục vọng ham muốn của con người. Những đam mê dục
vọng đang lôi kéo chúng ta vào thế giới của hưởng thụ, trụy lạc và ích kỷ. Hơn
nữa, khi đồi núi của thói kiêu ngạo, tự mãn đang lấp đầy nơi tâm hồn, thì làm
sao Thiên Chúa có thể ngự trị. Khi lòng người quanh co, giả dối, gian xảo, thì
làm sao Con Thiên Chúa có thể đến viếng thăm.
Nếu chúng ta so sánh hoàn cảnh của thánh Gioan Tẩy Giả với cuộc
sống chúng ta ngày nay, thì có sự khác biệt rất lớn. Gioan thì sống trong hoang
địa đơn sơ, nghèo nàn, đói khát, lam lũ. Con đường thì đồi núi, gồ ghề, sỏi đá.
Trái lại, ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới có đầy đủ phương tiện
vật chất. Con đường thì bằng phẳng, rộng thênh thang, nhưng lòng người thì hẹp
lại. Con đường đến nhà thờ thì không xa, nhưng lòng người thì ngại ngùng và
không muốn đến. Thánh lễ ngày càng vắng bóng người trẻ. Khi tôi hỏi các bạn
trẻ: "Thánh lễ có ý nghĩa đối với bạn", thì họ cho biết rằng, họ đi
lễ là vì bị bắt buộc hơn là yêu mến. Đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận sự thật
trong bối cảnh sống của chúng ta ngày nay. Cho nên, Lời Chúa hôm nay không phải
là dọn đường cho Chúa đến ở đâu xa xôi, mà là ngay chính nơi cõi lòng mỗi người
chúng ta đang còn có những khúc quanh của bóng tối và tội lỗi bởi dục vọng,
gian ác, tham lam, tính toán, lọc lừa, giả dối, ích kỷ. Giá trị đời sống thiêng
liêng đang bị đảo lộn. Sự thánh thiện đang bị tha hóa bởi đồng tiền, thú vui,
danh vọng và quyền lực. Từ đó, đời sống tâm linh của chúng ta đang bị xuống
dốc, bấp bênh, chơi vơi giữa dòng đời và mất đi định hướng sống.
Đổi mới một con đường thì dễ, uốn thẳng khúc quanh co thì không
khó, nhưng đổi mới tâm hôn, bỏ đi một tật xấu, dọn lại con đường thiêng liêng
thì không dễ chút nào. Con đường ngắn nhất để cho chúng ta làm lại cuộc đời,
sửa lại những vết thương của tâm hồn, chính là tin vào tình yêu thương khoan
dung của Thiên Chúa, và chúng ta quyết tâm sống theo Lời Chúa dạy. Chính thái
độ khiêm tốn và vâng phục giúp cho chúng ta nhận ra yếu đuối và tội lỗi của
mình.
Mùa vọng là thời gian cho ta sửa lại con đường của tâm hồn đang
còn thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng lòng khoan dung, yêu thương và tha thứ
cho nhau. Những hố sâu của hận thù, ghen ghét đang dằn xé cõi lòng.
Hãy học nơi Chúa Giê-su, Ngài yêu thương chúng ta để đến trong
thế gian sống kiếp con người và chết và giải thoát tội lỗi cho chúng ta.
Hãy học nơi thánh Gioan Tẩy Giả, ngài đã cái chết để chống lại
sự giả trá, lọc lừa và gian ác.
Hãy học nơi Mẹ Maria, Mẹ đã chấp nhận sống vâng theo thánh ý
Chúa để nói lên hai tiếng: "Xin Vâng". Nhờ đó, mọi người đã thấy được
ơn cứu độ của Thiên Chúa.
18. Có Lời Thiên Chúa phán.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Mỗi lần mùa Vọng đến, ta lại gặp Gioan. Một cuộc sinh ra kỳ lạ,
một lối sống khác thường.
Hoang địa là nơi vắng người, trơ trụi, thiếu sự sống. Nhưng
chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành, trong sự gặp gỡ thâm trầm với
Thiên Chúa.
Càng lúc ông càng ý thức về sứ mạng của mình, nhưng ông đã kiên
nhẫn chờ đợi nhiều năm tháng, cho đến ngày ông nghe thấy Thiên Chúa ngỏ lời với
ông. Lời của Ngài đưa ông ra khỏi hoang địa để đến với mọi vùng ven sông Giođan
mà gặp con người. Lời Chúa ông nghe trở thành Lời Chúa ông công bố.
Tiếng Chúa gọi ông trở thành tiếng ông mời gọi mọi người.
Gioan là vị ngôn sứ cho dân tộc ông sau gần năm thế kỷ vắng bóng
ngôn sứ. Ông sống trong dòng lịch sử của đạo lẫn đời: một hoàng đế Tibêriô, hai
thượng tế Khanna và Caipha, một Philatô tham lam, tàn bạo, tổng trấn vùng
Giuđê, một Hêrôđê, tiểu vương vùng Galilê, kẻ sẽ giết ông sau này. Gioan đón
nhận toàn bộ dòng lịch sử ấy.
Lịch sử dân tộc là nơi diễn ra lịch sử cứu độ.
Gioan biết mình là Tiền Hô cho Đấng Cứu Thế, và ông cố làm tròn
sứ mạng của mình trước lịch sử.
Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa
nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ.
Ông kêu gọi cả nước hãy sửa sang đường sá, để đón lấy Vua Mêsia,
đấng ông không dám cởi dây giày.
Đường quan trọng là đường vào cõi lòng.
Có bao lối nghĩ quanh co, bao tính toán lệch lạc. Có những lũng
sâu tăm tối, thiếu vắng ánh sáng tình yêu. Có những núi đồi ngạo nghễ của tự kiêu,
tự mãn. Có những chỗ mấp mô, lồi lõm giữa người với người. Phải sửa cho thẳng,
lấp cho đầy, uốn cho ngay. Phải san cho phẳng, bạt cho thấp...
Sám hối là dọn con đường của lòng mình và mời mọi người cùng dọn
các con đường thành đại lộ. Điều đó chẳng dễ dàng chút nào, và thường gây đau
đớn.
Vấn đề không phải chỉ là đi xưng tội qua loa, nhưng là dẹp bỏ
những chướng ngại trong tâm hồn, để Chúa có thể dễ dàng đến và ở lại.
Gioan đã là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu.
Chúng ta phải là ngôn sứ chuẩn bị cho Ngài đến lần cuối.
Làm ngôn sứ cho dân tộc mình, cho thời đại mình: đó là ơn gọi
của mọi Kitô hữu chẳng trừ ai. Cần cất tiếng hô bằng lời nói và bằng cuộc sống.
Ơn cứu độ đã đến từ hai mươi thế kỷ nay, nhưng vẫn thiếu những
con đường phẳng phiu, ngay thẳng, để Thiên Chúa có thể đến gặp con người.
Xin Thánh Thần giúp chúng ta xây dựng những con đường mới trên
những nẻo đường quen thuộc của nhân loại.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngôn sứ là người nói lời của Thiên Chúa. Có khi nào bạn dám nói
một điều do lương tâm đòi buộc, nhưng đem lại cho bạn nhiều thiệt thòi, nguy
hiểm không?
Đường sá là cơ sở hạ tầng cần thiết cho việc phát triển. Bạn đã
làm gì trong mùa Vọng này để dọn đường cho Chúa đến?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sám hối không phải là điều dễ dàng, bởi lẽ chúng con không đủ
khiêm tốn để nhận mình lầm lỗi.
Chúng con ngỡ ngàng khi thấy Chúa là Đấng vô tội mà lại đứng
chung với các tội nhân, chờ Gioan ban phép Rửa.
Chúa đã muốn nên bạn đồng hành với phận người mỏng dòn yếu đuối
chúng con; xin cho chúng con biết thường xuyên điều chỉnh lối nghĩ và lối sống
của mình, tỉnh táo để khỏi rơi vào ảo tưởng, thành thật để khỏi tự dối mình.
Ước gì Chúa ban cho chúng con ơn hoán cải, dám đi đến những hành
động cụ thể, và chấp nhận những cắt tỉa đớn đau.
Nhưng xin đừng quên ban cho chúng con niềm vui của Giakêu, hạnh
phúc vì được tự do và được yêu mến.
19. Hãy dọn đường cho Chúa – Lm. Nguyễn Cao Siêu.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đôi khi trong cuộc sống, chúng ta muốn tự định nghĩa về mình.
Chúng ta tự hỏi mình là ai. Đây là một câu hỏi quan trọng và cần thiết.
Gioan Tẩy Giả cũng đã đặt cho mình câu hỏi tương tự. Nhiều người
nghĩ rằng ông là đấng Mêsia, là Êlia... Còn ông, ông biết rõ ông là ai. Gioan
không đánh lừa mình hay đánh lừa người khác. Ông tự định nghĩa: "Tôi là
tiếng kêu trong sa mạc. Hãy dọn đường cho Chúa đến" (Ga 1, 23).
Cả cuộc đời Gioan là một tiếng kêu. Tiếng kêu ấy đã vang lên từ
khi ông được thụ thai, một cuộc thụ thai lạ lùng khi cha mẹ ông đã luống tuổi.
Tiếng kêu ấy rõ dần qua cuộc sống đặc biệt của ông: nơi hoang địa, mặc áo lông
thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Tiếng kêu ấy vang động khắp vùng ven sông
Giođan.
Một tiếng kêu khẩn thiết: hãy sám hối. Một tiếng kêu cấp bách:
hãy dọn đường cho Chúa đến. Tiếng kêu cuối cùng của Gioan đã đưa ông đến cái
chết: "Vua không được phép lấy bà ấy làm vợ" (Mt 14,4).
Gioan hấp dẫn vì ông sống điều ông giảng: ông sống khổ hạnh và
mời gọi người ta sám hối. Gioan mãi mãi hấp dẫn vì ông không bao giờ tìm mình. Ông
sống vai trò của người mở đường, người giới thiệu cho Đấng đến sau ông nhưng
lại quyền thế hơn ông. Ông vui mừng tự xóa mình đi để Đức Giêsu được nổi bật.
Chính vì thế mà ông trở nên cao trọng.
Con người chỉ cao trọng khi sống cho Thiên Chúa.
Mỗi lần mùa Vọng trở về, chúng ta có dịp gặp lại Gioan, người
dọn đường.
Chúa Giêsu hôm nay vẫn cần những Gioan Tiền Hô mới biết tiếng
kêu thức tỉnh nhân loại, biết dạy cho họ chờ đợi và nhận ra ơn cứu độ đã đến.
Dọn đường là lội ngược dòng, là chấp nhận bị khai trừ, bị từ
chối.
Gioan đã dọn đường bằng cả cuộc đời để cuộc hôn nhân giữa Chúa
Kitô và nhân loại thành tựu.
Hội Thánh vẫn cần những người dám sống điều mình nói, và dám nói
điều mình sống.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giáo Hội mời gọi chúng ta lội ngược dòng trước sự lôi kéo của
vật chất, hưởng thụ. Có khi nào bạn dám đi ngược với tập thể, vì muốn sống theo
ý Chúa?
Trong cuộc sống của Gioan Tẩy Giả, điều gì đánh động bạn hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Khi đến với Chúa con tháo bỏ đôi giày: những tham vọng của con;
con cởi bỏ đồng hồ: thời khóa biểu của con; con đóng lại bút viết: các quan
điểm của con; con bỏ xuống chìa khóa: sự an toàn của con; để con được ở một
mình với Ngài, lạy Thiên Chúa duy nhất và chân thật.
Sau khi được ở với Ngài, con sẽ xỏ giày vào để đi theo đường của
Chúa, con sẽ đeo đồng hồ để sống trong thời gian của Chúa, con sẽ đeo kính vào
để nhìn thế giới của Chúa, con sẽ mở bút ra để viết những tư tưởng của Chúa,
con sẽ cầm chìa khóa lên để mở những cánh cửa của Chúa.
20. Sám hối canh tân.
(Trích trong “Như Thầy Đã Yêu” – Thiên Phúc)
Đời Chiến Quốc, nhà du thuyết Tô Tần sang nước Sở, phải đợi suốt
ba ngày mới được vào ra mắt vua Sở.
Nói xong câu chuyện, Tô Tần xin cáo biệt đi ngay. Vua Sở bảo:
“Quả nhân nghe tiếng tiên sinh quý như nghe tiếng một bậc danh nhân xưa. Nay
tiên sinh đã không quản xa xôi, đến chơi với quả nhân, lại không chịu ở lại là
cớ làm sao?”
Tô Tần thưa: “Tôi xem ra thấy nước Sở này có đồ ăn đắt hơn ngọc,
củi đắt hơn quế, quan khó được trông thấy như ma, vua khó được yết kiến như
trời. Nay nhà vua muốn bắt tôi ở lại để ăn ngọc, thổi quế, nhờ ma thấy trời hay
sao?
Vua Sở khẩn khoản nói: “Xin mời tiên sinh cứ ở lại, quả nhân đã
hiểu rõ quá rồi”.
Một đất nước mà vật giá đắt đỏ: “Gạo châu củi quế”, vua quan xa
cách dân chúng, thì nhân dân trong nước khổ sở biết bao. Cái đáng khen của vua
Sở là sau khi nghe Tô Tần bình phẩm về tình hình kinh tế chính trị của đất nước
mình, thì ông liền nhận ra sai lầm và quyết tâm sửa chữa.
