Các bài suy niệm
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - B
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - B
MỤC LỤC
1. Mục tử
Thiên Chúa đã dùng tiên tri Giêrêmia để quở trách và kết án
những người lãnh đạo dân Chúa. Họ chẳng lo lắng đến dân chúng lại còn làm cho
dân chúng phải điêu đứng và phân tán. Tuy nhiên Thiên Chúa đã mở ra cho thấy
một viễn tượng tươi sáng. Mầm công chính xuất phát từ dòng Đavít, sẽ làm vua
thống trị, sẽ thực thi hoà bình và công lý. Đó chính là Chúa Giêsu.
Thực vậy, Chúa Giêsu là mục tử nhân lành mà tiên
tri Giêrêmia đã diễn tả. Ngài thương dân vì họ bơ vơ không có chủ chăn và ngài
băt đầu dạy họ nhiều điều. Ngài như đồng cỏ non và như dòng suối mát để xoa dịu
cơn đói khát của con người. Thế giới ngày nay tràn ngập ngôn từ, đầy dẫy những
lời lẽ tuyên truyền và quảng cáo, thì liệu còn chỗ nào dành cho lời Chúa hay
không. Nếu con người nghe theo tiếng Chúa và bước đi trong đường lối của Ngài
thì ngày kia, chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ chiên. Chúa Giêsu không
phải là kẻ chăn thuê, chỉ làm vì lợi lộc. Trái lại Ngài chăm sóc cho từng con
chiên một, băng bó những con bị thương, và vác lên vai con bị đau yếu. Ngài dẫn
chúng đến đồng cỏ xanh tươi, và tới dòng suối mát. Ngài dám thí mạng sống để
bảo vệ đoàn chiên, và cuối cùng, Ngài đã trở nên của ăn nuôi sống cho đoàn
chiên.
Tiếp đến Chúa Giêsu còn là vị mục tử hoà giải. Tội
lỗi đem lại sự phân cách với Thiên Chúa, sự bất hoà với nhau và sự hỗn loạn
trong xã hội. Như lời sách Sáng Thế Ký đã nói: Vì ngươi bất tuân nên đất đai sẽ
nguyền rủa ngươi. Người mục tử đích thực của đoàn chiên sẽ tiêu diệt tội lỗi,
xoá bỏ đi sự ngăn cách giữa trời và đất, sự thù hận giữa người với người. Bằng
thập giá, Ngài đã thực hiện được mục đích đó, đồng thời tụ họp chúng ta lại với
nhau. Đôi tay Ngài dang rộng như muốn ôm trọn cả nhân loại như lời thánh
Phaolô: Chúng ta trở nên gần gũi nhau nhờ máu Đức Kitô. Cây thập giá gồm hai
nét. Nét dọc nối kết chúng ta lại với Thiên Chúa. Còn nét ngang nối kết chúng
ta lại với nhau.
Sau cùng Chúa Giêsu là mục tử an bình. Ngài đã
thực hiện lời tiên tri Giêrêmia, tách biệt khỏi những kẻ chăn thuê vì lợi lộc
để chứng thực mình là mục tử nhân lành. Ngài xua đuổi chó sói, và những kẻ cướp
bóc. Ngài dạy dỗ và cứu vớt những con chiên lạc, dẫn đưa đoàn chiên tới đồng cỏ
xanh tươi. Đi bên Ngài chúng ta không còn sợ hãi chi, và không lo thiếu thốn
thứ gì cả. Ngài chính là sự sáng. Đi theo Ngài chúng ta sẽ không bao giờ bị lầm
đường lạc lối.
2. Tinh thần mục tử.
Như chúng ta đã biết dân Do Thái, một phần sống bằng nghề chăn
nuôi, nên hình ảnh mục tử, người chăn dắt đoàn chiên, là một hình ảnh thật quen
thuộc và gần gũi. Đavít ngày xưa, khi còn là một em bé chăn chiên, đã được
Samuel xức dầu đặt làm vua. Sau này, trên ngai vàng, Đavít đã hướng dẫn dân
Chúa tới một thời đại hoàng kim. Các ngôn sứ đã dùng hình ảnh mục tử, không
phải để chỉ các vua mà còn ám chỉ chính Thiên Chúa, Ngài sẽ đích thân chăn dắt
dân Ngài.
Lời tiên báo của các tiên tri đã được Chúa Giêsu thực hiện trong
cuộc sống của Ngài, bởi vì Ngài chính là vị mục tử nhân lành. Thái độ nhân lành
ấy đã được biểu lộ qua việc ân cần chăm sóc mà đoạn Tin Mừng ngắn ngủi sáng nay
đã ghi lại.
Trước hết là đối với các môn đệ đang mệt mỏi vì những cuộc hành
trình truyền bá Phúc Âm, Ngài đã khuyên các ông hãy tìm nơi thanh vắng để nghỉ
ngơi một chút. Tiếp đến là đối với đám đông đang đói lời giảng dạy cũng như
đang khát sự dẫn dắt, Phúc Âm đã ghi lại: Nhìn thấy họ, Chúa Giêsu đã động lòng
thương xót và Ngài đã làm phép lạ để họ được ăn no giữa chốn hoang vắng. Không
một trang Phuc Âm nào, mà chúng ta không thấy được những hành động bác ái yêu
thương Chúa Giêsu đã thực hiện, nào là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết được
sống lại, tất cả những hành động này chỉ nhằm một mục đích duy nhất là xoa dịu
mọi nỗi đớn đau của con người. Hơn thế nữa, Ngài còn dành một tình cảm đặc biệt
cho những kẻ tội lỗi. Ngài đối xứ với họ như mục tử đối xử với những con chiên
lạc. Ngài đã lên đường tìm kiếm họ, và nhất là Ngài đã tha thứ cho họ. Cái ước
vọng duy nhất của Ngài, đó là cuối cùng chỉ còn lại một đoàn chiên và một chủ
chiên. Cũng trong ước vọng duy nhất này mà Ngài đã chấp nhận chịu chết để đoàn
chiên, là tất cả chúng ta được sống.
Từ hình ảnh người mục tử chúng ta phải làm gì? Dĩ nhiên chúng ta
chưa phải là những mục tử của Chúa, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể tham dự
chúc vụ mục tử này nhờ bí tích Rửa Tội, hay nói một cách khác, cái tinh thần
mục tử chính là cái tinh thần mà mỗi người chúng ta phải sống, phải thực hiện
trong cuộc đời của mình. Vậy tinh thần mục tử là gì?
Xin thưa đó là tinh thần phục vụ. Đúng thế, người
làm vua hay người làm mục tử theo tinh thần của Chúa, không phải là để cai trị
dân hay đánh đập những con chiên của mình, nhưng là để an ủi khích lệ, giúp đỡ
và phục vụ họ như lời Ngài đã phán: Ai muốn làm lớn thì hãy trở nên tôi tớ phục
vụ cho mọi người. Chính Ngài cũng đã từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến
không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá
cứu chuộc cho mọi người.
Từ đó chúng ta đi đến một kết luận đó là: Sống tinh thần mục tử
đó là sống tinh thần phục vụ, dấn thân để giúp đỡ anh em theo mẫu gương của
Chúa Giêsu.
3. Thiên Chúa chăn dắt dân
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Khi từ thuyền bước lên bờ, Đức Giêsu thấy đám đông dân chúng thì
Ngài động lòng thương vì họ như chiên không người chăn dắt, và Ngài đã dạy dỗ
họ. Dân chúng mong chờ khao khát điều mà họ thiếu, nay gặp Đức Giêsu và các môn
đồ, họ như thể tìm được điều họ mong ước, nên họ tuôn đến với Đức Giêsu. Thiên
Chúa cần những con người cụ thể để chăn dắt dân Ngài.
I. Ta sẽ đem chúng trở lại đồng cỏ
Tiên tri Giêrêmia sống vào thời trước và trong khi dân Do Thái
bị lưu đầy. Trước thời lưu đày, dân Do Thái có tất cả những cơ cấu cần thiết,
gồm những người có quyền đại diện Thiên Chúa mà cai quản, dạy dỗ dân chúng:
vua, tư tế và tiên tri. Hai tiên tri lớn thời này là Giêrêmia và Edêkiel. Tuy
nhiên, những người lãnh đạo thời đó là vua quan và tư tế thì lại đi tìm lợi ích
và thỏa mãn riêng của họ; nên dân chúng chán nản không còn có thể tin vào những
người lãnh đạo được nữa, và họ bị lạc lối và tán loạn.
Thiên Chúa đã nói qua tiên tri Giêrêmia: “khốn cho các mục tử đã
để đàn chiên của Ta bị tan hoang và phân tán…; tuy nhiên Ta sẽ quy tụ chúng từ
những nước Ta đã phân tán chúng; Ta sẽ mang chúng trở lại đồng cỏ”. Vì những
lỗi lầm của những người lãnh đạo chăn dắt, dân chúng đã phải phân tán lưu đày;
nhưng chính Thiên Chúa sẽ là Đấng quy tụ và đem dân trở về. Thiên Chúa sẽ đem
con người trở về với Thiên Chúa cho dù con người hiện tại có bị lạc xa đường
lối của Thiên Chúa.
“Ta sẽ làm chỗi dậy một nhành cho David, và vị này sẽ chăn dắt
dân như một vị minh vương”. Thiên Chúa vẫn tiếp tục chăn dắt con người qua
những trung gian của Ngài. Ngài sẽ cho chỗi dậy những con người như lòng Ngài
mong ước để chăn dắt dân của Ngài. Khi Thiên Chúa tạo dựng con người như hiện
tại, là Ngài đã muốn dùng cơ cấu vật chất- tinh thần, trung gian hữu hình để ở
với và nói với con người của mọi thời đại.
II. Đức Giêsu động lòng thương dân như chiên không người chăn
Sau hơn ba mươi năm tháng dài ở Nadarét, Đức Giêsu đã rong ruổi
khắp đất nước Do Thái để rao giảng. Ngài thu nhận môn đệ, và giữa các môn đệ
Ngài tuyển chọn nhóm 12, để chuẩn bị cho sứ vụ rao giảng sau này. Tin Mừng
Mác-cô cho thấy Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng, và các ông đã trở về với
bao kết quả đáng mừng. Dân chúng đổ xô đến cùng các ngài, đến độ các ngài không
còn thời gian để ăn và nghỉ ngơi hầu lấy lại sức khỏe cần thiết.
Đức Giêsu khuyên các tông đồ hãy tìm chỗ vắng vẻ để nghỉ ngơi. Ở
đây một lần nữa người ta thấy Đức Giêsu cũng tôn trọng nhịp sống của con người:
làm việc và nghỉ ngơi, kể cả đối với những công việc quan trọng như việc tông
đồ. Dường như nhu cầu tông đồ không bao giờ cạn; người được sai phải làm bổn
phận của mình, nhưng cũng cần phải có thời gian để yên lặng, để sống với Thiên
Chúa cho chính mình, để thân xác hồi lại sức lực. Tôn trọng cơ cấu con người,
cũng là tôn trọng Thiên Chúa.
“Khi Đức Giêsu ra khỏi thuyền và lên bờ, Ngài thấy dân chúng
đông đảo nên động lòng thương vì họ như chiên không người chăn, và Ngài giảng
dạy họ nhiều điều”. Đức Giêsu vẫn để các tông đồ có thời gian nghỉ, và lúc này
chính Ngài dạy dỗ dân chúng. Đức Giêsu, hơn ai hết, Ngài nhận ra nhu cầu của
dân chúng, của con người cụ thể. Ngài biết điều gì là thực sự cần thiết cho con
người, Ngài đã làm và huấn luyện các tông đồ để họ tiếp tục sứ mạng của Ngài ở
trần gian.
III. Con người hôm nay như dấu chỉ thời đại
Khi những người lãnh đạo dân không sống đúng với ơn gọi của họ,
dân chúng bị phân tán vì họ không tìm thấy nơi những vị đó điều họ mong ước hy
vọng. Con người luôn cần những người lãnh đạo tinh thần. Và ngược lại, nếu dân chúng
phân tán như một sự kiện, thì những người lãnh đạo tinh thần cũng cần xét lại
xem họ có đáp ứng nhu cầu thực sự của con người thời đại không.
Ngày nay, ở châu âu và ngay cả ở Mỹ, người ta ít đến nhà thờ;
những người trẻ không tìm thấy ý nghĩa nơi nhà thờ. Nhà thờ ở Ý và nhiều nước ở
châu âu trở thành “bảo tàng viện”, nơi các du khách tìm đến để xem những kiến
trúc xa xưa, những hình ảnh phản ánh văn hóa một thời đại. Phụng vụ ở nhiều nơi
chỉ gồm những nghi thức nhưng nội dung giảng dạy thì không được chú ý; cả một
số nơi người ta cố gắng đổi hình thức nhưng lại không cố gắng để có nội dung
sâu xa, và như vậy không cuốn hút được người trẻ, vì họ không tìm thấy nơi đó
của ăn sức sống tinh thần, hay điều họ thâm sâu mong ước.
Những mục tử chân chính phải xét lại cách rao giảng của mình,
xem mình và Giáo Hội có đáp ứng nhu cầu của con người ngày nay, đặc biệt là các
người trẻ hôm nay không, hơn là chỉ nói: con người ngày nay không muốn đến nhà
thờ nữa, hoặc con người ngày nay không còn có tinh thần đạo đức nữa. Làm sao có
thể đòi họ đến nhà thờ khi họ không thấy ý nghĩa, khi họ không tìm thấy nơi đó
có sức sống hay của ăn nuôi dưỡng họ và làm cho họ lên tinh thần. Thiển nghĩ,
con người của mọi thời đại đều tốt, và cũng đang được Thánh Thần hướng dẫn và
thúc đẩy. Người mục tử chân chính ngày nay phải làm sao để giúp con người hiện
tại gặp gỡ Thiên Chúa, điều mà con người của mọi thời đại đều mong ước. Có lẽ
Giáo Hội cũng phải xét lại cách huấn luyện những mục tử tương lai, sao cho
những người này có thể nghe được và nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa qua con
người ngày nay, qua thao thức và khát vọng của họ. Làm sao phụng vụ, những bài
giảng, phải là lương thực nuôi dưỡng con người ngày nay. Nếu những người trẻ
ngày nay không muốn tới nhà thờ, thì đâu là điều người trẻ hôm nay mong ước mà
Giáo Hội cần khám phá và đáp ứng.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, con người ngày nay mong ước gì một cách sâu xa
nhất?
2. Theo bạn, Giáo Hội Công Giáo ngày nay đáp ứng được đến mức
nào mong ước của con người hiện đại? Tại sao bạn nghĩ vậy?
4. Làm việc và cầu
nguyện – Lm. GB Văn Hào
Trong cuộc sống đời thường, sau những lam lũ vất vả với biết bao
lo toan và công việc bề bộn, con người chúng ta ai cũng cần có những phút giây
thư giãn để nghỉ ngơi. Quy luật bình thường đó cũng được Đức Giêsu áp dụng cho
các học trò của mình. Sau khi các tông đồ bươn chải nhọc nhằn trong sứ vụ ra đi
rao giảng Tin Mừng, Chúa nói với các ông: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi
thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Sự nghỉ ngơi ở đây không phải chỉ là sự tĩnh
dưỡng về thân xác, nhưng trước hết là thái độ tĩnh lặng của tâm hồn. Giữa những
ồn ào náo nhiệt và bon chen trần thế, chúng ta cũng cần phải trở về với thế
giới nội tâm để gặp gỡ Thiên Chúa trong chiều sâu của lòng mình. Thái độ tĩnh
lặng và nghỉ ngơi đó chính là khuôn mẫu của việc cầu nguyện mà Chúa muốn nhắn
gửi chúng ta hôm nay.
Có một lần Cha Thánh Gioan Maria Vianney đến thăm một ông cụ
trong họ đạo ngài chăm sóc. Đó là một cụ già rất đạo đức và thánh thiện, được
mọi người yêu mến và nể phục. Cụ vẫn hằng ngày đến nhà thờ thinh lặng hằng giờ
để cầu nguyện trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Cha sở hỏi cụ: “Thưa cụ, người ta nói
cụ rất đạo đức và say mê cầu nguyện. Thế, mỗi lần vào nhà thờ quỳ trước Chúa
Giêsu Thánh Thể cả tiếng đồng hồ, cụ nói gì với Chúa?”. Cụ già chất phác và
chân chất trả lời “Thưa Cha, con cũng chẳng có gì để nói với Chúa cả. Con
nhìn Chúa, Chúa nhìn con, thế thôi”. Cụ già đây đã nói chuyện với Chúa không
phải bằng ngôn ngữ bình thường nhưng bằng những nhịp đập của con tim. Bắt chước
cụ già, chúng ta có thể đi vào sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa trong thinh lặng
nội tâm của cỏi lòng. Thinh lặng đặt mình trước mặt Chúa là ngôn ngữ tuyệt vời
nhất để chúng ta có thể đối thoại và gặp gỡ Ngài.
Chính Đức Giêsu cũng nêu gương cho chúng ta về đời sống cầu
nguyện. Để chuẩn bị cho ba năm rao giảng Tin Mừng, Chúa đã ẩn dật suốt 30 năm
tại Nazareth trong âm thầm lặng lẽ. Trước khi khởi sự sứ vụ công khai, Ngài đã
lui vào sa mạc 40 ngày đêm để ăn chay cầu nguyện. Sau những lam lũ với công việc
bề bộn, Chúa vẫn thường hay rút lui vào trong thanh vắng để kết hiệp sâu xa với
Chúa Cha. Đặc biệt trước biến cố thập giá, biến cố quan trọng nhất và cũng để
hoàn tất sứ vụ cứu thế, Chúa đã đi vào vườn cây dầu để cầu nguyện và kết hiệp
thân tình với Chúa Cha.
Nhìn vào lịch sử cứu độ thời cựu ước, chúng ta thấy các vĩ nhân
cũng luôn thực hành việc cầu nguyện như vậy. Tổ phụ Abraham cũng đi vào sa mạc
Ả Rập để gặp gỡ Chúa và lắng nghe điều Chúa gởi trao cho ông. Moise cũng đến sa
mạc để đón nhận mệnh lệnh từ Thiên Chúa trước khi ông trở thành lãnh tụ dẫn đưa
Israel ra khỏi Ai Cập. Dân Do Thái cũng phải rong ruổi 40 năm giữa sa mạc nóng
cháy, trong cuộc lữ hành tiến về đất hứa. Trong Thánh Kinh, sa mạc là biểu
tượng nơi chốn Thiên Chúa gặp gỡ con người. Trong sa mạc, Thiên Chúa nói với
chúng ta, và cũng trong sa mạc, con người được Thiên Chúa uốn nắn và dậy dỗ.
Cũng vậy, giữa những chộn rộn và tất bật của cuộc sống, chúng ta phải dành ra
những giây phút thinh lặng, trở về trong sa mạc của lòng mình. Trong tĩnh lặng
thâm sâu, chúng ta mới có thể nghe được tiếng Chúa nói, và cũng trong sự kết
hợp với Chúa, chúng ta mới có được sức mạnh nội tâm để tiếp tục dấn bước trên
con đường lữ hành trần gian ngày hôm nay.
Bác học Ampère đã nói: “ Con người chúng ta chỉ thực sự vĩ đại
khi chúng ta biết cầu nguyện”. Cầu nguyện là gắn kết thân tình với Chúa. Mỗi
người chúng ta là một hữu thể đầy giới hạn sẽ được kết hợp với Thiên Chúa quyền
năng Đấng vô hạn khi cầu nguyện. Chúng ta đều là thụ tạo với bao mỏng giòn yếu
đuối sẽ kín múc được sức mạnh từ Đấng Tạo Hóa mạnh mẽ vô song. Chúng ta trở nên
vĩ đại nhờ thế. Lời căn dặn Chúa Giêsu ngỏ trao cho các tông đồ năm xưa cũng là
lời khuyến mời Chúa nói với chúng ta hôm nay “ Anh em hãy rút lui vào nơi thanh
vắng để nghỉ ngơi một chút”.
Có một thương gia giàu có nhưng tâm hồn bất an tìm đến một vị ẩn
sĩ để xin một lời khuyên, giúp anh ta sống an bình. Vị ẩn sĩ đó trả lời “ Như
con cá sẽ bị chết trên đất cạn, ngươi cũng sẽ bị chết trong sự vây hãm của thế
gian, giữa những tranh giành, lọc lừa và gian dối. Con cá muốn sống phải trở về
với sông với nước, ngươi muốn bình an phải trở về với sự cô tịch”. Anh thương
gia hỏi lại “ Thưa Thầy, làm sao con có thể từ bỏ chuyện bán buôn để về đây
sống ẩn dật như thầy được?” Vị ẩn sĩ nói tiếp: “ Không phải thế, con cứ tiếp
tục buôn bán, cứ tiếp tục công việc hằng ngày của con, nhưng điều quan trọng
nhất là con phải luôn biết trở về trong sự tĩnh lặng của cõi lòng ”. Trong bài
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi các môn đệ hãy rút lui vào nơi thanh
vắng để nghỉ ngơi. Đó là giây phút Thầy trò gần gũi bên nhau, ôn lại những biến
cố đã qua để có sức bật mới cho cuộc hành trình tông đồ tương lai. Sức bật mới
này chỉ có thể đạt được qua ơn thánh, qua việc cầu nguyện, đi vào sự thân tình
với Chúa. Chính Đức Giêsu đã nói “ Không có thầy, anh em không làm được gì.”
Việc cầu nguyện cần thiết cho mọi tín hữu nói chung, đặc biệt
đối với các vị mục tử trong Giáo Hội nói riêng. Chúa Giêsu đã sai nhóm 12 đi
truyền giáo để huấn luyện các Ngài, bởi vì các Ngài là những mục tử, là những
cánh tay nối dài của Chúa trong sứ vụ cứu thế. Trong trình thuật Tin mừng,
Thánh Marcô cho thấy chính Đức Giêsu đã thể hiện một trái tim yêu thương. Ngài
chạnh lòng thương đám đông vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Các vị mục
tử ngày hôm nay cũng phải sao chép lại cách thức yêu thương mà Đức Giêsu đã thể
hiện, cũng như cách thức mà Ngài đã huấn luyện các học trò thân yêu. Trong bài
đọc thứ nhất của phụng vụ hôm nay, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã công bố rằng Đức Chúa
sẽ ban cho các mục tử tốt để họ chăn dắt đoàn chiên. Vị tiên tri cũng lên án
gay gắt các mục tử thời bấy giờ đã làm đàn chiên thất lạc và tan tác. Họ đã xua
đuổi và chẳng lưu tâm đến chiên. Vị Mục tử mà Giê-rê-mi-a nói tới chính là Đức
Kitô, người chăn chiên nhân lành, đồng thời cũng ám thị các tông đồ, cũng như
các vị mục tử trong Giáo Hội hôm nay, là những cộng sự viên đắc lực trong sứ vụ
cứu thế của Đức Giêsu.
