Lịch sử và qui luật
mật nghị bầu Giáo Hoàng
mật nghị bầu Giáo Hoàng
Lúc 10 giờ sáng, các Hồng Y, kể cả các vị trên 80 tuổi, đồng tế
thánh lễ tại Đền thờ Thánh Phêrô do ĐHY niên trưởng Angelo Sodano chủ sự, để cầu
cho việc bầu Giáo Hoàng.
Tiếp đến, lúc 4 giờ rưỡi chiều cùng ngày, 115 Hồng y cử tri bắt
đầu đi rước từ nhà nguyện Paolina ở lầu I trong dinh Tông Tòa tiến về nhà nguyện
Sistina ở cùng lầu. Cùng đi trong đoàn rước này còn có hơn 20 người khác, đứng
đầu là ĐHY Prospero Grech 88 tuổi người Malta, là vị được giao phó nhiệm vụ
trình bày bài suy niệm cho các HY cử tri, tiếp đến là Đức TGM Lorenzo
Baldisseri, Tổng thư ký Hồng y đoàn, Đức Cha Phó nhiếp chính, Đức ông trưởng
ban nghi lễ phụng vụ của ĐGH và các vị phụ tá, 2 Đức Ông công chứng viên, ca
đoàn của ĐGH, v.v.
Sau khi tiến vào nhà nguyện Sistina, các HY cử tri cử hành nghi
thức tuyên thệ rồi, Đức ông trưởng nghi Guido Marini sẽ tuyên bố: “Extra
omnes!” Tất cả những người không phải HY cử tri hãy ra ngoài! Sau bài suy niệm
của ĐHY Grech, các Hồng Y sẽ bắt đầu bỏ phiếu lần đầu tiên bầu Giáo Hoàng. Tiếp
đến các vị đọc kinh chiều và trở về nhà trọ thánh Marta để dùng bữa tối.
Lịch sử mật nghị
Trong lịch sử Giáo hội, đây là mật nghị thứ 75 kể từ 772 năm
nay, tức là kể từ năm 1241 là năm mà mật nghị HY bầu Giáo Hoàng có hình thức
như hiện nay.
Mật nghị Hồng Y bầu Giáo Hoàng”, gọi là ”Conclave”, có nguyên ngữ
từ tiếng la tinh ”cum-clave” nghĩa đen là ”với chìa khóa” chỉ nơi đặc biệt
trong nhà được khóa kín. Trong Giáo Hội từ này được dùng theo nghĩa chuyên biệt
để chỉ ”nơi diễn ra cuộc bầu Giáo Hoàng, có các cửa được khóa kín”, hoặc chỉ
toàn bộ các HY tiến hành việc bầu Giáo Hoàng. Từ này được ĐGH Honorio III sử dụng
lần đầu tiên năm 1216, trong hoàn cảnh ngài được bầu làm Giáo Hoàng.
Thực vậy, trước đó, vào năm 1179, ĐHY Alessandro III quyết định
chung kết dành việc bầu Giáo Hoàng cho các Hồng y mà thôi và loại trừ sự tham dự
của giáo dân. Nhưng số Hồng Y bấy giờ tương đối ít ỏi, chỉ vào khoảng từ 10 tới
20 vị, và trong thế kỷ thứ 13 không bao giờ vượt quá con số 30 Hồng y. Tình trạng
này cũng góp kéo dài thời gian bầu Giáo Hoàng và điều ấy có nghĩa là Tòa Thánh
trống vị quá lâu, gây thiệt hại cho Giáo Hội. Nhiều khi thời gian bầu Giáo
Hoàng kéo dài nhiều tháng và có khi nhiều năm trời. Dân Chúa là những người ý
thức điều đó và 4 lần họ đã bó buộc các Hồng Y phải tiến hành mau lẹ việc bầu
Giáo Hoàng bằng cách khóa kín các Hồng y lại.
Thực vậy, năm 1216 dân thành Perugia ở miền trung Italia đã khóa
kín các HY trong dinh thự thành phố nơi các vị hội họp để buộc các vị sớm bầu
được vị Giáo Hoàng mới. Dân thành Roma cũng hành động tương tự sau khi ĐGH
Gregorio IX qua đời năm 1241: họ khóa kín các Hồng y trong một dinh thự trên sườn
đồi Palatino. Rồi đến dân chúng ở Anagni cũng làm như thế vào năm 1243 để chấm
dứt tình trạng Tòa Thánh trống vị quá lâu sau khi ĐGH Celestino IV qua đời 2
năm trước đó (1241). Vụ cuối cùng nhưng cũng là vụ nổi tiếng nhất đó là dân
thành Viterbo cách Roma 80 cây số ra tay hành động: sau khi ĐGH Clemente IV qua
đời năm 1268, 18 HY tập họp trong dinh thự Giáo Hoàng ở Viterbo để bầu người kế
vị, nhưng các vị không thỏa thuận được với nhau. Vua nước Pháp cũng như các nhân
vật khác can thiệp yêu cầu các HY cố gắng thỏa thuận với nhau để bầu được vị
Giáo Hoàng mới, nhưng vẫn không có kết quả. Bấy giờ dân thành Viterbo, với sự
khuyến khích của thánh Bonaventura, Bề trên Tổng quyền dòng Phanxicô, liền khóa
kín dinh thự Giáo Hoàng và xây gạch bín kín tất cả các cửa ra vào để buộc các
HY sớm thỏa thuận với nhau. Dầu vậy, các HY trong dinh thự vẫn không đi tới mục
tiêu. Không thể kiên nhẫn hơn, dân thành liền leo lên dinh thự, tháo gỡ mái
che, và chỉ cho các Hồng Y ăn bánh với nước lã. Sau cùng các Hồng Y tìm được một
thỏa thuận với nhau và bầu được ĐGH Gregorio X. Tổng cộng Tòa Thánh bấy giờ bị
trống vị trong 2 năm, 9 tháng và 2 ngày.
Say khi đắc cử Giáo Hoàng, để tránh tái diễn tình trạng tai hại
như vậy, trong công đồng chung Lyon thứ 2 năm 1274, ĐGH Gregorio X đã công bố
tông hiến ”Ubi pericolo” chính thức thành lập Conclave, ”mật nghị”, phê chuẩn
hành động của dân Chúa. Những qui định trong Tông hiến ấy rất tỉ mỉ và nghiêm
ngặt, theo đó 10 ngày sau khi ĐGH qua đời, các HY phải nhóm họp trong cùng dinh
Tông Tòa nơi ĐGH đã qua đời, hoặc tại một thành phố khác, tùy theo hoàn cảnh,
trong một phòng duy nhất, không có tường cũng chẳng có màn phân chia. Các HY buộc
phải sống chung, không thể ra ngoài, cũng không được tiếp xúc với bên ngoài,
không được nói bí mật với HY nào khác. Những chìa khóa nơi mật nghị phải được vị
HY Nhiếp chính giữ ở bên trong, và những chìa khóa bên ngoài do vị tư lệnh đội
binh giữ. Thực phẩm được chuyển vào bên trong mật nghị qua một cửa sổ quay được
canh giữ và kiểm soát cẩn mật để không một sứ điệp nào được chuyển qua cửa này.
Nếu sau 3 ngày mà các HY không bầu được Giáo Hoàng mới, thì trong 5 ngày kế tiếp,
các HY chỉ được một đĩa thực phẩm trong bữa ăn trưa và 1 đĩa trong bữa ăn tối;
sau 5 ngày ấy, các HY chỉ được bánh, nước lã hoặc rượu mà thôi.
Quy luật của ĐGH Gregorio X khó thực hiện, nên 2 năm sau đó bị
ĐGH Adriano V và Gioan XXI bãi bỏ, và thế là tệ nạn Tòa Thánh trống tòa quá lâu
lại tái xuất hiện. Đó là một bằng chứng hùng hồn về giá trị và hiệu năng của
Tông hiến do ĐGH Gregorio X ban hành.
Thánh Celestino V, trong 5 tháng làm Giáo Hoàng cho đến khi từ
nhiệm, đã liên tiếp ban hành 3 Sắc chỉ (Quia in futurum, 28.9.1294; Pridem
27.10.1294; Constitutionem 10.12.1294) tái lập các qui luật về mật nghị bầu
Giáo Hoàng. Nhờ đó, người kế vị là ĐGH Bonifaxio VIII đã được bầu lên chỉ trong
vòng 24 tiếng đồng hồ, vào ngày 24-12-1294. Ngài đã long trọng tái khẳng định các
qui luật ấy. Từ đó, đã 719 năm trôi qua, các qui luật về mật nghị Giáo Hoàng
liên tục được tuân hành, tuy có một số thay đổi để thích ứng với hoàn cảnh và
do kinh nghiệm.
Tiến tới luật hiện hành
Nhiều vị Giáo Hoàng đã góp phần sửa chữa luật bầu cử với những
qui định ngày càng chính xác và tỉ mỉ hơn:
- Với Tông Hiến ”Vacante Sede Apostolica”, Tông tòa trống vị,
ngày 25-12-1904, Thánh Giáo Hoàng Piô 10 đã gồm tóm tất cả các qui luật trước
đó, trong một văn kiện duy nhất, và đồng thời nghiêm cấm bất kỳ sự can thiệp
nào của chính quyền dân sự vào mật nghị bầu Giáo Hoàng.
- Năm 1975, Đức Phaolô VI ban hành Tông Hiến ”Romano Pontifici
eligendo”, Bầu Giáo Hoàng. Văn kiện này được tu chính với Tông Hiến ”Mục tử của
toàn thể đoàn chiên Chúa” do Đức Gioan Phaolô 2 ban hành năm 1996.
ĐTC Biển Đức XVI đã ban hành 2 tự sắc vào năm 2007 và ngày
22-2-2-13 thay đổi vài điểm trong Tông hiến của vị tiền nhiệm.
Qui luật hiện nay
Như vậy theo qui luật hiện hành, cách thức duy nhất ngày nay để
bầu Giáo Hoàng là bầu bỏ phiếu kín và cần phải có 2 phần 3 số phiếu của những
người hiện diện để đắc cử. Số Hồng Y cử tri hiện nay là 115 vị, vì thế để đắc cử
Giáo Hoàng trong mật nghị từ ngày 12-3-2013 thì cần được ít là 77 phiếu.
Tính chất cô lập và bí mật của mật nghị vẫn phải hết sức tuân giữ,
đứng trước những phương tiện truyền thông tối tân ngày nay.
Tuy Tông hiến không truyền phải niêm phong kín các cửa ra vào và
các cửa sổ, chặn các hành lang và thang máy, như luật trước đây, nhưng tiếp tục
đòi phải cô lập các Hồng y cử tri.
Trong thời gian mật nghị bầu Giáo Hoàng, các Hồng y cử tri không
được tiếp xúc với bên ngoài, đọc báo chí, nghe Radio, coi Truyền hình, dùng điện
thoại, viết thư hoặc các phương tiện khác để liên lạc với người bên ngoài mật
nghị (n.57). Mục đích là để các vị được hoàn toàn tự do, không chịu một áp lực
nào của bất cử ai.
Tất cả những người phục vụ trong mật nghị bầu Giáo Hoàng mà tiết
lộ bí mật sẽ bị vạ tuyệt thông tức khắc dành riêng quyền giải cho Tòa Thánh.
ĐTC quy định thêm rằng:
”Tôi cũng ra lệnh cho các Hồng y cử tri, với tất cả trách
nhiệm nặng nề trong lương tâm, phải giữ mọi bí mật về cuộc bầu Giáo Hoàng, kể cả
sau khi đã bầu vị Giáo Hoàng mới và không được vi phạm điều đó bằng bất cứ cách
nào, trừ khi được phép đặc biệt và rõ ràng của chính ĐGH. Để các Hồng y cử tri
có thể tránh được sự tò mò của người khác và các bẫy họ giăng ra làm thương tổn
phán đoán độc lập và tự do quyết định của các vị, tôi tuyệt đối cấm, không được
du nhập với bất kỳ lý do gì những máy móc để thu hoặc phát lại âm thanh, hình ảnh
hoặc chữ viết vào nơi diễn ra cuộc bầu cử, và nếu các máy đó hiện diện tại nơi ấy,
thì không được sử dụng” (nn.60-61).
Đức Hồng y nhiếp chính có nhiệm vụ nhờ các chuyên viên kỹ thuật
đáng tin cậy kiểm soát nơi họp của các Hồng y cử tri và nhà nguyện Sistina để
phát hiện những Micro hoặc dụng cụ thu âm, thu hình bí mật người ta có thể gắn
vào đó.
Luật nghiêm cấm mọi sự can thiệp từ bên ngoài đối với việc bầu
Giáo Hoàng. HY nào, vì bất kỳ lý do nào, nhận sứ mạng của nhà cầm quyền dân sự,
bất cứ cấp nào, để đề nghị việc phủ quyết, đối với việc bầu Giáo Hoàng, sẽ bị vạ
tuyệt thông tức khắc.
Các Hồng y cử tri sẽ nhóm họp mỗi ngày hai lần sáng chiều tại
Nhà nguyện Sistina để bầu Giáo Hoàng mới. Mỗi buổi như thế có thể có hai lần bỏ
phiếu. Khi bỏ phiếu, vị Hồng y phải giơ cao phiếu của mình và đọc lời tuyên thệ
theo công thức: ”Tôi xin Chúa Kitô, Đấng sẽ xét xử tôi, làm chứng rằng tôi bỏ
phiếu cho người mà, theo Chúa, tôi thấy là phải bầu” (n.66).
Các Hồng y bị liệt giường tại Nhà trọ thánh Martha mà không đến
Nhà nguyện Sistina để bỏ phiếu được, thì 3 Hồng y sẽ mang thùng phiếu đến tận
phòng các vị ấy để nhận phiếu bầu (n.67)
Sau 3 ngày đầu tiên bỏ phiếu mà không có kết quả, cử tri đoàn sẽ
ngưng bỏ phiếu trong vòng một ngày để cầu nguyện, trao đổi ý kiến, và nghe huấn
dụ thiêng liêng của ĐHY trưởng đẳng phó tế, rồi lại tiếp tục bầu. Sau 7 lần bỏ
phiếu nữa mà vẫn không có kết quả, thì lại tạm ngưng để cầu nguyện và trao đổi.
Nếu sau 7 lần bỏ phiếu nữa mà không có kết quả, thì lại tạm ngưng như vậy. Đến
lần bỏ phiếu thứ 33 hoặc 34 mà không kết quả 2/3 số phiếu thì các Hồng y được mời
gọi phát biểu ý kiến về cách bầu cử và sau đó sẽ tiến hành việc bầu theo sự quyết
định của đa số tuyệt đối các cử tri (không cần sự đồng ý của toàn thể các cử
tri như luật cũ đòi hỏi. Có thể chỉ bầu trong số 2 người được nhiều phiếu nhất
và vẫn buộc phải được 2/3 số phiếu thì mới được coi là đắc cử (qui luật do ĐGH
Biển Đức 16 qui định năm 2007). Hai ứng viên nhiều phiếu nhất như thế không được
tham gia cuộc bỏ phiếu về hai vị như vậy.
Các Hồng y sẽ tiến hành việc chúc mừng và bày tỏ sự tuân phục vị
tân Giáo Hoàng. Sau đó, vị Hồng y trưởng đẳng Phó tế loan báo cho dân chúng
danh tánh của vị đắc cử. Đức tân Giáo Hoàng sẽ ban phép lành cho Roma và toàn
thế giới từ bao lơn của Đền thờ Thánh Phêrô (n.89)
Để ngăn ngừa sự thoái thác của người đắc cử, ĐTC Gioan Phaolô 2
qui định rằng: ”Tôi xin vị đắc cử đừng
vì sợ gánh nặng của chức vụ mà tránh né trách vụ đã được kêu gọi lãnh nhận,
trái lại hãy khiêm tốn tuân phục ý định của Chúa. Vì Thiên Chúa, Đấng trao
trách vụ ấy, cũng sẽ nâng đỡ để người đắc cử có thể vác nổi gánh nặng đó”
(n.86)
G. Trần Đức Anh OP