Mỗi lần mùa vọng đến, lại có một Tô Tần xuất hiện để vạch ra
những lỗi lầm của chúng ta và nhắc chúng ta sám hối canh tân. Đó chính là Gioan
Tẩy giả: “Có tiếng kêu trong hoang địa. Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho
thẳng để Người đi” (Lc 3,4)
Nếu Tô Tần là nhà du thuyết cho nước Sở, thì Gioan chính là ngôn
sứ của dân tộc Do thái. Ông đã thấy các nhân vật đạo đời: Từ hoàng đế Tibêriô
đến quan tổng trấn Philatô, từ vua Hêrôđê, Philip, Lyxaria cho đến các vị
thượng tế Anna và Caipha; lòng người đầy những khúc quanh lồi lõm, thung lũng hố
sâu, núi đồi hiểm trở.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng, phải lấp cho
đầy; khúc quanh co, phải uốn cho ngay; đường lồi lõm, phải san cho phẳng” (Lc
3,5). Ông kêu gọi mọi người sửa sang đường sá. Nhưng con đường quan trọng chính
là đường vào cõi lòng.
Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi.
Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, tính toán lệch lạc.
Phải san cho phẳng những núi đồi ngạo nghễ của tự mãn, tự kiêu.
Phải bạt cho thấp những gồ ghề lồi lõm của bất công, bất chính.
Nếu sám hối là dọn đường của lòng mình, thì chúng ta hãy dẹp bỏ
những chướng ngại của tâm hồn, để Chúa có thể đến và ngự lại trong đó.
Nếu Gioan là ngôn sứ chuẩn bị cho Chúa đến lần đầu, thì chúng ta
sẽ là sứ giả chuẩn bị cho Người đến từng ngày trong cuộc sống của anh em.
Thiên Chúa chỉ có thể đến gặp con người trên những con đường
ngay thẳng, phẳng phiu. Và ơn cứu độ của Người cũng chỉ ban cho những ai rộng
tay đón nhận.
Lạy Chúa, thật là khó khi nhận mình lầm lỗi, và cũng không dễ
dàng khi phải sửa chữa lỗi lầm.
Xin ban cho chúng con ơn sám hối, dám đi đến những hành động cụ
thể, và can đảm chấp nhận cắt tỉa đớn đau, để chúng con xứng đáng đón rước Chúa
đến, mang nguồn vui ơn cứu độ. Amen.
21. Suy niệm của André Sève.
THIÊN CHÚA MUỐN CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI
Luca là tác giả Tin Mừng của lịch sử cứu độ mà ông triển khai
thành ba điệp khúc như trong đoạn rất súc tích này chẳng hạn: “Cho đến thời ông
Gio-an, thì có Lề Luật và các ngôn sứ; còn từ thời đó, thì Tin Mừng Nước Thiên
Chúa được loan báo, và ai cũng dùng sức mạnh mà vào” (Lc 16,16)
Luca muốn xây dựng những chiếc cổng qua đó ông làm cho chúng ta
đi vào trong lịch sử một cách long trọng. Vào lúc hạ sinh Chúa Giêsu: “Hồi ấy
Xêda đại đế ra chiếu chỉ …”. Và đối với bước đầu công khai của Ngài, cùng với
Gioan tẩy giả vén màn lịch sử: “Năm thứ mười lăm triều đại vua Xêda Tibê…” Đây
là tiếng chuông lớn của lịch sử.
Có một lời loan báo phi thường: “Mọi người sẽ được ơn cứu độ”.
Đây là điều ông già Simêon đã công bố một cách âm thầm hơn: “Vì chính mắt con
được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho
dân ngoại, là vinh quang của Israel Dân Ngài". Chúng ta thường quá thu hẹp
các chân trời này, loại bỏ những chân trời này, quên lãng những chân trời kia.
Và chúng ta luôn có nguy cơ mất đi trên các con đường của lịch sử điều phải là
nỗi ám ảnh của chúng ta: Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người, Ngài
muốn cứu độ tất cả những người ấy.
Người Do thái thời bấy giờ mong chờ Đấng Cứu Thế đến độ trái tim
họ rung động khi nhìn vị tiên tri mới xuất hiện là Gioan Tẩy giả: “Có phải
người này là Đấng Cứu Thế hay không?”.
Điều này sẽ còn khó tin hơn nữa! Sẽ phải có toàn bộ Tin Mừng, sự
phục sinh và hiện xuống để người Do thái độc thần triệt để lòng trí mở ra (một
cách khó khăn!) cho điều không thể tưởng tượng được: Đấng Cứu Thế chính là Chúa
Giêsu, và Chúa Giêsu chính là Thiên Chúa.
Gioan Tẩy giả phác hoạ chân dung đầu tiên đó: “Có Đấng mạnh thế
hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa
cho anh em trong Thánh Thần và lửa”.
Nhưng cũng sẽ phải có các thần học gia giám mục vĩ đại của các
thế kỷ đầu tiên, kinh nghiệm của các thánh, nhất là Chúa Thánh Thần để nói lên
điều không thể được trình bày: Thiên Chúa duy nhất là Cha, Con và Thánh Thần;
và Chúa Con đã làm người, dưới thời Xêda đại đế, dưới triều vua Tibê.
Mùa vọng lại đặt chúng ta trước những chân trời rộng lớn của
việc cứu độ tất cả mọi người mà Chúa Cha đã sai phái Con của Ngài cho họ. Còn
việc tiếp nhận: Gioan Tẩy giả yêu cầu chúng ta chuẩn bị cho Ngài một con đường.
Hai hình ảnh giải toả và tẩy sạch có thể giúp chúng ta hình dung công việc này
một lần nữa: làm bung ra những cái cửa quá rỉ sét và làm sập đổ sự từ chối mà
chúng ta đã làm cho chai cứng nơi chúng ta, những núi đồi do dự và bác bẻ. Nói với
Chúa: “Xin hãy vào trong con” đòi buộc một sự hoạt động tích cực.
Tôi có đi quá nhanh từ lời loan báo lớn lao của Gioan Tẩy giả
“tất cả mọi người sẽ xem thấy ơn cứu độ” đến những lo toan cá nhân nhỏ nhặt hay
không? Chúng không nhỏ nhặt đâu, những cái nhìn rộng lớn trên thế giới không
được làm cho chúng ta quên đi khu vườn của chúng ta. Trả lời cho một lãnh chúa
người Tây Ban Nha, thánh Pierre ở Alcantara nói: “Ông hãy tỏ ra có tấm lòng
tốt, thì đó đã là một phần của thế giới sẽ trở nên tốt đẹp”. Nói với Chúa trong
mùa vọng: “Hãy đến cứu độ tất cả chúng con” sẽ là một lời nguyện của kẻ mơ mộng
nếu lời nguyện đó không hướng chúng ta về điều phải được cứu độ nơi mỗi người
trong chúng ta.
22. Hãy dọn đường cho Chúa.
Người ta kể lại rằng, một khoa học gia và cũng là họa sĩ nổi
danh Leonardo da Vinci vẽ bức tranh Bữa Tiệc Ly, bức tranh được rất nhiều người
khen ngợi cho đến ngày hôm nay. Ông có một tranh chấp mạnh mẽ với người láng
giềng, tâm tình thù hận trong tâm hồn không cho phép ông vẽ một chân dung nhân từ
dịu dàng của Chúa Giêsu. Ngồi trong phòng vẽ hàng giờ, nhưng Leonardo da Vinci
không thể nào tập trung tinh thần để vẽ chân dung. Cuối cùng, ông quyết định đi
tìm để làm hòa với người đang có tranh chấp, rồi với tâm hồn an bình thư thái,
ông đã vẽ được dung mạo Chúa Giêsu trong bức tranh nổi tiếng Bữa Tiệc Ly, và
dung mạo của Chúa Giêsu do ông vẽ ra đó thể hiện tuyệt vời đặc sắc tinh thần
của Chúa Giêsu mà cho đến ngày hôm nay chưa có hay ít có họa sĩ nào theo kịp.
Hơn Leonardo da Vinci, mỗi người chúng ta được mời gọi không
phải chỉ vẽ chân dung Chúa Giêsu trên trang giấy trong bức họa mà thể hiện
chính Chúa Giêsu, trở thành một Chúa Giêsu Kitô thứ hai. Chúng ta không thể nào
thành công làm công việc này, nếu tâm hồn chúng ta còn tích chứa những tật xấu,
những tội lỗi, những tâm tình thù hận, ganh tị với anh chị em. Mỗi người chúng
ta cần thực hiện điều mà thánh Phaolô tông đồ gọi là lớn lên trong đức bác ái:
“Lòng bác ái của anh em càng ngày càng gia tăng trong sự thông biết và am hiểu,
để anh em được trong sạch và không đáng trách cho đến ngày của Chúa Kitô ngự
đến”. Đây có thể nói là mục tiêu chính của Mùa vọng chúng ta đang cử hành, mùa
chuẩn bị tâm hồn của chúng ta hay đúng hơn tẩy sạch tâm hồn chúng ta khỏi những
gì là tiêu cực xấu xa, nghịch lại sự thật của Chúa, để chúng ta có thể không
phải là họa lại mà là trở thành chính Chúa Giêsu, đón nhận hoàn toàn ân sủng
cứu rỗi của Ngài. Đây cũng là điều mà Gioan tiền hô trong bài Phúc âm hôm nay
lớn tiếng nhắc lại cho mọi thành phần dân Do thái thời Ngài đang bị cám dỗ bỏ
quên Thiên Chúa, hoặc làm méo mó dung mạo Thiên Chúa mà họ đã được mời gọi làm
chứng giữa muôn dân. Bí quyết đó là việc ăn năn thống hối, thay đổi nội tâm đã
được Gioan rao giảng. Đón tiếp một vị khách phàm trần, người ta chỉ cần chưng diện
treo hoa đèn, biểu ngữ, chào đón, chúc tụng và hô to những khẩu hiệu ngoài môi
miệng cho qua lượt, nhưng để đón Chúa đến và họa lại chân dung của Chúa trong
chính đời sống của mình thì con người phải thay đổi thực sự tâm hồn, phải thực
hiện cuộc canh tân thay đổi nội tâm khỏi những tâm tình xấu xa tội lỗi.
Ước chi trong Mùa vọng này giúp chúng ta lắng nghe lời mời gọi
của Gioan tẩy giả và nhất là lời mời gọi của chính Chúa đang đứng ngoài gõ cửa
chờ ta để trở nên hiện ảnh, hiện thân của Chúa Giêsu giữa anh chị em, làm vinh
danh Thiên Chúa và cũng vừa xây dựng được một xã hội tốt đẹp xứng đáng với con
người mỗi ngày một hơn.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết hoán cải, canh tân đời
sống trở về với Chúa mỗi ngày một nhiều hơn, thiết thực hơn. Amen.
23. Tiếng kêu trong sa mạc.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một mẩu chuyện của người Phi Châu kể lại rằng: Một người Ả Rập
sống ở sa mạc có thói quen nằm sát xuống đất, úp tai trên cát từng giờ lâu. Có
người hỏi tại sao làm thế. Anh ta giải thích như sau: “Tôi nghe sa mạc khóc vì
nó rất muốn được làm một ngôi vườn xinh tươi”.
Sa mạc mong mỏi được trở thành ngôi vườn, cũng vậy, tâm hồn con
người luôn hướng tới về điều thiện. Khoảng cách giữa sa mạc và ngôi vườn xinh
tươi đó là nước non, điều kiện thời tiết và nhất là công lao của con người.
Không có sự chăm sóc của con người, sa mạc vẫn tiếp tục là bãi cát khô cằn. Cõi
lòng con người cũng sẽ mãi mãi là một sa mạc cằn cỗi nếu có không được vun xới
và tưới bằng cố gắng, phấn đấu, hy sinh và tình yêu. Phải tốn biết bao là kiên
nhẫn, biết bao chống đỡ, biết bao cương nghị, biết bao mồ hôi… để biến sa mạc
của tâm hồn thành một khu vườn tươi tốt… Sa mạc tâm hồn của chúng ta sẽ khóc
mãi nếu chúng ta không ra tay cày xới và vun trồng mỗi ngày.
Tin Mừng hôm nay kêu gọi chúng ta hãy cày xới và vun trồng cho
sa mạc tâm hồn chúng ta nở hoa đón mừng Chúa Cứu Thế: “Có tiếng kêu trong sa
mạc: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi”. Đó là tiếng kêu
của Gioan Tiền Hô. Là tiếng kêu trong sa mạc, Gioan không thể vắng bóng trong
Mùa Vọng – Giáng Sinh, vì đời sống của Gioan đã gắn liền với đời sống của Chúa
Cứu Thế như “tiếng kêu” gắn liền với Đấng là “Lời của Thiên Chúa”. Đàng khác,
đời sống của vị Tiền Hô chỉ có lý do khi có Đấng Cứu Thế xuất hiện phía sau; và
đời sống của vị Tẩy Giả làm phép rửa sám hối chỉ có ý nghĩa khi có Chúa Giêsu,
Đấng thiết lập Bí tích Thánh Tẩy để tha tội.
Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã làm xuất phát những tiếng kêu qua các
Ngôn Sứ trong Cựu Ước để tiên báo Đấng Thiên Sai Cứu Thế sẽ đến. Là Ngôn Sứ
cuối cùng của Cựu Ước, tiếng kêu của Gioan Tiền Hô đã đúc kết, tổng hợp mọi
tiếng kêu của các Ngôn Sứ khác, như tiếng kêu của Isaia, tiếng kêu của Êlia,
tiếng kêu của Giêrêmia, của Baruc (Bđ.1). Chính vì vậy “Tiếng kêu trong sa mạc”
là tên gọi của Gioan, một tên rất mông lung, có vẻ vô danh, nhưng lại rất súc
tích: “Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lung,
phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt cho thấp, khúc quanh co, phải uốn cho
ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng. Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn
Thiên Chúa cứu độ”.
