SUY NIỆM LỜI CHÚA CN 3 MÙA VỌNG A
MỤC LỤC
MỤC LỤC
1. Bác ái
2. Vở kịch dang dở
3. Đấng sẽ đến
4. Dung mạo Đức Kitô – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
5. Mùa vọng: mùa màu hồng ĐGM. GiuseVũ Duy Thống
6. Mạnh sức để đạt được Nước Trời – Anmai
7. Còn phải đợi ai?
8. Lộ tẩy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
9. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến
10. Kiên nhẫn đợi chờ!
11. Hãy để việc làm minh chứng về Ta
12. Anh em hãy vui lên
13. Vững tâm – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
14. Bạn đang vui hay đang buồn?
15. Đấng phải đến
16. Vở kịch còn dang dở – Lm. Mark Link
17. Đấng phải đến
18. Phi thường
19. Một đức tin luôn luôn đứng vững – Achille Degeest
20. Mùa Vọng của đức tin
21. Thiên Chúa có làm việc hay không?
22. Đấng sẽ đến
23. Vui mừng
24. Gioan Tiền Hô
25. Vui lên
26. Việc Ngài làm
27. Đấng phải đến
28. Đấng phải đến
29. Sứ giả của Thiên Chúa
30. Vui lây
31. Đức Kitô, Ngài là ai?
32. Còn đợi chờ ai? – Lm. Phạm Quốc Hưng
33. Bạn có phải là Đức Giêsu không?
34. Thầy có thật là đấng phải đến không?
35. Suy niệm của Lm Ignatio Hồ Thông
36. Đi đến cùng sứ vụ – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
37. Ai cao trọng hơn ông? Noel Quesson
38. Anh em ra xem gì? – Lm. HK
39. Vọng và Hy Vọng – Antôn Lương Văn Liêm
40. Ngài là ai? – Lm Phaolô Nguyễn Văn Đông
Đấng Cứu độ đã đến gần L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chờ đợi Chúa trong kiên nhẫn... Lm Giuse Đinh lập Liễm
Hãy để việc làm minh chứng về Ta Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Trọng hơn Gioan tẩy giả Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
Niềm tin đi vào cuộc sống Lm Đinh Viết Tiên, O.P
Đấng phải đến, đã đến PM. Cao Huy Hoàng
Hãy tỉnh thức Suy niệm của JKN
Chứng từ của Chúa Giêsu Giáo Hoàng Học Viện
Cuộc cách mạng tôn giáo Suy niệm của JKN
Đợi ai ? Lm Trần Bình Trọng
Giọng nói Chúa Giêsu William Barclay
Đấng phải đến Niềm Vui Chia Sẻ
Thánh Vinh & Đáp Ca
Còn phải đợi ai? Lm Giuse Đinh tất Quý
Đợi ai? Lm Giuse Đinh tất Quý
Đón tiếp Chúa Lm Giuse Đinh tất Quý
Hãy đẻ việc làm minh chứng Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Niềm vui trong Chúa Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thầy có phải là Đấng phải đến không ? Catholic.org.tw
1. Bác ái
2. Vở kịch dang dở
3. Đấng sẽ đến
4. Dung mạo Đức Kitô – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
5. Mùa vọng: mùa màu hồng ĐGM. GiuseVũ Duy Thống
6. Mạnh sức để đạt được Nước Trời – Anmai
7. Còn phải đợi ai?
8. Lộ tẩy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
9. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến
10. Kiên nhẫn đợi chờ!
11. Hãy để việc làm minh chứng về Ta
12. Anh em hãy vui lên
13. Vững tâm – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
14. Bạn đang vui hay đang buồn?
15. Đấng phải đến
16. Vở kịch còn dang dở – Lm. Mark Link
17. Đấng phải đến
18. Phi thường
19. Một đức tin luôn luôn đứng vững – Achille Degeest
20. Mùa Vọng của đức tin
21. Thiên Chúa có làm việc hay không?
22. Đấng sẽ đến
23. Vui mừng
24. Gioan Tiền Hô
25. Vui lên
26. Việc Ngài làm
27. Đấng phải đến
28. Đấng phải đến
29. Sứ giả của Thiên Chúa
30. Vui lây
31. Đức Kitô, Ngài là ai?
32. Còn đợi chờ ai? – Lm. Phạm Quốc Hưng
33. Bạn có phải là Đức Giêsu không?
34. Thầy có thật là đấng phải đến không?
35. Suy niệm của Lm Ignatio Hồ Thông
36. Đi đến cùng sứ vụ – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
37. Ai cao trọng hơn ông? Noel Quesson
38. Anh em ra xem gì? – Lm. HK
39. Vọng và Hy Vọng – Antôn Lương Văn Liêm
40. Ngài là ai? – Lm Phaolô Nguyễn Văn Đông
Đấng Cứu độ đã đến gần L. M. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chờ đợi Chúa trong kiên nhẫn... Lm Giuse Đinh lập Liễm
Hãy để việc làm minh chứng về Ta Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Trọng hơn Gioan tẩy giả Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh
Niềm tin đi vào cuộc sống Lm Đinh Viết Tiên, O.P
Đấng phải đến, đã đến PM. Cao Huy Hoàng
Hãy tỉnh thức Suy niệm của JKN
Chứng từ của Chúa Giêsu Giáo Hoàng Học Viện
Cuộc cách mạng tôn giáo Suy niệm của JKN
Đợi ai ? Lm Trần Bình Trọng
Giọng nói Chúa Giêsu William Barclay
Đấng phải đến Niềm Vui Chia Sẻ
Thánh Vinh & Đáp Ca
Còn phải đợi ai? Lm Giuse Đinh tất Quý
Đợi ai? Lm Giuse Đinh tất Quý
Đón tiếp Chúa Lm Giuse Đinh tất Quý
Hãy đẻ việc làm minh chứng Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Niềm vui trong Chúa Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Thầy có phải là Đấng phải đến không ? Catholic.org.tw
Trong một cuộc hội
thảo dành cho các sinh viên tại Hoa Kỳ, người ta đã đưa ra một đề tài như sau:
Lòng bác ái trên thế giới. Có một sinh viên không phải là công giáo đã hỏi một
vị tuyên uý để xin ngài cho biết Giáo Hội Công giáo đã làm được những gì cho
các người nghèo trên thế giới? Vị tuyên uý lúc đầu đã tỏ ra bỡ ngỡ, rồi ngài
cho anh biết về những hoạt động bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới: hàng
trăm ngàn linh mục, tu sĩ và giáo dân đang làm việc cho mọi tầng lớp dân chúng.
Thế rồi anh sinh viên buột miệng kêu lên: tại sao người Công giáo không nói cho
chúng tôi hay về lòng bác ái này trên trái đất? Sự thật đáng buồn là nhiều
người Công giáo không có ý tưởng gì vềt những công cuộc bác ái vĩ đại mà gia
đình con cái Chúa đã thực hiện.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm
nay nói với chúng ta rằng: Gioan tiền hô sai một số môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu:
Ngài có phải là Đấng sẽ đến hay là chúng ta còn phải đợi chờ một Đấng nào khác?
Chúa đáp lại: hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông đã nghe và đã thấy:
Người mù được thấy, người què được đi, người chết được sống lại và người nghèo
khó được đón nhận Tin Mừng. Đó là những dấu chỉ cho biết Chúa Giêsu là Đấng
thiên sai. Đó cũng là những dấu chỉ đích thực của một Giáo Hội do Ngài thiết
lập. Đồng thời đó cũng là dấu chỉ của người môn đệ Chúa.
Đức Kitô ngày hôm nay
vẫn còn thực hiện những phép lạ, đó là những phép lạ của lòng bác ái nơi những
người tin theo Ngài. Người Công giáo chúng ta cần biết hơn về những gì Giáo Hội
đang làm cho người nghèo trên toàn thế giới. Không phải để khoe khoang, nhưng
để nhận thức rằng lòng bác ái là dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Chẳng hạn ở Hoa
Kỳ có hơn 700 bệnh viện công giáo với hơn 160.000 giường bệnh. Có hơn 100 cô
nhi viện chăm sóc cho hơn 16.000 trẻ em. Có 432 viện dưỡng lão chăm sóc 43.000
người già cả. Cơ quan bác ái còn cung cấp cho 19.000 trẻ em có chỗ nuôi nấng.
Đó mới chỉ ở Hoa Kỳ, nhưng công cuộc bác ái của Giáo Hội trên toàn thế giới thì
rất bao la và rộng lớn. Đồng thời chúng ta cũng nên nhớ rằng đó chỉ là những
việc bác ái công khai của Giáo Hội và chỉ có Chúa mới biết được tất cả những gì
mỗi cá nhân người Công giáo chúng ta đang làm để xoa dịu sự nghèo đói túng khổ.
Còn chúng ta, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc bác ái
của Giáo Hội?
2. Vở kịch dang dở
Có một văn sĩ, khi
chết đi, còn để lại trên bàn tập bản thảo của một vở kịch. Tất cả mới chỉ là
khởi đầu, chuẩn bị cho nhân vật chính xuất hiện, còn nhân vật chính ấy như thế
nào thì chưa một ai được biết.
Toàn bộ Cựu Ước cũng
giống như một vở kịch còn dang dở kể trên, trong đó nhân vật chính chưa hề xuất
hiện. Mọi người đều bàn tán, đều mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả mới chỉ là
sự chuẩn bị mà thôi. Còn Đấng Cứu Thế như thế nào, thì chưa một ai được biết.
Từ bối cảnh này, chúng
ta hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Gioan Tiền Hô. Trên dòng sông Giođan có một khúc
nước cạn, cách biển Chết không xa. Đây là chỗ dân chúng thường qua lại để buôn
bán và trao đổi tin tức. Chính tại chỗ này, Gioan Tiền Hô đã rao giảng và rửa
tội cho dân chúng. Dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Ông là ai? Ông có phải là Đấng
Cứu Thế muôn dân mong đợi hay không?
Và qua đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay Chúa Giêsu đã trả lời cho những câu hỏi này. Ngài nói với dân
chúng: Gioan là người mà Kinh thánh đã đề cập đến: Ta sai sứ giả Ta đi trước
Con để dọn đường cho Con. Ngài cũng trả lời một câu hỏi khác được các môn đệ
cua Gioan đặt ra cho Ngài: Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn pải
đợi một Đấng nào khác?
Để trả lời cho vấn nạn
này, Chúa Giêsu đã mượn lời tiên tri Isaia. Thực vậy, khi nói về Đấng Cứu Thế,
Isaia đã đưa ra những dấu chỉ để mọi người nhận biết Ngài: Đó là người mù được
thấy, kẻ què được đi, người điếc được nghe và kẻ câm sẽ reo vui. Chủ đích của
Chúa Giêsu thực rõ ràng. Chính những phép lạ Ngài làm sẽ xác quyết Ngài là ai?
Là Đấng Cứu Thế tiên tri Isaia đã loan báo. Ngài đến để thiết lập vương quốc
của Ngài ở trần gian.
Tuy nhiên, như chúng
ta đã biết: Vương quốc ấy đã được thiết lập rồi nhưng chưa hoàn tất. Ngài trao
phó cho chúng ta tiếp nối công trình của Ngài, xây dựng và hoàn tất vương quốc
của Ngài trên trần gian này. Vào ngày sau hết, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang
để phán xét chúng ta về công việc này.
Hiện giờ chúng ta đang
sống giữa hai biến cố: Việc Ngài giáng sinh và việc Ngài trở lại. Nhiệm vụ
chúng ta không phải là ngồi chơi xơi nước mà phải xắn tay áo lên, dấn thân vào
công việc Chúa đã trao phó, khi Ngài đến lần đầu trong lịch sử.
Nói một cách cụ thể
hơn, đó là chúng ta phải xây dựng Nước Chúa trên trần gian, phải đem tình
thương để xoá bỏ hận thù, phải đem chân lý thay cho sự giả dối, phải xây dựng
cái thế giới hôm nay theo tinh thần của Chúa.
3. Đấng sẽ đến
Thầy có phải là Đấng
sẽ đến hay không?
Như chúng ta đã biết,
Gioan Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục. Từ thế
giới tù đày, ông đã sai hai môn đệ thân tín đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra câu
hỏi: Thầy có phải là Đấng sẽ đến, hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào
khác?
Câu hỏi này thoạt xem
ra thì có vẻ vô lý và mâu thuẫn với sứ mạng tiền hô, với sứ mạng dọn đường của
Gioan. Phải chăng ông đã chẳng long trọng giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian đó sao? Phải chăng bên bờ sông Giođan ông đã
chẳng xác quyết: Ngài phải rửa cho tôi chứ không phải là tôi rửa cho Ngài. Tôi
không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài? Rồi với những sự kiện lạ lùng
sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, với sự tỏ lộ đặc biệt của Chúa Thánh Thần,
ông đã tin chắc Chúa Giêsu người Nadarét chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ
những thế kỷ về trước. Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nghi ngờ và phản lại
những lời đã xác quyết? Theo tôi nghĩ vấn đề được đặt ra thật quan trọng. Quan
trọng không phải cho bản thân của Gioan vì ông không hề nghi ngờ chi nữa, nhưng
quan trọng cho các môn đệ của ông, bởi vì họ còn đang phân vân, lưỡng lự và
chưa dứt khoát được lập lập trường đối với Chúa Giêsu. Ông tin chắc câu trả lời
và những lý chứng của Chúa Giêsu sẽ là một thứ ánh sáng phán tan mọi thứ nghi
ngờ còn đọng lại trong cõi lòng của họ. Thực vậy, những phép lạ Ngài làm là một
lý chứng hùng hồn nhất về sứ mạng cứu thế của Ngài: Người mù được thấy, kẻ què
được đi, người chết sống lại và những kẻ nghèo túng được loan báo Tin Mừng. Và
sau đó Chúa Giêsu đã lên tiếng ca tụng Gioan Tiền hô.
Người Do Thái luôn
trông chờ một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng chắc
chắn Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở trước và
chúng ta là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta đặt trọn
vẹn niềm cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không vội vàng,
không hấp tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu thương của
Chúa trên những nẻo đường chúng ta đi.
Đức Thánh Cha Gioan
XXIII thường nói: Chúng ta hãy tin tưởng vào thời gian bởi vì thời gian sẽ sắp
đặt mọi sự. Nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ bàn tay yêu thương của Chúa, cũng như
giúp chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chân lý này đã được thực
hiện trong chính cuộc đời của ngài. Với tính tình hiền hoà và đôn hậu người ta
tưởng rằng ngài sẽ chẳng làm được những việc phi thường trên ngôi giáo hoàng.
Thế nhưng Chúa đã dùng ngài để hướng dẫn Giáo Hội. Chính ngài đã quyết định
triệu tập Công đồng Vatican II và đã thổi vào Giáo Hội một tinh thần, một luồng
sinh khí mới.
Thánh Giacôbê tông đồ
cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy kiên nhẫn trông chờ ngày Chúa đến. Như
người nông phu kiên nhẫn trông chờ những giọt nước mưa, và hoa màu của đồng
ruộng. Anh em cũng hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến.
Thánh Vincentê luôn
cảnh giác chúng ta: Đừng hấp tấp vội vã vì đó là mưu mô của ma quỷ, lừa dối
những người thiện chí để rồi cuối cùng chẳng làm được gì cả. Để kết luận chúng
ta hãy nhớ tới lời Chúa: Ai kiên tâm và bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát.
4. Dung mạo Đức Kitô – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tiền Hô là
một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền.
Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ
của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô
luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị
giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm
nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng
phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.
Thật lạ lùng đến khó
hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người
mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy
thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin
nửa ngờ.
Sự hoang mang của
thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:
1) Nguyên nhân thứ
nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.
Thánh Gioan Tiền Hô đã
loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm
tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây,
cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê
thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ
điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa
Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu
tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị
dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt.
Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến
không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến
thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
2) Nguyên nhân thứ
hai: Gioan bị giam trong tù.
Ông bị ngược đãi, tất
nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ
gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những
sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi:
Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn
mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia
còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi
hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị
giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm
nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén
lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng
Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan
trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.
Trước câu hỏi ấy, Chúa
Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan
những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn,
kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Với câu trả lời ấy,
Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng
thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế không
phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài
nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Đấng Cứu Thế không
phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ
mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế không
phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương
y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu
đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.
Đấng Cứu Thế không đến
trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình
nghĩa như một người bạn thân thiết.
Đấng Cứu Thế không đến
trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui
tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Câu trả lời của Chúa
Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung
mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng:
Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây
dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm
cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình
dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn
quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những
việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu
bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Ta đang chờ đón Chúa
đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa
không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công
rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm,
bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ.
Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân
ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang
vẽ nên dung mạo của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong
Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đức Thánh Cha đã
khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức
Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?
2) Bạn muốn một Giáo
Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?
3) Bạn nghĩ gì về
những lầm lỗi trong Giáo Hội?
4) Bạn phải làm gì để
làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng
ngày?
5. Suy niệm của ĐGM. GiuseVũ Duy Thống
MÙA VỌNG: MÙA MÀU HỒNG
(Trích trong ‘Nút Vòng
Xoay’ – trg. 19)
Nếu khởi đầu Mùa Vọng
là một màu xanh của những tâm hồn biết rằng Thiên Chúa hằng hy vọng vào mình và
hành trình Mùa Vọng là một màu tím của những cuộc đời sám hối, thì ở giữa lòng
Mùa Vọng, đời người đã được đặt vào một vận hành mới với một năng lực mới cho
một cuộc đời mới. Những cái mới ấy Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay diễn tả bằng một
niềm vui và lễ phục minh họa bằng một tông màu bất ngờ tươi sáng để cùng với
Giáo Hội, Chúa Nhật hôm nay xin được gọi tên Mùa Vọng là mùa màu hồng.
Vâng! Màu hồng. Nhưng
không phải là một thứ ửng hồng e lệ của tình yêu buổi đầu gặp gỡ, cũng không
phải là thứ bột hồng điểm trang của hương phấn trong ngày lễ hội, mà chính là
màu hồng của niềm vui chan hòa và những chí bền chiến đấu đã làm nên sức sống
và sức mạnh không ngừng gieo hưng phấn trên hành trình đức tin.
Qua cách gọi tên Mùa
Vọng là mùa màu hồng, xin được gợi ý về hiệu quả của niềm hy vọng.
1) Niềm hy vọng đem
lại cho đời tín hữu một niềm vui chan hòa.
Không phải vô cớ mà
thánh Phaolô năm xưa đã kêu gọi các tín hữu của mình “Hãy vui lên!” cũng chẳng phải tình
cờ khi Phụng Vụ gọi Chúa Nhật thứ ba Mùa Vọng là Chúa Nhật của niềm vui, mà tất
cả đã là một hữu ý dàn dựng để làm nổi bật lên nỗi vui mừng và niềm hy vọng
không phải như hai nỗi niềm đặt cận kề nhau, mà như hai yếu tố tương tại vào
nhau của cùng một nỗi niềm duy nhất kết nên đời sống Kitô hữu. Có hy vọng là có
niềm vui.
Bởi có hy vọng nên đời
tín hữu cũng có một vũ trụ quan tươi vui: Họ không chấp nhận cuộc đời theo kiểu
“cũng liều nhắm mắt đưa chân” trôi nổi vật vờ theo dòng nước cuốn, mà là đón
nhận cuộc đời bằng một phong thái thanh thản vui tươi. Họ không chấp nhận nhìn
môi trường mình đang sống như những sự kiện bên lề mà biết nhận ra đó chính là
nơi mình được kêu gọi đến để thể hiện ơn gọi làm người và làm con Chúa. Cho dẫu
cuộc đời có thế nào cũng vẫn có đó niềm hy vọng vươn cao. “Trong khi chưa có
được điều mình thích, hãy bắt đầu bằng cách thích những điều mình đang có”. Tôi
muốn một cuộc đời rộng đẹp nhưng trước mắt tôi vẫn chỉ là những mảnh đời chật
hẹp thì trong niềm hy vọng, tôi phải bắt đầu bằng cách nới rộng đời mình ra.
Bởi có niềm hy vọng
nên đời tín hữu cũng có một nhân sinh quan chan hòa. Trong đại
dương không ai là một hòn đảo. Trong chuyến đi cuộc đời chẳng ai là người lữ
khách cô đơn. Thế nên, trong tinh thần liên đới, tín hữu là những kẻ đồng hành
và đồng hành cũng có nghĩa là biết cho đi và nhận về. Cũng giống như tình yêu,
hy vọng là rộng mở, là biết cho đi. Trong đổi chác, không ai có thể cho cái
mình không có, nhưng trong niềm hy vọng, không ai có thể có được điều mà mình
không biết cho đi. Bởi lẽ bạc tiền cho đi sẽ có lúc vơi cạn, nhưng niềm hy vọng
biết cho đi thì ngược lại, bỗng trở nên phong phú lạ thường. Nỗi vui cho đi sẽ
thành nỗi vui lớn hơn của kẻ cho và người nhận gộp lại, và niềm hy vọng biết
cho đi sẽ nên niềm hy vọng vĩ đại của một sự sống triển nở sinh sôi.
Rõ ràng là với niềm hy
vọng, cuộc sống đã biến thành niềm vui, cho dẫu niềm vui ấy chưa ở độ tinh ròng
mà vẫn còn đan xen với những nỗi niềm riêng tư hay nỗi lo đại cuộc, nhưng đã
hồng hào lên một sức sống tươi trẻ vì đó chính là thành quả của niềm hy vọng.
Chắc cộng đoàn còn nhớ
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô I. Triều đại Giáo Hoàng của ngài chỉ có ba mươi ba
ngày nhưng hình ảnh của ngài thì thế giới khó mà quên. Đó là hình ảnh của một
Giáo Hoàng với nụ cười thật tươi, nụ cười trong hồn và nụ cười ngoài miệng.
Chính ngài là người đã lập lại quan điểm của thánh Tôma để chủ trương: vui vẻ
là một nhân đức. Và Mẹ Têrêsa Calcutta, một trong mười phụ nữ được xếp vào hàng
vĩ nhân hiện đại, khi người ta hỏi Mẹ xem phải làm gì cho cuộc sống tốt hơn, Mẹ
bảo: “Hãy mỉm cười. Cười là thông điệp hòa bình. Cười là nếm cảm thực tại Thiên
Chúa”.
2) Niềm hy vọng đem
lại cho đời tín hữu một chí bền chiến đấu.
Những lúc an bình,
niềm hy vọng mở ra một cuộc sống tươi vui nhưng khi gặp phải thử thách, niềm hy
vọng lại trở nên sức mạnh kiên cường. Chính vì thế, hy vọng không chỉ được xem
là nhân đức của nụ cười mà còn được khẳng định là nhân đức của sự chiến đấu
trước những thách đố không thiếu trong đời.
Có những thách đố đến
từ những nghịch lý trong đời sống đức tin thể hiện qua những câu
hỏi “tại sao?” khó mà trả lời nếu không có niềm hy vọng. Như câu hỏi tại sao
của Cựu Ước: “Tại sao kẻ lành thường gặp hoạn nạn còn kẻ dữ lại cứ phây phây?”.
Như câu hỏi của thánh Phaolô: “Tại sao điều tốt muốn làm tôi lại chẳng làm, còn
điều xấu muốn tránh tôi lại hay vấp phải?”. Như câu hỏi về Giáo Hội: “Tại sao
Giáo Hội bản chất là duy nhất mà trong lịch sử vẫn cứ mãi ghi dấu bằng những
cuộc phân ly?”. Như câu hỏi của các bạn trẻ Tây Ban Nha đặt ra cho Đức Gioan
Phaolô II năm 1982: “Tại sao Thiên Chúa tốt lành mà trong tạo thành của Ngài
lại có quá nhiều tội ác?”. Như câu hỏi của báo chí: “Tại sao người ta cứ phải
lo đề phòng đối phó mà không biết yêu thương nhau?”. Hay như câu hỏi mỗi người
thường đặt ra với lòng mình: “Tại sao nhân đức như lúa tốt chăm hoài vẫn khó
mọc còn nết xấu như cỏ dại nhổ mãi vẫn cứ còn?” Những câu hỏi ấy được đặt ra và
còn được đặt ra mãi mãi. Sẽ là hoang mang chao đảo nếu không tìm được giải đáp;
nhưng sẽ không có câu trả lời đích thực nếu không nại đến niềm hy vọng vào điều
toàn bích vốn chỉ có nơi Thiên Chúa và trong cuộc sống mai sau.
Có những thách đố đến
từ những nghịch biến trong lối sống đạo như sự ly thân giữa
giáo lý tốt lành của đạo với đời sống kèn cựa của người tín hữu, như cách sống
thực dụng của một số thành phần có đạo, như xu hướng tục hóa đang có nguy cơ
tràn lan, và phổ biến nhất vẫn là thái độ “mackeno” dửng dưng với đạo của một
số kẻ tự nhận là có đạo mà thực tế chẳng tốt hơn ai. Sẽ là dị ứng co cụm nếu chỉ
thở dài thất vọng, nhưng sẽ là bản lĩnh hy vọng nếu biết vươn lên khẳng định
niềm tin.
Và cũng có những thách
đố đến từ những nghịch cảnh trong cuộc đời như tai nạn bất ưng,
như sức khỏe yếu kém, như hoàn cảnh không thuận lợi cho ngành nghề, như những thất
bại nhiều mặt. Sẽ là thất vọng nếu cúi gập trên nỗi đau của mình, nhưng sẽ là
hy vọng nếu biết vươn lên, cho dẫu hoàn cảnh có tuyệt vọng đi nữa thì ở đó vẫn
cứ sáng rỡ một niềm cậy trông.
Trọn trang Tin Mừng
hôm nay là một thách đố không nhỏ mà Gioan Tẩy Giả đã gặp phải: rao giảng về
một sự trừng phạt đến cận kề nhưng lại gặp phải sự chậm trễ; loan báo về Đấng
Cứu Thế như một vị Chúa oai phong đáng sợ nhưng lại thấy Chúa Giêsu chan hòa
nhân ái; công bố về thời mở cửa cứu độ nhưng chính mình lại bị cầm tù vào giữa
lúc mọi người xôn xao hạnh phúc. Đã có lúc nóng lòng chờ đợi như việc gửi môn
đệ đến chất vấn Chúa Giêsu qua đoạn Phúc Âm hôm nay, nhưng từ những thách đố
ấy, nơi Gioan Tẩy Giả đã chứng minh một niềm hy vọng kiên cường: ông không phải
là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là một tượng đài bất khuất
của lẽ cậy trông.
Niềm hy vọng chính là
sức mạnh hồng hào giúp Gioan Tẩy Giả và tất cả những ai đang gặp thách đố biết
kiên vững kinh qua tất cả.
Tóm lại, với hiệu quả
của niềm hy vọng là niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu, đời sống của tín
hữu đã được đặt vào một vận hành mới vươn tới một điều còn lớn lao hơn cả chính
nỗi niềm của mình. Đó không chỉ là chân lý cho trí ta đong đầy, không chỉ là
thiện hảo cho lòng ta mê thích, cũng không chỉ là nét đẹp cho mắt nhìn no thỏa
mà chính là một Đấng, Đấng ấy là Thiên Chúa hằng hy vọng vào ta.
Và như thế, thiết
tưởng đã đến lúc đặt ra vấn đề: liệu ta có niềm hy vọng ấy chưa?
Bài đọc thứ nhất nhắc
nhở “Đừng sợ”. Đừng sợ không có niềm hy vọng vì trước khi ta có thể hy vọng
thì Chúa đã hy vọng vào ta. Đó là một hồng ân. Cũng đừng sợ mình mất niềm hy
vọng như thể ta sống có một mình. Có một Đấng cùng sống với ta và Đấng ấy không
dễ gì để mất ta đâu. Cũng đừng sợ niềm hy vọng của ta sao quá nhạt nhòa, bởi hy
vọng là một công trình cả đời. Điều đáng sợ đáng ngại và đáng đau khổ nhất là
“thấy Thiên Chúa bị bóp chết trong một đời người”, nghĩa là người ta khước từ
hy vọng, bóp nghẹt hy vọng nhân danh sự tự do hoặc danh lợi thú.
Bài đọc thứ hai khuyến
khích “Hãy vui lên!” Vui vì ta là niềm hy
vọng trong mắt nhìn cứu độ của Thiên Chúa và đồng thời cũng là niềm hy vọng
thắp sáng cho anh em mình nữa, để không chỉ gây thắc mắc “nghĩ gì vui thế mà
cười một mình” như Trần Tiến trong ca khúc “Thành phố trẻ”, mà còn để chuyển
tải đến môi trường xung quanh một niềm vui chan hòa và chí bền chiến đấu.
Ai đã coi cuốn phim
“Cuộc đời Chúa Cứu Thế” chắc còn nhớ lúc kết, sau khi đã có biến cố lên trời và lời trao
sứ vụ đến với muôn dân, người ta cho xuất hiện trên màn ảnh một chân dung của
Chúa Giêsu thật lớn tươi cười với chiếc răng khểnh đàng hoàng. Không biết dụng
ý của đạo diễn thế nào, nhưng phải nói là có tác dụng phấn khích, vừa đem lại
nét tươi tắn cho cuốn phim, vừa đem đến niềm vui chan hòa hy vọng.
Mong rằng nụ cười thật
lạ ấy cũng trở thành niềm vui cho ta trên nẻo sống đức tin và thể hiện niềm hy
vọng. Được như thế, Chúa Nhật hôm nay đích thực là Chúa Nhật của niềm vui, và
Mùa Vọng cũng thêm sáng nghĩa là mùa màu hồng hy vọng thật đẹp thật
tươi thật nhiều nụ cười cho người người hạnh phúc.
6. Mạnh sức để đạt được Nước Trời – Anmai
Ai trong chúng ta cũng
hơn một lần cảm được cái nóng của thời tiết. Khi ấy, chỉ mong có một cơn mưa
làm dịu đi khí trời nóng bức. Khi nóng bức như vậy, ai cũng mong và thậm chí
cầu khẩn "ơn trên" để cho có mưa móc. Và, khi có mưa rồi thì niềm vui
khôn tả được bày tỏ.
Trong tâm tình chờ đợi
mưa móc đó, Isaia cho ta thấy niềm vui của những đồng cỏ cháy gặp được mưa: Vui
lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang, hãy mừng rỡ trổ bông,
hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Sa mạc được
tặng ban ánh huy hoàng của núi Li-băng, vẻ rực rỡ của núi Các-men và đồng bằng
Sa-ron.
Niềm vui mà Isaia nói
đây không chỉ dừng lại ở ơn mưa móc mà còn hơn thế nữa, đó là Đấng Công Chính -
Đấng Cứu Độ trần gian đến. Khi Đấng Cứu Độ trần gian đến thì muôn dân sẽ thấy
ánh huy hoàng của Đức Chúa.
Isaia nói tiếp: Thiên
hạ sẽ nhìn thấy ánh huy hoàng của Đức Chúa, và vẻ rực rỡ của Thiên Chúa chúng
ta. Hãy làm cho những bàn tay rã rời nên mạnh mẽ, cho những đầu gối bủn rủn
được vững vàng. Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ!
Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng
công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em." Bấy giờ mắt người mù mở
ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi
người câm sẽ reo hò. Vì có nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa
vùng đất hoang vu. Những người được Đức Chúa giải thoát sẽ trở về, tiến đến
Xi-on giữa tiếng hò reo, mặt rạng rỡ niềm vui vĩnh cửu. Họ sẽ được hớn hở tươi
cười, đau khổ và khóc than sẽ biến mất.
Cũng dễ hiểu niềm vui
mà Isaia nói vì không phải là mưa móc tự nhiên mà là Đấng Cứu Độ. Và vì thế,
niềm vui này là niềm vui khôn tả bởi lẽ khi Đấng Cứu Độ trần gian đến rồi thì
sẽ cứu muôn dân thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi. Và, khi đó, họ vui cười hớn
hở vì đau khổ và khóc lóc không còn nữa.
Và, như Gioan đã loan
báo, Đấng Cứu Độ trần gian đã đến trần gian.
Đấng Cứu Độ trần gian
đã đến không chỉ dọn lòng mà còn phải đương đầu với những thế lực đen tối mới
có thể gặp và đoạt được. Chúa Giêsu nói rõ trong Tin Mừng hôm nay: "Từ
thời ông Gioan Tẩy Giả cho đến bây giờ, Nước Trời phải đương đầu với sức mạnh,
ai mạnh sức thì chiếm được".
Trong chờ đợi, có
những người đã mất kiên nhẫn để rồi nản chí và khi nản chí rồi không đủ sức
mạnh để chiếm lấy Nước Trời. Thánh Giacôbê mời gọi ta sống tâm tình kiên nhẫn
trong thư của Ngài: "Thưa anh em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày
Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu
quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên
nhẫn và bền tâm vững chí, vì ngày Chúa quang lâm đã gần tới. Thưa anh em, anh
em đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, để khỏi bị xét xử. Kìa Vị Thẩm Phán đang
đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi
gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa".
Phận con người mỏng
dòn non yếu nên đôi khi đánh mất kiên nhẫn, đánh mất sự chờ đợi.
Thật sự thì Chúa đã
đến giữa cuộc đời ta rồi nhưng lòng ta không hân hoan để đón Chúa bởi lẽ đón
Chúa vào lòng ta thì làm sao ta sống như Chúa muốn được. Ta đã buông lòng ta
theo những cám dỗ của trần gian, của xác thịt để rồi chúng ta không đủ
"công lực" để đón Chúa nữa.
Cuộc sống, nhất là
ngày hôm nay giữa sóng xô của cuộc đời và ngày mỗi ngày con người tăng thêm
lòng ích kỷ, hờn ghen, chụp giật thì lại càng căng thẳng cho sự chiến thắng của
ta với những cám dỗ cứ bày ra trước mặt của ta. Phần con người, chúng ta dễ ngã
để đi tìm nhưng giá trị trần gian mau qua chóng tàn mà quên đi rằng quê hương
chúng ta ở trên Trời và chúng ta ngày mỗi ngày vẫn trông mong và chờ đợi.
Gioan Tẩy Giả cũng là
người mỏng dòn xác thịt và như Chúa Giêsu nói Gioan là người nhỏ nhất nhưng vì
Gioan biết tìm ai và chọn ai. Dĩ nhiên Gioan cũng phải đấu tranh với lòng mình
để khỏi phải thiệt thân, thiệt mạng của mình. Cũng chỉ vì sự thật, chân lý mà
Gioan đã bị chém đầu. Không giản đơn để chấp nhận cuộc xử trảm như Gioan. Chỉ
vì niềm tin vào Thiên Chúa đặc biệt qua Chúa Giêsu mà Gioan đã chấp nhận chém
đầu.
Cuộc chiến đấu mà
Gioan chiến đấu không phải là cuộc chiến đấu đơn giản nhưng là cuộc giằng co
kinh khủng trong cuộc đời. Gioan chiến thắng bởi vì Gioan từ ngày lọt lòng mẹ
cho đến ngày chết luôn luôn gắn kết với Chúa, kết hiệp với Chúa và đặc biệt
sống tâm tình khiêm hạ nhỏ bé.
Ngày mỗi ngày, chúng
ta đã vẫn phải chiến đấu giữa những phong ba bão táp của cuộc đời với Nước
Thiên Chúa. Tự sức người của ta chắc chắn ta sẽ không làm được nhưng nhờ ơn
Chúa giúp ta sẽ chiến thắng để đạt được Nước Trời như lòng Chúa mong muốn và
lời Chúa mời gọi.
7. Còn phải đợi ai?
(Trích từ ‘Manna’)
Suy Niệm
“Anh em ra xem gì
trong hoang địa?" Đức Giêsu đã ba lần đặt câu hỏi như thế. Hẳn không phải
để xem một cây sậy bị gió lay, vì Gioan chẳng phải là người dễ lung lay, khuất
phục. Cũng không phải để xem người mặc lụa là gấm vóc, vì Gioan chỉ có áo lông
lạc đà và dây lưng da. Nhưng để gặp một vị ngôn sứ cao trọng hơn cả, vì ông ở
đỉnh cao kết thúc Cựu Ước, đồng thời ông là người giới thiệu Đức Kitô cho dân
Israel.
