THỨ TƯ - TUẦN 4
Bài đọc 1Năm lẻ:
Hãy làm cho những bàn
tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy coi chừng có ai lừng khừng
mà mất đi ân sủng của Thiên Chúa. (Dt 12,12.15)
Có một cậu bé đang làm việc ở một cửa hàng ở Luân Đôn. Mỗi sáng,
cậu thức dậy lúc 5 giờ và làm việc 14 giờ một ngày. Sự kiện này diễn ra suốt
hai năm. Cậu cảm thấy vô cùng thất vọng và có ý định muốn tự tử. Ngày nọ, cậu
viết lá thư thống thiết cho thầy giáo cũ và cho biết cậu không còn muốn sống
nữa. Ông thầy hồi âm cho cậu với những lời khuyến khích, xác quyết chân thành
và tình yêu thực sự. Lá thư đó đã thay đổi cuộc đời cậu bé. Thật vậy, cậu đã
trở thành nhà văn nổi tiếng nhất của Anh là H.G.Wells.
Lần
cuối cùng tôi hy sinh và cố gắng giúp ai đó như cậu bé kia là khi nào? Giờ đây
ai là người cần tôi giúp đỡ?
Ước mong lớn trong đời
là có ai giúp ta làm những gì ta có thể làm được. (Ralph Waldo Emerson)
Bài đọc 1 Năm chẵn:
[Đavít ra lệnh làm một
cuộc kiểm tra dân số]. Nhưng sau khi tính sổ dân, lòng ông những bùi ngùi, và
ông thưa với Chúa: “Tôi đã phạm tội rất nặng nơi điều tôi vừa làm. Xin bỏ qua
tội của tôi” (2Sm 24,10)
Một câu nói được ưa thích của Carlos Romulo lãnh tụ vĩ đại của nước
Philippin, là “Hãy đặt niềm tin vào Thiên
Chúa” Trong bài đọc hôm nay, Đavít tỏ ra không đặt niềm tin vào Thiên Chúa,
sở dĩ ông muốn điều tra dân số, là vì ông muốn biết xem có bao nhiêu đàn ông có
thể phục vụ quân ngũ. Đối với Do thái giáo, một cuộc kiểm tra dân số như thế là
phản ánh sự thiếu tin tưởng vào Chúa. Nó cho thấy sự tin tưởng vào khả năng bảo
vệ từ sức mạnh của con người, hơn là từ Thiên Chúa.
Lúc
nào và nơi nào trong đời, tôi cảm thấy khó nói lên với chính mình: “Hãy tin
tưởng vào Chúa” Tại sao?
Khi không có ai giúp đỡ,
bạn hãy thấy nơi Chúa tất cả những người giúp đỡ bạn. Khi có nhiều người giúp
đỡ, bạn hãy thấy Chúa trong họ. (Charles Haddon Spurgeon)
Bài Tin Mừng:
[Một số người dân làng
của Chúa Giêsu khước từ Ngài, họ nói:] “Ông ta không phải là bác thợ mộc, con
trai bà Maria đó sao?” Chúa Giêsu đã không thể nào làm phép lạ ở đó, bởi vì họ
không có lòng tin (Mc 6,3.5-6).
Cha Paride Taban trở về Sudan
sau khi được thụ phong linh mục tại Uganda. Ban đầu, đồng bào của ngài
gạt bỏ ngài. Họ nói: “Ông mà là một linh
mục ư? Thật khó tin. Ông cũng da đen như chúng tôi và cũng là thành viên của bộ
tộc Madi này. Làm sao ông có thể là linh mục của Chúa như những nhà truyền giáo
da trắng?” Paride đã trả lời họ bằng giọng thông cảm. Hai năm sau những kẻ
chối bỏ ngài đã đón nhận ngài với một tình cảm sâu sắc.
Việc
Chúa Giêsu và cha Paride bị khước từ mời gọi tôi tự hỏi: tôi đã chấp nhận ra
sao khi bị chối bỏ, đặc biệt là bởi những người tôi yêu mến?
Để giữ trạng thái cân
bằng, người nào đó đã có một con chó tôn thờ anh ta, thì cũng nên có một con
mèo phớt lờ anh ta.