Thưa anh chị em,
Ngày nay, khi nói “Tiếng kêu trong sa mạc”, người ta thường hiểu
là tiếng kêu vô ích, lời hô hào không được hưởng ứng, không được đón nghe.
Nhưng tiếng Gioan đã kêu lên trong sa mạc không phải là “tiếng kêu trong sa
mạc” theo nghĩa đó. Trái lại, tiếng kêu ấy đã lôi kéo đủ thứ mọi hạng người
khắp xứ Palestine đến với Gioan trên bờ sông Giođan. Tiếng ấy mặc dù kêu lên
trong sa mạc nhưng đã vang vọng tới tận thủ đô Giêrusalem đến nỗi một phái đoàn
chính thức đã được các vị lãnh đạo tôn giáo sai đến để chất vấn Gioan tận nơi
sa mạc.
Tiếng kêu của Gioan không vô ích và cũng không lỗi thời, vì ngày
nay, sau gần 2000 năm, tiếng kêu ấy vẫn còn tác động mạnh mẽ trong lòng nhiều
người. Những điều xưa kia Gioan nói với dân chúng, hiện nay vẫn còn hợp thời,
vẫn còn có giá trị. Và trong thực tế, ở khắp nơi trên thế giới, bao lâu hỗn
loạn, tranh chấp, hận thù vẫn còn thì công cuộc dọn đường cho Chúa đến vẫn còn
cấp bách. Như vậy, tiếng kêu của Gioan vẫn mãi mãi cần thiết để con người thay
đổi đời sống cho tốt đẹp hơn.
Mỗi Mùa Vọng, tiếng kêu của Gioan trong sa mạc lại lay động,
thức tỉnh chúng ta, đặt chúng ta đối diện trước một số vấn đề thuộc phạm vi
lương tâm và công bình xã hội, để chúng ta xét mình, kiểm điểm nếp sống, để cải
thiện đời sống mỗi ngày thêm trọn hảo, để dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa
Cứu Thế ngự đến. Tuy nhiên, đối với một số người, tiếng kêu của Gioan đã trở
thành thực sự là “tiếng kêu trong sa mạc”, không được họ lắng nghe và hưởng ứng
bởi vì trong lòng họ là những đô thị ồn ào, nhộn nhịp, hỗn độn, ô nhiễm…, tâm
hồn họ thiếu sự thanh vắng, cô tịch của sa mạc khiến họ không nghe được tiếng
kêu của Gioan: Hãy dọn đường cho Chúa. Tiếng kêu của Gioan không gặp được một
âm vang nào trong lòng họ, hoặc có đi nữa thì cũng chỉ là nhất thời và hời hợt
như “hạt giống rơi vào bụi gai” mà Chúa đã giải thích là “những hạng người nghe
lời Chúa, rồi bị những mối bồn chồn lo lắng, đam mê khoái lạc trên đời làm
nghẽn đi mà không sinh hoa kết quả được” (Mt 13,18-23).
Vì vậy, muốn nghe được tiếng kêu của Gioan Tiền Hô thì phải tạo
cho lòng mình trở nên sa mạc. Sa mạc là nơi thuận tiện cho cuộc hẹn hò gặp gỡ
thân tình để nghe rõ tiếng Chúa hơn và để nhận lãnh sứ mạng của mình. Như ngôn
sứ Hôsê đã viết: “Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israen vào sa mạc, vào nơi thanh vắng,
để ở đó, lòng kề lòng, Ta sẽ tâm tình với nó” (Hs 2,16). Ở sa mạc Sahara ngày
nay, người ta vẫn còn thấy có những cộng đoàn tu sĩ, như các Tiểu đệ, Tiểu muội
Chúa Giêsu, theo tinh thần Cha Charles de Foucauld, các tu sĩ ấy dù ở đâu cũng
phải qua một thời gian tu luyện sống với Chúa, lắng nghe Chúa gọi giữa sa mạc,
giữa cảnh cô tịch, nghèo khó, để sau khi đã có kinh nghiệm cụ thể về sa mạc,
các tu sĩ ấy có thể tạo cho lòng mình trở nên sa mạc trong khi dấn thân phục vụ
con người ở giữa lòng đời. Đó chính là công việc vun xới cho sa mạc nở hoa đón
mừng Chúa Cứu Thế.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta không đi vào sa mạc như các tu sĩ Tiểu đệ, Tiểu muội
của Chúa Giêsu được, nhưng chúng ta cẩn phải tạo cho lòng mình trở thành một sa
mạc, một nơi trầm lặng, yên tĩnh, bình an, để dễ dàng lắng nghe tiếng Chúa mời
gọi giữa cuộc sống ồn ào, nhộn nhịp, bề bộn, căng thẳng nầy. Có nghe được tiếng
Chúa nói qua tiếng kêu của Gioan Tiền Hô hôm nay, chúng ta mới bắt tay vào việc
dọn đường tâm hồn chúng ta cho Chúa ngự đến: Phải sửa lại đường xưa lối cũ, uốn
nắn cho ngay thẳng những lối quanh co theo sở thích trái chướng của mình, lúc
thế này khi thế khác… Phải trung thành trước sau như một, thi hành mọi đòi hỏi
của Tin Mừng. Mọi gồ ghề ngăn trở các quan hệ tốt đẹp với Thiên Chúa, với tha
nhân, phải bạt xuống và san phẳng đi, để tình Chúa, tình người chan hòa đến với
hết mọi người. Có như vậy, xã hội mới dần dần trở thành huynh đệ hơn, tốt đẹp
hơn, sẵn sàng cho Chúa đến, và cuối cùng để đón nhận ơn cứu độ từ chính Đấng
Cứu Độ như Gioan loan báo: “Hết mọi người phàm sẽ thấy ơn Thiên Chúa cứu độ”.
24. Người phu quét lá – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Trong tác phẩm “Người phu quét lá”, ĐGM Nguyễn Khảm đã ví von,
đời Linh mục như người phu quét lá: “Người phu quét lá bên đường. Quét cả nắng
chiều quét cả mùa thu” (Ns. Trịnh Công Sơn).
Người phu quét lá, hàng ngày dù mưa dầm hay nắng hạn, vẫn luôn
có mặt từ sáng sớm tinh sương trên mọi nẻo đường thành phố để dọn đường sạch sẽ
cho ngàn ngàn con người sắp đi qua. Linh mục, mỗi ngày cũng dọn đường tâm hồn
cho con người đi đến với Thiên Chúa và để Thiên Chúa đến với con người.
Trong ý nghĩa đó, có thể nói Gioan Tiền Hô cũng là “Người phu quét
lá” dọn đường cho Chúa Cứu Thế đến với nhân loại.
Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi
trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn
đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người.
Lời Chúa, Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ông tiếp
xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa,
Gioan nghe đã trở thành Lời Chúa ông công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành
tiếng ông mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường
tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.
Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng
bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ông đáp lại tiếng Chúa
gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân
loại đến trần gian. Ông đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng
cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng
ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.
Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan
chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc
áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng
chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với
Thiên Chúa.
Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho
đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc
3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến
lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn
đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp
hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải
san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề
của bất công bất chính.
Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt
trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay
không là do hệ thống đường sá.
Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng,
công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.
Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống
với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu sứ mạng mới bằng việc lên
đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất
hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đầy và mất quê hương trong một thời
gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở
thế gian bằng những cuộc lên đường sang Ai cập, về Nazareth, lên sa mạc, vào
đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa ít là có ba cuộc
hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Ngài lên đường về nhà Cha.
Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc
sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên
Chúa. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi
theo Ngài.
Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho
thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ,
ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính
toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa
đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những
sai lệch nếu có. Những gì cong queo hãy san cho thẳng. Những gì cao cao, cần
bạt xuống thấp. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho
đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới
chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang
mở ra với Chúa Cứu Thế.
Con đường mà Gioan nói tới đây chinh là đường vào cõi lòng. Con
đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay
đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần
thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường
sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối
với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và
ở lại cùng sống với thân dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải
dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự
tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Ngài đi vào. Con đường có
thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết
xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ,
suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Tâm hồn Mẹ
bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn
đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được
tiếng Chúa mà thôi.
Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô
khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như
tên lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai
cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, vị kỷ kiêu căng, tham lam đố kỵ ghen
ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền
bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì
trệ, không phát triển.
Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa
đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường, thường được làm bằng
đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu
trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần,
con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó
không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.
Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu
đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống
đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình,
vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối
bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật
tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân, thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy
lệ hình thức mà thôi.
Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa
Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với
Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với
tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Cả cuộc đời Gioan chỉ một tâm nguyện là làm “Người phu quét lá”
dọn lòng người khác cho Chúa đến. Mỗi người chúng ta cũng theo mẫu gương của
Gioan trở thành “Người phu quét lá” cho chính tâm hồn mình, cho gia đình mình
và rồi cho người khác nữa. Dọn đường cũng chính là lên đường theo Chúa Cứu Thế,
cho nên dọn đường cho Chúa vừa là một hồng ân vừa là trách nhiệm đòi hỏi mỗi
người thi hành nghiêm túc trong cuộc sống hàng ngày của mình.
25. Chuẩn bị đón mừng Chúa đến.
Nếu bây giờ đi thăm một thành phố lớn, chúng ta sẽ thấy những
gian hàng thật lộng lẫy, những cây thông, những ông già Noel và những ánh đèn
màu nhấp nháy. Nếu hỏi tại sao, lập tức chúng ta sẽ ghi nhận được câu trả lời:
- Lễ Giáng sinh đã gần tới.
Lễ Giáng sinh đối với nhiều người là một dịp để mua sắm, để tặng
quà và để ăn nhậu. Họ tích cực chuẩn bị cho ngày lễ lới, nhưng chỉ là những sự
chuẩn bị bên ngoài và mang tính cách phù phiếm. Đối với chúng ta thì khác. Lễ
Giáng sinh là ngày chúng ta mừng kính biến cố trọng đại nhất của lịch sử: biến
cố con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu chuộc chúng ta, Ngài sinh ra trong
yếu đuối như một hài nhi bé bỏng, Ngài sinh ra trong nghèo túng nơi máng cỏ
Bêlem.
Là một biến cố trọng đại nhất của lịch sử nhân loại, nên chúng
ta không thể không chuẩn bị. Nhưng việc chuẩn bị cần thiết và quan trọng nhất
chính là việc chuẩn bị cõi lòng của mình: Hãy gột rửa tâm tư, hãy thanh tẩy con
tim. Thế nhưng, nhiều khi chúng ta lại quên lãng sự cần thiết và quan trọng ấy.
Chúng ta chống lại khuynh hướng tục hóa những sự kiện linh
thiêng. Sự tục hóa này mỗi ngày một lan rộng trong thế giới hôm nay, nhưng lại
chạy theo thời trang, về phe với đám đông để không còn nhận ra sự thật. Chúng
ta hô hào trở về nguồn, nhưng lại không hiều trờ về nguồn là như thế nào. Đoạn
Tin mừng hôm nay trình bày cho chúng ta thấy khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Ông
vào sa mạc để sống cảnh nghèo túng và khắc khổ: ăn châu chấu với mật ong rừng.
Trong chốn hoang vu ấy, ông đã chuẩn bị tâm hồn để đón nhận Đấng Cứu Thế. Lời
ông nói thật thẳng thắn và cứng rắn, không đưa đẩy theo kiểu ngoại giao:
- Hỡi nòi rắn độc, ai sẽ cứu các ngươi khỏi cơn thịnh nộ sắp
tới. Hãy đâm bông kết trái theo như lòng thống hối. Cái rìu đã đặt dưới gốc
cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Dân chúng ta thắc mắc về những lời cảnh cáo ấy:
- Vậy chúng tôi phải làm gì?
Và Gioan đã không ngần ngại trả lời:
- Ai có hai áo, hãy chia sẻ cho người không có. Ai có của ăn
cũng hãy làm như thế.
Với bọn biệt phái và lính tráng, ông đòi hỏi nơi họ sự thành
thật và công bằng. Ông lặp lại lời tiên tri Isaia:
- Hãy dọn đường Chúa đến, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho
phẳng, hố sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Để ngày Chúa đến đem lại niềm vui mừng và hy vọng, mỗi người
chúng ta phải chuẩn bị tâm hồn, cụ thể là hãy ăn năn sám hối, chạy đến nơi tòa
cáo giải và xưng thú mọi tội lỗi để được ơn tha thứ.
Nếu chúng ta khô khan nguội lãnh, hãy xin Chúa giúp chúng ta cảm
nghiệm được tình thương Chúa đã dành cho chúng ta qua màu nhiệm Giáng sinh, để
rồi chúng ta cũng sẽ quì gối thờ lạy Hài nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem như mẹ
Maria và thánh Giuse, như các mục đồng và ba nhà đạo sĩ phương đông. Nếu đầu óc
chúng ta còn chất chứa nhiều hận thù, thiên kiến và bè phái, hãy xin Chúa giúp
chúng ta biết yêu thương và trở nên anh em của tất cả mọi người. Nếu chúng ta
còn nóng nảy, tức tối và giận hờn, hãy xin Chúa giúp chúng ta trở nên hiền dịu
và khiên nhường, như chính Chúa đã xác quyết:
- Các con hãy học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Rồi trong những sắm sửa cho ngày lễ Giáng sinh, hãy nghĩ đến
những người nghèo khổ, bằng cách dành một ngân khoản nào đó để làm phúc bố thí
và giúp đỡ họ, bởi vì Đức Kitô đang ở trong họ, như lời Ngài đã phán:
- Sự gì các con làm cho một kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho
chính Ta vậy.