Để thực hiện sứ vụ này, chúng ta hãy nhìn vào bài học của các
tông đồ hôm nay. Chúa mời gọi các ông rút lui vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi
bên Chúa. Chúa cũng nhắn gửi các ông phải tránh những nơi ồn ào để có một tâm
hồn tĩnh lặng và an bình. Biết bao ồn ào náo nhiệt của cuộc sống bên ngoài, ồn
ào ngay cả những lúc chúng ta làm việc với ý hướng tốt nhằm phục vụ các linh
hồn. Đó là những ồn ào của danh vọng, khi chúng ta thích được mọi người vỗ tay
khen ngợi. Đó là những ồn ào của tiền bạc, của những cuốn hút trước một lối
sống tục hóa. Người môn đệ Chúa Giêsu muốn thể hiện một tình yêu mục tử tinh
ròng phải tránh tất cả những xôn xao ầm ĩ đó để tâm hồn được tĩnh lặng và để
được nghỉ ngơi an bình bên Chúa.
Những vị mục tử ngày hôm nay, những cánh tay nối dài của Đức
Giêsu, những con người được Chúa tin tưởng trao phó cho sứ mệnh cứu thế, cần
phải học cho mình những bài học căn bản này để tâm hồn chúng ta luôn được thảnh
thơi và an bình.
Sự bình an chân thật chỉ có thể có được nếu chúng ta biết lui
vào trong thanh vắng để nghỉ ngơi bên Chúa. Đức Giêsu chính là sự bình an của
chúng ta. Thánh Phaolô đã nói cho chúng ta chân lý này trong bài đọc thứ hai
của phụng vụ hôm nay: “ Người đã đến loan Tin Mừng bình an: Bình an cho anh em
là những kẻ ở xa và bình an cho những kẻ ở gần”. Chúng ta chỉ có thể kiến tạo
cho mình sự bình an chân thật, nếu trong cuộc sống, chúng ta năng rút lui vào
trong thanh vắng để nghỉ ngơi. Đó không phải là sự nghỉ ngơi về thân xác, nhưng
là sự tĩnh lặng trong sâu tận tâm hồn để sống kết hiệp với Chúa luôn mãi.”
5. Đời sống
cần có Chúa – Cố Lm. Hồng Phúc
Sau Tiên tri Amos, xuất thân từ một người chăn chiên hiền lành
biến thành một con sư tử “gầm thét” tội ác của các nhà lãnh đạo dân Chúa, nay
đến Tiên tri Giêrêmia lên tiếng: “Khốn cho các mục tử làm tản mác và xâu xé đàn
chiên”.
Họ đã làm cho nước mất nhà tan, hàng ngàn người chết, hàng vạn
người phải lưu đầy qua Babylone, trong số chính nhà tiên tri là nạn nhân. Những
nhà lãnh đạo Israel phải là kẻ đem lại hòa bình và hiệp nhất cho dân Chúa,
trung thành với giao ước Sinai thì họ lại phản lại Thiên Chúa, gây khốn khổ cho
Israel. Nhưng Thiên Chúa là Đấng trung thành, nhà Tiên tri nhìn thấy ở chân
trời, một Đấng Mục Tử xuất hiện từ chi họ Đavít. Ngài sẽ đem lại hòa bình và
công chính. Tuy nhiên, với điều kiện là đoàn chiên biết nghe lời Người. Lịch sử
Do Thái là hình ảnh lịch sử nhân loại.
Thánh Phaolô, trong thư gởi giáo đoàn Êphêsô, cho chúng ta thấy
Đấng đã làm “cho đôi bên lên một, phá đổ bức tường ngăn cách, tiêu diệt hận
thù”, chính là Chúa Giêsu. Ngài đến loan báo Tin mừng bình an. Ngài đến hiệp
nhất chúng ta lại. Chúng ta hãy nhìn lên cây Thập giá, Ngài chịu treo lên, như
gạch nối giữa đất và trời, hai tay giang ra như để ôn chầm cả nhân loại.
Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy Marcô mô tả việc Chúa Giêsu và
các môn đệ sau những ngày làm việc mệt nhọc, đã để ra một vài ngày nghỉ ngơi
trong yên tĩnh. Quần chúng bao quanh đến nỗi “Ngài không có cả thì giờ để ăn”.
Một thời gian để tĩnh dưỡng cho mình và các môn đệ là điều hợp lý.
Và chúng ta thấy Chúa Giêsu biết chọn những chỗ thích hợp, như
“trên một ngọn núi cao, xa vắng” (9,2), trên bức thành đá ven bờ hồ Tibêriađê
(5,1), bờ biển Phênicia, (7, 24-31) hay gần nguồn sông Giodan dưới chân núi
Hermon (8,27). Đây là một cuộc tĩnh tâm của Thầy và các môn đệ, vừa nghỉ ngơi
vừa huấn luyện. Các Tông đồ thuật lại cho Thầy nghe các kinh nghiệm tông đồ của
mình (6,30), Thầy thông cảm với các cộng sự của mình: “Sáng sớm tinh sương,
Ngài chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện ở đó”
(1,35). Như vậy, khi trở về gặp lại dân chúng, lời giảng pha lẫn với lời kinh
của Chúa và của môn đệ hứa hẹn một mùa gặt tốt.
Nhưng Chúa Giêsu và môn đệ không thể tĩnh dưỡng lâu, xa quần
chúng. Vì Ngài đến vì dân chúng và dân chúng cũng cảm thấy không thể thiếu
Ngài. Họ đi tìm Chúa, “họ như bầy chiên không có kẻ chăn”. Họ cần có Chúa.
Tất cả chúng ta đều cảm thấy cần có Chúa, thiếu Chúa đời ta
thiếu tất cả, bơ vơ và lạc lõng. Thánh Augustinô kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã
dựng nên con cho Chúa, và tâm hồn con sẽ không bình yên khi nó không an nghỉ
trong Chúa”.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu tỏ ra rất thương yêu và am tường các
nhu cầu vật chất và tinh thần của các môn đệ. Đời sống tông đồ là một đờ sống
tận hiến tất cả, đầy gian lao và xả thân, nhưng phải luôn luôn trở về nguồn.
Phải để xa những ngày nghỉ ngơi, im lặng và cầu nguyện, những ngày sống thân
mật với Chúa, chuẩn bị cho những ngày xuất quân mới, đầy nghị lực và tình
thương.
Đức Gioan XVIII được gọi là vị Giáo Hoàng năng tĩnh tâm. Mặc dù
công việc Giáo Hội bề bộn, với bao nhiêu vấn đề phải suy tư giải quyết. Ngài
hằng “trở về nguồn”. Đặc biệt, Ngài rất năng tĩnh tâm, tạm dẹp công việc lại
một bên, để dành cho Chúa một thời gian. Ngài dọn một phòng riêng ở Vatican, để
sống những giờ âm thầm bên Chúa hoặc nghe lời giảng day…Trước khi khai mạc Công
Đồng Vaticanô II. Ngài đã tĩnh tâm một thời gian rồi đi hành hương ở Loretto,
nơi lưu giữ ngôi nhà của Đức Mẹ, để xin cho Công Đồng được kết quả.
“Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi…
Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi,
Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng”.
6. Mục Tử -
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiên tri Giêrêmia hoạt động tại Giêrusalem vào khoảng từ năm
627-587 trước Công Nguyên. Quan niệm thần học chính của Giêrêmia cũng như các
tiên tri khác là mời gọi dân chúng cải tà qui chánh. Vì tội lỗi của dân Judah,
Yahweh Thiên Chúa đã phá huỷ thành quách do bởi Vua Babylon là Nebuchadrezzar.
Tiên tri Giêrêmia là một trong các tiên tri có thế giá nhất. Sứ mệnh của tiên
tri trong thời gian bất thường, kéo dài suốt 40 năm tao loạn của cộng đồng ở
Giêrusalem. Ngài cùng thông phần chia sẻ những khốn khó và khổ đau với dân
chúng. Tiên tri dẫn dắt mọi người đặt niềm tin tưởng và hy vọng vào sự giải cứu
trong tương lai. Giêrêmia đã không ngại nói thẳng và nói thật khi phải đụng
chạm với các chủ chăn. Ngài cảnh cáo: Chúa phán: “Khốn cho các mục tử làm tản
mác và xâu xé đoàn chiên Ta” (Gr 23,1).
Lời Tiên tri Giêrêmia giúp chúng ta suy tư một chút về vấn đề
mục vụ và phục vụ cộng đoàn dân Chúa. Nếu không được sai đi, không ai tự mình
lãnh nhận trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Thời Cựu Ước, Môisen đã
dành ra một chi tộc Lêvi để phục vụ trong việc cầu nguyện, dâng hương, giảng
dạy lề luật, hiến thánh và chúc lành (x. Ds 1,47-50). Tiếp theo là các vị tư tế
được chọn lựa trong dân để phục vụ. Sứ mệnh phục vụ dân Chúa là việc tốt lành
thánh thiện cần được huấn luyện trau dồi và được sai đi. Thời xưa, các vua chúa
nắm quyền hành và hướng dẫn dân chúng cả việc đạo lẫn việc đời. Các vua Chúa
như vua Saulê, Đavid, Solômon và những vua kế vị như vua Josiah, Jehoiakim và
Zedekiah có ảnh hưởng rất lớn trong đời sống tình thần của đoàn dân. Hầu hết
các vua Chúa đã bị lung lạc, sống buông thả và đưa dân chúng vào ngõ cụt thờ
bụt thần của ngoại bang.
Tuần qua, chúng ta nói về Bài Sai gởi các nhân chứng ra đi vào
cánh đồng truyền giáo. Giáo Hội đã quan tâm rất nhiều về sự huấn luyện các nhân
chứng tin mừng cả về trí, đức và dục. Mỗi một tu sĩ nam nữ hay tân linh mục đã
được thừa hưởng gia sản giáo dục rất phong phú. Để trở thành một linh mục, ít
nhất các ứng viên cũng phải trải qua nhiều năm tháng tu luyện và học hỏi ở
trường lớp. Về mặt tri thức, qua chương trình trung học phổ thông, các ứng sinh
phải có bằng cử nhân Triết học, hoặc nếu có cử nhân về các môn học khác, thì
cần các tín chỉ 2 năm về Triết học. Phải trải qua 4 năm thần học với bằng cử
nhân Thần học và Cao học (MDiv. hoặc MA) cộng với các kinh nghiệm từng trải
trong thời gian giúp xứ và mục vụ thử luyện tại các giáo xứ, trường học hay
bệnh viện… Các linh mục dòng còn cần thời gian dài hơn trong sự huấn luyện cả
về tu đức lẫn học hỏi chuyên môn. Điều quan trọng hơn hết là các ứng sinh linh
mục cần có thời gian sống và kết hợp tương quan mật thiết với Chúa Giêsu linh
mục. Tất cả các việc mục vụ và phục vụ của các linh mục và tu sĩ đều quy về
Chúa Giêsu Kitô.
Mỗi linh mục nhận Bài Sai về các cộng đoàn, giáo xứ hoặc sinh
hoạt trong các ban ngành chuyên môn, họ khả dĩ có đủ khả năng để phục vụ. Nói
chung, linh mục nào cũng có sự hiểu biết căn bản về Giáo Hội và các môn thần
học, nhưng mỗi vị có những cá tính khác nhau. Căn cốt của sự hiểu biết như
nhau, nhưng mỗi người có những khả năng chuyên môn và cách hành xử khác nhau.
Mỗi linh mục phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa và bề trên về công việc mục
vụ và phục vụ của mình. Mỗi linh mục và tu sĩ đều có địa chỉ được sai đến, có
cộng đoàn để phục vụ và trách nhiệm phải chu toàn.
Lý tưởng thì rất cao trọng và ý hướng phục vụ rất tốt lành.
Trong thực tế cuộc sống, các mục tử không tránh khỏi những sự yếu đuối, sai lầm
và trì trệ. Là con người, đôi khi cũng bị rơi vào những tham, sân, si hoặc lười
biếng trễ nải. Các linh mục cũng có khi sa vào những cạm bẫy nghiện ngập như
bài bạc, rượu chè, truỵ lạc và tham lam của cải thế gian. Rồi nữa, mục tử cũng
không tránh khỏi những đua đòi, gây ảnh hưởng, tìm chỗ đứng và bon chen chợ đời
làm suy yếu đời sống đạo. Tuy nhiên, chúng ta phải công nhận rằng có nhiều linh
mục sống đức độ, thánh thiện và phục vụ quên mình cho đoàn chiên. Có những linh
mục cũng vì nhiệt tâm cho nhà Chúa, nhưng không đáp ứng thoả mãn những đòi hỏi
của giáo dân nên gây ra nhiều hệ luỵ. Có khi vì linh mục muốn chu toàn lẽ đạo theo
lề luật của Giáo Hội mà bị coi là khó khăn, cố chấp và độc tài. Có khi vì đi
theo chính dòng truyền thống của Giáo Hội, cũng có thể bị giáo dân chê bai là
lỗi thời và chậm tiêu. Bởi thế, trong lòng Giáo Hội, nơi các cộng đoàn và giáo
xứ luôn xảy ra những lủng củng, chia rẽ và bất cập. Trong mọi trường hợp, chúng
ta đừng vội xét đoán và kết án, kẻo bé cái lầm.
Thường thì mục tử nào cũng có ý ngay lành muốn đàn chiên của
mình được đoàn kết, yêu thương và gắn bó nhưng thực tế cuộc sống có nhiều phức
tạp khó lường. Những thị phi và hoạ phước của con người có thể gây những phiền
hà trong đời sống cộng đoàn. Chúng ta biết rằng nếp sống chung luôn là một sự
thách đố. Người ta thường nói “trăm người trăm ý”. Ý kiến của ai cũng hay và
cũng có lý, nhưng có thể không luôn thích hợp. Chính những sự khác biệt và mâu
thuẫn này đã tạo nên những hố sâu ngăn cách và tị hiềm lẫn nhau. Các mục tử cần
có sự khôn ngoan với lòng bao dung và biết lắng nghe để giúp khai thông những
bế tắc. Các mục tử cần sự thinh lặng cầu nguyện và tìm sự hướng dẫn qua lời chỉ
dạy của Chúa và Giáo Hội. Chúng ta hãy học theo gương của Thánh Phaolô Tông đồ
sống khiêm hạ và phó thác. Thánh Phaolô đã tự khoe mình: “Thế nên tôi rất vui
mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi, để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong
tôi” (2 Cr 12,9). Linh mục như những bình sành dễ bể, chúng ta phải cậy dựa vào
tình thương và ân sủng của Chúa để thắng vượt các cơn cám dỗ.
Điều quan trọng hơn hết là Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy lui
về nghỉ ngơi một chút. Chúa Giêsu bảo các ông: “Chính anh em hãy lánh riêng ra
đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31). Mỗi mục tử hãy dùng
thời gian để kiểm điểm và suy xét lại đời sống dâng hiến của chính mình. Ý thức
trong mọi suy tư, lời nói, hành động, trách nhiệm và bổn phận của mình. Biết
rằng Chúa không đòi chúng ta phải nên giống người này hay người nọ, nhưng hãy
chu toàn sứ mệnh được trao ban. Đây là một thách đố trường kỳ đòi hỏi nhiều sự
kiên nhẫn và khiêm hạ. Thời gian nghỉ ngơi dưỡng sức để phục hồi năng lực rất quan
trọng. Nghỉ ngơi để xả bớt những gánh nặng lo âu và căng thẳng. Chúng ta thường
tò mò tìm hiểu những thế giới bên ngoài, sao không dùng đôi phút để tìm hiểu
con người bên trong của mình. Tìm nơi thanh vắng nghỉ ngơi sẽ làm tâm hồn chúng
ta được thư giãn để kết hợp với Chúa trong nguyện cầu.
Linh mục dù phải chạy đua với công việc thường ngày nhưng luôn
nhớ gắn kết với Chúa Giêsu trong đời sống cầu nguyện. Chúng ta không thể đáp
ứng thoả mãn các nhu cầu cuộc sống trong mọi trường hợp. Chúng ta phải biết tự
giới hạn và chọn lựa thích đáng. Đôi khi phải biết nói ‘không’ khi những đòi
hỏi không cần thiết. Người ta thường nói cả nể cho nên sự dở dang là thế. Người
mục tử của ngày hôm nay đòi hỏi phải hy sinh phó thác và từ bỏ nhiều hơn. Linh
mục luôn học sự cảm thông và nhẹ nhàng chia sẻ. Thông thoáng mà không quá dễ
dãi. Nguyên tắc mà không khắc nghiệt.
Lạy Chúa Giêsu là Linh Mục Thượng Phẩm. Chúa là chủ chiên tốt
lành đã dám hy sinh mạng sống vì đàn chiên, xin cho chúng con trở nên những mục
tử biết hy sinh cuộc sống riêng để phục vụ tha nhân trong Chúa. Lạy Chúa, xin
nhậm lời chúng con.
7. Lời khuyên
thiết thực
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Tin Mừng Chúa nhật hôm nay tiếp nối trang Tin Mừng tuần trước.
Chúa Giêsu sai các môn đệ ra đi truyền giáo. Nay các học trò trở
về. Anh em vui mừng kể cho Thầy nghe kết quả những việc đã làm. Chúa chia sẻ
niềm vui với các môn sinh và Chúa khuyên nhủ: “Anh em hãy lánh riêng ra đến một
nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một lời khuyên rất thiết thực.
Chúa Giêsu rất thương các môn đệ. Làm việc nhiều nên cần phải
nghỉ ngơi lấy lại sức lực để tiếp tục làm việc. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm
của các Tông đồ. Trong thinh lặng, mỗi người cầu nguyện, trau dồi nội tâm.
1. Thinh lặng là một cõi riêng tư
Một bầu khí yên tĩnh, một thời gian trầm lắng là một cõi riêng
tư thật cần thiết cho con người. Thân xác nghỉ ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc
sáng suốt, tâm hồn bình an.
Giữa những ồn ào của đám đông
giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại
xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng
giữa những khát khao thèm muốn
và những trói buộc của sợ hãi, âu lo,
xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước
giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh mông,
chẳng có ai để cậy dựa,
xin trở về với cõi riêng bên Giêsu,
để một mình ở đó
trầm lắng và bình an.
Lm Nhạc sĩ Thái Nguyên suy tư những lời thơ sâu lắng ấy và đã
dệt ca khúc: “Một cõi riêng tư”.
Một cõi riêng tư, trong lòng con xin dành cho Chúa.
Một cõi riêng tư, trong lòng con Chúa thương ngự trị.
Chúa là điểm hẹn nơi con phát xuất ra đi dấn thân, cho cuộc đời
nhân trần.
Chúa là đỉnh cao nơi con trở lại,để sống trong ân tình, niềm vui
phút an bình.
Một cõi riêng tư với Chúa, chan chứa một niềm vui sâu lắng trong
nội tâm, niềm vui gặp gỡ Chúa.
2. Chúa Giêsu mẫu gương thinh lặng
Chúa Giêsu khuyên các môn sinh hãy sống theo gương của Người.
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu với khởi đầu là cầu nguyện và kết thúc trong
tĩnh lặng riêng tư với Cha.Sáng sớm tinh mơ, Người dành thời gian đẹp nhất một
ngày mới để cầu nguyện cùng Chúa Cha. Sau đó bận rộn với biết bao công việc:
rao giảng và chữa lành thể xác tâm hồn cho con người. Chúa Giêsu thích sự cô
tịch và tránh xa đám đông. Người chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi
cao riêng biệt" (Mc 9,2); những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng
(Mc 5,1); những bãi biển Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31); đôi bờ
của con thác miền núi gần nguồn sông Giođan dưới chân núi Hécmon (Mc 8,27)…
Nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu tạo nên khuôn mẫu cho tất cả
các môn sinh trong cuộc sống thường ngày.
Các môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người.
Các môn đệ trở về, Chúa khuyên nên nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Làm việc và cầu
nguyện, sống "nội tâm" và hoạt động "bên ngoài", đó là nhịp
sống mỗi ngày của người môn đệ Chúa Giêsu.
3. Thinh lặng để sống nội tâm
Đời sống tâm linh phải được nuôi dưỡng bồi bổ để phát triển.
Chúa chính là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Những giờ phút riêng tư thân
mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển. Nhờ cầu nguyện, con
người mới phát triển quân bình.
Làm việc và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con người. Làm việc
để nuôi thân, nuôi gia đình và góp phần xây dựng xã hội.Đời sống cầu nguyện hỗ
trợ cho hoạt động bên ngoài. Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không
khác gì máy móc. Nếu chỉ biết phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở
thành nô lệ cho vật chất. Nếu chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con
người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo tiền bạc, chạy theo chức quyền. Cầu nguyện giúp
nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta
định hướng cuộc đời. Ánh sáng Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ
những sai sót của mình mà sửa đổi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn
mực đạo đức giúp ta sống ngay thẳng, thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho
ta sức mạnh để hoạt động tích cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa
trên đường phục vụ anh em.
Các xã hội văn minh, các đô thị luôn chạy theo nhịp sống hối hả
của kỹ thuật hiện đại. Con người thời nay dễ bị căng thẳng. Do đó, người ta
thường tìm đến với Yoga, Thiền, với các phương pháp dưỡng sinh để tìm sự quân
bình, tìm yên tĩnh, muốn trầm lắng nội tâm.
Vào mùa hè, người ta thường tạm nghĩ công việc, rời nếp sống đô
thị náo nhiệt tìm đến nghĩ ngơi nơi vùng quê, miền biển, miền núi.Nô đùa cùng
sóng biển cát vàng, hít thở khí trời dịu mát của cao nguyên lộng gió hay hoà
vào khung cảnh thanh bình êm ả của đồng quê bát ngát lúa chín vàng… Bầu khí yên
tĩnh, thời gian trầm lắng là điều rất cần thiết cho con người. Thân xác nghĩ
ngơi, tinh thần thư giãn, trí óc sáng suốt. Từ đó, nhìn lại cuộc sống mình,
kiểm điểm, rút ưu khuyết, định hướng cho cuộc sống sắp tới.
Trong lãnh vực tông đồ, thinh lặng cầu nguyện thật cần thiết.
Làm việc tông đồ là làm việc của Chúa. Cầu nguyện để biết rõ ý Chúa, biết việc
phải làm. Cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cầu
nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Chúa.
Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết quả
tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Làm việc phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và cầu nguyện.
Điều kiện tiên quyết để thành công chính là sự thinh lặng. Từ thinh lặng ta mới
có thể nuôi dưỡng những suy tư của mình một cách lâu dài được. Bầu khí thinh
lặng giúp ta hồi tâm xét mình thực thi sám hối cách đúng mức. Bầu khí thinh
lặng còn giúp cho người khác sống tinh thần cầu nguyện.
Người Kitô hữu yêu quý những giây phút thinh lặng trong tâm hồn,
yên tĩnh ngọt ngào bên Chúa. Người Kitô hữu tìm thấy sự thinh lặng thánh ấy
trong nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện và ngay trong tâm hồn mình.
“Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2).
Thinh lặng, cầu nguyện chiêm niệm, hồi tâm luôn mang lại sức sống thiêng liêng
cho mỗi người.
Mẹ Têrêxa Calcutta thích thinh thặng và đã dâng lời cầu nguyện
tha thiết.
Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,xin dạy chúng con
thinh lặng để ở một mình với Ngài,trò chuyện,lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng
Sống.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước
những vấp váp của tha nhân, biết quay đi trước những dịp tội gây xao xuyến.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,để nghe được tiếng kêu
của người nghèo đói,để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,để biết ca tụng Chúa
và đem lại an vui cho muôn người,tránh cho mọi lời nói gây đau đớn đổ vỡ.
Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,để mở ra trước sự thật
và khép lại trước dối trá.
Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,để tránh xa
mọi ích kỷ,thù hằn,ghen ghét,để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên hết mọi sự.
Amen.
8. Chân dung vị lãnh đạo
– Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Các nhà lãnh đạo Trung Đông đang bù đầu tìm một giải pháp hòa
bình cho miền Đất Hứa. Trên miền đất đầy xáo trộn đó, Con Thiên Chúa đã đến
thực hiện giấc mộng hòa giải và bình an cho muôn dân. Người nổi bật như một
lãnh tụ thật sự. Niềm mong đợi của muôn dân đã không uổng. Nhìn đến từng đoàn
người tấp nập tuốn đến, Đức Giêsu đã làm tất cả những gì để mở ra một hướng
sống cho con người.
MỘT HƯỚNG SỐNG
Thánh Marcô viết: “Đức Giêsu bắt đầu dậy dỗ dân chúng
nhiều điều” (Mc 6:34). Không biết Người đã dậy dỗ những gì? Nhưng chắc chắn
Người phải dậy dỗ điều Người đang quan tâm và dân chúng đang mong đợi. Điều
Người đang quan tâm là “họ như bầy chiên không người chăn dắt.” (Mc 6:34) Còn
ai xứng đáng là người chăn chiên như Người? Chính Người đã tự xưng: “Tôi chính
là Mục Tử nhân lành.” (Ga 10: 11,14) Người Mục Tử chân thật phải vạch được một
hướng sống cho đám đông đáng thương đó.
Hướng sống, đó là nội dung những lời dạy dỗ hôm đó. Lời
dậy dỗ đó không thể thành hình từ những ồn ào của cuộc sống. Cũng không thể
phát xuất từ một tâm hồn giá băng. Nhưng trong thinh lặng và với một tâm hồn vô
cùng nhậy cảm trước những nhu cầu lớn lao của quần chúng, Đức Giêsu đã mạc khải
tất cả sự thật về Thiên Chúa và con người. Trong sâu thẳm tâm hồn, Người đã
nhìn thấy nhu cầu sâu xa và lớn lao nhất của kiếp người. Không phải cơm áo.
Cũng chẳng phải an sinh xã hội. Nhưng chính là TÌNH YÊU. Vì “THIÊN CHÚA là TÌNH
YÊU.” (1 Ga 4:8) Tình yêu sẽ là câu trả lời cuối cùng cho mọi nhu cầu con
người. Tình yêu đưa con người về nguồn sống là Thiên Chúa. Tình yêu cũng là máu
huyết nuôi dưỡng và gắn bó Ba Ngôi trong một mầu nhiệm duy nhất. Tình yêu quyết
định thân phận con người và nhân loại. Không một thực tại nào vừa đẹp vừa mạnh
bằng tình yêu. Mạc khải về tình yêu không bao giờ cùng. Tình yêu tóm tắt tất cả
chương trình tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa. Có thể nói tất cả những điều
Đức Giêsu dạy dỗ dân chúng hôm đó xoay quanh đề tài tình yêu.
Quả thật, “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã
hiến ban Con Một.”(Ga 3: 16) Nhờ tình yêu Thiên Chúa, thế gian đã tìm được con
đường, sự thật và sự sống là Đức Giêsu Kitô. Con đường ấy sẽ dẫn về Thiên Chúa
và anh em. Sự thật ấy sẽ giải thoát khỏi mọi nô lệ, gông cùm của tội lỗi. Sự
sống ấy chan hòa niềm vui và vô cùng sung mãn hồng ân Thiên Chúa. Tất cả đều là
những nét tuyệt vời của một thủ lãnh siêu việt, đúng như lời Chúa phán: “Ta sẽ
cho xuất hiện các mục tử để lãnh đạo chúng.” (Gr 23:4) Như vậy Chúa Giêsu đến
đúng lúc để thực hiện lời tiên báo.
Người mục tử thực sự phải có một trái tim nồng nàn và cái
nhìn xuyên suốt. “Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương.”
(Mc 6:34) Trái tim Người không thể nghỉ yên bao lâu đám đông còn chìm trong
cảnh thương tâm vì lầm lạc, nô lệ, tội lỗi. Người biết rõ tất cả chỉ vì thiếu
một khuôn mặt lãnh đạo, nghĩa là không có ai đủ khả năng vạch ra một đường
hướng mới cho dân tộc và nhân loại. Người biết rất rõ nhu cầu đám đông, nên
Người càng muốn hi sinh tất cả cho quần chúng. Chính Người đã nói: “Tôi biết
chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa
Cha, và tôi hi sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Ga 10:14-15) Từ khi Chúa
Giêsu xuất hiện, bầy chiên thực sự đã có người chăn dắt, không còn lo lạc đàn
và bị lâm nguy vì sói dữ nữa. Tất cả nhờ sự hi sinh lớn lao của người chủ chiên
là Đức Giêsu.
Muốn trở thành chủ chiên như Đức Giêsu, các Tông đồ cũng
phải có một tâm hồn và cái nhìn như Đức Giêsu. Nhưng nếu thực sự muốn thế, các
ông phải biết lánh xa quần chúng. Thật là diệu kỳ. Người lãnh đạo ở một vị trí
vừa gần vừa xa quần chúng mới đạt được mục đích lớn lao. Quá lánh xa không thể
hiểu quần chúng. Quá gần không thể thấy được vấn đề vì những ồn ào đám đông.
Bởi thế, trong khi các ông hí hửng báo cáo “cho Người biết mọi việc các ông đã
làm, và mọi điều các ông đã dạy”, thì “Người bảo các ông: ‘Anh em hãy lánh
riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút’.” (Mc 6:30-31) Các ông
hiểu ý nên “Thày trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng.” (Mc
6:32) Thầy trò đều muốn có những giây phút thoải mái nghỉ ngơi và bồi dưỡng
trước khi tiếp tục công tác. Chắc chắn trong nơi hoang vắng đó, Thày trò có thể
cầu nguyện dễ dàng. Các Tông đồ cũng có thể đón nghe những mạc khải mới. Nhờ đó
tâm hồn và trí óc có thể sáng suốt hơn, phục vụ đắc lực hơn.
KHUÔN MẶT DỄ THƯƠNG
Nhưng đám đông vẫn không tha. “Thấy các ngài ra đi, nhiều
người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi,
trước các ngài.” (Mc 6:33) Đó là một hình ảnh sống động nói lên sự đói khát
tinh thần của quần chúng. Họ mơ ước một vị Thiên Sai đến lãnh đạo dân tộc. Họ
bị thu hút mãnh liệt vì khuôn mặt quá sức hấp dẫn của Đức Giêsu, bất kể những
nhu cầu nghỉ ngơi của Thày trò. Hai hình ảnh trái ngược nhau. Dân chúng càng ồn
ào náo nức bao nhiêu, Thày trò càng muốn tìm đến nơi hoang vắng bấy nhiêu.
Nhưng dân chúng đã tràn ngập cả nơi hoang vắng, phá vỡ sự yên
tĩnh cần thiết của người lãnh đạo. Làm thế là phá hỏng cả chương trình của Thày
trò. Nhưng Đức Giêsu lại thấy tất cả nét dễ thương trong thái độ quần chúng. Đó
chỉ là một cách diễn tả lòng ái mộ tột độ. Với một cái nhìn bao dung và đi sâu
vào lòng người, Đức Giêsu đủ khả năng “liên kết đôi bên, dân Do thái và dân
ngoại, thành một ; Người đã hi sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là
sự thù ghét. Như vậy, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất nơi
chính bản thân Người.” (Ep 2:15) Đây là nét nổi bật nhất của vị lãnh đạo. Lãnh
đạo chỉ là khả năng qui tụ con người. Mất sức qui tụ, lãnh đạo sẽ hoàn toàn
thất bại.
Không những có đủ khả năng lãnh đạo một cách tuyệt vời,
Đức Giêsu còn chứng tỏ khả năng đó một cách anh hùng khi đổ máu thực hiện việc
hòa giải con người với nhau và với Thiên Chúa. Thực vậy, “Nhờ thập giá, Người
đã làm cho đôi bên được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất ;
trên thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. Người đã đến loan Tin Mừng bình
an,” (Ep 2:16-17) vì “chính Người là bình an của chúng ta.” (Ep 2:14) Như vậy,
quyền lãnh đạo đã đạt tới cao điểm là cuộc hòa giải và sự bình an cho muôn dân.
Còn ai xứng đáng lãnh đạo muôn dân hơn Đức Giêsu?
Cuộc hòa giải và sự bình an đó không dựa trên kiến thức
hay năng lực vật chất. Nếu không có sự khôn ngoan, kiến thức chỉ làm cho con
người thêm rối loạn và kiêu ngạo. Không thời đại nào con người giầu kiến thức
nhưng cũng có quá nhiều bế tắc như hôm nay. Chỉ có một nguồn khai thông duy
nhất cho mọi bế tắc, đó là “nhờ Người, cả đôi bên, chúng ta được liên kết trong
một Thần Khí duy nhất mà đến cùng Chúa Cha.” (Ep 2:18) Khi đã thông hiệp với
Chúa Cha, con người có thể vượt qua những trở ngại dễ dàng, vì Chúa Cha là
nguồn mạch mọi khôn ngoan. Như thế, quyền lãnh đạo của Đức Giêsu được củng cố
trên một sức mạnh lớn lao là Thần Khí và đưa muôn dân về một cứu cánh duy nhất
là Chúa Cha. Quyền lãnh đạo đã đạt tới một chiều kích vừa tự nhiên vừa siêu
nhiên. Chúa có thấy được chiều kích lớn lao đó trên khuôn mặt những nhà lãnh
đạo chúng ta không?
9. Vị mục tử.
Hẳn chúng ta đã biết một người nổi tiếng trong cuộc đấu tranh
cho nhân quyền vào khoảng thập niên 50, đó là mục sư Martin Luther King. Ông là
nhà lãnh đạo hàng đầu được cả triệu dân Mỹ Châu da đen ủng hộ. Họ coi ông như
một vị anh hùng. Mà quả thật, nếu không có ông, thì họ sẽ bơ vơ như đàn chiên
không ai chăn dắt.
Một đêm nọ vào lúc một giờ sáng, ông bị đánh thức bởi tiếng
chuông điện thoại. Khi ông cầm máy lắng nghe, thì một giọng nói giận dữ vang
lên: Này anh chàng da đen, hãy nghe đây, chúng tôi không cần đến anh. Anh đừng
bén mảng đến phần đất của chúng tôi nữa. Nghe giọng nói đầy đe dọa này, ông đã
thực sự hoảng sợ, và với chút can đảm còn sót lại, ông đã gục đầu kêu xin Chúa:
Lạy Chúa, con đang đảm nhận một sứ vụ rất chính đáng, thế nhưng giờ đây, con vô
cùng sợ hãi. Con không biết phải làm thế nào nữa. Một mình con không thể đương
đầu nổi với trách nhiệm nặng nề này.
Trong cuộc sống, nhiều lúc chúng ta cũng cảm thấy sợ hãi trước
trách nhiệm đã lãnh nhận. Chúng ta dường như không thể vác nổi gánh nặng đè
xuống trên chúng ta. Có nhiều lúc chúng ta cảm thấy như muốn kêu lên giống Chúa
Giêsu trong vườn Cây dầu: Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén đắng này xa con.
Noi gương Chúa Giêsu cũng như noi gương mục sư Martin Luther King, trong những
lúc gặp khó khăn, trong những khi thất vọng nản chí, chúng ta hãy chạy đến với
Chúa qua những tâm tình cầu nguyện. Chắc chắn Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi
chúng ta.
Phúc âm kể lại, sau khi Đức Kitô cầu nguyện cùng Chúa Cha trong
vườn Cây dầu, thì một thiên thần từ trời hiện đến an ủi và nâng đỡ Ngài. Còn
mục sư Luther King cũng vậy, sau khi cầu khẩn cùng Chúa trong cái đêm đáng ghi
nhớ ấy, ông đã ghi nhận được sự nâng đỡ của Chúa mà trước đó, ông chưa hề thấy.
Tóm lại, mỗi khi chúng ta cảm thấy gánh nặng của bổn phận, của
trách nhiệm đè xuống trên mình, chúng ta hãy biết cầu nguyện, hãy biết tìm về
với Chúa, và Ngài sẽ ban cho chúng ta nguồn sức mạnh, nâng đỡ chúng ta trên vạn
nẻo đường đời, như lời Thánh vịnh đã viết: Chúa là mục tử, tôi chẳng còn thiếu
thốn chi, Ngài dẫn tôi qua đường ngay nẻo chính. Dù bước đi trong thung lũng
tối tăm, tôi chẳng hề lo sợ. Dù bị đè bẹp dưới muôn vàn gánh nặng, tôi cũng
không nao núng.
Hay như lời Chúa đã kêu gọi: Hỡi những ai gồng gánh nặng nề, hãy
đến với Ta và Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Bởi vì, có Chúa thì màng nhện
cũng sẽ trở nên tường thành, còn không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là
màng nhện mà thôi.
10. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
NHỊP SỐNG KITÔ HỮU
Trời có lúc mưa lúc nắng. Mưa để tưới cho cây lúa mọc nhanh.
Nắng để cho hạt lúa vào mẩy chín vàng. Thời gian có ngày có đêm. Ngày để con
người làm việc. Đêm để con người nghỉ ngơi phục hồi sức lực. Con người có đời
sống riêng tư những cũng có đời sống xã hội. Có lúc phải ra ngoài góp mặt với
đời. Có lúc phải rút lui vào chốn riêng tư để sống cho mình. Nhịp hai chi phối
đời sống con người ấy cũng chi phối những hoạt động thiêng liêng của người môn
đệ Chúa. Trong bài Tin Mừng Chủ nhật tuần trước, ta đã thấy Đức Giêsu sai các
môn đệ đi rao giảng Tin Mừng, hoạt động cứu độ con người. Hôm nay, khi các ông
về tường trình lại những việc đã làm. Người bảo các ông tìm chỗ vắng vẻ mà nghỉ
ngơi. Nghỉ ngơi trong cầu nguyện. Sống riêng tư thân mật với Chúa. Hoạt động và
cầu nguyện, đó là nhịp sống của người môn đệ Chúa.
Hoạt động và cầu nguyện đó là hai nhu cầu của con
người. Vì con người có thể xác nhưng cũng có linh hồn. Vì đời sống trong xã
hội, con người có bổn phận đối với làng xóm, với đất nước. Để thăng tiến bản
thân, gia đình và đất nước, ta phải học hành, lao động hết sức vất vả. Đó là
nhiệm vụ bắt buộc. Một người có tinh thần trách nhiệm không thể nào xao lãng
những nhiệm vụ đó. Tuy nhiên sẽ là thiếu sót rất lớn nếu con người chỉ biết có
đời sống thể xác mà quên đi đời sống tâm linh. Thật vậy, con người không chỉ có
thể xác mà còn có linh hồn. Đời sống tâm linh cũng cần phải được nuôi dưỡng bồi
bổ để phát triển. Sẽ là khập khiễng, lệch lạc, què quặt nếu chỉ lo phát triển
đời sống vật lý mà quên đời sống tâm linh. Đời sống tâm linh được nuôi dưỡng
bồi bổ ở bên Chúa. Chính Chúa là nguồn mạch đời sống thiêng liêng. Vì thế những
giờ phút riêng tư thân mật bên Chúa sẽ giúp cho đời sống tâm linh phát triển.
Chính nhờ những giờ phút cầu nguyện mà con người được phát triển quân bình, song
song cả hồn lẫn xác.
Hơn thế nữa việc cầu nguyện sẽ hỗ trợ hoạt động bên ngoài.
Nếu chỉ hoạt động bên ngoài, con người sẽ không khác gì máy móc. Nếu chỉ biết
phát triển đời sống thân xác, con người sẽ trở thành nô lệ cho vật chất. Nếu
chỉ quan tâm tới những nhu cầu vật chất, con người sẽ dễ bị tha hoá, đuổi theo
tiền bạc, chức quyền. Một xã hội chỉ phát triển về vật chất mà không phát triển
về đạo đức sẽ khó tồn tại. Cầu nguyện giúp nâng tâm hồn lên khỏi nô lệ vật
chất. Những giây phút yên lặng bên Chúa giúp ta định hướng cuộc đời, ánh sáng
Lời Chúa giúp ta nhìn rõ tâm hồn mình, biết rõ những sai sót của mình mà sửa
lỗi. Những lời chỉ dạy của Chúa là những chuẩn mực đạo đức giúp ta sống ngay
thẳng thật thà, lương thiện. Ơn Chúa ban sẽ cho ta sức mạnh để hoạt động tích
cực hữu hiệu hơn, để hăng hái dấn thân hơn nữa trên đường phục vụ anh em.
Riêng trong lãnh vực tông đồ, cầu nguyện tuyệt đối cần
thiết. Thật vậy, việc tông đồ bắt nguồn từ nơi Chúa. Làm việc tông đồ
là làm việc của Chúa. Làm việc của Chúa mà không kết hiệp mật thiết với Chúa
thì không những không thể có kết quả tốt đẹp mà còn có nguy cơ đi sai đường,
làm hỏng công việc của Chúa. Không cầu nguyện ta sẽ dễ chú ý tới những hoạt
động thuần tuý phô trương bề ngoài. Không cầu nguyện ta sẽ dễ biến việc của
Chúa thành của riêng ta và vì thế sinh ra tự phụ, kiêu hãnh. Không cầu nguyện,
việc tông đồ sẽ chỉ là một hoạt động xã hội từ thiện không hơn không kém. Vì
thế, cầu nguyện rất cần thiết. Cần cầu nguyện đế biết rõ ý Chúa, biết việc phải
làm. Cần cầu nguyện để múc lấy sức mạnh của Chúa giúp chu toàn công việc. Cần
cầu nguyện để biết khiêm nhường luôn coi mình là dụng cụ trong bàn tay Thiên
Chúa. Chỉ khi làm việc trong Chúa, với Chúa và vì Chúa, việc tông đồ mới có kết
quả tốt đẹp theo ý Chúa muốn.
Hoạt động và cầu nguyện. Đó là hai nhịp trong đời sống Kitô hữu.
Nhưng có lẽ ta thường chú trọng tới hoạt động mà quên cầu nguyện. Hôm nay, Chúa
dạy ta phải biết giữ quân bình giữa hai nhịp của đời sống. Có hoạt động nhưng
cũng phải có cầu nguyện. Hoạt động phải là kết quả của những giờ suy nghĩ và
cầu nguyện. Cầu nguyện để tổng kết lượng giá những hoạt động cũ và định hướng
những hoạt động mới. Hoạt động là bề mặt. Cầu nguyện là bề sâu. Giữ được quân
bình giữa hai nhịp sống, con người mới phát triển toàn diện. Duy trì sự ổn định
của hai nhịp sống mọi hoạt động của con người mới có nền tảng và bền vững.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một ngày kết thúc mà bạn chưa cầu nguyện, bạn có cảm thấy như
thế là thiếu sót như thể bạn chưa ăn gì trong ngày hôm ấy không?
2- Trước khi đi làm việc tông đồ, bạn có cầu nguyện không?
3- Hai nhịp trong đời sống bạn đã hài hoà chưa? Bạn sẽ làm gì để
chỉnh đốn lại những lệch lạc trong nhịp sống?
4- Gia đình bạn có cầu nguyện chúng với nhau trước khi đi ngủ
không?
11. Chạnh lòng
thương – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau một cuộc hành trình truyền giáo, các tông đồ phấn khởi trình
bày cho Đức Giêsu những gì mình đã làm và đã dạy.
Đức Giêsu có vẻ quan tâm đến con người hơn công việc. Ngài biết
các tông đồ giờ đây cần gì. Họ cần một chút nghỉ ngơi cho thân xác. Họ cần một
chút riêng tư, trầm lắng cho tâm hồn, để nhìn lại phía sau, để nhìn về phía
trước, để tách mình ra khỏi công việc bề bộn nơi đám đông, để sống tình thầy
trò ấm áp.
"Hãy đi riêng ra, đến nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi một
chút." Chỉ cần một chút thôi, năm phút, mười phút...
Ai trong chúng ta cũng cần một chút lặng lẽ mỗi ngày, để trở lại
chỗ sâu nhất của lòng mình, để nghe được tiếng gọi mời của Thiên Chúa.
Cần tìm một chỗ lặng lẽ trong nhà, để tôi có thể ngồi với tôi,
trước nhan Chúa.
Cuộc sống hôm nay không để cho ta một chút nghỉ ngơi.
Các tông đồ cũng bị cuốn vào cơn lốc của công việc.
Cần phải phấn đấu để có được một chút mỗi ngày.
Một chút lắng sâu đủ nuôi cả ngày. Một chút êm ả khi ta đã làm
mình rỗng không khỏi bao điều đã nghe và thấy, đã nói và ước mơ.
Phải xuống thuyền để đi đến nơi nghỉ ngơi. Phải ra khỏi chỗ mình
đang sống.
Thầy trò đã lên thuyền, nhưng kế hoạch bất thành. Có lẽ vì ngược
gió nên thuyền đi chậm. Một số người đã chạy đến trước nơi Thầy trò sắp ghé
vào. Đức Giêsu sững sờ khi thấy đám đông. Những bước chân nôn nao, hối hả của
họ đã khiến Ngài rung động tận cõi lòng. Ngài biết họ cần Ngài và Ngài thương
họ.
Cái cần của tập thể thật cấp bách đến nỗi nhu cầu chính đáng của
cá nhân phải hy sinh.
Đức Giêsu mang trái tim của người mục tử nhân hậu, nhói đau
trước sự bơ vơ của đoàn chiên.
Bơ vơ là tâm trạng của con người mọi thời, nhất là của người trẻ
hôm nay. Bơ vơ khi bị ném vào cuộc đời lọc lừa, xảo trá. Bơ vơ khi bị nghiền
nát bởi những thủ đoạn gian manh. Bơ vơ khi bị sa sảy, không sao đứng lên được.
Bơ vơ khi những thần tượng lần lượt tan vỡ.
Bi bơ vơ dẫn đến chán chường và buông trôi, mặc cho mình bị kéo
vào những cái bẫy nghiệt ngã.
Làm thế nào để người bạn trẻ gặp được Giêsu, để lấy lại niềm
tin, để tìm được hướng sống, để vững vàng bình an giữa sóng gió cuộc đời.
Tôi phải giới thiệu Đức Giêsu cho người khác, nhưng tôi cũng
phải trở thành một Giêsu gần gũi để đến với những ai bơ vơ quanh tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Mỗi ngày kéo dài 288 lần 5 phút. Bạn có dám dành 1/288 của ngày
để sống cho mình, sống rất riêng với Chúa không? Nếu bạn thường xuyên lặng lẽ
như vậy, bạn có thấy được nâng đỡ không?
Bạn đã có lần rơi vào khủng hoảng, bơ vơ. Bạn làm gì hay nhờ ai
mà ra khỏi tâm trạng bơ vơ đó?
Cầu Nguyện
Giữa những ồn ào của đám đông, giữa những sôi nổi của thành công
và ê chề của thất bại, xin dành một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa những đam mê quay cuồng, giữa những khát khao thèm muốn và
những trói buộc của sợ hãi, âu lo, xin giữ một cõi rất riêng cho Giêsu.
