LỄ VỌNG PHỤC
SINH
NĂM ABC
CÁC BÀI ĐỌC: St 1,1- 2, 2; St 22,1-18; Xh 14,15-15,1; Is 54,5-14; Is 55,1-11;
Br 3,9-15. 32-4,4; Ed 36,16-17a. 18-28; Rm 6,3-11
CHÚA GIÊSU PHỤC
SINH LÀM HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH SÁNG TẠO
Điểm
độc đáo của Kitô giáo là minh chứng về sự sống lại khởi đi ngay từ đời này, và
chỉ những ai được kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh, mới được Ngài mời gọi cộng
tác để xây dựng Nước Thiên Chúa cho loài người dung thân.
I/ PHỤC SINH LÀ MỘT CHÂN LÝ XÁC THỰC.
Những
kẻ theo Đức Giêsu từ chỗ thất vọng về Ngài, đến liều mạng minh chứng Ngài đã từ
cõi chết sống lại:
1- Những người từng theo Đức Giêsu thất vọng về
Ngài .
a. Khi Đức Giêsu bị bắt, ông
Phêrô thủ lãnh Nhóm Mười Hai đã chối Thầy (x Mt 26,69t), các môn đệ sợ hãi chạy
trốn hết (x Mc 14,50); chỉ có hai ông không thuộc Nhóm Mười Hai, đó là ông
Giuse quê tại Arimathia, hằng ngóng đợi Nước Thiên Chúa (x Lc 23, 50-51), và
ông Nicôđêmô hằng ấp ủ ơn tái sinh, từ lúc ông thụ giáo với Đức Giê-su suốt đêm
(x Ga 3). Hai ông này vẫn hy vọng Đức Giêsu sẽ giải phóng dân Do Thái thoát ách
thống trị Roma. Các ông cũng muốn làm môn đệ Đức Giêsu, nhưng vì sợ người Do
Thái, nên các ông theo Ngài cách lén lút. Khi các ông thấy Đức Giêsu bị án tử
cách bất công, khiến lòng tin của các ông dao động bàng hoàng. Trong tâm trạng
ấy, hai ông rủ nhau đến xin tổng trấn Philatô cho hạ xác Đức Giêsu xuống để đem
an táng trong mộ. Đây là hành động tiên tri: Các ông lãnh lấy “một niềm tin” đem chôn vào
lòng đất, các ông không
ngờ
hạt lúa mì này nảy
mầm sinh nhiều bông hạt, cho loài người được sống cách dồi dào (x Ga 19,38t;
12,24).
b. Các phụ nữ đã từng theo
hầu Đức Giêsu biết rõ cửa mộ Ngài đã bị niêm phong, và có lính canh phòng cẩn
mật, thì sáng hôm sau, các bà tò mò ra mộ xem! (x Mt 27,62-66; 28,1). Nhưng tới
mộ, các bà thấy động đất lớn và có thiên thần mặc áo trắng rạng ngời như mặt
trời đến đẩy tảng đá che cửa mộ ra và ngồi trên đó (x Mt 28,2-3). Đây là dấu
hiệu Thiên Chúa xuất hiện như Ngài đã từng tỏ mình ra cho ông Môsê ở núi Sinai
(x Xh 19,18), làm cho các chú lính canh mồ khiếp đảm, run rẩy ra như chết! Còn
các phụ nữ thì hoảng sợ và khóc lóc! (x Mt 28,3-5: Tin Mừng năm A); Dù thiên
thần của Chúa hiện ra như một anh thanh niên ngồi trên tảng đá che cửa mộ đã
được lăn ra, thiên thần trấn an các bà và ra lệnh: “Đừng
hoảng sợ! Các bà tìm Đức Giê-su Na-da-rét, Đấng bị đóng đinh chứ gì! Người đã
trỗi dậy rồi, không còn đây nữa. Chỗ đã đặt Người đây này!
Xin các bà về nói với môn đệ Người và ông Phê-rô rằng Người sẽ đến
Ga-li-lê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người như Người đã nói với
các ông. ” Vừa ra khỏi mộ, các bà liền chạy trốn, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía.
Các bà chẳng nói gì với ai, vì sợ hãi” (Mc 16, 6-8: Tin Mừng năm
B); “Các bà trở về báo tin cho các môn
đệ, nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin, chỉ có ông Phêrô nghe tin
ấy, đứng lên chạy ra mộ, khi cúi nhìn ông thấy chỉ còn có những khăn liệm thôi,
ông trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên” (Lc 24,8-12: Tin Mừng năm C).