Có chuẩn bị như vậy, thì ngày lễ Giáng sinh mới đem lại cho
chúng ta niềm an bình và hanh phúc. Niềm an bình và hạnh phúc ấy các thiên thần
đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm
26. Lời mời gọi.
Đôi khi chúng ta thinh lặng, trong lúc lẽ ra phải nói, vì chúng
ta cho là tôn trọng kẻ khác, không muốn làm cho họ tổn thương và tức giận. Ta
hãy nhìn nhận điều này: Ngày nay thật là hiếm hoi những tiếng nói mạnh mẽ, dứt
khoát, thúc bách và có uy tín kêu gọi vươn lên; và không những vươn lên mà còn
hoán cải nữa.
Ta hiểu rằng bản thân chúng ta có những lý do chính đáng để đừng
lên tiếng lớn quá và không trách móc kẻ khác trước khi xem xét đến bản thân
mình. Nhưng không được nên ngăn cản Thiên Chúa lên tiếng. Vậy ta hãy lắng nghe
Gioan tẩy giả nói nhân danh Ngài và ta hãy tự nhủ rằng những lời của ông nói
với mỗi người chúng ta, trước khi nói với những người lân cận ta. Hãy để những
người lân cận ta lo công việc họ, còn ta hãy lo công việc mình.
“Hãy dọn đường cho Chúa, hãy san bằng lối đi của Ngài. Hãy hoán
cải, hãy vứt đi những gì làm chậm bước tiến của bạn hướng về Chúa. Nếu bạn đã
lầm đường, thì hãy trở lui và đi vào con đường đưa tới cõi sống”. Đó là những
tiếng kêu của Gioan tẩy giả, những tiếng kêu của chính Thiên Chúa. Ta đừng hiểu
chúng như những lời kết án nhưng như những lời mời gọi lớn lên. Ta đừng nghĩ
rằng những tiếng gọi này được ngỏ với chúng ta để khiến chúng ta u buồn; nhưng
chính là để chúng ta được vui mừng mà vị ngôn sứ đã lên tiếng.
Chúng ta đừng để cho mình bị lừa dối. Ta đừng tưởng rằng, bất
chấp những gì người ta nói, ta vẫn có thể lớn lên mà không cần cố gắng, ta có
thể đạt được những đỉnh cao mà không phải hụt hơi, ta có thể tự chủ và thực
hiện những điều lớn lao mà không trầy da tróc vẩy.
Muốn đến với Thiên Chúa, bao giờ cũng phải đấu tranh, hoán cải,
liên lỉ tự điều chỉnh và dứt khoát nhắm vào điều chính yếu, không để cho mình
bị sao lãng bởi những gì không có giá trị và giả dối.
Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Philipphê: “Tôi xin anh em hãy
nhận định những gì là quan trọng nhất”. Lời khuyên này thật chí lý vào thời đại
ấy, và có lẽ còn thích hợp hơn nữa cho ngày hôm nay khi chúng ta rất thường
xuyên và rất dễ dàng bỏ qua những gì thật sự quan trọng và quá chú trọng đến
những gì ít hoặc không quan trọng chút nào cả.
Điều quan trọng là hướng về Thiên Chúa, là vì Ngài mà can đảm
xua đuổi sự dữ và thi hành điều thiện. Điều quan trọng là dành cho tiền bạc,
các thú vui dễ dàng và gây thất vọng, quyền bính và những thứ phô trương bên
ngoài vị trí thích hợp cho chúng: vị trí phụ thuộc hoặc rốt hết, hoặc không có
chỗ nào hết.
“Hãy san bằng… hãy chỉnh đốn… hãy hoán cải…” không phải dễ đâu!
Ta có lý mà lặp lại rằng: Đáp “xin vâng” trước những tiếng gọi của Chúa thật là
cam go. Nhưng ta cũng phải nhắc đi nhắc lại rằng lời xin vâng này là nguồn mạch
phát sinh niềm vui. Tôi rất thích câu kết thúc đoạn sách Ngôn sứ Baruc mà chúng
ta vừa nghe: “Thiên Chúa sẽ dẫn đưa Israel đi trong niềm vui, dưới ánh sáng
vinh quang của Ngài”.
Việc bước đi hướng về Chúa dù có lúc khó khăn, thậm chí đau khổ
nữa, nhưng đó là một cuộc mạo hiểm vui tươi. Làm sao có thể khác được! Thiên
Chúa, Đấng kêu gọi chúng ta là Thiên Chúa của niềm vui. Thiên Chúa Đấng đang
đến với chúng ta, là Chúa của niềm hoan lạc. Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta gặp
được sau những cuộc hoán cải lớn nhỏ của chúng ta, là Thiên Chúa của niềm vui.
Vậy khi để cho Ngài lôi cuốn, khi tìm cách đến với Ngài và chuẩn bị đón tiếp
Ngài, ta chỉ có thể bước đi trong niềm vui mà thôi.
Niềm vui được lớn lên, niềm vui được thoát khỏi sự dữ, niềm vui
được chiến thắng sự tầm thường, niềm vui được mỗi ngày trở nên con cái xứng
đáng hơn của Chúa Cha, niềm vui được yêu mến đến nỗi chịu đau khổ như Chúa
Giêsu, Đấng đang đến với chúng ta, đã dạy cho chúng ta.
Người ta thường nói mùa vọng là một mùa sám hối. Đúng vậy, nhưng
với điều kiện là ta đừng quên rằng nó cũng là, và đặc biệt là một thời gian của
niềm vui. Làm sao không vui khi chúng ta được tiếng gọi của Chúa lôi cuốn?
27. Tiếng kêu
Một khuôn mặt quen thuộc của Mùa vọng đó là khuôn mặt của thánh
Gioan tiền hô. Thánh Luca trong bài Tin mừng hôm nay đã viết: “Có tiếng người
kêu trong hoang địa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng”.
Tiếng người kêu trong hoang địa ấy là của thánh Gioan tiền hô.
Và con đường mà Người nhắc tới không phải là một con đường trong không gian,
nhưng là con đường nội tâm của mỗi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi
lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Con Thiên Chúa làm người. Sửa
đường cho Chúa đến là điều cần thiết và hợp lý. Bởi khi đón tiếp một vị khách
quí, người ta thường sửa sang đường sá, quét dọn những nơi vị khách sẽ đi qua,
trang trí đẹp đẽ tại những nơi vị khách sẽ đến. Làm như thế là biểu lộ lòng
kính trọng đối với vị khách.
Thiên Chúa là một vị khách cao cả không ai sánh bằng. Người đã
hạ cố đến thăm và ở lại sống với những thần dân thấp hèn của Người. Vậy mà
Người chẳng được đón tiếp như Người đáng được. Thánh Gioan thánh sử đã viết:
“Người đã đến nhà Người, nhưng người nhà đã không chịu đón tiếp Người”. Vì thế
mà lời kêu gọi của thánh Gioan tiền hô trở thành một tiếng kêu trong sa mạc.
Tiếng kêu trong sa mạc là tiếng kêu không có người nghe, là tiếng kêu vang vọng
vào không trung rồi bay đi, bởi sa mạc là nơi hoang vắng, nơi không có người để
tiếp nhận tiếng kêu.
Không phải chỉ dân Do thái ngày xưa không chịu đón tiếp Con
Thiên Chúa làm người. Con người thời đại hôm nay cũng thế. Trong thời đại hôm
nay, Lời Chúa đã được Hội thánh loan báo không phải ở trong sa mạc nhưng ở nơi
đô hội, ở chốn đông người, vậy mà lời loan báo ấy cũng không khác gì tiếng kêu
trong sa mạc. Có nhiều thứ sa mạc ở nơi chính cõi lòng con người hôm nay:
- Sa mạc của sự lãnh đạm, thờ ơ. Rất nhiều người đã sống như thể
không có Chúa và không cần Chúa. Đối với những người này thì sống như vậy sẽ
thoải mái hơn nhiều, bởi họ có thể tự do làm mọi sự theo ý mình, theo sự thúc
đẩy của bản năng mà không có gì khuấy động lương tâm làm họ phải day dứt cả.
Tin Chúa chỉ bận lòng thêm thôi.
- Sa mạc của sự vô cảm về mặt tâm linh và luân lý. Đối với nhiều
người, Thiên Chúa của họ là cái bụng, là tiền bạc, là danh vọng, là lạc thú xác
thịt. Bận tâm duy nhất của họ là làm sao kiếm cho thật nhiều tiền bằng bất cứ
cách nào. Và khi đã có tiền trong tay thì họ tìm cách để hưởng thụ. Hưởng thụ
trong vấn đề ăn uống. Hưởng thụ trong vấn đề nhục dục… Ngoài ra không còn gì
nữa cả. Không còn niềm tin, không còn luân thường đạo lý, không còn lương
thiện, không còn đạo đức, không còn nhân phẩm, không còn nhân ái, không còn vị
tha, không còn công bình, không còn trung tín…
Chính vì vậy mà Lời Chúa vẫn mãi mãi chỉ là những tiếng kêu
trong sa mạc. Chính vì thế mà giữa Thiên Chúa và con người không có đường để đi
đến với nhau. Mà nếu có thì cũng chỉ là những con đường đầy thung lũng, đầy vực
thẳm, đầy núi cao không thể vượt qua được.
Điều cần suy nghĩ và tự vấn lương tâm là: ta có mặt trong số
những người sống như trên không?
Thiên Chúa đang ân cần kêu gọi ta trong từng khoảnh khắc của
cuộc sống. Chúng ta có nghe thấy tiếng Người hay không?
28. Hãy dọn đường.
Năm cùng tháng tận, chúng ta sắp giã từ một năm cũ. Cũng như mọi
năm, tôi có cảm tưởng là trước khi lật sang trang sử mới, con người ghi vội vào
cuối trang sử cũ một vài nghĩa cử để nói lên thiện chí của mình, cũng như để
bày tỏ niềm hy vọng về cuộc sống ấm no hạnh phúc, một cuộc sống được xây dựng
trên nền tảng của công lý và hòa bình.
Một trong các nghĩa tử ấy là việc phóng thích các người bị giam
cầm, như việc trả lại tự do cho các con tin Tây phương bên Trung đông chẳng
hạn. Quả tim của con người không khỏi bị giao động khi nhìn thấy trên màn ảnh
truyền hình những gương mặt hớn hở hân hoan của những người được trả lại tự do.
Hay những nụ cười hòa lẫn nước mắt của họ và của những người thân thương của
mình trong những giây phút hội ngộ. Đối với những người bị bắt làm con tin ấy
cũng như đối với những ai bị giam cầm ở bất cứ nơi nào dưới hình thức nào đi chăng
nữa, thì sự phóng thích mang một ý nghĩa của một kinh nghiệm mãnh liệt về sự tự
do. Khung cảnh sống bị giới hạn trong bốn bức tường chật hẹp của nhà giam bây
giờ là cả một bầu trời rộng thênh thang, cuộc sống tưởng chừng như bị bóp
nghẹt, giờ đây có thể được phát triển với bao dự án, bao hy vọng, bao giấc mơ.
Tương lai dường như bị chặn đứng giờ đây lại được tự do tiến tới.
Chúa nhật thứ II mùa vọng của phụng vụ năm C cũng có thể gọi
được là “Chúa nhật giải phóng”. Với những hình ảnh tràn đầy hân hoan trong bài
đọc 1 nơi ngôn sứ Baruk diễn tả công việc Thiên Chúa giải phóng và đưa dân Chúa
từ một cuộc sống đau khổ lầm than trở về quê cha đất tổ của họ trong vui mừng
và trong vinh dự.
Rồi trong bài Phúc âm, thánh Gioan tẩy giả tiếp tục rao truyền
Tin mừng giải phóng và lập lại lời kêu gọi của ngôn sứ Baruk: “Hãy sửa đường
cong queo cho ngay thẳng, hãy lấp mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi làm cản trở
công việc hồi hương của dân Chúa và gây chướng ngại cho Đấng Cứu Thế đến ở giữa
dân người để giải phóng và cứu rỗi họ”. Nhưng làm sao mọi người cảm thấy Thiên
Chúa thực sự đến tại đây và trong lúc này để giải thoát họ không những hoàn
cảnh lúc họ đang sống, và làm thế nào để mọi người có thể cảm nghiệm rằng thánh
Gioan tẩy giả vẫn còn đang tiếp tục rao giảng về sự ăn năn thống hối để chuẩn
bị cho ngày Chúa đến mà tất cả mọi người chúng ta trong Chúa nhật hôm nay cũng
đang hướng về ơn cứu độ.
Câu trả lời cho hai vấn nạn trên nằm trong ý nghĩa của mùa vọng,
bởi lẽ mùa vọng không phải là đợi chờ một biến cố đã xảy ra trong quá khứ xưa,
mùa vọng càng không phải là mùa đợi chờ để mừng kỷ niệm Giáng sinh như mừng
sinh nhật của Đức Giêsu diễn ra cách đây hơn 2000 năm. Không! Mùa vọng phải là
mùa chuẩn bị tích cực để Thiên Chúa qua Đức Giêsu đến giải phóng và cứu rỗi mọi
người trong hoàn cảnh cụ thể của ngày hôm nay. Đó là lý do tại sao thánh sử
Luca ghi thật rõ ràng niên lịch và nhân vật lịch sử làm bối cảnh chính trị của
một biến cố Ngôi hai giáng trần.
