Các bài suy niệm CHÚA NHẬT
26 THƯỜNG NIÊN - C
Người giàu
và người nghèo Lm.
Carôlô Hồ Bặc Xái
|
|
Giàu của
giàu lòng Lm
Giuse Đinh lập Liễm
|
|
Khi con
người bạc tình Lm.Jos
Tạ Duy Tuyền
|
|
Ông
Schweitzer và người nghèo Cha Mark Link, S.J.
|
|
Quy luật của
sự sống Linh
mục Inhaxiô Trần Ngà
|
|
Của cải
chân thật M. Hoàng Thị
Thùy Trang
|
|
Thế giới
tình yêu Sưu tầm
|
|
Người phú
hộ giàu có... Sưu tầm
|
|
Chia sẻ
Lm. Giuse Trần Việt
Hùng
|
|
Sống trong
thế giới trái ngược Sưu tầm
|
|
Giàu có
Sưu tầm
|
GPCANTHO.COM
1. Tiền
Cách
đây mấy năm, một nguyệt san xuất bản tại Luân Đôn có yêu cầu độc giả đưa ra một
định nghĩa về tiền bạc và cho biết độc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ
được trọng thưởng. Toà soạn đã nhận được hàng ngàn câu định nghĩa khác nhau và
đây là câu định nghĩa đã trúng giải nhất: Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng,
với nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới này ngoại trừ lên thiên
đàng là không được. Với nó, chúng ta có thể mua sắm mọi sự, trừ hạnh phúc là
không thể được.
Thật
là một câu định nghĩa chí lý, nó diễn tả một sự thật mà chúng ta thường quên,
hay biết mà giả điếc làm ngơ không muốn nghĩ tới và cũng không muốn nghe nói tới.
Nó cũng giúp giải thích lý do tại sao người giàu tiền bạc và của cải vật chất lại
khó được ơn cứu độ hay thường đánh mất đi ơn cứu độ của mình.
Từ
câu định nghĩa trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy:
Ladarô không phải vì nghèo mà được vào thiên đàng, còn ông phú hộ không phải vì
giàu mà bị sa hoả ngục. Đúng thế, Ladarô được hạnh phúc chắc hẳn là vì anh đã
không oán trách và mất đi niềm tin của mình vào Thiên Chúa, dù phải sống trong
cảnh khốn cùng. Còn ông phú hộ đã đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã sống ích
kỷ, chỉ biết nghĩ đến mình và ăn chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn thấy hay
giả bộ không nhìn thấy để khỏi phải trợ giúp cho Ladarô.
Và
như thế tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tư tưởng và
đường lối của người đời, bởi vì người đời coi danh vọng, tiền bạc và thành công
là bảo đảm của ơn cứu độ để rồi không cần và không trông đợi gì nơi Thiên Chúa nữa.
Trong khi đó, đối với Thiên Chúa thì chỉ có người nghèo, người biết sống theo
quan niệm của Ngài, người có được cái nhìn của Ngài mới là những cộng sự viên cần
thiết mà thôi. Chỉ có người biết sống theo tình thần nghèo khó, nghĩa là luôn ý
thức những hạn hép và bất toàn của mình, không tự cứu rỗi được, nên phải mở rộng
cõi lòng đón nhận ơn Chúa, cậy dựa vào lòng thương xót của Ngài là được cứu rỗi.
Và
trong ý nghĩa đó, người có nhiều tiền của cũng có thể là người nghèo và được cứu
độ vì đã biết sống theo tinh thần của Chúa, liêm chính trong công ăn việc làm,
quảng đại chia sẻ tiền bạc vật chất cũng như tinh thần cho anh em. Đồng thời kẻ
không có một đồng xu dính túi cũng vẫn có thể là người giàu vì tâm hồn bất
chính, ích kỷ và kiêu căng, cậy dựa vào sức riêng của mình không cần đến Chúa
và ơn thánh của Ngài. Bởi đó hãy hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút hiện
tại mới thực là quan trọng, nó chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể sống
như chúng ta muốn và xây dựng cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện nhất, vì
ngày mai phải được bắt đầu từ ngày hôm nay.
2. Tiền bạc
Tại
sao ông phú hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?
Câu
trả lời thật đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù
sống trên nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp
đỡ cho Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một
chút của bố thí dư thừa.
Xem
thế, chúng ta thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban.
Chúng ta được phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng
đáng với phẩm giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu.
Thế nhưng ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ
những người chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã
bảo: Hữu lộc bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những
hành động bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta
thương giúp người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm
phúc bố thì là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho
tàng ở đời sau.
Để
giúp chúng ta hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện
này, là hãy biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực
và giúp đỡ chúng ta bước vào quê trời:
Ông
chủ một thửa vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng,
đưa mắt nhìn vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người
yêu thích trẻ nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn,
nhưng không được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các
túi và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm
lạ vì thấy hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm
một cái gì đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn
hỏi. Hai em đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi
sau đó sẽ lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và
cho phép hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.
Hai
em nhỏ là mỗi người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian,
nơi chúng ta đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có
được, chẳng hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta
không thể đem theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách
hành động, để ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết
chia sẻ phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những
người túng thiếu...
Điều
này Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét
Chúa sẽ nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các
ngươi đã cho uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị
cầm tù, các ngươi đã viếng thăm… Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ
xứng đáng là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng
bội hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc
sống mai sau.
3. Liên đới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Toàn
cầu hóa đã giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một
cộng đồng sinh mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người.
Cứu người chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ
mau chóng lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể
thiếu được trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện
mà còn là một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên
đới, nhân loại đang đi vào con đường Phúc Âm.
Trong
Phúc Âm, Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi
người đều là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.
Bài
Phúc Âm hôm nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều
người bất mãn tự hỏi: “Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông
không gian tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông
làm ra, ông có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?”.
Vâng,
giàu có đâu phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích
cực của tiền bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào
cuộc sống vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu
không biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.
Nguy
cơ thứ nhất là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.
Khi
đó tiền bạc sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con
chim bị cột, không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh
niên đạo đức trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời
đời. Anh muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã
ngăn cản bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã
trói buộc bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường
xưa cũ.
Nguy
cơ thứ hai là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.
Người
có nhiều tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có,
người giàu sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người
chung quanh. Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có
nhà cao cửa rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải
mê hưởng thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp
bên cửa nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông
cũng không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông
thành vô cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu
có tiếc gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những
mẩu bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư
ăn cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.
Nguy
cơ lớn nhất mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.
Hạnh
phúc trên Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba
Ngôi. Tình yêu của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất
cả để nhận lãnh được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết
chia sẻ, không thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là
người tự chọn con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của
tha nhân, là người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là
người tự trục xuất mình ra khỏi Nước Trời.
Bây
giờ thì chúng ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông
nhà giàu không có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới,
thiếu sót sự chia sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô.
Nay cánh cửa đó biến thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông
chỉ cần xoay nắm mở cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được
vực thẳm ngăn cách. Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông
biết mình cần Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không
tạo lập ở thế gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua
dụ ngôn này, Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng
sống với người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không
bao giờ gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm
liên đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung
quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện hằng
ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ bất hạnh.
Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh em thiếu
thốn.
Lạy
Chúa, xin mở mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh
con. Xin mở tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở
trái tim con để con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ.
Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Tôi có quan tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người
nghèo khổ không?
2)
Đời sống tôi cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu
nhiên. Tôi có ý thức điều đó không?
3)
Một đời sống quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm
cách nào để tránh rơi vào nguy cơ này?
4)
Tại sao ông nhà giàu phải vào hỏa ngục?
4. Cho thì có phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích
dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Có
một cậu bé thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ
ruộng, bên cạnh đó, một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Người tá điền
cởi đôi ủng để trên bờ ruộng, cậu bé tinh nghịch muốn dấu đôi ủng ấy để chọc giận
người nông dân, nhưng người giám hộ nói với cậu rằng: "Con chớ làm cho người
tá điền nghèo khổ này buồn phiền, hãy làm cho ông ta vui lên thì tốt hơn. Ta
khuyên con hãy bỏ tiền vào mỗi chiếc ủng, chúng ta sẽ núp ở đằng sau, và xem thử
ông ta sẽ làm gì?"
Cậu
bé đã làm như lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã
mon men đến gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc một đồng bạc.
Một
lát sau, người nông dân đã trở lại với đôi ủng của mình. Vừa khám phá ra tiền
trong đó ông đã vội qùy xuống và ngước mắt lên trời để cảm tạ Chúa đã cứu giúp
ông trong lúc túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân
vô danh.
Nhìn
được tất cả những gì người nông dân đã cầu nguyện, cậu bé cảm động muốn khóc.
Đó là ngày đầu tiên cậu cảm thấy hạnh phúc nhất đời mình.
Vâng,
có ai đó nói rằng: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh".
Phúc đức được tích luỹ nhờ trao ban. Trao ban càng nhiều, phúc đức càng dầy. Thế
nên, người có phúc là người biết cho đi. Người có phúc là người giầu lòng quảng
đại, biết chia sẻ cho người cùng khốn. Cậu bé con nhà quyền quý một lần biết
cho đi, cậu mới hiểu được đâu là hạnh phúc của sự trao ban. Cậu đang ở thế giới
của những kẻ quyền qúy, những kẻ sống trong nhung lụa nên cậu đâu hiểu được cái
khổ đau của cuộc đời "bán lưng cho trời" nơi giai cấp nông dân nghèo
hèn. Cậu càng không cảm nghiệm được niềm vui khi kiếm được một đồng tiền ít ỏi
do công khó mình làm ra. Có lẽ, lần đầu tiên cậu chiêm ngưỡng khuôn mặt rạng ngời
của người nông dân khi nhận được đồng tiền bố thí. Lần đâu tiên cậu mới hiểu được
giá trị của sự trao ban. Có trao ban mới có hạnh phúc. Có trao ban mới tích lũy
được phúc đức cho đời này và đời sau. Và như thế, cuộc đời vô phúc là cuộc đời
không có sự trao ban. Kẻ vô phúc thường ích kỷ tham lam. Kẻ vô phúc chỉ biết
nghĩ cho mình và sống cho mình. Kẻ vô phúc không có cơ hội nhận lãnh niềm vui của
sự trao ban. Kẻ vô phúc sống không có hậu, vì không biết tích lũy phúc đức cho
cuộc đời bằng hành vi bác ái yêu thương.
Bài
Phúc âm hôm nay nói về hai cảnh đời khác nhau. Người phú hộ và anh Lagiaro
nghèo khó. Người phú hộ hạnh phúc đời này nhưng bất hạnh đời sau. Lagiaro nghèo
khó thì ngược lại, anh phải chịu biết bao cay đắng trong cuộc đời ô trọc thiếu
vắng tình người này, nhưng anh lại được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Cuộc đời của
họ tuy cùng chung một thời gian và không gian, nhưng xem ra họ lại qúa cách biệt
với nhau. Kẻ ăn không hết, người tìm không ra. Người sống trong nhung lụa, kẻ
đói rách bần cùng. Bài phúc âm không đả phá về sự giầu sang, và cũng không khuyến
khích sống nghèo đói. Bài Phúc âm chỉ nói đến trách nhiệm liên đới với anh em.
Giầu có không phải là tội. Cái tội của người phú hộ là dửng dưng với mảnh đời bất
hạnh của đồng loại. Phúc âm không nói đến việc ông xua đuổi người nghèo khó trước
cửa nhà ông, nhưng chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ với thái độ bàng
quang lạnh lùng. Người nghèo đói nằm ở trước cửa nhà ông, nhưng ông đã làm lơ
khi đi ra đi vào. Ông đã không áy láy lương tâm và cũng không một chút chạnh
lòng thương đối với bất hạnh của tha nhân. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như
không có sự hiện diện của Lazarô. Một sự mù quáng đến thiếu trách nhiệm liên đới
với tha nhân. Ông có nhiều cơ hội để làm việc lành phúc đức, thế mà ông đã bỏ lỡ
cơ hội mua lấy phúc đức đời sau.
Song
le, Lagiarô không phải vì nghèo mà lên thiên đàng, điều quan yếu là anh không
thất vọng về cuộc đời. Anh không oán trời oán đất. Anh vẫn bình thản với cuộc sống
vốn dĩ đầy khó khăn đối với anh. Cho dù anh đã bị đẩy xuống đến tột cùng, làm bạn
với những con chó, anh cũng vui lòng chấp nhận thân phận mình. Chính vì thái độ
chấp nhận đó mà anh đã được đền bù xứng đáng, anh được giải thoát khỏi khổ đau
đời này và an hưởng hạnh phúc đời đời trong hạnh phúc thiên đàng.
Người
xưa có câu: "Phú nhân bất nhân - Bần bất nghĩa". Giầu có hay khinh
người, và nghèo khó thiếu tử tế. Xem ra giầu nghèo đều khó mà vào nước thiên
đàng nếu không biết vượt qua những trở ngại trong phận số đời mình. Vì thế mà
cha ông ta đã từng khuyên con cháu mình "đói cho sạch rách cho thơm",
và "không ai giầu có ba đời", thế nên cần phải biết sống có đức, để đề
phòng khi sa cơ thất thế vẫn còn có nhiều người hỗ trợ và giúp đỡ mình.
Là
người kytô hữu phải biết thể hiện đức ái trong đời sống hằng ngày của mình. Dù
giầu hay nghèo mỗi người đều phải biết sống vì người khác, và cho người khác.
Dù sang hay hèn vẫn phải toả lan đức ái trong cuộc sống của mình. Đức ái mà như
thánh Phaolô tông đồ đã nói: "Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen
tương, không vênh vang, không tự đắc. Đức ái tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, chịu
đựng tất cả". Đức ái sẽ giúp chúng ta sống tốt với anh em và đảm bảo cho hạnh
phúc Nước Trời mai sau. Đức ái sẽ là nhịp cầu để ta đến với tha nhân và tiến
vào bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Và như thế, ở đời sau, Chúa sẽ thưởng phạt
chúng ta tùy theo mức độ thể hiện đức ái trong cuộc đời hôm nay. Amen.
5. Suy niệm của Vinh Sơn Dương Văn Đức
Có
một đứa trẻ bị khuyết tật bẩm sinh, hằng ngày đi học, cậu thường bị chúng bạn
chế nhạo, bắt nạt, đó là điều khiến cậu trở nên lạnh lùng và khép kín. Một hôm
cha cậu nhặt được một con chó sắp chết rét từ trong đống tuyết… con chó được đặt
nằm xuống gần chân cậu bé, nó run cầm cập. Cậu bé không thích con chó dơ dáy
này, cậu dùng chiếc nạng của mình đuổi nó đi, nó không biết đi đâu, nên nằm
ngoài cửa kêu ăng ẳng thảm thiết.
Cha
cậu nghe tiếng chó kêu thì biết chuyện. Vì thế, ông đến phòng để trò chuyện với
cậu bé. Khi nghe cậu bé kể ở trường cậu thường bị bạn bè bắt nạt, ông nói: “Tại
sao những đứa trẻ ấy lại bắt nạt con?”. Cậu bé nói: “Bởi vì chân con có tật,
con không thể chơi lại chúng nên chúng mới bắt nạt con”. Người cha lúc đó mới
ôn tồn nói: “Chúng khỏe mạnh, còn con yếu, cho nên chúng bắt nạt con. Còn bây
giờ thì con rất mạnh, con chó lại rất yếu, vậy tại sao con lại không biết
thương cảm nó?”. Nghe xong, cậu bé ngân ngấn nước mắt, một lúc sau cậu ẵm con
chó vào đặt cạnh lò sưởi và vuốt ve nó… Sau này cậu bé trở thành vị bác sĩ nổi
tiếng nhân hậu, được mọi người yêu thương và kính trọng.
Câu
chuyện cho thấy người cha ở đây đã thật khéo léo để biết cách dạy con mình trở
thành người biết yêu thương và nhờ đó người con đã thành nhân và được mọi người
quí mến.
Quả
thực tình yêu thương, lòng trắc ẩn là những đức tính làm cho chúng ta trở thành
con người đúng nghĩa. Khi tâm hồn thiếu vắng tình yêu thì phải thấy rằng chúng
ta đang tụt hậu. Còn ai biết sống yêu thương thì lại là những người đang cùng
nhau tiến nhanh trên hành trình của ơn cứu độ. Đây chính là những người mà Chúa
Giêsu nói đến trong bài giảng trên núi: “Phúc thay ai có lòng thương xót vì họ
sẽ được Thiên Chúa xót thương”.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, sở dĩ người phú hộ không được vào Nước Trời, vì ông đã
không tỏ lòng thương xót đối với Ladarô, cho dù đó chỉ là một chút nhỏ nhoi
dành cho con người khốn khổ ngày ngày lê lết ăn mày trước cổng nhà ông.
Người
phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông còn nhiều của cải, nhưng vì ông
đã không biết “sử dụng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời”, mà bạn hữu ở đây
không ai khác là chính Lazarô nghèo khó mà ông gặp hang ngày. Thực sự, tiêu chuẩn
để vào Nước Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại nơi việc sống bác
ái với anh chị em.
Tội
của người phú hộ chính là tội vô tâm, làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe,
không thấy người nghèo, Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn đói khổ. Tội của
người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải
làm cho người đang cần mình trợ giúp. Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một
thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ
có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Thánh
Augustinô có lần đã nói rằng tất cả chúng ta đều là những người ăn mày đang cần
đến hồng ân Thiên Chúa: “Anh em giàu có với những của cải tạm bợ, nhưng anh em
cần những thứ vĩnh cửu. Điều mà anh em làm với những ai khẩn cầu anh em thì
Thiên Chúa cũng sẽ thực hiện như thế với anh em... Hãy đong đầy cho những người
anh em đang túng thiếu, để sự túng thiếu của anh em cũng được đong đầy”.
Là
những người cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu
nguyện với đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, tôi và bạn đến
lượt mình, ta phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người
khác, bởi vì mức độ ta cho sẽ trở thành mức độ mà ta nhận.
Có
một bạn sinh viên đã tâm sự trên Tuổi Trẻ Online như sau: “Dưới cái nắng của buổi
trưa tháng 3, tôi đang vội vã đi bộ từ trường Đại học Nhân văn ra Thư viện
Trung tâm Đại học Quốc gia. Trên đường, một cô bé chừng 16-17 tuổi kéo tôi lại
với bịch tăm tre nhỏ xíu và nói: “Đây là sản phẩm của các em khuyết tật trường Chu Văn An, mời chị mua ủng hộ”. Chẳng cần suy nghĩ,
tôi khoát tay từ chối và vội bước đi, tự nhủ: “Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ
yếu là xin tiền chứ mua bán gì”. Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng
như được bạn bè cảnh báo về mấy người “giả mạo” này. Nhưng đi rồi, tôi vẫn cố
ngoái lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp
khăn che mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn
sinh viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng
nói: “Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền
nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh
thản…”. Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành tiếp tục
đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang là tình
nguyện viên cho mái trường ấy. Vậy mà tôi…”
Tâm
trạng của người bạn trẻ này chắc cũng phản ánh thái độ vô cảm mà chúng ta đôi
khi vướng phải trong cuộc đời, khi chúng ta dửng dưng trước những con người
đáng thương. Đó cũng là thực trạng nơi trái tim chai cứng của nhân loại thời
nay trước những đau khổ của đồng loại quanh mình. Suy nghĩ của bạn sinh viên một
lần nữa lại gợi lên trong chúng ta hình ảnh của Tin mừng Lc 16, 19-31: Người
phú hộ giàu có, ngày ngày yến tiệc linh đình, cao lương mỹ vị, nhưng ngay bên lại
tồn tại một anh Lazarô nghèo nàn chết trong đói khổ, không được trợ giúp.
Ở
đây cho thấy, không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm
điều tốt cũng là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với anh em. Khi mắt
ta không để ý sự đau khổ, tâm hồn ta không chút xót thương đến những người phận
nhỏ, lòng trắc ẩn không hề rung động trước bi thương của anh em đồng loại sẽ tạo
nên hố ngăn cách sâu thẳm giữa ta với tha nhân và với nguồn tình yêu là chính
Thiên Chúa. Và như cành nho không gắn liền với thân nho, nó sẽ bị khô héo mà chết
đi, mất đi sự sống thần linh, sự sống viên mãn.
Lạy
Chúa, Chúa đã dạy cho chúng con biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên
mãn hay bị luận phạt muôn đời tùy theo chúng con có biết yêu thương tha nhân
hay không. Xin Chúa dắt chúng con luôn đi trên con đường dẫn tới ơn cứu độ: Biết
nghe lời hướng dẫn của Môisê, các ngôn sứ, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối,
hoán cải và yêu thương mọi người nhất là những anh chị em nghèo khổ. Vì chúng
con biết Thiên Đàng không dành riêng cho một mình con. Nhưng con chỉ có thể tiến
vào cùng với anh chị em trong tình yêu thương – Amen.
6. Bạn hữu của Thiên Chúa – Pm. Cao Huy Hoàng
Chúa
thương người giàu
Tôi
không bênh vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo
Thánh Luca 16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án
lòng ích kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương
những người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để
dạy họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo
cách người Do Thái thường suy nghĩ.
Tiên
tri Amos cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng
cảnh cáo một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu
có toa rập với những người có chức có quyền “đang nằm trên giường ngà, thõng
thượt trên sạp gụ”
“ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu Davit, uống rượu tô, xức dầu
thượng hạng thơm nức”. (Am 6,4-6). Họ đang sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một
thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn danh nghĩa ích nước lợi dân để thu
quén bao thành quả của dân nghèo vào tay những ông to ông lớn và ông tư sản.
Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho dân nước theo kiểu “hòn đất ném đi
hòn chì ném lại”, hoặc “thả con tép bắt con tôm”. Thực ra, Tiên tri Amos trách
họ chẳng màng đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ
chỉ biết tiệc tùng say xỉn “chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ” (Am 6,6). Lời cảnh cáo của Amos thật nặng
nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn chơi “Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu
những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ quân phe phởn”.Lời cảnh cáo của Tiên tri
Amos, như vẫn còn nghe đâu đây trong thế giới hôm nay:“ngàn năm mây trắng vẫn
bay, mấy ngài lãnh đạo có ngày lãnh đao”. Người giàu có hôm nay cũng giống như
thời tiên tri Amos, tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy
ngàn xưa đã có câu: “nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức”. Giàu nhờ cậy quyền cậy
thế nhiều hơn giàu nhờ đức.
Nhưng,
dù thế nào đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu
thương của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên
Chúa muốn con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương,
giàu trên xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường
dẫn đến diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ.
Còn người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói
như Thánh Nicolas: “họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả trứng”, cũng
vậy, “họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an thân”. Chúa yêu cầu người
giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ nhoi, hướng đến tha nhân với
tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của tha nhân trong bất cứ tình huống
nào.
Quả
vậy, trong dụ ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu “lụa là gấm vóc, ngày ngày yến
tiệc”, có mắt mà không thấy “Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm trước cổng
nhà ông” ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm ghẻ chốc cho anh
ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động lòng trắc ẩn, vì
ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không “khóc than kêu cứu” hay
“làm đơn xin” gì cả, nhưng anh ta chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống
thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng
đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng
gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi lòng.
Vậy
tôi có thể kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn
đâu, Chúa muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu,
nhưng qua lời Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn
một cơ hội để mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai
nghe nỗi đau của họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng
đón nhận họ như đón nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một
cuộc sống đồng nhân vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong
lòng tổ phụ Abraham và trong lòng Thiên Chúa mai sau.
Chúa
cứu người nghèo
Với
những người nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu
trong cuộc đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo
đội sổ như chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng
cũng không thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với
những người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những
người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của
Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết
chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.
Cái
thói quen trả thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa “thấy ai hoạn
nạn thì vui mừng”, nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn
nạn thì càng mừng hơn- cho là “ông trời có mắt”, “lưới trời lồng lộng” hoặc
“Chúa phạt nhãn tiền” là không hợp với tinh thần bác ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ
ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ đẩy chúng ta vào một xu
hướng lạc đề: “chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu ở đời nầy để được hạnh phúc ở
đời sau”, mà quên một điều quan trọng là: “chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu
ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải chia sẻ cho nhau”. Không đợi người giàu thực
thi đức bác ái, mà chính người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật
giúp cho người khuyết tật, người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người
ổ chuột… như thế mới là đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có,
có cách chia sẻ của người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ
cho nhau; miễn là có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa
là: ai cũng nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ
tha nhân khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng
bạc cuối cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn
của bà, và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên
đây, tôi nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh “nghèo lòng bác ái”, vì nghèo lòng bác ái
cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng “Tin Cậy Mến”.
Từ
“Lazaro” tiếng Do Thái có nghĩa là “Thiên Chúa cứu giúp”. Nhân vật Lazaro là
nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu.
Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng
hả dạ vì mấy người giàu “khó vào nước trời” hoặc bị phạt xuống hỏa ngục đời đời..
Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta sống trong cảnh
nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những người nghèo khổ
khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người nầy là Bạn Hữu Của
Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô đã chia sẻ đến tận
cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng ta sẽ là một Lazaro
được “Thiên Chúa cứu giúp”, được ngồi gần các tổ phụ, giữa lòng Abraham và
trong cung lòng của Thiên Chúa. “Thiên Chúa cứu giúp người nghèo”- không phải
những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những người nghèo vì họ đã cho đi tất cả
những gì mình có. Những người cho đi tất cả là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được
“Chúa thương cứu giúp”, được Thiên Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của
Người.
7. Hãy nghe các ngài
(Suy
niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn
nầy có thể chia thành ba phần: - Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần
gian (16,19-21); - Số phận của hai người sau khi chết (16,22-23); - Tình trạng
cực hình của người giàu có (16,24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về việc
sử dụng của cải, đoạn nầy bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc đời
nầy qua đi. Số phận của người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời bên
kia. Luca nhấn mạnh rất nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa người
khiêm hạ và người quyền thế (1,46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ (6,20-26),
và ở đây giữa người giàu và người nghèo (16,19-31).
Cuộc
sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian
Trong
hai câu dẫn nhập Luca mô tả hai con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương phản
nhau: một người giàu có (c. 19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có của
người nầy được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua (x.
Mc 15:17.20; Kh 18:12) và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những đồ
quí giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ “mang” ở thì
quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ không phải
chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông “làm yến tiệc”, euphrain#, cũng
kiên tục, và việc nầy nhắc đến thái độ tự hài lòng của người giàu có trên của cải
ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng lại ở đó (12:19).
Tương
phản với người giàu có là người nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói “tên là”
(1:5.13.26.27.31…), ông muốn ám chỉ đó là người được ưu ái trước mặt Thiên
Chúa. Hơn nữa, tên “Lazarô” có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Sự nghèo khốn của
Lazarô được diễn tả qua tình cảnh bệnh tật của ông: nằm liệt do bệnh, ball#, và
nhức nhối (c. 20) do những vết thương lở loét của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ
ngôn không nêu lên một lỗi phạm nào của người giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh
của Lazarô được mô tả thêm và sai lỗi của người giàu có mới được hình dung ra.
Lazarô nằm ở trước cửa nhà người giàu có: đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh
của người con hoang đàng (15:16). Động từ “ước muốn” nầy ở thể phân từ hiện tại
diễn tả tình trạng kéo dài. Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu
bánh vụn từ trên bàn rơi xuống. “Cái bàn” gợi lên yến tiệc của người giàu có;
qua đó, cho thấy người giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống
giàu có của ông. Ông chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước
cửa nhà ông. Bởi lỗi phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.
Số
phận của hai người sau khi chết (16:22-26)
Đoạn
nầy và đoạn kế tiếp (16:27-31) được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa người
giàu có và Abraham. Những gì được nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm mô tả
cuộc sống sau khi chết, mà sự khác biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc sống
của người giàu có và Lazarô. Câu 22 là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng như
người nghèo khó đều chết như nhau (c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau.
Lazarô được các thiên thần đem vào lòng Abraham; trong khi người giàu có “được
chôn cất”. Abraham, tổ phụ của dân Do thái (1:55.73; 3:8). “Lòng Abraham” là phần
trước ngực. Ngồi vào lòng ai có nghĩa là nằm dựa đầu vào ngực người ấy. Đây là
vị trí cận kề và thân thiết (x. Gio 1:18; 13:23). Hình ảnh nầy gợi lên bữa tiệc
trong Nước Thiên Chúa, trong đó có Abraham và tất cả các tổ phụ khác và các
tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô nghèo khó và thiếu thốn của ăn nuôi sống trên
trần gian, nay được thông hiệp với Abraham. Và Thiên Chúa của Abraham là Thiên
Chúa của sự sống (20:37-38). Trong khi đó, người giàu có “được chôn cất”, ám chỉ
ông nằm giữa những kẻ chết (x. 9:59-60). Điều nầy được xác định rõ hơn trong
cách nói “trong âm phủ”
(c. 23). “âm phủ”
là giang sơn của người chết và nơi của sự hủy diệt (x. Cv 2:27.31), hình phạt
(Kh 20:14). Đối nghịch với “âm phủ”
là trời, nơi cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).
Tình
cảnh khốn khổ của người giàu có (16:24-31)
Nội
dung của phân đoạn nầy được trình bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh
cầu của ông (cc. 24.27-28.30) và ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30).
Qua cuộc đối thoại ngắn nầy, tình cảnh khốn khổ của người giàu có được trình
bày thêm.
Lời
thỉnh cầu thứ nhất (c. 24): “xin thương xót tôi” (c. 24). Lời
nầy trong Luca chỉ xuất hiện trong trình thuật người mù thành Giêricô
(18:38.39), và mười người phong cùi. Người giàu có đang ở trong tình trạng vô
phương cứu chữa như những người nầy. Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông
đã bị đảo ngược. Trước đây ông chỉ mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu
cực hình, odynaomai, giữa lửa cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ.
Trước đây, ông nằm trên giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh
bánh vụn rơi xuống từ bàn tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy
Lazarô, và nài xin một giọt nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.
Trong
câu trả lời của Abraham (cc. 25-26) Luca nhắc lại quá khứ “hãy nhớ lại”. Ông
nói đến “điều tốt” và điều xấu”, như là sự tương phản giữa hai người (c. 25).
“Điều tốt” ở đây là của cải đời nầy (6:45; 12:18.19). Sau đó, Luca khẳng định
điều đang xảy ra, “bây giờ”
hai người. Động từ “an ủi” (c. 25) nhắc lại lời “Khốn cho các người giàu có, vì
các người đang được an ủi” (6:24). Người giàu có đã được an ủi đời nầy, thì đời
sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau. Đây là một trong những
cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham nói đến sự phân cách
tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một “vực thẳm” “được đặt ra” (ở
thể thụ động); không thể có hiệp thông giữa hai bên. Không thể qua lại với nhau
được. Như thế người giàu có bị loại hẳn khỏi sự hiệp thông với Abraham.
Lời
thỉnh cầu thứ hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy,
ông không nghĩ đến bản thân nữa, vì ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể
cứu vớt của mình. Bởi đó, ông kêu xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến
những người anh em của ông đang còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ
khỏi rơi vào nơi khốn khổ như ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương
thế cứu khỏi nơi ấy, chính là nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh
lệnh “Hãy nghe” phải dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy
cách gián tiếp là người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã
không để ý đến những người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không
quan tâm nghe lời của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan
tâm đến sự giàu có và sự thụ hưởng của ông.
Lời
thỉnh cầu thứ ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài
xin thêm một lần nữa cho anh em nhà của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ “hoán cải”
nếu như được người chết hiện ra. Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi
phép lạ, mà bởi lời rao giảng về Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19).
Hoán cải là mở lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó,
nếu không nghe lời Môsê và các ngôn sứ, không thể hoán cải được. Người chết có
hiện ra chỉ vô ích mà thôi.
Luca
sẽ không dừng lại ở việc mô tả hậu quả của việc sử dụng của cải không đúng theo
ý Thiên Chúa. Ông sẽ nói đến cách hành động tích cực đối với của cải. Đó là
phân phát cho người nghèo (4:18; 18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian
không là tất cả. Số phận đời sau tùy thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi đời
sau, phải thi hành ý Thiên Chúa hôm nay.
8. Khoảng cách – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ
ngôn người phú hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất
gần mà lại rất xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược
nhau.
1.
Khoảng cách đời này
Người
phú hộ dư ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm
vóc, Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng
ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút
bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần
gian.
Hai
con người ấy thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một
cái cổng luôn khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong
tình người.
Thánh
Luca với ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý
cuộc đời. Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu
và chua chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một
lối so sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say
đang khi kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có
mấy con chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình
người. Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương,
kẻ không ai thương, người không thương ai.
2.
Khoảng cách đời sau
Cái
chết đến làm đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau
cái chết lại khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới
chân bàn ăn được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy
bị đày xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân
hoả ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà
bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể.
Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với
Abraham “sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở
đây bị lửa thiêu đốt.”
3.
Khoảng cách đời này và đời sau
Khoảng
cách nơi cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải
chăng dụ ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh
cực hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung
sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo
hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng
phúc thiên đàng?
Chắc
chắn Thánh Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi
và nghèo khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn
khớp với toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo
để khuyến cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương
16 giáo huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người
phú hộ bị luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa
khép lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội
phú hộ mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là “mackeno” (mặc kệ nó) trước sự cùng
khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra khỏi
nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van lơn.
Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy nhau,
không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững. Hoàn
cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi Ladarô phải
chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ của người phú
hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong
bài đọc 1, Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng
phạt khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết
xót thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín,
người giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã
tạo ra khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến
tha nhân, khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con
người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô
không phải vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ
phụ Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó
thác nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là “Thiên Chúa là Đấng
phù trợ tôi”. Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại cho
họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con
người đi đến vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép
kín lòng mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc
sống vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương,
lòng không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình
thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật
chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời
kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người
nghèo.
Chúa
Giêsu đã dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên
Chúa và con người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo.
Ngăn cách giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa,
tất cả là anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi
sống Tin Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý
tướng Kitô giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo
khó. Chúa Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống
liên đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở
nên giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình
liên đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu.
Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi
người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong
hành động (GHAC số 34).
Vẫn
còn quá nhiều người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người
Kitô hữu được mời gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng
lòng cho yêu thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ,
cần rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết
quãng đại chia sẽ với những người thiếu thốn.
Lạy
Chúa, xin mở mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ
chia niềm vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.
9. Giấy thông hành Nước Trời – Thiên Phúc
(Trích
dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Ngày
xưa, bên Tàu có một ông vua tự cho mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại
chẳng bao giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến
tiệc linh đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa dị
thảo, để mong được nở mày nở mặt với lân quốc.
Một
hôm, nhà vua nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm,
từng bông hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư
trụ trì là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và được
biết giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đóa hồng xinh tươi đổ vào hố
rác chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.
Vào
đến vườn, nhà vua lấy làm lạ vì thực tế khắc hẳn với tin đồn. Khi biết được sự
việc, nhà vua hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả lời:
-
Thưa bệ hạ, nếu thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng
thức được vẻ đẹp của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn
đám đông chứ không để ý đến từng cá nhân.
Thiên
Chúa của chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm đến
từng con người. Thiên Chúa yêu thương con người không có tính cách chung chung,
nhưng Người chăm sóc cho từng người một. Mỗi một con người là một nhân vị, có
nhân phẩm cao quí. Mỗi một con người là một tác phẩm tuyệt vời của Người, với
những ơn riêng mà người khác không có được. Mỗi một con người là một bông hồng
rực rỡ sắc mầu, thơm ngát hương hoa.
Người
phú hộ trong bài Tin Mừng hôm nay sở dĩ phải trầm luân muôn kiếp, vì ông ta đã
không nhìn người nghèo khó Ladarô với cái nhìn ấy. Thậm chí ông cũng chẳng thèm
nhìn con người khốn khổ ngày ngày lê lết bên cổng nhà ông.
Người
phú hộ phải “chịu cực hình” không phải vì ông nhiều của cải, nhưng vì ông đã
không san sẻ của cải cho người thiếu thốn, ngay cả những của thừa thãi trên bàn
tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người
phú hộ phải tống xuống biển lửa không phải vì ông đã làm ra nhiều của cải,
nhưng vì ông đã quá cậy dựa vào tiền của, trong khi người nghèo khó chỉ biết cậy
dựa vào Chúa; Ladarô có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”.
Vậy
tội của người phú hộ chính là tội làm ngơ, tội phớt lờ, tội không nhìn, không
nghe, không thấy những Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn túng quẫn cùng cực.
Tội của người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra
mình phải làm cho một ai đó đang cần trợ giúp. Bác sĩ Albert Schweitzer, người
đã bán hết gia tài kếch xù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những
con người cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: “Làm sao
chúng ta có thể sống hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ?”
Sẽ
có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải
là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương
yêu anh em mới được bước vào.
Sẽ
có một ngày người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới
sáng, trận cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hỏa hào
muôn kiếp.
Sẽ
có một ngày người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn nhặt
những miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên “trong
lòng Abraham” vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Lời
giảng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu
tiên ngày 2.10.1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ: “Chúng ta không thể thờ ơ vui
hưởng của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo khó
Ladarô của thế kỷ 20 vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ngoài cửa… Các bạn đừng bao
giờ bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn
chỉ nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống mà thôi chứ đừng tìm cách sống
cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng
thời, các bạn hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình các bạn”.
Lạy
Chúa, thánh Tôma Aquinô đã dạy: “Những người giàu có đã đánh cắp của người
nghèo khó khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa”. Xin cho chúng con
biết san sẻ cho nhau, để trái đất này trở nên sung túc và yêu thương, vì giàu
có thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.
Xin
dạy chúng con bí quyết làm giàu bằng cách chia sẻ cho nhau những của cải Chúa
ban. Amen.
10. Ông Dives và anh Lazarô – Vincent Travers
Có
hai nhân vật trong câu chuyện này. Trước hết là người giàu có, tạm gọi là
Dives. “Dives” tiếng La-tinh, có nghĩa là “giàu có”. Ông ta sống trong sự giàu
sang. Ông ăn uống no say mỗi ngày trong một đất nước mà thường dân may mắn lắm
mới có được một bữa no bụng mỗi tuần.
Nhân
vật thứ hai là anh Lazarô nằm trước cổng, ngửa tay xin của ăn dư thừa. Anh rất
đau yếu bệnh hoạn. Mình mẩy anh đầy ghẻ chốc. Anh yếu đuối cho đến nỗi không đủ
sức chống đỡ những con chó ngoài đường đến quấy phá, liếm ghẻ chốc của anh.
Thời
đó trên bàn ăn không có dao nĩa và khăn lau, bởi vì người ta ăn bằng tay. Trong
những gia đình phong lưu, những miếng bánh mì rẻ tiền được vứt bỏ sau bữa ăn. Họ
rửa tay bằng cách lau chùi tay trong bánh mì và bánh mì dơ bẩn được thu nhặt
cho vào thùng đựng rác. Chính đó là những mảnh vụn bánh mì mà người nghèo khổ
Lazarô đang mong đợi để nuôi sống mình.
Câu
chuyện anh Lazarô và ông Dives nhắc tôi nhớ lại mẩu chuyện một người đàn bà đĩ
thoã và ông trưởng giả đi chung trong một chuyến tàu. Người đàn bà nói: “Ông
ơi,ông sặc mùi hôi.” Ông kia đáp lại: “Thưa bà, tôi xông mùi thối, còn bà đánh
hơi.”
Do
đó, anh Lazarô là hình ảnh của sự nghèo nàn khốn khổ, còn ông nhà giàu là hình ảnh
của sự bê tha ăn uống. Nên để ý điểm này là ở đây người ta nhắc đến tên người
đàn ông nghèo khó nhưng người giàu sang thì lại không có tên. Trong nền văn hoá
ngày nay, người giàu sang cũng như người nổi tiếng thì đều có danh xưng, còn
người nghèo hèn thì vô danh tiểu tốt.
Điều
đó cho thấy Chúa Giêsu chú trọng đến những người mà xã hội ruồng bỏ. Ngài đã
dành nhiều thời giờ cho những kẻ bị bỏ rơi, những người vô danh tiểu tốt, chứ
không phải với những người nổi tiếng.
Vai
trò đảo ngược
Rồi
cả hai người đều chết. Người giàu có rơi xuống hoả ngục, còn anh Lazarô lên
thiên đàng, ở trong lòng tổ phụ Ápraham. Câu chuyện đã diễn tiến theo cuộc đối
thoại giữa ông nhà giàu với tổ phụ Ápraham.
Từ
dưới vực sâu hoả ngục, người giàu có đã kêu lên: “Lạy tổ phụ Ápraham, xin
thương xót con và sai anh Lazarô nhúngđầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con
cho mát; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!” (Lc 16, 24).
Tổ
phụ Ap-ra-ham đã trả lời: “Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần
phước của con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ,
Lazarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng
ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con
cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.” (Lc 16,
25-26)
Ông
nhà giàu lại thưa: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà
cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo
họ lại cũng sa vào chốn cực hình này!” (Lc 16, 27). Ông Ápraham đáp: “Môsê và
các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng chẳng
chịu tin.” (Lc 16, 31)
Khỏi
phải nói ra, ai cũng rõ là người giàu có đã đối xử có phần nào tàn nhẫn với anh
Lazarô. Nhưng xét theo nhiều khía cạnh, ông nhà giàu không phải là một người xấu.
Ông đã không bạo hành đối với anh Lazarô bằng lời nói, như nhiếc mắng anh đáng
xuống hoả ngục. Ông cũng không xua đuổi anh Lazarô, không cho nằm trước cổng
nhà mình. Ông cũng không báo cáo với cảnh sát, hoặc với những người kiểm tra vệ
sinh về anh ta như là một nguy cơ đối với sức khoẻ của công chúng.
Ông
không chống đối việc anh Lazarô chìa tay ra xin thức ăn thừa và cũng không chỉ
thị cho đầy tớ ném bánh mì dơ ở nơi khác. Vấn đề là mỗi lần Dives đi ra hay đi
vào nhà thì đều phải đi qua nơi anh Lazarô nằm trước cổng.
Tội
lơ là chểnh mảng
Ông
Dives không bao giờ nhận ra anh Lazarô. Ông không để ý tới anh Lazarô trong những
năm tháng đó, khi anh ngồi ăn xin trước cổng nhà ông và ngay cả khi ở dưới hoả
ngục, ông cũng không đếm xỉa đến anh. Ông vẫn không thay đổi. Những người ở
trong hoả ngục không thay đổi bao giờ.
Phần
người giàu có, ông nghĩ về anh Lazarô không khác gì hơn ngoài một sứ giả, qua
câu nói: “Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì
con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng
sa vào chốn cực hình này!” (Lc 16, 27).
Anh
Lazarô chỉ là một con người tùy tiện đối với ông phú hộ, chỉ là một thứ khí cụ
được sử dụng mà thôi. Anh không phải là một con người đáng được kính trọng.
Lazarô chỉ là một đồ vật được sử dụng và đó là lý do tại sao ông Dives đã xuống
hoả ngục.
Tội
lỗi của người giàu có đối với anh Lazarô là tội lơ là chểnh mảng – thứ tội quên
làm! Những tội lỗi tệ hại nhất của chúng ta thường khi chính là những tội lơ là
chểng mảng và đó là những tội mà chúng ta không bao giờ xưng ra. Nhưng đó chính
là những tội của ông Dives. Có thể đó là những tội mà chúng ta không chút ý thức
vì không gây nên thương tổn hay chết chóc cho ai.
Chúng
ta có thể là ông Dives đối với người phối ngẫu, đối với cha mẹ, anh chị em, người
làng giềng, đối với những trẻ nít non dại trong lớp học, đối với những bạn đồng
nghiệp trở thành trò cười cho bất cứ cuộc đùa cợt nào. Không phải chúng ta cố ý
tàn nhẫn. Điều đó hiếm khi xảy ra, vì chúng ta không đần độn hơn những người
khác. Nhưng có những người trong cuộc sống chúng ta đangchết dần chết mòn về mặt
thể xác, tình cảm, tinh thần và cả tâm linh nữa, bởi vì có những việc chúng ta
có thể làm cho họ, nhưng đã không làm.
Tôi
có dịp trò chuyện với một người láng giềng đã ra vào nhà thương như cơm bữa
trong nhiều năm. Tôi hỏi cảm tưởng của ông như thế nào mỗi khi ra vào nhà
thương như vậy. Ông trả lời: “Khi cha liên hệ với nhà thương lâu dài như con
đây, cha sẽ nhận thấy điều khác biệt lớn lao giữa những kẻ đối xử với cha như một
con người và những kẻ đối xử với cha như một trường hợp y khoa trong bệnh viện.”
Lòng
trắc ẩn
Rồi
đây khi tôi gặp gỡ một người ăn xin hay người nghiện ngập, tôi sẽ để ý đến họ.
Tôi sẽ nhận ra họ như một con người và tỏ ra kính trọng họ. Đồng thời, một việc
thật chính đáng, có thể làm được là tôi sẽ hỏi tên họ. Tôi có thể trả lời
“không” khi họ xin tiền, nếu tôi nói một cách dịu dàng, bởi vì tôi biết rằng tiếng
“không” cũng là một từ ngữ của yêu thương!
Bài
học của Thánh Luca nhấn mạnh điểm này: chỗ đứng của chúng ta để được cứu rỗi
tùy thuộc nơi chỗ đứng của lòng trắc ẩn chúng ta trước mặt anh chị em chúng ta.
11. Người phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ
(Trích
dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’ – Veritas)
Một
câu chuyện kể rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu
nguyện với Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một
gia đình đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của
con phải cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình
nay bị đau nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải
nghỉ vì không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?
Chúa
trả lời: Con thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến
người khác, biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con
hãy nhớ rõ điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết
bạn với con.
Đã
có lần Chúa Giêsu tuyên bố: “Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi”.
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và
Ladarô nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần gian, và đó
cũng là phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau
luôn đi kèm với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc
linh đình, còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên là quằn quại
trong lửa hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng Abraham trên thiên
đàng. Nếu chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách tiên tri Amos chúng
ta tưởng có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an phận trong sự khốn nạn
của bần cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những
người giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II
trích thơ thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới
thấy rõ ý nghĩa của bài Tin Mừng này.
Giàu
có chưa phải là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu
có đã chẳng được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những
gia đình phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên
là bị loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng,
như thánh nữ Elizabeth,
hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ là những vua chúa,
hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã nên thánh. Chúng ta
cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành cho những người nghèo
khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự bần cùng, nghèo đói,
khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh Phaolô đã xác tín
chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến. Nó hệ tại ở việc lắng
nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ được lặp đi lặp lại
nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn sứ, đặc biệt qua Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không thể nào an phận trong
khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham để nhìn cảnh cực kỳ nhốn
nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh em nhà phú hộ trong Tin Mừng
chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn của Chúa. Nhưng phải biết đón
nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống trở nên thánh thiện và công
chính hơn.
Thánh
thiện chính là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm
và quảng đại chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không
đòi hỏi, không lợi dụng.
Quả
thật, không có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có
cái nghèo nào cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc
nào cũng dễ chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng
như thánh thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng
kiên trì tập luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được
hạnh phúc không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu
người như Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu
thương đón nhận và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng
ta phải tích lũy làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại
và hiền hòa.
Xin
Chúa cho mỗi người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm
tốn trước tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người
chúng ta trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.
Xin
mọi người chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin.
12. Niềm hy vọng của nhân loại
(Suy
niệm của Lm. Bùi Quang Tuấn)
"Kẻ
đói nghèo Chúa ban của đầy dư; người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc
1:52-53). Lời kinh Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ
Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét hơn qua dụ ngôn "Phú ông và
Lazarô."
Hai
con người rất gần nhau trong không gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống.
Phú ông mặc toàn gấm vóc, lụa là; người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú
ông ở nơi nhà cao cửa rộng; Lazarô lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày
yến tiệc linh đình; Lazarô không một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong
thiên đàng dương thế; Lazarô chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Thế
giới của hai người chỉ cách nhau bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau
vô cùng. Người nhà giàu chẳng khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới
người nghèo. Ông ta chôn mình trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ bất
hạnh nằm chờ chút bánh rơi mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những miếng
bánh "lau tay" đi vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn "có
lòng" hơn phú ông khi không "cắn gậy ăn mày," nhưng đến liếm các
mụn ghẻ cho anh ta.
Thời
xưa, trên các bàn ăn của người Do thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau
tay như ngày nay. Người ta dùng tay để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang
trọng hay trong những nơi quyền quí, người ta có thói quen lau tay ngay trên những
miếng ruột bánh mì mà sau bữa ăn sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh "lau
tay" mà Lazarô khao khát trông chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn làm ngơ,
vô tình.
Nhưng
rồi cái chết ập đến làm đổi thay tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì được
đưa lên mây trời; còn người ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu. Lazarô
được hưởng phúc thiên đàng; còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải chăng Kinh
thánh muốn nói: hễ sung túc đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ hôm nay sẽ
được hạnh phúc ngày mai? Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là tội và nghèo
khổ cũng chưa chắc là tấm vé thiên đàng.
Ân
phúc là việc người nghèo biết tựa nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh
xưng duy nhất mà Thánh Luca đã đặt cho nhân vật "ăn mày" trong dụ
ngôn trên. Lazarô có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi." Như
thế, kẻ ăn mày này đã biết tin tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù
đang nghèo rớt mồng tơi. Chính niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho
anh ta ơn phúc làm con tổ phụ Abraham--cha những kẻ tin.
Còn
người phú hộ, ông ta đâu có bóc lột hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra lệnh
tống cổ tên ăn mày khỏi cổng nhà mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận gì của
Lazarô, vậy cớ sao lại bị đoạ đày trong chốn cực hình như vậy?
Thái
độ đáng trách của Phú ông là đã làm ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh.
Tội của ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng phải
vì người phú hộ đã làm điều gì thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không làm
gì cả cho kẻ khốn cùng.
Không
phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự
đưa mình xa cách Thiên Chúa và tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không
hề vương vấn đã làm cho hố sâu ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi
không thể qua được.
Người
nghèo phải đau khổ vì sự bần cùng đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn nạn
vì sự giàu sang, nếu trong đó không có tình yêu và xót thương.
Một
nhà tư tưởng đã chỉ ra hai nguy cơ của sự giàu có thiếu tình thương như sau:
Một
là nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: người ta bằng
lòng với những lạc thú trần gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan
trọng.
Hai
là nó khép kín lòng mình với tha nhân: người ta
không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay bên cổng nhà mình.
Hoả
ngục chính là sự kéo dài của tình trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách
Thiên Chúa và tha nhân. Hố ngăn cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời
sau người ta sẽ hết phương trở về bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng:
"Con người đã tự phán xử chính mình ngay ở đời này"(Noel Quesson).
Nếu
tôi yêu mến và liên kết với Thiên Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan
Nước Trời. Trái lại, nếu tôi ích kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm
đến việc chia sẻ phúc lộc mình có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp
đời đời cho tôi.
Dụ
ngôn "Phú ông và Lazarô" là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật
chất, say hưởng trần gian, quên đi tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu gọi
ý thức trách nhiệm xây dựng liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Mẹ
Têrêsa Calcutta có nói: "Ngay trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể
chúng ta là ai, đã từng sinh sống nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả
chúng ta, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay
yêu thương của Ngài, chúng ta sẽ phải đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ
theo những gì đã sống và làm cho người nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu mực
cho việc phán xét sẽ được đưa ra."
"Chúng
ta phải càng ngày càng ý thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của
nhân loại, bởi vì chúng ta sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử với
họ. Chúng ta sẽ đối đầu với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên Chúa. Và
Ngài sẽ nói: "Xưa ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và những gì
ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta."
"Kẻ
bé mọn" không chỉ là những người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là
những ai đang thiếu thốn về tinh thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng
không ít người nghèo giáo lý, kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai
trao ban.
Thế
nên, hôm nay, sau khi nghe tiếng Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa,
nhưng hãy rộng mở cho yêu thương và sẻ chia.
13. Có một vực thẳm – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích
dẫn từ ‘Manna’)
Suy
Niệm
Tài
sản của ba người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát
triển.
Bill
Gates giàu hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên
Hiệp Quốc đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả
thế giới trong một thời gian dài.
Khi
nhìn sự chênh lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực
của thế giới.
Hố
sâu ngăn cách giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng
lớn.
Có
800 triệu Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được
chăm sóc. Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn
tiệc rơi xuống.
Ông
nhà giàu trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có
Ladarô trên đời. Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín. Ông sống an toàn
mãn nguyện trong khoảng không gian riêng. Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn
cách.
Không
cần Chúa, cũng chẳng cần biết đến anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo
dài mãi đến đời sau.
Hỏa
ngục là sự tự cô lập mình không thể đảo ngược được. Chẳng ai có thể cho tôi một
giọt nước.
Vực
thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông
nhà giàu bị phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai, nhưng vì ông không bị sốc
chút nào trước sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ
sốc mới nẩy sinh thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều
nước giàu vẫn trợ giúp các nước nghèo, nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các
nước nghèo vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công, và bị nô lệ cho những món nợ
không sao trả hết.
Ông
nhà giàu bị phạt không phải vì ông đã nhận nhiều, nhưng vì ông đã không san sẻ
những gì mình nhận.
Giàu
không phải là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có
bao người giàu tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng
giàu sang có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép
kín, tự mãn, hưởng thụ, bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng
ta có thể nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác: giàu kiến thức chuyên
môn, giàu thế lực ảnh hưởng, giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm
vui, ơn Chúa.
Hãy
tập nhìn xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia
sẻ là lấp vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước
gì chúng ta để cho Lời Chúa hoán cải, để thấy trách nhiệm của mình trước những
Ladarô nằm ngay nơi cửa, trong khu xóm... Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của
chúng ta cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Theo
ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến sự chênh lệch lớn lao giữa kẻ giàu người
nghèo? Có cách nào làm giảm bớt sự chênh lệch đó không?
Nếu
bạn là Bill Gates, với tài sản 50 tỉ đô la, bạn có muốn làm gì cho người nghèo
trên thế giới không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Cha, xin cho con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc
áo nằm trong tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người
thiếu thốn.
Lạy
Cha, có bao điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những
Ladarô túng quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có
bao điều con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con
hiểu rằng nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.
Nó
nằm ngay nơi sự khép kín của lòng con.
Con
phải chịu trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy
Cha chí nhân, vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho
mọi người có quyền hưởng.
Cha
để cho có sự chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế
giới còn nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin
dạy chúng con biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
14. Hai khuôn mặt trái ngược nhau
(Trích
dẫn từ ‘Manna’ – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy
Niệm
Dụ
ngôn cho ta thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc,
một anh nhà nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến
quấy rầy.
Hai
người ở gần nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa
nhau.
Ông
nhà giàu biết mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì
ông bận tổ chức tiệc tùng và mời quan khách.
Ladarô
đã chết trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.
Cái
chết đồng đều cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không
phải chỉ vì giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép
lòng, đã ung dung hưởng thụ quyền sở hữu “hợp pháp”, đã không chấp nhận chia sẻ
điều mình có dư thừa.
Ông
nhà giàu hẳn đã thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay
hoay vun quén cho hạnh phúc của mình.
Không
phải chỉ vì nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng
tổ phụ Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy
vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.
Thế
giới văn minh lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa
thiểu số người giàu và đa số người nghèo.
Chính
tôi cũng giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu
chỗ đứng trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.
Hố
sâu chỉ được lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận
tài nguyên thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống
như một nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.
Mỗi
người chúng ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người
đó đồng bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành
viên mãn trong nhân cách.
Dù
người chết hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.
Chỉ
Lời Chúa mới khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên
Chúa (x. 1Ga 3,17).
Gợi
Ý Chia Sẻ
Con
người chỉ trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha
nhân. Bạn có đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?
Ai
cũng giàu có về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn
có nghĩ rằng cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa, xin cho con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình
con, đang cần đến con.
Bất
cứ ai đang cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần
dần con hiểu rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý
nghĩa.
Dần
dần con chấp nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm
khi con cần một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám
ơn Chúa vì đã dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần
đến người khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau
thêm giàu có.
Cám
ơn Chúa vì Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công
trình cứu độ.
Xin
cho con khiêm tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến
trao. Amen.
15. Môi trường đức tin – Achille Degeest
(Trích
dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phần
đầu dụ ngôn người phú hộ xấu trình bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng dạy
mà các ngôn sứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhờ thế chúng ta biết rõ hình phạt
cuối cùng nào chờ đợi những kẻ sống trong xa hoa mà tuyệt nhiên không động lòng
bố thí cho kẻ cùng khổ nằm dưới mái hiên nhà mình. Dụ ngôn nhấn thêm vào khía cạnh
thảm hại một cuộc sống ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng được tâm hồn
đón nhận đức tin. Đó là phần kết của dụ ngôn. Đức Kitô dạy rằng cuộc sống vĩnh
cửu được chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian khiến cho tâm
hồn khép kín đối với đức tin, thì mai ngày sẽ không thể đón nhận hạnh phúc vĩnh
cửu. Vấn đề nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận đức tin hay không
–chắc hẳn dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin nảy rễ trong những
tâm hồn tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.
1)
Tự do của tâm hồn.
Đây
là sự tự do quyết định thái độ trước những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian
và tiền bạc hiến cho một số người. Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên địa
vị chủ nhân ông, nó trở nên ám ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn bản
của tiền bạc là nó ngăn chặn chuyển động của tâm hồn đi tìm Nước Thiên Chúa trước
hết mọi sự. Tiền bạc là công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt; tiền bạc
làm đồi bại những tâm hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến. Khi con
người buông mình theo sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù quáng về
hai diện. Trước hết, mất ý niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng gọi của
đức tin –mất luôn cả ý niệm về chính mình và không nghe thấy những đòi hỏi của
đức công bằng. Trong một thế giới đóng kính như thế, nếu có những lúc thấy vắng
thiếu Thiên Chúa, thấy anh em đau khổ thì cũng thản nhiên cho là thường, chẳng
đáng bận tâm. Sa đoạ tới mức ấy chính vì đã mất hết quyền tự do làm một con người
thật sự, mất quyền tự do cao quý để có thể chấp nhận đức tin.
2)
Tâm hồn khiêm hạ dễ chấp nhận.
Sự
thể tiến trình mặc khải phải qua những trung gian nhân loại. Một số người xử sự
như mấy người Do thái xưa kia đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ mình ra
cho họ trong ánh hào quang chói loà của một quang cảnh hiển linh không ai chối
cãi được. Họ chẳng hiểu gì hết. Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà
không chết vì thế. Tiếp đến, nhìn thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể
không tin. Rất nhiều người Do thái chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà
goá ở Naim và ông Ladarô ở Bêtania sống lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin
vào Đức Kitô không? Tại sao họ vẫn cứng lòng? Họ không tin vì tâm hồn họ không
có đức khiêm hạ, họ không đầu hàng sự thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ thì chấp
nhận những định chế nhân loại (ví dụ Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền
thông đức tin.
3)
Đức tin sống động thì có tình yêu thương.
Luật
truyền lớn nhất của Đức Kitô là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương
yêu kẻ khác vì Thiên Chúa. Nếu chẳng may tâm hồn sa đoạ, trở nên khô cằn, thậm
chí khả năng yêu thương bị tê bại, thì làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng
thời cũng là một tình yêu? Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn
mạnh chính là môi trường của một tâm hồn trong sạch tươi mát, vì chỉ những tâm
hồn như thế mới có khả năng thật sự yêu thương.
16. Lazarô sẽ không bao giờ tự mãn
(Trích
dẫn từ ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Trong
suốt Thánh Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ
ngôn. Điều đó có thể đã giúp cho chúng ta tự hỏi: “Tôi là ai trong dụ ngôn
đó?”. Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người giàu có
không hề chú ý đến người ngheo trước cửa nhà mình. Người phú hộ trong câu chuyện
không có tên (ông ta có biệt danh là “Dives” từ này trong từ Latinh có nghĩa là
giàu có). Có lẽ việc thiếu tên là một dấu hiệu để cho chúng ta suy nghị xem
chúng ta là người nào và người đó là người tự mãn, thỏa mãn với những gì mình
đang có và vì thế mà ông ta đã không chú ý tới Lazarô nơi cổng nhà mình, ngay
khi Lazarô bị ốm rất nặng, mình bao bọc đầy những mụn, rất đói và ông ta thèm
thuồng nhìn những miếng bánh vụn rơi từ bàn người phú hộ xuống đất nhưng không
có mà ăn.
Cũng
có một cách khác để thấy chúng ta trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng
ta đồng ý rằng chúng ta được cảnh báo để nhìn thấy và chăm sóc những người có
những nhu cầu khẩn thiết, chúng ta có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả
chúng ta là Lazarô. Hay chính xác hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù
thiêng liêng chứ không theo một cách thể lý.
Không
có sự cứu chuộc bởi Đức Kitô thì chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có
những mụn nhọt bên ngoài nhưng bên trong chúng ta thì đầy tội lỗi. Chúng ta đã
thiếu những của ăn không chỉ là những bánh vụn nhưng là Mình Thánh và Máu Thánh
của Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ
không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà của Người ở trên mặt đất này, để một ngày
kia chúng ta bước vào ngôi nhà đời đời ở trên trời.
Thiên
Chúa đã thương xót chúng ta. Người đã gửi Con của Người là Thượng Tế tối cao,
là Đấng trung gian của chúng ta, Đấng đã băng qua khoảng cách lớn lao của vực
thẳm tội lỗi mà Abraham đã nói với người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi
Thiên đàng. Thiên Chúa đã cho chúng ta đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc
của sự chết Đức Kitô, và để âu yếm chân lý về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục
Sinh đó là nguồn mạch bảo đảm cho niềm hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên
Chúa đã trao cho chúng ta sự khôn ngoan để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như
là Mình Thánh và Máu Thánh của Chúa đã hiến thân vì chúng ta, Máu quý giá của
Ngài đã đổ ra vì chúng ta.
Cách
thiêng liêng chúng ta có thể giống như Lazarô trong sự khốn khổ thể lý của ông
nhưng chúng ta đã trở thành giống ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần.
Chúng ta là những kẻ đã được chúc phúc thật sự vì Chúa Giêsu đã không đối xử với
chúng ta như là người phú hộ đối xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà Chúa
Giêsu đã giới thiệu trong dụ ngôn, hãy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô trở
lại trên mặt đất này. Thế bạn có nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người phú hộ,
người đàn ông giàu có đó không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với những người
bây giờ có hoàn cảnh khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng Lazarô sẽ
làm bất cứ điều gì để thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có thể cho những
người ăn xin những miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?
Nhưng
không cần chúng ta tưởng tượng Lazarô đã trở về từ cõi chết. Chúng ta là những
Lazarô, tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Tất cả những gì mà Thiên
Chúa đã làm cho chúng ta sẽ là sự thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối với
những kẻ có nhu cầu, tử tế với những người không có sự an ủi và yêu thương hướng
đến mọi người như Thiên Chúa đã hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng của
Thánh Lễ, vị linh mục đã tuyên bố nhân danh chúng ta: “Lạy Cha, chúng con xưng
tụng Cha ở mọi nơi, dâng lên Cha lời cảm tạ”.
Lời kinh phụng vụ tạ ơn của chúng ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn luôn và ở mọi
nơi, để cư xử với mọi người bằng tình yêu quảng đại mà Thiên Chúa đã trình bày
cho chúng ta trong người Con của Người, vị Tư Tế và là vị Cứu Chuộc chúng ta.
17. Giàu có và nghèo khó – McCarthy
Ông
phú hộ và Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài
tía; Ladarô mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày,
Ladarô không có gì để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông
phú hộ sống trong lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.
Thật
vậy, nói rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ.
Họ sống trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn;
Ladarô sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian;
Ladarô sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác
nhau như ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.
Ladarô
sống ở bên lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ
nên mỗi ngày anh nhìn vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được
đi vào thế giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh
sẽ sung sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn
của ông phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm
được việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.
Dĩ
nhiên, người ở vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể
dễ dàng bước vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh.
Nhưng ông đã không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn
ông lại.
Ladarô
thuộc vào hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ
còn nghèo hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu
điều đó.
Một
nhà doanh nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài
công việc. Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một
tuổi đang quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.
-
Thưa ông, có phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi.
-
Phải. Ông ta đáp.
-
Nó đẹp quá. Ông phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?
-
Nói thật với chú bé là tôi không biết.
-
Ông muốn nói ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu?
-
Này chú bé, tôi không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.
-
Ông muốn nói bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua?
-
Đúng thế!
-
Tôi ước gì tôi…
Nhà
doanh nghiệp tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp “Tôi ước gì tôi có một người bạn
như thế”.
Nhưng cậu bé lại nói: “Tôi ước gì tôi có thể là một người bạn như thế”.
Và
ông ta kết luận: “Đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một
chiếc xe đời mới trong tay. Còn kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm
hồn cậu có nhiều tình yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu giàu sang
hơn mình… Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị
chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng với
chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi”.
Ông
phú hộ phải chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm
hồn ông ta trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.
Ông
không muốn cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những
con chó hoang ngoài phố còn tử tế với Ladarô hơn ông ta.
Người
giàu có bị của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm
tổn thương. “Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu –
sự thờ ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến” (Mẹ Têrêxa).
Khoảng
cách giữa ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những
đứa trẻ trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng
viên hỏi một thiếu niên: “Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?”. “Cháu muốn sống
để nhìn thấy tuổi hai mươi”. Câu trả lời là như thế.
18. Bác ái bắt đầu từ nhà mình - McCarthy
Một
tối nọ, một người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ,
ông thấy một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu
ông giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết
định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó,
không bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp
cho người nghèo cái gì.
Vừa
mới đi qua cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất,
hai tay đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh
khốn khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga
chạy tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh
của người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.
Ông
đi dọc ngang khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì
nhiều hơn ông nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những
kế hoạch, lược đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng
ông sẽ bắt đầu với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi
nào đó?
Khi
về đến cổng tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí
lúc ban sáng. “Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày
trong cái nắng cháy da!”, ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn
nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.
Tối
hôm đó ông có một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác.
Nhưng lần này không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là
người ăn mày mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết
rõ mình phải bắt đầu ở chỗ nào.
Mẹ
Têrêxa nói: “Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở
nhà bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì
dễ, nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần
chúng ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc –
yêu thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc
và trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn
làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những “triệu” người ấy
mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi”.
Mẹ
Têrêxa kể lại câu chuyện sau đây: “Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng
nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm người
đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người
ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người ấy chết
vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để trong mười
lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia – còn người
đàn ông đó thì đã chết.
“Tôi
không bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân.
Tôi chỉ có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người
ở mỗi lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không
thể nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại
dương. Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt.
Đối với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế”.
Người
giàu có không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày
trước cổng nhà mình.
CÂU
CHUYỆN KHÁC
Một
tu sĩ lang thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây
thì một dân làng chạy đến gặp ông và nói: “Xin thầy cho con viên ngọc quý”.
-
Anh định nói về viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.
-
Tối qua con có một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối,
con sẽ gặp được một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên
giàu có mãi”.
Tu
sĩ lục lọi trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. “Đây có lẽ là viên
ngọc mà anh nói đến”, ông nói và đưa nó cho người dân làng. “Tôi tìm thấy nó
trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó”.
Người
đàn ông cầm viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương,
viên lớn nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt
đêm, anh ta trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta
trở lại gặp vị tu sĩ và nói: “Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy
lại viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi
viên kim cương ấy dễ dàng đến thế”.
Người
giàu có sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời
sống bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.
19. Chú giải của R. Gutzwiller
KHÓ
NGHÈO và SANG GIÀU.
Trong
Tin mừng Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề ‘hư mất’ kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn
người con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn
người giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ.
Ở
đây, trình thuật không có ý nói đến khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa
người phú hộ và Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không
có ý (dầu người ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu
theo nghĩa này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi
nói ‘Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn’ cho đỡ đói. Người ta
nghĩ nên thêm: ‘Nhưng không ai thèm cho’. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn
nữa diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ý tưởng đó.
Dụ
ngôn trước hết nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi
thịnh vượng đời này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị
ruồng bỏ. Dưới mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người
Saducêo, không tin đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công
bằng trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng
hành động tốt, tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương
gian phần thưởng mà họ có thể được.
Người
lành sẽ được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp,
có nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự
trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì
Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với
xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không
kiêng nể.
Hai
nhân vật đối đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một
người nghèo sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho
đến lúc chết. Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới
bên kia, sự tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược.
Người hành khất được hạnh phúc trong lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu
muôn vàn đau khổ.
Thịnh
vượng trần thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa;
cũng như nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng
bỏ. Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác.
Đó là ý nghĩa của dụ ngôn.
Cho
nên không thể rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết
trong bài trần thuật này: chẳng hạn các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng thụ
là biểu hiệu những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an nghỉ
trong lòng Abraham cũng thế…
Cũng
không thể áp dụng trên khía cạnh luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước
ý muốn của Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng
và Lagiarô nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng
của dụ ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới
trạng thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.
Giải
thích này, vào đúng thời của nó, đã đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt
phái, đòi hỏi họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ… Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn còn. Người
ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của mình cũng như của người khác theo tiêu chuẩn
vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được coi là
người biết tổ chức tốt đời của mình.
Vở
kịch đời sẽ thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng
ta không ngại thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công,
‘đã làm được một cái gì’ và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống
của họ đầy thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không
nghĩ như chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.
Tuy
nhiên, con người tỏ ra xung khắc với giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức
Kitô quả quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người
chết sống lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên
Chúa, họ không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau,
sau sẽ thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ
thành quyền thế và ngược lại.
‘Chúa
hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban của
đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng’. Đức Kitô đã đến trần gian và Ngài
đã nhắc đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không tin
và cũng không muốn tin Ngài… Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của thiêng
liêng, đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn
là số phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn
toàn thay đổi.
Thực
họ khó xét lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của mình.
20. Tôi có đọc Kinh Thánh hay không?
Chúng
ta có thể tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có
sung sướng vui cười và Ladarô nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có trở
nên rất bất hạnh còn người nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca thích
loại đảo ngược này, và vì ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết và viết
bằng một văn phong xúc tích vô cùng:
“Người
nghèo chết và được thiên thần mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và
người ta chôn ông”.
Chúng
ta không dự vào quang cảnh đó, chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn
đánh động. Và trước tiên dụ ngôn không nói đến người giàu có “xấu xa”, nhưng
đơn giản chỉ là “một người giàu có” và thậm chí sáu người giàu: người giàu quá
cố và năm người anh em của ông ta còn sống. Trong khi tỏ cho chúng ta thấy họ
mù và điếc đến độ nào, Chúa Giêsu cảnh cáo tất cả chúng ta: “Các ngươi đừng chờ
đợi cái chết mở mắt cho mình về sự sống”.
Người
giàu có không “thấy” Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của
ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không “thấy” gì cả. Thật là một sự mù
lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người láng giềng nói:
“Chúng ta đâu có thấy gì!”. Không phải tất cả những người sung sướng, tất cả những
người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ không thấy. Nhiều người tỏ ra có
tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ chung quanh họ. Người giàu có muốn
chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.
Đối
với người giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta “thấy” Ladarô, ông cũng thấy
điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu đời
này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ sự
vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng “hạnh phúc” trước đây: Ông sẽ không bao giờ có
thể vượt qua “vực thẳm lớn lao” được.
Vì
không hoàn toàn xấu xa và rất gắn bó với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo
cho các anh em của ông.
-
“Lạy tổ phụ Abraham,… xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn
cực hình này!”, ông nói với Abraham như thế.
Abraham
nói: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”.
Người
giàu có có tính hoài nghi. Ông đã có Lời Chúa, thế mà …. Cần phải khua chiêng
gióng trống nhiều hơn nữa để làm cho người ta ăn năn thống hối.
-
Không, Abraham nói, để ăn năn thống hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.
Đó
là điều mà Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta:
Bài
học của các dụ ngôn thường là nằm ở kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là
“mũi nhọn”. Ở đây, chính tầm quan trọng được gán cho Lời Chúa. Chúa Giêsu nói qua
Abraham: “Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ”.
Thậm
chí tôi có thể dễ dàng vượt lên trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng
không thấy những người anh em của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo
Chúa Giêsu. Đối với tôi dường như nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo trộn,
một sự mặc khải, một cuộc hiện ra chẳng hạn…
-
Không, Chúa Giêsu nói, không có gì khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có
Mô-sê và các Ngôn Sứ.
Tôi
phải để cho mình bị thương thật sâu do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng
Kinh Thánh có được lật từng trang, được đọc một cách không mệt mỏi hay chăng?
Chúng ta có Lời Chúa tại sao chúng ta còn tìm kiếm điều gì khác nữa?
21. Dại dột
Bài
Tin Mừng Chúa Giêsu đưa ra hai cảnh đối nghịch nhau một cách chát chúa, đó là số
phận của nhà hộ phú và của người nghèo khổ Ladarô, ở đời này và đời sau. Ở đời
này, người phú hộ ăn sung mặc sướng, lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình mỗi
ngày, sống trụy lạc và danh vọng, còn người nghèo khổ Ladarô thì không ai đoái
hoài, một người hành khất khốn cùng và bất lực, hằng ngày ngồi chầu chực trước
cổng nhà người giàu có kia, hy vọng kiếm được chút gì để độ thân cho qua ngày.
Hai
nhân vật này không phải ở hai chân trời xa cách nhau, nhưng ở kề bên nhau: người
nghèo nằm ngay trước cổng nhà người giàu. Ở kề bên nhau nhưng không có quan hệ
với nhau. Cuộc sống cứ kéo dài như thế cho đến khi người nghèo chết và người
giàu cũng chết. Người nghèo chết, không thấy nói có ai chôn, chỉ có thiên thần
đến đưa người ấy vào thiên đàng. Còn người giàu chết thì được chôn cất đàng
hoàng. Chắc chắn đám tang của ông ta lớn lắm, có nhiều người đi đưa, có nhiều
vòng hoa, vòng cườm, chắc cũng có nhiều người khóc nữa, nhưng không thấy nói có
thiên thần đến đón ông ta. Như vậy, số phận của hai người đã đảo ngược: Ladarô được
thưởng sung sướng, hạnh phúc. Còn nhà phú hộ bị phạt khổ cực, bất hạnh.
Qua
dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn dạy hai điều: thứ nhất, giàu có không phải là một
tội và nghèo khổ cũng chưa hẳn là có phúc, nếu người ta không có tinh thần
nghèo khó thực sự. Thứ hai: mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của đời
này và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
Trước
hết, giàu có có phải là một tội trọng không và nghèo khó có phải là có phúc
không? Chúng ta thấy dụ ngôn không đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú hộ,
thế mà ông ta đã sa hỏa ngục, điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên việc
giàu có đã là một tội. Không, giàu có tự nó không xấu cũng không phải là một tội,
nếu không ai mà dám làm giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi tiền của,
thay vì là đầy tớ đã trở nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên thần tượng,
thay vì là phương tiện đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu có chỉ biết
ăn chơi phung phí mà không một chút động lòng trắc ẩn trước những người nghèo
khổ xung quanh mình. Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên hết, hơn cả
tình nghĩa. Những người giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem lại cho họ đầy
đủ, sung sướng ở đời này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn nữa, lại là một
ngăn trở làm cho họ khó vào nước trời hay không vào được nước trời. Đó là trường
hợp của nhà phú hộ trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải vì ông ta là phú hộ,
nhưng vì ông ta đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta có thể nghi ngờ về
nguồn gốc tài sản của ông ta. Nhưng tội của ông ta không phải chỉ ở cách làm
giàu bất chính, cũng không phải vì ông ta là người giàu, nhưng vì ông ta đã sử
dụng tiền của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người
hành khất đói rách, nghèo khổ.
Ngược
lại, nghèo khổ có phải là có phúc không? Có, chắc chắn có và cũng có thể là
không. Thực vậy, nghèo khổ, nhất là nghèo đến cùng cực, có thể trở thành mối tội
đầu thứ tám, thêm vào số bảy mối tội đầu đã có. Bởi vì nghèo túng quá có thể
làm cho người ta mắc nhiều tật xấu và tội ác: nghèo đưa đến tham nhũng, trộm cắp,
láo xược và ngang tàng; nghèo làm cho người ta ghen tuông, bất mãn, xa cách
Chúa, coi nhẹ linh hồn mình… Như vậy, nghèo đâu có phải là phúc. Rồi có biết
bao người, bên ngoài nghèo nàn, túng thiếu, nhưng trong lòng họ mơ ước, tham
lam đủ thứ. Những người như thế chưa chắc đời sau sẽ được hạnh phúc. Do đó,
không phải nguyên tình trạng nghèo khổ đã là công phúc, mà cần phải cóp tinh thần,
có tâm hồn nghèo khó và biết chấp nhận tình trạng đó nữa. Như chúng ta thấy:
công phúc của người hành khất Ladarô nghèo khổ, hệ tại ông ta biết chấp nhận cảnh
nghèo khổ, bệnh tật, tuân theo thánh ý Chúa. Dĩ nhiên, sự chấp nhận này không
ngăn trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng đề
thoát khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.
Đàng
khác, dụ ngôn còn nhằm nói lên mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của
với hạnh phúc vĩnh cửu. Tiền của vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để
xây dựng, thăng tiến cuộc sống của mình, đồng thời phát triển tình người, xây dựng
yêu thươnggiữa người với người. Ai biết sử dụng như thế không những được ấm no
hạnh phúc ở đời này mà còn bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau nữa
trên nước trời.
Ngược
lại, ai khư khư hưởng dùng một mình, không bao giờ muốn giúp đỡ hay chia sẻ cho
người khác, nhất là những người nghèo khổ, dù là một chút thôi, thì sẽ bị Thiên
Chúa xét đoán nghiêm ngặt. Bởi vậy, nếu ông phú hộ biết đem tiền của chia sẻ
cho ông Ladarô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời, và khi chết ông sẽ
được thiên thần rước vào thiên đàng. Nhưng ông đã không hành động như vậy, nên
ông đã mất tất cả và bị phạt muôn đời.
Lời
Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hai diều: thứ nhất, Chúa dạy chúng ta hãy sống
theo đạo trung dung của trời. Chúng ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi
tiền của trọng hơn nhân nghĩa. Nếu chúng ta nghèo khổ ư? Chúa bảo chúng ta: đừng
lo lắng quá mà dùng những phương thế bất chính để có tiền của và cũng đừng buồn
chán, vì chúng ta đang ở trong một tư thế thuận lợi để vào nước trời. Thứ hai,
Chúa dạy chúng ta: chỉ có một mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất, đó
là sử dụng để đạt tới sự sống vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là sử dụng
để đem lại hữu ích cho mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay mời gọi
mỗi người chúng ta hãy xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình đóng góp
tiền của trong việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
22. Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
ĐỜI
SỐNG MỚI SAU CÁI CHẾT ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ BÂY GIỜ
Nhiều
người chê Ki-tô hữu là dại, vì các Ki-tô hữu không tận hưởng những lạc thú trên
đời, lại còn chuốc vất vả vào thân khi lao vào giúp đỡ người khác. Những người
này nghĩ vậy, vì họ chỉ biết đến họ, và không động lòng trước nỗi khổ của bao
anh em nghèo đói sống bên họ. Thế nhưng, chết đâu phải là hết. Và những người
chỉ biết sống cho mình, chỉ biết sống như thể chỉ có đời sống này, lại trở
thành người dại sau khi chết.
Ai
cũng phải chết
Không
phải ai cũng giầu, cũng đẹp, cũng có địa vị. Nhưng có một điều rất công bằng
cho mọi người: ai cũng phải chết. Cái chết làm người ta bình đẳng: chẳng ai
mang theo gì với mình ngoại trừ chính con người của mình: không tiền bạc, không
người thân, không quyền lực, không sắc đẹp, không kiến thức. Sinh ra trần trụi,
chết cũng trần trụi.
Cái
chết làm con người trở lại với con người thực của mình. Cái chết giúp người ta
nhận ra sự thật, và cố gắng sống cho ra người trong đời hiện tại. Trong nhãn
quan này, cái chết không chỉ là mối họa, nhưng còn là một hồng ân cho những ai
đang sống, vì qua nó, con người nhận ra đâu là quê hương thật của mình, đâu là
điểm mà mỗi người sẽ đến. Chỉ lo đi bắt bướm tìm hoa trên đường, mà không lo
hoàn tất nhiệm vụ của mình, thì quả là người dại biết bao.
Cái
chết làm người ta đi vào vĩnh cửu
Thời
gian thật là quý. Vì người ta có thể xây dựng và hoàn thành con người của mình
một cách tuyệt vời. Con người mình như thế nào, tuỳ mình khi sống trên đời này.
Khi chết rồi, mình không còn thay đổi được nữa. Thời gian trên trần thế, là thời
gian của mỗi người, thuộc về mỗi người, mỗi người được quyền định đoạt và hình
thành con người mình theo như mình muốn. Với tự do Chúa ban, không ai hình
thành đời mình, nếu không phải chính mình. Chỉ cần một giây thôi, cũng đủ làm
cho người ta ra khác, được sống hạnh phúc vĩnh cửu hay không. Một giây thôi,
quý như thế nào.
Cũng
khó mà diễn tả tại sao cái chết lại làm người ta thành vĩnh cửu. Theo nhãn quan
của thánh Ynhã Loyola, ma quỷ và những người ở dưới hoả ngục vẫn luôn chống đối
và nguyền rủa Thiên Chúa. Thái độ người ta chọn lúc chết, là thái độ vĩnh hằng
của người đó. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy như thể người giầu vẫn thương anh
em của ông ta còn đang sống, nên đề nghị Abraham cho người về. Chúng ta biết rằng,
bởi vì đây là dụ ngôn, nên không phải tất cả đều có ý nghĩa và phải được giải
thích. Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dạy con người hãy sống sao, để khi chết
được hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi người phải chọn lựa ngay trong đời sống của mình,
với những lời dạy dỗ của những người được sai tới với họ. Họ không cần phải chờ
người chết hiện về, hoặc thiên thần tới nói với họ. Như vậy, những người sống với
chúng ta, những người nói Lời Chúa cho chúng ta rất quan trọng. Không ai thay
thế họ cho chúng ta. Đừng đòi người chết hiện về để nói.
Hôm
nay là ngày hồng phúc, hôm nay là ngày cứu độ
Hôm
nay, với những điều kiện tôi có và hoàn cảnh cùng những người xung quanh tôi,
tôi phải sống cho ra người, hình thành con người của tôi. Người nghèo ăn xin,
không có gì, vẫn có thể hình thành con người của anh ta cách trọn vẹn. Những
người làm vệ sinh đường phố, những người quét rác ngoài đường, những giám đốc
xí nghiệp lớn, hay những bác sĩ kỹ sư, đều ngang nhau trong việc hình thành đời
mình. Nếu một bác sĩ không tận tâm cứu giúp bệnh nhân, là bác sĩ dở. Bác sĩ đó
cũng tương tự như người giầu không có lòng thương với người nghèo ăn xin
Ladarô. Nếu một công nhân quét đường mà không làm tròn bổn phận của mình, thì
cũng dở như một giám đốc xí nghiệp không cố gắng để xí nghiệp được trao cho
mình phát triển. “Không có nghề dở, chỉ có người dở”. Trước mặt Chúa, bác sĩ và
công nhân vệ sinh trong bệnh viện đều ngang nhau. Và ngay cả trước mặt con người,
một người làm phu vệ sinh nhưng thương yêu và giáo dục con nên người, thì tốt
hơn một bác sĩ hay kỹ sư giầu có mà không dành giờ để thương yêu và giáo dục
con cái họ. Chính trong việc làm, và trong việc giáo dục con cái, hình thành
nhân cách và bản lãnh mỗi người, cũng như hình thành con người vĩnh cửu của
mình trong đời sống mai hậu.
Tài
nguyên của cải, là của Cha trên trời cho tất cả mọi người. Không ai được lợi dụng
tài năng của mình để bóc lột người khác. Tài nguyên, là để cho tất cả mọi người;
và tài năng là để phục vụ mọi người. Một giám đốc đi xe hơi giầu sang, không chắc
đã tốt bằng người công nhân xúc đất bên đường. Tốt hay không, tuỳ thuộc mỗi người
dùng tài năng Chúa ban cho mình, để phục vụ mọi người hay không. Nếu Chúa ban
cho họ 5 nén, họ phải làm lời 5 nén. Nếu Chúa chỉ ban cho tôi một nén, Ngài chỉ
đòi tôi làm lời 1 nén. Đừng đem chôn nén bạc tài năng Ngài ký thác. Nếu không
có người phu quét đường và những người trồng và săn sóc cây trong công viên, cuộc
đời đã không đẹp như đang là. Những công nhân làm sạch đường phố, không chỉ làm
đẹp phố phường, nhưng làm đẹp cả đời tôi, và làm tôi hạnh phúc. Họ có thể là những
người tuyệt đẹp ở đời sống mai hậu.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
1.
Theo bạn, Thiên Chúa có công bằng khi để mỗi người đều phải chết không? Tại
sao?
2.
Người giầu và người nghèo, ai dễ hạnh phúc hơn? Tại sao?
3.
Có ai hình thành đời bạn giúp bạn không? Bạn hình thành đời bạn mỗi ngày thế
nào?
23. Chúa nhật 26 Thường Niên
**
Nhiều người có ý nghĩ rằng: Thiên Chúa nhân từ vô cùng, thì chắc chắn Ngài
không phạt ai mãi mãi trong hỏa ngục, và do đó, không có hoả ngục! Đó là một ý
nghĩ sai lầm! Bài Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu đã xác quyết có hỏa ngục, nơi
giam cầm mãi mãi những người cố tình phạm trọng tội, nhất là tội thiếu yêu
thương, không muốn chia xẻ những gì mình có cho người túng thiếu, khổ cực! và
hình phạt vô cùng thảm khốc sẽ đến cho họ sau kiếp sống vắn vỏi này!
Chúa
Giêsu kể một dụ ngôn đặc biệt nói đến hai hạng người trong xã hội thời Chúa
Giêsu cũng như ngày nay: Một hạng người trọc-phú, và một hạng người bần cùng khốn
khổ nhất trong xã hội, hạng người rất đáng chúng ta thương xót! Thế nhưng số phận
đời đời của 2 người mà Chúa nói tới, hoàn toàn đảo ngược sau khi họ chết!
Người
phú hộ: Ăn mặc toàn gấm vóc lụa là, quần áo lộng lẫy, ngày nào cũng yến tiệc
linh đình, ăn toàn cao lương, mỹ vị, không thiếu sơn hào hải vị. Ông là một người
giầu, một trọc phú điển hình thời Chúa Giêsu, giầu theo kiểu đại phú gia La-Mã
lúc bấy giờ. Ông quá giầu: Vì ngày nào cũng yến tiệc linh đình, không như những
người giầu vừa vừa, chỉ mở đại tiệc dăm ba lần trong năm!
Lazarô:
Một người cùng khổ nhất trong xã hội, vừa ốm đau, ghẻ lở khắp mình, phải đi ăn
xin cơm thừa canh cặn của những người khá giả để sống qua ngày! Lazarô và nhà
phú hộ là hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược: Một người quá giầu còn Lazarô lại ở
mức cùng tận của cái nghèo! Tên Lazarô có nghĩa là Chúa thương giúp. Trong Tin
Mừng có 2 người khác nhau cùng có tên là Lazarô: một người mà Tin Mừng Thánh
Gioan nói tới trong đoạn XI, là em của Bà Martha và Maria, được Chúa cho sống lại
sau khi đã chết 4 ngày. Còn Lazarô là người cùng khổ mà Chúa Giêsu nói tới. Ông
là người duy nhất được Chúa đặc biệt nói rõ tên trong các câu chuyện Tin Mừng.
**
Giầu không phải là tội, tuy nhiên, giầu mà không biết chia xẻ, không biết xót
thương những người nghèo khổ, thì đó mới là tội. Người phú hộ, quá dư thừa,
ngày nào cũng yến tiệc linh đình, đồ ăn thừa mứa, trong khi Lazarô chỉ ước ao
những mụn bánh rớt xuống từ bàn ăn của ông phú hộ, nhưng cũng không ai thèm
cho! Mà Lazarô có ở đâu xa, ông nằm ăn xin ngay bên cổng của người phú hộ, thế
nhưng ông phú hộ đã không thèm để mắt tới! Nếu ông ta đã quan tâm thì đâu
Lazarô có phải túng thiếu, khổ sở tận cùng như thế! Ông ta chỉ cần sai đầy tớ
đem cho Lazarô chút cơm thừa, canh cặn thì Lazarô đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng
mơ ước quá nhỏ bé đó đã trở thành ảo vọng, vì ông phú hộ đâu thèm xót thương
thân phận hẩm hiu thê thảm ấy, thê thảm còn hơn con vật nữa! Một cảnh thật thê
lương: Lazarô nằm teo-tóp, chốc lở đầy mình, không một ai thương cảm, chỉ có những
con chó đến liếm những mụn ghẻ chốc của ông mà thôi! Mà sự cảm thông, chia xẻ
đây có làm bớt đi gia tài kếch xù của ông ta đâu! Và sự chia sớt này chỉ cần
ông ta để tâm một chút thì đã dễ dàng đem lại hạnh phúc cho Lazarô, nhưng ông
ta đã không làm!
**
Người phú hộ ăn uống dư thừa, tiêu sài hoang phí cho riêng mình nhưng từ chối
chia xẻ cả những đồ ăn thừa mứa đối với Lazarô, một người đói nghèo, cùng khổ,
để làm giảm bớt một chút nào tình cảnh nghèo khó... Đó là một trọng tội đối với
Thiên Chúa. Ông không thèm để mắt tới một người khốn cùng, túng đói, khốn khổ
hơn cả một con vật, ngày ngày ăn xin ngay trước cổng nhà mình, thì làm sao đáng
Chúa xót thương?
**
Trong đoạn Tin Mừng trên, Chúa Giêsu vẽ ra 2 cảnh hoàn toàn trái ngược: Một cảnh
ở trần thế: đó là cảnh tưng bừng náo nhiệt, ăn sài cao lương mỹ vị dư thừa nơi
nhà ông phú hộ, với cảnh cùng khổ của của Lazarô, thiếu thốn cả những gì cần
thiết nhất để sống còn. Một cảnh khác ở kiếp sau: Đó là cảnh hạnh phúc bất tận
nơi Thiên Quốc mà Abraham, Lazarô và các con Chúa được hưởng sau kiếp sống vắn
vỏi này, đối chiếu với cảnh lửa hồng nung nấu, tuyệt vọng hoàn toàn của người
phú hộ bị trầm luân muôn kiếp.
Bị
nung nấu trong lửa chẳng hề tắt, ông phú hộ chỉ dám xin tổ phụ Abraham sai
Lazarô nhúng một đầu ngón tay vào nước để nhỏ xuống, cho ông ta đỡ khát một
chút, nhưng không được, vì có một vực thẳm ngăn cách 2 bên, không thể có ai còn
giúp đỡ nhau được nữa! Bởi vì đã hết giờ Cứu Độ! Sự chết đã vĩnh viễn đóng kín
mọi cánh cửa hy vọng nơi các linh hồn bị trầm đọa muôn kiếp! Không còn cơ hội để
thay đổi số phận được nữa! Sự ngăn cách giữa Thiện-ác trong kiếp sau là sự ngăn
cách vĩnh viễn, không bao giờ có thể thay đổi được!... Khi còn đang sống, thì bất
cứ lúc nào, chúng ta lắng nghe và thực thi Lời Chúa để sống Yêu Thương, thì số
phận tức khắc thay đổi, nhưng sau khi chết, thì hoàn toàn bất di bất dịch: Hoặc
thiên thu hạnh phúc hay đời đời khốn khổ!
**
Ở đời này, có khi chúng ta cũng gặp nhiều nghịch cảnh, túng thiếu, gian
truân... nhưng nếu cứ bước đi tren đường giáo huấn của Chúa để sống trong tình
thương, yêu Chúa và tha nhân, thì chắc chắn, tương lai tốt đẹp sẽ đến, Thiên
Chúa sẽ trọng thưởng các con của Ngài thiên thu hạnh phúc trên Nước Trời. Muốn
thế, chúng ta đừng nhắm mắt, bịt tai trước những thống khổ, túng thiếu của tha
nhân, nhất là những người cùng khổ bên cạnh chúng ta.
Sự
đau khổ túng thiếu đời này chưa phải là cùng tận, chỉ là một thử thách chóng
qua, chúng ta cứ vững tâm sống trong Thánh Luật Yêu Thương của Chúa, thì tương
lai rực rỡ sẽ đến và thay đổi hoàn toàn số phận chúng ta trong Cõi thiên thu
vĩnh hằng!
24. Suy niệm của JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Người giàu có trong bài Tin Mừng hôm nay có phạm một tội ác nào không? Ông phải
chịu hình phạt nơi âm phủ vì lý do gì? Đó có phải là một tội không?
2.
Làm ngơ hay lãnh đạm trước những đau khổ, cùng quẫn, cảnh áp bức mà người thân
mình đang phải gánh chịu một cách bất công mà không ra tay can thiệp khi có thể,
có phải là tội lỗi không? Đó có phải là thiếu tình yêu? Và như thế, có thể vào
được Nước Trời là nơi chỉ dành cho những người biết yêu thương thật sự không?
Suy
tư gợi ý:
1.
Chúng ta chỉ là những người quản lý những gì chúng ta có
Tất
cả những gì chúng ta đang có trong tay, dù là vật chất hay tinh thần (đức độ,
tài năng, chức quyền, địa vị, hay của cải, tiền bạc, v.v…) cũng đều do Thiên
Chúa ban. Ngài muốn chúng ta tạm thời quản lý để làm những việc ích lợi cho
Thiên Chúa và tha nhân, tức làm lợi cho Nước Trời. Chúng không phải là của ta,
vì nếu chúng thật sự là của ta, thì chúng cũng phải theo ta về đời sau. Nhưng
trong thực tế, khi lìa cuộc đời, ta phải để lại tất cả cho người khác. Do đó,
xét cho cùng, chúng ta chỉ là những người quản lý tạm thời những gì chúng ta
đang có, và phải sử dụng chúng theo ý muốn của người chủ đích thực của chúng là
Thiên Chúa. Và chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về cách chúng ta quản
lý chúng. Người quản lý nào không sử dụng của cải tiền bạc của chủ đúng theo ý
chủ, nghĩa là không làm lợi cho chủ mà chỉ làm lợi cho mình, sẽ bị đuổi việc hoặc
phải chịu trách nhiệm về cách quản lý sai trái ấy.
Trong
dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người phú hộ bị hình phạt dưới âm phủ, chịu lửa
thiêu đốt và khát cháy cổ, không phải vì phạm một tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng
của cải Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình. Ông ta “mặc toàn lụa là gấm
vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”, bỏ mặc người nghèo ở ngay trước cổng nhà
mình “sống chết mặc bay!”, phải chịu “mụn nhọt đầy mình”, “mấy con chó cứ đến
liếm ghẻ chốc anh ta”, “thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà
ăn cho no” mà không hẳn được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người
giàu có khác – nghĩ rằng những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn
sử dụng hay hưởng thụ thế nào, cho ai hay không cho ai là tùy ý mình. Ông ta
nghĩ rằng ông hoàn toàn vô tội khi không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người
nghèo khổ đến với ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông
không có lỗi gì với họ cả: ông có làm gì khiến họ bị thiệt hại đâu!
Nhưng
việc ông phải chịu phạt dưới âm phủ chứng tỏ cách suy nghĩ như thế là hoàn toàn
sai lầm. Tuy dù ông không có hành động tích cực hay cụ thể nào gây bất công cho
ai, nhưng việc chỉ dùng của cải Thiên Chúa ban để hưởng thụ một mình mình, hay
một mình gia đình mình, đồng thời làm ngơ hoặc không đếm xỉa gì đến những đau
khổ của những người nghèo túng, bị áp bức chung quanh mình, thì ông đã phạm một
tội rất nặng rồi. Vì tiền bạc của cải ông có, thật ra đâu phải là của ông khiến
ông có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Ông chỉ là người quản lý, và ông phải quản
lý làm sao để chứng tỏ ông có tình thương, để làm lợi cho Nước Trời, là thứ xã
hội lý tưởng trong đó mọi người luôn yêu thương nhau. Có thế ông mới xứng đáng
được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời, vốn chỉ dành cho những con người có tình
yêu thương thật sự. Theo bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46),
rất nhiều người chẳng phạm một tội ác nào tích cực, thế mà chẳng thể vào được
Nước Trời chỉ vì, như Chúa nói, “xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã không cho uống; là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã
chẳng thăm viếng” (Mt 25,42-43).
2.
Của cải vật chất trên nguyên tắc là để mọi người hưởng dùng
Thiên
Chúa tạo dựng nên của cải vật chất trên thế gian là cho tất cả mọi người hưởng
dùng. Nhưng vì các cơ chế xã hội còn bất toàn, nên sự phân phối của cải chưa hợp
lý, khiến cho xã hội còn nhiều bất công: “kẻ ăn không hết, người lần chẳng ra”.
Do đó, để sửa chữa hay giảm bớt bất công trong xã hội, những ai được cơ chế xã
hội ưu đãi khiến mình giàu có hơn người, dù là giàu có một cách rất hợp pháp,
phải biết chia sẻ cho những người nghèo khổ hơn mình, nhất là những người gặp cảnh
cùng quẫn. Đó là nghĩa vụ mà lương tâm tự nhiên của con người đòi hỏi, không cần
phải nại đến luân lý Ki-tô giáo. Cổ nhân ta có những câu như “Lá lành đùm lá
rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”,
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”. Việc
xây dựng một xã hội công bằng, trong đó của cải được phân chia hợp lý, hay việc
chống bất công, cũng là nghĩa vụ của mọi người, nhất là những người được Thiên
Chúa ban cho nhiều khả năng làm việc ấy một cách hữu hiệu (những người có tài
năng, chức quyền, có địa vị trong xã hội và Giáo Hội…)
Thiên
Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa công bằng và yêu thương, Ngài đã cho Con Một
Ngài xuống thế để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời và khởi đầu
xây dựng nước ấy, trước hết tại trần gian, và sau đó là trên trời. Nước Trời là
một xã hội hay Giáo Hội lý tưởng, trong đó mọi người đều đối xử với nhau không
chỉ hợp với lẽ công bằng, mà còn phải đầy tình yêu thương nữa. Những người ích
kỷ, chỉ biết hạnh phúc một mình, đầy đủ một mình, những người chủ trương ai chết
mặc ai, ai khổ mặc ai, không thể là đối tượng của Nước Trời. Vì thế, những người
theo Ngài, tức các Ki-tô hữu, có nhiệm vụ tiếp nối công việc của Ngài là làm chứng
và xây dựng cho Nước Trời. Làm chứng là chính mình sống đúng tinh thần công bằng
và yêu thương của Nước Trời ngay trong chính môi trường mình đang sống. Xây dựng
là làm sao để trong môi trường mình sống ngày càng có nhiều người sống tinh thần
ấy. Thiết tưởng mọi Ki-tô hữu cần ý thức và quan tâm tới chiều kích xã hội và
giáo hội này.
3.
Những người giàu có, hạnh phúc, cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với người nghèo
túng, đau khổ
Qua
bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời những
người sống ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm ngơ trước
những đau khổ, thế cùng quẫn, tình trạng bị áp bức, bóc lột mà những người
chung quanh ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ thể,
chúng ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có thể. Nếu
chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy ắt sẽ khiến chúng ta bức xúc và
không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải chịu
trước mắt mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta hành động như anh
nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay, an tâm “mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày
yến tiệc linh đình” trong ngôi nhà khang trang đầy tiện nghi, không thèm đếm xỉa
đến nỗi cùng quẫn của những “Ladarô, mụn nhọt đầy mình, thèm được những thứ
trên bàn ăn rớt xuống mà ăn cho no” đang nằm trước cổng nhà mình. Tình yêu đích
thực không cho phép chúng ta khoanh tay ngồi nhìn những kẻ ác tự do gây bất
công cho những kẻ thế cô, khi mà chúng ta có thể dùng tài năng hay địa vị của
chúng ta để can thiệp.
Chúng
ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về những gì Thiên Chúa ban mà chúng ta lại
không sử dụng để làm lợi cho Ngài và tha nhân. Dụ ngôn về nén bạc cho chúng ta
biết điều ấy (xem Mt 25,14-30; Lc 19,12-27): Kẻ nào đem chôn nén bạc Chúa trao,
dù chỉ là một nén, mà không sinh lợi ích cho Ngài, thì sẽ Ngài bị kết án: “Còn
tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải
khóc lóc nghiến răng” (Mt 25,30). Do đó, chúng ta không thể tự hào mình vô tội
chỉ vì mình không hề làm điều gì bất công. Coi chừng chúng ta là kẻ tội lỗi
đáng kết án chỉ vì đã không làm những gì lương tâm và tình yêu thương đòi buộc
phải làm, dù bởi lười biếng hay hèn nhát…
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, con cảm thấy mình chưa đủ tình thương đối với Cha cũng như với đồng loại, vì
con chưa dám hy sinh một chút danh tiếng, một chút thì giờ, một chút của cải,
hay chấp nhận một chút đau khổ, nhục nhã, khó nhọc để làm cho những người thân
đang đau khổ chung quanh con bớt đau khổ. Con vẫn chỉ nghĩ tới sự an toàn và hạnh
phúc của riêng con, coi sự an toàn và hạnh phúc của con hơn tất cả. Xin ban cho
con có nhiều tình yêu hơn, vì có đủ tình yêu, con sẽ làm được tất cả những gì
Chúa muốn, những gì lương tâm và tình yêu đòi buộc. Amen.
25. Cuộc sống trần thế không phải là tất cả
(Suy
niệm của Lm Phanxicô Xavie Vũ Phan Long)
Nếu
con tim đã trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa
và người thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về
cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
1.-
Ngữ cảnh
Tại
đoạn Lc 16,14-18, tác giả đã mô tả người Pharisêu là “vốn ham hố tiền bạc”. Lời
mô tả này chủ ý được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận xét bất thường,
không có chỗ nào trong TM III hay Cv sử dụng. Đức Giêsu than trách rằng điều
răn quan trọng nhất, yêu thương người thân cận như chính mình, đã phải hy sinh
cho việc giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương đối với chính mình, cho dù
phải hy sinh người thân cận, đã được ưa chuộng hơn – và điều này lại rõ ràng
nơi những người Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự ham hố tiền bạc dễ dàng
tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về việc sử dụng của cải cách bất chính (16,1-8)
và từ những bài học về việc lạm dụng của cải (16,9-13). Vậy bài dụ ngôn
16,19-31 là phần nối tiếp những nhận định lâu dài của tác giả Lc về việc sử dụng
không đúng đắn các của cải (kể từ bài Người con hoang đàng). Bài dụ ngôn hôm
nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này. Người Pharisêu chế nhạo Đức Giêsu khi nghe
dụ ngôn của Người đề cập đến tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ ràng và mạnh mẽ,
Đức Giêsu biện luận về cách sử dụng đúng đắn các của cải.
Những
lời Đức Giêsu (16,15-18) tiếp theo lời tác giả giới thiệu người Pharisêu ở c.
14 tập trung vào những gì Đức Giêsu cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn trọng
các giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có một con đường duy nhất đưa vào Nước Trời
(16,16), đó là tuân giữ các giáo huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn
liên hệ đến việc sử dụng đúng đắn các của cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ
không bao giờ qua đi, nhưng luôn hướng dẫn các chọn lựa của con người (16,17).
Điều duy nhất Đức Giêsu thêm vào các giáo huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm
sáng tỏ cách người Do Thái hiểu Luật Môsê (x. c. 18 như một ví dụ về cách Đức
Giêsu làm sáng tỏ Lề Luật). Người Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của
Luật Cựu Ước, lại sống ý muốn của Thiên Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là Đấng
Cứu thế, là vị Hướng đạo và Đấng soi sáng mình.
Vì
không có một từ hay một câu nào để nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu
rằng dụ ngôn thuộc về những câu đi trước nó.
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể chia thành hai phần:
1)
Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);
2)
Cuộc đối thoại (16,23-31):
a) Phần một: Cuộc sống dưới ánh sáng của
cái chết (cc. 23-26);
b) Phần hai: Sứ điệp cho “năm người anh
em” và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (cc. 27-31).
3.-
Vài điểm chú giải
-
mặc toàn … (19): enedidysketo, thì vị hoàn của động từ
endidyskô, “mặc”, cho hiểu là đây là một hành động xảy ra thường xuyên.
-
lụa là gấm vóc (19): dịch sát là “gấm tía và vải lanh
mịn”. Theo ngôn ngữ của Cựu Ước (Cn 31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống
như một ông vua.
-
Ladaro (20): Do từ Híp-ri ’El‘âzâr, có nghĩa là
“Thiên Chúa giúp đỡ”.
-
được thiên thần đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu
“cũng chết, và người ta đem chôn”, tức là linh đình và long trọng, ta hiểu anh
Ladarô không được loài người an táng, nên đã được các nhân vật thiên quốc đem
đi.
-
anh Ladarô trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí
danh dự khi người ta được dự tiệc đồng bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên sai
(Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).
-
âm phủ (23): Từ ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy Lạp, để
mô tả cuộc sống của người ta sau cái chết. “Hadês” là tên của vị thần Hy Lạp
cai trị âm phủ, và được dùng để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do con chữ
alpha có nghĩa là thiếu mất đứng trước ngữ căn của động từ “nhìn thấy”. Đối với
người Hy Lạp không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất tử,
linh hồn của người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ sở không có mặt
trời, trong một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.
-
ông ta ngước mắt nhìn lên (23): Ông đang “ở dưới”,
tượng trưng cho tình trạng đau khổ, nhục nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải
quyết được.
-
lòng tổ phụ (23): biểu tượng người Do Thái dùng để
nói về tình trạng sống rất thân tình và rất được ao ước, khi đó hai con người kết
hợp với nhau. Công thức này tương tự với công thức “lòng kề lòng”.
-
Ladarô được an ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên Chúa:
“Thiên Chúa an ủi” Ladarô.
-
đã có một vực thẳm lớn (26): Dịch sát là “đã cắt ngang định sẵn
một vực thẳm” (NTT). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa: “Thiên Chúa đã định
sẵn một vực thẳm”.
-
Chúng đã có Môsê và các Ngôn sứ (29): “Môsê và các
ngôn sứ”
là tên gọi bộ Kinh Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ phụ Abraham khẳng định rằng
sứ điệp nòng cốt của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là một cẩm nang có giá trị để
hướng dẫn anh em ông nhà giàu.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
*
Hoàn cảnh của ông nhà giàu và Ladarô (19-22)
Ông
nhà giàu không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó
là cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.
Ông
nhà giàu không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một điều
gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương trình
sống như chương trình một ông nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực
hiện trọn vẹn vì cái chết đến sớm: “Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã”
(Lc 12,19). Y phục thường xuyên của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc
“gấm tía và vải lanh mịn”, chứ không chỉ vào một số ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất
đắt, nên chỉ giới thượng lưu vương giả mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ
hàng hiếm, ngay tại Rôma. Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình
có một bữa ăn chính mỗi ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này,
mỗi ngày, lại là một yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống
sang trọng hào nhoáng như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã
sống như một ông vua.
Các
thính giả có thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như “bôi bác” người nghèo.
Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải và lý do vì
sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính bài học hệ trọng
này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu, một
hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng hiện thực hay ở dạng
nguyện ước.
Thế
rồi Đức Giêsu đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người
nghèo mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một
tên, “Ladarô” có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa đối với “những người
nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (x. Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn
nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà
giàu? Anh không thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để
giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị
trí mà một người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, người không được mời, có
thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và các khách mời không thể nào không biết có
anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở
trong lòng tổ phụ Abraham.
Ladarô
đói, anh thèm được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách
rơi xuống. Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu
vậy, hẳn là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa
những con chó. Chỉ có mấy con chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng
chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó.
Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một
tình trạng bị bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức
tranh Đức Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một “kết thúc mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu
không mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống,
không có gì thay đổi cả: mỗi người cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao,
tác giả Lc không hề xác định rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển
hình của người tốt. Đấy là những vấn đề nằm ngoài bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc
sống của hai bên: một bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc
sang trọng, còn bên kia thì gần như trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối
đang đứng trước mặt nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý
hằng ngày, dụ ngôn lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ
không nói với nhau là một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ
ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng nghe (16,29.31).
*
Phần một của đối thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (23-26)
Nhưng
cái tên “Ladarô”, có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, Đức Giêsu cố tình gán cho anh, là để ta hiểu
rằng cái tên của anh phù hợp với hoàn cảnh của anh: Khi còn sống, anh đã không
được người nào giúp đỡ; sau khi chết, anh đã được Thiên Chúa an ủi.
Đứng
trước cái chết, ông nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu cố đến
cả hai người. Nhưng tại điểm này, số phận của họ đảo ngược. Bản văn không nói
gì về phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số phận, đồng thời nói đến một
tình trạng bất khả truyền thông giữa hai bên. Những gì được nói ở đây về cuộc sống
sau cái chết không phải là một mô tả chính xác về cuộc sống ấy và không hề có ý
phác ra một địa lý của thế giới bên kia gồm những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức
Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho những kẻ tội lỗi trong cuộc sống sau cái chết,
Người thường vận dụng kinh nghiệm của các cư dân của một thành phố qua hình ảnh
một ngọn lửa cháy mãi trên một đống rác, liên tục cháy ngày đêm để thiêu đốt
rác rưởi của thành ấy (Mc 9,48; x. Is 66,24).
Các
hình ảnh này chỉ muốn diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế giới bên kia của đời
sống một người đã rất giàu có và đời sống của một người đã hết sức nghèo túng.
Ladarô được đưa vào lòng tổ phụ Abraham. Abraham, bạn của Thiên Chúa và tổ phụ
của dân Israel,
được coi như người chủ tọa bữa tiệc mừng trong thế giới ấy (x. Mt 8,11).
Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn thỉu trước cổng và chỉ có bầy chó làm bạn, nay
nhận được một chỗ danh dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông thân
tình và tin tưởng với ngài (x. Ga13,23). Còn ông nhà giàu, trước đây, ông ăn mặc
tinh tế và xa hoa, nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến ông rất đau đớn. Trước
kia, ông luôn có sẵn những thức ăn thơm ngon và thức uống ê hề, bây giờ ông phải
xin một giọt nước. Trước đây, trong cuộc sống trần gian, Ladarô đói khát mong ước
được ăn những thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống, nhưng không được; bây giờ ông nhà
giàu xin Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho ông một giọt nước, mà cũng
không được nhận. Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết và chỉ quan tâm đến thú
vui, thoải mái, sự xa hoa và những thứ tinh tế. Với của cải của ông, ông có thể
cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách thức ông đã sử dụng của cải và tiêu xài cuộc
sống đã đẩy ông vào một tình cảnh trong đó ông phải chịu đau đớn và dày vò,
nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính ông tự tách khỏi sự hiệp thông với tổ
phụ Abraham và với Thiên Chúa.
Tác
giả không giải thích trong bài dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ,
còn Ladarô thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái chết của họ chỉ được
hiểu ngầm trong bài là xứng đáng với họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng vì ông
nhà giàu có của cải trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài chỉ muốn
khẳng định rằng ông ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng sự giàu có không theo
ông vào âm phủ được. Chúng ta hiểu rằng đời sống trước đây trên mặt đất phải chịu
trách nhiệm và là nguyên nhân của những tình cảnh sau cái chết.
Lời
ông nhà giàu kêu “lạy cha Abraham (của con)” xin giúp đỡ và lời tổ phụ Abraham
nói “con (của ta)” để từ chối cho hiểu quan hệ thân thương này vẫn không chặn
được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông cũng cho hiểu
là có một dây liên kết cốt thiết giữa ông và Ladarô; mặc dù có những khác biệt
lớn lao giữa hai người, họ vẫn là anh em gần gũi và phải yêu thương nhau. Thế
nhưng bây giờ, “giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi
bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây
cũng không được” (c. 26), nghĩa là không thể thay đổi phần thưởng hay hình phạt
nữa, khi mà cuộc sống đã chấm dứt. Mối quan tâm của ông nhà giàu cho số phận của
năm người anh em sau này gợi ý là sau khi chết, không còn có thể thay đổi được
nữa.
Chúng
ta ghi nhận là không phải là Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông nhà giàu, mà
là tổ phụ Abraham, tức Nguồn Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất cả
mọi con dân Israel
giải thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể giúp gì cho ông nhà giàu. Lý do thứ
nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở đời; còn Ladarô thì chỉ
toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn Ladarô được an ủi. Điểm
nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do vì sao đau khổ của ông
nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình trạng bị dày vò lúc này, ông phải
nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong cuộc sống trần gian và nhớ là bây
giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị buộc phải từ bỏ tình trạng
hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt đời, nên nay anh được an ủi. Lời
của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích một điều: không phải vì sao mỗi người
đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không thể yêu cầu Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
Lý
do thứ hai: theo quan niệm về âm phủ nói trên, có một sự ngăn cách không thể vượt
qua giữa cái tốt và cái xấu: “giữa chúng ta đây và các con”, tổ phụ Abraham kể
cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một Đấng Khác quy định bất di bất
dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng bất khả thông thương này chấm
dứt mọi tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
*
Phần hai của đối thoại: Sứ điệp cho “năm người anh em” và cho các môn đệ Đức
Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)
Ông
nhà giàu nhìn nhận rằng chính lối sống của ông trước đây trên mặt đất đã đưa
ông đến tình trạng này. Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc nhở thay đổi
đời sống để khỏi rơi vào số phận đau đớn như ông. Rất có thể những người này
đang sống dưới một mái nhà với ông, nên ông biết rõ lối sống của họ. Cách thức
thực hiện điều này, như ông đề nghị, là gửi Ladarô về khuyến cáo các anh em ông
về mối nguy hiểm đáng sợ đang ở trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời: “Chúng đã có
Môsê và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó”. “Môsê và các Ngôn sứ” là tên gọi bộ Kinh Thánh. Như thế, muốn
tránh được lộ trình đưa đến số phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó,
chúng ta hiểu rằng trong khi còn sống, ông nhà giàu đã không lắng nghe, tức
không vâng theo “Môsê và các Ngôn sứ”,
Lời Chúa, với luật căn bản là mến Chúa yêu người.
Nhờ
trung gian của Kinh Thánh, Thiên Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của
Ngài, Ngài ban cho chúng ta những quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến
đích. Ý muốn của Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã khẳng
định: “Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức
lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời […]. Mệnh lệnh đó
cũng không ở bên kia biển […]. Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay trong miệng,
trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành” (Đnl 30,11-14). Trong Kinh
Thánh, có chỗ nói rõ ràng về trách nhiệm xã hội đối với những người nghèo. Nay
ta có thể giải thích rõ ràng nhất bức tranh Đức Giêsu đã vẽ ra trong bốn câu đầu
của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý muốn của Thiên Chúa, không quan tâm đến
Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui cho riêng mình. Do đó, ông đã
phải đi đến đau khổ hiện tại.
Ông
nhà giàu không phủ nhận tính đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông
nghĩ rằng anh em ông sẽ vâng theo hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết trở
về truyền đạt sứ điệp Môsê. Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá
trị của anh nằm ở chỗ anh có thể làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời
của tổ phụ Abraham là một lời bình luận về trái tim con người. Nếu người ta
không muốn vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về cũng chẳng
lay chuyển được lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con tim sống
trong tội rất có thế giá: bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở đây với
nhận xét của tổ phụ Abraham. Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ hoán cải!
+
Kết luận
Trong
bài dụ ngôn, Đức Giêsu cho thấy một cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của cuộc
đảo lộn này. Những gì Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các “anh em” (c. 28)
ông nhà giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo, để họ khỏi mất linh hồn vì những
thú vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm thánh ý Thiên Chúa.
Các lời này của Đức Giêsu cũng là một an ủi cho người nghèo, vì tuy trên trần
gian họ phải sống một số kiếp đau thương nhưng họ vẫn có thề hoàn toàn cậy
trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.
Đức
Giêsu mạnh mẽ loan báo rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả và các
hoàn cảnh hiện thời trong cuộc đời không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai
không nhìn sang bên kia cuộc sống trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết sẽ
phải gặp một chuyện kinh ngạc đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo, cần
phải quy hướng cuộc sống mình về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường duy nhất
để tránh được diệt vong và đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Còn
có một hướng suy nghĩ khác: sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn
này, phải chăng tác giả Lc muốn ám chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức
Giêsu, Đấng đã sống lại từ cõi chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng về
sự “không nghe” này. Nếu hiểu như thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về Đức
Giêsu.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Hai người ở cách nhau có ít bước, thế mà dường như không gặp nhau.
Ladarô cứ việc nằm vất vưởng đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống
như không hề có Ladarô. Khi người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào
“phát triển”, người ta trở thành đui mù, không thấy người khác với các nhu cầu
của họ. Sau này, ông nhà giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc rối gì cho
Ladarô. Tôi tôn trọng quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều gì!
Ông biết ông đã sai khi không sống những điều Lời Chúa dạy.
2.
Ông nhà giàu có tất cả mọi sự trên đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu của
cuộc đời. Nhưng chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống
trần gian không phải là tất cả. Phải sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của
cải vật chất thế nào, để sau khi chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ
nhiên Đức Giêsu không muốn nói đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng
ta về giá trị của chọn lựa căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất
hệ trọng, bởi vì liên hệ đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
3.
Ông nhà giàu chết, và phải chịu cực hình. Điều này
không có nghĩa là chỉ nguyên vì ông có của cải trong cuộc sống trần gian, mà dứt
khoát ông bị hành hạ trong thế giới bên kia. Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã
không biết sử dụng của cải cho khôn khéo, như đã được nói đến ở cc. 9,14-15.
Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi xét lại xem chúng ta có chăng khả năng thấy
nơi mỗi con người và nơi các nhóm người và các dân tộc, một Ladarô nghèo khó
đang ở trước cửa nhà chúng ta. Chúng ta có nhận ra được những nhu cầu của họ
chăng? Chúng ta đã và còn sẽ làm gì cho họ?
4.
Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận nữa.
Chính vì thế Đức Giêsu đã ra sức thúc bách người ta “thay đổi ngay bây giờ”. Không có một giáo huấn nào của Tân Ước
cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết. Lời Chúa có đó để hướng dẫn
chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta. Muốn lắng nghe Lời Chúa, ta
phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã trở nên đui mù và chai cứng
vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì các phép lạ và
các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh được.
5.
Điều mà bài dụ ngôn lên án, đó là không biết nhận ra tình trạng của bản thân để
thay đổi. Có một cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có
một lúc cuối cùng, vẫn còn có thể làm được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ
đã có sự khôn ngoan đúng lúc. Trong một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời
như một cái kềm để nhổ các cây đinh của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được
thiên đàng: “Giêsu ơi, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,43).
26. Chú giải của Noel Quesson
Đức
Giêsu đã nói dụ ngôn này: “Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc,
ngày ngày yến tiệc linh đình”
Đức
Giêsu đã trông thấy điều đó. Bấy giờ đã có những bất bình đẳng... giữa những
người quá giàu, và những người quá nghèo.
Lại
có một người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà
giàu
Chúng
ta nhận thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể
nhận ra mình nơi ông ta. Còn người nghèo có cái tên “Ladarô”. Trước mắt Thiên
Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy
nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý nghĩa: Trong
tiếng Do Thái, El'azar có nghĩa là “Thiên Chúa - phù hộ”. Chúng ta đi đoán điều gì nơi ông nhà
giàu bị... chê trách. Đó là ông ta đã đặt mọi niềm tin cậy vào sự giàu cồ của
ông, vào nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục nơi người nghèo khó là dù
thiếu thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ
anh.
Thèm
được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con
chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta
Chúng
ta chớ quên rằng chính Đức Giêsu đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà,
người ta chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa
hai bên là một cái cổng. Cái cổng này ví như một “vực thẳm” phân cách giàu
nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên
chính mình, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà.
Phải
sự giàu có, tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta “thấy được” những người
khác. Và người nghèo khó, mình đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà
giàu, dường như cũng không tận mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên
sân khẩu.
Ngày
3 tháng 7 năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã
áp dụng dụ ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: “Những làn sóng di
dân chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết
niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không
tìm thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh thần,
đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập giữa
những tòa nhà bằng bê-tông... Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống với mọi
tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ bản nhất...
Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn ông nhà
giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm trầm trọng
tình cảm ức chế của những người không may mắn”
Đó
đúng là điều Đức Giêsu đã nói:
Những
mô tả ấy có tác động tôi điều gì không?
Thế
rồi người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà
giàu cũng chết, và người ta đem chôn. “Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình”
Vậy
đây là một sự lật ngược hoàn cảnh tình thế.
Người
nghèo đã ở giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là
một hỏa ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu
trước đây không thiếu thứ gì, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng
lưu ý của hai dụ ngôn, là Chúa không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông
nhà giàu sống xấu xa. Đơn giản người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế
thôi. Ông nhà giàu không bị buộc tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh
bang một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả
lương Ladarô cho công bằng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói
rằng ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy
anh ta! ông đã để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau,
người này xa cách người kia.
Ông
ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong
lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: ‘Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con,
và sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở
đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!
Dĩ
nhiên không nên tìm kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những hình ảnh
này. Đức Giêsu chỉ sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người
không thể nói cách khác để người ta hiểu Người: Thế giới bên kia được hình dung
(!) như một âm phủ bao la (“Shéol”) với những thân thể (!), những cái lưỡi,
ngón tay, lửa, nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nhìn từ xa những người được
ưu tuyển cách mình bằng một vực thẳm. Điều rõ ràng bên kia những hình ảnh bình
dân làm sự đảo ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần
đến anh nhà nghèo.
Ông
Abraham đáp: ‘Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con
rồi; còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi
nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con
đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được,
mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được’
Đức
Giêsu một lần nữa tái khẳng định “đặc quyền của những người nghèo” bởi miệng của
Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): “Kẻ đói nghèo,
Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng” (Lc 1,52-53). Chúng
ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương trình của Đức Giêsu ở hội đường
Nagiarét: “Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo
hèn” (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại mối phúc thật và mối họa: “Phúc cho anh em
là những kẻ nghèo khó; khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có (Lc 6,20-24).
Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống lại nguy cơ của những giàu có vật
chất (Lc 12,15-21 - 16,9-11).
Đối
với Đức Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:
1.
Nó khép kín lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần
gian mà quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
2.
Nó khép kín lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người
nghèo nằm ngay cổng nhà mình.
Chúng
ta hãy lưu ý rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa
cách Thiên Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở
trần gian Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người
“tự phán xử mình ngay từ trần gian này”.
Hình
phạt khủng khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người ấy
và Thiên Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa là sự
hiệp thông của tình yêu. Kẻ giàu có đã tự kết án chính mình: “cái cổng nhà” hắn
phân chia hai thế giới đã trở thành “vực thẳm”.
Tôi
có tin chắc rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi
mở lòng tôi cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình
trong chính mình? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa
ngục.
Người
nào không yêu thương ở trần gian này đã tự loại mình ra khỏi “bữa tiệc của
Thiên Chúa” nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đã “mở lòng
mình ra cho những người khác”. Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta thái độ và hữu
thể của Thiên Chúa: Người là Tình yêu phổ quát. Một người cha đã giết con bê
béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để đón nhận đứa con hoang đàng; Thiên
Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè mình để lợi dụng của cải
mình: Khác nhau biết bao!
Ông
nhà giàu nói: ‘Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha
con, vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ
lại cũng sa vào chốn cực hình này’
Chi
tiết này không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những
hình ảnh ấy để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành nhỏ
nhất trong một Người, thì đương nhiên nơi này sẽ thôi không còn bị kết án nữa.
Tình yêu của Thiên Chúa thì vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để
đưa vào câu trả lời sẽ theo sau.
Ông
Abraham đáp: ‘Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị
đó.' Ông nhà giàu nói: ‘Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu
có người từ cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối’
Vậy
một lần nữa, chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường.
Ông hãy làm cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập
giá, nếu ông là Con Thiên Chúa! ông hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số
Kitô hữu luôn luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu
từ chối các dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).
Ông
Abraham đáp: ‘Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có
sống lại, họ cũng chẳng chịu tin’
Thật
vậy, sự sống lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những
không thuyết phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy
họ có quyết định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất
đến với đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường
lắng nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)... sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy
các nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)...
Nhưng
Đức Giêsu xem ra đã khẳng định rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một
cách bi thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín
lòng họ... sau cùng làm họ “không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa”.
Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm
linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất cả đều
vô ích: tài sản của họ đã làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác
và trước sự mỏng dòn của bản thân họ. Họ tự mãn về chính họ... bị giam hãm
trong của cải của họ... Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc một
ai yêu mến.
Để
kết luận suy niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo
khó? Thành hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những
người khác sẽ tai hại như khi nói rằng: “Tôi đâu có phải là ông vua dầu hỏa”.
Hãy
nhìn kỹ lòng mình... Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không?
Bạn
có nghèo không?
27. Chú giải của Fiches Dominicales
GIỮA
CHÚNG TA ĐÃ CÓ MỘT VỰC THẲM
VÀI
ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Đừng đào thêm vực thẳm.
Trên
hành trình tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em
đồng loại - Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản
gia bất lương. Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Người kết luận với lời khen
tên quản gia ấy và mời gọi “con cái ánh sáng” phải biết hành động “khôn khéo”
giống như “con cái đời này”: “Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè,
phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào nơi ở vĩnh cửu “.
Giờ
đây, Người quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, “vốn ham hố tiền bạc” (họ
quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và “cười nhạo Đức
Giêsu”. Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết cách sử dụng của cải trần
gian sao cho đúng, thì dụ ngôn sau trình bày mặt trái, qua câu chuyện về một
người đã sử dụng của cải mình. có cách sai lầm. Đây là dụ ngôn của riêng Luca,
gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một giàu, một nghèo.
Người
thứ nhất, mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: “một viên phú hộ
kia”, thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính mình nơi ông. Kẻ thứ
hai thì lại có một cái tên gọi - chuyện hy hữu trong tất cả những dụ ngôn của Đức
Giêsu - và là một cái tên có nghĩa biểu tượng: “Ladarô”, có gốc từ chữ
“Ê-lê-a-da”, nghĩa là “Thiên Chúa phù trợ”.
Không
chỗ nào nói Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là “một
người nghèo”, “người nghèo” nói chung, không ai thấy không ai nghe. Cũng vậy,
không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ “ác ôn”, rằng ông đã vơ
vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đã chiếm đoạt, đã bóc lột một cách bất
chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Dụ ngôn trong Tin Mừng chỉ lưu ý chúng
ta ở chỗ ông đã không ngó ngàng gì tới “người nghèo khó nằm trước cổng nhà
mình”, thế thôi ở đây chúng ta chứng kiến cảnh trái ngược trớ trêu của hai thế
giới sát bên nhau. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa dư thừa, với viên phú hộ
“mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình”. Bên kia là thế giới thiếu
thốn đến thảm hại của người nghèo khó, “nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình”,
“thèm được những thứ trên bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng
được”; chỉ có mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới đó, chỉ
có một “ngưỡng cửa”, một ranh giới, ngày càng được đào sâu một cách vô hình, được
nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông xuống với cái chết đồng
thời của cả hai nhân vật: “Thế rồi người nghèo nàn chết... ông nhà giàu kia
cũng chết”
2.
Một vực thẳm không thể vượt qua
Cảnh
hai cho thấy cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay vì
làm cho họ xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành
vĩnh viễn. Sự thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược.
Ladarô, kẻ ăn xin xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng
ông Abraham, hưởng vinh phúc vô tận. Còn viên phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng
thụ giàu sang, chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình nay phải
ở “dưới âm phủ, đang chịu cực hình”. Ông năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô - ông
nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống trên đời - “nhúng đầu
ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát”.
Muộn
quá rồi. Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa.
Một cách vô thức, ông đã từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ của
mình và cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một “vực thẳm” mà rốt cùng
cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự “khôn
khéo” của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông đã không biết
“làm bạn” với Ladarô, để được anh “đón rước vào nơi ở vĩnh cửu”.
Theo
nhận định của H. Cousin: “Vực thẳm” chia cách giữa những người đang được hưởng
hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ
là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và
bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp
cho đầy
3.
Hãy nghe lời Chúa đừng chần chừ nữa.
Câu
chuyện lại chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em
còn sống trên trần.
Họ
có thể cũng đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người
nghèo đang nằm trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước
tai hoạ nếu không có ai đó cảnh báo cho biết. “Xin tổ phụ sai anh Ladarô, ông
nài xin, đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này”. Bởi nếu có
sự can thiệp của ai đó “từ cõi chết” hiện về với họ, “thì họ sẽ ăn năn sám hối”.
Ao tưởng thôi - câu trả lời cho ông - nếu nghĩ rằng chỉ cần có ngươi từ cõi chết
hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu “Môsê và các Ngôn sứ mà họ còn chẳng chịu
nghe”: Luật Môsê và các Ngôn sứ đã chẳng từng dạy về việc sử dụng tiền của vật
chất sao cho đúng ư'? Các ngài đã chẳng khuyên phải bác ái đối với người nghèo,
chia cơm, sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh
sao? Sách Đệ Nhị Luật (15,7-11) truyền dạy: “Nếu giữa anh em có một người
nghèo, thì anh em lòng có lòng chai dạ đá cũng đừng bo bo giữ không giúp người
anh em: Hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong
niềm đất của anh em”. Và cả các Thánh vịnh cũng đã chẳng không ngừng lặp đi lặp
lại rằng mọi kẻ nghèo khó, thấp cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều
là những người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước
và Tv 145 hôm nay)
Bài
học đã quá rõ. Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm
cho điếc tai, mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động,
buộc họ phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng.
Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết luận: “Đại diện
cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên phú hộ tưởng tượng rằng
một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không được. Lầm to! Một phép lạ,
cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không thể thay lòng đổi dạ được những
kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các Ngôn sứ với lòng tin.
Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống lại, cũng tồn tại
một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng giả như được chứng
kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ lo ăn năn sửa đổi đời sống.
Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong tầm tay chúng ta!. Chỉ
khi biết lắng nghe Lời Chúa, con người mới có thể hoán cải. Đó chính là sứ điệp
lưu truyền lâu đời có sẵn tại trung tâm Lề Luật là các Ngôn sứ.
BÀI
ĐỌC THÊM:
1.
Sức mạnh của Tin Mừng.
“Không
mệt mỏi, Đức Giêsu nhiều lần dề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên
Chúa đến. Trong thực tế, Người đã lừng vấp phải sự cứng lòng của những người
Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn “ham hố tiền bạc là... cười nhạo Đức Giêsu”. Họ
như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới mắt thiên hạ. Họ
không muốn để mình bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: “Thiên Chúa biết lòng
các ông”. Không phải tất cả những gì người đời ái mộ, khâm phục đều thực sự có
giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được giá trị đích thực của
mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như “đất trời” vì là Lề Luật của Thiên Chúa,
cũng không thể là cái cớ được đưa ra để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt
qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước Trời, đòi con người phải đấu tranh với bản
thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam hãm cái tâm tốt lành trong mỗi người.
Đức
Giêsu còn dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược tình thế mà tin Mừng nước
trời đến loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ. Viên
phú hộ, xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh Ladarô, xưa
bị quên lãng, khinh thường, nay được đem vào lòng Abraham. Tình thế đà hoàn
toàn lật ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo tỉnh ngộ sớm.
Sẽ chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cõi chết hiện về để
đánh thức chúng ta khỏi cơn mê. “Chúng ta có Môsê va các Ngôn sứ, thì chúng cứ
nghe lời các vị đó!”. Chúng ta còn có hơn nữa: Tin Mừng của chính Đức Giêsu.
Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta khó tránh được thói nô
lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của mình xuống và biết nhìn mọi
hoàn cảnh bằng cái nhìn của Thiên Chúa chúng ta sợ sức mạnh của Tin Mừng. Cầu
xin Thiên Chúa, với tất cả lòng kiên trì của Người, ra sức mở mắt cho chúng ta,
ban cho chúng ta lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến của Tin Mừng.
2.
Trên những nẻo đường của tình liên đới
(G.
Bouche, trong “Le ciel sur la terre”, trg 61).
Nỗi
khổ đau của thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những hình ảnh trên ti vi, với
bao hình hài con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.
Tiếng
than đói khổ của nhân loại vẫn hằng ngày vọng đến chúng la qua tiếng kêu gọi
không lời đáp ứng của những tổ chức nhân đạo đang xin mọi người rộng tay cứu
giúp những con người đang chết lần chết mòn vì thiếu cả những nhu cầu tối thiểu,
hiện đang sống không xa noi ở quá đầy đủ tiện nghi của chúng ta.
Chúng
ta thường xuyên phải chứng kiến hay nghe nhắc đến cái nghèo ở khắp nơi, xa xôi
hay sát bên cửa nhà chúng ta. Chúng ta cảm thấy đau lòng. Chúng ta muốn làm cái
gì đó để vơi nhẹ nỗi khổ đau và lầm than. Nhưng biết làm gì đây?
Giúp
tiền giúp bạc thì lại ngán nạn thất thoát ăn bớt. Trực tiếp hành động qua trung
gian một ai đó chúng ta quen biết và tín nhiệm, thì lại không thấy được những
nhu cầu cấp bách nhất, cũng như không giải quyết tận gốc rễ những bất hạnh.
Cống
hiến một phần đời mình phục vụ trung các tổ chức liên đới và cứu trợ, mặc dù biết
rằng đó chỉ là muối bỏ biển. Bênh vực những phong trào và báo chí đấu tranh cho
một thế giới tốt đẹp hon, cũng như đấu tranh cho các dân tộc nghèo được làm chủ
vận mạng của mình.
Chúng
ta có bổn phận phải can thiệp để ủng hộ những người có uy tín không chịu khoanh
tay đứng nhìn cảnh anh em mình đói khổ, bệnh tật, lấy cớ phải tôn trọng quyền lợi,
luật pháp, công ước.
Góp
tiếng nói với tất cả những ai đang đấu tranh cho một trật tự mới của thế giới,
của nền kinh tế và của các quốc gia. Thành tâm cầu nguyện xin Thiên Chúa cho
chúng ta biết mở rộng đôi mắt và hướng chúng ta đến một trái đất thực sự là mái
ấm cho mỗi người và là nơi Thiên Chúa có thể hiện diện.
Điều
nào cũng phải làm, mỗi thứ một chút! Tuỳ ơn Chúa và phương tiện của mỗi người.
Sau
hết, chúng ta cần có một quan niệm về hạnh phúc phù hợp với hồng ân mà Thiên
Chúa muốn ban tặng cho muôn loài hơn là việc chiếm hữu cho thật nhiều của cải,
chỉ làm cho chúng ta đầy ứ về vật chất nhưng khô kiệt về tâm hồn...
Phải
chăng Thiên Chúa mới đúng là “người từ cõi chết” đến kêu gọi chúng ta như thế?