THỨ TƯ SAU CHÚA NHẬT I THƯỜNG
NIÊN
NĂM LẺ
Dt 2, 14-18; Mc 1,29-39
BÀI ĐỌC: Dt 2, 14-18
14
Thưa anh em, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giê-su đã
cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu
diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ,15 và đã giải thoát
những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ.16 Vì
những kẻ được Người giúp đỡ không phải là các thiên thần, mà là con cháu
Áp-ra-ham.17 Bởi thế, Người đã phải nên giống anh em mình về mọi
phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ
phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân.18 Vì bản thân Người đã trải
qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách.
ĐÁP CA: Tv 104
Đ. Giao ước đã lập ra, muôn đời Chúa nhớ mãi. (c 8a)
1 Hãy tạ ơn CHÚA, cầu khẩn danh
Người, vĩ nghiệp của Người, loan báo giữa muôn dân. 2 Hát lên đi,
đàn ca mừng Chúa, và suy gẫm mọi kỳ công của Người.
3 Hãy tự hào vì danh thánh Chúa, tâm
hồn những ai tìm kiếm CHÚA, nào hoan hỷ. 4 Hãy tìm CHÚA và sức mạnh
của Người, chẳng khi ngừng tìm kiếm Thánh Nhan.
6 hỡi anh em, dòng dõi Áp-ra-ham tôi
tớ Chúa, con cháu Gia-cóp được Người tuyển chọn! 7 Chính ĐỨC CHÚA là
Thiên Chúa chúng ta, những điều Người quyết định là luật chung cho cả địa cầu.
8 Giao ước lập ra, muôn đời Người nhớ
mãi, nhớ lời đã cam kết đến ngàn thế hệ! 9 Đó là điều đã giao ước
cùng Áp-ra-ham, đã đoan thề cùng I-xa-ác.
TUNG HÔ TIN MỪNG:
Ga 10,27
Hall-Hall: Chúa nói: Chiên của tôi
thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Hall.
TIN MỪNG: Mc
1,29-39
29 Hôm ấy, vừa ra khỏi
hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông
Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo.30 Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn
đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của
bà.31 Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và
bà phục vụ các Ngài.
32 Chiều đến, khi mặt trời đã
lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người.33
Cả thành xúm lại trước cửa.34 Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ
thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là
ai.
35
Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu
nguyện ở đó.36 Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm.37
Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy! "38
Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó."39
Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ
quỷ.
CHU TOÀN SỨ MỆNH TƯ TẾ VÀ NGÔN SỨ
MỚI XỨNG LÀ THỦ LÃNH CỦA CHÚA
MỚI XỨNG LÀ THỦ LÃNH CỦA CHÚA
Ngày ta lãnh Bí tích Thánh Tẩy, khi
Linh mục xức dầu Thánh trên thân thể ta, cùng với lời đọc: “Từ
nay con là tư tế, ngôn sứ và vương đế của Chúa”. Như thế, ngay từ lúc
được tái sinh làm con Thiên Chúa, Chúa đã trao ban cho ba sứ mệnh quan trọng.
Thời Cựu Ước, ai đã làm vua thì không làm tư tế và ngôn sứ. Thế mà, khi Con
Thiên Chúa mặc lấy thân xác loài người, lúc ấy Ngài mới trở thành Tư Tế và Ngôn
Sứ của Cha trên trời, mặc dù Ngài là Vua vũ trụ đồng hiển trị với Chúa Cha.
Tin Mừng hôm nay, tác giả Marco ghi
lại những sinh hoạt của Đức Giê-su diễn tả Ngài thi hành ba quyền Tư Tế, Ngôn
Sứ và Vương Đế: Từ trong hội đường đi ra (9 giờ sáng), có các ông Phêrô, Anrê,
Giacôbê, Gioan cùng đi với Ngài về nhà mẹ vợ của ông Phêrô, có lẽ các Ngài muốn
được nghỉ ngơi ăn uống, nhưng không thấy Đức Giê-su có giờ cho việc này, mà chỉ
thấy Ngài tất bật lo giải quyết nhu cầu thân xác mọi người: Đầu tiên Ngài gặp
mẹ vợ ông Phêrô đang lên cơn sốt nặng, Ngài cầm lấy tay bà, cơn sốt liền biến
mất, bà chỗi dậy phục vụ các Ngài, và từ bấy giờ người ta lũ lượt kéo đến chật
nhà, nào là người bị quỷ ám, nào là đủ mọi loại bệnh nhân, đều được Ngài chữa
lành hết thảy, thế mà mãi đến chiều tà, người ta vẫn còn đưa nhiều bệnh nhân
đến cho Ngài chữa trị. Cứ nhìn vào việc Ngài phục vụ mọi người như thế, ai cũng
nghĩ rằng Ngài đang thi hành sứ vụ thủ lãnh (Vương Đế) cách tuyệt vời. Nhưng
ông Phêrô bỗng thấy Thầy biến đâu mất, ông và các bạn suốt đêm đi lùng kiếm
Ngài, mãi đến gần sáng, trời còn đang tối, họ gặp thấy Ngài đang cầu nguyện nơi
vắng vẻ. Ông Phêrô liền lên tiếng trách khéo: “Thưa Thầy, mọi người đều đi tìm Thầy”. Nói như thế là ông thầm
trách: “Thầy tài năng như vậy, người ta
lại quá khổ, tại sao Thầy nhẫn tâm trốn họ mà đi!” Đúng lý ra Đức Giêsu
phải trả lời: “Đâu, ai cần gì? Lại đây
tôi giúp hết? Nhưng Ngài lại bảo ông Phêrô: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để
làm việc đó” (Mc 1,38: Tin Mừng). Câu nói này là Ngài muốn chúng ta
phải xác tín rằng làm tròn sứ mệnh thủ lãnh (vương đế) không phải là ưu tiên
cho việc chăm sóc nhu cầu thân xác đồng loại, mà phải cầu nguyện và giảng Lời cho mọi người trước, và đó cũng là
Ngài muốn nhắn gửi chúng ta: Đừng đảo
lộn sứ mệnh thủ lãnh (vương đế) trước sứ mệnh tư tế (cầu nguyện) và ngôn sứ
(giảng Lời) đã được Chúa phó khi lãnh Bí tích Thánh Tẩy; đặc biệt hơn đối
với những người lãnh bí tích Truyền Chức Thánh. ta cứ nhìn vào thời khóa biểu làm việc của Đức Giêsu mỗi ngày
ưu tiên theo thứ tự: Cầu nguyện – Giảng
Lời – Phục vụ thân xác mọi người (x. Mc 1,29-39: Tin Mừng).
Như thế, việc cầu nguyện đã trở
thành khoen móc nối các ngày trong
đời sống của người Ki-tô hữu.
Cầu
nguyện và giảng Lời phải là căn tính của tâm hồn người hiến dâng cho Thiên Chúa.
Cụ thể cậu bé Samuel còn trong tuổi mê ngủ, mà xem ra Chúa cứ quấy rầy gọi cậu
suốt đêm, Samuel tưởng thầy Êly gọi, và cậu đã mau mắn chỗi dậy chạy đến với
thầy ba lần và thưa: “Thầy gọi con?”
Nhưng đến lần thứ ba thì thầy Êly nói: “Hễ
ai gọi con thì con thưa: “Lạy Chúa,
xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe”. Quả nhiên lần thứ tư
Chúa lại gọi cậu như ba lần trước: “Samuel,
Samuel!” Cậu thưa: “Xin Ngài phán, vì
tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe”, cậu chăm chú nghe đến nỗi không để rơi rớt
một Lời nào xuống đất. Từ đó Samuel lớn lên, Chúa hằng ở với cậu và không để
một Lời nào của Ngài ra vô hiệu (x. 1Sm 3,1-20: Bài đọc năm chẵn). Như thế,
Samuel nhờ tỉnh thức cầu nguyện và lắng nghe Lời Chúa là cậu đã thực thi ý
Chúa. Samuel đúng là chiên của Thiên Chúa, vì chính Đức Giêsu đã xác định: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết
chúng và chúng theo tôi” (Ga 10,27: Tung Hô Tin Mừng). Vì thế ông đã trở
thành người lãnh đạo, đặt Saolê là vị vua đầu tiên cho dân Do Thái (x. 1Sm 10),
rồi sau đó ông lại đặt Đavit thế quyền vua Sao-lê để lãnh đạo dân (x. 1Sm 16).
Từ bấy giờ vua làm gì cũng đều hỏi ý kiến Samuel (x. 1Sm 19, 18t).
Mẫu người Samuel sống niềm tin phải được nhân
lên nơi các Kitô hữu, nhất là các thủ lãnh trong Hội Thánh, vì chỉ có thể làm
tròn sứ mệnh tư tế, ngôn sứ và vương đế, khi biết thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài”
(Tv 40/39,8-9: ĐC năm chẵn).
Giáo huấn Công Đồng Vat.II, trong
Hiến Chế Mạc Khải số 16 cho ta chìa khóa mở kho tàng Kinh Thánh: “Giá
trị Cựu Ước được thể hiện trong Tân Ước; Giá trị Tân Ước đã tiềm ẩn trong Cựu
Ước”.
Dựa vào nguyên tắc đọc Kinh Thánh
này, thì ta hiểu giá trị việc ông Samuel cầu nguyện bên Hòm Bia Thiên Chúa
trong Đền Thờ, và được nghe tiếng Chúa phán bảo. điều này được thể hiện vào thời Tân Ước như Giáo huấn Công
Đồng Vat.II, trong Hiến Chế Phụng Vụ số 7,8 và 10 dạy: “Khi Hội Thánh cử hành Phụng Vụ, đặc biệt là lễ Tạ Ơn, là Hội Thánh thực
thi chức Tư Tế của Chúa Giê-su, và các chi thể trong Thân Mình Mầu Nhiệm của
Người. Không một hành vi nào khác của Hội Thánh có hiệu lực bằng, xét về danh
hiệu lẫn đẳng cấp. Vì dự Phụng Vụ nơi trần thế là nếm trước Phụng Vụ ở trên
Trời. Nhất là lễ Tạ Ơn như nguồn mạch chảy tràn ân sủng vào lòng chúng ta, và
làm cho con người được thánh hóa trong Chúa Ki-tô một cách hữu hiệu”.
Hội Thánh dạy như thế là dựa vào Lời Chúa qua thư Do Thái: “Chúng ta được kín múc nguồn ơn cứu độ sung
mãn, vì Chúa Giê-su và chúng ta là Con Thiên Chúa, có chung một huyết nhục, một
nguồn gốc, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt lãnh chúa gây ra sự chết,
tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình
trạng nô lệ. Chúa không nâng đỡ một thiên thần nào, nhưng Ngài lại bao bọc con
cháu Abraham: những người tin vào Thiên Chúa khởi đi từ Đức Tin của Abraham.
Ngài đã trở thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên
Chúa, hầu đền tội cho dân. Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ,
nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Dt.2,16-18 Bài đọc năm
lẻ). Đó là “Giao Ước đã lập ra, muôn đời
Chúa nhớ mãi” (Tv 105/104,8a: ĐC năm lẻ).
Vào thời Giáo Hội sơ khai, các Tông Đồ được giáo dân tín nhiệm, họ bán tài
sản và đem đặt tất cả dưới chân các Tông Đồ để chia sẻ đồng đều cho mọi người
(Cv 4,32-35). Các Tông Đồ tích cực làm việc này vì nghĩ rằng mình đã chu toàn
sứ mệnh thủ lãnh (vua), để mọi người có của ăn, không ai dư, không ai thiếu.
Nhưng sự cố đã xảy đến: cả cộng đoàn xáo trộn mất bình an, lúc ấy các Tông Đồ
mới ngộ ra: thi hành sứ mệnh thủ lãnh không phải là ưu tiên chăm sóc nhu cầu
thân xác đồng loại. Nếu chỉ chú ý vào việc này là sai lầm lớn, mà phải ưu tiên
cho việc cầu nguyện và giảng lời
mới giống Thầy Giêsu. Bởi đó các tông đồ phải chọn ra bảy người có uy tín trong
giáo dân gọi là Phó tế để trao việc nhận tài sản và chia của đồng đều cho mọi
người, còn các Tông Đồ trở về nhiệm vụ chính, đứng hàng đầu là cầu nguyện và giảng
Lời. Lúc ấy cộng đoàn mới được bình an và phát triển (x. Cv 6,1-7).
Nếu người Ki-tô hữu cứ mải miết lao
đầu vào việc phục vụ thân xác đồng loại,mà xao nhãng việc cầu nguyện và giảng
Lời, thì chẳng khác gì con thú tha mồi về nuôi con!
Vậy phải biết chia giờ, ưu tiên cho
những việc chính làm trong ngày, đừng chỉ làm việc mình thích, cũng đừng lãng
phí thời giờ vào việc phụ thuộc. Thánh Phaolô trách: “hình
thức của đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ. Hãy xa
lánh những người ấy” (2Tm 3,5); thánh Augustin khuyến cáo: “Bạn chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất
rồi!”; Đức Giáo hoàng Phaolô II nhắc nhở: “Một nỗi nguy cơ thường xuyên
nơi hàng giáo sĩ, là họ quá hăng say trong những công việc của Chúa, mà quên
mất Chúa là Chủ công việc”.
Tôi có quyền xác quyết như vậy vì
chính mắt tôi nhìn thấy một hiện tượng làm cho tôi suy nghĩ nhiều: Tôi có một
đàn gà gần 100 con, tối 24 tháng 12 tôi bắt một con lớn trong đàn nấu cháo ăn
mừng Chúa Giáng Sinh, thì lạ thay sáng ngày 25 tháng 12, ngày Chúa đem bình an
cho loài người, tôi thấy cả đàn gà cứ từng đôi chọi nhau, tôi cố gắng đuổi
chúng đi vì thấy chúng mổ nhau chảy máu đầu, nhưng đuổi được đôi này thì nó lại
nhảy sang con khác mổ tiếp. Lúc đó tôi ngộ ra rằng chúng đã mất con đầu đàn,
nên bây giờ chúng đá nhau để tranh quyền thủ lãnh trong đàn! Thế nên nếu tôi
chỉ lo bảo vệ quyền thủ lãnh (vương đế), tỏ uy cho mọi người khiếp sợ, thì tôi
có hơn gì con thú!? Bởi vì con thú tranh quyền thủ lãnh, đó là bản năng Chúa
phú bẩm cho nó, chứ Chúa đâu có trao cho con thú sứ mệnh tư tế (cầu nguyện) và
ngôn sứ (giảng Lời)! Hầu hết giáo dân chỉ đến gặp giáo sĩ khi có việc cần,
ngoài ra là tìm cách né! Ta cứ nhìn Chúa Giêsu: không ai uy quyền bằng Ngài vì
Ngài là vua cả vũ trụ, nếu Ngài chỉ muốn tỏ uy quyền vua thì trong suốt 3 năm
phục vụ theo ý Cha trên trời, đặc biệt vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì Ngài đã
bẽ cổ bọn phủ nhận vương quyền Ngài! Trái lại, Ngài còn cầu nguyện xin Cha tha
tội cho chúng vì chúng lầm (Lc 23,34). Như thế, xem ra Chúa Giêsu không sử dùng
quyền vua (thủ lãnh) nhưng thực ra chính lúc Ngài cho toàn sứ mệnh tư tế và
ngôn sứ, thì Ngài cũng đã chu toàn sứ mệnh vương đế chăm sóc tận tình hết mọi
loại người. Chính vì vậy mà kết thúc Tin mừng
Luca, ông không viết các Tông Đồ đi khắp thế gian tập họp môn đệ về cho Chúa mà
các ông “luôn ở trong đền thờ mà chúc tụng Thiên Chúa” (Lc 24,53)
THUỘC LÒNG
Hãy bắt chước ngày làm việc của Chúa Giêsu ưu tiên theo
thứ tự: CẦU NGUYỆN – GIẢNG LỜI – PHỤC VỤ NHU CẦU THÂN XÁC MỌI NGƯỜI.
Linh mục GIUSE ĐINH QUANG THỊNH