Giữa lúc bị cuộc đời từ khước, giữa lúc bơ vơ đi trong đêm mênh
mông, chẳng có ai để cậy dựa, xin trở về với cõi riêng bên Giêsu, để một mình ở
đó, trầm lắng và bình an.
12. Tìm đến với
Chúa Giêsu.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Mario Flajano, văn sĩ, ký giả kiêm đạo diễn người Italia, qua
đời năm 1972, đã để lại những trang nhật ký thật cảm động; năm 1942, đưa con
gái 8 tuổi của ông bị bệnh sưng màng óc và kéo lê cuộc sống tàn tật đó cho đến
năm 1992,tức là 50 năm. Nhìn đứa con mà lòng đau xót, nhưng người cha vẫn đặt
tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa. Trong một trang nhật ký, ông viết: “một
người đàn ông nọ dẫn đến cho Chúa Giêsu đứa con gái bệnh tật và nói với Ngài:
‘Con không muốn chữa lành nó, nhưng chỉ xin Chúa yêu thương nó mà thôi’. Chúa
Giêsu cúi xuống hôn đứa trẻ và nói: “Ta nói thật, người đàn ông này đã xin điều
có thể cho được’. Nói xong, Chúa Giêsu biến đi trong ánh sáng chói ngời bỏ lại
một đám đông tiếp tục bàn tán về phép lạ, còn các nhà báo thì cố gắng mô ta các
phép lạ”.
Anh chị em thân mến,
Những dòng nhật ký trên đây của Flajano đưa chúng ta vào trọng
tâm của Tin Mừng. Đám đông dân chúng kéo đến với Chúa Giêsu. Họ đến do nhiều
động lực khác nhau thúc đẩy: vì tò mò, hiếu kỳ, vì mốn được xem phép lạ, hoặc
để được phép lạ, nếu là những bệnh nhân. Nhưng chắc chắn không ít người đến với
Chúa Giêsu vì muốn nghe Ngài giảng dạy, vì đói khát chân lý Tin Mừng. Và Chúa
Giêsu muốn đáp ứng trước tiên nhu cầu này của họ, vì họ như bầy chiên không
người chăn dắt. Nhiều lần trong Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu thay đổi
một chương trình, bỏ một dự tính, để dừng lại bên một đám tang, bên một bệnh
nhân, bên một bờ giếng… Trong câu chuyện hôm nay, Chúa Giêsu đã có thể dành
thời giờ thích thú nghe các Tông Đồ báo cáo kết quả chuyến đi truyền giáo. Ngài
có thể dẫn các Tông Đồ đi đến một nơi riêng không bị ai quấy rầy, để nghỉ ngơi.
Nhưng Ngài đã huỷ bỏ cuộc nghỉ để trước hết đáp ứng cơn đói khát của dân chúng.
“Ngài đã giảng dạy họ nhiều điều”.
Thật vậy, Tin Mừng không phải là một mớ lý thuyết hay giáo điều.
Tin Mừng cũng không phải là một Thiên Chúa cao xa trừu tượng. Tin Mừng thiết
yếu là một con người bằng xương bằng thịt, với một trái tim dễ rung động và
biết yêu thương. Đọc lại các sách Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã không
làm phép lạ như một phù thuỷ múa máy cây đũa thần của mình. Chúa Giêsu không
bao giờ làm phép lạ để làm loé mắt thiên hạ. Phép lạ dấu chỉ của ơn cứu độ, là
dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa đối với con người, một Thiên Chúa yêu thương
đến độ nhập thể làm người và sống thân phận con người.
Trong Tin Mừng hôm nay, Thánh Marcô như tóm tắt tất cả dung mạo
của Chúa Giêsu trong câu nói: “Chúa Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh
lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt”. Đây là tất cả mạc
khải về tình yêu Thiên Chúa đối với con người: thay cho một Thiên Chúa ở trên
cao, thưởng phạt chí công, lạnh lùng nghiêm khắc, Chúa Giêsu đã bày tỏ cho
chúng ta một Thiên Chúa đi vào lịch sử con người, một Thiên Chúa sinh ra như
một em bé, một Thiên Chúa cũng biết thế nào là đau khổ, một Thiên Chúa có trái
tim cảm thông và tha thứ, một Thiên Chúa gần gũi với con người, có mặt trong
từng nhịp thở của con người.
Chiêm ngắm một Thiên Chuá như thế qua con người Chúa Giêsu Kitô,
chúng ta cũng nhận ra được một chân lý về con người, bởi vì như Cộng Đồng
Vatican II trong Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng” đã nói: “Chỉ trong
ánh sáng của màu nhiệm Thiên Chúa Nhập Thể, chân lý về con người mới được sáng
tỏ”. Con người bởi đâu mà đến? Sẽ đi về đâu? Chúng ta nhận ra điều đó trong
Chúa Giêsu đã đành, mà trong Ngài, chúng ta còn biết phải sống thế nào cho phải
đạo làm người. Qua cung cách của Ngài, chúng ta thấy phải đối xử thế nào với
người đồng loại. Qua cuộc sống yêu thương và yêu thương đến chết trên thập giá,
chúng ta hiểu được rằng hiến thân cho tha nhân là ơn gọi của con người, chỉ có
con người mới được mời gọi để sống cho tha nhân mà thôi.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta nhận ra ý nghĩa cuộc sống của con
người. Con người sống không chỉ loanh quanh lẩn quẩn trong những cái ăn, cái
mặc, ngủ nghỉ, vui chơi, giải trí mà thôi. Trên thế giới có lẽ ít người tự tử
vì nghèo đói hơn là vì không tìm ra ý nghĩa cuộc đời: Tại sao mình phải sống?
Chết rồi sẽ ra sao?... Nói cách khác, cái túng thiếu, quẫn bách, nghèo đói,
chưa phải là động lực cuối cùng xô đẩy người ta liều mạng sống cho bằng vì
người ta cảm thấy không tìm ra giá trị nào cho cuộc đời của mình: cuộc đời phi
lý, vô nghĩa, không đáng sống! Chúa Kitô giảng dạy cho chúng ta biết rõ đích
điểm của cuộc đời mình và biết đường đi đến đích. Con người không được Lời Chúa
hưỡng dẫn sẽ giống như đàn vật bơ vơ lạc lõng, không biết đời mình sẽ đi về
đâu? Họ thiếu một hướng chỉ đạo. Giáo Hội đã nhận thấy điều đó, đặc biệt trong
thời đại chúng ta, nhân loại giống như một đàn vật cùng đường, mất hướng. Giáo
Hội phải rao giảng Lời Chúa, đem chân lý đến cho loài người, như Chúa Giêsu
giảng dạy cho đám đông dân chúng đi theo Ngài: “Ngài đã giảng dạy cho họ
nhiều điều”.
Thưa anh chị em, ngày nay, đứng trước hàng tỷ, hàng triệu con
người sống nhung nhúc ở những lục địa Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ Châu hoặc
trước hoàn cảnh của các Kitô hữu không có chủ chăn, lời Chúa đã thốt ra cách
đây gần 2000 năm vẫn là vấn đề thời sự: “Ta chạnh lòng xót thương đám đông dân
chúng, vì họ bơ vơ như đàn chiên không có người chăn dắt”. Vì thế, Giáo Hội hôm
nay nói chung và mỗi người chúng ta nói riêng, đều có sứ mạng đem Lời Chúa và
giúp người khác thực thi Lời Chúa, đó là cách Giáo Hội đóng góp cho con người,
cho công cuộc xây dựng thế giới loài người. Lời Chúa không thể nào dung tha những
gian dối, bất công, hận thù, chia rẽ, ích kỷ. Lời Chúa đòi người ta phải sống
cho sự thật, phải tranh đấu cho công bình, phải mở rộng vòng tay đón nhân anh
em, làm cho mọi người được sống hạnh phúc.
Là Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu hôm nay vẫn luôn chăm sóc chúng
ta. Ngài tập họp chúng ta xung quanh Ngài để nuôi dưỡng bằng Lời Chúa và bằng
Bánh ban sự sống. Hãy tìm đến với Ngài để lãnh nhận nguồn sinh lực mới. Tìm đến
với Ngài, chúng ta sẽ tìm gặp anh em cùng với Ngài: không thể tránh né anh em
để chỉ tìm một mình Ngài. Tập họp chung quanh Ngài, chúng ta cùng cộng tác với
Ngài để chiến đấu với tội ác, ích kỷ, bất công, hận thù, để cho Tin Mừng cứu độ
giải thoát loài người.
13. Suy niệm của
Noel Quesson.
HÃY LUI VÀO NƠI THANH VẮNG VÀ NGHỈ NGƠI.
Cuộc sống của Cha Sở xứ Ars cho ta thấy rõ sức mạnh chinh phục
tâm hồn người ta là do Chúa. Thánh Gioan Vianney không tài giỏi, nhưng ngài
luôn tích cực làm việc và tin tưởng ở Chúa. Hoạt động mục vụ của Cha Vianney
xây dựng trên ba trục chính: đời sống khắc khổ hy sinh; tôn sùng Thánh Thể;
phục vụ giáo dân qua lời giảng và nơi tòa giải tội.
Trong cuộc sống phục vụ các tâm hồn, người ta chỉ có thể thu
lượm kết quả, một khi biết trau dồi đời sống nội tâm, và kết hiệp mật
thiết với Chúa. Chính vì thế mà ngay sau khi nghe các Tông đồ báo cáo
về những việc họ đã làm, Chúa truyền cho họ phải tìm chốn nghỉ ngơi, mặc dù đó
là lúc người ta lui tới với các Tông đồ rất đông. Việc nghỉ ngơi nói đây không
phải chỉ là việc giải lao bình thường, nhưng còn là một thời gian dành cho việc
bồi dưỡng tinh thần. Trong thanh vắng, Chúa cho các Tông đồ hiểu: việc rao
giảng Tin Mừng là chia sẻ cho người ta những gì mình ôm ấp trong tâm hồn. Nếu
mình không học hỏi thêm, không suy nghĩ, không kiểm điểm về những điều mình
biết và tin, thì vốn liếng niềm tin của mình sẽ nghèo đi. Còn gì để chia sẻ cho
người khác nữa? Thời gian nghỉ ngơi là lúc các Tông đồ kiểm điểm đời sống để
thấy điều gì cần sửa đổi, điều gì cần phải làm thêm cho sinh hoạt truyền giáo
đạt kết quả. Đó chính là thời giờ tĩnh tâm của các Tông đồ vậy. Nơi vắng vẻ
cũng là nơi thuận tiện cho các Tông đồ cầu nguyện. Vì cầu nguyện cũng là trau
dồi đời sống nội tâm. Cầu nguyện để được ơn Thánh Thần trợ giúp. Cầu nguyện để
xin Chúa tác động vào các tâm hồn đã đón nghe Tin Mừng. Đó mới là phần chính
yếu để việc truyền giảng Tin Mừng phát sinh hiệu quả.
Các Tông đồ trở về, cùng với Chúa đi vào nơi thanh vắng để học
hỏi, để suy tư, để cầu nguyện. Cũng như sau thời gian phân phát lương thực cho
người khác, các Tông đồ trở về nguồn để lấy thêm chất liệu, hầu có thể tiếp tục
lên đường phục vụ.
Trở về với Chúa để học hỏi, suy tư và cầu nguyện là
việc cần thiết, mọi người tín hữu phải làm trong cuộc sống Kitô hữu hôm nay. Vì
chúng ta cũng được sai đi như các Tông đồ xưa. Sau một ngày, sau một tuần,
chúng ta cũng cần có thời gian trở về với Chúa để kiểm điểm lại sinh hoạt tôn
giáo, học hỏi lời Chúa và cầu nguyện. Cụ thể là ngày Chúa nhật, chúng ta có dịp
thuận tiện để sống với cộng đoàn, được bồi dưỡng tinh thần và được Chúa sai đi
chia sẻ cho anh chị em những gì mình đã lãnh nhận.
Lạy Chúa, xin tạo điều kiện cho chúng con được trở về với Chúa
mỗi ngày, mỗi tuần trong việc gặp gỡ Chúa qua bí tích Thánh Thể, qua Thánh Kinh
và qua bí tích hòa giải; nhờ đó chúng con lãnh nhận được mọi ơn cần thiết cho cuộc
sống phục vụ hôm nay.
14. Mục tử.
Hôm nay chúng ta suy gẫm về Chúa Giêsu trong tư cách Người là vị
Mục Tử của chúng ta.
Chúa Giêsu đã sai mười hai tông đồ ra đi rao giảng. Họ ra đi để
thực hiện những việc Chúa đang làm: “Rao giảng về Nước Thiên Chúa, xua trừ ma
quỷ, xức dầu và chữa lành cho các bệnh nhân”. Khi trở về, họ hết sức phấn khởi
về các việc họ đã làm. Nhưng Chúa Giêsu đã thấy họ cần phải cẩn trọng. Họ đang
ở trong tình trạng nguy hiểm của chủ nghĩa duy hoạt động, họ không còn thời giờ
để ăn nữa. Vì vậy, Chúa bảo họ: “Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh
vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”.
Vị mục tử hoạt động có hiệu quả không phải là người chỉ biết có
làm việc mà thôi. Chúa Giêsu biết rõ sự làm việc quá độ sẽ dẫn đến kiệt sức. Vị
mục tử nhân lành bảo các môn đệ hãy nghỉ ngơi đôi chút. Một sự nghỉ ngơi không
chỉ để dưỡng sức phần xác mà còn để cho tâm hồn được bồi dưỡng nữa. Phải rời
khỏi đám đông ồn ào, đến nơi thanh vắng để có thể chú tâm đến sự hướng dẫn của
Thần Khí. Đây là mục đích của việc suy niệm hàng ngày, cầu nguyện trong thinh
lặng trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Người môn đệ của Chúa Giêsu cần có một khoảng
thời gian tách khỏi những công việc thường ngày và đi đến nơi thanh vắng để
tĩnh tâm, để nhìn lại mục đích cuộc đời của mình. Chúa Giêsu từng đi lên núi
một mình để hiệp thông với Chúa Cha trong thinh lặng của ban đêm. Mọi vị hướng
dẫn các linh hồn đều cần hiệp thông với Thiên Chúa trong thinh lặng để được đón
nhận sức sống từ Thiên Chúa.
Dân chúng cũng muốn được ở với Chúa Giêsu. Họ đã đi bộ vội vã
đến nơi trước Chúa. Họ đói khát lời của Thiên Chúa và Chúa Giêsu không thể từ
chối họ. Chúa biết nhu cầu của họ và Người đã giảng dạy cho họ. Bởi vì Chúa
Giêsu luôn ở với Chúa Cha, nên các lời giảng dạy của Người đã nuôi dưỡng dân
chúng bằng những chân lý phát xuất từ Thiên Chúa, những lời làm cho dân chúng
trưởng thành hơn và được tự do. Chúa Giêsu là vị mục tử đích thật, là Đấng
Mêsia.
Nhóm mười hai đang say men chiến thắng và đang nôn nóng hoạt
động. Họ đang ngây ngất với những thành công và uy tín. Họ đang ở trong một mối
nguy hiểm. Họ muốn ở lại giữa đám đông, vì họ đang lôi kéo được sự chú ý của
dân chúng, họ không còn chú tâm đến Chúa Giêsu nữa. Chúa Giêsu là vị mục tử
phải chăm sóc không chỉ cho dân chúng mà thôi, nhưng còn quan tâm đến các vị
mục tử tương lai nữa. Các vị mục tử phải là “các tôi tớ phục vụ Lời”, nếu họ
muốn trung thành với sứ vụ của họ. Vì thế, họ cần phải hiệp thông với Chúa
Giêsu, Thầy của mình.
Lạy Chúa Giêsu, là vị Mục Tử tối cao, xin dạy con đường lối của
Chúa.
15. Nghỉ ngơi.
Mục tử và đàn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân
Do Thái, vốn là dân du mục. Trong Cựu ước, các ngôn sứ thường dùng hình ảnh này
để diễn tả mối liên hệ giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Chẳng hạn trong bài đọc
thứ nhất hôm nay, ngôn sứ Giêrêmia cho thấy Thiên Chúa hết lòng yêu thương chăm
sóc dân, Ngài lên án những hành vi ngang trái của những mục tử xấu và hứa đặt
những mục tử tốt lành khác để lãnh đạo dân. Hơn nữa, Chúa còn hứa ban cho dân
một vị mục tử xuất thân từ dòng dõi Đavid để lãnh đạo dân Ngài trong công bình
chính trực, đem lại cảnh thái bình thịnh vượng. Rồi Chúa Giêsu đến, các sách
Tin Mừng cho biết: Ngài chính là vị mục tử tốt lành mà các ngôn sứ đã loan báo.
Như thế, lời hứa của Thiên Chúa đã được thực hiện. Bài Tin Mừng hôm nay cho
chúng ta biết một chút tâm tình của vị mục tử ấy, là Chúa Giêsu, qua lời Chúa
nói với các môn đệ: “Anh em hãy lánh riêng ra, đến một nơi thanh vắng mà nghỉ
ngơi đôi chút”.
Lý do Chúa Giêsu bảo các môn đệ như vậy là bởi vì sau khi các
ông vâng lệnh Chúa, từng hai người một, ra đi rao giảng khắp nơi, hôm nay, các
ông trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết những việc đã làm và những lời đã
giảng dạy. Có lẽ lúc đó các môn đệ đã mệt mỏi, thêm vào đó, Tin Mừng cho biết
các ông không còn thời giờ ăn uống, vì có rất nhiều người đến xin các ông dạy
dỗ và chữa bệnh. Thấy thế, Chúa bảo các ông tạm lánh đi để khỏi bị quấy rầy và
tĩnh nghỉ một chút. Chúng ta thấy Chúa quan tâm đến các môn đệ và cảm thông với
những vất vả của các ông. Nhưng Chúa quan tâm đến con người hơn là công việc,
Ngài muốn các ông hãy dành một chút nghỉ ngơi cho thân xác, một chút lắng đọng
cho tâm hồn, để tách mình ra khỏi đám đông, để sống tình thầy trò, tương giao
mật thiết với thầy và với nhau. Tức là Chúa khuyên các môn đệ cần phải có thời
gian yên tĩnh nghỉ ngơi và được bồi dưỡng để có thể duy trì hoạt động được lâu
bền, bởi vì nghỉ ngơi cũng là để phục vụ hữu hiệu và lâu dài hơn, cũng như muốn
đi thật xa càng phải luôn dừng lại để nghỉ ngơi lấy sức, thì muốn hoạt động
tông đồ hiệu quả, cần phải năng tĩnh dưỡng tâm hồn.
Qua đó Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết: dù phải bon chen,
đầu tắt mặt tối lo cho đời sống, dù phải ngược xuôi vất vả trong sinh hoạt hằng
ngày, chúng ta cũng phải biết dành thời giờ để hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ.
Vì có hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ chúng ta mới thấm thía ý nghĩa cuộc đời,
mới đối diện với chính mình và liên lạc trực tiếp với Thiên Chúa. Sự hồi tâm,
thinh lặng và suy nghĩ như thế thật quan trọng, cần thiết và ích lợi.
Một văn sĩ Ấn Độ, tên là Mukedi, một hôm hỏi thầy giáo cũ của
mình, là một tu sĩ dòng Bênarét: “Thưa thầy, thời gian còn ở Mỹ châu, con có
quen biết một người tên là Uyn-sân. Ông ấy ôm ấp một lý tưởng và đã viết ra
thành 14 khoản, rồi ra sức phổ biến lý tưởng ấy, nhưng vô hiệu, không mang lại
kết quả gì, xin thầy chỉ giáo cho con biết tại sao ông ta thất bại?” Vị tu sĩ
hỏi: “Con người 14 khoản ấy có biết yên lặng và suy nghĩ mỗi năm một khoản
không? Ông ta có kiểm điểm thường xuyên để rút ưu khuyết điểm đem lại cho mỗi
khoản một nguồn sống không?” Mukedi thưa: “Thưa thầy con không tin như vậy”.
Tức thì mặt vị tu sĩ xuất thần, sáng lên và nói lớn: “Thảo nào, thảo nào, thất
bại là ở đó”.
Ông Uynliam Phinlơ, một doanh nhân thành đạt, lúc đầu sống rất
chật vật và nghèo khổ, sau làm nghề viết báo, rồi mở nhà in, lợi nhuận hàng năm
thu vào rất nhiều. Ông viết một quyển sách kể về những kinh nghiệm của đời ông.
Ngay trang đầu tiên có những dòng chữ sau: “Có bao giờ các bạn đã thử sống một
mình trong căn phòng, không đọc sách báo, không nghe radiô hay ca nhạc, không
xem tivi, không làm gì hết, một mình với những ý tưởng để suy nghĩ. Các bạn cứ
thử xem, một chiều im lặng, mình với mình thôi, sẽ giúp cho các bạn biết mình,
biết người, và chắc chắn các bạn sẽ thành công”.
Quả thực, có người đã nói: “Tất cả những cái chúng ta làm ra là
kết quả của tư tưởng”. Đúng thế, từ cái bút máy, đồng hồ, máy may, rađiô, tivi,
máy tính, xe đạp, ô tô, phản lực, hỏa tiễn, phi thuyền… đều do đầu óc mà ra, có
nghĩa là do suy nghĩ. Niu-tân, một nhà bác học thời danh, rất thông minh và có
tài đặc biệt, một lần có người hỏi ông: “Bằng cách nào ông đã phát minh được
nhiều cái mới lạ như vậy?” Ông trả lời: “Bằng cách luôn luôn suy nghĩ”. Nhờ suy
nghĩ, do một thùng nước sôi làm bật vung, người ta đã chế tạo ra máy hơi nước.
Nhờ suy nghĩ, từ những màng nhện giăng ở trong vườn, người ta đã phát minh ra
cách làm cầu treo. Nhờ suy nghĩ, do chiếc đèn chầu đưa qua đưa lại mỗi khi bị
va chạm, người ta đã tìm ra được luật đồng hồ. Nhờ suy nghĩ, Âu tinh dứt bỏ
được cuộc đời tội lỗi bê tha để trở nên một vị đại thánh thời danh. Nhờ suy
nghĩ câu “Lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn ích gì” mà Phanxicô
Xaviê đã đổi hướng cuộc đời, từ danh vọng thế trần sang con đường đạo đức, quên
mình đi truyền giáo. Chính Chúa Giêsu cũng sống âm thầm suy nghĩ suốt 30 năm
trước khi công khai đi rao giảng. Rồi trong những năm giảng dạy, cho dù bận rộn
với biết bao công việc, Chúa vẫn thường tìm nơi thanh vắng để hầu chuyện với
Chúa Cha.
Chúng ta cũng vậy, trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới thấm
thía ý nghĩa của đời người: phải làm ăn, tranh đấu, lam lũ với nghề nghiệp, lo
miếng cơm manh áo cho mình và gia đình. Thật là nhiêu khê đến mệt óc, mỏi tim.
Lo lắng, bon chen, vất vả, nhưng cuối cùng sẽ được gì? Sẽ đi về đâu? vì sống là
gửi, thác là về. Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới biết tại sao vẫn chưa
mến Chúa tận tình, vẫn chưa yêu người như Chúa truyền, vẫn chưa hiền lành, nhịn
nhục, chịu khó, thông cảm và tha thứ? Trong thinh lặng suy nghĩ, chúng ta mới
thấy linh hồn là quý, linh hồn ấy đòi làm lành lánh dữ, cần sống đời Kitô cho
nghiêm chỉnh, và mới biết mình đang làm lợi hay hại cho linh hồn.
