CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
28. Video Thánh
Vịnh Nhóm thánh vịnh Nauy
29. Sống bác ái
và làm gương tốt Catholic.org.tw
30. Óc bè phái,
cục bộ Lm.
Carolo Hồ Bạc Xái
37. Mẹ của sự
khám phá Charles
E. Miller
1. Đừng ngăn
cấm
Hai đứa trẻ có thể đánh nhau chí choé khi một đứa dám lôi tên ba
của đứa kia ra giễu cợt. Hình như việc biết tên là một khám phá ra một bí mật
và việc gọi tên có vẻ bất kính là một xúc phạm. Ngày xưa tên của một người
thường mang ý nghĩa như chính con người đó. Vì thế mà Thiên Chúa cấm gọi đến
tên Ngài ở giới răn thứ hai, đồng thời chúng ta cũng thếy được tầm quan trọng
của tên Thiên Chúa như trong kinh Lạy Cha: Nguyện danh Cha cả sáng.
Nếu hiểu như thế chúng ta sẽ không lạ gì khi Chúa Giêsu tuyên
bố: Kẻ nào tiếp đón một kẻ nhỏ vì danh Ta tức là tiếp đón Ta. Kẻ nào tiếp đón
Ta thì không phải là tiếp đón Ta mà là tiếp đón chính Đấng đã sai Ta. Chúa nói
về ân phúc của mọi hành động trong danh Ngài, điều này nhắc cho Gioan việc vừa
xảy ra. Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không
theo Thầy và chúng con đã ngăn cấm. Gioan có một lòng nhiệt thành về danh Chúa
Giêsu, nhưng đồng thời lại kiêu hãnh về địa vị nhóm 12 của mình được sống sát
cạnh Chúa, cũng như ganh tức với những kẻ không cùng nhóm, lạm dụng quyền hạn
của mình. Thế nhưng quan điểm của Chúa Giêsu thì khác, Ngài phán: Đừng ngăn cấm
y, vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền sau đó lại nói xấu
Thầy. Ai không chống đối các con là ủng hộ các con. Thái độ của Gioan là một
thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Thế nhưng chúng ta có thể đặt lại
vấn đề, liệu các môn đệ đã tin vào danh Chúa hay chưa?
Có thể họ đã tuyên xưng, nhưng trong hành động họ lại chối bỏ và
để Chúa Giêsu chịu chết một mình, cô đơn trên thập giá. Chính Chúa Giêsu đã
nhìn những người ngoại giáo và đã khen ngợi lòng tin của họ chẳng hạn người
thiếu phụ Canaan và viên đội trưởng, khi Ngài nói với ông: Ta chưa thấy một
niềm tin như thế trong dân Israel. Như vậy lúc ấy chưa chắc gì các môn đệ đã có
một niềm tin mạnh như những kẻ ngoại. Các môn đệ của Chúa đã nhân danh Chúa mà
làm nhiều phép lạ, còn những người ngoài nhóm cũng nhân danh Chúa mà làm phép
lạ, nhưng thử hỏi họ đã làm vinh danh ai? Phúc Âm thánh Luca ghi lại các môn đệ
trở về kể lại cho Chúa Giêsu: Thưa Thầy, nhân danh Thầy thì cả ma quỷ cũng phải
luỵ phục chúng con. Như thế cái tôi của họ vẫn còn là trung tâm điểm. Họ nhờ
danh Chúa mà tìm vinh quang cho mình.
Ngày hôm nay chính chúng ta cũng phải ngồi lại mà suy nghĩ về
những cái chúng ta chiếm độc quyền: độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc
quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ai, và những hậu quả tai hại từ đó đưa
đến như thế nào? Có phải vì danh Chúa Giêsu hay chỉ vì danh mình, danh giáo xứ
mình mà thôi chăng.
Tiếp đến, Chúa Giêsu nói với các môn đệ: Đừng ngăn cản họ. Lời
nói tuy ngăn nhưng phá vỡ cả một ý thức hệ cuồng tín về tôn giáo, phá vỡ cả một
sự độc quyền về niềm tin để mở rộng cho muôn dân: Ta bảo các người nhiều kẻ từ
phương Đông phương Tây mà đến và dự tiệc cùng Abraham trong Nước Trời, còn
chính con cái thì lại bị đuổi ra bên ngoài. Chúa Giêsu qua đó dạy cho các môn
đệ một cái nhìn mới về ơn cứu độ.
Ngày hôm nay cũng vậy, đôi khi chúng ta thấy người này người nọ
thực sự yêu thương và phục vụ kẻ khác, nhưng họ lại là người vô thần, là người
Phật giáo, thì lập tức chúng ta khựng lại. Chúng ta hãy nhớ lời Chúa: Ai yêu
thương thì ở trong Thiên Chúa. Tại sao chúng ta lại khăng khăng phải ở trong
đạo mới có tình thương. Chắc gì chúng ta những người có đạo lại sống được tốt
lành như họ chưa.
2. Diệt trừ gương xấu – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Gương xấu lây lan nhanh như đại dịch, bùng phát mạnh như cháy
rừng. Nguy cơ lây nhiễm cao đến nỗi người ta thường nói: gần mực ắt phải đen
cũng như gần đèn tất phải sáng. Biết bao nhiêu thói xấu của thế hệ trước ảnh
hưởng đến những thế hệ tiếp theo đang làm cho xã hội chúng ta điêu đứng.
Chúa Giêsu ví tác động của gương xấu ảnh hưởng lên những người
chung quanh y như men trong bột. Chỉ cần một nhúm men nhỏ cũng đủ sức làm dậy
lên cả một thúng bột lớn. Một ít men rượu làm cho cả nồi cơm nên rượu; chút ít
men dấm làm cho cả hũ nước nên dấm chua; men thối thì làm cho lương thực nên
thối; men độc thì làm cho đồ ăn nên độc...
Chúa Giêsu xem thái độ giả dối của những người biệt phái cũng
như tâm địa độc ác của vua Hêrôđê là những thứ men độc hại có thể khiến cho
những người chung quanh bị tiêm nhiễm y như men ảnh hưởng lên bột nên Người
cảnh báo các môn đệ phải đề phòng: "Anh em phải coi chừng men biệt phái và
men Hêrôđê" (Mc 8, 15).
Chính vì gương xấu của người nầy gây ảnh hưởng tai hại lên nhiều
người khác nên Chúa Giêsu kịch liệt bài trừ. Người muốn nhổ bỏ thói xấu tận gốc
rễ, muốn tẩy trừ gương xấu bằng mọi giá.
Trước hết, Người răn đe những người gây ra gương xấu bằng những
lời lẽ thật nghiêm khắc: "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin
đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn
hơn." (Mc 9, 42)
Và Người muốn diệt trừ các duyên cớ gây ra tội lỗi cách rất
quyết liệt: "Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt
một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải
vào lửa không hề tắt. Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà
cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả
ngục. Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc nó đi; thà chột mắt mà được
vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục, nơi giòi
bọ không hề chết và lửa không hề tắt." (Mc 9, 43-48)
Khi phán dạy như thế, Chúa Giêsu không có ý nói là chúng ta phải
huỷ hoại thân mình để loại trừ thói xấu, nhưng Người có ý nói phải diệt trừ
thói xấu cách quyết liệt, bằng bất cứ giá nào.
* * *
Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhổ bỏ tội lỗi và thói xấu là
điều thật khó khăn, vì việc xấu ta vừa dứt bỏ hôm nay, ngày mai lại quay về.
Tẩy trừ thói xấu cũng như xua đuổi một con chó ghẻ trung thành.
Khi con chó trong nhà bị ghẻ lở trông thật ghê tởm và hôi hám, người nhà quyết
xua đuổi nó đi, nhưng lát sau nó cũng quay về. Dù người nhà tiếp tục đánh đập
và xua đuổi nó đi xa... nó cũng lại trở về!
Tẩy trừ thói xấu cũng y như nhổ cỏ cú (một thứ cỏ có nhiều rễ củ
ăn sâu xuống lòng đất, rất khó diệt) trên mảnh đất tốt. Hôm nay nhổ sạch cỏ
rồi, mai gặp một trận mưa to, cỏ lại mọc lên phơi phới.
Như vậy, không lẽ con người đành bó tay trước thói hư tật xấu?
Bệnh nào cũng có thuốc chữa. Sâu nào cũng có thuốc trừ.
Đối với những đám đất nhiều cỏ cú diệt hoài không được, người
nông dân kinh nghiệm có thể diệt hết cỏ bằng cách biến nó thành thửa ruộng lúa
nước. Người ta bơm nước vào đám đất có nhiều cỏ, ngâm nước một thời gian cho cỏ
thối đi, rồi cày và trục chôn cỏ mục xuống bùn. Sau đó, người ta sạ lúa xuống.
Chờ lúa mọc lên chừng mươi phân, người nông dân lại cho nước vào phủ hết mặt
ruộng, rồi bung phân cho lúa bốc lên nhanh; lá lúa vươn ra um tùm che phủ mặt
ruộng khiến cỏ dại không thể nào mọc lên được.
Có người diệt cỏ bằng cách trồng mía. Mía con vừa mới lên liền
được bón thúc phân thật sớm khiến bụi mía phát triển sum suê. Thế là cỏ dại
dưới đất bị chết ngộp vì thiếu ánh sáng.
Thế là nhà nông thắng lớn vì không cần tốn công làm cỏ mà lại
thu hoạch được lúa hoặc mía dồi dào.
Vậy thì một trong những phương pháp kiến hiệu để loại trừ gương
xấu, thói hư là áp dụng phương thức lấy cái tốt đẩy lùi cái xấu: quyết tâm tạo
cho mình những việc làm tốt để đẩy lui những việc làm xấu; tập thói quen tốt để
đẩy lùi thói quen xấu; lấy sách báo lành mạnh thay thế cho sách báo đồi truỵ;
lấy phim giáo dục đẩy lùi phim vô luân; chọn bạn tốt lành thay cho bạn bè xấu
tính...
Hy vọng nhờ đó, cuộc đời chúng ta ngày càng được cải thiện; tâm
hồn chúng ta ngày thêm trong sáng; bản thân chúng ta ngày càng trở nên người có
phẩm chất cao.
3. Hãy yêu như Giêsu – Lm. Giuse Tạ Duy
Tuyền
Có một câu truyện ngụ ngôn của Ấn độ kể rằng: Một hôm thần
Krisna muốn thử lòng các vua trên trần thế.
Trước tiên thần cho gọi Duriana, một ông vua nổi tiếng tàn ác,
đến: "Ta muốn ngươi đi khắp thế giới tìm cho ta một con người có lòng
tốt". Duriana đi khắp thế giới một thời gian rồi trở về tâu: "Lạy
Ngài, con không thể gặp được một người nào như thế cả, vì mọi người đều ích kỷ,
đê hèn".
Thần gọi tiếp một ông vua khác nổi tiếng quảng đại, tên là
Damanatra và ra lệnh ngược lại: "Ngươi hãy đi tìm cho ta một người thực sự
xấu xa". Một thời gian sau, Damanatra trở về buồn bã báo cáo: "Lạy
Ngài, con xin chịu tội, con đã gặp rất nhiều người hẹp hòi, ích kỷ, gian tham,
trộm cắp... nhưng người thực sự xấu xa thì con không gặp. Cho dù có vấp ngã,
mọi người đều có lòng tốt".
Xem ra nhận xét về một con người tùy thuộc vào tình cảm của
người nhận xét nhiều hơn là về bản thân của người được nhận xét. Không ai hoàn
toàn xấu, và cũng không ai hoàn toàn tốt. Vì "nhân vô thập toàn", và
mọi sự trong trời đất đều tương đối. Nhưng đáng tiếc con người lại không nhận
ra. Nhiều người vẫn cho rằng mình không sai lầm. Nhiều người vẫn tưởng rằng
mình không có khuyết điểm. Con người cho mình là trung tâm điểm nên dễ dàng
loại trừ, kết án, tẩy chay những ai khác với mình, hoặc không đồng quan điểm
với mình.
Đó còn là lý do khiến người ta thường hay phân loại để chơi.
Những người cùng sở thích, cùng quan điểm, cùng ý thức hệ thì liên đới với
nhau, ngược lại thi xa lánh, đôi khi lại hiềm thù và đối nghịch với nhau. Khi
yêu nhau người ta dễ cảm thông, tha thứ, nâng đỡ nhau, vì "Yêu nhau củ ấu
cũng tròn - Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa". Khi ghét nhau thì
"Cau sáu bổ ra làm mười". Có khi còn "ghét cả tông ti họ
hàng".
Là người Ky-tô hữu Chúa bảo chúng ta đừng bao giờ có kẻ thù. Hãy
dùng tình yêu mà xóa bỏ hận thù. Hãy yêu kẻ thù của mình vì chính Chúa đã chọn
chết để xin ơn tha thứ cho kẻ tội lỗi lầm lạc. Chúa còn bảo chúng ta nếu không
yêu tha nhân như chính mình thì chúng ta không xứng đáng là môn đệ của Chúa.
Chúa còn mời gọi chúng ta hãy vì Chúa để sống cho thanh sạch, cho công bằng và
yêu mến sự thật. Chúa không chấp nhận là người ky-tô hữu mà gây nên gương mù
gương xấu cho người khác vì tật xấu, vì đam mê thấp hèn, vì tội lỗi của mình.
Nhất là vì sống thiếu tình yêu thương với đồng loại trong lời nói và hành động.
Đó chính là bài học mà Chúa đã dạy chúng ta bằng cả cuộc sống
của Ngài. Chính Chúa đã sống một cuộc đời yêu thương. Yêu thương đến nỗi cho đi
cả tính mạng của mình. Tình yêu thương đó Chúa trải rộng trên người lành kẻ dữ.
Chúa không kết án tội của Lê-vi, tội của người phụ nữ ngoại tình. Chúa càng
không kết án tội của những người làm điều gian ác mà chúng chẳng hay biết.
"Xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm". Chúa đã nêu gương yêu
thương đến quên cả chính mình, và Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy vì Chúa mà yêu
tha nhân. Hãy vì Chúa mà đối xử tốt với nhau. Hãy vì Chúa mà quên đi cái tôi để
sống vị tha và nhân ái với nhau.
Nhưng đáng tiếc con người lại thiếu tình thương nhưng lại đầy
lòng ghen ghét. Thiếu lòng bao dung nhưng đầy hận thù. Thiếu sự cảm thông nhưng
chất chứa đầy những toan tính hẹp hỏi, ích kỷ và thờ ơ. Chính lòng ghen ghét,
lòng thù hận, và thiếu cảm thông đã đẩy con người vào bể khổ trần gian với biết
bao nước mắt của oan trái, đau thương.
Có ai đó nói rằng: "Nếu cứ áp dụng luật "mắt đền
mắt" thì mọi người đều trở nên mù lòa". Cuộc đời sẽ là thảm họa nếu
thiếu lòng bao dung và yêu thương. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết quên đi
cái tôi để đón nhận mọi người trong yêu thương tha thứ. Xin cho cuộc đời ky-tô
hữu của chúng ta luôn sáng ngời bài ca đức ái để xây dựng tình hiệp nhất yêu
thương, để đẩy lùi những khổ đau và mang lại hạnh phúc cho nhân thế hôm nay.
Amen.
4. Chặt tay.
Ngày xưa có một đoàn thám hiểm từ Âu châu đi tìm đất mới. Nhà
lãnh đạo của họ là một người thích phiêu lưu với số mệnh, và ông đã tuyên bố:
Ai đụng tới đất đầu tiên sẽ được làm chủ toàn thể lãnh thổ ấy. Một người trong
nhóm tên là O’Neil quyết tâm giành được đất mới. Ông gắng sức chèo, nhưng rồi
một chiếc thuyền khác đã vượt qua được ông mà đất liền thì đã ở ngay trước mặt.
Chúng ta có biết ông đã hành động như thế nào hay không? Con người sắt đá này
đã buông mái chèo, rồi nhanh như một tia chớp, ông cầm lấy chiếc búa, chặt đứt
bàn tay trái của mình rồi liệng nó lên bờ. Và như thế ông là người đầu tiên
đụng vào đất mới. Đất mới là của ông.
Kể lại câu chuyện này, tôi hy vọng chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được
lời nói của Chúa qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Nếu tay con làm cớ cho con phạm
tội, thì hãy chặt nó đi. Thà con cụt một tay mà được vào Nước Trời còn hơn là
có đủ cả hai tay mà phải vào hoả ngục. Đâu là ý hướng Chúa Giêsu muốn nhắm tới?
Tôi nghĩ rằng những người muốn theo Chúa phải sẵn sàng hy sinh cả những cái gần
gũi và thân yêu nhất, khi chúng trở thành dịp tội và làm cho chúng ta vấp ngã.
Chúa Giêsu không nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì
đây chỉ là cách nói nhấn mạnh của Ngài hầu gây một ấn tượng khó quên đối với
người nghe: Nước Trời, miền đất hứa chủa chúng ta, quê hương vĩnh cửu của chúng
ta, muốn đạt được thì phải hy sinh.
Đúng thế, để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm
một số việc vừa quyết liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và
móc mắt. Đối với một số người thì từ bỏ một vài mối lợi vật chất cũng đau đớn
như là cắt đứt một bàn tay. Nơi khác, Chúa Giêsu lại nói với chúng ta: Nếu
chúng ta cho kẻ đói được ăn, kẻ khát được uống, kẻ không nhà được trú trọ thì
chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Hy sinh để cứu giúp họ, hy sinh để nâng đỡ
những hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, để làm đẹp lòng Chúa và chiếm lấy
Nước Trời có thể cũng đớn đau như cưa đứt một ống chân. Với một người nghiện
rượu thì bỏ đi một xị hay chỉ một ly mà thôi, ắm lúc cũng thật là khổ sở, nhưng
vì vui lòng Chúa, anh ta phải bỏ. Chúng ta thường thích nằm ngủ nướng hơn là đi
lễ sáng Chúa nhật. Cố gắng để vượt thắng tính lười biếng có thể gây phiền phức
và khó chịu ở một mức độ nào đó, nhưng lại là phương cách để chiếm lấy Nước
Trời. Ngồi theo dõi truyền hình thì dễ dàng hơn là cầu nguyện hay đọc Kinh
Thánh. Thưa chuyện với Chúa là một ân huệ lớn lao, là một niềm vui tuyệt vời,
nhưng nó là đòi hỏi chúng ta phải cố gắng cắt bỏ một khoảnh khắc giải trí hay
nói chuyện tào lao với nhau.