Đối với ông, Đức Kitô
là Đấng mạnh mẽ. Ngài đến sau ông, nhưng mạnh hơn ông (x. Mt 3,11). Ngài như
người cầm rìu chặt mọi cây không sinh trái và quăng vào lửa (x. Mt 3,10). Ngài
còn như người cầm nia sàng sảy (x. Mt 3,12), thóc lép thì cho vào lửa, thóc mẩy
thì thu vào kho. Ngài sẽ thanh tẩy trong Thánh Thần và lửa (x. Mt 3,11).
Quả thực Ngài là vị
thẩm phán đáng sợ. Ngài trừng phạt tội nhân bằng ngọn lửa không hề tắt.
Khi ở tù, Gioan vẫn
nghe biết các việc Đức Giêsu làm. Thật chẳng có gì giống với những điều ông đã
loan báo. Ngỡ ngàng, hoang mang, ông sai môn đệ đến gặp Ngài.
Đức Giêsu kín đáo cho
thấy Ngài thật là Đức Kitô, vì Ngài làm ứng nghiệm những lời ngôn sứ Isaia loan
báo. Ngài không phải là một Mêsia đoán phạt, báo thù, nhưng là một Mêsia xót
thương cúi xuống người đau khổ.
Gioan đứng trước một
thách đố. Ông có chịu đổi quan niệm của mình về Đấng Mêsia không? Nếu không
đổi, ông chẳng thể nào đón nhận Đức Giêsu, Đấng mà ông đã giới thiệu là Kitô,
là Mêsia. "Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi."
Phêrô cũng đã vấp ngã
sau khi tuyên xưng đức tin. Ông không thể nào chấp nhận một Đấng Mêsia chịu đau
khổ. Giona cũng nổi giận, vì Thiên Chúa không phạt dân Ninivê như lời ông loan
báo (x. Ga 3,4; 4,1). Như thế cả Giona, Gioan hay Phêrô đều phải mở ra để đón
lấy Thiên Chúa bất ngờ.
Ngài không như điều ta
tưởng, thậm chí có khi Ngài ngược với điều ta rao giảng.
Gioan đã vượt qua
chính mình khi nói: "Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại" (Ga
3,30). Ông đã giới thiệu môn đệ và dân chúng đến với Đức Giêsu. Nhưng ông còn
phải vượt qua chính mình một lần nữa, khi chấp nhận thanh lọc cái nhìn của mình
về Đấng Mêsia.
Mùa vọng là thời gian
chờ đợi Chúa đến.
Ta nghĩ Chúa đến một
cách ồn ào, oai phong lẫm liệt, thì Ngài lại đến cách âm thầm lặng lẽ.
Ta tưởng Chúa đến qua
những đại lộ thênh thang, thì Ngài lại đến qua ngõ hẹp tăm tối.
Ta chờ Ngài những câu
trả lời, còn Ngài lại đặt câu hỏi!
Xin cho chúng ta đừng
đi tìm Ngài, khi Ngài đang ở kề bên.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa thích chơi
ú tim với con người. Ta tưởng Ngài ở đây, thì Ngài lại ở kia. Ngài luôn vượt
quá điều ta nghĩ về Ngài. Vậy theo ý bạn, làm sao gặp được Ngài?
Đức Giêsu đã kể ra
những việc Ngài làm để cho thấy Ngài thật là Đức Kitô (x. Mt 11,5). Theo ý bạn,
đâu là những việc bạn phải làm để cho thấy bạn là Kitô hữu thật sự?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn
gì, nhờ thế Nguời là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong
tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi
sự, và dâng Người tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn
gì, nhờ thế tôi không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc
trong tôi chẳng còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý
Người trong suốt đời tôi.
(R. Tagore)
8. Lộ tẩy – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong lễ kỷ niệm tròn
30 năm ngày cha xứ nọ về với xứ đạo, một chính khách hàng đầu của địa phương
được mời tới để đọc diễn văn.
Thế nhưng, vì ông ta
đến muộn nên linh mục quyết định nói đôi lời với các giáo dân để kéo dài thời
gian.
- Các con sẽ hiểu -
cha nói - ta có ấn tượng đầu tiên về xứ đạo này kể từ khi ta nghe lần thú tội
đầu tiên ở đây. Khi ta tới đây vào 30 năm trước, ta đã nghĩ rằng mình được bổ
nhiệm đến một nơi cực kỳ tệ hại. Người đầu tiên tới phòng xưng tội kể cho ta nghe
anh ta đã lấy cắp một cái tivi và khi cảnh sát tới anh ta đã giết người cảnh
sát. Hơn thế nữa, anh ta thụt két từ nơi làm của mình và chim chuột với vợ của
ông chủ. Các con có thể tưởng tượng là ta cảm thấy thế nào. Nhưng ngày tháng
trôi qua, ta dần hiểu rằng không phải tất cả mọi người đều như vậy, và ta có
một giáo xứ tốt với toàn những người đáng yêu và dễ thông cảm.
Ngay khi linh mục vừa
dứt lời thì chính trị gia tới, xin lỗi vì đã đến muộn. Ông ta ngay lập tức thực
hiện bài nói chuyện của mình.
- Tôi sẽ không bao giờ
quên ngày đầu tiên vị linh mục đã tới giáo xứ này. - Chính trị gia nói. - Bởi
vì, tôi có vinh dự là người đầu tiên đến xưng tội với ngài...
Thật xấu hổ khi tội
của mình bị phanh phui trước toàn dân thiên hạ. Thế nhưng, xét cho cùng ai mà
không có những lầm lỗi. Ai cũng có những yếu đuối. Ai cũng có những lầm lỡ. Ai
cũng từng sống trong tâm trạng hối tiếc về những việc mình đã làm. Có điều
chúng ta ít xấu hổ vì người ngoài không biết. Chúng ta thường rất khôn khéo
trong việc che đậy tội lỗi mình. Chúng ta tự an tâm trong vẻ giả tạo bề ngoài
của mình. Nhưng, dù sao nếu không sống thật với bản thân, con người cũng không
bao giờ bình an hạnh phúc, chỉ có sám hối chân thành mới mang lại niềm vui tâm
hồn.
Chúa nhật III mùa vọng
được gọi là Chúa nhật hồng. Đây là Chúa nhật của niềm vui vì giờ cứu độ đã gần
tới. Giờ của hân hoan, của hy vọng vì đã tới ngày Thiên Chúa viếng thăm dân
Người. Ngài đến không phải để kết án. Ngài không bẻ gãy cây lau bị dập. Ngài là
Thiên Chúa của yêu thương vì khi Người đến mắt người mù sẽ nhìn thấy, tai người
điếc được nghe, người câm nói được và người què nhảy nhót như nai. Ngài là
hoàng tử của bình an và hoan lạc. Ngài đến để giải thoát con người khỏi những
ràng buộc của tội lỗi. Ngài giúp con người khống chế những thói hư tật xấu để
sống tràn đầy niềm vui và bình an.
Gioan đã làm chứng về
Ngài khi mời gọi dân Người sửa lại lối sống cho phù hợp với tin mừng. Gioan mời
gọi dân người sám hối và canh tân đời sống. Chính Gioan đã sống một đời chứng
nhân khi ông rời xa chốn đô hội thị thành để sống trong hoang địa ăn chay nhiệm
nhặt. Gioan trở thành mẫu gương cho những người công dân Nước trời khi ông để
Chúa lớn lên còn mình thì nhỏ bé lại.
Xin Chúa cho chúng ta
luôn hưởng trọn niềm vui khi dám nói không với tội lỗi. Xin giúp chúng ta biết
sám hối ăn năn về những lầm lỗi của mình và quyết tâm canh tân đời sống cho phù
hợp với tin mừng. Chớ gì chúng ta luôn tràn ngập niềm vui khi để Chúa lớn lên
trong ta và loại bỏ những thói hư tật xấu ra khỏi cuộc đời chúng ta. Amen.
9. Nhẫn nại đón chờ Chúa đến
(Suy niệm của Lm. JB.
Hoàng Văn Khanh)
1. Gioan dọn đường
Bên bờ sông Giođan,
Gioan Tẩy Giả xuất hiện, rao giảng và làm phép rửa sám hối để dọn đường cho
Đấng Thiên Sai sắp đến, như lời ông tự giới thiệu :“Tôi làm phép rửa trong nước
để giục lòng sám hối; Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách
dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”(Mt 3,11). Sứ điệp
của ông về sự hoán cải thật đanh thép và minh bạch: “Lưỡi rìu đặt sẵn gốc cây;
cây nào không sinh quả tốt sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,10); “Người sẽ
cam nia rê lúa, thóc tốt sẽ thu vào kho và lúa lép sẽ quăng vào lửa” (Mt 3,12).
Theo ông, Đấng Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường sẽ xuất hiện như vị thẩm
phán chí công: tiêu diệt sự dữ, trả lại công bình cho những kẻ bị ức hiếp, cứu
thoát những ai khốn khổ và khai mở thời cánh chung tràn trề hoan lạc, như Isaia
đã từng loan báo (Is 35, 1-6.10). Ông nhiệt thành rao giảng và sung sướng chờ
đón ngày ấy chóng đến ! Và này, Chúa Giêsu xuất hiện. Ông đã làm chứng về Người
là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34), là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,36) và chỉ
cho mọi người biết đó chính là Đấng mà ông đã loan báo (Ga 1,29). Sau đó, ông
bị bỏ tù (Mt 11,2) vì đã can đảm làm chứng cho sự thật khi can ngăn nhà vua
Hêrôđê Agrippa không được lấy vợ của anh mình là Philippê (Mt 14,3-12). Sứ vụ
dọn đường của Gioan chấm dứt với việc ông vào tù, để bắt đầu sứ vụ của Chúa
Giêsu với việc Người chịu phép rửa và được tấn phong Mêsia ngôn sứ và vương đế
(x. Lc 3,19.21). Giai đoạn chuẩn bị kết thúc với Gioan Tẩy Giả, mở ra giai đoạn
mới: Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng và rao giảng Nước Thiên Chúa.
2. Chúa đã đến
Thật khác xa với những
gì mà Gioan đã quan niệm vì Chúa Giêsu đến không phải để đoán phạt nhưng để cứu
chữa những gì hư mất; Người không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu
gọi người tội lỗi (Mt 9,13). Người chính thật là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ
đã từng loan báo, như chính Người, trong buổi khai mạc sứ vụ tại Hội đường
Nadarét, đã áp dụng cho mình sấm ngôn Isaia chỉ về Đấng Thiên Sai(Lc 4,16-21).
Người quan tâm và yêu thương hết mọi người, đặc biệt những người khó nghèo và
tội lỗi là những hạng người bị xã hội ruồng rẫy và bỏ rơi. Người chữa lành các
bệnh nhân; và mỗi khi chữa lành bệnh phần xác, Người quan tâm hơn đến việc chữa
trị tâm hồn, nghĩa là giải thoát họ khỏi sự thống trị tội lỗi và đưa vào đời
sống ân tình với Thiên Chúa và tha nhân. Người hiền lành, khiêm tốn và hết tình
phục vụ: “Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến mạng sống
mình”. Mọi người từ khắp nơi tuôn đến để nghe Người giảng dạy và để được Người
chữa lành các thứ bệnh tật.
3. “Ông có phải là
Đấng phải đến...?”
Ngồi trong tù, Gioan
vẫn hướng lòng về Đấng Thiên Sai và chờ đợi thời mới. Khi được nghe biết về
những hoạt động của Chúa Giêsu, ông cảm thấy băn khoăn và hoang mang. Đấng
Thiên Sai mà ông có sứ mệnh dọn đường phải là Đấng đến để tiêu diệt sự dữ, tái
lập trật tự công lý và khai mở thời cánh chung. Đàng này Chúa Giêsu mà ông đã
từng làm chứng và chỉ cho mọi người biết lại cư xử hiền hoà, khiêm tốn, yêu
thương và tha thứ. Ông sai các đồ đệ đến hỏi Chúa Giêsu là Đấng phải đến, hay
còn phải đợi một Đấng khác.
Gioan nóng lòng chờ
đợi Đấng Mêsia, nhưng lại là một Mêsia theo quan niệm của các ngôn sứ thời
chuẩn bị, đồng thời cũng là quan niệm của người đương thời về một Mêsia chính
trị, đến để phục hưng dân tộc. Còn Chúa Giêsu, Người xác nhận mình là một Mêsia
mà các ngôn sứ đã từng loan báo: rao giảng Tin Mừng cho người nghèo, chữa lành
các bệnh tật, xua trừ ma quỷ ...., nhưng không phải là một Mêsia theo quan niệm
chính trị, mà là một Mêsia đến thiết lập vương quốc sự thật và yêu thương bằng
năng lực tình yêu và phục vụ, một Mêsia cứu độ nhân loại bằng con đường đau khổ
của người Tôi trung. Và đó chính là điều gây cớ vấp phạm cho nhiều người như
ông Simêon đã từng loan báo ngày Đức Maria dâng trẻ Giêsu vào Đền Thờ (Lc
2,34). Cách trả lời gián tiếp của Chúa Giêsu vừa là một trấn an Gioan, đồng
thời xác định cho ông biết Chúa Giêsu thực hiện công cuộc cứu độ nhân loại
không phải bằng con đường vinh quang, nhưng bằng con đường thương khó và tử nạn
như Isaia đã loan báo về người Tôi trung (Is 52,13-53,12). Cần nhìn vào các
việc Người đang làm mà coi đó như là những dấu chỉ để có thể nhận ra Người là
Đấng Mêsia.
4. Nhẫn nại đón chờ
Chúa đến
Trong một thời đại mà
xem ra sự dữ đang lấn lướt, công lý không được tôn trọng, người công chính
thường bị ghét bỏ và thua thiệt. Người tín hữu mong chờ Chúa đến để tiêu diệt
sự xấu và kẻ gian ác, thiết lập lại trật tự công bình, và khai trương thời đại
mới. Đó cũng chính là điều mà Gioan hằng nóng lòng chờ đợi. Thế nhưng, Thiên
Chúa đã mạc khải Ngai là Thiên Chúa hay thương xót, chậm giận và không chấp tội
(Xh 34,6-7). Chúa Giêsu đến loan báo Tin Mừng yêu thương và tha thứ. Người thiết
lập vương quốc tình yêu bằng sự phục vụ và tình yêu tự hiến. Vì thế, Người nhẫn
nại chờ mong con người hoán cải để ban ơn tha thứ (Lc 13,6-9). Thánh Phaolô coi
sự nhẫn nại là hoa trái của Thần Khí (Gl 5,20). Thánh Giacôbê khuyên dạy tín
hữu hãy kiên nhẫn đón chờ ngày Chúa đến, như người nông dân mong chờ mùa gặt
(Gc 5,7-10). Sự kiên nhẫn giúp thanh luyện và biểu lộ lòng trung thành, đồng
thời tạo điều kiện và thời gian cho kẻ tội lỗi biết hồi tâm sám hối.
5. Người nhỏ nhất
trong Nước Trời
Chúa Giêsu khen ngợi
Gioan: “Trong số những người nam đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn
Gioan Tẩy Giả”(Mt 11,11). Gioan cao trọng vì ông là vị ngôn sứ cuối cùng của
thời chuẩn bị cho Đấng Cứu thế, như sấm ngôn Malaki đã loan báo: “Này Ta sai sứ
giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta” (Ml 3,1). Không những dọn đường, Gioan
còn nhìn thấy, làm chứng và chỉ cho người khác khi Đấng Cứu thế xuất hiện.
Gioan đã sẵn sàng từ bỏ tất cả, chấp nhận cuộc sống khắc khổ trong hoang địa,
để chuẩn bị cho sứ vụ và để có thể toàn tâm toàn ý thực hiện sứ mệnh. Gioan đã
can đảm làm chứng và sẵn sàng chết để bảo vệ sự thật.
Gioan cao trọng thế
đó, nhưng Chúa Giêsu bảo: “Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông”.
Dù cao trọng, Gioan vẫn còn là người đang đứng bên ngưỡng cửa Nước Trời, như
Môsê xưa đứng ở ngưỡng cửa Đất Hứa. Kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời cao trọng hơn
ông vì được diễm phúc tham dự vào vương quốc do Chúa Giêsu thiết lập. Chỉ nhờ
lòng tin mà người ta mới có thể gia nhập Nước Trời và cũng chính đức tin mới
làm nên sự cao trọng đó, như bà Elisabeth đã từng khen ngợi Đức Maria: “Bà thật
có phúc vì đã tin... ” (Lc 1,45).
10. Kiên nhẫn đợi chờ!
(Trích từ ‘Bước Theo’
– Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Vâng! Kính thưa quý
vị, Mùa Vọng đã đi hơn nửa chặng đường, tâm tình Mùa Vọng cũng làm cho conngười
trĩu nặng, bởi đặc tính của nó. Chúng ta thấy ngay tâm tình đó của Gioan Tiền
Hô, người mang trọng trách loan báo Đấng Cứu Thế. Ông Gioan đang ngồi tù, chúng
ta biết: “nhất nhật tù....”, chúng ta hãy đặt mình vào hoàn cảnh hiện tại của
Gioan. Vâng, chính ông cũng nghĩ rằng: Đấng Cứu Thế sẽ đến trong uy quyền mạnh
mẽ, một dũng lực siêu phàm, đánh tan những thế lực chống đối. Nhưng, ông thấy
Đấng Cứu Thế, sao mà có vẻ yếu đuối thế, như vậy sứ mạng Tiền Hô của ông có lẽ
sẽ mai một chăng? Thật vậy, Gioan đang mang tâm trạng của những ai chưa biết về
Chúa Giêsu mà làm chứng về Người. Thật vậy, không ai có thể nói về Thiên Chúa,
mà không do Thánh Thần của Người. Thật vậy, đoạn Tin Mừng (Mt 11,2-11) hôm nay
có thể chia làm 3 phần:
- Ông Gioan Tiền Hô
muốn biết về Đấng Cứu thế (c 3)
- Chúa Giêsu khen
Gioan (c 9- 11a)
- Chúa Giêsu mặc khải
vể Nước Trời (11b -12).
Vâng, nhưng thật
ra,điểm chính của đoạn Tin Mừng hôm nay là sự so sánh giữa hai nhân vật, chính
là Gioan Tiền Hô và Đấng Cứu Thế.
Dù là rất thành công
trong sứ mạng Tiền Hô của mình, nhưng Gioan là một phàm nhân do lòng mẹ sinh
ra. Tuy nhiên, nhân vật Gioan hết sức khiêm tốn, ông luôn giữ đúng vị trí của
mình, không mạo nhận là Đấng Cứu Thế. Bản thân ông không làm được những điều kỳ
diệu. Vì vậy, khi nghe Chúa Giêsu làm những việc lạ thường, thì ông muốn xác
định cho rõ ràng, để khỏi nhầm lẫn.Chính ông cũng như bao nhiều người khác,
nghĩ rằng Đấng Cứu Thế xuất thân từ dòng dõi Vua Đavit, nghĩa là phải có binh
hùng, tướng mạnh. Chứ không lặng lẽ, âm thầm đến độ “tầm thường” như vậy. Nên
cho người đến hỏi thẳng Chúa Giêsu.Nhưng Chúa Giêsu không vỗ ngực xưng tên, mà
là trả lời một cách: “cứ nhìn quả thì biết cây”. Vâng, và Chuá Giêsu đã trả lời
cho môn đệ của Gioan bằng cánh nhắc lại lời của Isaia xưa: “Người mù xem thấy,
kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe Tin Mừng.” (c5).
Vâng! Đây chính là sự
khác nhau giữa Đấng Cứu Thế và Gioan Tiền Hô. Và cũng chính vì vậy, mà Chúa
Giêu đã khen Gioan, vì ông là người công chính, sự công chính của ông vượt trên
mọi sự công chính của phàm nhân. Điều nầy không phải do công trạng của Gioan,
mà là do chân lý của Thiên Chúa. Chúa Giêsu khen Gioan không phải vì Gioan,mà
là do bởi chương trình Cứu Chuộc của Thiên Chúa. Vì chính Gioan muốn xác định
Đấng Cứu Thế do chính bởi Đấng Cứu Thế.
Lại thêm một lần nữa,
Chúa Giêsu mặc khải về Nước Trời, theo đó, Chúa nói: “kẻ nhỏ bé trên Nước Trời,
thì còn cao trọng hơn Gioan...” (c 11b). Câu nầy không phải Chúa Giêsu muốn hạ
bệ Gioan, mà là Chúa muốn xác định sự thật. Câu nầy có hai ý quan trọng:
1/ Cho muôn thế hệ
hiểu về Nước Trời. Nước Trời là một điều gì đó mạnh mẽ hơn, cố gắng hơn và cam
go hơn. Có nghĩa là Nước Trời là một sự phấn đấu không dừng. Vì thực sự Gioan
không phải là siêu phàm, mà cũng chỉ là một phàm nhân. Nhưng “phàm nhân ấy”
trổi vược trên thảy phàm nhân, phàm nhân trên hết phàm nhân. Những kẻ nhỏ bé
trên Nước Trời là sự siêu phàm. Mặc nhiên siêu phàm thì hơn phàm nhân.
2/ Theo đó, Nước Trời
dành cho những ai “mạnh sức”, vì phải chiến đấu cam go. Nhưng như thế, liệu có
mâu thuẫn với sự nhỏ bé không? Thưa không, vì sao? Thưa vì, sự nhỏ bé về hình
thể cũng như kích thước trên Nước Trời không giống như trần thế. Như gương
Thánh nữ Teresa Hài Đồng chẳng hạn.
Và như vậy, vấn đề mà
Gioan thắc mắc về Đấng Cứu Thế, đã được giải đáp qua câu Lời Chúa nầy.
Như vậy, ba bài đọc
Thánh Kinh hôm nay trình bày ý nghĩa của tâm tình Mùa Vọng tuần thứ III đó là:
Mong đợi Thiên Chúa,
hay là mong đợi ơn Cứu Chuộc là một hành trình tiệm tiến. Tiến một cách dần dần
theo Thiên định chứ không theo ý muốn của loài người.
Thiên Chúa đã hiện
diện trong thế gian bằng mầu nhiệm Nhập Thể Hữu Hình, để thu về những linh hồn
nhỏ bé trong Nước Trời. Theo đó, ngày quang lâm chung cũng như riêng của từng
cá nhân sẽ đến, hoặc ngay hôm nay, hoặc ngày mai. Ngày mà Đấng Cứu Độ sẽ không
đến như lần thứ I, mà là sẽ đến trong vinh quang của Thiên Chúa. Sự đợi chờ
kiên nhẫn, là sự bình an của Thiên Chúa.
Tâm trạng của Gioan
cũng là tâm trạng của người Dothai mang đợi ĐẤNG Cứu Chuộc đến. Lời giáo huấn
của thánh Giacobe Tông Đồ (Gc 5, 7 -10) hôm nay, nhắc nhở cho chúng ta về sự
kiên nhẫn đó. Sự kiên nhẫn đón chờ Chúa đến lần thứ II trong cuộc đời mỗi
người, là một sự mong chờ đích thực vậy. Đây là một Mùa Vọng duy nhất.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa
đã đến lần thứ I, mang lấy sự yếu hèn của nhân loại, đó là mặc lấy kiếp phàm
nhân, để cứu chuộc phàm nhân. Từ hang đá Bethlehem, đến hành trình Nhập Thế ba
mươi ba năm, và sau cùng chịu tử nạn trên Thập Gía. Ôi! Tất cả Hành Trình đó là
để giải thoát con người khỏi tội lỗi. Xin Chúa thương ban cho con người biết
nhận ra tình Chúa cao vời, mà đáp đền muôn một, bằng cách nhận ra tình Chúa đối
với nhân loiại, để họ được sống và sống dồi dào. Amen
11. Hãy để việc làm minh chứng về
Ta
(Suy niệm của Lm.
Ignatio Trần Ngà)
Chỉ có nếp sống yêu
thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người thấy họ
thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu.
Qua lời rao giảng của
mình, ông Gioan đã từng loan báo về Đấng Cứu Thế sẽ đến như là vị thẩm phán uy
nghi đáng sợ; Ngài đến để xét xử và trừng trị nghiêm khắc những lỗi phạm của
con người. Ông gióng lên những lời răn đe nẩy lửa: “Chiếc rìu đã kề sẵn gốc
cây, cây nào không sinh trái sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa… Ngài cầm nia trong
tay mà sẩy sân lúa của Ngài, lúa tốt thì cho vào kho, còn lúa lép thì đốt đi
trong lửa không hề tắt” (Mt 3, 10.12).
Vậy mà từ bấy lâu nay,
Gioan chưa từng thấy Chúa Giêsu trừng phạt bất cứ tội nhân nào; chưa thấy Ngài
kê “rìu” để đốn hạ những “cây không sinh trái”; chưa từng thấy Ngài loại trừ
phường gian ác như những thứ “lúa lép” và “thiêu đốt họ trong lửa không hề
tắt”…
Ngoài ra, theo như
mong đợi của dân Do-thái, khi Đấng Cứu Thế đến, Ngài sẽ tiêu diệt quân thù,
giải thoát những ai bị giam cầm tù tội… Vậy mà Chúa Giêsu đâu có đánh đuổi quân
xâm lược Rô-ma, chưa thấy Ngài giải thoát kẻ bị xiềng xích tù đày…
Thế là trong tâm tư
của ông Gioan phát sinh một nghi vấn. Vì vậy, ông phái các môn đệ đến gặp và
hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là
chúng tôi còn phải đợi ai khác?”
Trước câu hỏi của
Gioan, Chúa Giêsu không dùng lời nói nhưng dùng chính việc làm để minh chứng về
mình, như có lần Ngài đã nói: “Công việc tôi làm nhân danh Cha tôi làm chứng về
tôi (Gioan 5, 36).
Vì thế, Chúa Giêsu chỉ
cho các môn đệ của Gioan thấy những việc Ngài đang làm và bảo họ: “Các anh cứ
về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ
què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo được nghe Tin Mừng…”
Từ ngàn xưa, Ngôn Sứ
I-sa-i-a đã tiên báo rằng khi Đấng Thiên Sai đến, Ngài sẽ cho “người mù được
thấy, người điếc được nghe, người què sẽ nhảy như nai…” (Is 35, 10…).
Gioan là người am hiểu
lời các lời ngôn sứ tiên báo về Đấng Thiên Sai và thấy rằng Chúa Giêsu đã thực
hiện đúng như lời ngôn sứ I-sa-i-a đã tiên báo như trích dẫn trên đây, tất
nhiên Gioan biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai mà ngôn sứ I-sa-i-a đã
loan báo.
Như vậy, chính việc
làm của Chúa Giêsu minh chứng cho biết Ngài là Đấng cứu thế.
Hôm nay, người đời
cũng thường chất vấn chúng ta như xưa kia, môn đệ của Gioan đã từng chất vấn
Chúa Giêsu. Họ hỏi chúng ta: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu không?”
Trước câu hỏi nầy,
chúng ta không thể đáp gọn: “Phải, tôi chính là môn đệ của Thầy Giêsu”, vì một
câu trả lời suông mà chẳng dựa trên cơ sở nào cả thì chẳng thuyết phục được ai.
Người khôn ngoan và
thận trọng không dễ tin vào lời tự khẳng định của người khác nhưng căn cứ vào
việc làm. Chính việc làm của từng người sẽ chứng tỏ cho người khác biết bản
chất của người đó.
Thế thì, trước câu
hỏi: “Bạn có phải là môn đệ của Chúa Giêsu không”, chúng ta cần dựa vào câu đáp
của Chúa Giêsu trước thắc mắc của các môn đệ Gioan, (Ngài nói: “Hãy về thuật
lại cho ông Gioan những gì tôi đã làm…”) để đáp lại như sau: “Các bạn hãy xem
công việc tôi làm… Các bạn cứ nhìn vào lối sống của tôi thì biết…
Đúng vậy, chỉ có nếp
sống yêu thương, phục vụ, hy sinh của các Kitô hữu mới chứng tỏ cho mọi người
thấy họ thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu, như Lời Ngài dạy: “Người ta cứ dấu
nầy mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau” (Gioan 13,
35).
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con biết
sống thế nào để cho việc làm của chúng con không tố cáo chúng con là người môn
đệ giả, nhưng luôn minh chứng cách thuyết phục rằng chúng con đích thực là môn
đệ chân chính của Chúa. Amen.
(Suy
niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Bước
vào Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, Lời Chúa mời gọi chúng ta: «Hãy tỉnh thức» (Mt
24, 44). Sang Chúa nhật thứ II, tiếng hô lớn của Gioan Tẩy Giả vọng vang:
"Hãy ăn năn thống hối, vì nước trời gần đến". Chúa nhật thứ III hôm
nay, Phụng vụ Giáo hội đang màu tím chuyển sang hồng như Chúa nhật IV Mùa Chay,
đánh dấu một giai đoạn sám hối, nay nghỉ một chút để nhìn lại chặng được đã qua
với niềm vui vì những gì đã đạt được, lấy thêm đà mới chuẩn bị mừng (Chúa Giáng
Sinh), Giáo hội mời gọi con cái mình «Gaudete» Hãy vui lên.
Vui
lên, vì theo tiên tri Ôsê loan báo: "Với Ít-ra-en Đức Giêsu sẽ như làn sương
mai làm nó vươn lên như bông huệ" (Os 14, 6). Chúng ta tỉnh thức, làm việc
lành chứng tỏ lòng thống hối nhưng không buồn rầu, trái lại vui tươi "anh
em hãy vui luôn trong Chúa...vì Chúa đã gần đến" (Ph 4,4-5). Với những lời
trên của Thánh Phaolô Tông Đồ làm tâm hồn chúng ta rạo rực hẳn lên. Niềm vui
này nảy sinh từ cuộc gặp gỡ với con người sinh động là Chúa Giêsu.
"Gaudete"
là chủ đề của Chúa nhật này; " Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc
lại một lần nữa: anh em hãy vui lên!" (Ph 4,4-5). Lời nguyện nhập lễ hôm
nay đưa chúng ta vào chính niềm vui thiêng thánh ấy: "Lạy Chúa, xin đoái
xem, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Đấng Cứu Thế.
Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh
cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới mà họp mừng ngày cứu độ đã gần
kề".
Chúng
ta bước vào mầu nhiệm của niềm vui ơn cứu độ: "Các tầng trời, hãy trổ hoa
công chính, và ngàn mây hãy mưa ơn cứu độ! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho
Sion, hãy trèo lên núi cao! Hỡi ngươi là kẻ đưa tin mừng cho Giêrusalem, hãy
mạnh dạn cất tiếng! Hãy cất tiếng cao đừng sợ, hãy nói cho các dân thành thuộc
chi họ Giuđa rằng: Đây Thiên Chúa các ngươi, đây Chúa là Thiên Chúa các ngươi
sẽ đến trong quyền lực" (Is 40, 9).
Làm
sao không thể không vui khi nghe những lời loan báo đầy niềm vui của Isaia:
"Hãy nói với những kẻ nhát gan: "Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của
anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội.
Chính Người sẽ đến cứu anh em." (Is 35, 4) Và làm sao không thể không mừng
khi "nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan và nở
bông dường như khóm huệ, sẽ nẩy chồi non và hoan hỉ vui mừng" (Is 35, 1).
Lại nữa: "Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ
được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu
chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ
triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết
sẽ trốn xa" (Is 35, 6).
Đọc Trang
Tin Mừng, chúng ta bắt gặp một nhân vật có vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị
đón Chúa Giêsu giáng sinh đến với nhân loại là Gioan Tẩy Giả. Ngài xuất hiện
trong tư cách là vị tiên tri cuối cùng của Cựu Ước, là hy vọng cuối cùng của
một dân tuyệt vọng. Ngài được các tiên tri báo trước: "Này Ta sai sứ thần
Ta đi trước mặt con, người sẽ dọn đường cho con đi" (Mt 11, 10). Chúng ta
đang vui sẵn, sự xuất hiện của ngài làm cho chúng ta vui thêm, vì lời hứa đã
trở thành hiện thực. Việc ngài sai các môn đệ đến hỏi Đức Giêsu có phải là Đấng
phải đến không cho chúng ta câu trả lời đầy niềm vui vì Chúa đã đến thật rồi.
"Gaudete"
Hãy vui lên, chúng ta lặp lại lời thánh Phaolô lần nữa: "Anh em hãy vui
lên!" (Ph 4,4). Niềm vui chân thực không phải là kết quả sự vui chơi giải
trí, nhưng gắn liền với một cái gì sâu xa hơn, đó là quan hệ với Thiên Chúa. Ai
đã gặp được Chúa Kitô trong cuộc đời, người ấy sẽ cảm nghiệm sự thanh thản và
niềm vui trong tâm hồn mà không một ai hoặc hoàn cảnh nào có thể tước mất.
Thánh Augustinô đã hiểu điều đó rất rõ. Trong cuộc tìm kiếm của ngài đối với
chân lý, an bình và mừng vui, sau khi đã kiếm tìm trong nhiều sự mà không có
kết quả, thánh nhân đã kết luận với câu thời danh rằng: "Tâm hồn bất an
của con người chỉ tìm được thanh thản và an bình cho đến khi được an nghỉ trong
Chúa" ( Le Confessioni, I,1,1). Niềm vui đích thực không phải chỉ là một
tâm trạng chóng qua, cũng chẳng phải là điều ta đạt tới bằng sức riêng của
mình, nhưng là một hồng ân, nảy sinh từ sự kiện ta dành chỗ cho Chúa trong
chúng ta, Trong mùa vọng này, chúng ta hãy củng cố xác tín Chúa đã đến giữa
chúng ta và tiếp tục đổi mới sự hiện diện an ủi, yêu thương và vui mừng của
Ngài. Chúng ta hãy tín thác nơi Chúa; như thánh Augustinô cũng đã quả quyết, do
kinh nghiệm của ngài: "Chúa gần chúng ta hơn chúng ta gần chính mình"
(Le Confessioni, III, 6,11).
Chúng
ta hãy phó thác hành trình của chúng ta cho Đức Maria, thần trí của Mẹ đã vui
mừng trong Chúa là Đấng Cứu Thế. Xin Mẹ hướng dẫn tâm hồn chúng ta trong sự vui
mừng chờ đợi Chúa Giêsu đến, một sự chờ đợi đầy kinh nguyện và việc lành. Amen.
13. Vững tâm – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Vào một ngày đẹp trời,
có một ông cụ ngồi trên ghế xích đu vẻ đăm chiêu, lòng mong đợi Chúa đến. Tình
cờ một bé gái tung banh rơi vào sân nhà ông. Cô bé chạy lại nhặt trái banh và
mở lời làm quen: “Thưa ông, ngày nào ông cũng ngồi trên ghế này, ông đang chờ
đợi ai vậy?” Ông nói: “Cháu còn quá nhỏ làm sao hiểu được điều ông mong đợi.”
“Ông à, mẹ cháu nói rằng nếu có điều gì trong lòng, thì hãy nói ra mới hiểu rõ
hơn.” Nghe cô bé nói thế, ông liền thổ lộ tâm tình: “Ông đang chờ đợi Chúa
đến.” Cô bé kinh ngạc, ông già giải thích: “Trước khi nhắm mắt, ông muốn tin
chắc rằng có một Thiên Chúa hiện hữu. Ông cần một dấu hiệu, cháu à.” Bấy giờ cô
bé lên tiếng: “Ông chờ một dấu hiệu hả? Thưa ông, Chúa đã cho ông dấu hiệu rồi:
Mỗi khi ông hít thở không khí, nghe tiếng chim hót, nhìn hạt mưa rơi… Chúa cho
ông dấu hiệu trong nụ cười trẻ thơ và trong nước mắt người đau khổ. Ông ơi,
Chúa ở trong ông. Chúa ở trong cháu. Chúa luôn hiện diện nơi đây.”
Thiên Chúa vô hình
hiện diện mọi nơi và trong mọi lúc. Thiên Chúa luôn đồng hành với dân Ngài đã
chọn để chuẩn bị đón nhận ơn cứu độ. Mầu nhiệm về Thiên Chúa Ngôi Hai được hé
mở từng bước. Trải qua lịch sử cứu độ, dân chúng luôn khao khát mong chờ một
chung cục được tự do giải thoát. Qua từng giai đọan, Thiên Chúa đã sai các tiên
tri đến kêu gọi lòng trung tín, sự phấn chấn và khuyến khích hướng dẫn dân
chúng. Tiên tri Isaia đã khơi dậy niềm hy vọng: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui
mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan.” (Is 35,1). Hình ảnh cảnh hoang địa trơ trọi,
khô cằn và cạn nguồn mong đợi suối nguồn sự sống. Isaia khơi lên tia hy vọng
của sự vui mừng và hân hoan. Dân Chúa phải trải nghiệm nhiều thăng trầm khổ ải
qua các thế hệ để mong chờ Đấng Cứu Thế đến. Isaia loan báo: “Hãy can đảm lên,
đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa
sẽ đến và cứu độ các ngươi.” (Is 35,4).
Trong bất cứ một dự
kiến nào muốn đạt kết quả tốt, chúng ta đều phải kiên nhẫn đợi chờ mọi sự diễn
tiến. Vấn đề niềm tin sống đạo cũng thế, chúng ta không thể cắt bớt thời gian.
Sự gì đến ắt sẽ đến. Thánh Giacôbê nhắc nhở các tín hữu: “Anh em hãy kiên nhẫn
chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng
ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu.” (Gc 5,7). Hình ảnh của bác nông
phu nơi ruộng rãy cày bừa và trồng trọt là hình ảnh rất đẹp và chính xác. Chính
xác cả về phẩm lẫn lượng, cả về thời gian và không gian. Kiên nhẫn đợi chờ là
một đức tính tốt trong đời sống đạo. Mọi sinh họat của đời sống Giáo Hội trên
trần thế cần phải được thử thách, tôi luyện để phát triển và trưởng thành. Thời
gian là của Chúa. Mầu nhiệm ơn cứu độ được lồng vào đời sống của con người theo
sự phát triển tự nhiên của xã hội loài người. Chúng ta không thể đi những bước
nhảy vọt trong cuộc sống đạo nhưng phải kiên trì phấn đấu từng bước.
Sự kiên tâm sống đạo
đòi hỏi mỗi tín hữu phải cố gắng không ngừng. Mời gọi tu tâm luyện tính và tập
tành các nhân đức trong đời sống hằng ngày. Đời sống đạo, nếu chúng ta không
gieo, lấy gì mà gặt. Trong Giáo Hội có biết bao nhiêu dòng tu, tu hội và hội
đoàn, các tu sĩ nam nữ miệt mài thanh luyện đời sống trong cầu nguyện và tu
thân để nên trọn lành. Là người tín hữu cũng thế, chúng ta cần trải nghiệm
những thử thách, phấn đấu, kiên trì sống đạo và hành đạo. Không hy sinh khổ
luyện, làm sao có thể vững bước trên đường nhân đức. Chúng ta đừng nhẹ dạ để
rơi vào những hình thức kéo lôi phù phiếm và cảm xúc nhất thời. Muốn được lãnh
nhận ân sủng của Chúa, chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thanh sạch, sống đời ngay
thẳng và thực hành tin yêu. Nếu chúng ta chỉ cậy dựa vào những nghi thức bề
ngoài thì không thể sinh hiệu quả biến đổi nội tâm. Trong hiện tại có nhiều
khuynh hướng hành đạo giống như kiểu ‘mì ăn liền’. Họ nghĩ rằng cứ thực hành đủ
các thủ tục nghi thức là đương nhiên sẽ nhận ân sủng nhãn tiền. Sự kiên trì tin
đạo, sống đạo và hành đạo trưởng thành đòi hỏi niềm tin và cam kết nhiệt thành.
Chúng ta cần vun xới và củng cố lòng tin qua mọi biến cố cuộc đời.
Ông Gioan Tẩy Giả đang
bị giam giữ cũng nóng lòng muốn biết Chúa Giêsu có chính thật là Đấng Cứu Thế
hay không. Ông sai môn đệ đến thưa Chúa Giêsu: “Thầy có phải là Đấng phải đến
chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,2). Ông Gioan muốn các
môn đệ của mình nhận biết Chúa Giêsu. Câu trả lời của Chúa không chỉ cho riêng
ông Gioan, nhưng cho các môn đệ của ông. Các ông đã an tâm nhận diện ra sứ mệnh
và vai trò của Chúa Giêsu trong công cuộc cứu độ qua các dấu chỉ: Chúa Giêsu bảo
họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được
thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người
chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó.” (Mt 11,4-5). Chúa
Giêsu đã hoàn tất mọi lời mà các tiên tri đã loan báo về Ngài.
Các dấu hiệu từ trời
cao với quyền năng của Chúa đã đem lại hiệu qủa thực sự biến đổi môi trường và
chữa lành toàn diện con người. Suốt dọc lịch sử nhân loại, từ tạo thiên lập
địa, ngoài Chúa Giêsu Kitô, không có vị nào có thể trực tiếp thực hiện các phép
lạ từ chính sức mạnh nội tâm của mình. Biết rằng đôi khi Thiên Chúa cũng trao
ban các đặc sủng cho một số vị tổ phụ và các thánh như Thánh Gioan Vianney, Piô
Năm Dấu quê ở Pietrelcina, Antôn Pađua, Vinh Sơn Ferrier…, các ngài có thể thực
hiện một số việc lạ lùng trong giới hạn. Các thánh sống là những người có đời
sống kết hợp sâu xa, chuyên tâm ăn chay, cầu nguyện và chìm đắm trong ân sủng
của Chúa. Những trường hợp có sự lạ ngoại thường này cũng rất hiếm xảy ra trong
đời sống Giáo Hội. Các phép lạ của Chúa Giêsu là dấu chỉ của Tin Mừng cứu độ.
Tuy nhiên, qua mọi thời, đều có những người tự thần thánh hoá chính mình để
chiêu hồn người khác. Họ cũng không khác gì các tiên tri giả và những nhà làm
ảo thuật đại tài dùng kỹ xảo để dễ dàng qua mắt mọi người. Chúng ta phải luôn
cảnh giác và tỉnh thức học hỏi kỹ lưỡng những hình thức mị dân này. Họ không
phải là Chúa có uy quyền biến đổi chữa lành thân xác và linh hồn, mà chỉ có thể
tạo gây cảm giác thân, sinh, lý và xúc động tâm linh nhất thời chóng qua.
Chúa Giêsu xác nhận
Gioan Tẩy Giả là vị tiền hô dọn đường: “Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một
tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: ‘Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt
con, để dọn đường sẵn cho con.’” (Mt 11,10). Gioan được vinh dự giới thiệu Chúa
Giêsu cho dân chúng: Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Biết
bao người đã nghe Chúa giảng, gặp gỡ và nhận lãnh các dấu lạ nhưng có mấy người
nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Trong đám đông theo Chúa, có người chỉ tò
mò nhìn xem cho biết, có người chỉ muốn được nhận lãnh ân huệ và có người ùa
theo đám đông vì hiếu kỳ. Đâu có mấy người thực sự muốn đi theo Chúa để thực sự
đổi đời và canh tân cuộc sống. Xưa cũng như nay, tâm trạng của chúng ta cũng
chẳng khác gì dân Dothái xưa. Chúng ta nghe, đọc, viết và suy gẫm thật nhiều
lời của Chúa, các giáo huấn của Giáo Hội và chứng kiến biết bao sự lạ lùng
trong cuộc sống nhưng mấy ai tin theo Chúa cho trọn.
Lạy Chúa, đời sống đạo
của chúng con hầu như vẫn cứ dậm chân tại chỗ. Tinh thần thì nguội lạnh và mệt
mỏi, còn thân xác nặng nề và yếu đuối kéo lôi chúng con lùi bước. Chúng con chỉ
tìm kiếm sự hơn thua ở đời trọc này mà quên đi sứ mệnh cao cả là mong tìm ơn
cứu độ. Thánh Giacôbê nhắc nhở: “Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải
bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa.” (Gc 5,9).
14. Bạn đang vui hay đang buồn?
(Trích “Tin Vui Xuân
Lộc”)
Thưa quý OBACE
Cuộc sống xã hội ngày
hôm nay đang quá ồn ào náo nhiệt, mọi hình thức vui chơi được bày ra để lôi kéo
các tầng lớp trong xã hội, từ những trò chơi game show dành cho mọi lứa tuổi,
đến các hình thức tụ điểm vui chơi thu hút giới trẻ, các khu du lịch, các câu
lạc bộ… tất cả đểu muốn đem lại niềm vui cho con người. Nhưng điều đó
lại chứng tỏ rằng cuộc sống ngày nay có quá đầy đủ vật chất, nhưng dường như
con người vẫn cảm thấy buồn sầu, lo âu. Vì cuộc sống quá buồn tẻ trống rỗng nên
dẫn đến tình trạng đánh bài cho vui, uống rượu cho vui và nhiều cách chơi bời
tìm vui khác, thế nhưng sau những cuộc vui ấy, người ta lại càng cảm thấy mình
trống rỗng và buồn chán hơn.
Hôm nay bước vào tuần
lễ thứ ba Mùa Vọng Lời Chúa mời gọi mọi người: Hãy vui lên anh em, tôi nhắc lại
một lần nữa anh em em hãy vui lên. Lời mời gọi này có dư thừa hay không?
Những niềm vui mà ngày
nay xã hội đang tạo ra, nó chỉ là những thứ niềm vui ồn ào ở bên ngoài, đôi khi
có một chút ảnh hưởng đến cảm giác và cảm xúc của con người, những niềm vui này
sẽ mau chóng tan biến khi cuộc vui đã tàn. Còn niềm vui của của Chúa đem đến là
niềm vui sâu xa phát xuất từ bên trong tâm hồn được lan tỏa ra bên ngoài và có
ảnh hưởng trên hành động của con người. Với niềm vui phát xuất từ trong tâm
hổn, nó sẽ làm cho con người được hạnh phúc và bình an, cho dù bên ngoài có
đang gặp nghịch cảnh.
Tiên tri Isai giới
thiệu cho chúng ta một niềm vui, đó là niềm vui được giải thóat, được cứu độ.
Bằng rất nhiều hình ảnh, tiên tri Isai đã gợi lên cho chúng ta thấy, ngày Thiên
Chúa đến, Ngài sẽ giải thoát và biến đổi chúng ta khỏi sư khô cằn chết chóc,
như hoang địa đón được mưa trời, như cây cối vũ trụ mong chờ mùa xuân sau một
mùa đông băng giá và nhanh chóng sẽ trổ sinh hoa lá mới và đem lại hương sắc và
hồi sinh cho trái đất, thì ngày Thiên Chúa đến, Ngài cũng sẽ biến những tâm hồn
khô cằn thành mảnh đất màu mỡ, biến cuộc đời héo tàn trổ sinh hoa lá mới.
Tiên tri còn cho thấy
niềm vui sâu xa mà Thiên Chúa mang đến, đó chính là niềm vui vì có sự hiện diện
của Chúa trong mỗi tâm hồn, có Ngài, Ngài sẽ ban sức mạnh để chúng ta không còn
sợ hãi, Ngài sẽ giải cứu con người khỏi sự ràng buộc của đau khổ bệnh tật và
chết chóc, là những thứ vốn gây lo âu buồn sầu cho con người. Thiên Chúa cũng
sẽ tái lập lại sự công bình cho xứ sở, Ngài sẽ mở mắt cho người mù, mở tai cho
người điếc, chân người què sẽ được chữa lành, và mọi người sẽ sung sướng hò
reo, đó là niềm vì Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự.
Bài Tin Mừng chỉ cho
chúng ta một khía cạnh khác của niềm vui sâu xa trong tâm hồn đó là chúng sẽ
cảm nhận niềm vui vì đã sống đúng với ơn gọi và hoàn tất sứ mạng của mình. Câu
chuyện xảy ra là khi Gioan đang bị cầm tù, ông nghe nói về Đức Giêsu, ông sai
các môn đệ đến hỏi Chúa: Thày có phải là Đấng phải đến hay chúng tôi phải đợi
ai khác? Có lẽ không phải Gioan nghi ngờ về vai trò Chiên Thiên Chúa của Đức
Giêsu, nhưng vì có lẽ vì ông sốt ruột muốn sớm nhìn thấy ngày Đức Giêsu tỏ vinh
quang là một vị Thiên Chúa, và hơn nữa, ông cũng muốn cho các môn đệ của ông
được gặp gỡ tiếp xúc với chính Đức Giêsu, để nhờ cuộc gặp gỡ này họ sẽ có kinh
nghiệm và niềm vui gặp gỡ với Thiên Chúa. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của
Gioan: Các anh hãy về và nói với Gioan những gì đã xem thấy: người què được đi
người mù được sáng. Khi nói như thế, thì chắc chắn Gioan sẽ hiểu được lời tiên
tri Isai nói về thời đại của Đấng Mêsia nay đã đến. Như thế, dù thân xác có bị
cầm tù thì Gioan vẫn vui vì sứ mạng dọn đường của ông đã hoàn tất.
Nói về Gioan Tẩy giả,
Chúa Giêsu đã ca ngợi ông và còn cho thấy nơi Gioan như một con người có một
tâm hồn thật đẹp, một tâm hồn thanh thoát không bị dính bén lệ thuộc vào của
cải vật chất và danh vọng. Gioan đã chọn một cuộc sống nhiệm nhặt nghèo khó,
thay vì tìm kiếm sự xa hoa thì ông lai lui vào sống nơi hoang địa, Vì thế Gioan
vui với nhiệm vụ của mình, với sứ mạng của mình. Ông vui vì ông biết điểm dừng
của mình, cho dù có lúc dân chúng tuốn đến với ông rất đông, có lúc người ta đã
coi ông như là đấng Mêsia, thế nhưng Gioan không ảo tưởng về mình, nên ông chấp
nhận rút lui để nhường chỗ cho Ngài phải lớn lên còn tôi thì nhỏ lại. Gioan đã
biết lui vào hậu trường và vui vì mình đã cống hiến, đã hoàn thành nhiệm vụ
thay vì tìm kiếm danh vọng quyền lực; kể cả những môn đệ cuối cùng của mình
Gioan cũng không muốn giữ lại để họ phục vụ ông, mà hôm nay ông đã giới thiệu
họ đến gặp Đức Giêsu, và để họ có những kinh nghiệm về Đức Giêsu và nên môn đệ
Đức Giêsu.
Thưa quý OBACE, như
thế, giữa một cuộc sống buồn chán tẻ nhạt hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta
vui, không chỉ vì những vẻ từng bửng bên ngoài, cũng không chỉ là những cảm xúc
vì bầu khí lễ Giáng sinh đang tới, mà Giáo Hội muốn chúng ta vui với niềm vui
phát xuất từ trong tâm hồn, niềm vui vì nhận ra sự hiện diện và đồng hành của
Chúa, niềm vui vì chúng ta là những người được Chúa cứu độ, và vui vì chúng ta
chu toàn nhiệm vụ Chúa trao. Đó mới là niềm vui đích thật và chỉ có niềm vui đích
thật này mới làm cho cuộc sống chúng ta tươi vui, hạnh phúc.
Trong bầu khí của năm
Gia đình sống và Loan báo tin Mừng, trước hết các bậc làm cha mẹ được mời gọi
hãy sống vui trong bổn phận là vợ chồng, là cha mẹ của mình. Nhiều gia đình
ngày nay đã trở nên nhàm chán buồn bã, để có thể tìm lại niềm vui thì cha mẹ sẽ
phải là những người sống niềm vui mà hôm nay Lời Chúa đã chỉ cho chúng ta, và
làm cho niềm vui này lan tỏa trong gia đình. Hãy vui vì chúng ta được làm con
cái Thiên Chúa, hãy đem Chúa vào trong đời sống của gia đình qua các giờ kình
sớm tối, qua những phút cầu nguyện trước bữa ăn mỗi ngày hãy làm việc hằng ngày
trong sự hiện diện của Chúa, vì có Chúa luôn ở bên chúng ta. Rượu chè, cờ bạc,
cá độ không thể giải sầu, không thể đem lại niềm vui, vì thế đừng tìm vui trong
rựou, đừng giải sầu trong bài bạc, vì những thứ đó chỉ đem đến bất hòa và đổ
vỡ, chứ không thể đem đến niềm vui và bình an. Hãy đem đến cho vợ chồng con cái
những nụ cười thay những chửi bời, các người vợ hãy dùng sự hiền hòa khả ái của
một người nữ mà đem lại hơi ấm niềm vui cho gia đình.
Cũng vậy nhiều bạn trẻ
ngày nay đang lao vào những cuộc vui của xã hội bày ra, nhưng càng lao vào càng
thấy mình trống rỗng, và mất phương hướng. Các tụ điểm vui chơi sẽ không bao
giờ đem lại niềm vui đích thực trong tâm hồn, mà nó chỉ đem đến sự bất an và
chán nản, nó sẽ làm cho các bạn mất phương hướng nếu cứ cắm đầu chạy theo nó.
Các bạn hãy tìm kiếm niềm vui đích thật nơi Đấng Cứu thế là Đức Giêsu, hãy chọn
Ngài và để Ngài lấp đầy sự trống rỗng trong tâm hồn trẻ của chúng ta. Hãy sống
cho có ý nghĩa, đừng bỏ phí thời giờ và tuổi trẻ, các bạn chỉ có thể vui khi
biết dùng tuổi trẻ của mình để phục vụ Chúa và giáo Hội, và mọi người, tức là
sống chu toàn nhiệm vụ Chúa đang trao cho mỗi người.
Nhưng quan trọng hơn
nữa chúng ta chỉ có thể vui và bình an khi tâm hồn chúng ta sạch tội, không bị
sự ràng buộc của đam mê dục vọng, không bị cắn xé dày vò của lương tâm, hãy đến
với lòng thương xót chúa qua Bí tích Giải tội, và hãy đón rước Chúa vào tâm hồn
qua việc rước lễ thì tâm hồn chúng ta sẽ có một niềm vui đích thực dù bề mặt
cuộc sống có nhiều phong ba thì tận đáy tâm hồn chúng ta vẫn vui và bình an.
Có người nói rằng tại
sao bây giờ con người hay gây gỗ với nhau? Thưa vì tâm họ hồn họ bất an. Như
thế chỉ khi tâm hồn chúng ta vui và bình an, thì chúng ta mới có thể trở thành
người đem Tin Mừng Bình an đến cho người bên cạnh được, bằng không chúng ta chỉ
có thể đem bất an và xung đột mà thôi. Amen.
15. Đấng phải đến
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Gioan Tẩy Giả là một
nhân vật quan trọng của Mùa Vọng. Trong Tin Mừng Chúa Nhật trước, chúng ta đã
nghe Gioan Tẩy Giả loan báo Đấng Cứu Thế sẽ đến là một Thẩm Phán chí công,
thưởng phạt nghiêm minh. Ngày Đấng Cứu Thế đến sẽ là một ngày kinh hoàng đối
với những người gian ác, tội lỗi, không chịu hối cải.
Nhưng rồi, khi Chúa
Giêsu đến, Gioan Tẩy Giả đã thất vọng, vì ông chẳng thấy có gì là kinh hoàng
như ông đã loan báo trước. Đang lúc đó chính Gioan Tẩy Giả lại phải ngồi tù, vì
đã ăn ngay nói thẳng. Thật là trớ trêu!
- Gioan Tẩy Giả đã
loan báo sai chăng?
- Hay là Chúa Giêsu
chưa phải là Đấng Cứu Thế thực sự phải đến mà còn phải chờ đợi ai khác nữa?
Gioan sai các môn đệ
đến hỏi Chúa Giêsu một lần cho rõ: Xin Thầy nói thật cho chúng tôi: “Thầy có
phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Đấng nào khác nữa?”. Để
trả lời Gioan và các môn đệ, Chúa Giêsu đã mượn lời Ngôn sứ Isaia loan báo về
Đấng Cứu Thế: “Người mù được thấy, người què được đi, người phong hủi được
sạch, người điếc được nghe, người chết sống lại…”.
Thì ra Chúa Cứu Thế
đến “không phải để xét xử luận phạt, nhưng để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã
hư hỏng”. “Ngài đến không phải để kêu gọi người công chính, nhưng để kêu gọi
người tội lỗi sinh hoạt ăn năn”. “Ngài đến để cho con người được sống và được
sống dồi dào”. “Và Ngài còn đến không phải để được người ta hầu hạ phục vụ,
nhưng để phục vụ và thí mạng sống cứu chuộc loài người”.
Bao lâu còn quan niệm
như Gioan Tẩy Giả, còn chờ mong Chúa đến can thiệp kiểu vua chúa trần gian để
áp đặt một quyền lực, chúng ta sẽ mãi mãi ảo vọng. Trong khi Gioan Tẩy Giả và
dân Do Thái mong một Đấng Cứu Thế đến tái lập uy quyền và vinh quang Thiên
Chúa, thì Thiên Chúa lại chỉ mãi lo cho vinh quang của con người, ưu tiên cho
những con người bị coi rẻ nhất: người mù, người què, người điếc, là những hạng
người phải ăn mày để sống, ăn mày sự sống với những người quyền thế giàu có vẫn
coi thường khinh bỉ họ, và nắm quyền sinh tử trên họ. Ngài coi đó là trả lại sự
sống cho hạng người sống mà như chết dở, những người cùi hủi, những người bị
khinh tởm, bị xua đuổi khỏi xã hội, chỉ được sống trong những nấm mồ hoang giữa
người chết.
Ngày xưa, khi Chúa Cứu
Thế Giáng Sinh, các luật sĩ và cả vua Hêrôđê và dân thành Giêrusalem đã không
nhận ra Chúa Cứu Thế, vì họ quan niệm Chúa Cứu Thế phải đến trong oai phong lẫm
liệt, phải sinh ra ở lầu son gác tía, chứ không phải ở chuồng bò.
Chúa Cứu Thế phải xuất
hiện trong cung cách như thế đó. Chúng ta ngày nay phải hết sức tỉnh táo mới
khỏi đón hụt mất Chúa Cứu Thế. Bởi vì, vẫn như ngày nào, Chúa đang hiện diện ở
giữa chúng ta; không ồn ào giữa hàng lũ người tuỳ tùng hầu hạ kiểu vua chúa
phong kiến, mà ẩn mình trong thân phận những con người nghèo đói, ốm đau, bệnh
tật… Vẫn như ngày nào và sẽ mãi mãi cho đến tận thế. Ngài không dạy chúng ta
đón nhận Ngài bằng bất cứ một hình thức nào khác hơn là đón nhận chính con
người anh em, những người bé nhỏ, đói khát, mình trần thân trụi, không nhà
không cửa, ốm đau bệnh tật, tù đày… Vì vậy, nếu không hết sức tỉnh táo, chúng
ta sẽ đón hụt mất Ngài.
Anh chị em thân mến,
Hai ngàn năm rồi, Chúa đã đến, nhưng cũng còn những người vãn đang mong chờ một
Chúa Cứu Thế khác sẽ đến, chứ Ông Giêsu này không phải là Chúa Cứu Thế. Thậm
chí có cả những người Công Giáo cũng nghi ngờ Chúa Giêsu là Chúa Cứu Thế của họ.
Bởi vì, tại sao Chúa cứ bắt tôi phải đói khổ, bệnh tật? Tại sao Chúa không
trừng trị địch thù, những bọn gian ác? Chúng tôi phải chờ một Đấng Cứu Thế
khác. Ngài sẽ đến thanh trừng với bạo lực, thống trị với quyền năng hiển hách
như lời các ngôn sứ loan báo.
Chúa Giêsu Kitô chính
là “Đấng phải đến”. Ngài đã đến rồi. Đó là niềm tin của chúng ta hôm nay như đã
là niềm tin của Thánh Phêrô. Ngài nói: “Ngoài Đức Giêsu ra, dưới bầu trời này,
ơn cứu độ chúng ta không có ở một người nào khác, không có một ai khác có khả
năng cứu độ chúng ta” (Cv 4,12).
Chúa Giêsu, Đấng Cứu
Thế đã đến, đã chết để cứu chuộc chúng ta, đã sống lại và đang sống ở giữa
chúng ta. Ng đã giải phóng chúng ta và bao nhiêu con người khác đang bị giam
cầm trong tội lỗi. Chúng ta hãy vui mừng vì chúng ta đã được Ngài cứu độ và
được sống trong Ngài. Chúng ta không phải chờ đợi một ai khác nữa.
16. Vở kịch còn dang dở – Lm. Mark Link
Chủ đề: Thánh Gioan tiền hô là
sứ giả, còn Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai (Mêsia). Chúng ta phải hoàn tất công
việc của hai Đấng.
Nathaniel hawthorne là
một văn sĩ người Mỹ, vào năm 1864 ông mất đi mà trên bàn viết vẫn còn bản phác
thảo của một vở kịch mà không may ông chưa hoàn tất được. Vở kịch này tập trung
vào một nhân vật chưa hề xuất hiện trên sân khấu. Mọi người đều nói, đều mơ,
đều chờ đợi nhân vật này đến nhưng vị ấy chẳng hề đến. Tất cả các nhân vật phụ
đều đồng loạt mô tả nhân vật chính ấy. Họ kể cho mọi người nhân vật chính ấy sẽ
như thế nào, sẽ làm những gì. Tuy nhiên nhân vật chính ấy đã chẳng xuất hiện.
Toàn bộ Cựu ước cũng
giống như vở kịch của Nathaniel Hawthorne bỏi vì Cựu ước chấm dứt mà không có
đoạn kết.
Trên dòng sông Giôđan
có một khúc cạn nước, cách Biển Chết không xa. Như người ta còn ghi nhớ, đây là
chỗ băng qua sống thuận tiện cho các đoàn tuần hành có xe ngựa kéo, các thương
buôn và các du khách từ khắp nơi trên thế giới. Đây cũng là chỗ đại chúng
thường gặp gỡ nhau để trao đổi đủ thứ tin tức từ khắp mọi nơi. Chính tại chỗ
này, Gioan Tẩy Giả đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Ông cũng bận áo da
thú giống như các tiên tri thuở xưa. Và đám dân bắt đầu thắc mắc: “Ông này là
ai vậy? Ông ta có phải là Đấng Mesia được Chúa hứa không? Hay ông là vị sứ giả
dọn đừơng cho Đấng Mesia?”
Trong bài phúc âm hôm
nay, Chúa Giêsu sẽ trả lời cho những câu hỏi này.
Ngài nói với dân
chúng: “Gioan là kẻ mà Thánh Kinh đã nói: “Ta sẽ sai sứ giả Ta đi trước con để
mở đường cho con”. Chúa Giêsu cũng trả lời câu hỏi khác mà đám môn đệ của Gioan
Tẩy Giả đặt ra cho Ngài: “Có phải Ngài là Đấng mà Gioan bảo sẽ phải đến, hay
chúng tôi còn phải mong chờ Đấng khác?” Để trả lời câu hỏi này, Chúa Giêsu liền
trưng ra những lời của tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Khi nói
về Đấng Mesia, Isaia bảo rằng những dấu hiệu sau đây sẽ là bằng cứ xác nhận lai
lịch vị ấy: “Người mù sẽ thấy được và người điếc sẽ nghe được. Kẻ què sẽ nhảy
múa và người câm sẽ reo vui”.
Chủ ý của Giêsu thực
là rõ ràng. Ngài trình bày ra những phép lạ Ngài đã làm – cho người mù thấy, kẻ
điếc nghe, người què bước, kẻ câm nói được. Đây là những dấu hịêu mà các lời
tiên tri báo trước rằng sẽ phải ứng nghiệm khi Đấng Mesia đến.
Như vậy, bài Phúc Âm
hôm nay muốn nói gì cho anh chị em cũng như cho tôi? Xin thưa đó là sứ điệp
sau: Chúa Giêsu là Đấng Mesia đã được các vị ngôn sứ tiên báo và Ngài đã thiết
lập vương quốc Thiên Chúa trên trần gian đúng như các tiên tri báo trước. Tuy
nhiên Chúa Giêsu uỷ thác cho chúng ta nhiệm vụ hoàn tất vương quốc ấy. Ngài
giao phó cho chúng ta việc xây dựng nước Chúa trên trần gian này. Vào lúc thế
mạt, Chúa Giêsu sẽ trở lại để phán xét chúng ta về công việc này.
Người Roma xưa có thời
một vị thần tên là Janus. Từ đó chúng ta có danh từ January (tháng giêng). Vị
thần này được các hoạ sĩ mô tả bằng hình đầu người có hai mặt: một mặt nhìn về
đằng sau, mặt kia nhìn về đằng trước. Mùa vọng cũng tương tự như thế. Nó nhìn
về hai phía: một đàng nhìn lại lần giáng sinh đầu tiên của Chúa Giêsu trong
lịch sử, đằng khác là hướng đến cuộc tái giáng của Ngài vào cuối lịch sử.
Anh chị em cũng như
tôi đang đứng ở giữa hai biến cố lịch sử trọng đại này. Phận vụ chúng ta không
phải là cứ lè phè ngồi chơi trên đỉnh đồi ngoái cổ về đằng sau và ngóng trông
về đằng trước, mà phải xăn tay áo lên dấn thân vào công việc Chúa Giêsu đã trao
phó cho chúng ta khi Ngài đến lần đầu tiên trong lịch sử.
Nói một cách cụ thể,
điều này có ý nghĩa gì? Nghĩa là chúng ta phải xây dựng nước Chúa trên trần
gian, phải đem yêu thương lắp đầy ganh ghét, đem thứ tha che phủ hận thù, đem
chân lý thay cho giả trá, đem sự cảm thông Kitô giáo thay cho sự vô cảm lạnh
lùng. Tóm lại, chúng ta phải xây dựng một kiểu thế giới mà chính Chúa Giêsu sẽ
dụng xây nếu Ngài ở vào vị trí chúng ta.
Đó chính là sứ điệp
trong các bài đọc hôm nay. Sứ điệp ấy minh chứng Chúa Giêsu là Đấng Mesia, Ngài
sẽ trở lại vào chung cục lịch sử và sẽ phán xét chúng ta về việc chúng ta đã
xây dựng nước Chúa trên trần gian này như thế nào.
Vậy chúng ta hãy kết
thúc với lời tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu, là Đấng Mêsia cũng là Đấng Cứu
Độ chúng ta:
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin Chúa đã
đến trần gian đầy ganh ghét này để giúp chúng con xây dựng nó thành thế giới
của tình yêu.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng
Chúa đã đến với chúng con để giúp chúng con cũng biết đến kẻ khác.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng
Chúa hiểu chúng con, ngay cả khi chúng con không hiểu được chính mình.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng
Chúa luôn luôn ở với chúng con cho dù chúng con không luôn luôn sống với Chúa.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con tin rằng
Thiên Chúa là Cha chúng con, bởi vì chính Chúa đã đối xử với chúng con như anh
chị em của Chúa.
17. Đấng phải đến
Ngài có phải là Đấng
sẽ đến. Câu hỏi của Gioan làm cho chúng ta ngạc nhiên và phân vân hay là chính
Gioan cũng nghi ngờ không biết Đức Kitô có phải là Đấng Thiên sai hay không?
Chắc hẳn không phải là như vậy, chúng ta hãy nhìn vào con người và cuộc đời của
Gioan sẽ rõ.
Ngày sinh của ngài đầy
những việc lạ lùng nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa. Cuộc sống nơi
hoang địa đầy những khắc khổ mặc áo da thú, ăn châu chấu và mật ong rừng. Người
ta đến để nghe Gioan, thì ông đã không đem lại một sự khen ngợi ủi an, lời lẽ
của ông thì ngăn đe và cảnh cáo: Hỡi nòi rắn độc. Cái rìu đã đặt dưới gốc, cây
nào không sinh trái sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Ông đã miễn cưỡng ban
phép rửa cho Chúa Giêsu vì ông nghĩ rằng mình không xứng đáng cởi dây giày cho
Ngài. Ông đã giới thiệu Đức Kitô là con chiên Thiên Chúa sẽ xóa bỏ tội lỗi trần
gian.
Qua những sự kiện ấy,
nếu ông nghi ngờ Đức Kitô thì đó là điều không thể nào chấp nhận được. Ông đã
được Chúa Giêsu khen ngợi là người cao trọng nhất trong số những con cái của
người nữ sinh ra. Chẳng lẽ ông lại là một kẻ đa nghi và thiếu lòng tin tưởng?
Sự thật là như thế này: Gioan có một lòng tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa Giêsu,
nhưng còn các môn đệ của ông thì chưa được xác tín cho lắm, vì thế ông muốn soi
dẫn và tạo hoàn cảnh để họ nhìn rõ, nghe kỹ và tự nhận ra Ngài là Đấng Thiên
sai đã được tiên báo từ hàng trăm năm về trước.
Đức Kitô đã hiểu được
ý nghĩ thâm sâu của Gioan và Ngài muốn tế nhị chứng thực điều đó. Tiên vàn Ngài
đã chữa lành các bệnh tật trước sự quan sát của những người được sai đến, rồi
Ngài nói với họ: Các ngươi hãy đi thuật lại cho Gioan biết những điều đã nghe
và đã thấy: người mù được xem, kẻ què được đi, người phong hủi được lành sạch,
kẻ điếc được nghe, người chết sống lại và Tin Mừng được rao giảng cho những
người nghèo khó.
Đó chính là dấu chỉ
của vị Thiên Sai mà các tiên tri, nhất là Isaia đã đề cập đến. Thực vậy, Ngài
đã làm các phép lạ, để biểu lộ quyền năng và sứ mạng của Ngài xuất phát từ
Thiên Chúa. Từ trước đến nay chưa một ai có thể chữa lành bệnh cùi và cho người
chết sống lại. Hơn thế nữa, tiên tri Isaia cũng bảo Tin Mừng được rao giảng cho
người nghèo khó, Đức Kitô đã giảng dạy cho mọi người không trừ một ai, từ những
người giàu sang quyền thế, đến những kẻ túng cực và bất hạnh, Ngài đã đặc biệt
lưu ý tới hạng người thứ hai này, vì nhiều lần Ngài đã phán: Tất cả những gì
các con làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất là các con đã làm cho Ta.
Ngài đã hướng dẫn dân
chúng tới những chân lý cao siêu bằng những ngôn từ đơn sơ, rõ ràng, bằng những
hình ảnh sống động và cụ thể… Chính nhờ đó mà các môn đệ của Chúa không còn nghi ngờ gì nữa.
Con người này, Đức Kitô thành Nagiarét chính là Đấng Cứu Thế thiên hạ đợi
trông. Khi các người được Gioan sai đến đã trở về. Chúa Giêsu nói với dân
chúng: Các ngươi vào sa mạc để làm gì? Để tìm gặp một vị tiên tri.
Vị tiên tri ấy chính
là Gioan, ông đã can đảm nói lên sự thật, đã trình bày cho mỗi người biết bổn
phận của mình, và bây giờ ông đang bị tù tội. Ông còn cao trọng hơn một vị tiên
tri nữa vì Kinh Thánh đã nói về ông. Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt con
để dọn đường cho con. Gioan chính là người đã được Chúa sai đi dọn đường trực
tiếp cho Đấng Cứu Thế. Ông được đặc ân chiêm ngưỡng Chúa và giới thiệu Chúa cho
mọi người. Hãy lắng nghe và thi hành sứ điệp mà Gioan gửi đến, để nhờ đó chúng
ta cũng nhận biết Chúa trong mùa Giáng Sinh này.
18. Phi thường
(Trích trong “Như Thầy
Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Tể tướng lưng gù là
một câu chuyện huyền thoại về một vị tể tướng có hình thể dị dạng bị gù lưng,
nhưng rất anh minh trong việc trị nước.
Chuyện xảy ra vào đời
nhà Thanh: Lưu Dung là con của một thầy giáo, sở học và thú đánh cờ đều giỏi
như nhau. Tiểu thư Hà là con gái của vị tể tướng trong triều vừa xinh đẹp, vừa
cao thủ cờ tướng, được rất nhiều người yêu mến, trong đó có cả nhà vua. Tiểu
thư lá ngọc cành vàng ấy chỉ lấy làm chồng người nào vô địch trong cuộc tỉ thí
cờ do cô mở ra. Đúng lúc Lưu Dung về kinh thi trạng nguyên và chàng đã lấy được
người đẹp. Sau đó lại thi đỗ trạng nguyên, được làm tể tướng.
Tuy hình thù dị dạng
nhưng tể tướng họ Lưu là một người coi trọng công bằng và chính nghĩa. Ông đã
lật tẩy nhiều thói hư tật xấu của bọn tham quan, hương lý. Ông trở thành vị cứu
tinh của dân nghèo, những người bị hà hiếp và bị đàn áp. Tuy ở địa vị tể tướng
nhưng ông lại dùng mưu lược nhiều hơn là vũ lực để đối nhân xử thế, nên ông
được dân chúng đặt trọn niềm tin.
Tin Mừng giới thiệu
cho chúng ta một Gioan Tẩy giả có cuộc sống rất dị thường nhưng lại làm được
những việc phi thường: Ông chỉ mặc áo lông lạc đà, ăn châu chấu và mật ong
rừng. Con người khổ hạnh ấy lại kiên quyết ngăn cản vua Hêrôđê không được lấy
chị dâu là nàng Hêrôđia làm vợ. Chính vì lòng can đảm thi hành vai trò ngôn sứ
ấy, mà ông đã bị bạo chúa Hêrôđê bắt giam trong tù.
Hôm nay, từ chốn lao
tù ông đã sai các môn đệ của mình còn ngờ vực về sứ mạng Thiên Sai của Đức
Giêsu, để hỏi Người rằng: “Thầy có đúng là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn
phải đợi Đấng nào khác?” (Mt 11,3). Đức Giêsu không muốn chứng minh sứ mạng của
mình bằng lời nói, nhưng Người đã trả lời bằng việc làm, mà chính việc làm này
đã ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về Đấng Thiên Sai: “Người mù được thấy, kẻ
què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ
nghèo khó được loan báo Tin Mừng”.
Đây chính là một cuộc
hành trình đức tin của Gioan, của các môn đệ ông, và cũng là của mỗi người
chúng ta. Con đường đến với đức tin không phải là con đường tơ lụa, mà là con
đường đau khổ. Con đường ấy đi từ vùng tối tăm tới miền ánh sáng, từ dấu chỉ
hữu hình đến thực tại vô hình, từ các phép lạ đến quyền năng siêu việt của
Thiên Chúa, nơi Đức Giêsu. Con đường không dẫn người ta đến Rôma vinh hiển,
Athêna thông thái, Babylon kiều diễm, hay Giêrusalem thành thánh… Nhưng đưa họ
đến một góc nhỏ của thôn nghèo Nadarét, để thấy một con người khiêm hạ, một
cuộc đời ẩn dật, một trái tim yêu thương, và một cái chết ô nhục trên thập giá:
“Phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Trước dáng vẻ bề ngoài
xem ra tầm thường đó, có một con người không những chẳng hề vấp phạm; trái lại,
can đảm bất khuất đóng xuất sắc vai trò tiền hô cho Người: “Chính ông là người
Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: “Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt
Con, người sẽ dọn đường cho Con đến” (Mt 11,10). Đó chính là Gioan Tẩy Giả, người
được Đức Giêsu khen ngợi: “Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ chưa từng có ai
cao trọng hơn ông” (Mt 11,11a).
Ông cao trọng vì ông
là ngôn sứ chuẩn bị gần nhất cho Tân Ước, vì ông đã được nhìn thấy Đấng Cứu Thế
và tin vào các việc Người làm, và nhất là vì ông mang một sứ mạng cao cả. Tuy
nhiên, Gioan vẫn còn ở bên bờ của Cựu Ước, nên Đức Giêsu mới nói tiếp: “Kẻ nhỏ
nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông” (Mt 11,11b). Đây chính là một niềm
vinh hạnh cho chúng ta, những người sống trong thời Tân Ước, vì Cựu ước chỉ là
thời chuẩn bị, còn Tân Ước mới là lúc ban ơn cứu độ.
Được may mắn sống
trong thời cứu độ của Tân Ước cũng có nghĩa là chúng ta đang mang trên vai sứ
mạng cứu rỗi.
Nếu Đấng Cứu Thế đã
đến với chúng ta trước để cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không tận tình
cứu giúp anh em.
Nếu Đấng Cứu Thế đã
muốn xây dựng thế giới này thành một cộng đoàn yêu thương, lẽ nào chúng ta lại
sống trong hận thù ganh ghét.
Nếu Đấng Cứu Thế đã
luôn ở với chúng ta mặc dù chúng ta không luôn luôn sống với Người, lẽ nào
chúng ta lại không sống thuận hòa với nhau.
Sống Mùa Vọng có nghĩa
là trong trí ta phải thấy một rừng lửa rực cháy yêu thương, và trong tim ta
phải vang lên một tiếng gọi lên đường.
19. Một đức tin luôn luôn đứng vững – Achille Degeest
(Trích từ ‘Lương Thực
Ngày Chúa Nhật’)
Gioan Tẩy Giả biết
mình là sứ giả đi trước Đấng Cứu Thế và vào thời ngài còn làm phép rửa tự do
trong giòng sông Giorđanô, ngài đã tuyên bố Đức Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa.
Nay ở trong tù dường như ngài có một thoáng hồ nghi. Ngài biết số phận mình lệ
thuộc ở lòng thù hiềm của một người đàn bà muốn ngài phải chết. Có thể là ngài
bị cám dỗ ngã lòng, trong đêm lâm nạn. Điều đó càng dễ hiểu, vì các môn đệ ngài
còn bối rối hơn ngài nữa. Những giờ phút trong sáng khi ngài và Chúa Giêsu gặp
nhau bên giòng sông Giorđanô, bây giờ dường như đã chìm sâu trong đêm đen của
cơn thử thách. Cần phải hỏi Chúa Giêsu. Chúa trả lời bằng cách trích dẫn tiên
tri Isaia về những người bệnh tật được chữa lành. Chúa Giêsu biết ý nghĩa mà
Gioan sẽ gán cho dấu hiệu đó; và Chúa chắc vị Tiền Hô sẽ được an ủi. Nhưng rồi
Chúa Giêsu nói lên hai câu khiến ta phải suy nghĩ:
1) “Phúc cho người
không phải vấp ngã vì Ta!”
Người ta có thể vì Đức
Kitô mà vấp ngã được không? Đức Kitô có thể làm cớ cho ai vấp ngã chăng? Vấp
ngã nói đây là thứ nào? Đối với Gioan Tẩy Giả, hiểm họa vấp ngã là hiểm họa hết
tin vào Chúa Giêsu. Sự vấp ngã trước cơn thử thách của đức tin, trước những khó
khăn làm sao kiên trì được trong đức tin khi mà ta sống trong một hoàn cảnh đau
đớn cùng cực dường như bị Chúa bỏ quên, sự vấp ngã đó chính là một mối nguy mà
Chúa nhắc tới. Và Chúa nói rằng hạnh phúc cho kẻ nào vượt qua khỏi mối nguy ấy.
Thánh Gioan ở trong một hoàn cảnh nhục nhã và phi lý khiến mạng sống ngài bị đe
dọa. Vì thế con người tự nhiên trong Gioan thắc mắc. Câu nói của Chúa Giêsu
cũng có nghĩa là: Phúc cho Gioan vì đã không hết tin. Nhưng lời của Người cũng
nhắn nhủ chính chúng ta nữa. Hạnh phúc cho ta nếu trên đường thử thách gian
truân, đức tin ta luôn vẫn đứng vững. Như Gioan, chúng ta cần chạy tới Chúa
Giêsu, truy vấn Người. Ở đâu? Thưa trong Hội Thánh Người, trong cuộc gặp gỡ
thân mật của lời cầu nguyện và các bí tích, nhất là Thánh Thể.
2) “Người nhỏ hơn
trong Nước Trời lại lớn hơn ông”
Chúa nói như thế về
Gioan sau khi tuyên bố rằng trong những kẻ bởi người nữ sinh ra chẳng ai lớn
hơn Gioan. Câu nói của Đức Kitô cho biết rằng vai trò của Gioan nằm ở bình diện
của lời hứa và công cuộc chuẩn bị. Trên bình diện ấy không ai hơn Gioan. Nhưng
khi Nước Trời bắt đầu được thực hiện, sau công cuộc cứu độ, thì kẻ nhỏ nhất
giữa đám tín dân cũng vượt quá vị tiên tri lớn nhất, xét về lợi lộc ân sủng. Ta
có thể rút ra bài học cho hoạt động tông đồ của ta. Hoạt động tông đồ bao gồm
khía cạnh chuẩn bị con người gặp gỡ Đức Kitô. Trên bình diện chuẩn bị này,
người ta có thể hoạt động một cách hết sức đắc lực, nhưng hoạt động cần phải tổ
chức thế nào để kết thúc nơi Đức Kitô. Hành vi đức tin vào Đức Kitô, dù nhỏ
nhất, miễn là đích thật, vẫn đem lại giá trị thật cho tất cả những gì đã chuẩn
bị nó.
20. Mùa Vọng của đức tin
Gioan Tẩy Giả là nhân
vật nổi bật của Mùa Vọng. Ông thể hiện tính cách rất khớp với Mùa Vọng của
chúng ta. Đời sống chúng ta há không phải là một Mùa Vọng đó sao – Mùa Vọng của
đức tin, của niềm mong đợi, của lòng kiên nhẫn và của nỗi khắc khoải về điều
mình chưa nhìn thấy? Đời Kitô hữu dựa trên cái gì nếu không phải là dựa trên
cái mà mình tin và hy vọng? Làm Kitô hữu đích thực là chấp nhận sự điên rồ của
Thiên Chúa để dám liều mất con chim trong tay mình hôm nay nhằm có thể bắt được
hai con chim khác trong bụi rậm trên trời. Làm Kitô hữu đích thực là dám hy sinh những mối lợi
tiền bạc, những khoái lạc thân xác; là không khư khư cố bám các quyền lợi của
mình, vì Nước Trời. Nước Trời ấy, hỡi ôi, chưa từng mắt nào nhìn thấy được.
Gioan Tẩy Giả của bài
Tin Mừng hôm nay thuộc về một Mùa Vọng như thế: Mùa Vọng của nỗi mong chờ điều
vẫn còn đang đến. Ông quả là mẫu người mà chúng ta phải trở nên trong Mùa Vọng
suốt đời người. Con người ấy đã bị bỏ tù. Con người ấy đã điên rồ đến nỗi dám nói
lên “sự thật mất lòng” ngay cả với nhà vua. Có ai hành động khờ khạo về chính
trị như thế không? Ông ngồi đó, trong bóng tối ngục tù. Thật đáng đời ông.
Không ai cứu ông ra. Các bạn hữu ông không phát động một cuộc cách mạng. Họ làm
gì có khả năng đó. Họ chỉ thao thức với thần học và hoàn toàn ngu ngơ trong đời
sống thực tiễn - hay ít ra là có vẻ như thế.
Và cả Thiên Chúa nữa,
cũng bỏ mặc vị ngôn sứ rao giảng sám hối của Người. Cả Thiên Chúa cũng dường
như đứng về phía thế lực hùng mạnh của nhà vua. Thiên Chúa đang thực hiện các
phép lạ nơi Con của Người. Nhưng, bi kịch hay hài kịch đây, khi mà những phép
lạ ấy chỉ cứu chữa có vài kẻ bất hạnh xem ra chẳng giữ tầm quan trọng nào đối
với Nước Thiên Chúa. Những phép lạ ấy đã không giải thoát vị ngôn sứ thánh – là
người có liên hệ máu huyết và là vị sứ giả mở đường chính thức cho Đấng đang
thực hiện các phép lạ ấy. Gioan vẫn bị giam cầm trong ngục tối cho đến ngày bị
chém đầu!
Đối với một ngôn sứ,
thật không gì khó chịu cho bằng phải ngồi trong tù chờ chết, bị xem là hết
thời, song lại phải quan tâm đến những phép lạ chẳng chút ích lợi gì cho mình.
Nhưng Gioan không phải
là một cây sậy ngả nghiêng trước gió. Ông vẫn tin, bất chấp mọi sự. Ông là sứ
giả dọn đường cho Chúa, trước hết bằng chính đời sống và tâm hồn ông. Ông dọn
đường cho Chúa, Đấng chần chừ mãi một cách bất nhẫn trước khi đến, và Người
thậm chí chẳng tỏ vẻ hối hả gì khi vị ngôn sứ của Người đang lâm nạn: Vị Thiên
Chúa dường như bao giờ cũng chỉ nghĩ đến khi đã quá muộn màng! Song Gioan Tẩy
Giả biết rằng Thiên Chúa luôn luôn có lý của Người, rằng Người chiến thắng bằng
cách nhận chịu thất bại, rằng Người sống và thông ban sự sống bằng cách trao
nộp mình chịu chết, rằng Người là tương lai đích thực cuối cùng của mọi thứ
tương lai.
Tắt một lời, Gioan Tẩy
Giả chỉ biết tin và tin. Và điều đó đối với ông thật không dễ. Lòng ông đắng
cay và bầu trời thì mù mịt. Nỗi khắc khoải cào cứa trong ông: “Có phải Người là Đấng
phải đến?”.Có phải là chuyện tình cờ, khi câu hỏi ấy được đặt ra với đúng
đối tượng – tức vị Thiên Chúa làm người. Trong cầu nguyện, người ta có thể
trang trải ngay cả một cõi lòng đầy xao động với Thiên Chúa, một cõi lòng mà
trong thực tiễn chẳng còn điểm tựa và cũng không biết nghị lực mình sẽ còn cầm
cự được bao lâu. Bao lâu một tâm hồn còn là một tâm hồn cầu nguyện, bấy lâu tâm
hồn ấy vẫn còn đức tin và sẽ nhận được một câu trả lời thỏa đáng: “Hãy đi và nói với
Gioan những gì các anh xem thấy… và phúc cho kẻ không đối đầu với Ta”. Gioan đã nhận được
tiếng trả lời của Chúa dẫu là ông đang ngồi trong ngục tối!
Cả cuộc đời chúng ta
là một Mùa Vọng, vì Kitô hữu là những người mong đợi một Đấng sẽ đến. Và chỉ
khi Đấng ấy đến, chúng ta mới được chứng minh là đúng đắn. Bao lâu còn phải đợi
trông, bấy lâu ta còn thấy dường như thế gian mới đúng. Thế gian sẽ vui cười,
còn anh em sẽ khóc lóc. Thầy Chí Thánh đã từng nói thế. Chúng ta cũng đang ngồi
trong một ngục tù, ngục tù của sự chết, của những câu hỏi còn bỏ ngỏ, của sự
yếu đuối nơi mình, của tính ích kỷ hẹp hòi của mình, của những cam go và những
bi kịch trong cuộc sống.
Nhưng mỗi ngày, bằng
đức tin và lời cầu nguyện của mình, chúng ta sẽ gửi các sứ giả của chúng ta đến
với Đấng sẽ đến xét xử người sống và kẻ chết. Và các sứ giả Mùa Vọng này sẽ trở
lại với câu trả lời: “Ta đang đến đây, phúc cho kẻ không đối đầu với Ta”.
21. Thiên Chúa có làm việc hay không?
Gioan Tẩy Giả dám phê
bình thủ hiến Hêrôđê Antipas. Để làm cho con người cố chấp này im lặng, vị thủ
hiến đã nhốt Gioan vào ngục Macheronte. Dù sao thì tại đây, Gioan vẫn có nhiều
người đến thăm viếng. Ông nóng lòng đặt câu hỏi và điều ông biết được làm cho
ông thất vọng. Tiếng nói của Gioan mạnh mẽ vang lên đầy đe dọa. Ông đã nói:
“Đấng đến sau tôi thì quyền phép hơn tôi!”. Ông loan báo một vị quan tòa sẽ ném
vào lửa tất cả những gì xấu xa và không sinh hoa kết trái, và người ta nói với
ông về một người hiền lành, một người có tài chữa bệnh! Ông không kiềm chế được
và sai người đến hỏi: “Ngài có phải là Đấng-phải-đến hay không?”
Có ai mà không đặt
những câu hỏi như thế? Giêsu, Ngài là tất cả những gì người ta nói về Ngài phải
không? Câu trả lời cho Gioan làm cho chúng ta chưa thỏa mãn: “Người mù được
thấy, kẻ què được đi, người cùi được chữa lành, kẻ điếc được nghe, người chết
được sống lại, Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó”. Đó là điều người ta
chờ đợi nơi Đấng Cứu Thế, đó chính là điều mà Chúa Giêsu đã làm ở đó, hồi xưa.
Nhưng bây giờ thì sao? Từ hơn hai ngàn năm nay thế giới đã đi đến đâu rồi? Biết
nói thế nào với những người hỏi chúng ta: “Chúa Kitô của bạn mang lại điều gì?
Điều đó có thay đổi gì không?”.
Từ ngục tù của chúng
ta, chúng ta cũng đặt câu hỏi cho Chúa Giêsu. Chúng ta bị giam hãm trong những
chân trời rất hạn hẹp, và có thể trong sự thiếu nhạy bén để hiểu rằng Chúa Kitô
đang hành động: “Phúc thay kẻ nào không vì Ta mà nghi ngờ”.
Học biết Nước Trời
đang đến như thế nào! Trong thế giới có nhiều người nổi danh của chúng ta chỉ
có một số tên tuổi được nhắc đi nhắc lại: Mẹ Têrêsa, Đức cha Camara, Đức cha
Romeo, cha Guy Gilbert và những thanh niên bụi đời của cha, sư huynh Roger ở Taizé
và không quên Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Nhưng còn có hàng ngàn người nghèo
mà các linh mục, các nữ tu và các giáo dân, bản thân họ cũng nghèo, đang rao
giảng Tin Mừng và thực hành Tin Mừng đó.
Chính nhờ các tín hữu
này mà Chúa Kitô tác động trên thế giới. Người cũng nói với chúng ta như đã nói
với những người được Gioan phái đến: “Các ngươi hãy thuật lại điều mà các ngươi
đã nghe và đã thấy”. Nhưng những “công việc của Chúa Kitô” ít ồn ào hơn tiền
bạc và chiến tranh. Phải chú ý mới thấy được tất cả tình yêu được làm “nhân
danh Chúa Giêsu”. Cũng như nói rằng chúng ta đối diện với một Chúa Kitô vô danh
mà chúng ta chỉ biết vào thời cánh chung, khi đó chúng ta sẽ biết Người không
ngừng hoạt động như thế nào.
Chúa Kitô vô danh sao?
Phải, nếu chúng ta dừng lại ở những tư tưởng và những câu hỏi về Người. Nhưng
khi chúng ta tác động với Người, chúng ta thấy những kẻ què bước đi
ra sao và những kẻ chết sống lại như thế nào. Người tín hữu anh hùng ở Liên Xô
hoặc người Kitô hữu Braxin dấn thân hoạt động cho công bằng và giải phóng, chắc
chắn không tự hỏi Chúa Giêsu có phải đúng là Đấng mà người ta chờ đợi hay
không?
Có lẽ đôi khi chúng ta
tự đặt cho mình một câu hỏi khác: “Có phải Giáo Hội đúng là dấu chỉ Chúa Giêsu
đã đến hay không?” Đây là một câu hỏi hay nếu nó không phải là một cái mẹo đối
với những khiếm khuyết riêng của chúng ta. Giáo Hội là chính tôi, kẻ loan báo
hay không loan báo Tin Mừng. Giáo Hội là nơi tôi sống, là nơi có lẽ do lỗi lầm
của tôi mà người ta không thấy được tác động của Thiên Chúa.
22. Đấng sẽ đến
Vui tươi và ôn hòa là
hai đặc điểm quan trọng biểu lộ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi một cộng đoàn
và nơi chính người đồ đệ của Ngài. Ai sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa,
hay cộng đoàn nào có Chúa hiện diện thì người đó hay cộng đoàn đó sẽ sống vui
tươi và ôn hòa.
Mở đầu bài suy niệm
Chúa nhật 3 Mùa Vọng hôm nay, Giáo Hội nhắc lại sự thật này qua lời dạy của
thánh Phaolô: “Hãy vui lên trong Chúa, tôi nhắc lại cho anh chị em là hãy vui
lên, đức ôn hòa của anh chị em phải sáng tỏ trước mặt mọi người, vì Chúa đã đến
gần…”.
Hai tuần Mùa vọng đã
qua rồi, ngày Đại Lễ Giáng Sinh sắp đến, khắp nơi nhất là tại các thành phố,
ngày Đại Lễ Giáng Sinh đã xuất hiện qua những trang hoàng, những đèn điện được
xếp theo hình các ngôi sao, Giáo Hội lên tiếng nhắc lại cho các con cái mình lý
do sâu xa nhất của niềm vui Kitô vui không phải vì những lợi lộc hay vì được
chiếm hữu của cải vật chất, mà vui vì được Thiên Chúa đến hiện diện với con
người và ở giữa cộng đoàn con người.
Dấu chỉ sự hiện diện
của Thiên Chúa tình thương được thực hiện và sự an lành được ban cho con người.
“Mù được thấy, què được đi, kẻ chết sống lại”, những lời loan báo này được thực
hiện nơi Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể làm người trong Israel, dân Do
Thái.
Thực vậy, chính Ngài đã
khẳng định: “Hãy về thuật lại cho Gioan điều các ông nghe và thấy, người mù
được thấy, què được đi, phong hủi được thấy, điếc được nghe, kẻ chết sống lại
và Tin Mừng được loan báo cho người nghèo khó, phúc cho ai không bị vấp ngã vì
Ta”.
Chúa Giêsu đã thực
hiện các dấu chỉ đó qua các phép lạ công khai mà dân chúng được chứng kiến, giờ
đây Ngài nhắc lại các dấu chỉ đó cho Gioan để củng cố niềm tin của ông đang gặp
thử thách và mang lại cho ông niềm vui thuở ban đầu khi ông tuyên xưng niềm
tin: “Tôi đã thấy và tôi làm chứng, Ngài thực là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu
Thế. Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”.
23. Vui mừng
Chủ đề chính của phụng
vụ Chúa nhật hôm nay là niềm vui mừng và hy vọng. Thực vậy, tiên tri Sophonia
luôn tin tưởng vào Thiên Chúa, một Thiên Chúa đầy tình yêu thương và tha thứ.
Chính trong niềm tin tưởng ấy mà tiên tri đã kêu gọi: hãy vui lên, hỡi thiếu nữ
Sion. Hãy mừng lên, hỡi Israel, vì Thiên Chúa đang ở giữa ngươi. Người là Đấng
Cứu tinh oai hùng, sẽ lấy tình thương mà đổi mới các ngươi.
Cũng trong chiều hướng
ấy, thánh Phaolô cũng đã kêu gọi: hãy vui lên anh em, tôi nhắc lại: hãy vui lên
trong Chúa.
Và đoạn Tin mừng diễn
tả: chínhtrg niềm hy vọng ơn Cứu độ mà những người Do thái thiện chí đã phấn
khởi đến với Gioan Tiền hô xin ông cho biết phải làm gì để đón nhận Đấng Cứu
thế sắp đến.
Như vậy qua các bản
văn Kinh thánh, chúng ta thấy: Thiên Chúa chính là niềm vui mừng và hy vọng của
con người. Bởi chính mình Ngài mới có thể giải thoát nhân loại khỏi mọi nỗi cơ
cùng, khỏi kiếp sống nô lệ. Chỉ mình Ngài mới có thể ban cho nhân loại niếm
vui, bình an và hạnh phúc. Do đó, lời kêu gọi: hãy vui lên, hãy vui lên trong
Chúa là điều rất hợp lý.
Ngày hôm nay chúng ta
không còn phải đón chờ Chúa đến như dân Do thái ngày xưa, bởi vì Chúa đã đến
rồi. Ngài đang hiện diện bên chúng ta như Ngài đã nói: Này đây, Thày ở cùng các
con mọi ngày cho đến tận thế. Ngài vẫn tiếp tục thi ân cho chúng ta như Ngài đã
thi ân cho dân Do thái ngày xưa.
Nhưng có thật là chúng
ta vui mừng vì sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời mình? Có thật chúng ta vui
mừng vì được Chúa viếng thăm? Có thật chúng ta vui mừng vì được làm con Chúa,
được làm người có đạo? Phải chăng đã chẳng có những lúc chúng ta nghĩ rằng: làm
con Chúa vui đâu chẳng thấy, mà chỉ thấy những phiền lụy cho cuộc đời? Những
người không tin có Thiên Chúa, họ có thể an tâm ăn chơi xả láng, có thể mánh
mung, lường gạt để kiếm cho được lắm bạc nhiều tiền với hy vọng một cuộc sống
thỏa mái ung dung. Còn làm con Chúa ư? Có cả một mạng lưới lề luật vây bọc quanh
chúng, đến nỗi chúng ta cỉam thấy mình như bị ngộp thở bởi những trói buộc và
cấm đoán…
Nếu Thiên Chúa của
chúng ta là một hung thần luôn đàn áp con người, nếu lề luật của Ngài như là
những thứ giết chết tự do của chúng ta, thì quả thật chúng ta chẳng nên vui
mừng vì được làm con Thiên Chúa như vậy. Nhưng Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ
là Thiên Chúa của tình yêu thương. Một Thiên Chúa luôn nhẫn nhục trước sự bất
tín, bất trung của dân Ngài. Một Thiên Chúa luôn biết nhỏ lệ trước những nỗi
đớn đau của kiếp người. Một Thiên Chúa cảm thông và tha thứ cho những yếu đuối
của con cái mình. Chính trong tình yêu thương vô biên ấy mà Thiên Chúa có đặt
ra những lệ luật, thì đó chỉ là những lời diễn tả tình yêu, là hàng rào gìn giữ
chúng ta trong tình yêu và là con đường dẫn chúng ta tới sự sống. Chúng ta phải
vui mừng vì được tôn thờ một Thiên Chúa như thế trong đời mình.
Nếu ngày hôm nay chúng
ta hỏi thánh Gioan tiền hô: Chúng tôi phải làm gì? Có thể ông sẽ bảo chúng ta
rằng: hãy thay đổi cái nhìn về Thiên Chúa. Hãy nhìn Ngài như một người cha, như
một người ban thân hay như một người tình để thấy được tình yêu vô bờ của Ngài.
Thấy được tình yêu vô bờ của Ngài, chúng ta cũng sẽ thấy được điều mình phải
làm để đáp trả lại tình yêu tuyệt đối ấy.
24. Gioan Tiền Hô
Một khuôn mặt không
thể thiếu vắng trong mùa Vọng, đó là khuôn mặt của Gioan Tiền hô. Vậy Gioan
Tiền hô là ai?
Ông là con của
Giacaria và Isave, mở mắt chào đời khoảng sáu tháng trước Chúa Giêsu, tại làng
Ain Karim, gần Giêrusalem. Ông có họ hàng với Chúa Giêsu, bởi vì mẹ ông, bà
Isave, là chị họ của Đức Maria. Khi đã khôn lớn, ông vào trong hoang địa sống
một cuộc sống khắc khổ, mặc áo da lạc đà, ăn châu chấu với mật ong rừng. Sau
đó, vâng lệnh Chúa, ông rảo khắp vùng sông Gióc đan, rao giảng sự ăn năn và
trao ban phép rửa sám hối, dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Lời giảng của ông thật
đơn sơ: với người thu thuế, ông đòi hỏi sự công bằng, với binh lính, ông đòi
hỏi sự ngay thẳng. Tùy theo từng lớp người, ông đưa ra những lời khuyên cụ thể.
Ông loan báo cho mọi người được biết Đấng Cứu đã gần đến, Đấng ấy sẽ tẩy rửa
trong Thánh Thần và trong Chân Lý, Đấng ấy sẽ rê sân lúa, nghĩa là sẽ làm một
cuộc thẩm phán để thanh lọc. Và khi Chúa Giêsu xuất hiện, ông không ngần ngại
giới thiệu Ngài với dân chúng: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng gánh tội trần
gian. Sau cùng, vì can đảm dám lên tiếng can ngăn Hêrôđê, ông đã bị tống ngục
và bị chém đầu.
Nhìn vào cuộc đời của
ông, chúng ta thấy nổi bật một mẫu gương khiêm nhường. Chính nhờ thái độ khiêm
nhường này mà ông đã gặp được Chúa.
Thực vậy, sứ điệp ông
loan truyền bên bờ sông Giócđan là gì, nếu không phải là sứ điệp sám hối. Thế
nhưng, muốn sám hối thì điều kiện đầu tiên cần phải có, đó là sự khiêm nhường.
Thái độ khiêm nhường của Gioan Tiền hô còn được biểu lộ qua những lời ông nói
với dân chúng.
Khi được hỏi ông là
ai, thì Gioan Tiền hô đã trả lời một cách khiêm tốn:
- Tôi chỉ là một tiếng
kêu trong sa mạc: hãy dọn đường Chúa đến.
Khi nhận ra Đức Kitô,
ông đã xác quyết:
- Tôi không xứng đáng
cúi xuống cởi dây giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Sau khi đã giới thiệu
Chúa Giêsu với dân chúng, ông đã để cho các môn đệ thân tín của mình bước theo
Ngài. Chính vì thế, ông xứng đáng được Chúa Giêsu khen ngợi:
- Trong số những người
nam được sinh ra, không có ai cao trọng hơn Gioan.
Sự khiêm nhường cũng
chính là điều chúng ta cần phải thực hiện trong mùa Vọng, bởi vì chỉ những
người khiêm nhường mới gặp được Chúa mà thôi.
Đúng thế, Kinh Thánh
đã nhiều lần nói về sự thật này. Chúa hạ bệ những kẻ kiêu căng và nâng cao
những người phận nhỏ. Ai nâng mình lên, thì sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình
xuống, thì sẽ được nâng lên. Chính trong chiều hướng ấy, thánh Grêgoriô đã xác
quyết:
- Kiêu ngạo là dấu chỉ
chắc chắn nhất của kẻ đã bị Chúa loại trừ.
Đúng thế, một Lucifer vì
không muốn phục tùng Thiên Chúa nữa, nên đã bị đày đọa trong hỏa ngục. Một
Adong Evà, vì muốn trở nên bằng Thiên Chúa, nên phải lãnh nhận bản án của đau
khổ và chết chóc. Trong khi đó, một Maria khiêm nhường, chấp nhận thân phận tôi
tá, nên đã được Thiên Chúa cất nhắc và đặt làm mẹ Đấng Cứu Thế.
Kinh nghiệm cũng cho
hay: một người khô khan mà kiêu căng tự mãn khó trở lại hơn một trăm người sa
ngã về xác thịt., bởi vì người sa ngã do yếu đuối dễ nhận ra mình tội lỗi và
trống vắng, nên cũng dễ khiêm nhường trở về cùng Chúa.
Hơn thế nữa, muốn bỏ
một vật gì vào túi, thì tiên vàn chiếc túi phải rỗng, phải có chỗ. Nếu đã chặt
rồi, thì làm sao nhét vào được nữa. Cũng vậy, linh hồn muốn được Chúa ngự trị,
cần phải rỗng, nghĩa là cần phải nhận mình nghèo nàn và thiếu thốn. Trong khi
đó, kẻ kiêu ngạo tâm hồn chất đầy cái tôi với những tự cao, tự đại, tự mãn thì
còn chỗ đâu mà dành cho Chúa nữa.
Ngày kia, một du khách
đang đứng chiêm ngắm tượng Chúa chịu nạn của Thorwaldsen. Và hình như ông ta
chẳng khám phá ra được một vẻ đẹp nào cả trên bức tượng thời danh này. Bỗng ông
ta nghe thấy như có tiếng thì thầm bên tai:
- Xin ông hãy quì
xuống và nhìn ngắm khuôn mặt của Chúa.
Ông ta đã quì xuống và
khám phá ra vẻ đẹp tuyệt vời của bức tượng.
Chúng ta cũng vậy. Hãy
quì xuống, có nghĩa là hãy sống khiêm nhường và rồi chúng ta sẽ gặp được Chúa.
Alpua Robil là một
nhạc sĩ dương cầm nổi tiếng nhất trong các thiên tài dương cầm trên thế giới
hiện nay. Tuy tự xưng mình là người vô thần, nhưng đã nói về Chúa Giêsu như
sau: “Đối với tôi, Đức Giêsu Kitô đã và luôn luôn là một nhân vật siêu việt cao
vời và lí tưởng nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại”. Sự kiện Ngài là
người Do thái khiến cho tôi kiêu hãnh lây, vì tôi cũng thuộc dòng giống Do
thái. Cuộc sống của Ngài, các lời Ngài giảng dạy, sự hy sinh và lòng tin của
Ngài đã trao ban cho thế giới món quà quí báu cao trọng nhất mà thế giới chưa
bao giờ nhận được. Đó là món quà của “tình yêu thương”, tình yêu thương đối với
tha nhân, tình yêu thương đối với người nghèo khó, tình thương xót, tình nhân
loại và sau cùng là tất cả các tâm tình khiến cho con người trở thành cao
thượng.
Phải! Nhận xét trên
đây của nhạc sĩ Alqua Robil thật sâu sắc và chí lý. Đúng thế! Ở đâu có tình yêu
thương, thì ở đó có hạnh phúc tươi vui và an bình đích thực. Bởi vì, tình yêu
thương là phương thế duy nhất hữu hiệu giúp con người xây dựng một thế giới tốt
lành hơn mà không gây đổ máu, chết chóc và tàn phá thương đau cho con người.
Là người có nếp sống
chay tịnh khắc khổ, khi nghe ngài giảng, người ta tưởng đâu là thán Gioan cũng
nghiêm ngặt đòi buộc mọi người sống khổ hạnh tiết chế như ngài. Nhưng không,
thánh nhân không đòi buộc họ làm những việc lạ thường khó khăn, mà chỉ khuyên
mọi người thay đổi kiểu cách sống và thái độ hành sử đối với người khác. Thánh
nhân đề nghị với một thái độ sống quân bình, biết thực thi công lý và yêu
thương, chia sẻ cụ thể với tha nhân chẳng hạn như:
- Ai thuộc lớp người
giàu có, dư tiền dư của và phương tiện vật chất thì từ nay đừng sống ích kỷ, bo
bo vơ vét tích trữ cho chính mình như trước nữa, mà hãy biết chia sẻ cơm áo,
quảng đại trợ giúp cho họ có công ăn việc làm, tạo điều kiện sinh sống cho các
anh chị em nghèo khó thiếu thốn hơn mình, cốt sao để họ có cuộc sống hạnh phúc
sung sướng và đầy đủ, xứng đáng với phẩm giá con người.
Qua Bí tích Rửa tội,
Ngài đã giải thoát họ khỏi xích xiềng nô lệ tội lỗi, trả lại cho họ sự tự do,
ơn làm con cái Thiên Chúa. Tin vui cứu độ ấy không cho phép Kitô hữu buồn sầu
thất vọng như những người không có niềm tin. Có Chúa trong lòng, có Chúa trong
đời, có Chúa kề bên thì người Kitô hữu có được tất cả. Vì thế, họ phải sống tin
yêu phó thác và an bình, tươi vui, không âu lo, không sợ hãi. Kết hợp với Chúa
qua lời cầu nguyện, qua cuộc sống đối thoại thân tình với Ngài. Họ phó thác mọi
sự cho Chúa, và noi gương Chúa Giêsu sống nhân hậu, sống tốt với mọi người, yêu
thương thông cảm và quảng đại với mọi người. Nếu Giáo hội đánh mất đi sự tươi
vui của mình, thì điều đó có nghĩa là Giáo hội đã đánh mất đi tất cả. Khi đó
Giáo hội không làm chứng cho niềm hạnh phúc là hôn thê của Chúa Kitô nữa, và
điều đó cũng có nghĩa là tình yêu đã chết hay đang hấp hối. Tuy nhiên, khi đó
Giáo hội sẽ không còn khả năng yêu thương con người hay yêu thương với một tình
yêu buồn sầu, mà tình yêu buồn sầu thì không phải là tình yêu.
Cũng thế, một tín hữu
không còn khả năng sống tươi vui là dấu chỉ họ chưa gặp gỡ Thiên Chúa đích
thực. Khi người Kitô hữu đánh mất đi niềm vui, thì họ phải tự vấn lương tâm mình
xem nó có phải là ấu trĩ hay không? Và nếu quả thật có như vậy, thì đây là lúc
chúng ta phải nghe lời thánh Phaolô kêu mời: “Anh chị em hãy tìm lại Chúa Kitô,
nghĩa là hãy nhìn lại niềm vui của Chúa Kitô”. Đó chẳng phải là món quà và ơn
thánh quí báu nhất trong Mùa Vọng hay sao?
26. Việc Ngài làm
Càng gần lễ Giáng sinh
niềm hy vọng càng dâng cao trong lòng chúng ta. Dù muốn dù không chúng ta cũng
hy vọng một điều gì đó, người thì nghĩ đến những ngày nghỉ sắp tới, kẻ khác
nghĩ đến những cuộc hội họp gia đình quy tụ anh chị em ở xa về. Cha mẹ mong sao
con cái sẽ thỏa thích khi chúng mở những món quà được chọn lựa kỹ càng, và con
cái thì ấp ủ những giấc mơ đủ loại.
Đồng thời với những hy
vọng này đã chớm nở một hy vọng khác trong lòng toàn thể nhân loại. Một hy vọng
sâu xa hơn, cao cả hơn: “Ước mong lễ Giáng sinh năm nay sẽ mang tới cho mọi
người nhiều điều tốt lành hơn những Giáng sinh trước đây… Ước mong hòa bình lan
rộng thêm một chút nữa… Ước mong tình huynh đệ được kéo dài… Ước mong sự nghèo
nàn khổ sở biến hẳn đi”.
Một người ngồi trong
nhà tù vẫn mơ ước những điều họ hy vọng. Họ đã hiến dâng toàn bộ cuộc đời của
mình vì một điều gì đó: Họ hy vọng Đấng Mêsia đến. Họ cảm thấy rằng Ngài sắp
tới rồi. Họ vội vã và chuẩn bị cho biến cố này.
Hôm nay, Gioan Tẩy Giả
đang ở tù. Ông có mơ ước hão huyền không? Ông có khơi dậy trong xứ sở những
niềm hy vọng trống rỗng không? Có phải vô ích mà ông mất sự tự do của mình
không? Tóm lại, Chúa Giêsu có phải là câu đáp cho sự chờ mong của ông không?
Ông có phải chờ đợi ai khác nữa không?
Gioan Tẩy Giả đã thừa
hưởng niềm hy vọng của Israel. Người ta chờ đợi một Môisê mới sẽ cầm đầu và
vạch ra con đường trở về từ chốn lưu đày. Người ta chờ đợi một ngôn sứ mới, một
Êlia, đến mặc khải Thiên Chúa. Ông chờ đợi Con người từ nơi Thiên Chúa mà đến.
Người Do Thái không hy vọng gì khác ngoài Thiên Chúa và việc tỏ hiện quyền năng
của Ngài. Đây là câu trả lời: Những hành động, những việc chữa lành. Một quyền
năng đang hoạt động: Những người mù được sáng mắt, người điếc được nghe, những người
bệnh được chữa lành. Tim Mừng gồm những hành động cứu độ.
Ít lâu sau, thánh
Gioan tông đồ sẽ trình bày việc thể hiện niềm hy vọng của Israel như sau: Ngôi
Lời đã nhập thể. trong đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu trả lời: Đây là những
hành động, đây là những sự kiện. Không thể nào lầm về căn tính của Ngài được,
Đấng phải đến đã có mặt ở đó rồi: Ngài hoạt động. Giấy căn cước của Ngài chính
là những gì Ngài làm. Chữ ký của Ngài chính là những hành động của Ngài.
Với những gì được ghi
chép trong Tin Mừng hôm nay, giờ đây ta hãy tìm cách xem xét lại cuộc sống của
chúng ta. Chúng ta tràn đầy hy vọng vào những thời gian lễ hội. Chúng ta cũng
biết rằng những thời gian đều chóng qua. Nhưng có những thời gian khác bền bị
hơn, sâu sắc hơn, và vì chúng, mà ta đã dám đánh đổi toàn bộ cuộc đời ta!
Vì ước muốn hạnh phúc,
một người nam và một người nữ đã kết hợp cùng nhau và thề hứa trung thành với
nhau. Vì ước muốn sự sống họ đã sinh con cái. Vì hy vọng có nhiều công bằng
hơn, nhiều người đã dấn thân vào đời sống xã hội và Giáo Hội. Những người khác
đã chọn nghề nghiệp với hy vọng giúp cho trần thế tốt đẹp hơn nhờ công việc họ
làm. Tất cả những sự dấn thân này, cho thấy chiều sâu của những niềm hy vọng.
Khi mong chờ lễ Giáng
sinh chúng ta có thể nêu câu hỏi này: Những cuộc dấn thân như thế có được đáp
ứng không? Chúa Giêsu có thể thỏa mãn những niềm hy vọng của chúng ta không?
Chúng ta cũng có thể
biết chắc câu trả lời rồi. Nó đến từ Chúa Giêsu: “Hãy nhìn xem những gì đang
xảy ra!”. Những sự kiện nào, những cuộc chữa lành nào, những hạnh phúc nào xung
quanh chúng ta có thể là câu trả lời ấy?
27. Đấng phải đến
Chúng ta thường cầu
nguyện: “Lạy Chúa, con rất vui vẻ thi hành thánh ý Ngài. Con chỉ xin Ngài tỏ
cho con biết thật rõ ràng Chúa muốn con phải làm gì?”.
Khi còn nhỏ, tôi nghĩ
rằng các đấng thánh là những người biết chính xác điều Thiên Chúa muốn. Khi
Ngài muốn các thánh làm điều gì, Ngài gửi sứ giả đến. Sứ giả là các thiên thần
thường mặc áo dài trắng và đàng sau lưng có khoét hai cái lỗ lớn để đeo cánh.
Nhưng khi lớn lên, đọc hạnh các thánh, tôi biết thêm về đời sống của các ngài
cũng rất giống tôi. Họ cũng thường gặp khủng hoảng rắc rối để tìm ra điều Thiên
Chúa muốn. Đôi khi còn tệ hơn nữa, có những vị lúc đầu nghĩ rằng mình đã biết
chính xác ý muốn của Thiên Chúa, nhưng sau nhiều năm, các ngài lại không còn
chắc chắn nữa. Có những vị lại khám phá thấy mình đã đi sai đường, và phải quay
trở về để hoàn toàn bắt đầu lại một đường hướng mới.
Trường hợp của Thánh
Gioan tẩy giả ngồi trong tù, trong bài Phúc âm hôm nay, đặt vấn đề hoài nghi về
Chúa Giêsu là một điển hình: “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng, hay chúng
tôi còn phải đợi Đấng nào khác”. Gioan nghi ngờ về những điều Thiên Chúa muốn
ông đã rao giảng trước đây rằng: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước
để các anh giục lòng sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi
không đáng xách dép cho Người”.
Gioan Tẩy giả đang bị
ngồi tù. Nhà tù là nơi thử thách, gây thất vọng và nghi ngờ. Đành rằng trước
đây, Gioan đã biết rõ Đức Giêsu là ai rồi, nhưng trong tù niềm tin đó có thể
gặp thử thách. Trong tù Gioan mong đợi ngày giờ giải phóng của Đấng Cứu Thế.
Dân Do Thái cũng không
khác gì Gioan, đang bị giam cầm bởi đế quốc Rôma. Gioan đặt vấn đề chắc chắn
không phải vì ích lợi của cá nhân ông, nhưng của những người môn đệ theo ông và
của toàn dân Do thái. Phúc âm ghi rõ lời của Gioan: “Chúng tôi còn phải đợi…”.
Trong cách hỏi này, đã ẩn ý Gioan là đại diện cho toàn thể dân Do Thái đang
mong đợi Đấng Cứu Thế.
Nhà tù mang hình ảnh
của mùa vọng. Một người chỉ ngồi chờ đợi, hy vọng, làm những việc không cần
thiết và hoàn toàn tùy thuộc vào nỗi ước mong rằng cánh cửa tự do sẽ được mở ra
“từ phía bên ngoài” (Bonhoeffer).
Con người hôm nay cũng
đang ngồi trong những nhà tù của riêng mình. Chúng ta đang mong chờ một người
nào đó sẽ đến để giải thoát. Khi phải đối diện với những giới hạn của cuộc sống
và của thân phận con người, chúng ta cũng đặt vấn đề như Gioan. Nhà tù là những
thử thách của đau khổ, thất bại và đổ vỡ trong gia đình như vợ chồng ly dị, con
cái xung khắc nhau, thất nghiệp, bệnh tật lâu ngày, ung thư, những người thân
yêu phải chết, con cái sinh ra mang tật nguyền v.v… Thỉnh thoảng qua bạn bè
chúng ta cũng sai người đi dò hỏi xem: “Có người nào có thể giúp tôi thay đổi
được tình trạng này không?”.
28. Đấng phải đến
Tác giả sách “Gương
Chúa Giêsu” viết như sau: “Bao lâu chúng ta sống trong thế giới này, chúng ta
không thể tránh được đau khổ và cám dỗ”. “Tại sao lại đi tìm kiếm sự nghỉ ngơi
trong khi chúng ta đã được sinh vào nỗi khốn khổ”. Tác giả biết không ai có thể
tránh được đau khổ vì con người đã bị mất ơn sủng. Đau khổ nhắc nhở chúng ta
rằng thế giới này không phải là nơi ở vĩnh viễn của con người. Trong đau khổ
chúng ta học cách tin tưởng vào những lời hứa của Thiên Chúa, những lời hứa cho
tương lai, không phải ở hiện tại. Những lời hứa chỉ được hoàn thành trong Chúa
Giêsu Kitô.
“Chúa Giêsu, dù là
Con, nhưng đã nhờ sự chịu đau khổ mà học được đức vâng lời”, phương chi chúng
ta, những tạo vật và những tội nhân, đã được nhận làm những nghĩa tử ở trong
Ngài”.
Trong đau khổ, thử
thách và gian nan, Chúa Giêsu Kitô chính là niềm hy vọng, là những dấu hiệu
chứng tỏ sự hiện diện của Thiên Chúa mà Gioan tẩy giả đã mong đợi. Chính Ngài
sẽ giúp chúng ta định hướng cho cuộc đời: “Người mù được thấy, người què đi
được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và
Tin Mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Chúa nhật thứ 3 Mùa
vọng, màu của phụng vụ là màu hồng. Mầu hồng biểu tượng cho niềm vui và hy
vọng. Giáo Hội gọi Chúa nhật này là “Chúa nhật gaudete”, Chúa nhật Vui mừng”.
Vui mừng vì Đấng Cứu Thế đã đến gần. Tôi biết sẽ có người nói rằng: “Tôi chẳng
cảm thấy vui chút nào!” “Đúng, ngay cả Gioan Tẩy giả ở trong tù cũng không cảm
thấy vui!” Niềm vui tôn giáo, nhất là sự vui mừng của Tin Mừng không phải là
một cảm giác, hay một cảm xúc, nhưng là một niềm xác tín của đức tin, đức cậy
và đức mến nơi Chúa Giêsu Kitô. Sách Giáo lý Công giáo dạy: “Đức tin cho ta nếm
trước niềm vui và ánh sáng của sự hưởng kiến diễm phúc trên trời…”
Vị thầy vĩ đại đã cảm
nghiệm được niềm vui đích thật chính là thánh Phanxicô thành Assisi. Khi còn là
một thanh niên trẻ, ngài đến viếng thăm Rôma, quì gối cầu nguyện trước mộ thánh
Phêrô, và trong sự biết ơn đối với thánh cả, Phanxicô đã quăng vài đồng tiền
kẽm vào, qua những chắn song sắt. Nhưng khi vừa bước ra ngoài đường ngài liền
gặp một người ăn xin. Trong giây phút xúc cảm, Phanxicô đã yêu cầu người ăn xin
đổi chiếc áo choàng của anh cho ngài. Phanxicô đang làm việc cho cha là một
thương gia giàu có, chiếc áo choàng của ngài rất đắt tiền và quí phái. Người ăn
xin rất sung sướng, và còn sướng hơn nữa vì có những đồng tiền cắc sót lại
trong túi áo. Rồi sau đó, Phanxicô đã ngồi ở góc đường, làm công việc rất nhục
nhã: xin ăn những người qua lại bên đường. Nhưng ngày hôm đó ngài đã cảm nghiệm
được một niềm vui không tả xiết. Nguồn vui ấy đã hình thành nền tảng cho một
trong những dòng tu lớn nhất của lịch sử Kitô giáo.
Chỉ nhờ vào niềm tin
cậy mến nơi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa sẽ ngự đến trong tâm hồn
chúng ta trong suốt mùa vọng và Giáng sinh để ban cho ta khả năng chịu đựng
những đau khổ, gian truân, thử thách và cảm nghiệm được niềm vui cũng giống như
thánh Phaolô và thánh Gioan tẩy giả khi xưa ngồi trong tù.
29. Sứ giả của Thiên Chúa
Khi Chúa Giêsu sinh ra
tại Bêlem, thì đế quốc La mã đang ở vào thời đại hoàng kim, thời đại rực rỡ
nhất với uy quyền bành trướng khắp nơi. Vi hoàng đế không phải chỉ cai trị một
cách tuyệt đối tại kinh thành La mã, mà còn ở tất cả những quốc gia, những dân
tộc nằm trong lãnh địa của mình.
Nếu vị hoàng đế quyết
định ghé thăm thủ đô của một thuộc địa xa xôi nào đó, ông ta sẽ sai sứ giả đi
trước, có nhiệm vụ báo tin cho dân chúng biết cuộc viếng thăm và đốc thúc họ
chuẩn bị cuộc đón rước sao cho linh đình và trọng thể. Trong khi chờ đợi, chính
vị sứ giả cũng sẽ được tiếp nhận với tất cả vinh dự của mình.
Đúng thế, vào lúc vị
vua tối cao của trời và đất sắp đến thăm hành tinh nhỏ bé này để ở giữa chúng
ta, Ngài cũng đã chọn lựa cho mình một vị tiên tri, một vị sứ giả, như lời tiên
tri Malachia đã loan báo:
- Này đây, ta sai sứ
giả của ta đi trước con để dọn đường cho con.
Lời nói này ám chỉ về
Gioan tẩy giả. Bởi vì ở bờ sông Giócđan, Gioan tẩy giả đã rao giảng và trao ban
phép rửa thống hối cho người Do thái để họ chuẩn bị đón mừng đấng cứu thế:
- Có tiếng kêu trong
sa mạc, hãy dọn đường cho Chúa, quanh co uốn cho ngay, gồ ghề san cho phẳng, hố
sâu lấp cho đầy và nơi cao phải bạt xuống.
Gioan tẩy giả không
bảo họ treo cờ, giăng biểu ngữ hay làm cổng chào, nhưng bảo họ hãy sống tinh
thần sám hối, xa lánh tội lỗi, vì tội lỗi chính là những chướng ngại vật ngăn
chặn không cho Chúa đến với chúng ta.
Nếu không hoán cải,
nếu không quay trở về với Chúa, thì này đây, cái dìu đã được đặt dưới gốc cây
và cây nào không sinh trái tốt sẽ bị chặt và quăng vào lửa.
Gioan tẩy giả cũng tụ
tập chung quanh mình một số môn đệ. Nhưng rồi một ngày kia, khi Chúa Giêsu xuất
hiện và đi ngang qua. Gioan tẩy giả đã vội vã giới thiệu Chúa Giêsu cho họ:
- Đây chiên Thiên
Chúa, đây đấng xóa tội trần gian.
Và lập tức các môn đệ
ấy đã rời bỏ Gioan tẩy giả để theo Chúa Giêsu. Đó chính là điều Gioan đã mong
ước.
Chúng ta có thể nói
được rằng:
- Khát vọng duy nhất
của Gioan tẩy giả là dẫn đưa các linh hồn về với Chúa Giêsu.
Phải chăng ông đã
chẳng công bố:
- Đức Kitô phải lớn
lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Một sự từ bỏ dứt khoát
đáng cho chúng ta ca tụng và bắt chước, vì chúng ta không có quyền tìm kiếm cho
mình những vinh dự đã được dành cho Chúa Giêsu.
Hơn nữa, chính Chúa
Giêsu còn nói rõ qua đoạn Phúc âm vừa nghe: Gioan đã hoàn tất sứ mạng của mình
mà không lo lắng gì đến dư luận, Gioan đã mặc cho người nói ngược nói xuôi, còn
mình vẫn vững như kiềng ba chân. Phải chăng người ta đã trách cứ ông chỉ là một
cây sậy bé bỏng, một cái đạp nhẹ cũng sẽ làm cho nó bị dập nát? Hay chỉ là một
ngọn cờ bị cuốn theo chiều gió. Không, Gioan có con đường của mình, Gioan có sứ
mạng phải theo đuổi.
Sau khi đã tìm hiểu
một vài nét chính yếu về Gioan tẩy giả, mỗi người kitô hữu chúng ta cũng phải
trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả của Thiên Chúa. Mỗi người kitô hữu chúng
ta cũng có bổn phận phải đem Chúa, phải giới thiệu Chúa cho những người chung
quanh.
Chúng ta phải làm
chứng về Chúa bằng lời nói và nhất là bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bái
ái và yêu thương của chúng ta. Tất cả những người đã lãnh nhận bí tích rửa tội
đều được mời gọi để chuẩn bị con đường cho chúa đến trong tâm hồn mình và trong
tâm hồn người khác, tùy theo cách thức và hoàn cảnh riêng của mỗi người.
Có một em bé mới lên
bốn đã cảm hóa được người cha, để ông làm dấu và đọc kinh trước bữa ăn. Câu
chuyện rất đơn sơ. Trưa hôm đó, em đang chơi đồ hàng ngoài sân, thì người chị
kêu về ăn cơm. Ngồi vào bàn, em lén lút nhìn người cha, và khẽ nói:
- Ba à, Ma-sơ bảo phải
đọc kinh trước khi ăn cơm.
Lúc đó người cha chỉ
còn cách làm dấu và đọc Kinh Lạy Cha, một thói quen mà ông đã bỏ từ lâu.
Có một bác sĩ giải
phẫu đã ăn năn trở lại chỉ vì một em bé đau yếu, em vừa mới được bảy tuổi và bị
giải phẫu. Ông bác sĩ ấy đã kể lại như sau:
Hôm đó, em được đưa
vào phòng mổ và trước khi gây mê cho em, tôi đã nói với em:
- Chúng tôi sắp sửa
chữa cho cháu được khỏi, nhưng trước hết cháu cần phải ngủ.
Nhưng em bé đã trả lời
với tôi:
- Vậy hãy để cho cháu
cầu nguyện một chút.
Nói đoạn em quỳ xuống
bên cạnh bàn mổ, hai tay chắp lại, đôi mắt ngước lên cao, em khẽ đọc một kinh
lạy cha. Lúc bấy giờ vị bác sĩ và những cô y tá đều cảm động đến nỗi rưng rưng
như muốn khóc. Vị bác sĩ đã kể tiếp: Sau đó, tôi cảm thấy lương tâm cắn rứt,
tôi đã đi xưng tội, và mỗi buổi tối, tôi không bao giờ đi ngủ mà không đọc
kinh, mà không cầu nguyện.
Này ta sai sứ giả của
ta đi trước con để dọn đường cho con. Những lời nói này làm cho chúng ta liên
tưởng tới Gioan tiền hô, nhưng cũng được áp dụng cho mỗi người chúng ta. Phải,
mỗi người chúng ta đều được mời gọi để trở nên một vị tiền hô, một vị sứ giả
của Chúa.
Trong mùa vọng này
chúng ta hãy suy nghĩ và sống cái sứ mạng đó, bởi vì chúng ta chỉ có một nỗi
băn khoăn và bận tâm, đó là phải sống thế nào để Chúa đến trong tâm hồn anh em
của chúng ta?
Người đàn ông đã sáng
chế ra lại "Cái Ôm Hôn Thánh Thiện" ở thời đại chúng ta là ông Leo
Busaglia. Ông đã viết một bài trong cuốn báo "Women's Day" với tựa đề
là "Cuộc Giáng Sinh theo Matthêu Mập." Buscaglia lúc đó mới tốt
nghiệp đại học là một thầy giáo và được bổ nhiệm để tổ chức một hoạt cảnh Giáng
Sinh. Các vai trong hoạt cảnh đã được các em trong lớp sắp đặt. Riêng vai Thánh
Giuse thì do em "Matthêu Mập" phụ trách. Các học sinh đều cho rằng
Matthêu Mập đóng vai Thánh Giuse là đúng nhất, tuy nhiên Buscaglia thì lưỡng lự
bởi vì em là một học sinh cao nhất trong lớp và đồng thời cũng là một đứa trẻ
hiếu động nhất. Sau những tuần tập dợt, ngày trình diễn đã đến. Sau khi bài
thánh ca hát đến câu cuối, "Chúa Kitô, Đấng Cứu Tinh đã sinh ra... Chúa
Kitô Đấng Cứu Tinh đã giáng trần," thì tấm màn sân khấu mở ra. Trên sân
khấu, Đức Mẹ và Thánh Giuse đang nằm ngủ trên những bao bột, và xung quanh là
các con vật đang kêu ra những tiếng của chúng. Cynthia đã quên vai của cô là con
chiên, và cô đã rống "mu mu", tiếng của con bò. Còn Paul thì chỉ quay
xuống nhìn khán giả và chạy vô trong. Sau đó, thiên thần thứ nhất xuất hiện.
Trên tay của thiên thần là Chúa Hài Đồng. Một cách cẩn thận, thiên thần đặt em
bé trên đống rơm ở phía chân của Đức Mẹ và đọc bài Phúc Âm Giáng Sinh của Chúa
Giêsu theo Thánh Luca. Sau đó, Matthêu Mập, trong vai Thánh Giuse, thức dậy,
ngáp, và giựt mình khi nhìn xuống phía chân của Đức Mẹ. "Cho đến ngày hôm
nay", Tiến Sĩ Buscaglia viết, "tôi vẫn không thể tưởng nổi điều gì đã
ám ảnh nó. Matthêu Mập đánh thức Đức Mẹ và hét lên, "Maria, Maria, thức
dậy và nhìn xem em bé bà đã có trong đêm qua!"
Trong bài Phúc Âm hôm
nay, Thánh Gioan Tẩy Giả đã khuyến khích đám đông đang vây quanh ông hãy mở mắt
và tâm hồn mình ra mà nhìn vào Chúa Giêsu, Đấng đến sau ông, nhưng có trước
ông, và ông không đáng cởi dây giày cho Ngài.
Chúa Giêsu là Người
độc nhất trong lịch sử của loài người. Sự giáng trần của Ngài là một sự kiện
độc nhất, mà Ngài đã hiện hữu từ muôn đời và bây giờ đến trong thế gian với
thân phận con người. Ngài độc nhất trong lời giảng dạy và việc làm. Ngài độc
nhất trong sự hiền lành và quyền năng. Ngài độc nhất trong cái chết và sự phục
sinh. Ngài độc nhất vô tội. Điều mà Thánh Gioan Tẩy Giả tuyên bố cũng giống như
lời thiên thần báo tin Giáng Sinh của Chúa Giêsu cho các mục đồng"...này
tôi báo cho anh em một Tin Mừng trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm
nay, Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa vít, Người là Đấng
Kitô Đức Chúa" (Lc 2:10-11).
Dân Chúa là đoàn dân
của sự vui mừng, bởi vì trong và qua Chúa Giêsu Kitô, Thiên Chúa ban chính Ngài
cho chúng ta cho dù trong cảnh tối tăm nhất của cuộc đời chúng ta. Toàn bộ Tân
Ước là những cuốn sách vui mừng từ đầu cho tới cuối. Sự vui mừng này được diễn
tả một cách đặc biệt trong thư của Thánh Phaolô. Ngài đã phải trải qua bao
nhiêu đánh đập, sỉ nhục, gian nan, tù tội. Hơn nữa, ngài còn phải đương đầu với
biết bao nhiêu vấn đề trong xã hội cùng với biết bao nhiêu người khác: cả triệu
người trong cảnh nô lệ; cả triệu người đói khổ, và hàng ngàn người chết oanh
liệt chỉ vì họ là Kitô hữu. Và trong những lúc như thế, Thánh Phaolô đã không
ngừng khuyến khích các cộng đoàn: "Anh em hãy vui mừng luôn trong niềm vui
của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!... Bình an của Thiên Chúa, bình an vượt
lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Kitô
Giêsu" (Phil 4:4-7).
Thánh Tông Đồ Phaolô
đã biết rằng cuộc sống vui mừng có động lực thu hút sự sống vào chính nó. Điều
đó có nghĩa là sự chan chứa niềm vui thì tự đặt mình vào chỗ đón nhận thêm sự
sống, niềm vui, và hy vọng. Ngược lại, người chối bỏ cuộc sống là người luôn
than thở và thất vọng. Họ hướng về sự tiêu cực, tối tăm, bệnh tật, và sự chết.
Chúng ta nhìn thấy rõ sự đó. Đó là một định luật của cuộc sống. Đó là một phần
mà Chúa Giêsu đã có ý nói tới khi Ngài phán: "Ai đã có thì được cho thêm,
và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy
mất" (Mt 13:12). Đó là cách xoay tròn của cuộc sống. Khi mà tâm hồn của
bạn tràn ngập niềm vui, thì bạn sẽ lãnh nhận nhiều hơn nữa; ngược lại, khi tâm
hồn bạn không có chút niềm vui nào, thì bạn sẽ mất tất cả. Thánh Phaolô cũng
biết rằng cuộc sống vui tươi thì có chiều hướng lan truyền cho người khác.
Bạn hãy nghĩ đến một
người nào đó mà đã gây ảnh hưởng lớn lao trong cuộc sống của bạn. Người đó
không phải là người sống tiêu cực hoặc thất vọng, nhưng là một người biết vui
sống. Chúng ta nhìn thấy một điều gì đó ở trong họ mà chúng ta cũng muốn ôm ấp.
Trong công cuộc truyền giáo của chúng ta, đó là cách thức mà chúng ta có thể
kéo người khác đến với Chúa Kitô.
Các Kitô hữu thời sơ
khai đã có thể lôi kéo thế giới tin theo Chúa Kitô là bởi vì họ đã biết lan
tràn sự vui mừng của họ ra cho thế giới. Đánh mất niềm vui đó là dấu hiệu chúng
ta đã đánh mất Thiên Chúa. Và thế giới không còn trông mong điều gì ở chúng ta.
Thiên Chúa ban cho dân
Ngài sự vui mừng, và qua đó, Ngài ban sự vui mừng cho thế giới!
31. Đức Kitô, Ngài là ai?
Gioan ở trong tù đã
nghe nói về những việc làm của Đức Kitô, và đã sai môn đệ đến hỏi Ngài:
"Ngài có phải là 'Đấng sẽ phải đến' hay chúng tôi còn phải chờ đợi người
khác?" - Chúng ta biết câu trả lời của Đức Kitô (Mat. 11:2-5). Và sau khi
tán dương ông "Gioan người-làm-phép-rửa", Ngài thêm: "... Hơn
nữa, người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa còn cao trọng hơn ông"
(Mat. 11:11).
Câu hỏi của Gioan và
câu trả lời của Đức Kitô làm chúng ta liên nghĩ đến rất nhiều đoạn khác trong
Tin Mừng, rải rác trong các bài giảng hoặc dụ ngôn hoặc động tác của Đức Kitô
đối với "người bé mọn nhất sinh vào Nước Thiên Chúa". Chúng ta chỉ
cùng nhau suy niệm câu của chính Đức Kitô nêu lên hỏi các môn đệ Ngài, và hỏi
mỗi một chúng ta, hôm nay, bây giờ: "... Còn anh em, anh em bảo tôi là
ai?" (Mat. 16:15)
Thánh Phêrô hăng hái
trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mat. 16:16),
nhưng sau đó chối từ Thầy kính yêu, "Con Thiên Chúa hằng sống". Chẳng
những một lần mà đến ba lần! Chẳng những chối "không hề biết", mà còn
thề "...tôi thề là không biết người đó!" (Mat. 26:69-75; Mc.14:66-71;
Lc. 22:54-60; Ga.18:25-27).
Thánh Phaolô, trái
lại, hùng hổ lên đường tìm bắt những người tin theo Đức Kitô, "bất luận
đàn ông hay đàn bà, đều trói giải về Giêrusalem". Trên đường tới gần
Damas, bỗng nhiên có một luồng ánh sáng từ trời chiếu xuống bao phủ lấy ông.
Ông ngã xuống đất và nghe tiếng nói: "Sa-un, Sa-un, tại sao ngươi bắt bớ
tôi?". Ông hỏi lại: "Thưa Ngài, Ngài là ai?" Tiếng từ trời đáp:
"Tôi là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ." (Cv. 9:1-5).
Thánh La San bị người
nhà chê bai và khinh thị vì bán hết gia tài phân phát cho người nghèo đói, bị
giáo quyền đương thời "treo chén" vì cùng một số thầy giáo quê mùa
dấn thân trọn vẹn dạy dỗ và giáo dục "con em gia đình nghèo hèn giới thợ
thuyền không ai chăm lo", để rồi cuối cùng trước khi tắt thở đã thốt lên:
"Tôi thờ lạy thánh ý Chúa qua mọi biến cố xảy ra trong đời tôi".
Phần chúng ta, hôm
nay, bây giờ, chúng ta trả lời làm sao cho Gioan Tẩy giả? Chúng ta trả lời làm
sao cho câu hỏi của chính Đức Kitô?
Phải chăng
* mỗi lần chúng ta
"thật tình yêu thương hướng dẫn một em bé lớn lên trong lối sống đạo dức,
lành mạnh" (thánh La San);
* mỗi lần chúng ta đưa
tay giúp đỡ một người già yếu;
* mỗi lần chúng ta mĩm
cười thông cảm, ủi an một người đang buồn sầu;
* mỗi lần chúng ta
thật tình chung vui chia sẻ với một người gặp điều may mắn và cùng họ cất tiếng
tạ ơn Thiên Chúa;
* mỗi lần chúng ta tự
dè xẻn chi tiêu hằng ngày để chia sẻ và thông phần giúp đỡ một người đang gặp
tai ương;
* mỗi lần v.v....
là câu trả lời thích
đáng nhất cho câu hỏi của chính Đức Kitô: "Còn anh em, anh em bảo tôi là
ai?"?
32. Còn đợi chờ ai? – Lm. Phạm
Quốc Hưng
“Có phải Ngài là Đấng
sẽ đến, hay chúng tôi phải đợi người khác?”
Bà Terry có một cô con
gái tên là Cathy đến tuổi kết hôn. Bà bắt đầu để ý giúp con chọn bạn trăm năm.
Cathy rất thân mẹ và tâm sự với mẹ về mẫu người lý tưởng của cô: “Anh ấy phải
là người hơn con ít là hai tuổi, phải cùng là Công giáo, tương đối dễ coi, phải
bằng con hay hơn con ít nhiều về trình độ học thức nghĩa là phải có bằng BA hay
BS, chưa bao giờ kết hôn, không bồ bịch lăng nhăng, biết đàn ca và nhảy đầm
chút ít, không hút thuốc hay rượu chè cờ bạc, có công ăn việc làm đàng hoàng,
biết cách đối xử với gia đình của anh ấy, và nhất là phải được mẹ bằng lòng.”
Nghe con tâm sự như
thế, bà Terry rất đỗi vui mừng vì bà cũng có cùng ý nghĩ như Cathy. Bà sung
sướng khi được Cathy kể cho bà nghe các liên hệ tình cảm của nàng để bà góp ý.
Có rất nhiều chàng trai để ý Cathy, nhưng không ai hội đủ những điều kiện hợp
với mẫu người lý tưởng mà nàng đã đưa ra.
Đến một ngày nọ, bà
nghe Cathy kể về một chàng trai đang để ý nàng tên là Tony với tất cả những
phẩm chất mà Cathy hằng mong mỏi. Chỉ còn một điều kiện duy nhất Tony chưa có
là phải được bà bằng lòng. Thế là bà Terry nói Cathy mời Tony về nhà chơi để bà
góp ý. Chỉ sau ít lần gặp gỡ Tony, bà đã nhận ra đây đúng là mẫu người chồng lý
tưởng cho con mình và đúng là mẫu rể quý bà hằng mong đợi. Bà nói với Cathy:
“Đây chính là người rất xứng hợp với con, mẹ hoàn toàn bằng lòng và sẽ tận tình
lo chuyện thành hôn cho hai đứa.”
Nhưng bà ngạc nhiên
khi nghe Cathy nói: “Nhưng con sẽ không lấy Tony đâu vì con không có cảm tình
với anh ấy.” Bà Terry buồn bực nói với con: “Già kén kẹn hom. Con còn đợi chờ
ai?”
Cũng như Cathy đang
kiếm tìm một người bạn trăm năm lý tưởng, mỗi người trong nhân loại qua bao thế
hệ cũng chờ mong một Đấng Cứu Thế, một mẫu người lý tưởng có thể làm thỏa mãn
mọi khao khát chân thiện mỹ của lòng người.
Chúa Giêsu Kitô chính
là mẫu người lý tưởng mà con tim nhân loại qua mọi thời đại hằng khao khát mong
chờ. Ngài là người duy nhất có thể làm thỏa mãn mọi ước mơ sâu thẳm nhất của
lòng người – ước mơ được thóat khỏi ách nô lệ của tội lỗi và nết xấu, ước mơ
được sự sống đời đời, ước mơ được biết chân lỳ toàn vẹn, ước mơ được chiếm hữu
sự thiện tuyệt đối, ước mơ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp vô cùng. Vì Ngài chính là
Đấng Cứu Chuộc nhân thế, là nguồn Chân-Thiện-Mỹ, là Thiên Chúa làm người để đưa
con người lên hàng Thiên Chúa, nghĩa là cho con người được chia sẻ chính sự
sống thần linh của Thiên Chúa.
Nhưng làm sao có thể
biết được Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa làm người và là Đấng Cứu Thế mà nhân
loại hằng mong đợi, khi có quá nhiều bậc vĩ nhân từng xuất hiện trong lịch sử
nhân loại, những vĩ nhân đã có hàng triệu người sùng bái như Socrates, Khổng
Tử, Lão Tử, Thích Ca, Mohammed?
Đức Cha Fulton Sheen
đã đưa ra ba tiêu chuẩn để giúp ta nhận biết ai là Đấng Cứu Thế đích thực được
Thiên Chúa sai đến cho nhân loại.
Thứ nhất: Người ta
phải được thông báo trước về sự xuất hiện của người ấy.
Thứ hai: Người ấy phải
làm được những phép lạ để mọi người thấy rõ quyền năng của Thiên Chúa ở nơi
người ấy.
Thứ ba: Những lời nói
và việc làm của người không được đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của
con người.
Tất cả những nhân vật
vĩ đại nói trên đã không thỏa mãn tiêu chuẩn đầu tiên, chưa nói đến hai tiêu
chuẩn sau.
Chỉ một mình Chúa
Giêsu Kitô đủ cả ba tiêu chuẩn trên.
Sự ra đời, nơi sinh,
hoàn cảnh tị nạn, các hoạt động, cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu đều
đã được các ngôn sứ nói đến trước đó cả ngàn năm trong thời Cựu Ước.
Chúa Giêsu đã thực
hiện rất nhiều phép lạ để chứng minh Ngài thực sự là Đấng Thiên Sai. Phép lạ cả
thể và lớn lao nhất mà Ngài đã thực hiện chính là phép lạ phục sinh của chính
Ngài.
Tất cả các giáo huấn
của Ngài không đi ngược với lương tâm và lý trí tự nhiên của con người, nhưng
đã hướng lòng trí con người đến những gì cao trọng nhất và đáng yêu nhất là
chính Thiên Chúa. Chính Ngài đã thực hiện hoàn hảo tất cả những gì Ngài hướng
dẫn kẻ khác.
Như vậy, Chúa Giêsu
Kitô chính là Đấng Thiên Sai, Đấng duy nhất đáng chiếm hữu trọn vẹn tình yêu
của trái tim nhân loại.
Đó chính là điều mà
Tin Mừng hôm nay muốn nói với chúng ta.
Các môn đệ của Gioan
được sai đến với Chúa Giêsu đã thay mặt toàn thể nhân loại qua mọi thời đại để
hỏi Ngài câu hỏi quyết định sau: “Có phải Ngài là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn
phải đợi người khác?” (Mt 11:3)
Chúa Giêsu đã tự xác
nhận Ngài là Đấng Thiên Sai vì chính Ngài đã thực hiện những phép lạ và hoàn
tất những lời tiên tri về Ngài như sau: “Các ông hãy tin lại cho Gioan mọi điều
tai nghe mắt thấy: Mù được sáng mắt và què được đi, phung hủi được sạch, và
điếc được nghe cùng kẻ chết sống lại, và ngườ nghèo khó được nghe báo Tin Mừng;
và phúc cho người không bị vấp ngã vì Ta.”(Mt 11:4-6)
Đấng Thiên Sai mà nhân
loại mong mỏi đợi chờ qua bao thế hệ đã đến với nhân loại và đã hoàn tất chương
trình cứu độ của Thiên Chua dành cho chúng ta.
Đó là niềm vui của Hội
Thánh suốt hơn hai ngàn năm nay, và Hội Thánh không ngừng mời gọi mọi người
chia sẻ niềm vui ấy, nhất là trong mùa vọng.
Thật thích hợp khi
Giáo Hội biểu lộ niềm vui lớn lao ấy qua việc gọi Chúa nhật tuần này là “Chúa
Nhật Mừng Vui” với việc xử dụng màu hồng trong phụng vụ. Nhưng chúng ta chỉ cảm
nhận niềm vui này cách trọn vẹn khi chúng ta có cùng một niềm tin của Hội Thánh
nơi Chúa Kitô và chấp nhận bước vào liên hệ tình yêu thiết thân với Chúa Kitô,
qua việc lắng nghe và thực hành tất cả những lời Chúa Kitô và Hội Thánh truyền
dạy. Đó chính là điều các thánh đã chọn để thực hiện trong cuộc đời các ngài.
Nếu không chấp nhận
Chúa Giêsu Kitô là Đấng Thiên Sai, thì chúng ta còn đợi chờ ai?
Lạy Mẹ Maria là Đấng
“làm cho chúng con được sống, được vui, được cậy”, xin Mẹ hãy cầu cùng Chúa cho
chúng con ngày thêm xác tín rằng chỉ một mình Chúa Giêsu Con Mẹ là Đấng Thiên
Sai, Đấng duy nhất có thể đem lại niềm vui viên mãn và ý nghĩa trọn vẹn cho
cuộc sống của chúng con. Xin Mẹ cầu cùng Chúa Giêsu cho chúng con luôn gắn bó
với Người trong mọi nơi mọi lúc, và hân hoan làm chứng về Người cho những ai
chưa nhận biết Người để niềm vui cứu độ được lan rộng nơi tất cả những tâm hồn
thiện chí. Amen.
33. Bạn có phải là Đức Giêsu không?
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang
Tuấn)
Trong một lớp học giáo
lý dành cho các em lớp Sáu mới chuyển cấp, một thầy giáo muốn dạy về Chúa Giêsu
nên khai mào bằng những lời sau đây: “Hôm nay thầy muốn giới thiệu với các em
về một nhân vật mà tất cả chúng ta đều phải gặp mặt. Nhân vật đó là một người
rất yêu thương và quan tâm đến các em còn hơn cả cha mẹ, anh chị, hay bạn bè
của các em. Ngài là người rất nhân từ và sẵn sàng tha thứ cho dù lầm lỗi của
các em có khủng khiếp đến đâu đi chăng nữa. Dù các em có xấu xa thế nào thì
ngài vẫn đón nhận, cảm thông và yêu mến.”
Đang khi nói, thầy
giáo để ý thấy một đứa bé chăm chú lắng nghe và tỏ vẻ thích thú lắm. Thế rồi,
dường như không cầm lòng được, cậu ta buộc miệng thốt lên: “Ồ, em biết thầy
đang nói về ai rồi. Có phải là cha quản nhiệm của chúng ta không?"
Chẳng biết thầy giáo
trả lời với em bé thế nào, nhưng câu nói của em đã khiến tôi giật mình. Em đã
nhìn thấy nơi vị linh mục quản nhiệm hình ảnh của Đức Giêsu mà thầy giáo đang
muốn trình bày. Không biết các hành vi, thái độ, lối sống nơi con người tôi có
làm toát lên dung mạo của Đấng Cứu Thế không? Người ta sẽ thấy và nghĩ tôi là
ai, một người có Chúa Giêsu hay một kẻ vô đạo?
Ngày xưa, khi Gioan
sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu: “Thầy là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn
phải đợi Đấng nào khác?”, Ngài đã không trả lời bằng những câu rất dễ như:
“Đúng vậy” hay “Ta là Đấng các ngươi mong chờ.” Trái lại, Đức Giêsu đã hướng
hai ông đến với các việc Ngài làm. Những gì mà xưa kia Isaia tiên báo về Đấng
Cứu Thế thì nay đang thành sự. Ấy là: “Mù được sáng mắt, què được đi, phong hủi
được sạch, điếc được nghe, kẻ chết sống lại, và người nghèo khó được loan báo
tin vui.”
Đúng là trăm nghe
không bằng mắt thấy. Lời nói dễ hơn việc làm, nhưng hành động mới chinh phục
mạnh hơn ngôn từ. Đức Giêsu đã khẳng định Ngài là Đấng phải đến không phải chỉ
bằng lời nói nhưng còn bằng hành động. Và Ngài mời gọi hai môn đệ hãy nhìn vào
bao sự lạ lùng đang xảy ra để thuật lại cho Gioan, hầu củng cố niềm tin của ông
vào Đức Mesiah.
Chắc hẳn niềm tin này
không mang ông ra khỏi bao tù của vua độc gài và gian dâm Hêrôđê, người đã loạn
luân khi lấy vợ của anh mình; niềm tin đó cũng chẳng giúp ông thoát được cái
chết đớn đau cô độc, nhưng nó lại có sức trợ lực ông vững bước đến cùng trên
hành trình rao giảng và bênh vực cho Chân lý. Đây là phúc lộc lớn lao mà Đức
Giêsu muốn trao tặng cho vị tiền hô của mình: “Phúc cho người không vấp ngã vì
Ta.” (Mt 11:6)
Có thể nhiều khi trong
đời, tôi phải trải qua những bế tắc của chốn “lao tù” thế gian, chung quanh chỉ
là bóng tối của khốn khổ lao đao. Nào là tai ương ập xuống, vợ chồng mất việc,
tài sản hư hao, con cái bệnh tật... rồi bao cảnh trái tai gai mắt dường như
muốn đánh gục niềm tin của chính mình. Và có lẽ đã không ít lần tôi hỏi Chúa:
“Ngài có phải là Đấng Cứu Thế không, hay tôi phải tìm đến người nào khác? Có lẽ
thầy này, bà kia, hay chiêm tinh gia này, tử vi bói toán nọ còn có thể cứu tôi,
chứ theo Đức Giêsu... sao chẵng thấy được gì.” Phải chăng không ít lần tôi cũng
đã đặt vấn đề như thế?
Trước bao tăm tối và
nghi nan nơi ngục tù, lời nói của Chúa Giêsu - “Phúc cho người không vấp ngã vì
Ta” đã trở thành lời an ủi khích lệ lớn lao cho Gioan. Cuối cùng, ông đã đóng
trọn vẹn vai trò tiền hô cho Đấng Cứu Thế bằng những giọt máu hành anh của
mình.
Không mong được giải
thoát bằng phép lạ, nhưng chỉ khát khao được đỡ nâng để đi đến cùng hành trình
đức tin của mình chính là mẫu gương cho tôi nhắm tới. Khi nền luân lý bị nhiễu
nhương, khi đam mê xác thịt quật ngã bao lớp người, khi tình trạng rối vợ rối
chồng xảy ra như cơm bữa, tôi phải có can đảm lội ngược dòng đời, dù như thế sẽ
bị cô độc lẻ loi, dù như thế sẽ bị giam hãm đọa đày, nhưng chỉ có sống như thế,
tôi mới làm sáng tỏ dung nhan Đức Kito, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự
Sống.
Nói tôi có đạo, dễ
quá. Chứng minh tôi có niềm tin vào Thiên Chúa bằng lối sống ngay chính và bằng
hành vi yêu thương quả là một thách đố không nhỏ bé gì.
Song, “Hãy can đảm
lên, đừng sợ hãi,” ngôn sứ Isaiah đã nói như thế, bởi vì rồi đây “Chính Thiên
Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi. Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy (ánh quang
chân lý), tai người điếc sẽ được nghe (Tin mừng cứu độ), người què sẽ nhảy như
nai (trên lối đường công chính)...người ta sẽ hoan hỉ triền miên và vui mừng
khoái trá. Họ sẽ không còn đau buồn nữa, và rên siết sẽ trốn xa.” (Is 35)
Sự đỡ nâng lớn lao
nhất cho người Kitô hữu chính là Đức Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ai siêng
năng rước Chúa sẽ nhận được sức mạnh vượt thắng bao giông tố của dòng đời. Ai
thường xuyên tiếp đón Ngài sẽ được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô”,
và lúc ấy, “Tôi sống nhưng không phải tôi sống nhưng Đức Kitô sống trong tôi.”
(Ga 3:20)
34. Thầy có thật là đấng phải đến không?
(Chú giải và gợi ý suy
niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
Đức Giêsu tôn trọng tự
do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta không
được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta, và dựa
trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người.
1- Ngữ cảnh
Với các chương 11–12
này, chúng ta đến một khúc quanh trong Tin Mừng Mt. Trong mười chương trước,
Nước Trời đến gần, dường như không hề gặp trở ngại nào; ở đây, có điều mới xuất
hiện: các câu hỏi chính xác được đặt ra cho Đức Giêsu.
Gioan Tẩy Giả phái các
môn đệ đến hỏi Đức Giêsu: “Thầy có đúng là Đấng phải đến không, hay chúng tôi
còn phải đợi ai khác?” (11,3). Phía họ, những người Pharisêu cùng với các kinh
sư (x. 12,38) đã ngỏ lời lần đầu tiên trực tiếp với Đức Giêsu với giọng trách
móc và phê phán: “Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm ngày
sa-bát” (12,2). Đó là những câu hỏi quan trọng vừa xuất hiện. Đứng trước bản
thân và hoạt động của Đức Giêsu, người ta phải lấy lập trường. Dường như Đức
Giêsu có thể là “đối tượng gây vấp phạm” (11,6), còn “thế hệ này” không sẵn
sàng đón tiếp Nước Trời đang đến gần, các thành ở bờ hồ không hoán cải (x.
11,20), phong thái của Đức Giêsu thực sự bị tranh luận (x. cả ch.12), và người
ta đã “bàn bạc để tìm cách giết Đức Giêsu” (12,14).
Bầu khí ngờ vực và đặt
vấn đề này là bầu khí mới so với những gì xảy ra trước đây. Quả thật, cho tới
nay, chúng ta đã thấy Đức Giêsu tỏ mình ra dần dần như là Đấng Mêsia; các chặng
chính được Đức Giêsu trình bày với một nội dung huấn giáo phong phú:
1. Như một đoạn văn
tổng quát báo trước, các ch. 1–2 đã giới thiệu xuất xứ của Đức Giêsu, con cháu
vua Đavít và tổ phụ Abraham; ngay vào thời thơ ấu, Người đã tỏ ra là Đấng Kitô,
là Đấng Mêsia, hoàn tất lịch sử thánh của Israel nơi bản thân và bằng số phận
của Người.
2. Ở ch. 3–4, Vị Tiền
Hô mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, đã ban phép rửa cho Đức Giêsu: dịp này, Đức
Giêsu đã đăng quang làm Đấng Mêsia; sau khi đã được Chúa Cha ban chứng từ thánh
hiến, đã chịu quỉ thử thách, Người đã đi loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa.
3. Trong các ch. 5–7,
qua huấn giáo của Đức Giêsu, người ta đã nhận ra quyền lực của Nước Thiên Chúa
và đòi hỏi phải dấn thân; Bài Giảng trên núi đã khiến cho các đám đông phải
kinh ngạc và thán phục.
4. Xuyên qua các phép
lạ chữa bệnh mà Đức Giêsu đã thực hiện cũng như lời nói đầy hiệu năng của
Người, các ch. 8–9 giúp khám phá ra uy quyền được ban cho Người cũng như quyền
lực đầy năng động của Nước Thiên Chúa.
5. Ở ch. 10, qua bài
sai ban cho Mười Hai Tông đồ và bài diễn từ truyền giáo, ta khám phá ra rằng
các sứ giả của Nước Thiên Chúa được thực sự chia sẻ uy quyền của Đức Giêsu, do
các ông được liên kết mật thiết với bản thân Người.
Xuyên qua tất cả các
chương này, ta thấy danh tiếng của Đức Giêsu ngày càng lan rộng, bay sang cả các
miền chung quanh (x. 4,24; 9,26.31). Sự chống đối chưa lộ rõ bao nhiêu, chỉ có
một vài lời chỉ trích phát xuất từ nhóm Pharisêu (x. 9,11) hoặc các môn đệ của
ông Gioan (x. 9,14), dưới dạng những câu hỏi lịch sự, chỉ có một phản ứng quyết
liệt hơn lộ ra ở 9,34, nhưng cũng còn ngắn ngủi, để rồi chỉ được nhắc lại và
triển khai ở 12,24. Nói đúng ra, trong tất cả những chuyện này, chưa có tranh
luận, và ngôn ngữ ẩn dụ của các dụ ngôn chưa được sử dụng, ngoại trừ câu truyện
về hai loại nhà kết luận Bài Giảng trên núi (x. 7,24-27).
Tuy nhiên, nên ghi
nhận phương diện đe doạ và xung đột đã được mười chương đầu này của Tin Mừng
nêu lên: ý định nham hiểm của vua Hêrôđê (x. 2,16), cuộc chiến đấu chống các
cám dỗ (x. 4,1-11), lời loan báo những bách hại (x. 5,10-12.44; và nhất là
10,16-23.38). Nhưng đấy là một sự đối kháng mà Đức Giêsu luôn chiến thắng, hoặc
là một lời Đức Giêsu kêu gọi đừng sợ hãi, mà hãy nhận ra mối phúc của Nước
Thiên Chúa ngay giữa cuộc đối đầu gian khổ. Dù sao, dường như ơn cứu độ đã được
đảm bảo cho người nào đứng vững tới cùng (x. 10,22). Do giọng điệu tha thiết
của Đức Giêsu nhằm giúp các môn đệ đối phó với những khó khăn và trở ngại họ sẽ
gặp, Bài diễn từ truyền giáo đã mở ra một viễn tượng mới: đó là cuộc thử thách
đức tin sẽ phải trải qua.
Đã đến lúc phải tự hỏi
về ý nghĩa của hoạt động của Đức Giêsu, như Mt đã trình bày khá dài: phải nghĩ
gì về những “việc Đức Giêsu làm” (11,2.19)? Phải hiểu thế nào về những “cử chỉ
quyền lực” ấy (11,20.21.23)? Thật ra đây là câu hỏi về tư cách Mêsia của Đức Giêsu:
từ ngữ “Kitô” mà Mt đã sử dụng trong ch. 1–2, đến đây mới xuất hiện lại (x.
11,2). Dường như bây giờ chúng ta đã rơi vào tình trạng lưỡng lự: ơn cứu độ vẫn
còn được trình bày như có thể đạt được mà thôi, trong khi đó rõ ràng các lần từ
khước, các chống đối, các tranh luận lại nối tiếp nhau đặt Đức Giêsu thành vấn
đề. Tác giả sẽ trình bày phần Tin Mừng còn lại như câu truyện về một sự từ
khước. Chính là theo chiều hướng này mà chúng ta có thể nói đến một khúc quanh
trong diễn tiến của Tin Mừng Mátthêu.
2- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành ba phần:
1) Mở đầu cuộc tranh
luận Kitô học (11,2-3);
2) Câu trả lời của Đức
Giêsu về bản thân Người (11,4-6);
3) Bài tán dương của
Đức Giêsu về Gioan (11,7-11; ở trong TM, thì đọc tới c. 15).
3- Vài điểm chú giải
- Đấng phải đến (3): dịch sát ho
erchomenos là “Đấng đang đến”. Chúng ta nhớ đến lời rao giảng trước đây của
Gioan: “Đấng đến sau tôi thì mạnh hơn tôi (ho opisô mou erchomenos)” (3,11).
Lời này đưa chúng ta trở lại với sấm ngôn Isaia 40: “Kìa Đức Chúa đến với sứ
mạnh [quang lâm hùng dũng], tay nắm trọn chủ quyền” (Is 40,10). Do đó, Đấng
Mêsia cũng được gọi là “Đấng được chờ đợi”, “Đấng sẽ đến”, “Đấng Thẩm phán” (x.
Dcr 9,9; Tv 118,26; St 49,10). Gioan đã so sánh sức mạnh của Đấng Mêsia với
việc người tiều phu dùng rìu hạ cây (x. 3,10), rồi với người nông dân sàng sảy
sân lúa (3,12). Ông mời gọi người tội lỗi hoán cải và ban một phép rửa giúp bày
tỏ lòng sám hối, trước khi Đấng ấy đến, là Đấng ban phép rửa trong Thánh Thần
và trong lửa để tiêu diệt (3,11). Đây chính là vị Thẩm phán đáng sợ sẽ dùng lửa
không hề tắt mà tiêu diệt tất cả những kẻ tội lỗi không chịu hoán cải (x. Ml
3,2-3).
- phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi (6): “Cớ vấp phạm”, skandalon, là “cái bẫy đặt trên đường;
chướng ngại vật làm cho người ta té ngã”; và nghĩa bóng là tất cả những gì làm
cho người ta rơi xuống về mặt luân lý hay tôn giáo. Đức Giêsu tiên liệu rằng
câu trả lời của Người có thể làm cho Gioan thất vọng, bởi vì quan niệm của ông
về Đấng Mêsia quá khác với cách Đức Giêsu đang thực hiện hình ảnh Đấng Mêsia
của Thiên Chúa. Chúng ta có thể nghĩ đến phản ứng của Phêrô khi nghe loan báo
Thương Khó (Mt 16,22-23) hoặc Giôna sau khi thấy Thiên Chúa tha thứ cho thành
Ninivê (Gn 4).
4- Ý nghĩa của bản văn
Gioan Tẩy Giả đã loan
báo là đến sau ông, sẽ có một người mạnh hơn ông và vượt xa ông về phẩm cách.
Người ấy sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và sẽ tách lúa với vỏ trấu ra (3,11t;
x. Is 40,10).
Bây giờ Vị Tẩy Giả
đang ở trong tù. Do bởi thái độ cứng rắn và những lời nói đanh thép của ông, vua
Hêrôđê Antipa đã phải ra lệnh bắt giam ông. Nhưng vì ông nổi tiếng là đạo đức,
ông được đối xử đặc biệt; các bạn bè có thể đến thăm ông, cho ông biết những
tin tức ở bên ngoài. Ông đặc biệt quan tâm đến Đức Giêsu Nadarét.
* Mở đầu cuộc tranh
luận Kitô học (2-3)
Gioan nghe nói đến
những hành động của Đức Giêsu. Phải nghĩ về Đức Giêsu như thế nào? Người có
thật là Đấng mà ông đã loan báo là đang đến chăng? Quyền bính và năng lực của
Người đang đang được biểu lộ ra ở đâu? Chẳng lẽ trong thân phận tù tội, ông
không đáng được Đức Giêsu dùng quyền lực Người mà giải thoát sao? Người có thật
đang tách hạt lúa khỏi vỏ trấu chăng? Ở đâu? Đức Giêsu là ai? Hẳn là Người phải
nói năng và hành động cách mạnh mẽ và rõ ràng hơn chứ?
Khởi đi từ hoàn cảnh
cá nhân ông và sự hiểu biết của ông về các hoạt động của Đức Giêsu, Gioan nêu
ra câu hỏi quyết liệt: Phải chăng đã đến lúc hoàn tất mọi sự? Chúng tôi có thể
tín nhiệm vào Người chăng? Người là ai? Các môn đệ của Vị Tiền Hô đã đến gặp
Đức Giêsu và nêu câu hỏi đúng như thầy họ đã dặn.
* Câu trả lời của Đức
Giêsu về bản thân Người (4-6)
Đức Giêsu không cung
cấp một câu trả lời rõ ràng và trực tiếp. Qua các môn đệ Gioan, Đức Giêsu đưa
Vị Tiền Hô trở lại điểm xuất phát của câu hỏi của ông. Gioan phải diễn dịch ra
được câu trả lời từ các việc Đức Giêsu làm, là chính những việc đã thúc đẩy
Gioan đặt câu hỏi (11,2). Các môn đệ ông lại phải về làm chứng cho thầy về
những việc Đức Giêsu đã làm (“Các anh cứ về thuật lại cho Gioan những điều mắt
thấy tai nghe”) và Đức Giêsu mô tả các việc ấy ra bằng cách nhắc đến các lời
hứa Cựu Ước (Is 35,5t; x. Is 35,4; 29,18-19; 61,1).
Đức Giêsu khẳng định
rằng lời hứa ấy đang được hoàn tất nơi các hành vi của Người; qua các hành vi
này, quả thực Thiên Chúa đang can thiệp để ban ơn cứu độ. Qua các hành động của
Đức Giêsu, Nước Trời hay là quyền chúa tể của Thiên Chúa với quyền lực và ân
sủng, đang thật sự trở nên gần gũi (4,17). Quyền chúa tể này trước tiên không
được tỏ ra như là khả năng thắng vượt các quyền lực đối lập của loài người:
Gioan sẽ bị chém đầu trong ngục (14,10); Đức Giêsu sẽ chết trên thập giá; các
môn đệ Người sẽ bị bách hại (10,16-25). Triều đại Thiên Chúa cũng chưa tỏ hiện
rõ ràng như việc tức khắc tách biệt lúa và vỏ trấu. Việc phán xét chung kết
được dành cho ngày Con Người đến: khi đó kẻ dữ sẽ bị tách ra khỏi những người
công chính (13,36-43.47-50). Nước Trời sẽ được biểu lộ nơi sự kiện những người
sống trong cảnh cùng quẫn sẽ được Thiên Chúa trợ giúp (8,2–9,35) và nơi sự kiện
Tin Mừng được loan báo với tất cả uy quyền (5,1–7,29). Đức Giêsu bắt đầu công
việc rao giảng bằng cách loan báo mối phúc cho người nghèo (5,3); ở tại trung
tâm của lời rao giảng này, có sứ điệp về vị Thiên Chúa quyền năng và nhân ái,
sứ điệp về Cha Người và Cha của tất cả mọi người, Đấng muốn cho tất cả mọi người
được hiệp thông mãi mãi trong vinh phúc với Ngài. Đức Giêsu tự giới thiệu mình
như là Đấng cứu chuộc những người cùng khổ và như sứ giả làm chứng về niềm vinh
phúc ấy. Trước tiên Người không đến như một người đấu tranh chống lại bạo lực
và như thẩm phán nghiêm khắc.
Mỗi người phải tự nhận
định và lấy lập trường đối với Người (x. 11,20-24). Đức Giêsu cũng giúp chúng
ta ý thức về điểm này: “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” (11,6). Người
không áp đặt cách hành động của Người nhờ sức thuyết phục của những sự kiện
hoàn toàn hiển nhiên; Người dành không gian cho người ta đón nhận hoặc từ
khước, cho người ta tin hoặc không tin.
* Bài tán dương của
Đức Giêsu về Gioan (7-11)
Sau khi đã trả lời câu
hỏi về thân thế Người, bây giờ Đức Giêsu đề cập đến công việc và bản thân của
Vị Tẩy Giả (11,7-15). Người ca ngợi lối xử sự cương nghị và lối sống không ngạo
mạn tự phụ của đấng không hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý như
một cây sạy cong người trước gió (x. 14,3-12) và không ăn mặc lụa là mềm mỏng.
Chính sự trung tín và sự dơn giản của ông làm cho ông trở nên đúng là một ngôn
sứ nói nhân danh Thiên Chúa (x. 21,26.32) và đáng tin. Nhưng ông còn hơn là một
ngôn sứ. Tất cả những vị đến trước ông đều thuộc về thời đại lời hứa, các vị ấy
chỉ loan báo từ xa biến cố Đấng Mêsia đến trong quyền lực và mang theo ân sủng
(11,13). Gioan là vị ngôn sứ của thời kỳ hoàn tất, nên cao trọng hơn tất cả các
vị đi trước. Ông là sứ giả đi ngay trước Đức Chúa và chuẩn bị trực tiếp cho
Người đến (11,10). Ông là Êlia đi trước Đức Chúa và chuẩn bị cho dân chúng đón
tiếp Người (11,14; x. Ml 3,23; H c 48,10).
Với cách đánh giá Vị
Tẩy Giả như thế, Đức Giêsu một lần nữa trả lời gián tiếp cho câu hỏi của ông.
Nếu Gioan ở rất sát thời kỳ hoàn tất, thì với Đức Giêsu, thời này đã đến. Nếu
Gioan là vị sứ giả dọn đường, thì với Đức Giêsu, người ta đã đón được Đức Chúa
đến: không chính xác theo kiểu ông hình dung và chờ đợi (x. 3,12), mà là theo
cách Thiên Chúa đã định. Sánh với những người đã đến trước, ông là người cao
trọng nhất. Sánh với những người đang thuộc về Đức Giêsu và có thể trải nghiệm
sự gần kề của Nước Trời trong sự hiệp thông với Người, ông là người nhỏ. Sự vĩ
đại và nhỏ bé ấy không liên hệ đến ơn cứu độ hoặc giá trị luân lý của con
người, nhưng liên hệ đến thời gian và biến cố trong đó người ấy được tham dự
vào. Chính vì thế Đức Giêsu bảo rằng các môn đệ có phúc so với nhiều ngôn sứ và
người công chính (13,16t). Như thế, thời đại và công trình của Đức Giêsu có một
ý nghĩa duy nhất.
+ Kết luận
Qua các môn đệ của Vị
Tẩy Giả, Đức Giêsu cũng trả lời cho chúng ta: Người chính là Đấng Mêsia mà
Thiên Chúa đã hứa ban cho dân Chúa từ ngàn xưa. Thiên Chúa vẫn trung thành với
lời Ngài hứa; chỉ có con người qua dòng thời gian, đã giải thích sai lạc lời
Thiên Chúa hứa để đưa nhau đến những niềm chờ mong hão huyền, theo lòng dạ hẹp
hòi của mình. Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta điều chỉnh lại cách chúng ta nhìn
lịch sử cứu độ: không theo khuôn khổ các giấc mơ của chúng ta, nhưng đúng theo
chương trình của Thiên Chúa. Và nếu qua Lời Chúa hôm nay, người môn đệ nhận ra
rằng mình cũng được mời gọi làm Tiền Hô của Đức Kitô đối với con người hôm nay,
thì chúng ta cũng cần nhớ rằng, chúng ta chỉ có thể chu toàn được sứ mạng nếu
dựa vào phẩm cách cao quý của Đức Giêsu, Đấng chúng ta loan báo.
5- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay, nhiều Kitô
hữu vẫn đang mơ một ơn cứu độ không phù hợp với cách Thiên Chúa quan niệm. Việc
Đức Giêsu chữa bệnh và nhất là việc loan báo Tin Mừng cho người nghèo cho thấy
rằng Người không phải là một thẩm phán nghiêm khắc nhưng là một vị Mêsia ân cần
và từ bi. Thay vì trừng phạt những kẻ tội lỗi, loại trừ những kẻ gian ác, Người
lại ban ơn chữa lành cả tâm hồn và thân xác, Người an ủi, Người soi chiếu,
Người trợ giúp những ai đang đau khổ, Người đi qua giữa loài người để chỉ làm
điều thiện (ch. 8–9), tha thứ tội lỗi (9,2). Hẳn là có những người khó chịu?
Ngay chúng ta đây, chúng ta có chấp nhận được việc Thiên Chúa mạc khải tình yêu
của Ngài ra trong sự khiêm nhường và yếu đuối chăng? Do đó Đức Giêsu đã nói:
“Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi”. Đây cũng chính là “cớ vấp phạm” do
các Mối Phúc gây ra.
2. Con đường tất cả
các môn đệ phải theo là nhìn thấy các dấu chỉ mà biết giải thích đúng đắn, biết
nhận ra đó là các công trình của Thiên Chúa. Đây là nẻo đường đức tin, khởi đi
từ những điều thấy được và đưa tới chỗ khám phá ra Đức Giêsu là ai. Đây là con
đường đưa từ bóng tối đến ánh sáng, đi từ những dấu chỉ đến với thực tại được
ám chỉ. Nhìn Hài Nhi bé bỏng yếu ớt nằm trong máng cỏ, mà nhận ra đó là Cứu
Chúa và Đức Chúa; nhìn Con người bị đóng đinh đau đớn và nhục nhã nhất mà nhận
ra đó là Đức Vua Cứu thế, đấy là qua dấu chỉ mà khám ra được thực tại.
3. Đức Giêsu tôn trọng
tự do chọn lựa hay từ chối của chúng ta; Người không áp đặt. Do đó, chúng ta
không được đánh giá Đức Giêsu tùy theo các chờ đợi hoặc ước muốn của chúng ta,
và dựa trên đó mà chỉ trích hay từ khước Người. Trái lại, chúng ta phải thấy
thực sự Người là ai và Người đang làm gì, để rồi đón tiếp Người với niềm vui và
tri ân, cho dù chúng ta phải sửa chữa và bỏ đi một vài ý tưởng hoặc sự chờ đợi
sai lạc nào đó.
4. Là những con người
sống ở thời đại “cuối cùng”, chúng ta “có phúc” hơn là chính Gioan Tẩy Giả. Tuy
nhiên, chúng ta có biết trân trọng những ân huệ đang nhận và dùng những ân huệ
đó mà xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho người khác chăng?
35. Suy niệm của Lm Ignatio Hồ Thông
CHÚ GIẢI VÀ GỢI Ý SUY
NIỆM CỦA LM INHAXIÔ HỒ THÔNG
Hằng năm vào Chúa Nhật
III Mùa Vọng, Phụng Vụ Lời Chúa mời gọi người Ki tô hữu hãy vui lên vì đại lễ
Giáng Sinh sắp đến gần rồi.
Is 35: 1-10
Bài đọc I, trích sách
I-sai-a, mô tả trước niềm hân hoan mà những tù nhân Ba-by-lon cảm thấy giờ giải
thoát của họ sắp đến. Cùng chung niềm vui với họ, thiên nhiên và sa mạc, nơi
bước chân của họ đi qua, sẽ tưng bừng nở hoa.
Gc 5: 7-10
Trong Thư gởi cho các
tín hữu đang phải chịu những thử thách trăm chiều, thánh Gia-cô-bê khuyên họ
hãy kiên nhẫn, thậm chí hãy vui lên, “vì Chúa sắp đến rồi”.
Mt 11: 2-11
Tin Mừng thuật lại
việc Gioan Tẩy Giả trong cảnh tù ngục đã sai các môn đệ của mình đến hỏi Chúa
Giêsu có phải là Đấng Mê-si-a hay không. Chúa Giêsu đáp lại bằng cách nhấn mạnh
rằng Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo hèn và bất hạnh: người mù
được thấy, người điếc được nghe, người phong hủi được chữa lành. Chúa Giêsu
khai mạc triều đại tình yêu và tha thứ.
BÀI ĐỌC I (Is 35:
1-10)
Như chúng ta đã biết,
tác phẩm I-sai-a không là tác phẩm của một tác giả, nhưng công trình sưu tập ba
tác phẩm của ba tác giả thuộc ba thời kỳ khác nhau: trước hết, tác phẩm thứ
nhất, từ chương 1 đến chương 39, là tác phẩm của chính vị ngôn sứ I-sai-a, vị
ngôn sứ tiền lưu đày vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên; tiếp đó, tác phẩm
thứ hai, từ chương 40 đến chương 55, là tác phẩm của một vị ngôn sứ thời lưu
đày, biệt danh là ngôn sứ I-sai đệ nhị; sau cùng, tác phẩm thứ ba, từ chương 56
đến chương 66, là tác phẩm của vị ngôn sứ hậu lưu đày, biệt danh ngôn sứ
I-sai-a đệ tam.
Tuy nhiên, chương 35
thì ngoại lệ: chương này có thời biểu muộn thời hơn và qua chủ đề và cung giọng
của nó gần với tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị hơn, vị ngôn sứ thời lưu đày
Ba-by-lon, ông an ủi đồng bào của ông và báo trước cho họ biết cuộc giải phóng
gần kề (giữa năm 550 và 540 trước Công Nguyên). Chính xác đây là chủ đề của
đoạn văn mà Phụng Vụ Chúa Nhật III Mùa Vọng mời gọi chúng ta suy gẫm hôm nay. Bị
giam cầm gần một nữa thế kỷ đã qua ở Ba-by-lon, những người lưu đày cứ ngở rằng
mình sẽ gởi nấm xương tàn ở đất khách quê người. Ấy vậy, vị ngôn sứ loan tin
rằng Đức Chúa sắp giải thoát họ và dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ.
1. Những viễn cảnh
diệu kỳ:
Để từ Ba-by-lon trở về
Giê-ru-sa-lem, những người lưu đày sẽ phải băng qua sa mạc Sy-ri. Đức Chúa sẽ
thực hiện những điều kỳ diệu thuận tiện cho cuộc xuất hành mới này, vì “sắp tới
ngày Thiên Chúa báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội”. Qua bài thi
ca, theo văn phong phóng dụ, đầy những hình ảnh thi vị, vị ngôn sứ mô tả sa mạc
không còn là vùng đất hoang vu khô cằn nắng cháy, nhưng tưng bừng nở hoa, rợp
bóng mát của những cây cối tốt tươi như rừng Li-băng, và phản chiếu vẻ rực rỡ
của núi Các-men và đồng bằng Sa-ron (đồng bằng Pa-lét-tin vốn nổi tiếng là phì
nhiêu và nhiều hoa hồng tuyệt đẹp). Cuộc hồi hương trở về Thành Thánh quá phấn
khởi đến mức người mù sẽ thấy được, người điếc sẽ nghe được, người câm sẽ kêu
lên trong niềm vui vỡ òa.
2. Dấu chỉ của việc
Thiên Chúa thứ tha:
Trước tiên, chúng ta
nhận ra chủ đề Kinh Thánh về sự liên đới của thiên nhiên với vận mệnh con
người. Mặt đất liên kết mình với niềm hoan hĩ của đoàn người hồi hương. Ngoài
ra, những tật nguyền thể lý sẽ biến mất. Chúng ta biết rằng vào thời xa xưa này
– thậm chí vào thời Chúa Giêsu (Ga 9: 1-3) – những tật nguyền thể lý được xem
như những án phạt của tội lỗi. Nếu những người mù thấy lại ánh sáng, người điếc
nghe được tiếng cười vui và người què nhảy nhót như nai, chắc chắn đây là cách
diễn tả niềm hân hoan của những người lưu đày gặp lại quê cha đất tổ của mình,
nhưng nguyên do còn sâu xa hơn: những tội lỗi của dân đã được Thiên Chúa tha
thứ.
Thiên Chúa đã bày tỏ
lòng xót thương: “Chính Người sẽ đến cứu chuộc anh em”. Ngài sẽ cứu chuộc dân
Ngài như một người thân chuộc lại bà con họ hàng của mình lâm vào cảnh đời nô
lệ vì nợ nần và đưa họ trở lại gia tộc của mình. Theo tập tục vào thời đó, ai
không thể trả nợ bị người chủ nợ bắt làm nô lệ. Người thân gần nhất đứng ra
chuộc lại mà ngôn ngữ Hy bá gọi là “goèl”. Chính người này cũng đảm nhận trách
nhiệm báo thù cho những oan ức mà người ấy phải chịu.
Bản văn này minh họa
một khái niệm căn bản của Cựu Ước: mối liên hệ giữa ý tưởng Tạo Dựng và ý tưởng
Cứu Chuộc. Chính vì Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo nên Ngài cũng là Đấng Cứu
Chuộc, vì sự tha thứ tội lỗi là một công trình sáng tạo mới. Ở đây, trong đoạn
văn này, mối liên hệ này rất minh nhiên. Thiên Chúa sáng tạo khi biến đổi sa
mạc, Thiên Chúa sáng tạo khi phục hồi những kẻ tật nguyền. Chính sự tha thứ của
Ngài là nguồn mạch của cuộc sáng tạo mới này, sự tha thứ của Ngài hoàn lại sự
sống.
Cảnh tù đày ở
Ba-by-lon (như cảnh đời nô lệ ở bên Ai-cập) là hình ảnh về cảnh đời nô lệ của
tội lỗi. Cuộc giải phóng mà vị ngôn sứ loan báo tiên trưng cuộc giải phóng
triệt để hơn, vĩnh viễn hơn, đó là cuộc giải phóng mà Đức Kitô mang đến, “việc
chuộc lại” này mà chúng ta gọi “Ơn Cứu Chuộc”, không có nghĩa gì khác hơn là
“tái tạo chúng ta”. Vào những ngày gần đến lễ Giáng Sinh, giọng nói của vị ngôn
sứ vang lên qua nhiều thế kỷ: “Thiên Chúa đích thân ngự đến và sắp cứu chuộc
chúng ta”.
BÀI ĐỌC II (Gc 5:
7-10)
Thánh Gia-cô-bê mời
gọi các tín hữu hãy kiên nhẫn. Bản văn này có chủ ý đặt vào giữa hai thời điểm:
những người lưu đày nóng lòng được trở về quê cha đất tổ (bài đọc I) và Gioan
Tẩy Giả) mong chờ Đấng Mê-si-a sớm thực hiện sứ mạng “thưởng công phạt tội” của
Ngài (đoạn Tin Mừng hôm nay).
1. Tác giả và tác
phẩm:
Bức thư này được gán
cho thánh Gia-cô-bê, anh em họ của Chúa Giêsu, vị lãnh tụ cộng đoàn Giê-ru-sa-lem
tiên khởi, bị ném đá chết vào năm 62 sau Công Nguyên do sự xúi dục của vị
thượng tế thời đó. Vì thế, thánh nhân không là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của
thánh Gioan, hai con của ông An-phê, được phúc tử đạo vào năm 44 sau Công
Nguyên. Vả lại ngay từ đầu thư, thánh nhân tự giới thiệu mình không là Tông Đồ
mà là: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giêsu Kitô”. Để
phân biệt hai vị thánh trùng tên này, người ta gọi thánh Gia-cô-bê Tông Đồ là
thánh Gia-cô-bê Tiền và thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Chúa Giêsu, là
thánh Gia-cô-bê Hậu. Chính thánh Gia-cô-bê Hậu này mà, theo thánh Phao-lô, Chúa
Giêsu hiện ra sau khi Ngài sống lại (1Cr 15: 6-7).
Thư này được gởi cho
các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, phân tán khắp thế giới La-Hy. Sống ở giữa
những anh em Do thái vẫn một mực trung thành lề luật Mô-sê. Những người Ki tô
hữu gốc Do thái này gặp phải biết bao khó khăn trong việc thực hành đức tin của
mình và là đối tượng của những quấy nhiễu. Vì thế, ngay từ đầu thư thánh
Gia-cô-bê an ủi họ: “Thưa anh em, anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm
vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử
thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra
bằng những việc hoàn hảo, để anh em nên hoàn hảo, không có chi đáng trách,
không thiếu sót điều gì” (Gc 1: 2-4).
2. Vị Thẩm Phán đang
đứng ở ngoài cửa:
Đoạn trích Thư chúng
ta đọc hôm nay thuộc vào những lời khuyên bảo sau cùng của thánh nhân: thực
hành đức kiên nhẫn trong thinh lặng, đừng phàn nàn kêu trách lẫn nhau, ngay cả
những người bách hại mình; có như vậy, anh em mới “khỏi bị xét xử”, hàm ý quy
chiếu đến lời của Chúa Giêsu: “Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị
Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh
em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha” (Lc 6: 37). Lý do được nêu lên:
“Vì Chúa sắp đến gần rồi”. Thế hệ Ki tô hữu đầu tiên đã sống trong niềm hy vọng
này: “Vị Thẩm Phán đang đứng ngoài cửa”. Vào thời xưa, người ta xử án ở ngoài cổng
thành. Ở đây, thánh Gia-cô-bê chuyển dời hình ảnh này sang lãnh vực tinh thần
và muốn nói rằng vị Thẩm Phán đang đứng ngoài ngưỡng cửa nhà chúng ta, Ngài sẵn
sàng bước vào (x. Mt 24: 33; Mc 13: 29). Thậm chí sách Khải Huyền lấy lại hình
ảnh này, nhưng không còn trong viễn cảnh của ngày chung thẩm, mà là trong viễn
cảnh của mối thân tình: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và
mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20).
Chúng ta có thể nói thêm mà không sợ ngược lại tư tưởng của tác giả: “Hãy kiên
nhẫn, vì anh em không biết ngày nào giờ nào”. Chữ “kiên nhẫn”, theo nghĩa mạnh
của từ, có nghĩa là biết chịu đựng những gian khổ như các ngôn sứ đã từng chịu.
3. Noi gương các ngôn
sứ:
“Về sức chịu đựng và
lòng kiên nhẫn, anh em hãy noi gương các ngôn sứ, là những vị đã nói nhân danh
Chúa”. Theo truyền thống Do thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược
đãi, bị bách hại và bị giết chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ I-sai-a bị xử
tử, ngôn sứ Mi-kha bị lăng nhục, ngôn sứ Giê-rê-mi-a bị đánh đòn và bị tống
giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn sứ bị giết chết dưới triều đại vua
A-kháp và vua Giô-a-kim, và cũng có thể dưới triều đại vua Ma-na-sê vô đạo. Lời
khóc thương thành Giê-ru-sa-lem của Chúa Giêsu chứng thực sự kiện này:
“Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được
được sai đến cùng ngươi!” (Lc 13: 34). Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc sau
cùng kết thúc với việc nêu lên những bách hại mà các ngôn sứ phải chịu: “Phúc
thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu
xa…Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách
hại như thế” (Mt 5: 11-12).
Rõ ràng thánh
Gia-cô-bê thấm nhuần giáo huấn của các Mối Phúc Thật. Phúc thay những người
nghèo và những người bị bách hại, được lập đi lập lại trong Thư của thánh nhân
như một điệp khúc. Việc thánh nhân ám chỉ đến số phận của các ngôn sứ, dù rất
ngắn, dẫn đưa chúng ta vào bản văn Tin Mừng: thánh Gioan Tẩy Giả bị tống giam
vào ngục.
TIN MỪNG (Mt 11: 2-11)
Thánh Gioan Tẩy Giả đã
bị Hê-rô-đê An-ti-pát tống giam vào ngục. Vị tiểu vương cai trị miền Ga-li-lê
này là một trong những con của vua Hê-rô-đê Cả. Vị Tiền Hô đã cực lực tố cáo
nhân vật quyền cao chức trọng này mà không một chút e dè sợ hãi, vì vị tiểu
vương này đã muốn lấy bà Hê-rô-đi-a, vợ của người anh mình là tiểu vương
Phi-líp-phê. Như vậy, thánh nhân đã chịu bạo lực như Chúa Giêsu đã loan báo cho
các môn đệ Ngài (10: 16-25).
Trong tù, thánh Gioan
nghe nói về những việc Chúa Giêsu làm và ông đâm lòng ngờ vực. Chính thánh
Gioan đã loan báo rằng thời Chúa Giêsu, thời xét xử đã đến, lúa tốt thì thu vào
kho lẫm, còn lúa xấu thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt. Ấy vậy, Chúa Giêsu
công bố rằng mùa thu hoạch, nghĩa là ngày Thiên Chúa thưởng công báo oán, chưa
đến.
1. Câu hỏi của thánh
Gioan Tẩy Giả:
Thánh Gioan là một
người rất nhạy bén trước tội lỗi, ông không thể chịu đựng tội lỗi, ông đã can
đảm tố cáo tội của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pát, bất chấp hậu quả mà mình phải
gánh chịu. Ấy vậy, ông nghe tường thuật rằng Đức Giêsu giao du với những kẻ tội
lỗi, vào trong nhà của họ, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Vì thế,
thánh nhân sai các môn đệ của mình đến hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật
là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn đợi ai khác?”.
2. Câu trả lời của
Chúa Giêsu:
Chúa Giêsu trả lời
bằng cách trích dẫn ba đoạn văn I-sai-a đều có hậu cảnh Mê-si-a: trước hết, Is
29: 17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; tiếp đó, Is 26: 19: người
chết sống lại; sau cùng, Is 61: 1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn.
Câu trích dẫn sau cùng
là rõ ràng nhất, vì được đặt lại vào trong mạch văn của nó, đoạn văn này hình
thành nên một sứ điệp mà Chúa Giêsu nhắn gởi cho thánh Gioan Tẩy Giả. Quả thật,
lời loan báo đầy đủ của I-sai-a như sau: “Thần Khí Đức Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn”. Vì
thế, Chúa Giêsu đồng hóa mình với Đấng được Thiên Chúa xức dầu tấn phong, tức
Đấng Mê-si-a. Còn đối với lời loan báo của I-sai-a tiếp theo sau: “băng bó
những tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, ngày phóng thích
cho những tù nhân”, Chúa Giêsu có chủ ý không trích dẫn. Việc bỏ rơi này cũng
có ý nghĩa. Gioan Tẩy Giả không thể không hiểu: thánh nhân phải đảm nhận sự thử
thách của mình.
Những ám chỉ Kinh
Thánh này nhắc nhở cho vị Tiền Hô rằng kỷ nguyên Mê-si-a phải được thiết lập,
nhưng không bằng bạo lực mà bằng những ân phúc, Kinh Thánh đã thấy trước cách
thức hành động này của Đấng Mê-si-a. Nhiều vị thánh đã kinh qua những giai đoạn
nghi nan ngờ vực, đêm tăm tối của đức tin. Hơn nữa, cuộc đời của Gioan Tẩy Giả
báo trước nhiều điểm cuộc đời của Chúa Kitô. Chúa Giêsu cũng đã cảm thấy chơ vơ
cô quạnh trong viễn cảnh của cuộc khổ nạn sắp đến. Thánh Thần, Đấng đã hằng nâng
đỡ Ngài, dường như đã bỏ rơi mình.
3. Chúa Giêsu ca ngợi
thánh Gioan Tẩy Giả:
Sau khi các môn đệ của
Gioan ra đi, Chúa Giêsu ngỏ lời với đám đông, Ngài hết lời ca ngợi thánh Gioan
Tẩy Giả. Đức Giêsu ca ngợi đức công minh chính trực của thánh nhân: không khuất
phục trước bạo quyền và cách sống đạm bạc của thánh nhân. Chính qua cung cách
sống của mình, thánh nhân hiện thân một vị ngôn sứ, tức là người nói nhân danh
Thiên Chúa, thế vì Thiên Chúa. Nhưng thánh nhân còn cao trọng hơn các ngôn sứ
trước ông, bởi vì các ngôn sứ chỉ loan báo Đấng Mê-si-a, trong khi thánh Gioan
không chỉ loan báo mà còn đích thân gặp gỡ Đấng Mê-si-a và chỉ cho người ta
thấy Đấng Mê-si-a nữa.
Bất ngờ cung giọng
thay đổi, Chúa Giêsu công bố những lời gây bối rối cho người nghe: “Kẻ nhỏ nhất
trong Nước Trời con cao trọng hơn ông”. Ở đây, Chúa Giêsu không nhắm đến công
đức cho bằng hai thời kỳ, thời Cựu Ước và thời Tân Ước, và những người được dự
phần vào hai thời kỳ ấy. Thời kỳ mà Chúa Giêsu khai mạc là thời kỳ Tân Ước, tức
là thời kỳ thực hiện và hoàn tất, vì thế trổi vượt hơn nhiều thời kỳ Cựu Ước,
tức là thời kỳ loan báo và chuẩn bị mà thánh Gioan, một trong các ngôn sứ, vẫn
còn thuộc về thời kỳ Cựu Ước ấy. Lúc đó, phản đề nhắm đến hai trật tự vĩ đại:
cái vĩ đại của Gioan Tẩy Giả được xem như ngôn sứ và vị Tiền Hô trực tiếp của
Đấng Mê-si-a và cái vĩ đại khôn sánh của những những người thuộc về thời đại
của Đấng Mê-si-a, thời Tân Ước, như sau này Chúa Giêsu nói rõ với các môn đệ
Ngài: “Còn anh em, mắt anh em thật có phúc, vì được thấy, tai anh em thật có
phúc, vì được nghe. Quả thế, Thầy bảo thạt anh em, nhiều ngôn sứ và nhiều công
chính đã mong mỏi thấy điều anh em đang thấy, mà không được thấy, nghe điều anh
em đang nghe, mà không được nghe” (Mt 13: 16-17).
Trong một bối cảnh
khác, Chúa Giêsu sử dụng lập luận tương tự: trong đám đông có một phụ nữ lên
tiếng: “Phúc thay người mẹ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm!”, Chúa Giêsu đáp
lại: “Phúc thay kẻ lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa” (Lc 11: 27-28). Chúa
Giêsu không muốn giảm thiểu sự cao cả của Mẹ Ngài một chút nào, rõ ràng Mẹ Ngài
là mẫu gương của những ai lắng nghe và thực thi lời Thiên Chúa, nhưng nhằm mở
rộng “mối phúc này” cho hết mọi người. Ở đây cũng vậy, Chúa Giêsu không tìm
cách giảm thiểu Gioan Tẩy Giả, nhưng nhằm đảm bảo với thính giả của Ngài: Nước
Thiên Chúa không chỉ được dành riêng cho các ngôn sứ, nhưng cho hết mọi người;
ai cũng đều được mời gọi gia nhập Nước Thiên Chúa mà Ngài khai mạc.
36. Đi đến cùng sứ vụ – Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Ngày 5/12, cựu tổng
thống Nam Phi-Nelson Mandela qua đời ở tuổi 95. Ông là người lãnh đạo phong
trào xóa bỏ chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi, giúp cho người da
đen được hưởng các quyền bình đẳng như thiểu số da trắng.
Bước ra ánh sáng sau
27 năm bị giam cầm vào năm 1990, việc đầu tiên Mandela làm là tìm cách hòa giải
một dân tộc bị chia rẽ bởi thù hận và định kiến trong hàng thế kỷ qua.Ông hiểu
rằng hòa giải không thể thiếu sự thật: nếu tội ác của chế độ Apartheid không
được làm sáng tỏ và công lý không được thực thi thì người dân Nam Phi sẽ sống
trong một nền hòa bình rất mong manh, chỉ cần một biến cố nhỏ là bạo lực sẽ lại
bùng phát.
Ông biết rằng, nếu đi
tìm công lý bằng một cuộc tắm máu khác, chắc chắn đất nước sẽ bị đẩy vào vòng
nội chiến.Ông đã dùng tài ngoại giao, trí thông minh, và cả trái tim bao dung
của mình để “đi trên dây” giữa hai làn ranh giới.Một mặt ông đi gặp những nhà
lãnh đạo của người Afrikaner, chủng tộc da trắng nắm quyền trong chế độ
apartheid để đàm phán về tương lai đất nước. Mặt khác, ông tích cực thuyết phục
quần chúng giận dữ phải giữ bình tĩnh vì lợi ích chung.
Ông nói với những
thành phần cực đoan muốn trả nợ máu với người da trắng ở Johannesburg vào năm
1993: “Tôi là lãnh đạo của các bạn. Nếu các bạn không cần tôi nữa, thì tôi sẽ
lui về nghỉ. Nhưng chừng nào tôi còn làm lãnh đạo, tôi phải lên tiếng rằng:
điều chúng ta đang làm là rất sai”. Đám đông này sau đó tự động giải tán.
Để xử lý vấn đề tội ác
của chế độ Apartheid, Mandela đã lựa chọn một giải pháp mà chưa từng một lãnh
đạo nào trong hoàn cảnh của ông thực hiện.Thay vì tạo ra một phiên toàn xét xử
tội ác của chế độ như thông thường, ông cho thành lập “Ủy ban Sự thật và Hòa
giải” với mục đích đúng như tên gọi của nó: làm lành đi những vết thương quá
khứ. Nạn nhân kể về những tội ác mà họ đã chứng kiến hoặc trải qua dưới chế độ
apartheid, và những kẻ cầm quyền cũ sẽ được khoan hồng nếu thừa nhận những tội
ác mà họ gây ra.
Với tài năng của một
chính trị gia, và hơn tất cả là một trái tim biết khoan dung, Nelson Mandela đã
tạo ra sự khởi đầu cho điều kỳ diệu ở Nam Phi: từ một quốc gia bị chia rẽ sâu
sắc bởi chủng tộc, Nam Phi trở thành một “đất nước cầu vồng,” nơi tất cả màu da
đều được tôn trọng và đối xử bình đẳng. Nam Phi vươn lên thành quốc gia giàu
nhất ở lục địa Đen, có mặt trong nhóm các quốc gia “quyền lực mới” BRICS, và
xây dựng lên một xã hội tự do và hiện đại (x. Khắc Giang, tuanvietnam.net).
Ông Mandela đã trải
qua gần 30 năm ngục tù vì cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng cho người da màu.
Vị Tổng thống này đã được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 1993.
Lên tiếng cho Sự thật
và lương tri, Thánh Gioan Tiền Hô, vị Ngôn sứ công lý bị nhốt vào tù ngục. Xã
hội Do Thái thời Gioan có rất nhiều tệ đoan. Quốc gia bị chính quyền La Mã đô
hộ. Trong nội bộ lại có sự chia rẽ trầm trọng giữa các đảng phái chính trị và
tôn giáo. Bất công, tham nhũng và vô luân lan tràn từ trên xuống dưới, nơi
những nhà lãnh đạo dân sự cũng như tôn giáo.Vua Hêrôđê có đời sống loạn luân,
cướp vợ của em trai mình. Người ta cảm thấy rất khó chịu khi có ai dám sửa sai,
dám nói thẳng về những lỗi lầm của mình. Người cầm quyền càng khó chịu hơn và
thường dùng quyền lực để đàn áp. Vì thế quyền lực thường tạo nên sợ hãi và im
lặng. Gioan rất nhạy bén trước tội lỗi nên đã can đảm tố cáo tội của tiểu vương
Hêrôđê, bất chấp hậu quả tù đày. Hêrôđê người đàn ông quyền lực và ham mê sắc
dục, gian dìu với Hêrôđiađê, người đàn bà đẹp nhưng ham mê quyền bính. Hai con
người đó làm nên bi kịch của lịch sử. Ai cũng sợ hãi, không dám nói. Chỉ có
Thánh Gioan Tiền Hô lên tiếng phản đối nên đã bị tống giam. Bênh vực công lý,
nói lên sự thật đã đưa Gioan tới cái chết. Chết là cái giá rất đắt cho chứng
nhân bảo vệ công lý, bảo vệ thuần phong mỹ tục, bảo vệ cho các giá trị đạo đức
truyền thống.
Theo truyền thống Do
thái, đa số ngôn sứ đều là những người bị ngược đãi, bị bách hại và bị giết
chết. Truyền thống nói rằng ngôn sứ Isaia bị xử tử, ngôn sứ Mikha bị lăng nhục,
ngôn sứ Giêrêmia bị đánh đòn và bị tống giam vào tù, chưa nói đến biết bao ngôn
sứ bị giết chết dưới triều đại vua Akháp và vua Giôakim, và cũng có thể dưới
triều đại vua Manasê vô đạo. Ngôn sứ Gioan thật cương nghị với lối sống không
hề cúi gập người lại trước những bậc quyền quý (x.Mt 14,3-12). Thực thi công lý
nên Gioan là một ngôn sứ nói nhân danh Thiên Chúa và đáng tin (x.Mt 21,26.32).
Thánh Gioan đã từng
trải qua những giờ phút vinh quang khi dân chúng kéo đến với ông trong sa mạc,
bên bờ sông Giođan xin ông làm phép rửa. Giờ đây, thời vàng son đã khép lại.
Chỉ còn các môn đệ liều mình vào tù thăm nuôi rồi kể chuyện bên ngoài cho Gioan
nghe.
Thánh Gioan băn khoăn
lo lắng khi nghe tường thuật về Chúa Giêsu thường giao du với những kẻ tội lỗi,
vào trong nhà người tội lỗi, đồng bàn với họ và tha thứ tội lỗi cho họ. Ngôn Sứ
Tiền Hô đang ở trong tù mà không được Đấng Cứu Thế đến giải thoát.Nổi khắc
khoải cào cứa trong lòng.Vì thế, Gioan đã sai các môn đệ đến hỏi thẳng Chúa
Giêsu: “Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn
đợi ai khác?”.
Trước đây, Gioan đã
từng giới thiệu về Chúa Giêsu cho dân chúng: “Tôi lấy nước mà rửa anh em, song
có Đấng đến sau tôi, tôi không xứng đáng cởi giây giày cho Người” (Mt 3,11);
“Chính Đấng ấy sẽ rửa anh em bằng nước và Thánh Thần”. Gioan cũng đã giới thiệu
với các môn đệ về Chúa Giêsu: “Đây chính là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần
gian” (Ga 1,29).
Gioan không ngừng loan
báo cho dân chúng uy thế của Đấng sẽ đến. Theo cách diễn tả cùng với những hình
ảnh kèm theo, dường như chính ông cũng đang mong chờ Đấng ấy như một vị thẩm
phán nghiêm minh. Đấng ấy sẽ không nương tay, Nguời sẽ thực thi công bình và sẽ
tiêu diệt, sẽ “rê sạch thóc”, sẽ đem số “thóc lép”, tức là những kẻ làm điều
gian ác, ném vào lửa đời đời. Đối với Gioan, Đấng Cứu Thế đến giải phóng
Ít-ra-en cả trong phạm vi trần thế nữa, về chính trị và kinh tế như kiểu một vị
vua Do Thái bách chiến bách thắng để đem vinh quang nước Ítraen lên tột đỉnh.
Gioan nóng lòng vì chưa thấy Chúa Giêsu thực thi sứ vụ theo sứ điệp “dữ dội” mà
ông rao giảng, nên Gioan muốn hỏi rằng: có phải Thầy là vị cứu tinh phải đến để
bài trừ những tệ đoan, bất công và tham nhũng trong xã hội không?
Những lời nói và việc
làm của Chúa Giêsu lại không phù hợp với những gì ông đã rao giảng. Chúa Giêsu
xuất hiện như một vì tôi tớ hơn là một Đấng quân vương. Người cũng không giống
như quan toà nghiêm minh thẳng tay trừng phạt kẻ tội lỗi. Trái lại, Người luôn
luôn yêu thương, kêu gọi họ trở về, đồng bàn với họ. Đối với người nghèo khổ,
bệnh hoạn tật nguyền, Người hết mực yêu thương, bao bọc chở che chăm sóc chữa
lành chứ không xa lánh khinh khi vì sợ lỗi luật như các Rabbi. Chính vì thế,
khủng hoảng niềm tin của Gioan Tẩy Giả cũng là điều dễ hiểu. Trong hoàn cảnh
ngục tù, Gioan đã biết tìm đến Chúa Giêsu để tìm sự giải đáp cho những thao
thức canh cánh trong lòng. Và Gioan đã tìm thấy.
Chúa Giêsu không bị
giới hạn trong cái nhìn chật hẹp của Gioan. Người muốn Gioan mở rộng tầm mắt
với một lối nhìn mới mẻ, phong phú hơn: Các anh cứ về tường thuật cho ông Gioan
những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được
sạch,người chết sống lại, và Tin mừng được loan báo cho người nghèo khó” (Mt
11,4-5).
Như vậy, Chúa Giêsu đã
trả lời bằng cách trích dẫn ba đoạn văn Isaia đều có hậu cảnh Mêsia: Is
29,17-18: người điếc được nghe, người mù được thấy; Is 26, 19: người chết sống
lại; Is 61,1: loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Chúa bảo họ hãy về thuật lại
những việc Chúa đã làm và những lời Chúa đã nói, những điều đó đủ minh chứng
Người là ai. Những điều đó đã được các ngôn sứ loan báo từ dọc dài lịch sử rồi.
Trả lời như vậy là Chúa Giêsu gián tiếp bảo cho họ biết: Người không phải là
một vị cứu tinh đầy uy quyền, đến giải phóng dân tộc Do Thái như họ mong đợi.
Đồng thời Chúa trực tiếp xác nhận sứ mạng và quyền năng của Người: là con Thiên
Chúa, là Đấng Thiên Sai đem ơn cứu độ cho mọi người.
Chúa Giêsu còn biểu
dương, ca ngợi Gioan Tẩy Giả trước mặt dân chúng, trước sự chứng kiến của các
môn đệ. Người tôn vinh ông, bởi lẽ ông là một Ngôn sứ vĩ đại nhất trong số các
Ngôn sứ. Người tôn vinh ông, bởi ông là con người của khổ hạnh nơi hoang địa,
là vị Ngôn sứ được mong đợi, là vị Tiền hô đến trước để dọn đường cho Đấng
Thiên sai như Ngôn sứ Malakhi đã loan báo: “Này ta sai sứ giả của Ta đi trước
mặt Con, người sẽ dọn đường cho Con đến”. Khi nghe môn đệ thuật lại những điều
này, Gioan Tẩy Giả hẳn phải vui mừng, bởi Chúa Giêsu không chỉ củng cố, không
chỉ giải đáp những hoang mang lo lắng của ông, Người còn khích lệ, tán dương
ông, giúp ông vượt qua những thử thách ngục tù để có thể chấp nhận cái chết tử
đạo mà ông sẽ lãnh nhận không lâu sau đó. Trong tù, Gioan đã có thời gian để
chiêm niệm.Cần phải thay đổi nhận thức và quan điểm của mình về Thiên Chúa.
Quyền năng Thiên Chúa là quyền năng của tình thương. Đấng Cứu Thế đi đến đỉnh
cao quyền năng là đồi Canvê và thập giá. Từ nay, Gioan hiểu hơn về Đấng mà mình
loan báo. Giờ đây Gioan hiểu rằng, Đấng Mêsia mà ông loan báo không phải đến
trần gian theo những quan niệm thuần tuý về chính trị, Người đến để rao giảng
nước Thiên Chúa và cứu độ nhân loại. Thánh Gioan hạnh phúc an bình ra đi sau
khi hoàn tất sứ vụ của mình.
Thánh Gioan Tẩy Gỉa đã
trải qua những thách đố trong sứ vụ. Chính Ngài đã giới thiệu Chúa Giêsu là
Đấng Cứu Thế nhưng khi lâm cảnh đau khổ ngục tù không thấy ai giải thoát nên
đâm ra nghi ngờ. Nhưng cuối cùng, Gioan đã chứng minh một niềm hy vọng kiên
cường. Ngài không phải là cây sậy yếu mềm chao nghiêng trước gió mà chính là
một tượng đài bất khuất của lẻ cậy trông. Hạng người khom lòng cúi gập mình
chẳng bao giờ có thể trở thành người tử đạo. Gioan không phải là một người bình
thường cũng không phải là người hèn yếu như cây sậy bị xiêu đổ dưới cơn gió.
Niềm hy vọng chính là sức mạnh giúp Gioan và tất cả những ai đang gặp thách đố
biết kiên vững kinh qua tất cả.
Khi chúng ta gặp đau
khổ thử thách, đức tin, lòng cậy trông, niềm hy vọng bị lung lay chao đảo. Hãy
nhớ Thánh Gioan đã chịu như thế và các tiên tri trong lịch sử cũng mang tâm
trạng như vậy. Thánh Gioan không chết trong thất vọng mà chết trong đức tin,
chết trong niềm hy vọng, đã đi cho đến cùng sứ mạng làm chứng cho Tin mừng.
37. Chú giải của Noel Quesson
Ông Gioan lúc ấy đang
ngồi tù, nghe biết những việc Đức Kitô làm.
Trong diễn biến của
Tin Mừng của ông, Matthêu bốn lần nói về Gioan Tẩy Giả... và luôn có liên quan
với Đức Giêsu.
Mt 3,1-7 Gioan Tẩy Giả
rao giảng "Nước Thiên Chúa" và làm phép rửa cho Đức Giêsu …
Mt 4,12 Việc bắt giữ
Gioan Tẩy Giả, người định đoạt cho Đức Giêsu “khởi đầu”…
Mt 11,2-18 Gioan từ
trong ngục, đặt những câu hỏi về Đức Giêsu và Đức Giêsu đặt những câu hỏi về
Gioan cho đám đông. Đó là đoạn chúng ta đọc hôm nay:
Mt 14,1-13 Cái chết
của Gioan, loan báo phần thứ hai của sứ vụ của Đức Kitô.
Ông liền sai môn đệ
đến hỏi Người rằng: "Thưa Thầy, Thầy có thật là Đấng phải đến không, hay
là chúng tôi còn phải đợi ai khác?"
Chính với lòng nhiệt
thành mà Gioan trông đợi Đấng Mêsia. Chúa nhật trước chúng ta đã thấy sự sôi
sục của quần chúng đã được khơi dậy do tiếng "kêu' của ông, do “Tin Mừng”
của ông: "Nước Trời đã gần kề!".
Thế mà này đây là
Gioan, bây giờ do dự, nao núng. Có lẽ ông ta sẽ không lầm lẫn chăng? Cái
"hoài nghi” này có gây xúc động như thế ư? Và chúng ta cố đặt vào địa vị
của Gioan. ông đang ở trong ngục, trong cái chiến lũy Macheronte, một cái pháo
đài, khiếp đảm và kiên cố của Hêrôđê xây dựng chắc chắn vào một mỏm núi đá của
hoang mạc Mô-áp, phía đông Biển Chết. ông ta có giờ để suy nghĩ. Đó là một tù
nhân bị giam trong bốn bức tường. Đây là cái thử thách khủng khiếp nhất:
"đức tin" bị nao núng... Một thứ tiếng kêu phá hoại khơi gợi ông ta:
"tất cả chuyện gì anh tin cho tôi giờ, đều sai lầm cả... Giêsu của anh đâu
phải Đấng Mêsia, ông ta không có khả năng giải thoát mi ra khỏi ngục.
Vâng, Gioan Tẩy Giả,
vừa nghĩ đến những dòng dõi cứu thế thời mình, vữa chờ một Mêsia chiến chúng:
một Đức Ki tô của dòng Đa-vít, Đấng được Xức Dầu của Thiên Chúa, Đấng có lẽ
giải phóng Do Thái khỏi tay quân thù... một Đức Kitô siêu việt, Con người mà
Đanien loan báo, đến từ đám mây trời để phán xét tất cả những kẻ dữ của hơi thở
từ miệng người". Và dó chính lâ Mêsia mà Gioa đã loan báo những đám người
ở hoang mạc: viên quan xét đã có sẵn chiếc rìu trong tay để chặt hết tất cả cây
nào không sinh trái, người xay lúa cầm sẵn cái nia để rê trấu khỏi lúa mì.
Sự thất vọng? Đức
Giêsu đang làm thất vọng. Thiên Chúa đang làm thất vọng.
Thiên Chúa cũng hay
làm thất vọng chúng ta. Người không phải như chúng ta tưởng tượng. Thiên Chúa
làm cho Người ta chưng bứng. Và như Gioan Tẩy Giả, chúng ta cứ tiếp tục mong
ước rằng Thiên Chúa làm theo "ý muốn của chúng ta" và giống như hình
ảnh mà chúng ta tạo ra về Người. Bạn hãy nói cho tôi biết tại sao Thiên Chúa
lại để cho vị tiên báo của Người vào tù? Tại sao Thiên Chúa không bênh vực các
bạn hữu của Người? Tại sao Thiên Chúa lại, không giải thoát cho không người bị
tù tội vì Người? Tại sao dường như Thiên Chúa luôn luôn bị những kẻ thù của
mình chiến thắng? Tại sao, Gioan Tẩy Giả, ngôn sứ của Thiên Chúa lại bị Hêrôđê
khóa miệng lại? Tại sao Lời Chúa lại "quá lặng lẽ thế?
Tại sao Chúa ơi, Chúa
yên lặng, khi có biết bao người đang cáo giác người? Tại sao có biết bao điều
xấu, biết bao đau khổ, biết bao chết chóc trong vạn vật thụ tạo? Lạy Chúa, hôm
nay, xin Chúa trả lời cho chúng con hay Chúa có phải là Đấng đem đến cho chúng
coi mềm vui, sự sống và hạnh phúc không hay chúng con lại phải đợi một người
khác?
Chúng con có phải tiếp
tục tin vào Chúa không, hay chúng con phải khước từ Chúa để chúng con hiến mình
cho những người khác? Khủng hoảng đức tin. Những nhà lao tối tăm ở Macheronte.
Đêm tăm tối của Gioan Tây Giả.
Đức Giêsu trả lời:
"Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người
mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng.
Đức Giêsu không trả
lời trực tiếp cho câu hỏi đặt ra. Người không nói "Tôi là Người phải
đến". Người không cho một giải pháp có sẵn. Người gợi cho người chất vấn
phải tự mình tìm câu trả lời cho vấn đề mình đặt ra.
Đức Giêsu, Đấng Mêsia
làm cho người ta chưng hửng, dẫn lại những đoạn Kinh Thánh, lấy trong ngôn sứ
Isaia (Is 26,19; 29,18; 35,5; 61,1). Khi đắn đo kể những đoạn này, hơn là các
đoạn khác, Đức Giêsu cho thấy Người đã chọn là "loại Mêsia nào":
Thiên Chúa Đấng đã sai Người đến không tỏ mình ra qua những cử chỉ của quan xét
và của người hiếu thắng, nhưng bằng những cử chỉ tốt lành đối với những người
thất thế và người đau khổ: mù lòa, què quặt, phong cùi, điếc lác... Và ý nghĩa
sâu xa của hành động chữa lành này được thấy rõ trong hai việc lành sau cùng
được nói lên: ‘cái chết’ bị đánh bại... người nghèo được rao giảng Tin Mừng...
Đấy chính là niềm vui mới!
Những câu hỏi mà chúng
ta đặt ra về Gioan Tẩy Giả, những hoài nghi mà chúng ta có về Chúa, thì bây giờ
chính chúng tại đem ta trở lại với "chính ta": bạn đã cáo giác Chúa,
bạn làm gì trên thế gian này để giúp đỡ những người đau khổ, để giải phóng
những người bị đè nén, để làm cho số phận của các anh chị em ta trở nên tốt
hơn?
Dấu hiệu đích thực là
Thiên Chúa ở đó, và Nước Người đã bắt đầu, chính khi có tình yêu! Chúng ta
‘không phải đợi một ai khác nữa’.
Câu trả lời của Đức
Giêsu cho Gioan Tẩy Giả phải trở nên một câu hỏi khẩn thiết đối với mỗi Ki tô
hữu, và đối với Giáo Hội nói chung: Giáo Hội hôm nay, Người có là cộng đoàn
tình yêu của Đức Giêsu và của "Tin Mừng của Người cho người nghèo không
hay chúng tôi phải chờ đợi một Giáo Hội khác nữa? Và bạn, bạn có tự hiến thân
cho những người thấy bạn sống những dấu chỉ của Đức Giêsu không? Đón tiếp, ủi
an, cứu vớt, yêu thương.
Phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi
Bản văn Hy Lạp nói ở
đây: "Phúc cho ai không bị làm gương mù vì tôi”. Tiếng
"skandalon" là hình ảnh gợi ra viên đá trên đường mà người nào cũng
dẵm lên. Đức Giêsu, nhờ những dấu chỉ bất ngờ Người đưa ra, có thể trở nên một
cơ hội "vấp ngã" đối với chính Gioan Tẩy Giả. Điều nghịch lý. Người
rao giảng, hôm Chúa nhật trước, đã mời các đám đông người sám hối ở trên bờ
sông Giođan, bây giờ được mời để tự Sám hối. Vâng, Gioan Tẩy Gỉa được mời đi
tới một đức tin sâu xa hơn. Vị tiền hô được mời để tin vào Thiên Chúa, ngay
trong cảnh tù đầy, bằng cách chấp nhận như một lối thoát khỏi cảnh tù đày này
mà không phải là sự cứu thoát bởi một Thiên Chúa toàn năng... những cái chết
của mình, hiệp thông với cái chết, chẳng bao lâu nữa, của Đấng Mêsia trên thập
giá. Lòng tin của chúng ta cũng thế, không phải là một "sự vật" chiếm
hữu lấy một lần thay cho tất cả. Thật là tốt cho chúng ta biết mấy khi thấy một
người khổ tu, một vị thánh, "ngôn sứ vĩ đại nhất"... được mời để làm
cho đức tin lớn lên, được mời để không bị "vấp phạm" vì Đức Giêsu.
Họ đi rồi, Đức Giêsu
bắt đầu nói với đám đông về ông Gioan rằng: "Anh em ra xem gì trong hoang
địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em ra xem gì? Một người
mặc gấm vóc lụa là chăng? Kìa những kẻ mặc gấm vóc lụa là thì ở trong cung điện
nhà vua. Thế thì anh em ra xem gì? Một vị ngôn sứ chăng? Đúng thế đó; mà tôi
nói cho anh em biết, đây còn hơn cả ngôn sứ nữa.
Đức Giêsu bây giờ khen
ngợi Gioan Tẩy Giả.
“Giêsu, ông là ai? Đức
Giêsu hỏi đám đông. Đám đông không trả lời chi cả. Yên lặng. Dẫu vậy câu hỏi
của Đức Giêsu trở nên sống động, tiến lên từng nấc, nhắc lại ba lần: một cây
sậy? một ông hoàng? một ngôn sứ? A không! Người không phải là cây sậy bị cơn
gió nào cũng làm lung lay, người đàn ông chốn hoang địa này đáng phải vào tù vì
thái độ cương nghị của ông: đó là một người can đảm (Gr 1,10-17). A, không, ông
không phải là người tinh tế, có khả năng sống trong sự dễ dãi, người đàn ông
này mặc áo da súc vật như Êlia (2 V 1,8). Đức Giêsu nói: Đó là một ngôn sứ, và
còn hơn là một ngôn sứ.
Chính ông là người
Kinh Thánh đã nói tới khi chép rằng: Này Ta sai sứ giả của Ta đi trước mặt Con,
người sẽ dọn đường cho Con đến
Như trong phần thứ
nhất, để xác định căn tính của Đấng Mêsia ở đây Đức Giêsu dẫn một lời Kinh
Thánh để xác định căn tính của Gioan. Và đó là đoạn sách Malakhi (3,1). Nhưng
Đức Giêsu đã sửa nguyên văn của Cựu ước, và điều này rất có ý nghĩa Malakhi đã
viết: "Này Ta sai sứ giả của Ta đến dọn đường trước mặt Ta". Trong
đoạn này chỉ có hai nhân vật: Thiên Chúa và sứ giả của Người.
Đức Giêsu -khi giải
thích đoạn trích dẫn, đặt vấn đề ba nhân vật: Thiên Chúa, sứ giả đi dọn đường,
và Đấng sẽ đến”; tức là Đấng mà Thiên Chúa xưng là cha con: “trước mặt
Con!". Khi Đức Giêsu dẫn Kinh Thánh, người cho mình như Đấng Mêsia đã được
loan báo. Và vì thế, Người đi dọn chỗ dùng kỹ xảo với nguyên bản: Malakhi tập
trung vào người sứ giả Đức Kitô chú trọng đến "Đấng chuẩn bị sứ giả".
Như thế bằng cách bày tỏ cho đám đông hiểu căn tính sâu xa của Gioan Tẩy Giả,
thì Đức Giêsu còn tỏ cả căn tính của mình.
Tôi nói thật với anh
em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông Gioan
Tẩy Giả. Tuy nhiên, kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời còn cao trọng hơn ông.
Chúng ta lặn ngụp, một
lần nữa, vào trong ý thứ mà Đức Giêsu có về bản thể sâu xa, và vai trò của
Người trong lịch sử Đức Giêsu có ý thức khơi động một thay đổi lịch sử thật sự.
Có "trước" người và "sau' người. Lịch sử thế giới đang ở một
bước ngoặt. Nếu Đức Giêsu Nagiarét này chỉ là một anh dân làng nhỏ bé kiêu kỳ,
thì cuộc phiêu lưu của Người sẽ không kéo dài. Điều đó có lẽ không đúng, nhưng
cuộc phiêu lưu lại kéo dài liên miên. Đức Giêsu đã dứt khoát và thực sự chia
cắt lịch sử làm hai. Một kỷ nguyên mới đã bắt đầu với Người. Và Đức Giêsu có
thể nói thực sự rằng con người thánh thiện nhất, vĩ đại nhất của Cựu ước, còn
là người bé nhỏ hơn người Kitô hữu hèn mọn nhất của kỷ nguyên mới bắt đầu...
Một cách nghịch lý chúng ta đi vào thời đại của "những người bé mọn":
tự khi Thiên Chúa nhập thể làm "đầy tớ", thì sự vĩ đại quyền lực,
chính là trở nên "bé mọn". Trong khi chịu thử thách, Gioan đã học
được điều đó.
Trong cuốn “Thư ngỏ
tuổi đôi mươi”, André Maurois cảnh báo về “những mối nguy của thời đại chúng
ta”, về cái dại khờ đáng kể trong sự nhận biết. Ông viết:
Chúng ta đã thấy những
cái điên khùng không tưởng tượng nổi. Nhật báo Anh đã đăng tin một nhà chơi
dương cầm vô danh quảng cáo rầm rộ rằng sẽ có một buổi diễn tấu nhạc yên lặng.
Đúng ngày đó, phòng chật ních thính giả. Bậc diệu thủ im lặng ngồi trước mặt
đàn, làm bộ chơi đàn không gây một âm thanh nào cả. Thính giả liếc trộm các
người ngồi bên xem có nên phản kháng không. Nhưng các ông ngồi bên cứ thản
nhiên, cử toạ đều kiên nhẫn, ngồi yên. Sau hai giờ yên lặng buổi tấu nhạc chấm
dứt. Nhạc sĩ đứng dậy chào thính giả. Cử toạ nồng nhiệt vỗ tay khen. Hôm sau,
trên vô tuyến truyền hình, nhạc sĩ im lặng đó kể lại câu chuyện và kết: “Tôi
muốn biết xem cái ngu xuẩn của con người tới mức nào; nó thật vô biên.”
Maurois nói: “Tôi thì
tôi không nói “cái ngu xuẩn” mà nói “cái nhu nhược” của con người. Những thính
giả đó biết rằng họ không nghe thấy gì cả, nhưng họ sợ rằng nếu phản kháng thì
không hợp thời.”
Cái vấn đề ở đây không
phải là phải gọi nó như thế nào, mà là người ta có thực sự muốn tìm kiếm sự
thật hay không.
Đấng Cứu Thế đã đến,
với những dấu chỉ đã được tiên tri Isaia tiên báo: “Người mù xem thấy, kẻ què
bước đi, người cùi được sạch, kẻ điếc nghe được …” nhưng sự cứng lòng của dân
chúng mới thực sự là vấn đề phải quan tâm. Cái trở ngại đáng kể cho việc đón
nhận Đấng Cứu Thế là người ta chỉ ao ước và tìm kiếm một ơn cứu độ đậm màu trần
tục, mà không nhận ra và từ chối, và chống đối chính Đấng Cứu Thế: “phúc thay
người nào không vấp ngã vì tôi.”
Cho một cuộc vui, thì
việc không thấy được điều cần thấy cũng có thể được trả lời bằng một lý do biện
minh nào đó, nhưng chẳng thể coi câu hỏi về ơn cứu độ là một trò đùa: “Anh em
ra xem gì trong hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió chăng? Thế thì anh em
ra xem gì? Một người mặc gấm vóc lụa là chăng?” (Mt 11,7-8)
Gioan xác tín Chúa
Giêsu là Đấng Cứu Thế, và rao giảng về Người: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các
anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế
hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh
trong Thánh Thần và lửa.” (Mt 3,11). Thế nên khi Chúa Giêsu đến xin ông làm
phép rửa cho thì “ông một mực can Người và nói: “Chính tôi mới cần được Ngài
làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!” (Mt 3,14)
Vậy thì tại sao ông
lại khi sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu “Thầy có thật là Đấng phải đến không”?
Khi sai môn đệ đến hỏi Chúa về điều mà ông đã xác tín, Gioan muốn gửi một sứ
điệp đến chúng ta, để chúng ta ý thức rằng tin không là việc chạy theo số đông,
mà là dấn thân một cách ý thức cho một chọn lựa riêng tư và quan trọng nhất của
đời mình;
Cuộc dấn thân đó là
hết sức quan trọng vì người ta chỉ có một cuộc đời để sống, và không có chỗ để
thử: “Thầy có phải là Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi Đấng
nào khác?”
Tin theo Đấng Cứu Thế
là một cú nhảy chí mạng nên đã tin là phải theo đến cùng, như thánh Giacôbê cổ
vũ các tín hữu sơ khai kiên nhẫn, đón chờ kết quả phải đến của đời sống đức
tin: “xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ
kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá.” (Gc 5,7)
Một người đàn bà mua
vé xe lửa đi qua một vùng có nhiều phong cảnh đẹp để thưởng ngoạn. Lên tàu, bà
loay hoay mãi mới để các gói hành lý lên giá cho đúng ý mình, rồi chỉnh lại màn
che cửa sổ cho phù hợp với ánh nắng, rồi lại đi lên đi xuống kiếm cho được một
chỗ ngồi êm ái, rồi mở ví ra kiểm tra lại xem tiền có còn đủ cho chuyến về
không, và tính toán xem có thể mua những gì với túi tiền của mình.
Cuối cùng, khi vừa
ngồi yên để thưởng ngoạn phong cảnh đẹp bên ngoài thì cũng là lúc tàu đến chỗ
chỗ dừng tàu. Bà càu nhàu: “Xe chạy mau quá, chưa kịp xem gì thì đã đến nơi
rồi!”
Cuộc du ngoạn của đã
bị đánh mất, vì những việc chẳng đâu vào đâu! Thế nhưng đâu là những việc choán
đầy cuộc sống của tôi hôm nay? Phải chăng cuộc đời tôi giống như những gì được
ĐHY Nguyễn văn Thuận đã mô tả: “Đứng trên tầng lầu cao nhìn xuống đường, con
thấy làn sóng người cuồn cuộn. Đủ loại xe, đủ hạng người, dành nhau, tông nhau,
đâm đầu chạy, vội vã hấp tấp, hốt hoảng, vì tình, vì tiền, vì tham vọng, vì đua
sống.” (ĐHV 82)
Tôi nói rằng tôi tin
vào Chúa … nhưng nay Chúa đang ở đâu trong đời tôi?
39. Vọng và Hy Vọng – Antôn Lương Văn Liêm
“Nơi hoang địa cằn cỗi
sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy
chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).
Hạnh Phúc, Bình An và
Hy Vọng, luôn là điều mà ta mơ ước đạt được trong nhịp sống hằng ngày. Đặc biệt
là Hy vọng.
Một câu chuyện ngụ
ngôn kể rằng:
Trong một căn phòng
nhỏ khang trang và ấm cúng. Vào một buổi tối, chủ nhân căn phòng thắp lên 3
ngọn nến. Ngọn nến thứ nhất sắc màu đỏ, mang tên Hạnh Phúc, ngọn nến thứ 2 sắc
màu vàng mang tên Bình An, và Hy Vọng mang sắc màu xanh là tên của ngọn nến thứ
3.
Sau khi đã thắp sáng
ba ngọn nến và đặt chúng gần nhau, chủ nhân lui ra. Điều đầu tiên là cả ba ngọn
nến đều cảm thấy tự hào vì với ánh sáng tuy nhỏ bé, nhưng rọi sáng cả một gian
phòng, hơn nữa hơi nóng từ ánh sáng của chúng làm ấm lên giữa tiết trời đông
giá. Sau niềm tự hào đó, ba ngọn nến cùng tâm sự, kể cho nhau nghe những điểm
nổi bật của bản thân.
Đầu tiên, ngọn nến
Hạnh Phúc cất tiếng tâm sự với hai bạn rằng:
- Này hai bạn, đối với
cuộc sống của con người, mình rất quan trọng, vì không có mình thì những nước
mắt và khổ đau, luôn đi theo con người. Hơn nữa mình rất mạnh mẽ, không có gì
có thể dập tắt mình được. Vì thế chủ nhân đã cho mình mang sắc màu đỏ.
Ngọn nến Hạnh Phúc vừa
dứt lời, ngọn nến Bình An tiếp lời:
- Cuộc sống của con
người, nếu không có mình, họ luôn cảm thấy bất an, lo lắng… đời sống của họ như
chìm vào bóng tối, mình cũng như bạn rất khỏe và rất mạnh mẽ, mình có thể chịu
đựng và luôn sáng tỏ dẫu có phong ba bão táp ập đến. Mình mang màu sắc vàng là
vì thế.
Cả hai ngọn nến Hạnh
Phúc và Bình An đều cảm thấy tự hào về những gì mình bộc bạch, tâm sự. Riêng
ngọn nến Hy Vọng, sau khi nghe hai bạn tâm sự. Ngọn nến Hy Vọng cất tiếng nhỏ
nhẹ rằng.
- Hai bạn ơi! Hai bạn
đều ngang tài ngang sức với nhau, riêng mình thì chỉ là bóng mờ mà thôi, nhưng
mình nghĩ, trong nhịp sống của con người, nếu vắng bóng hai bạn, mà không có
mình kề bên thì chắc có lẽ sẽ tồi tệ biết là dường nào phải không? Tuy mình yếu
ớt và mờ nhạt, nhưng mình tin chắc mình sẽ chịu đựng được, khi gặp phải những
làn gió nhẹ cũng như mạnh, màu sắc xanh của mình muốn nói lên điều đó.
Ngọn nến Hy Vọng vừa
dứt lời, hai ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An cảm thấy đắc ý với những gì mình
đang có, cùng cất lên tiếng cười sảng khoái. Bỗng một làn gió thổi ngang, đầu
tiên là ngọn nến Hạnh Phúc vụt tắt chỉ còn lại làn khói mỏng manh, kế đến là
ngọn nến Bình An cùng chung số phận, riêng ngọn nến Hy Vọng, tuy chao đảo nhưng
ánh sáng vẫn cứ leo lét rồi bừng sáng khi cơn gió đi qua.
Sau khi được chủ nhân
thắp sáng lại nhờ ánh sáng của ngọn nến Hy Vọng, ngọn nến Hạnh Phúc và Bình An
quay sang cám ơn ngọn nến Hy Vọng và nói: “Cám ơn bạn rất nhiều, may mà có bạn,
tụi này lại được thắp sáng ”.
Vâng! Chính niềm hy
vọng là động lực giúp ta vượt qua những nghịch cảnh của cuộc sống.
Trong cuộc sống thường
nhật, dù là ai, lứa tuổi nào; trình độ cao, thấp, giàu hay nghèo, đời sống tận
hiến, hay giữa đời thường… Đều nuôi và dưỡng niềm hy vọng như:
Nơi những bậc làm cha
làm mẹ, luôn hy vọng gia đình ấm êm, hạnh phúc, con cái khôn lờn, khỏe mạnh và
nên người.
Với tuổi trẻ, luôn hy
vọng một tương lai rực sáng, với những thành công cả về tri thức, công việc,
tình yêu.
Những bậc cao niên,
sau một thời bương chải, giờ gối mỏi tay run, luôn hy vọng có sức khỏe, con
cháu sum họp kề bên, để vui hưởng tuổi già trong bình an và hạnh phúc.
Với những hoàn cảnh
như: Thất nghiệp, nợ nần, thiếu thốn, bệnh tật hiểm nghèo, bất hòa, chia
rẽ…luôn hy vọng “sau cơn mưa trời lại sáng”.
Khi những cám dỗ của
tiền, quyền, danh lợi, lạc thú… đánh gục những thành viên trong gia đình, và
ngay như chính bản thân, luôn hy vọng một ngày nào đó, người ngã quỵ sẽ đứng
lên để vượt thắng cám dỗ.
Đời người hữu hạn,
luôn hy vọng sau khi từ giã cuộc đời trần thế, được vui hưởng phúc Thiên Đàng…
Tất cả những niềm hy
vọng đó, đều được thắp sáng nhờ một Đấng mà khi xưa dân Do Thái đã ngày đêm
ngóng đợi, không chỉ dân Do Thái xưa, nhưng toàn thể nhân loại qua mọi thời
đại, trong đó có ta vẫn luôn khắc khoải mong chờ. Đó chính là Ngôi Hai Thiên
Chúa, Đấng khơi nguồn hạnh phúc, bình an và luôn thắp sáng niềm hy vọng cho
những ai đón nhận Ngài là Cứu Chúa của mình. Đây chính là tâm tình sống mùa
vọng.
Nhưng để thực sự nhận
ra Thiên Chúa qua Đức Kitô là Cứu Chúa, Đấng thắp sáng niềm hy vọng cho ta
trong cuộc sống, là điều không phải dễ, những lúc yên hàn đã khó, gặp phải
những lúc đắng cay, thử thách, điều này còn khó gấp vạn lần. Hình ảnh của ông
Gioan Tẩy Giả minh chứng cho ta thấy.
Là một ngôn sứ vĩ đại
và cuối cùng của thời Cựu Ước, một Ngôn Sứ mà chính Đức Kitô đã nói về ông:
“Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai
cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả” (Mt11,11). Nơi dòng
sông Giođan, chính ông Gioan Tẩy Giả đã hân hoan, mạnh dạn, giới thiệu một con
người mang tên Giêsu, xuất thân từ làng quê Nararét, sinh trưởng trong một gia
đình nghèo hèn là Đấng Kitô, là Chiên Thiên Chúa, Đấng cứu độ trần gian, đây
chính là Đấng mà các Ngôn Sứ khi xưa đã tiên báo, là niềm đợi trông và hy vọng
của toàn dân Do Thái.
Như ta đã biết khi ông
Gioan Tẩy Giả bị cầm tù, niềm đợi trông, hy vọng, những gì ông Gioan Tẩy Giả đã
từng giới thiệu như bị xáo trộn và chợt lu mờ, ông không dám chắc lời giới
thiệu của mình đúng hay sai, qua việc ông sai đệ tử đến gặp và hỏi Đức Kitô như
Tin Mừng đã trình thuật: “Ông Gio-an lúc ấy đang ngồi tù, nghe biết những việc
Đức Ki-tô làm, liền sai môn đệ đến hỏi Người rằng: Thưa Thầy, Thầy có thật là
Đấng phải đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác?” (Mt.11,2-30).
Để thắp sáng lên niềm
đợi trông và hy vọng nơi ông Gioan Tẩy Giả, Đức Kitô đã không trả lời đúng hay
sai Ngài trả lời theo như những gì mà trước đây Ngôn Sứ Isaia đã tiên báo: “Đức
Giê-su trả lời: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gio-an những điều mắt thấy tai
nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được
nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào
không vấp ngã vì tôi” (Mt11,4-6). Câu trả lời bao hàm sự nhắc khéo ông Gioan
hãy mạnh dạn và đừng sợ, hãy làm chứng cho sự thật dù có phải hy sinh tính
mạng, niềm mong đợi và hy vọng của dân Do Thái và của chính ông đã và đang
thành sự nơi Đức Kitô
Tuy không giáp mặt,
chỉ bằng lời nhắn gởi, Đức Kitô đã thắp sáng niềm hy vọng nơi ông Gioan Tẩy
Giả, để rồi ông mạnh dạn bảo vệ sự thật, bảo vệ luân lý và tiếp tục làm chứng
cho Đức Kitô. Điều này đã đưa ông đến cái chết qua việc trả thù của người phụ
nữ lăng loàn Hê-rô-đi-a (Mt14,3-12).
Ta đang sống trong mùa
vọng, đặc biệt trong tuần lễ thứ 3, với phẩm phục màu hồng của vị chủ tế, Thiên
Chúa qua Giáo hội mời gọi ta hãy sống trong tâm tình vui lên và hy vọng Đức
Kitô đã đến, sẽ đến và đang đến, chính Ngài sẽ đem lại cho ta Hạnh Phúc và Bình
An, ban tặng cho ta hạnh phúc Nước Trời, Ngài sẽ thắp sáng niềm Hy Vọng cho ta,
dẫu ta đang phải bị những cám dỗ bủa vây và ngã quỵ; hay ta đang sống trong
cảnh màn trời chiếu đất; đang phải chống trả với những khổ đau của bệnh tật, nợ
nần, đói nghèo, thất nghiệp, bất hòa chia rẽ. Chính Ngài là chất xúc tác là sức
mạnh, là động lực cho ta đứng lên và tiến bước.
Ngày xưa ông Gioan Tẩy
Giả tuy sống cảnh tù đày, không có cơ hội chứng kiến, giáp mặt Đức Kitô, nhưng
Lời của Đức Kitô đã giúp ông lấy lại tất cả sức mạnh, niềm hy vọng tưởng chừng
vụt tắt giữa quyền lực của thế gian. Đây chính là bài học cho ta trong cuộc đời
Kitô hữu, đặc biệt trong bổn phận và trách nhiệm làm chứng và giới thiệu Đức
Kitô cho mọi người, nhất là những người chưa có khái niệm gì về Đức Kitô. Chính
Đức Kitô luôn ở bên ta, với ta nơi bí tích Thánh Thể, Lời Ngài nói với ta qua
Tin Mừng, Ngài hiện diện quanh ta qua những người anh em.
Để nhận ra Đức Kitô và
lời của Ngài, Như ông Gioan xưa, trước tiên là ta lui vào cõi lặng, lui vào
hoang địa, sống đời sống khiêm hạ, đơn sơ. Hình ảnh của Mẹ Maria, Thánh Cả
Giuse là tấm gương sống động nhất cho ta noi theo, trong việc đón nhận và lắng
nghe Lời của Đức Kitô trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, kế đến là ta
sống trong tâm tình mà Thánh Giacôbê nhắn nhủ ta qua thư của ngài: “Thưa anh
em, xin anh em cứ kiên nhẫn cho tới ngày Chúa quang lâm. Kìa xem nhà nông, họ
kiên nhẫn chờ đợi cho đất trổ sinh hoa màu quý giá: họ phải đợi cả mưa đầu mùa
lẫn mưa cuối mùa. Anh em cũng vậy, hãy kiên nhẫn và bền tâm... Kìa Vị Thẩm Phán
đang đứng ngoài cửa. Thưa anh em, về sức chịu đựng và lòng kiên nhẫn, anh em
hãy noi gương các ngôn sứ là những vị đã nói nhân danh Chúa. Kìa xem: chúng ta
tuyên bố: phúc thay những kẻ đã có lòng kiên trì! Anh em đã nghe nói đến lòng
kiên trì của ông Gióp và đã thấy mục đích Chúa nhắm, vì Chúa là Đấng từ bi nhân
hậu” (Gc.5,7-11).
Ước chi nhờ ơn Chúa giúp,
ta có được đức tin sắt đá, sự tỉnh thức, lòng kiên nhẫn, niềm hy vọng. Đây
chính là những điều cần thiết giúp ta hân hoan đón nhận tất cả những phúc lành
của Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên ta, như viễn cảnh mà Ngôn Sứ Isaia xưa đã
giới thiệu: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và
nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng” (Is.35, 1-2).
Lạy Chúa! Con đang
sống trong tuần lễ mà Giáo Hội là Mẹ mời gọi con hãy vui lên, hãy hy vọng vì
Chúa đã đến gần. Xin Chúa giúp con biết dành thời gian tâm sự với Chúa nơi bí
tích Thánh Thể, chuyên tâm lắng nghe Lời Chúa nơi Tin Mừng. Nhờ đó mà niềm vui
và niềm hy vọng của con luôn được Chúa thắp sáng bằng tình yêu của Chúa ngay
bây giờ và mãi về sau. Amen.
40. Ngài là ai? – Lm Phaolô Nguyễn Văn
Đông
Khác hẳn với các xã
hội do con người thiết lập, xã hội mới của Thiên Chúa sẽ dành những chỗ nhất
cho những người nghèo và khiêm tốn. Còn người lớn nhất sẽ là những người có tâm
hồn rộng mở đón nhận tất cả mọi người. Đó là những người đã được thanh luyện
qua những đau khổ và thử thách mà họ đã trải qua trong gần hết cuộc đời mình.
Sách Tiên tri Is 35,
1-6a.10
Trong lúc Assyri tàn
phá Vương quốc Giu đa và lưu đày Vương quốc Israen, Isaia loan báo rằng một đám
đông người bị bỏ rơi, bị khinh dể, bị thương tích sẽ được Thiên Chúa đến Cứu
độ. Dân Thiên Chúa sẽ phải trải qua những đau khổ trong một cuộc xuất hành mới
trước khi được Thiên Chúa ban cho sự sống phong phú.
Thánh Vịnh 145
Khác với những kẻ nắm
quyền hành trên trần gian, Thiên Chúa là nơi nương tựa vững chắc mà tất cả
những kẻ bé nhỏ có thể tin cậy
Thư Gia cô bê 5, 7-10
Trong thư, Thánh Gia
cô bê mạnh mẽ nhắc lại rằng trong Giáo hội, những kẻ bé nhỏ và những người
nghèo hèn không thấp kém hơn những người giàu. Ngài khuyên nhủ phải kiên trì và
tin tưởng như người gieo giống.
Tin mừng: Mt 11,2-11
Ngữ cảnh
Trong tù, nghe thuật
lại những gì Chúa Giê su đã làm, Gioan hoang mang tự hỏi: Phải nghĩ về Ngài như
thế nào? Ngài có thật là Đấng đã được loan báo không? Những nghi vấn đặt ra về
Chúa Giê su, một điều không hề có trước đây, đã khởi đầu một khúc quanh trong
Tin Mừng Mát thêu. Các chương đi trước trình bày Chúa Giê su đầy quyền năng
trong việc giảng dạy (cc.5-7), làm phép lạ (8-9) cũng như trong việc sai các
Tông đồ truyền giáo (c.10), thật khác xa với hình ảnh một vị Thẩm phán mà người
ta được loan báo (3,101-2). Bây giờ, đã đến lúc đặt vấn đề về căn tính Mê sia
của Chúa Giê su. Ngài có thật là đấng Mê sia không?
Có thể đọc đoạn tin
mừng nầy theo bố cục sau đây:
- Nhập đề: câu hỏi
Gioan đặt ra cho Chúa Giê su (11,2-3)
- Câu trả lời của Chúa
Giê su (11,4-6)
- Chúa Giê su ca ngợi
Gioan Tẩy giả (11,7-11)
TÌM HIỂU
Ông Gioan đang ngồi
tù: Gioan thẳng thắn chỉ trích hành vi của Hêrôđê vì ông ta đang sống bất chính
với chị dâu của mình. Và hậu quả là ông đã bị Hêrôđê trả thù, và bị tống giam
trong ngục.
Thầy có thật là Đấng
phải đến không?: đối với Gioan, đấng phải đến là một đấng đầy quyền uy (x.
3,11: Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi). Một vị Thẩm phán đáng sợ, lấy
lửa chẳng hề tắt mà tiêu diệt mọi tội nhân không ăn năn hối cải (x. 3,10-12)
đúng theo truyền thống CƯ (x. Ml 3,1-3). Nhưng những gì ông biết về cách thức
Chúa Giê su thi hành sứ vụ hoàn toàn không tương ứng với ý tưởng mà ông có về
cuộc phán xét sẽ phải xảy ra. Do đó câu hỏi của ông khiến mọi người ngạc nhiên.
Hơn nữa có một tương
quan mật thiết giữa câu hỏi của vị Tẩy giả và thân phận tù đầy của ông. Đấng
Thiên sai mà người ta mong chờ sẽ đến giải cứu tù nhân, nhất là các tù nhân đức
tin (Lc 4,18; Is 61,1), ông chẳng phải là người đầu tiên được cứu thoát sao?
Các anh cứ về thuật
lại cho Gioan: thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su mời gọi ông hãy tự
mình tìm ra câu trả lời ngang qua những gì những dấu chỉ Ngài đã làm. Đó là con
đường đưa con người đến đức tin.
Không vấp ngã vì tôi:
dịch sát chữ: “hòn đá hay chướng ngại làm cho ai vấp té” chỉ tất cả những gì
khiến cho người ta sa ngã trên con đường luân lí hay đức tin. Chúa Giê su thấy
trước rằng cách trả lời của Ngài có thể làm cho Gioan thất vọng, vì hình ảnh của
ông về Đấng Mê sia quá khác biệt với những gì Chúa Giê su đã thực hiện.
Về ông Gioan: Chúa Giê
su khen ngợi ông Gioan: Ngài coi ông ngang hàng với các Tiên tri lớn nhất thời
Cựu Ước và ca ngợi ông đã nghiêm khắc và kiên cường rao giảng Tin mừng. Đồng
thời Ngài cũng cho thấy khoảng cách giữa vị Tiền hô và Đấng mà ông chuẩn bị con
đường cho Ngài.
SỨ ĐIỆP
“Ngài có phải là đấng
phải đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác?”. Đó là câu hỏi đầy khó khăn
mà Gioan Tẩy giả đặt ra cho Chúa Giê su sau một thời gian dài nhìn thấy những
gì Chúa Giê su đã làm. Thật vậy, khi làm phép rửa cho Ngài ở bờ sông Gio đan,
ông đã thực sự xác tín rằng Ngài chính là Đấng Messia. Ông đã lớn tiếng nói cho
mọi người biết điều ấy, và đồng thời loan báo rằng Đấng Messia sẽ nghiêm khắc
thực hiện phán quyết của Thiên Chúa.
Thế rồi tháng ngày
trôi qua, Gioan Tẩy giả đã bị cầm tù. Còn Chúa Giê su rời xa gia đình để bắt
đầu sứ vụ. Và không có điều gì xảy ra như ông đã báo trước. Những lời giảng dạy
và hành vi của Đức Ki tô không có gì giống với cuộc phán xử chung thẩm. Trái
lại, Ngài đã qui tụ một nhóm người chài lưới quê mùa, thất học làm môn đệ; Ngài
thường lui tới tiếp xúc với những người tội lỗi và những kẻ tai tiếng. Điều ấy
khiến Gioan Tẩy giả tự nhủ: mình có lầm về đấng Messia không? Ngài có phải là
Đấng mà thiên hạ đợi trông không? Ông nghi ngờ về chính những gì mình đã loan
báo.
Cách thế tốt nhất để
biết rõ, là đi hỏi. Ông mong muốn được Chúa Giê su soi sáng, giúp ông thấy rõ
hơn về sứ mạng của Ngài. Nên ông quyết định sai một vài môn đệ đến hỏi: “Thầy
có phải là đấng phải đến không?”. Thay vì trả lời thẳng cho Gioan, Chúa Giê su
mời gọi ông hãy nhìn và hãy tin: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các người
đã thấy: Người mù được thấy, người què đi được, người điếc nghe được, kẻ chết
sống lại và Tin Mừng được loan báo cho những người nghèo khổ”.
Tất cả những điều ấy
dường như trái ngược hoàn toàn với bài đọc thứ nhất loan báo sự báo oán của
Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu đọc kĩ, thì chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa không báo
thù bằng cách tàn sát con cái của Ngài. Thiên Chúa đến là để cứu thoát và nâng
con người chỗi dậy. Đó là sự chiến thắng của sự lành trên sự dữ. Đấng Thiên
Chúa mà Chúa Giê su loan báo là tình yêu và lòng thương xót. Đó là một tin mừng
mà chúng ta tìm thấy trong các sách tin mừng và đem lại cho chúng ta niềm vui
và hi vọng.
Rõ ràng Thiên Chúa đến
là để cứu độ, nhưng với điều kiện là chúng ta cần đến và tiếp nhận Ngài. Vì
thế, những ai cậy dựa vào sức mạnh, quyền thế, kiến thức hay của cải thì không
thể tiếp nhận ơn ban giải thoát của Người. Những ai chỉ cậy vào sức riêng mình
để tự giải thoát thực sự không cần đến Thiên Chúa. Chính vì thế mà Gioan Tẩy
giả đã loan báo cơn thịnh nộ dữ dội của Thiên Chúa dành cho họ. Án phạt sẽ được
thi hành ngay tức khắc.Và sám hối là điều cần phải làm ngay.
Chúa Giê su không phủ
nhận vai trò của ông Gioan Tẩy giả, trái lại khi đề cập đến ông, Ngài hết lời
ca tụng ông. Nhưng vì ông là một tiên tri giao thời giữa Cựu và Tân ước, nên
Chúa Giê su kết luận rằng người nhỏ nhất trong Nước Trời lại lớn hơn ông vì
thuộc về Giao Ước mới.
Tin mừng mạc khải cho
chúng ta một khuôn mặt khác của Thiên Chúa. Quả thật, Người là đấng toàn năng,
nhưng đó không phải là sự toàn năng đáng sợ của một người khổng lồ, mà là sức
mạnh của một tình yêu không biên giới. Ngài không đến để tiêu diệt, nhưng để
ban cho chúng ta cơ hội để sám hối, vì Ngài không muốn một ai phải hư mất. Nước
Thiên Chúa mà Ngài vừa loan báo dành cho tất cả mọi người. Đó là ơn ban không
tốn phí và không đòi hỏi một công trạng nào về phía chúng ta.
Vì thế, Thiên Chúa báo
thù bằng cách sai chính Chúa Giê su đến với chúng ta. Bằng những bước chân êm
đềm, nhưng chắc chắn Ngài đến để mạc khải cho chúng ta thế giới mới, thế giới
của Thiên Chúa. Người ta chỉ có thể nhận ra Ngài nếu biết thay đổi cái nhìn về
Ngài. Đó là điều quan trọng, vì Thiên Chúa của chúng ta không tương ứng với
hình ảnh mà chúng ta có về Ngài. Chúng ta hình dung Ngài theo cách nghĩ của
người thời nay, chỉ biết quan tâm đến những lợi ích cá nhân. Có người chờ đợi
một vì Thiên Chúa kiểu ông già Nô ên, để xin ban cho mọi sự được an lành trong
đời sống. Có người thì tưởng tượng một vì Thiên Chúa cảnh sát, dùng sức mạnh và
áp chế lập lại trật tự trong thế giới đầy ích kỉ nầy, một vì Thiên Chúa sẽ ra
tay uy quyền chận đứng mọi chiến tranh và trừng phạt những người từ chối chia
sẻ.
Không, Thiên Chúa
không phải là một vì Thiên Chúa tháo gỡ các khó khăn thay cho chúng ta và miễn
cho chúng ta khỏi trách nhiệm. Một vì Thiên Chúa đích thật thì hoàn toàn khác:
trong lễ Giáng sinh, Ngài hiện đến trong vóc dáng của một bé thơ bé bỏng, mềm
yếu, một người không có gì để cho. Đôi tay nhỏ bé của Ngài không mang theo gì
cả, hoàn toàn tùy thuộc và cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Nhưng khi giúp cho
chúng ta ra khỏi chính mình để hướng về phía Ngài, Ngài sẽ biến đổi trái tim
chúng ta, giúp chúng ta cảm nghiệm niềm vui và hạnh phúc khi trao ban.
Do đó, sứ điệp lớn
nhất của mùa vọng chính là một lời mời gọi đặt chúng ta trong tư thế tiếp nhận:
đã đến lúc chúng ta phải ra khỏi giấc ngủ mê. Thiên Chúa không ban tặng chúng
ta một Vương Quốc làm sẵn nhưng đang hình thành. Chúng ta phải dọn một con
đường cho Chúa đến trong chúng ta. Chúng ta đang sống trong một thế giới mang
dấu ấn chiến tranh, hận thù, và thiếu hiểu biết. Và chính trong thế giới đó mà
Chúa Giê su muốn gặp chúng ta, vì Ngài mang đến một tin vui: tình yêu của Ngài
không ngừng ban tặng cho chúng ta. Ngài là nguồn suối đem lại bình an nội tâm.
Nơi Ngài chúng ta học cách sống chung liên đới với nhau như anh chị em một nhà.
Như thế mỗi người sẽ được nhìn nhận trong sự khác biệt và sự phong phú, sẽ phục
vụ thiện ích cho mọi người.
Xin Chúa Ki tô mở mắt
và tai chúng ta, xin Ngài đặt chúng ta trên đường đến với Ngài và đến với tha
nhân; ước gì Tin mừng Ngài đã đến mang lại biến đổi thực sự đời sống chúng ta
và cho thế giới.