Hoàng đế Rôma thống trị khắp vùng Trung đông, Palestine bị lực
lượng ngoại xâm chiếm đóng. Giuđêa nằm dưới quyền cai quản của quan trấn thủ
Phongxiô Philatô, còn các vùng khác được trao cho các tay sai của hoàng đế Rôma
giám quản. Cả tình trạng tôn giáo cũng bị lũng đoạn, vị Anna và Caipha đã cố
gắng dung hòa giữa tôn giáo và chính trị để giữ vững địa vị thượng tế của mình.
Trong bối cảnh chính trị, xã hội và tôn giáo đen tối ấy, Thiên Chúa đã bắt đầu
hành động, qua đó một lần nữa Thiên Chúa chứng tỏ rằng công cuộc giải phóng và
cứu rỗi của Người không phải được diễn ra trên trời, nhưng thực sự được diễn
tiến trên mặt đất, giữa con người và trong dòng lịch sử. Quả thật, Thiên Chúa
đã bắt đầu cuộc giải phóng để mang ơn cứu rỗi cho con người qua lời kêu gọi và
rao giảng của thánh Gioan đã được Chúa Giêsu trao phó cho ngài để dọn đường cho
Chúa đến và chuẩn bị cho chúng ta đón nhận ngày Chúa đến.
Để chu toàn sứ mệnh Thiên Chúa trao phó, thánh Gioan tẩy giả đã
đi vào sa mạc hoang vắng. Thánh Gioan muốn lôi kéo các thính giả của ngài và
lôi kéo chúng ta ra khỏi nếp sống bon chen thường nhật, ra khỏi những lo lắng
hằng ngày, ra khỏi những thói quen tật xấu, những đam mê và ra khỏi con người
cũ để đi vào sa mạc vắng vẻ là nơi con người dễ dàng gặp gỡ Thiên Chúa. Và cuộc
gặp gỡ Thiên Chúa đúng nghĩa nào cũng phơi bày con người thật và biết sống thật
của mỗi cá nhân.
Cuộc gặp gỡ Thiên Chúa đích thực nào cũng kêu mời con người phải
ăn năn, phải thống hối, có nghĩa là kêu mời con người trở về với Thiên Chúa. Vì
thế, sau thời gian vào hoang địa để gặp gỡ Thiên Chúa, để biết rõ con người và
nếp sống thật của mình, thánh Gioan tẩy giả hướng dẫn chúng ta trở về cuộc sống
hằng ngày, xuyên qua dòng sông Jordan để lãnh nhận phép rửa thống hối là dấu
chỉ bên ngoài của một quyết định nội tâm dứt khoát trở về với Chúa. Một Thiên
Chúa từ thuở tạo thiên lập địa đã luôn gắn liền lời nói với hành động.
Vì thế, công cuộc thống hối đúng nghĩa của con người không thể
chỉ diễn ra bằng lời nói: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em, tôi
đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và việc làm…”, nhưng phải kèm theo
những hành động cụ thể, những hành động cụ thể này đã được thánh Gioan loan báo
hôm nay: “Hãy dọn đường Chúa đến”. Hãy sửa đường cong queo của tinh thần vô
trách nhiệm, của lòng ích kỷ, của tính hay mánh mung lừa đảo bằng những con
đường ngay thẳng của tinh thần liên đới, chia sẻ, thật thà, biết tôn trọng sự
thật. Hãy lấp mọi hố sâu của chia rẽ hận thù, của thiên kiến nghi kỵ bằng sự
khoan dung tha thứ, bằng sự tin tưởng thiện chí và tin tưởng vào khả năng của
nhau. Hãy bạt mọi núi đồi của lòng kiêu hãnh, của óc địa phương bằng tinh thần
khiêm nhu, và biết đặt công ích lên trên quyền lợi của cá nhân, quyền lợi của
đảng phái. Hãy san bằng những con đường bi quan yếm thế của những thất vọng,
của những ngày đen tối, của những lỗi lầm trong quá khứ bằng những cái nhìn
tích cực, lạc quan tràn đầy hy vọng nơi chính mình, nơi kẻ khác và nơi cuộc
sống. Đó là những hành động cụ thể, những điều kiện cần phải thực hiện trong
ngày Chúa đến, thực hiện trong ngày giải phóng và cứu rỗi của Người, xây dựng trên
công lý, hiệp nhất hòa bình và tình thương giữa lòng xã hội của ngày hôm nay.
Vậy! Bạn và tôi sẽ làm gì trong mùa vọng năm nay để chung tay
đẩy mạnh tiến trình giải phóng và cứu rỗi của Thiên Chúa trong gia đình, trong
làng xóm, trong giáo xứ và trong xã hội chúng ta đang sống?
29. Sám hối và dọn đường – Anmai
Chúng ta vừa nghe niềm vui của dân Do Thái khi họ được thoát
khỏi cảnh tù đày qua tâm tình của Thánh Vịnh 135:
Khi Chúa đem những người Sion bị bắt trở về,
chúng tôi dường như người đang mơ,
bấy giờ miệng chúng tôi vui cười,
lưỡi chúng tôi thốt lên những tiếng hân hoan.
Bấy giờ dân thiên hạ nói với nhau rằng:
Chúa đã đối xử với họ cách đại lượng.
Chúa đã đối xử đại lượng với chúng tôi,
nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan.
Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận chúng con,
như những dòng suối ở miền nam.
Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
Thiên hạ vừa đi vừa khóc, tay mang thóc đi gieo.
Họ trở về trong hân hoan, vai mang những bó lúa.
Họ cứ ngân nga mà hát với nhau: Chúa đối xử đại lượng với chúng
tôi nên chúng tôi mừng rỡ hân hoan. Cũng bình thường thôi vì Thiên Chúa luôn
luôn yêu thương dân của Ngài và Ngài cũng muốn cứu độ dân của Ngài chứ Ngài có
bao giờ bỏ rơi.
Lời hứa cứu độ đó tự ngàn xưa và cứ tiếp nối từ người này qua
người khác, từ ngôn sứ này đến ngôn sứ kia.
Hôm nay chúng ta cũng bắt gặp lời hứa của Chúa qua môi miệng của
ngôn sứ Baruc:
Hỡi Giêrusalem, hãy cởi áo tang chế và sầu khổ của ngươi, hãy
mặc lấy sự huy hoàng và vinh quang đời đời của Chúa mà Chúa ban cho ngươi. Chúa
sẽ mặc cho ngươi áo công lý, và đặt vương miện vĩnh cửu trên đầu ngươi. Vì
chưng, Chúa sẽ tỏ bày huy hoàng của Chúa trong ngươi cho mọi kẻ trần gian. Vì
Thiên Chúa sẽ đời đời gọi tên ngươi là Hoà bình trong công lý và Vinh dự trong
hiếu nghĩa.
Hỡi Giêrusalem, hãy chỗi dậy, đứng nơi cao, và nhìn về hướng
đông. Hãy nhìn con cái ngươi từ đông sang tây họp lại theo lệnh của Ðấng Thánh,
họ hân hoan thấy Chúa nhớ đến họ. Họ bị quân thù dẫn đi xa ngươi, nhưng Chúa đã
đem họ về cho ngươi trong vinh dự như các hoàng tử. Vì Chúa đã ra lệnh triệt hạ
mọi núi cao và mọi đồi từ ngàn xưa, lấp đầy những hố sâu, để trái đất được bằng
phẳng, hầu Israel vững vàng bước đi cao rao vinh quang Thiên Chúa.
Theo lệnh Chúa, những cánh rừng, những cây có hương thơm, đã cho
Israel núp bóng, vì Chúa sẽ hân hoan lấy lòng từ bi và công bình của Người dẫn
dắt Israel đến ánh vinh quang.
Thế đó, Thiên Chúa, Đức Chúa sẽ tỏ ánh huy hoàng, tỏ ơn cứu độ
của Ngài xuống dân Israel.
Thế nhưng, chuyện quan trọng hơn cả đó là mặc lấy tâm tình gì để
đón ơn cứu độ?
Dân Do Thái cứ lầm lũi trong tội lỗi của mình, cứ lầm lũi trong
sự cứng đầu của mình để rồi không chuẩn bị cho mình một tâm tình đón ơn cứu độ.
Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Độ - Con Thiên Chúa đến trần gian,
Thiên Chúa đã tiên báo để cho mọi người dọn đường. Bằng chứng hết sức cụ thể là
có lời Chúa đã kêu gọi Gioan, con Giacaria, trong hoang địa.
Ông liền đi khắp miền sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối
cầu ơn tha tội, như lời chép trong sách Tiên tri Isaia rằng: "Có tiếng kêu
trong hoang địa: Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng, hãy lấp
mọi hố sâu và hãy bạt mọi núi đồi; con đường cong queo hãy làm cho ngay thẳng,
con đường gồ ghề hãy san cho bằng. Và mọi người sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên
Chúa".
Không cần phải nói nhiều hay giải thích nhiều. Chuyện hết sức
đơn giản là để đi từ điểm này đến điểm nọ, chúng ta cần có một con đường thẳng
để mà đi. Nếu gặp hố sâu, nếu gặp núi đồi và gặp đường quanh co thì không thể
nào ta đi được.
Hôm nay, Gioan cũng mời gọi chúng ta là chúng ta cũng phải sửa
con đường nhà chúng ta để Chúa đến. Gioan không muốn nhắm đến con đường đi
nhưng Gioan muốn nhắm đến cõi lòng, nhắm đến tâm hồn của chúng ta.
Nếu như cõi lòng chúng ta còn qúa nhiều đố kỵ, hờn ghe, kiêu
căng, thù oán … e rằng Chúa hay nói khác đi là Đấng Cứu Độ không thể nào đến
với chúng ta được.
Với lời mời gọi của Gioan, trong tâm tình chờ Chúa đến, mỗi
người chúng ta hãy đặt mình trước mặt Chúa và xin Chúa thương giúp chúng ta
nhìn ra con người thật của chúng ta và xin Chúa cũng thương chữa lành mọi vết
thương trong tâm hồn chúng ta. Để có thể đến lúc Chúa đến với chúng ta, chúng
ta có một tâm hồn ngay thẳng, có một tấm lòng sạch trong để mời Chúa đến vào
trong tâm hồn chúng ta.
30. Tiếng kêu trong hoang địa – AM Trần Bình An
Vua Hêrôđê không thể làm điều gì có thể khiến ông được thần dân
Giuđê yêu mến, ngay cả việc chi tiền không tiếc cho công trình xây Đền Thờ.
Người ta không bao giờ quên ông là người gốc Êđôm. Nếu ông là một người Giuđa
về mặt tôn giáo, đã xây lại Đên thờ Giêrusalem, thì điều đó cũng không ngăn ông
xây dựng các đền thờ cho các thần ngoại giáo khắp nơi. Trên hết, việc ông tiêu
diệt dòng dõi Hasmonaean là điều không thể tha thứ được.
Trên thực tế, hành động thẳng tay này đã không chấm dứt được
những bất ổn trong hoàng gia. Có sự xích mích giữa họ hàng bên ngoại với những
người vợ của ông, và giữa những người con của các bà vợ. Hai người con của ông
và Mariamne, là Alexander và Aristobulus, được dưỡng dục tại La Mã, và được
chọn làm thừa kế. Chúng vốn thuộc dòng dõi Hasmonaean (họ mẹ) nên được dân
Giuđa chấp nhận. Nhưng sự ưu ái đó làm những anh em khác mẹ ghen tỵ, đặc biệt
là Antipater, con cả của Hêrôđê, đã quyết tâm gieo cho cha mình ý tưởng chống
lại họ. Cuối cùng, năm 7 TCN, họ bị khép vào tội âm mưu chống lại cha và bị xử
tử. Antipater cũng chẳng lợi lộc gì từ cái chết của hai em. Ba năm sau ông cũng
là nạn nhân của sự nghi ngờ của vua cha, và đã bị xử từ, chỉ vài ngày trước khi
Hêrôđê băng hà, năm 4 TCN.
Bản chất đa nghi của Hêrôđê được minh chứng bằng chuyến thăm
viếng của ba vua, và các hài nhi Bêlem bị giết hại. Bất cứ tin đồn nào về sự
dấy lên của một vị vua dân Giuđa cũng làm ông sợ hãi tột cùng. Sự nghi ngờ này
đã lên đến mức điên cuồng. Hậu quả là Hêrôđê được nhớ đến qua cơn cuồng sát hài
nhi, hơn là vì khả năng cai trị. (Flavius Josephus, Ant, A.H.M. Jones, The
Herods of Judea)
Trước bối cảnh lịch sử máu me ghê tởm, tràn đầy những âm mưu,
thù hận, nghi kỵ, hãm hại, giết chóc, từ nội tình lãnh đạo đế quốc La Mã đến
hoàng gia chư hầu Giuđa, Israel, thì ngôn sứ Gioan Tiền Hô xuất hiện như một
niềm hy vọng giải phóng dân Israel khỏi lầm than.
Trong khi quyền lực thế gian tập trung trong tay các hoàng tộc
kiêu căng, độc đoán, gian manh, ác độc thì lịch trình Cứu Độ của Thiên Chúa lại
khởi sự từ sự khiêm nhường, nhân ái, tràn đầy tình yêu.
Chúa nói trong nơi thinh lặng
Chính trong hoang địa, chứ không phải tại đền đài cao sang, ồn
ào, nguy nga, tráng lệ, Thiên Chúa phán dạy, trao sứ vụ cho ông Gioan, vốn là
con của hai người công chính, thầy tư tế Dacaria và bà Êlisabet. Chúa gần gũi
thân mật với người thành tâm nơi cô tịch. Ngài không khoe khoang, không quảng
cáo, không tiếp thị nơi phồn hoa, đô hội. Chúa luôn ẩn dấu trong mọi sự, dưới
nhiều sự kiện, trong mọi biến cố, mà chỉ thổ lộ tâm tình trong cô liêu, tĩnh
lặng.