2- Từ là những người chậm tin, dốt nát, và nhát
sợ, trở thành những chiến sĩ Tin Mừng, sáng suốt, can đảm, làm chứng cho Chúa
Giêsu Phục Sinh
Chứng lý xác thực và đáng tin
nhất là: Các môn đệ đều là những kẻ bạc nhược dốt nát, trở thành những người
thông minh sáng suốt, thậm chí họ nói tiếng Do Thái mà các dân tộc đều hiểu (x
Cv 2). Và các ông rất can đảm liều mạng, chấp nhận ra tù vào khám mà vẫn hân
hoan làm chứng cho Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết (x Cv 5,17t).
Đặc biệt nhất, Chúa Giêsu
Phục Sinh đã biến đổi biệt phái Saulô độc ác hơn chó sói, đã từng bách hại các
tín hữu thời sơ khai (x Cv 7-9). Thế mà sau khi được Chúa Giêsu chộp lấy, dạy
ông phải đi học giáo lý nơi các môn đệ Ngài, nhờ đó ông trở thành Tông Đồ xuất
sắc, thâu họp muôn dân về cho Chúa, không thua kém các Tông Đồ thượng đẳng (x
2Cr 11,5).
II/ ĐỨC GIÊSU PHỤC SINH MỜI GỌI NHỮNG KẺ TIN
NGÀI HÃY RAO GIẢNG VỀ NƯỚC THIÊN CHÚA, NHƯ NGÀI ĐÃ KHỞI SỰ TỪ MIỀN BẮC GALILÊ TIẾN
VỀ MIỀN NAM GIUĐÊ VÀ BỊ GIẾT TRONG THÀNH GIÊRUSALEM.
Thực vậy, ngay sau khi Chúa Giêsu
phục sinh, chiến thắng mọi quyền lực sự ác, đánh gục thần chết, Ngài không đến
ngay với các môn đệ ở Giêrusalem để củng cố niềm tin cho các ông, mà Ngài lại
bảo các ông phải về Galilê mới được gặp Ngài, để nhận Lệnh đi khắp thế gian rao
giảng Tin Mừng cho muôn dân (x Mt 28,16-20). Như vậy, các ông cùng mang một sứ
mệnh loan báo Tin Mừng cứu độ nhờ, với, trong Chúa Giêsu, bởi các ông cử hành Phụng
Vụ tại Nhà Thờ hằng ngày (x Lc 24,53). Từ ngày đó, Chúa Giêsu gọi các môn đệ là
“anh em của Ta” (x Mt 28,10), vì các ông đã
trở nên cùng một nguồn gốc, cùng một xương thịt, cùng một sự sống với Chúa Giêsu,
đến nỗi Ngài không sượng miệng gọi họ là anh em (x Dt 2,11. 14; Ga 6,57).
III/ NỘI DUNG SỨ ĐIỆP TIN MỪNG CÁC MÔN ĐỆ RAO
GIẢNG.
1- Qua Bài đọc I (St 1,1-2,2): Thiên Chúa toàn năng sáng tạo muôn
vật trong vũ trụ vô cùng tốt đẹp rồi trao tặng cho con người làm chủ.
a. Ngài toàn năng, chỉ một Lời
Ngài phán ra, muôn vật liền xuất hiện cách tốt đẹp; cuộc sáng tạo kỳ diệu đó
cũng không sánh bằng nhờ Chúa Giêsu Phục Sinh, ai được sinh lại bởi Lời, người
đó trở nên con Thiên Chúa, một tạo vật mới trong các loài thụ tạo (x Gc 1,18).
b. Vì chỉ có một
Thiên Chúa là Chúa Tể vũ trụ. Bởi thế muôn vật, cả các thần minh (tinh tú) đều
dưới quyền sắp đặt và điều khiển của Ngài. Nhưng sau Tử Nạn và Phục Sinh, Chúa
Cha đã trao toàn quyền trên trời dưới đất cho Chúa Giêsu, và trước khi Ngài về
cùng Cha, Ngài lại trao tất cả quyền bính ấy lại cho các môn đệ, để các ông có
quyền đóng hay mở cửa Trời cho ai tùy ý (x Mt 28, 16t; Ga 20,21t).
c. Thiên Chúa yêu
thương loài người, nên muôn vật tốt đẹp Ngài đã tạo dựng đều làm quà tặng trao
ban cho loài người; ơn ấy không sánh bằng Chúa Giêsu trao ban Bánh Hằng Sống
chính là Thịt Máu Ngài để ai hưởng dùng thì được sống muôn đời (x Ga 6,22t).
Đúng là “tình thương Chúa chan hòa mặt đất” (Tv 33/32,5b: Đáp ca).
2- Qua Bài đọc II (St 22,1-18): Thiên Chúa thử thách ta trong tình
yêu của Ngài.
a. Thiên Chúa yêu
thương vợ chồng Abraham, cho sinh con trong lúc tuổi già; không sánh bằng Thiên
Chúa đã chọn Trinh Nữ Maria sinh Con Một Ngài vào đời để cứu thế gian (x Lc
1,26t).
b. Thiên Chúa lại
thử thách tổ phụ Abraham nặng nề, Ngài bảo ông giết con trai duy nhất làm hiến
lễ; sự vâng phục ấy không sánh bằng Mẹ Maria dâng Con Một cho Thiên Chúa, Mẹ
đau đớn như lưỡi gươm đâm thâu lòng, nhất là lúc nhìn Con đã chết trên thập giá
mà kẻ ác còn đâm nát tim (x Lc 2,34-35; Ga 19,34).
c. Người con yêu
của ông Abraham cuối cùng cũng không chết vì đã có con chiên thế mạng; nhưng Cha
trên trời đã không tha mạng cho Con Một Ngài, để trở thành “Con Chiên Thiên Chúa gánh tội trần gian”
(x Ga 1,29; Rm 8,32).
Vậy ta hãy cầu nguyện: “Lạy Chúa Trời, xin giữ gìn con, vì bên Ngài
con đang ẩn náu” (Tv 16/15,1: Đáp ca).
3- Qua Bài đọc III (Xh 14,15-15,1a): Thiên Chúa, Đấng giải phóng con
người khỏi nô lệ ác thần.
Xưa kia Thiên Chúa đã sai ông
Môsê dẫn đưa dân Do Thái thoát nô lệ Ai Cập, và vùi dập quân Ai Cập cùng với
chiến xa dưới lòng biển; cuộc giải phóng ấy không sánh bằng chính Con Một Thiên
Chúa giải phóng con người thoát án phạt của Lề Luật (x Gl 3,24), thoát tay tử thần,
không còn làm nô lệ cho Satan, vì đã đưa con người vào Hội Thánh (Nước Thiên
Chúa), nhờ nước Bí tích Thánh Tẩy (x Ga 3,5), và nhờ danh Chúa Giêsu Phục Sinh
(x Cv 2,38).
“Nào ta hát mừng Chúa, Đấng cao cả uy hùng”
(Tv 16/15,1b: Đáp ca).
4- Qua Bài đọc IV (Is 54,5-14): Thiên Chúa, Đấng trung tín trong tình yêu.
Dù dân Chúa chọn đã được Ngài
dẫn dắt, che chở, chăm sóc, hằng ngày, nuôi họ bằng manna (x Xh 16,4t), và nước
tinh khiết từ tảng đá chảy ra (x Xh 17,6), thế mà họ luôn làm phiền lòng Chúa như
những người vợ bội tình, nhưng Ngài vẫn không ruồng rẫy họ, thậm chí dù núi có
dời, đồi có chuyển, tình yêu Thiên Chúa vẫn không đổi thay. Ngài lấy ân lộc che
chở, như lấy ngọc thạch, đá quý xây thành tường lũy bao bọc họ, để không sự dữ
nào ám hại dân Ngài; Những ân lộc lớn lao ấy không sánh bằng người Kitô hữu mỗi
ngày nhờ tham dự Phụng Vụ Hội Thánh cử hành được mặc lấy Chúa Kitô (x Gl 3,27),
nên được ở trong vòng tay yêu thương, chăm sóc, gìn giữ của Chúa Cha và Chúa
Con, không sự dữ nào giựt người đã thuộc về Chúa khỏi vòng tay Thiên Chúa toàn
năng được (x Ga 10,27-30).
“Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã
thương cứu vớt” (Tv 30/29,2a: Đáp ca).
5- Qua Bài đọc V (Is 55,1-11): Thiên Chúa làm cho ta no thỏa sự
sống.
Như một người khát nước, khát
sữa, khát rượu, mà được hưởng dùng đầy cao lương mỹ vị, không phải trả đồng nào.
Đó chỉ là hình ảnh tiên báo tiệc Thánh Thể. Ai đến tham dự, thì được Hội Thánh
tưới Lời Chúa vào tâm hồn, hơn nước mưa thấm xuống đất phát sinh sự sống,vì còn
được rước Lễ, thì chính Chúa Giêsu Phục Sinh canh tân đổi mới tâm hồn. Cụ thể được
Ngài biến tội ra ra ơn (x Rm 5,20), biến chết ra sống (x Ga 6,35-40). Đến như “ai được ở trong Chúa Giêsu thì không còn bị
lên án nữa, cho dù thân xác họ có chết vì tội đã phạm, Thánh Thần cũng làm cho
họ được sống, vì họ đã được trở nên công chính trong Chúa Giêsu” (x Rm 8,1.
10).
Bởi thế ngôn sứ Isaia động
viên: “Các bạn sẽ vui mừng múc nước tận
nguồn ơn cứu độ” (Is 12,3: Đáp ca).
6- Qua Bài đọc VI (Br
3,9-15. 32-4,4): Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan.
Người ta
thường nói: “Khôn sống, dại chết!” Ai được kết hợp với Chúa Giêsu Phục Sinh ,
chính là kết hợp với “KHÔN NGOAN”, Ngài hướng dẫn cách thi hành Luật Chúa, như
“KHÔN NGOAN” đã sắp đặt vạn vật, và điều khiển muôn loài theo ý Thiên Chúa. Bởi
đó khi ta phải đương đầu với nghịch cảnh vì làm chứng cho Tin Mừng, mà bị điệu
ra tòa án, lúc ấy Chúa Giêsu ban Thánh Thần để Ngài dạy ta nói điều phải nói
trước mặt vua chúa quan quyền (x Lc 12,11-12).
Bởi vì “Chúa mới có những Lời đem lại sự sống đời
đời” (Ga 6,68c: Đáp ca).
7- Qua Bài đọc VII (Ed 36, 16-17a. 18-28): Thiên Chúa quy tụ muôn dân và đổi mới lòng họ.
Chúa quy
tụ những kẻ ngỗ nghịch lại, Ngài ban Thần Khí trên họ, để Thần Khí sẽ đổi quả
tim chai đá của họ bằng quả tim biết yêu thương. Với trái tim ấy, họ biết lắng
nghe và tuân giữ Lời Chúa! Đan cử ông Phaolô vốn
dĩ là kẻ có trái tim hung ác, đi bách hại người Công Giáo vô tội (x Cv 9), được
Chúa chộp lấy, đổi trái tim ông nên giống con tim Chúa Giêsu (x Pl 2,5), để ông
trở thành Tông Đồ tập họp muôn dân vào Hội Thánh (x Gl 2).
Vậy “lạy Chúa, xin tạo cho con một tấm lòng trong
trắng” (Tv 51/50,12a: Đáp ca).
8- Qua Bài đọc VIII (Rm 6, 3-11): Để cụ thể con người đón nhận được ơn cứu độ, thánh
Phaolô kêu mời tất cả những ai đã tin vào Chúa Giêsu Phục Sinh qua việc lãnh
nhận Bí tích Thánh Tẩy, thì không được sống cho chính mình nữa, mà sống nhờ, sống
với, sống cùng Đức Kitô qua ba lần trầm mình vào nước hay ba lần được đổ nước,
tương ứng với ba lần trong đời Đức Giêsu tự hủy diệt (nhập thể, phép rửa, thập
giá), để một khi cùng chịu khổ với Đức Kitô, thì cùng được chia phần vinh hiển
với Ngài! Vì “gieo xuống thì hèn hạ, mà
trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo
xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,43-44).
Vậy ta hãy “tạ ơn Chúa, vì Chúa nhân
từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118/117,1: Đáp ca).
THUỘC LÒNG.
Nếu Đức Kitô
không sống lại, ai tin vào Ngài, họ là kẻ khốn nạn nhất trên đời! (1Cr 15,17-19).
http://phaolomoi. net
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH