CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN - A
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN - A
MỤC LỤC
23. Lòng tốt của Thiên Chúa Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
24. Lòng quảng đại của Thiên Chúa Lm Giuse Đinh lập Liễm
27. Lòng tốt của Thiên Chúa Lm Trọng Hương
29. Thái độ mới đối với anh chị em... Lm. Phêrô Lê
văn Chính
30. Vui với người vui Lm.Jos
Tạ Duy Tuyền
31. Lòng tốt của Thiên Chúa Lm
Giuse Nguyễn Hữu An
32. An bài Lm. Giuse Trần Việt Hùng
33. Chủ vườn nho Sưu tầm
34. Nếu bạn yêu thương .... Sưu tầm
35. Ghen ti Sưu tầm
36. Thiên Chúa nhân hậu với mọi người catholic.org.tw
1. Sự
công bằng của Chúa
Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã khẳng định: tư tưởng của Ta
không phải là tư tưởng của các ngươi và đường nẻo của Ta cũng không phải là
đường nẻo của các ngươi. Với dụ ngôn những người thợ giờ thứ mười một, Chúa
Giêsu đã cho chúng ta thấy sự khác biệt giữa đường lối và cách cư xử của Chúa.
Thật vậy, một người chủ thuê thợ vào làm trong vườn nho của
mình. Những người thợ này được thuê vào những giờ giấc khác nhau. Những người
được thuê vào sáng sớm với giá thoả thuận là một quan tiền một ngày. Những
người thợ khác thì được thuê vào giờ thứ ba, giờ thứ sáu và giờ thứ chín. Nhưng
cũng có những người được thuê vào giờ thứ mười một, nghĩa là vào một thời điểm
rất muộn. Tuy được thuê vào các giờ khác nhau, nhưng họ lại kết thúc công việc
trong cùng một lúc. Như thế, số giờ làm việc có khác nhau, nhưng số tiền mọi
người lãnh được lại bằng nhau, kẻ đến sớm cũng như người tới muộn, mỗi người
đều nhận được một quan tiền, theo sự thoả thuận giữa ông chủ và những người thợ
được thuê sớm nhất. Cách đối xử của ông chủ đã làm cho những người đến muộn vui
mừng, nhưng lại tạo nên sự bất mãn nơi những kẻ được thuê từ sáng sớm. Bất mãn
vì không được hơn người tới muộn, mà cũng có thể là bất mãn vì người tới muộn
cũng được lãnh như mình. Và ông chủ đã trả lời cho những kẻ bất mãn về lý do
hành động của ông như sau: Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn hay sao?
Những ám chỉ của dụ ngôn thật rõ ràng: Ông chủ tượng trưng cho
Thiên Chúa. Những người thợ được thuê từ sớm là những người Do Thái. Còn những
người thợ giờ thứ mười một là tất cả các dân tộc khác, được gọi là dân ngoại.
Dụ ngôn là câu trả lời của Chúa Giêsu cho những người biệt phái và Do Thái,
từng kêu trách về sự ưu đãi của Chúa đối với những người họ gọi là dân ngoại.
Đồng thời qua đó Chúa Giêsu còn cho chúng ta thấy rõ lòng nhân từ của Thiên
Chúa thì vượt lên trên tất cả những loại trả công của nhân loại. Tuy nhiên,
không phải vì thế mà hành động của Ngài lại mang tính cách tuỳ tiện và bất chấp
sự công bằng. Đối với Nước Trời, không có vấn đề buôn bán hay trả giá, mà hoàn
toàn chỉ vì lòng nhân từ và thương xót của Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Là những người thuộc về một gia đình đạo
gốc và bản thân vốn lại là người siêng năng sốt sắng, trung thành tuân giữ mọi
điều răn, có thể là từ nhỏ cho tới lớn, chúng ta nhiều khi tự cho mình cái
quyền được hưởng những ân huệ của Chúa hơn những người khác, nhất là những
người chẳng hề biết đạo và thực hành đạo như chúng ta. Tuy nhiên chúng ta cần
lưu ý một điều: Thiên Chúa là Đấng yêu thương và Ngài đối xử với mỗi người
chúng ta quá lượng chúng ta có thể mong ước và mường tượng ra được. Bởi đó thái
độ căn bản sẽ là cõi lòng biết ơn và vui mừng trước những gì Thiên Chúa ban cho
người khác, cũng như ban cho chính bản thân chúng ta.
2. Chủ
vườn nho.
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự kiện cụ thể xuất phát từ
đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách giáo huấn: Nào là mùa nho
tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp không có công ăn việc làm.
Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống tối thiểu. Từ đó, Chúa
Giêsu đã kể lại câu chuyện dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài
muốn làm cho chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu
các ông chủ trên trái đất này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền.
Còn Thiên Chúa, Ngài không có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài
đứng ở bên kia sự công bằng của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi
những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công tương
xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với sức cố gắng của một giờ, lẽ
công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, và cũng
không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân
từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng, Ngài có khả năng vô biên.
Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân từ của Chúa còn đi xa hơn
điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa cần tới các tay thợ để
hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng tối thiểu được bảo đảm nếu họ
quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có
tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi cách suy nghĩ về Thiên
Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời buổi hiện nay, một thời
buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với những tư tưởng của loài
người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân từ, và khía cạnh chính
yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị ràng buộc bởi bổn phận
và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì không bị ràng buộc bởi
kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp trả, một sự ban phát
hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết đón nhận mà thôi. Hơn
nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy nghĩ cũng như nếp sống
của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái sửng sốt vì nó đặt người
ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Đồng
thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc nhiên, bởi vì chính chúng ta
cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi
hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản duy nhất của lòng nhân từ Chúa.
Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những anh em ngoại giáo, không phải
những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn những gì do lòng nhân từ của Chúa
gợi ra.
3. Chiến
thắng lòng ghen tị – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Cuối ngày, những người thợ vườn nho đi làm từ sáng sớm, đã được
lãnh tiền công đúng như đã thoả thuận với chủ từ đầu, thế nhưng họ vẫn không
hài lòng, lại còn lẩm bẩm kêu trách chủ vườn đã cho những người đến làm sau
được hưởng đồng lương bằng họ. Họ tỏ ra bất bình và ghen tị với các đồng nghiệp
chỉ vì những người nầy ít tốn mồ hôi hơn mà cũng được hưởng tiền lương bằng
mình.
Lòng ghen tị đã xuất hiện từ khởi thuỷ loài người. Cain ghen tị
với Aben là người em yêu quý của anh chỉ vì lễ vật của Aben được Chúa thương
chấp nhận, còn lễ vật của anh thì bị Thiên Chúa khước từ. Lòng ghen tị đã xui
khiến Ca-in đánh chết em.
Theo sách Samuen, Đavít là vị anh hùng tài hoa trẻ tuổi đã lập
được chiến công oanh liệt, cứu nguy cho dân quân Israel bằng cách giao chiến
một-chọi-một với tên Gô-li-át khổng lồ thuộc phe Phi-li-tinh, hạ gục y chỉ bằng
một phát ná bắn đá và dùng chính thanh gươm của y mà chặt đầu y. Thế rồi quân
Israel thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, tràn lên giết hại rất nhiều quân
Phi-li-tinh thù nghịch.
"Khi Đavít thắng trận trở về, phụ nữ từ hết mọi thành của
Israel kéo ra, ca hát múa nhảy, đón vua Sa-un, với trống con, với tiếng reo
mừng và tiếng não bạt. Họ ca hát rằng: "Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, ông
Đavít hàng vạn".
Thế là từ lúc ấy, lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un,
khiến nhà vua phóng giáo vào Đavít đang khi Đavít gảy đàn cho vua nghe. May
thay Đavít kịp né mình thoát chết trong gang tấc. Rồi sau đó, vua lùng sục
Đavít tận thâm sơn cùng cốc, quyết hạ sát cho bằng được vị anh hùng kiệt xuất
nầy. (Samuen I, chương 17-18)
Qua trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu ám chỉ đến lòng ghen tị
của những người biệt phái đối với những người thu thuế và tội lỗi vì những
người nầy được Chúa Giêsu yêu thương và tiếp đón.
Người ta không muốn cho người khác trội hơn mình và thậm chí
không muốn cho người khác được bằng mình. Ai cũng muốn mình nổi bật hơn, chói
sáng hơn, vinh quang hơn người khác. Khi khát vọng nầy không được thoả mãn, và
nhất là khi thấy người khác thành công, thắng lợi hơn mình, thì lòng ghen tị
phát sinh.
Lòng ghen tị làm xấu đi những tương quan tốt đẹp vốn có giữa anh
em bạn bè. Lòng ghen tị còn xui khiến người ta làm hại nhau, làm cho xã hội
chậm tiến và kém phát triển.
Làm sao dập tắt được lòng ghen tị? Nó vẫn chế ngự và tiếp tục
khống chế con người cho tới khi nhắm mắt tắt hơi.
Muốn thoát ra khỏi sự khống chế của lòng ghen tị, chúng ta cần
sáng suốt nhận thức hai điều nầy:
1. Sự may lành của người, sự thành công của người khác luôn mang
lại lợi ích cho chúng ta.
Thế giới nầy cần phải có nhiều người tài giỏi hơn bạn và tôi,
càng nhiều càng tốt. Nếu ai cũng chỉ có khả năng bằng bạn và tôi thôi thì làm
gì có máy bay, có TV, có điện thoại di động và máy tính!...
Xã hội nầy cần phải có nhiều người giàu có hơn bạn và tôi. Nếu
ai cũng nghèo như bạn và tôi thì lấy đâu ra vốn để đầu tư và phát triển và thế
là quốc gia còn lâu mới thoát cảnh lạc hậu nghèo nàn.
Đất nước nầy cần có nhiều người trí thức hơn, thông thái hơn,
khôn ngoan hơn bạn và tôi. Nếu ai cũng nông cạn và thiển cận như tôi thì làm gì
có văn minh và tiến bộ.
Vậy thì hãy cầu mong cho có nhiều người trỗi vượt hơn ta về
nhiều phương diện chứ đừng cầu mong người khác thua ta hoặc bằng ta, bởi vì:
"con hơn cha thì nhà có phúc; sau hơn trước thì nước văn minh".
2. Tất cả mọi người làm nên một thân thể.
Qua Thánh Phaolô, Thiên Chúa bày tỏ cho nhân loại biết rằng muôn
người trên thế gian cũng chỉ là một:
"Thật vậy, ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại
có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân
thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay
Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí
để trở nên một thân thể" I Cr 12, 12-13)
"Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ
cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I
Cr 10, 17)
"Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc
các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho
các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người biết mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô
Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người
Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa."
(Ep 3, 5-6)
Xin cho mọi người hiểu rằng mỗi người là một tế bào trong cùng
một thân thể lớn lao là nhân loại. Nói khác đi, mỗi người chúng ta là một bộ
phận trong thân mình nhân loại. Người nầy là tim, người khác là gan, người kia
là phổi... Nếu trong thân thể nầy, quả tim mạnh lên thì các bộ phận khác phải
mừng cho tim và mừng cho toàn thân, hà cớ gì phải buồn, vì nhờ tim mạnh mà toàn
thân được khoẻ. Tim suy yếu hay ngừng đập thì toàn thân còn gì?
Tương tự, nếu như phổi mạnh lên thì toàn thân phải mừng cho
phổi, sao lại ghét ghen, vì nhờ thế mà cả cơ thể khoẻ mạnh an lành; chứ nếu
phổi lủng, phổi nám thì toàn thân cũng phải liên quan.
Vì thế, thay vì ghen tị trước những thành công của người khác,
ta hãy vui mừng hân hoan, vì sự thành công của họ đem lại nhiều lợi ích cho ta
và cho toàn thể mọi người;
Vì thế, thay vì buồn phiền khi có nhiều anh chị em bè bạn chung
quanh vượt lên khỏi ta mà tiến tới, ta hãy thành thật chúc mừng vì nhờ thế đất
nước nầy sẽ được tiến bộ, văn minh hơn.
4. Ghen tương
– Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Ca dao Việt Nam có câu:
"Ớt nào mà ớt chẳng cay
Gái nào mà gái chẳng hay ghen chồng"
Ghen tương, tị hiềm là một mầm giống bệnh tật nằm trong bản tính
con người. Từ nguyên thủy đã có ghen tị. Cain vì ghen mà giết Aben, bởi em cậu
đẹp lòng Thiên Chúa. Các anh em con của Giacob ghen với Giuse vì em được cha
thương nên bán em qua Ai cập làm nô lệ. Vua Saolê ghen với Đavít vì dân chúng
tín nhiệm Đavít, nên Saolê hai lần lấy đao phóng đâm vào Đavít. Đavít ghen với
Uria. Vì ông có vợ đẹp nên Đavít đã hãm hại Uria để chiếm đoạt vợ của ông.
Có nhiều người ghen và cũng có nhiều chuyện để ghen. Ghen tương
thường đi đến kết thúc thật bi thảm. Thù oán, giận hờn và đôi khi giết hại lẫn
nhau mà vẫn không áy náy lương tâm.
Chắc hẳn chúng ta còn nhớ vụ kiện hai bà mẹ giành nhau đứa con
trước tòa của Salômôn. Một bà nói: Hai chúng tôi ở cùng một nhà, nhưng con của
bà ta bị chết vì bà nằm đè phải đứa con nên nó bị chết. Nửa đêm bà này thức dậy
đánh tráo con tôi". Nhà vua vung gươm sáng loáng ra lệnh chặt đôi bé còn
sống để chia cho mỗi bà một nửa. Nghe vậy, người mẹ thứ hai thưa rằng:
"Xin bệ hạ trả cháu nhỏ cho bà kia, đừng giết cháu tội nghiệp". Bà
thứ nhất thưa: "Cháu bé không phải của chị cũng không phải của tôi. Cứ
phân đôi là công bằng". Nhà vua liền trao cho người mẹ xin đừng giết đứa
bé, vì đó là người mẹ thật.
Quả thực lòng ghen đánh mất tính người: "Không ăn thì hắt
đổ đi". Lòng ghen tương cũng mất tình liên đới với tha nhân, không chấp
nhận người khác hơn mình. Và càng không chấp nhận người khác có mà mình lại
không có."Trâu buộc ghét trâu ăn" là thế. Kẻ ghen tị không hề nghĩ
tới trách nhiệm về lời mình nói, việc mình làm có tổn hại đến tha nhân hay
không? Kẻ ghen tị càng không có công lý và tình thương, họ chỉ mưu toan hạ bệ,
chà đạp và làm hại người khác. Với cá nhân, ghen tị biến thành kẻ ác nhân, nơi
đoàn thể biến thành kẻ giả hình. Bề ngoài niềm nở tay bắt mặt mừng... nhưng
trong lòng lại "một bồ dao găm", chỉ toan tính hại người.
Ở Ấn Độ có dụ ngôn như sau: Trong triều đình có hai vị quan. Một
người thì ganh tị, một người tham lam.
Để chữa trị những tật xấu ấy, vua cho triệu vời cả hai vào triều
đình. Nhà vua loan báo sẽ thưởng công xứng đáng cho cả hai người vì đã có công
phục vụ nhà vua nhiều năm qua. Họ xin gì được nấy. Tuy nhiên người nào mở miệng
trước thì sẽ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Cả hai viên sĩ quan lặng thinh ngẫm nghĩ. Kẻ tham lam thầm nghĩ
rằng. Nếu tôi nói trước thì sẽ được ít hơn, còn người ganh tị thì lý luận, tội
vạ gì mà mình xin trước để tên kia lãnh gấp đôi. Cứ như thế chẳng ai dám xin
trước. Cuối cùng nhà vua phải yêu cầu người ganh tị nói trước. Hắn bèn dõng dạc
tuyên bố: "Nếu thế thì xin vua cho tôi được chặt đứt một cánh tay để tên
kia bị gấp đôi". Sự ganh tị đã đánh mất tình người. Con người dễ dàng trở
thành kẻ thù của nhau chỉ một miếng ăn, một chén gạo...
Dụ ngôn hôm nay muốn nói với chúng ta rằng đừng có ganh tị tham
lam ích kỷ. Hãy tập "có sao chịu vậy" và tốt nhất là hãy vui mừng vì
sự thành công của tha nhân. Đây là cách chiến thắng lòng tham lam, bất mãn, càm
ràm than phiền vô cớ. Hãy tập nhìn đời, nhìn người một cách lạc quan, vui tươi
hơn là soi mói, tọc mạch chuyện người khác, rồi bất mãn đời, bất mãn người mà
nguyên nhân chính chỉ vì ghen tương.
Hãy coi người thợ làm từ đầu giờ và người thợ được mời vào giờ
cuối cùng ai xứng đáng được thưởng một quan tiền. Người thợ từ giờ đầu chịu
nắng nôi vất vả, cực nhọc, còn người được gọi vào giờ cuối thì âu lo thất
nghiệp, vợ con cằn nhằn. Ai cũng có nỗi khổ riêng. "Thuyền càng to sóng
càng lớn". Mỗi người đều có mối lo lắng riêng. Điều quan yếu Chúa muốn
chúng ta là hãy nhìn vào tình thương của Chúa đang dành cho bạn, cho tôi. Mỗi
người Chúa ban một khả năng. Mỗi người một hoàn cảnh. Mỗi người một cuộc sống
khác nhau hãy biết nhận ra ân huệ và tình thương của Chúa đang che phủ trên
cuộc đời chúng ta. Amen.
5. Ca tụng
hay kêu trách
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc – SJ.)
Dụ ngôn của Đức Giêsu, về những nhóm thợ khác nhau được mời gọi
đi vào làm việc trong vườn nho, mặc khải cho chúng ta một cách tuyệt vời về
cung cách hành động của Thiên Chúa, và về khó khăn sâu xa có nơi mỗi người
chúng ta, khi đối diện với cung cách hành động này.
1. “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia…”
Trước hết, Thiên Chúa được ví như ông chủ vườn nho, hành động
giống như bao ông chủ vườn nho khác: sáng sớm ra khỏi nhà để đi tìm thợ, thỏa
thuận về thời gian và tiền công (mỗi ngày một quan tiền) và sai họ đi vào làm
việc trong vườn nho của mình. Ở bước này, cho dù là tương quan giữa ông chủ
vườn và người làm công xem ra rất bình thường và công bằng, nhưng những người
làm công vẫn được mời gọi nhận ra việc làm của mình là một điều may mắn, thậm
chí là một ơn huệ, và nhất là nhận ra lòng tốt của ông, khi ông đich thân ra
khỏi nhà để đi tìm người thợ, thay vì người thợ đi tìm ông chủ đề “xin việc”.
Chúng ta có nhận ra hiện hữu, cuộc đời, ơn gọi gia đình hay tu
trì của chúng ta là một ơn huệ không? Chúng ta có nhận ra lòng tốt của Chúa để
luôn tạ ơn và ca tụng Ngài không? Và để sống và làm việc trong tâm tình tạ ơn
và ca tụng không? Hay chúng ta coi tất cả những ơn huệ nhưng không này như một
thứ “quyền lợi”, để đòi hỏi Thiên Chúa, để so bì và ganh tị với nhau? Nhưng khi
đòi hỏi và ganh tị, chúng ta dựa vào điều gì, phải chẳng là công lao hay thành
tích của chính chúng ta?
2. “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho” (c. 3-7)
Thực vậy, phần tiếp theo của dụ ngôn, mỗi lúc một mạnh mẽ và
vượt quá cách hành động thông thường của một người chủ, có thể có trong kinh
nghiệm sống của chúng ta, nhấn mạnh đặc biệt đến chiều kích ơn huệ và lòng tốt
khác thường của ông chủ: giờ thứ ba (9 giờ sáng), ông lại ra khỏi nhà đi tìm
thợ; giờ thứ 6 (12 giờ trưa), ông lại đi nữa; rồi giờ thứ 9 (3 giờ chiều), ông
lại đi nữa; và đây là tột đỉnh của sự khác thường, vào giờ thứ 11 (5g chiều),
ông vẫn ra khỏi nhà đi tìm thợ làm việc!
Nếu trong những trường hợp trước, ông chủ chỉ hứa trả công một
cách hợp lí: “Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp
lẽ công bằng”, thì trong trường hợp sau cùng, ông chỉ mời gọi đi làm việc: “Cả
các anh nữa, hãy đi vào vườn nho”. Như thế, được hiện diện trong vườn nho là
một ơn huệ hoàn toàn nhưng không, diễn tả lòng tốt của ông chủ; và điều này
cũng đúng với những trường hợp trước và phải được nhận ra và được ngợi khen bởi
những người thợ đi vào trước, và kể cả những người vào làm việc đầu tiên nữa.
Tuy nhiên, câu chuyện của dụ ngôn, vốn diễn tả sự thật về chính
chúng ta, lại diễn biến theo hướng lòng ghen tị và lời kêu trách, thay vì theo
hướng chúc mừng và ca tụng. Dân Chúa đã kêu trách và ghen tị trong sa mạc (x.
Ds 21,4-9, bài đọc I của ngày lễ Suy Tôn Thánh Giá); và loài người và mỗi người
chúng ta được mời gọi nhận ra bản thân mình nơi Dân Chúa.
Như thế, đúng ra những trường hợp trước phải được hiểu dưới ánh
sáng của trường hợp sau cùng, để nhận ra lòng tốt của ông chủ được thể hiện từ
đầu đến cuối. Vì, nếu hiểu ngược lại, nghĩa là các trường hợp sau được hiểu
dưới ánh sáng của trường hợp đầu tiên, người ta sẽ hiểu lệch lạc về ông chủ và
về người khác: từ đó, phát sinh thái độ kêu trách và ganh tị.
3. “Bắt đầu từ những người vào làm sau chót…”
Và dường như ông chủ cố ý làm cho lòng ghen tị và lời kêu trách
lộ diện, khi ông trả công, đúng hơn là ban phát, cách quảng đại cho người đến
làm việc sau cùng, trước mắt mọi người:
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: Anh gọi thợ lại
mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào
làm trước nhất.
Bởi vì, làm cho cái xấu lộ diện, chính là cách tốt nhất để chữa
lành. Thực vậy, khi đến lượt nhóm thợ đầu tiên đến lãnh tiền công, họ được nhận
đúng với lời thỏa thuận của ông chủ và của họ và điều này làm bật lên sự khác
biệt giữa họ và những người khác. Nhưng thay vì họ chúc mừng những người đến
sau (vì họ làm ít hơn mình, nhưng lại nhận được nhiều như mình) và ca ngợi lòng
tốt của ông chủ (ông chủ không chỉ trà công sòng phẳng, nhưng còn ban phát rộng
rãi cho người khác, theo lòng tốt của mình), họ vừa lãnh công và vừa cằn nhằn:
Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ
ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại
còn bị nắng nôi thiêu đốt.
Trong lời này, hàm chứa hai thái độ: so sánh mình với người
khác: “mấy người sau chót này”, và kêu trách ông chủ: “thế mà ông lại…”. Lời
kêu trách của họ dựa trên những sự kiện rất khách quan và rất đúng: họ làm việc
nhiều hơn và vất vả hơn người khác; nhưng người khác lại được hưởng bằng họ!
Nhưng rất tiếc, những điều rất đúng và rất khách quan này lại được nhìn bằng
con mắt ghen tị! Và vì ghen tị, nên trở nên mù quáng, không mở ra để nhận ra
những sự kiện lớn hơn và đúng hơn: người khác thật may mắn và ông chủ thật tốt
lành, để chúc mừng họ và ca ngợi ông chủ, đê đi vào trong niềm vui của người
ban phát và của người lãnh nhận. Và vì ghen tị, nên cũng mù quáng với chính
những gì mình đang có, bởi lẽ điều mình dang có không phải là quyền lợi, nhưng
là ân huệ, và vì người lãnh nhận không chỉ là người khác, nhưng cũng là chính
bản thân mình. Mình có niềm vui, nhưng lại tự biến niềm vui của mình thành nỗi
buồn, gây chết chóc, cho mình và cho người khác.
* * *
Xin cho Lời Chúa, là Lời sẽ dẫn chúng ta đến “Lời Thập Giá” (x.
1Cr 1,18) chữa lành đôi mắt của chúng ta, khi chúng ta “nhìn lên Đấng họ đã đâm
thâu” (Ga 19,37); bởi vì nơi Thập Giá, chúng ta vừa nhìn thấy hệ quả khủng
khiếp của thái độ ghen ghét (nhìn thấy để được chữa lành), và vừa nhận ra tình
yêu đến cùng của Chúa dành cho loài người và từng người chúng ta (để ca tụng Chúa,
thay vì kêu trách).
6. Đừng
so sánh.
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về nhà đất mỗi ngày một gia
tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà hôm nay có thể trở thành
tài sản lớn.
Có một bác nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng:
Theo thời giá, miếng đất của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi
có người đến trả cho bác những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó, người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất
của bác mà cũng được hai mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự
lại người mua hai miếng đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:
- Này bác, bộ tôi phỉnh gạt bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với
tôi hai mươi lăm cây sao? Hay là bác ganh tị vì tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay và tự
hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong cuộc sống, đám thợ trước được
sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng cho hạng người nào?
Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được thuê sau là những kẻ tội
lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và đã sám hối ăn năn. Còn
những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ vì thấy những kẻ tội
lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần thưởng y như họ. Thái độ
của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên tiếng chỉ trích Chúa, vì
Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào những giây phút cuối cùng:
- Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.
Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta nhận thấy: rất nhiều lần
chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh giống như họ. Chúng ta cảm
thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi
hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta. Chúng ta đã ghen tị với họ.
Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm phải một sai lầm lớn là đã
xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ không phải theo những tiêu
chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với đường lối của thế gian, như
lời thánh Phaolô diễn tả:
- Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem là vô nghĩa để
làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế gian cho là yếu
nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều thiện họ chê bai,
khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.
Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một chiếc màng nhện cũng có
thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho chúng ta ẩn náu. Và như
thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình với người khác mà hãy
chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:
- Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình. Nếu là tốt thì
có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với điều người khác đã
làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại không phải là những
gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế nào trong vườn nho
của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì về chúng ta và
nhất là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc cuộc đời chúng
ta.
7. Lý lẽ
của trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Khi nghe dụ ngôn này
có nhiều người thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm
ít cũng bằng người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ
ngôn. Dụ ngôn không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện
dùng làm hình ảnh để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có
ý dạy về những kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời.
Những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ
thứ mười một’ này là:
1)
Chúa yêu thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ.
Vườn nho tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được
thuê là người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước
Chúa. Hình ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu
thương. Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm
một lần mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê
vào buổi sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng
hơn người, thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người
kém may mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi
người từ sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi
đến những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên
lòng yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi
người được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2)
Hạnh phúc Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu
gọi thì không ai có thể được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu
Chúa không ban hạnh phúc Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được.
Việc Chúa ban thưởng cho những người được thuê mướn cuối cùng trước những người
được thuê mướn đầu tiên làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban.
Ân huệ phát xuất từ tình thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế
chẳng ai có quyền đòi hỏi. Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước
của ta. Hiểu biết điều này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3)
Chúa yêu thương và mong ta biết yêu thương như Chúa.
Những người thợ làm từ sáng sớm không có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì
đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ kêu trách vì thấy người làm ít cũng được
như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu
rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại
sao không vui mừng vì những anh em kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào
phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy ta hãy biết yêu thương những người kém
cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người
bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh khi biết quan tâm tới những người kém
may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công.
Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình
người.
Qua dụ ngôn này ta
thấy tư tưởng của Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước
Trời khác hẳn cách cư xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận
của người đời. Không tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người
khác. Không trọng sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém
may mắn, bị bỏ rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của
con tim, một con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người.
Chúa mong con cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu
thương như Chúa. Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy
Chúa, xin cho con hiểu được đường lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối
của Chúa. Amen.
GỢI
Ý CHIA SẺ
1) Công bình tuyệt đối
có làm cho con người hạnh phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2) Qua dụ ngôn này,
Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3) Nếu bạn là người
tàn tật, yếu ớt, thất bại, bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác
ái?
8. Suy niệm
của Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
TA CÓ CHẤP NHẬN ĐỂ CHO
PHÚC ÂM LÀM TA SỬNG SỐT HAY KHÔNG?
Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng dữ kiện trực tiếp có sẵn
trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện. Những dữ kiện đó là mùa nho
chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp trong một xã hội đang gặp
khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương xứng với mức sống tối
thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ ngôn và qua đó Chúa
muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu rằng Thiên
Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái đất này. Những
người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa,
Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người, vì Người
đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn ở những
gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền công
tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt một giờ,
lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ, cũng
không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng nhân
từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân từ
vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân từ đi xa
hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các tay
thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu được bảo
đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm nữa
nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải tránh suy
nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này thích đáng
một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là Kitô hữu đang
cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài người trong lúc
cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong
những dấu hiệu bên ngoài là lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở
một khía cạnh chính yếu của lòng nhân từ, đó là sự tự do. Chớ thì tôi không
được sử dụng của cải như sở thích của tôi sao? Sự công bằng không được tự do,
nhưng bị ràng buộc do bổn phận và những gì ta nợ người khác. Lòng nhân từ, trái
lại, không bị ràng buộc bởi khế ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu duy nhất,
phát xuất từ chính lòng nhân từ và thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo
ra nơi người thụ hưởng của ban phát bổn phận phải đền trả. Nó ban phát nhưng
không. Điều này không có nghĩa là nó không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ
đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi ở con người một hành động ý thức và tự
do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà có những ân huệ mà con người đang thụ
hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách thông thường qua những lời cám ơn
lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân từ của Chúa nói lên sự tự do của
Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người lúc đón nhận.
2) Trình độ Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài
người. Dụ ngôn làm người Biệt phái phải sửng sốt vì
nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái Israel trong
Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho cả ta cũng phải ngạc nhiên, bởi lẽ
trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong sự cố gắng hàng ngày của ta để sống
trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công nghiệp,
quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản độc
nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin Chúa ban cho ta cũng như cho anh em
ngoại giáo không phải những gì tương xứng với sự công bằng, nhưng những gì mà
lòng nhân từ của Người gợi ra.
9. Tôi đâu
có bất công.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc 15), chúng ta đã từng thấy
thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào nhà, vì anh thấy cha tỏ ra quá
bao dung đối với đứa em hư đốn, chẳng những cha tha thứ mà còn mở đại tiệc ăn
mừng.
“Đã bao năm con hầu hạ cha? thế mà chưa bao giờ? còn thằng con
của cha đó... Vậy mà...”
Anh thấy mình bị cha đối xử bất công!
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm cũng cằn nhằn vì ông chủ
trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng.
Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng thẳng có thực do việc Đức
Giêsu thường giao du với tội nhân. Ngài quý trọng từng con chiên lạc, đem đến
cho họ niềm vui sống và sự tự tin. Ngài mời họ hoán cải và hứa ban cho họ Nước
Trời.
Như thế, rốt cuộc những người Do Thái tội lỗi cũng được hưởng
hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li Lề Luật.
Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của Đức Giêsu. Họ cảm thấy
quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Khi nhìn thái độ bực bội của người làm từ sớm, chúng ta hiểu
được thế nào là ghen tỵ.
Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn nho không phải vì ông đã đối
xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền lương mà), nhưng vì ông đã trả
cho người làm sau ngang hàng với họ, là những kẻ vất vả suốt ngày. Nếu ông trả
cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ khó chịu.
Người ghen tỵ không vui được với người vui vì họ không biết yêu
thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là bạn, nên sự thành công
của ai đó trở thành nỗi đe dọa.
Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về Thiên Chúa.
Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ.
Ngài có trái tim để tự do yêu, có lòng tốt để bất ngờ trao tặng,
Thiên Chúa là Thiên Chúa của người trộm lành, là chủ của người thợ chỉ làm có
một tiếng.
Thiên Chúa công bình lại là người cha đầy yêu thương.
Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân, bớt tự hào về
mình, thêm trân trọng người khác, phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen
tương.
Đến khi nào người con cả mới chịu vào nhà để niềm vui của cha,
của em là của anh?
Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết chia vui cùng người mới
làm buổi chiều?
Đến khi nào tôi mới thật sự vui với người kế bên chỉ vì người ấy
là bạn tôi?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben. Người ganh tỵ vừa hủy diệt
người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn nuôi lòng ganh tỵ, ghét
ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
Bạn thấy “vui với người vui” dễ hay khó? Có khi nào bạn vui
trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn không ưa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính mình, nhưng xin cho quả tim
con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình cảm tầm thường để mặc lấy
tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong sáng, không một biến cố nào
làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành công, cũng đừng quá bối rối
khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có thể ôm cả những người
thù ghét con.
10. Công bằng
hay bác ái?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis
Evely đã kể một câu truyện sau đây:
Trong một vở kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh
ngày phán xét chung theo như ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào
thiên đàng, chật ních, chen lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi
hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như
Thiên Chúa cũng tha thứ cho mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một
mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất
mãn… “Vậy thì cần gì phải hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi
đã ăn chơi cho đã đời…”. Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên
Chúa và cũng chính lúc đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét
xử lấy họ, đã tự tách mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện
cho họ, nhưng họ đã từ chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận
cái thứ thiên đàng mà người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho
hết mọi người. Tôi không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì
họ không thích Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới
làm những chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận
những chuyện bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai trong chúng ta cũng bị chưng
hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà Chúa Giêsu diễn tả trong dụ ngôn
của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của
chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông
chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức
Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao ông chủ lại trả công cho mọi người
bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã
làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả
lời của ông chủ làm cho những công nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục:
“Này anh, tôi đâu có xử bất công với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công
nhật là một đồng sao? Cầm lấy phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người
làm sau chót cũng được bằng anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh
tị vì thấy tôi đối xử rộng rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên
Chúa hành xử không theo sự công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót
và tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan
trọng là suy nghĩ và hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động
của chúng ta. Ngôn sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải
là tư tưởng của các ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta:
Trời cao hơn đất bao nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các
ngươi và tư tưởng Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình của loài người chúng ta:
người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ lãnh lương tí, thì hỏi
rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền để đủ nuôi sống gia
đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương xót, thông cảm cảnh
nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi người có công ăn việc
làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm việc bất cứ giờ nào,
và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau cũng như người đến
trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng
rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ, hẹp hòi của nhóm công
nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ bất công, vì không
chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm địa xấu xa của họ
càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông không đối xử với
người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương quan tình nghĩa
và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu chuyện dụ ngôn chính là cách ứng
xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa của chúng ta hành động như thế
đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi những người thu thuế, những người
bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ, những người tội lỗi, vào Nước Trời
một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì công trạng gì xứng đáng của họ.
Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh tị kêu trách Chúa bất công,
giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca trách móc Chúa. Lòng thương
xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không trừ mộ ai, vì bản chất của
Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và bị “sốc”trước cách hành xử
Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng như những công nhân làm
việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa Thiên Đàng trong vở kịch
Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh: “Sao! Những tên đã sống một
cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được Chúa tha sao? Thậm chí những
kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối cải, cũng xứng đáng được hưởng
Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời sao? Tên gian phi bị treo trên
thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên Đàng sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật rộng lượng, nhân từ. Quả
thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện, hẹp hòi của chúng ta. Chúng
ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của chúng ta. Chúng ta nhìn
người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có, để bực tức, ghen
ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp hòi, khắt khe, độc
ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái. Công bằng mà không có
bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối thiểu của công bằng,
chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau được, cuộc sống mới chan
hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với anh em, Thiên Chúa sẽ cứ
theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi, biết thương xót người,
thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương. Thiên Chúa luôn luôn
tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có thể tưởng tượng. Ước
gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên Chúa Tình Thương.
Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
11. Vì tôi tốt
bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối lời mời của Đức Giêsu ông
Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy: “Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy
chúng con sẽ được gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả lời khá dài. Họ sẽ được
xét xử các chi tộc Israel, được gấp trăm về mọi sự, và nhất là được hưởng sự
sống đời đời (Mt 19, 27-30). Như thế ở đây Nước Trời được coi như một phần
thưởng, một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh. Các môn đệ
cho đi, và rồi họ sẽ được lại. Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu chuyện
trên.
Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau, nhưng
bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa. Thiên Chúa
không phải chỉ là Đấng công bằng, thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả
cố gắng. Người còn là Đấng quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương. Dụ ngôn
về “người thợ giờ thứ mười một” cho thấy điều đó. Thật ra phải gọi dụ ngôn này
là dụ ngôn về “Ông chủ độ lượng”.
Trong thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và
trả công cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15). Lương công
nhật là một quan tiền (denarius), tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn
bản. Dụ ngôn hôm nay có nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích. Ông
chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn người, thay vì viên quản lý. Những người thợ
đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6) lại không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù
ông ra chợ nhiều lần. Chỉ nhóm thợ đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ
ràng, còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ trả “hợp lẽ công bằng” (c.4). Cuối cùng
ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập trung vào nhóm đầu và cuối. Dụ ngôn này trở
nên hết sức khác thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối
trước. Những người thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) cả ngày làm có một tiếng,
được trả một quan tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ
sáng sớm, “đã làm việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12). Nhưng
rốt cuộc những người thợ đầu tiên cũng chỉ được một quan tiền.
Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ để xem họ sẽ sửng
sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao. Có lẽ chúng ta cũng phản
ứng tương tự khi gặp chuyện như vậy. Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của
người anh cả khi biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư
hỏng. Đối với những người thợ, đây rõ ràng là một sự bất công. Bất công nằm ở
chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau. Nhưng ông chủ không cho đây là một
sự bất công, vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những câu đẹp nhất, những câu nói
lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa. “Tôi muốn cho người làm cuối này
như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như tôi đã cho anh, tôi muốn họ
bằng anh: đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên Chúa. Tình thương của Người phá
vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người làm nhiều, làm ít, công nhiều,
công ít. “Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều tôi muốn với tài sản của tôi
sao?” (c. 15). Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng rãi thi ân cho kẻ Người
muốn. Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình theo kiểu con người. Chẳng
ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng (c.12). “Hay mắt của anh
xấu xa vì tôi tốt lành” (c. 15). Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác
bằng mình, dù không đáng, ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người
khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt lành, đặc biệt trong cách
cư xử của Người đối với những tội nhân. Anh trộm lành trên thập giá cũng là
người thợ giờ thứ mười một. Anh được hưởng những gì mà người khác phải nỗ lực
cả đời. Nói cho cùng, vấn đề không phải là đáng hay không đáng. Chẳng ai xứng
đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh. Hạnh phúc Nước Trời là một ơn ban hơn
là một sự trả công hay phần thưởng. Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng có
tính mua bán của con người. Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha
tốt lành. Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời. Thậm
chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn. Ông chủ vườn nho thương
cả những người đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém
khả năng, kém may mắn hơn những người khác chăng? Người thợ giờ thứ mười một đã
làm được gì cho vườn nho của ông chủ? Chắc chẳng được bao nhiêu. Nhưng anh ấy
đã đứng chờ suốt ngày. Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ
mười một, “những người không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ vậy
thôi, suốt ngày, suốt đời, những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được
trả lương ra sao. chỉ biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ. Những người này
khác với những người làm từ sáng, biết chắc mình sẽ được trả công một quan
tiền.
Dụ ngôn không nói đến việc người làm cuối reo lên vì được trả
công hậu hĩ. Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên đàng đầy ắp những tiếng
reo như thế, kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân… Chẳng có ai vào thiên
đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của mình chỉ là
chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng. Người ta cũng sẽ
reo lên vì thấy sự có mặt của những người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên
thiên đàng được. Thiên Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người
còn thấy cả thời gian chờ. Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc.
Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm vui của Thiên Chúa, Đấng hạnh
phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất ngờ, vì lòng tốt của Ngài
không sao hiểu được. Hãy vui với những người được Chúa yêu, bất chấp quá khứ
của họ.
Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha đang vui.
Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa. Như thế chúng ta cũng sẽ thay đổi cách
cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở
nên đơn sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ
thấy Chúa hiện diện và hoạt động trong đời con. Sống giữa một thế
giới đầy lọc lừa và đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép
kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự hiền hậu để con biết cảm thông và
bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm nhu để con dám buông
đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm, vui
tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu
khổ đau. Amen.
12. Tự
do Thiên Chúa
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung giữa chủ nhà và Chúa tể vũ
trụ: Đó là sự tự do tối thượng.
1) Đây là sự tự do của chủ vườn nho:
Ông đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi những ai ông muốn, sau khi đã quyết
định phần thưởng và phân công.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự do khi lên tiếng kêu gọi.
Không một tạo vật nào tự hào có quyền trước mặt Chúa. Mà khi nói đến ơn gọi là
nói đến tự do. Giáo hội là một cộng đồng ơn sủng. Sau khi phạm tôi, tạo vật lại
được nghe thấy tiếng gọi ân sủng mà đáng lẽ tạo vật đã bị vất bỏ: Tạo vật không
hy vọng trở lại nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong hình ảnh sứ thần cầm gươm
canh cửa vườn địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như thế trong thư gửi giáo đoàn
Roma: Không có gì tuỳ thuộc vào ý chí hay hành động nhân loại, nhưng tất cả đều
tuỳ thuộc vào lòng từ ái Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài muốn. “Ta thương
Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành động của Thiên Chúa với người
thợ gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm thường hay quí giá. Người thợ hoàn
toàn tự do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài muốn: Người thì được gọi
từ trong lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác được gọi từ buổi thiếu thời,
người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên Chúa quyết định thời gian.
Thiên Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài muốn. Đức Kitô tuyên bố
với Phêrô: “Người khác thắt lưng con, rồi dẫn con đến nơi mà con không muốn”.
Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo từng người. Người thì được gọi vào giờ đau
khổ để được cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để nên thánh. Người thì được gọi cứu linh
hồn mình. Kẻ khác được gọi để cứu tha nhân. Những người khác nữa nhất là các
thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ mệnh giữa Giáo hội chẳng hạn, các vị
lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng phong trào canh tân và các nhà tư
tưởng…
Thiên Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ nói về công nghiệp và phần
thưởng theo cách bất toàn, và chính Đức Kitô theo sự tự do tuyệt đối của Ngài
đã gọi phần thưởng là ân huệ được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Tất cả những tính toán, những dự liệu pháp lý, những đòi hỏi,
những tham vọng, phải tan biến trước oai nghiêm và tự do của Tạo hoá.
Các tông đồ của Chúa Giêsu phải học biết điều đó bằng kinh
nghiệm riêng. Nếu họ đã không được gọi, họ đã sống cuộc đời vô nghĩa giống như
các ngư phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả sau khi đã được gọi làm
môn đệ, họ cũng chỉ như những người vô danh khác, nếu Đức Kitô không phân biệt
họ khỏi những người khác. Trong số các môn đệ, Simon đã chẳng trở thành Phêrô
nếu Chúa không tự ý thánh hiến ông thành vị thủ lãnh. Mặt khác, dù ngã quỵ
trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ sáu tuần thánh, tất cả đã đánh mất ơn gọi,
nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ tập lại, và sai đi truyền giáo, nhất là
đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã đánh mất chức vụ thủ lãnh, nếu Chúa
không ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba lần tuyên xưng lòng mến
này, Ngài lại trao cho ông quyền chăn dắt đoàn chiên. Đức Kitô hừa cho họ ngồi
trên mười hai toà xét xử mười hai chi họ Israel. Đó là phần thưởng đổi lại lấy
những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn huệ nhưng không. Nếu tất cả Kitô
hữu ý thức về những ân huệ đã nhận được do Thiên Chúa tự ý ban cho, thì mười
hai tông đồ và những ai sống giữa cộng đồng được lựa chọn, đã thụ hưởng một ơn
gọi đặc biệt, là phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa và không ngừng nhớ tới.
2) Dụ ngôn này còn có một giá trị giáo huấn nữa.
Thiên Chúa dùng tự do của Ngài để thực thi lòng nhân hậu. Thêm vào lời quyết
đáp: “Ta lại không được quyền làm điều ta muốn ư?” Ngài nói: “Mắt các ngươi xấu
vì thấy ta tốt ư?”.
Thiên Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do, khi mời gọi tất cả moị
người. Trước kia chỉ có một dân tộc duy nhất, một dân tộc nhỏ bé và được tuyển
chọn. Nay nhờ Tin Mừng được loan báo cho tất cả các tạo vật, tất cả mọi quốc
gia trở thành môn đệ Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội nhân cũng sẽ được gọi đúng
như lời Thánh Phaolô dạy: “Thiên Chúa đã để mọi người phạm tội để có thể thương
xót mọi người”.
Lòng thương xót của Chúa thực là cao cả. Mọi người đều được mời
gọi chung hưởng. Suốt đời, con người được tham dự vào vinh quang Thiên Chúa.
Được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người sẽ trở thành hình ảnh đích
thực của Thiên Chúa, bước đi trong ánh sáng của Ngài, tiến nhanh nhờ sức mạnh
của Ngài, tham dự vào bản tính thần linh của Ngài. Do đó, tội nhân được gia
nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực là cao cả, nên mới quyết
giữ ơn gọi được miên trường. Ơn gọi không phải là một dịp tốt duy nhất, sẽ mất
đi, nếu người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên Chúa theo dõi con người không
ngừng và con người có thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như thế, chỉ khi nào ý thức về ơn sủng, con người mới hiểu được
sự cao trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể xử dụng tự do tuỳ ý. Thiên Chúa
cũng sử dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể hiện trọn vẹn tình yêu. Thiên Chúa
ban phát mà không tính toán. Đến lượt con người họ cũng không được tỏ ra là
người ganh tị hay ti tiện, trái lại, hãy mở rộng lượng của Đấng Tối cao. Các
tông đồ đã nhận được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải ý thức điều đó để hoan hỉ trao
ban những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn đã cằn nhằn vì chịu khó nhọc
nóng nực cả ngày mà không nhận được vào nước Chúa. Khi bắt chước Đức Kitô,
những thử thách này là một đặc ân chứ chưa phải là một việc đền tội, một ơn huệ
hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội để chứng tỏ lòng yêu mến sâu xa và ưu tiên.
Vì ta đã được gọi từ sớm để làm việc nhiều hơn. Con người phải từ bỏ tiêu chuẩn
nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách khác. Từ đây, mức độ là chính
tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính toán. Ai biết phó thác cho thánh ý
Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ tình nguyện tận hiến tình yêu cho Ngài. Vậy
dụ ngôn này có một giá trị đặc biệt để giúp Kitô hữu suy nghĩ đúng đắn. Dụ ngôn
này dạy ta phải hiểu biết cách hành động của Thiên Chúa, Ngài dùng tự do để bày
tỏ tình yêu của Ngài.
13. Đeo
mặt nạ
Sự giả dối dường như mỗi ngày một gia tăng và con người dường
như thích đeo mặt nạ trong cuộc sống. Thực vậy, mặt nạ là cái mà người ta dùng
để che dấu bộ mặt đích thực của mình.
Vậy thì công dụng của nó như thế nào? Với mặt nạ, trước hết
người ta muốn lừa gạt kẻ khác. Đúng thế, bề trong có khi thù oán, tức tối,
nhưng bề ngoài lại tỏ ra hòa nhã, dễ chịu. Mặt nạ của chúng ta thường thì không
xấu, nhưng có những nét đẹp và lôi cuốn, để nhờ đó tìm được những cảm tình và
lợi lộc nào đó. Người đeo mặt nạ đạo đức để dối gạt kẻ khác, thì tư tưởng không
đi đôi với lời nói và lời nói lại không đi đôi với việc làm. Nói một đàng làm
một nẻo như tục ngữ vốn diễn tả: Miệng nam mô bụng bồ dao găm. Khẩu phật tâm
xà. Bề ngoài thì thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không gươm.
Trong khi đó Chúa đòi chúng ta phải thành thực: có nói có, không nói không,
thêm ra bớt vào là do ma quỉ.
Tiếp đến, với mặt nạ, chúng ta lừa dối chính bản thân chúng ta.
Thực vậy, chúng ta cố gắng tạo ra cho mình những ảo tưởng. Chúng ta bao quanh
mình những huyền thoại, tưởng rằng mình có nhân đức này, nhân đức kia như một
đám mây rực rỡ bao phủ. Để rồi từ đó, chúng ta lên mặt kênh kiệu. Chúng ta
tưởng rằng mình kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự, nhưng vào giây phút cuối
cùng ta sẽ vô cùng sửng sốt khi thấy sự thật không phải là như thế. Chúng ta tô
vẽ cho Thiên Chúa theo như những ý tưởng và ước muốn riêng tư của chúng ta. Và
lúc đó Thiên Chúa trở nên một tượng thần nhảm nhí do tay người phàm làm nên như
Kinh Thánh đã trách cứ. Đang khi chúng ta phải trở nên giống Ngài thì chúng ta
lại bắt Ngài trở nên giống chúng ta. Miệng chúng ta không ngừng đọc lời kinh
Chúa dạy: Vâng ý Cha dưới đất cũng như trên trời, nhưng trong thực tế, chúng ta
lại luôn tìm thỏa mãn cho những ước muốn và dục vọng riêng tư. Chúng ta bằng
lòng với những dáng bộ đạo đức bên ngoài, nhưng một khi chiếc mặt nạ bị rớt
xuống, chúng ta sẽ phải bẽ bàng như lời Chúa phán với bọn biệt phái: chúng
giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng toát, nhưng bên trong thì lại đầy
dòi bọ cùng mọi thứ hôi thối. Nhưng nguy hiểm hơn là chúng ta lại muốn dùng
chiếc mặt nạ ấy để dối gạt chính Thiên Chúa. Đây quả thực là một việc làm điên
khùng và dại dột, đây cũng là một việc làm xưa như trái đất mà con người luôn
cố gắng thực hiện.
Adong Eva ngay sau khi phản bội cùng Thiên Chúa, liền ẩn náu nơi
bụi rậm. Ngày nay chúng ta cũng ẩn náu dưới nhiều danh hiệu khác nhau. Nào là
vẻ hào nhoáng bề ngoài, nào là những ý thức hệ đạo đức, nào là những hành động
khua chiêng gõ mõ ầm ỉ. Phải chăng đó cũng là cái moden của thời đại. Tuy nhiên
chúng ta cần phải nhớ rằng, có một cặp mắt thấu suốt mọi điều bí ân, đó là cặp
mắt của Thiên Chúa. Ngài đòi chúng ta phải chịu trách nhiệm về những hành động
của mình. Mọi tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm dù bí ẩn đến đâu cũng không
thể qua khỏi tầm mắt của Ngài. Trong ngày thẩm phán cuộc đời chúng ta như một
trang sách mở rộng trước tôn nhan Ngài. Hãy chấm dứt trò chơi đeo mặt nạ để lừa
gạt kẻ khác, bản thân và Thiên Chúa. Hãy sống thành thực, kẻo chúng ta phải bẻ
bàng, khi cuộc sống giả tạo ấy bị phanh phui…
14. Ghen tị
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm vườn nho hình như có vấn đề
gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng đều cho tất cả những người
thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có công bằng chăng khi đối xử
với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng với những người làm việc từ
sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như đã thoả thuận. Ông ta không
bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương tương xứng, nếu ông ta
không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có vấn đề gì, nhưng vì có
nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình, nên có việc ganh tị, và
nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật hai vấn đề: Cách đối xử của
ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ vườn nho đây là hình ảnh Thiên
Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của Ngài vượt lên trên tất cả những
thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau trong cuộc sống, Ngài rất công bằng
và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta
theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời phàn nàn của những người thợ làm từ
sáng sớm mà cũng lãnh công như những người làm sau, Ngài đã khẳng định quan
điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý định của mình, Ngài muốn làm
cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không phải lệ thuộc ai cả. Tuy có
quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng tự do đó mà làm thiệt hại cho
người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn”. Thiên Chúa luôn công
bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau vì thiếu lòng nhân từ, vì
cách nhìn ghen tị của mình. Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do dùng tiền của
mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu thương? Ông
chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với nhóm kia,
thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không cần theo
tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử sự của
mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày, nhưng lại
xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều hơn lòng
mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành, Ngài ban ơn cho mỗi người và
mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác. Chỉ có con người là hẹp hòi,
ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ làm vườn nho. Những người làm
từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi thấy ông chủ trả lương cho những
người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với
ông chủ, đó là tâm trạng chung của con người chúng ta: hay so đo, tính toán,
thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội
nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà nếu có ai hơn mình thì tỏ
ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những thành công của người khác.
Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan sắc, thành công, nhân đức.
Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị những gì mình có, không thoả
mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế của mình, lúc nào cũng thấy
núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai
thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ hơn mình. Càng liên hệ thân
thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường thường những người ở trong
cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như bạn bè mới ghen tị nhau,
chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá… ghen tị
nhau. Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là
thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có
hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương,
an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia
vui. Có ai vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn, thành công
chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra nhiều tai hại: ghen tị sinh ra
ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường đi đến chỗ nói xấu, nói
hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm mất tình bác ái và gây
nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp ngay, phải ngưng ngay cái
tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị đúng của anh em mà vui
cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất,
chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình không là gì cả, lúc nào cũng
phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì chúng ta đã có, đang có hay sẽ
có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô cùng. Thứ hai, mỗi người hãy
bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với những gì mình đang có, đừng
nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm mất tình yêu thương và gây
nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta biết đánh giá trị đúng về
mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công với ai và cũng không phân
bì, ghen tương ai.
15. Ganh tị
Trong cuốn tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn
Cùng” (Les Miserables), của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã
được thả ra sau 19 năm chịu khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ
bánh mì cho những người con của bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh
bước đi lang thang cả ngày để tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai
trong làng dám chứa chấp một người đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị
giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua
đêm. Tại bữa ăn tối, bà giúp việc cực lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà
phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng bạc mà toà giám mục thường dùng để tiếp
khách. Đêm hôm đó, valjean đã ăn cắp toàn bộ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra
khỏi nhà.
Ngày hôm sau trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng
Đức giám mục đã ban cho anh những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh
sát đem anh trở lại toà giám mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến
toà giám mục, Đức giám mục đã nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lại Valjean,
vì ngài muốn tặng thêm cho anh những cái chân đèn bằng bạc nữa. hành động tha
thứ và nhân từ đáng kính phục này đã gây ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của
Valjean tới nỗi anh đã thay đổi hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau
cùng anh đã dâng hiến cuộc đời còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn
là lẽ công bằng.
Người chủ vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của
tình yêu và lòng nhân từ, không phải luật lệ của kinh tế hay toán học nhắm vào
tư lợi.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo ZENIT ngày 3/12/2000, Đức
Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm của ngài về 13 năm tù tội.
Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết làm cách nào ngài có thể
giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã bỏ mọi sự để theo Chúa
Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu”. Tồng giám mục, lúc đó
nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp xin Chúa nhớ đến hắn
khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả lời: “Tôi sẽ không
quên anh, nhưng anh phải đền các tội ác của anh trong luyện ngục”. Nhưng Chúa
Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”. Chúa đã quên tội lỗi
của người này. Cũng một sự việc đã xảy ra với bà Mary Magdalene, và với người
con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người tha thứ cho toàn thế
giới”.
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài nói thêm: “Điều này được
thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có 100 con chiên, một con bị
thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99 con khác trong chuồng, đối
với Chúa Giêsu, một con giá trị bằng 99 con, hay là có khi hơn nữa.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được bắt đầu bằng chữ “Nước
Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của Nước Trời. Trong cuốn “The
Divine Trap”, Richard Hoefler nói rằng: “Trước hết Thiên Chúa là người chủ
tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều mà Người muốn làm
với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải là một nền dân chủ
nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ được làm bởi một đa
số phiếu bầu cử”.
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không những với các môn đệ của
Ngài, mà còn cho các người Biệt phái, là những người đã có quan niệm rằng Vương
Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ. Richard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt phái đã quên điều này. Vương Quốc Thiên Chúa
thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng các ông đã khoe mình là
những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều biết và kính trọng các
ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó là điều Thiên Chúa
thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những người tội lỗi và nghèo
khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa. Ngài sẽ cư xử với họ theo
như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân trong vườn nho của Ngài.
Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ. Ngài có quyền tuyệt đối phân phát tiền
lương và phần thưởng tuỳ theo ý của Ngài và chỉ có thánh ý Ngài mà thôi”.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia đã viết: “Tư tưởng của Ta
không phải là tư tưởng của các người, và đường lối của các ngươi không phải là
đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì đường lối của Ta cũng cao hơn
đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng các ngươi chừng
ấy”.
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng ta đến làm việc trong
vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành của Ngài thay vì đòi hỏi và
ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như lời cầu nguyện của Đức
Hồng Y John Henry Newmann:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc mà Ngài không ủy thác cho
kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao giờ biết được nó trong
cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ rõ. Vì thế, tôi tin vào
Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo dài hay rút ngắn cuộc sống
của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm. Ôi lạy Chúa, con xin hiến dâng trọn
vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài”.
16. Thợ
làm vườn nho – Radio Veritas Asia
Kể từ ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời, chúng ta đã biết không
đầy hai năm sau khi Mẹ qua đời, hồ sơ phong chân phước cho Mẹ đã được khởi sự.
Đây quả là một kỷ lục trong Giáo Hội, nhưng Mẹ Têrêsa Calcutta không chỉ là một
vị thánh của Giáo Hội mà còn là một vĩ nhân của thế giới. Mẹ không chỉ là một
mẫu gương thánh thiện cho các tín hữu Kitô, nhưng Mẹ còn để lại một gia sản
tinh thần chung cho cả thế giới, gia sản đó là người ta không thể giải quyết
mọi vấn đề đau khổ của nhân loại chỉ bằng tiền của vật chất, kỹ thuật, mà bằng
trái tim rộng mỡ, bằng tấm lòng quảng đại.
Trước dư luận cho rằng, Mẹ Têrêsa không chủ trương giải quyết
vấn đề nghèo đói tại Ấn Độ một cách tận căn. Mẹ đã trả lời:
“Tôi cảm thấy mình là người Ấn Độ cho đến tận đáy tâm hồn tôi.
Những chiếc aó dòng cho phép các nữ tu cảm thấy mình nghèo với những người
nghèo, được đồng hóa với những người tàn tật, những trẻ em, những người già cả
và những người kém may mắn. Với cách ăn mặc như thế, các nữ tu thừa sai bác ái
đã chia sẻ cuộc sống của những người nghèo khổ nhất trên thế giới. Dĩ nhiên, Ấn
Độ cần có các chuyên viên, những nhà chuyên môn, các kinh tế gia, các y sĩ, các
y tá để phát triển. Ấn Độ cần có một chương trình hoạt động rộng rãi được phối
hợp chặt chẽ, nhưng chúng ta phải chờ đợi cho đến bao giờ các chương trình ấy
được thực hiện? Chúng tôi không biết, nhưng trong khi chờ đợi thì dân chúng cần
phải sống, cần phải có của để ăn, cần phải được săn sóc. Địa bàn hoạt động của
chúng tôi tại Ấn Độ hiện nay là, bao lâu người dân còn cần những nhu cầu ấy thì
chúng tôi còn tiếp tục công việc của mình”.
Quả thực, trong trái tim đơn thành, khiêm tốn, trong sạch của Mẹ
Têrêsa Calcutta không hề có những chương trình vĩ đại, Mẹ chỉ thấy sự cần thiết
trước mắt là sự nghèo đói khốn khổ của người đồng loại. Nhưng tấm lòng cảm
thông và thông cảm ấy không chỉ thấy người dân đói khổ về vật chất, nhưng đôi
mắt từ ái của Mẹ Têrêsa còn nhìn thấy một nỗi khổ khủng khiếp hơn của người
đồng loại, đó là nỗi khát khao được yêu thương. Mẹ Têrêsa không chỉ trao ban
một miếng bánh, một chén cơm, không chỉ trùm trên thân xác đói lạnh một tấm
chăn, không chỉ băng bó một vết thương trên thân xác, nhưng món quà quí giá
nhất mẹ ban chính là tình thương.
Đây vốn là nhu cầu cơ bản và thiết yếu nhất của mỗi con người,
dù con người ấy sống trong một nước nghèo khổ như Ấn Độ hay trong một đất nước
phồn thịnh như Hoa Kỳ. Mẹ đã tóm tắt chương trình hành động của Mẹ trong câu
nói: “Tôi không bao giờ săn sóc cho các đám đông, tôi chỉ săn sóc cho một người
mà thôi”. Quả thực, trong ánh mắt từ ái của Mẹ không có đám đông vô danh, không
có con số trong đám đông mà chỉ có từng cá nhân trước mắt cần được yêu thương
mà thôi. Trong trái tim đầy yêu thương của Mẹ không có chương trình hành động
vĩ đại, mà chỉ có những cử chỉ cụ thể mà con người có thể làm cho từng đồng
loại của mình mà thôi.
Thế giới ngày càng làm ra nhiều của cải vật chất, thế giới ngày
càng có nhiều chuyên viên kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý. Dĩ nhiên, thế
giới ngày càng có nhiều chương trình vĩ đại hơn, xóa bỏ bất công và xóa đói
giảm nghèo, thế nhưng bất công và đói khổ vẫn còn đó. Như vậy, trong lịch sử
nhân loại, chương trình vĩ đại nhất để xóa bỏ bất công, san bằng xã hội, hẳn
phải là một số chế độ độc tài. Kết quả của chương trình hành động vĩ đại này
thật là thảm khốc, người ta xóa bỏ một bất công để tạo nên những bất công mới,
người ta đạp đổ một nhà tù để xây thêm nhiều nhà tù mới, người ta nại đến nhân
quyền để chà đạp nhân quyền.
Thật ra, loài người muốn xóa bỏ mọi thứ bất công bằng tiền của
và các phương tiện kỹ thuật, xét cho cùng trong sự tính toán của loài người thì
tiền của vẫn là điểm quy chiếu tối hậu, đó là tư tưởng và cách giải quyết của
loài người chúng ta. Còn tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa như chúng ta nghe
trong bài đọc thứ nhất (x.Is 55,6-9), đường lối và cách giải quyết của Thiên
Chúa thì hoàn toàn khác với loài người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta đi vào tư
tưởng, đi vào sự tính toán và cách giải quyết của Ngài. Thiên Chúa dựa trên một
tiêu chuẩn khác với tiêu chuẩn và các phương tiện kỹ thuật, tiêu chuẩn đó là
tình yêu, lòng độ lượng khoan dung, sự tha thứ cách quảng đại, tinh thần phục
vụ dấn thân cách đắc lực. Đây là việc làm mà Chúa Giêsu luôn mời gọi mọi người
thực hành đức công bình bác ái với mọi người: “Các con hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Đây là tiêu chuẩn mà Chúa Giêsu muốn làm nổi bật qua dụ ngôn
được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay, chúng ta sẽ ngạc nhiên về cách
giải quyết của Thiên Chúa, là người thợ chỉ làm có một giờ cũng lãnh bằng những
người thợ làm quần quật suốt ngày. Với cách cư xử của ông chủ vườn nho, Thiên
Chúa muốn cho chúng ta thấy cách cư xử độ lượng của Thiên Chúa đối với tất cả
mọi người. Ngài cho chúng ta thấy rằng, bất công trong xã hội và tất cả mọi khổ
đau của con người chỉ có thể giải quyết được bằng tình thương mà thôi. Sự thật
hiển nhiên là thế giới không bao giờ thiếu của cải, có thiếu chăng chỉ là thiếu
tình thương, thiếu lòng quảng đại, thiếu sự chia sẻ mà thôi. Thiếu tình thương
thì không những người nghèo quằn quại trong đói khổ và cả người giàu cũng héo
hắt trong vỏ ốc ích kỷ của mình.
Chúng ta được diễm phúc dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể, Tấm Bánh
được bẻ ra để chia cho tất cả mọi người. Chúa Giêsu đến với chúng ta qua dấu
chỉ ấy để mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ với mọi người. Xã hội sẽ không bao
giờ hết những bất công và đau khổ, nhưng bất công và đau khổ sẽ vơi đi biết bao
nếu mỗi người biết lấy tình thương, lòng quảng đại và sự chia sẻ đối với nhau.
Đó phải là niềm xác tín của chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.
17. Lòng quảng
đại của Thiên Chúa
Douglas được cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép.
Trong những năm đầu, ông bị thất nghiệp lâu dài đến nỗi chỉ còn một đồng tiền
cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã bỏ một nửa đồng đó – tức là 50 xu – vào giỏ xin
tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau, ông nghe biết có một công việc ở thành phố bên
cạnh mà vé đi xe lửa là một đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu kia thì thật là khôn
ngoan. Tuy nhiên, ông đã mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa đường tới nơi gần
đến. Ông bước ra khỏi xe lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.
Trước hết ông đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp
ở một quãng đường nữa – đang cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có
được một việc làm với tiền lương là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành
phố khác. Tiền lương tuần lễ đầu tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp
cho công việc của Chúa.
Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta về một số người thất nghiệp
khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ khác nhau trong ngày. Một ít
người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài giờ, và số người khác nữa làm
việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ chỉ trả tiền công cho họ bằng
nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than phiền, nhưng người chủ trả lời:
“Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của tôi?”
Bài học chính này là Thiên Chúa luôn quảng đại, Nước Trời không
hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên Chúa không phải là đường
lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta. Phải, Thiên Chúa rất quảng
đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, chia sẻ cho
chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với lòng quảng đại, Thiên
Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể quyết định yêu mến Thiên
Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay không.
Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều phúc lành về thể xác và
tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự thiếu thốn ngày nay là do
tính tham lam và quản lý tồi của con người.
Con Thiên Chúa là chính lòng quảng đại: Khi Chúa Giêsu biến nước
thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ nước đấy chum “cho tới miệng”,
với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài hóa bánh ra nhiều với vô số
đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi khen ngợi đồng tiền quảng đại
của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh và mối thương cảm. Và sau
hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà cứu độ chúng ta. Ngài còn
tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng như mỗi thánh lễ trên
khắp cả thế giới trong mọi lúc.
Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại dạy ta rằng: “Hãy cho, người
ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì
anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu ấy” (Lc 6,38). Người anh hùng
trong câu chuyện, Douglas, một thợ đóng giày đã kinh nghệm điều này.
Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm được những kết qủa của lòng
quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa vì Ngài luôn quảng đại với
ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
18. Thợ
làm vườn nho
Có lẽ nhiều người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người
Mỹ, ông là chủ những tiệm giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo
xác. Có tần vào nhà thờ dâng lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã
không ngần ngại dâng cho Chúa nửa đồng, còn lại nửa đồng.
Sáng hôm sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có
hãng cần người làm việc, anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây
giờ anh chỉ còn lại nửa đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ
đi bộ nửa đoạn đường còn lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và
khi vừa bước đi bộ vài trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần
người làm việc vôi số lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến
xin nơi thành phố bên cạnh.
Như thế, có thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã
cho lại anh góp trăm tần, nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của
Tagore, thi sĩ Ấn Độ về người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho
lại một cục vàng Những người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ
có một, hai giờ đồng hồ làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng
những kẻ mệt nhọc cả ngày.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc đóng góp của con người,
nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn nho, hơn quá sức tưởng
lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những người thợ. Thái độ của
những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ của một số anh chị em
Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo đến từ dân ngoại, và
ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại vào công nghiệp
trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh ra ganh tị,
khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì đối với
Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân sủng, tất cả đều do Thiên Chúa
bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì
thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại, không nên tự phụ, tự kiêu vì những
công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón nhận, tin thắng vào lòng nhân từ
của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi người chúng ta vượt quá lòng
chúng ta mong ước.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Philipphê
và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết để sống, đó là không nhìn
để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh tị.
Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa, quyết tâm sống như Chúa
Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu Philipphê mà chúng ta đã
đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong
thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng ta chỉ nhắm đến một mục
đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp với Chúa”, để rồi từ
đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng của mình mà phục vụ cho anh
chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức Kitô được vẻ vang trong thân
xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái mà chúng ta thực hiện hằng ngày.
Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý trong bài Phúc âm hôm nay, đó
là phản ứng của con người trước lòng quảng đại của Thiên Chúa. Con người hay
những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào làm vườn nho cho có thái độ hẹp
hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại nhân từ của Thiên Chúa: “Ta không
có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì Ta quá quảng đại mà các người lại
ganh tị hẹp hòi”.
Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi khắc vào tâm trí các tông
đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên Chúa đối với con người vượt
quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì thế mà lỗi luật công bằng.
Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng, nhưng không hủy bỏ sự công
bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công bằng mà con người chúng ta
tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền lương mỗi ngày một đồng như vậy
hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ đến sau bằng những người đến
trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”
Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là Thiên Chúa thiên vị, nhưng
sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu, lòng ganh tị của những kẻ đến
trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày
để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ, phải cho họ hơn những người khác,
những kẻ đến sau, những kẻ không có công trạng gì, những người tội lỗi, những
người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất cả chỉ vì ganh tị với anh em xung
quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.
Sự ganh tị làm cho con người mất đi lòng biết ơn đối với kẻ thi ân.
Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo chương trình Ngài muốn, Ngài ban
cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân, những nén bạc khác nhau, người
thì năm nén, người thì hai nén, người thì một nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị
thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì những hồng ân mình đã nhận được; thì
chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc Thiên Chúa bất công, thiên vị.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng con biết vượt qua được
những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn chúng con, để chúng con
được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết nhìn ra những hồng ân của
Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi
người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con cùng nhau tuyên xưng qua
kinh Tin Kính.
19. Suy
Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn nho không? Tại
sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích kỷ của con người
hay dựa trên lòng yêu thương?
2. Bạn nghĩ sao về chủ trương “Làm theo khả năng, nhưng hưởng
thụ theo nhu cầu”? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia đình bạn không?
3. Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng có tình thương,
và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công bằng nào?
Suy tư gợi ý:
Theo cách giải thích truyền thống, bài Tin Mừng này muốn nói tới
tính “nhưng không” của Nước Trời: người ta được vào Nước Trời hoàn toàn do ân
sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải do công lao của họ, mặc dù
người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì thế, sẽ có những người theo
Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu rỗi là một điều dễ hiểu.
Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc đời tội lỗi hoặc không
biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa và theo Chúa. Cuộc đời
họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể một vài năm, mà cũng có
thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp người trộm lành cùng chịu
đóng đinh với Đức Giêsu trong Lc 23,39-43). Những người này cũng được ơn cứu
rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời. Rất có thể những người sống
đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người ấy. Dụ ngôn này trả lời cho
những người ganh tỵ ấy.
Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ ngôn này theo một kiểu khác,
để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị lợi, ít vị kỷ và bớt tính toán,
so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập quan niệm, suy nghĩ theo cách
của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không qui về mình.
1. Hai thứ công bằng: của trần gian và của Nước Trời
Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy ông chủ làm vườn nho đối
xử như thế với những người làm thuê là không công bằng: người làm ít cũng như
người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau. Vì theo suy nghĩ bình thường
của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương cao hơn người làm ít. Nghĩ như
thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình thương, người ta có thể suy
nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.
Thật vậy, nhân loại sau này có một lý tưởng rất cao cả mà cho
tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả năng và hưởng thụ theo nhu
cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu cầu của mình nhiều hay ít,
chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng này ai cũng cho là hợp lý
và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm và hưởng thụ theo khả
năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng ấy: Làm theo khả năng,
nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người, nếu lý tưởng này có được
thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng Kitô hữu nguyên thủy, một
cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Kitô hữu về sau.
2. Công bằng của Nước Trời: công bằng có tình thương
Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó khởi đầu bằng câu: “Nước
Trời giống như…”,
chứ không phải nó áp dụng cho thế gian này. Nước Trời là nước của tình thương,
trong đó mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, và có như thế Nước
Trời mới là nước của hạnh phúc. Do đó, sự công bằng ở trong Nước Trời là một
thứ công bằng có tình thương, chứ không phải là thứ công bằng vô tâm như ở trần
gian. Sự công bằng kiểu trần gian này nếu được thực hiện thì cũng là phúc cho
trần gian, nhưng ngay cả thứ công bằng này nhiều xã hội cũng chẳng thực hiện
được.
Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công bằng trần gian vẫn gây
nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng, có sức khỏe thì luôn
luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những người yếu đuối, kém
tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu cầu lớn hơn hay nhiều
hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn người ít tài kém sức
thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến đâu, nhưng nếu tôi làm
được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như thế thì tôi sẽ rất
thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng nếu anh làm được
nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như thế anh sẽ dư thừa
một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần gian, và ở trần gian
này dường như không thể nào làm khác hơn được.
Còn công bằng theo kiểu có tình thương kia, nếu áp dụng ở trần
gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều người đâm ra lười biếng:
vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người lười. Cứ nghĩ như thế thì sẽ
chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình làm gì, vì có tài thì chẳng
ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có tính ích kỷ, không ai muốn hy
sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn dùng tài năng hay những lợi thế
mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho mình trước đã, không mấy ai muốn
ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém, yếu thế, dù họ có nhu cầu nhiều hơn
mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích lợi cho mình, thì tài năng để làm
gì?
Nhưng Nước Trời không phải là nước trần gian, hay ít ra không
phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời được định nghĩa như một
xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc. Để được hạnh phúc như
thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một cách cụ thể là phải
quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của mỗi người là để phục
vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng tài năng chỉ để vun
quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người trong nhà đều yêu thương
lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống động về Nước Trời. Những
người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền nuôi gia đình. Những em nhỏ
tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó phải tiêu một món tiền không
nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật, thì người bệnh này có thể
không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu một số tiền lớn nhất
trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại, người làm ra nhiều tiền
nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có ít nhu cầu nhất. Nhưng
anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như thế là hợp lý. Anh cho
rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu cầu của mỗi người chứ
không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
Chỉ những gia đình sống theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo nhu cầu
mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo
số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau khổ ê chề.
3. Bạn thích sống theo thứ công bằng nào?
Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả tiền theo nhu cầu chứ không
theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận của tình thương. Những người
làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm, người nào cũng đều có vợ con
phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người vào làm sau, sở dĩ họ vào làm
trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ sáng sớm, cho dù họ rất muốn
có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy một đặc tính của Nước Trời,
cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình thương. Sự công bằng trong
Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người, mà dựa trên tình thương phải
có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình thương ấy mới là sự công bằng
đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm gương mẫu cho chúng ta trong xã
hội.
Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể áp dụng một cách phổ biến
trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình thương. Nhưng ít ra nó có
thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình Kitô hữu, trong các cộng
đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản. Gia đình bạn, cộng đoàn
Kitô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước trời nho nhỏ chưa? Sự công
bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của thế gian hay của Nước
Trời?
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng một cách đại trà thứ công
bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng trong những cộng đoàn Kitô
hữu nhỏ bé như gia đình Kitô hữu của con, trong cộng đoàn cơ bản của con, trong
đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt, con sẽ cố gắng cổ võ việc áp
dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần nào hưởng nếm trước hạnh phúc
của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng trên tình thương và do tình
thương tạo nên. Amen.
20. Tình yêu
Chuyện xảy ra vào thế kỷ thứ 16 tại Ấn Độ. Trong triều đình có
hai vị sĩ quan nổi tiếng vì những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một
người thì tham lam.
Ngày kia, nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính
xấu ấy. Ông cho triệu tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ
tưởng thưởng họ vì đã phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích,
xong người đầu tiên mở miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai
sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam
nghĩ trong lòng: nếu tôi nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người
ganh tỵ lý luận: Thà tôi không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia
được gấp đôi. Vì thế, không ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng, vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại
nghĩ: thà không được gì còn hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên
bố:”Tôi xin được chặt đứt một cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là
người tham lam sẽ bị chặt hai cánh tay.
Người ghen tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người
kia được của cải gấp đôi mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã
tự hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại, người đi làm vườn nho từ
sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng được trả một quan như
mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền hơn, thì người làm từ
sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ đâu có xử bất công, vì
ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông trả hậu hĩ cho người
mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức Giêsu muốn mời gọi chúng ta
nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không chỉ là Thiên Chúa công bình,
mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã không hành xử theo luật lệ,
nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta nhận ra Người
là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận được lòng tốt của Thiên
Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho nói với người ghen tỵ:
“Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh ta ghen tỵ vì anh ta
chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta không nghĩ rằng ông
chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng phẳng không thiếu
một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc chắn đến cuối ngày
là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê làm nên phải chờ đợi
cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh sẽ phải lên giường
mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã ban cho chúng ta, cứ nhìn
xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ không còn lý do nào để mà ghen
tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa yêu thương, không nhận ra hồng ân
của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã ghen tỵ và giết chết Aben, người anh
cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu
ghen tức với người tội lỗi được Chúa tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ
làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa ban ơn, mà đi ghen tỵ với
những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ bất hạnh nhất. Họ hãy
nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ
đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ ngôn hôm nay muốn loan báo
rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên Chúa, hoàn toàn do lòng
quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công nghiệp của chúng ta. Thiên
Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen khi thấy kẻ khác được nhiều
ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo lẽ công bình giao hoán:
có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu Thiên Chúa tính toán lại,
chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc, và người thiệt thòi nhất
không ai khác chính là chúng ta.
21. Chú
giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”:
Bây giờ ta đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống
như gia chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò
chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan tiền”:
Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình
thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết
giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một
quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương
đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo qui định,
một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt đầu từ
chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế giờ thứ
3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và 17 giờ;
ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”:
Qua câu nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một
phần quan tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”:
Đây là một việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý
kết cấu như vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ
chứng kiến lòng tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi thiêu cháy”:
Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong hai chuyện: vất vả suốt
12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một tiếng, và hơn nữa đã phải hái
nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến sau lại được hưởng khí trời
mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc khó khăn cho họ quyền được trả
lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ giờ thứ
nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và đây ông ta
làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc 15, 31).
Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở đây nó
vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi...”. Trong 3 đoạn Tân ước có lối gọi
này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế Thuấn: hay
mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết luận
thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả tầm
quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để hiểu
dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ tợn”,
một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và Huấn
ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người. Nếu đặt
thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa các hạn
từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt bạn dữ lợn
vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của một tính
khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa tốt lành
nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho người này,
ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và kẻ đầu hết sẽ nên
cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần
tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên
buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64
của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người
đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau”
(PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm
ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ với dụ ngôn mà nó được
coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ không thể nào phát
xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau được. Theo châm ngôn,
thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ đầu hết phải trở nên
rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là bản văn hiện thời
không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa nào đó, ta có thể
chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là những kẻ đầu tiên
được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có tính cách bề
ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều ngang hàng như
nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng lợi lộc hơn khi
được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay sau cũng chả ăn
thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì đó chỉ là bề
ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy. Tục ngữ nói đến
sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối giải thích vừa nêu. Các
người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi đến độ căm tức, đã phàn
nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về chuyện bị đẩy lui vào
hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn, chống đối gì điểm này. Xin
nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ cần được trả lương đầy đủ,
còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn nàn ở chỗ là: dù đã lao
công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương như những kẻ đến làm
việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã đưa ra câu trả lời duy nhất
thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn, bạn đã chẳng thuận giá một
quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn việc cho người cuối hết này
bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép làm như tôi muốn về của cải
tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi câu nói ấy của ông chủ vườn
nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà chỉ là sự bình đẳng trong
đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với
bạn...Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế... Há tôi lại không
được phép.... sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với câu châm ngôn cuối cùng. Câu
này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài một tương tự (loại suy) có
tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu kết luận bề ngoài. Như trong
nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này hẳn đã được thêm vào câu
chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác giả Tin Mừng hay do truyền
khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch khác. Dù sao, các câu kết
luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ ngôn (chứ không ngược
lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một loại văn thể như thể. Vì
đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có lẽ câu kết luận đó cũng
được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho dụ ngôn và để thay thế
cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa thuộc bình diện ân
sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản của dụ ngôn. Thật vậy, dụ
ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và cách Ngài nhìn xem sự vật,
hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33). Trong lúc đó, các giáo sĩ
thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền lãnh nhận, xác định phần thưởng
mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ
ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần thưởng tương ứng với công nghiệp
của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ lòng tốt của Thiên Chúa và không nại
tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật này để kết luận rằng Thiên
Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công việc của họ. Như thế sẽ đi
ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa
ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ, Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt
chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán nào cả. Mỗi liên hệ của ta với
Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo lường được cũng như giản lược
được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có tính cách hạ con người xuống
vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là kẻ có thể thực sự nói tay đôi
với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh
của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính sổ với Ngài được. Vì theo sự thật
đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái tự do của Thiên Chúa, bởi những ý
định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi
phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta
đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy
giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái
của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn,
dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an
tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa
thi ân và trả cho mỗi người một quan tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình
làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực
sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ đời này, ta nhận thấy
những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có được quyền phê phán
giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông minh hơn, giàu có hơn
ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài thích tỏ ra nhân hậu
ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn yêu thương, tha thứ con
người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo lộn mọi tính toán đê tiện
của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung sướng vì Ngài chẳng để ý
đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được ưu đãi thực sự trong dụ
ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên, họ đã “vác nặng cả một
ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ khỏi nỗi sợ thất
nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò các người khác,
những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín hữu đã anh dũng
trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so với những kẻ chỉ
đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ kinh nghiêm được
sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng vì biết mình ở
trong tay Thiên Chúa.
22. Chú giải
của Noel Quesson
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho vào giờ sau hết” rất nổi
tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra những phán đoán chỉ trên
bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo kinh tế. Về phương diện
này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ và khác thường. Một ông
chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn nho chỉ có nước làm
phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng không tôn trọng một
tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn thành là việc không
bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất xứng. Nhưng tất cả
những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự thật. Rõ ràng Đức
Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc khác trang Tin Mừng
nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một thể loại văn chương rất
xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào cũng được. Trong một dụ
ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể không chứa đựng bài học:
Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung tâm của nó. Những chi tiết
còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện, tô điểm cho câu chuyện thêm
thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra mướn
thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu chuyện có thật. Chúng ta
đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm công nhật” trên quảng
trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công nhật, ngày này qua ngày
khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại. Chúng ta phải ghi nhận
điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định: tình trạng này vẫn còn
là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở các nước thế giới thứ
ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có thực tế đến đâu thì chúng
ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không phải là một bài học xã
hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai
họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra, thấy có những người
khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi vào
vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ
sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười
một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó, ông nói với họ:
“Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì không ai mướn
chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra tìm thợ từ sáng sớm, rồi
lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ chiều. Vì thế chúng ta
phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình thường: không ai lại đi
thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ! Đây là một “ông chủ” quan
tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy: “Tại sao các anh đứng đây
suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu kể lại nhắc chúng ta rằng
vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là vấn đề của ngày hôm nay.
Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này không để cho các thiên biến
của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu mô tả một người đã nhân từ
một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông không mệt mỏi, lo lắng đem
lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người nghèo bị rơi vào cảnh khốn
cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc được nhắc lại: “Hãy
đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với các thính giả
đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa” (Is 5,1-7;
Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là nơi hạnh
phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời gọi chúng
ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ
anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý: “Anh gọi thợ lại
mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào
làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ bắt đầu từ lúc này trở đi,
câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ chúng ta phải đến gần “cao
điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất kỳ lạ này muốn rằng những
người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng nhân cho điều mà ông sắp
làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc ông chủ trả lương cho
những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông chủ trả công cho người
làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một (5 giờ chiều) tiến
lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến lượt những người vào làm
trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi
người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ: “Mấy người sau chót này
chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những
người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó
là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm bẩm, cằn nhằn của dân Israel
trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái độ rất thường gặp của chúng
ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập xuống chúng ta; khi chúng ta
phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt; khi chúng ta
lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy trong dụ ngôn này vào thời Đức
Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức Giêsu khi Người tiếp đón
những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời của Matthêu, những người
“sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu tiên”, đó là những dân
ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những người Do Thái bản địa.
Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại với chúng ta một cách
mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu đãi, có đặc quyền.
Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với những người đầu
tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức Giêsu thường đề cao
giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những người sau hết, những
người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm bẩm, Đức Giêsu nói
rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương xót” ‘dives in
miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức Gioan Phaolô
II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ: Này bạn, tôi đâu có
xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một quan tiền sao? Cầm
lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này
cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định đoạt về những gì
là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một hoàn cảnh bình thường để
rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta lắng nghe một ‘mạc khải
thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một chân dung tuyệt vời mà
Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt những người bị bỏ
rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ một cách dồi dào, Người “mời
mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không bị giới hạn bởi công
nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái mà chúng ta có được
bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ người nào cho rằng mình
đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với chúng ta một chân lý chủ
yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai rộng ra trong các thư
Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế… Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước
mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ được trở nên công chính do ân huệ Thiên
Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật
vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải
vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy vọng lớn lao cho biết bao
bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức tin. Đối với Thiên Chúa,
không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ cho đến phút chót. Không
bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ rằng Đức Giêsu không chỉ
bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn áp dụng câu chuyện này
vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho người trộm bị đóng đinh
với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu còn những kẻ đứng
đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề ngoài bất công, giờ đây
chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ tuyệt vời của Cha chúng
ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em trên trời là Đấng xót
thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công bình hay công lý trên thế
giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề quay lại đàng sau. Nhưng
việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm lòng há chẳng cần thiết
sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công lý trên bình diện rộng
đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời đại chúng ta ước muốn
mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương tiện. Tuy nhiên, người
ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý tướng công bằng khi đem
ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng... bởi lòng oán hận, thù nghịch
mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời đại chúng ta chứng tỏ chỉ
có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho phép một sức mạnh sâu xa
hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự chiêm ngắm lòng thương xót
của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc biệt của tình yêu còn mạnh
hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó, lòng nhân hậu ở vị trí đối
lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp tỏ ra mạnh hơn, căn bản
hơn công lý” (Gioan Phaolô II).