Giáo
Lý Phúc Âm
Chúa Nhật XXXII Quanh Năm _ C
Chúa Nhật XXXII Quanh Năm _ C
I. Giáo Huấn Phúc Âm
Có đời sau, tức có đời
sống sau khi chết.
Đời sống sau khi chết:
Hạnh phúc bất diệt, siêu thoát như thiên thần, không cần đời sống vợ chồng,
người ta không còn tìm kiếm một hạnh phúc nào khác ngoài chiêm ngưỡng thánh
nhan Thiên chúa.
II. Vấn nạn
Phúc Âm
Luật
lấy vợ goá của anh hay em mình:
Trong
tiếng Do Thái gọi là Yibbum, tiềng La-tinh gọi là Levir, có nghĩa anh em chồng,
Luật Yibbum hay Levir buộc anh hay em của người đàn ông chết mà không có con
trai nối dòng phải lấy người vợ goá của anh hay em mình. Người vợ goá cũng bị
buộc phải lấy anh hay em trai của chồng mình để sinh con trai cho dòng họ nhà
chồng cũng như giữ gia sản bên chồng không cho thất thoát sang những gia đình
khác.
Luật Yibbum phát xuất từ Sách Đệ Nhị Luật
chương 25:5-10 nói rằng: “Khi có những anh em ở chung
với nhau, và một trong những người đó chết mà không có con trai, thì vợ của
người chết không được lấy một người xa lạ, ngoài gia đình; một người anh em
chồng sẽ đến với nàng, lấy nàng làm vợ và chu toàn bổn phận của một người anh
em chồng đối với nàng. Đứa con đầu lòng nàng sinh ra sẽ duy trì tên của người
anh em đã chết; như vậy tên của người chết sẽ không bị xoá khỏi Ít-ra-en. Nhưng
nếu người đàn ông ấy không thích lấy chị dâu hay em dâu mình, thì nàng sẽ lên
cửa thành, gặp các kỳ mục và thưa: "Người anh em chồng tôi từ chối không chịu
lưu truyền tên tuổi của anh em mình ở Ít-ra-en, người ấy không muốn chu toàn
bổn phận của một người anh em chồng đối với tôi." Các kỳ mục trong thành
sẽ gọi người đàn ông đến và nói với người ấy. Người ấy sẽ đứng đấy và nói:
"Tôi không thích lấy cô ấy." Người chị dâu hay em dâu sẽ đến gần
người ấy trước mặt các kỳ mục, rút một chiếc dép người ấy ra khỏi chân, nhổ vào
mặt người ấy và lên tiếng nói: "Kẻ không xây nhà cho người anh em mình thì
phải xử như thế đó!" Trong Ít-ra-en, người ta sẽ gọi tên người ấy là
"nhà kẻ bị lột dép."
Đời sống
độc thân linh mục Công Giáo theo nghi lễ Rôma có phải là dấu chứng của đời sống
mai sau “trên thiên đàng, người ta không còn dựng vợ gả chồng không?” Hiện tại
Giáo Sĩ Công Giáo bị tố cáo nặng nề về tội Child Sexual Abuse tức lạm dụng tính
dục với trẻ em, đặc biệt giữa linh mục với các trẻ em trai. Tại sao Giáo Hội
không bỏ luật độc thân linh mục, để linh mục có vợ con bình thường và tránh
được những tội đáng khinh trên?
Xin đồng
ý rằng: Độc thân linh mục là luật Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ La-tinh, chứ
không là luật Chúa. Nó cũng giống như luật ăn chay kiêng thịt trong các ngày
Thứ Tư Lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh, tức Giáo Hội có thể thay đổi, miễn chuẩn
hay gia giảm cách nào đó tuỳ theo hoàn cảnh. Tuyệt đại da số các tông đồ, các
môn đệ Chúa đều là những người có đời sống gia đình. Cho dù nhiều Giám Mục và
linh mục đã giữ lời khuyên sống độc thân ngay từ những thế kỷ đầu, nhưng luật
độc thân linh mục Công Giáo theo nghi lễ La-Tinh chỉ thành hình chính thức với
Công Đồng Tridentinô năm 1563.
Khi học
về khoản Giáo luật 277, luật độc thân linh mục Công Giáo theo nghi lễ Rôma, trong
Class notes for the use of students, tôi thấy có những thống kê như sau trong
lịch sử thành hình luật độc thân linh mục Công giáo theo nghi lễ La-tinh:
Có 7 Giáo Hoàng có vợ con
trên tổng số 265 Giáo Hoàng cho đến ngày nay. Trong số nầy có bốn Giáo Hoàng có
vợ làm thánh.
Thánh Giáo Hoàng Phêrô,
tông đồ, Giáo hoàng tiên khởi
Thánh Giáo Hoàng Felix III
năm 483-492, có hai con.
Thánh Giáo Hoàng Hormidas
năm 514-523, có một con
Thánh Giáo Hoàng Silverus
năm 536-537, có vài đứa con
Giáo Hoàng Hadrian II năm
867-872 có một đứa con gái
Giáo Hoàng Clêmentê IV năm
1265-1268 có hai con gái
Giáo Hoàng Felix V năm
1439-1449 có một con trai.
Có 11 Giáo Hoàng, có năm vị là thánh, là con trai của các Giáo Hoàng hay của các Giáo Sĩ:
Thánh Giáo Hoàng Damascus I, Giáo Hoàng từ năm 366-384 Ngài là con trai của Cha Antonius, linh mục cai quản đền thờ San Lorenzo ở Rôma. Có sách ghi Ngài là con của Cha Thánh Lorenzo.
Thánh Giáo Hoàng Innocentê I, Giáo Hoàng từ
năm 401-417 là con trai của Giáo Hoàng Anastasius I, làm Giáo Hoàng từ năm
399-401
Giáo Hoàng Boniface, Giáo Hoàngn từ năm
418-422, là con trai của một linh mục.
Thánh Giáo Hoàng Felix, Giáo Hoàng từ năm
483-492, là con trai của một linh mục.
Giáo Hoàng Anastasiius II, Giáo Hoàng từ
năm 496-498, là con của một linh muc.
Thánh Giáo Hoàng Agappitus I, Giáo Hoàng
năm 535-536, con của linh mục Gordiaous
Thánh Giáo Hoàng Silverus, Giáo Hoàng
536-537, con trai của Thánh Giáo Hoàng Homidas, Giáo Hoàng 514-523
Giáo Hoàng Deusdedit, Giáo Hoàng năm
882-884, con của một linh mục.
Boniface VI, Giáo Hoàng 896-896, Con của
Giám Mục Hadrian
Giáo Hoàng Gioan XI, Giáo Hoàng 931-935 con
trai của Giáo Hoàng Sergius III, Giáo Hoàng 904-911.
Giáo Hoàng Gioan XV, Giáo Hoàng năm
989-996, con của linh mục Lêo.
Sau năm 1139, lúc mà luật độc thân linh mục đang bàn cãi, sau đó đi đến chỗ thành hình thì cũng có sáu Giáo Hoàng có con ngoại hôn, tức những đứa con ngoài hôn thú hay bất hợp luật, illegitimate children
Giáo Hoàng Innocentê VIII,
Giáo Hoàng từ năm 1484-1492 có vài đứa con ngoại hôn.
Giáo Hoàng Alexander VI,
năm 1492-1503 cũng có vài đứa con bất hợp luật.
Giáo Hoàng Julius năm
1503-1513 có ba cô con gái ngoại hôn
Giáo Hoàng Phaolô III năm
1534-1549 có ba con trai và một con gái ngoại hôn.
Giáo Hoàng Pius IV, năm
1559-1565 có ba con trai bất hợp luật.
Giáo Hoàng Grêgôriô XII,
năm 1572-1585 có một con trai ngoại hôn
Chắn chắn có người chỉ trích rằng: tại sao vạch áo cho người xem lưng?
Đây là sự thật lịch sử, không nên giấu và cũng không thể giấu. Khi nêu những sự kiện lịch sử trên, tôi muốn nói rằng: Giáo Hội hay Hội Thánh là Thánh Thiện, vì do Chúa là Đấng Thánh sáng lập, vì bao gồm những thành phần được thánh hoá qua bí tích Rửa tội và tất cả đang trên hành trình về nơi thánh là thiên đàng. Nhưng đây cũng là một Giáo Hội trần thế, đồng hành với nhân loại, mang những hậu quả của tội lỗi. Hội Thánh nầy trên đường nên thánh, nên mọi luật lệ đều phải có lịch sử hình thành như luật độc thân linh mục.
Luật độc thân linh mục đã phải trải qua đường dài
lịch sử với nhiều quan niệm đối nghịch và sau cùng thành luật. Luật độc thân
linh mục thành hình vì như Hồng Y Joseph Ratzinger trong diễn từ “muối cho trần
gian” xác tín: “Quả vậy, có những người không kết hôn vì từ khi lọt lòng
mẹ, họ đã không có khả năng; có những người không thể kết hôn vì bị người ta
hoạn; lại có những người tự ý không kết hôn vì Nước Trời. Ai hiểu được thì
hiểu." (Matthêô 19:12).
Giáo luật qui định rất rõ về mục đích tại
sao linh mục phải giữ luật độc thân:
Ðiều 277: (1) Các giáo sĩ buộc phải
giữ sự khiết tịnh hoàn toàn và trọn đời vì Nước Trời, vì vậy họ phải ở độc
thân, là một ơn đặc biệt của Thiên Chúa, nhờ đó các tác viên thánh có thể gắn
bó với Ðức Kitô dễ dàng hơn với một con tim không bị chia sẻ và được thong dong
hơn để hiến thân phục vụ Thiên Chúa và nhân loại.
(2) Các giáo sĩ phải khôn ngoan khi giao
tiếp với những người mà sự năng lui tới với họ có thể gây nguy hại cho việc giữ
sự khiết tịnh hoặc sinh ra gương xấu cho giáo hữu.
(3) Giám Mục giáo phận có thẩm quyền ra
những qui luật cụ thể hơn trong vấn đề này và xét định về việc tuân hành trong
những trường hợp riêng biệt.
Luật độc thân
linh mục ban hành và phải tuân giữ tự nguyện vì nước trời. Vì Nước Trời hay vì
Chúa hay vì phần rỗi các linh hồn… tất cả đều căn cứ trên Chúa Giêsu, người độc
thân mẫu mực. Linh mục hành xử in Persona Christi, trong con người của Chúa
Kitô. Nên phải độc thân như Chúa Kitô. Trong sách Dân Số chương 1: 48-53 cũng
đề cập dến linh mục được dành riêng cho chi tộc Lêvi. Những tư tế nầy lấy Chúa
làm gia nghiệp.
Trong Thư I gửi Giáo Đoàn Corintô 7-25, Thánh
Phaolô cũng khẳng định: Độc thân là món quà đặc biệt do Chúa ban. Người sống
độc thân thì dễ thuộc về Chúa hơn. Tuy nhiên sống đời sống gia đình cũng không
phải là xấu. “Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì.
Đàn ông không có vợ thì chuyên lo việc Chúa: họ tìm cách làm đẹp lòng Người.
Còn người có vợ thì lo lắng việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng vợ, thế là họ bị
chia đôi. Cũng vậy, đàn bà không có chồng và người trinh nữ thì chuyên lo việc
Chúa, để thuộc trọn về Người cả hồn lẫn xác. Còn người có chồng thì lo lắng
việc đời: họ tìm cách làm đẹp lòng chồng. Tôi nói thế là để mong tìm ích lợi
cho anh chị em, tôi không có ý gài bẫy anh chị em đâu, nhưng chỉ muốn đề nghị
với anh chị em một điều tốt, để anh chị em được gắn bó cùng Chúa mà không bị
giằng co”
Giáo sĩ Công Giáo theo nghi lễ Rôma hiện tại
bị tố cáo nặng nề vì tội lạm dụng tình dục trẻ em. Những tổng giáo phận lớn như
Boston ở Mỹ đã gần như phá sản vì bồi hoàn thiệt hại trong những vụ kiện lạm
dụng tình dục. Năm 2008, tổng Giáo Phận Los Angeles ở Mỹ đa phải đền bối một số
tiển gần 650 triệu mỹ kim vì những vụ lạm dụng tình dục của giáo sĩ. Ngày 18
tháng 3 năm 2010 vừa qua, Đức Giáo Hoàng Bênêdictô thứ XVI đã phải công khai
xin lỗi thế giới và dân Ái nhĩ Lan vì nạn lạm dụng tình dục gây ra bởi giáo sĩ
của Giáo Hội Ái Nhĩ Lan.
Từ những thảm kịch nầy, người ta hô hào huỷ bỏ
luật độc thân linh mục. Tuy nhiên xin hỏi là: Vì linh mục công giáo La Mã phải
sống độc thân nên mới xảy ra lạm dụng tình dục trẻ em hay vì nguyên do gì khác?
Vì những Giáo Hội Tin Lành như Anh Giáo, hay Lutêrô hay United Church, Giáo sĩ những
Giáo Hội nầy đâu có giữ luật độc thân, nhưng cũng có những vụ kiện lạm dụng
tình dục trẻ em?
Vậy thì vấn đề không nằm chỗ: độc thân linh mục mà đúng hơn vì linh
mục không hành xử trong con người của Chúa Kitô, người tự nguyện độc thân vì nước
trời hay nói khác đi vì “lòng nhiệt thành nhà Chúa thiêu đốt tâm can con!”
(thánh Vịnh 69:9). Linh mục không giữ được độc thân vì còn yêu mình nhiều hơn
yêu Chúa hay chưa sống chết vì nước trời và vì phần rỗi nhân loại.
Tại sao lại không còn dựng vợ gả chồng trên thiên đàng?
Điều nầy không có nghĩa là những ai đã là vợ chồng ở dưới trần gian
từ trước thì trên thiên đàng không còn nhìn mặt nhau nữa hay ngoãnh mặt làm
ngơ. Cũng không có nghĩa là ai đã là vợ chồng ở dười trần gian thì cố quên đi
và phải lấy làm xấu hổ vì quan hệ khăng khít vợ chồng. Chúa không hề để cập đến
chuyện nầy. Ngài chỉ nói là người ta sống như thiên thần, tức chuyện dựng vợ gã
chồng không cần thiết.
Tại sao không cần?
Chúa dựng Eva để làm vợ Adong, vì “Đàn Ông
ở một mình không tốt, Ta sẽ cho anh ta một người giúp đỡ!” Nên chuyện vợ chồng
là để chống lại cô đơn và giúp đỡ nhau, chúng ta gọi là mutual support. Trên
thiên đàng, chúng ta được vây quanh bởi muôn ngàn thần thánh như trong Sách
Khải Huyền chương 7, câu 9. Hơn nữa không ai cảm thấy cô đơn cả và không ai cảm
thấy cần sự giúp đỡ của người khác cả, vì đã quá thoả mãn và đầy đủ.
Mục đích của hôn nhân là để sinh con đẻ cái
cho đầy mặt đất hai nói khác đi là để đóng góp vào chương trình sáng tạo của
Thiên Chúa. Trên thiên đàng không cần sinh sản thêm. Vả lại, đời sống tính dục
hay quan hệ sinh lý vợ chồng là cách thoả mãn nhau. Trên thiên đàng Chúa thoả
mãn chúng ta khôn cùng. Hạnh phúc thiên đàng không còn làm cho chúng ta có một khao
khát nào khác. Nên không cần chuyện thoả mãn tình dục trong vấn đề vợ chồng.
III. Thực
hành Phúc Âm
Đi tu làm linh mục là sướng nhất trên đời.
Đi tu làm linh mục, có Chúa là có tất cả, đâu còn cần gì nữa.
Đây là những câu nói rất thường nghe, nhưng không phát xuất từ
người đi tu hay từ linh mục, nhưng từ người không đi tu hay từ người chuyên
khuyến khích người khác đi tu.
Ngày xưa tôi nghe chính miệng ba của một anh bạn cùng đi tu nói:
Thằng T. mà làm cha là tao sẵn sàng đốt nhà bỏ. Căn nhà Ông rất đáng giá: nhà
ngói mới và rộng đẹp. Người dân quê muốn diễn tả ý rằng: Căn nhà nầy không là gì
so với chức linh mục. Ông không cần nhà ở, chỉ cần con ông làm linh mục là ông
mãn nguyện.
Cũng có người nhắn nhủ con mình: Con làm bác sĩ, kỷ sư… không làm
cho mẹ mừng. Mẹ mừng nhất là con được làm linh mục.
Nhiều lời khuyến khích và đánh giá chức linh mục thật cao cả như
vậy. Vì đi tu là sướng nhất, là cao trọng nhất, là đầy đủ nhất. Sướng nhất vì
được người lớn trẻ em đều gọi bằng Cha, được mọi người cung phụng. Cao trọng nhất
vì được làm việc thánh như dâng lễ, giải tội. Đầy đủ nhất vì nhiều quà cáp,
nhiều ưu đãi. Chính vì những đánh giá nầy mà có nhiều người buộc phải làm linh
mục.
Thực tế, linh mục là con người như chúng ta, nhưng hành xử như
Chúa. Nên cái nghiệt ngã là bắt con người làm chuyện thần thánh. Luật độc thân
linh mục là chuyện thần thánh thực hiện trong con người phàm tục. Hàng ngày tôi
quan sát 8 linh mục già nua sống chung nhà với tôi. Tôi thật thương các Ngài:
vì cô đơn, bệnh hoạn, không thân nhân, không bạn bè hay con cháu đến thăm… lủi
thủi một mình. Không việc gì làm, nên bao giờ cũng đến ngối chờ sẵn trong nhà
cơm dù còn 10 phút nữa mời đến giờ ăn.
Hàng ngày những linh mục già nua cô đơn nầy là một nhắc nhở cho
tôi: Chả bao lâu nữa tôi cũng như vậy. Những linh mục nầy, với đời sống cô đơn
đến ngao ngán làm tôi ý thức sự hy sinh lớn lao của các Ngài trong đời sống độc
thân linh mục vì nước trời. Nước Trời sẽ đến. Nước trời có Chúa, có muôn thần
thánh hát suốt ngày đêm chung quanh. Nhưng phải đánh đổi bằng một cuộc sống
thật cô đơn và buồn tẻ trong tuổi già, không một tiếng hát, không một ai thèm
hỏi thăm.
Không cần có một tổ chức rầm rộ. Chỉ cần năm ba gia đình trong giáo
xứ rỉ tai nhau, chia phiên nhau đi thăm quí Cha già hưu trí chung quanh chỗ
mình ở. Thăm các linh mục già cô đơn để thông cảm và tha thứ cho những linh mục
“sa ngã” vì sợ cô đơn, để biết xem đi tu làm linh mục sống đời độc thân “khoẻ”
đến chừng nào, để biết những linh mục sống đời độc thân đã hy sinh đến chừng
nào, để thông cảm sự nóng tính hay phản ứng hơi bất thường nơi Cha xứ của anh
chị em. Linh mục thật cao cả, vì phàm nhân mà làm khanh tướng, người phàm mà
làm việc của Chúa. Nước Trời thật xa, hạnh phúc mai sau cũng không gần. Cái cận
thân hàng ngày là cô đơn, trống vắng và thiếu thông cảm trong đời linh mục,
nhất là ở tuổi già.
Lm.
Phêrô Trần thế Tuyên