Lời Chúa tuần 32 thường niên _ câu truyện minh họa

 

LỜI CHÚA TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA 

CNTN 32A – AI DẠI – AI KHÔN

CNTN 32B - HAI ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA NGHÈO

CNTN 32C -

THỨ HAI - BỔN PHẬN VỚI ĐỒNG LOẠI

THỨ BA - ĐÚNG VỊ TRÍ, LÀM ĐIỀU PHẢI LÀM

THỨ TƯ - BIẾT TẠ ƠN THIÊN CHÚA

THỨ NĂM - SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

THỨ SÁU - SỐNG TRONG NGÀY CỦA CHÚA

THỨ BẢY - CẦU NGUYỆN LÀ SỨC MẠNH

LỄ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATERANO

 

 
CNTN 32A – AI DẠI – AI KHÔN

Lời Chúa Mt 25, 1-13

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả.

"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người. Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt cả'. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: 'E không đủ cho chúng em và các chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn'. Song khi họ đang đi mua, thì chàng rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: 'Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi'. Nhưng Người đáp lại: 'Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các ngươi'.

"Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào.”

TRUYỆN KỂ

1. Sẵn sàng

Cách đây 1900 năm, núi lửa Vesuve đã phun lên ở Ý. Toàn bộ thành phố Rompei đã bị chôn vùi dưới lớp phún xuất thạch dày tới 6 mét và giữ nguyên dạng như thế cho đến nay. Khi các nhà khảo cổ khai quật, mọi người đều ngạc nhiên và sửng sốt. Phún xuất thạch đã làm đông cứng tất cả trong tư thế đang có khi tai hoạ đổ xuống: Thân xác con người bị huỷ hoại, nhưng trong khi huỷ hoại, chúng đã để lại những lỗ trống trên lớp tro cứng.

Người ta dùng thạch cao đổ vào những lỗ trống ấy và khôi phục lại được hình dạng của các nạn nhân. Chẳng hạn một người mẹ đang ôm chắt đứa con trong vòng tay của mình, một người lính Rôma đang đứng thẳng tại trạm gác với đầy đủ vũ khí, anh ta đã trung thành với bổn phận cho tới giây phút cuối cùng. Một người đàn ông tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, rải rác chung quanh là năm xác chết, có lẽ là những kẻ định cướp số vàng trên.

2. Đánh mất nước trời

Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:

– Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?

Các gia nhân đáp:

– Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.

Người quản gia nói:

– Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.

Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:

– Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?

Người quản gia nói:

– Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!

3. Sống ngày cuối đời

Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn 1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?" Kết quả của cuộc thăm dò cho thấy:

* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với gia đình.

* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng đó với gia đình.

* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong những giờ phúc cuối đời.

* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.

4. Người khờ dại hơn

Trong triều đình có một quan hầu cận chuyên môn đi bên cạnh nhà vua để mua vui trong triều. Một hôm quan hầu cận nói đùa một câu rất ngớ ngẩn khờ dại khiến nhà vua không hài lòng lắm nên nhà vua đưa cho quan một cái gậy và nói, “Từ nay trở đi nhà ngươi phải giữ lấy cây gậy này như là một hình phạt. Ngươi phải giữ nó cho tới khi ngươi gặp một người nào đó khờ dại hơn ngươi thì lúc đó sẽ trao cây gậy cho người ấy!”

Ít năm sau nhà vua lâm bệnh nặng và nằm liệt trên giường. Vua cho triệu tập mọi người thân cận trong triều đến và dặn dò, “Trẫm sửa soạn lên đường. Trẫm sẽ đi đến một nơi rất xa; và trẫm sẽ không trở lại đây nữa; do đó trẫm muốn triệu tập mọi người trong triều đến để từ giã.”

Nghe nhà vua nói như vậy, quan hầu cận hỏi nhà vua, “Tâu bệ hạ, thần xin được hỏi một điều. Thường thì khi đi đâu xa như thăm dân, đi họp ngoại giao hay đi thăm những nước láng giềng, Bệ hạ luôn cho người đi trước để dọn đường chuẩn bị. Thế thì lần này Bệ hạ đã có chuẩn bị cho chuyến đi xa quan trọng này chưa?”

Nhà vua trả lời, “Trong chuyến đi này, trẫm không có sự chuẩn bị gì cả.”

Quan hầu cận liền nói, “Như thế thì xin trẫm nhận lại cây gậy này, bởi vì bây giờ khanh đã tìm được người ngố và khờ dại hơn khanh!”

5. Hướng đạo sinh: sắp sẵn

Ông Baden Powell đã sáng lập phong trào Hướng đạo năm 1907. Đây là một sinh hoạt giới trẻ, mục đích để đào luyện thanh niên, nên người tốt cho bản thân mình và cho cả xã hội nữa. Đầu tiên là nhắm đến việc đào tạo thanh niên Âu châu, con nhà giàu, dư ăn, chỉ biết hưởng thụ. Sau vì thấy phong trào hoạt động có hiệu quả, nên nhiều nước đã du nhập phong trào. Châm ngôn của Hướng đạo sinh là: “sắp sẵn." Hai chữ này muốn nói lên hướng đạo sinh, dù ở hoàn cảnh nào, vẫn có thể sống được và sống tốt. Họ có thể sống chung với mọi người, có thể sống riêng rẽ một mình, ở giữa chợ hay cắm trại trong rừng sâu…

6. Titanic

Câu chuyện: Con tàu Titanic, được coi là con tàu không thể chìm, đã rời cảng Queenstown, Anh quốc làm cuộc hải trình đầu tiên đi Nữu Ước, với 2.200 hành khách, ngày 10/04/1912.

Ai nấy đều ca tụng con tàu, vừa sang trọng, vừa to lớn, còn cho là nó không thể chìm. Có người hớn hở nói: Thiên Chúa cũng không đánh bại được nó nữa…Vậy mà sau bốn ngày, vào đêm thứ 7, nó đụng phải một tảng băng khổng lồ, khiến tàu bể làm ba mảnh; lúc 2g 20 chiều Chúa Nhật, nó chìm hẳn, mang theo 1522 mạng. Số người sống sót hầu hết là đàn bà và trẻ con.

Tàu Titanic bị chìm là do tính kiêu căng, cẩu thả, chạy theo lợi nhuận của chủ tàu và những người có trách nhiệm. Mới đây giở lại hồ sơ, người ta mới hiểu rõ, hơn 2000 hành khách, vậy mà chỉ có lối 400 áo phao cứu hộ. Võ tàu được làm mỏng hơn 2,54 cm và các đinh tán đóng thưa hơn 2cm (1/8 inch) theo bản thiết kế, để tàu nhẹ hơn 2500 tấn, và có thể chạy nhanh hơn các tàu khác, dù nó to lớn…. 1522 người đã chết, trong lúc họ không muốn chết, có phải đáng là bài học cho mỗi người kitô hữu chúng ta không?

Phải biết sẵn sàng như cô dâu đón chàng rể, đến vào lúc họ không ngờ, vào giờ họ không không chuẩn bị. Câu chuyện này đáng là bài học cho ta suy ngẫm lời Chúa chúa nhật hôm nay.

7. Tôi đã sẵn sàng

Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita:

– Có cần gì nữa chăng?

Thánh nữ trả lời:

– Không, tôi đã sẵn sàng.

Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay chưa?

8. Cho ngày hôm nay

Trong mục “cửa sổ tâm hồn” của báo Tuổi trẻ có đăng một bài với tựa đề “cho ngày hôm nay” như sau:

Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.

Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những tội lỗi, những thiểu sót và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể nào hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!

Còn một ngày nữa mà chúng ta không nên lo lắng, đó là ngày mai với những kẻ thù quá quắt, những gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề. Mặt trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau đám mây, nhưng dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và trước khi nó mọc lên, vào ngày mai chúng ta chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra.

Vì vậy chỉ còn một ngày duy nhất là ngày hôm nay. Bất cứ ai cũng đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải qua ngày hôm nay khiến người ta phát điên rồi – mà đó chính là sự hối tiếc về những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem đến.

9. Khách trọ

Vào thế kỷ thứ 19, một tác giả vô danh đã kể câu chuyện về một người Mỹ đi du lịch sang Ba Lan, đến thăm thầy Rabbi Hofetz Chaim là người đang được dân chúng kính trọng như một vị thánh rất khôn ngoan.

Khi đến nơi cư ngụ của thầy Rabbi, người khách du lịch quá ngạc nhiên khám phá thấy rằng chỗ đó chỉ có một phòng duy nhất mà thôi. Sách vở xếp hàng dọc theo bờ tường; đồ đạc trong nhà chỉ có một cái bàn và một cái ghế. “Nhưng thưa thầy Rabbi”, người khách hỏi, “Đồ dùng của thầy ở đâu?”

Thầy Rabbi trả lời bằng cách hỏi lại, “Thế đồ dùng của ông ở đâu?” “Đồ dùng của con?” người du khách lúng túng nói, “Con chỉ là một người khách đến đây, trọ qua đường." “Tôi cũng thế” thầy Rabbi Hofetz Chaim trả lời, “tôi cũng là khách trọ qua đường vậy thôi."

10. Sự sống và sự chết

Một tác giả trong thành phố Nữu Ước nói chuyện về tuổi thơ ấu của ông ta như sau: Trước ngày sinh nhật thứ mười của ông ta, gia đình ông đã đổi chỗ sinh sống tới mười lần. Kỷ niệm khó quên nhất của ông mỗi lần đến vùng đất mới là luôn luôn chứng kiến sự than khóc của người mẹ trong ngôi nhà mới. Ông đã nhớ lại sự khóc lóc đau khổ của người mẹ khi bà ta mở những thùng đồ ra. Ông cũng nhớ lại người cha của ông nói với ông, “Này con, mẹ con sẽ không sao. Mẹ chỉ chào tạm biệt những người bạn mà mẹ bỏ đi, thì mẹ có thể làm quen được với những người bạn mới ở đây. Vậy con phải chấp nhận sự đau khổ của mẹ.”

Vào mùa cắm trại hè, có chú bé đã đi tới bệnh xá rên rỉ vì bị cảm lạnh. Cô y tá nói với bé: “Cô sẽ cho em một viên thuốc cảm, em sẽ khỏi; đồng thời, cô cho em biết em có một hồ sơ tốt. Em đã không bao giờ bịnh trước đây.” Cậu bé đó đã viết thơ về nhà: “Kính thưa ba má! Hôm nay con bị bệnh. Ba má đoán xem con bịnh gì! Cô y tá nói ngày giờ của con đã được ghi sổ.” Thật ra, định mệnh của mỗi người đã được ghi sổ. Nhưng đối diện với thực tại đó Chúa đã có lời hứa lý thú cho chúng ta là từ thân xác hay chết này sẽ sống lại và tái sinh trong thân xác thiêng liêng sáng láng.

Nữ diễn viên nổi tiếng Helen Hayes nói rằng thời gian đau khổ nhất đến trong cuộc sống của cô là sau khi người con gái mười chín tuổi của cô chết vì bệnh bại liệt. Cô nói rằng thu thập mảnh vỡ của cuộc đời cô và tiến về phía trước là một điều đau đớn nhất cô đã từng làm, nhưng cô đã tìm cách giải quyết được nó, lấy lại nghề nghiệp, và đã làm những điều lạ lùng chống lại bệnh tê liệt. Một lần nọ bác sĩ Jonas Salk nói với cô, “Bạn là một vũ khí lợi hại nhất tôi có trong trận chiến chống lại thứ bịnh này.” Một vài năm trước đây, cô Hayes đã thu tất cả gia tài của cô đem đi bán đấu giá và cho tất cả số tiền đó tới hội từ thiện. Khi người ta phỏng vấn, cô nói, “Tôi từ bỏ những thứ đó để tôi không bị vướng víu khi tôi hướng về trời.” Từ bỏ! Không vướng víu! Hướng về trời! Sự chết và tái sinh!

11. Con ve và con kiến

Câu chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến chắc chúng ta đã nghe và biết nhiều. Con ve làm việc suốt ngày không có thời gian nghĩ ngơi, nó ca hát suốt, nên nó cũng mệt mỏi sau một ngày làm việc. Nhưng nó chỉ làm vì hiện tại, làm những gì mình thích, làm mà không cần biết đến tương lai. Nó chỉ nhìn thấy những gì của hôm nay và chỉ có thế. Còn con kiến, nó cũng làm việc suốt ngày, nhưng dường như không ai biết, không ai nhìn thấy, không ai nghe được tiếng của nó. Sau một ngày làm việc có lẽ nó cũng mệt. Nhưng ngày hôm sau nó lại tiếp tục, nó biết chuẩn bị cho tương lai, nó mang về kho những gì cần thiết.

Mùa đông đến, khi mọi vật không thể làm việc được nữa, vì tất cả tìm nơi trú ẩn để trốn cái lạnh khắc nghiệt. Con kiến cũng không còn làm việc được, nó cũng trốn cái lạnh. Nhưng nó không lo lắng gì, vì đã có đủ thức ăn dự trử cho suốt cả mùa đông. Còn con ve, tội nghiệp thay, nó cũng chịu mùa đông lạnh giá như bao nhiêu thú vật khác. Nhưng những con khác lạnh mà không đói, vì chúng biết dự trữ, còn con ve vừa lạnh lại vừa đói, vì nó cũng làm việc nhưng không biết phòng xa, không biết chuẩn bị cho tương lai, nó chỉ làm những gì nó thích trong hiện tại mà thôi, nên giờ đây nó cũng đành chấp nhận số phận như thế.

12. Người ung thư sẵn sàng

Cách đây nhiều năm, nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giải phẫu.

Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai, chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình.

Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng.

Đó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em vẫn đọc. Đó là “Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh” thường đọc sau rước lễ: Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật, lòng chừa cải cho vững. Đang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Đavid phán tiên tri về Chúa con rằng: “Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra."

13. Làm vua một năm

Trong một vụ đắm tàu, đoàn thuỷ thủ chết hết, chỉ còn xót lại một thanh niên trẻ. Nhờ tấm ván anh lênh đênh trên mặt biển cả suốt mấy ngày đêm. Anh hoàn toàn kiệt sức vì đói khát, gío lạnh, nằm chờ chết. Trời phật thương tình, nổi cơn gió lớn đưa anh dạt vào một hòn đảo giữa đại dương. Cư dân trên đảo cứu anh sống, rồi phong làm vua. Anh ngỡ ngàng hết sức, tưởng mình nằm mơ. Dân trên đảo bàn tán sôi nổi với nhau mà anh chẳng hiểu chi. Anh cố gắng học ngôn ngữ của họ. Sau hiểu ra, theo thói tục, mỗi người chỉ được làm vua có một năm, sau đó bị đày ra một hòn đảo hoang vu, xa cư dân và bỏ cho chết đói. Anh thuỷ thủ trẻ lo lắng sợ hãi quá. Vận may hoá thành tai hoạ. Anh thức suốt đêm, tìm ra một phương kế để không bị chết đói sau khi mãn hạn một năm. Anh dùng quyền làm Vua của mình phái một số nông dân giỏi ra đảo canh tác trước, biến nó thành màu mỡ, sản xuất đủ lương thực thực phẩm. Nhờ khôn ngoan anh đã thành công lớn. Sau năm mãn hạn anh ung dung ra đảo với tương lai vững chắc.

Chúng ta cũng chỉ làm vua ở thế gian này bất quá một đời người, cho nên phải biết khôn ngoan lợi dụng thời gian, tài năng để lo liệu cho cuộc sống tương lai như người thủy thủ trẻ. Bằng không, sẽ ngu dốt như năm cô trinh nữ dại khờ.

14. Đón Chúa đến thăm

Một buổi sáng nọ, người ta thấy bác thợ đóng giày thức dậy từ sáng sớm. Sau khi dọn dẹp cửa hàng ngăn nắp, bác vào phòng khách ngồi đợi đón vị khách quý là Chúa Giêsu, mà đêm hôm ấy bác đã nằm mơ gặp mặt Người và Người hứa sẽ ghé nhà thăm bác vào lúc ban ngày.

Đột nhiên có tiếng gõ cửa gấp. Bác thợ giày vui sướng vì không ngờ Chúa lại đến thăm bác vào lúc sáng sớm. Nhưng khi cửa mở thì người đứng ngòai không phải là Chúa Giêsu, mà là ông lão phát thư quen thuộc. Mặt ông ta bị tím tái do thời tiết ngoài trời băng giá. Bác liền mở rộng cửa đón ông vào ngồi bên lò sưởi ấm áp. Rồi bác đi pha bình trà nóng mời khách.

Sau khi tiễn người đưa thư, bác thợ giày lại ngồi chờ. Nhìn qua khung kính cửa sổ, bác thấy một bé gái đang đứng khóc ngoài hiên. Bác ra mở cửa đón em vào nhà hỏi chuyện. Em cho biết đã đi vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi khô về nấu nước xông giải cảm cho mẹ em. Do trời mưa tuyết trắng xóa khiến em bị lạc không tìm ra đường về nhà. Nghe vậy, bác thợ giày vội viết vài chữ dán ngòai cửa thông báo cho vị khách quý là Chúa Giêsu biết mình sẽ vắng nhà đến chiều, để đưa cô bé về nhà của cô.

Khi tìm thấy ngôi nhà của em và thấy mẹ em đang bị sốt run rẩy nằm trên giường, bác vội đi mời ông bác sĩ gần đó đến thăm bệnh và cho toa, rồi bác đi mua thuốc mang về cho người bệnh uống. Khi bệnh nhân đã hồi phục sức khỏe bác mới vội về nhà thì trời đã khuya. Bác thợ đóng giầy chẳng còn thiết gì đến ăn uống, nằm vật ra giường nhắm mắt ngủ say như chết.

Trong giấc ngủ, một lần nữa bác lại nằm mơ gặp được Chúa Giêsu. Người vui vẻ nói với bác: “Ta cám ơn con hôm nay đã đón Ta vào nhà để sưởi ấm khi Ta đang lạnh cóng. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà, đã chăm sóc giúp ta đang đau được sớm bình phục. Vì mỗi khi con phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật, là con đã phục vụ cho chính Ta đó” (x. Mt 25,40-42).

15. Sẵn sàng

Chuyện kể rằng tại chùa Tô Châu bên Trung Quốc, có một nhà sư tên là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ. Khi có người thắc mắc, hỏi về chiếc quan tài này, nhà sư trả lời: “Người ta sống tất nhiên sẽ có lúc phải chết. Mà chết rồi sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm này. Tôi thực lấy làm lạ: người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh, tài sắc... mà chẳng hề nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa ý, tôi liền ngồi vào bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu, sau đó tôi cảm thấy tâm hồn mình được bình an.”

 “Người ta sống tất có lúc phải chết.” Sống xứng đáng với những gì mình được ban cho ở đời này và có sự chuẩn bị tốt nhất cho đời sau của mình. Đó là sống trong sự “tỉnh thức”, là sự khôn ngoan trong Tin Mừng. Chúng ta được mời gọi luôn sống “tỉnh thức”, là chu toàn các bổn phận và tìm kiếm thi hành thánh ý Chúa trong những công việc làm hằng ngày, ngay từ bây giờ.

Điều gì đang làm bạn quá âu lo, khiến bạn thiếu sót những bổn phận lẽ ra bạn phải làm. Bạn đã sẵn sàng cho sự thay đổi đó như thế nào?

Suy ngẫm cùng với thánh Âu-tinh, sau khi đã thức tỉnh và từ bỏ lối sống sa đoạ để trở về với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Tự thuật I, 1, 1).

16. Dại – khôn

Tìm kiếm sự khôn ngoan là mối bận tâm của tất cả mọi người. Nhưng khám phá ra đâu là dại, đâu là khôn thì không phải là chuyện dễ dàng. Nhà thơ Trần Tế Xương đã “triết lý” về cái lẽ “dại khôn” ấy rằng:

“Thiên hạ đua nhau nói dại khôn.

Biết là ai dại biết ai khôn.”

Chúa Giêsu kể dụ ngôn mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể để dạy chúng ta biết phân định sự khôn ngoan không phải theo quan niệm của đời này mà là theo chuẩn mực của Tin Mừng. Sự khôn ngoan ấy hệ tại tinh thần tỉnh thức, sẵn sàng cho những đòi hỏi của Nước Trời. Hình ảnh chiếc đèn luôn đầy dầu nói lên sự chuyên chú, trung kiên sống theo những giá trị của Tin Mừng mọi lúc trong cuộc sống cho đến lúc kết hợp trọn vẹn với Chúa trên Nước Trời.

17. Cầu nguyện là tỉnh thức

Paul Tournier, bác sĩ tâm thần người Thụy Sĩ đã đánh dấu cuộc hoán cải của ông bằng việc dành trọn một giờ để cầu nguyện. Đây xem ra là một kinh nghiệm thử thách và khô khan. Nhưng khi một giờ trôi qua, có một cái gì đó thúc đẩy ông cầu nguyện lâu hơn một chút. Ông đã làm và cuối cùng được cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa và điều này đã thay đổi cuộc đời ông. Ông cảm thấy sợ khi nghĩ được rằng mình đã gần như mất đi cơ hội đó.

Đôi khi tôi có khuynh hướng rút vắn hoặc kéo dài giờ cầu nguyện khi xem ra đó là một thử thách và khô khan không?

Người chậm giận hơn trang hào kiệt, Người tự chủ hơn kẻ chiếm được thành. (Cn16,32)

18. Chờ đợi

Có một phụ nữ trẻ được chẩn đoán mắc bệnh nan y và chỉ còn sống được ba tháng. Khi đã thu dọn đồ đạc xong, chị liên lạc với cha xứ và mời ngài đến nhà để trao đổi về những mong muốn cuối cùng của chị.

Chị nói với ngài những bài hát nào chị muốn hát trong thánh lễ an táng, những bài đọc nào chị muốn đọc và bộ trang phục nào chị muốn mang khi được chôn cất. Mọi việc đã ổn thỏa và khi cha xứ đang chuẩn bị ra về, người phụ nữ trẻ chợt nhớ ra một điều rất quan trọng.

Chị hào hứng nói: “Còn một điều nữa.” Cha xứ hỏi: “Đó là cái gì vậy?” Người phụ nữ trẻ đáp: “Điều này rất quan trọng. Con muốn mình được chôn với một chiếc nĩa trên tay phải.” Cha xứ ngạc niên đứng nhìn người phụ nữ, không biết phải nói gì. Người phụ nữ trẻ hỏi: “Điều đó làm cha ngạc nhiên phải không?” Cha xứ nói: “Thành thật mà nói, tôi thấy bối rối trước yêu cầu này."

Người phụ nữ trẻ giải thích: “Bà con từng kể cho con nghe câu chuyện này và chính đó là lúc con nảy ra ý tưởng. Con cũng luôn cố gắng truyền tải sứ điệp của nó đến những người con yêu thương và những người đang cần sự động viên. Trong tất cả những năm tham dự các buổi tiệc của giáo xứ, bà luôn nhớ rằng khi các món chính đã được dọn đi, chắc chắn sẽ có người nghiêng người qua bà và nói: ‘Hãy giữ nĩa của bạn!’ Đó là phần yêu thích của bà trong bữa ăn vì bà biết rằng sẽ có món gì đó ngon hơn sắp mang đến, chẳng hạn như bánh sô-cô-la hay bánh táo sữa. Một món gì đó tuyệt vời và có chất lượng hơn! Vì vậy, con chỉ muốn mọi người nhìn thấy con trong quan tài với một chiếc nĩa trên tay và con muốn họ thắc mắc, “Cái nĩa đó để làm gì vậy?”

* Vậy thì con muốn cha nói với họ: “Hãy giữ nĩa của bạn – vì điều tốt đẹp nhất vẫn chưa đến.”

19. Chuẩn bị

Một chàng trai trẻ nộp đơn xin làm công nhân trong một nông trại. Khi được hỏi về trình độ chuyên môn, anh nói: “Tôi có thể ngủ ngay cả khi có gió mạnh thổi." Điều này khiến người nông dân thắc mắc, nhưng ông thích chàng trai trẻ nên thuê anh ta.