Chúa Giêsu không phải chỉ chặt tay móc mắt, trái lại Ngài còn
hiến dâng trọn vẹn mạng sống và đã đổ ra cho đến giọt múa cuối cùng để cứu
chuộc chúng ta. Vì thế chúng ta hãy xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta biết từ
bỏ, hầu nhờ sự từ bỏ này chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời, miền đất hứa của
chúng ta. Hay nói các khác, Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và
trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta có thể nói lên như Tổng lãnh Thiên
Thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
5. Óc bè phái.
Có một vị linh mục, ngày kia đã giảng một bài rất cảm động,
khiến cho mọi người đều rơi lệ. Thế nhưng, có một người ngồi ngay ở hàng ghế
đầu lại chẳng hề tỏ ra chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ kết thúc người ta đã
hỏi: Ông có nghe bài giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời: Dĩ nhiên là có và
tôi đã nghe rõ lắm. Vậy thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm động đến nỗi tôi
rưng rưng như muốn khóc. Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại không khóc. Người
đàn ông trả lời: Đơn giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ này.
Câu chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng tới óc phe nhóm và
tinh thần bè phái của các môn đệ, được biểu lộ qua thái độ của Gioan. Thực vậy,
ông không thể chấp nhận được chuyện một người không theo Chúa, không thuộc về
phe mình, mà lại dám lấy danh Thầy để trừ quỷ, và họ đã làm được.
Tên của Chúa có thể dùng để trừ được quỷ. Tên ấy có một sức
mạnh, nhưng đối với Gioan, thì chỉ những người trong nhóm môn đệ của Chúa mới
có quyền xử dụng sức mạnh ấy. Chính vì thế, chẳng riêng gì Gioan, mà ngay cả
nhóm môn đệ, đều cố sức ngăn cản người ấy trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu. Họ muốn
giữ độc quyền. Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu như ai cũng
lấy danh Chúa mà trừ quỷ thì các môn đệ của Chúa đâu còn thế giá gì nữa. Chúng
ta không biết các ông đã làm những gì để ngăn cản người ấy, còn Chúa Giêsu thì
sao? Ngài đã không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi mở
hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ.
Chắc hẳn anh ta không phải là kẻ thù của nhóm hay của bản thân
Ngài. Vì không ai lấy danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu
Thầy. Hẳn anh ta phải có một niềm tin nào đó vào Ngài, cho dù anh ta không phải
là môn đệ chính thức trong nhóm. Như thế chúng ta phải chấp nhận có những môn
đệ theo sát Chúa Giêsu và cũng có những môn đệ theo Ngài xa xa, nhưng trái tim
họ thì lại rất gần Ngài.
Các môn đệ đã thấy kẻ thù ở khắp mọi nơi, vì ai không ủng hộ các
ông đều là kẻ thù của các ông. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài hiền lành và bao
dung, nên Ngài có nhiều bạn hữu. Thái độ cởi mở của Ngài khiến chúng ta phải
nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình. Chúng ta không nên vạch một đường
thật rõ để tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo, Kitô hữu và
dân ngoại. Chúng ta sẽ có nhiều bạn hơn chúng ta tưởng. Cùng bước đi với người
khác, chúng ta sẽ có nhiều cơ may để giới thiệu Đức Kitô cho họ, một Đức Kitô
mà có thể họ đã mang lấy trong trái tim từ lâu rồi, nhưng chưa một lần gọi tên
Ngài trên môi. Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng ích kỷ
chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Đó cũng là thái độ của kẻ hèn nhát và
khiếp đảm.
Hơn thế nữa, Công đồng luôn khuyến khích chúng ta thực hiện: Hãy
mở ra với thế giới, hãy mở ra với các anh em Kitô hữu khác, cũng như hãy mở ra
với những người chưa tin Đức Kitô. Bởi vì, mặt trời công chính chiếu soi trên
mọi người và cho mọi người. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn hoạt động giữa
các dân tộc.
6. Làm cớ sa ngã.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Chúng ta sống trong một thế giới có nhiều gương xấu.
Gương xấu lan nhanh nhờ các phương tiện truyền thông, tạo nên
một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi.
Ngay trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu, khiến cho đức tin
một số người gặp khủng hoảng.
Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ này:
"... thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn."
Có thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu. Cha mẹ làm ăn bất
chính khiến con cái mất niềm tin. Nhà tu hành mê say vật chất khiến tín hữu
thất vọng. Những phe phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.
Có biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã. Nhiều khi chúng
ta, vì vô tình hay thiếu khôn ngoan, không biết hạn chế tự do của mình, nên đã
làm tổn thương lương tâm của những người yếu đuối.
Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa ngã, nhưng chính thân
xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.
Đức Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu những bộ phận
đó làm ta phạm tội.
Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen (nếu thế
thì khó mà có một Kitô hữu lành lặn!). Nhưng chúng ta lại không được coi thường
tính chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên nếu thấy có người dám chịu
cắt bỏ một phần thân thể hầu cứu lấy sinh mạng của mình.
Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý để giữ lại một điều
quý hơn.
Chỉ ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất, người ấy mới dám
hy sinh mắt và tay chân, những gì vốn là tốt, nhưng nay lại thành vật cản trở.
Có bao điều thiết thân, gắn liền với đời ta, nhưng nay đã trở
thành vật cản trở. Cả những điều ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn tuyệt.
Chấp nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau. Bỏ một tật xấu, một
thói quen, một kế hoạch có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt tay.
Nếu chúng ta can đảm thắng vượt nỗi đau, chúng ta sẽ được tự do
thanh thoát.
Nếu cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn. Giải phẫu không phải
chỉ là cắt bỏ, mà còn là thay thế: thay ước muốn nơi trái tim, thay lối nghĩ
nơi bộ óc, thay cái nhìn nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi tay.
Đức Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn.
Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái tương đối.
Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa vời, và dứt khoát
chọn Thiên Chúa là Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ hôm nay chịu ảnh
hưởng (nơi gia đình, trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương xấu đó đã tác
hại thế nào trên giới trẻ?
Bạn có kinh nghiệm gì về việc "chặt bỏ" một tật xấu,
một thói quen, hay việc "cắt đứt" một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành
công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa
thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không
là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương
vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con
sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về
Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán
khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và
thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
7. Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi.
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một
ai lành lặn. Không thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu nói hôm nay. Tuy
nhiên cũng không được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Đức Giêsu
bảo ta phải chặt tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có
nghĩa là phải quyết liệt với sự xấu.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như
căn bệnh hay lây. Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây
lan tới cả cơ thể. Lây lan đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu,
nếu không sẽ khó mà cứu vãn được mạng sống.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như
nọc độc loài thú dữ. Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi
chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi
mạng sống con người.
Phải quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như
loại thuốc mê. Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng
chống cự. Sự xấu làm cho con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn
đấu. Để cho sự xấu xâm nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi
đã rơi vào ách nô lệ sự xấu, con người khó lòng thoát ra.
Quyết liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt
chân, móc mắt, nghĩa là phải sẵn sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với
tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm vào người, nó trở nên như một phần bản
thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé
lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được.
Vì đối với người nghiện, ma túy trở thành một phần thiết thân của đời sống đến
nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ sở như phải tách lìa một phần thân thể, như
đánh mất chính sự sống.
Chặt tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với
những người, những nơi, những đồ vật khiến ta phạm tội. Những con
người, những đồ vật, những nơi chốn đó trở thành một phần đời của ta. Để dứt
bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu. Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương
tích đau đớn vô cùng.
Cũng như người bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ
phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với
tội lỗi, phải chặt tay, chặt chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn
ta phải đau khổ. Trái lại chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc
mà Chúa dạy ta phải dứt khoát với tội lỗi.
Dứt bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh
trong cơ thể. Dứt bỏ tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh
hồn. Dứt bỏ sự xấu là ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là
giúp linh hồn có cơ hội được lớn mạnh, được phát triển.
Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án suốt đời khổ sở. Hay là
chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh phúc. Ta chọn đàng nào?
Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài. Chính Chúa muốn hạnh phúc
cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội lỗi để được hưởng hạnh phúc
vĩnh cửu với Chúa.
Lạy Chúa, xin cho con biết nghe lời Chúa dạy, biết dứt khoát với
tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.
8. Sống theo Thần Khí – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Làm sao để sống hạnh phúc, làm sao để sống tốt, làm sao để hình
thành quan điểm sống đúng đắn để qua đó một người có thể sống bình an hạnh phúc
trong cuộc sống hiện tại?
I. Mọi sự tốt lành đều do Thiên Chúa mà có
Thiên Chúa là ai? Ngài là Đấng vượt lên tất cả, Ngài là Cha của
tất cả, là Đấng ban cho con người tất cả những gì con người đang sở hữu hoặc
đang có khả năng thực hiện. Chính Thiên Chúa là Đấng làm cho Eldad và Medad nói
tiên tri ngay khi ở trong lều riêng của các ông, và cũng là Đấng làm cho những
người khác có tên trong danh sách mà đi ra nhập hàng ngũ cùng với Môsê được nói
tiên tri.
Giôsuê đã suy nghĩ và hành động với tinh thần phe phái: nếu
không ra gia nhập hàng ngũ như những người khác thì không được nói tiên tri.
Giôsuê đâu có biết rằng khi anh muốn cản người khác làm điều họ được Thiên Chúa
thúc đẩy, là vô tình anh đã muốn cản cả tác động của Thiên Chúa nữa. Cũng tương
tự vậy khi Yoan ngăn cản một người nhân danh Đức Giêsu mà làm phép lạ, vì “người
đó không là một trong chúng ta”. Ai có thể làm phép lạ nếu không phải chính
Thiên Chúa đã làm phép lạ qua trung gian người đó. Đức Giêsu đã trả lời Yoan:
“đừng cản họ, vì nếu họ nhân danh Thầy mà làm phép lạ, thì họ cũng không phải
là kẻ chống lại Thầy”. Ai không chống lại chúng ta, là thuận theo chúng ta.
Tinh thần phe phái là tinh thần muốn loại Thiên Chúa ra khỏi
hành động của con người, hoặc muốn kéo Thiên Chúa về phe mình. Thực ra Thiên
Chúa ở trên tất cả, Ngài là Đấng cho tất cả, Ngài thuộc về tất cả để tất cả
được thuộc về Ngài. Tất cả tốt lành đều từ Thiên Chúa mà tới, đều do Thiên Chúa
mà có. Muốn độc quyền Thiên Chúa, muốn điều tốt chỉ từ phe phái của mình, là
muốn giới hạn Thiên Chúa, là muốn điều khiển Thiên Chúa theo ý mình. Tư tưởng
Thiên Chúa không như tư tưởng của con người, Ngài vượt trên tất cả.
II. Những người bám víu vào của cải đời này
Trần gian với những tiện nghi vật chất, là điều người đời thường
tham muốn. Người ta muốn sống hưởng thụ những thú vui vật chất, thỏa mãn xác
thịt. Người ta thường nghĩ rằng với tiền bạc, người ta sẽ có tất cả. Tiền bạc
giúp người ta có nhà cao cửa rộng, tiện nghi vật chất, được người đời kính
trọng.
Người ta thường cho rằng, có tiền muốn gì mà chẳng được: “đồng
tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái
đà của danh vọng, là cái lọng để che thân, là cán cân của công lý”. Với đồng
tiền, người ta có thể mua chuộc được tất cả, lấy lòng được con người, kể cả
những người thế giá nhất, uy quyền nhất. Nếu một người đặt tiền bạc là quan
trọng, hoặc danh vọng là quan trọng, thì tiền bạc là một giá trị và phương tiện
có thể mua chuộc hoặc điều khiển được người đó.
Làm sao để con người có một bậc thang giá trị đúng đắn, nghĩa là
đặt tiền bạc danh vọng chức quyền vào đúng chỗ của nó. Trên đời này, điều gì là
quan trọng nhất, điều gì mà mỗi người phải chú ý để có thể đạt được hạnh phúc
trong cuộc sống? Nếu một người đặt sai bậc thang giá trị và theo đuổi những
điều không chính đáng, thì những người liên hệ với người đó khổ, và chính người
đó cũng không thể hạnh phúc. Chỉ những ai đặt Tuyệt Đối là một giá trị tuyệt
đối, và đặt tha nhân là một giá trị cũng gần như một giá trị tuyệt đối, thì
người đó mới sống hạnh phúc, và những người khác sống với họ cũng mới hạnh phúc
đích thực.
III. Dứt khoát với dịp tội
“Nếu tay ngươi nên dịp tội cho ngươi, thì hãy chặt nó đi vì thà
rằng cụt một tay vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hỏa
ngục”. Lời dạy của Đức Giêsu cho thấy lập trường dứt khoát của Ngài đối với
tội. Ngài coi cái gây ra tội nguy hiểm đến thế nào!
Nơi vườn dầu, Đức Giêsu đã nói với Phêrô và các tông đồ: “hãy
tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”. Thân xác có những nặng nề của
thân xác, người ta khó có thể vượt qua những nặng nề của thân xác nếu người ta
không cầu nguyện; hơn nữa, người ta khó có thể không phạm tội nếu người ta
không tránh dịp tội. Trường hợp Phêrô ở vườn dầu: sau khi đã ăn thịt chiên vượt
qua và uống rượu, thì khó ai có thể chống lại cơn ngủ; đó là lý do tại sao
Phêrô đã “không thể thức với thầy được một giờ”. Những lề luật, thường là những
gì bảo vệ đời sống ơn gọi của tu sĩ, giúp tu sĩ khỏi sa vào những dịp tội mà
không thể tránh khỏi; ai không giữ lề luật thì đôi khi cũng là liều mình ở vào
dịp tội.
Những tội phạm hình sự không có âm mưu, thường xảy ra khi người
ta trong cơn say hoặc nghiện; tránh say sưa cũng là tránh những dịp tội, và
cũng là tránh tội đối với một số người. Những người phạm tội trong những trường
hợp này thường được giảm khinh vì lúc đó họ không hoàn toàn tự do, họ sống dưới
những ảnh hưởng của thể xác mà không tự chủ hoàn toàn được. Những trường hợp
này rất khác với những hành vi của những người có âm mưu nhưng mượn rượu hay
một cớ nào đó để làm điều họ muốn làm, mà nếu họ làm lúc tỉnh thì họ sợ sẽ lãnh
hoàn toàn trách nhiệm. Dứt khoát với dịp tội, là lời dạy của Đức Giêsu đối với
con người của mọi thời đại.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, làm sao để sở hữu một bậc thang giá trị đúng đắn?
Làm sao để đánh giá đúng đắn thực tại trần gian, cụ thể là con người và vạn
vật?
2. Theo bạn, điều gì làm cho đương sự và người khác khổ nhất?
Tại sao?
3. Theo bạn, quan điểm lập trường sống nào làm cho chính mình
cũng như những người thân và những người sống với mình sống hạnh phúc đích
thực?
9. Hãy tránh xa dịp tội - Lm. Nguyễn Minh
Hùng
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và
kinh khủng dành cho những ai phạm tội: “Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một
trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy
mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi:
thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa
ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt
chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân
mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó
đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà
phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề
tắt”. Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức độ của
tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình như cứ
có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì, cần
phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa không
chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hội chẳng bao giờ
thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử
dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường
hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không
thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị
cụt…, vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt cuộc
đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì man r?. Chắc chắn
không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế.
Chẳng những không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội
còn dạy những điều ngược lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo
Hội đòi phải “Tôn trọng sự toàn vẹn của thân thể”. Sách Giáo lý cho biết: “…Tra
tấn thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối
phương, để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con
người.
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại
hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân lý”
(GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong
trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý,
Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm
Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô,
và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi
nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy
sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định
mối nguy hại có khi không nhỏ mà t?i l?i gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người
cho thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến
lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức
như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan
nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt
vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu.
Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh
cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy
sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể,
thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem
những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt… Mặt khác,
dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì như thế
chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu phải
chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ suy
nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là một
đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống, của
hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con
người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con
thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn
chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất
dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các
con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết
tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để
xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía
tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con
không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát
khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài
trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc
thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật
nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay, hay chân, hay mắt ta
nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy
tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội,
đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến
sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết
tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái
chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và
tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa
ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp
tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không
được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người
không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống
thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc,
lắng nghe và suy niệm Lời Chúa… là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để
chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ
rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ
gần tội.
10. Tinh thần đại kết.
(Trích trong ‘Niềm vui chia sẻ’)
Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn Độ, Dòng Tên, chuyên về
huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện “Chúa Giêsu đi xem bóng đá” (trong
tập truyện “Bài ca của loài chim” The Song of Bird) như sau: “Nghe Đức Giêsu
than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một trận bóng đá, chúng tôi liền
đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai đội tuyển Tin Lành và Công
Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu hoan hô vang dội và tung
cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công đẹp mắt, đội Tin Lành đã
gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên trời. Một khán giả ngồi
bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, ông ta hỏi Ngài:
- Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào? Chúa Giêsu trả lời trong khi
mãi mê theo dõi trận đấu: “Tôi à? Ồ, tôi không ủng hộ bên nào cả. Tôi đến đây
là để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả tỏ vẻ khó chịu về thái độ của
Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là
một tên vô thần!”
Trên đường về nhà, chúng tôi nói với Chúa Giêsu: “Lạy Chúa,
những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng Chúa chỉ đứng về phía
họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo của họ”. Chúa Giêsu gật
đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao tôi không ủng hộ đội tuyển
Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu thủ thôi, dù họ thuộc
bất cứ đội tuyển nào”.
Câu chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang sứ điệp của Tin
Mừng hôm nay. Số là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông Đồ đã nhân danh
Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy. Tưởng là có
công lớn, ông đem khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước phán quyết của
Chúa: “Đừng ngăn cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép
lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng
hộ chúng ta”.
Vào thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn dành độc quyền
nói tiên tri cho nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản hai ông Elđát
và Mêđát nói tiên tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải
chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”(Bđ. 1).
Cả hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức lên án một tấm
lòng hẹp hòi, một khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói tiên tri, có thể
trừ quỷ, nếu không thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ khép kín, phe nhóm
như thế không đúng tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. “Thần Khí muốn thổi đâu thì
thổi”, “đừng dập tắt Thánh Thần”. Không phải chỉ có Giôsuê của thời Môisê hay
Gioan của thời Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo vệ cái độc
quyền nhân danh Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi biến cố
đau thương làm cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con người
luôn bị cám dỗ áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính mình,
Cộng Đồng Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính mình, về
thế giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn là thái
độ lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực sự và
đối thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân lý
chuyển sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái
chân, cái thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn
hoá khác.
Cuộc “hoán cải” lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn trong lòng Giáo
Hội, đặc biệt trong những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Trong
Tông thư “Tiến Tới Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II đã kêu gọi “Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của
con cái mình, khi hồi tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh Thần của Đức
Kitô và Tin Mừng… Giáo Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ mới
mà không thối thúc con cái mình thanh luyện trong sự sám hối về những lỗi lầm,
bất trung, chia rẽ, trì trệ… (số 34). “Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có
một nỗ lực sám hối và hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội
phá hỏng sự hiệp nhất mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài. Qua những ngàn
năm đã qua, kể cả ở ngàn năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội “đôi khi bởi lỗi
lầm của thành phần này hay thành phần khác” đã bị xé rách một cách đau đớn,
điều đó rõ ràng đi ngược lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ vấp phạm cho
thế giới” (số 34).
Người môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như
Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người cộng tác vào
những việc tốt, việc hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn chế, không
loại trừ hay cấm cản ai, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần
quảng đại của Đức Kitô không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong
một phe nhóm, một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt,
vì “Thần Khí Chúa được ban cho mọi người không phân biệt ai”. Ở đất nước ta đã
không thiếu những hình ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh mục, tu sĩ
nam nữ, các Kitô hữu để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh nhân,
chăm sóc các cô nhi quả phụ, xóa đói giảm nghèo… Có gì tuyệt cho bằng chân lý
yêu thương của Đức Kitô được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin Lành,
Cao Đài, Công Giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được: “Phàm
ai hoạt động trong đức ái là đã thuộc về Đức Kitô” (x.Mc 9,41). Bởi vì bất cứ
người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ
hành động công bằng nào, công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa
thưởng công, dù chỉ một ly nước mát, một nụ cười tươi: “Ai cho anh em uống một
ly nước vì lẽ anh em là người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó
sẽ không mất phần thưởng đâu”. Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một
hành động xấu, gây cớ cho người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác.
Hơn nữa, chính bản thân mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo
con đường tội ác, tránh xa dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp
phạm thì “thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa còn
dùng kiểu nói cường điệu: “chặt tay, cưa chân, móc mắt”, nếu những chi thể quý
báu ấy nên cớ cho mình vấp phạm để mất sự sống đời đời, vì “thà cụt tay, què
chân, mù mắt còn hơn là phải vào hỏa ngục đời đời”. Lý do là giá trị tuyệt đối
của sự sống đời đời.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy
sống cái hạnh phúc được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em hạnh phúc ấy.
Mỗi người cần phải nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử, hành động, để
trở nên gương sáng cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và hành động phản
chứng và gây gương mù. “Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy chúng ta được
mời gọi tự vấn lương tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để có thể giới
thiệu cho thế giới thấy mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn toàn hiệp
nhất thì ít ra cũng vượt qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ Hai. Muốn
thế, cần phải nỗ lực rất nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về giáo lý,
nhưng nhất là cầu xin ơn hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô tha thiết
kêu gọi trước khi chịu nạn: “Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên một trong
chúng ta” (Ga 17,21) (số 43).
11. Suy niệm của Noel Quesson.
AI KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA
Một ni cô nọ có một tượng Phật bọc vàng, cô quý pho tượng lắm,
đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành có nhiều tượng Phật, cô dọn
riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt. Lúc đốt hương trước tượng
Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang các tượng khác, cộ xoay trở
làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho tượng vàng của mình. Lâu ngày,
pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương mỗi ngày nên mũi tượng trở nên
đen thùi xấu xí.
Đôi khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên nhỏ mọn khó
coi.
Trong Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng
về thái độ hẹp hòi của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên
tôi tớ mọi người, phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng với người
đồng đạo, người Công giáo.
Nhưng các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này. Chúng ta thấy
chính Gioan, một Tông đồ ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con
thấy có người nhân danh Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản anh ta, vì anh
ta không theo chúng ta”. Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng ta cũng thấy
cái tính hẹp hòi, không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu.
Chúng ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay, tinh thần này
vẫn còn tồn tại và đôi khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập thể. Có lúc
các tín hữu chúng ta cũng khó chịu khi thấy có người ngoài nhóm chúng ta mà
cũng làm được những chuyện tốt đẹp khác thường, những người không theo Chúa
Giêsu mà cũng dùng giáo lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó đã đạt tới
thành công. Đôi lúc có vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng nhận ra được
ơn Chúa, họ cũng biểu lộ được những đức tính mà người Công giáo ra công gắng
sức tập luyện mà chưa đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống tốt, biết
xả kỷ vị tha, có người Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những hành vi kia
chỉ là vẻ bề ngoài hoặc là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa đổi những
suy nghĩ sai lầm ấy, Người cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại Chúa, là
ủng hộ Chúa, và họ cũng có công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận Chúa, ai
cũng có thể sống theo tinh thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai. Người
không bị ràng buộc vào một băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin Mừng
của Chúa dành cho mọi người, giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng diễn tả
vấn đề này bằng kiểu nói khác: “Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (Ga
3,8).
Thánh Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân ngoại (Cv
10,44). Chúa thông suốt mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn đệ: “Không
ai vừa nhân danh Thầy làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy”, nghĩa là có những lúc
Chúa tỏ uy quyền của Người trên cả những người chưa phải là tín hữu Kitô. Điều
đó giúp chúng ta xác quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do Chúa soi
sáng thúc đẩy. Hiểu như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm thiện chí
để hợp tác, để đón nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan báo Tin
Mừng Cứu độ cho mọi người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa: “Muốn
cho mọi người được cứu và nhận ra Chân lý” (1Tm 2,4).
Lạy Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi người, sẵn sàng
hợp tác với những người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi người. Xin Chúa
tỏ quyền năng Chúa trên chúng con và những người đang tìm về với Chúa. Chúng
con xin tạ ơn Người.
12. Dịp tội.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về dịp
tội.
Câu hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?
Tôi xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm cho chúng ta dễ
dàng vấp ngã.
Câu hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối với dịp tội?
Trước hết bản thân chúng ta không được trở thành dịp tội cho
người khác sai lỗi. Hay nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được phép làm
gương mù gương xấu cho người khác.
Rất nhiều lần chúng ta đã nói:
- Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, trái lại, chúng
ta sống là sống với người khác.
Thế nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta lại ảnh hưởng đến
nhau rất nhiều. Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để lại một ảnh hưởng
tốt. Trái lại, một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo nên một hậu quả xấu
nơi người chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:
- Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
Hay như danh ngôn Tây phương cũng nói:
- Anh hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ cho anh hay anh
là người như thế nào.
Chính vì thế, chúng ta không được làm gương mù gương xấu, trở
thành dịp tội, trở thành cái cớ cho người khác vấp phạm.
Chúa Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với kẻ làm gương mù
gương xấu. Ngài nói:
- Nếu ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này phạm tội, thì thà
buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn.
Đang khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng, góp phần làm cho
Giáo hội được phát triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại Giáo hội và làm
cho Giáo hội bị giảm sút.
Ngoài ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh những dịp tội.
Như trên chúng ta đã nói dịp tội là những hoàn cảnh thúc đẩy
khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục ngữ đã dạy:
- Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày đứt tay.
Hay như một nhà đạo đức đã xác quyết:
- Sống trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một
phép lạ cả thể mà chắc chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.
Tuy nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp tội thay đổi tùy
theo mức độ hiểu biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một cuốn sách, người
này đọc thì thấy hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ nặng nề về đức tin
hay đức trong sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm việc nọ việc kia
là chúng ta bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ, cân nhắc, bàn
hỏi và lắng nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp tội, bởi vì
trước mỗi hoàn cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng báo động
và chỉ cho chúng ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải tránh.
Tóm lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn, chúng ta hãy can
đảm xa tránh dịp tội, như lời Chúa đã phán dạy:
- Nếu mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó đi, vì thà rằng
chột một mắt mà được vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt mà bị quăng vào
hỏa ngục đời đời.
13. Gương mù.
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giêsu được thánh
Marcô ráp lại với nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị,
ngay cả với người ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của
mỗi người môn đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ
cho người khác vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại
bỏ mọi nguyên nhân làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời.
Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là gương mù gương xấu.
Chúng ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong
tư tưởng, trong lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động
ắt sẽ xảy ra như vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành
động tốt có vẻ hơi xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất
gần. Những hành động xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao
nhiêu thứ tội khác và kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “Mù dắt mù cả
hai ngã xuống hố”. Một ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn
đèn khác cần được thắp sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một
ngọn đèn tắt đi là không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.
Gương mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại
cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối
đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên
Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt
gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy đức tin. Làm tăng thêm số người tội
lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà
Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu cho dân, số người bắt chước đời
sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở nên gấp mười lần số người các ngôn
sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc vất vả. Tai hại và nguy hiểm như
vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá cối xay vào cổ và quăng xuống
biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người ta phạm và
những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết thêm một chút về câu nói
trên đây của Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt
cối xay bột do các bà làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà
ngũ cốc. Ở Palestine có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc
thớt cối đá ném xuống biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do
Thái, và rất kính sợ vì chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa
Giêsu dùng hình ảnh này để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây
gương mù dịp tội thì đáng lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần
gian mà là trong hỏa ngục của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã
là tội rồi, lại còn lôi cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn
là tội giết người, vì giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm
mất sự sống vĩnh cửu. Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều
người thấy mới là gương mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.
Vì thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa
bảo phải “móc mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt
chân thật mà Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả
toàn thân bị ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai
điều: hoặc là phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời
đổi lấy sự sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để
rồi lãnh án phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng
ta đặt ra một kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào
làm cho chúng ta phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không
thể để gói thuốc nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương
tự như thế cho những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã
kinh nghiệm dạy: “thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong
kinh Lạy Cha, chúng ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng
mình cứ quanh quẩn ở trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc
đời có thể có những cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng
nhớ rằng: bị Chúa cười chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian
cười ba tháng là tối đa. Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm
luân mà giữ mình cẩn thận.
Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính
mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương
xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt
nặng nề đời sau.
14. Suy niệm của JKN.
CÁM DỖ CỦA ÓC BÈ PHÁI VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG TÔN GIÁO
Câu hỏi gợi ý:
1. Khi thấy có người ngoài nhóm mình nhân danh Thầy mình để trừ
quỉ, các tông đồ khó chịu và muốn ngăn cản. Thái độ ấy có đúng không? Nó nói
lên não trạng gì? Não trạng ấy có hiện hữu trong các Kitô hữu hiện nay không?
2. Các giáo phái Kitô giáo hiện nay có đoàn kết, yêu thương nhau
không? Đức Giêsu sẽ vui hay buồn khi thấy các giáo phái tuy đều nhận mình là
Chúa là Thầy nhưng lại nhân danh đức tin để nói xấu, kết án và loại trừ nhau?
3. Đức tin có thể gây chia rẽ, nhưng đức ái chỉ tạo nên đoàn
kết. Giữa hai nhân đức quan trọng ấy, đức nào mới thật sự là điều kiện để vào
Nước Trời?
CHIA SẺ
1. Khuynh hướng bè phái và muốn độc quyền của các tông đồ
Một trong những khuynh hướng rất thông thường nơi con người, đó
là óc bè phái và ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này được biểu lộ nơi các môn
đệ Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Trên con đường loan báo Tin Mừng, các
môn đệ Ngài thấy có những người không thuộc nhóm của mình lại nhân danh Ngài mà
làm được những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh… Theo quan niệm của các ông, chỉ
những ai ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy mình để làm phép
lạ, trừ quỉ, chữa bệnh… Nếu có ai khác làm điều ấy được, lập tức các ông nhận
thấy độc quyền của mình bị xâm phạm. Có lẽ các ông cảm thấy bực bội vì điều ấy
nên đã cố ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu đã tỏ ra không tán thành khuynh hướng
bè phái muốn độc quyền ấy của các ông.
2. Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi người Kitô hữu
Trong đời sống Kitô hữu, nhiều khi chính chúng ta cũng bị cám dỗ
bởi não trạng bè phái và ham muốn độc quyền như các môn đệ Đức Giêsu. Chẳng hạn
những người cùng tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu Chúa, theo thời
gian, bị phân thành nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa như thế là một
việc hết sức tự nhiên nếu không muốn nói là tất yếu, vì tất cả mọi tôn giáo,
mọi trường phái tư tưởng, nghệ thuật, v. v… đều bị phân hóa theo thời gian theo
định luật đa dạng hóa của tự nhiên. Theo tôi, nếu không bị phân hóa như thế thì
đó mới chính là điều lạ thường. Đương nhiên, giáo phái nào cũng tự cho mình là
đúng đắn nhất, là gần với chân lý nhất. Tiếp xúc với các tín đồ của nhiều giáo
phái khác nhau, tôi không hề thấy một giáo phái nào lại cho rằng có một giáo
phái khác đúng hơn mình. Điều này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên hay bất mãn
chút nào!
Dù khác nhau - chủ yếu là trong tiểu tiết - các giáo phái vẫn
hết sức giống nhau trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và tuyên xưng Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Giáo phái nào
cũng chủ trương phải sẵn sàng dấn thân theo Ngài với tất cả tình yêu, lòng
nhiệt thành của mình. Giáo phái nào cũng đều tuyên xưng: «Nếu miệng bạn tuyên
xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống
lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ» (Rm 10,9). Giáo phái nào cũng chủ
trương: «Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa thì sẽ được cứu thoát» (Rm
10,13).
3. Thật là một gương xấu vĩ đại
Nhưng thật là một điều trớ trêu và là một gương xấu vĩ đại trước
những người ngoài Kitô giáo, khi mà:
- một đằng Đức Giêsu - Đấng mà mọi giáo phái Kitô giáo đều tôn
thờ, đều nhận là Chúa, là Thày - đã tuyên bố: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết
anh em là môn đệ Thầy, là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).
- đằng khác, các giáo phái Kitô giáo lại coi nhau như là ngoại
đạo! Các giáo phái nói xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn nhau, một vài
trường hợp khủng bố lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô giáo phủ nhận khả năng được
cứu rỗi của những người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều tin và tuyên
xưng những điều căn bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào cũng muốn hạn
chế hoặc chỉ dành riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của mình! Đó là
điều tôi lấy làm lạ, làm ngạc nhiên hết sức, và không thể chấp nhận được!
Đây quả là một gương xấu vĩ đại, một điều mỉa mai cho Đức Giêsu
và cho tất cả các giáo phái Kitô giáo, vì gương xấu này là một phản chứng nặng
nề đối với những người ngoài Kitô giáo, khiến họ không thể chấp nhận được một
tôn giáo như thế! Ước gì các giáo phái Kitô giáo đều đọc và suy nghĩ câu Đức
Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: «Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn
đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển
còn hơn».
4. Coi chừng chính kẻ kết án lại là kẻ độc ác, thiếu tình thương
Khi nghe một người Kitô hữu thuộc một giáo phái nào đó quả quyết
chắc chắn rằng những Kitô hữu trong những giáo phái khác với họ đều không được
cứu rỗi, thì tôi hỏi người ấy: «Vậy anh có muốn điều anh quả quyết như thế là
đúng không?» Nếu anh ta trả lời rằng muốn, thì tôi nói: «Vậy thì anh quả là độc
ác! Một đằng Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu rỗi (x.1Tm 2,4), Còn
anh lại muốn chỉ những ai trong giáo phái của anh mới được cứu rỗi. Anh sẵn
sàng chấp nhận những người khác giáo phái của anh không được cứu rỗi, tức sa
hỏa ngục. Vậy thì anh mới chính là người đáng sa hỏa ngục đầu tiên, vì nơi anh
không có tình thương! Vì tình thương mới là điều quan trọng nhất phải có để vào
thiên đàng, để hợp nhất với Đấng mà bản chất là tình thương».
Nếu anh ta mong rằng điều anh ta nghĩ là sai, thì tôi bảo: «Như
vậy là anh rất nhân từ, có tình thương! Tốt lắm! Phần tôi, tôi chắc chắn rằng
Thiên Chúa còn nhân từ và nhiều tình thương hơn anh gấp tỷ lần. Ngài có đủ
quyền năng và đủ cách để giải quyết cho những Kitô hữu khác giáo phái với anh
được cứu rỗi. Vì thế, anh hãy phó mặc số phận của những người theo giáo phái
khác trong tay Chúa và hãy an tâm! Anh hãy lo cho chính bản thân anh thì tốt
hơn, vì nếu anh không có tình yêu, anh không thể vào thiên đàng được đâu! Điều
Chúa muốn nơi anh chính là anh hãy coi các Kitô hữu khác giáo phái với anh là
đồng đạo, và coi cả những người khác tôn giáo với anh nữa là anh em. Anh hãy
yêu thương họ và hãy mong ước những điều tốt lành nhất cho họ!»
5. Điều quan trọng nhất để vào được thiên đàng là tình yêu
Điều quan trọng để vào được thiên đàng là đức tin. Nhưng điều
còn quan trọng hơn nữa là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay đức tin, đức
cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến» (1Cr
13,13). Khi lên thiên đàng, đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết nữa,
chỉ riêng «đức mến không bao giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định
nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình
thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ
làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần
đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46, khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử
của ta có tình thương hay không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết,
chúng ta dễ hạnh phúc ở bên những người biết yêu thương hơn là bên những người
có niềm tin. Thực ra, niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế
giới này đã từng điêu đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí
ngày nay vẫn còn. Những cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu
đức tin cho bằng thiếu tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ
(tức thiếu tình thương) sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân
của chiến tranh. Vì thế, đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến
mới là đức tin đích thật. Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm
tin giả tạo, tương tự như «đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc
2,17.26). Như vậy, một Kitô hữu có đầu óc bè phái, muốn độc quyền được cứu rỗi,
nghĩa là muốn loại trừ những Kitô hữu khác giáo phái mình, không muốn họ hưởng
hạnh phúc đời đời, thì Kitô hữu ấy rõ ràng là thiếu tình thương. Mà thiếu tình
thương thì làm sao vào thiên đàng được?
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con một đức tin đích thực nơi Cha và nơi Đức
Giêsu. Đức tin đích thực tự bản chất phải bao hàm tình yêu ở bên trong. Không
bao hàm tình yêu, đức tin đó chỉ là đức tin giả tạo, là nguồn phát sinh óc bè
phái, óc độc quyền, cũng là nguồn phát sinh nên bao cuộc chiến tranh tôn giáo
trên thế giới. Xin ban cho con tình yêu đối với mọi người chung quanh con, đặc
biệt đối với tất cả những ai tin theo Đức Giêsu, như dấu chỉ đặc trưng cho
người môn đệ đích thực của Ngài.
15. Ghen tức.
Qua phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi nhận hai nhân
vật, đó là Giôsuê và Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một thái độ, đáng
cho chúng ta suy nghĩ, đó là lòng ghen tức.
Nhân vật thứ nhất là Giôsuê. Ông
đã được Maisen tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái băng
qua sa mạc cát nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất hứa,
chiếm lại phần lãnh thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen tức
vì hai ông Eđát và Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen
ngăn cản, nhưng Maisen đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.
Nhân vật thứ hai là Gioan. Ông là vị tông đồ
trẻ tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy những người khác
nhân danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng đã có một chút
ghen tức và đã ngăn cấm họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của mình được độc
quyền. Và như chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân quan niệm ấy
Từ thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta chúng ta có thể rút
ra một định nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người khác được may mắn
và vui mừng khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu xét mình,
chúng ta sẽ thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng ta. Một
người bạn thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi nói hành
nói xấu người bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng ta ghen
tức, nhưng chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.
Thực vậy, người có tính ghen tức không bao giờ được hạnh
phúc cả. Tôm hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không
đâu. Người bạn có bộ quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được
thiên hạ khen cũng làm cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của
chúng ta sẽ trở thành đề tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù
đi ăn xin. Ông này nghe người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một
buổi sáng, ông này nghe thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi
cũng gân cổ lên để mà hát. Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết
rằng mình hát hay. Thế nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ
thật đồ điên.
Thái độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi nặng nề
khác nữa, chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến
cả tội giết người. Vì thế, ghen tức đã được liệt vào trong bảy mối tội đầu, là
như những căn nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.
Như chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu thương khiến cho các
người anh ghen tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ của mình. Nào là
những bó lúa của các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse. Nào là mặt
trời, mặt trăng và mười một ngôi sao sụp lạy Giuse…Từ thài độ ghen tức ấy,
những người đã anh tìm cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn và sau
cùng đã bán Giuse cho phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai cập.
Rồi lấy áo choàng của Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp biết
là Giuse đã bị thú dữ ăn thịt.
Những người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa Giêsu, nên họ đã
cáo gian Chúa trước tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào thập giál
Để dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình vào nếp sống
của người khác: vui niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt chước thánh
Gioan Tiền Ho, đã không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm sút, trong
khi uy tín của Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã nói:
- Tôi phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi không xứng đáng
cúi xuống cởi dây giày cho Ngài.
Hãy để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy trở nên như đày
tớ phục vụ người khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc sống thường
ngày, đó là hãy vui cùng người vui và hãy buồn với người buồn.
16. Phe này cánh nọ - Anmai
Con người, tự lâu lắm rồi, đã mang trong mình cái đầu óc bè
phái. Thấy người khác, nhóm khác thành công hơn mình, làm được việc hơn mình
thì không chịu cố gắng, nỗ lực để được như người khác, nhóm khác. Hành động của
những người ấy hết sức buồn cười là họ dèm pha, chỉ trích, nói hành, nói xấu.
Một kinh nghiệm hết sức thực tế ngay ở dân tộc Do Thái. Thuở xa
xưa, khi đưa dân Do Thái ra khỏi nô lệ của Ai Cập thì Thiên Chúa đã nhờ đến bàn
tay của Môsê. Ông quá vất vả với đám đông ô hợp. Mệt mỏi quá nên ông than thân
trách phận với Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nghe lời than vãn ấy, Thiên Chúa sợ
ông phải cán đáng công việc một mình mệt nhọc nên Thiên Chúa đã gọi Môsê và
truyền cho Môsê quy tụ 70 kỳ mục lại để cộng tác với Môsê.
Khi Thần Khí của Thiên Chúa xuống trên 70 người thì có 2 người
trong nhóm họ tên là En-đát, một người tên là Mê-đát. Các ông đã được ghi trong
danh sách kỳ mục, nhưng đã không đến Lều như sách Dân Số vừa thuật lại. Vì lý
do nào đó không đến lều nhưng Thần Khí của Thiên Chúa vẫn đậu xuống trên các
ông và các ông bắt đầu phát ngôn trong trại. Thấy sự kiện như vậy, Ông Giô-suê
con ông Nun, từng theo hầu ông Mô-sê từ hồi còn nhỏ, lên tiếng nói với ông
Mô-sê: "Thưa thầy, xin thầy ngăn cản họ!" Nhưng ông Mô-sê trả lời:
"Anh ghen dùm tôi à?"
Thế đấy, ông Giô-suê đã ghen tương khi thấy Thần Khí đậu trên 2
người kia khi họ còn ở trong trại và xin Mosê ngăn cản 2 người ấy. Với Môsê thì
khác, Môsê đã mắng rằng họ đã ghen tuông với 2 người ấy.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Máccô thuật lại hình
như cũng mang âm hưởng của sự ghen tuông. Các môn đệ đã ghen tuông khi những
người không thuộc nhóm với Chúa Giêsu, không thuộc nhóm các môn đệ mà trừ được
quỷ.
Nếu để ý trình thuật trước trình thuật này bối cảnh là "ở
nhà", nơi đó Chúa Giêsu "ngồi" giảng dạy cho các môn đệ. Thánh
ký Máccô tiếp nối khung cảnh bằng cách chuyển mạch từ câu hỏi của môn đệ Gioan
nhằm trình bày những giáo huấn mới của Chúa Giêsu.
Phải chăng việc gợi nhắc Gioan ở đây nằm trong dụng ý của thánh
ký liên hệ đến một vấn nạn dù nhiệt tình song cũng không ít phần cục bộ:
"lấy danh Thầy mà trừ quỉ, nhưng hắn lại không theo chúng tôi, và chúng
tôi đã cố ngăn cản vì hắn không theo chúng tôi". Vì chưng, trong một
truyền thống khác chỉ có trong Tin Mừng Luca (Lc 9,54), chính Gioan và anh mình
là Giacôbê đã đòi khiến lửa từ trời xuống mà tiêu diệt dân Samaria không đón
tiếp Chúa Giêsu và các môn đệ.
Trong thời đại của Chúa Giêsu việc chữa bệnh bằng cách trừ quỉ
cũng được một số người Do Thái thực hành. Sử gia Flaviô Giôsêphê (Antiquités
VIII, 46t) có kể lại trường hợp một người Do Thái tên là Elêazar chuyên chữa
bệnh bằng một việc trừ quỉ rất mê tín và phù phép nhân danh vua Salômon.
Ở đây, thánh ký đề cập tới việc trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu,
gợi nhắc đến bối cảnh thời Giáo hội sơ khai, ở đó việc trừ quỉ được coi là khá
thịnh hành.
Sách công vụ tông đồ 8,19-24 có kể lại trường hợp Simon phù thủy
muốn mua ở Phêrô quyền làm các phép lạ. Sách Cv 19,13t cũng trình thuật câu
chuyện một số người Do Thái trừ quỉ nhân danh Chúa Giêsu: "Có ít người trừ
tà rong đường, gốc Do Thái, cũng đã thử kêu danh Chúa Giêsu trên những người có
quỉ ám" (Cv 19,13).
Cách miêu tả: không theo chúng tôi là một chi tiết biên soạn đậm
nét thời Giáo hội sơ khai ở đó công đoàn các Kitô hữu tiếp tục quanh quẩn bên
nhóm môn đệ, những kẻ đã từng theo Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu nói: "chớ ngăn cản người ấy, vì không có ai nhân
danh Ta làm phép lạ, rồi lại có thể vội nói xấu Ta. Vì ai không chống cự chúng
ta là ủng hộ chúng ta, Kẻ nào cho các ngươi uống một bát nước, vì danh nghĩa
các ngươi thuộc về Đức Kitô... nó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Câu
39-41).
Sự kiện các môn đệ muốn ngăn cản những kẻ không theo họ, gợi
nhắc tinh thần hẹp hòi của họ sánh với cái nhìn của Thầy họ. Từ đó, Chúa Giêsu
đã dựa vào suy tư của các môn đệ để đưa ra những lời dạy nhằm khơi mở tâm hồn
họ. Trong bối cảnh Chúa Giêsu đang tiến về cuộc khổ nạn cũng như đang đối diện
với phe Biệt phái ký lục tìm cách hãm hại Người, câu trả lời của Chúa Giêsu
(câu 39) có thể được hiểu như sau: một kẻ nại đến Ta, nhân danh Ta, dựa vào sức
mạnh của Ta để làm phép lạ, thử hỏi Người đó có thuộc về phe Biệt phái ký lục
không? Thử hỏi kẻ ấy có chủ ý tìm cách hãm hại Ta không?
Cách miêu tả: vội nói xấu ta Gợi nhắc rằng việc làm các phép lạ
và trừ quỉ... chưa hẳn diễn tả được một cách dứt khoát đức tin bền vững vào
Chúa Giêsu.
Dầu sao, trong nhãn quan thần học của Maccô, câu trả lời trên
của Chúa Giêsu nói lên chủ đích của Người muốn các môn đệ hiểu thái độ thiếu
nền tảng của họ. Vì chưng, "ai không chống đối chúng ta, là ủng hộ chúng
ta" (câu 40).
Làm sao dung hợp được kiểu này và câu nói được trình bày ở Tin
Mừng Matthêu cũng như ở Luca: Bản Mt 12,30 viết: "Ai không đi với Ta, tức
là chống lại Ta. Kẻ không cùng Ta thu họp tức là làm tan nát" (x. Lc
11,23). Phải chăng đây là bằng chứng của các truyền thống mâu thuẫn nhau?
Một lần nữa, độc giả Tin Mừng được mời gọi để hiểu những lời của
Chúa Giêsu trong mạch văn biên soạn tùy theo nhãn quan thần học của thánh ký.
Như vậy, mạch văn ở đây của Máccô là gì? Đó là sự mời gọi của
Chúa Giêsu ngỏ cho các môn đệ biết theo chân Người làm tôi tớ mọi người (câu
35c), nhất là những ai thấp hèn hơn. Nếu Người đã từng nặng lời kết án phe Biệt
phái ký lục và Hêrôđê như những kẻ mù quáng đối nghịch lại với Người, thì ngược
lại, Người cũng luôn tỏ bày khuôn mặt của Đấng Thiên sai mang ơn cứu độ cho hết
mọi người, Do Thái hay dân ngoại. Thế nên, chỉ có những kẻ chủ ý chống lại
Người, phủ nhận quyền năng của Người, sẽ phải hụt mất cơ may cứu độ. Còn bất cứ
ai không chống lại quyền năng của Người, cũng như muốn làm những sự thiện nào
đó, đều được mời gọi để tin theo Người...
Lồng kết vào trong bối cảnh thời Giáo hội sơ khai ở đó Tin Mừng
Maccô được biên soạn, kiểu này ngỏ cho các môn đệ và qua đó cho cộng đoàn Kitô
hữu của sơ thời cũng như của mọi thời, như là lời mời gọi họ biết vượt qua tinh
thần ích kỷ hẹp hòi phe phái. Vì chưng những ai theo Chúa không được phép trở
thành những nhóm đóng kín, kẻo có nguy cơ sống trái ngược với tinh thần của
Thầy họ. Ai tự cho mình là môn đệ đích thực của Đức Kitô và ai dám kết án người
khác không phải là môn đệ của Người? Ai dám xác quyết rằng quyền lực cứu độ của
Người chỉ tỏ bày cho họ chứ không cho kẻ khác? Ai có thể biết được quyền lực đó
hoạt động như thế nào nơi người khác không?
Đang khi đó về bản văn của Matthêu và Luca: Nếu các Tin Mừng này
trình bày một kiểu với ý nghĩa đối chọi, chính vì mạch văn đổi khác. Nơi
Matthêu chẳng hạn, mạch văn nói về ý nghĩa vẫn đục của nhiều kẻ gán quyền lực
trừ quỉ của Chúa Giêsu như xuất phát từ Satan. Hơn nữa trong bối cảnh của cộng
đoàn mà Tin Mừng Mathêu được biên soạn, mối bận tâm nằm ở tầm vóc nội bộ cộng
đoàn: "không phải mọi kẻ nói với Ta, Lạy Chúa, là sẽ vào được nước
Trời" (Mt 7,21).
Trở lại với mạch văn Máccô người môn đệ của Chúa Giêsu được kêu
mời ý thức sâu sắc về tâm nhìn cứu độ phổ quát của Người. Họ cần biết vượt
thoát tinh thần phe nhóm để thấy được nơi mỗi sự thiện, mỗi sự góp phần tích
cực nào đó như là khởi điểm cho ơn cứu độ, cho sự đón nhận Tin Mừng. Vì chưng,
như đã được gợi nhắc ở trước trong Tin Mừng, sự thiện thuộc về Thiên Chúa, Đấng
đã nhìn thấy mọi sự Ngài sáng tạo đều tốt lành quá đỗi.
Nhìn vào cuộc sống của chúng ta, cái máu phe nhóm, cái máu cục
bộ nó len lỏi vào trong đầu của con người chúng ta lúc nào không hay.
Tâm trạng phe nhóm rất dễ thấy nơi các công sở, xí nghiệp và
ngay cả trong gia đình. Chẳng hiểu vì sao và lúc nào mà tinh thần cục bộ, phe
nhóm, bè phái nó đã len vào trong gia đình, trong công sở, trong xí nghiệp.
Nhìn ở góc độ nào đi chăng nữa thì tinh thần cục bộ, óc bè phái và phe nhóm vẫn
mang yếu tố tiêu cực hơn là tích cực dẫu rằng có chuyện thi đua để cho mọi sự
nên tốt. Con người vẫn mang trong mình những giới hạn để rồi nhóm này thành
công thì nhóm kia sẽ thất bại và rồi hai bên cứ kình địch nhau mãi. Tốt hơn hết
là ta nên dung hoà và ta nên cùng làm việc chung với nhau chứ đừng vì hư danh
mà ganh tỵ.
Anh em vẫn dùng cơm chung với nhau, thi thoảng Cha Sở đã nhắc
nhở anh em nên sống công bằng, sống cư xử mọi người như nhau chứ đừng tạo phe
nhóm, đừng tạo nên não trạng cục bộ. Chắc có lẽ kinh nghiệm với biết bao nhiêu
năm sống cộng đoàn, giúp mục vụ nên Cha Sở đã thấy được những tổn thương, những
thiệt hại của tinh thần bè phái, phe nhóm và cục bộ.
Mỗi thành viên góp phần cho sự phát triển của gia đình và cộng
đoàn. Nếu từng thành viên ấy chung tay góp sức lại thì gia đình, cộng đoàn ấy
vững mạnh và hạnh phúc. Nếu như gia đình, cộng đoàn nào gặp phải tình trạng phe
nhóm thì buồn thật vì khi ấy, căn nhà, cộng đoàn ấy cứ mãi bị khập khiễng do sự
ganh ghét, hơn thua của phe này nhóm nọ.
Thiệt hại về phe này cánh nọ chúng ta thấy hết sức bi đát. Dẫu
bên ngoài họ có che lấp bằng những vẻ đẹp hào nhoáng đi chăng nữa nhưng bên
trong nội bộ vẫn là sự bất an. Bất an là vì một bên thì cố gắng hết sức thủ cho
mình hết chiêu này đến thức nọ để bảo vệ cho phe của họ còn phe kia thì cứ rình
rập xem phe kia có sơ hở gì không và nếu có sơ hở là họ bắt đầu chỉ trích, bắt
đầu lên án, bắt đầu dèm pha như các môn đệ hôm nay trong Tin mừng.
Nguyện xin Chúa Giêsu, Vua của Bình An, Vua của Hiệp Nhất đến và
ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta dẹp bớt đi cái tôi của mình, dẹp bớt
đi cái não trạng bè cánh để cộng đoàn, gia đình chúng ta được bình an và hạnh
phúc hơn.
17. Dịp tội.
Bài Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy
chúng ta một điều quí giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm.
Thứ hai, phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa
sẽ ghi công và khen thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của
Ngài, dù chỉ là một bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của
họ. Nhưng ngược lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một
người khác, dù là trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương
mù gương xấu lôi kéo người khác phạm tội, xa Ngài, thì Ngài không bao giờ bỏ
qua đâu.
Rồi để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài
bảo rằng: “Khốn cho kẻ làm gương mù gương xấu”. Gương mù gương xấu là gì? Là
lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương
xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người
ta phạm tội. Rất là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ
khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-Na Vô-gan gặp một hành khách ăn
nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện đồi bại, lấy làm thích thú và
cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự nhắc ông ta để ông ta im lặng
đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra
cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì đây này”. Người đó vội leo lên
toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?”. Cha Vô-gan nói với giọng tử tế
nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho hành khách trong toa”. Người
ấy xấu hổ đi xuống ngay.
Đó, ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai
hại và nguy hiểm như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và
quăng xuống biển, nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ
phải chịu trách nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội
chính họ phạm nữa.
Sau khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm,
tức là không được làm gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ
mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất
nước Thiên Chúa. Chúa đưa ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con
người đều quí giá. Chẳng hạn: tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một
chân, một mắt để được sống, thì vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần
nào của thân thể bị đau bệnh, không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng
hạn, gây nguy hiểm cho thân thể và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải
phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự
sống hay bảo toàn được những phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường
trong y khoa.
Nếu vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời
đời, thì càng đáng đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho
mình phạm tội, đe dọa mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi
Chúa nói chặt tay, chặt chân, móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân
hay móc mắt thật, nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu
là cha mẹ, người trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang
hàng. Nếu cha mẹ hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng
tội lỗi, thì bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị
mất lòng. Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy,
nếu chúng ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với
người ấy, chúng ta cũng mắc thêm tội… thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải
cắt đứt đi mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong
năm tháng còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.
Bài Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy
nhớ rằng: mỗi người đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường
thần linh ở khu vực mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu
gây gương mù gương xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho
anh em vấp phạm, chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta
có: tiền tài, của cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp… đều chỉ là
những phương tiện để xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn
cớ cho tội lỗi, gây nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước
trời, chúng ta hãy sẵn sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lời lãi cả
thế gian mà mất linh hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và
thực hành bài học hôm nay.
18. Lời khuyên.
Tin Mừng nêu ra nhiều điểm rất quan trọng có tính thực hành. Mặc
dù những điểm ấy lúc ban đầu gởi đến các người lãnh đạo trong cộng đoàn nhưng
chúng cũng thích hợp với mọi môn đệ của Đức Giêsu.
1. Các Tông đồ đề cập đến một người không lấy tư cách đoàn thể
của họ, để chữa lành dân chúng nhân danh Đức Giêsu. Các ông tìm cách ngăn cản
người ấy. Tại sao? Bởi vì các ông ganh tị quan hệ đặc biệt của người ấy với Đức
Giêsu (có một ví dụ tương tự trong Bài đọc 1). Chúng ta nhớ đến thái độ hẹp hòi
của chúng ta đối với các Kitô hữu thuộc các Giáo hội khác trước Công đồng
Vaticanô II.
Nhưng Đức Giêsu nói: “Đừng ngăn cản người ta “. Sự kiện người ấy
nhân danh Người có nghĩa là người ấy không chống lại các Tông đồ. Kế đó Đức
Giêsu cho họ một bài học về sự cởi mở và lòng khoan dung. Thật vậy, mọi lời cầu
nguyện trong thánh lễ, và trong mọi bí tích được cử hành nhân danh Đức Giêsu và
quyền năng của Người. Nhưng người Công giáo không độc quyền về Đức Giêsu.
Một số người e ngại các ơn huệ và thành tựu của những người
khác. Nếu như họ có một thái độ cởi mở hơn hẳn họ sẽ thấy mình được phong phú
thêm thay vì giảm bớt đi bởi những ơn huệ ấy. Người nào khác tôi không thu nhỏ
tôi nhưng làm tôi thêm phong phú. Thiên Chúa ban phát những ơn huệ của Người
một cách tự do. Trách nhiệm của chúng ta là vui mừng tiếp nhận những ơn huệ ấy
dù chúng xuất hiện nơi đâu.
2. Đức Giêsu đã nói rằng ai cho những người bé mọn dù chỉ một
chén nước lã sẽ được tưởng thưởng. Một chén nước lã là tượng trưng cho một loại
công việc tốt lành nhỏ bé. Ít người trong chúng ta có cơ hội làm những việc
lớn. Nhưng cơ hội cho một chén nước có thể đến với chúng ta nhiều lần trong một
ngày. Một hành động nhân từ nhỏ bé có thể biến đổi một mùa đông ít nhất thành
một khoảnh khắc mùa hè cho một người khác.
Không cần có những hành vi to lớn để có thể giúp đỡ và an ủi con
người mà hành vi ấy nhắm đến. Chỉ cần những sự nồng ấm. Mọi hành vi xuất phát
từ tâm hồn đều có sự nồng ấm ấy.
3. Sau đó, Đức Giêsu đề cập đến tội gây ra sự vấp ngã – làm cho
người khác phạm tội. Người tuyên bố lời cảnh báo nghiêm khắc chống lại những
người dẫn những kẻ bé mọn tin vào Người đi lạc lối. Khi chúng ta nghĩ đến những
tội ác mà người ta gây ra cho các trẻ em hôm nay, dù là qua sự thờ ơ hay lạm
dụng thì lời cảnh cáo của Đức Giêsu chúng ta phải coi là rất quan trọng.
4. Rồi Đức Giêsu nói đến nguyên nhân của tội nằm trong chính
chúng ta. Một kẻ thù của con người nằm trong chính con người. Những cơ hội gây
ra tội phải bị đoạn tuyệt không chút thương tiếc. Đức Giêsu khuyên người ta
phải thực hiện những hy sinh đắt giá nhất để tránh xa tội lỗi, kể cả phải cắt
bỏ tay chân hoặc móc mắt mình.
Những lời này không thể được hiểu sống sượng theo nghĩa đen.
Đường hướng mà Đức Giêsu muốn đưa ra là người ta phải tránh xa tội nặng bằng
bất cứ giá nào. Chúng ta phải sẵn sàng làm bất cứ việc gì có thể làm được để
loại trừ điều ác ra khỏi đời sống chúng ta. Mục đích của Người là in sâu vào
tâm trí chúng ta không thể nào tẩy xóa được, rằng nước Thiên Chúa đáng cho
chúng ta hy sinh mọi thứ khác.
5. Đức Giêsu nói về hỏa ngục và so sánh nó với Ghê-hen-na,
Ghê-hen-na là một hẻm núi ở phía nam Giêrusalem. Có một thời, người ta giết các
trẻ nhỏ ở đó để tế thần Mô-lốc. Giô-xua đã chấm dứt việc thờ cúng đó, và sau
này nơi đó dùng làm nơi đổ rác và xác thú vật. Là một mảnh đất báo điềm gở, nó
trở thành biểu tượng cho nơi trừng phạt sau này.
Và lúc nào cũng thế, Lời Đức Giêsu đem lại cho chúng ta nhiều
điều để suy nghĩ. Nếu chú ý đến Lời Người, những việc chúng ta làm sẽ trở nên
tốt đẹp.
19. Tảng đá.
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Vì
thế, ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn hơn. Dù chúng ta có biết điều
đó hay không, chúng ta vẫn là tảng đá gây vấp ngã hoặc viên đá giúp cho người
khác vượt qua trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc. Ở đây xin đưa ra một vài thí
dụ về việc chúng ta có thể là cố gây ra sa ngã hay tảng đá gây vấp ngã cho
người khác.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn không tử tế hoặc bất công
trong cách đối xử với tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy rằng tôi là người xấu.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn làm tôi bị sỉ nhục chỉ vì
tôi không sống theo những gì bạn mong mỏi. Bạn làm tổn thương lòng tự hào của
tôi và làm hại hình ảnh mà tôi có về mình.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn hạ thấp tôi và đẩy tôi ra
phía sau. Khi bạn đứng dưới ánh đèn sân khấu, còn tôi buộc phải lùi về làm cái
bóng của bạn. Điều này làm tôi cảm thấy mình thấp kém.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn loại trừ tôi hoặc không
biết đến tôi. Bạn làm cho tôi cảm thấy mình là một người xa lạ hoặc một người ở
bên lề.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn luôn phê bình tôi một cách
bất công làm tôi chua cay vì sự vô liêm sỉ của bạn. Bạn làm lý tưởng tôi sụp đổ
và phá hủy những mơ ước của tôi.
Bạn là cớ gây vấp ngã cho tôi khi bạn trả tiền lương ít ỏi cho
tôi (xem Bài đọc 2). Bạn biến tôi thành nô lệ để bạn có thể sống như một ông
hoàng. Bạn làm tôi nghèo đi để làm giàu cho bạn.
Nếu bạn làm những điều đó cho tôi, bạn là bóng tối đối với tôi.
Bạn là một trở ngại trong đường lối của tôi. Bạn là một cớ gây vấp ngã, một
tảng đá làm tôi vấp ngã trên con đường phát triển của bản thân, và bạn làm cho
tôi khó đến được Nước Trời.
Nhưng bạn cũng có thể là viên đá vượt qua cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn nâng đỡ tôi trong những
lúc yếu đuối và nghi ngờ.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn làm tôi tin vào chính
mình, khi tăng thêm niềm tự tin cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi tôi cảm thấy không đầy đủ,
nhưng bạn giúp tôi khám phá các khả năng đặc biệt mà Thiên Chúa đã ban cho tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn đòi hỏi thách đố mà
không làm tổn thương tôi, trái lại giúp tôi trưởng thành và phát triển tiềm
năng của mình.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn chấp nhận tôi, dù những
người khác bỏ rơi tôi.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn từ chối hùa theo đám
đông để ném viên đá buộc tội và phán xét tôi khi tôi phạm tội.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn tha thứ cho tôi. Bạn
giải thoát cho tôi khỏi quá khứ của tôi, và tôi được tự do để lại tiến bước.
Bạn là viên đá vượt qua cho tôi khi bạn sử dụng tôi và trả lương
cho tôi một cách công bằng.
Nếu bạn làm cho tôi bất cứ điều nào như thế, bạn là ánh sáng cho
tôi trong bóng tối. Bạn là một bảng chỉ đường cho tôi trong những lúc nghi ngờ.
Bạn là một cái cầu bên trên dòng nước lo âu, bối rối. Bạn làm cho việc vào Nước
Trời của tôi được dễ dàng hơn.
Đức Giêsu nói nếu bạn đã cho tôi dù chỉ là một chén nước lã, bạn
sẽ được tưởng thưởng về điều đó. Nhưng bạn đã làm nhiều hơn thế. Bạn đã dẫn tôi
đến giếng nước của bạn và chia sẻ với tôi.
20. Hướng tâm hồn lên
Cha Zundel đã có định nghĩa nghe rất lạ tai nhưng cũng rất hay
rằng: "Thiên Chúa là khi bạn tốt". Nói như thế có nghĩa là bất kì khi
nào chúng ta "tốt", chúng ta đều là hình ảnh đích thực của Thiên Chúa,
trong suốt với Thiên Chúa và trở nên giống Thiên Chúa mọi đàng. Nhưng thế nào
là tốt? Một người được gọi là tốt thì phải như thế nào? Nếu liệt kê từng chi
tiết nhỏ thì có lẽ chúng ta không thể ra hết được. Nhưng chúng ta có thể nói,
một người tốt là người sống theo tinh thần Phúc Âm, mà cụ thể là sống theo tình
yêu thương như Chúa đã yêu.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta một tiêu chuẩn, một phương thế để
sống tình yêu là không ghen tị và ghen tương; không sống tinh thần cục bộ. Biết
sống đoàn kết trong tổ chức, trong nội bộ của mình là tốt, nhưng chưa đủ. Do
đó, chúng ta còn phải biết hướng nhìn về những người khác nữa. Nói cách khác,
chúng ta không được phép loại trừ những người khác phe nhóm với mình, khác tổ
chức của mình. Chúng ta cần phải sống tinh thần mà Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm
nay: "Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Các tông đồ của Chúa Giêsu ngày xưa cũng phạm phải tội ghen
tương và đầu óc cục bộ khi thấy có những người không thuộc nhóm các ông lại
nhân danh Chúa Giêsu mà trừ quỷ. Các ông nói với Chúa Giêsu câu chuyện ấy với ý
định là nhờ Chúa Giêsu cấm những người ấy không được phép làm những chuyện mà
các ông đang làm nhân danh Chúa, vì các ông nghĩ rằng chuyện trừ quỷ là ân huệ
chỉ dành riêng cho ông mà thôi. Nhưng Chúa Giêsu không những không làm theo ý
các môn đệ của mình mà còn sửa dạy các ông, giúp các ông biết mở lòng ra và
hướng tâm hồn lên để "nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn
thiện".
Ghen tị, ghen tương, đầu óc cục bộ không làm cho con người ta
lớn lên được mà chỉ quanh quẩn trong những chuyện nhỏ nhặt, kéo ghì con người
xuống. Vì thế, chúng ta rất cần sống tinh thần vui với người vui, khóc với
người khóc mà Thánh Phaolô đã dạy chúng ta. Điều này, mới nghe tưởng dễ nhưng
thực hành là điều rất khó. Có thể, chúng ta "khóc với người khóc thì dễ
hơn vì khi đó, chúng ta thấy mình ở trên người khác; may mắn hơn người khác,
thành công hơn người khác... Nhưng vui với người vui thì khó hơn nhiều. Bởi lẽ,
khi thấy người ta thành công hơn mình, may mắn hơn mình, ở vị trí cao hơn mình
thì khó lòng mà vui theo người ta được lắm. Nếu có thì chỉ ơ bên ngoài mà thôi,
còn trong lòng có thể mình đang bực tức lắm đây. Con người ta phức tạp lắm. Vì
thế, chúng ta cần phải hướng tâm hồn lên, bay cao lên trên những tình cảm tự
nhiên của chính con người mình để chúng ta không bị lệ thuộc vào những chuyện
nhỏ nhen, ích kỷ nơi ta, là nguyên dân làm tâm hồn ta không thể nâng lên cùng
Chúa được.
Câu chuyện có tính cách ngụ ngôn sau đây đã xảy ra tại thế kỷ
thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có hai viên sĩ quan nổi tiếng vì những đam
mê của mình. Một người thì ganh tị, một người thì tham lam.
Để chữa trị những tính xấu ấy, vua cho triệu tập hai viên sĩ
quan vào giữa triều đình. Vua thông báo sẽ tưởng thưởng hai viên sĩ quan vì
những phục vụ của họ trong thời gian qua. Họ có thể xin gì được nấy, tuy nhiên,
người mở miệng xin đầu tiên chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ
được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan đều đứng thinh lặng trước mặt mọi người.
Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người
kia. Còn người ganh tị thì lý luận: thà tôi không được gì còn hơn là mở miệng
nói trước để tên kia được gấp đôi... Cứ thế, cả hai đều suy nghĩ trong lòng và
không ai muốn lên tiếng trước. Cuối cùng, vua mới quyết định yêu cầu người ganh
tị nói trước. Người này lại tiếp tục suy nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên
tham lam kia được gấp đôi. Nghĩ như thế, hắn mới dõng dạc tuyên bố: "Tôi
xin được móc một con mắt...!". Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người
tham lam sẽ bị móc hai con mắt.
Lắm khi chúng ta không hài lòng về cái mình có và chúng ta cũng
không sung sướng khi người khác gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Không bằng lòng
về chính mình, chúng ta không được hạnh phúc, mà bất mãn về người khác, chúng
ta lại càng đau khổ hơn.
Tình trạng phe này đối nghịch với phe khác, đoàn thể này không
hợp với đoàn thể kia... hình như ngày nay càng càng gia tăng, đặc biệt là trong
xã hội văn minh và hiện đại như hôm nay. Ai cũng muốn cho công việc của mình là
độc quyền, không ai có thể thay thế được. Sợ rằng mình bị mất ảnh hưởng, sợ
mình không còn được ai nhắc đến, cần đến hay hết còn được đề cao nữa. Có một số
người nhất quyết không truyền lại "nghề" của mình cho bất cứ ai dù là
con hay cháu của mình. Gần đây, chúng ta chắc có nghe đến chuyện hai tập đoàn
viễn thông Viettel và Mobifone kiện cáo nhau vì cho rằng đối tác của mình
"chơi xấu" mình khi cố tình nói ra những chuyện không tốt của nhau,
để rồi cuối cùng ai cũng bị thiệt hại nặng nề cả! Vậy mà họ vẫn thấy vui khi
mình chỉ ra được cái xấu của người khác. Một niềm vui không quân tử và không
thánh thiện chút nào!
Chúng ta cũng dễ thấy tình trạng tôn giáo này nói xấu tốt giáo
khác, mục đích là loại trừ người khác và để nâng mình lên. Thật ra, truyền giáo
bằng cách nói xấu đạo khác, chê bai, chỉ trích người ta thì chắc chắn không
được ai kính trọng và nể phục bao giờ. Đó là chuyện làm của trẻ con quen làm,
chuyện của những đầu óc tiểu nhân, suốt đời chỉ mong làm những chuyện chia rẽ,
hạ bệ, gây đau khổ cho người khác.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãy sống hết lòng cho tình yêu
của Chúa và vui lòng chấp nhận anh em mình với những hoàn cảnh và tình trạng
của họ đang có. Đó là thái độ khôn ngoan của con người và là phương cách tốt
nhất giúp ta nâng cao tâm hồn mình lên để đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng ta
hãy trở nên tốt để chúng ta được chia sẻ hạnh phúc êm đềm với Chúa mãi mãi, vì
"Thiên Chúa là khi bạn tốt". Amen.
21. Kitô hữu trước điều thiện và
điều ác
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Tin nhận Đức Kitô không chỉ là đi theo Ngài đến những nơi mà
Ngài đã đi qua, mà còn là tham dự vào cách sống của Ngài, tức là thực thi giáo
huấn của Ngài. Cụ thể giáo huấn của Ngài hôm nay là giáo huấn về điều thiện và
điều ác.
- Chúa Giêsu đề cao giá trị các việc thiện, dù việc thiện ấy do
bất cứ ai làm và nhỏ đến đâu đi nữa. Ngày nay, người ta lên án nhiều về mọi
hình thức độc quyền: độc quyền về điện nước, độc quyền về xăng dầu, độc quyền
về sách giáo khoa,... Những thứ độc quyền này đã và đang hành hạ người dân và
làm tê liệt sự phát triển về kinh tế, giáo dục và nhiều lĩnh vực khác nữa.
Trong đời sống tôn giáo cũng có một thứ độc quyền mà Chúa Giêsu mạnh mẽ đả phá,
đó là độc quyền về ơn sủng, độc quyền làm điều thiện.
Đây là một vấn đề rất phổ biến trong lịch sử Dân Thánh. Câu chuyện
về ông Giôsuê trong Cựu Ước và ông Gioan trong Tân Ước mà Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay trưng dẫn cho ta thấy điều này. Sau khi được báo cáo cho biết có những
người trong trại đã nói tiên tri, ông Giôsuê rất lấy làm khó chịu và bẩm báo sự
việc cho ông Môsê (x. Ds 11,26-28). Cứ theo lời lẽ ông nói, thì ông muốn việc
nói tiên tri là độc quyền của một số người nhất định, chứ không phải ai muốn
nói là nói.
Tương tự, khi thấy một số người mặc dù không thuộc nhóm các môn
đệ của Chúa Giêsu mà lại ra tay trừ quỷ, ông Gioan tìm mọi cách để can ngăn.
Ông hãnh diện về việc này và kể công với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, có người lấy
danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cấm, vì người ấy không theo chúng
ta” (Mc 9,38). Cứ ngỡ sẽ được Chúa Giêsu khen, ai ngờ ông bị Chúa Giêsu “sửa
lưng”: “Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ,
rồi sau đó lại nói xấu về Thầy” (Mc 9,39). Rất rõ ràng, quan điểm của Chúa
Giêsu là việc tốt, việc thiện, việc lành do bất cứ ai làm nhân danh Ngài đều có
giá trị.
Hơn thế nữa, một việc tốt, việc lành, nhất là việc phục vụ anh
chị em đồng loại, dù nhỏ bé tầm thường đến mấy vẫn không mất công phúc: “Thầy
bảo thật anh em, ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng
Kitô, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mc 9,41). Ta có thể cho nhiều hay
cho ít, điều đó không quan trọng. Ðiều quan trọng là ta đã cho “như thế nào”,
bao nhiêu tình yêu mến được đặt vào nghĩa cử mà ta làm cho người khác. Ðôi khi
chỉ cần cho một chén nước lã mà lại được ghi công. “Cho một chén nước lã” là
một cử chỉ tầm thường, nhỏ bé, song lại lớn lao trước mắt Thiên Chúa khi được
thực hiện nhân danh Người, nghĩa là thực hiện vì lòng yêu thương. Giá trị của
nó còn nằm ở chỗ “làm cho những kẻ bé mọn là làm cho chính Chúa” (x. Mt 25,40).
Đây là một mạc khải đầy bất ngờ. Bất ngờ vì chính Chúa Giêsu đã “đồng hoá” mình
với những kẻ thấp hèn bé mọn. Từ nay, việc bái ái yêu thương mà ta làm cho anh
em đồng loại nhân danh Chúa, nhất là cho những kẻ bé nhỏ, không chỉ đơn thuần
là việc thuộc về “đức ái đối nhân”, tức là việc nhân ái giữa người với người;
mà, hơn thế, còn là việc thể hiện “đức ái đối thần”, tức là việc yêu thương đối
với chính Chúa. Cái phúc cái phần ấy thế mà được nhân lên gấp bội.
- Về việc tốt việc thiện là vậy, còn về việc xấu việc ác thì
sao? Cũng trong chiều hướng trên, Chúa Giêsu cảnh tỉnh chúng ta trước những
việc xấu việc ác dù nhỏ. Nhất là làm cớ, hay là làm gương xấu cho những kẻ bé
mọn sa ngã là tội lớn, tội đáng “buộc cối đá vào cổ mà ném xuống biển”. “Buộc
cối đá vào cổ mà ném xuống biển” là cầm chắc cái chết, dù có là vận động viên
bơi lội, vì không còn trồi lên được. Đây là một trong hai hình phạt nặng nề đối
với người Dothái thời bấy giờ. Qua giáo huấn này, Chúa Giêsu muốn đặc biệt lưu
tâm đối với các bậc cha mẹ, thầy cô, bề trên,... là những người có trách nhiệm
giáo dục hướng dẫn người khác.
Không chỉ dừng lại ở đó, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta can đảm
và dứt khoát tránh chiều theo những cám dỗ, những thói hư tật xấu làm cho chính
mình sa ngã. Dứt khoát với sự xấu, sự tội cũng giống như chặt tay, chặt chân,
móc mắt… nghĩa là phải sẵn sàng hy sinh.
“Mắt” đối với ngưới Do thái, là cửa ngõ của con tim, là lối vào
của tâm hồn (gần với quan niệm của người Việt Nam: mắt là cửa sổ tâm hồn). Tội
tư tưởng thường đến từ đôi mắt. Cũng theo quan niệm của người Dothái, “tay
chân” diễn tả hành động. “Chặt tay chặt chân” nghĩa là phải dứt khoát với các
duyên cớ dẫn đến hành động tội lỗi. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho ta thấy rằng dứt
khoát với tội lỗi không dễ chút nào. Tội lỗi một khi đã thấm vào người, nó trở
nên như một phần bản thân. Dứt bỏ nó cũng đau đớn như chính những chi thể trong
thân thể bị chặt bỏ, cắt lìa. Ta hãy xem những người bị nghiện ngập ma tuý
chẳng hạn. Cơn nghiện vật vã giày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người
nghiện, ma tuý trở thành một phần thiết thân của đời sống, đến nỗi khi phải dứt
lìa, họ đau đớn khổ sở như thể đánh mất chính sự sống của họ vậy.
Đặt mình trước giáo huấn của Chúa Giêsu hôm nay, chúng ta được
mời gọi có những phản tỉnh nào? Đối với những điều thiện tôi đã bỏ qua không
làm, hay làm không ý thức: tôi đã đánh mất bao nhiêu cơ hội để làm điều thiện,
vì cho rằng đó là điều nhỏ? Bao nhiêu lần tôi làm điều thiện, điều tốt mà tôi
không ý thức làm vì danh Chúa Kitô?
Đối với những điều xấu, điều tội: bao nhiêu lần tôi đã tích lũy
án phạt vì đã làm cớ cho người khác vấp phạm, sa ngã? Bao nhiêu lần tôi đã
thiếu dứt khoát đối với các dịp tội và đã chiều theo cám dỗ để rồi sa ngã phạm
tội đều đều?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta biết thành tâm kiểm thảo mình
mỗi ngày và can đảm điều chỉnh lại lối sống của mình cho phù hợp với giáo huấn
của Tin Mừng hôm nay. Amen.
22. Óc ganh tỵ.
Khi ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức
Giêsu làm nhiều phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng
nhờ danh Chúa mà cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và
họ cũng làm được một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm
họ và báo cáo lại cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm vậy là đúng, bởi vì những
người đó không phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà
làm phép lạ. Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu
rất hay mà chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại Ta thì
thuộc về Ta”.
Qua câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tỵ
đã có sẵn trong con người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con
người ngay trong thời Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những
người thân cận của Chúa, như ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào
Đất Hứa, như chính thánh Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó
là óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa. Nói “Óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa “bởi
vì ganh tỵ có tới ba cấp bực:
. Cấp thứ nhất là ganh tỵ: đó là thói xấu khiến cho người ta khó
chịu bực bội khi thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình
hoặc còn hay hơn, tốt hơn mình nữa.
. Cấp thứ hai là ganh tỵ bè phái: là ganh tỵ với người không
thuộc phe nhóm của mình.
. Cấp thứ ba là ganh tỵ bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những
người tín hữu Chúa, những người có đạo ganh tỵ với những người không có đạo khi
những người không có đạo này làm được những điều hay điều tốt.
Phải nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ
lý luận rằng bởi vì Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình
phải là đạo tốt nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được
những việc hay việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này
điều nọ thì nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế
nhưng người ta đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực,
tìm cách nói xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không
thuộc đạo của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão
lụt. Các tổ chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người
công giáo rất hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ
chức. Cũng có những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một
số người Công giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho
rằng họ sẽ chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum,
phẩm vật cứu trợ không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái
óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa.
Nhưng Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một
nguyên tắc “Ai không chống lại Ta thì phải kể như là thuộc về Ta”. Nguyên tắc
này độc đáo vì nó đi ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước
tới giờ. Người ta thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai
không phải là bạn ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù
ta thì cũng là kẻ thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự
tôn và độc tôn: chỉ có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không
thuộc về phe nhóm mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở,
rộng lượng, nới rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống
lại ta, cho dù người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng
phải hợp tác với họ.
Giữa xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con
số nhỏ. Nếu những người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ
sẽ trở thành lẻ loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực
hành nguyên tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hòa với những người
khác, sẽ có rất nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao
nhiêu điều tốt mà Chúa muốn họ làm.
Vả lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc
tốt, mà Chúa muốn cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những
người có đạo chúng ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên
việc tốt đó, phải ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những
việc tốt đã được làm.
Chúng ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng
ganh tỵ, đừng giữ đầu óc bè phái… nhưng cố gắng sống chan hòa với mọi người,
cùng với mọi người thực hiện những điều tốt, những việc làm có ích cho tha
nhân, cho xã hội.
23. Hãy tránh xa dịp tội – Lm. Vũ Xuân Hạnh.
Một đàng Chúa Giêsu đưa ra những hình phạt rất quyết liệt và
kinh khủng dành cho những ai phạm tội: "Nếu kẻ nào làm cớ vấp phạm cho một
trong những kẻ bé mọn có lòng tin Thầy, thà buộc thớt cối xay vào cổ người ấy
mà xô xuống biển thì hơn. Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi:
thà con mất một tay mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai tay mà phải vào hỏa
ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt
chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn có đủ hai chân
mà phải ném xuống hỏa ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó
đi, thà con còn một mắt mà vào Nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà
phải ném xuống hỏa ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề
tắt". Chúa không nói là tội gì sẽ xử như thế nào, không hề phân biệt mức
độ của tội và hình phạt dành cho tội, mà chỉ nói một cách quá chung chung. Hình
như cứ có tội là phạt và chi thể nào làm cớ cho ta phạm tội, bất luận là tội gì,
cần phải loại trừ chi thể ấy? Khi nói những lời như thế, xem ra Lời của Chúa
không chỉ quyết liệt mà còn độc ác?
Dù Chúa dạy như thế, nhưng trong thực tế, Giáo Hột chẳng bao giờ
thực hiện. Suy nghĩ xa hơn một chút, ta thử tưởng tượng mà xem, nếu Giáo Hội sử
dụng hình phạt dành cho tội như Chúa đã dạy, sẽ xảy ra hai tường hợp: Trường
hợp 1: Thế giới này sẽ có một Giáo Hội bi đát, khủng khiếp và rùng rợn không
thể tưởng tượng: một Giáo Hội toàn là những người bị thương, bị tật, bị què, bị
cụt..., vì không ai là không phạm tội, và phạm tội rất nhiều lần trong suốt
cuộc đời của mình. Trường hợp 2: Giáo Hội sẽ không tồn tại, vì không có người.
Chắc chắn không ai dám gia nhập vào một Giáo Hội tàn nhẫn như thế. Chẳng những
không bao giờ thực hiện những điều ấy, mà Giáo Hội còn dạy những điều ngược
lại, ngược hoàn toàn. Sách Giáo lý Công giáo của Giáo Hội đòi phải "Tôn
trọng sự toàn vẹn của thân thể". Sách Giáo lý cho biết: "...Tra tấn
thể xác hay tinh thần để điều tra, để trừng phạt tội phạm, đe dọa đối phương,
để trả thù, là điều nghịch với sự tôn trọng con người và phẩm giá con
người".
Ngoài những trường hợp trị liệu, việc cố tình cắt bỏ, hủy hoại
hoặc triệt sản, thực hiện trên những người vô tội đều nghịch với luật luân
lý" (GLCG 2297).
Ta vẫn biết Lời Chúa là sự thật, là Lời ban sự sống, nhưng trong
trường hợp này ta phải hiểu thế nào? Giáo Hội và Chúa Giêsu, ai đúng, ai sai?
Thực ra chẳng ai sai hết. Lời Chúa mãi mãi vẫn là Lời chân lý,
Lời ban sự sống. Ngày nào Giáo Hội còn tin Chúa Kitô, còn nhận Chúa Kitô làm
Cứu Chúa của mình, ngày ấy Giáo Hội vẫn phải sống và rao giảng Lời Chúa Kitô,
và giáo lý của Giáo Hội vẫn phải phù hợp thánh ý Chúa. Về phía Chúa Giêsu, khi
nói những lời xem ra quá sức quyết liệt và nặng nề như thế, Người muốn cho thấy
sự trầm trọng của gương xấu, của chước cám dỗ, của những dịp tội, và xác định
mối nguy hại có khi không nhỏ mà nó gây ra cho mỗi người. Qua đó, Người cho
thấy cuộc chiến chống lại dịp tội, chống lại chước cám dỗ là một cuộc chiến
lớn. Cuộc chiến ấy đòi hỏi một thái độ dứt khoát triệt để; một sự từ bỏ đến mức
như không còn kể đến chi thể của mình; một sự hy sinh chẳng những không khoan
nhượng nhưng có khi còn thiệt thòi, còn đau xót, còn cảm thấy mất mát về mặt
vật chất và thân xác. Tất cả những điều ấy là để chiếm lấy đời sống vĩnh cửu.
Nói như thế là hiểu nghĩa bóng. Còn hiểu nghĩa đen: giá trị của sự sống vĩnh
cửu quan trọng cho đến mức, nếu cần phải đánh đổi, ta sẵn sàng chấp nhận hy
sinh chính bản thân mình để giữ lấy sự sống ấy.
Ngoài ra, ta còn phải lưu ý: Lời Chúa Giêsu là lối nói cụ thể,
thường gây cho người nghe cảm giác nghịch lý. Vì thật vô ích, khi phải tìm xem
những tội nào có nguy cơ xuất phát từ bàn tay, bàn chân hay con mắt... Mặt
khác, dù có cắt bỏ bất cứ một phần chi thể nào, hình như đều là sự vô ích, vì
như thế chưa hẵn là đã loại trừ được nguy cơ phạm tội. Vì người ta phạm tội đâu
phải chỉ do bàn tay, bàn chân hay đôi mắt, nhưng là cả con người của mình từ
suy nghĩ, lời nói đến hành động. Nói cho cùng, sự trừ tuyệt đối với sự dữ là
một đòi hỏi đắt giá. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy giá trị tuyệt đối của sự sống,
của hạnh phúc Nước Trời. Đó cũng là tiêu chuẩn vượt trên mọi tiêu chuẩn mà con
người phải chọn lựa.
Bạn thân mến, người ta kể rằng, trong một khu rừng nọ có một con
thỏ cái sống bên cạnh một đàng thỏ con. Ngày nọ, khi các con đã lớn, thỏ mẹ dẫn
chúng ra đồng tìm mồi. Bỗng dưng từ đàng xa, xuất hiện một tiếng rống nghe rất
dữ tợn. Tức khắc, gương mặt thỏ mẹ hiện rõ nét lo sợ. Nó vội làm hiệu cho các
con về hang ẩn núp. Tuy nhiên, có một chú thỏ con tò mò và hiếu kỳ, muốn biết
tiếng rống to đó là gì. Nó tách khỏi đàng, trốn mẹ, trốn anh em nấn ná ở lại để
xem cho bằng được. Tiếng rống mỗi lúc một gần hơn. Chẳng bao lâu sau, từ phía
tiếng rống ấy, không chỉ có tiếng rống mà còn xuất hiện một con hổ to. Thỏ con
không biết là hổ nhưng bắt đầu cảm thấy sợ, khi chứng kiến một bộ mặt đầy sát
khí, mắt và miệng thật to, hàm răng lởm chởm và những chiếc răng nanh thật dài
trông khủng khiếp. Thỏ con quá sợ hãi, co chân chạy thật nhanh. Nhưng chính lúc
thỏ con di động, là lúc nó gây sự chú ý cho con hổ. Chỉ cần một cú nhảy thật
nhanh của con hổ độc ác, thỏ con đã nằm gọn trong miệng nó.
Hôm nay Chúa nói với tôi và bạn: Nếu tay hay chân, hay mắt ta
nên dịp tội thì hãy chặt, hãy móc nó mà quăng đi, có khác nào Chúa muốn ta hãy
tránh xa dịp tội! Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ liều thân nhảy vào dịp tội,
đừng bao giờ tò mò đối với những hoàn cảnh nguy hại đến đức tin, đúng hơn đến
sự sống vĩnh cửu của mình. Chú thỏ con tội nghiệp kia chỉ vì tò mò muốn biết
tiếng rống khủng khiếp là gì, đã không tránh xa hoàn cảnh có thể đưa tới cái
chết. Không tránh xa sự nguy hiểm, thỏ con đã tự nộp mình cho sự chết. Bạn và
tôi, nếu không lánh xa dịp tội, nếu không ý thức mình yếu đuối, mỏng dòn, sự sa
ngã do cố ý là điều khó tránh khỏi. Tội là sự chết của tâm hồn. Tránh xa dịp
tội là tự cứu mình thoát chết.
Bên cạnh nỗ lực của bản thân để không phạm tội, chúng ta không
được phép quên một nguyên tắc khó lòng thay đổi: Đời sống cầu nguyện. Con người
không thể làm gì mà không cần đến ơn Chúa. Điều ấy càng đúng đối với đời sống
thiêng liêng của ta. Bởi thế, lãnh bí tích; đọc kinh cầu nguyện; thánh lễ; đọc,
lắng nghe và suy niệm Lời Chúa... là những phương tiện giúp ta thêm mạnh mẽ để
chống lại chước cám dỗ, và cũng để ta luôn tắm mình trong ơn Chúa. Hãy nhớ
rằng, khi gần Chúa ta sẽ dễ xa cách tội. Nhưng nếu để mình xa Chúa, ta sẽ dễ
gần tội.
24. Sống yêu thương hiệp nhất
Ngày nay, người ta sống gần gũi với nhau hơn bao giờ hết. Sự gần
gũi sẽ ảnh hưởng giữa con người với nhau càng lớn mạnh và quyết liệt hơn. Có
thể nói con người ảnh hưởng tốt đến người khác và ngược lại. Nói cách khác, nếu
không tỉnh táo và ý thức, chúng ta có có thể gây cớ vấp ngã cho người khác khó
vượt qua trở ngại trên con đường dẫn đến ơn cứu chuộc.
Phúc âm hôm nay cho chúng ta cái nhìn về điều đó.Ông Gioan ngăn
cản những người không theo "phe" mình, không thuộc nhóm mình. Tưởng
mình làm như vậy là điều tốt và có thể sẽ làm cho Chúa Giêsu hài lòng nên ông
đem việc này kể công với Chúa Giêsu:"Thưa Thầy, chúng con thấy có người lấy
danh Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng
ta" (Mc 9, 38). Ông Gioan rất có lý khi ngăn cản những người không cùng
hội cùng thuyền với mình mà dám ngang nhiên "trổ tài oanh liệt". Họ
không phải là những người chính uy. Họ không được cấp giấy phép hành nghề. Họ
phải ngưng mọi hoạt động. Sao mà có thể chấp nhận hành động của họ được!
Thế nhưng Gioan không ngờ rằng Chúa Giêsu đã sửa lại quan điểm
cục bộ, hẹp hòi của ông bằng bài học mới. Chúa Giêsu dạy biết sống cởi mở và quảng
đại với mọi người: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa
Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu về Thầy. Quả thật, ai
không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta." (Mc 9, 39 - 40). Tình thương
và ý muốn của Thiên Chúa thì kỳ diệu và tuyệt vời lắm thay! Đường nẻo Chúa làm
thay đổi tư tưởng cục bộ và não trạng hẹp hòi của nhân loại. Tình thương Chúa
dành cho hết mọi người.
Người môn đệ Chúa Giêsu phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như
Thầy, sẵn sàng bắt tay hợp tác với mọi người và có thể mời mọi người cộng tác
vào những việc hữu ích chung, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh
thần quảng đại của Chúa Giêsu không biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc
trong một phe nhóm hay một tổ chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi
khác biệt. Có gì tuyệt vời cho bằng chân lý yêu thương của Chúa Giêsu được hết
mọi người thuộc mọi tôn giáo cùng nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện. Bất cứ
người tốt việc tốt từ đâu, ở phía nào cũng đều được chấp nhận. Bất cứ hành động
công bằng nào đều được Chúa thưởng công, dù chỉ là một nụ cười tươi, một ly
nước lã: "ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng
Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu" (Mc
9, 41). Ngược lại Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho
người nào vấp phạm. Hơn nữa, bản thân chúng ta can đảm dứt khoát nói không với
tội ác, sự xấu. Vậy chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính
mình khỏi vấp ngã, và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương
xấu cho người khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt
nặng nề đời sau.
Chúng ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình nhưng hãy
sống chan hoà yêu thương và chia sẻ sự sống, hạnh phúc cho mọi người. Mỗi người
cần phải nghĩ đến người khác ngay trong suy nghĩ, thái độ ứng cử và cach thức
hành động để trở nên gương sáng cho người khác. Hãy sống tinh thần yêu thương,
vô vị lợi theo gương Chúa Giêsu. Hãy sống trong tinh thần hiệp nhất trong Chúa
(Ga 17, 21).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết sống quảng đại, liên đới
với nhau trong yêu thương và hiệp nhất với mọi người. Xin cho tình thương của
Chúa được thể hiện trong cuộc đời chúng con và mọi người được biết đến. Xin cho
chúng con trở thành khí cụ yêu thương và hiệp nhất trong tình yêu Chúa. Amen.
25. Tin Mừng dữ dội – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Đọc Tin Mừng Chúa Giêsu, đọc giả có lúc cười lúc khóc, có khi
cảm nhận được sự xoa dịu ủian hay thôi thúc tỉnh thức, có lúc cảm thấy bị chói
tai, bị cay cú… Tin Mừng nluôn nói lên những chân lý và dạy những bài học thích
đáng.
Suy niệm trang Tin Mừng (Mc 9,42-48), Linh mục Nguyễn Hồng Giáo
dùng cụm từ “Tin Mừng dữ dội”.
Đầu đề “Tin Mừng dữ dội” chắc sẽ làm cho nhiều người ngạc nhiên
thắc mắc. Tin Mừng của Chúa Giêsu mà dữ dội sao? Chẳng phải là Tin Mừng toát ra
một bầu khí yêu thương, hiền hoà, bao dung, yêu chuộng hoà bình và bất bạo động
bao trùm đó sao? Tôi đồng ý như thế, tôi vẫn biết là có vố số những người đã
tìm thấy trong lời dạy về tình thương và thái độ bất bạo động nguyên lý cho sự
dấn thân xã hội, chính trị của họ, ví dụ như ba khuôn mặt còn khá quen thuộc
với nhiều người trong chúng ta là Mẹ Têrêxa Calcutta, mục sư Tin Lành Martin
Luther King và nhà anh hùng Ấn Độ Mahatma Gandhi. Dầu vậy, tôi cứ vẫn thấy Tin
Mừng của Chúa là dữ dội, ngay cả hay đúng hơn nhất là Bài giảng trên núi (Mt
các chương 5, 6, 7) mà Gandhi lấy làm một nguồn cảm hứng cho cuộc đấu tranh hoà
bình của mình chống lại thực dân Anh, dành độc lập cho đất nước.
Tin Mừng dữ dội với các đòi hỏi gắt gao: "Nếu tay hoặc chân
anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; thà cụt tay cụt chân mà vào
cõi sống còn hơn là có đủ hai hai tay hai chân mà bị ném vào lửa đời đời. Nếu
mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; thà chột mắt mà được vào
cõi sống, còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào lửa hoả ngục" (Mt 18,
8-9; x. Mt 5, 19-20).Cần hy sinh những gì đưa chúng ta tới tội trọng và phải
biết dám liều mình, hy sinh đến cả mạng sống mình để đáp lại tiếng gọi của
Thiên Chúa. (x.nguoitinhuu.com)
Lời Chúa hôm nay cho thấy tính chất “dữ dội” của Tin Mừng.
Phải tránh gương mù gương xấu “Nếu ai làm cớ cho người khác phạm
tội, thì thà buộc cối đá vào cổ nó mà quẳng xuống biển còn hơn”.
Phải quyết liệt và dứt khoát với dịp tội“chặt tay, chặt chân,
móc mắt” khi những chi thể này là nguyên nhân phạm tội. ĐGM Arthur Tonne gọi đó
là những lời đẫm máu và rùng rợn. Noel Quesson nói: dù là những kiểu nói vùng
Sêmít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của
những câu đó.
M. Quesnel tự hỏi: Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng
tiêu biểu cho những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước
muốn xấu (Mc 7,21-22). Chúa Giêsu bảo là hãy dứt khoát "chặt đi" bất
kỳ sự vật, người hoặc hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của
điều mà Phúc Âm gọi là "từ bỏ chính mình" (x. Mc 8,34).
Tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà nếu mất đi một thì
cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng cái một là một
kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe (Fiches Dominicales).
Tay mắt và chân tượng trưng cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám
phá nơi bản thân hoặc trong các quan hệ bên ngoài. “Chặt bỏ" một tật xấu
một thói quen, "cắt đứt" một mối liên hệ nguy hiểm. Tính dữ dội biểu
lộ nơi thái độ chọn lựa dứt khoát và quyết liệt với tội lỗi.
Cũng như người bệnh, phải phẫu thuật, phải cắt bỏ khối u, cắt bỏ
phần thân thể nhiễm độc để bảo toàn mạng sống, Chúa bảo chúng ta phải quyết
liệt với tội lỗi cho dù phải “chặt tay, chặt chân, móc mắt”. Chúamuốn nhấn mạnh
đến giá trị tuyệt đối của “sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, đó là tiêu chuẩn
tối hậu của mọi chọn lựa của con người.Biết bao nhiêu người đã chịu thiệt thòi,
thậm chí dám chấp nhận cái chết vì trung thành với tất cả các đòi hỏi “dữ dội”
của Tin Mừng.
Đời sống Kitô hữu cần được cắt xén, gột rửa, từ bỏ để tăng
trưởng, sinh nhiều hoa trái “Nhánh nào không sinh quả thì Thiên Chúa chặt bỏ,
còn nhánh nào sinh quả thì Ngài tỉa sạch để nó sinh quả nhiều hơn” (Ga 15,1-2).
Có những lời dạy của Tin Mừng, mới nghe qua thì rất "nhẹ
nhàng", nhưng gẫm sâu hơn lại thấy vô cùng dữ dội, ví dụ: "Ai đến với
tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa,
thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26). "Không ai có thể làm
tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền
Của được" (Mt 6, 24); "Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: 'Chớ
giết người'; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh
em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ
ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân
phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt" (Mt 5, 21-22); "Anh em
đã nghe Luật dạy rằng: 'Chớ ngoại tình'. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai
nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì lòng đã ngoại tình với người ấy rồi"
(Mt 5, 27-28); "Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con
phải tha thứ đến mấy lần? Có phải bảy lần không? Đức Giêsu đáp: 'Thầy không bảo
là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 21-22); "Anh em đã
nghe Luật dạy rằng: 'Mắt đền mắt răng đền răng'. Còn Thầy, Thầy bảo anh em:
đừng chống cự người ác, trái lại nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má
bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho
nó lấy cả áo ngoài..." (Mt 5, 38-40). Hoặc: "Anh em đã nghe Luật dạy:
'Hãy yêu đồng loại và hãy ghét kẻ thù'. Con Thầy. Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ
thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em..."(Mt 5, 43-44).
Tin Mừng dữ dội là do sự đòi hỏi vô cùng của sự hoàn thiện và
tình thương của Cha trên trời mà các môn đệ Chúa Giêsu, vốn là những con người
yếu đuối và tội lỗi, phải noi theo (x. Mt 5, 48 và Lc 6, 36). Giáo lý Tin Mừng
không hề kêu gọi bạo lực nhưng nó đòi hỏi người tín hữu phải quyết liệt với
mình, làm mạnh với mình, dám dùng "bạo lực" với mình, nếu nói được
như thế, bởi lẽ nó bắt ta đi ngược với xu hướng tội lỗi vốn ăn sâu trong ta, đi
ngược với sự khôn ngoan thế gian nữa. (Lm Nguyễn Hồng Giáo).
Gương xấu và làm dịp tội cho người khác gây tai hại và nguy hiểm
vô cùng. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời
sau. Phải tránh gương mù gương xấu. Mỗi người có thể gây dịp tội khiến người
khác sa ngã, và đôi khi thân xác mình lại có thể là dịp tội cho chính mình.
Càng tránh dịp tội, càng ít phạm tội.
Có câu chuyện ngụ ngôn “Đại hội cái búa” kể về nỗi lo sợ của các
loại cây trong rừng, từ cây cổ thụ cho đến những cây nhỏ đều sợ Cái Búa của
người đốn cây. Hễ búa đi đến đâu là là cây cối đều ngã rạp đến đó.
Một hôm, cây cối họp đại hội, bàn cách đối phó với Cái Búa. Để
chứng tỏ rằng việc làm của tất cả cây rừng là công khai, và Búa cũng được mời
tham dự Đại hội này.
Sau một lúc bàn bạc sôi nổi, Đại hội đi đến kết luận: Cương
quyết không cho Búa bất kỳ một khúc gỗ nào để làm cán cả. Búa mà không có cán
thì làm được việc gì bây giờ. Tất cả cây rừng từ nhỏ đến lớn đều hoan hỉ về
quyết định này. Dù một khúc gỗ cũng không cho!
Bấy giờ, Búa đưa tay xin phát biểu với giọng nài nỉ đáng thương:
Xin quý vị niệm tình, thân tôi mà không có cán như người tật nguyền không tay
chân, xin hãy cho tôi một lần này nữa thôi, tôi sẽ chỉ dùng Búa vào những việc
tốt, tôi chỉ chặt những gai góc làm vướng chân quý vị mà thôi!
Trước lời thỉnh cầu tội nghiệp của Búa, cả Đại hội liền có sự
chia rẽ vì khác quan điểm. Hội nghị phải đi đến việc biểu quyết lại. Kết quả là
đa số bằng lòng cấp cho Búa một khúc gỗ duy nhất làm cán. Nhưng hỡi ôi! Khi Búa
đã có cán rồi, nó bèn lần lượt đốn hết những cây trong rừng, từ cây non cho đến
cây cổ thụ.
Bạn chỉ cần cho tội ác một cơ hội thôi, là bạn sẽ hối tiếc cả
cuộc đời! Tội lỗi huỷ hoại đời người như sự hung hãn của núi lửa. Tội lỗi tàn
phá cơ thể như bệnh ung thư. Tội lỗi gây hậu quả lâu dài như những đổ vỡ trong
Gia đình, hầu như không bao giờ hàn gắn được!
Bạn đừng cho tội ác một cơ hội nào hoành hành, dù chỉ là một một
sự dễ dàng cỏn con. Hãy chống trả, hãy cự tuyệt và tránh xa nó! “Đừng để ma quỷ
lợi dụng!” (Ep 4, 27).
Cái xấu có khả năng lây lan rất nhanh. Tiếp cận với lời “dữ dội”
của Tin Mừng sẽ giúp bạn tránh xa dịp tội và gương xấu. Nhờ đó, bạn sẽ làm chủ
những đam mê như vui, buồn, sợ, giận, yêu, ghét, ham muốn trong mọi mối tương
quan.
Cái đẹp, cái tốt, cái chân thật, thường loan truyềntheo chiều
rộng và chiều xa. Sống Tin Mừng giúp bạn đem đến cho cuộc đời những nét đẹp,
cuộc sống thêm ý nhị đậm đà và nhiều niềm vui hạnh phúc hơn.
26. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ
(Giải thích và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn này dường như là một tổng hợp những chất liệu khác biệt.
Ở cc. 38-41: Ta thấy điều đó ngay
khi nhìn bề ngoài nơi việc thay đôi thường xuyên các nhân vật: Gioan nói ở ngôi
thứ nhất số nhiều, Đức Giêsu trả lời ngay bằng một câu ở ngôi thứ nhất số ít,
rồi bằng một câu khác ở ngôi thứ nhất số nhiều và cuối cùng, ở c. 41 thì ngỏ
lời với các môn đệ (hymas, “anh em”). Rồi, c. 41 nối với c. 37 thì khớp hơn là
nối với cc. 38-40. Khối cc. 38-40 dường như là một đơn vị độc lập được viết
nhằm giải quyết một một vấn đề cụ thể của cộng đoàn, với nội dung và cấu trúc
sê-mít: c. 39 là một mệnh đề điều kiện theo kiểu Sê-mít; c. 10 có giọng văn một
cách ngôn. Dường như c. 41 được ghi giữ lại trong Mt 10,42, ở dạng cổ hơn: “Và ai
cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi…”; bản văn
nói về đề tài “những kẻ bé nhỏ” đã được tác giả Mc chuyển thành đề tài “các môn
đệ”.
Đến cc. 42-48, chúng ta cũng nhận
thấy có những câu nói thuộc các thể văn khác nhau. Dường như c. 42 tiếp nối đề
tài những kẻ bé mọn của cc. 37 và 41. Các câu 43, 45 và 47 có cùng một cấu trúc
và lặp lại nhịp nhàng đề tài cớ làm sa ngã. Có thể nói, các tư tưởng được liên
kết với nhau chỉ về mặt từ ngữ, bằng những “từ móc nối”. Điều đó đặc biệt rõ
ràng trong cc. 48-50: “lửa” ở c. 48 đưa đến “lửa” ở c. 49; tại đây “(ướp bằng)
muối” đưa tới “muối” ở c. 50. Nhưng trước đó, động từ “làm cớ sa ngã” làm cho
cc. 42-48 được thống nhất. Và thuật ngữ “vì danh” móc nối cc. 37 (“vì danh
Thầy”), 38-39 (“vì danh Thầy, “vì danh Ta [Thầy]”) và 41 (“vì lẽ anh em thuộc
về Đấng Kitô” diễn tả trong hy ngữ là en onomati hoti, là một kiểu nói Sê-mít).
Ngoài ra “một em nhỏ như em này” ở c. 37 móc nối với “một trong những kẻ bé mọn
đang tin đây” ở c. 42 (cho dù trong hai câu ấy có hai từ khác nhau: paidion /
micro).
Tuy đây là một bản văn gồm những tư tưởng được liên kết với nhau
bằng những “từ móc nối”, nhưng khi đã thành một đơn vị văn chương, và đưa vào
trong tác phẩm, hẳn tác giả phải có một chủ ý khi đặt nó vào một chỗ nhất định.
Đây là một cuộc chuyện trò giữa Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai: Đức
Giêsu ngồi (tư thế của vị thầy). Truyện diễn ra “ở nhà” (c. 33), một ngôi nhà
ta không biết rõ ai là chủ và toạ lạc ở đâu. Ở đây, ngôi nhà được xác định là
tại Caphácnaum, nhưng ta vẫn có thể gặp ở nơi khác, mỗi khi Mc cần có để diễn
tả sự kín đáo thân mật trong những giáo huấn Đức Giêsu ban riêng cho các môn
đệ, tách khỏi đám đông (7,17; 9,28; 10,10). Trong cuộc trò chuyện, Đức Giêsu
nhấn mạnh rõ ràng đến mối nguy đe doạ cộng đoàn khi các môn đệ còn tìm cho được
ăn trên ngồi trước.
Cuối cùng, Mc 9,35-50 đến sau lời loan báo Thương Khó lần thứ
hai. Từ 8,31 đến 10,45, có ba lời loan báo Thương Khó, mỗi lời đều có kèm theo
những mẩu chuyện minh họa tình trạng tăm tối không hiểu của các môn đệ, khiến
Đức Giêsu lại có cơ hội ban một giáo huấn về tình trạng cộng đồng sinh mệnh
giữa Người và các môn đệ. Riêng ở đây, sau lời loan báo lần hai, vì các môn đệ
còn quan tâm đến việc “trên trước”, Đức Giêsu dạy cho họ biết đâu là đường lối
của Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Tuy bản văn rất tản mạn, chúng ta có thể chia thành hai đơn vị:
1) Người ở ngoài nhóm (cc. 38-41);
2) Các cớ làm sa ngã (cc. 42-48).
3.- Vài điểm chú giải
- Người lấy danh thầy mà trừ quỷ... không theo chúng ta (38-40): Trong
Cựu Ước, có một đoạn song song với câu truyện này, đó là câu truyện Enđa và
Mêđa không đến họp mà cũng tuyên sấm (Ds 11,26-30; x. Cv 8,18; 19,13-14). Môsê
đã tỏ thái độ khoan dung. Trong bài tường thuật Mc, người trừ quỷ đã sử dụng
danh Đức Giêsu như một thứ khí cụ đầy sức mạnh (x. Mc 1,24; 5,7). Đức Giêsu dạy
các môn đệ tỏ ra khoan dung với người ấy. Thái độ của Người dựa trên ý tưởng
này là bất cứ ai đã trừ quỷ nhân danh Người, không thể ngay sau đó lại đi nói
xấu Người. Hẳn là Mc đang muốn nêu ví dụ này để phê bình những khuynh hướng độc
quyền trong Giáo Hội tiên khởi. Câu 9,40 là một câu tổng-quát-hoá giáo huấn
trong c. 39 thành dạng châm ngôn.
Công thức “vì người ấy không theo chúng ta”, chứ không phải là
“vì người ấy không theo Thầy” khiến hiểu rằng nhóm các môn đệ là một thực thể
khép kín và có thể lời báo cáo của Gioan phản ánh một vấn đề của cộng đoàn.
- Cho anh em uống một chén nước (41): Nên
nối kết lời khẳng định này với c. 37: Hai câu này soi sáng cho nhau vì ta thấy
Đức Giêsu nói về em nhỏ bằng những từ ngữ thích hợp với một sứ giả, một vị thừa
sai hơn. Chính truyền thống Tin Mừng đã áp dụng cho các môn đệ những lời và
những cử chỉ của Đức Giêsu liên hệ đến các em nhỏ: người ta dễ dàng chuyển đi
từ em nhỏ sang người môn đệ được mời trở nên bé mọn (Mt 18,2-5; Mc 9,33-37)
hoặc sang “kẻ bé mọn đang tin”, nghĩa là người môn đệ yếu đuối nhất hoặc tầm
thường nhất (Mc 9,42; Mt 18,6). Câu 37 liên hệ đến việc tiếp đón em nhỏ nhân
danh Đức Giêsu, nghĩa là phù hợp với tinh thần và điều răn của Người, dường như
nối kết hai câu được nói trong hai hoàn cảnh khác nhau, một câu (c. 37a) nói về
các em nhỏ, câu kia (c. 37b) nói về những sứ giả của Đức Giêsu (x. Mt 10,40; Lc
10,16; Ga 13,20). Được diễn tả trong TM II, c. 37 này hoàn toàn phù hợp với
người môn đệ được tiếp đón trong tư cách môn đệ. Nếu chén nước cho người ấy có
giá trị đến thế, chính là vì Đức Giêsu tự đồng hoá với người ấy (x. Mt
25,35-45).
Nhờ những lời ấy, các Kitô hữu đầu tiên ý thức rằng họ thuộc về
Đức Kitô và do đó, có những trách nhiệm: nhờ các môn đệ, Đức Giêsu tiếp tục
hiện diện nơi thế gian này.
- Làm cớ cho những kẻ bé mọn đang tin phải sa ngã (42):
“Những kẻ bé mọn” đây chính là những Kitô hữu yếu đuối hơn hoặc ít sáng suốt
hơn những người khác. Phaolô có lưu ý rằng những người hiểu biết hơn cũng có
thể trở thành cớ khiến người yếu phải sa ngã (x. 1 Cr 8,7-13; 9,22; 10,24-29;
Rm 14,1-23). Giọng nghiêm khắc của Đức Giêsu khiến ta hiểu phải tôn trọng phẩm
giá của những kẻ ấy và phải ân cần săn sóc họ.
- ai làm cớ cho… sa ngã (43-48): Phân
đoạn này có cấu trúc giống nhau (“Nếu tay … nếu chân … nếu mắt…”; x. cc.
43.45.47): nếu một chi thể nào là cớ đưa anh em đến chỗ phạm tội, thì loại nó
đi để tránh được geenna (hoả ngục) và được vào Nước Thiên Chúa. Không cần phải
tìm hiểu xem những tội của tay, của chân, của mắt là những tội nào. Vả lại,
loại bỏ những chi thể này đâu hẳn là loại trừ được mối nguy? Chúng tượng trưng
cho tất cả các dịp tội mà một Kitô hữu có thể khám phá nơi bản thân hoặc trong
các quan hệ bên ngoài. Đức Giêsu chỉ muốn nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của
“sự sống”, của “Nước Thiên Chúa”, tiêu chuẩn tối hậu của mọi chọn lựa của con
người (x. Mc 8,35-37 // 10,23-27 // Mt 13,44-45;…).
“Sự sống” thì đối lại với “hoả ngục”, được coi như nơi có những
khổ hình dành cho những kẻ tội lỗi bị loại khỏi “sự sống”. Câu trích khá thoáng
ở c. 48 gửi chúng ta về với bản văn Is 66,22-24 trong đó vị ngôn sứ gợi lên
vinh quang của Giêrusalem, kinh đô tôn giáo của thế giới, trong khi đó ở bên
ngoài thành, tử thi của những kẻ phản loạn chống lại Thiên Chúa đang bị giòi bọ
rúc rỉa và lửa thiêu đốt. Đây là thung lũng (híp-ri ghê) Hinnôm (hoặc “con cái
Hinnôm”: ghê-Hinnôm hoặc ghê ben-Hinnôm; Hy Lạp: ghêenna) gần các cổng thành ở
phía nam. Ngôn sứ Giêrêmia đã tuyên sấm rằng đây là nơi mà dân Giuđa sẽ bị
trừng phạt nặng nề, vì tội lỗi của họ (sát tế con cho thần Môlốc) đã lên tới
cực độ (Gr 7,30-8,3; 19,7; 32,35). Lúc đầu, lửa và giòi bọ là những cách thế xử
lý các tử thi, nay đi với nhau (Gđt 16,17; Hc 7,17) hoặc riêng rẽ (giòi bọ: G
25,5; Hc (Híp-ri) 7,17; lửa: Mt 13,42.50…), trở thành biểu tượng của số phận
khủng khiếp của những kẻ không chịu đáp lại lời Thiên Chúa kêu gọi hoán cải.
Viễn tượng của Mc 9,43-48 là viễn tượng cuộc phán xét chung. Không nên dựa vào
những bản văn này mà suy đoán về thế giới bên kia, nhưng mà soi sáng và hỗ trợ
sự chọn lựa con đường đưa đến sự sống (x. Mt 7,13-14 so sánh với cc. 24-27).
Ghi chú: C.S. Mann giữ lại một gợi ý thú vị của J.R. Harris: tác
giả TM II đã lấy từ La-tinh salis (muối) ở thể accusative (đối-cách) (salem)
rồi liên kết từ ấy với Híp-ri salem nghĩa là “bình an, hoà bình” (x. Dt 7,2).
Kết quả là chúng ta có một lời khuyến khích các môn đệ giữ cho được sự bình an
nơi chính mình và duy trì sự bình an giữa họ với nhau (Mc 9,50).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Người ở ngoài nhóm (38-41)
Khi viết đoạn văn này, tác giả có hai mục tiêu. Trước tiên, sau
8,33-37, cách xử sự của Gioan lại cung cấp một ví dụ khác về tình trạng thiếu
hiểu biết của các môn đệ và sự cần thiết phải sửa chữa. Các môn đệ không những
tranh nhau về chỗ trên trước, các ông còn khoe khoang về những đặc quyền. Đó là
một điểm tiêu cực cần điều chỉnh. Kế đó, cách Đức Giêsu đánh giá hoạt động trừ
quỷ cho hiểu rằng Người không nhắm thành lập một nhóm khép kín để hưởng các đặc
quyền đặc lợi, nhưng là một nhóm biết phục vụ bất cứ ai, trong âm thầm, khiêm
tốn.
* Các cớ làm sa ngã (42-48)
Trong khi đi theo Đức Giêsu trong cuộc chiến đấu chống lại sự
dữ, các môn đệ phải sẵn sàng tránh làm cớ sa ngã trong mọi trường hợp và phải
sẵn sáng chấp nhận những hy sinh. Khi làm như thế, họ không nhắm đạt tới sự
hoàn thiện cá nhân nhờ một việc khổ chế, hãm mình, nhưng là để củng cố sự hiệp
thông giữa các thành viên. Sự hiệp thông này bị đe dọa bởi sự tranh cãi vê
quyền trên trước, bởi việc tìm kiếm các đăc quyền đặc lợi, bởi các cớ làm sa
ngã, bởi thái độ khinh bỉ những người thấp kém. Do đó, lệnh truyền cuối cùng là
duy trì sự bình an có nghĩa là góp phần giúp người ta vượt lên trên tất cả các
mối đe dọa trên (x. Dt 12,14-17).
+ Kết luận
Cho dù là tản mạn, các lời nói trên đây của Đức Giêsu luôn luôn
có thể giáo huấn các Kitô hữu. Mc đã trình bày các lời này như những chỉ thị
ban cho các môn đệ dấn thân trên nẻo đường đã từng đưa Đức Kitô đến những đau
khổ thập giá. Toàn bộ những giáo huấn này nhắm tới lý tưởng một cộng đoàn trong
đó mọi người sống hoà thuận với nhau (c. 50b) bởi vì sẵn sàng phục vụ lẫn nhau
(cc. 33-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu như đang nói: Cứ để cho những người ở ngoài nhóm
trừ quỷ! Người đang khuyến khích người ta làm những việc phục vụ ít lộ liễu.
Quan trọng không phải là làm những việc ngoạn mục, tạo cảm giác mạnh, nhưng là
tình yêu diễn tả cách âm thầm, như đơn giản trao một ly nước cho người đang
khát.
2. Lời kết án nặng nề của Đức Giêsu đối với kẻ làm cớ cho người
khác sa ngã có thể hiểu như là một lời an ủi khích lệ hay một lời răn đe tùy
người được nhận lời nói này. Là lời an ủi khích lệ cho những người đạo đức, để
họ cứ vững vàng sống đúng tư cách dù có bị thế gian khinh bỉ. Là lời răn đe đối
với những người lãnh đạo cộng đoàn: coi chừng kẻo lối ăn nói, cư xử của các
ngài lại thành cớ cho những kẻ mà các ngài đã đưa vào đức tin phải mất tinh
thần và buông xuôi, hoặc học lấy một cách sống không phù hợp với người môn đệ
của Đức Kitô.
3. Những ai có tinh thần của Đức Giêsu thì phải phục vụ như
Người: quan tâm đến những kẻ thấp cổ bé miệng, những người cô thế cô thân, và
cứ phục vụ họ trong thái độ kín đáo, khiêm tốn. Chỉ những người đó, vì kiến tạo
được sự hiệp nhất trong các cộng đoàn, mới có thể làm chứng cho thế giới thấy
rằng Nước Thiên Chúa đã ở giữa loài người.
4. Thế giới và lịch sử đều những hạt giống Lời Chúa. Ở bên ngoài
Hội Thánh, nơi các dân tộc khắp nơi, nơi những người đang mở ra với làn hơi
Thánh Thần, hiện có thực tại phôi thai của Nước Thiên Chúa. Chức năng của Hội
Thánh là làm bừng lên và kiện toàn và đưa vào trong Hội Thánh-dấu chỉ thực tại
hợp nhất của bất cứ điều gì được gieo vào trong trí tuệ và trái tim con người.
Mọi công cuộc phúc âm hóa tùy thuộc vào điển hình này. Lời đã được gieo vào
trong trí tuệ và trái tim con người, ta có thể thấy cả nơi các cá nhân và trong
các nghi thức và tập tục của các dân tộc. Lời này được Thánh Thần đưa tới chỗ
hợp nhất đức tin trong bí tích Rửa tội. Tất cả mọi người đều cần được liên tục
kéo đến dấu chỉ hợp nhất. Mọi người đều loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin
Mừng.
27. Chú giải của Noel Quesson.
Trên con đường đi Xêdarê - Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng
đức tin, xuyên qua xứ Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến
Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình.
Con đường của "Con Người" cũng là con đường của các môn đệ. Chính,
chúng ta cũng đi trên con đường đó theo chân Đức Kitô:
- Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng
cho đến cuộc vượt qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi
người. Trong trình thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu
đã giảng dạy trong nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần
lớn những lời giảng dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là
những đòi hỏi phải có khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi
theo Người đến những nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ,
luân lý Kitô giáo không phải là một "luật lệ" được phép hay bị cấm
đoán, mà là một sự tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.
Ông Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy: Chúng con thấy có
người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.
Chính Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu
(Ga 21,20). Trong số 12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là
người thân cận nhất của Đức Giêsu.
Trên đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố"
nhỏ gây ra một phản ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được
sống động qua những tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi
của các Ngài?
Gioan đã thấy một "người trừ quỷ" mà không thuộc nhóm
của các ông. Tin Mừng ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm
trước, khi vắng Đức Giêsu (Mc 9,18).
Nhưng các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan
rộng, nên người ta cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình
cũng có thể tập trừ quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do
Thái và ngoại đạo đã trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp
thuật rất phổ biến vào thời Đức Giêsu (Cv 8,18).
Dĩ nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được
đặt ra một cách khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có
vẻ trái ngược. Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có
"những người trừ quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng
rất đông.
Thí dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai
thác những người yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt
chủng tộc, sự phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất
cảm thức đích thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những
"con quỷ" này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn,
bé... tất cả đều phải "khử trừ" sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng
cách làm việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một
phong trào.
Chúng con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng
con đã cố ngăn cản, vì người ấy không theo chúng ta.
Những người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng
ta, phe phái của ta. Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không
phải Công giáo, không phải là người sống đạo... hay bạn không thuộc nghiệp đoàn
của tôi, tông phái của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp
tiến... Vậy thì tôi không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im
tiếng, tôi sẽ ngăn cản không cho bạn hành động.
Quả thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn
tại trong Giáo Hội, cũng như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười
Hai cứ mải mê ghen tương tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.
Đức Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở
nên "kẻ sau rốt, làm đầy tớ mọi người". Người vừa khuyên các môn đệ
phải sẵn sàng phục vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được
coi là thân cận nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng
muốn thống trị, muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh
"Quyền lực của Đức Kitô". Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ,
cũng đừng xét đoán ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.
Trình thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề
cập đến một trong những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức
Kitô chỉ có hiệu lực bên trong những biên giới "thấy được" của Giáo
Hội hay sao?
Trước câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ
ra sao?
Đức Giêsu bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy
danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả
thật, ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Thưa không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh
Thần Khí của Thiên Chúa:
“Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và
tự do như gió" (Ga 3,8).
Từ thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và
người ta không thể ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài "nhóm"
(Ds 11,25-29). Và cả bên ngoài những kẻ "đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước
mong ân huệ của thần khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: "ôi ước gì
Thiên Chúa có thể đặt Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người
trở thành một dân tộc ngôn sứ. Xin Chúa cho những "người của ‘Thần Khí’
xuất hiện trên măt đất chúng con".
Không! Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là
tự do. Thần Khí không bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở
bên ngoài những cấu trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở
bên ngoài" nhóm, bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu "các con
đừng ngăn cản người ấy" đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo
đảm đức tin chân chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người
được rửa tội, và cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của
Giáo Hội.
Chúng ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch
với óc bè phái và bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có
phải Thần Khí của Đức Giêsu không?
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại,
thông sáng, bao la như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của
Chúa... Thần Khí đó thổi từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần
cục bộ của chúng con. Xin Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực,
nghĩa là "những con người phổ quát", "nhưng con người biết thông
cảm những khác biệt" như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con:
"Chúng ta cần cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy
hòa thuận với nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở
với những người anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta
mở rộng tới những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong
truyền thống riêng của họ" (GS 9,2).
Các bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II vào ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. "Các bạn đừng sợ!
Hãy mở rộng biên giới của các bạn". Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án
những ai không thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng
ta có thưởng thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt
mà họ làm được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?
Đừng dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc
12,49).
Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng
Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
'Một chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một
việc phục vụ nhỏ nhất mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó
là “phàm tước" lạ thường của người môn đệ: "Người ấy thuộc về Đức
Kitô". Người tín hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng
hóa mình với người Kitô hữu nhỏ bé nhất.
Thánh Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày
thẩm phán (Mt 25,31-45). "Những gì các ngươi đã làm cho một trong những
anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đó là sự
lớn lao của mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết
bao cơ hội?
Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa
ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.
Sau những lời khuyên luận lý tích cực ("cho một chén
nước"), giờ đây là sự cảnh giác tiêu cực ("không được làm cớ cho kẻ
khác sa ngã"). Nhưng thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm
đến kẻ khác.
Ở đây chúng ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu:
Ngoài tinh thần rộng mở, chúng ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả
năng sử dụng mãnh lực đó của Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không
phải là sự lãnh đạm đối với điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung
đối với điều thiện được thực hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy
làm bất bình khi thấy người ta có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.
Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà
cụt tay mà được vào cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa
ngục, phải vào lửa không hề tắt.
Chỉ mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này.
Chỉ mình Người mới thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng
và bi thảm đối với Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh.
Chúng ta có thể chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những
kiểu nói vùng Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt
đi ý nghĩa của những câu đó.