Ông Gioan theo gương Chúa, cũng đi rao giảng trong hoang địa,
cũng chẳng chọn nơi phố xá đông đúc, thị tứ xô bồ, náo nhiệt, ô nhiễm, ồn ào.
Thế nhưng, bấy giờ người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng
ven sông Giô đan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong
sông Giô đan. (Mt 3, 5)
Do vậy, sẽ thất vọng khi tìm nghe tiếng Chúa nói với mình trên
làn sóng radio, TV, trên báo chí, truyền thông, hoặc trên internet. Tất cả
những phương tiện đó, nếu có, chỉ là tiếng vang vọng của Chúa. Bởi vì Chúa chỉ
nói muốn chuyện tay đôi trong thinh lặng, tĩnh mịch, khi chúng ta giũ bỏ được
mọi lo toan, đam mê, hay dục vọng thấp hèn.
Chúa nói cho tâm hồn khiêm nhu
Phần đầu bài Tin Mừng hôm nay có hai ý nghĩa. Trước hết ý nghĩa
lịch sử về thời điểm Chúa Giêsu đến thế gian. Ý nghĩa thứ hai, chương trình cứu
chuộc của Chúa hoàn toàn trái ngược với khuynh hướng thế gian. Không cần uy
lực, không cần vinh quang phù du, không cần bá quyền, lẫn vương quyền. Ngài chỉ
dùng đến con người tầm thường, nhỏ bé, khiêm hạ, nhân ái, để loan truyền Ơn Cứu
Độ.
Vì thế, Chúa phán truyền sứ vụ cho ông Gioan Tiền Hô, khiêm tốn,
ẩn dật trong hoang địa, ăn mặc xuềnh xoàng thô thiển, không khoác áo da thú đắt
điền, như quý bà giàu sang bây giờ, không ăn ngon thỏa thuê, thừa mứa như các
đại gia, thừa bạc lắm tiền, mà chỉ chay tịnh chấu chấu và mật ong rừng.
Chúa kêu gọi cải tà quy chánh
Khi nêu ra các hoàng gia đương thời, qua trích đoạn Tin Mừng hôm
nay, Lời Chúa muốn nhắc nhở chúng ta, đừng bắt chước, học đòi những thủ đoạn dã
tâm của họ, để củng cố địa vị, để hưởng giàu sang phú quý, mà chà đạp, hay hãm
hại người khác.
Trái lại, phải dọn đường cho thẳng, công tâm, chánh trực, phải
lấp đầy thung lũng ham muốn, tham lam chức tước, của cải, tiện nghi, phải bạt
cho thấp núi đồi kiêu căng, cao ngạo, tự phụ, tự cao, tự đại, phải uốn cho ngay
khúc quanh co gian tà, lưu manh, dối trá, phải san cho phẳng đường lồi lõm, đam
mê, hưởng lạc thú vui xác thịt…, mới có thể nhận ra Chúa đang đến, mà hưởng được
Ơn Cứu Độ.
“Canh tân không phải chỉ đổi nước mã bên ngoài, đổi một số nghi
thức cho ngoạn mục…Thánh Phaolô nói rõ: Hãy cởi con người cũ, mặc lấy người
mới, là Chúa Giêsu.” (Đường Hy Vọng, 635)
Lạy Chúa Giêsu, hãy cho con thoát ra khỏi tiếng ồn ào, huyên náo
danh lợi, cám dỗ xác thịt, để nghe được tiếng Thánh Gioan Tiền Hô kêu gọi canh
tân đổi mới.
Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết ăn năn, sám hối, cũng như khiêm
nhường, vâng phục và phó thác noi gương Mẹ, để có thể đón mừng Chúa đến. Amen.
31. Gioan Tẩy Giả rao giảng – Lm. PX
Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Giai đoạn đầu của công cuộc rao giảng của Đức Giêsu được khoanh
vùng rõ ràng. Giai đoạn này gồm một loạt các dấu chỉ loan báo và một khối tường
thuật các việc Đức Giêsu làm và các lời Người nói tại Galilê. Kể từ 9,51, Đức
Giêsu mới đi ngang qua Samari mà tiến lên Giêrusalem.
Tác giả Luca đưa Đức Giêsu đi vào lịch sử dưới dấu chỉ là hoàn
cảnh chính trị và tôn giáo của đế quốc Rôma và của Israel. Qua cái cổng này,
ngài lấy lại cái chặng của Tin Mừng Máccô: Gioan Tẩy Giả (3,1-20), phép Rửa và
việc Thánh Thần ngự xuống (3,21-22), Cám dỗ (4,1-13). Giữa phép Rửa và Cám dỗ,
ngài ghép gia phả của Đức Giêsu vào (3,23-28).
Đoạn 3,1-6 là phần mở chính thức củaTin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (3,1-2a);
2) Hoạt động của Gioan Tẩy Giả (3,2b-3);
3) Lời bình của tác giả theo Is40,3-5 (3,4-6).
3.- Vài điểm chú giải
- Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô (1):
Hai câu đầu của đoạn văn khiến ta vừa nhớ đến các lời tựa của các sử gia Hy Lạp
(Thucydide, Polybe …) vừa nhớ đến mở đầu sách Giêrêmia(1,1-2 LXX). Điều này gợi
ý là tác giả Lc có ý viết trong tư cách sử gia, và cũng gợi lên ý nghĩa thánh
thiêng của biến cố ngài khám phá ra nơi biến cố ông tường thuật. Ngài nêu lên
nhiều điểm quy chiếu liên kết biến cố này với lịch sử thời ngài: khi lần lượt
kể ra hoàng đế Rôma, tổng trấn của hoàng đế, ba tiểu vương và hai thượng
tế,ngài nêu bật tính long trọng đặc biệt của sự kiện.
Là chúa tể thế giới thời đó, hoàng đế Tibêriô kế vị hoàng đế
Augúttô ngày 19-8-14 kỷ nguyên chúng ta (năm 767 của Rôma). Vậy “năm thứ mười
lăm” có thể chạy từ 19-8-28 đến 18-8-29. Nhưng đa số các nhà phê bình hiện nay
cho rằng tác giả Lc tính các năm trị vì của hoàng đế theo kiểu người Xyri, mà
với họ, năm dân sự bắt đầu vào ngày 1-10. Như thế, họ xác định năm đầu của
triều Tibêriô đi từ 19-8 đến 30-9-14, còn năm thứ mười lăm thì đi từ ngày
1-10-27 đến 30-9-28. Khoảng thời gian này phù hợp với thời gian được ghi trong
Ga 2,20 là câu đặt lễ Vượt Qua đầu tiên thuộc sứ vụ của Đức Giêsu vào mùa xuân
năm 28.
- Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giuđê (1):
Ông này làm tổng trấn Giuđê từ năm 26 đến năm 36. Các tác giả Do Thái nhận định
ông là con người “không khoan nhượng và tàn nhẫn” (đây là câu vua Hêrôđê
Ácríppa I viết trong thư gửi cho hoàng đế Caligula, được Philon ghi lại,
Legatio ad Caium, 38); còn các Tin Mừng thì vĩnh viễn nối kết ông với cuộc xử
án Đức Giêsu (Tacite cũng làm như thếtrong các Annales, III, 15,44). Ông cai
trị miền Giuđê, Bắc Samari và Nam Iđumê.
- Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê (1):
Ông là con của Hêrôđê đại đế, có tên là Antipa, đã được làm tiểu vương cai trị
miền Galilê và Pêrê sau khi vua cha qua đời, vào năm 4 tr CG. Ông chỉ lấy tên
Hêrôđê sau khi đã hạ bệ anh là Áckhêlao vào năm 6 CN. Ông xuất hiện nhiều lần
trong các Tin Mừng: như là ngườiđã giết Gioan Tẩy Giả (Mt 14,3-12; Mc 6,17-29;
x. Lc3,19-20), rồi như là đối thủ của Đức Giêsu (Mc 6,14-16; Lc13,31-32;
23,6-12). Cuối cùng ông sẽ bị hoàng đế Caligula đưa đi lưu đày bên xứ Gôn, vào
năm 39, sau khi bị cháu là Hêrôđê Ácríppa I tố cáo.
- Philípphê làm tiểu vương miên Iturê và Trakhonít: Ông
là người con khôn ngoan nhất trong số tất cả các con của Hêrôđê đại đế. Triều
đại bình an của ông kéo dài từ năm 4 tCN đến khi ông chết vào năm 34 CN. Thật
ra ông cai trị tất cả vùng đông bắc hồ Tibêriát (miền Gaulanít, Batanêa,
Trakhonít, Auranít và vùng Panêa, nơi ông đã xây dựng kinh đô với tên Xêdarê
Philípphê: x. Mt 16,13; Mc 8,27). Tác giả Lc cố tình kể tên những miền đất ít có
người Do Thái nhất, tức là tượng trưng cho lãnh địa ngoại giáo.
- Lyxania làm tiểu vương miền Abilên: Chỉ
có một Lyxania, vua dân Iturê ở Khanxi, bị đại tướng Antôniô giết vào năm 36
tCN để trừng phạt ông đã liên minh với người Pácti. Vị tiểu vương mờ nhạt này
với miền đất xa lạ với Paléttina được tác giả Lc nhắc đến có lẽ do những lý do
sau: 1) Lc thích các cấu trúc song đối và danh hiệu “tiểu vương” (tetrarchês,
trongđó có tetras, “ngày thứ tư trong tháng”) hẳn đã gợi ý cho ông giới thiệu
ra ở đây bốn miền đất lân cận; 2) Lý do lịch sử: vào lúc TM Lc được viết, tức
năm 80-85, lãnh thổ của Lyxania đã thuộc về một ông hoàng Do Thái (Hêrôđê
Ácríppa II, trị vì từ năm 53 cho đến cuối thế kỷ, kế vị vua cha là Hêrôđê
Ácríppa I, trị vì từ năm 37 đến năm 44). 3) Nhưng có lẽ lý do chính là lý do
thần học: miền Giuđê của quan Philatô và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của
Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất
Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, Lc
gợi ý là việc loan báo ơn cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật
ra ý hướng này cũng được diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại
giáo và vịthượng tế của Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này.
- Khanan và Caipha làm thượng tế (2):
Công thức này gây ngạc nhiên do chỗ gán danh hiệu thượng tế cho hai nhân vật,
có tên tuổi rõ ràng, mà trong thực tế chức vụ này chỉ luôn luôn được thực thi
bởi một người mà thôi. Ở đây, tác giả Lc muốn nói lên một hoàn cảnh có thật.
Khanan đã được Quiriniô đặt làm thượng tế vào năm 6 CN, và chín năm sau, vào
năm 15, bị Valerius Gratus truất phế. Nhưng do chỗ các tổng trấn Rôma cho năm
con trai và con rể Caipha của ông kế vị, ta hiểu ông vẫn có một uy tín đặc biệt
nơi giới tư tế và dân chúng. Dường như chính ông mới là người lãnh đạo cộng
đồng Do Thái dưới các đời thượng tế sau ông. Các tác giả Tân Ước gán cho ông
một vai trò quan trọng trong việc thẩm cứu vụ án Đức Giêsu (Ga 18,13-24).
Caipha là thượng tế từ năm 18 đến năm 36. Vai trò của ông trong
cuộc xét xử Đức Giêsu đã được Mátthêu (26,3.57.63-65) và Gioan (11,49;
18,24-28) ghi lại. Trong vụ án này cũng như trong mọi sinh hoạt của ông, hẳn là
ông làm việc hài hòa với và dưới ảnh hưởng của nhạc phụ.
- Công bố một phép rửa sám hối hướng tới ơn tha tội (3):
Lời công bố này nối dài lời rao giảng của các ngôn sứ Cựu Ước: y như vị Tẩy
Giả, các ngôn sứ đã kêu gọi dân Thiên Chúa“trở lại” với Đức Chúa của mình bằng
cách đoạn tuyệt với tội lỗi. Nét mới mẻ đầu tiên của Gioan là đóng ấn sự hoán
cải này bằng một phép rửa. Nhưng ông còn thêm vào một nét mới thứ hai: ông chỉ
ban phép rửa này một lần mà thôi, bởi vì Cuộc Phán Xét đang đến gần
(Lc3,7-9.17); chỉ còn chỗ cho một cuộc hoán cải duy nhất mà thôi để được ơn cứu
độ (x. Gr 31,31; Ed 36,25). Phép rửa của Gioan không phải là phép rửa Kitô giáo
có khả năng xóa tội (Cv 2,38; 22,16): “Đấng mạnh thế hơn … sẽ làm phép rửa
trong Thánh Thần và lửa”(3,16). Vai trò chính yếu của Gioan là “bảo cho dân
Chúa biết rằng Chúa sẽ tha thứ mọi tội khiên” (1,77). Do đó dịch “hướng tới ơn
tha tội” thì tốt hơn là dịch “để được ơn tha tội”.
- như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia (4):
So với các tác giả Tin Mừng khác, Lc nối dài bản văn trích để nêu bật những yếu
tố ngài coi là quan trọng. Trước tiên là Is 40,3 (x. Lc 3,5) giúp Lc nhắc lại
mối quan tâm của ngài đối với việc đề cao những người nghèo hèn và hạ thấp
những kẻ kiêu căng (Lc 1,52; 14,11; 18,14). Nhưng nhất là Is 40,5 (Lc 3,6) mới
là mối quan tâm chính của ngài: loan báo ơn cứu độThiên Chúa muốn ban cho “mọi
xác phàm”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Sau hai chương tác giả Lc dành cho cuộc chào đời và thời tơ ấu
của Đức Giêsu, hai chương dầy đặc những quy chiếu về Cựu Ước, nay độc giả gặp
lại Gioan Tẩy Giả ra đi thi hành sứ mạng.
- Hoàn cảnh chính trị và tôn giáo (1-2a)
Chương 3 bắt đầu bằng một cái nhìn chăm chú vào lịch quốc tế,
quốc gia và địa phương. Năm của triều đại hoàng đế, của quyền lực dân sự và
quyền lực tôn giáo được nêu ra. Với khởi đầu long trọng này, độc giả được lưu ý
là các biến cố được kể ra ở đây, tuy có màu sắc hoàn cảnh địa phương, đặt bên
cạnh biên cương đế quốc, thật ra có một sắc thái vũ hoàn. Chi tiết quy chiếu về
hai tên Thượng Tế có hàm ẩn một chút châm biếm tế nhị: trên ngai là Caipha,
nhưng người vẫn điều khiển là Khanan, cha vợ ông.
Sau phần dẫn nhập lịch sử, tác giả Lc dùng giọng văn long trọng
để giới thiệu Gioan: “Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
trong hoang địa” (c. 2b). Bản văn giới thiệu ơn gọi ngôn sứ của Gioan Tẩy Giả.
Nhưng do giọng long trọng, ta cảm được là bản văn này muốn đi xa hơn vị Tẩy
Giả. Bên kia vị Tiền Hô, tác giả loan báo Đức Giêsu và đặt Người vào giữa lòng
lịch sử nhân loại. Chúng ta khẳng định được như thế nhờ một số những nhận xét:
1) Thật đáng ngạc nhiên là tác giả đã dành nhiều quy chiếu về lịch sử như thế
để mở đầu hoạt động của Gioan, mà lại không nói gì để định vị cho hoạt động của
Đức Giêsu (3,21), mà chắc chắn Đức Giêsu mới là nhân vật trọng yếu. Ta giải
thích được sự bất thường này khi nhớ rằng ngay từ đầu Tin Mừng, tác giả đã bàn về
Gioan và Đức Giêsu song song và liên đới với nhau. 2) Việc liệt kê ra hoàng đế,
tổng trấn và các tiểu vương chỉ thật sự cần thiết nếu hướng về cuộc xuất hiện
của Đức vua Giêsu. 3) Tác giả Lc trích sấm ngôn Is 40 như các tác giả Tin Mừng
khác để đưa lại ý nghĩa cho sứ mạng của Gioan. Nhưng khi kéo dài câu trích cho
tới tận lời loan báo sự tỏhiện của ơn cứu độ của Thiên Chúa, ngài cho thấy rằng
trước tiên ngài nghĩ tới cuộc xuất hiện của Đức Giêsu.
Ở đây khi nêu tên vị chúa tể ngoại giáo của thế giới, cũng như
vào dịp Đức Giêsu giáng sinh, khi nhắc đến hoàng đế Âugúttô (2,1), tác giả Lc
giữ thói quen đặt vương quốc trần gian đối diện với Vương quốc của Thiên Chúa
đã đến nơi Đức Giêsu.
Còn lý do chính là lý do thần học: Miền Giuđê của quan Philatô
và miền Galilê của vua Hêrôđê là đất của Dân Thiên Chúa, còn các miền đất của
các tiểu vương Philípphê và Lyxania là đất Dân ngoại. Khi nêu ra bốn lãnh địa
này vào khởi đầu Tin Mừng của Đức Giêsu, tác giả Lc gợi ý là việc loan báo ơn
cứu độ liên hệ đến người Do Thái lẫn Dân ngoại. Thật ra ý hướng này cũng được
diễn tả ra trong việc nhắc đến song đối hoàng đế ngoại giáo và vị thượng tế của
Dân Thiên Chúa, ở đầu và cuối danh sách này. Còn khi nhắc đến cả Khanan lẫn
Caipha, tác giả Lc cho hiểu rằng thực quyền nằm nơi thượng tế đã bi truất phế.
- Hoạt động của Gioan Tẩy Giả(2b-3)
Giọng văn của c. 2b rất cổ, như kiểu giới thiệu một ngôn sứ thời
Cựu Ước. Có lẽ tác giả Lc đã cảm hứng từ Cựu Ước và đặc biệt từ ơn gọi của các
ngôn sứ (x. Is 1,1; Gr 1,1-3; Hs 1,1; Ed 1,2). Gr 1,1 LXX). Như thế,với việc
Gioan Tẩy Giả ra làm việc, tác giả cho thấy đã xuất hiện một ngôn sứ, vị đầu
tiên sau một thời gian thinh lặng gần năm thế kỷ (Tv74,9; l Mcb 4,46; 9,27;
14,41). Ơn gọi của vị Tẩy Giả được thể hiện trong hoang địa, là nơi ông đã sống
thời trai trẻ “cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en”(1,80). Nhiều dấu chỉ cho thấy
là ông có quan hệ với phái tư tế ở Qumrân: ông thuộc dòng dõi tư tế, ông sống
trong hoang địa, ông đi rao giảng một phép rửa và cả bốn Tin Mừng đều xác định
sứ mạng của ông khởi đi từ lời sấm Is40,3 mà Luật Qumrân dùng đề diễn tả lý
tưởng của họ (1 QS 8,14). Cho dù thế nào, kể từ nay Thiên Chúa kêu gọi ông thực
hiện một sứ mạng của riêng ông.
Theo Mt (3,1-6) và Mc (1,4-5) la hai bản văn theo sát bản Is
40,3, Gioan rao giảng trong hoang địa và làm phép rửa tại sông Giođan ở bìa sa
mạc; hoang địa là nơi thử thách và cũng là nơi gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa.
Các đoàn người đã từ Giêrusalem và miền Giuđê kéo đến với ông (Mc1,5; x. Mt
3,5). Không như tác giả Mc còn nói đến lối sống khắc khổ của Gioan, tác giả TM
III cho thấy tức khắc hoạt động của vị Tiền Hô: Gioan rời hoang địa để rao
giảng khắp vùng sông Giođan như là lãnh địa riêng của ông. Rất có thể tác giả
Lc đã nghĩ rằng phép rửa ban trong hoang địa có thể khiến các độc giả ngạc
nhiên, vì họ không biết địa lý của xứ Paléttina. Trong thực tế, hai bờ sông
Giođan là vùng hoang địa. Ông đã kêu gọi dân chúng đến nhạn phép rửa để bày tỏ
lòng sám hối, hầu có thể nhận lấy ơn cứuđộ mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trong sứ
vụ Vượt Qua (Lc 24,47; Cv3,19; 5,31; 10,43; 13,38; 26,18). Như trong Cựu Ước,
điều quan trọng hơn là lời của vị ngôn sứ (cũng là Lời Thiên Chúa), tác giả Lc
cho thấy Gioan đi rao giảng sứ điệp ông đã nhận. Lời rao giảng của ông có những
cử chỉ kèm theo, đây là phép rửa. Nhưng cử chỉ này vừa thuộc về vị Tẩy Giả vừa
thuộc về hối nhân. Như thế, tác giả nêu bật rằng lời rao giảng mang tính ngôn
sứ của Gioan đưa đến một hành vi biểu tượng chất chứa sự thống được gợi lên bởi
lời và giúp hoán cải.
- Lời bình của tác giả theo Is 40,3-5 (4-6)
Như các tác giả Tin Mừng khác (Mt 3,3; Mc 1,3; Ga 1,23), tác giả
Lc xác định ý nghĩa của sứ vụ Gioan đảm nhận khởi đi từ sấm ngôn Is 40 (cc.
3-5). Nhưng ngài đặt lời sấm này vào cuối phần giới thiệu Gioan, để dẫn độc giả
đi từ biến cố lịch sử đến lời giải thích biến cố trong khung cảnh lịch sử cứu
độ. Và ngài nối dài câu trích để nêu bật các yếu tố ông coi là quan trọng.
TM Lc đã bỏ đi lời loan báo mở đầu của Is40,5: “Bấy giờ vinh
quang Đức Chúa sẽ tỏ hiện”. Đối với ngài, trách nhiệm của vị Tẩy Giả không phải
là loan báo vinh quang này, vì vinh quang này chỉ được tỏhiện vào cuộc Vượt Qua
bởi Đức Giêsu thôi. Ngài nói ngay đến đích điểm của sấm ngôn, cũng là đỉnh điểm
của sứ điệp của Gioan: loan báo ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đây mới là nhiệm vụ
của Gioan (Lc1,77). Lc ưa thích nhấn mạnh trên đềtài “ơn cứu độ”: Cụ Simêôn (Lc
2,30); Phaolô (Cv 28,26); ngài là tác giả nhất lãm duy nhất gọi Thiên Chúa và
Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ (Lc 1,47) và nói đến ơn cứu độ nơi Đức Giêsu
(Lc1,69.71.77; 19,9).
Có lẽ lý do chính đã thúc tác giả kéo câu trích Is đến tận c. 5
là vì câu này có công thức Kinh Thánh “mọi xác phàm”. Hẳn là ngài thấy từ này
là một lời loan báo kín đáo ơn cứu độ được cống hiến cho tất cả mọi người.
Thuật ngữ mơ hồnày đáp lại ý muốn của ngài là ghi dấu các chặng trong việc mạc
khải tính phổ quát của Đức Giêsu, là đặc tính đã được cụ Simêôn công bố (Lc
2,30-32): không phải là Gioan có nhiệm vụ loan báo rõ ràng ơn cứu độ Dân ngoại,
nhưng là Đức Giêsu.
+ Kết luận
Bản văn đã đặt hoạt động của Vị Tiền Hô trong khung cảnh lịch sử
của nó. Thời gian của hoạt động này không còn được quy định theo triều đại của
một vị vua Giuđa hay Israel, như đối với các ngôn sứ ngày xưa (x. Is 1,1; Ge
1,2; Ed 1,2; Hs 1,1; Am 1,1; Mk 1,1; Xp 1,1), mà là theo triều đại của Vị Chúa
tể thế giới, của hoàng đế Xêda Rôma. Như thế, ngay khi được loan báo, Tin Mừng
đã mang tính phổ quát.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Cũng như ơn gọi của Gioan Tẩy Giả, ơn gọi của chúng ta được
Thiên Chúa ban cho chúng ta vào thời đại của chúng ta. Do đó, chúng ta phải
sống “trong ngày hôm nay của Thiên Chúa” (Dt 4,7); đối với chúng ta, thời đại
chúng ta đang sống là thời đại thuận tiện duy nhất giúp phát triển tư cách Kitô
hữu của chúng ta. Cũng như Gioan Tẩy Giả, Thiên Chúa gọi chúng ta khởi đi từ
một khung cảnh đang quy định tất cả phong thái và cuộc sống chúng ta: giống
nòi, gia đình, xứ sở, khí hậu. Cách thức duy nhất để đáp trả ơn gọi chúng ta
với cùng một lòng trung thành như Gioan Tẩy Giả, đó là chấp nhận dứt khoát thời
đại và môi trường chúng ta, để làm nơi phục vụ Lời Chúa, làm khung cảnh cho
cách thức ứng xử Kitô hữu theo gương Đức Kitô.
2. Theo quan điểm của Thiên Chúa, điều quan trọng không phải là
những cuộc chinh phục ngoạn mục của các hoàng đế Rôma hay các mánh khoé của
tiểu vương Hêrôđê, mà điều quan trọng là Lời của Thiên Chúa phải được ngỏ với
Gioan, con Dacaria. Trong bình diện thiêng liêng, bình diện duy nhất hệ trọng
đối với cuộc sống con người, các dáng vẻ bề ngoài hùng mạnh và vinh quang chẳng
là gì cả. Bởi vì Thiên Chúa thực hiện những dự phóng lớn của Ngài trên thế giới
bằng cách dùng những cái yếu đuối và nhỏ bé theo thế gian. Đối với chúng ta
cũng thế, dù chúng ta có nhỏ bé, giới hạn đến đâu, Thiên Chúa vẫn có thể dùng
chúng ta mà thay đổi bộ mặt thế giới, nếu chúng ta nghe tiếng Ngài kêu gọi và
hoán cải mỗi ngày.
3. Trong sa mạc cuộc đời chúng ta hôm nay, Lời Chúa đang vang
lên trên chúng ta nhờ lời rao giảng, khi chúng ta đi dự thánh lễ. Khi đó, chúng
ta không chỉ gặp gỡ các anh chị em trong cùng giáo xứ, mà là gặp gỡ tất cả các
tín hữu trên thế giới, mặc cho họ theo thể chế nào, nghi thức nào … Chúng ta
được mời gọi điều chỉnh các nẻo đường quanh co của lòng ta: tức là hãy để ý đến
ý hướng và cách tiến hành ngay thẳng; hãy kiên vững bước đi theo con đường
thẳng của bổn phận, không ngẫu hứng, không thối lui; hãy lấp đầy các thung lũng
của lòng ta, nếu chúng còn thiếu quảng đại và lý tưởng Kitô hữu. Hãy san bằng
các đồi núi kiêu ngạo. Hãy dũa bớt những sù sì của tính tình chúng ta và chấm
dứt những chia rẽ.