Vài tuần sau, người nông dân và vợ ông bị đánh thức trong đêm bởi một cơn bão dữ dội. Họ nhanh chóng bắt đầu kiểm tra mọi thứ để xem liệu tất cả có an toàn không. Họ nhận ra rằng dàn cửa của ngôi nhà trong trang trại đã được đóng chặt. Một đống củi khô đã được đặt cạnh lò sưởi. Các nông cụ được đặt trong kho bảo quản, an toàn trước mối đe dọa của thời tiết. Chiếc máy kéo đã được chuyển vào gara. Nhà kho đã được khóa cẩn thận. Mọi thứ đều ổn. Ngay cả các con vật cũng bình an.

Lúc này người nông dân mới hiểu được ý nghĩa câu nói của chàng trai: “Gió thổi mạnh tôi vẫn có thể ngủ." Vì chàng trai đã làm công việc của mình một cách chu đáo và cẩn thận khi trời quang mây tạnh nên anh đã sẵn sàng cho cơn bão khi nó ập đến. Vì vậy, khi gió thổi, anh không hề sợ hãi. Anh vẫn có thể ngủ yên.

* Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về điều tương tự, đó là có thể ngủ khi gió thổi mạnh, nói cách khác, là sự chuẩn bị sẵn sàng.

20. Sống hạnh phúc

Trong một tờ của tạp chí TIME gần đây có tựa đề: “Tám bước hướng tới một cuộc sống thỏa mãn hơn." Đây là Tám Bước: 1. Chú ý đến những phúc lành của bạn. 2. Thực hành những hành vi tử tế. 3. Tận hưởng niềm vui của cuộc sống. 4. Cảm ơn người lãnh đạo. 5. Học cách tha thứ. 6. Đầu tư thời gian và sức lực cho bạn bè và gia đình. 7. Chăm sóc cơ thể của bạn. 8. Phát triển các phương cách đối phó với căng thẳng và khó khăn. (TIME, 17 (tháng 1 năm 2005), A8-A9.] Hôm nay khi suy ngẫm về dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thêm một bước nữa, Bước thứ 9 vào chiến lược: Hãy chuẩn bị.

* Hãy sẵn sàng bước ra khỏi lối mòn cố hữu của cuộc sống và tin cậy vào Chúa Thánh Thần. Cuối cùng, Chúa Thánh Thần có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức, ẩn hiện và gây bất ngờ. (Cha Leonard Sweet).

21. Chuyện vui về lên thiên đàng

1. Một nhóm người du lịch đang đi thang máy lên đỉnh tòa nhà Empire State. Đến khoảng tầng 102, một người phụ nữ hỏi hướng dẫn viên du lịch: “Nếu dây cáp của thang máy này bị đứt thì chúng ta đi lên hay đi xuống?” Hướng dẫn viên trả lời: “Ồ, điều đó phụ thuộc vào cách sống của bạn.”

2. Một buổi sáng Chúa nhật nọ, một giáo lý viên dạy giáo lý muốn kiểm tra các em trong lớp giáo lý của cô để xem liệu chúng có hiểu hạnh phúc “được lên Thiên đàng” hay không. Cô ấy nói: “Nếu cô bán nhà và xe, và dâng hết tiền cho Giáo hội, điều đó có đưa cô vào Thiên đàng không?” Bọn trẻ trả lời: “Không!” “Nếu cô dọn dẹp Nhà thờ mỗi ngày, cắt cỏ trong sân và sắp xếp mọi thứ gọn gàng ngăn nắp, cô có được vào Thiên đàng không?” Một lần nữa, câu trả lời là “Không!” “Vậy nếu cô đối xử tử tế với mọi người, cho trẻ con kẹo bánh và yêu thương chồng con thì liệu cô có được vào Thiên đàng không?” Một lần nữa, tất cả chúng đều trả lời: “Không!” “Chà,” cô giáo lý viên tiếp tục: “Vậy làm cách nào để cô vào được Thiên đàng?” Một cậu bé mười tuổi hét lên: “Cô phải chết!”

3. Khi Giám mục Philip Brooks, tác giả cuốn sách “O, Little Town of Bethlehem” bị bệnh nặng, ngài đã yêu cầu bạn bè đừng ai đến thăm. Nhưng khi có một người quen của ngài tên là Robert Ingersoll, một người chống đạo nổi tiếng đến gặp, đức cha đã cho phép ông vào phòng mình. Ingersoll nói: “Tôi rất đánh giá cao điều này, đó là việc ngài không cho bất kỳ người bạn thân nào gặp mình.” Giám mục Brooks trả lời: “Ồ, tôi tin chắc sẽ gặp họ ở thế giới bên kia, nhưng đây có thể là cơ hội cuối cùng để tôi gặp bạn."

22. Một cuộc đua

Người Hy Lạp có một cuộc đua độc đáo trong Thế vận hội Olympic của họ. Người chiến thắng không phải là người chạy về đích đầu tiên. Nhưng đó là người chạy về đích với ngọn đuốc vẫn còn cháy sáng. Một số trường học của chúng ta từng mô phỏng điều này qua theo hình thức chạy đua 50 mét dành cho nữ sinh ở các trung tiểu học với những ngọn nến được thắp sáng.

* Chúng ta hãy chạy suốt cuộc đời của mình với ngọn đuốc vẫn thắp sáng cho Chúa.

23. Kết thúc hay bắt đầu

Vào ngày 14 tháng 9 năm 2005, một đồng nghiệp và một người bạn Dòng Tên người Úc, Paddy Meagher, đã từ biệt Ấn Độ sau hơn bốn thập kỷ tận tâm phục vụ ở đây. Anh đang bị những nấm đen ác tính (ung thư da) đột ngột tấn công và lan khắp mặt, để lại những khối u có khả năng ảnh hưởng đến não và cổ họng.

Dũng cảm chịu đựng nỗi đau, anh nói: “Tôi biết mình sắp chết và tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Tuy nhiên, tôi sẽ tiếp tục đọc và viết cho đến khi cái chết đến!” Paddy mất ngày 5 tháng 1 năm 2006.

* Đối với người “trinh nữ khôn ngoan” như thế này, đèn của họ luôn có dầu. Và đối với nhiều nạn nhân của các trận động đất gọi Chúa là Abba hay Allah, những gì chúng ta coi là thời kỳ cuối cùng có thể được gọi là thời gian bắt đầu cho tiệc cưới vĩnh cửu. (Francis Gonsalves in Sunday Seeds for Daily Deeds; được cha Botelho trích dẫn).

24. Bất ngờ

1900 năm trước, núi lửa Mt Vesuvius phun trào ở Ý. Khi vụ phun trào kết thúc, thành phố Pompeii nằm dưới lớp tro núi lửa dày gần một thước. Thành phố vẫn còn như vậy cho đến thời hiện đại, khi các nhà khảo cổ bắt đầu khai quật. Những gì họ tìm thấy làm mọi người kinh ngạc. Có những ổ bánh mì được carbon hóa, trái cây vẫn giữ được hương vị và quả ôliu vẫn còn đầy dầu. Nhưng còn có nhiều khám phá đáng kinh ngạc hơn nữa. Tro núi lửa đã đóng băng mọi người ở đúng vị trí mà họ đang thực hiện khi thảm họa xảy ra. Thi thể người dân bị phân hủy. Khi xảy ra như vậy, họ để lại những lỗ rỗng trong lớp tro cứng. Bằng cách đổ thạch cao lỏng vào các hốc này, các nhà khảo cổ học có thể tạo ra các khuôn đúc của các nạn nhân. Một số diễn viên gợi lên phản ứng cảm xúc. Ví dụ, một trường hợp đó là một bà mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con của mình trong tay. Một trường hợp khác về một người lính canh La Mã vẫn còn ở vị trí của mình, đứng thẳng với đầy đủ vũ khí. Anh vẫn bình tĩnh và trung thành với nhiệm vụ của mình đến cùng. Hình ảnh thứ ba là một người đàn ông đứng thẳng với thanh kiếm trên tay. Chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc. Rải rác xung quanh anh ta là năm thi thể, có lẽ là những kẻ cướp bóc mà anh ta đã giết.

* Các bức tượng thạch cao minh họa một cách đầy ấn tượng hai chủ đề của các bài đọc hôm nay. Chủ đề đầu tiên là về sự bất ngờ xảy ra ngày tận thế và cuộc quang lâm của Chúa Giêsu. (Mark Link in Sunday Homilies; được cha Botelho trích dẫn).

25. Sẵn sàng

Khi Thomas Merton, tu sĩ và tác giả thiêng liêng dòng Trappist qua đời năm 1968, ông đã để lại một di sản văn học tiếp tục nuôi dưỡng những khao khát thiêng liêng và thúc đẩy lương tâm xã hội và chính trị của các tín hữu cho đến ngày nay. Cái chết của Merton do vô tình bị điện giật khi ông đang tham dự một hội nghị của các tu sĩ Phật giáo và Công giáo ở Bangkok, Thái Lan. Thật quá bất ngờ và không đúng lúc. Tuy nhiên, ít có nghi ngờ rằng Merton đã sẵn sàng, giống như các trinh nữ khôn ngoan trong bài Tin Mừng hôm nay, để gặp Chúa.

Trong một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, No Man Is an Island (Không ai là một hòn đảo), vị tu sĩ thánh thiện đã viết: “Trong suốt cuộc đời, chúng ta phải học cách tỉa tót những tim đèn của mình và đổ đầy dầu bằng lòng bác ái trong im lặng... nếu tinh thần vốn giữ ngọn lửa sự sống thể xác cháy trong con người chúng ta, hãy chăm sóc nuôi dưỡng bằng loại dầu chỉ tìm thấy trong lòng bác ái, thì khi thân xác chết đi, tinh thần vẫn tiếp tục cháy với cùng loại dầu đó. Nhưng nếu tinh thần đã cháy hết cùng với dầu cặn là đam mê, ích kỷ, kiêu ngạo thì khi cái chết đến, ngọn lửa tinh thần sẽ tắt theo ánh sáng của cơ thể vì đèn không còn dầu nữa.”( Patricia Datchuck Sánchez)..

26. Phong tục cưới hỏi người Do thái.

Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta thắc mắc nhiều điều vì phong tục cưới hỏi của người Palestine thời Chúa Giêsu khác hẳn với phong tục của chúng ta ngày hôm nay. Muốn hiểu dụ ngôn 10 cô trinh nữ đón chàng rể, ta nên xem qua phong tục của người Do thái.

Tiến sĩ Alexander Findlay để lại những điều ông đã thấy ở xứ Palestine. Ông viết: “Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Galilê, tôi thấy 10 cô gái vẫy tay và đánh đàn vui vẻ, nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe chúng tôi. Tôi hỏi họ đang làm gì vậy? Người hướng dẫn trả lời là họ ra nhập bọn với cô dâu chờ chàng rể đến. Tôi hỏi anh ta xem có dịp thấy đám cưới này không, anh lắc đầu đáp: “Có thể tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa, không ai biết chắc lúc nào đám cưới cử hành.”

Đoạn anh tiếp tục giải thích rằng: một trong những niềm vui lớn nhất trong một đám cưới trung lưu ở Palestine là làm sao bắt gặp nhà gái đang ngủ, vì vậy, chàng rể thường đến bất ngờ, đôi khi vào lúc nửa đêm. Theo ý của công chúng thì chàng rể phải cho một người đi trước để la lên rằng: “Kìa, chàng rể đang đến.” Việc đó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, nên nhà gái phải luôn luôn sẵn sàng đi ra đường để đón chàng rể khi chàng đến. Những điểm quan trọng khác là không ai được phép ở ngoài đường sau khi trời tối nếu không có đèn. Khi chàng rể đến và cửa đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Đó là toàn thể quang cảnh dụ ngôn mà Chúa Giêsu nêu ra.

Dụ ngôn có nhiều chi tiết nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn dựa vào phong tục rước dâu để nói lên sự tỉnh thức và sẵn sàng.

CNTN 32B - HAI ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA NGHÈO

Lời Chúa: Mc 12, 38-44

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng: "Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng, ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn.”

Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ hai đồng tiền là một phần tư xu.

Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con: Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết.

Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình.”

TRUYỆN KỂ

1. Bà Oseola Mc Carthy

Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng "Lòng từ thiện" của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.

Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng đại học phía bắc Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên Oseola Mc Carthy xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.

Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: “Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla.”

2. Nhường phòng cho khách

Cách đây khá lâu, một đêm kia, có đôi vợ chồng mới cưới đi về một vùng quê xa xôi thì bị mắc phải cơn mưa rào dữ dội. Không thể đi xa hơn nữa, họ liền rời khỏi xe và đi bộ về hướng một căn nhà có thắp ngọn đèn lù mù. Khi họ bước vào nhà thì gặp đôi vợ chồng già tay cầm đèn dầu tiến ra cửa. Người thanh niên trình bầy tình trạng khó khăn, đoạn yêu cầu: “Quí ngài có thể cho chúng tôi trú ngụ đến sáng được không? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được.”

Ngay lúc đó có vài hạt cơm dính trên mái tóc người thiếu phụ mới đến rơi xuống sàn nhà. Đôi vợ chồng chủ nhà liếc thấy liền đưa mắt nhìn nhau thông cảm. Bà chủ nhà lên tiếng: “Được chứ, các cháu! Chúng tôi vừa có được một căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe khi chồng tôi và tôi dọn dẹp căn phòng cho tươm tất một chút.”

Sáng hôm sau, đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không muốn quấy rầy hai vợ chồng già, họ lặng lẽ mặc quần áo, đoạn họ đặt tờ 10 đôla lên chiếc tủ, rồi nhón chân đi xuống cầu thang. Khi mở cánh cửa thông qua phòng khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy đôi vợ chồng già đang nằm ngủ trên những chiếc ghế dựa. Té ra cặp vợ chồng già này đã nhường cho đôi tân hôn căn phòng ngủ duy nhất của họ. Chàng thanh niên và cô vợ nén lại vài phút, đoạn anh ta nhón chân quay lên cầu thang và đặt thêm 5 đôla nữa lên chiếc tủ

3. Người buôn cam

Ngày xưa, ở Hàng châu có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như vàng ngọc.

Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà không thèm? Cơ tôi cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Tôi liền ra chợ lại, tìm gặp người bán cam trách móc:

- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối lắm.

Người buôn cam mỉm cười nói:

- Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Ong thật không nghĩ cho đến nơi. Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan võ lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Cao Dao, Y Doãn không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham nhũng không biết trừng trị. Pháp hộ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của lạ, oai vệ hách dịch vô cùng!..

Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bên trong lại chẳng hôi thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông không chịu xet những hạng người như thế, mà lại đi xét quả cam tôi"?

4. Những người nghèo quảng đại

Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla. Ông ta bị toàn thân bất toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông.

Hôm ấy, sau khi nhận được 15 Mỹ kim do một người bị bất toại 20 năm gửi tặng, một con người sống cô đơn, chỉ có điếu thuốc lá là người bạn duy nhất của ông, Mẹ Têrêsa đã đến thăm ông và an ủi ông, người đã chân thành nói với Mẹ rằng:

- Thưa Mẹ, con đã hết hút thuốc cả tuần nay rồi, và đó là số tiền con dành dụm được để biếu Mẹ hầu Mẹ có thể dùng nó mua cơm bánh cho các người nghèo khổ.

Câu truyện cảm động khác xẩy ra vào thời điểm thành phố Calcutta thiếu đường. Bấy giờ có một cậu bé độ khoảng 4 tuổi đã đến đưa cho tôi một bát đường mà nói với tôi rằng:

- Thưa Mẹ, con đã nhịn không ăn đường suốt cả tuần nay. Đây là chút đường để Mẹ có thể dùng cho các em mồ côi của Mẹ.

Chưa hết, ở một trường hợp khác, có một em nhỏ muốn đem rá gạo tôi mang tới ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng bấy giờ có một người đàn ông đến gặp và nói với tôi rằng:

- Thưa Mẹ, ở gần đây có một gia đình người Ân giáo có 8 đứa con, song cả tuần nay họ chẳng có một thứ gì cho vào bụng.

Nghe thế tôi liên bưng rá gạo theo người đàn ông ấy đến nhà người Ấn giáo ấy. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi thấy những khuôn mặt xanh xao và đang bị quằn quại vì đói. Không thể cầm lòng, tôi đã trao tất cả rá gạo cho người đàn bà ấy. Bà ta cảm động nhận lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia ra làm hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi . . . một lúc sau mới trở về... Lấy làm ngạc nhiên tôi mới lên tiếng hỏi bà:

- Bà đi đâu thế? Đem gạo cho ai vậy?

Bà ta liền trả lời:

- Người ta cũng đói lắm cơ!

- Nhưng họ là ai?

- Những ngưới ấy là những gia đình theo Hồi giáo. Họ cũng có những đứa con đói khổ như con đây. Họ ở bên kia đường mà cả tuần nay, họ cũng chẳng có gì để ăn hết.

5. Tình yêu trong việc làm

Mẹ Têrêxa Calcuta đã từng nói: “Thiên Chúa không nhìn xem những công việc lớn lao, nhưng nhìn xem tình yêu trong những công việc chúng ta làm.”

Khi còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcuta đã kể một câu chuyện: Ngày kia mẹ xuống phố, gặp một người hành khất đã cao niên nói với Mẹ: “Thưa mẹ, mọi người gặp Mẹ đều giúp Mẹ tiền bạc.Tôi cũng muốn, nhưng tôi nghèo quá, cả ngày nay xin được có 30 xu. Tôi xin biếu mẹ số tiền nhỏ nhoi này.” Mẹ nói: “Nếu tôi lấy 30 xu này thì tối nay ông sẽ phải nhịn ăn. Nếu tôi không lấy, ông sẽ bị tổn thương, mặt cảm. Thế là tôi đưa tay ra, nhận số tiền 30 xua đó. Liền đó, tôi nhận ra sự rạng ngời trên khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông hành khất này, vì ông đã cho đi dược cái gì ông có.”Và Mẹ kết luận: “Một người ngồi ăn xin cả ngày được 30 xu. Một món tiền quá nhỏ, ông và tôi chả mua được cái gì! Nhưng nó đã được cho đi, và đã trở nên gấp ngàn lần, vì nó được cho đi trong sự quảng đại và yêu thương. Thiên Chúa nhìn việc dâng hiến của mội người không phải vì sự to tát của việc làm, mà vào tình yêu thương mà qua đó công việc được hoàn thành.”

Hãy nhớ rằng dâng cúng “Hai đồng tiên nhỏ” sẽ làm vui lòng Thiên Chúa, nếu việc dâng cúng đó được làm vì tình yêu và sự quảng đại.

6. Quà tặng dốc cạn túi

Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc Carty: Biểu tượng "Lòng Từ Thiện" của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999 ở tuổi 91.

Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học phía Bắc Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên Osenola Mc Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền dành dụm cả một đời người.

Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền bạc của mình có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: "Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla.”

7. Cho mà không mất

Từ câu chuyện bà goá trong bài đọc I, chúng ta có thể rút ra được ý tưởng này: có những thứ có thể cho đi mà không bị mất, ngược lại còn được thêm. Người cho không bị nghèo đi, lại giàu thêm. Dĩ nhiên đó không phải là những thứ vật chất.

Một thầy giáo cho đi những kiến thức của mình, học trò được giàu thêm kiến thức nhưng kiến thức của ông thầy không hề vơi.

Một người mẹ cho con cái mình tình thương cũng vậy.

Một người vui tính mang niềm vui đến cho người khác cũng thế.

Kiến thức, tình thương, niềm vui, hoà thuận v.v. là những thứ có cho đi cũng không bị mất, trái lại cả người cho và người nhận đều được giàu hơn.

8. Người bội bạc

Ông Sam Jones một nhà truyền giáo rất nổi tiếng, một lần kia gặp một tín hữu lúc nào cũng than van về những khoản ông phải đóng góp.

- Thưa ngài, tôi phải đóng góp cho Hội Thánh nhiều quá.

- Bao nhiêu?

- 5 USD một năm.

- Thế ông theo Chúa bao lâu rồi?

- Đã 4 năm.

- Trước khi theo Chúa ông làm gì?

- Tôi nghiện rượu.

- Mỗi năm ông uống hết bao nhiêu tiền?

- Chừng 250USD

- Khi ấy ông có ruộng đất gì không?

- Tôi mướn đất cày bừa với một con bò

- Bây giờ ông có gì không?

- Tôi có một khu ruộng và một đôi ngựa cày.

- Trước kia ông cho ma quỉ mỗi năm 250USD để được cày trên một thửa ruộng đi thuê muớn với một con bò. Nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, ông chỉ dâng cho Ngài 5USD một năm để được cày ruộng của mình với một đôi ngựa. Vậy mà ông còn kêu là nặng nề ư? Ông là người bội bạc từ đỉnh đầu cho đến bàn chân!

Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng như vậy. Chúng ta nhận được từ Chúa và Giáo Hội quá nhiều nhưng thử hỏi có khi nào chúng ta nghĩ tới bổn phận chúng ta phải xây dựng Giáo Hội bằng những hy sinh của chúng ta không?

9. Của ít lòng nhiều

Ngày xưa, lâu lắm rồi, một ông vua ở Ấn Độ, mời Đức Phật vào cung làm lễ. Hôm ấy vua cho đốt rất nhiều đèn dầu trong cung nhất là dọc theo hành lang từ cung vua đến cung Phật ở. Lúc đó có một bà góa nghèo khó cũng muốn dâng lên Đức Phật ngọn một ngọn đèn dầu, nhưng không làm sao có tiền để mua. Bí quá Bà phải đi ăn xin suốt một ngày ròng, khắp kinh đô…mãi đến tối mới được hai đồng. Bà dùng hai đồng đó…. tất tả ra phố mua dầu, đốt một đĩa đèn dâng lên Phật. Bà khấn: "Nếu đời sau con được thành đạo, thì xin ngọn đèn này được sáng suốt đêm mà không tắt.”

Sáng hôm sau, khi một nhà sư lên cung Phật đi tắt đèn thì thấy mọi ngọn đèn của vua đã tắt tự bao giờ, riêng dĩa đèn của bà ăn xin vẫn tỏa sáng ngời ngợi, không làm cách nào tắt được. Nhà sư thấy sự lạ, lên thưa với Đức Phật. Người bảo: "Bà cụ tâm thành tu thân tích đức, về kiếp sau sẽ trở thành Phật Như Lai.”

Vua nghe chuyện, hỏi một vị quan trong triều, tại sao vua cúng đèn nhiều như sao sa vậy mà chẳng được như bà lão chỉ dâng có một ngọn đèn? Quan đáp: "Bởi vì bà của ít lòng nhiều, bà dâng có một dĩa đèn, nhưng tấm lòng bà thành kính thiết tha.”

10. Cái giá của đồng tiền

Có một ông nhà giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường, liền hỏi: "Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về làm cho tôi ông sẽ có tiền.” Vị đạo sĩ trả lời: "Cám ơn ông tôi rất sợ tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác.”

Ông nhà giàu nói: "Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công nhận như vậy.” Vị đạo sĩ trả lời: "Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được lương tâm của người quân tử.”

Ông nhà giàu lại nói: "Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ cực thành xa hoa sung sướng không?” Vị đạo sĩ trả lời: "Ông chỉ thấy tiền bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương, tranh chấp và chết chóc.”

Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.

11. Bác ái để nổi tiếng

Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên đi làm công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tự nguyện đóng góp số tiền một triệu đồng.

Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng góp số tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người, nên khi tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi vào sau buổi họp mặt hôm đó để mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất nhiều.

Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân xin lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người khác. Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra phong bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó mỗi lần nghĩ tới là bà lại cảm thấy nuối tiếc số tiền đã lỡ ủng hộ cho đồng bào bị thiên tai lũ lụt ngoài dự tính kia.

12. Gã bán thịt và lão ăn mày:

Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt nướng kia rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi ăn xin bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng thịt nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi thịt thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt.

Cuối cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng bánh mì khô mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ thịt, với hy vọng khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ ăn hết miếng bánh đã được ám khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi trả tiền. Bấy giờ lão ăn mày liền nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải là thịt.” Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra là thuộc về miếng thịt, nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả tiền.” Hai người cự cãi không ai chịu thua ai.

Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa cứu xét. Quan tòa liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà phát ra một tiếng “keng.” Rồi quan toà phán quyết cho hai người như sau: “Lão ăn mày được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán thịt sẽ hưởng tiếng “keng” phát ra từ đồng tiền của lão ăn mày.”

13. Cây bút của cô bé bán diêm

Vào một buổi tối mùa thu, nhà văn Anderson đi dạo phố một mình tại thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “ Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái, gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả ngày cháu chưa bán được một bao nào.”

Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền.

Con bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú làm nghề gì?” – “Chú tên Anderson, và chú làm nghề này.” Nhà văn vừa nói vừa khoa tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn.

Đứa bé không hiểu, tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đến đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một món quà, còn bây giờ đã đến lúc ông phải đi xa.

Nhiều tháng trôi qua, Anderson dường như đã quên lời hứa của mình. Một bữa nọ, tình cờ trở lại Copenhague và ông chợt nhớ con bé bán diêm, nên đã ghé mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm để tặng.

Tuy nhiên người chủ tiệm bên đường đã cho ông biết con bé bán diêm đã chết rồi: Ngày đầu năm, người ta thấy nó nằm chết cóng bên vệ đường. Nó nằm chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm để sưởi cho bớt lạnh. Có điều là khi chết, khuôn mặt nó vẫn còn hồng hào và dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một ai đó. Anderson đứng chết lặng.

Người chủ tiệm nói tiếp: “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong túi áo của nó rơi ra một vật giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm. Chắc nó làm để tặng ai đó tên Anderson, vì trên quản bút có viết hàng chữ “tặng chú Anderson.”

14. Hát để khỏi lạc đường

Một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà văn Nikos Kazantzakis viết thành cuốn tiểu thuyết nội dung như sau: Sau khi Phanxicô đã phân phát cho người nghèo tất cả của cải của mình, ngài bắt đầu đi lang thang đó đây khất thực, vừa đi đường vừa ca hát.

Một anh bạn cũ thân quen thấy vậy đã tỏ vẻ ngỡ ngàng và hỏi: “Này Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh đâu cả rồi?” Phanxicô trả lời: “Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả lại cho nó tất cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “Anh đi lang thang đến đây từ đâu và anh định sẽ đi đâu thế?“ – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang trên đường đi về nơi ấy.”

Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “Thế tại sao anh lại vừa đi đường vừa hát nghêu ngao như một thằng điên thế?” – “Tôi hát là để khỏi bị lạc đường đó thôi.”

Là những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ bị lạc đường, nếu chúng ta để cho của cải vật chất điều khiển.

15. Ai cũng là người giầu có

- Thiên Chúa Cha chúng ta đã biểu lộ một tình yêu quảng đại để nêu gương cho chúng ta:

+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh rừng.

+ Chúng ta chỉ cần vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả dòng suối.

+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi biển rộng dài.

+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả Mình Máu Thánh Chúa Giêsu.

- Chúa Giêsu phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như Francis Balfour đã liệt kê một số việc cụ thể mà các tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:

+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha thứ;

+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ trung tín và chân thành,

+ Quà cho các em nhỏ là tấm gương bác ái và khiêm nhường phục vụ,

+ Quà tặng cho ông bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng lời,

+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và chia sẻ công việc nội trợ,

+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ lắng nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu noi gương Đức Giêsu.”

16. Đồng xu của cậu bé nghèo

Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Nước Mỹ can thiệp vào Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ. Một lần kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất cứ ai đến gần Tổng Thống, nhưng không hiểu làm thế nào mà hai cậu bé đã chui lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống.

Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình.

Cậu bé kia buồn thiu, vì em không có gì để dâng tặng Tổng Thống. Em cố gắng mò mãi trong túi và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em với tất cả sự trân trọng.

Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông cũng mang nó theo.

17. Nghèo tiền nhưng giàu tình

Tại một phố nhỏ bên Châu Âu, vào một mùa đông nọ, sau khi nghe nhà trường thông báo sẽ lạc quyên tiền bạc và phẩm vật để làm quà giáng sinh cho những trẻ em nghèo trong vùng, một em bé 13 tuổi đã dành dụm trong suốt 1 tháng được 15 đồng và em quyết định đón xe đến trường để trao tặng số tiền đó.

Một trận bão tuyết bất ngờ đổ xuống khiến lưu thông bị bế tắc, xe cộ không thể di chuyển. Cậu bé đã đi bộ đến trường, băng qua những cánh đồng ngập tuyết trắng xoá.

Ông hiệu trưởng vô cùng kinh ngạc trước tấm lòng quảng đại và hy sinh của cậu bé, nhưng ông còn ngạc nhiên bội phần khi biết em thiếu niên trước mặt ông lại có tên trong danh sách những trẻ em nghèo mà nhà trường sẽ tặng quà giáng sinh năm đó.

Đúng là nghèo tiền nhưng giàu tình. Nghèo đến nỗi được nhà trường ghi nhận, cho vào danh sách những người cần được giúp đỡ. Nhưng tình thương liên đới và trách nhiệm san sẻ đã làm cho tâm hồn cậu bé nhà nghèo trở thành “viên ngọc quý.”

18. Hết lòng với nhà Chúa

Vài tuần trước đây, cha Cao huy Hoàng có việc về Nha Trang, và ghé thăm Cha MT, cha kể rằng: một Chúa nhật nọ, Cha nói chuyện với Giáo dân về tư thế tham dự phụng vụ của Giáo Dân: quì, ngồi, đứng trước mặt Chúa đều tốt cả, miễn là chúng ta có lòng chân thành. Nhưng, tư thế quì, bao giờ cũng trang nghiêm sốt sắng hơn và nhất là tỏ được lòng khiêm tốn, lòng yêu mến, quí trọng Thiên Chúa là Cha. Ví dụ, khi rước lễ, ta quì đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể, thì xứng đáng hơn.

Sáng thứ hai trong tuần, một cụ bà 80 tuổi đem đến cho Cha một triệu đồng.

Cha hỏi: -“Tiền gì đây bà cụ?”

-“Thưa Cha, tiền con dâng cúng để đóng bàn quì rước lễ”

-“Tôi mới ví dụ thôi mà!”

-“Ví dụ gì nữa, cha đóng bàn quì đi, bọc khăn trắng nữa!”

-“Úi chà! Bà cụ già thế, ở đâu ra mà tiền nhiều vậy?”

-“Hết rồi Cha ạ, có bấy nhiêu thôi! Con cháu nó cho mối lúc ít đồng, để dành mua cái áo quan, nhưng bây giờ thì cái áo quan không cần bằng cái bàn quì rước lễ!!!”

18. Giúp người đồng hương (Cao Huy Hoàng)

Uống nước trước Bệnh Viện Tim Việt-Pháp, bạn có thể gặp cả trăm người từ miền Trung vào buôn bán nhỏ. Trước mắt tôi, một chị khoảng 45 tuổi, người Quảng Ngãi, bán bánh tráng, lạc rang, gặp người quen ở quê vào chữa bệnh tim cho con. Sau mấy câu thăm hỏi, chị dúi vào tay chị bạn 80.000 đồng: “Em gửi cho cháu vài hộp sữa. Cầm đi chị, mang tiếng vào Sàigòn làm ăn, nhưng một ngày của em chỉ được chừng ấy.” 80.000 so với ca mổ tim vài chục triệu thì có thấm vào đâu. Nhưng chị kia nắm tiền trong tay mà rưng rưng nước mắt. Tôi tò mò đi theo chị đã làm từ thiện dò hỏi, mới biết, chị vào trong nầy thuê nhà trọ ở chung với con gái đi học đại học. Một là “trông nom con gái, sợ xa cha mẹ ở đất Sàigòn này dễ hư lắm anh ạ”, hai là “kiếm thêm và để dành đóng tiền nhà và tiền học phí cho con.”.. “Mẹ con em quen ăn mì tôm rồi anh ạ. Ăn mì tôm vài hôm thì cũng dư ra được gần trăm ngàn.” Hỏi chị theo đạo nào, chị nói: “Nhà em không theo đạo nào cả, thờ Ông Bà.”

19. Biển hồ và biển chết

Ở Israen có hai biển hồ lớn: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.

Biển hồ Galilê nằm phía bắc nước Do-thái, nó luôn luôn tiếp nhận nước từ sông Jordanô và sau đó cho chảy thoát ra phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, dòng nước luôn luôn trong lành, trở nên môi trường sống lành mạnh cho bao loài tôm cá, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, nhiều người đến dựng nhà lập nghiệp quanh bờ của nó, thuyền bè tấp nập trên các bến cảng của nó. Nó đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại ấm no, hạnh phúc và nguồn vui cho bao triệu người qua các thời đại. Chính Chúa Giêsu cũng thường lui tới rao giảng Tin Mừng nơi đây.

Nhưng cách đó không bao xa, về phía nam nước Do-thái cũng có một biển hồ lớn được gọi tên là Biển Chết. Nó là biển chết vì nó cũng nhận nước từ dòng sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó cứ khư khư giữ lại cho mình, không ban phát cho ai, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước độc, nó mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...

20. Trao tặng nụ cười

Một hôm có người thanh niên đến thăm, và tận mắt chứng kiến các việc Mẹ Teresa cùng với các nữ tu của Mẹ làm tốt đẹp quá, anh tự cảm thấy dấy lên trong lòng mình một nhiệt huyết xây đắp cho thế giới này thêm những điều tốt lành, anh mạnh dạn hỏi Mẹ:

- Thưa Mẹ, xin Mẹ vui lòng cho con biết con có thể cộng tác vào công trình của Mẹ, để làm cho thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn bằng cách nào?

Mẹ Têrêsa nở nụ cười sung sướng và trả lời:

- Con hãy cố gắng mỉm cười với người khác, có thế thôi con ạ!

21. Lòng hy sinh tuyệt vời

Ngày 11.3.2011, trận động đất cường độ 9,0 và sóng thần cao 9 thước thuộc miền Đông Bắc nước Nhật Bản, đã giết chết khoảng 8.133 người, làm mất tích 12.272 người, và đưa đến khủng hoảng phóng xạ nguyên tử từ các lò nguyên tử trong ảnh hưởng của thảm hoạ. Tuy nhiên, trước thảm hoạ khốc liệt đó, tinh thần người Nhật là một tấm gương sáng ngời cho thế giới...Không than khóc, và không thừa cơ cướp giật.

Thí dụ ở vùng cách tỉnh Fukushima khoảng 25 cây số, dân chúng địa phương tự động thành lập các đội tự quản, tương trợ lẫn nhau khiến việc an ninh không là một vấn đề. Bên ngoài một ngôi nhà bị sập, tiền giấy trôi ra từ ngôi nhà nằm tứ tán có đến hàng triệu Yen, nhưng chẳng ai thèm nhặt. Đây là một đoạn trích từ thư của Tiến Sĩ Hà Minh Thành viết từ Nhật:

"Tối hôm kia, tôi được phái tới một trường tiểu học, phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối cùng, tôi sợ đến phiên của em thì chắc chẳng còn thức ăn, nên mới lại hỏi thăm. Em kể là: con đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần ập đến, cha của con làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường, con nhìn thấy chiếc xe và cha con bị nước cuốn trôi, 100% khả năng là cha con đã chết rồi. Tôi hỏi thêm: còn mẹ con đâu? Em nói: nhà con nằm ngay bờ biển, mẹ và em của con chắc cũng không chạy kịp. Em nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe tôi hỏi đến thân nhân.

“Nhìn thấy em lạnh run lập cập tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát, trùm lên người em. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói.”

Em bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi nghĩ bình thường, tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Tôi sửng sốt và ngạc nhiên vô cùng, mới hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em trả lời:

"Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ."

Tôi nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc, để em và mọi người đang xếp hàng không nhìn thấy. Thật cảm động! Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi, mới học lớp 3 đã có thể dạy một thằng có ăn học, từng có bằng tiến sĩ như tôi một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh."

22. Ai giầu có?

Có một gia đình kia rất giầu có. Một hôm ông bố dẫn con về quê với ý định cho con thấy người nghèo sống ra sao. Hai bố con ở chơi mấy ngày với một gia đình nông dân mà người ta vẫn coi là rất nghèo trong làng.

Lúc trở về, ông bố hỏi con: Con đã thấy người nghèo sống ra sao? Đứa con trả lời: Cám ơn bố đã cho con thấy mình nghèo như thế nào. Còn họ thật giầu có. Ông bố hỏi lại: Tại sao con lại nghĩ thế?

Đứa con trả lời: Con thấy chúng ta chỉ có một con chó, họ có tới 4 con. Chúng ta chỉ có một cái hồ cỏn con ở giữa vườn, còn họ có dòng sông dài đến vô tận. Chúng ta chỉ có mấy cái đèn ngoài vườn, còn ban đêm họ có bao nhiêu là sao sáng. Trước nhà chúng ta chỉ giới hạn ở trước sân vườn, còn trước nhà họ là không gian mênh mông đến tận chân trời. Chúng ta chỉ sống trên mảnh đất bé nhỏ, còn họ có ruộng đồng bao la thẳng cánh cò bay. Chúng ta có gia nhân phục vụ nhưng họ chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta phải mua thực phẩm nhưng họ tự tay trồng lấy lúa rau. Chúng ta có tường rào vây quanh bảo vệ, nhưng họ có bạn hữu bảo vệ...

Ông bố nghe mà cứ ngẩn ngơ người, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trước nhận xét thật đơn sơ của đứa con.

23. Bà lão ăn mày và đứa bé

Chuyên mục "những câu chuyện về cuộc sống" đăng ngày 25.10.2012, kể một câu chuyện về "Bà lão ăn mày và đứa bé"

Bà lão chống gậy, tay cầm mảnh gáo dừa đi xin của bố thí. Dừng chân trước một ngôi nhà. Tiếng chó sủa trong nhà ầm ĩ, khác thường. Một chú bé chừng năm tuổi đứng gần đó, trên tay cầm chiếc kẹo đứng nhìn bà chăm chú.

Có lẽ lần đầu gặp bà lão như thế? Hay vì nó không có bà, khiến nó nhìn bà chăm chú đến thế. Trong sân tiếng một phụ nữ vọng ra:

- Khổ lắm! Nhà này chẳng có gì đâu!

Lời nói ấy như một thông điệp quen thuộc, mà bà vẫn thường nghe. Tiếng chó thôi sủa, sự yên tĩnh trở lại nơi ngõ nhỏ. Bà lão lặng lẽ cầm mảnh gáo ra đi. Cái lưng còng trên thân bà, mảnh quần áo cũ rách, đôi tay gầy gò nhăn nheo, rạn nứt như chứa đựng bao buồn đau cuộc đời.

Thằng bé cứ ngơ ngác nhìn theo bà lão và cũng lặng lẽ theo bà ra đầu ngõ. Chợt nó chạy thật nhanh tới gần bà, nó đưa cho bà chiếc kẹo trên tay.

Bà lão ngơ ngác như chính khi thằng bé ào tới:

- Ôi! cảm ơn con. Tiếng bà lí nhí vì ngỡ ngàng, thằng bé chạy ào đi mất.

24. Không có tình yêu nào lớn hơn

Jack Kelly, biên tập viên hải ngoại của báo USA Today, đã tường thuật câu chuyện thật đầy xúc động xảy ra trong cuộc chiến tranh ở miền Đông Phi Châu như sau:

“Chúng tôi đang ở Mogadishu, thủ đô nước Somalia, trong suốt thời gian nạn đói. Hôm đó thật không may khi chúng tôi bước vào một ngôi làng mà mọi người đã chết sạch cả. Chúng tôi đã phát hiện ra thằng nhỏ này còn sống. Bạn có thể hình dung ra hình dáng gầy ốm tong teo của nó vì suy dinh dưỡng và cái bụng ỏng đầy giun sán. Khi một đưa nhỏ bị suy dinh dưỡng đến cực điểm thì tóc của nó trở nên dỏ hoe, và da giẻ trở nên nhăn nheo giống như một ông già 100 tuổi. Người nhiếp ảnh của chúng tôi có mang theo một trái bưởi bèn đưa cho em. Tội nghiệp thằng bé, nó quá yếu ớt tới độ không còn đủ sức lực để nắm giữ lấy quả bưởi nữa. Do đó chúng tôi phải cắt ra làm hai cho nó. Thằng bé đưa hai tay đón nhận, nhìn lại chúng tôi như thể muốn nói lời cám ơn, rồi bắt đầu bước đi trở lại ngôi làng của nó.

Chúng tôi bước đằng sau thằng bé để nó không thể nhìn thấy chúng tôi. Khi nó về đến làng, có một thằng bé nhỏ hơn nó đang nằm dưới đất mà chúng tôi nghĩ nó đã chết rồi. Đoi mắt của nó đã hoàn toàn trở nên đờ đẫn và mất sinh khí. Hóa ra đó là em nó.Về đến nơi, thằng anh quỳ xuống bên cạnh đứa em, móc từng miếng bưởi đưa lên miệng nhai tóp tép, rồi lấy tay mở miệng em nó ra, đặt miếng bưởi vào, dùng tay đẩy nhẹ cái cằm của em nó nhai lên nhai xuống. Về sau, chúng tôi biết được thằng anh đã làm như thế cho em nó khoảng hai tuần. Vài ngày sau đó, thằng anh đã chết vì quá suy dinh dưỡng, nhưng đứa em lại sống sót.

Trên đường lái xe trở về nhà đêm hôm đó, tôi tự nghĩ, đây chính là điều mà chúa Giêsu muốn ám chỉ khi Ngài nói rằng không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu.”

25. Bà góa thánh thiện

Tôi muốn kể cho các bạn nghe một bà góa đẹp và nổi tiếng. Nàng sinh tại thành phố New York năm 1774. Năm 20 tuổi nàng kết hôn với một người New York danh tiếng. Cả hai thuộc phái tân giáo. Khi chồng nàng mắc bệnh phổi. Hai vợ chồng và 5 đứa con chuyển về Ý, hy vọng khí hậu mát mẻ sẽ giúp chồng nàng. Nhưng chỉ ít năm sau chồng nàng qua đời.

Một gia đình hào hiệp người Ý đã giúp góa phụ này và các con của nàng ở chung và giúp trở vế Mỹ. Lòng tốt của gia đình người Ý đã dẫn người góa phụ trẻ này tìm hiểu và trở lại Công giáo năm 1805. Việc này khiến bà con và bạn bè từ bỏ nàng. Nàng kiếm sống cho các con bằng nghề dạy học. Năm 1810 nàng sáng lập chi nhánh các chị em Bác ái Hoa Kỳ, họ bắt đầu mở trường miễn phí cho con em Công giáo mở đường cho hệ thống học đường giáo xứ Hoa Kỳ.

Người phụ nữ phi thường này qua đời ngày 4 tháng giêng năm 1321, thọ 46 tuổi. Ngày nay nhiều người các bạn đã biết Elisabeth Bayley Seton, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã ghi tên nàng vào sổ bộ các Thánh năm 1975. Một vị Thánh đầu tiên sinh tại Hoa Kỳ nổi danh với tên Mẹ Seton.

26. Ly sữa vô giá

Trước đây, có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học. Một hôm cậu không có được một đồng bạc dính túi mà bụng thì đói.

Cậu quyết định sẽ đến xin ăn tại căn nhà gần đó. Tuy nhiên, khi một cô gái trong nhà ra mở cửa thì cậu ngại quá nên thay vì xin ăn, cậu xin một ly nước lã! Cô gái nhìn thấy dáng vẻ của cậu thì biết rằng cậu đang đói, nên đem cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống chậm rãi, rồi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu tiền?” Cô gái cười nhẹ và trả lời: “Cậu chẳng phải trả gì cả. Mẹ chúng tôi dạy rằng không bao giờ nhận tiền công khi làm một hành vi tử tế!” Cậu bé nói: “Vậy thế thì… tôi hết lòng cám ơn cô.”

Khi cậu rời ngôi nhà ấy thì chẳng những cậu cảm thấy thân thể mình khỏe mạnh hơn, mà lòng tin vào Thiên Chúa và con người cũng tăng mạnh thêm lên. Cậu từng nghĩ rằng cuộc đời mình khổ cực quá nên nhiều lần có ý muốn bỏ học.

Nhiều năm sau, cô gái ấy trở thành một phụ nữ và mắc bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ gần như bó tay. Cuối cùng họ gửi cô đến một thành phố lớn để mong tìm những chuyên viên chữa trị căn bệnh lạ của cô. Bác sĩ Howard Kelly được mời đến để chẩn bệnh. Khi nghe nói đến tên thành phố cũ của mình, mắt ông ánh lên một cách lạ lùng. Ông đứng dậy ngay để xuống phòng khám. Trong chiếc áo trắng của bác sĩ, ông đến gặp và nhận ra cô ngay. Ông trở về phòng khám và quyết tâm chữa cứu người phụ nữ ấy cho bằng được. Kể từ ngày hôm đó, ông nghiên cứu và theo dõi kỹ tình trạng sức khoẻ của cô. Sau những ngày cam go, căn bệnh đã thua cuộc.

Bác sĩ yêu cầu phòng tài chánh chuyển hoá đơn tính tiền viện phí của cô để cho ông phê trước. Ông nhìn vào tờ hóa đơn, rồi ghi vài chữ bên lề trước khi gửi đến cho cô. Cô rất sợ phải mở tờ hóa đơn ấy ra, vì cô biết rằng cô sẽ trả món nợ ấy suốt cả đời mình. Cuối cùng, cô cũng phải nhìn xuống hoá đơn và dừng lại để ý đến hàng chữ bên lề. Cô đọc thấy: “Đã thanh toán đầy đủ bằng một ly sữa!” Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.

Mắt cô đẫm lệ vì vui mừng và từ trái tim ngập tràn hạnh phúc vươn lên lời nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa! Chính Tình Yêu của Chúa đã lan truyền sang quả tim và bàn tay của con người.”

Cậu bé ngày xưa được tặng một ly sữa trong cơn đói đã trở thành Tiến Sĩ y khoa Howard Kelly, ông đã từng là một bác sĩ lỗi lạc tài ba. Năm 1895 chính ông là người sáng lập Johns Hopkins Division of Gynecologic Oncology (Phân khoa Ung Thư Phụ Sản) tại Đại Học Johns Hopkins, trường Đại Học đầu tiên của Hoa Kỳ dành cho việc nghiên cứu y khoa, được thiết lập năm 1876, tại Baltimore, Maryland.

27. Bà già bán rau

-Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi!

Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã đàn ông, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.

Gã liếc xuống nhìn xuống những mớ rau rồi đáp nhanh: Dạ cháu không bà ạ! Rồi phóng xe nhanh. Hắn nghĩ, mình thương người thì ai thương mình. Tiếng vọng của bà cụ vẫn con đó.

Lại có một cô gái nghe bà cụ mời mua rau. Rau như thế thì heo cũng không thèm ăn, nói chi người. Tiếng chát chua phát ra từ miệng cô.

Rồi có một người đàn ông khác đi đến, nghe thấy thế, liền hỏi giá bán rau, và mua hết số rau của bà già, nhưng cũng không quên dặn rằng: cho tôi gửi, khi về sẽ ghé lấy.

Ít hôm sau, người đàn ông ghé lại chỗ bà cụ bán rau. Người ta đang bàn tán về bà.

Anh hỏi có chuyện gì vậy, bà cụ bán rau đâu rồi?

Họ trả lời: Tội nghiệp bà cụ, già cả rồi, vậy mà hôm nọ có người mua rau rồi gửi lại, bà cố ngồi chờ để chủ đến lấy rau nhưng chẳng thấy họ đâu cả. Hôm đó trời lại mưa dữ dội suốt ngày, bà cụ cứ ngồi chờ đợi hoài trong giá rét. Vì lạnh quá bà già chịu không nổi, nên ngã bệnh và đã qua đời.

28. Phần thưởng Chúa ban cho lòng quảng đại

Bé Tôma (Thomas Carlyle) sáu tuổi ở nhà một mình, bỗng thấy một cụ già gõ cửa ăn xin. Xúc động vì lời van nài của cụ hành khất. Tôma đem con heo đất đập ra và đổ hết tiền cắc cho cụ già. Cụ run rung xòe tay đón nhận, và rơm rớm nước mắt cám ơn. Về sau Tôma trở nên một nhà văn nổi tiếng của nước Anh, có lần ông kể lại câu chuyện nhỏ này và nói: Chưa bao giờ tôi cảm thấy sung sướng như lần đó.

Khi chúng ta chia sẻ cho người khác, nhất là khi chia sẻ cho người nghèo, chúng ta sẽ cảm thấy vui. Đặc biệt là khi sự chia sẻ đòi chúng ta cố gắng nhiều, chắc chắn chúng ta càng cảm thấy vui hơn. Và niềm vui đó chính là phần thưởng Chúa ban. Vì Chúa không bao giờ bỏ quên những cử chỉ bác ái của chúng ta dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa.

29. Quà cưới tặng nhau

Mẹ Têrêxa thuật lại câu chuyện như sau: "Một hôm, có một cặp vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn, bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.”

Ở Calcutta, mọi người đều biết là: Mỗi ngày, tất cả các cơ sở của dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9 ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao tặng vào mục tiêu trên.

Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò mò hỏi: "Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?” Họ trả lời: "Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con.”

Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: "Ở Ấn Độ, đối với một người Hindu thuộc giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái.”

Để biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: "Tại sao chúng con lại quyết định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?” Hai bạn trẻ đó trả lời: "Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào.”

30. Tiền cho đi

Có chuyện kể rằng: có một ông nhà giàu nọ căn dặn người nhà của ông bỏ vào quan tài thật nhiều vàng bạc để khi ông chết đi, ông sẽ có cái mà tiêu xài. Rồi ngày chết của ông cũng đến. Người ta làm đúng theo những gì ông căn dặn. Sang thế giới bên kia, ông nhìn thấy cái gì đựơc bày bán cũng hấp dẫn, nhất là các món ăn. Ông nghĩ rằng phen này tha hồ mà mua sắm và ăn uống thoả thích. Nhưng lạ thay, những người bán ở đây trả lời với ông rằng: tiền của ông ở đây không sử dụng được vì ở đây chỉ sử dụng đồng tiền cho đi chứ không xài tiền thu vào!

Chúng ta đang có đồng tiền loại nào? Chúng ta có dự định sẽ làm gì để có đồng tiền cho đi. Có một nhà tu đức đã nhắc nhở chúng ta rằng:

Những gì chúng ta tiêu xài sẽ tiêu tán mất,

Những gì chúng ta mua sắm thì người khác sẽ dùng,

Những gì chúng ta tích luỹ rồi sẽ phải để lại cho người khác,

Chỉ có những gì chúng ta cho đi là tồn tại mãi.

31. Cho đi là lãnh nhận

Thi hào Tagore (Ấn Độ) viết một bài thơ kể về một người ăn xin gặp Đức Vua đi vi hành. Anh mừng thầm vì phen này chắc sẽ được Đức Vua ban tặng. Nào ngờ, chính Đức Vua lại chìa tay xin anh bố thí. Bối rối, ngỡ ngàng, người hành khất lấy ra một hạt thóc từ trong cái bị của mình và dâng cho Đức Vua. Buổi tối về đến nhà anh đổ bị thóc ra thì thấy một hạt vàng lấp lánh nằm giữa những hạt thóc… Anh đã khóc vì hối tiếc: “Phải chi lúc đó tôi dâng tất cả bị thóc này cho Đức Vua”!…

Trong đời sống đạo đức, chúng ta chỉ để ý xin Chúa, mà ít để ý đến những điều chúng ta có thể làm cho Ngài. Tuy nhiên, cũng có những người đã hiểu và họ đã dâng cho Chúa: có thể là một vài đồng xu hay một nắm gạo, có thể là tất cả bị gạo và ngay cả mạng sống của chính mình. Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã dâng gì cho Chúa? Chúa sẽ chẳng bao giờ chịu thua lòng rộng rãi và quảng đại của chúng ta đâu.

32. Mua ân xá

Tháng 10 năm 1517, theo lời mời của Đức cha Albert Brandenburg, cha J. Tetzel (1465-1519) dòng Đa Minh mở tuần giảng Ân xá tại Juterbog gần Wittenberg, nơi Linh mục Luther dạy học. Đức cha Albert là Tổng Giám mục thành Magdeburg, trước đã kiêm nhiệm địa phận Halberstadt, nay lại nhận thêm Giáo tỉnh Mainz. Để tổ chức Tòa Giám mục mới, Đức cha Albert đã xin Tòa Thánh cho giảng Ân xá trong ba địa phận của ngài để quyên tiền. Số tiền thu được một nửa dành cho Tòa Tổng Giám mục, còn một nửa sẽ dâng cúng vào việc kiến thiết Đền Thờ thánh Phêrô ở La Mã. Công việc được trao cho các cha dòng Đa Minh, đứng đầu là cha Tetzel. Lối trình bày của nhà giảng thuyết này đã làm cho nhiều người tưởng Ân xá có thể mua bằng tiền!

(Trích Lịch Sử Hội Thánh Công Giáo tập II, tr 12, của LM Bùi Đức Sinh. )

Dĩ nhiên là còn nhiều nguyên nhân khác khiến phát sinh đạo Tin Lành, nhưng đó cũng là một lối sống Đạo đã làm cớ cho cha Luther chống đối Hội Thánh và đưa đến ly giáo, thì thật là quá đau lòng!

Chúng ta biết nay có nhiều giáo xứ được vị chủ chăn khuyến khích mua bằng Ân Nhân, để khi qua đời họ được đặc ân này, ân sủng nọ, thì cũng chẳng khác gì việc làm của Đức cha Albert như trên.

Có một bà cụ nọ, nghe cha bán Ân Nhân… bà về đòi đứa con gái hai cây vàng đã mượn của mẹ thời gian trước để làm ăn buôn bán nuôi con. Vì mẹ đòi gấp nên chị phải đi vay mượn để đưa mẹ mua bằng Ân Nhân, thời gian sau lãi mẹ đẻ lãi con ngày càng chồng chất suốt 10 năm …! Còn mẹ thì có bằng Ân Nhân khắc tên trên bảng vàng gắn cuối Nhà thờ!?

Liệu bà mẹ đó khi nhắm mắt xuôi tay có dám khoe với Chúa về bằng Ân Nhân đó không? Chắc Chúa sẽ bảo: Ngươi đã được danh đời này, thì mất phúc đời sau (x Mt 6,16t). Nếu bà ta thưa với Chúa: Cha xứ con dạy làm như vậy! … Nếu Chúa bảo: Gọi cha xứ của ngươi ra đây!…

Vì trách nhiệm của Linh mục không những dạy con chiên làm việc xây dựng đời này mà còn xây dựng đời họ được hạnh phúc mai sau nữa!

33. Chúa biết

Một người Bàlamôn, vụng về, khờ dại, phạm phải một tội lớn. Có người khuyên lão, đến tắm nước thánh tại sống Hằng Hà trọn đời, mới hòng giải thoát. Lão liền giao việc gia đình cho con, một mình mang chiếc chậu tắm và cái gậy đến sông Hằng Hà làm lễ thống hối.

Đi được mấy ngày, đến bên một con suối, mùa hè nước cạn hết, lão nghĩ bụng: nhất định đây là sông Hằng Hà thiêng liêng. Lão tu hành ở bên bờ khe, hằng ngày đi tìm chỗ có nước để tắm rửa. Cứ làm như thế trong 5 năm trời.

Một hôm có một đạo sỹ đi qua thấy vậy liền bảo: "Ông còn ở đây làm gì mãi?" Lão trả lời: "Để sám hối, rửa sạch tội lỗi, nên tôi phải đến sông Hằng Hà này.” Đạo sỹ cười: "Ta sống từng này tuổi, mà chưa thấy trên đời có ai ngu như ông, ông thật đáng thương, kẻ nào nó lừa dối ông như thế, sông Hằng Hà cách đây còn mấy trăm dặm nữa."

Người Bàlamôn cảm ơn đạo sỹ, rồi vội vàng mang chậu gậy đi nơi khác. Đi một thời gian, ông lại gặp một con sông, ông mừng reo lên: "A! Đây nhất định là sông Hằng Hà thiêng liêng!" Lão lại ở cạnh sông đó 5 năm nữa. Ngày nào cũng xuống sông tắm rửa.

Một hôm có một đạo sỹ khác bắt gặp và hỏi "Tại sao ông lại phí thời gian mà dừng lại tại con sống tầm thường này, mà không đi đến sống Hằng Hà?"

Lão kinh ngạc: "Ồ! Thế ra sông này cũng không phải là sông Hằng Hà ư?"

Đạo sỹ nói: "Hằng Hà! Ông đã đem chó rừng sánh với sư tử… Ông còn chiêm bao hẳn."

Bấy giờ lão hết sức ngạc nhiên và nói: "Đạo sỹ đáng kính! xin cảm tạ ngài, rất may, hôm nay được gặp Ngài."

Lão lại mang chậu và gậy đi nơi khác, cuối cùng, lão đã tới sông Marmada. Lão nghĩ bụng: sông Hằng Hà đây rồi, lão rất mừng, lại sống bên sống Narmada 5 năm, mỗi ngày xuống sông tắm nước thánh.

Một hôm, lão thấy một người hành hương, ném hương hoa, lễ vật xuống sông, miệng lầm rầm khấn tên sông Narmada.

Đến trước người ấy, lão nói: "Thưa quý khách, sông này gọi là sông gì?"

Người hành hương nói: "Ông không biết đây là con sông linh thương Narmada ư?"

Lão thở dài nói: "Vị quý khách thật đã mở mắt cho tôi." Đoạn rời đi nơi khác.

Tới lúc này thì lão đã quá già yếu, do một thời gian tu hành khổ hạnh quá lâu, thân thể, tinh thần suy nhược lắm rồi. Cả ngày, lão cố gắng bước dưới ánh mặt trời gay gắt và giẫm lên cát nóng bỏng, đến nỗi toàn thân phát sốt.

Ngày càng ốm nặng. Nhưng lão vẫn gượng bước đi cho tới lúc lão ngã gục xuống; rồi lão gắng hết hơi hết sức tàn của mình, trèo lên một cái gồ cao. Chao ôi! trước mặt lão sông Hằng Hà hiện ra, oai linh và mầu nhiệm. Hai bên bờ sông và giữa dòng không biết bao nhiêu là thiện nam tín nữ. Lão bèn kêu lên: "Ôi! Đức Mẹ Hằng Hà của con, con đem cả công sức suốt một đời người, để tìm mẹ. Thế mà nay con phải chết gục ở đây, trước mặt mẹ!"

Tim lão vỡ nát, lão thở cuối cùng, mà không bao giờ được tắm nước sông Hằng Hà!

Lão xuống âm phủ.

Diêm Vương truyền hỏi thần Minh Hộ: "Tên kia phạm tội chi?"

Thần Minh Hộ tâu: "Hắn phạm tội rất nặng, nhưng nhờ tu hành khổ hạnh tắm nước sông Hằng Hà mười năm năm, nay được giải thoát."

Hồn người Bàlamôn ngạc nhiên nói: "Tâu Diêm Vương, ngài lầm rồi, tôi chưa được đến tu ở sông Hằng Hà đâu!"

Diêm Vương mỉm cười.

Truyện này trích trong tập truyện "20 đêm hỏi đáp (Prem Xagar)" của Ấn Độ. Khi kể truyện xong, Rơxkôsơ đố công chúa Anangaraga, một công chúa thông minh và khôn ngoan tuyệt vời "Thưa công chúa, tại sao Diêm Vương lại mỉm cười"

Công chúa đã trả lời rất đúng như sau "Diêm Vương minh mẫn, không hề lầm lẫn, mà thần Minh Hộ cũng không thể mắc lừa được. Nếu tu hành với thái độ giả dối, dù ở cạnh sông Hằng Hà suốt đời chăng nữa, thì cũng không phải là sám hối thật. Người Bàlamôn chất phác đáng thương ấy, khi tu hành cứ tin rằng mình đang ở bên sông Hằng Hà, bởi vậy Đấng Tối Cao đã chứng tri và cho hưởng quả phúc thực sự. Người đời thường hay đoán xét theo cám giác bên ngoài, và bị lừa, còn thần thánh thì căn cứ vào tấm lòng thực, dối mà phê phán."

Ta hãy thành thực dâng mọi việc ta làm cho Chúa, việc to, việc nhỏ, việc coi vẻ rất tầm thường, cũng như công việc được mọi người chú ý. Và điều quan trọng là ta hãy thầm nói với Chúa: ta làm mọi việc đó vì Chúa, sáng danh Chúa, chứ không phải vì danh vọng hão huyền cho riêng ta.

34. Tặng vật của tấm lòng

Một trong những bộ phim nổi tiếng của Mỹ được sản xuất năm 1959 do đạo diễn William Wyler dàn dựng, là bộ phim mang tên Benhur. Nhân vật chính của bộ phim là Benhur, một chàng trai La Mã bị bắt làm nô lệ khổ sai vì tội mưu sát.

Một lần kia, Benhur bị áp giải đi cùng các tù nhân khác giữa trời nắng như thiêu như đốt. Cơn khát đã giày vò thể xác chàng, khiến chàng gục xuống. Ngay lúc ấy, một bóng người đã tiến đến nhẹ nhàng trao cho chàng chén nước. Uống nước xong, Benhur ngước mắt lên và nhìn thấy người cho nước là một người Do Thái có khuôn mặt rất nhân từ.

Trải qua những năm tháng làm nô lệ, Benhur vượt qua những thử thách, trở thành một nô lệ tài giỏi, có sức lực hơn người, chiến thắng trong những cuộc tranh tài, nên được trả tự do.

Trên đường về quê, Benhur chứng kiến một đám quân lính đang dẫn một phạm nhân vác thập giá đi xử tử. Với cây thập giá nặng nề, với những đòn roi đau đớn, người tử tội ngã xuống đất. Benhur nhận ra đó chính là người đã cho mình nước uống trước đây. Chàng bèn đi kiếm một chén nước và chạy đến trao cho người ấy. Người tử tội uống nước xong, đã nhìn Benhur với ánh mắt đầy sự biết ơn. Người tội đồ đó chính là Chúa Giêsu thành Nagiarét.

Bộ phim “Benhur” đã dựa vào Phúc Âm để tạo ra một tình tiết hư cấu: Chúa Giêsu trao tặng cho Benhur chén nước và Benhur cũng trao lại cho Chúa Giêsu một chén nước. Hình ảnh chén nước được trao tay là một hình ảnh thật đẹp đẽ trong bộ phim. Nhưng qua hình ảnh đó, chúng ta còn nhận ra một điều khác: Chúa quý trọng những tặng vật của tấm lòng: chén nước lã chẳng là gì, nhưng thật cao quý vì nó xuất phát từ lòng thương cảm và sự từ tâm.

35. Đổi đồng tiền lấy mạng sống

Trong một buổi xử tử, tên tử tội được dẫn đến trước mặt Đức vua trước khi bị treo cổ. Đức vua nói: “Ta cho ngươi một ân huệ cuối cùng. Vậy, trước khi chết ngươi ước muốn gì?” Tên tử tội rút trong túi ra một đồng tiền, trao cho nhà vua và nói: “Tâu Đức vua, khi tôi còn nhỏ, cha tôi đã cho tôi đồng tiền này và nói tôi hãy giữ lấy, vì nó sẽ đem lại may mắn cho tôi. Nhưng cho đến giờ phút cuối cùng của đời tôi đây, đồng tiền khốn khổ này cũng chưa giúp ích gì cho tôi. Xin Đức vua hãy cho người trao nó lại cho cha tôi và nói tôi vĩnh biệt ông ta.”

Vừa cầm lấy đồng tiền, nhà vua kêu lên mừng rỡ: “Ồ! đây chính là đồng tiền cổ quý giá mà Ta đã nhọc công tìm kiếm bấy lâu nay. Nó chính là đồng tiền cuối cùng trong bộ sưu tập tiền cổ quý giá của Ta. Vậy, ngươi có muốn dâng hiến đồng tiền này cho Ta để đổi lấy mạng sống của ngươi không?” Tên tử tội đồng ý và án tử hình được hủy bỏ.

Những đồng tiền nhỏ bé đó là gì nếu không phải là những hy sinh quên mình âm thầm mà chúng ta góp nhặt từng ngày trong cuộc sống? Những đồng tiền nhỏ bé đó là gì nếu không phải những nghĩa cử yêu thương, chia sẻ, bác ái chúng ta thực hiện nơi tha nhân? Chỉ có Chúa mới nhìn đến và đánh giá cao những đồng tiền nhỏ bé thiêng liêng đó mà thôi.

36. Hy sinh là bảo chứng của tình yêu

Một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn để nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu.

Giữa những chân cầu, chị đã đơn độc sinh ra một bé trai.

Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và nằm lả bên cạnh con.

Sáng hôm sau, một phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.

Bà đem đưa bé về nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi bà kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào sinh nhật lần thứ 12, dịp lễ Giáng sinh, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp.

Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà sững sờ thấy cậu lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu sẽ lạnh cóng!" Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy.

Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết mặt: “Mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc.

37. Di sản vô giá của cô bé

Chuyện xảy ra ở Mỹ đã lâu: Một cô bé đang đứng thổn thức bên ngoài một ngôi nhà thờ nhỏ. “Con không vào được lớp học Chúa Nhật,” cô bé nức nở nói với vị linh mục vừa đi tới. Nhìn bộ dạng tiều tụy, nhếch nhác của cô bé, vị linh mục hiểu ngay ra nguyên do, và cầm tay cô bé dẫn vào trong, tìm cho cô một chỗ trong lớp học.

Khoảng 2 năm sau đó, cô bé đã chết trong một chung cư tồi tàn. Cha mẹ của cô bé gọi điện cho vị linh mục - người đã trở nên rất thân thiết với cô bé - đến chủ trì lễ tang và trao cho ngài chiếc ví rách nát của cô bé, trong đó có 57 xu và một tờ giấy nhàu nát với dòng chữ nguệch ngoạc: “Để giúp đỡ cho nhiều đứa trẻ hơn có thể đến Lớp học ngày Chúa Nhật.”

Đó là kết quả 2 năm trời dành dụm hy sinh vô vị lợi của cô bé: những đồng xu chứa đựng cả tấm lòng vàng; vì thế, cũng như “đồng tiền bà goá,” cô đã “bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết.”

38. Cho thì có phúc hơn là nhận

Trong bài diễn văn nhận giải Nô-ben Hòa Bình năm 1979, Mẹ Têrêxa kể câu chuyện cảm động như sau: “Một ông nọ đến nhà chúng tôi và bảo: ‘Mẹ Têrêxa à, có một gia đình 8 con; họ không có gì ăn lâu rồi; Mẹ làm điều gì đi!’ Thế là tôi lấy một ít gạo rồi lập tức đi đến đấy. Tôi thấy mấy em bé với cặp mắt ánh lên vì đói…

“Bà mẹ cầm lấy gạo, chia ra hai phần, rồi đi ra ngoài. Khi bà trở về, tôi hỏi bà: ‘Bà đi đâu vậy?’ Bà đơn sơ trả lời: ‘Họ cũng đói.’ Điều làm tôi ngạc nhiên thích thú nhất là bà ấy biết họ là ai - là một gia đình Hồi Giáo - bà ấy biết rõ. Tôi không đem thêm gạo tối hôm ấy vì tôi muốn để cho họ hưởng trọn niềm vui chia sẻ.”

39. Điều ở bên trong

Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con bạch mã đã được huấn luyện rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng con này lại gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà bảo: “Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?”

Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người lính hầu đến và sai họ cưỡi trên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng, hoàng tử phải lên tiếng giải thích: “Chắc các người đã nhận ra rằng: trong khi ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu vết đằng sau, nó chạy nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngợp trời. Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá gấp đôi con ngựa thứ hai.”

Chúng ta thường tán thưởng những người khua to nói lớn, người thành công trên đường đời, người nổi tiếng, người được dân chúng mến chuộng, vỗ tay khen ngợi, mà quên khám phá ra giá trị của những các hay, cái đẹp, được giấu kín trong thầm lặng, trong cái vỏ giản dị bên ngoài.

40. Chia sẻ để lớn lên

Bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer đã nói trong một cuộc phỏng vấn: “Tôi đã nhận ra sự giúp đỡ, hiểu biết, lòng can đảm, sự dịu dàng và khôn ngoan mà nhiều người dành cho tôi quan trọng đến mức nào. Những người nam và những người nữ này đã đi vào cuộc đời tôi và tạo nên sức mạnh trong tôi, nhưng họ không bao giờ biết được điều đó, cũng như không nhận thức được tầm quan trọng thực sự mà sự giúp đỡ của họ mang lại.”

Những gì Schweitzer nói về những người đã gây xúc động sâu xa cho ông, chúng ta cũng có thể nói như thế về Thiên Chúa. Thiên Chúa đi vào cuộc đời chúng ta và trở nên nguồn sức mạnh trong chúng ta. Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa tất cả những gì chúng ta có được do lòng nhân hậu của Ngài.

Tôi có ca tụng và kính trọng Thiên Chúa vì những gì Ngài đã làm cho tôi không?

Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp của anh em mà tôn vinh cha anh em, Đấng ngự trên trời.” (Mt 5,16)

41. Hướng về đời sau

Cuốn “Tập sách các vấn nạn” của George Stock được viết nên từ nhiều câu hỏi. Đó không phải là những câu hỏi vặt vãnh, như: “Tên con ngựa của Tonto là gì?” Đúng hơn, đó là những câu hỏi rất nghiêm túc, như: “Tôi có thường dừng lại và suy nghĩ xem tôi đang sống thế nào và đang hướng về đâu không?” “Cảm nhận về cái chết đã ảnh hưởng đến cách sống của tôi ra sao?”; “Nếu một tinh cầu có thể nói cho tôi về một điều gì đó về cuộc đời hoặc tương lai của tôi, thì tôi muốn biết điều gì?”

Tôi có thể trả lời những câu hỏi này ra sao? Thiên Chúa muốn nói gì với tôi qua những câu hỏi như thế?

Cái chết không làm tôi sợ hãi, vì linh hồn tôi vĩnh hằng, không bao giờ chết. Linh hồn tôi cũng giống như mặt trời, mà với cái nhìn giới hạn từ trái đất, thì nó lặn đi mỗi tối, nhưng thực ra nó không bao giờ lặn.

42. Quý hơn ngọc

Trong khi đi dọc theo bãi biển hoang vu, một người đạo đức Ấn độ tìm được một viên ngọc. Một phụ nữ nghèo thấy ông nhặt được viên ngọc và đã hỏi xin. Con người đạo đức này đã đưa viên ngọc cho chị ta một cách vui vẻ. Người phụ nữ đi khỏi và nghêu ngao hát vì sung sướng. Giờ đây bà đã được giàu có. Một tuần sau, người phụ nữ trở lại và trả viên ngọc quý cho người đàn ông nọ và nói: “Hãy cho tôi cái quý giá hơn cả viên ngọc. Hãy cho tôi cái đã làm cho ông có thể cho tôi viên ngọc một cách vui vẻ.”

Cái gì đã làm cho con người đạo đức này có thể cho đi một cách vui vẻ?

Điều bạn cho đi khi khỏe mạnh là vàng

Điều bạn cho đi lúc ốm đau là bạc

Điều bạn cho đi sau khi chết là đồng. (Ngạn ngữ Do thái)

43. Tình yêu trổ sinh tự do

Có một chủ tiệm ở Utah bắt được một con đại bàng và để nó trong cửa hàng để thu hút khách. Một ngày nọ, một cụ già từ trên núi xuống. Cụ vào cửa hàng thấy con đại bàng và hỏi xem nó giá bao nhiêu. Ông chủ tiệm đưa ra một cái giá cắt cổ. Cụ già đến ngân hàng rút tiền để mua con đại bàng rồi thả nó ra. Khi một cô bé hỏi tại sao cụ lại bỏ một khoản tiền lớn như thế chỉ để giải thoát con đại bàng, thì cụ già trả lời: “Của cải không phải là những gì chúng ta có, mà là những gì chúng ta cho đi để làm việc thiện cần phải làm.”

Tôi sẵn sàng cho đi những gì để làm những việc thiện cần làm?

Tiền bạc là một ông chủ bất lương, nhưng lại là một đầy tớ tuyệt hảo (F. T. Barnum).

CNTN 32C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

 

THỨ HAI - BỔN PHẬN VỚI ĐỒNG LOẠI

Lời Chúa: Lc 17, 1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những trẻ nhỏ này.

"Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối hận", thì con hãy tha thứ cho nó."

Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin cho chúng con." Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con."

TRUYỆN KỂ

1. Sống Là Liên Ðới

Trong tác phẩm "Hãy Giúp Nhau Làm Lại Cuộc Ðời", xuất bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm 1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống, lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình.

Ðiển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ bàn giải phẫu xuống, các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được. Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62 tuổi, tuy không rời được khỏi xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời. Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.

Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách nhiệm đối với người khác.

2. Chối Bỏ Trách Nhiệm

Cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Joseph Estrada đã gặp nhiều chống đối trong nước theo sau tiết lộ của một tổng trưởng thân thiết của ông về số tiền hối lộ ông đã nhận được từ các tổ chức cờ bạc. Hẳn lúc đó vẫn còn nhiều người ủng hộ ông, nhưng con số bất mãn trong mọi giai tầng xã hội, từ giới kinh doanh, chính trị gia, sinh viên học sinh, cho đến cả người nghèo, ngày càng gia tăng. Ông khó có thể lấy lại sự ủng hộ mà những người dân nghèo đã dành cho ông trước đây.

Trong một quốc gia có đa số dân theo công giáo, ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo vẫn còn rất lớn và luân lý đạo đức vẫn còn là chuẩn mực để đánh giá sự lãnh đạo. Ðây là điều mà người tiền nhiệm của ông, cựu tổng thống Fidel Ramos đã nói thẳng với ông Estrada khi còn tại chức: "Hoặc là tổng thống phải từ chức trước lễ Giáng Sinh, hoặc là ông phải chỉnh đốn lại cách sống của ông." Ông Ramos nói như sau: "Tổng thống Estrada phải trước tiên sửa đổi bản thân bằng cách thay đổi nếp sống vô kỷ luật và cách làm việc thiếu trách nhiệm."

3. Sống chứng nhân thì hơn là thày dạy

Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 41 của Đức Thánh Cha Phaolô VI, có viết: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng là những nhân chứng." Như vậy, chúng ta có quyền nghĩ rằng: nếu đời sống chứng nhân có tác dụng rất tốt trong việc loan báo Tin Mừng, thì ngược lại, không có gì nguy hại cho bằng đời sống phản chứng nơi người Kitô hữu!

4. Tuyên xưng đức tin trong cuộc sống.

Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng; trước đây anh vẫn luôn luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi có nên tiếp tục quỳ gối không?

Lúc đầu anh cảm thấy ngượng ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao chỉ vỉ sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa khởi đầu cuộc sống xa nhà là đã để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không nên làm điều này điều nọ sao”?

Nghĩ thế, anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh, và khi làm dấu Thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng, mười phút cầu nguyện ấy thường dẫn đến những cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ.

Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:

- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.

Anh liền đáp lại:

- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của mình, nhưng tôi nghĩ, tôi không phải là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu sao tôi cũng xin cám ơn bạn về điều bạn vừa nói.

5. Sống đức tin là tha thứ

Sau đây là cuộc đối thoại ngắn giữa một Linh mục với một người nọ:

- Anh hãy tha thứ cho bà ta đi.

- Vâng, lần này con tha. Nhưng nếu bà ta tái phạm lần nữa thì đừng hòng.

- Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế khi anh đi xưng tội không?

-........

Kiên trì chấp nhận nhau và liên tục tha thứ: đây cũng là một hình thức căn bản của nếp sống bác ái cộng đoàn. ‘Giới hạn của tha thứ là thứ tha vô giới hạn’.

6. Lối xóm huấn luyện tội phạm

Nghe tin thằng “Hiền bụi đời” sắp về lại cái xóm nhỏ này sau thời gian khá dài trong trại giam, thỉnh thoảng người ta lại nghe tiếng búa, tiếng đục, cưa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo.

Hôm ấy hắn trở về với khuôn mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào một cuộc sống mới tốt đẹp. Dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui vui, hắn tiến về phía Dì Năm bán hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi. Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười gượng gạo, cáo lui. Không lâu sau đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: “… Vì muốn trả thù đời."

Mỗi ngày của tôi cũng có không ít những cái liếc mắt, bỉu môi trước niềm vui khám phá của người bạn, những cái cười mỉa mai, không phục…

7. Khổng Minh thất cầm Mạnh Hoạch

Những ai đọc truyện “Tam Quốc Chí” không thể không nhớ tích chuyện “Khổng Minh thất cầm Mạnh Hoạch.” Để thu phục Mạnh Hoạch, thủ lãnh một bộ tộc hùng mạnh ở Vân Nam, Khổng Minh dùng mưu kế bắt sống ông ta rồi lại tha về, để cho ông chiêu mộ binh mã đánh trận phục thù. Cứ như thế, bảy lần bị bắt rồi lại bảy lần được tha, Mạnh Hoạch khẩu phục tâm phục, trở thành chư hầu trung thành của nhà Thục Hán.

Đối với Thiên Chúa thì sự so sánh như thế vẫn tỏ ra bất cập. Ngài là Đấng vô cùng thánh thiện, bất kỳ sự xúc phạm nào đến Ngài cũng là vô cùng nặng nề. Vì thế khi Ngài tha thứ cho chúng ta nhờ giá máu châu báu của Người Con Chí Ái của Ngài, thì sự tha thứ của Ngài là không giới hạn. Chúa Giêsu dạy: là con cái của Thiên Chúa, chúng ta phải tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha thứ cho chúng ta: “Dù người anh em xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận,’ thì anh cũng phải tha cho nó.”

Theo tính tự nhiên, tha thứ không phải là chuyện dễ dàng, thậm chí lắm khi không thể được. Thế nhưng một khi Con Thiên Chúa đã chết để tha thứ những gì chúng ta xúc phạm đến Ngài thì việc tha thứ cho nhau đã trở thành điều có thể làm và hơn nữa buộc phải làm. Vậy mỗi khi có ai xúc phạm đến bạn, hãy nhìn lên thánh giá để nhớ rằng nơi đó mình đã được tha thứ để chính mình cũng mở lòng ra mà tha thứ cho anh chị em.

8. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân

Vào khoảng giữa thế kỷ trước, có một vị Linh mục già thánh thiện sống ở Wimpfen, vùng Westphalie. Mỗi tối, khi mặt trời lặn, Ngài có thói quen đi ra nghĩa địa và ở đó lần một chuỗi cầu cho các linh hồn ở luyện ngục. Ngày kia, một người bạn của Ngài hỏi lý do việc tối nào ngài cũng đi ra nghĩa địa như thế, và đây là câu trả lời:

- Tôi đã làm cha sở họ đạo này lâu năm, và biết đâu do lỗi của tôi khi không làm gương tốt, khi không chu toàn những gì tôi phải làm, tôi đã mang lỗi với những người bây giờ đang nằm dưới lòng đất lạnh này. Tôi sợ phải trả những khoản nợ ấy sau khi chết, do đó mỗi ngày tôi phải lần hạt cho những người đang nằm ở đây, để nhờ hành vi bác ái này cầu cho các linh hồn trong luyện ngục, đền bù các thiếu sót mà tôi có thể đã phạm...!

Không nên than trách kẻ khác, nhưng hãy tự kiểm điểm đời sống mình.

9. Châm ngôn sống đức tin của Mẹ Têrêxa

Ðây là câu châm ngôn Mẹ Têrêsa để lại như linh đạo cho các Nữ tu thừa sai bác ái, như nền tảng của các hoạt dộng của Tu hội." Thành quả của sự yên lặng là lời cầu nguyện - Thành quả của lời cầu nguyện là đức tin. Thành quả của đức tin là tình yêu. Thành quả của tình yêu là phục vụ. Thành quả của phục vụ là hòa bình."

Cuộc sống đức tin sẽ có ảnh hưởng rất tốt đối với đời sống cộng đoàn.

Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin cho mình và cho nhau. Nếu có lòng tin thì mọi sự sẽ tốt đẹp và sẽ làm được những điều phi thường.

10. Hạnh phúc là được tự do để yêu thương

Ông Voltaire tin tưởng vào thuyết vô thần, nên ông nhạo báng người Công Giáo bằng truyện ông dệt nên:

Jupiter là thần tối cao trong vũ trụ, lần kia Jupiter gọi anh Oresto đến nhắc nhở:

- Này Oresto, ngươi có biết ta là ai không?

Oresto cười chế nhạo và nói:

- Ông muốn nói ông là Chúa của tôi chứ gì? Tôi nói cho ông biết, ông là Chúa của ai mặc ông, nhưng tôi cấm ông không được nhận là Chúa của tôi.

Jupiter đập bàn thịnh nộ quát:

- Đồ khốn kiếp, ta không dựng nên mày, thì ai đã dựng nên mày?

Oresto nghiêm sắc mặt, chỉ thẳng vào mặt Jupiter:

- Ừ, thì tôi cứ tạm nhận ông là Chúa của tôi, nhưng ông quá ngu đần khi dựng nên tôi, ông để cho tôi có tự do, nên tôi có quyền phủ nhận ông, tôi không thể gọi kẻ ngu đần là Chúa của tôi được!

Vậy kẻ nào gây cớ vấp phạm như ông Voltaire, chắc chắn bị Đức Giêsu lên án: “Buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển” (Lc 17,2a).

Bởi thế giáo huấn Công Đồng Vat II trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng số 17 dạy: “Tự do của con người vì tội lỗi làm tổn thương, nên chỉ nhờ ơn Chúa trợ lực, mới có thể thực hiện việc hướng về Thiên Chúa cách hoàn toàn sống động.” Vì ai cũng phải cần ơn Chúa trợ lực, nên thánh Phaolô nhắc cho giới lãnh đạo đừng lạm dụng quyền tự do mà gây cớ vấp phạm: “Kỳ mục phải là người không ai chê trách được, chỉ có một đời vợ, con cái cũng tin đạo và không mang tiếng là sống phóng đãng hay bất phục tùng. Kỳ mục không được nóng tính, không nghiện rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại phải hiếu khách và yêu chuộng điều thiện,chừng mực, công chính, thánh thiện, tự chủ. Có như vậy mới hy vọng được sự sống đời đời” (Tt 1, 1-9: BĐ năm chẵn).

11. Quên mình để nhận lãnh

Một người đi ăn xin đến gõ cửa nhà ông trọc phú, không may vào lúc ông vừa mới thua canh bạc trở về, ông nhổ một bãi bọt vào mặt người xin. Người ăn xin quá tức giận luôn thủ sẵn cục đá trong bị chờ thời cơ trả thù. Qua thời gian dài mà ông chưa tìm được cơ hội thuận tiện.Nhưng khi ông ngộ ra mình dại nên quẳng cục đá đi, bỏ ý định trả thù, từ bấy giờ tâm hồn trở nên thanh thản.

Thánh Clêmentê khi đi xin của bố thí về nuôi kẻ mồ côi, cũng gặp cảnh huống này. Nhưng Thánh nhân bình tĩnh rút khăn lau bãi bọt trên mặt và nhẹ nhàng nói: “Thưa ngài đây là phần quà ngài mới tặng tôi, còn phần của những đứa trẻ mồ côi thì Ngài chưa cho.” Người giàu quá xấu hổ, hôm đó ông đã gởi tặng Thánh nhân một số tiền, mà Clêmentê chưa thấy ai cho nhiều như vậy!

12. Mọi người là anh em

Thánh Phanxicô thường mô tả mặt trời và mặt trăng như anh em và chị em. Điều đó có vẻ xa lạ với cách suy nghĩ của chúng ta. Hấp thụ nền khoa học Tây Phương, chúng ta được huấn luyện để xem mọi thứ khác nhau ra sao. Nếu được hấp thụ nền khoa học khác, chúng ta lại được huấn luyện để xét mọi sự vật giống nhau thế nào. Thánh Phanxicô nhận thấy tất cả đều đến từ bàn tay Thiên Chúa và được liên kết với nhau do quyền năng của Ngài. Tất cả công trình sáng tạo là sản phẩm của tình yêu Thiên Chúa và là một thành phần của đại gia đình Thiên Chúa. Vì vậy, thánh nhân diễn tả mọi tạo vật như là “anh em” và là “chị em.”

Tôi cảm nhận được mối quan hệ thân thuộc nào vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa? Công trình sáng tạo nào nói về Đấng Tạo Hóa hơn cả? Và nói lên điều gì với tôi?

Kế hoạch của Thiên Chúa khi thời gian đến hồi viên mãn, là qui tụ mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Chúa Kitô (Ep 1,10)

13. Chọn cửa hẹp

Lực lượng hải quân đóng ở Thái Bình Dương suốt thế chiến thứ hai đã dùng khẩu hiệu: “Hoạt động càn quét tảo thanh.” Sau khi một hòn đảo bị chinh phục, nhưng lực lượng chống đối còn lại ở trong rừng núi sẽ bị càn quét. Thánh Phaolô cho thấy một điều như thế trong bài đọc hôm nay. Ngài đề Titô ở lại đảo Kêta để hoàn thành một loại “họat động tảo thanh.” Đây là kiểu điển hình của Phaolô. Ngài làm công việc khó khăn hơn là rao giảng Tin mừng, rồi để lại cho người khác công việc dễ dàng hơn, như tổ chức Giaó hội đầu tiên chẳng hạn.

Tôi có sẵn sàng để làm công việc khó khăn hơn trong kế họach, và để lại công việc dễ hơn cho người khác không?

Lạy Chúa, xin dạy con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng con đang thực thi thánh ý Chúa (Thánh Ignatiô Loyola)

14. Gương xấu tàn phá nguy hại

Một cụ già đang hấp hối. Rõ ràng có một cái gì đó đang gây phiền toái cho cụ. Cuối cùng cụ phá tan im lặng và nói: “Khi còn nhỏ, tôi thường chơi trong một cánh đồng gần một giao lộ, ở đó có một bảng chỉ đường và tôi thường xoay hướng mũi tên để những du khách đi sai đường. Lúc này, khi nằm đây, tôi tự hỏi không biếtcó bao nhiêu người đã đi sai đường hoặc đã bị thương tổn vì hành động đó của tôi và cả những hành động đó của tôi và cả những hành động tội lỗi khác của tôi nữa.”

Lời Chúa Giêsu và câu chuyện về cụ già đang hấp hối mời gọi tôi tự hỏi: “Hiện giờ tôi có dẫn người khác đi sai đường một cách nào đó không?”

Khi còn trẻ, tôi ngưỡng mộ những người thông minh. Giờ đây, khi về già, tôi thán phục những người tử tế (Abraham Heschel).

15. Kẻ bé nhỏ

“Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã!”

John Newton nhận xét, “Hiếm khi Satan tấn công ai một cách thô bạo. Một khúc gỗ tươi có thể an toàn đứng cạnh một ngọn nến; nhưng chỉ với một vài mảnh vụn, một vài que củi, bạn có thể biến khúc gỗ tươi thành tro, và lửa của nó có thể thiêu rụi một cánh rừng. Cũng thế, gương xấu của bạn là những que củi có thể dẫn đến việc hỏng cả một thế hệ!”

 “Chỉ một vài mảnh vụn, vài que củi, một cánh rừng có thể bị thiêu rụi!” Cũng thế, cớ vấp phạm của bạn và tôi, tuy nhỏ, vẫn có thể đốt cháy cuộc đời của những ‘kẻ bé nhỏ’; và có thể, cả một thế hệ. ‘Kẻ bé nhỏ’ ở đây còn là tất cả những ai dễ bị tổn thương.

THỨ BA - ĐÚNG VỊ TRÍ, LÀM ĐIỀU PHẢI LÀM

Lời Chúa: Lc 17, 7-10

Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.

"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.”

TRUYỆN KỂ

1. Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực

Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải thưởng nhất:

giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60;

đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì hòa bình;

giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô Calcutta;

tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao tặng Mẹ giải Nêru;

nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến,

cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa.”

2. Tin vào Thiên Chúa nên ta tin vào bản thân

Peter là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy làm hãnh diện, vì hai vợ chồng ông đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh hóa hằng ngày.

Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã.

Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tích và chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động.

Ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh này mỗi khi nổi lên, nhưng đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu hãnh vì đã làm việc tốt, sách có câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn người đã làm ra nó hay sao?”

3. Khiêm tốn là một điều khó.

Một thầy rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.

Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy.” Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham.” Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thấy không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp.” Người thứ tư thêm vào: “Về sự cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy mà thôi.”

Vị rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không”?

Ông liền trả lời: “Có.” Nhưng vợ ông lại hỏi: “Thế tại sao ông lại tỏ thái độ bực tức như thế”? Vị rabbi than phiền: “Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi.”

4. “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?”

Trong thư thứ 1Cr 4,7 thánh Phaolô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao “của ta” đều không phải thực là của mình.

- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều người khác mới sinh ra đã đần độn.

- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy. Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.

- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.

- Ta đẹp ư? Cũng thế.

- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh, sức khoẻ, năng khiếu.

Bởi vậy, dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.

5. Ai khiêm tốn là công cụ của Chúa

Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà ngài làm được nhiều việc như thế. Thánh nhân đáp:

- Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi: “Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?”

Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những việc đó, bởi vì nó biết rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ của nó thôi” (Christian Herald).

6. Phẩm giá cao quý khi làm tròn bổn phận

Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cây cầu lên cao mỗi khi có tàu thuỷ qua lại phía dưới. Một ngày kia, cậu con trai ông đi qua phía cầu để chơi và xem cha mình làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té. Thầy con bị té, người cha hốt hoảng định kéo con lên.

Nhưng ngay lúc đó một chuyến tàu chở đầy hành khách đang lao tới trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Ông phải nâng cầu lên cho con tàu đi qua và như vậy con trai yêu quý của ông sẽ chết. Tâm trí bấn loạn… nhưng ông cũng đã hoàn tất nhiệm vụ, để rồi phải nhìn chiếc tàu đi qua với những hành khách nhộn nhịp cười nói mà lòng quặn đau…

Trong cuộc đời, có lần nào tôi đã dám hy sinh vì anh em mà không tính toán, dám phục vụ mà không nghĩ thiệt hơn?

Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ một cách vô vị lợi, vì đó là bổn phận của con. (Hosanna).

7. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.

Mẹ Têrêsa nói: “Điều quan trọng không là làm nhiều, làm tất cả,-- nhưng là sẵn sàng làm bất cứ gì, vào bất cứ lúc nào.”

Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Abbert Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ.” Hai năm sau, tức năm 1952, Abbert Schweitzer được thưởng giải NOBEL hòa bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: ông vừa là một triết gia lừng danh, một thần học gia danh tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc, và còn là một bác sĩ thừa sai.

Cuộc đời ông có nhiều điểm nổi bật làm cho ông thành “người hùng của thế kỷ.”

Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.

Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30, nhằm ngày 14-01-1905 ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư từ về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai làm việc giữa đám dân nghèo. Những lá thư ấy lập tức bị phản đối ngay.

Trong cuốn sách của ông nhan đề “Bên ngoài đời sống và tư tưởng của tôi”, Schweitzer viết: “Bà con và bè bạn tôi đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của tôi. Họ bảo tôi là một người đem chôn dấu tài năng đã được ủy thác cho mình. Một phu nhân đầy tinh thần tiến bộ nọ chứng tỏ cho tôi rằng, tôi có thể sinh ích lợi hơn nhiều bằng cách là một giảng sư đại học, để phục vụ cho ngành y khoa bản xứ hơn là lao mình vào hành động mà tôi đang toan tính.”

Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những dự định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực, lúc bấy giờ được gọi là Phi châu xích đạo. Sau cùng, ông đã chết ở đó vào năm 1965 hưởng thọ 95 tuổi.

Đây là ít lời Abbert Schweitzer để lại cho hậu thế:

- Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác, nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.

- Người lạc quan là người nhìn đâu cũng thấy đèn xanh, còn người bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn đèn đỏ... kẻ thực sự khôn ngoan thì mù màu.

- Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm, bạn sẽ thành công.

- Một bí mật lớn cho thành công là bước đi trên đường đời luôn tràn trề sinh lực.

8. Xứng với địa vị cao cả trong Nước Trời

Hồng y Karol Wojtyla trên đường ra phi trường qua Roma để bầu Giáo hoàng, vì Đức Gioan Phaolô I mới qua đời. Gần tới phi trường, bỗng có một bà cụ ra chận đầu xe ngài. Đức Hồng y ân cần hỏi:

- Tại sao bà cụ khóc?

Bà cụ mếu máo trả lời:

- Thưa cha, con chỉ có mỗi con mèo là bạn, thế mà người bên cạnh nhà, họ bắt mất, con xin lại họ không trả.

Ngài mời bà cụ lên xe và bảo tài xế quay xe lại để bà dẫn ngài đến nhà người đã bắt mèo, và sau khi ngài đòi lại được con mèo, rồi trao cho bà cụ, ngài tiếp tục ra phi trường đi Roma để bầu vị Tân Giáo hoàng. Trong cuộc bỏ phiếu kín, ngày 18-10-1978, Chúa đã chọn người đầy tớ hèn mọn đi bắt mèo cho bà cụ, đặt làm Giáo hoàng, người mục tử xuất sắc chăm sóc Hội Thánh và lãnh đạo cả thế giới.

Một Hồng y đi bắt mèo giúp bà cụ chỉ là việc nhỏ diễn tả lòng nhân ái mà đã được Chúa cất nhắc lên địa vị cao sang như vậy; huống chi khi bất cứ ai chu toàn nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, thì chắc chắn sẽ được cất nhắc địa vị cao cả hơn trong Nước Trời. Người như thế mới làm ứng nghiệm Lời Đức Giêsu dạy: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy,Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy” (Ga 14,23: Tung Hô Tin Mừng).

9. Tôi tớ vô dụng

Năm 19 tuổi, thánh Phanxicô Salê bị bệnh nặng, nghĩ mình sắp chết, ngài nói với giáo sư y khoa: “Sau khi con chết, xin thầy lấy xác con để cho sinh viên học tập, mổ xẻ… điều đó an ủi con khi con chết. Con nghĩ rằng khi còn sống, mình chỉ là đầy tớ vô dụng. Con muốn ít nhất sau khi chết, còn có cái gì tốt.”

Về sau, là một vị giám mục tài đức, thành công, làm việc tông đồ không biết mệt mỏi, ngài vẫn luôn luôn nói: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng.” Thánh nhân đã sống theo Lời Chúa dạy hôm nay: cố gắng chu toàn bổn phận mình phải làm, theo danh phận đòi hỏi.

Người môn đệ Đức Kitô không tự hào về những gì mình đã làm cho Chúa, cũng chẳng tự mãn về những thành công do danh phận mang lại, vì ý thức mình chỉ là “cây bút chì” trong bàn tay họa sĩ tài ba là Thiên Chúa.

10. Tin vào Chúa

Trong suốt chuyến viếng thăm Pêru vào năm 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đã vô cùng xúc động khi nghe đại diện của những người nghèo phát biểu: “Chúng con đói khát. Chúng con sống trong bất hạnh, bệnh tật và thất nghiệp. Những phụ nữ sinh con trong lao phổi, con của chúng con chết hoặc lớn lên yếu đuối và không có tương lai.

"Nhưng bất chấp tất cả, chúng con vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa của sự sống. Chúng con cùng sánh bước với Giaó hội và trong Giaó hội, và điều đó giúp chúng con sống xứng đáng là con cái của Thiên Chúa và là anh em của Chúa Kitô.”

Nếu Đức Thánh Cha yêu cầu tôi đưa ra câu trả lời cho lời phát biểu này, tôi có thể nói gì và tại sao?

Thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi (1 Ga 2,17).

11. Phục vụ là dùng ơn Chúa cho nên

Bộ phim họat hình “Peanuts” chiếu cảnh Charlie Brown đang chăm chú nhìn vào hộp dụng cụ. Cậu ta nói: “Tớ không làm được! Tớ không làm được!” Lucy tình cờ đi ngang qua và hỏi Charlie chuyện gì thế. Charlie trả lời: “Tớ muốn làm một ghế mộc, nhưng không có ghế mộc để làm nó.” Áp dụng sự kiện trên vào Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là chiếc ghế mộc của chúng ta. Trước khi Ngài trao hiến bản thân cho chúng ta, chúng ta không có chiếc ghế mộc nào để từ đó xây dựng lại thế giới đã bị tan vỡ.