Tóm lại, qua lời Chúa khuyên bảo các tông đồ, Chúa cho chúng ta
biết sự quan trọng, cần thiết và ích lợi phải hồi tâm, thinh lặng và suy nghĩ
để tìm lại chính mình, hoặc để nghỉ ngơi. Đây không phải là chuyện vô ích,
nhưng là chuyện thuộc về nhu cầu sống của chúng ta, nhờ đó tâm hồn chúng ta sẽ
thanh thản hơn, thân xác chúng ta sẽ khỏe mạnh hơn, và chắc chắn đời sống chúng
ta sẽ thoải mái và tốt đẹp hơn.
16. Kiểm thảo.
Các con hãy vào nơi vắng vẻ.
Chúa Giêsu bảo các môn đệ vào nơi vắng vẻ để nghỉ ngơi, nhưng
đồng thời cũng để kiểm điểm lại, sau những cuộc hành trình truyền giáo đầy gian
nan vất vả.
Với chúng ta cũng thế, giữa dòng đời huyên náo, bon chen và ồn
ào với những âm thanh thừa thãi, chúng ta cũng hãy dành lấy những giây phút
thinh lặng, để cầu nguyện và kiểm điểm về cuộc sống của mình, từ tư tưởng, lời
nói cho đến việc làm, xem có điều chi sai quấy và đi trái với lệnh truyền của
Chúa.
Sau đây, tôi xin gợi lên một vài điểm để chúng ta cùng nhau suy
nghĩ và xét mình.
Thứ nhất là về đời sống cá nhân:
Người ta thường nói:
- Việc người thì sáng, việc mình thì quáng.
Sống trên đời, chúng ta giống như người đeo hai cái giỏ. Cái giỏ
phía trước mặt đựng những sai lỗi của người khác. Cái giỏ phía sau lưng đặt
những sai lỗi của bản thân. Vì thế, chúng ta thường nhìn thấy rất rõ và lên
tiếng phê bình chỉ trích gắt gao những sai lỗi của người khác. Trong khi đó,
những sai lỗi của bản thân thì lại không nhìn thấy. Và nếu có nhìn thấy, cũng
sẽ đưa ra một ngàn lẻ một lý do để bênh vực và bào chữa.
Vì vậy, người ngoài thường nhìn thấy rõ những khuyết điểm của chúng
ta, còn chính chúng ta lại không nhìn thấy.
Hai người chửi nhau, đánh nhau và có khi kiện nhau, thì mấy khi
có người nhận mình đã sai lỗi. Có những người không ưa chúng ta, thì kêu ca và
trách móc, bảo chúng ta là thế nọ thế kia, nhưng chính chúng ta lại không nhìn
thấy và không nhận lỗi. Mẹ chồng nàng dâu ai cũng bảo mình là phải, vì thế mới
có mâu thuẫn, xích mích va chạm và chiến tranh.
Crexley là một tên cướp nổi tiếng ở Nữu ước với biệt hiệu là hai
súng vì trong mình hắn lúc nào cũng có hai khẩu súng. Một hôm bị cảnh sát bao
vây trên một cao ốc. Một tay hắn bắn lại, còn một tay thì nguệch ngoạc viết một
hàng chữ như sau:
- Dưới lớp áo này, trái tim tôi vẫn ngập tràn tình thương và
không muốn hại ai.
Trong khi đó, tòa án kết tội hắn là một tên giết người không
biết gớm tay.
Bởi đó, phải biết dừng lại để kiểm điểm xem mình là ai và như
thế nào, đồng thời đánh giá đúng mức dư luận người khác nghĩ về mình. Bởi vì
như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai khen ta mà khen phải ấy là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải,
ấy là thày ta.
Thứ hai là về đời sống gia đình.
Vợ chồng có hòa thuận đoàn kết và yêu thương, hay ông nói gà bà
nói vịt, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, để rồi luôn có sự xích mích đôi co.
Với con cái, có biết lưu tâm dạy dỗ và giáo dục, nhất là về phương
diện đạo đức và luân lý, như dạy bảo kinh bổn, nhắc nhở làm những việc thiêng
liêng hay là chúng ta lại làm ngơ và thả lỏng.
Có một câu danh ngôn đã khuyên những bậc làm cha làm mẹ như sau:
- Thà rằng, hiện giờ con cái phải khóc vì được cha mẹ dạy bảo,
còn hơn là sau này chính cha mẹ phải khóc vì con cái mình ngang bướng ngổ
nghịch.
Thứ ba là về đời sống xã hội:
Chúng ta có biết tránh đi những chuyện gây bất hòa cho bà con
lối xóm, như thả gà vịt, trâu bò, phá phách hoa màu người khác? Có biết tránh đi
thái độ bênh con cái, có bé xé ra to và thổi phồng những chuyện con nít hay
không?
Khi hàng xóm có việc như ma chay cưới hỏi, chúng ta có biết chia
vui sẻ buồn, giúp đỡ họ trong những hoàn cảnh như vậy hay không? Cùng sống
trong một giáo xứ, chúng ta có biết góp phần xây dựng cho công ích, hay chỉ
đứng ngoài làm giám độc, giám xúi chứ không dám làm. Tay chúng ta không làm,
nhưng miệng chúng ta thì chỉ toàn phun ra những lời phê bình chỉ trích.
Chúng ta có biết yêu thương đùm bọc lấy nhau hay chia thành năm
bè bảy mối, vu oan tố giác kẻ khác, cuối cùng cũng chỉ là làm cỗ cho thiên hạ
xơi. Chúng ta có biết thông cảm, hòa giải và xích lại gần nhau, hay mượn cơ hội
để trả thù và báo oán.
Sau cùng là về đời sống đạo đức.
Chúng ta có siêng năng đọc kinh tối sớm, xưng tội rước lễ, hay
thảng hoặc mới tới nhà thờ. Chúng ta có thực sự là một tín hữu biết sống niềm
tin của mình hay chúng ta chỉ là những kẻ mang danh hiệu Kitô hữu, có tên trong
sổ Rửa tội mà không hề sống đạo.
Đó chỉ là mấy điều gợi ý để chúng ta kiểm thảo và nhìn rõ con
người của mình, vì như người xưa vốn thường khuyên:
- Này bạn, bạn hãy biết mình bạn.
17. Nghỉ ngơi.
Sau hơn một tháng trời vâng lời Chúa ra đi truyền giáo, các môn
đệ trở về vui mừng báo cáo cho Chúa biết kết quả những việc đã làm. Chúa chia
sẻ niềm vui với các môn đệ và nhận thấy các ông có vẻ thấm mệt, nên Chúa bảo:
“Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút”. Một
lời khuyên thật ý nghĩa và cần thiết.
Chúng ta phải công nhận Chúa Giêsu rất hiểu tâm lý con người.
Bởi vì làm việc nhiều rồi thì dĩ nhiên mệt mỏi, nên cần phải nghỉ ngơi đôi chút
để lấy lại nghị lực, rồi mới có thể tiếp tục làm việc được. Đó là điều dễ hiểu
thôi. Anh chị em hãy nghĩ xem: có khi nào người ta bắt con ngựa chạy suốt ngày
đêm, hết ngày đêm này qua ngày đêm khác không? Làm vậy người chủ sẽ được lợi
lộc nhiều, nhưng chắc chắn không được lâu dài vì con ngựa sẽ chết yểu. Con ngựa
mạnh hơn chúng ta nhiều, nhưng chúng ta cao quí hơn con ngựa nhiều. Vậy tại sao
chúng ta cho nó thì giờ nghỉ ngơi sau một thời gian hoạt động để nó thảnh thơi
ung dung gặm cỏ, mà chúng ta lại bắt chính mình vất vả, bù đầu mãi trong công
việc? tại sao chúng ta quí trọng sức khỏe của con ngựa mà quên sức khỏe của
mình?
Làm bất cứ công việc gì cũng vậy mà không biết nghỉ ngơi thì kết
quả cũng kém và không tốt đẹp. Chúng ta hay quên chúng ta có thể xác, nó là một
bộ máy rất tinh vi, rất mỏng manh, chỉ được sử dụng theo một chừng mực nào đó
thôi. Còn tinh thần, tự bản chất, không biết mệt, nhưng vì làm việc tùy thuộc vào
thể xác, nên cũng mệt với thể xác. Nếu chúng ta bắt thần kinh chúng ta lúc nào
cũng căng thẳng như giây đàn, thì nếu chúng ta không chết yểu, chắc làm việc
cũng không đắc lực bao nhiêu.
Vì thế, nghỉ ngơi sau khi làm việc mệt nhọc là điều quan trọng
và cần thiết. Nghỉ ngơi có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúng ta ai
cũng kinh nghiệm điều này: mỗi khi đi đâu xa về hoặc sau khi làm việc mệt nhọc,
chúng ta muốn nghỉ ngơi một chút cho thoải mái, chứ chưa cần ăn uống. Hơn nữa,
nghỉ ngơi còn được coi là liều thuốc bổ tự nhiên không tốn tiền, nên người ta
còn khuyên phải biết nghỉ ngơi trước khi mệt mỏi nữa.
Chúng ta cần nghỉ ngơi, nghỉ ngơi vậy thôi, và cả nghỉ ngơi
trong Chúa nữa. Anh chị em thử nghĩ xem: có phải cuộc đời chúng ta và hầu hết
thời giờ của chúng ta bị công việc làm ăn, nghề nghiệp hoặc những công việc
linh tinh, không tên tuổi, chiếm hết không? Ban ngày làm việc, tối về lại nghĩ
đến việc làm: mở mắt ra đã làm, đã bắt đầu rộn rã với mọi thứ việc. Chúng ta
ngày nay khác hẳn với các cụ cha ông chúng ta ngày xưa: ngoài những công việc
cấp bách ra, các cụ không còn thấy việc gì bắt buộc phải lưu tâm tới vấn đề
thời gian. Các cụ làm việc tuy vất vả, nhưng vẫn thong dong thoải mái. Cứ sáng
ngày, thấy mặt trời ló dạng là đi làm. Chiều tối thì ngồi lại với nhau uống
trà, thưởng trăng, nói chuyện phiếm.
Chúng ta bây giờ thì khác hẳn. Nhịp sống được đo đắn cẩn thận
bằng cái mà chúng ta gọi là đồng hồ. Ai cũng đeo ở tay một chiếc đồng hồ, lâu
lâu lại nhìn vào, lo lắng, sốt ruột. Khi ở sở làm thì sốt ruột trông cho mau
được về. Về nhà thì sốt ruột đi làm việc này việc khác. Người ta có cảm tưởng
cuộc sống là một chiếc đèn cù, lửa đốt lên là bắt đầu chạy, chạy tưng bừng, rộn
ràng, vội vã và chạy vòng tròn, nghĩa là ngày nào cũng thế, cũng những việc ấy,
cũng những vất vả ấy, cũng nhọc mệt ấy… Có khi chúng ta làm việc đến quên mình
và có thể quên cả Chúa luôn.
Vì thế, có người đã nói rằng: khuyết điểm lớn nhất của thời đại
văn minh tiến bộ ngày nay, cách riêng ở thành phố, là không biết nghệ thuật
nghỉ. Người ta luôn luôn đứng núi này trông núi nọ. Làm việc này chưa xong đã
thèm làm việc khác. Chúng ta chỉ sống về tương lai mà không biết sống cho hiện
tại. Tâm hồn chúng ta bị xâu xé, dằn vặt, kích thích bởi muôn thứ nhu cầu. Cho
nên, thời nay chúng ta thấy có nhiều người mắc những chứng bệnh: mất ngủ, nhức
đầu, đau tim, đau thần kinh, nhiều người bị áp huyết cao, và hình như có nhiều
người mát, tưng tửng, dở dở, ương ương, khùng khùng nữa…
Tóm lại, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bảo chúng ta:
không những chúng ta phải hăng say làm việc, làm việc hết mình, nhưng cũng phải
biết dành thời giờ để nghỉ ngơi nữa. Như thế, chúng ta sẽ được khỏe mạnh hơn,
phấn khởi hơn, yêu đời hơn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhớ rằng: đã đành làm
việc rồi thì cũng phải có lúc nghỉ. Nhưng giờ nghỉ đi sau giờ làm việc chứ
không đi sau sự lười biếng. Chỉ có những người đã làm việc mới cần nghỉ. Ai
không làm việc mà cũng nghỉ là một người lười.
Vì vậy, “Hãy nghỉ ngơi đôi chút” như Chúa Giêsu nói, không phải
là một việc hao phí thời giờ. Trái lại, đó là một lối bồi dưỡng tinh thần: nghỉ
ngơi để cho thể xác và tinh thần được thư giãn, khỏe mạnh, tỉnh táo, sáng suốt
hơn. Cho nên, người biết nghỉ là người có triết lý vừa sâu xa vừa thực tế, hiểu
rõ chân giá trị của cuộc sống và ý nghĩa thâm thúy của đời người.
18. Chăm sóc.
Một lần kia, có người đàn ông đến gặp bạn của mình, là giáo sư
của một trường đại học lớn. Tuy nhiên, vì họ ngồi nói chuyện phiếm trong phòng
giáo sư, nên liên tục bị gián đoạn bởi các sinh viên đến gõ cửa, họ tìm giáo sư
để xin hướng dẫn về điều này, điều nọ. Mỗi lần như thế, ông giáo sư từ ghế đứng
lên, đi đến cửa, đáp ứng yêu cầu của sinh viên. Bất ngờ, người bạn đến thăm hỏi
ông giáo sư: “Bạn xoay xở thế nào để làm được việc với quá nhiều lần gián đoạn
như thế?”
Ông giáo sư trả lời. “Lúc đầu, tôi luôn bực bội vì công việc của
mình bị gián đoạn. Nhưng một ngày kia, thình lình tôi thấy rõ rằng những lúc bị
gián đoạn cũng là công việc của tôi”. Ông giáo sư có thể khóa kín cửa lại, và
dành hết thời gian cho công việc riêng của ông. Theo cách này thì không chút
nghi ngờ, ông đã có một đời sống yên tĩnh hơn. Nhưng vì là một người quảng đại
và vị tha, ông không thể làm như vậy. Trái lại ông sẵn sàng phục vụ các sinh
viên mà ông yêu mến. Và không lạ gì ông là một giáo sư hạnh phúc nhất và mãn
nguyện nhất trong trường.
Lòng vị tha không bao giờ dễ dàng. Tuy nhiên, có lúc nó dễ dàng
hơn những lúc khác. Nó dễ dàng hơn khi chúng ta có thể hoạch định công việc
chúng ta thật tốt – Khi công việc do chính chúng ta chọn lựa hợp lý và ít gây
ra khó chịu, giằng co. Trong những lúc khác, lòng vị tha đặc biệt khó khăn khi
công việc do chính chúng ta chọn lựa, chúng ta không cảm thấy hợp lý và khi nó
trào dâng lên trong chúng ta những rắc rối, khó xử. Trong trường hợp ấy, chúng
ta phải quên chính mình và để sang một bên những cảm giác và dự định của chúng
ta. Nó đòi hỏi một sự hy sinh thật sự.
Một hành vi nhân hậu được xét đoán không phải bởi sự quan trọng
của nó nhưng bởi sự đột phá mà nó gây ra trong đời sống của người thực hiện hành
vi ấy. Đó là một trắc nghiệm tấm lòng cao cả đối với người đang có nhiều dự
tính, họ phải đặt qua một bên những dự định riêng của họ để giúp đỡ người khác.
Đối với chúng ta, biết được Đức Giêsu cũng phải đối phó với sự
gián đoạn quả là một niềm an ủi. Người cũng gặp những lúc mà kế hoạch đã bị đảo
lộn. Tin mừng hôm nay nói với chúng ta rằng Người nhận được nhiều lời cầu xin
đến nỗi Người và các tông đồ không có thì giờ để ăn uống. Tuy nhiên đến một lúc
nào đó, Người đã quyết định như thế là đủ và đưa các tông đồ đến chỗ thanh tĩnh
để nghỉ ngơi. Người không dành thời gian này cho mình và cho các tông đồ. Họ
vừa mới trở về từ sứ vụ mà Người đã sai họ. Người đã nhìn thấy họ cần được nghỉ
ngơi. Vì thế Người quyết định đưa họ đến nơi yên tĩnh. Những người chăm sóc kẻ
khác cũng cần được chăm sóc.
Tuy nhiên sự việc diễn tiến không như dự kiến. Dân chúng đã đi
theo các ngài. Đức Giêsu phản ứng như thế nào? Không hề bực dọc, Người tiếp đón
dân. Điều này nói với chúng ta nhiều về cung cách nhân từ của Người. Người xúc
động vì thương xót họ. Người thấy họ như bầy chiên không người chăn dắt. Những
bậc thầy chính thức không có thời gian dành cho dân thường. Nhưng Đức Giêsu
dành thời gian cho họ. Đó là lý do họ lũ lượt đi theo Người. Quan tâm chăm sóc
không bao giờ là việc dễ dàng. Một số người muốn chăm sóc chút ít, với điều
kiện theo cách của họ, không quá phiền hà và không đảo lộn những dự tính của
họ. Nhưng hãy chăm sóc như Đức Giêsu đã làm, khi những kế hoạch của mình bị đảo
lộn, đây là một trắc nghiệm tốt nhất. Lúc nào các bậc cha mẹ cũng làm việc đó.
Bao nhiêu lần họ đã trỗi dậy trong đêm để ngắm nhìn đứa con của họ?
Tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Nhu cầu chăm sóc con
người là rất lớn. Sự thờ ơ đang lan rộng phổ biến trong xã hội chúng ta. Có
nhiều dân tộc trên thế giới giống như bầy chiên không người chăn dắt. (Bạn hãy
cho vài ví dụ). Khi chúng ta chăm sóc người khác, chúng ta đang sống Tin Mừng.
Bị người khác làm gián đoạn, ngắt quãng có thể là một điều tốt.
Chúng ta nhờ thế mà tránh được sự quan tâm quá đáng về chính mình. Tính ích kỷ
là một thứ nhà tù. Mặt khác, tình yêu thương đem lại tự do cho chúng ta. Đức
Tổng giám mục Kelder Camara nói: “Bạn hãy chấp nhận những sự bất ngờ làm đảo
lộn kế hoạch của bạn, làm tiêu tan những giấc mộng của bạn và làm cho dự định
trong ngày hoàn toàn đổi hướng và … Nào ai biết được? .. Có khi cả đời sống
bạn. Đó không phải là sự tình cờ. Bạn hãy để Thiên Chúa được tự do kết dệt
những đường nét của bạn mỗi ngày”.
19. Mục tử.
A-mốt là một người chăn dắt một bầy gia súc lớn. Hôm nay, đến
lượt ông làm người canh gác. Đêm lạnh lẽo cắt da, một làn sương mỏng bắt đầu
rơi, ông phải kéo chiếc áo ấm nặng sát vào người. Trong lúc đang đứng run rẩy
thì tâm trí ông quay trở về thuở ấu thơ.
Ngay từ khi còn trẻ. Ông yêu chiên cừu và muốn cống hiến đời ông
cho chúng. Nhưng trong những ngày xa xưa ấy, ông rất ngây thơ. Tâm hồn trẻ
trung của ông đầy những ý tưởng lãng mạn. Đối với ông, một mục tử là một người
yêu thương đàn chiên và tận tụy vì chúng. Còn gì đơn giản hơn? Nhưng giờ đây, mắt
ông đã mở ra. Nhiệm vụ chăn dắt đã chuyển thành một việc phức tạp và nhiều yêu
sách hơn ông nghĩ.
Chỉ một việc ấy đã bao hàm nhiều việc khác. Những lúc đó, ông
thích làm một người thợ xây hơn là một người mục tử, đến nỗi ông bỏ nhiều thời
gian để xây dựng những bức tượng và những hàng rào. Những lần khác, công việc
đòi hỏi ông khả năng dự báo thời tiết. Những lần khác nữa sự chăn dắt đòi ông
phải có chuyên môn về giải phẫu thú y và kỹ năng của một người săn thú dữ
chuyên nghiệp. Và tối nay, ông là người canh gác, mất hút trong sự thinh lặng
của đêm tối.
“Thực tại và mơ mộng khác nhau biết bao”, ông tự nhủ. Nhưng lúc
ấy có một tiếng nói khác vang lên “Giờ đây, bạn phó mình cho may rủi để nghiêm
chỉnh trở thành điều mà bạn đã ngây thơ mơ mộng lúc khởi đầu. Không có ai sinh
đã là mục tử. Người ta trở thành một mục tử”.
Một mục tử được dùng trong Kinh Thánh như một hình ảnh chăm sóc
con người. Vì thế Thiên Chúa được mô tả như vị Mục Tử của dân Người. Và Thiên
Chúa đã chỉ định những thủ lãnh. Họ sẽ trở thành những người chăn dắt dân Thiên
Chúa. Trong bài đọc 1 hôm nay, rõ ràng họ đã không làm tròn bổn phận của họ.
Thiên Chúa tố giác các thủ lãnh của Israel bởi vì họ đã thờ ơ
đối với dân chúng. Sự thờ ơ là một điều xấu. Vì thế đó là tiếng kêu khóc mà
ngày nay, mà người ta vẫn thường nghe thấy: “Các ông không chăm sóc, lo lắng
cho tôi”. Hoặc người ta có thể nói về các nhà lãnh đạo của mình. “Họ chỉ lo cho
họ”. Một đôi khi, điều đó hơi thái quá, nhưng khổ nỗi phần lớn lại xác đáng.
Mẹ Têrêxa kể lại một ngày nọ, mẹ đến thăm nhà nuôi các cụ già ở
Thụy Điển. Mọi việc đều trôi chảy. Thức ăn ngon. Nhân viên đều được đào tạo và
đối xử với các cụ rất tốt. Dường như đó là nơi lý tưởng cho những ngày còn lại
của cuộc đời.
Trong nhà ấy, có khoảng 40 người già. Xem ra các cụ có đủ những
thứ cần thiết. Tuy nhiên khi mẹ rảo quanh một vòng, mẹ nhận thấy không có cụ
nào mỉm cười. Mẹ cũng nhận ra một việc khác. Họ cứ nhìn ra cánh cổng. Mẹ hỏi
một chị điều dưỡng tại sao lại thế.
Chị điều dưỡng đáp: “Họ mong ngóng có người đến thăm họ”. “Lúc
nào họ cũng nhìn ra và suy nghĩ “Có lẽ là con trai tôi, có lẽ là con gái tôi,
có lẽ là một người nào đó sẽ đến thăm tôi hôm nay”. Nhưng không một ai đến, và
ngày nào cũng thế”.
“Không một ai đến!” Câu nói này ám ảnh mẹ Têrêxa. Những cụ già
này đã bị gia đình đưa vào đây và bỏ rơi họ. Hơn thế nữa, cảm giác bị bỏ rơi là
nỗi đau khổ nhất.
Đôi khi, một người không còn sự chọn lựa nào khác hơn là đưa cha
mẹ già vào viện dưỡng lão. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là với tinh thần như thế
nào. Một người có thể đưa cha mẹ già vào viện dưỡng lão để rồi bỏ rơi họ, trong
khi người khác đến thăm cha mẹ một cách đều đặn.
Một Kitô hữu không chăm sóc đến người khác giống như một ngọn
đèn không cho ánh sáng. Nhưng chăm sóc không bao giờ là một việc dễ dàng. Dù
vậy, tất cả chúng ta đều có khả năng chăm sóc. Điều cần đó là một tâm hồn rộng
mở. Khi chúng ta chăm sóc là lúc chúng ta sống Tin Mừng.
20. Vắng vẻ.
Số người mắc bệnh thần kinh ngày nay càng ngày càng nhiều. Và
một trong những lý do đưa đến bệnh đó là nếp sống càng ngày càng ồn ào xô bồ.
Ngoài đường thì tiếng xe, tiếng máy, tiếng người ồn ào suốt ngày; trong nhà thì
các thứ tiếng nói, tiếng hát, tiếng nhạc từ các máy radiô, tivi, cassette; rồi
còn những tiếng khác từ các rạp hát, các loa phóng thanh v.v… Ở giữa bao nhiêu
là tiếng động ồn ào đó, con người ngày nay như bị quay cuồng, bị li tâm, bị
trống rỗng, thần kinh thì căng thẳng, và nội tâm thì nghèo nàn.
Để thoát ra khỏi bầu khí ồn ào căng thẳng đó hầu tìm lại phần
nào yên tĩnh, trầm lặng, nội tâm… người ta đã tìm đến với Yoga, với Thiền, với
những phương pháp dưỡng sinh… Những hình thức này càng ngày càng lôi kéo được
nhiều người tham gia. (Đó cũng là một phản ứng tất nhiên để đánh quân bình lại
với những hoạt động quá náo nhiệt ồn ào đã nói ở đầu). Ở những nước công nghiệp
phát triển, vào mùa hè, người ta tạm nghỉ việc, rời bỏ nếp sống đô thị náo
nhiệt và tìm đến nghỉ ngơi ở vùng yên tĩnh hơn như miền quê, miền biển, miền
núi… Và ngay ở Liên hợp quốc cũng có một căn phòng đặc biệt, phòng này không
trang trí gì cả, rất trống trải nhưng rất yên tĩnh, dành cho các nhà ngoại
giao, các nhà chính trị nếu cần tìm một chút bầu khí trầm tĩnh thì đến đấy
trong một thời gian nào đó… Tất cả những cố gắng và những sáng kiến vừa kể trên
cũng là một phản ứng tất nhiên của con người để đánh quân bình lại với cuộc
sống đã quá ồn ào như đã nói ở trên.
Như thế, chúng ta thấy được rằng một bầu khí yên tĩnh, một thời
gian trầm lặng là điều rất cần thiết cho con người. Nó cần thiết vừa để cho
thân xác nghỉ ngơi, vừa để cho tinh thần con người thư giãn, vừa để cho trí óc
con người sáng suốt nhìn lại cuộc sống mình, kiểm điểm và rút ưu khuyết điểm để
định hướng cho cuộc sống trong giai đoạn tới. Sau khi các tông đồ đi hoạt động
truyền giáo một thời gian trở về, Đức Giêsu đã bảo các ông chèo thuyền qua phía
bên kia hồ, yên tĩnh hơn để tỉnh dưỡng xác hồn “Các con hãy lui vào nơi vắng
vẻ…”
Lời khuyên này của Chúa ngày nay vẫn được những người tu hành,
các giám mục, linh mục, tu sĩ, đặc biệt coi trọng. Hằng năm, hàng tháng các vị
đó vẫn có những cuộc tĩnh tâm, có khi kéo dài một tháng, có khi một tuần, có
khi một ngày, hay ít ra cũng một buổi. Trong thời gian đó, họ sẽ kiểm điểm đời
sống, cầu nguyện, định hướng cho hoạt động sắp tới…
Còn đối với giáo dân, cuộc sống chạy đua với miếng cơm manh áo
khiến chúng ta không có nhiều thời giờ rảnh rỗi để làm những cuộc tĩnh tâm như
vậy. Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng yên tĩnh là một nhu cầu cần thiết cho
cuộc sống, cuộc sống càng ồn ào chừng nào thì nhu cầu yên tĩnh càng cần thiết
chừng ấy. Cho nên dù bận rộn, thỉnh thoảng chúng ta cũng hãy cố gắng đi tìm một
chút yên tĩnh cho tâm hồn mình. Nhưng có nhiều thứ yên tĩnh:
. Không phải thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài. Có
những người vì quá quen với ồn ào nên khi phải ở một nơi im lặng thì chịu không
nổi, muốn phát điên lên. Chúng ta không đi tìm thứ yên tĩnh đó.
. Chúng ta cũng không đi tìm thứ yên tĩnh trống rỗng, nghĩa là
bên ngoài đã hoang vắng mà trong tâm hồn cũng hoang sơ, cằn cỗi.
. Thứ yên tĩnh mà chúng ta cần đi tìm là thứ yên tĩnh tràn đầy
hương vị ngọt ngào…Yên tĩnh bên ngoài để cho bên trong tâm hồn có được những ý
hướng cao thượng, những nhận định sáng suốt, những sức mạnh an ủi khích lệ… Có
một nhạc sĩ đã viết lên những câu nhạc như thế này: “Ta hãy làm thinh chớ nói
nhiều, để nghe dưới đáy nước hồ reo, để nghe tơ liễu rung trong gió, và để xem
trời giải nghĩa yêu…” Đó là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú, là chính thứ yên
tĩnh ta cần đi tìm.
Nhưng tìm ở đâu bây giờ? Thưa thứ yên tĩnh đó ta có thể tìm thấy
trong bầu khí trầm mặc ở nhà thờ, trong những giây phút cầu nguyện, và ngay
trong chính tâm hồn mình. Nghe nói đến đây chắc chắn nhiều bạn trẻ thấy ngán!
Đúng thế, chắc hẳn có nhiều lần chúng ta cũng đã đến nhà thờ, cũng đã cầu
nguyện… nhưng thấy nó buồn tẻ làm sao, chỉ muốn ngủ gục thôi. Tại vì chúng ta
như bị bó buộc phải đi vào cảnh yên tĩnh đó một cách miễn cưỡng, cho nên chúng
ta chỉ gặp được cái thứ yên tĩnh chỉ vì vắng tiếng động bên ngoài, hay chỉ gặp
thứ yên tĩnh trống rỗng như đã phân loại ở trên. Muốn tìm thấy yên tĩnh đích
thực, nghĩa là thứ yên tĩnh ngọt ngào, phong phú thì chúng ta phải tự nguyện
tìm yên tĩnh và để trọn tâm hồn của mình lắng đọng trong cõi yên tĩnh đó.
Augustinô sau một thời gian tuổi trẻ chạy theo danh vọng, tiền
tài, khoái lạc đã bắt đầu thấy chán chường. Một hôm chàng cầm theo một quyển
sách vào ngồi trầm tư trong khu vườn vắng vẻ. Đột nhiên, chàng nghe vang lên
một tiếng trẻ con “Hãy cầm lấy mà đọc”. Augustinô ngó xuống thì thấy tay mình
đang cầm quyển Thánh Kinh. Chàng mở ra và đọc, đọc được câu “Anh em đừng chạy
theo xác thịt nữa nhưng hãy sống theo Thánh Thần Chúa”. Câu nói ấy của thánh
Phaolô trong thư ngài gửi giáo dân Rôma đã là khởi đầu cho một cuộc sống mới
của thánh Augustinô. Tất cả khởi đầu từ một giây phút yên tĩnh của tâm hồn.
Tóm lại, điều chúng ta cần ghi nhớ trong bài Tin Mừng hôm nay là
lời Chúa khuyên: “Chúng con hãy lui vào nơi vắng vẻ…” Để thực hiện lời Chúa,
thỉnh thoảng chúng ta hãy để cho tâm hồn mình lắng đọng lại, hãy tạm quên đi bỏ
đi những ồn ào bên ngoài để đi sâu vào tâm hồn mình, thỉnh thoảng chúng ta hãy
cầu nguyện thật sự, thỉnh thoảng chúng ta hãy vào nhà thờ với ước muốn thật sự
tìm gặp ở đấy sự yên tĩnh cho tâm hồn.
Và cầu mong chúng ta sẽ gặp được điều mà chúng ta tìm kiếm.
21. Bức tranh
toàn cảnh về Tin Mừng Cứu Độ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Chỉ còn 5 ngày nữa, lễ Khai mạc Thế Vận hội 2012 (gọi tắt là
Olympic London) sẽ chính thức diễn ra tại xứ sở sương mù thuộc vương quốc Anh.
Toàn cảnh thủ đô London, nơi diễn ra các cuộc tranh tài đỉnh cao thế giới trong
những ngày chuẩn bị thật gần cho Thế Vận hội lung linh sắc màu như mời gọi. Thế
giới được chiêm ngưỡng các bức tranh tuyệt mỹ về những công trình kiến trúc và
những khu thể thao liên hợp đã được xây dựng từ nhiều năm nay nhằm phục vụ cho
Thế Vận hội này.
Còn đối với chúng ta, những người Kitô hữu, hôm nay Thánh sử
Marcô lại mời gọi chúng ta chiêm ngắm một bức tranh khác, tuy không lộng lẫy và
hoành tráng như những bức tranh Olympic London 2012, nhưng lại sống động và
thiêng thánh hơn nhiều nhiều lần. Bức tranh ấy phác hoạ 3 hình ảnh tuyệt đẹp
với 3 gam màu chủ đạo.
1. Gam màu vàng cam. Đó chính là hình ảnh
các Tông đồ, những cộng sự viên nhiệt thành với sứ mạng và trung thành với Thầy
Giêsu. Chúng ta bắt gặp ở đây hình ảnh các Tông đồ say sưa nhiệt thành với công
việc thực tập mục vụ đến độ quên cả việc ăn uống nghỉ ngơi. Kẻ thì thao thao
rao giảng Lời Chúa, kẻ thì bận bịu đặt tay chữa lành bệnh nhân, kẻ thì lâm râm
đọc công thức trừ tà... Các ông tất bật từ sáng sớm tinh mơ mãi cho đến giờ đi
ngủ. Lúc nào cũng có người vây quanh, mệt bở cả hơi tai, nhưng bù lại là niềm
vui ngập tràn. Có lẽ, sau đợt thực tập này tất cả các ông đều được cấp “chứng
chỉ tốt nghiệp” hạng ưu, vì đã hoàn thành xuất sắc nhiêm vụ!!!
Nhiệt thành hết mình với sứ vụ, các ông còn trung thành hết tình
với Thầy Giêsu. Ý thức Thầy Giêsu là điểm quy chiếu những thành công trong việc
mục vụ của mình, đồng thời là gạch nối liên kết các ông với nhau, nên sau
chuyến thực tập ngắn ngày, các ông mau mắn trở về bên Thầy mình để “phúc trình
thành quả”, để kể lại tất cả những việc các ông đã làm và tất cả những điều các
ông đã rao giảng. Dù thành công hay thất bại, các ông vẫn một lòng gắn bó với
Thầy Giêsu Chí Thánh.
Bao nhiêu người làm công tác tông đồ, bao nhiêu người làm việc
thiện nguyện biết trở về bên Chúa để nhỏ to tâm sự với Ngài, sau một ngày hay
sau một chuyến làm việc?
2. Gam màu xanh thẳm. Đó là gam màu phác
hoạ hình ảnh đám đông dân chúng như là đàn chiên đang hết lòng đi theo Mục Tử
của mình và khao khát được nghe lời hằng sống của Vị Mục Tử ấy. Quả vậy, nhiều
lần Chúa Giêsu và các môn đệ đã chủ động lánh vào những nơi hoang vắng để tránh
bị quấy rầy, hay tránh “bị” tôn lên làm vua bất đắc dĩ, như trường hợp sau khi
Chúa Giêsu làm phép lạ hoá bánh ra nhiều. Nhưng dân chúng vẫn bám sát gót. Nói
được là họ sẵn sàng đi theo Chúa đến bất cứ nơi đâu, dù đó là trên núi cao,
ngoài biển khơi, hay trong hoang địa... Thậm chí họ còn đoán trước được nơi mà
thầy trò Chúa Giêsu định tới, rồi theo đường bộ tới trước cả các ngài, như
trình thuật mà thánh sử Marcô mô tả.
Rõ ràng, họ đi theo Chúa một cách say mê. Theo Chúa để làm gì?
Dĩ nhiên là có nhiều lý do, nhưng một trong những lý do tốt lành đó là để được
nghe lời Ngài. Nói cách khác vì họ khát khao được nghe Lời Chúa nên tìm đủ mọi
cách để được gần Ngài. Và đây là yếu tố làm nên một gam màu tuyệt đẹp nữa, gam
màu xanh thẳm, trong bức tranh toàn cảnh của Tin Mừng hôm nay.
Chẳng bù cho con người thời nay, nhiều lúc tĩnh tâm cấm phòng để
chuẩn bị mừng đại lễ này, đại lễ nọ,… các vị mục tử của Chúa “gọi kiêu triệu
vời” rát cả cổ mà đàn chiên của các ngài chẳng màng đến nghe các ngài giảng
dạy.
3. Gam màu hồng thắm. Đây là gam màu nổi
bật nhất trong bức tranh, phác hoạ hình ảnh Đức Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Hậu Từ
Tâm.
Nhân hậu đối với các cộng sự viên của mình qua việc: chăm chú
lắng nghe họ tâm sự. Chúa Giêsu không bao giờ nghe một cách hời hợt, trái lại,
Ngài nghe như mở lòng để cho các ông trút bầu tâm sự. Bao nhiêu nỗi niềm sâu
lắng, bao nhiêu kỷ niệm buồn vui, bao nhiêu thành công thất bại của chuyến thực
tập sứ vụ được Chúa Giêsu lắng nghe một cách say sưa và thấu hiểu. Không những
thế, Ngài còn ân cần lo lắng cho miếng ăn, giấc ngủ, giờ nghỉ ngơi của các ông:
“Các con hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc
6,31). Tuyệt vời thay tấm lòng của một người mục tử nhân hậu, tuyệt vời thay
con tim của một Thiên-Chúa-làm-người!
Ân cần lo lắng hết tình với các cộng sự viên của mình, Ngài còn
từ tâm tận tuỵ hết mình đối với đàn chiên. Tận tuỵ đến nỗi quên cả thời gian và
sức lực. Trái tim của một người Mục Tử chân chính không cho phép ngài để mặc
đàn chiên tiếp tục phải chịu nhiều khổ cực đoạ đày vì “bị” chăn dắt bởi “bạo
quyền và roi sắt”, và những đường lối mục vụ đầy toan tính của những kẻ “chăn
thuê chăn mướn”. Ngài cảm nghiệm được lòng khao khát của đàn chiên đang muốn
được nghe những lời giáo huấn “mới mẻ và đầy uy quyền” của Ngài, và nhất là
được chiêm ngắm dung mạo của một Vị Mục Tử có tấm lòng vàng. Bởi đó, dù thân đã
mệt nhọc, bụng đã cồn cào vì đói, Ngài vẫn ân cần đón tiếp họ và còn “dạy dỗ họ
nhiều điều”, dạy dỗ với cả tấm lòng yêu thương (x. Mc 6,34).
Chiêm ngắm 3 hình ảnh đó để học lấy 3 chữ cần thiết cho cuộc đời
người Kitô hữu. Đó là chữ tình nơi các Tông đồ: tình yêu đối với công việc mục
vụ và tình yêu gắn bó đối với Thầy mình là Đức Giêsu. Chữ tâm nơi Chúa Giêsu:
cảm thông, ân cần, yêu thương và nhân ái đối với mọi người. Chữ lòng nơi đám
đông dân chúng: hết lòng đi theo Chúa và thực lòng khao khát được lắng nghe lời
Ngài.
22. Đức Giêsu
chạnh lòng thương – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao khi thấy dân chúng «như bầy
chiên không người chăn dắt»? Cảm xúc ấy có dẫn Ngài đến hành động không? Nếu ta
đứng trước cảnh dân chúng như thế thì cảm xúc và phản ứng của ta thế nào? Ta có
hành động như Ngài không?
2. Mục tử tốt và mục tử xấu khác nhau chỗ nào? Khác nhau ở lời
nói hay ở hành động? Mục tử xấu có thể rao giảng thật hay, và tỏ ra thật hiền
lành đạo mạo nhưng lại có thể sẵn sàng làm ngơ trước đau khổ của đồng loại
không? Có thể căn cứ vào vẻ hiền lành đạo mạo để chắc chắn rằng đó là mục tử
tốt không?
3. Người mục tử tốt lành có thể không cảm xúc trước những đau
khổ của đàn chiên, sẵn sàng im lặng trước những bất công ngay trước mắt mình,
hoặc khoanh tay đứng nhìn bất động trước những bàn tay giơ lên cầu cứu mình
không?
Suy tư gợi ý:
1. Khả năng «chạnh lòng thương» và hy sinh cho dân chúng
Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn
sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài đọc
I, Giáo Hội muốn nói tới khả năng yêu thương của người mục tử, đặc biệt khả
năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu trước những đau khổ của dân chúng, khả
năng hy sinh để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho họ.
Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ
chẳng những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ,
về văn hóa, về tâm linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi thấy Đức Giêsu
giảng dạy «như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư» (Mt 7,29), họ
theo Ngài rất đông. Sau khi rao giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giêsu và các môn
đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ ngơi, nên phải «lánh riêng ra đến một nơi thanh
vắng mà nghỉ ngơi đôi chút». Nhưng dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe Ngài
dạy bảo, nên không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục bám sát
các ngài đến nỗi các ngài «chẳng có thì giờ ăn uống nữa». Trước tình cảnh này,
đáng lẽ Đức Giêsu từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần phải nghỉ ngơi và cầu
nguyện, đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của các ngài. Nhưng Ngài không
làm như vậy mà lại «bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều». Tại sao? Vì Ngài luôn luôn
«chạnh lòng thương» trước nỗi cùng khốn của họ, «họ như bầy chiên không người
chăn dắt». Tình thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất nhạy cảm trước nhu cầu
cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho
họ một cái gì.
2. Mọi mục tử cần có khả năng «chạnh lòng thương»
Ước gì mọi mục tử - là những người muốn noi gương Đức Giêsu một
cách đặc biệt và triệt để hơn những Kitô hữu bình thường khác - cũng có khả
năng «chạnh lòng thương» trước những nỗi cùng khốn của những «con chiên» mình
chăn dắt. «Chạnh lòng thương» để sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh
giấc nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm chí cả giờ nghỉ đêm… khi họ cần mình
giúp đỡ. Tôi có quen và rất cảm phục một linh mục nọ: khi có một bệnh nhân ở
một bệnh viện nào kêu ngài đến xức dầu hoặc giải tội, ngay cả vào ban đêm hay
khi trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên đường đến với họ. Họ không biết kêu ai
ngoài ngài trong những trường hợp đặc biệt ấy, vì hầu hết các linh mục khác gần
bệnh viện đều từ chối. Thế rồi người này nói với ngài kia về sự sẵn sàng của
ngài, nên về sau người ta chỉ còn biết đến với Ngài, dù họ ở những bệnh viện
khá xa. Điều khiến tôi phục ngài sát đất là khả năng «chạnh lòng thương» của
Ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm, khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến
với những ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được tốt lắm. Và nhất là vì ngài
luôn luôn rất bận: ngài là cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà nghiên cứu, viết
lách, đồng thời còn bận làm một số công tác trong giáo phận. Tôi hằng cầu
nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được nhiều linh mục như ngài!
3. Đời biết bao cảnh khổ đau khiến ta «chạnh lòng thương»
Đức Phật nói: «Đời là bể khổ». Quả thật, đời người có biết bao
nỗi khổ, nhất là trong những đất nước theo những thể chế phi nhân, độc tài: dân
chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công.
Trong những xã hội như thế, người mục tử - vốn là hiện thân của Đức Giêsu - cần
phải có khả năng «chạnh lòng thương» hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã hội
Do-thái xưa, Đức Giêsu đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì
Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng
phúc tới đó» (Cv 10,38).
Hiện nay, Ngài không còn ở trần gian để «thi ân giáng phúc» như
thế nữa, nhưng Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử - gồm những người tình nguyện
tiếp nối sứ mạng «mục tử» của Ngài - để thay Ngài và nhân danh Ngài «thi ân
giáng phúc» cho tất cả những ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng
chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể
lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con
tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng
đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân
của họ. Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ
này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều thật sự sống đúng điều họ đã cam kết khi dấn
thân làm mục tử thì dân chúng sẽ bớt được biết bao đau khổ!
4. Những «mục tử ghẻ»
Nhưng than ôi, nếu thời nào cũng có những «con chiên ghẻ» thì
thời nào cũng có những «mục tử ghẻ» như ngôn sứ Giêrêmia mô tả trong bài đọc I.
Những «mục tử ghẻ» là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không phải bằng thịt
(x. Ed 36,26), không có khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu. Vì thế, họ
sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay mặt đi trước những bất hạnh cùng cực của
người khác, trước những cánh tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách tuyệt
vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt
cho chiên của mình mà trong lòng không cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay
phải nói lên một lời nào để cải thiện những cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến bản
thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm trước mọi cảnh áp bức xảy đến với chiên
của mình. Họ được Đức Giêsu mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: «Người làm
thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói
đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (Ga
10,12).
Tệ hơn nữa, nhiều «mục tử ghẻ» lại còn vì quyền lợi của mình mà
sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác, bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử
này có thể là thầy dạy về đức tin, về tình thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài
miệng rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ tuyên xưng khác với mình một
chút. Nhưng khi gặp những tình huống cần phải chứng tỏ đức tin thực tế của
mình, người ta mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ «đức tin chết» (Gc 2,26; x.
2,17), hay đức tin ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về tình thương của họ
nghe rất tuyệt vời, nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực tế chính tình thương
của mình, người ta mới thấy tình thương của họ chỉ là tình thương ngoài miệng
lưỡi. Trong một xã hội phi nhân và bất công, «đàn chiên» của những «mục tử ghẻ»
ấy nhiều khi phải mang hai lần ách: ách đời thường vốn đã nặng lại còn phải
gánh thêm ách đạo nặng không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp đôi những kẻ
bất hạnh khác. Trái lại, một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi người đến
với mình cảm thấy được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm thấy mạnh sức hơn để có thể
nhấc bổng gánh nặng của mình. Kitô giáo đúng nghĩa phải đem lại giải phóng chứ
không hề chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục tử phải nói được như Đức Giêsu:
«Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi
dưỡng cho» (Mt 11,28).
5. Số phận của những mục tử
Nếu những mục tử tốt lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân
thưởng, thì những mục tử xấu sẽ bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài
đọc I, ngôn sứ Giêrêmia nói về số phận các mục tử xấu ấy: «Khốn thay những mục
tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến
các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ
Dacaria cũng viết: «Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh phạt các mục tử» (Dc 10,3);
«Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan»
(11,3).
Những mục tử xấu đáng trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng
«chạnh lòng thương» trước những đau khổ của con người, tốt hơn không nên làm
mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục tử thì phải biết yêu thương đàn chiên. Những
mục tử không thương đàn chiên, bỏ mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo
những kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể được ưu đãi, trọng vọng, được sung
sướng, được hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp
chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ
mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ, những vết đen trong lịch sử cuộc đời họ
làm sao có thể rửa sạch được? Danh thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không
bao giờ phai. Người đời vẫn thường nói: «Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia
miệng vẫn còn trơ trơ».
Cầu nguyện
Lạy Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất nhiều mục tử,
nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết «chạnh lòng thương» và biết
hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần
những mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần những mục tử biết «chạnh lòng
thương». Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy như Cha đã hứa qua
miệng ngôn sứ Giêrêmia (Gr 23,4). Amen.
23. Người chạnh
lòng thương
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Trong bố cục của tin mừng Marcô, đoạn 6:30-34 được chia thành
hai và thuộc hai trình thuât kế tiếp nhau. Những câu 6:30-32 là kết luận của
câu chuyện nhóm Mười Hai được sai đi rao giảng (6:6b-13); trong khi những câu
6:33-34 được xem là nhập đề của câu chuyện Chúa Giêsu cho năm ngàn người ăn
bánh no nê (6:32-44). Giữa hai đoạn ngắn nầy có những liên kết chặt chẽ: các
tông đồ nhận chỉ thị là rút lui vào “nơi hoang vắng” để nghỉ ngơi (c. 31), và
họ đi thuyền vào nơi ấy (cc. 32-33); “dân chúng đông đảo” xuất hiện trong câu
31, sẽ kéo đến nơi hoang vắng và Chúa Giêsu sẽ chạnh lòng thương họ (c. 33.34).
Ngoài ra, còn có một sự diễn tiến liên tục giữa hai phần: các tông đồ nhận chỉ
thị đi vào nơi hoang vắng (c. 31), họ ra đi (c. 32) và họ đến nơi (c. 34). Như
thế, đoạn 6:30-34 đóng vai trò liên kết hai trình thuật 6:6b-13 và 6:33-44,
chuyển tiếp từ vai trò được sai đi đến vai trò làm mục tử học từ Chúa Giêsu là
Mục Tử duy nhất của dân Người.
Khi các tông đồ trở về, sứ mạng đầu tiên của họ kể như chấm dứt.
Ở câu 6:7 họ “đến cùng” Chúa Giêsu theo lời mời gọi của Người để được sai đi. Ở
đây, họ lại “đến cùng” Người (6:30) để thuật cho Người những việc họ đã làm.
Marcô đã nói đến những việc của họ: rao giảng để cho những người nghe có thể
sám hối, trừ quỉ, chữa nhiều bệnh tật (x. 6:12-13). Chỉ Luca ghi nhận kết quả
của những việc họ đã làm là họ vui mừng vô cùng vì đã trừ được quỉ nhân danh
Chúa Giêsu (x. Lc 10:17). Trước khi Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sẽ lãnh
nhận lần nữa mệnh lệnh đi rao giảng và cả sức mạnh và quyền năng từ Người để
nhân danh Người thực hiện những điều mà hôm nay chỉ là thực tập (x. 16:17-18).
Như thế, họ hoàn toàn lệ thuộc vào Người trong ơn gọi và sứ mạng của họ.
Về phần dân chúng, họ đông đảo và tuôn đến từ các thành (c. 33;
x. 1:33.45). Lần nầy họ tìm đến không chỉ Chúa Giêsu mà cả các tông đồ, đến nỗi
họ không có thời giờ để ăn (c. 31; x. 1:45). Những hành động của họ được mô tả
cách sống động trong câu 33: “thấy”, “nhận ra”, “cùng nhau chạy” và “đến trước”
diễn tả sự khao khát và nhu cầu của họ. Động từ “nhận ra”, “nhận biết” (c. 33)
chỉ sự hiểu thấu thâm sâu bên trong một người hoặc một sự kiện (x. 2:8; 5:30).
Dân chúng đã nhận ra Chúa Giêsu và các tông đồ của Người là ai và đó là lý do
họ tìm đến các ngài (x. 6:33.54).
Tương ứng với những hành động của dân chúng là những hành động
của Chúa Giêsu. Người “thấy họ” khi bước xuống khỏi thuyền (c. 34); như thế bắt
gặp cái nhìn của họ. Cái “thấy” của Người, hơn cả việc nhận ra bằng thị giác
một sự kiện, thấu hiểu tường tận tình huống bên trong của nó. Khi thấy một ai,
Người hiểu ngay người ấy cần gì để được nên hoàn hảo hơn; do đó, Người làm điều
gì đó cho Người ấy (x. 1:16.19; 2:14; 6:34). Ở đây, Người thấy dân chúng như
một đàn chiên không có người chăn chiên, nên Người chạnh lòng thương (c. 34;
8:2). Động từ “chạnh lòng thương” xuất phát từ chữ “ruột gan” (splagkhnon),
ngày xưa được dùng để chỉ nơi phát sinh nhưng tình cảm, cảm xúc, thay vì “con
tim” trong cách dùng ngày nay. Do đó, có thể nói là khi thấy dân chúng đông
đảo, Người xót dạ. Việc Người sẽ làm cho dân chúng là giảng dạy (c. 34) và cho
họ bánh ăn no nê (6:35-44).
Chúa Giêsu là Mục Tử. Người nuôi dưỡng đàn chiên của Người bằng
giáo huấn và bánh hằng sống của mình máu Người. Người đặt nhóm tông đồ làm mục
tử và dạy cho họ làm sao có thể có được gan ruột mục tử của Người.
24. Tìm nơi thanh
vắng để nghỉ ngơi
(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)
Thấy các tông đồ đầu tắt mặt tối: làm việc cũng như giảng dạy
đến nỗi không còn thời giờ mà ăn uống, Đức Giêsu mới bảo họ: Hãy vào nơi vắng
vẻ để nghỉ ngơi đôi chút (Mc 6:31). Rồi Người cùng với các tông đồ xuống thuyền
chèo vào nơi thanh vắng. Để duy trì mức độ thăng bằng trong cuộc sống, Đức
Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi.
Sách Sáng thế cũng ghi lại: Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu
ngày, và Thiên Chúa chúc lành cho ngày thứ bảy và thánh hoá ngày đó, vì ngày đó
Người đã nghỉ ngơi, ngưng làm mọi công việc sáng tạo (St 2:3). Khi Đức Giêsu
sống lại vào ngày thứ nhất trong tuần, đạo mới là Kitô giáo đã dùng ngày Chúa
nhật để nghỉ ngơi, thờ phượng và cảm tạ Thiên Chúa thay vì ngày Thứ Bảy là ngày
Sabát.
Có bao giờ ta cảm thấy dù bận rộn với công việc làm, dù ở giữa
gia đình có cha mẹ, anh chị em và bạn hữu, mà vẫn cảm thấy tâm hồn trống rỗng
chăng? Và ai có thể lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn? Như Đức Giêsu khuyên
các tông đồ tìm nơi thanh vắng để nghỉ ngơi, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân đời nay
cũng cần tìm thời giờ yên tĩnh, tìm bầu khí thanh tịnh - ngưng nói, ngưng làm -
để ở một mình, hầu có thể lắng nghe tiếng Chúa và cũng lắng nghe tiếng lòng
mình. Chúa thường nói với ta trong thinh lặng. Và chỉ trong thinh lặng ta mới
có thể dễ dàng nghe tiếng Chúa hầu có thể thẩm định và đánh giá xem công việc
đạo đức ta làm có bị Chúa dùng lời ngôn sứ Giêrêmia hôm nay mà cảnh giác chăng
(Gr 23:1-6)?
Khi còn tại thế, Đức Giêsu dạy các tông đồ về sự cần thiết của
việc làm (Ga 5:17), và còn cầu nguyện xin Thiên Chúa Cha thánh hoá họ và công
việc làm của họ trong cả chương 17 của Phúc âm thánh Gioan. Sách Sáng thế có
ghi lại là sau khi A-đam và E-và phạm tội, Thiên Chúa truyền cho họ phải
làm việc đổ mồ hôi mới có cơm bánh mà ăn. Trong thế giới hiện tại và trong xã
hội ta đang sống, người ta cần làm việc để độ thân và hộ đỡ gia đình và xây
dựng xã hội loài người. Tuy nhiên nếu lúc nào cũng làm việc và coi việc làm như
cùng đích và cứu cánh là người ta đã bị sa vào thuyết duy vật. Duy vật chủ
nghĩa coi con người là dụng cụ sản xuất và đánh giá con người tùy theo năng
lượng sản xuất. Tại những xứ kĩ nghệ hoá và hậu kĩ nghệ, nhiều người phải làm
ngày Chúa nhật vì sở làm đòi hỏi như vậy, khiến người ta bị gò bó vào thời giờ
làm việc tại văn phòng, nhà máy và công sở. Trong trường hợp đó người ta cần
tìm ngày giờ khác nghỉ bù lại để có thể dành thời giờ cho Chúa, cho gia đình và
cho chính mình.
Nghỉ ngơi bao gồm cả việc đi nghỉ hè. Khi đi nghỉ hè, người tín
hữu nên mời Chúa đi cùng với mình. Nói như vậy có nghĩa là trước khi đi nghè
cần giàn xếp thế nào để Chúa nhật có thể dâng lễ thờ phượng. Có những người đạo
đức còn làm hoà với Chúa qua Bí tích cáo giải nữa vì sợ xẩy ra tai nạn máy bay,
tàu bè. Nghỉ ngơi còn gồm cả việc đi hành hương ở những nơi có ghi dấu thánh
tích về cuộc đời Chúa Cứu thế để làm sống lại lời Chúa, hoặc đến thủ đô Giáo
hội để làm tăng triển căn tính công giáo, hoặc những nơi Đức Mẹ hiện ra để củng
cố đức tin khi thấy khách hành hương bầy tỏ đức tin trong cách thế cầu nguyện
xin ơn của họ. Nhận xét thấy nhiều bà mẹ Việt nam nhất là những bà ở miền quê
sinh trước khi đất nước chia đôi năm 1954 và trước khi làn sóng di dư ra ngoại
quốc năm 1975 thật vất vả, không dám ăn miếng ngon, nhưng để dành cho con cái
như thi sĩ Tú Xương đã mô tả về bà xã ông như sau: Quanh năm buôn bán ở mom
sông. Nuôi đủ năm con với một chồng. Lặn lội thân cò khi quãng vắng. Eo sèo mặt
nước buổi đò đông.
Trong ý hướng ghi ơn bậc sinh thành và dưỡng dục, thì con cháu
nên gom góp tiền để giúp bố mẹ, ông bà đi hành hương một vài lần cho biết đó
biết đây. Có linh mục kia hướng dẫn nhóm hành hương nói với phái đoàn trên xe
là hôm đó đến tiệm ăn tối, chủ tiệm sẽ cho uống rượu vang miễn phí, nên các bà
cứ uống một chút cho đời nó lên hương. Chính Đức Giêsu đã làm phép lạ biến nước
thành rượu cho khách dự tiệc cưới Cana được tiếp tục vui vẻ đấy (Ga 2:1-11).
Nghe vậy, có mấy bà ngồi trong xe được dịp phất cờ trong bụng. Kết quả là khi
ăn uống xong, lên xe buýt, có bà đi lảo đảo, khiến mấy người trong nhóm phải
dìu đi theo. Nhớ cả đời đấy!
Việc nghỉ ngơi để lấy lại sức còn bao gồm việc cầu nguyện và thờ
phượng. Vào ngày lễ nghỉ, ta đến nhà thờ để dâng thánh lễ thờ phượng Chúa, để
lắng nghe tiếng Chúa. Ta cùng suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, tử nạn và phục sinh
của Chúa có ảnh hưởng đến đời sống và hành động của ta như thế nào? Thánh lễ
ngày Chúa nhật phải là trung tâm điểm của đời sống người công giáo. Nói như vậy
có nghĩa là cả tuần ta bận rộn với công ăn việc làm. Cuối tuần ta đến nhà thờ
để được bổ dưỡng và tăng sức bằng lời Chúa và Mình thánh Chúa và để nâng đỡ đức
tin của lẫn nhau. Tới cuối tuần khác, khi kiệt sức vì công ăn việc làm, ta lại
đến nhà thờ để được bồi bổ sức mạnh tinh thần và thiêng liêng.
Trong Tông thư về ngày Chúa nhật gửi toàn thế giới ban hành
31-5-1998, Đức Thánh cha Gioan Phaolo II nhắc lại Chúa nhật là ‘ngày của Chúa’
trong chương một. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Chúa nghỉ ngơi
một ngày. Chương hai bàn về ngày Chúa là ngày của Đức Kitô, ngày Chúa phục
sinh, ngày vui mừng. Đức Thánh cha khẳng định lại: bỏ lễ Chúa nhật mà không có
lý do chính đáng vẫn là tội nặng. Chương ba nói về ‘ngày của Giáo hội’. Giáo
hội có bổn phận thánh hoá ngày Chúa nhật bằng cách nhắc nhở và khuyến khích
giáo dân đi dâng lễ thờ phượng, làm việc từ thiện bác ái và nghỉ ngơi.
Khi Đức Giêsu và các tông đồ chèo thuyền vào nơi thanh vắng để
nghỉ ngơi, thì nhiều người hiểu ý nên chạy đến trước đón Người. Khi thấy đám
đông, thì Chúa chạnh lòng thương vì họ như bầy chiên không người chăn dắt (Mc
6:34). Trong cánh đồng truyền giáo ta thấy có nhiều nơi thiếu chủ chăn, nên
nhiều giáo sĩ phải bao thầu cáng đáng nhiều công việc đến nỗi không còn giờ
nghỉ ngơi. Vậy thì ta cần cầu xin Chúa ban thêm nhiều mục tử để hướng dẫn và
chăn dắt đoàn chiên (Gr 23:4) cũng như thợ gặt làm việc trong cánh đồng truyền
giáo.
Lời cầu nguyện xin được đủ sức làm việc:
Lậy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy các tông đồ
về sự cần thiết của việc nghỉ ngơi
sau những ngày giờ làm việc vất vả.
Xin giúp thánh hoá công việc con làm
và dạy con biết tìm giờ nghỉ ngơi
hầu cho thể xác và tinh thần được thanh thoả
và cũng dành thời giờ cầu nguyện với Chúa
để cho tâm hồn được thư thái lắng đọng. Amen.
25. Chúng ta hoạt động
đến đâu.
Tin Mừng hôm nay nhắc lại một cuộc khủng hoảng. Cuộc khủng hoảng
này bắt đầu bằng sự bất dung hợp giữa các hoạt động sôi nổi không kiểm soát
được của các môn đệ, và thái độ của Chúa Giêsu, thái độ ấy là: Ngài động lòng
xót thương đối với những kẻ bơ vơ như bầy cừu không ai chăn dắt, nên Ngài dạy
dỗ họ nhiều điều.
Một đàng, ta có thể thấy sự xuất hiện một thứ hoạt động trở
thành cùng đích cho mình, và quên đi những kẻ vì họ mà mình hoạt động, đàng
khác, thái độ của Chúa Giêsu trước hết là lo lắng cho những con người và nhu
cầu thực sự của họ. Tin mừng nhắc lại cho chúng ta thấy bằng cách nào Chúa
Giêsu đã dạy cho các môn đệ một bài học về mục vụ mà không làm cho họ chán nản,
không ngăn chặn sự quảng đại của họ.
“Hãy đi vào nơi thanh vắng và nghỉ ngơi”
Chúa Giêsu cố ý chấm dứt câu chuyện về một chuyến làm mục vụ có
vẻ cấp bách nhất và mang lại thành công nhất. Vì sự thành công đó mà công việc
mục vụ này dường như rơi vào một nguy cơ, như có thể xảy ra cho những công việc
mang lại thành công quá nhanh chóng. Những công việc này bị lôi cuốn vào những
xung đột không giải quyết được: làm sao tiếp tục tăng trưởng, đảm nhiệm tất cả,
những sự thay đổi mà việc tăng trưởng đòi hỏi, và đồng thời, giữ được căn tính
của công việc đó? Có những kỹ nghệ thịnh vượng, những nhà xuất bản đang lên,
nhưng cũng có tạp chí, những việc buôn bán sụp đổ và biết mất.
Cuộc khủng hoảng ấy cũng có thể xảy ra cho những công trình mà
khởi đầu đã mang lại những thành công lớn nhất. Và không thiếu những sự kiện đa
dạng vào những năm gần đây để minh hoạ điều này. Bao nhiêu Kitô hữu đã bỏ đức
tin? Bao nhiêu tu sĩ đã bỏ ơn gọi? Bao nhiêu sự nghiệp có vẻ bền bỉ đã biến
mất? Ta đừng đoán xét. Nhưng hãy lắng nghe bài học của Chúa về sự cần thiết
phải có một cái nhìn đúng đắn về sứ vụ được giao phó cho chúng ta.
Đi bộ từ khắp các thành phố.
Nếu Chúa muốn chấm dứt việc mục vụ này, không phải vì nó thất
bại, cũng không phải vì nó thiếu ảnh hưởng trên dân chúng. Người ta cần nó. Họ
từ khắp nơi tuôn đến. Họ đi vòng chung quanh hồ để gặp lại Chúa Giêsu và các
môn đệ của Ngài.
Một cuộc đi bộ cần thiết… để loại bỏ những kẻ hiếu kỳ, những kẻ
đa nghi, những kẻ lợi dụng. Cần phải suy nghĩ hai lần, và tự hỏi tại sao người
ta tìm kiếm Chúa Giêsu, trong lúc những người nghèo, những người bệnh và kẻ tội
lỗi là những người đến gần Chúa Giêsu trước hết và Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều
điều; Chúa Giêsu tiếp tục sứ vụ, khi trả lại cho sứ vụ ý nghĩa thực sự của nó:
đó là rao giảng Tin mừng cho người nghèo. Ngài đã chẳng nói trong hội đường
Caphacnaum rằng rao giảng này là đặc điểm chính yếu của sứ vụ Ngài đó sao?
Động cơ của sứ vụ ấy là lòng thương xót của Ngài đối với người
nghèo. Lòng thương xót ấy đem đến cho con người một ý nghĩa nâng cao, giải
phóng và hoàn thiện con người. Một lòng thương xót tạo nên sự sống. Tự nhiên
hình ảnh người mục tử hiện ra trong trí chúng ta. Công việc của người mục tử
thật khó khăn. Họ phải liên lỉ canh chừng, kiên nhẫn để đưa dẫn đàn chiên không
phải lúc nào cũng tin tưởng đến những đồng cỏ xanh tươi.
Một cách rất đơn giản, Chúa Giêsu đã đưa sứ vụ trở về đúng
hướng. Ngài cũng xác định với những kẻ thuộc về Ngài: rằng người mục tử bao giờ
cũng cần phải có thời gian, nhiều thời gian và kiên nhẫn cùng với sự tôn trọng
khả năng của những kẻ được ủy thác cho họ.
26. Đức Giêsu, các Tông Đồ và dân
chúng
(Chú giải và suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đức Giêsu đã gọi Nhóm Mười Hai và sai đi từng hai người một
(6,7.12). Bản văn hôm nay tường thuật việc các ông trở về báo cáo công việc đã
làm với Thầy. Để chu toàn được sứ mạng Đức Giêsu giao là loan báo Tin Mừng về
Triều Đại Thiên Chúa và đuổi được ma quỷ, các ông phải chấp nhận định mệnh của
Gioan Tẩy Giả (đó là lý do khiến tác giả đã tháp truyện Gioan bị trảm quyết vào
giữa đoạn văn về sai phái đi và trở về báo cáo kết quả; x. 6,17-29).
Trong đoạn văn này, chúng ta gặp lại những yếu tố quen thuộc:
Đức Giêsu là Thầy nhắc nhở các môn đệ (c. 31), rút về nơi thanh vắng (1,35.45),
đám đông kéo tới, chiếc thuyền (2,2; 3,7t.20; 4,1t). Sự kiện cả Nhóm không có
giờ ăn uống đã được nói đến ở 3,20.
Nếu đặt bản văn này trong tác phẩm Mc, ta thấy đây chính là phần
mở cho biến cố Đức Giêsu làm cho bánh hóa nhiều mà nuôi đám đông dân chúng
(6,34-44).
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành hai phần:
1) Đức Giêsu và các Tông Đồ (6,30-32);
2) Đức Giêsu và đám đông dân chúng (6,33-34).
3.- Vài điểm chú giải
- Các Tông Đồ tụ họp quanh Đức Giêsu (30):
Không phải là chuyện tình cờ nếu khi đi rao giảng về, Nhóm Mười Hai được nhận
danh hiệu “tông đồ” (và trong TM II thì chỉ ở đây mà thôi). Danh hiệu này tăng
cường thêm cho dây liên kết giữa đoạn văn này với đoạn văn kể lại việc Đức
Giêsu sai phái các ông đi rao giảng. Chính là trong tư cách “tông đồ”, nghĩa là
những người được Đức Giêsu giao phó sứ mạng tiếp nối công trình của Người, mà
các ông tái xuất hiện.
- và kể lại … mọi điều các ông đã làm … đã dạy: Họ
báo cáo đúng theo hai phương diện của hoạt động được giao (x. 6,12-13): rao
giảng – trừ quỷ và chữa bệnh (x. thêm 6,7-11; 3,14-15). Hai phương diện này đã
được minh hoạ trong hoạt động của Đức Giêsu (1,21-27; ch. 4–5; 6,1-6). Sứ vụ
của Nhóm Mười Hai được đồng hoá với sứ vụ của Đức Giêsu và nối dài sứ vụ của
Người.
Đây là chỗ duy nhất mà tác giả xác định là Nhóm Mười Hai “đã
giảng dạy” (edidaxan). Ngài thường dùng động từ “công bố” để nói về các ông này
hơn (kêryssein: 3,14; 6,12; 13,10; 14,9). Trong từ vựng của ngài, có một sắc
thái phân biệt hai từ này: việc công bố đi trước việc giảng dạy (so sánh 1,14
và 21). Tuy nhiên, không nên đối lập hai từ này y như thể là hai sinh hoạt hoàn
toàn tách biệt; khó mà làm việc này nếu không có việc kia. Dù sao, lời nhắc đến
việc giảng dạy của Nhóm Mười Hai ở đây vẫn đáng lưu ý, vì tại đây tác giả đang
nêu bật hoạt động giảng dạy của Đức Giêsu (6,6b.34). Ngài muốn nói: hoạt động
giảng dạy của Đức Giêsu được nối tiếp nơi hoạt động giảng dạy của Nhóm Mười
Hai.
- Anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng, mà nghỉ ngơi
đôi chút (31): Câu này hẳn là có ý giải thích việc ra đi đến nơi thanh
vắng để rồi tại đó, xảy ra cuộc gặp gỡ với năm ngàn người. Câu này hẳn cũng cho
phép liên kết việc sai phái Nhóm Mười Hai và cuộc trở về của họ với cuộc gặp gỡ
của vị Mục Tử với đàn chiên bơ vơ. Tuy nhiên, câu này cũng có những chi tiết
đáng quan tâm: một đàng, sự tha thiết được nêu bật bằng việc lặp lại: “lánh
riêng ra, đến một nơi thanh vắng” (cc. 31-32). “Lánh riêng ra” (kat’idian) là
một nét riêng của Mc (x. 7,33; 4,34; 9,2.28; 13,2). Đức Giêsu tạo cơ hội cho
Nhóm Mười Hai được “ở với Người” (3,14), xa đám đông, và để được sai đi.
Đàng khác, lời đề nghị của Đức Giêsu hàm ý Người muốn các tông
đồ có cùng một nhịp sinh hoạt (hoạt động nơi dân chúng – sống cô tịch) như
Người. Các ông được mời bắt chước Người tìm nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi, mà cầu
nguyện, sau khi đã hoạt động rao giảng. Phải chăng đây là điều tác giả muốn
diễn tả qua dụ ngôn hạt giống tự mọc một mình (4,26-29)?
- chạnh lòng thương (34): Động từ
splanchnizomai (x. 1,41) diễn tả một tâm tình sâu xa động chạm đến lòng dạ (ta
splanchna) và được biểu lộ ra bằng một hành vi đặc biệt chiếu cố đến một ai đó
(x. Mt 18,27; Lc 15,20; 10,33).
- vì họ như bầy chiên không người chăn dắt: Câu
này gợi nhớ đến hoàn cảnh nguy hiểm hoặc đáng thương của dân Chúa khi thiếu
vắng thủ lãnh (Ds 27,17), bị phó mặc cho kẻ thù xâu xé (1 V 22,17; 2 Sb 18,16),
bị vua chúa coi thường và bỏ rơi (Ed 34,5), lang thang, lạc lõng, bơ vơ không
người chăn dắt (Dcr 10,2-3; 13,7). Dường như bản văn Mc gần với Ds 27 và Ed 34
hơn, vừa về giọng văn vừa về đề tài. Trong Ds 27, chính Môsê, trước khi chết,
đã xin Thiên Chúa ban một thủ lãnh thay thế ngài dẫn dắt cộng đồng dân Chúa đi
trong hoang địa; thế mà bản văn Mc đây đang nhắc nhớ đến Môsê và các lương thực
nhiệm mầu của Ít-ra-en trong hoang địa. Còn lời sấm Ed 34 thì loan báo rằng
chính Thiên Chúa sẽ săn sóc đoàn chiên Ngài (c. 11), cho chúng được ăn trong
đồng cỏ mầu mỡ (c. 14), cho chúng nghỉ ngơi (cc. 14-15) và đặt một mục tử dẫn
dắt chúng (c. 23). Xem Tv 22/23.
Nhiều chi tiết trong bài tường thuật liên hệ đến những đoạn văn
đó: sự ân cần của Đức Giêsu, sự nghỉ ngơi mà Người muốn bảo đảm cho môn đệ, đám
đông qui tụ lại, bữa ăn trên cỏ xanh, lương thực dồi dào… Đây là những gợi ý cho
hiểu Đức Giêsu chính là vị Mục tử thiên sai. Khi nhận xét rằng Đức Giêsu “chạnh
lòng thương”, bản văn đã đề cao phẩm chất của vị Mục tử thiên sai.
- và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều: Điều
đáng ngạc nhiên là Đức Giêsu giảng dạy để bày tỏ lòng thương xót! Các bản văn
Mt và Lc dường như hợp lý hơn: Đức Giêsu chữa các bệnh nhân hoặc nếu có giảng
dạy thì không phải vì thương xót. Vả lại công việc của người mục tử không phải
là dạy dỗ, mà là nuôi dưỡng đoàn chiên.
Thật ra, ở đây cũng như tại những nơi khác (x. 1,21; 2,13; 6,2;
10,1), tuy không cảm thấy phải nói về nội dung của lời Đức Giêsu giảng dạy, Mc
vẫn sử dụng danh từ “lời giảng dạy” và động từ “giảng dạy” nhiều hơn Mt. Bởi vì
điều ngài quan tâm không phải là nội dung lời giảng, mà là chính hoạt động
giảng dạy, vì hoạt động này biểu lộ chân tính của Đức Giêsu. Bằng lời Đức Giêsu
giảng dạy và đánh tan quyền lực của Satan, Thiên Chúa hành động để thiết lập
Triều Đại của Ngài. Vậy, trong tư cách Mục tử thiên sai, khi giảng dạy, Đức
Giêsu chứng tỏ uy quyền. Đúng như lời Thiên Chúa đã hứa từ xa xưa, nay
Đức Giêsu đến để dùng lời nói mà qui tụ, để làm no thoả đàn chiên bơ vơ.
Thật ra, có nhiều bản văn Kinh Thánh nối kết việc mạc khải Lời
Chúa với ân ban các lương thực thiên quốc (x. trường hợp Môsê: Kn 16,28; Nkm
9,13-15; Tv 118/119,131.176; Tv 94/95,7-8.11; TM Ga nối bài tường thuật về việc
hoá bánh ra nhiều (6,1-15) với diễn từ về Bánh ban sự sống (6,26-58).
Cũng có thể giải thích bản văn Mc dựa theo sinh hoạt Giáo Hội:
hẳn là Mc đã dựa vào nếp sinh hoạt phụng vụ cộng đoàn, trong đó việc giảng dạy
và bẻ bánh đi đôi với nhau và hỗ trợ cho nhau (x. Cv 2,42; 20,7; Lc 24,25-32).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu và các tông đồ (30-32)
Cần phải hiểu cách thức Đức Giêsu xử sự với dân chúng trong quan
hệ với sự ân cần Người tỏ ra với các môn đệ.
Trong TM Mc, quan hệ của Đức Giêsu với đám đông dân chúng luôn
luôn xảy ra có sự chứng kiến của Nhóm Mười Hai hoặc của một vài người của Nhóm.
Song song với việc giảng dạy cho dân chúng, Đức Giêsu có dành cho Nhóm Mười Hai
một lối giảng dạy riêng (4,1-34; x. cc. 10-25.34).
Kể từ sau khi các môn đệ đi sứ vụ trở về (6,30), Đức Giêsu đã
làm một loạt những hành vi và ban những lời giảng dạy dành riêng cho họ.
Nếu Đức Giêsu có giảng dạy và nuôi dưỡng đám đông, thì theo TM II, dấu lạ
này lại được dành cho các môn đệ, chỉ có điều là họ không hiểu thôi (6,52). Nếu
Đức Giêsu có tranh luận về sự thanh sạch của lương thực và về truyền thống với
người Pharisêu (7,1-16), chính là để soi sáng cho các môn đệ đang ở riêng một
nơi (7,17-23). Vào cuối phần đoạn nói về các cuộc hoá bánh ra nhiều, những lời
Người trách các môn đệ (8,14-21) chứng tỏ đấy là một mạc khải được dành riêng
cho các ông. Câu truyện Đức Giêsu chữa một người mù (8,22-26) được đặt giữa
những lời trách mắng này và lời tuyên xưng đức tin của Phêrô: “Thầy là Đấng
Kitô”, sẽ là một bước dứt khoát hướng về chỗ hiểu biết Người chính xác hơn.
* Đức Giêsu và đám đông dân chúng (33-34)
Theo Mc, Đức Giêsu có sức thu hút phi thường đối với dân chúng
ngay khi Người xuất hiện (1,33). Người có rút lui vào nơi thanh vắng cũng không
tránh khỏi dân chúng (1,45). Dân chúng từ khắp nơi tuốn về, chen chúc, xô đẩy
Người, khiến Người không còn thì giờ để ăn uống với môn đệ nữa (2,2.13;
3,7-9.20; 5,21.24; 6,54-56; 9,15; 10,1.46). Dọc theo quyển Tin Mừng, ta thấy
dân chúng luôn luôn tỏ ra có thiện cảm với Người, cho đến khi họ bị các thượng
tế lèo lái trong cuộc xử án tại toà Philatô (15,11). Không bao giờ Đức Giêsu
xua đuổi họ, cho dù đôi khi Người tìm cách tránh họ (7,24.33; 9,30). Có khi
Người còn gọi họ lại (7,14; 8,34). Sự hiện diện hoặc vắng mặt của đám đông
không phải là không có ý nghĩa. Theo Mc, cách thức Đức Giêsu đối xử với đám
đông biểu lộ một phương diện cốt yếu thuộc sứ mạng Người. Đó đặc biệt là trường
hợp ở đây, khi mà đám đông kéo đến bất ngờ, và Đức Giêsu thì muốn tránh.
+ Kết luận
“Tin Mừng Đức Giêsu Kitô” là hoạt động Thiên Chúa đang được thể
hiện giữa loài người hôm nay. Tin Mừng này nhắm đạt đến mọi người, nhờ sứ vụ
các tông đồ. Xuyên qua sứ vụ này, chính lòng thương xót của Đức Kitô, đức ái
của Người, chiếu cố đến mọi người. Khi suy gẫm về sự hiệp nhất giữa Đức Giêsu
và các môn đệ ở thời kỳ khai nguyên Tin Mừng, Mc chạm đến thực tại sâu xa của
Giáo Hội, trách nhiệm của Giáo Hội, đòi hỏi mà Giáo Hội phải đáp ứng bằng sứ vụ
loan báo Tin Mừng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các Tông Đồ “tụ họp” chung quanh Thầy và đánh giá về công
việc với Người chính là hình ảnh của cộng đoàn vẫn liên lạc thường xuyên với
Đức Chúa của mình. Người ta có thể làm một công việc mà trước đó không xác định
được là việc gì chăng? Và khi đã làm xong công việc được giao phó, người ấy lại
không phải đến gặp ông chủ vào báo cáo về công việc đó sao? Đây là một lưu ý
được gửi đến cho cộng đoàn Kitô hữu: coi chừng có thể lấy những quyết định mà
không quy chiếu về Lời của Thầy. Bất cứ khi nào cộng đoàn Kitô hữu lấy các
quyết định mà không quy chiếu về Tin Mừng, họ rất có thể sẽ theo lô-gích loài
người và chỉ nhìn công việc dưới những nhãn hiệu như là uy tín, thành công và
danh giá.
2. Khi khuyên các môn đệ đi đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi,
Đức Giêsu đã làm một cử chỉ rất nhân bản, Người đã tỏ ra là một vị Thầy quan
tâm đến mọi phương diện thuộc đời sống các môn đệ: có phương diện thiêng liêng,
và cũng có những nhu cầu thể lý. Đấy là một tấm gương cho tất cả những ai có
trách nhiệm về những người khác. Ngoài ra, trong Cựu Ước, lòng từ bi thương xót
là một phẩm tính của Thiên Chúa; qua thái độ của Đức Giêsu, ta thấy được lòng
thương cảm của Thiên Chúa đối với loài người. Bất cứ ai có vai trò “mục tử”
(cha xứ, bề trên, cha mẹ…) đều được mời gọi bắt chước Đức Giêsu về phương diện
này.
3. Đức Giêsu thương xót đám đông, và việc Người đã làm là ngồi
xuống, lắng nghe họ và cố gắng hiểu các vấn đề của họ, rồi dùng thì giờ mà
giảng dạy họ. Khi đưa Nhóm Mười Hai vào sứ vụ này, Đức Giêsu đã thật vất vả mới
mở mắt các ông ra được, thì chắc hẳn không người môn đệ nào hôm nay muốn thực
tập đời Tông Đồ mà lại miễn chuẩn cho mình khỏi phải ở với Đức Giêsu, nhìn ngắm
Người, bước theo Người và cứ thường xuyên bị Người ngăn cản trong những kế
hoạch theo lô-gích loài người.
27. Chú giải của
Noel Quesson.
CÁC TÔNG ĐỒ TỤ HỌP CHUNG QUANH ĐỨC GIÊSU.
Đây là lần đầu tiên và lần duy nhất, Maccô
gọi các môn đệ là "Tông đồ" ("apostoloi", có nghĩa là
"những kẻ được sai đi"). Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã nghe Đức
Giêsu dặn dò các Tông đồ, khi sai các ông lên đường. Các ông đã sống một ít
ngày, không biết mấy ngày, từng hai người một nhưng không có Người. Các ông trở
về sau một cuộc truyền giáo. Các ông đã cảm nghiệm được sức mạnh của Tin Mừng,
nhưng chắc hẳn các ông cũng đã có kinh nghiệm về sự chống đối, khước từ, lãnh
đạm. Và đoạn Tin Mừng này cho thấy các ông rất mệt mỏi. Cần sự nghỉ ngơi. Vào
thời đó, người ta chỉ đi bộ.
Và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều
các ông đã giảng dạy.
Đó là giờ ‘báo cáo’. Hành động rồi xét lại
hành động đó để hiểu nó hơn trong đức tin và để làm tốt hơn trong những lần
sau. Ngày nay người ta thường tụ họp nhau lại. Người ta quen làm việc theo
nhóm, trong sinh hoạt học đường, nghề nghiệp, nghiên cứu: Các Hiệp hội, nghiệp
đoàn, ủy ban đủ loại, thường triệu tập thành viên của mình để góp chung ý kiến,
dự thảo các dự án. Ngày nay, người ta nói nhiều về "thảo luận",
"đối thoại". Đó là một phần thuộc bản chất con người. Một lần nữa
chúng ta thấy Đức Giêsu đã hoàn toàn hòa nhập vào bản chất sâu xa của con
người; sống trong tương quan và góp phần với người khác. Ngày nay nhiều Kitô
hữu đã hiểu rằng, đức tin của họ sẽ mạnh hơn biết bao, nếu họ liên kết với
những người anh em khác để giải thích và chia sẻ Tin Mừng. Đó là mục đích của
việc họp mừng Thánh Thể mỗi Chúa nhật. Sau một tuần thi hành sứ vụ, người Kitô
hữu "trở về" với Đức Giêsu. Tôi có điều gì để nói với Chúa không? Tôi
có cầu nguyện với Người về cuộc sống của tôi trong tuần qua không?
Mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã giảng dạy.
Thánh Maccô tóm lại tất cả sứ vụ của các
Tông đồ trong hai bình diện "làm" và "nói". Đó cũng là đặc
điểm hoạt động của Đức Giêsu: Những hành vi xót thương, giảng dạy. Đức Giêsu và
các tông đồ đều là những người thợ cùng làm một công việc.
Người bảo các ông: "Anh em hãy lánh riêng ra một nơi thanh
vắng mà nghỉ ngơi đôi chút". Quả thế kẻ lui người tới quá đông, nên các
ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. Vậy, các ngài xuống thuyền đi lánh riêng
ra một nơi hoang vắng.
Đức Giêsu cũng "nghỉ mát". Đức
Giêsu đề nghị với các bạn của Người, đang quá mệt mỏi vì công việc, hãy dành
một thời gian để nghỉ ngơi thư giãn. Quá tải, căng thẳng thần kinh mà ngày nay
người ta gọi là ‘stress’ có hại cho công việc Tông đồ cũng như các công việc
khác. Đức Giêsu muốn cho mọi người nam cũng như nữ được quân bình, thanh tĩnh,
ổn định. Đó là nhu cầu thinh lặng, cô tịch, tránh xa đám đông. Đó là điều cần
thiết cho con người mọi thời, đặc biệt cho con người thời nay, có thể dễ bị bệnh
nhồi máu cơ tim do sự biến động trong các thành phố.
Trong một tuần lễ, một ngày sống, tôi có
tự ý dành một khoảng thời gian để sống thinh lặng cô tịch không? Tôi phải qua
những kỳ nghỉ nào?
Đây không phải là lần duy nhất Máccô cho
chúng ta biết Đức Giêsu thích sự cô tịch và tránh xa đám đông. Đức Giêsu còn
biết chọn những nơi hiện diện: "Một ngọn núi cao riêng biệt" (Mc
9,2). Những bờ dốc thẳng bao quanh hồ phía đồi Gôlăng (Mc 5,1) những bãi biển
Phênixi xứ Xyria hay xứ Libăng (Mc 7,24-31) đôi bờ của con thác miền núi gần
nguồn sông Giođan dưới chân núi Héc-mon (Mc 8,27).
Đến nơi thanh vắng trong sự cô tịch, anh em hãy nghỉ ngơi.
Đức Giêsu khích lệ các Tông đồ đi đến một
nơi thanh vắng yên tĩnh. Đời sống nội tâm đòi buộc phải suy niệm. Sự náo động
bên ngoài chỉ đưa đến phiến diện bề ngoài. Không có một công trình vĩ đại nào
của con người được thực hiện mà lại không có sự tập trung cao độ, cố gắng yên
tĩnh và tự chủ. Bất cứ một cuộc sống đúng đắn nào của con người cũng phải trải
qua từ giai đoạn hoạt động “bên ngoài" đến những giai đoạn suy tư
"bên trong" – xem, xét, làm. Xem lại, xét lại, làm lại. Điều này lại
càng đúng với đời sống Kitô hữu: Không có cuộc sống Kitô hữu nào vững chắc và
sâu xa mà lại không thể hiện hai nhịp sau: Sống "nội tâm" và hoạt
động "bên ngoài". Tôi có dành thời gian để suy niệm không? Thời gian
tôi dành cho sự cầu nguyện trong khoảng 24 giờ là bao nhiêu? Tôi có sự thinh
lặng, cô tịch không? Tôi có quen vặn rađiô hay tivi để lấp đầy khoảng trống
thời gian của tôi không? Còn những Chúa nhật của tôi ra sao? Có phải là ngày
sabat, ngày nghỉ ngơi không?
Thấy các ngài ra đi nhiều người hiểu ý các ngài, nên từ khắp
thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi trước các ngài. Bước lên bờ, Đức
Giêsu thấy đông đảo dân chúng.
Ở đây Đức G'iêsu và các môn đệ dường như
đang chơi trò "ú tim" hay "cút bắt" với đám đông. Nhưng
không có cách nào trốn được. Người ta muốn trốn đám đông Nhưng người ta cũng
phải lo cho đám đông đó. Người ta muốn trốn để nghỉ ngơi, tránh sự quá tải đến
nỗi không có thời giờ để ăn. Người ta sắp xếp để rút êm, nhưng đám đông đã ở đó
trước. Phản ứng của Đức Giêsu trước sự bất ngờ trái ý, làm xáo trộn chương
trình của Người thế nào?
Đức Giêsu thấy đông đảo dân chúng thì chạnh lòng thương.
Lạy Chúa, người ta nhận biết rõ Chúa nhờ
điểm đó. Trước tiên, con muốn dành thời giờ để tưởng tượng phản ứng của Chúa.
Chúa bước lên bờ. Đám đông đang ở trên bãi biển -Đám đông chạy ùa đến với Chúa.
Thay vì bực mình, lạy Chúa, Chúa đã tiếp đón họ. Sự cô tịch, nghỉ ngơi được dời
lại vào một lần khác. Trước những trường hợp cấp bách, Chúa cũng phải thay đổi
chướng trình của Người. Người đã đáp lại lời mời gọi của kẻ khác. Biết bao bà
mẹ muốn nghỉ ngơi mà không được. Lạy Chúa, Chúa đã trải qua kinh nghiệm này.
Tình yêu là thế. Làm những gì mà người ta "có lẽ không muốn", làm
những gì "phải làm", những việc "đang ở đó", "Kẻ nào
muốn làm môn đệ Tôi, hãy khước từ chính bản thân mình và hãy theo Tôi" (Mc
8,34), Kẻ nào liều mất mạng sống của mình, sẽ được sống" (Mc 8,35). Thua
mất! Chúa đã thua mất. Người đòi hỏi chúng ta hãy làm như Người; Thua mất vì
tình yêu.
Người chạnh lòng thương.
Cảm xúc này đã biểu lộ trên ương mặt,
trong cử chỉ của đôi -tay, trên môi, trên mắt, trong giọng nói của Đức Giêsu
thế nào?
Đức Giêsu nhìn đám đông cách trìu mến, đám
đông đó là hình ảnh thế gian qua mọi thới đại. Vào lúc này đây, lạy Chúa, con
tin rằng Chúa vẫn tiếp tục nhìn thế giới của chúng con hôm nay với cái nhìn
"trắc ẩn" như thế? Còn tôi? Cái nhìn của tôi trên đám đông như thế
nào?
Vì họ như bầy chiên không người chăn dắt.
Hình ảnh đẹp làm sao! Chiên không người
chăn! Thật là hỗn độn? Phải làm gì bây giờ? Mối tương quan giữa Chúa và dân
Người đã không ngớt được mô tả dưới biểu tượng này. Sự ra khỏi Ai Cập đã do
Giavê dẫn dắt như một người chăn chiên dẫn đoàn chiên vào sa mạc (Xh 15,13).
Môisen lúc chết đã lo lắng cho dân Israel "như chiên không có chủ chăn”
(Ds 27,17). Trong bài đọc thứ nhất của Chúa nhật này, Giêrêmia cho thấy dân
chúng được giao cho những kẻ chăn chiên xấu, họ để chiên bị chết và tản mát
trong đồng cỏ của Chúa (Gr 23,1-6). Chúa nhật này, chúng ta hát lên Thánh Vịnh
22; "Chúa là Mục tử chăn dắt tôi, tôi còn thiếu thốn chi, trên đồng cỏ
xanh rì, Người cho tôi ngơi nghỉ". Chính Đức Giêsu cũng đã dùng lại hình
ảnh này: "Ta sẽ đánh người chăn chiên và các chiên sẽ bị tản mác" (Mc
14,27). Người xác quyết mình được sai đến với nhung con chiên lạc" (Lc
19,10; 15,4-7). Người là Mục tử nhân lành (Ga 10).
Ở đây Đức Giêsu xử sự như Đấng Mêsia đã
được Thiên Chúa hứa. Và chúng ta có thể nói, Người thay cho Thiên Chúa: Đó là
Thiên Chúa - Mục tử của dân Israel.
“Những con chiên không người chăn". Đó là hình ảnh của thế giới qua mọi thời đại, đó cũng
là hình ảnh của thời đại chúng ta. Như vậy phải chăng có ý nói rằng thế giới
đang rơi vào hỗn loạn? Chúng ta biết rằng có những vị thủ lãnh, những người
lãnh đạo dân chúng xuất hiện và tự cho mình là người hướng dẫn quần chúng.
Người ta đang tìm Đấng "Chúa hứa ban". Nhưng thường thì sau một thời
gian hy vọng, lại thấy sự áp bức, thối nát tham nhũng tái diễn. Biết bao quốc
gia trên hành tinh chúng ta hiện nay có thể chế dân chủ tự do, nhưng cũng biết
bao nước khác đang phải chịu những chế độ độc tài, với kỷ luật khắt khe, chỉ nô
lệ hóa lương tâm con người và bắt những đầu óc tự do phải câm lặng.
Chúa Giêsu đã đến trong một thế giới như
thế. Quốc gia lúc bấy giờ là đế quốc La Mã. Quân đội chiếm đóng đã áp đặt trên
dân chúng một chính sách nặng nề.
“Chiên không có chủ chăn": Đó là một nhân loại mất phương hướng, không biết tìm
đâu ra ý nghĩa cuộc sống của mình. Ai sẽ cho chúng ta thưởng nếm hương vị của
đồng cỏ xanh tươi?
Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.
Việc đầu tiên Đức Giêsu giúp cho những đám
đông mất phương hướng đó, là "Phục vụ Lời Chúa". Một lần nữa Máccô
không nói cho chúng ta biết nội dung của giáo huấn trên. Ông chỉ muốn gợi ý cho
chúng biết rằng: Nội dung đó chính là con người Đức Giêsu.
Lạy Chúa, con đang lắng nghe. Xin Chúa hãy
nói nhiều hơn…