4. Gioan Tẩy Giả có thể được mệnh danh là “Nhà rao giảng của Mùa
Vọng”. Mỗi năm, Phụng vụlại giới thiệu sứ điệp của ngài cho chúng ta. Cũng như
ngài đã chuẩn bị cho dân Israel đón tiếp Đấng Mêsia ngự đến, ngài cũng có thể
chỉ cho chúng ta cách thức chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh. Lời lẽ của ngài đôi khi
rất mạnh. Nhưng thế giới hôm nay cần những con người giống vị Tẩy Giả, để nhắc
cho chúng ta nhớ lại tầm mức hệ trọng của đời sống trần gian,để tố giác sự dữ,
và để đứng thẳng trước các kẻ quyền thế khi họ xử sự bất công.
5. Thiên Chúa muốn ban ơn cứu độ cho “mọi xác phàm”. Chúng ta
nên nghĩ đến đoàn người bao la chưa biết Đức Kitô. Hãy cầu nguyện cho họ và xin
Thiên Chúa ban cho nhiều ơn gọi truyền giáo. Chúng ta cũng hãy trở thành các
nhà thừa sai theo gương vị Tiền Hô, ít ra bằng việc cầu nguyện và chu toàn
trung thành nhiệm vụ cá nhân, tại nơi Chúa Quan phòng đặt để chúng ta.
32. Chú giải của Noel Quesson
Năm thứ mười lăm dưới triều hoàng đế Tibêriô
Luca muốn loan báo tác vụ của Gioan Tẩy Giả, người dấn thân khai
mở cho tác vụ của Đức Giêsu. Đây là sự can thiệp rõ ràng của Thiên Chúa trong
lịch sử. Hành động của Thiên Chúa không "ở bên ngoài” thế gian, trên mây
gió, nhưng hành động này diễn ra, một cách ẩn kín bên trong những biến cố thế
tục. Một "lịch sử Thánh" phát triển giữa những biến cố thế giới. Như
Luca chúng ta có tin rằng, Thiên Chúa "nói" và "hành động"
trong những biến cố của chúng ta, trong hiện tình kinh tế chính trị, xã hội và
văn hóa ngày nay không?
Luca kỹ lưỡng nói với chúng ta rằng, Đức Giêsu đã sinh ra dưới
thời Hoàng đế Xê-da Au-gút-tô (Lc 2,1). Bây giờ ông lại nói với chúng ta, Chúa
bắt đầu tác vụ, như một người trưởng thành, vào năm 15 Triều Đại Tibêriô, nghĩa
là khoảng năm 28 hay 29.
Đức Giêsu, một người Do Thái thấp cổ bé miệng, vô danh tiểu tốt
đang đối diện với Hoàng đế đầy uy quyền của Rôma! Đối diện với kẻ đang bá chủ
thế giới! Đế quốc của Tibêriô bắt đầu từ bờ Bắc Hải đến cùng tận Địa Trung Hải,
hiện nay được 15 quốc gia vây quanh nhưng lúc bấy giờ như một biển hồ của Rôma.
Tất cả những gì Luca bàn đến đâu minh chứng cho chúng ta thấy, "Tin
Mừng", phát xuất từ Giêrusalem, sẽ đến tận Rôma: Ở đó, sẽ kết thúc “Công
vụ Tông Đồ" (29,16-31). Trong lúc này, ta mới chỉ gợi lên tầm lớn rộng của
chương trình Thiên Chúa: Đức Giêsu... Hoàng đế Tibêriô.
Thời Phongxiô Philatô làm tổng trấn miền Giu-đê
Cùng với Đức Maria, ông Phongxiô Philatô, là người duy nhất có
chỗ đứng trong kinh Tin Kính của chúng ta: “Đức Giêsu, sinh bởi đức Nữ Đồng
Trinh Maria đã chịu khổ hình và mai táng thời Phongxiô Philatô... Phongxiô
Philatô, tổng trấn Rôma tại Giêrusalem giữa năm 26 và 36, là con người
"cứng rắn và không xót thương", theo người lân cận của ông là Hêrôđê
Ác-ríp-pa I đã nói. Ong bị Rôma cất chức vì đã sát hại hàng ngàn người Samari
tụ họp trên núi Garizim. Các sử gia thới đó (Plavius Josèphe và Philon) mô tả
ông như người cai trị xứ sở của mình bằng tham nhũng, khủng bố, cướp bóc do
chính cảnh sát của mình tra tấn và hành quyết.
Ngày nay, chúng ta thường than phiền về những khó khăn của thời
đại chúng ta: Thế mà Đức Giêsu đã sống trong một miền đất bị kẻ thù chiếm đóng
và đàn áp không chút nương tay thế đó!
Hêrôđê làm tiểu vương miền Galilê, người em là Philípphê làm
tiểu vương miền Iturê và Trakhônít, Lyxania làm tiểu vương miền Abilên
Đó chỉ là những ông vua chư hầu bù nhìn, và là những người
"hợp tác". Uy quyền thực sự vẩn thuộc Rôma. Luca nhất mạnh đến lãnh
thổ mà Tin Mừng sẽ được phổ biến: ông để ý nêu rõ hai miền có đông dân cư là
"con cái Israel" (Giuđê và Galilê), và hai miền có dân "ngoại
giáo" (Iturê - Trakhonít và Abilên). Đối với Luca, đệ tử của Phaolô thì
đây là một chỉ dẫn "thần học": Sứ điệp của Đức Giêsu không chỉ dành
riêng cho một số người nào đó! Tôi có tự giam mình trong một khu riêng biệt
Kitô giáo nhỏ bé không? Và như vậy tôi đâu còn ở trong luồng khí Tin Mừng nữa.
Khanan và Caipha làm thượng tế
Sau những lãnh tụ chính trị, đây là những lãnh tụ tôn giáo, chịu
trách nhiệm về Do Thái giáo thời bấy giờ, mà vài năm sau Đức Giêsu sẽ gặp lại.
Đó là bối cảnh lịch sử và tôn giáo. Những dữ kiện hoàn toàn
chính xác, đã được các sử gia thời cổ xác nhận. Người ta đã tìm được tại Xêdarê
chỗ ngồi của Philatô trong một nhà hát: Một hàng chữ được khắc ghi vào băng đá
dành cho Tổng trấn ngồi, giữa hí trường hình tròn.
Có lời Thiên Chúa phán cùng con ông Dacaria là ông Gioan
Không phải những chức sắc nêu trên sẽ làm nên lịch sử thực sự:
mà là một "phát ngôn viên", một "ngôn sứ", Gioan Tẩy Giả,
vị ngôn sứ cuối cùng, nhân chứng đầu tiên của Đức Giêsu Kitô. Chính từ
"bên trong” những thực tại của con người mà sự thay đổi được thực hiện, nhưng
tất cả những động lực của sự thay đổi đó không thể đến từ sự tôn thờ những ý
thức hệ và những người đang nắm quyền lực, cũng không từ cơ cấu chính trị.
"Chúa lật đổ những người quyền thế xuống khỏi ngai vàng" (Lc 1,52).
Một “lời”, từ nơi khác đến từ Thiên Chúa, sẽ tạo nên sự mới lạ thực sự làm thay
đổi dòng lịch sử - Tôi có để cho Lời Chúa nắm bắt tôi, như Gioan Tẩy giả không?
Trong hoang địa
Đôi khi ta có cảm tưởng về hoang địa như cái gì trống rỗng. Sự
cô tịch khó chịu này không phải là điều ngược đời sao? Xa thế gian quay cuồng,
xa những tiếng ồn ào náo động, để có thể nghe thấy một Lời mầu nhiệm? “Hãy nghe
đây! nghe đây! ngươi chớ có gây tiếng động? gần ngươi, có người đang đi trên
đường, có người đang đến gặp ngươi!". Vậy thì, riêng tôi, tôi đã dành cho
sự cô tịch, tình trạng hoang vắng thế nào trong cuộc sống náo nhiệt của tôi?
Ông liền đi khắp vùng ven sông Giođan
Lời Chúa, phải vận hành. Đó là một chuyển động. Gioan là một nhà
giảng thuyết di động, cũng như Đức Giêsu sắp thể hiện như vậy. Còn chúng ta thì
sao?
Gioan đã rời hoang địa hạnh phúc của ông, nơi ông dùng để chuẩn
bị, để lắng nghe Lời Chúa, để đi gặp các đám đông, để làm việc này, ông chọn
một nơi mà có đủ mọi thứ người qua lại: Chỗ cạn của một dòng sông, nơi mà mọi
người phải ngang qua; lối nhỏ giao lưu cho cả đoàn người; bến Bêthama, trên tả
ngạn sông Giođan, phía đông thành Giêrikhô (Ga 1,28), nơi mà người Anh đã xây
cầu Allenby chỗ duy nhất có thể vượt sông được. Sau khi sống cô tịch, tôi có
tìm cách để tiếp gặp kẻ khác không?
Rao giảng, kêu gọi người ta chịu phép rửa tỏ lòng sám hối
Dựa vào nguyên ngữ Hy Lạp có thể dịch câu trên – như sau:
"Ông kêu gọi người ta dìm mình xuống nước để quay trở lại".
Người phát ngôn của Chúa không phải là một con người nhỏ bé trầm
tĩnh, nhưng đó là một cái "loa phóng thanh" với âm lượng được vặn tối
đa. Chữ Hy Lạp "Kérygme" có nghĩa là "tiếng la", lời “tuyên
bố”. Cuộc sống của tôi có kêu lên điều gì không?
Không thể có ảo tưởng được. Người ta không thể gặp Chúa
"như thế", nghĩa là không biết Ngài, hay không muốn Ngài. Về phía
Chúa, phải "lao mình" vào Ngài! Chữ “batisma" phép rửa, gọi lên
hình ảnh những kiểu tắm rửa theo nghi thức, mà những thành viên cộng đoàn lân
cận Qumran thường thi hành mỗi ngày để thanh tẩy thân thể mọi nhơ bẩn và thôi
thúc tâm hồn họ cũng phải thanh tẩy thiêng liêng: Người ta dìm toàn thân mình
trong hồ bơi hay dòng sông. Hoán cải không phải chỉ lâ một tư tưởng thầm kín,
không thuộc phạm vi trí não, nhưng đó là một bước đi có ý nghĩa, được thể hiện
ra bên ngoài đối với mọi người qua một hành vi công khai theo nghi lễ:
"Tôi muốn thay đổi cuộc sống... và trước mặt các bạn, tôi thực hiện cử chỉ
tượng trưng, biểu hiện sự trở lại của tôi. Tôi dìm xuống nước cuộc sống trước
của tôi, cho nó chết chìm để một sự sống mới phát sinh".
Phép rửa là một tự nguyện dìm chết "con người cũ” để cho
"con người mới" tái sinh (Rm 6,6-7,6 - Ep 4,22 – Cl 3,9). Đó là hình
ảnh thực sự của Bí tích sám hối là phép rửa thứ hai... mà có thể chúng ta muốn
lãnh nhận để cử hành lễ Giáng sinh.
Và hoán cải mà chúng ta đang nói ở đây (metnoia: Sự trở lại) là
một sự quay trở lại với Thiên Chúa. Nếu hoán cải chỉ là một sự thay đổi luân lý
hay xã hội, thì cuộc sống Kitô hữu có lẽ chỉ là một thứ nhân bản như những học
thuyết khác, có khi lại không hoàn hảo bằng chứng học thuyết đó. Nhưng đúng ra
là ta "quay trở lại với Chúa" cùng với những hậu quả luân lý và xã
hội: chống lại tính ích kỷ, bất công, khuynh hướng duy vật thực dụng, sự nô lệ
lạc thú và tiền bạc, nếp sống thiếu trong sạch, tính lười biếng, thái độ chế
ngự kẻ khác, v.v...
Phép rửa tỏ lòng sám hối để được ơn tha tội.
Sự tha thứ? Hành vi của Thiên Chúa luôn luôn tặng ban cho tất cả
mọi người, nhưng chỉ hữu hiệu nếu chúng ta đón nhận sự tha thứ đó cách tự do.
Luật trời phong bao giờ ngừng chiếu sáng, nhưng chúng ta có thể đóng cửa nhà
chúng ta. Hành vi của Thiên Chúa được thể hiện do "thừa tác viên" thi
hành bí tích, nói "nhân danh chính Chúa Kitô" (in persona Christi).
Hành vi tự do của con người được thể hiện qua thái độ hối nhân, đặc biệt qua sự
thú nhận cá nhân hay tập thể.
Mỗi cử hành Thánh Thể cũng giúp chúng ta thông hiệp với Đức
Giêsu trong chính hành vi Người "Tự hiến để tha thứ tội lỗi", trong
hành vi cứu chuộc nhờ thái độ triệt để sẵn sàng và hoàn toàn vâng phục Chúa
Cha: Đó là hành vi Ngài hoàn toàn và triệt để "hướng về" Thiên Chúa.
Như có lời chép trong sách ngôn sứ Isaia rằng: Có tiếng người hô
trong hoang địa: hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người
đi. Mọi thung lũng, phải lấp cho đầy, mọi núi đồi, phải bạt cho thấp, khúc quanh
co, phải uốn cho ngay, đường lồi lõm, phải san cho phẳng.
Máy ủi to lớn làm sao! Công trường sửa đường vĩ đại làm sao!
Công trình thật là quá sức tưởng tượng! Và chúng ta thì chỉ có "xưng tội
riêng", không đau đớn gì?
Rồi hết mọi người phàm sẽ thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa.
Đây là mục tiêu phổ quát, rất đặc trưng của Luca, người đồng
hành với thánh Phaolô. Công trình của Thiên Chúa không phải là lên án, mà là
"Cứu chuộc". Lịch sử Thánh, lịch sử con người mà trong đó Chúa hành
động, không thể kết thúc không lối thoát. Cho dù chúng ta “hôm nay đang gieo
trong nước mắt, nhưng sẽ gặt trong ca mừng".