Chúa Giêsu trở nên chiếc ghế mộc và Ngài để lại công việc cho chúng ta, điều đó có ý nghĩa gì?

Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa (1P 4,10).

12. Thước đo đức tin

Tại một miền quê khá yên tĩnh, một mục sư tận tuỵ phục vụ, dù con số giáo dân thật ít ỏi. Năm này qua năm khác, sứ vụ của ông xem ra khá đơn điệu. Chỉ sau nhiều năm, ông mới biết, một trong những người mà ông đã chinh phục cho Chúa Kitô là Charles Spurgeon, mệnh danh “Hoàng Tử của Các Nhà Truyền Giáo.” Spurgeon đã đem về cho Chúa hàng vạn linh hồn. “Không có giới hạn nào cho những điều tốt mà một người có thể làm, nếu người ấy không quan tâm đến phần thưởng!”

Sứ điệp Tin Mừng hôm nay không dựa trên thái độ của ‘chủ’ nhưng dựa trên thái độ của ‘tớ’, thái độ phục vụ! Chúa Giêsu cho biết, đó chính là ‘thước đo đức tin’ của người môn đệ. ‘Tớ’ phải hoàn thành nhiệm vụ mà không mong đợi phần thưởng của ‘chủ’.

Đức Bênêđictô 16 nói, “Nếu chúng ta phục vụ ý muốn của Thiên Chúa với lòng khiêm tốn, không đòi hỏi bất cứ điều gì từ Ngài, thì chính Chúa Giêsu lại phục vụ chúng ta, giúp đỡ chúng ta, khích lệ chúng ta; Ngài ban cho chúng ta sức mạnh và sự thanh thản!” Bài đọc khôn ngoan hôm nay viết, “Ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót thương những ai Người tuyển chọn!” Sự trung thành tin yêu đó là ‘thước đo đức tin’ của người môn đệ!

THỨ TƯ - BIẾT TẠ ƠN THIÊN CHÚA

Lời Chúa: Lc 17, 11-19

Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.” Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư tế.” Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.

Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng: "Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này.” Rồi Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi.”

TRUYỆN KỂ

1. Cần có lòng biết ơn

Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng.

Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình. Cám ơn là đi từ món quà đến người trao tặng. Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng trong đời, nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.

Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho: cha mẹ, ông bà tổ tiên, các anh hùng dân tộc…

Chỉ cần để lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn, tôi sẽ gặp được Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.

2. Biến tự do thành nô lệ

Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Ðó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.

Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.

3. Hoa trái của đức tin

Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu trước khi được lành bệnh, ông là một người ngoại đạo. Lúc thập tử nhất sinh, ông đã được giới nghệ sĩ chuẩn bị tang lễ cho ông cách chu đáo. Tuy nhiên, khi có người Công Giáo đến thăm và gợi ý đưa ông đến đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Dòng Chúa Cứu Thế để cầu khấn Đức Mẹ, ông đã đồng ý. Khi đến nơi, kỳ lạ thay, ông không xin cho mình được khỏi bệnh, nhưng ông lại xin đức tin. Thật nhiệm mầu, không những ông được ơn đức tin, mà ông còn được lành luôn căn bệnh xơ gan cổ trướng của mình. Sau đó, ông đã được đón nhận Bí tích Thánh Tẩy và dành thời gian còn lại để tạ ơn Chúa bằng việc sống đạo thật tốt, làm nhiều việc từ thiện bác ái.

Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, hẳn ít có ai dán can đảm để xin ơn đức tin như Lê Vũ Cầu! Bởi vì khi xin ơn đức tin, chúng ta phải thay đổi đời sống, dám chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho đức tin mà mình đã lãnh nhận.

4. Xem thấy lòng biết ơn

Kurt Emmerich - bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga:

Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.

Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh: “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh.”

Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận và rồi với nụ cười mỉm đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ: “Cám ơn”

5. Lấy Chúa làm gia nghiệp

Thánh Gioan Kim Khẩu, một giáo phụ có tài hùng biện, phải chịu đựng cơn giận của hoàng đế Arcadius. Trong cơn giận, hoàng đế hỏi các cố vấn để tìm ra một cách trừng phạt Gioan Kim Khẩu cho hả dạ.

- Tịch thu tài sản của hắn!, một người nói.

- Ai sẽ bị hại?, hoàng đế hỏi, không phải là Gioan Kim Khẩu đâu, mà là người nghèo, vì hắn cho hết những gì hắn có.

- Tống hắn vào ngục!, người thứ hai nói.

- Thế thì có ích gì? Hắn tự hào vì xiềng xích.

- Vậy thì, giết hắn đi!, một giọng nói khác.

- Như thế thì có gì hơn? Chỉ là mở cửa trời cho hắn.

Sau cùng, một tên có vẻ khôn ngoan hơn hết đề nghị: “Gioan Kim Khẩu chỉ sợ một điều duy nhất trên đời này. Hắn sợ tội. Chúng ta phải làm cho hắn phạm tội.”

Lời đề nghị sau hết này cho thấy rõ sự tự do và hạnh phúc lớn lao của người lấy Chúa làm gia nghiệp:“Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng ta sẽ cùng sống với Người.” (2Tm 2,11)

6. Đúng là lòng tốt thực sự

John Hughes là một tài xế taxi nại Nữu ước. Một sáng nọ, trong khi lau chùi xe, ông bắt gặp một chiếc nhẫn bằng ngọc bảo trên xe. Ông cố nhớ xem chiếc nhẫn này là của người hành khách nào. Cuối cùng, ông nhớ đến một người phụ nữ đã mang theo rất nhiều tiền.

Sau hai ngày tìm kiếm, ông gặp lại người phụ nữ và hồi hộp trả lại chiếc nhẫn cho bà ta. Chẳng những không thưởng, mà bà ta cũng chẳng nói một lời cám ơn.

Sau đó, ông John Hughes nói:”Tôi rất mừng vì dù sao cũng đã gặp được bà ta. Đó là việc tôi phải làm.”

7. Nhật ký của một bà già.

Đây là những lời của một bà già viết trong Nhật ký:

Chúa ban cho tôi biết bao ơn lành của Chúa, Chúa cho tôi đôi mắt, để tôi nhìn ngắm bao kỳ công, Chúa cho tôi đôi tai, để tôi nghe đủ âm thanh, Chúa cho tôi đôi môi, để tôi hé mở nụ cười, Chúa ban cho tôi hai tay, để tôi bưng chén cơm, cầm bút, Chúa cho tôi đôi chân, dẫn tôi đi khắp nẻo đường, Chúa cho tôi khối óc, để tôi biết phân biệt điều thực điều hư, Mà đã có lần nào tôi nhớ đến những thứ ấy để cám ơm Chúa chưa?

Hay phải đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, tôi mới nhận ra những thứ ấy thật quý giá.

8. Biết ơn người nhà

Hai tiếng “Cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn cho người được nghe nó nữa:

- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn sàng giúp ta nữa.

- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.

Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn học trò, chủ cám ơn tớ...

Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn “người nhà” ? (Frank Mihalic).

9. Nhắc khéo

Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe, cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói tiếng nào. Cậu bé hỏi:

- Thưa ông, ông vừa nói gì thế ?

- Tôi có nói gì đâu.

- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)

10. Lòng tốt và lòng biết ơn VÔ HẠN

Hồi còn học Trung Học, có một cuốn sách tôi rất thích đọc đó là cuốn “Những Tấm Lòng Cao Cả” của Edmondo Amicis. Trong tác phẩm này tôi thấy có rất nhiều chuyện hay. Và đây là một trong những chuyện đó. Chuyện kể rằng:

Có một thầy giáo nọ ở tỉnh Torino nước Ý được phân công đến dạy học cho những người tù trong suốt mùa đông.

Để giảng bài, ông đứng giữa một căn phòng hình ống, chung quanh là tường cao trần trụi có rất nhiều những ô cửa sổ nhỏ gắn chấn song sắt: Mỗi ô cửa là một xà lim, bên trong những ô cửa đó là những khuôn mặt hốc hác, râu tóc bù xù và những ánh mắt hết sức dữ tợn của những tội nhân với nhiều loại tội khác nhau, hay là những khuôn mặt của những tội nhân đang bị dày vò bởi những lỗi lầm đã trót phạm của mình...

Thầy giáo cứ thế giảng bài, đi đi lại lại quanh phòng, còn học sinh thì áp sát cuốn vở vào song sắt mà hí hoáy ghi chép.

Trong đám tù có một người mang số 78 là chăm chỉ chuyên cần nhất. Anh nhìn xuống thầy giáo với đôi mắt cung kính mến phục. Anh còn trẻ. Trước đây làm thợ mộc. Trong một lần bị oan ức, anh đã tức giận ném mạnh cái bào gỗ vào đầu tên chủ xưởng khiến hắn bị tử thương. Anh bị kết án 20 năm cấm cố. Chỉ trong ba tháng học mùa đông, người tù ấy đã biết đọc biết viết khá thông thạo.

Một hôm, buổi học vừa xong, anh đưa tay ra hiệu mời thầy giáo lại gần ô cửa sổ của anh. Anh buồn rầu báo tin rằng, hôm sau anh sẽ phải chuyển đi trại giam khác. Anh ngỏ lời từ biệt và xin được hôn lên đôi bàn tay thầy giáo. Thuyết phục nài nỉ mãi, anh mới được toại nguyện. Người thầy khi rút tay lại thì thấy tay mình đẫm nước mắt...

Thời gian thấm thoát trôi qua, chợt một hôm, thầy giáo ra mở cửa thì thấy một người lạ mặt quần áo nghèo túng, râu tóc đã bắt đầu muối tiêu. Người ấy nghẹn ngào tự giới thiệu:

- Thầy ơi, con chính là người tù số 78 mà thầy đã dạy cho con biết đọc biết viết trong một mùa đông giá lạnh cách đây 6 năm. Bây giờ thì con đã được mãn hạn tù, con đến xin thầy vui lòng nhận cho một vật nhỏ mà tự tay con đã làm ra trong tù, con chỉ thành tâm muốn biểu lộ lòng biết ơn vô hạn của con đối với thầy.

Thầy giáo lại một lần nữa xúc động đỡ lấy món quà, ông nhận ra ngay đó là một chiếc bình mực làm bằng gỗ, trên mặt có khắc tỉ mỉ hình một quyển tập và một dòng chữ nắn nót trân trọng: “BIẾT ƠN THẦY...”

11. Diễn tả tình yêu Chúa là lời tri ân đẹp nhất

Một thiếu nữ tìm đến Ấn Độ xin gia nhập Dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Têrêxa. Theo luật Dòng, trong ngày đầu tiên mới đến, chị được mời sang Nhà Hấp hối, ngôi nhà đón tiếp những người sắp chết. Mẹ Têrêxa nói với cô gái: “Chắc là con đã nhìn thấy linh mục dâng lễ, con đã thấy ngài chạm đến Thánh Thể với sự chăm chú và yêu thương xiết bao. Vậy con cũng hãy đi và làm như thế tại Nhà Hấp hối, vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu nơi thân thể những người anh em khốn khổ…”

Người thiếu nữ vâng lời ra đi… rồi cô trở lại với nụ cười rạng rỡ như chưa từng có, cô vui vẻ thốt lên: “Thưa Mẹ, con đã sờ được vào Thân thể Chúa Giêsu suốt ba tiếng đồng hồ!”

Khi Mẹ Têrêxa hỏi thêm, cô kể rằng: “Con đến Nhà Hấp hối thì người ta vừa mang đến một người ngã xuống một hố sâu, mình mẩy đầy những vết thương lở loét và hôi thối. Con đã đến tắm rửa băng bó cho anh. Con biết mình làm như thế là đã chạm được đến Thân thể Chúa Giêsu.”

12. Lòng tin cứu chữa

Có người nằm mơ một giấc mơ đáng sợ. Ông thấy mình đứng trước một biệt thự nguy nga, bên trong có hai hành lang với hai hàng chữ: “Bên phải dành cho người công giáo, bên trái cho dân ngoại.”

Không do dự, ông theo hành lang bên phải. Đi một lát, ông thấy một lối rẽ khác, với bảng chỉ dẫn: “Bên phải dành cho người có đức tin vững mạnh, bên trái dành cho kẻ ích kỷ.”

Ông đi vào lối rẽ phải, lại gặp một bảng chỉ dẫn khác: “Bên phải dành cho ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những người tội lỗi.”

Một lần nữa ông chọn bên phải. Đang hân hoan rảo bước thì ông gặp một cảnh tượng hãi hùng ở cuối hành lang ấy: cảnh hoả ngục với muôn vàn hình khổ không sao tả xiết làm cho ông hoảng hốt rú lên và giật mình thức dậy. Ông tự hỏi sau một lúc bàng hoàng: “Đây là mơ hay là thực?”

Ước gì tôi đừng bao giờ tự cho mình là xứng đáng dựa vào những gì bên ngoài, mà chỉ biết ngợi khen và tạ ơn Chúa đã yêu tôi dù tôi bất xứng, để xứng đáng nghe Chúa nói: “Lòng tin của con đã cứu chữa con!"

THỨ NĂM - SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI

Lời Chúa: Lc 17, 20-25

Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở đây hay ở kia.” Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông.”

Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi.”

TRUYỆN KỂ

1. Sống sung mãn giây phút hiện tại

Hiện nay, con số các nhóm khủng bố có mầu sắc tôn giáo đang gia tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt động khủng bố nào liên hệ đến tôn giáo, nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn giáo, Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm này là niềm tin vào một ngày thế mạt, họ chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được đưa vào Thiên Ðàng.

Các giáo phái mong mỏi ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ từ thế kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số đã cáo chung vì bạo động: cách đây vài năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi kéo nhiều tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi đã không đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo phái "Chân Lý Tối Thượng" chủ trương tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995 cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm tin vào ngày thế mạt nơi người Nhật bản.

Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Tuy nhiên, ngày đó có phải là năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết ngày giờ nào.

2. Tại sao lại mong Chúa đến?

Trong một lớp giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, một hôm, thầy giáo lý viên hỏi mọi người rằng: “Tại sao lại theo đạo Công Giáo?” Lúc đó, có một chị đã trả lời: “Con theo đạo để xin Chúa cho con khỏi đau khổ, bệnh tật...!” Thầy giáo đó trả lời: “Việc thoát khỏi đau khổ và bệnh tật không phải là lý do chính, việc quan trọng chính là bạn tin nhận Chúa làm chủ cuộc đời của mình, sống phó thác nơi Thiên Chúa và đón nhận cũng như khám phá ra ý nghĩa của đau khổ trong cuộc sống hiện tại, mặt khác, khi theo đạo, bạn được mời gọi bước theo Đức Giêsu trên con đường hy sinh, quên mình vì người khác, thực hành những điều Ngài dạy. Có thế, bạn mới được bình an thực sự.”

3. Chuẩn bị cho ngày Chúa đến

Một cha sở kia khuyên bổn đạo: “Hãy ăn năn hối cải trở về với Chúa một ngày trước khi chết.” Bổn đạo chưa hiểu rõ lời khuyên của cha có ý nghĩa gì...

Cha cắt nghĩa: “Không ai biết mình chết khi nào. Có lẽ tối nay chăng? Có lẽ ngày mai chăng? Bởi thế, muốn cho chắc chắn, hãy ăn năn hối cải trở về với Chúa ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay là một ngày trước khi chúng ta có thể chết mà chúng ta không biết.”

4. Chúa ở đâu Thiên đàng ở đó.

Một nhà truyền giáo đến thăm viếng một cậu bé da đen trong lúc cậu sắp sửa lìa đời. Cậu bé liền nói với nhà truyền giáo này về niềm hạnh phúc mà cậu cảm thấy và niềm ao ước được về với Chúa Giêsu.

Cậu bé nói:

- Chẳng bao lâu, con sẽ được lên Thiên Đàng, con sẽ nhìn thấy Đức Giêsu và ở với Ngài mãi mãi.

Nhà truyền giáo đáp:

- Nhưng nếu Đức Giêsu phải rời khỏi Thiên Đàng , con sẽ làm gì?

- Con sẽ đi theo Người.

Nhà truyền giáo lại nói:

- Nhưng giả thử Đức Giêsu đi xuống hỏa ngục, con sẽ làm gì?

Trong giây lát, với một cái nhìn thông minh và một nụ cười trên nét mặt , cậu bé đáp:

- Ồ, ở đâu có Đức Giêsu, thì ở đó không thể có hỏa ngục. Chúa Giêsu ở đâu, ở đó là Thiên Đàng.

5. Nước ấy đã đến cho tôi

Vào thời Nga Hoàng, một thanh niên vì chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng của đại văn hào Tolstoi và nhất là giáo huấn của Chúa Giêsu, nên đã từ chối thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra trước tòa, anh đã trình bày niềm xác tín là anh không thể cầm khí giới giết người. Sau khi nghe người thanh niên biện hộ, quan tòa mới phát biểu như sau:

- Tốt lắm, tôi đã hiểu được lý tưởng của anh. Nhưng anh còn phải thực tế. Lý tưởng anh đề ra là lý tưởng của Nước Trời, mà Nước Trời thì chưa đến.

Nghe thế, người thanh niên dõng dạc trả lời:

 - Thưa ông, tôi nhìn nhận là Nước ấy chưa đến cho ông... nhưng Nước ấy đã đến cho tôi. Tôi không thể sống như Nước ấy chưa đến, để tiếp tục chém giết và gieo rắc hận thù”

6. Nước Trời ở trong lòng người

Một hiền sĩ đang ngồi tại cổng thành Roma, bỗng một người đi ngang qua cất tiếng hỏi:

- Thưa ngài dân thành Roma có hiền hòa đức độ không ạ? Vị hiền sĩ hỏi lại:

- Thế ông từ đâu đến? Và xin ông cho tôi biết dân ông đang sống cùng, tính tình họ thế nào? Người kia đáp:

- Dạ, tôi ở thành phố Sàigòn, dân này là dân ba trợn, độc ác, tôi không sống nổi với họ! Vị hiền sĩ đáp ngay:

- Thế thì dân ở Roma này còn độc ác, dữ tợn hơn thế, ông nên tránh xa thì hơn!

Lát sau lại có người khác đến hỏi:

- Thưa ngài, dân thành Roma có hiền hòa đức độ không ạ? Vị hiền sĩ hỏi lại:

- Vậy ông từ đâu tới? Và xin ông cho tôi biết là dân thành nơi ông đang sống, họ thế nào? Người kia đáp:

- Dạ tôi ở thành phố Sàigòn, dân ở đó rất hiền hòa, tử tế, bởi vì ngày nào họ cũng đi dự Thánh Lễ, chăm chú nghe Lời Chúa và rước Lễ, tôi sống với họ rất hạnh phúc. Vị hiền sĩ đáp ngay:

- Thế thì dân thành Roma còn hiền hòa, tử tế hơn dân ở Sàigòn đấy, vì đây là thủ đô của người Công Giáo, xin mời ông đến với sống chung với họ.

Thật đúng như Lời Chúa Giêsu đã nói: “Người ta không thể nói: “Nước Trời ở đây hay ở kia, vì Nước Trời ở trong mọi người!” (Lc 17,21).

7. Qua thập giá đến Nước Trời

Nhà thần học nổi tiếng Teilhard de Chardin gồm tóm suy tư của mình trong ba tiếng: “Đăng giả hội” (những gì vươn lên cao thì sẽ tụ hội với nhau). Nếu vậy, thì đỉnh vươn cao nhất của nhân loại là được Kitô hoá, nghĩa là mọi con người sống với Cha trong tâm tình con thảo của Đức Ki-tô, và tụ hội nơi Chúa Ki-tô, vua vũ trụ. Thế nhưng, trước khi đến ngày quang lâm với ánh chớp chói loà còn sáng chói hơn cả triệu triệu đèn pha hay bom nguyên tử ấy, thì Đức Ki-tô phải chấp nhận bị dìm trong tăm tối: tăm tối của Vườn Dầu, tăm tối của khổ hình thập giá, tăm tối của mồ đá… và hôm nay tăm tối nơi những người nghèo đói, đau khổ, bị bách hại vì sống cho niềm tin, cho chân lý…

Ghi nhớ một nguyên lý ngàn đời: có đau khổ vì chân lý mới đạt được vinh quang, có qua thập giá vì Nước Trời mới đạt được phục sinh vinh hiển. Bạn có sẵn sàng chấp nhận không?

8. Sự khôn ngoan của Chúa

Một bài thơ cổ mô tả một người đàn ông nằm dưới gốc cây sồi giữa cánh đồng bí. Đôi mắt ông lướt từ những trái bí lớn trên thân cây nhỏ bé đến những quả sồi bé nhỏ trên nhánh cây lớn. Ông tự nhủ: “Thiên Chúa hẳn đã sai lầm! Lẽ ra Ngài phải đặt trái bí trên nhánh cây lớn và đặt quả sồi nơi những thân leo.”

Ông chợt thiếp đi, hoàn toàn hài lòng với nhận xét khôn ngoan của mình. Vài phút sau, ông chợt thức dậy, vì một quả sồi rơi trượt qua mũi ông. Ông xoa mũi và tự nhủ: “Có lẽ cách của Thiên Chúa khôn ngoan hơn cả.”

Điều gì tôi thường tự hỏi liên quan đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa quan phòng thế giới này?

Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn của loài người (1Cr 1,25).

9. Nước Trời trong tình yêu

Philemon là một kitô hữu sống ở Côrintô. Ông có một nô lệ bỏ trốn tên là Ônêximô. Phaolô gặp Ônêximô ở Rôma, dạy dỗ và rửa tội cho anh ta vào năm 62 sau công nguyên. Lá thư Phaolô viết cho Philemon để xin ông tha thứ cho Ônêxi mô và đón nhận anh ta trở lại không như một nô lệ, mà như một người anh em. Đây là một trong những lá thư ngắn nhất của Phaolô, nhưng cũng là một trong những lá thư nồng nàn nhất.

Từ quan điểm thực tế, thư của thánh Phaolô gửi cho Philemon thách thức tôi điểm lại mối quan hệ của tôi đối với những người đã gây đau khổ cho tôi, vì đã đối xử bất công với tôi.

Nếu bạn phải chịu đựng bất công do người khác gây ra, hãy thật lòng tha thứ cho họ, để không còn hai con người xấu xa nữa.

10. Nước Trời trong lòng người

Một cô bé bốn tuổi đang cùng ông nội đứng bên một cái giếng đã có từ lâu đời. Họ vừa múc nước lên để uống. Cô bé hỏi: “Nội ơi, Chúa sống ở đâu?” Cụ già nâng cô bé lên miệng giếng và nói: “Hãy nhìn xuống giếng và cho nội biết cháu tháy gì?” Thấy bóng mình dưới nước, cô bé trả lời: “Cháu thấy chính cháu.” Lúc đó cụ già nói: “Đó chính là nơi Thiên Chúa sống trong cháu. Nước Trời cũng giống như thế: nó ở trong lòng con người, nơi tình yêu ngự trị.”

Tôi tin tưởng sâu sắc đến mức nào lời thánh Phaolô: “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa” (1Cr 3,16).

Chính sự hiện diện của Thiên Chúa giúp tôi nối kết với bạn sâu xa trong lòng tôi. (Sách Talmud)

11. Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông

Trong kinh Lạy Cha, chúng ta xin cho “Nước Cha trị đến.” Lời cầu nguyện này dễ làm ta tưởng rằng Nước Chúa chưa đến, và chỉ hiển hiện khi Chúa tái lâm để đưa những kẻ được tuyển chọn vào Nước Trời. Lời Chúa hôm nay xác quyết rằng Nước Chúa đã bắt đầu và đang hiện diện giữa lòng thế giới hôm nay và đang tiến tới chỗ hoàn tất. Như thế, người Kitô hữu không phải là loại người mải lo xây dựng một thiên đàng ảo tưởng như người vô thần vẫn chế diễu. Trái lại, họ tích cực nỗ lực xây dựng Nước Trời ngay hôm nay bằng đời sống tin-cậy-mến. Nếu thiên đàng là được ở với Chúa, thì các Kitô hữu đang được ở cùng Chúa trong cuộc sống này rồi, với Nước Trời trong tâm hồn rồi, chứ không phải chờ đến ngày sau.

Khi bạn chỉ lo đọc kinh cầu nguyện, mà xao lãng hay coi nhẹ bổn phận làm cho thế giới này thêm tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, hạnh phúc, là bạn đang tạo cớ cho người ngoài đạo tưởng bạn chỉ lo xây dựng một thiên đàng mai sau. Người Kitô hữu không ngồi chờ ngày tận thế, nhưng hoạt động cho Nước Chúa trị đến trong tâm hồn và cuộc sống của mình.

THỨ SÁU - SỐNG TRONG NGÀY CỦA CHÚA

Lời Chúa: Lc 17, 26-37

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như sự kiện đã xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến tiêu diệt mọi người.

"Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con Người xuất hiện.

"Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống mình thì giữ được nó.

"Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại.”

Các môn đệ thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu vậy?" Người phán bảo các ông: "Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó.”

TRUYỆN KỂ

1. Sống chết bất ngờ

Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada. Hội chứng này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á.

Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng, cho một người khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh. Số người mắc hội chứng có tính di truyền này hiện đang gia tăng.

Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh.

2. Thực tại cánh chung

Trong những cuốn phim giả tưởng do trung tâm điện ảnh Holywood sản xuất trong thời gian gần đây, gây nhiều ấn tượng nhất có lẽ là cuốn phim: "Ngày Tận Cùng Của Trái Ðất.” Cũng giống như thời Noê, chỉ có 50 người chuẩn bị kịp, họ đã đi vào trong một phi thuyền đặc biệt và tránh được thiên tai xẩy ra cho trái đất, họ đã đi đến một hành tinh khác, và như vậy bảo đảm cho sự trường tồn của nhân loại. Với những xảo thuật tân tiến, cuốn phim đã có thể tạo ra những ấn tượng mạnh trên người xem.

Tuy nhiên, cũng như tất cả những lời đe dọa do nhiều giáo phái tung ra, những hình ảnh của cuốn phim dù khủng khiếp đến đâu, cũng chỉ là những hình ảnh, nghĩa là mời gọi người xem, suy nghĩ về một thực tại khác sâu xa hơn, thường được gọi là thực tại cánh chung.

3. An toàn nhất thế giới

Ngay từ lúc chiếc phi cơ của hãng hàng không Singapore bắt đầu lăn bánh từ phi đạo của phi trường Tưởng Giới Thạch, Ðài Loan, vào một buổi tối thứ Ba trong tháng 11 năm 2000, bà Sally Walker đã có một cảm giác không ổn. Hai tay nắm chặt vào chỗ dựa tay của ghế ngồi trong phần đuôi của chiếc phi cơ chỉ có phân nữa hành khách, người phụ nữ Hoa Kỳ bốn mươi sáu tuổi này lo lắng nhìn giông tố đang thổi ào ào bên ngoài cửa sổ phi cơ.

Vào lúc 11h48' tối, chiếc phi cơ di chuyển ra phi đạo để bay về Los Angeles, Hoa Kỳ, bà Walker, một giáo sư tại đại học Giorgie đã lầm thầm cầu nguyện khi nhìn thấy hai cánh phi cơ bị nghiêng ngả và thân phi cơ bị lắc mạnh. Khi chiếc phi cơ di chuyển ở vận tốc cất cánh với một cú sốc thật mạnh và rồi thêm một lần nữa, chiếc phi cơ bị giật dữ dội sang bên trái và nổ tung. Các quả cầu lửa bắn ra khi chiếc phi cơ bị bể làm ba phần, bay rít trên mặt đường nhựa của sân bay.

Sau này, ngồi trên chiếc xe lăn bà Walker kể lại sự thoát chết từ chiếc phi cơ ngập lửa rằng: "Mọi thứ đều bị đốt cháy. Thật là một cơn ác mộng khủng khiếp.” Bà Walker bị thương nhẹ ở chân là một trong những người rất may mắn. Hơn tám mươi người trong số một trăm bảy mươi chín hành khách của chuyến bay định mệnh đã chết trong tai nạn này. Một số người bị đốt cháy đến độ không còn có thể nhận diện được.

Tai nạn thảm khốc này xảy ra đúng một năm sau khi chiếc phi cơ của hãng hàng không Ai Cập bị rớt trên đường bay từ thủ đô Cairô đến New York, Hoa Kỳ, gây thiệt mạng cho hai trăm bảy mươi người. Nó xảy ra tại một trong những phi trường được xem là an toàn nhất thế giới, và được hoạt động bởi một trong những công ty an toàn nhất thế giới.

4. Chuẩn bị cho ngày sau hết

Thánh Hiêrônimô tin rằng, Thánh Địa là nơi sẽ xảy ra cuộc phán xét chung, vì thế, ngài hy sinh qua ở ngay tại Thánh Địa, đêm ngày ăn chay, cầu nguyện. Suy niệm Lời Chúa, nhớ đến ngày tận thế, ngày Chúa phán xét chung, để nhắc nhở mình phải luôn luôn sống trong sự ăn năn thống hối và đền tội.

5. Cơn bão số 9

Cơn bão số 9 mang tên Ketsana hồi cuối tháng 9 năm 2009 được dự báo sẽ theo hướng tây bắc đổ bộ vào Quảng Trị, bỗng bất ngờ chuyển hướng tây nam ập vào Quảng Ngãi khiến nhiều ghe tầu trở tay không kịp. Giống như thế, ngày cánh chung cũng được báo trước và chắc chắn sẽ đến, thế nhưng tính bất ngờ vẫn còn nguyên. Vì thế, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức, sẵn sàng. Cưới vợ, lấy chồng, làm ăn, trồng trọt, xây cất... không phải là điều xấu. Thế nhưng mải mê lo toan những điều đó mà quên đi mục đích tối hậu là “tìm kiếm Nước Thiên Chúa” thì lời cảnh cáo thời ông Noe vẫn còn hiện thực trong thời của chúng ta.

6. Cứ từ từ, đừng vội!

Có một truyện ngụ ngôn về ba con quỉ học việc. Chúng đến trần gian để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỉ về những kế hoạch cám dỗ loài người.

Con quỉ thứ nhất nói: - Tôi sẽ bảo với loài người là không có Thiên Chúa.

Con quỉ thứ hai nói: - Tôi sẽ bảo họ là không có hỏa ngục.

Satan trả lời: - Mi sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, ngay đến bây giờ loài người vẫn biết có một hỏa ngục dành cho tội nhân.

- Con quỉ thứ ba nói: - Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã làm gì, cứ từ từ.

Satan đáp: - Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số loài người bằng cách đó.

7. Nọa tính

Một đồ vật ta để trong phòng nó sẽ cứ nằm ỳ tại đó nếu không có ai đụng tới. Một hòn đá ta ném đi, sẽ tự động ghì lại và rơi xuống khi hết đà. Tinh thần con người cũng không tránh nổi sự trì trệ kiểu đó.

- Sự nguội lạnh, phai lạt: Một ly nước nóng để trên bàn, dù ta không làm gì, nó vẫn từ từ bớt nóng, và trở thành lạnh ngắt. Sự Nhiệt thành của ta đối với nước Trời cũng vậy.

- Sự cạn kiệt: Một chiếc xe Honda chạy mãi mà không được châm thêm, xăng sẽ vơi dần và cạn kiệt. Sự hăng say ban đầu nếu không được bồi bổ thêm bằng ơn Chúa qua sự cầu nguyện… cũng sẽ cạn dần. Người ta thường nói: ‘Quì lâu, chầu mỏi’.

8. Suýt chết để sống mạnh hơn

Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng.

Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim.

Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều này đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề.

9. Chết là sống hết mình

Mục sư King nổi tiếng với giải Nobel hoà bình năm 1964 nhờ tài lãnh đạo của ông đối với cuộc đấu tranh bất bạo động cho quyền bình đẳng của người da đen. Ông đã ấu tranh cho họ trên xe buýt, nơi trường học, tại thùng phiếu… Và chính trong cuộc đấu tranh ngày 4-4-1968, ông đã bị bắn chết tại Memphis tiểu bang Tennessi.

Sự hy sinh tính mạng vì tình thương của mục sư King đã mang lại nhiều quyền cho người da đen. Phần tôi, tôi đã làm gì cho những người anh em bên cạnh tôi, khi xung quanh tôi còn bao người khốn khổ, bao người cần sự bênh vực nâng đỡ?

10. Thiếu cảnh giác

Thế chiến thứ 2 bắt đầu vào ngày 1.9.1939, khi quân Đức tấn công vào nước Balan nhưng thực ra, quốc trưởng Hitler của Đức đã có kế hoạch tấn công Balan trước đó 6 ngày, tức là vào ngày 26-8-1939. Mười sáu đại đơn vị đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng có vài diễn biến chính trị vào giờ chót đã làm Hitler ra lệnh hoãn cuộc tấn công.

Lệnh hoãn chiến được cấp tốc truyền đến mọi đơn vị lớn nhỏ. Nhưng có một đơn vị do trung úy Henher chỉ huy lại không nhận được lệnh kịp thời, nên đã nổ súng, kéo qua biên giới tiến vào lãnh thổ Balan, chiếm một ngọn đồi chiến lược với một nhà ga xe lửa và bắt một tù binh.

Khi gọi điện thoại về báo cáo chiến công, trung úy Henher được lệnh phải thả tù binh và rút quân về tức khắc.

Mặc dù Đức đã nổ súng và đã chiếm đóng mấy địa điểm chiến lược trên lãnh thổ Balan vào ngày 26.8.1939, nhưng khi đại binh Đức ồ ạt tấn công qua biên giới, quân đội Balan vẫn bị đánh bất ngờ. Sự thiếu cảnh giác và không làm những việc cần phải làm nhiều khi cũng đem lại những thảm họa thật không lường trước được.

Những người thời ông Noê và ông Lót quả đã làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng đã không làm gì trước những lời cảnh cáo của Chúa cho nên họ đã phải chịu những thảm họa thật thảm thương.

11. Cùng làm việc với Chúa

Augustignasi Vadovaski là nhạc sỹ kiêm chính trị gia nổi tiếng của Balan vào đầu thế kỷ XX cũng thế. Người ta kể lại rằng:

Một người đàn bà nọ có một đứa con đang tập tễnh đánh bài vỡ lòng trên đàn dương cầm. Muốn động viên cậu bé hăng say hơn nữa trong việc học tập, ngày kia, bà mẹ mua vé đưa cậu đến dự buổi độc tấu dương cầm của nhạc sỹ Vadovaski. Để cho cậu con trai có thể thấy rõ, cũng như chiêm ngưỡng được nhà nhạc sỹ đại tài, bà mẹ đã cố gắng mua cho được hai chỗ gần sân khấu.

Giữa lúc bà mẹ đang bận chuyện trò với một người bạn thì cậu bé biến mất! Thì ra cậu bé đã trốn mẹ để lên tận sân khấu, và khi đến giờ trình diễn, đèn trên sân khấu bừng sáng, màn được kéo ra, và người ta thấy cậu bé đã ngồi chễm chệ trước cây đàn dương cầm từ bao giờ! Chưa hết ngạc nhiên, mọi người đã nghe vang lên tiếng đàn ngập ngừng của cậu qua bài học vỡ lòng. Lúc tiến ra sân khấu, nhạc sỹ Vadovaski mỉm cười nói với cậu bé:

- Cháu cứ tiếp tục đi.

Rồi ông bước tới, đứng đàng sau cậu bé, dùng bàn tay trái của mình đệm bè thêm cho bản nhạc. Một lúc sau, ông sử dụng luôn cả bàn tay phải ôm trọn lấy cậu bé và đệm luôn phần trên của bản nhạc. Bốn bàn tay quyện vào nhau. Nhà nhạc sỹ đại tài và cậu bé đã tấu lên được một trong những khúc nhạc du dương lạ thường. Khán giả hôm ấy đã không ngớt vỗ tay tán thưởng.

12. Sống phút hiện tại

Cậu Gioan Berchman đang hăng say chơi banh với chúng bạn. Cha xứ tiến đến hỏi các cậu:

- Nếu một giờ nữa Chúa đến gọi chúng con ra khỏi thế gian, chúng con sẽ làm gì bây giờ?

Một cậu thưa:

- Con sẽ chạy về nhà xin lỗi mẹ con, vì con đi đá banh chưa xin phép.

Cậu khác:

- Con sẽ vào Nhà Thờ cầu nguyện, và xin cha giải tội, vì mấy tháng nay con chưa xưng tội.

…………

Đến lượt Gioan Berchman nói:

Con cứ tiếp tục chơi banh cho đến khi Chúa đến gọi con, vì mọi việc trong ngày: Đi lễ, học bài, phụ giúp cha mẹ, con đã hoàn tất, và giờ này là giờ chơi banh của con, cha mẹ con đã cho phép.

Như thế cậu Gioan Berchman đang đá banh là cậu đang sống đẹp từng giây phút hiện tại, nghĩa là cậu đang sống trong Nước Thiên Chúa!

13. Vinh quang từ thập giá

Nhà thần học nổi tiếng Teilhard de Chardin gồm tóm suy tư của mình trong ba tiếng: “Đăng giả hội” (những gì vươn lên cao thì sẽ tụ hội với nhau). Nếu vậy, thì đỉnh vươn cao nhất của nhân loại là được Kitô hoá, nghĩa là mọi con người sống với Cha trong tâm tình con thảo của Đức Ki-tô, và tụ hội nơi Chúa Ki-tô, vua vũ trụ. Thế nhưng, trước khi đến ngày quang lâm với ánh chớp chói loà còn sáng chói hơn cả triệu triệu đèn pha hay bom nguyên tử ấy, thì Đức Ki-tô phải chấp nhận bị dìm trong tăm tối: tăm tối của Vườn Dầu, tăm tối của khổ hình thập giá, tăm tối của mồ đá… và hôm nay tăm tối nơi những người nghèo đói, đau khổ, bị bách hại vì sống cho niềm tin, cho chân lý…

Hãy ghi nhớ một nguyên lý ngàn đời: có đau khổ vì chân lý mới đạt được vinh quang, có qua thập giá vì Nước Trời mới đạt được phục sinh vinh hiển. Bạn có sẵn sàng chấp nhận không?

14. Thấy điều cần thấy

Gene Perret, nhà sọan kịch cho Bob Hope, đang lắng nghe tiếp viên hàng không hướng dẫn về những an toàn thông thường. Bà chợt chú ý hơn khi nghe nói “Có thể có năm mươi cách để bỏ người yêu, nhưng chỉ có năm cách rời bỏ máy bay.” Một vài giây sau, cô tiếp viên nói thêm: “Xin vui lòng quay thẳng ghế lại và ngồi ở vị trí thoải mái nhất. Sau đó quý vị có thể dựa vào người hàng khách ở đằng sau.”

Tại sao có một số người quan sát sự vật và tìm thấy điều hài hước trong đó, còn những người khác thì không? Tại sao một số người quan sát sự vật và tìm thấy Thiên Chúa, còn những người khác thì không?

Nếu một người nghẹt mũi không ngửi thấy hương của bông hoa hồng, thì sự kiện đó không do bông hoa, mà do bản thân người ấy. Điều đó cũng đúng đối với những người nói rằng không có Thiên Chúa (Ralph Richardson).

15. Yêu thương phải là điều cốt yếu

Bộ phim họat hình “Peanuts” có cảnh Charlie báo cho Snoopy đừng đến gần nhà Lucy, vì hôm nay Lucy gặp chuyện không may. Snoopy không lời khuyến cáo của Charlie, đã chạy đến nhà Lucy và gõ cửa. Khi Lucy gõ cửa, Snoopy đặt một cái hôn vào mũi cô bé. Sau đó Snoopy vui vẻ nói: “Đó chính là để bạn chấm dứt chuyện không may.”

Tôi có sẵn sàng làm những chuyện táo bạo, để đem tình yêu đến cho một ai đó, nhất là những người xem ra không đáng yêu chưa?

Không ai cần tình yêu hơn người không đáng yêu. Nếu chúng ta chờ cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu (Louis Evely).

16. Sẵn sàng

Có thể so sánh Nước Thiên Chúa với một đứa trẻ. Một đứa trẻ vẫn sống và lớn lên, nhưng chưa trở thành người lớn. Nước Thiên Chúa cũng thế: nó vẫn tồn tại và lớn lên, nhưng chưa đạt mức trưởng thành? Khi nào chúng ta có thể mong chờ Chúa Giêsu đến trong vinh quang để tuyên bố một kết thúc từ lâu mong đợi? Không ai biết được. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói: “Anh em phải luôn sẵn sàng” (Mt 24,44).

Tôi quan tâm thế nào đến lời thánh Phêrô: “Trong khi mong đợi ngày đó, anh em phải cố gắng sao cho Thiên Chúa thấy anh em tinh tuyền, không chi đáng trách và sống bình an” (2P 3,14).

Chúng ta làm việc để trưởng thành, chứ không phải để đạt một cái gì đó (Elbert Hubbard).

17. Mọi chuyện có thể thay đổi, cần sẵn sàng

Từ nửa đầu năm 2011, nhiều hiện tượng thiên nhiên bất thường như động đất ở Nhật, hay thông tin về sao chổi Elenin sẽ đi qua gần trái đất vào cuối năm nay, làm cho nhiều người nghĩ ngày tận thế đã đến nơi. Ông Harold Camping, người Mỹ, từng nói chắc nịch rằng: ngày 21 tháng 5 là Ngày Phán Xét và ngày 21 tháng 10 là Ngày Tận Thế. Thế nhưng, những tiên đoán của ông đã không xảy ra. Chúa Giêsu đã từng nói rõ: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa Cha biết mà thôi” (Mt 24,36). Chúa còn đề cập đến hai biến cố lịch sử trong Cựu Ước là lụt Đại Hồng Thủy và thành Sôđôma bị thiêu hủy để mô tả khía cạnh bất ngờ của ngày Quang Lâm.

Có em học sinh lớp 4 nói với cô giáo: “Nếu đúng ngày tận thế, con nghĩ chúng ta học làm gì nữa.” Một nhóm sinh viên nửa đùa nửa thật: “Được chứng kiến sự tận thế của thế giới quả là thời khắc lịch sử vĩ đại lắm chứ!” Các bà, các cô nhà giàu thì vội rủ nhau đi xem bói, lên kế hoạch “tẩu tán tài sản”, mua sắm thả cửa, đi du lịch. Riêng bạn và nhóm bạn sẽ làm gì?

18. Biết chọn và phải chọn

Nhạc sĩ Văn Cao có những vần thơ nói về vấn đề sống-chết nghe như âm hưởng của Lời Chúa hôm nay: “Giữa sự sống và sự chết, tôi chọn sự sống. Để bảo vệ sự sống, tôi chọn sự chết.” Sự sống là cái gì quý giá nhất trong cuộc đời, vì thế đáng cho ta nâng niu, chọn lựa. Thế nhưng, đừng quên rằng sự chết, nấp dưới vỏ bọc sự sống, cũng có sức hấp dẫn ghê gớm. Chẳng hạn sự chết của rượu chè say sưa, của phim ảnh đồi truỵ, của ma tuý, của phá thai, của đời sống buông thả. Người chạy theo tưởng nó là được sống, là cuộc đời, nhưng thực ra, là phải chết. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gọi đích danh đó là nền văn minh sự chết. Ngược lại, để có được sống thật, thì phải dám chấp nhận chết: chết vì quên mình để phục vụ đồng loại, chết do hy sinh từ bỏ cho những giá trị của Nước Trời.

Hãy xác tín rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về sự sống vĩnh cửu. Vì thế, bạn hãy mạnh dạn hy sinh những sự sống giả tạo, để có thể đạt được sự sống muôn đời của Chúa.

THỨ BẢY - CẦU NGUYỆN LÀ SỨC MẠNH

Lời Chúa: Lc 18, 1-8

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng mà rằng: "Trong thành kia, có một vị thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: "Xin ông minh oan cho tôi khỏi tay kẻ thù.” Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ rằng: "Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy đến mãi làm ta nhức óc.”

Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?"

TRUYỆN KỂ

1. Tin vào Chúa công minh

Tuần báo Công Giáo Dân Tộc số ra ngày 15/10/1995 ở Mục Trong Tuần, có ghi một sự kiện như sau: Trong 4 năm thực hiện pháp lệnh tối cao của công dân được Hội Ðồng nhà nước ban hành ngày 7/5/1991, riêng tại Thành phố Sàigòn có 36 đơn vị chức năng đã nhận được 11,635 đơn từ, trong đó có tới 81.5% đơn từ tố cáo khiếu nại về nhà cửa, đất đai. Theo số liệu chưa đầy đủ, đơn từ tố cáo khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết là 6,520 đơn. Bài báo đưa ra đề nghị: "Ðể có thể giải quyết rốt ráo những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của mọi người dân khi quyền lợi chính đáng của mình bị xâm phạm, quyết định cuối cùng của Ủy ban nhân dân các cấp chưa đủ thuyết phục, cần có một tòa án xét xử công minh.”

Phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là biết đón nhận ý muốn của Thiên Chúa, ngay cả và nhất là khi phải trải qua nghịch cảnh, thất bại, khổ đau; phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là luôn tin rằng từ những mất mát, đổ vỡ và ngay cả từ tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút ra những điều tốt đẹp cho con người.

2. Hãy xin thì sẽ được

Trong một lớp học nọ, một học sinh trung học không bao giờ để cho cô giáo của cậu được yên, lúc nào cậu cũng tìm cách quấy phá cho cô tức giận. Một buổi sáng nọ, trước giờ lớp cô giáo đang ngồi loay hoay viết thì cậu học sinh xuất hiện. Không một chút kính nể, cậu hỏi cô:

- Cô đang làm gì đó?

Cô giáo trả lời:

- Tôi đang cầu nguyện với Chúa.

Liếc mắt thấy những dòng chữ bằng tốc ký, cậu học sinh tấn công:

- Chúa mà cũng biết đọc được tốc ký à?

Cô giáo vừa xếp tờ giấy cho vào cuốn Kinh Thánh vừa trả lời:

- Chúa có thể làm được mọi sự, ngay cả nhậm lời cầu xin của tôi.

Thừa lúc cô giáo chuẩn bị để bắt đầu lớp học, cậu học trò lanh tay rút tờ giấy từ quyển Kinh Thánh và cho vào cuốn sách của mình.

Hai mươi năm sau, người học trò ngổ ngáo ngày xưa nay đã là giám đốc của một công ty. Một hôm, anh tình cờ xem lại cuốn sách của thời trung học, mẫu giấy của cô giáo mà anh đã đánh cắp và cho vào cuốn sách của mình giờ đây đã nhạt màu, anh cho mẩu giấy vào trong ví của mình. Trở lại văn phòng, anh xin cô thư ký đọc giùm mẩu giấy được viết bằng tốc ký, mẩu giấy có chứa đựng một lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, với sự chọc phá của Bill, chắc con không thể nào tiếp tục dạy ở lớp này nữa. Xin Chúa hãy biến đổi tâm hồn em, em có thể là một người rất tốt mà cũng có thể là một người rất xấu.”

Vài tuần lễ sau đó, Bill truy tìm chỗ ở của cô giáo ngày xưa, anh cám ơn cô vì đã cầu nguyện cho anh. Lời cầu nguyện đã được Chúa nhậm lời ngoài sự mong đợi của cô: "Hãy xin thì sẽ được. Khi các con cầu nguyện và xin bất cứ điều gì, hãy tin rằng mình sẽ nhận được thì các con sẽ được ban cho điều các con cầu xin.”

3. Nói chuyện với Chúa

Nhắc đến cuộc đời của cha Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars, người ta không thể quên câu chuyện người nông dân xứ Ars cầu nguyện:

Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về, anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện như vậy. Trong xứ ai ai cũng nể và kính phục về sự chuyên cần lao động và cầu nguyện của anh. Nhưng người ta không biết anh nói gì trong lời cầu nguyện của mình.

Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để làm gì thế ?”

Anh nông dân trả lời: “Tôi nói chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện với tôi.”

4. Ông có muốn vào không ?

Một người đưa tin phóng ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín. Ông gõ cửa nhưng không ai mở cả. Ông biết trong nhà có người vì trước đó ông đã nhìn qua cửa sổ thấy họ. Bởi đó ông nổi cáu vừa la lớn tiếng vừa dùng hết sức mình đập vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 30 lần thì một cái đầu mới thò ra qua một lỗ nhỏ trên cánh cửa, hỏi:

- Ông có muốn vào không ?

- Muốn vào không ư ? Tôi đã kêu cửa muốn khản cả cổ rồi đây này.

- Xin ông thông cảm. Mỗi ngày rất nhiều đứa bé hàng xóm cứ đến gõ cửa để phá chơi rồi lại chạy trốn. Ban đầu chúng tôi tưởng ông cũng thế. Nhưng khi nghe ông vẫn kiên trì kêu cửa, chúng tôi biết ông muốn vào thật nên mới mở cửa cho ông (Bruno Hagspiel)..

5. Địa chỉ của lòng tin và tình yêu

Beppo Sala là một cậu bé 8 tuổi. Cha mẹ cậu rất nghèo mà phải nuôi tới 6 đứa con. Mẹ cậu lại sắp sinh thêm đứa thứ 7. Tuy còn nhỏ nhưng Beppo cũng biết khi đứa bé sinh ra thì nó phải thiếu thốn như thế nào. Cậu muốn làm một việc gì đó để giúp cha mẹ. Cậu nhịn ăn quà, dùng tiền mua một chiếc bong bóng bay. Cậu viết một bức thư ngắn cột vào bong bóng rồi thả cho bay lên trời. Bức thư viết “Chúa ơi, trong vài tuần nữa mẹ con sẽ sinh em bé. Nhưng gia đình chúng con nghèo quá. Xin Chúa giúp chúng con tìm được một chiếc chăn và vài bộ quần áo cho nó. Đồ cũ thôi cũng được. Con là Beppo Sala, nhà ở Arcorle.” Beppo về nhà hồi hộp chờ đợi. Chờ đã 3 ngày mà chẳng thấy gì cả. Đến ngày thứ tư, một nhân viên bưu điện mang tới nhà Beppo một thùng giấy lớn có ghi rõ “Người nhận: Beppo Sala, Arcorle. Người gởi: Rovingo.” Trong nhà chẳng ai có quen người nào tên Rovingo cả nên bảo nhân viên bưu điện trả về người gởi. Nhưng không có địa chỉ người gởi nên cậu bé đành mở thùng ra coi. Trong thùng toàn là quần áo trẻ con rất sạch và đẹp. Có cả một chiếc chăn nhỏ nữa. Thì ra một người nào đó tên Rovingo đã tình cờ nhặt được chiếc bong bóng và bức thư của cậu bé nên đã thay Chúa gởi quà cho em của cậu.

Nhiều khi Thiên Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta bằng một cách thức và vào một thời điểm mà chúng ta không ngờ. (Pastor Paterno).

6. Chìa khóa thành công của satan

Hôm đó, quỷ vương tổ chức một bữa tiệc mừng sinh nhật thật lớn, trong đó, những đặc phái viên của quỷ đều tụ tập về để báo cáo lại kết quả mà chúng đã thu hoạch được trong việc bày ra những chước cám dỗ của chúng đối với loài người.

Một tên quỷ nói:

- Trong một đoàn người Công giáo đi hành hương, tôi đã thả những thú vật hoang dã của sa mạc ra tiêu diệt họ, và hiện nay hàng đống xương của họ vương vãi trắng xóa trên cát.

Quỷ vương hồi hộp theo dõi:

- Rồi sao nữa ? Hãy tường trình tiếp đi ?

Tên quỷ than phiền:

- Nhưng mấy người Công giáo này cứ kiên trì cầu nguyện cho đến lúc bị lũ thú dữ ăn thịt, vì thế linh hồn của bọn họ đều được cứu rỗi.

Quỷ vương thở dài chán nản.

Một tên quỷ khác nói:

-Tôi đã cho một luồng gió Tây thổi mạnh vào một con tàu chở đầy người Công giáo, và tất cả bọn họ đều bị chết đuối.

Quỷ vương nôn nóng:

- Rồi sao nữa ? Thành công chứ ?

Tên quỷ này cũng phàn nàn: Cũng giống như trường hợp trên, linh hồn của tất cả bọn họ đều được cứu rỗi.

Tên quỷ thứ ba báo cáo:

- Trong suốt 10 năm, tôi đã cố gắng cám dỗ một người Công giáo, chỉ một người thôi. Tôi đã làm cho anh ta lơ là trong việc bổn phận và tôi đã thành công. Bây giờ, anh ta đã trở thành một con người luôn sao lãng bổn phận.

Quỷ vương la lên vui mừng:

- Thế là hỏa ngục có thể ca hát mừng rỡ được rồi.

7. Lời nguyện tự đáy lòng

Một ẩn sĩ sống trên núi để suốt ngày cầu nguyện và thinh lặng.

Một sáng kia, có một thanh niên thăm ông.

- “Cheikh” (Tiếng A-rập có nghĩa là một người hiểu biết, một nhà hiền triết) “Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.”

Vị ẩn sĩ đang chiêm niệm nên không ngước mắt lên.

Và người thanh niên buồn rầu ra đi. Ngày hôm sau anh trở lại:

- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.

Nhưng lời yêu cầu của anh cũng không được đáp trả, giống như hôm trước. Tuy nhiên, vì rất tha thiết, anh trở lại một lần thữ ba.

Lúc ấy vị ẩn sĩ đang chuẩn bị bữa ăn đạm bạc của mình: chắc là anh may mắn hơn.

- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.

Nhưng lời yêu cầu cũng không được phúc đáp

- Chẳng lẽ câu hỏi không quan trọng gì nên ngài không buồn nghe sao ?

Bấy giờ vị ẩn sĩ ngước mắt lên nhìn với ánh mắt đầy nhân hậu, nhưng, cũng giống như các ngày trước, ông vẫn làm thinh.

Được ánh mắt khuyến khích, ngày hôm sau, chàng trai lại đến, hy vọng sẽ được ông trả lời

- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.

Trước sự im lặng kiên trì của vị ẩn sĩ, anh nổi giận.

Cuối cùng, vị ẩn sĩ mới nói với anh:

- Tôi không trả lời vì muốn thử xem anh có thực sự khao khát không. Vì lòng khao khát của anh tự nó đã là một lời cầu nguyện rồi. Thiên Chúa chẳng đòi hỏi gì khác hơn là anh tìm kiếm Người. (Truyện cổ Ảrập)

8. Con đỡ đầu của bà bán hoa

Trong một cuộc chuyện trò với một nhóm phụ nữ Công Giáo đạo đức về ơn gọi Linh Mục, Đức Hồng Y Louis-Edouard Pie nói.

“Tôi biết rất rõ một cậu bé nghèo thật nghèo, chào đời nơi một ngôi làng gần thành Chartres. Cậu bé nghèo ấy rất ước ao trở thành Linh Mục nhưng song thân quá nghèo lại sớm lìa bỏ cõi đời khiến cậu trở thành đứa trẻ mồ côi. Vào một ngày Lễ Ba Vua, cậu bé bước vào nhà thờ Chính Tòa Poitiers. Cậu bé ngỡ ngàng và vô cùng xúc động khi theo dõi buổi cử hành Phụng Vụ. Thánh Lễ quá đẹp và quá trang trọng khiến cậu bé cảm thấy cổ họng nghẹn cứng và không cầm được nước mắt. Cậu bé bước ra khỏi thánh đường với khuôn mặt dàn dụa nước mắt.

Nơi công trường trước nhà thờ Chính Tòa có một phụ nữ bán hoa đang ngồi đó. Trông thấy cậu bé khóc, bà động lòng trắc ẩn và âu yếm cất tiếng hỏi:

- Sao con lại khóc ? Bé cưng của bà ?

Cậu bé mếu máo trả lời:

- Con muốn trở thành Linh Mục nhưng con lại quá nghèo!

Người phụ nữ có quả tim vàng trả lời ngay:

- Chính bà sẽ giúp con, con an tâm!

Giữ lời hứa, người phụ nữ nghèo ấy, đêm ngày thức thật khuya dậy sớm để làm việc. Bà làm việc thật vất vả nhưng kiếm đủ số tiền đóng cho đứa con trai bà nuôi đang theo học nơi Chủng Viện.

Nói đến đây, Đức Hồng Y Louis-Edouard Pie với đôi mắt đẫm lệ, nghẹn ngào kết thúc câu chuyện với nhóm phụ nữ Công Giáo đạo đức:

- Thưa quý bà, người phụ nữ nghèo tốt lành ấy nay đã qua đời. Nhưng cậu bé nghèo kia đã kiên trì trong ơn gọi, đã thụ phong Linh Mục, rồi Giám Mục và nay là Hồng Y. Cậu bé nghèo ấy chính là tôi đây, người đang nói chuyện với quí bà và là Hồng Y của quí bà đây!

9. Ampere dạy cầu nguyện

Một chàng sinh viên Văn Khoa tò mò vào Nhà Thờ, tình cờ anh gặp thấy nhà bác học Ampère, có thói quen cứ sau Thánh Lễ ông ở lại cầu nguyện. Anh đợi nhà bác học cầu nguyện xong, anh theo nhà bác học về tới nhà và hỏi:

- Thưa ngài, con xin hỏi một điều, con học ngành Văn Khoa, nên không dám hỏi về chuyện khoa học, con chỉ xin hỏi về vấn đề Đức Tin.

Nhà bác học ngỡ ngàng nói lại:

- Tôi là kẻ yếu kém về Đức Tin nhất, nhưng nếu có thể giúp gì cho anh, tôi sẵn sàng.

Chàng thanh niên mừng rỡ hỏi tiếp:

- Thưa ngài, một người vừa là một nhà khoa học vĩ đại, vừa là người Kitô hữu siêng năng dự Lễ cầu nguyện, thì có thích hợp không?

Ông Ampère ôn tồn đáp:

- Con người chỉ thực sự là vĩ đại khi người ấy biết dự Lễ và cầu nguyện mà thôi! Chính Chúa Giêsu là bậc vĩ đại nhất, vì Ngài toàn năng, muốn gì được nấy, cho kẻ đói ăn, chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ… thế mà Ngài vẫn chu đáo việc cầu nguyện trước những sinh hoạt trong ngày. Điều ấy Đức Giêsu đã khẳng định với mọi người: muốn là người vĩ đại, phải ưu tiên việc cầu nguyện (x Mc 1,32-39). Chính vì vậy mà Ngài dạy mọi người rằng: “Chúng con hãy cầu nguyện luôn đừng nhàm chán!” (Lc 18,1).

10. Bí quyết của thầy võ Giêsu

Mỗi môn phái võ đều có những thế võ đặc biệt để phòng thân, gọi là “võ bí truyền.” Tuy nhiên, những thế võ bí truyền này có khi mất tác dụng vì môn sinh không chuyên cần luyện tập. Tôn giáo nào cũng có những tôn chỉ và mục đích nhằm dạy con người ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm.

Người kitô hữu có một bí quyết phòng thân là nghe và thực hành lời của Chúa dạy để đề phòng cho linh hồn khỏi bị ma quỷ cướp mất. Nhưng trong thực tế thì có nhiều môn sinh của thầy Giêsu đã khuất phục kẻ thù là ma quỷ, không phải vì họ không nghe lời Chúa, cũng không phải vì họ không hiểu lời Chúa, nhưng vì họ không chuyên cần tập luyện đêm ngày thế võ bí truyền của Thầy đã chỉ dạy là cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng.

11. Liệu có còn gặp niềm tin nữa không.

Tôi biết ông H. làm công nhân cho một xí nghiệp nuôi gà, nhưng lâu nay tôi lại thấy ông ở nhà, nên tò mò hỏi:

 - Sao kỳ này tôi thấy ông ở nhà làm việc vặt, bỏ nghề nuôi gà rồi sao?

 - Thưa cha, con không thể tiếp tục làm trong sở đó được, vì đã mấy lần thủ trưởng ép con đồng lõa ăn cắp gà. Có ngày ông ấy bảo con: “Tối nay ông trói 5 cặp gà lớn, mập để sẵn đấy cho tôi, khi có người đến gõ cửa, ông đưa gà ra cho họ, tôi chịu trách nhiệm hết và sẽ bồi dưỡng xứng đáng cho ông!”

 Ngày khác ông ta lại ra lệnh cho con phải lấy cái này cái kia trong xí nghiệp cho ông ấy! Cha thấy cứ như thế thì lương tâm con chịu sao được?! Vậy mà không làm theo thủ trưởng thì cũng chết với ông ấy! Do đó con đành xin nghỉ việc, dù chưa đến tuổi hưu, mà nghỉ ngang như vậy sẽ không được hưởng lương hưu mặc dù con đã làm ở đó 25 năm rồi. Con quyết định như thế là vì con nhớ lại Lời Thánh Kinh dạy: “Thiên Chúa là cờ trận của tôi!” (Xh 17, 15).

 Bởi thế, “ít tiền, ít của mà là người công chính, còn hơn nhiều bạc nhiều vàng mà là kẻ ác nhân!” (x. Tv 37/36, 16).

12. Chẳng có gì để nghe

Một phụ nữ kia có một giấc mơ kỳ lạ: Một thiên thần đưa bà đến nhà thờ để làm việc thờ phượng. Bà thấy một nhạc sĩ dạo đàn, thấy phím đàn lên xuống, nhưng chẳng nghe thấy tiếng nhạc. Ca đoàn hát thánh ca, nhưng cũng chẳng nghe được lời nào. Khi nhìn xuống cộng đoàn, bà thấy ai nấy đọc kinh, nhưng cũng không nghe thấy âm thanh gì. Bà quay về phía thiên thần và hỏi: “Tại sao tôi không nghe thấy gì?” Thiên thần trả lời: “Chẳng có gì để nghe cả.”

Thật đáng buồn là câu truyện đó nói lên một chuyện thường gặp trong đời sống tâm linh, nhiều khi chúng ta giữ kỹ lề luật tỉ mỉ mà cuộc sống không có gì thay đổi, lời tuyên xưng đứ ctin nằm sẵn trên miệng nhưng việc làm của đức tin thì chẳng thấy gì, xét bề ngoài thì chẳng ai trách được điều chi nhưng nhìn vào bên trong thì thiếu sức sống, thiếu lòng mến, thiếu một tương giao thâm sâu với Chúa!

Qua cách hành xử của bà góa, Chúa đề cao sự kiên trì cầu nguyện. Điều Chúa muốn thấy nơi các môn đệ là một đời sống tâm linh mạnh mẽ, một lòng mến sốt sắng, và một mối tương giao thâm sâu với Thiên Chúa mà cầu nguyện là phương thế không có gì thay thế được.

13. Chìa khóa hạnh phúc nằm trong túi

Giovanni Carnevali (1804-1876) là một hoạ sĩ tài danh nước Ý mà những ngày tuổi trẻ trôi qua trong phóng túng, buông thả, và thậm chí còn đánh mất cả niềm tin.

Khi đã quá lục tuần, sống ở Bergamo, một hôm ông lên đường về thăm lại quê cũ ở Montegrino, Bắc Ý. Hôm đó trời đẹp nên ông quyết định thả bộ về quê, … đến lúc trời tối đen ông mới về đến làng quê năm xưa. Mọi ngõ ngách trong làng đều gợi lại trong lòng ông nhiều kỷ niệm thân yêu thời niên thiếu.

Cuối cùng ông đến trước cửa nhà mình. Ông đứng trong bóng tối bên ngoài nhìn vào mái nhà xưa, và thấy cảnh gia đình đang quì gối lần hạt qua cánh cửa sổ mở. Ông bất chợt bật khóc! Sau bao nhiêu năm bôn ba giữa giòng đời xoay vần, ông thấy mình gặp lại được bầu khí bình an và linh thánh sống động thời thơ ấu.

Đức tin thời niên thiếu sống lại trong ông, và ông quỳ gối bên ngoài mà hiệp ý lần hạt với gia đình bên trong. Khi lần hạt xong, trào dâng xúc động, ông lặng lẽ quay về Bergamo. Từ buổi tối hồng ân đó, ông bắt đầu một cuộc sống mới tràn đầy niềm vui trong một niềm tin sống động, với chuỗi kinh Mân côi là chiếc chìa khóa hạnh phúc lúc nào cũng nằm trong túi áo cho đến ngày ly trần.

14. Cầu nguyện là nối với nguồn sức mạnh

Trải nghiệm của Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận có thể giúp chúng ta hiểu thêm cách thức cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh với sự kiên trì. Trong cuốn “Năm chiếc bánh và hai con cá” ngài kể, có người hỏi:

- Lúc còn trong trại giam, khi cầu nguyện, cha thích đọc kinh gì?

- Dĩ nhiên là tôi thích những kinh Chúa Giêsu và Hội Thánh dạy như: Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, kinh Tin Kính…

- Chỉ có vậy thôi sao?

- Còn chứ! Tùy hoàn cảnh mà tôi có thể thưa: “Xin thương xót con, vì con là kẻ có tội”, “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm”, “Xin Cha cho chúng hiệp nhất nên một”, “Con phó linh hồn trong tay Cha”…Và khi không còn sức để đọc một kinh, tôi lập đi lập lại: “Giêsu, có con đây.”

Đèn điện không thể sáng, nếu không nối với nguồn điện. Dòng sông sẽ cạn khô, nếu dòng suối bế tắc. Một người không còn khả năng hít thở khí trời, chắc chắn sẽ chết. Chúng ta sẽ không thể hoàn tất ơn gọi người Kitô hữu cách hoàn hảo, nếu không nối nguồn với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện.

15. Chỗ dựa cho con người

Năm 1787, khi Geogre Washington, vị tổng thống đầu tiên của nước Mỹ, và 55 chiến hữu trong cuộc đấu tranh giành độc lập họp nhau để bàn luận về số phận tương lai của nước Mỹ thì Benjamin Franklin, một người có tuổi và được mọi người kính trọng vì sự khôn ngoan, thông thái và đức độ, đã phát biểu: “Thưa các ông, trước hết chúng ta hãy cầu nguyện! Tôi không còn sống bao năm, mà càng sống, tôi càng nghiệm thấy rõ là chính Thiên Chúa chỉ huy công việc loài người. Nếu một con chim sẻ rơi xuống đất cũng không ngoài thánh ý Chúa, thì một quốc gia đang xây dựng tại sao lại không cần đến sự trợ giúp của Ngài?”

Và tất cả những nhà lập quốc Hoa kỳ đã đứng lên cầu nguyện.

Thiên Chúa không chỉ là chỗ dựa cho Benjamin Franklin mà trước đó đã là chỗ dựa cho Đavít khi phải chạy trốn Ápsalôm, con mình: “Quá nhiều kẻ đang nói về con: "Chúa Trời đâu cứu hắn!" Nhưng lạy Chúa, chính Ngài là khiên che thuẫn đỡ, là vinh dự của con, là Đấng cho con được ngẩng đầu bất khuất. Tôi vừa cất tiếng kêu lên cùng Chúa, Chúa liền đáp lại từ núi thánh của Người” (Tv 3,3-5); Chúa là chỗ nương ẩn cho hoàng hậu Ét-te khi gặp sự khắc khoải lo âu: “Lạy Chúa của con, lạy Vua chúng con, Ngài là Thiên Chúa duy nhất. Này con đang liều mạng, xin đến cứu giúp con. Con cô đơn, chẳng còn ai cứu giúp, ngoại trừ Ngài” (Et 4,17); Chúa cũng là nơi duy nhất Đức Kitô hướng về cả khi Ngài thấy như bị Chúa bỏ rơi: “Lạy Chúa con thờ, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?”

16. Cầu nguyện là công việc của tình yêu

Chờ đợi có thể gây thất vọng, vì chúng ta không chủ động. Cũng thế, cầu nguyện có thể gây thất vọng, vì chúng ta không chủ động, nhưng là Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là con tim cứng cỏi của chúng ta đôi khi lang thang đây đó lúc cầu nguyện. Chúng ta nên làm gì khi điều này xảy ra? Thánh Phanxicô Salêsiô trả lời: “Hãy đưa con tim phiêu bạt trở về một cách yên lặng. Hãy trả con tim nhạy cảm cho chủ của nó. Nếu trong suốt giờ cầu nguyện, bạn chẳng làm gì, ngoại trừ gắn bó con tim với Chủ của nó, bạn đã cầu nguyện tốt đẹp.”

Khó khăn lớn nhất tôi trải qua trong giờ cầu nguyện hằng ngày là gì?

Trong khi cầu nguyện, điều quan trọng không phải là suy nghĩ nhiều, nhưng là yêu mến nhiều. (Thánh Têrêsa Avila)

17. Cầu nguyện và sức sống

Câu nói “dân ta vốn hiếu học” đang bị nghi ngờ, vì qua một số nghiên cứu, 22% người dân được hỏi trả lời rằng họ không cần và không quan tâm việc học nữa (X. Quốc Thanh, “Cú sốc của một người làm giáo dục cả đời,” Tuổi Trẻ Cuối Tuần ngày 16/10/2011: 25). Có thể nói, dân ta đang đánh mất đặc tính của mình. Phải chăng Ki-tô hữu cũng đang đánh mất chính mình như thế khi không còn cầu nguyện? Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận khẳng định, nhiều người mất ơn Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh, vì họ bỏ cầu nguyện từ lâu. Ngược lại, nhiều họ đạo, giáo xứ không có linh mục mà vẫn giữ vững đức tin suốt nhiều chục năm là nhờ đọc kinh cầu nguyện trong các gia đình. Điều này cho thấy, không phải Thiên Chúa vắng bóng khi con người cầu khẩn, nhưng Ngài luôn ở với và phù trì những ai sống mối tình thân với Ngài. Vấn đề là liệu con người còn cầu nguyện với Ngài không?

Lịch sinh hoạt hằng ngày của bạn có khoản nào dành cầu nguyện với Chúa không? Nếu chưa, mời bạn điều chỉnh lại cho phù hợp với lịch sống của một Ki-tô hữu.

18. Kiên trì cầu nguyện

Dan Reuttiger cao một thước tám mươi và mảnh khảnh. Anh có một ước mơ là được chơi cho đội Notre Dame. Nhưng cả hai lần xin gia nhập đội, anh đều bị từ chối. Anh đã dành ra hầu như suốt đêm cầu nguyện ở Our Lady kiểu hang động trong khuôn viên của trường, và đến lần thứ ba thì anh đã được chấp nhận. Không thể tin được là anh đã làm cho đội dành được sự ủng hộ của hơn năm mươi ngàn người hâm mộ ở trận chung kết của mùa bóng. Hơn thế nữa, ước mơ của Reuttiger còn được Holywood dựng thành phim.

Tôi có kiên trì như Reuttiger và bà góa trong bài đọc hôm nay không?

Lạy Chúa, xin cho con sự cương quyết và dẻo dai của cây cỏ dại (Leon Walters).

19. Trái táo thứ mười

Có một người hành khất không cơm ăn áo mặc cũng không mái nhà trú nắng che mưa, đã ngửa mặt lên trời than thở kêu cầu chúa dủ lòng thương.

- Chúa động lòng thương gửi đến cho ông ba trái táo ăn cho đỡ đói.

- Kế đó Chúa lại gửi thêm ba trái táo nữa để ông đổi lấy tấm lá làm nơi trú nắng che mưa.

- Lần thứ ba Ngài cũng gửi đến ba trái táo để ông đổi lấy manh áo che thân.

- Sau cùng, Chúa gửi trái táo thứ 10 để ông dùng nó mà tỏ lòng biết ơn vì chín trái táo trước.

Người hành khất nhận trái táo thứ mười, ngắm nghía thật lâu, càng nhìn lại càng thấy nó ngon ngọt hơn chín trái táo trước. Ông thấy thèm nhưng trong thâm tâm cũng quá rõ là Chúa muốn ông dùng trái táo thứ mười này để tỏ lòng biết ơn ngài.

Cuối cùng, ông nghĩ: "Chúa có hàng triệu những trái táo khác trên mặt đất này, vậy trái táo thứ mười này có là gì với Ngài đâu. Nghĩ rồi, ông ta ăn luôn cả trái táo thứ mười và chỉ dành cho Chúa chút cùi ở giữa.

LỄ CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATERANO

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.  

Lời Chúa Tuần 32 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch