Tìm hiểu Lời Chúa _ ngày 19/12

NGÀY 19 THÁNG 12
Tl 13, 2-7. 24-25a; Lc 1, 5-25
BÀI ĐỌC: Thủ lãnh hay Quan án (Tl/Qa) 13, 2-7. 24-25a
            2 Hồi ấy, có một người đàn ông ở Xo-rơ-a, thuộc chi tộc Đan, tên là Ma-nô-ác. Vợ ông son sẻ và không sinh con. 3 Sứ giả của Đức Chúa hiện ra với người vợ và nói với bà: "Này, bà là người son sẻ và không sinh con, nhưng bà sẽ có thai và sinh một con trai. 4 Vậy bây giờ phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch. 5 Vì này bà sẽ có thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không được lướt trên đầu nó, vì con trẻ sẽ là một na-dia của Thiên Chúa từ lòng mẹ. Chính nó sẽ bắt đầu cứu Ít-ra-en khỏi tay người Phi-li-tinh. "6 Bà đi vào và nói với chồng rằng: "Một người của Thiên Chúa đã đến gặp tôi; hình dáng của người như hình dáng một sứ giả của Thiên Chúa, rất đáng sợ. Tôi đã không dám hỏi người từ đâu tới; và danh tánh người, người cũng không tiết lộ cho tôi. 7 Nhưng người nói với tôi: "Này bà sẽ có thai và sẽ sinh một con trai; bây giờ bà phải kiêng cữ: đừng uống rượu và thức có men, cũng đừng ăn mọi thứ không thanh sạch, vì con trẻ ấy sẽ là một na-dia của Thiên Chúa, từ lòng mẹ cho đến ngày nó chết. "
            24 Bà sinh được một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa bé lớn lên, và Đức Chúa chúc lành cho nó. 25a Thần khí Đức Chúa bắt đầu tác động trên Sam-sôn.
ĐÁP CA: Tv 70
Đ. Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa,
suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài
. (x. c 8)
3 Lạy Chúa, xin Ngài nên như núi đá cho con trú ẩn, như thành trì để cứu độ con, núi đá và thành trì bảo vệ con, chính là Ngài. 4a Lạy Thiên Chúa, xin giải thoát con khỏi bàn tay kẻ dữ.
5 Vì lạy Chúa, chính Ngài là Đấng con trông đợi, lạy Đức Chúa, chính Ngài là Đấng con tin tưởng ngay từ độ thanh xuân. 6ab Từ thuở sơ sinh, con nương tựa vào Ngài, Ngài đã kéo con ra khỏi lòng mẹ.
16 Con thuật lại bao chiến công của Chúa, nhắc nhở rằng: chỉ mình Ngài chính trực công minh. 17 Từ độ thanh xuân, lạy Thiên Chúa, con đã được Ngài thương dạy dỗ. Tới giờ này, con vẫn truyền rao vĩ nghiệp của Ngài.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Hall-Hall: Lạy Đức Ki-tô là mầm non từ gốc tổ Gie-sê, Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ. Xin đến mà giải thoát, đừng trì hoãn làm chi. Hall.
TIN MỪNG: Lc 1, 5-25
            5 Thời vua Hê-rô-đê cai trị miền Giu-đê, có một vị tư tế thuộc nhóm A-vi-gia, tên là Da-ca-ri-a; vợ ông là Ê-li-sa-bét cũng thuộc dòng tộc tư tế A-ha-ron. 6 Cả hai ông bà đều là người công chính trước mặt Thiên Chúa, sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì. 7 Nhưng họ lại không có con, vì bà Ê-li-sa-bét là người hiếm hoi. Vả lại, cả hai đều đã cao niên.
8 Sau đây là chuyện xảy ra trong lúc ông đang lo việc tế tự trước nhan Thiên Chúa khi đến phiên của nhóm ông:9 Trong cuộc bắt thăm thường lệ của hàng tư tế, ông đã trúng thăm được vào dâng hương trong Đền Thờ của Đức Chúa. 10 Trong giờ dâng hương đó, toàn thể dân chúng cầu nguyện ở bên ngoài.
11 Bấy giờ một sứ thần của Chúa hiện ra với ông, đứng bên phải hương án. 12 Thấy vậy, ông Da-ca-ri-a bối rối, và nỗi sợ hãi ập xuống trên ông. 13 Nhưng sứ thần bảo ông: "Này ông Da-ca-ri-a, đừng sợ, vì Thiên Chúa đã nhận lời ông cầu xin: bà Ê-li-sa-bét vợ ông sẽ sinh cho ông một đứa con trai, và ông phải đặt tên cho con là Gio-an. 14 Ông sẽ được vui mừng hớn hở, và nhiều người cũng được hỷ hoan ngày con trẻ chào đời. 15 Vì em bé sẽ nên cao cả trước mặt Chúa. Rượu lạt rượu nồng em sẽ đều không uống. Và ngay khi còn trong lòng mẹ, em đã đầy Thánh Thần. 16 Em sẽ đưa nhiều con cái Ít-ra-en về với Đức Chúa là Thiên Chúa của họ. 17 Được đầy thần khí và quyền năng của ngôn sứ Ê-li-a, em sẽ đi trước mặt Chúa, để làm cho lòng cha ông quay về với con cháu, để làm cho tâm tư kẻ ngỗ nghịch lại hướng về nẻo chính đường ngay, và chuẩn bị một dân sẵn sàng đón Chúa. "18 Ông Da-ca-ri-a thưa với sứ thần: "Dựa vào đâu mà tôi biết được điều ấy? Vì tôi đã già, và nhà tôi cũng đã lớn tuổi. "19 Sứ thần đáp: "Tôi là Gáp-ri-en, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. 20 Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. "21 Dân chúng đợi ông Da-ca-ri-a, và lấy làm lạ sao ông ở lại trong cung thánh lâu như thế. 22 Lúc đi ra, ông không nói với họ được, và dân chúng biết là ông đã thấy một thị kiến trong cung thánh. Còn ông, ông chỉ làm hiệu cho họ và vẫn bị câm.
            23 Khi thời gian phục vụ ở Đền Thờ đã mãn, ông trở về nhà. 24 Ít lâu sau, bà Ê-li-sa-bét vợ ông có thai, bà ẩn mình năm tháng. 25 Bà tự nhủ: "Chúa đã làm cho tôi như thế đó, khi Người thương cất nỗi hổ nhục tôi phải chịu trước mặt người đời. "

CẦU NGUYỆN, BẬT MẦM SỐNG!
            Qua các Bài đọc trong Thánh Lễ ngày 19 tháng 12, cho chúng ta những xác tín sau:
-               Cầu nguyện, bật lên mầm sống.
-               Chỉ cầu nguyện nhờ, với, trong Chúa Giêsu, mới được phúc lành của Thiên Chúa.
-               Kẻ nào không tin Chúa là kẻ câm.
-               Phải say sưa Lời Chúa, chứ đừng say rượu, mới trở nên chứng nhân của Chúa.

1/ CẦU NGUYỆN, BẬT LÊN MẦM SỐNG.
            Chúng ta biết, tác giả Luca viết Tin Mừng trong bối cảnh cầu nguyện, nói cách khác, ơn cứu độ Thiên Chúa thực hiện trong Phụng Vụ Chúa Giêsu thiết lập. Bởi thế mở đầu và kết thúc Tin Mừng của Luca, ông cho chúng ta thấy bóng dáng cầu nguyện của tư tế Cựu Ước và tư tế Tân Ước:
-               Mở đầu Tin Mừng, vị tư tế thời Cựu Ước, ông Dacarya vào Đền Thờ cầu nguyện, vợ chồng Dacarya đã cao niên mà chưa có con, sau buổi cầu nguyện đó ông trở về, thì ông bà có con: mầm sống cứu độ bật lên (x. Lc 1, 5t).
-               Kết thúc Tin Mừng, các tư tế thời Tân Ước là các Tông Đồ, sau khi tiễn Thầy Giêsu về Trời, các ông không đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng như ông Mátthêu viết (28, 19-20), nhưng hằng ngày ở trong Đền Thờ chúc tụng Thiên Chúa: Ơn cứu độ được bung ra cho muôn dân (x. Lc 24, 52-53).
            Vì việc cầu nguyện cần thiết và đem lại hiệu quả hơn lòng mọi người mong ước, nên Đức Giêsu dạy chúng ta phải kiên tâm luôn luôn cầu nguyện (x. Lc 18, 1), đừng thua kém bà góa đã kiên nhẫn cầu xin với vị thẩm phán bất lương bênh vực bà, vì ông thẩm phán này thua xa Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót (x. Ep 2, 4-5), Người mau kíp ban ơn cho ta (x. Lc 18, 1-8; Ep 3, 20).
            Đức Giêsu là Thiên Chúa toàn năng mà Ngài còn đặt việc cầu nguyện đứng hàng đầu mọi sinh hoạt. Phúc Âm Lc 4, 31-44 ghi lại thời khóa biểu sinh hoạt mỗi ngày của Đức Giêsu:
            Ngài dứt giảng Lời ở hội đường vào khoảng 9 giờ sáng (theo Luật Do Thái giáo). Sau đó Ngài về nhà mẹ vợ của ông Phêrô, rất nhiều người mắc đủ mọi chứng bệnh, dù bị quỷ ám, đều được Ngài chữa lành, mãi đến chiều tà vẫn còn nhiều bệnh nhân được đưa đến cho Đức Giêsu xin Ngài cứu giúp! Đức Giêsu rất cần thiết cho mọi nhu cầu của người ta đến thế, vậy mà Ngài lại bỏ họ trốn mất! Ông Phêrô cùng các bạn đi lùng kiếm Đức Giêsu. Mãi đến sáng, họ gặp thấy Ngài đang cầu nguyện ở nơi vắng vẻ. Ông Phêrô nói: “Mọi người đi tìm Thầy!” Nói thế, ông hàm ý trách khéo: Thầy tài năng như vậy, tại sao Thầy không ở lại cứu giúp người ta cho bớt khổ?! Thế mà Đức Giêsu lại không bảo: Ai cần tôi điều chi, cứ lại đây, tôi giúp hết…! Mà Ngài lại giục ông Phêrô: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận để Ta rao giảng ở đó nữa. Bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi!” Như vậy, ngày làm việc của Đức Giêsu ưu tiên theo thứ tự:
CẦU NGUYỆN – GIẢNG LỜI – ĐI PHỤC VỤ NHU CẦU THÂN XÁC MỌI NGƯỜI.
            Còn người đời, kể cả các Kitô hữu chỉ lo tìm “tiền – nhà- cơm- áo- thuốc men”, chẳng quan tâm đến việc cầu nguyện, chẳng đặt đứng hàng đầu hay quan trọng nhất, và chẳng khi nào lo việc loan báo Lời Chúa ngay cho những người sống bên cạnh! “Cùng đích của họ là diệt vong, họ lấy cái bụng là Chúa, vinh quang đặt nơi điều đáng xấu hổ, họ chỉ nghĩ đến những điều ở dưới đất!” (Pl 3, 19). Sống như thế làm sao họ muốn đến cùng Đức Giêsu để “Ngài nâng đỡ bổ sức cho” (x. Mt 11, 28). Bởi đó, Đức Giêsu trách: “Ta biết các ngươi: Lòng mến Thiên Chúa các ngươi không có nơi mình các ngươi. Ta đã đến nhân danh Cha Ta, nhưng các ngươi không chịu lấy Ta, thảng hoặc có ai khác lấy danh mình mà đến, thì các ngươi chịu lấy nó. Mà làm sao các ngươi có thể tin được, khi các ngươi cầu vinh với nhau, còn vinh quang Thiên Chúa, là Thiên Chúa duy nhất, các ngươi lại không màng” (Ga 5, 42-44).
            Đức Giêsu phản đối những người nói: Tôi không có đủ giờ cầu nguyện. Ngài kể dụ ngôn: “Người kia làm tiệc lớn đãi khách, khi tiệc đã dọn xong, ông sai đầy tớ đi mời thực khách đã được mời trước đến dự tiệc. Nhưng người thứ nhất quyết liệt chối từ:
-               “Tôi mới mua một thửa đất, tôi phải đi xem đất, không có giờ đi dự tiệc. Người đầy tớ lại đi mời người thứ hai, người này cũng chối:
-               “Tôi mới mua được 5 cặp bò, tôi phải đi thử xem nó có khỏe không, không có giờ đi dự tiệc nào hết!”
            Người đầy tớ lại đi mời người thứ ba. Nhưng người này cũng tìm cách khước từ:
-                           “Tôi mới cưới vợ, không có thì giờ đi đâu cả!”
               (x. Lc 14, 15-20)
Thật là vô lý, có ai mua đất mà lại không xem đất trước khi bỏ tiền mua? Có ai mua bò rồi mới đi thử xem nó khỏe hay yếu? Còn ai đã lấy vợ, đã ổn định việc hỏi cưới, sao không đưa vợ đi dự tiệc chung, vì tiệc lúc nào cũng còn trống chỗ, đến nỗi chủ tiệc sai đầy tớ ra đường nài ép bất luận ai vào dự tiệc!
Vậy:
 Tôi bảo không có giờ làm việc này, chỉ có nghĩa là giờ tôi dành cho việc mà tôi tự cho là quan trọng. Quan trọng việc gì, thì có giờ cho việc đó!”
2/ CHỈ CẦU NGUYỆN NHỜ, VỚI, TRONG CHÚA GIÊSU, MỚI ĐƯỢC PHÚC LÀNH CỦA THIÊN CHÚA.
            Việc cầu nguyện đạt đỉnh cao nơi Phụng Vụ Chúa Giêsu thiết lập, đặc biệt là Thánh Lễ, vì Đức Giêsu đã nói: “Chúa Cha chỉ muốn gặp những người thờ phượng Ngài trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4, 23-24).
-               Thần Khí là Lời Chúa (x. Ga 6, 63).
-               Sự Thật là Chúa Giêsu (x. Ga 14, 6).
Vậy thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Sự Thật, chính là thờ phượng Người nhờ Hy Tế của Chúa Giêsu. Vì Thần Khí (Lời Chúa) và Sự Thật (Chúa Giêsu) là hai phần chính của Thánh Lễ.
Thực vậy, mở đầu Tin Mừng của Luca, vị tư tế thời Cựu Ước là ông Dacarya, sau buổi cầu nguyện, ông trở ra với dân thì ông đã bị câm, ông không nói được gì với ai, ông chỉ giơ tay quơ quơ làm hiệu, và mọi người hiểu rằng ông đã gặp sự lạ (x. Lc 1, 22).
Kết thúc Tin Mừng, Vị Thượng Tế Tối Cao thời Tân Ước chính là Chúa Giêsu, sau cuộc đời phục vụ đến mất mạng, và Ngài đã từ cõi chết sống lại, trước khi lìa biệt các môn đệ lên trời, Ngài giơ tay chúc lành cho họ (x. Lc 24, 50).
Hai sự kiện đối lập trên, thánh sử Luca muốn xác quyết cho chúng ta rằng:
* Ông Dacarya là tư tế cuối cùng của Cựu Ước, dù việc ông trúng thăm vào dâng hương trong cung thánh để cầu nguyện là được Chúa chọn, nên Chúa đã hứa cho ông sinh con trong tuổi già. Nhưng việc cử hành Phụng Vụ của ông Dacarya theo thể thức ông Môsê thiết lập từ nay phải cáo chung: Phụng Vụ này không còn nói gì được cho dân nữa: Ông Dacarya bị câm! Là dấu chỉ Phụng Vụ Do Thái không thể nói với ai được điều gì có giá trị, vị tư tế có giơ tay lên cũng chỉ quơ quơ vô ích.
* Khi Phụng Vụ Cựu Ước đến ngày cáo chung, thì Chúa Giêsu là Vị Thượng Tế của thời Tân Ước bắt đầu xuất hiện để thi hành ý Cha trên trời, hơn tư tế Dacarya chỉ làm những động tác theo nghi thức Phụng Vụ của loài người thiết lập, nên thua xa Chúa Giêsu, Ngài thiết lập Phụng Vụ mới thay thế Phụng Vụ Do Thái bằng cả một cuộc đời phục vụ theo ý Cha cho đến chết trên thập giá. Rồi Ngài truyền cho Hội Thánh phải làm hiện tại hóa Hy Lễ đó. Nói như kiểu thánh Gioan: “Ai nói mình ở trong Chúa Giêsu, thì Người đi đứng thế nào, kẻ ấy cũng phải như thế” (1Ga 2, 6). Chỉ khi nào vị Tư Tế thời Tân Ước sống như Chúa Giêsu đã sống, khi họ dâng Lễ mới có thể giơ tay ban phúc lành cho dân, nối dài phúc lành từ bàn tay Chúa Giêsu Phục Sinh trên các thánh Tông Đồ.
3/ KẺ NÀO KHÔNG TIN CHÚA LÀ KẺ CÂM, ngược lại kẻ không nói về Thiên Chúa thì thua ma quỷ. Vì “trong hội đường của họ, có một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: “Ông Giêsu Nadarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa!” (Mc 1, 23-24).
            Trong hai cuộc Truyền Tin cho ông Dacarya và cho Đức Maria, chúng ta thấy hai câu hỏi của ông Dacarya và của Đức Maria nội dung tương tự giống nhau:
-               Ông Dacarya khi được Thiên thần báo cho biết sẽ sinh con, thì ông thắc mắc thưa lại: “Làm sao tôi biết được, vì tôi đã già và vợ tôi đã cao niên?” (Lc 1, 18).
-               Khi Thiên thần báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ sinh Con Đấng Tối Cao”, thì Mẹ cũng thắc mắc: “Điều ấy sẽ làm sao, vì việc vợ chồng tôi không nghĩ tới” (Lc 1, 34).
            Tại sao sau câu hỏi của ông Dacarya, liền bị Thiên thần kết án: “Vì ông không tin nên Chúa cho ông một dấu: bị câm!” (x. Lc 1, 19-20)
            Trong khi đó, bà Elysabeth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người sẽ nói với em” (Lc 1, 45).
            Sở dĩ ông Dacarya bị câm. Vì “sứ thần nói: "Tôi là Gabiel, hằng đứng chầu trước mặt Thiên Chúa, tôi được sai đến nói với ông và loan báo tin mừng ấy cho ông. Và này đây ông sẽ bị câm, không nói được, cho đến ngày các điều ấy xảy ra, bởi vì ông đã không tin lời tôi, là những lời sẽ được ứng nghiệm đúng thời đúng buổi. ” (Lc 1, 19-20: Tin Mừng). Trong khi đó ông Dacarya là tư tế, ông am hiểu Kinh Thánh, Thiên Chúa là Đấng toàn năng và yêu thương, Ngài đã từng làm cho nhiều đôi vợ chồng già sinh con, cụ thể: vợ chồng Abraham và Sara đã được Chúa cho sinh Isaac (x. St 18, 11); vợ chồng Giacob và Rakel, Chúa cho sinh Giuse và Benyamin (x. St 30, 22-24; 35, 16-19); vợ chồng Manoah, Chúa cho sinh Samson (x. Tl/Qa 13, 2); vợ chồng Elqanah và Anna, Chúa cho sinh Samuel (x. 1Sm 1, 9t) v. v…
            Những đôi vợ chồng cao niên trên đây Chúa đã cho sinh con, không đủ bằng chứng cho ông Dacarya tin vào quyền năng và tình thương của Chúa hay sao? Mà ông còn thắc mắc: Già rồi, sao có thể sinh?
            Khác hẳn Đức Maria, Mẹ thắc mắc vì không ăn ở với người nam làm sao lại có thai? Quả thật trong lịch sử loài người, chưa hề xảy ra một trường hợp nào như thế, do đó Đức Maria có quyền xin lời giải thích, và khi Thiên thần đã giải thích cho Đức Maria là do quyền năng của Chúa Thánh Thần, thì Mẹ mau mắn nói tiếng Xin Vâng ngay.
            Bởi thế, lời Kinh Thánh nói: “Kẻ nào không tin Thiên Chúa thì vô phương đẹp lòng Chúa” (Dt 11, 6).
4/ PHẢI SAY SƯA LỜI CHÚA, CHỨ ĐỪNG SAY RƯỢU, MỚI TRỞ NÊN CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA.
-               Khi vợ ông Manoah được Chúa cho biết sẽ sinh một con trai đặt tên là Samson, thì Chúa cấm bà không được động đến chất có men (x. Tl/Qa 13, 4. 7: Bài đọc).
-               Khi ông Gioan được chào đời, ông Dacarya cũng nói về con của ông: Không đụng đến chất có men (x. Lc 1, 15).
Bởi vì rượu như con dao hai lưỡi: Trong sinh hoạt ăn uống hằng ngày, nhất là tiệc tùng, không có rượu thì không phải là tiệc. Chính Đức Maria khi dự tiệc cưới Cana, người ta thiếu rượu, Mẹ đã can thiệp lên tiếng nói với Đức Giêsu ban cho họ rượu mới ngon hơn rượu cũ (x. Ga 2, 3t); Đức Giêsu cũng dùng rượu để lập Bí tích Thánh Thể (x. Lc 22, 17); thánh Phaolô cũng khuyên đồ đệ Timôthêu nên uống chút rượu cần cho sức khỏe (x. 1Tm 5, 23).
Nhưng lạm dụng rượu đến say xỉn thì vô cùng độc ác, con người mất hết danh dự, mất uy tín. Chính vì vậy mà Thánh Kinh đã không tiếc lời nguyền rủa những kẻ mê rượu: “Dành cho ai những “thôi rồi”? Dành cho những “hỡi ôi”? Dành cho ai những gây gổ? Dành cho ai những lời than vãn? Dành cho ai những vết thương chẳng lý do? Dành cho ai những con mắt đỏ ngầu? Đó là những kẻ nán lại bên bầu rượu, những kẻ đã nếm đủ thứ rượu ngon! Đừng để mắt ngó rượu, nó đỏ làm sao, nó óng ánh thế nào trong chén, rồi nó ực xuống cổ! Nhưng cuối cùng nó cắn như rắn lục, nọc độc hổ mang! Mắt con sẽ thấy những điều lạ lùng, và miệng con sẽ nói ba hoa bậy bạ” (Cn 23, 29-33- Bản dịch NTT).
Ngôn sứ Habacuc cũng lên án: “Khốn thay kẻ chuốc rượu cho anh em mình, kẻ pha chất độc làm cho nó say sưa, để thấy nó trần truồng. Ngươi đã thấm nhục nhã, chứ không phải vinh quang. Đến lượt ngươi, ngươi phải uống và để lộ của quý ra. ” (Habacuc 2, 15-16a).
Vì những kẻ mê rượu để hưởng thụ sự ngây ngất làm mất uy tín của mình, nên dù nó có nói phải, người ta cũng kết án là rượu nói, chẳng ai muốn nghe. Thánh Phêrô trong lúc say sưa giảng Lời cho một tập thể từ khắp tứ phương kéo đến, ít nhất có 3. 000 người nghe ông Phêrô giảng đã xin chịu Thánh Tẩy. Những người khác chống đối sự kiện ấy, thì họ lếu láo kết án ông: “Lão bứ rượu rồi!” Ông Phêrô phải lên tiếng giải thích: “Bây giờ mới là giờ thứ ba (9 giờ sáng), chưa đến giờ ăn uống, làm sao nói tôi say”, nhưng họ vẫn không tin ông! (x. Cv 2, 13. 15)
Vì vậy thánh Phaolô khuyên: “Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư thân, nhưng hãy làm sao cho được no đầy Thần Khí. ” (Ep 5, 18).
Vậy chỉ những ai say sưa Lời Chúa mới xứng đáng được Lời Kinh Thánh xác nhận: “Miệng chứa chan lời tán tụng Chúa, suốt ngày con chẳng ngớt tôn vinh Ngài” (Tv 71/70, 8: Đáp ca).
Lạy Đức Kitô là mầm non từ gốc tổ Giesê, Ngài chiêu tập muôn dân dưới hiệu kỳ. Xin đến mà giải thoát, đừng trì hoãn làm chi” (Tung Hô Tin Mừng).
THUỘC LÒNG
Đừng say sưa rượu chè chỉ tổ hư thân, nhưng hãy làm sao cho được no đầy Thần Khí. (Ep 5, 18).
Kẻ nào không tin Thiên Chúa thì vô phương đẹp lòng Chúa (Dt 11, 6).
 LM. GIUSE ĐINH QUANG THỊNH