LỜI
CHÚA TUẦN 32 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 32B - HAI ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA NGHÈO
THỨ HAI - BỔN PHẬN VỚI ĐỒNG LOẠI
THỨ BA - ĐÚNG VỊ TRÍ, LÀM ĐIỀU PHẢI LÀM
THỨ TƯ - BIẾT TẠ ƠN THIÊN CHÚA
THỨ NĂM - SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
THỨ SÁU - SỐNG TRONG NGÀY CỦA CHÚA
THỨ BẢY - CẦU NGUYỆN LÀ SỨC MẠNH
Lễ kính - CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
CNTN 32A – AI DẠI – AI KHÔN
Lời Chúa Mt 25, 1-13
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này: "Nước
trời giống như mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể. Trong số đó có năm cô khờ
dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại mang đèn mà không đem dầu theo; còn
những cô khôn ngoan đã mang đèn lại đem dầu đầy bình. Vì chàng rể đến chậm, nên
các cô đều thiếp đi và ngủ cả.
"Nửa đêm có tiếng hô to: Kìa chàng rể đến, hãy ra đón người.
Bấy giờ các trinh nữ đều chỗi dậy, sửa soạn đèn của mình. Những cô khờ dại nói
với các cô khôn ngoan rằng: 'Các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em
đã tắt cả'. Các cô khôn ngoan đáp lại rằng: 'E không đủ cho chúng em và các
chị, các chị ra (nhà) hàng mà mua thì hơn'. Song khi họ đang đi mua, thì chàng
rể đến. Những trinh nữ đã sẵn sàng thì theo chàng rể cùng vào tiệc cưới, và cửa
đóng lại. Sau cùng các trinh nữ kia cũng đến và nói: 'Thưa Ngài, xin mở cửa cho
chúng tôi'. Nhưng Người đáp lại: 'Ta bảo thật các ngươi, ta không biết các
ngươi'.
"Vậy hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ
nào.”
TRUYỆN KỂ
1. Sẵn sàng
Cách đây 1900 năm, núi lửa Vesuve đã phun lên ở Ý. Toàn bộ thành
phố Rompei đã bị chôn vùi dưới lớp phún xuất thạch dày tới 6 mét và giữ nguyên
dạng như thế cho đến nay. Khi các nhà khảo cổ khai quật, mọi người đều ngạc
nhiên và sửng sốt. Phún xuất thạch đã làm đông cứng tất cả trong tư thế đang có
khi tai hoạ đổ xuống: Thân xác con người bị huỷ hoại, nhưng trong khi huỷ hoại,
chúng đã để lại những lỗ trống trên lớp tro cứng.
Người ta dùng thạch cao đổ vào những lỗ trống ấy và khôi phục lại
được hình dạng của các nạn nhân. Chẳng hạn một người mẹ đang ôm chắt đứa con
trong vòng tay của mình, một người lính Rôma đang đứng thẳng tại trạm gác với
đầy đủ vũ khí, anh ta đã trung thành với bổn phận cho tới giây phút cuối cùng.
Một người đàn ông tay cầm gươm, chân đạp trên đống vàng, rải rác chung quanh là
năm xác chết, có lẽ là những kẻ định cướp số vàng trên.
2. Đánh mất nước trời
Có một nhà phú hộ, đầy quyền thế danh vọng ở đời bỗng nhiên đột
quỵ và qua đời. Gia nhân ai nấy đều xúc động, bỡ ngỡ. Người ta bàn tán xôn xao
về cái chết đột tử của nhà phú hộ. Trong đó có một lời bàn gây nhiều tranh cãi
từ một người quản gia của nhà phú hộ. Người quản gia nói rằng:
– Theo các anh thì ông chủ chúng ta sẽ đi về đâu?
Các gia nhân đáp:
– Ông ấy lên trời chứ đi đâu nữa.
Người quản gia nói:
– Không đâu. Tôi chắc chắn ông ta không lên trời.
Tất cả đều ngạc nhiên hỏi:
– Làm sao quản gia biết là ông chủ không lên trời?
Người quản gia nói:
– Thường thì đi đâu xa, chủ của chúng ta thường nói về nước sẽ đi
đến và chuẩn bị rất là cẩn thận. Nước trời là cõi xa xôi, nhưng tôi không bao
giờ thấy ông chủ của mình nói gì về nước đó, cũng không thấy ông ta chuẩn bị gì
cả. Làm thế nào mà ông ta vào Nước Trời được!
3. Sống ngày cuối đời
Mới đây, tại Thụy Sĩ, người ta đã dùng điện thoại để phỏng vấn
1200 người tại 20 thành phố khác nhau về việc chuẩn bị chết. Câu hỏi được đặt
ra là: “Nếu bạn chỉ còn một ngày cuối cùng để sống, bạn sẽ làm gì?" Kết
quả của cuộc thăm dò cho thấy:
* 57% phụ nữ được hỏi cho biết họ sẽ sống ngày cuối cùng đó với
gia đình.
* 42% các ông được hỏi cho biết họ cũng muốn sống ngày cuối cùng
đó với gia đình.
* 32% các ông các bà đều muốn được sống với gia đình mình trong
những giờ phúc cuối đời.
* chỉ có 12% các bà và 26% các ông thích ở một mình hoặc cùng với
bạn bè trong ngày cuối cùng của cuộc sống.
4. Người khờ dại hơn
Trong triều đình có một quan hầu cận chuyên môn đi bên cạnh nhà
vua để mua vui trong triều. Một hôm quan hầu cận nói đùa một câu rất ngớ ngẩn
khờ dại khiến nhà vua không hài lòng lắm nên nhà vua đưa cho quan một cái gậy
và nói, “Từ nay trở đi nhà ngươi phải giữ lấy cây gậy này như là một hình phạt.
Ngươi phải giữ nó cho tới khi ngươi gặp một người nào đó khờ dại hơn ngươi thì
lúc đó sẽ trao cây gậy cho người ấy!”
Ít năm sau nhà vua lâm bệnh nặng và nằm liệt trên giường. Vua cho
triệu tập mọi người thân cận trong triều đến và dặn dò, “Trẫm sửa soạn lên
đường. Trẫm sẽ đi đến một nơi rất xa; và trẫm sẽ không trở lại đây nữa; do đó
trẫm muốn triệu tập mọi người trong triều đến để từ giã.”
Nghe nhà vua nói như vậy, quan hầu cận hỏi nhà vua, “Tâu bệ hạ,
thần xin được hỏi một điều. Thường thì khi đi đâu xa như thăm dân, đi họp ngoại
giao hay đi thăm những nước láng giềng, Bệ hạ luôn cho người đi trước để dọn
đường chuẩn bị. Thế thì lần này Bệ hạ đã có chuẩn bị cho chuyến đi xa quan
trọng này chưa?”
Nhà vua trả lời, “Trong chuyến đi này, trẫm không có sự chuẩn bị
gì cả.”
Quan hầu cận liền nói, “Như thế thì xin trẫm nhận lại cây gậy này,
bởi vì bây giờ khanh đã tìm được người ngố và khờ dại hơn khanh!”
5. Hướng đạo sinh: sắp sẵn
Ông Baden Powell đã sáng lập phong trào Hướng đạo năm 1907. Đây là
một sinh hoạt giới trẻ, mục đích để đào luyện thanh niên, nên người tốt cho bản
thân mình và cho cả xã hội nữa. Đầu tiên là nhắm đến việc đào tạo thanh niên Âu
châu, con nhà giàu, dư ăn, chỉ biết hưởng thụ. Sau vì thấy phong trào hoạt động
có hiệu quả, nên nhiều nước đã du nhập phong trào. Châm ngôn của Hướng đạo sinh
là: “sắp sẵn." Hai chữ này muốn nói lên hướng đạo sinh, dù ở hoàn cảnh nào,
vẫn có thể sống được và sống tốt. Họ có thể sống chung với mọi người, có thể
sống riêng rẽ một mình, ở giữa chợ hay cắm trại trong rừng sâu…
6. Titanic
Câu chuyện: Con tàu Titanic, được coi là con tàu không thể chìm,
đã rời cảng Queenstown, Anh quốc làm cuộc hải trình đầu tiên đi Nữu Ước, với
2.200 hành khách, ngày 10/04/1912.
Ai nấy đều ca tụng con tàu, vừa sang trọng, vừa to lớn, còn cho là
nó không thể chìm. Có người hớn hở nói: Thiên Chúa cũng không đánh bại được nó
nữa…Vậy mà sau bốn ngày, vào đêm thứ 7, nó đụng phải một tảng băng khổng lồ,
khiến tàu bể làm ba mảnh; lúc 2g 20 chiều Chúa Nhật, nó chìm hẳn, mang theo
1522 mạng. Số người sống sót hầu hết là đàn bà và trẻ con.
Tàu Titanic bị chìm là do tính kiêu căng, cẩu thả, chạy theo lợi
nhuận của chủ tàu và những người có trách nhiệm. Mới đây giở lại hồ sơ, người
ta mới hiểu rõ, hơn 2000 hành khách, vậy mà chỉ có lối 400 áo phao cứu hộ. Võ
tàu được làm mỏng hơn 2,54 cm và các đinh tán đóng thưa hơn 2cm (1/8 inch) theo
bản thiết kế, để tàu nhẹ hơn 2500 tấn, và có thể chạy nhanh hơn các tàu khác,
dù nó to lớn…. 1522 người đã chết, trong lúc họ không muốn chết, có phải đáng
là bài học cho mỗi người kitô hữu chúng ta không?
Phải biết sẵn sàng như cô dâu đón chàng rể, đến vào lúc họ không
ngờ, vào giờ họ không không chuẩn bị. Câu chuyện này đáng là bài học cho ta suy
ngẫm lời Chúa chúa nhật hôm nay.
7. Tôi đã sẵn sàng
Trong cơn hấp hối người ta hỏi thánh nữ Magarita:
– Có cần gì nữa chăng?
Thánh nữ trả lời:
– Không, tôi đã sẵn sàng.
Nếu như đêm nay chúng ta phải đến trước tôn nhan Chúa, nếu như
chút nữa đây Chúa gọi chúng ta, liệu chúng ta đã thu xếp xong mọi công việc hay
chưa?
8. Cho ngày hôm nay
Trong mục “cửa sổ tâm hồn” của báo Tuổi trẻ có đăng một bài với
tựa đề “cho ngày hôm nay” như sau:
Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.
Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những
tội lỗi, những thiểu sót và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc
trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể
nào hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một
ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua đã đi xa rồi!
Còn một ngày nữa mà chúng ta không nên lo lắng, đó là ngày mai với
những kẻ thù quá quắt, những gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề. Mặt
trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau đám mây, nhưng
dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và trước khi nó mọc lên, vào ngày mai chúng ta
chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra.
Vì vậy chỉ còn một ngày duy nhất là ngày hôm nay. Bất cứ ai cũng
đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải
qua ngày hôm nay khiến người ta phát điên rồi – mà đó chính là sự hối tiếc về
những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem
đến.
9. Khách trọ
Vào thế kỷ thứ 19, một tác giả vô danh đã kể câu chuyện về một
người Mỹ đi du lịch sang Ba Lan, đến thăm thầy Rabbi Hofetz Chaim là người đang
được dân chúng kính trọng như một vị thánh rất khôn ngoan.
Khi đến nơi cư ngụ của thầy Rabbi, người khách du lịch quá ngạc
nhiên khám phá thấy rằng chỗ đó chỉ có một phòng duy nhất mà thôi. Sách vở xếp
hàng dọc theo bờ tường; đồ đạc trong nhà chỉ có một cái bàn và một cái ghế.
“Nhưng thưa thầy Rabbi”, người khách hỏi, “Đồ dùng của thầy ở đâu?”
Thầy Rabbi trả lời bằng cách hỏi lại, “Thế đồ dùng của ông ở đâu?”
“Đồ dùng của con?” người du khách lúng túng nói, “Con chỉ là một người khách
đến đây, trọ qua đường." “Tôi cũng thế” thầy Rabbi Hofetz Chaim trả lời,
“tôi cũng là khách trọ qua đường vậy thôi."
10. Sự sống và sự chết
Một tác giả trong thành phố Nữu Ước nói chuyện về tuổi thơ ấu của
ông ta như sau: Trước ngày sinh nhật thứ mười của ông ta, gia đình ông đã đổi
chỗ sinh sống tới mười lần. Kỷ niệm khó quên nhất của ông mỗi lần đến vùng đất
mới là luôn luôn chứng kiến sự than khóc của người mẹ trong ngôi nhà mới. Ông
đã nhớ lại sự khóc lóc đau khổ của người mẹ khi bà ta mở những thùng đồ ra. Ông
cũng nhớ lại người cha của ông nói với ông, “Này con, mẹ con sẽ không sao. Mẹ
chỉ chào tạm biệt những người bạn mà mẹ bỏ đi, thì mẹ có thể làm quen được với
những người bạn mới ở đây. Vậy con phải chấp nhận sự đau khổ của mẹ.”
Vào mùa cắm trại hè, có chú bé đã đi tới bệnh xá rên rỉ vì bị cảm
lạnh. Cô y tá nói với bé: “Cô sẽ cho em một viên thuốc cảm, em sẽ khỏi; đồng
thời, cô cho em biết em có một hồ sơ tốt. Em đã không bao giờ bịnh trước đây.”
Cậu bé đó đã viết thơ về nhà: “Kính thưa ba má! Hôm nay con bị bệnh. Ba má đoán
xem con bịnh gì! Cô y tá nói ngày giờ của con đã được ghi sổ.” Thật ra, định
mệnh của mỗi người đã được ghi sổ. Nhưng đối diện với thực tại đó Chúa đã có
lời hứa lý thú cho chúng ta là từ thân xác hay chết này sẽ sống lại và tái sinh
trong thân xác thiêng liêng sáng láng.
Nữ diễn viên nổi tiếng Helen Hayes nói rằng thời gian đau khổ nhất
đến trong cuộc sống của cô là sau khi người con gái mười chín tuổi của cô chết
vì bệnh bại liệt. Cô nói rằng thu thập mảnh vỡ của cuộc đời cô và tiến về phía
trước là một điều đau đớn nhất cô đã từng làm, nhưng cô đã tìm cách giải quyết
được nó, lấy lại nghề nghiệp, và đã làm những điều lạ lùng chống lại bệnh tê
liệt. Một lần nọ bác sĩ Jonas Salk nói với cô, “Bạn là một vũ khí lợi hại nhất
tôi có trong trận chiến chống lại thứ bịnh này.” Một vài năm trước đây, cô
Hayes đã thu tất cả gia tài của cô đem đi bán đấu giá và cho tất cả số tiền đó
tới hội từ thiện. Khi người ta phỏng vấn, cô nói, “Tôi từ bỏ những thứ đó để
tôi không bị vướng víu khi tôi hướng về trời.” Từ bỏ! Không vướng víu! Hướng về
trời! Sự chết và tái sinh!
11. Con ve và con kiến
Câu chuyện ngụ ngôn Con Ve và Con Kiến chắc chúng ta đã nghe và
biết nhiều. Con ve làm việc suốt ngày không có thời gian nghĩ ngơi, nó ca hát
suốt, nên nó cũng mệt mỏi sau một ngày làm việc. Nhưng nó chỉ làm vì hiện tại,
làm những gì mình thích, làm mà không cần biết đến tương lai. Nó chỉ nhìn thấy
những gì của hôm nay và chỉ có thế. Còn con kiến, nó cũng làm việc suốt ngày,
nhưng dường như không ai biết, không ai nhìn thấy, không ai nghe được tiếng của
nó. Sau một ngày làm việc có lẽ nó cũng mệt. Nhưng ngày hôm sau nó lại tiếp
tục, nó biết chuẩn bị cho tương lai, nó mang về kho những gì cần thiết.
Mùa đông đến, khi mọi vật không thể làm việc được nữa, vì tất cả
tìm nơi trú ẩn để trốn cái lạnh khắc nghiệt. Con kiến cũng không còn làm việc
được, nó cũng trốn cái lạnh. Nhưng nó không lo lắng gì, vì đã có đủ thức ăn dự
trử cho suốt cả mùa đông. Còn con ve, tội nghiệp thay, nó cũng chịu mùa đông
lạnh giá như bao nhiêu thú vật khác. Nhưng những con khác lạnh mà không đói, vì
chúng biết dự trữ, còn con ve vừa lạnh lại vừa đói, vì nó cũng làm việc nhưng
không biết phòng xa, không biết chuẩn bị cho tương lai, nó chỉ làm những gì nó
thích trong hiện tại mà thôi, nên giờ đây nó cũng đành chấp nhận số phận như
thế.
12. Người ung thư sẵn sàng
Cách đây nhiều năm, nghệ sĩ William Gargan khám phá mình mắc bệnh
ung thư. Khôi hài thay, ngày vào lúc đó, chàng lại đang thủ vai một nạn nhân bị
ung thư trong vở The Best man (người giỏi nhất). 36 tiếng đồng hồ sau khi phát
hiện ra ung thư, Gargan đã được đem đi giải phẫu.
Khi nhìn lại 36 tiếng đồng hồ này, Gargan nói rằng chàng đã học
được hai điều quan trọng về chính mình: thứ nhất chàng nhận thấy mình không hề
sợ chết. Chàng đã chuẩn bị cho giờ chết đang khi còn sống bình thường. Thứ hai,
chàng biết được Chúa Giêsu là bạn mình.
Ngay từ hồi còn trẻ, Gargan đã có quen thưa chuyện với Chúa Giêsu
hàng ngày. Chàng đã quen xử dụng những lời cầu nguyện đã thuộc nằm lòng. Giờ
đây, trong giờ phút quan yếu này, những lời cầu nguyện ấy khiến chàng ý thức
được mối thân tình với Chúa Giêsu mà những lời cầu nguyện ấy đã tạo cho chàng.
Đó là những lời cầu nguyện quen thuộc mà có thể một số anh chị em
vẫn đọc. Đó là “Lời cầu nguyện dâng lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh” thường đọc
sau rước lễ: Lạy Đức Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường. Này con đang quì gối
trước mặt Chúa, và hết lòng gắn bó nài xin Chúa: ban cho được lòng tin cho
mạnh, lòng cậy cho bền, lòng kính mến cho sốt sắng, lòng ăn năn tội cho thật,
lòng chừa cải cho vững. Đang khi con lo buồn đau đớn mà suy gẫm 5 dấu thánh
Chúa, thì lòng con hằng nhớ lời vua thánh Đavid phán tiên tri về Chúa con rằng:
“Quân dữ đã đâm thủng chân tay của tôi và phơi bày các xương tôi ra."
13. Làm vua một năm
Trong một vụ đắm tàu, đoàn thuỷ thủ chết hết, chỉ còn xót lại một
thanh niên trẻ. Nhờ tấm ván anh lênh đênh trên mặt biển cả suốt mấy ngày đêm.
Anh hoàn toàn kiệt sức vì đói khát, gío lạnh, nằm chờ chết. Trời phật thương
tình, nổi cơn gió lớn đưa anh dạt vào một hòn đảo giữa đại dương. Cư dân trên
đảo cứu anh sống, rồi phong làm vua. Anh ngỡ ngàng hết sức, tưởng mình nằm mơ.
Dân trên đảo bàn tán sôi nổi với nhau mà anh chẳng hiểu chi. Anh cố gắng học
ngôn ngữ của họ. Sau hiểu ra, theo thói tục, mỗi người chỉ được làm vua có một
năm, sau đó bị đày ra một hòn đảo hoang vu, xa cư dân và bỏ cho chết đói. Anh
thuỷ thủ trẻ lo lắng sợ hãi quá. Vận may hoá thành tai hoạ. Anh thức suốt đêm,
tìm ra một phương kế để không bị chết đói sau khi mãn hạn một năm. Anh dùng
quyền làm Vua của mình phái một số nông dân giỏi ra đảo canh tác trước, biến nó
thành màu mỡ, sản xuất đủ lương thực thực phẩm. Nhờ khôn ngoan anh đã thành
công lớn. Sau năm mãn hạn anh ung dung ra đảo với tương lai vững chắc.
Chúng ta cũng chỉ làm vua ở thế gian này bất quá một đời người,
cho nên phải biết khôn ngoan lợi dụng thời gian, tài năng để lo liệu cho cuộc
sống tương lai như người thủy thủ trẻ. Bằng không, sẽ ngu dốt như năm cô trinh
nữ dại khờ.
14. Đón Chúa đến thăm
Một buổi sáng nọ, người ta thấy bác thợ đóng giày thức dậy từ sáng
sớm. Sau khi dọn dẹp cửa hàng ngăn nắp, bác vào phòng khách ngồi đợi đón vị
khách quý là Chúa Giêsu, mà đêm hôm ấy bác đã nằm mơ gặp mặt Người và Người hứa
sẽ ghé nhà thăm bác vào lúc ban ngày.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa gấp. Bác thợ giày vui sướng vì không ngờ
Chúa lại đến thăm bác vào lúc sáng sớm. Nhưng khi cửa mở thì người đứng ngòai
không phải là Chúa Giêsu, mà là ông lão phát thư quen thuộc. Mặt ông ta bị tím
tái do thời tiết ngoài trời băng giá. Bác liền mở rộng cửa đón ông vào ngồi bên
lò sưởi ấm áp. Rồi bác đi pha bình trà nóng mời khách.
Sau khi tiễn người đưa thư, bác thợ giày lại ngồi chờ. Nhìn qua
khung kính cửa sổ, bác thấy một bé gái đang đứng khóc ngoài hiên. Bác ra mở cửa
đón em vào nhà hỏi chuyện. Em cho biết đã đi vào rừng từ sáng sớm để kiếm củi
khô về nấu nước xông giải cảm cho mẹ em. Do trời mưa tuyết trắng xóa khiến em
bị lạc không tìm ra đường về nhà. Nghe vậy, bác thợ giày vội viết vài chữ dán
ngòai cửa thông báo cho vị khách quý là Chúa Giêsu biết mình sẽ vắng nhà đến
chiều, để đưa cô bé về nhà của cô.
Khi tìm thấy ngôi nhà của em và thấy mẹ em đang bị sốt run rẩy nằm
trên giường, bác vội đi mời ông bác sĩ gần đó đến thăm bệnh và cho toa, rồi bác
đi mua thuốc mang về cho người bệnh uống. Khi bệnh nhân đã hồi phục sức khỏe
bác mới vội về nhà thì trời đã khuya. Bác thợ đóng giầy chẳng còn thiết gì đến
ăn uống, nằm vật ra giường nhắm mắt ngủ say như chết.
Trong giấc ngủ, một lần nữa bác lại nằm mơ gặp được Chúa Giêsu.
Người vui vẻ nói với bác: “Ta cám ơn con hôm nay đã đón Ta vào nhà để sưởi ấm
khi Ta đang lạnh cóng. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà, đã chăm sóc giúp
ta đang đau được sớm bình phục. Vì mỗi khi con phục vụ những người nghèo khổ
bệnh tật, là con đã phục vụ cho chính Ta đó” (x. Mt 25,40-42).
15. Sẵn sàng
Chuyện kể rằng tại chùa Tô Châu bên Trung Quốc, có một nhà sư tên
là Viên Thủ Trung. Ông là một nhà chân tu. Nhà sư thường đặt trên bàn làm việc
của mình một chiếc quan tài nhỏ làm bằng gỗ. Khi có người thắc mắc, hỏi về
chiếc quan tài này, nhà sư trả lời: “Người ta sống tất nhiên sẽ có lúc phải
chết. Mà chết rồi sẽ được đặt vào nằm trong cái hòm này. Tôi thực lấy làm lạ:
người đời ai cũng chỉ biết đi tìm phú quí, công danh, tài sắc... mà chẳng hề
nghĩ đến cái chết. Phần tôi, mỗi khi có điều gì không vừa ý, tôi liền ngồi vào
bàn và nhìn ngắm chiếc quan tài một hồi lâu, sau đó tôi cảm thấy tâm hồn mình
được bình an.”
“Người ta sống tất có lúc
phải chết.” Sống xứng đáng với những gì mình được ban cho ở đời này và có sự
chuẩn bị tốt nhất cho đời sau của mình. Đó là sống trong sự “tỉnh thức”, là sự
khôn ngoan trong Tin Mừng. Chúng ta được mời gọi luôn sống “tỉnh thức”, là chu
toàn các bổn phận và tìm kiếm thi hành thánh ý Chúa trong những công việc làm
hằng ngày, ngay từ bây giờ.
Điều gì đang làm bạn quá âu lo, khiến bạn thiếu sót những bổn phận
lẽ ra bạn phải làm. Bạn đã sẵn sàng cho sự thay đổi đó như thế nào?
Suy ngẫm cùng với thánh Âu-tinh, sau khi đã thức tỉnh và từ bỏ lối
sống sa đoạ để trở về với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa và tâm
hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ trong Chúa” (Tự thuật I, 1,
1).
16. Dại – khôn
Tìm kiếm sự khôn ngoan là mối bận tâm của tất cả mọi người. Nhưng
khám phá ra đâu là dại, đâu là khôn thì không phải là chuyện dễ dàng. Nhà thơ
Trần Tế Xương đã “triết lý” về cái lẽ “dại khôn” ấy rằng:
“Thiên hạ đua nhau nói dại khôn.
Biết là ai dại biết ai khôn.”
Chúa Giêsu kể dụ ngôn mười trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể để dạy
chúng ta biết phân định sự khôn ngoan không phải theo quan niệm của đời này mà
là theo chuẩn mực của Tin Mừng. Sự khôn ngoan ấy hệ tại tinh thần tỉnh thức,
sẵn sàng cho những đòi hỏi của Nước Trời. Hình ảnh chiếc đèn luôn đầy dầu nói
lên sự chuyên chú, trung kiên sống theo những giá trị của Tin Mừng mọi lúc
trong cuộc sống cho đến lúc kết hợp trọn vẹn với Chúa trên Nước Trời.
17. Cầu nguyện là tỉnh thức
Paul Tournier, bác sĩ tâm thần người Thụy Sĩ đã đánh dấu cuộc hoán
cải của ông bằng việc dành trọn một giờ để cầu nguyện. Đây xem ra là một kinh
nghiệm thử thách và khô khan. Nhưng khi một giờ trôi qua, có một cái gì đó thúc
đẩy ông cầu nguyện lâu hơn một chút. Ông đã làm và cuối cùng được cảm nghiệm
được sự hiện diện của Thiên Chúa và điều này đã thay đổi cuộc đời ông. Ông cảm
thấy sợ khi nghĩ được rằng mình đã gần như mất đi cơ hội đó.
Đôi khi tôi có khuynh hướng rút vắn hoặc kéo dài giờ cầu nguyện
khi xem ra đó là một thử thách và khô khan không?
Người chậm giận hơn trang hào kiệt, Người tự chủ hơn kẻ chiếm được
thành. (Cn16,32)
18. Chờ đợi
Có một phụ nữ trẻ được chẩn đoán mắc bệnh nan y và chỉ còn sống
được ba tháng. Khi đã thu dọn đồ đạc xong, chị liên lạc với cha xứ và mời ngài
đến nhà để trao đổi về những mong muốn cuối cùng của chị.
Chị nói với ngài những bài hát nào chị muốn hát trong thánh lễ an
táng, những bài đọc nào chị muốn đọc và bộ trang phục nào chị muốn mang khi
được chôn cất. Mọi việc đã ổn thỏa và khi cha xứ đang chuẩn bị ra về, người phụ
nữ trẻ chợt nhớ ra một điều rất quan trọng.
Chị hào hứng nói: “Còn một điều nữa.” Cha xứ hỏi: “Đó là cái gì
vậy?” Người phụ nữ trẻ đáp: “Điều này rất quan trọng. Con muốn mình được chôn
với một chiếc nĩa trên tay phải.” Cha xứ ngạc niên đứng nhìn người phụ nữ,
không biết phải nói gì. Người phụ nữ trẻ hỏi: “Điều đó làm cha ngạc nhiên phải
không?” Cha xứ nói: “Thành thật mà nói, tôi thấy bối rối trước yêu cầu
này."
Người phụ nữ trẻ giải thích: “Bà con từng kể cho con nghe câu
chuyện này và chính đó là lúc con nảy ra ý tưởng. Con cũng luôn cố gắng truyền
tải sứ điệp của nó đến những người con yêu thương và những người đang cần sự
động viên. Trong tất cả những năm tham dự các buổi tiệc của giáo xứ, bà luôn
nhớ rằng khi các món chính đã được dọn đi, chắc chắn sẽ có người nghiêng người
qua bà và nói: ‘Hãy giữ nĩa của bạn!’ Đó là phần yêu thích của bà trong bữa ăn
vì bà biết rằng sẽ có món gì đó ngon hơn sắp mang đến, chẳng hạn như bánh
sô-cô-la hay bánh táo sữa. Một món gì đó tuyệt vời và có chất lượng hơn! Vì
vậy, con chỉ muốn mọi người nhìn thấy con trong quan tài với một chiếc nĩa trên
tay và con muốn họ thắc mắc, “Cái nĩa đó để làm gì vậy?”
* Vậy thì con muốn cha nói với họ: “Hãy giữ nĩa của bạn – vì điều
tốt đẹp nhất vẫn chưa đến.”
19. Chuẩn bị
Một chàng trai trẻ nộp đơn xin làm công nhân trong một nông trại.
Khi được hỏi về trình độ chuyên môn, anh nói: “Tôi có thể ngủ ngay cả khi có
gió mạnh thổi." Điều này khiến người nông dân thắc mắc, nhưng ông thích
chàng trai trẻ nên thuê anh ta.
Vài tuần sau, người nông dân và vợ ông bị đánh thức trong đêm bởi
một cơn bão dữ dội. Họ nhanh chóng bắt đầu kiểm tra mọi thứ để xem liệu tất cả
có an toàn không. Họ nhận ra rằng dàn cửa của ngôi nhà trong trang trại đã được
đóng chặt. Một đống củi khô đã được đặt cạnh lò sưởi. Các nông cụ được đặt
trong kho bảo quản, an toàn trước mối đe dọa của thời tiết. Chiếc máy kéo đã
được chuyển vào gara. Nhà kho đã được khóa cẩn thận. Mọi thứ đều ổn. Ngay cả
các con vật cũng bình an.
Lúc này người nông dân mới hiểu được ý nghĩa câu nói của chàng
trai: “Gió thổi mạnh tôi vẫn có thể ngủ." Vì chàng trai đã làm công việc
của mình một cách chu đáo và cẩn thận khi trời quang mây tạnh nên anh đã sẵn
sàng cho cơn bão khi nó ập đến. Vì vậy, khi gió thổi, anh không hề sợ hãi. Anh
vẫn có thể ngủ yên.
* Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói về điều tương
tự, đó là có thể ngủ khi gió thổi mạnh, nói cách khác, là sự chuẩn bị sẵn sàng.
20. Sống hạnh phúc
Trong một tờ của tạp chí TIME gần đây có tựa đề: “Tám bước hướng
tới một cuộc sống thỏa mãn hơn." Đây là Tám Bước: 1. Chú ý đến những phúc
lành của bạn. 2. Thực hành những hành vi tử tế. 3. Tận hưởng niềm vui của cuộc
sống. 4. Cảm ơn người lãnh đạo. 5. Học cách tha thứ. 6. Đầu tư thời gian và sức
lực cho bạn bè và gia đình. 7. Chăm sóc cơ thể của bạn. 8. Phát triển các
phương cách đối phó với căng thẳng và khó khăn. (TIME, 17 (tháng 1 năm 2005),
A8-A9.] Hôm nay khi suy ngẫm về dụ ngôn mười cô trinh nữ, chúng ta thêm một
bước nữa, Bước thứ 9 vào chiến lược: Hãy chuẩn bị.
* Hãy sẵn sàng bước ra khỏi lối mòn cố hữu của cuộc sống và tin
cậy vào Chúa Thánh Thần. Cuối cùng, Chúa Thánh Thần có thể xuất hiện dưới nhiều
hình thức, ẩn hiện và gây bất ngờ. (Cha Leonard Sweet).
21. Chuyện vui về lên thiên đàng
1. Một nhóm người du lịch đang đi thang máy lên đỉnh tòa nhà
Empire State. Đến khoảng tầng 102, một người phụ nữ hỏi hướng dẫn viên du lịch:
“Nếu dây cáp của thang máy này bị đứt thì chúng ta đi lên hay đi xuống?” Hướng
dẫn viên trả lời: “Ồ, điều đó phụ thuộc vào cách sống của bạn.”
2. Một buổi sáng Chúa nhật nọ, một giáo lý viên dạy giáo lý muốn
kiểm tra các em trong lớp giáo lý của cô để xem liệu chúng có hiểu hạnh phúc
“được lên Thiên đàng” hay không. Cô ấy nói: “Nếu cô bán nhà và xe, và dâng hết
tiền cho Giáo hội, điều đó có đưa cô vào Thiên đàng không?” Bọn trẻ trả lời:
“Không!” “Nếu cô dọn dẹp Nhà thờ mỗi ngày, cắt cỏ trong sân và sắp xếp mọi thứ
gọn gàng ngăn nắp, cô có được vào Thiên đàng không?” Một lần nữa, câu trả lời
là “Không!” “Vậy nếu cô đối xử tử tế với mọi người, cho trẻ con kẹo bánh và yêu
thương chồng con thì liệu cô có được vào Thiên đàng không?” Một lần nữa, tất cả
chúng đều trả lời: “Không!” “Chà,” cô giáo lý viên tiếp tục: “Vậy làm cách nào
để cô vào được Thiên đàng?” Một cậu bé mười tuổi hét lên: “Cô phải chết!”
3. Khi Giám mục Philip Brooks, tác giả cuốn sách “O, Little Town
of Bethlehem” bị bệnh nặng, ngài đã yêu cầu bạn bè đừng ai đến thăm. Nhưng khi
có một người quen của ngài tên là Robert Ingersoll, một người chống đạo nổi
tiếng đến gặp, đức cha đã cho phép ông vào phòng mình. Ingersoll nói: “Tôi rất
đánh giá cao điều này, đó là việc ngài không cho bất kỳ người bạn thân nào gặp
mình.” Giám mục Brooks trả lời: “Ồ, tôi tin chắc sẽ gặp họ ở thế giới bên kia,
nhưng đây có thể là cơ hội cuối cùng để tôi gặp bạn."
22. Một cuộc đua
Người Hy Lạp có một cuộc đua độc đáo trong Thế vận hội Olympic của
họ. Người chiến thắng không phải là người chạy về đích đầu tiên. Nhưng đó là
người chạy về đích với ngọn đuốc vẫn còn cháy sáng. Một số trường học của chúng
ta từng mô phỏng điều này qua theo hình thức chạy đua 50 mét dành cho nữ sinh ở
các trung tiểu học với những ngọn nến được thắp sáng.
* Chúng ta hãy chạy suốt cuộc đời của mình với ngọn đuốc vẫn thắp
sáng cho Chúa.
23. Kết thúc hay bắt đầu
Vào ngày 14 tháng 9 năm 2005, một đồng nghiệp và một người bạn
Dòng Tên người Úc, Paddy Meagher, đã từ biệt Ấn Độ sau hơn bốn thập kỷ tận tâm
phục vụ ở đây. Anh đang bị những nấm đen ác tính (ung thư da) đột ngột tấn công
và lan khắp mặt, để lại những khối u có khả năng ảnh hưởng đến não và cổ họng.
Dũng cảm chịu đựng nỗi đau, anh nói: “Tôi biết mình sắp chết và
tôi đã chuẩn bị sẵn sàng. Tuy nhiên, tôi sẽ tiếp tục đọc và viết cho đến khi
cái chết đến!” Paddy mất ngày 5 tháng 1 năm 2006.
* Đối với người “trinh nữ khôn ngoan” như thế này, đèn của họ luôn
có dầu. Và đối với nhiều nạn nhân của các trận động đất gọi Chúa là Abba hay
Allah, những gì chúng ta coi là thời kỳ cuối cùng có thể được gọi là thời gian
bắt đầu cho tiệc cưới vĩnh cửu. (Francis Gonsalves in Sunday Seeds for Daily
Deeds; được cha Botelho trích dẫn).
24. Bất ngờ
1900 năm trước, núi lửa Mt Vesuvius phun trào ở Ý. Khi vụ phun
trào kết thúc, thành phố Pompeii nằm dưới lớp tro núi lửa dày gần một thước.
Thành phố vẫn còn như vậy cho đến thời hiện đại, khi các nhà khảo cổ bắt đầu
khai quật. Những gì họ tìm thấy làm mọi người kinh ngạc. Có những ổ bánh mì
được carbon hóa, trái cây vẫn giữ được hương vị và quả ôliu vẫn còn đầy dầu.
Nhưng còn có nhiều khám phá đáng kinh ngạc hơn nữa. Tro núi lửa đã đóng băng
mọi người ở đúng vị trí mà họ đang thực hiện khi thảm họa xảy ra. Thi thể người
dân bị phân hủy. Khi xảy ra như vậy, họ để lại những lỗ rỗng trong lớp tro
cứng. Bằng cách đổ thạch cao lỏng vào các hốc này, các nhà khảo cổ học có thể
tạo ra các khuôn đúc của các nạn nhân. Một số diễn viên gợi lên phản ứng cảm
xúc. Ví dụ, một trường hợp đó là một bà mẹ trẻ đang ôm chặt đứa con của mình
trong tay. Một trường hợp khác về một người lính canh La Mã vẫn còn ở vị trí
của mình, đứng thẳng với đầy đủ vũ khí. Anh vẫn bình tĩnh và trung thành với
nhiệm vụ của mình đến cùng. Hình ảnh thứ ba là một người đàn ông đứng thẳng với
thanh kiếm trên tay. Chân anh ta đang đặt trên một đống vàng và bạc. Rải rác
xung quanh anh ta là năm thi thể, có lẽ là những kẻ cướp bóc mà anh ta đã giết.
* Các bức tượng thạch cao minh họa một cách đầy ấn tượng hai chủ
đề của các bài đọc hôm nay. Chủ đề đầu tiên là về sự bất ngờ xảy ra ngày tận
thế và cuộc quang lâm của Chúa Giêsu. (Mark Link in Sunday Homilies; được cha
Botelho trích dẫn).
25. Sẵn sàng
Khi Thomas Merton, tu sĩ và tác giả thiêng liêng dòng Trappist qua
đời năm 1968, ông đã để lại một di sản văn học tiếp tục nuôi dưỡng những khao
khát thiêng liêng và thúc đẩy lương tâm xã hội và chính trị của các tín hữu cho
đến ngày nay. Cái chết của Merton do vô tình bị điện giật khi ông đang tham dự
một hội nghị của các tu sĩ Phật giáo và Công giáo ở Bangkok, Thái Lan. Thật quá
bất ngờ và không đúng lúc. Tuy nhiên, ít có nghi ngờ rằng Merton đã sẵn sàng,
giống như các trinh nữ khôn ngoan trong bài Tin Mừng hôm nay, để gặp Chúa.
Trong một trong những cuốn sách nổi tiếng nhất của mình, No Man Is
an Island (Không ai là một hòn đảo), vị tu sĩ thánh thiện đã viết: “Trong suốt
cuộc đời, chúng ta phải học cách tỉa tót những tim đèn của mình và đổ đầy dầu
bằng lòng bác ái trong im lặng... nếu tinh thần vốn giữ ngọn lửa sự sống thể
xác cháy trong con người chúng ta, hãy chăm sóc nuôi dưỡng bằng loại dầu chỉ
tìm thấy trong lòng bác ái, thì khi thân xác chết đi, tinh thần vẫn tiếp tục
cháy với cùng loại dầu đó. Nhưng nếu tinh thần đã cháy hết cùng với dầu cặn là
đam mê, ích kỷ, kiêu ngạo thì khi cái chết đến, ngọn lửa tinh thần sẽ tắt theo
ánh sáng của cơ thể vì đèn không còn dầu nữa.”( Patricia Datchuck Sánchez)..
26. Phong tục cưới hỏi người Do thái.
Khi đọc dụ ngôn này, chúng ta thắc mắc nhiều điều vì phong tục
cưới hỏi của người Palestine thời Chúa Giêsu khác hẳn với phong tục của chúng
ta ngày hôm nay. Muốn hiểu dụ ngôn 10 cô trinh nữ đón chàng rể, ta nên xem qua
phong tục của người Do thái.
Tiến sĩ Alexander Findlay để lại những điều ông đã thấy ở xứ
Palestine. Ông viết: “Khi chúng tôi đến gần cổng một thị xã Galilê, tôi thấy 10
cô gái vẫy tay và đánh đàn vui vẻ, nhảy múa dọc theo con đường phía trước xe
chúng tôi. Tôi hỏi họ đang làm gì vậy? Người hướng dẫn trả lời là họ ra nhập
bọn với cô dâu chờ chàng rể đến. Tôi hỏi anh ta xem có dịp thấy đám cưới này
không, anh lắc đầu đáp: “Có thể tối nay, tối mai hay có khi cả hai tuần lễ nữa,
không ai biết chắc lúc nào đám cưới cử hành.”
Đoạn anh tiếp tục giải thích rằng: một trong những niềm vui lớn
nhất trong một đám cưới trung lưu ở Palestine là làm sao bắt gặp nhà gái đang
ngủ, vì vậy, chàng rể thường đến bất ngờ, đôi khi vào lúc nửa đêm. Theo ý của
công chúng thì chàng rể phải cho một người đi trước để la lên rằng: “Kìa, chàng
rể đang đến.” Việc đó có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, nên nhà gái phải luôn luôn
sẵn sàng đi ra đường để đón chàng rể khi chàng đến. Những điểm quan trọng khác là
không ai được phép ở ngoài đường sau khi trời tối nếu không có đèn. Khi chàng
rể đến và cửa đóng lại thì những người đến trễ không được phép vào. Đó là toàn
thể quang cảnh dụ ngôn mà Chúa Giêsu nêu ra.
Dụ ngôn có nhiều chi tiết nhưng Chúa Giêsu chỉ muốn dựa vào phong
tục rước dâu để nói lên sự tỉnh thức và sẵn sàng.
CNTN 32B - HAI ĐỒNG TIỀN CỦA BÀ GÓA NGHÈO
Lời Chúa: Mc 12, 38-44
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng dân chúng trong khi giảng dạy rằng:
"Các ngươi hãy coi chừng bọn luật sĩ. Họ thích đi lại trong bộ áo thụng,
ưa được bái chào ngoài công trường, chiếm những ghế nhất trong hội đường và
trong đám tiệc. Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà
goá: Họ sẽ bị kết án nghiêm ngặt hơn.”
Chúa Giêsu ngồi đối diện với hòm tiền, quan sát dân chúng bỏ tiền
vào hòm, và có lắm người giàu bỏ nhiều tiền. Chợt có một bà goá nghèo đến bỏ
hai đồng tiền là một phần tư xu.
Người liền gọi các môn đệ và bảo: "Thầy nói thật với các con:
Trong những người đã bỏ tiền vào hòm, bà goá nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết.
Vì tất cả những người kia bỏ của mình dư thừa, còn bà này đang
túng thiếu, đã bỏ tất cả những gì mình có để nuôi sống mình.”
TRUYỆN KỂ
1. Bà Oseola Mc Carthy
Báo New York Times đưa tin bà Oseola Mc Carthy: Biểu tượng
"Lòng từ thiện" của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 03/10/1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7/95, ông hiệu trưởng đại học phía bắc
Missisipi đã vô cùng ngạc nhiên, khi có một phụ nữ xa lạ tên Oseola Mc Carthy
xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bổng cho các sinh viên nghèo của trường,
mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà trường còn
sửng sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền kia là tiền
dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carthy tặng tất cả tiền bạc mình có
làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh cáp
truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói: “Người phụ
nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi thấy mình cũng phải
đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla.”
2. Nhường phòng cho khách
Cách đây khá lâu, một đêm kia, có đôi vợ chồng mới cưới đi về một
vùng quê xa xôi thì bị mắc phải cơn mưa rào dữ dội. Không thể đi xa hơn nữa, họ
liền rời khỏi xe và đi bộ về hướng một căn nhà có thắp ngọn đèn lù mù. Khi họ bước
vào nhà thì gặp đôi vợ chồng già tay cầm đèn dầu tiến ra cửa. Người thanh niên
trình bầy tình trạng khó khăn, đoạn yêu cầu: “Quí ngài có thể cho chúng tôi trú
ngụ đến sáng được không? Nằm trên sàn nhà hay trên ghế bành cũng được.”
Ngay lúc đó có vài hạt cơm dính trên mái tóc người thiếu phụ mới
đến rơi xuống sàn nhà. Đôi vợ chồng chủ nhà liếc thấy liền đưa mắt nhìn nhau
thông cảm. Bà chủ nhà lên tiếng: “Được chứ, các cháu! Chúng tôi vừa có được một
căn phòng trống. Nào hãy ra thu xếp đồ đạc trong xe khi chồng tôi và tôi dọn
dẹp căn phòng cho tươm tất một chút.”
Sáng hôm sau, đôi tân hôn thức dậy sớm và chuẩn bị ra đi. Vì không
muốn quấy rầy hai vợ chồng già, họ lặng lẽ mặc quần áo, đoạn họ đặt tờ 10 đôla
lên chiếc tủ, rồi nhón chân đi xuống cầu thang. Khi mở cánh cửa thông qua phòng
khách, họ bỡ ngỡ nhìn thấy đôi vợ chồng già đang nằm ngủ trên những chiếc ghế
dựa. Té ra cặp vợ chồng già này đã nhường cho đôi tân hôn căn phòng ngủ duy
nhất của họ. Chàng thanh niên và cô vợ nén lại vài phút, đoạn anh ta nhón chân
quay lên cầu thang và đặt thêm 5 đôla nữa lên chiếc tủ
3. Người buôn cam
Ngày xưa, ở Hàng châu có một người đi buôn cam. Anh ta khéo để
dành cam lâu ngày mà không ủng. Lâu ngày mà vỏ vẫn đỏ hồng, trông tốt đẹp như
vàng ngọc.
Đem ra chợ bán, thiên hạ tranh nhau mua. Ai thấy cam như vậy mà
không thèm? Cơ tôi cũng mua một quả. Đem về nhà bóc ra, thì ôi, hơi thối xông
lên mặt, múi thì xác xơ như bông nát. Tôi liền ra chợ lại, tìm gặp người bán
cam trách móc:
- Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi tân khách, hay
là chỉ để làm cho choáng mắt bên ngoài, đánh lừa thiên hạ? Tệ thật! Anh giả dối
lắm.
Người buôn cam mỉm cười nói:
- Tôi làm nghề này đã lâu lắm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán thì
người ta mua. Chẳng ai nói năng gì cả. Chỉ có ông là kêu ca thôi. Thiên hạ giả
dối nhiều, chẳng phải riêng gì một mình tôi. Ong thật không nghĩ cho đến nơi.
Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ, hùng dũng, trông ra dáng quan võ
lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Ngô Khởi, Tô Tẫn không? Người đội mũ cao, đóng
đai dài, trông ra dáng quan văn lắm. Kỳ thực họ có giỏi được như Cao Dao, Y
Doãn không? Giặc nổi lên không biết dẹp, dân khổ không biết cứu. Quan lại tham
nhũng không biết trừng trị. Pháp hộ hỏng không biết sửa đổi. Ngồi không ăn
lương, chẳng biết xấu hổ… Thế mà lúc ra ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu
ngon, ăn của lạ, oai vệ hách dịch vô cùng!.
Đó, bề ngoài họ chẳng như vàng ngọc, mà bên trong lại chẳng hôi
thối, và xác xơ, như bông nát là gì? Sao ông không chịu xet những hạng người
như thế, mà lại đi xét quả cam tôi"?
4. Những người nghèo quảng đại
Một ngày nọ, Mẹ Têrêsa nhận được 15 đôla. Ông ta bị toàn thân bất
toại chỉ còn bàn tay phải là có thể cử động được. Ông.
Hôm ấy, sau khi nhận được 15 Mỹ kim do một người bị bất toại 20
năm gửi tặng, một con người sống cô đơn, chỉ có điếu thuốc lá là người bạn duy
nhất của ông, Mẹ Têrêsa đã đến thăm ông và an ủi ông, người đã chân thành nói
với Mẹ rằng:
- Thưa Mẹ, con đã hết hút thuốc cả tuần nay rồi, và đó là số tiền
con dành dụm được để biếu Mẹ hầu Mẹ có thể dùng nó mua cơm bánh cho các người
nghèo khổ.
Câu truyện cảm động khác xẩy ra vào thời điểm thành phố Calcutta
thiếu đường. Bấy giờ có một cậu bé độ khoảng 4 tuổi đã đến đưa cho tôi một bát
đường mà nói với tôi rằng:
- Thưa Mẹ, con đã nhịn không ăn đường suốt cả tuần nay. Đây là
chút đường để Mẹ có thể dùng cho các em mồ côi của Mẹ.
Chưa hết, ở một trường hợp khác, có một em nhỏ muốn đem rá gạo tôi
mang tới ra vo để nấu cơm cho cả nhà ăn. Nhưng bấy giờ có một người đàn ông đến
gặp và nói với tôi rằng:
- Thưa Mẹ, ở gần đây có một gia đình người Ân giáo có 8 đứa con,
song cả tuần nay họ chẳng có một thứ gì cho vào bụng.
Nghe thế tôi liên bưng rá gạo theo người đàn ông ấy đến nhà người
Ấn giáo ấy. Bước vào túp lều lụp xụp, tôi thấy những khuôn mặt xanh xao và đang
bị quằn quại vì đói. Không thể cầm lòng, tôi đã trao tất cả rá gạo cho người
đàn bà ấy. Bà ta cảm động nhận lấy rá gạo, rồi lập tức ngồi xuống chia ra làm
hai phần. Sau đó, bà bưng một nửa ra đi . . . một lúc sau mới trở về... Lấy làm
ngạc nhiên tôi mới lên tiếng hỏi bà:
- Bà đi đâu thế? Đem gạo cho ai vậy?
Bà ta liền trả lời:
- Người ta cũng đói lắm cơ!
- Nhưng họ là ai?
- Những ngưới ấy là những gia đình theo Hồi giáo. Họ cũng có những
đứa con đói khổ như con đây. Họ ở bên kia đường mà cả tuần nay, họ cũng chẳng
có gì để ăn hết.
5. Tình yêu trong việc làm
Mẹ Têrêxa Calcuta đã từng nói: “Thiên Chúa không nhìn xem những
công việc lớn lao, nhưng nhìn xem tình yêu trong những công việc chúng ta làm.”
Khi còn sinh thời, Mẹ Têrêxa Calcuta đã kể một câu chuyện: Ngày
kia mẹ xuống phố, gặp một người hành khất đã cao niên nói với Mẹ: “Thưa mẹ, mọi
người gặp Mẹ đều giúp Mẹ tiền bạc.Tôi cũng muốn, nhưng tôi nghèo quá, cả ngày
nay xin được có 30 xu. Tôi xin biếu mẹ số tiền nhỏ nhoi này.” Mẹ nói: “Nếu tôi
lấy 30 xu này thì tối nay ông sẽ phải nhịn ăn. Nếu tôi không lấy, ông sẽ bị tổn
thương, mặt cảm. Thế là tôi đưa tay ra, nhận số tiền 30 xua đó. Liền đó, tôi
nhận ra sự rạng ngời trên khuôn mặt khắc khổ của người đàn ông hành khất này,
vì ông đã cho đi dược cái gì ông có.”Và Mẹ kết luận: “Một người ngồi ăn xin cả
ngày được 30 xu. Một món tiền quá nhỏ, ông và tôi chả mua được cái gì! Nhưng nó
đã được cho đi, và đã trở nên gấp ngàn lần, vì nó được cho đi trong sự quảng
đại và yêu thương. Thiên Chúa nhìn việc dâng hiến của mội người không phải vì
sự to tát của việc làm, mà vào tình yêu thương mà qua đó công việc được hoàn
thành.”
Hãy nhớ rằng dâng cúng “Hai đồng tiên nhỏ” sẽ làm vui lòng Thiên
Chúa, nếu việc dâng cúng đó được làm vì tình yêu và sự quảng đại.
6. Quà tặng dốc cạn túi
Báo New York Times vừa đưa tin bà Oseola Mc Carty: Biểu tượng
"Lòng Từ Thiện" của nước Mỹ, vừa qua đời ngày 3-10-1999 ở tuổi 91.
Vào một ngày của tháng 7-95, ông hiệu trưởng đại học phía Bắc
Missisippi đã vô cùng ngạc nhiên, khi biết có một phụ nữ xa lạ tên Osenola Mc
Carty xin được tặng 150.000 đôla làm quỹ học bỗng cho các sinh viên nghèo của
trường, mà không cần được ghi danh tưởng niệm hay tuyên bố công khai. Nhà
trường còn sững sốt hơn khi biết người phụ nữ ấy làm nghề giặt ủi, và số tiền
kia là tiền dành dụm cả một đời người.
Ngay khi biết câu chuyện bà Mc Carty tặng tất cả tiền bạc của mình
có làm quỹ học bổng cho trường, ông tỷ phú Ted Turner, trùm ngành kinh doanh
cáp truyền hình Mỹ, đã tuyên bố góp thêm một tỷ đôla cho quỹ. Ông nói:
"Người phụ nữ nhỏ bé ấy đã dám ban tặng tất cả những gì bà có, thì tôi
thấy mình cũng phải đóng góp phần của tôi là một tỷ đôla.”
7. Cho mà không mất
Từ câu chuyện bà goá trong bài đọc I, chúng ta có thể rút ra được
ý tưởng này: có những thứ có thể cho đi mà không bị mất, ngược lại còn được
thêm. Người cho không bị nghèo đi, lại giàu thêm. Dĩ nhiên đó không phải là
những thứ vật chất.
Một thầy giáo cho đi những kiến thức của mình, học trò được giàu
thêm kiến thức nhưng kiến thức của ông thầy không hề vơi.
Một người mẹ cho con cái mình tình thương cũng vậy.
Một người vui tính mang niềm vui đến cho người khác cũng thế.
Kiến thức, tình thương, niềm vui, hoà thuận v.v. là những thứ có
cho đi cũng không bị mất, trái lại cả người cho và người nhận đều được giàu
hơn.
8. Người bội bạc
Ông Sam Jones một nhà truyền giáo rất nổi tiếng, một lần kia gặp
một tín hữu lúc nào cũng than van về những khoản ông phải đóng góp.
- Thưa ngài, tôi phải đóng góp cho Hội Thánh nhiều quá.
- Bao nhiêu?
- 5 USD một năm.
- Thế ông theo Chúa bao lâu rồi?
- Đã 4 năm.
- Trước khi theo Chúa ông làm gì?
- Tôi nghiện rượu.
- Mỗi năm ông uống hết bao nhiêu tiền?
- Chừng 250USD
- Khi ấy ông có ruộng đất gì không?
- Tôi mướn đất cày bừa với một con bò
- Bây giờ ông có gì không?
- Tôi có một khu ruộng và một đôi ngựa cày.
- Trước kia ông cho ma quỉ mỗi năm 250USD để được cày trên một
thửa ruộng đi thuê muớn với một con bò. Nay Đức Chúa Trời đã cứu ông, ông chỉ
dâng cho Ngài 5USD một năm để được cày ruộng của mình với một đôi ngựa. Vậy mà
ông còn kêu là nặng nề ư? Ông là người bội bạc từ đỉnh đầu cho đến bàn chân!
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng như vậy. Chúng ta nhận được
từ Chúa và Giáo Hội quá nhiều nhưng thử hỏi có khi nào chúng ta nghĩ tới bổn
phận chúng ta phải xây dựng Giáo Hội bằng những hy sinh của chúng ta không?
9. Của ít lòng nhiều
Ngày xưa, lâu lắm rồi, một ông vua ở Ấn Độ, mời Đức Phật vào cung
làm lễ. Hôm ấy vua cho đốt rất nhiều đèn dầu trong cung nhất là dọc theo hành
lang từ cung vua đến cung Phật ở. Lúc đó có một bà góa nghèo khó cũng muốn dâng
lên Đức Phật ngọn một ngọn đèn dầu, nhưng không làm sao có tiền để mua. Bí quá
Bà phải đi ăn xin suốt một ngày ròng, khắp kinh đô…mãi đến tối mới được hai
đồng. Bà dùng hai đồng đó…. tất tả ra phố mua dầu, đốt một đĩa đèn dâng lên
Phật. Bà khấn: "Nếu đời sau con được thành đạo, thì xin ngọn đèn này được
sáng suốt đêm mà không tắt.”
Sáng hôm sau, khi một nhà sư lên cung Phật đi tắt đèn thì thấy mọi
ngọn đèn của vua đã tắt tự bao giờ, riêng dĩa đèn của bà ăn xin vẫn tỏa sáng
ngời ngợi, không làm cách nào tắt được. Nhà sư thấy sự lạ, lên thưa với Đức
Phật. Người bảo: "Bà cụ tâm thành tu thân tích đức, về kiếp sau sẽ trở thành
Phật Như Lai.”
Vua nghe chuyện, hỏi một vị quan trong triều, tại sao vua cúng đèn
nhiều như sao sa vậy mà chẳng được như bà lão chỉ dâng có một ngọn đèn? Quan
đáp: "Bởi vì bà của ít lòng nhiều, bà dâng có một dĩa đèn, nhưng tấm lòng
bà thành kính thiết tha.”
10. Cái giá của đồng tiền
Có một ông nhà giàu gặp một vị đạo sĩ ngồi ở gốc cây bên lề đường,
liền hỏi: "Ông ngồi đây làm gì vậy? Nhà tôi đang cần người giúp việc, về
làm cho tôi ông sẽ có tiền.” Vị đạo sĩ trả lời: "Cám ơn ông tôi rất sợ
tiền bạc, vì ở đâu có tiền bạc ở đó có tội ác.”
Ông nhà giàu nói: "Ông rất lầm nên mới yếm thế bi quan. Thế
gian có tiền là có tất cả. Có tiền mua tiên cũng được, khắp đông tây đều công
nhận như vậy.” Vị đạo sĩ trả lời: "Ông càng lầm hơn tôi, tiền bạc mở được
mọi cửa trừ cửa thiên đàng. Đó là câu nói của các nhà đạo đức phương tây. Còn
đông phương thì cho rằng: tiền bạc mua được tất cả nhưng không thể mua được
lương tâm của người quân tử.”
Ông nhà giàu lại nói: "Ông biết chứ, lịch sử chứng tỏ tiền
bạc đi tới đâu thì ở đấy phồn thịnh. Có phải tiền bạc đã biến đổi thế giới khổ
cực thành xa hoa sung sướng không?” Vị đạo sĩ trả lời: "Ông chỉ thấy tiền
bạc có một mặt, ông không thấy mặt trái của nó, lịch sử cũng ghi rõ: tiền bạc
đi tới đâu thì gieo chia rẽ giàu nghèo, gây nên cảnh bất công, ghen tương,
tranh chấp và chết chóc.”
Ông nhà giàu không nói thêm gì nữa.
11. Bác ái để nổi tiếng
Một bà nọ là thành viên của một hội đoàn đạo đức chuyên đi làm
công tác bác ái xã hội. Một hôm, bà nhận được giấy mời đến dự buổi họp mặt bất
thường để quyên góp giúp đồng bào bị thiên tai lũ lụt vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long. Bà dự tính kỳ họp này sẽ tự nguyện đóng góp số tiền một triệu đồng.
Nhưng trong buổi họp, khi thấy có nhiều Hội viên khác cũng đóng
góp số tiền một triệu ngang bằng với mình, bà muốn tỏ ra quảng đại hơn người,
nên khi tới phiên, bà đã ghi vào sổ vàng cứu trợ số tiền hai triệu đồng. Rồi
thay vì rút bao thư chứa hai triệu, thì bà lại rút nhầm bao thư trong đó có số
tiền hai trăm USD tương đương năm triệu đồng mà bà định mang đi vào sau buổi
họp mặt hôm đó để mừng đám cưới con trai của bà bạn thân đã từng giúp đỡ bà rất
nhiều.
Khi phát hiện ra đã đưa lộn phong bì, bà muốn đến bàn thu ngân xin
lại số tiền đã góp dư kia, nhưng lại sợ bị mất thể diện trước mặt người khác.
Cuối cùng bà đành chịu vậy, nhưng tự trách mình đã bất cẩn không kiểm tra phong
bì trước khi nộp cho thủ quỹ. Nhiều ngày sau đó mỗi lần nghĩ tới là bà lại cảm
thấy nuối tiếc số tiền đã lỡ ủng hộ cho đồng bào bị thiên tai lũ lụt ngoài dự
tính kia.
12. Gã bán thịt và lão ăn mày:
Kho tàng cổ tích Ả-rập có câu chuyện vui như sau: Một gã bán thịt
nướng kia rất keo kiệt và khó tính. Một hôm một lão ăn mày từ nơi khác đến ngồi
ăn xin bên cạnh quán thịt nướng của gã. Lão ăn mày đói bụng nhìn những miếng
thịt nướng trên vỉ sắt đang bốc khói, chỉ biết hít thật sâu để đón nhận mùi
thịt thơm bay vào mũi và liên tục nuốt nước miếng vì không có tiền mua thịt.
Cuối cùng lão nghĩ ra một kế hay: lão ta móc trong bị ra một miếng
bánh mì khô mua từ ban sáng, lẳng lặng đến gần lò than hơ miếng bánh trên vỉ
thịt, với hy vọng khói thịt bốc lên sẽ ám vào miếng bánh. Sau đó, lão ta vui vẻ
ăn hết miếng bánh đã được ám khói. Còn gã bán thịt đang ngồi trong quán thấy
vậy liền chạy ra túm lấy áo lão ăn mày đòi trả tiền. Bấy giờ lão ăn mày liền
nói: “Lão đâu có lấy thịt nướng nào của anh. Khói thịt bay lên đâu phải là thịt.”
Gã bán thịt hét lớn: “Khói từ thịt đang nướng bay ra là thuộc về miếng thịt,
nên lão ăn bánh có ám khói thịt bay lên cũng phải trả tiền.” Hai người cự cãi
không ai chịu thua ai.
Cuối cùng họ đưa nhau ra toà yêu cầu quan tòa cứu xét. Quan tòa
liền truyền cho lão ăn mày lấy ra một đồng tiền cắc ném mạnh xuống nền nhà phát
ra một tiếng “keng.” Rồi quan toà phán quyết cho hai người như sau: “Lão ăn mày
được quyền hưởng khói bay ra từ miếng thịt, còn anh bán thịt sẽ hưởng tiếng
“keng” phát ra từ đồng tiền của lão ăn mày.”
13. Cây bút của cô bé bán diêm
Vào một buổi tối mùa thu, nhà văn Anderson đi dạo phố một mình tại
thủ đô Copenhague. Ông bỗng nghe một giọng nói yếu ớt từ đằng sau vọng lại: “
Chú ơi, mua hộ cháu bao diêm.” Nhà văn quay lại, chợt nhận ra một đứa bé gái,
gương mặt xanh xao, quần áo nhầu nát bẩn thỉu. “Chú ơi mua hộ cháu bao diêm, cả
ngày cháu chưa bán được một bao nào.”
Giọng cô bé thật buồn. Nó bùi ngùi kể lại hoàn cảnh đáng thương
của nó. Mẹ chết sớm, con bé phải ở với một người cha nghiện ngập và khá cọc
cằn, nhưng nó rất thương bố nó. Nó cố lê lết khắp nơi để bán diêm, kiếm chút
tiền mang về cho bố những bữa ăn ngon. Anderson xúc động cho con bé ít tiền.
Con bé sáng rực đôi mắt và thầm nghĩ nó sẽ mua về cho bố tối nay
một ổ bánh mì thật ngon. “Chú ơi sao chú tốt với cháu thế? Chú tên gì, và chú
làm nghề gì?” – “Chú tên Anderson, và chú làm nghề này.” Nhà văn vừa nói vừa
khoa tay vẽ vào khoảng không hình một cái bút, ám chỉ ông là nhà văn.
Đứa bé không hiểu, tưởng ông làm nghề bán bút giống như nó đi bán
diêm vậy. Anderson hẹn với đứa bé đến đầu năm tới, ông sẽ trở lại và cho nó một
món quà, còn bây giờ đã đến lúc ông phải đi xa.
Nhiều tháng trôi qua, Anderson dường như đã quên lời hứa của mình.
Một bữa nọ, tình cờ trở lại Copenhague và ông chợt nhớ con bé bán diêm, nên đã
ghé mua cho nó một chiếc áo ấm, và đi tìm để tặng.
Tuy nhiên người chủ tiệm bên đường đã cho ông biết con bé bán diêm
đã chết rồi: Ngày đầu năm, người ta thấy nó nằm chết cóng bên vệ đường. Nó nằm
chết giữa một đống bao diêm, trong đó có một bao đã hết nhẵn. Có lẽ nó đốt diêm
để sưởi cho bớt lạnh. Có điều là khi chết, khuôn mặt nó vẫn còn hồng hào và
dường như nó đang mỉm cười chờ đợi một ai đó. Anderson đứng chết lặng.
Người chủ tiệm nói tiếp: “Khi mang xác nó đi người ta thấy trong
túi áo của nó rơi ra một vật giống như chiếc quản bút làm bằng những que diêm.
Chắc nó làm để tặng ai đó tên Anderson, vì trên quản bút có viết hàng chữ “tặng
chú Anderson.”
14. Hát để khỏi lạc đường
Một giai thoại trong cuộc đời thánh Phanxicô Assisi đã được nhà
văn Nikos Kazantzakis viết thành cuốn tiểu thuyết nội dung như sau: Sau khi
Phanxicô đã phân phát cho người nghèo tất cả của cải của mình, ngài bắt đầu đi
lang thang đó đây khất thực, vừa đi đường vừa ca hát.
Một anh bạn cũ thân quen thấy vậy đã tỏ vẻ ngỡ ngàng và hỏi: “Này
Phanxicô, đôi giày đắt tiền, chiếc đồng hồ quý giá, quần áo sang trọng của anh
đâu cả rồi?” Phanxicô trả lời: “Tất cả những thứ đó là của ma quỷ, tôi đã trả
lại cho nó tất cả rồi.” Người bạn hỏi tiếp: “Anh đi lang thang đến đây từ đâu
và anh định sẽ đi đâu thế?“ – “Tôi đến từ một nơi rất xa và tôi cũng đang trên
đường đi về nơi ấy.”
Người bạn lắc đầu không hiểu và hỏi tiếp: “Thế tại sao anh lại vừa
đi đường vừa hát nghêu ngao như một thằng điên thế?” – “Tôi hát là để khỏi bị
lạc đường đó thôi.”
Là những người đi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng rất dễ bị lạc
đường, nếu chúng ta để cho của cải vật chất điều khiển.
15. Ai cũng là người giầu có
- Thiên Chúa Cha chúng ta đã biểu lộ một tình yêu quảng đại để nêu
gương cho chúng ta:
+ Chúng ta chỉ cần một bông hoa, mà Ngài lại ban cả cánh rừng.
+ Chúng ta chỉ cần vài ngụm nước, mà Ngài lại ban cho cả dòng
suối.
+ Chúng ta chỉ cần vài hạt cát, mà Ngài lại cho cả bãi biển rộng
dài.
+ Chúng ta chỉ xin lương thực hàng ngày, mà Ngài lại ban cả Mình
Máu Thánh Chúa Giêsu.
- Chúa Giêsu phán: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Mỗi
ngày chúng ta nên thực hiện một số việc quảng đại như Francis Balfour đã liệt
kê một số việc cụ thể mà các tín hữu chúng ta nên thực hiện như sau:
+ “Món quà đẹp nhất tặng cho kẻ thù ghét ta là lòng khoan dung tha
thứ;
+ Quà tặng cho bạn bè là thái độ trung tín và chân thành,
+ Quà cho các em nhỏ là tấm gương bác ái và khiêm nhường phục vụ,
+ Quà tặng cho ông bố trong gia đình là thái độ tôn kính và vâng
lời,
+ Quà cho bà mẹ là trái tim cháy lửa yêu thương và chia sẻ công
việc nội trợ,
+ Và cuối cùng, quà cho mọi người chung quanh là nụ cười thân
thiện kèm theo cái bắt tay thân ái, một lời khen thành thật, cùng thái độ lắng
nghe và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu noi gương Đức Giêsu.”
16. Đồng xu của cậu bé nghèo
Tổng thống Wilson của Hoa Kỳ, người đã đưa Nước Mỹ can thiệp vào
Thế Chiến Thứ Nhất, là người rất trân trọng đối với những kỷ niệm nhỏ. Một lần
kia Tổng Thống và phu nhân cùng nhiều nhân vật cấp cao trong chính phủ dừng lại
tại một thành phố thuộc tiểu bang Montana. Cảnh sát làm hàng rào không cho bất
cứ ai đến gần Tổng Thống, nhưng không hiểu làm thế nào mà hai cậu bé đã chui
lọt hàng rào cảnh sát để đến gần chỗ ngồi của Tổng Thống.
Hai cậu bé ngắm nhìn một cách say sưa vị nguyên thủ quốc gia của
mình. Một cậu bé đã tặng cho ông lá cờ nhỏ bé của nước Mỹ mà cậu đang cầm trong
tay. Cảnh sát cố tình ngăn chặn cậu bé, nhưng bà Wilson đã đưa tay đón lấy lá
cờ và vẫy tay chào cám ơn em một cách nhiệt tình.
Cậu bé kia buồn thiu, vì em không có gì để dâng tặng Tổng Thống.
Em cố gắng mò mãi trong túi và cuối cùng lôi ra được một đồng xu nhỏ. Em cố
gắng vượt qua mọi chướng ngại để chạy đến trao cho Tổng Thống. Em sung sướng vô
cùng vì chính Tổng Thống Wilson là người chìa tay ra để đón nhận món quà của em
với tất cả sự trân trọng.
Năm năm sau, Tổng Thống Wilson qua đời, bà Wilson xếp lại các đồ
dùng quen thuộc của chồng. Mở chiếc ví của ông, bà thấy một bọc giấy giữ gìn
cẩn thận. Tháo chiếc bọc giấy, bà nhận được ngay đồng xu nhỏ mà cậu bé đã tặng
cho chồng bà cách đây 5 năm. Ông Wilson quý đồng xu nhỏ ấy đến độ đi đâu ông
cũng mang nó theo.
17. Nghèo tiền nhưng giàu tình
Tại một phố nhỏ bên Châu Âu, vào một mùa đông nọ, sau khi nghe nhà
trường thông báo sẽ lạc quyên tiền bạc và phẩm vật để làm quà giáng sinh cho
những trẻ em nghèo trong vùng, một em bé 13 tuổi đã dành dụm trong suốt 1 tháng
được 15 đồng và em quyết định đón xe đến trường để trao tặng số tiền đó.
Một trận bão tuyết bất ngờ đổ xuống khiến lưu thông bị bế tắc, xe
cộ không thể di chuyển. Cậu bé đã đi bộ đến trường, băng qua những cánh đồng
ngập tuyết trắng xoá.
Ông hiệu trưởng vô cùng kinh ngạc trước tấm lòng quảng đại và hy
sinh của cậu bé, nhưng ông còn ngạc nhiên bội phần khi biết em thiếu niên trước
mặt ông lại có tên trong danh sách những trẻ em nghèo mà nhà trường sẽ tặng quà
giáng sinh năm đó.
Đúng là nghèo tiền nhưng giàu tình. Nghèo đến nỗi được nhà trường
ghi nhận, cho vào danh sách những người cần được giúp đỡ. Nhưng tình thương
liên đới và trách nhiệm san sẻ đã làm cho tâm hồn cậu bé nhà nghèo trở thành
“viên ngọc quý.”
18. Hết lòng với nhà Chúa
Vài tuần trước đây, cha Cao huy Hoàng có việc về Nha Trang, và ghé
thăm Cha MT, cha kể rằng: một Chúa nhật nọ, Cha nói chuyện với Giáo dân về tư
thế tham dự phụng vụ của Giáo Dân: quì, ngồi, đứng trước mặt Chúa đều tốt cả,
miễn là chúng ta có lòng chân thành. Nhưng, tư thế quì, bao giờ cũng trang
nghiêm sốt sắng hơn và nhất là tỏ được lòng khiêm tốn, lòng yêu mến, quí trọng
Thiên Chúa là Cha. Ví dụ, khi rước lễ, ta quì đón nhận Chúa Giêsu Thánh Thể,
thì xứng đáng hơn.
Sáng thứ hai trong tuần, một cụ bà 80 tuổi đem đến cho Cha một
triệu đồng.
Cha hỏi: -“Tiền gì đây bà cụ?”
-“Thưa Cha, tiền con dâng cúng để đóng bàn quì rước lễ”
-“Tôi mới ví dụ thôi mà!”
-“Ví dụ gì nữa, cha đóng bàn quì đi, bọc khăn trắng nữa!”
-“Úi chà! Bà cụ già thế, ở đâu ra mà tiền nhiều vậy?”
-“Hết rồi Cha ạ, có bấy nhiêu thôi! Con cháu nó cho mối lúc ít
đồng, để dành mua cái áo quan, nhưng bây giờ thì cái áo quan không cần bằng cái
bàn quì rước lễ!!!”
19. Biển hồ và biển chết
Ở Israen có hai biển hồ lớn: một là biển hồ Galilê, hai là biển
chết.
Biển hồ Galilê nằm phía bắc nước Do-thái, nó luôn luôn tiếp nhận
nước từ sông Jordanô và sau đó cho chảy thoát ra phía hạ lưu, luôn trao ban
những gì vừa nhận được. Nhờ đó, dòng nước luôn luôn trong lành, trở nên môi
trường sống lành mạnh cho bao loài tôm cá, cung cấp nước uống cho cư dân quanh
vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, nhiều người đến dựng nhà lập
nghiệp quanh bờ của nó, thuyền bè tấp nập trên các bến cảng của nó. Nó đem lại
phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại ấm no, hạnh phúc và nguồn vui cho
bao triệu người qua các thời đại. Chính Chúa Giêsu cũng thường lui tới rao
giảng Tin Mừng nơi đây.
Nhưng cách đó không bao xa, về phía nam nước Do-thái cũng có một
biển hồ lớn được gọi tên là Biển Chết. Nó là biển chết vì nó cũng nhận nước từ
dòng sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó cứ khư khư giữ lại cho mình,
không ban phát cho ai, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành
nước độc, nó mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy,
không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
20. Trao tặng nụ cười
Một hôm có người thanh niên đến thăm, và tận mắt chứng kiến các
việc Mẹ Teresa cùng với các nữ tu của Mẹ làm tốt đẹp quá, anh tự cảm thấy dấy
lên trong lòng mình một nhiệt huyết xây đắp cho thế giới này thêm những điều
tốt lành, anh mạnh dạn hỏi Mẹ:
- Thưa Mẹ, xin Mẹ vui lòng cho con biết con có thể cộng tác vào
công trình của Mẹ, để làm cho thế giới này ngày càng tốt đẹp hơn bằng cách nào?
Mẹ Têrêsa nở nụ cười sung sướng và trả lời:
- Con hãy cố gắng mỉm cười với người khác, có thế thôi con ạ!
21. Lòng hy sinh tuyệt vời
Ngày 11.3.2011, trận động đất cường độ 9,0 và sóng thần cao 9
thước thuộc miền Đông Bắc nước Nhật Bản, đã giết chết khoảng 8.133 người, làm
mất tích 12.272 người, và đưa đến khủng hoảng phóng xạ nguyên tử từ các lò
nguyên tử trong ảnh hưởng của thảm hoạ. Tuy nhiên, trước thảm hoạ khốc liệt đó,
tinh thần người Nhật là một tấm gương sáng ngời cho thế giới...Không than khóc,
và không thừa cơ cướp giật.
Thí dụ ở vùng cách tỉnh Fukushima khoảng 25 cây số, dân chúng địa
phương tự động thành lập các đội tự quản, tương trợ lẫn nhau khiến việc an ninh
không là một vấn đề. Bên ngoài một ngôi nhà bị sập, tiền giấy trôi ra từ ngôi
nhà nằm tứ tán có đến hàng triệu Yen, nhưng chẳng ai thèm nhặt. Đây là một đoạn
trích từ thư của Tiến Sĩ Hà Minh Thành viết từ Nhật:
"Tối hôm kia, tôi được phái tới một trường tiểu học, phụ giúp
hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng
rồng rắn những người xếp hàng, tôi chú ý đến một em nhỏ chừng 9 tuổi, trên
người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà em lại xếp hàng cuối
cùng, tôi sợ đến phiên của em thì chắc chẳng còn thức ăn, nên mới lại hỏi thăm.
Em kể là: con đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần ập
đến, cha của con làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của
trường, con nhìn thấy chiếc xe và cha con bị nước cuốn trôi, 100% khả năng là
cha con đã chết rồi. Tôi hỏi thêm: còn mẹ con đâu? Em nói: nhà con nằm ngay bờ
biển, mẹ và em của con chắc cũng không chạy kịp. Em nhỏ quay người lau vội dòng
nước mắt khi nghe tôi hỏi đến thân nhân.
“Nhìn thấy em lạnh run lập cập tôi mới cởi cái áo khoác cảnh sát,
trùm lên người em. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của tôi bị rơi ra
ngoài, tôi nhặt lên đưa cho em và nói: "Đợi tới phiên của con chắc hết
thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói.”
Em bé nhận túi lương khô của tôi, khom người cảm ơn. Tôi nghĩ bình
thường, tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó, nhưng không phải, nó ôm bao
lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô
vào thùng thực phẩm đang phân phát, rồi lại quay lại xếp hàng. Tôi sửng sốt và
ngạc nhiên vô cùng, mới hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Em
trả lời:
"Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các
cô chú phát chung cho công bằng chú ạ."
Tôi nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác để khóc, để em và mọi người
đang xếp hàng không nhìn thấy. Thật cảm động! Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi, mới
học lớp 3 đã có thể dạy một thằng có ăn học, từng có bằng tiến sĩ như tôi một
bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự
hy sinh."
22. Ai giầu có?
Có một gia đình kia rất giầu có. Một hôm ông bố dẫn con về quê với
ý định cho con thấy người nghèo sống ra sao. Hai bố con ở chơi mấy ngày với một
gia đình nông dân mà người ta vẫn coi là rất nghèo trong làng.
Lúc trở về, ông bố hỏi con: Con đã thấy người nghèo sống ra sao?
Đứa con trả lời: Cám ơn bố đã cho con thấy mình nghèo như thế nào. Còn họ thật
giầu có. Ông bố hỏi lại: Tại sao con lại nghĩ thế?
Đứa con trả lời: Con thấy chúng ta chỉ có một con chó, họ có tới 4
con. Chúng ta chỉ có một cái hồ cỏn con ở giữa vườn, còn họ có dòng sông dài
đến vô tận. Chúng ta chỉ có mấy cái đèn ngoài vườn, còn ban đêm họ có bao nhiêu
là sao sáng. Trước nhà chúng ta chỉ giới hạn ở trước sân vườn, còn trước nhà họ
là không gian mênh mông đến tận chân trời. Chúng ta chỉ sống trên mảnh đất bé
nhỏ, còn họ có ruộng đồng bao la thẳng cánh cò bay. Chúng ta có gia nhân phục
vụ nhưng họ chăm sóc lẫn nhau. Chúng ta phải mua thực phẩm nhưng họ tự tay
trồng lấy lúa rau. Chúng ta có tường rào vây quanh bảo vệ, nhưng họ có bạn hữu
bảo vệ...
Ông bố nghe mà cứ ngẩn ngơ người, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc
nhiên khác trước nhận xét thật đơn sơ của đứa con.
23. Bà lão ăn mày và đứa bé
Chuyên mục "những câu chuyện về cuộc sống" đăng ngày
25.10.2012, kể một câu chuyện về "Bà lão ăn mày và đứa bé"
Bà lão chống gậy, tay cầm mảnh gáo dừa đi xin của bố thí. Dừng
chân trước một ngôi nhà. Tiếng chó sủa trong nhà ầm ĩ, khác thường. Một chú bé
chừng năm tuổi đứng gần đó, trên tay cầm chiếc kẹo đứng nhìn bà chăm chú.
Có lẽ lần đầu gặp bà lão như thế? Hay vì nó không có bà, khiến nó
nhìn bà chăm chú đến thế. Trong sân tiếng một phụ nữ vọng ra:
- Khổ lắm! Nhà này chẳng có gì đâu!
Lời nói ấy như một thông điệp quen thuộc, mà bà vẫn thường nghe.
Tiếng chó thôi sủa, sự yên tĩnh trở lại nơi ngõ nhỏ. Bà lão lặng lẽ cầm mảnh
gáo ra đi. Cái lưng còng trên thân bà, mảnh quần áo cũ rách, đôi tay gầy gò
nhăn nheo, rạn nứt như chứa đựng bao buồn đau cuộc đời.
Thằng bé cứ ngơ ngác nhìn theo bà lão và cũng lặng lẽ theo bà ra
đầu ngõ. Chợt nó chạy thật nhanh tới gần bà, nó đưa cho bà chiếc kẹo trên tay.
Bà lão ngơ ngác như chính khi thằng bé ào tới:
- Ôi! cảm ơn con. Tiếng bà lí nhí vì ngỡ ngàng, thằng bé chạy ào
đi mất.
24. Không có tình yêu nào lớn hơn
Jack Kelly, biên tập viên hải ngoại của báo USA Today, đã tường
thuật câu chuyện thật đầy xúc động xảy ra trong cuộc chiến tranh ở miền Đông
Phi Châu như sau:
“Chúng tôi đang ở Mogadishu, thủ đô nước Somalia, trong suốt thời
gian nạn đói. Hôm đó thật không may khi chúng tôi bước vào một ngôi làng mà mọi
người đã chết sạch cả. Chúng tôi đã phát hiện ra thằng nhỏ này còn sống. Bạn có
thể hình dung ra hình dáng gầy ốm tong teo của nó vì suy dinh dưỡng và cái bụng
ỏng đầy giun sán. Khi một đưa nhỏ bị suy dinh dưỡng đến cực điểm thì tóc của nó
trở nên dỏ hoe, và da giẻ trở nên nhăn nheo giống như một ông già 100 tuổi.
Người nhiếp ảnh của chúng tôi có mang theo một trái bưởi bèn đưa cho em. Tội
nghiệp thằng bé, nó quá yếu ớt tới độ không còn đủ sức lực để nắm giữ lấy quả
bưởi nữa. Do đó chúng tôi phải cắt ra làm hai cho nó. Thằng bé đưa hai tay đón
nhận, nhìn lại chúng tôi như thể muốn nói lời cám ơn, rồi bắt đầu bước đi trở
lại ngôi làng của nó.
Chúng tôi bước đằng sau thằng bé để nó không thể nhìn thấy chúng
tôi. Khi nó về đến làng, có một thằng bé nhỏ hơn nó đang nằm dưới đất mà chúng
tôi nghĩ nó đã chết rồi. Đoi mắt của nó đã hoàn toàn trở nên đờ đẫn và mất sinh
khí. Hóa ra đó là em nó.Về đến nơi, thằng anh quỳ xuống bên cạnh đứa em, móc
từng miếng bưởi đưa lên miệng nhai tóp tép, rồi lấy tay mở miệng em nó ra, đặt
miếng bưởi vào, dùng tay đẩy nhẹ cái cằm của em nó nhai lên nhai xuống. Về sau,
chúng tôi biết được thằng anh đã làm như thế cho em nó khoảng hai tuần. Vài
ngày sau đó, thằng anh đã chết vì quá suy dinh dưỡng, nhưng đứa em lại sống
sót.
Trên đường lái xe trở về nhà đêm hôm đó, tôi tự nghĩ, đây chính là
điều mà chúa Giêsu muốn ám chỉ khi Ngài nói rằng không có tình yêu nào lớn hơn
tình yêu của người hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu.”
25. Bà góa thánh thiện
Tôi muốn kể cho các bạn nghe một bà góa đẹp và nổi tiếng. Nàng
sinh tại thành phố New York năm 1774. Năm 20 tuổi nàng kết hôn với một người
New York danh tiếng. Cả hai thuộc phái tân giáo. Khi chồng nàng mắc bệnh phổi.
Hai vợ chồng và 5 đứa con chuyển về Ý, hy vọng khí hậu mát mẻ sẽ giúp chồng
nàng. Nhưng chỉ ít năm sau chồng nàng qua đời.
Một gia đình hào hiệp người Ý đã giúp góa phụ này và các con của
nàng ở chung và giúp trở vế Mỹ. Lòng tốt của gia đình người Ý đã dẫn người góa
phụ trẻ này tìm hiểu và trở lại Công giáo năm 1805. Việc này khiến bà con và
bạn bè từ bỏ nàng. Nàng kiếm sống cho các con bằng nghề dạy học. Năm 1810 nàng
sáng lập chi nhánh các chị em Bác ái Hoa Kỳ, họ bắt đầu mở trường miễn phí cho
con em Công giáo mở đường cho hệ thống học đường giáo xứ Hoa Kỳ.
Người phụ nữ phi thường này qua đời ngày 4 tháng giêng năm 1321,
thọ 46 tuổi. Ngày nay nhiều người các bạn đã biết Elisabeth Bayley Seton, Đức
Giáo Hoàng Phaolô VI đã ghi tên nàng vào sổ bộ các Thánh năm 1975. Một vị Thánh
đầu tiên sinh tại Hoa Kỳ nổi danh với tên Mẹ Seton.
26. Ly sữa vô giá
Trước đây, có một cậu bé nghèo bán hàng rong để kiếm tiền đi học.
Một hôm cậu không có được một đồng bạc dính túi mà bụng thì đói.
Cậu quyết định sẽ đến xin ăn tại căn nhà gần đó. Tuy nhiên, khi
một cô gái trong nhà ra mở cửa thì cậu ngại quá nên thay vì xin ăn, cậu xin một
ly nước lã! Cô gái nhìn thấy dáng vẻ của cậu thì biết rằng cậu đang đói, nên
đem cho cậu một ly sữa lớn. Cậu uống chậm rãi, rồi hỏi: “Tôi phải trả bao nhiêu
tiền?” Cô gái cười nhẹ và trả lời: “Cậu chẳng phải trả gì cả. Mẹ chúng tôi dạy
rằng không bao giờ nhận tiền công khi làm một hành vi tử tế!” Cậu bé nói: “Vậy
thế thì… tôi hết lòng cám ơn cô.”
Khi cậu rời ngôi nhà ấy thì chẳng những cậu cảm thấy thân thể mình
khỏe mạnh hơn, mà lòng tin vào Thiên Chúa và con người cũng tăng mạnh thêm lên.
Cậu từng nghĩ rằng cuộc đời mình khổ cực quá nên nhiều lần có ý muốn bỏ học.
Nhiều năm sau, cô gái ấy trở thành một phụ nữ và mắc bệnh hiểm
nghèo. Các bác sĩ gần như bó tay. Cuối cùng họ gửi cô đến một thành phố lớn để
mong tìm những chuyên viên chữa trị căn bệnh lạ của cô. Bác sĩ Howard Kelly
được mời đến để chẩn bệnh. Khi nghe nói đến tên thành phố cũ của mình, mắt ông
ánh lên một cách lạ lùng. Ông đứng dậy ngay để xuống phòng khám. Trong chiếc áo
trắng của bác sĩ, ông đến gặp và nhận ra cô ngay. Ông trở về phòng khám và
quyết tâm chữa cứu người phụ nữ ấy cho bằng được. Kể từ ngày hôm đó, ông nghiên
cứu và theo dõi kỹ tình trạng sức khoẻ của cô. Sau những ngày cam go, căn bệnh
đã thua cuộc.
Bác sĩ yêu cầu phòng tài chánh chuyển hoá đơn tính tiền viện phí
của cô để cho ông phê trước. Ông nhìn vào tờ hóa đơn, rồi ghi vài chữ bên lề
trước khi gửi đến cho cô. Cô rất sợ phải mở tờ hóa đơn ấy ra, vì cô biết rằng
cô sẽ trả món nợ ấy suốt cả đời mình. Cuối cùng, cô cũng phải nhìn xuống hoá
đơn và dừng lại để ý đến hàng chữ bên lề. Cô đọc thấy: “Đã thanh toán đầy đủ
bằng một ly sữa!” Ký tên: Bác sĩ Howard Kelly.
Mắt cô đẫm lệ vì vui mừng và từ trái tim ngập tràn hạnh phúc vươn
lên lời nguyện cầu: “Tạ ơn Chúa! Chính Tình Yêu của Chúa đã lan truyền sang quả
tim và bàn tay của con người.”
Cậu bé ngày xưa được tặng một ly sữa trong cơn đói đã trở thành
Tiến Sĩ y khoa Howard Kelly, ông đã từng là một bác sĩ lỗi lạc tài ba. Năm 1895
chính ông là người sáng lập Johns Hopkins Division of Gynecologic Oncology
(Phân khoa Ung Thư Phụ Sản) tại Đại Học Johns Hopkins, trường Đại Học đầu tiên
của Hoa Kỳ dành cho việc nghiên cứu y khoa, được thiết lập năm 1876, tại
Baltimore, Maryland.
27. Bà già bán rau
-Ăn rau không chú ơi, ăn hộ mớ rau đi!
Một giọng khàn khàn, run run của một bà cụ già yếu, lưng còng cố
ngước lên nhìn gã đàn ông, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà
có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
Gã liếc xuống nhìn xuống những mớ rau rồi đáp nhanh: Dạ cháu không
bà ạ! Rồi phóng xe nhanh. Hắn nghĩ, mình thương người thì ai thương mình. Tiếng
vọng của bà cụ vẫn con đó.
Lại có một cô gái nghe bà cụ mời mua rau. Rau như thế thì heo cũng
không thèm ăn, nói chi người. Tiếng chát chua phát ra từ miệng cô.
Rồi có một người đàn ông khác đi đến, nghe thấy thế, liền hỏi giá
bán rau, và mua hết số rau của bà già, nhưng cũng không quên dặn rằng: cho tôi
gửi, khi về sẽ ghé lấy.
Ít hôm sau, người đàn ông ghé lại chỗ bà cụ bán rau. Người ta đang
bàn tán về bà.
Anh hỏi có chuyện gì vậy, bà cụ bán rau đâu rồi?
Họ trả lời: Tội nghiệp bà cụ, già cả rồi, vậy mà hôm nọ có người
mua rau rồi gửi lại, bà cố ngồi chờ để chủ đến lấy rau nhưng chẳng thấy họ đâu
cả. Hôm đó trời lại mưa dữ dội suốt ngày, bà cụ cứ ngồi chờ đợi hoài trong giá
rét. Vì lạnh quá bà già chịu không nổi, nên ngã bệnh và đã qua đời.
28. Phần thưởng Chúa ban cho lòng quảng đại
Bé Tôma (Thomas Carlyle) sáu tuổi ở nhà một mình, bỗng thấy một cụ
già gõ cửa ăn xin. Xúc động vì lời van nài của cụ hành khất. Tôma đem con heo
đất đập ra và đổ hết tiền cắc cho cụ già. Cụ run rung xòe tay đón nhận, và rơm
rớm nước mắt cám ơn. Về sau Tôma trở nên một nhà văn nổi tiếng của nước Anh, có
lần ông kể lại câu chuyện nhỏ này và nói: Chưa bao giờ tôi cảm thấy sung sướng
như lần đó.
Khi chúng ta chia sẻ cho người khác, nhất là khi chia sẻ cho người
nghèo, chúng ta sẽ cảm thấy vui. Đặc biệt là khi sự chia sẻ đòi chúng ta cố
gắng nhiều, chắc chắn chúng ta càng cảm thấy vui hơn. Và niềm vui đó chính là
phần thưởng Chúa ban. Vì Chúa không bao giờ bỏ quên những cử chỉ bác ái của
chúng ta dù nhỏ bé đến đâu chăng nữa.
29. Quà cưới tặng nhau
Mẹ Têrêxa thuật lại câu chuyện như sau: "Một hôm, có một cặp
vợ chồng trẻ đến thăm tu viện và trao tặng cho chúng tôi một khoản tiền lớn,
bảo là để đóng góp vào việc chi phí mua thức ăn cho những người nghèo.”
Ở Calcutta, mọi người đều biết là: Mỗi ngày, tất cả các cơ sở của
dòng Nữ Tử Bác Ái Truyền Giáo chúng tôi phải cung cấp thực phẩm cho khoảng 9
ngàn người. Bởi lẽ đó, không lạ gì hai bạn trẻ này muốn dùng khoản tiền họ trao
tặng vào mục tiêu trên.
Sau khi giải thích, Mẹ Têrêxa kể tiếp: Thấy họ còn quá trẻ, tôi tò
mò hỏi: "Hai con có thể cho Mẹ biết tiền đâu mà hai con có nhiều thế?” Họ
trả lời: "Chúng con vừa cưới nhau hai ngày. Trước ngày cưới, chúng con đã
suy nghĩ nhiều và quyết định không may quần áo cưới, cũng không tổ chức yến
tiệc linh đình. Thay vào đó, chúng con muốn dùng khoản tiền chi phí đám cưới đó
để trao tặng cho những người không được may mắn như chúng con.”
Mẹ Têrêxa cắt nghĩa: "Ở Ấn Độ, đối với một người Hindu thuộc
giai cấp thượng lưu khá giả, đám cưới mà không có quần áo cưới và tiệc cưới là
điều nhục nhã. Vì thế chắc chắn mọi người, nhất là những kẻ có họ hàng với cặp
vợ chồng trẻ đó đã rất lấy làm lạ và cho quyết định của họ là một việc tủi hổ
cho cả hai gia đình đàng trai cũng như đàng gái.”
Để biết rõ thêm, Mẹ Têrêxa hỏi: "Tại sao chúng con lại quyết
định táo bạo như thế, làm phật lòng cha mẹ, họ hàng?” Hai bạn trẻ đó trả lời:
"Chúng con yêu nhau tha thiết, vì thế chúng con muốn tặng nhau một quà
cưới đặc biệt. Chúng con muốn khởi đầu cuộc chung sống của chúng con bằng một
hy sinh mà cả hai đều đóng góp vào.”
30. Tiền cho đi
Có chuyện kể rằng: có một ông nhà giàu nọ căn dặn người nhà của
ông bỏ vào quan tài thật nhiều vàng bạc để khi ông chết đi, ông sẽ có cái mà
tiêu xài. Rồi ngày chết của ông cũng đến. Người ta làm đúng theo những gì ông
căn dặn. Sang thế giới bên kia, ông nhìn thấy cái gì đựơc bày bán cũng hấp dẫn,
nhất là các món ăn. Ông nghĩ rằng phen này tha hồ mà mua sắm và ăn uống thoả
thích. Nhưng lạ thay, những người bán ở đây trả lời với ông rằng: tiền của ông
ở đây không sử dụng được vì ở đây chỉ sử dụng đồng tiền cho đi chứ không xài
tiền thu vào!
Chúng ta đang có đồng tiền loại nào? Chúng ta có dự định sẽ làm gì
để có đồng tiền cho đi. Có một nhà tu đức đã nhắc nhở chúng ta rằng:
Những gì chúng ta tiêu xài sẽ tiêu tán mất,
Những gì chúng ta mua sắm thì người khác sẽ dùng,
Những gì chúng ta tích luỹ rồi sẽ phải để lại cho người khác,
Chỉ có những gì chúng ta cho đi là tồn tại mãi.
31. Cho đi là lãnh nhận
Thi hào Tagore (Ấn Độ) viết một bài thơ kể về một người ăn xin gặp
Đức Vua đi vi hành. Anh mừng thầm vì phen này chắc sẽ được Đức Vua ban tặng.
Nào ngờ, chính Đức Vua lại chìa tay xin anh bố thí. Bối rối, ngỡ ngàng, người
hành khất lấy ra một hạt thóc từ trong cái bị của mình và dâng cho Đức Vua.
Buổi tối về đến nhà anh đổ bị thóc ra thì thấy một hạt vàng lấp lánh nằm giữa
những hạt thóc… Anh đã khóc vì hối tiếc: “Phải chi lúc đó tôi dâng tất cả bị
thóc này cho Đức Vua”!…
Trong đời sống đạo đức, chúng ta chỉ để ý xin Chúa, mà ít để ý đến
những điều chúng ta có thể làm cho Ngài. Tuy nhiên, cũng có những người đã hiểu
và họ đã dâng cho Chúa: có thể là một vài đồng xu hay một nắm gạo, có thể là
tất cả bị gạo và ngay cả mạng sống của chính mình. Còn chúng ta thì sao? Chúng
ta đã dâng gì cho Chúa? Chúa sẽ chẳng bao giờ chịu thua lòng rộng rãi và quảng
đại của chúng ta đâu.
32. Mua ân xá
Tháng 10 năm 1517, theo lời mời của Đức cha Albert Brandenburg,
cha J. Tetzel (1465-1519) dòng Đa Minh mở tuần giảng Ân xá tại Juterbog gần
Wittenberg, nơi Linh mục Luther dạy học. Đức cha Albert là Tổng Giám mục thành
Magdeburg, trước đã kiêm nhiệm địa phận Halberstadt, nay lại nhận thêm Giáo
tỉnh Mainz. Để tổ chức Tòa Giám mục mới, Đức cha Albert đã xin Tòa Thánh cho
giảng Ân xá trong ba địa phận của ngài để quyên tiền. Số tiền thu được một nửa
dành cho Tòa Tổng Giám mục, còn một nửa sẽ dâng cúng vào việc kiến thiết Đền
Thờ thánh Phêrô ở La Mã. Công việc được trao cho các cha dòng Đa Minh, đứng đầu
là cha Tetzel. Lối trình bày của nhà giảng thuyết này đã làm cho nhiều người
tưởng Ân xá có thể mua bằng tiền!
(Trích Lịch Sử Hội Thánh Công Giáo tập II, tr 12, của LM Bùi Đức
Sinh. )
Dĩ nhiên là còn nhiều nguyên nhân khác khiến phát sinh đạo Tin
Lành, nhưng đó cũng là một lối sống Đạo đã làm cớ cho cha Luther chống đối Hội
Thánh và đưa đến ly giáo, thì thật là quá đau lòng!
Chúng ta biết nay có nhiều giáo xứ được vị chủ chăn khuyến khích
mua bằng Ân Nhân, để khi qua đời họ được đặc ân này, ân sủng nọ, thì cũng chẳng
khác gì việc làm của Đức cha Albert như trên.
Có một bà cụ nọ, nghe cha bán Ân Nhân… bà về đòi đứa con gái hai
cây vàng đã mượn của mẹ thời gian trước để làm ăn buôn bán nuôi con. Vì mẹ đòi
gấp nên chị phải đi vay mượn để đưa mẹ mua bằng Ân Nhân, thời gian sau lãi mẹ
đẻ lãi con ngày càng chồng chất suốt 10 năm …! Còn mẹ thì có bằng Ân Nhân khắc
tên trên bảng vàng gắn cuối Nhà thờ!?
Liệu bà mẹ đó khi nhắm mắt xuôi tay có dám khoe với Chúa về bằng
Ân Nhân đó không? Chắc Chúa sẽ bảo: Ngươi đã được danh đời này, thì mất phúc
đời sau (x Mt 6,16t). Nếu bà ta thưa với Chúa: Cha xứ con dạy làm như vậy! …
Nếu Chúa bảo: Gọi cha xứ của ngươi ra đây!…
Vì trách nhiệm của Linh mục không những dạy con chiên làm việc xây
dựng đời này mà còn xây dựng đời họ được hạnh phúc mai sau nữa!
33. Chúa biết
Một người Bàlamôn, vụng về, khờ dại, phạm phải một tội lớn. Có
người khuyên lão, đến tắm nước thánh tại sống Hằng Hà trọn đời, mới hòng giải
thoát. Lão liền giao việc gia đình cho con, một mình mang chiếc chậu tắm và cái
gậy đến sông Hằng Hà làm lễ thống hối.
Đi được mấy ngày, đến bên một con suối, mùa hè nước cạn hết, lão
nghĩ bụng: nhất định đây là sông Hằng Hà thiêng liêng. Lão tu hành ở bên bờ
khe, hằng ngày đi tìm chỗ có nước để tắm rửa. Cứ làm như thế trong 5 năm trời.
Một hôm có một đạo sỹ đi qua thấy vậy liền bảo: "Ông còn ở
đây làm gì mãi?" Lão trả lời: "Để sám hối, rửa sạch tội lỗi, nên tôi
phải đến sông Hằng Hà này.” Đạo sỹ cười: "Ta sống từng này tuổi, mà chưa
thấy trên đời có ai ngu như ông, ông thật đáng thương, kẻ nào nó lừa dối ông
như thế, sông Hằng Hà cách đây còn mấy trăm dặm nữa."
Người Bàlamôn cảm ơn đạo sỹ, rồi vội vàng mang chậu gậy đi nơi
khác. Đi một thời gian, ông lại gặp một con sông, ông mừng reo lên: "A!
Đây nhất định là sông Hằng Hà thiêng liêng!" Lão lại ở cạnh sông đó 5 năm
nữa. Ngày nào cũng xuống sông tắm rửa.
Một hôm có một đạo sỹ khác bắt gặp và hỏi "Tại sao ông lại
phí thời gian mà dừng lại tại con sống tầm thường này, mà không đi đến sống
Hằng Hà?"
Lão kinh ngạc: "Ồ! Thế ra sông này cũng không phải là sông
Hằng Hà ư?"
Đạo sỹ nói: "Hằng Hà! Ông đã đem chó rừng sánh với sư tử… Ông
còn chiêm bao hẳn."
Bấy giờ lão hết sức ngạc nhiên và nói: "Đạo sỹ đáng kính! xin
cảm tạ ngài, rất may, hôm nay được gặp Ngài."
Lão lại mang chậu và gậy đi nơi khác, cuối cùng, lão đã tới sông
Marmada. Lão nghĩ bụng: sông Hằng Hà đây rồi, lão rất mừng, lại sống bên sống
Narmada 5 năm, mỗi ngày xuống sông tắm nước thánh.
Một hôm, lão thấy một người hành hương, ném hương hoa, lễ vật
xuống sông, miệng lầm rầm khấn tên sông Narmada.
Đến trước người ấy, lão nói: "Thưa quý khách, sông này gọi là
sông gì?"
Người hành hương nói: "Ông không biết đây là con sông linh
thương Narmada ư?"
Lão thở dài nói: "Vị quý khách thật đã mở mắt cho tôi."
Đoạn rời đi nơi khác.
Tới lúc này thì lão đã quá già yếu, do một thời gian tu hành khổ hạnh
quá lâu, thân thể, tinh thần suy nhược lắm rồi. Cả ngày, lão cố gắng bước dưới
ánh mặt trời gay gắt và giẫm lên cát nóng bỏng, đến nỗi toàn thân phát sốt.
Ngày càng ốm nặng. Nhưng lão vẫn gượng bước đi cho tới lúc lão ngã
gục xuống; rồi lão gắng hết hơi hết sức tàn của mình, trèo lên một cái gồ cao.
Chao ôi! trước mặt lão sông Hằng Hà hiện ra, oai linh và mầu nhiệm. Hai bên bờ
sông và giữa dòng không biết bao nhiêu là thiện nam tín nữ. Lão bèn kêu lên:
"Ôi! Đức Mẹ Hằng Hà của con, con đem cả công sức suốt một đời người, để
tìm mẹ. Thế mà nay con phải chết gục ở đây, trước mặt mẹ!"
Tim lão vỡ nát, lão thở cuối cùng, mà không bao giờ được tắm nước
sông Hằng Hà!
Lão xuống âm phủ.
Diêm Vương truyền hỏi thần Minh Hộ: "Tên kia phạm tội
chi?"
Thần Minh Hộ tâu: "Hắn phạm tội rất nặng, nhưng nhờ tu hành
khổ hạnh tắm nước sông Hằng Hà mười năm năm, nay được giải thoát."
Hồn người Bàlamôn ngạc nhiên nói: "Tâu Diêm Vương, ngài lầm
rồi, tôi chưa được đến tu ở sông Hằng Hà đâu!"
Diêm Vương mỉm cười.
Truyện này trích trong tập truyện "20 đêm hỏi đáp (Prem
Xagar)" của Ấn Độ. Khi kể truyện xong, Rơxkôsơ đố công chúa Anangaraga,
một công chúa thông minh và khôn ngoan tuyệt vời "Thưa công chúa, tại sao
Diêm Vương lại mỉm cười"
Công chúa đã trả lời rất đúng như sau "Diêm Vương minh mẫn,
không hề lầm lẫn, mà thần Minh Hộ cũng không thể mắc lừa được. Nếu tu hành với
thái độ giả dối, dù ở cạnh sông Hằng Hà suốt đời chăng nữa, thì cũng không phải
là sám hối thật. Người Bàlamôn chất phác đáng thương ấy, khi tu hành cứ tin rằng
mình đang ở bên sông Hằng Hà, bởi vậy Đấng Tối Cao đã chứng tri và cho hưởng
quả phúc thực sự. Người đời thường hay đoán xét theo cám giác bên ngoài, và bị
lừa, còn thần thánh thì căn cứ vào tấm lòng thực, dối mà phê phán."
Ta hãy thành thực dâng mọi việc ta làm cho Chúa, việc to, việc
nhỏ, việc coi vẻ rất tầm thường, cũng như công việc được mọi người chú ý. Và
điều quan trọng là ta hãy thầm nói với Chúa: ta làm mọi việc đó vì Chúa, sáng
danh Chúa, chứ không phải vì danh vọng hão huyền cho riêng ta.
34. Tặng vật của tấm lòng
Một trong những bộ phim nổi tiếng của Mỹ được sản xuất năm 1959 do
đạo diễn William Wyler dàn dựng, là bộ phim mang tên Benhur. Nhân vật chính của
bộ phim là Benhur, một chàng trai La Mã bị bắt làm nô lệ khổ sai vì tội mưu
sát.
Một lần kia, Benhur bị áp giải đi cùng các tù nhân khác giữa trời
nắng như thiêu như đốt. Cơn khát đã giày vò thể xác chàng, khiến chàng gục
xuống. Ngay lúc ấy, một bóng người đã tiến đến nhẹ nhàng trao cho chàng chén
nước. Uống nước xong, Benhur ngước mắt lên và nhìn thấy người cho nước là một
người Do Thái có khuôn mặt rất nhân từ.
Trải qua những năm tháng làm nô lệ, Benhur vượt qua những thử
thách, trở thành một nô lệ tài giỏi, có sức lực hơn người, chiến thắng trong
những cuộc tranh tài, nên được trả tự do.
Trên đường về quê, Benhur chứng kiến một đám quân lính đang dẫn
một phạm nhân vác thập giá đi xử tử. Với cây thập giá nặng nề, với những đòn
roi đau đớn, người tử tội ngã xuống đất. Benhur nhận ra đó chính là người đã
cho mình nước uống trước đây. Chàng bèn đi kiếm một chén nước và chạy đến trao
cho người ấy. Người tử tội uống nước xong, đã nhìn Benhur với ánh mắt đầy sự
biết ơn. Người tội đồ đó chính là Chúa Giêsu thành Nagiarét.
Bộ phim “Benhur” đã dựa vào Phúc Âm để tạo ra một tình tiết hư
cấu: Chúa Giêsu trao tặng cho Benhur chén nước và Benhur cũng trao lại cho Chúa
Giêsu một chén nước. Hình ảnh chén nước được trao tay là một hình ảnh thật đẹp
đẽ trong bộ phim. Nhưng qua hình ảnh đó, chúng ta còn nhận ra một điều khác:
Chúa quý trọng những tặng vật của tấm lòng: chén nước lã chẳng là gì, nhưng
thật cao quý vì nó xuất phát từ lòng thương cảm và sự từ tâm.
35. Đổi đồng tiền lấy mạng sống
Trong một buổi xử tử, tên tử tội được dẫn đến trước mặt Đức vua
trước khi bị treo cổ. Đức vua nói: “Ta cho ngươi một ân huệ cuối cùng. Vậy,
trước khi chết ngươi ước muốn gì?” Tên tử tội rút trong túi ra một đồng tiền,
trao cho nhà vua và nói: “Tâu Đức vua, khi tôi còn nhỏ, cha tôi đã cho tôi đồng
tiền này và nói tôi hãy giữ lấy, vì nó sẽ đem lại may mắn cho tôi. Nhưng cho
đến giờ phút cuối cùng của đời tôi đây, đồng tiền khốn khổ này cũng chưa giúp
ích gì cho tôi. Xin Đức vua hãy cho người trao nó lại cho cha tôi và nói tôi
vĩnh biệt ông ta.”
Vừa cầm lấy đồng tiền, nhà vua kêu lên mừng rỡ: “Ồ! đây chính là
đồng tiền cổ quý giá mà Ta đã nhọc công tìm kiếm bấy lâu nay. Nó chính là đồng
tiền cuối cùng trong bộ sưu tập tiền cổ quý giá của Ta. Vậy, ngươi có muốn dâng
hiến đồng tiền này cho Ta để đổi lấy mạng sống của ngươi không?” Tên tử tội
đồng ý và án tử hình được hủy bỏ.
Những đồng tiền nhỏ bé đó là gì nếu không phải là những hy sinh
quên mình âm thầm mà chúng ta góp nhặt từng ngày trong cuộc sống? Những đồng
tiền nhỏ bé đó là gì nếu không phải những nghĩa cử yêu thương, chia sẻ, bác ái
chúng ta thực hiện nơi tha nhân? Chỉ có Chúa mới nhìn đến và đánh giá cao những
đồng tiền nhỏ bé thiêng liêng đó mà thôi.
36. Hy sinh là bảo chứng của tình yêu
Một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một
người bạn để nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu
với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước,
cơn đau đẻ quặn lên trong chị. Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa.
Chị bò người phía bên dưới cầu.
Giữa những chân cầu, chị đã đơn độc sinh ra một bé trai.
Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt
gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đứa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một
cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và nằm lả
bên cạnh con.
Sáng hôm sau, một phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng
chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà nghe một tiếng khóc yếu ớt bên
dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng
vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng.
Bà đem đưa bé về nuôi dưỡng. Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi bà
kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào sinh nhật lần thứ 12, dịp lễ Giáng
sinh, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp.
Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện.
Cậu đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà
sững sờ thấy cậu lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.
"Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả - bà mẹ nuôi nghĩ - cậu
sẽ lạnh cóng!" Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy.
Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe
cậu gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết mặt: “Mẹ đã lạnh hơn con lúc này,
phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc.
37. Di sản vô giá của cô bé
Chuyện xảy ra ở Mỹ đã lâu: Một cô bé đang đứng thổn thức bên ngoài
một ngôi nhà thờ nhỏ. “Con không vào được lớp học Chúa Nhật,” cô bé nức nở nói
với vị linh mục vừa đi tới. Nhìn bộ dạng tiều tụy, nhếch nhác của cô bé, vị
linh mục hiểu ngay ra nguyên do, và cầm tay cô bé dẫn vào trong, tìm cho cô một
chỗ trong lớp học.
Khoảng 2 năm sau đó, cô bé đã chết trong một chung cư tồi tàn. Cha
mẹ của cô bé gọi điện cho vị linh mục - người đã trở nên rất thân thiết với cô
bé - đến chủ trì lễ tang và trao cho ngài chiếc ví rách nát của cô bé, trong đó
có 57 xu và một tờ giấy nhàu nát với dòng chữ nguệch ngoạc: “Để giúp đỡ cho
nhiều đứa trẻ hơn có thể đến Lớp học ngày Chúa Nhật.”
Đó là kết quả 2 năm trời dành dụm hy sinh vô vị lợi của cô bé:
những đồng xu chứa đựng cả tấm lòng vàng; vì thế, cũng như “đồng tiền bà goá,”
cô đã “bỏ vào thùng tiền nhiều hơn ai hết.”
38. Cho thì có phúc hơn là nhận
Trong bài diễn văn nhận giải Nô-ben Hòa Bình năm 1979, Mẹ Têrêxa
kể câu chuyện cảm động như sau: “Một ông nọ đến nhà chúng tôi và bảo: ‘Mẹ
Têrêxa à, có một gia đình 8 con; họ không có gì ăn lâu rồi; Mẹ làm điều gì đi!’
Thế là tôi lấy một ít gạo rồi lập tức đi đến đấy. Tôi thấy mấy em bé với cặp
mắt ánh lên vì đói…
“Bà mẹ cầm lấy gạo, chia ra hai phần, rồi đi ra ngoài. Khi bà trở
về, tôi hỏi bà: ‘Bà đi đâu vậy?’ Bà đơn sơ trả lời: ‘Họ cũng đói.’ Điều làm tôi
ngạc nhiên thích thú nhất là bà ấy biết họ là ai - là một gia đình Hồi Giáo -
bà ấy biết rõ. Tôi không đem thêm gạo tối hôm ấy vì tôi muốn để cho họ hưởng
trọn niềm vui chia sẻ.”
39. Điều ở bên trong
Một hôm, hoàng tử gọi vào đền vua một người lái buôn chuyên nghề
bán ngựa. Ông ta dẫn đến trước mặt hoàng tử hai con bạch mã đã được huấn luyện
rất kỹ để hoàng tử kén chọn. Bề ngoài, hai con ngựa trông giống hệt nhau, nhưng
con này lại gấp đôi giá con kia. Hoàng tử liền gọi các quan cận thần đến mà
bảo: “Ta có thể tặng hai con ngựa này cho ai giải thích cho ta biết tại sao con
ngựa này gấp đôi giá con ngựa kia?”
Các quan cận thần đến gần hai con ngựa và quan sát thật kỹ, nhưng
không một ai nhận ra có điều gì khác biệt. Thấy vậy, hoàng tử cho gọi hai người
lính hầu đến và sai họ cưỡi trên hai con ngựa, hy vọng rằng các quan cận thần
sẽ nhận ra giá trị của mỗi con. Sau mấy vòng phóng ngựa chung quanh sân, không
ai trong các quan nhận ra sự khác biệt về giá trị của hai con ngựa. Cuối cùng,
hoàng tử phải lên tiếng giải thích: “Chắc các người đã nhận ra rằng: trong khi
ngựa chạy quanh sân, con ngựa thứ nhất không để lại dấu vết đằng sau, nó chạy
nhẹ nhàng như bay. Trái lại con ngựa thứ hai để lại lớp bụi bay ngợp trời.
Chính vì lý do đó mà con ngựa thứ nhất có giá gấp đôi con ngựa thứ hai.”
Chúng ta thường tán thưởng những người khua to nói lớn, người
thành công trên đường đời, người nổi tiếng, người được dân chúng mến chuộng, vỗ
tay khen ngợi, mà quên khám phá ra giá trị của những các hay, cái đẹp, được
giấu kín trong thầm lặng, trong cái vỏ giản dị bên ngoài.
40. Chia sẻ để lớn lên
Bác sĩ truyền giáo Albert Schweitzer đã nói trong một cuộc phỏng
vấn: “Tôi đã nhận ra sự giúp đỡ, hiểu biết, lòng can đảm, sự dịu dàng và khôn
ngoan mà nhiều người dành cho tôi quan trọng đến mức nào. Những người nam và
những người nữ này đã đi vào cuộc đời tôi và tạo nên sức mạnh trong tôi, nhưng
họ không bao giờ biết được điều đó, cũng như không nhận thức được tầm quan
trọng thực sự mà sự giúp đỡ của họ mang lại.”
Những gì Schweitzer nói về những người đã gây xúc động sâu xa cho
ông, chúng ta cũng có thể nói như thế về Thiên Chúa. Thiên Chúa đi vào cuộc đời
chúng ta và trở nên nguồn sức mạnh trong chúng ta. Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa
tất cả những gì chúng ta có được do lòng nhân hậu của Ngài.
Tôi có ca tụng và kính trọng Thiên Chúa vì những gì Ngài đã làm
cho tôi không?
Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy
những công việc tốt đẹp của anh em mà tôn vinh cha anh em, Đấng ngự trên trời.”
(Mt 5,16)
41. Hướng về đời sau
Cuốn “Tập sách các vấn nạn” của George Stock được viết nên từ
nhiều câu hỏi. Đó không phải là những câu hỏi vặt vãnh, như: “Tên con ngựa của
Tonto là gì?” Đúng hơn, đó là những câu hỏi rất nghiêm túc, như: “Tôi có thường
dừng lại và suy nghĩ xem tôi đang sống thế nào và đang hướng về đâu không?”
“Cảm nhận về cái chết đã ảnh hưởng đến cách sống của tôi ra sao?”; “Nếu một
tinh cầu có thể nói cho tôi về một điều gì đó về cuộc đời hoặc tương lai của
tôi, thì tôi muốn biết điều gì?”
Tôi có thể trả lời những câu hỏi này ra sao? Thiên Chúa muốn nói
gì với tôi qua những câu hỏi như thế?
Cái chết không làm tôi sợ hãi, vì linh hồn tôi vĩnh hằng, không
bao giờ chết. Linh hồn tôi cũng giống như mặt trời, mà với cái nhìn giới hạn từ
trái đất, thì nó lặn đi mỗi tối, nhưng thực ra nó không bao giờ lặn.
42. Quý hơn ngọc
Trong khi đi dọc theo bãi biển hoang vu, một người đạo đức Ấn độ
tìm được một viên ngọc. Một phụ nữ nghèo thấy ông nhặt được viên ngọc và đã hỏi
xin. Con người đạo đức này đã đưa viên ngọc cho chị ta một cách vui vẻ. Người
phụ nữ đi khỏi và nghêu ngao hát vì sung sướng. Giờ đây bà đã được giàu có. Một
tuần sau, người phụ nữ trở lại và trả viên ngọc quý cho người đàn ông nọ và
nói: “Hãy cho tôi cái quý giá hơn cả viên ngọc. Hãy cho tôi cái đã làm cho ông
có thể cho tôi viên ngọc một cách vui vẻ.”
Cái gì đã làm cho con người đạo đức này có thể cho đi một cách vui
vẻ?
Điều bạn cho đi khi khỏe mạnh là vàng
Điều bạn cho đi lúc ốm đau là bạc
Điều bạn cho đi sau khi chết là đồng. (Ngạn ngữ Do thái)
43. Tình yêu trổ sinh tự do
Có một chủ tiệm ở Utah bắt được một con đại bàng và để nó trong
cửa hàng để thu hút khách. Một ngày nọ, một cụ già từ trên núi xuống. Cụ vào
cửa hàng thấy con đại bàng và hỏi xem nó giá bao nhiêu. Ông chủ tiệm đưa ra một
cái giá cắt cổ. Cụ già đến ngân hàng rút tiền để mua con đại bàng rồi thả nó
ra. Khi một cô bé hỏi tại sao cụ lại bỏ một khoản tiền lớn như thế chỉ để giải
thoát con đại bàng, thì cụ già trả lời: “Của cải không phải là những gì chúng
ta có, mà là những gì chúng ta cho đi để làm việc thiện cần phải làm.”
Tôi sẵn sàng cho đi những gì để làm những việc thiện cần làm?
Tiền bạc là một ông chủ bất lương, nhưng lại là một đầy tớ tuyệt
hảo (F. T. Barnum).
44. Giúp người đồng hương (Cao Huy Hoàng)
Uống nước trước Bệnh Viện Tim Việt-Pháp, bạn có thể gặp cả trăm
người từ miền Trung vào buôn bán nhỏ. Trước mắt tôi, một chị khoảng 45 tuổi,
người Quảng Ngãi, bán bánh tráng, lạc rang, gặp người quen ở quê vào chữa bệnh
tim cho con. Sau mấy câu thăm hỏi, chị dúi vào tay chị bạn 80.000 đồng: “Em gửi
cho cháu vài hộp sữa. Cầm đi chị, mang tiếng vào Sàigòn làm ăn, nhưng một ngày
của em chỉ được chừng ấy.” 80.000 so với ca mổ tim vài chục triệu thì có thấm
vào đâu. Nhưng chị kia nắm tiền trong tay mà rưng rưng nước mắt. Tôi tò mò đi
theo chị đã làm từ thiện dò hỏi, mới biết, chị vào trong nầy thuê nhà trọ ở
chung với con gái đi học đại học. Một là “trông nom con gái, sợ xa cha mẹ ở đất
Sàigòn này dễ hư lắm anh ạ”, hai là “kiếm thêm và để dành đóng tiền nhà và tiền
học phí cho con..”. “Mẹ con em quen ăn mì tôm rồi anh ạ. Ăn mì tôm vài hôm thì
cũng dư ra được gần trăm ngàn.” Hỏi chị theo đạo nào, chị nói: “Nhà em không
theo đạo nào cả, thờ Ông Bà.”
CNTN 32C -
Lời Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ HAI - BỔN PHẬN VỚI ĐỒNG LOẠI
Lời Chúa: Lc 17, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không thể nào
mà không xảy ra gương xấu, nhưng vô phúc cho kẻ nào gây ra gương xấu. Thà nó bị
cột cối đá vào cổ mà ném xuống biển còn hơn là làm gương xấu cho một trong những
trẻ nhỏ này.
"Các con hãy cẩn thận: nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy
răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm
đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: "Tôi hối
hận", thì con hãy tha thứ cho nó."
Các Tông đồ thưa với Chúa rằng: "Xin Thầy ban thêm lòng tin
cho chúng con." Chúa liền phán rằng: "Nếu các con có lòng tin bằng
hạt cải, thì dẫu các con khiến cây dâu này rằng: "Hãy tróc rễ lên và xuống
mọc dưới biển", nó liền vâng lời các con."
TRUYỆN KỂ
1. Sống Là Liên Ðới
Trong tác phẩm "Hãy Giúp Nhau Làm Lại Cuộc Ðời", xuất
bản đầu thập niên 60, ông Henri Vicardi, người sáng lập cơ xưởng chuyên giúp
những người tàn tật tự lực cánh sinh kể lại rằng: cơ xưởng do ông sáng lập năm
1952, khởi sự với một công nhân bị tê bại, làm việc trong một nhà xe bỏ trống,
lụp xụp. Nhưng chỉ một năm sau, xưởng đã trở nên một cơ sở kinh doanh với số
vốn cả triệu Mỹ kim và thu dụng đến 300 công nhân. Mỗi công nhân đều có một mẫu
truyện cảm động về con người xây dựng lại cuộc đời từ sự tàn tạ của mình.
Ðiển hình là trường hợp của Jim Chapin, một người bị tê liệt từ
thắt lưng trở xuống vì một chiếc bướu ở xương sống. Ngay sau khi được khiêng từ
bàn giải phẫu xuống, các Bác sĩ đã tuyên bố ông sẽ sống nhưng không làm gì được.
Thế nhưng các Bác sĩ đã lầm: năm đó Jim Chapin đã 62 tuổi, tuy không rời được
khỏi xe lăn, ông đã tìm đến cơ xưởng của ông Henri và bắt đầu làm lại cuộc đời.
Ông cho biết rằng ông rất hãnh diện về khả năng của mình và nhất quyết không
chịu trở lại với đời sống ỷ lại và vô vọng nữa.
Câu truyện trên đây là một bằng chứng hùng hồn rằng dù tàn tật đến
đâu, mỗi người vẫn là một giá trị độc nhất vô nhị trên cõi đời này, và do đó có
trách nhiệm đối với chính bản thân cũng như hữu dụng cho người khác và có trách
nhiệm đối với người khác.
2. Chối Bỏ Trách Nhiệm
Cựu tổng thống Phi Luật Tân, ông Joseph Estrada đã gặp nhiều chống
đối trong nước theo sau tiết lộ của một tổng trưởng thân thiết của ông về số
tiền hối lộ ông đã nhận được từ các tổ chức cờ bạc. Hẳn lúc đó vẫn còn nhiều
người ủng hộ ông, nhưng con số bất mãn trong mọi giai tầng xã hội, từ giới kinh
doanh, chính trị gia, sinh viên học sinh, cho đến cả người nghèo, ngày càng gia
tăng. Ông khó có thể lấy lại sự ủng hộ mà những người dân nghèo đã dành cho ông
trước đây.
Trong một quốc gia có đa số dân theo công giáo, ảnh hưởng của Giáo
Hội Công Giáo vẫn còn rất lớn và luân lý đạo đức vẫn còn là chuẩn mực để đánh
giá sự lãnh đạo. Ðây là điều mà người tiền nhiệm của ông, cựu tổng thống Fidel
Ramos đã nói thẳng với ông Estrada khi còn tại chức: "Hoặc là tổng thống
phải từ chức trước lễ Giáng Sinh, hoặc là ông phải chỉnh đốn lại cách sống của
ông." Ông Ramos nói như sau: "Tổng thống Estrada phải trước tiên sửa
đổi bản thân bằng cách thay đổi nếp sống vô kỷ luật và cách làm việc thiếu
trách nhiệm."
3. Sống chứng nhân thì hơn là thày dạy
Trong Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, số 41 của Đức Thánh Cha
Phaolô VI, có viết: “Người đương thời sẵn sàng lắng nghe những nhân chứng hơn
là những thầy dạy, hoặc nếu họ có nghe thầy dậy, thì bởi vì chính thầy dạy cũng
là những nhân chứng." Như vậy, chúng ta có quyền nghĩ rằng: nếu đời sống
chứng nhân có tác dụng rất tốt trong việc loan báo Tin Mừng, thì ngược lại,
không có gì nguy hại cho bằng đời sống phản chứng nơi người Kitô hữu!
4. Tuyên xưng đức tin trong cuộc sống.
Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực
hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu
tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng; trước đây anh vẫn luôn
luôn quỳ gối đọc kinh, liệu bây giờ vào quân ngũ rồi có nên tiếp tục quỳ gối
không?
Lúc đầu anh cảm thấy ngượng ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Tại sao
chỉ vỉ sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại thay đổi cách sống? Bộ mình vừa
khởi đầu cuộc sống xa nhà là đã để cho thiên hạ sai bảo phải nên làm và không
nên làm điều này điều nọ sao”?
Nghĩ thế, anh liền quyết định cứ tiếp tục thói quen quỳ gối xuống
đọc kinh. Khi vừa đọc kinh xong, lập tức anh nhận ra mọi người đang để ý anh,
và khi làm dấu Thánh giá, anh chợt nhận ra lúc ấy họ mới biết anh là một người
Công giáo. Và xẩy ra là trong toàn trại lính chỉ có một mình anh là người Công
giáo. Tuy nhiên, hằng đêm, anh vẫn quỳ gối cầu nguyện. Anh nói rằng, mười phút
cầu nguyện ấy thường dẫn đến những cuộc tranh cãi kéo dài hàng giờ.
Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đến nói với anh:
- Anh là người Kitô hữu tốt nhất mà tôi gặp.
Anh liền đáp lại:
- Có thể tôi là người Kitô hữu dám công khai biểu lộ đức tin của
mình, nhưng tôi nghĩ, tôi không phải là người Kitô hữu tốt nhất đâu. Dầu sao
tôi cũng xin cám ơn bạn về điều bạn vừa nói.
5. Sống đức tin là tha thứ
Sau đây là cuộc đối thoại ngắn giữa một Linh mục với một người nọ:
- Anh hãy tha thứ cho bà ta đi.
- Vâng, lần này con tha. Nhưng nếu bà ta tái phạm lần nữa thì đừng
hòng.
- Vậy anh có muốn Chúa cũng nói với anh như thế khi anh đi xưng
tội không?
-........
Kiên trì chấp nhận nhau và liên tục tha thứ: đây cũng là một hình
thức căn bản của nếp sống bác ái cộng đoàn. ‘Giới hạn của tha thứ là thứ tha vô
giới hạn’.
6. Lối xóm huấn luyện tội phạm
Nghe tin thằng “Hiền bụi đời” sắp về lại cái xóm nhỏ này sau thời
gian khá dài trong trại giam, thỉnh thoảng người ta lại nghe tiếng búa, tiếng
đục, cưa của một nhà nào đó đang sửa lại cửa nẻo.
Hôm ấy hắn trở về với khuôn mặt rạng rỡ của kẻ chuẩn bị bước vào
một cuộc sống mới tốt đẹp. Dường như mọi thứ đều thay đổi trong mắt hắn. Vui
vui, hắn tiến về phía Dì Năm bán hủ tiếu, nơi đang diễn ra câu chuyện sôi nổi.
Nhưng rồi nụ cười của hắn chưa kịp nở đã vội tắt ngấm. Mọi người im bặt khi hắn
tới. Những ánh mắt dè chừng, những nụ cười gượng gạo, cáo lui. Không lâu sau
đó, hắn lại bị bắt vì một vụ cướp của. Trong khẩu cung, hắn khai: “… Vì muốn
trả thù đời."
Mỗi ngày của tôi cũng có không ít những cái liếc mắt, bỉu môi
trước niềm vui khám phá của người bạn, những cái cười mỉa mai, không phục…
7. Khổng Minh thất cầm Mạnh Hoạch
Những ai đọc truyện “Tam Quốc Chí” không thể không nhớ tích chuyện
“Khổng Minh thất cầm Mạnh Hoạch.” Để thu phục Mạnh Hoạch, thủ lãnh một bộ tộc hùng
mạnh ở Vân Nam, Khổng Minh dùng mưu kế bắt sống ông ta rồi lại tha về, để cho
ông chiêu mộ binh mã đánh trận phục thù. Cứ như thế, bảy lần bị bắt rồi lại bảy
lần được tha, Mạnh Hoạch khẩu phục tâm phục, trở thành chư hầu trung thành của
nhà Thục Hán.
Đối với Thiên Chúa thì sự so sánh như thế vẫn tỏ ra bất cập. Ngài
là Đấng vô cùng thánh thiện, bất kỳ sự xúc phạm nào đến Ngài cũng là vô cùng
nặng nề. Vì thế khi Ngài tha thứ cho chúng ta nhờ giá máu châu báu của Người
Con Chí Ái của Ngài, thì sự tha thứ của Ngài là không giới hạn. Chúa Giêsu dạy:
là con cái của Thiên Chúa, chúng ta phải tha thứ cho nhau như Thiên Chúa đã tha
thứ cho chúng ta: “Dù người anh em xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi
bảy lần trở lại nói với anh: ‘Tôi hối hận,’ thì anh cũng phải tha cho nó.”
Theo tính tự nhiên, tha thứ không phải là chuyện dễ dàng, thậm chí
lắm khi không thể được. Thế nhưng một khi Con Thiên Chúa đã chết để tha thứ
những gì chúng ta xúc phạm đến Ngài thì việc tha thứ cho nhau đã trở thành điều
có thể làm và hơn nữa buộc phải làm. Vậy mỗi khi có ai xúc phạm đến bạn, hãy
nhìn lên thánh giá để nhớ rằng nơi đó mình đã được tha thứ để chính mình cũng
mở lòng ra mà tha thứ cho anh chị em.
8. Tiên trách kỷ, hậu trách nhân
Vào khoảng giữa thế kỷ trước, có một vị Linh mục già thánh thiện
sống ở Wimpfen, vùng Westphalie. Mỗi tối, khi mặt trời lặn, Ngài có thói quen
đi ra nghĩa địa và ở đó lần một chuỗi cầu cho các linh hồn ở luyện ngục. Ngày
kia, một người bạn của Ngài hỏi lý do việc tối nào ngài cũng đi ra nghĩa địa như
thế, và đây là câu trả lời:
- Tôi đã làm cha sở họ đạo này lâu năm, và biết đâu do lỗi của tôi
khi không làm gương tốt, khi không chu toàn những gì tôi phải làm, tôi đã mang
lỗi với những người bây giờ đang nằm dưới lòng đất lạnh này. Tôi sợ phải trả những
khoản nợ ấy sau khi chết, do đó mỗi ngày tôi phải lần hạt cho những người đang
nằm ở đây, để nhờ hành vi bác ái này cầu cho các linh hồn trong luyện ngục, đền
bù các thiếu sót mà tôi có thể đã phạm...!
Không nên than trách kẻ khác, nhưng hãy tự kiểm điểm đời sống
mình.
9. Châm ngôn sống đức tin của Mẹ Têrêxa
Ðây là câu châm ngôn Mẹ Têrêsa để lại như linh đạo cho các Nữ tu
thừa sai bác ái, như nền tảng của các hoạt dộng của Tu hội." Thành quả của
sự yên lặng là lời cầu nguyện - Thành quả của lời cầu nguyện là đức tin. Thành
quả của đức tin là tình yêu. Thành quả của tình yêu là phục vụ. Thành quả của
phục vụ là hòa bình."
Cuộc sống đức tin sẽ có ảnh hưởng rất tốt đối với đời sống cộng
đoàn.
Những người trong tập thể Giáo Hội hãy cố gắng củng cố lòng tin cho
mình và cho nhau. Nếu có lòng tin thì mọi sự sẽ tốt đẹp và sẽ làm được những
điều phi thường.
10. Hạnh phúc là được tự do để yêu thương
Ông Voltaire tin tưởng vào thuyết vô thần, nên ông nhạo báng người
Công Giáo bằng truyện ông dệt nên:
Jupiter là thần tối cao trong vũ trụ, lần kia Jupiter gọi anh
Oresto đến nhắc nhở:
- Này Oresto, ngươi có biết ta là ai không?
Oresto cười chế nhạo và nói:
- Ông muốn nói ông là Chúa của tôi chứ gì? Tôi nói cho ông biết,
ông là Chúa của ai mặc ông, nhưng tôi cấm ông không được nhận là Chúa của tôi.
Jupiter đập bàn thịnh nộ quát:
- Đồ khốn kiếp, ta không dựng nên mày, thì ai đã dựng nên mày?
Oresto nghiêm sắc mặt, chỉ thẳng vào mặt Jupiter:
- Ừ, thì tôi cứ tạm nhận ông là Chúa của tôi, nhưng ông quá ngu
đần khi dựng nên tôi, ông để cho tôi có tự do, nên tôi có quyền phủ nhận ông,
tôi không thể gọi kẻ ngu đần là Chúa của tôi được!
Vậy kẻ nào gây cớ vấp phạm như ông Voltaire, chắc chắn bị Đức
Giêsu lên án: “Buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển” (Lc 17,2a).
Bởi thế giáo huấn Công Đồng Vat II trong Hiến Chế Vui Mừng và Hy
Vọng số 17 dạy: “Tự do của con người vì tội lỗi làm tổn thương, nên chỉ nhờ ơn
Chúa trợ lực, mới có thể thực hiện việc hướng về Thiên Chúa cách hoàn toàn sống
động.” Vì ai cũng phải cần ơn Chúa trợ lực, nên thánh Phaolô nhắc cho giới lãnh
đạo đừng lạm dụng quyền tự do mà gây cớ vấp phạm: “Kỳ mục phải là người không
ai chê trách được, chỉ có một đời vợ, con cái cũng tin đạo và không mang tiếng
là sống phóng đãng hay bất phục tùng. Kỳ mục không được nóng tính, không nghiện
rượu, không hiếu chiến, không tìm kiếm lợi lộc thấp hèn; trái lại phải hiếu
khách và yêu chuộng điều thiện,chừng mực, công chính, thánh thiện, tự chủ. Có
như vậy mới hy vọng được sự sống đời đời” (Tt 1, 1-9: BĐ năm chẵn).
11. Quên mình để nhận lãnh
Một người đi ăn xin đến gõ cửa nhà ông trọc phú, không may vào lúc
ông vừa mới thua canh bạc trở về, ông nhổ một bãi bọt vào mặt người xin. Người
ăn xin quá tức giận luôn thủ sẵn cục đá trong bị chờ thời cơ trả thù. Qua thời
gian dài mà ông chưa tìm được cơ hội thuận tiện.Nhưng khi ông ngộ ra mình dại
nên quẳng cục đá đi, bỏ ý định trả thù, từ bấy giờ tâm hồn trở nên thanh thản.
Thánh Clêmentê khi đi xin của bố thí về nuôi kẻ mồ côi, cũng gặp
cảnh huống này. Nhưng Thánh nhân bình tĩnh rút khăn lau bãi bọt trên mặt và nhẹ
nhàng nói: “Thưa ngài đây là phần quà ngài mới tặng tôi, còn phần của những đứa
trẻ mồ côi thì Ngài chưa cho.” Người giàu quá xấu hổ, hôm đó ông đã gởi tặng
Thánh nhân một số tiền, mà Clêmentê chưa thấy ai cho nhiều như vậy!
12. Mọi người là anh em
Thánh Phanxicô thường mô tả mặt trời và mặt trăng như anh em và
chị em. Điều đó có vẻ xa lạ với cách suy nghĩ của chúng ta. Hấp thụ nền khoa
học Tây Phương, chúng ta được huấn luyện để xem mọi thứ khác nhau ra sao. Nếu
được hấp thụ nền khoa học khác, chúng ta lại được huấn luyện để xét mọi sự vật
giống nhau thế nào. Thánh Phanxicô nhận thấy tất cả đều đến từ bàn tay Thiên
Chúa và được liên kết với nhau do quyền năng của Ngài. Tất cả công trình sáng
tạo là sản phẩm của tình yêu Thiên Chúa và là một thành phần của đại gia đình
Thiên Chúa. Vì vậy, thánh nhân diễn tả mọi tạo vật như là “anh em” và là “chị
em.”
Tôi cảm nhận được mối quan hệ thân thuộc nào vào công trình sáng
tạo của Thiên Chúa? Công trình sáng tạo nào nói về Đấng Tạo Hóa hơn cả? Và nói
lên điều gì với tôi?
Kế hoạch của Thiên Chúa khi thời gian đến hồi viên mãn, là qui tụ
mọi loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Chúa Kitô (Ep 1,10)
13. Chọn cửa hẹp
Lực lượng hải quân đóng ở Thái Bình Dương suốt thế chiến thứ hai đã
dùng khẩu hiệu: “Hoạt động càn quét tảo thanh.” Sau khi một hòn đảo bị chinh
phục, nhưng lực lượng chống đối còn lại ở trong rừng núi sẽ bị càn quét. Thánh
Phaolô cho thấy một điều như thế trong bài đọc hôm nay. Ngài đề Titô ở lại đảo
Kêta để hoàn thành một loại “họat động tảo thanh.” Đây là kiểu điển hình của
Phaolô. Ngài làm công việc khó khăn hơn là rao giảng Tin mừng, rồi để lại cho
người khác công việc dễ dàng hơn, như tổ chức Giaó hội đầu tiên chẳng hạn.
Tôi có sẵn sàng để làm công việc khó khăn hơn trong kế họach, và
để lại công việc dễ hơn cho người khác không?
Lạy Chúa, xin dạy con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm
việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng,
nhưng chỉ biết rằng con đang thực thi thánh ý Chúa (Thánh Ignatiô Loyola)
14. Gương xấu tàn phá nguy hại
Một cụ già đang hấp hối. Rõ ràng có một cái gì đó đang gây phiền
toái cho cụ. Cuối cùng cụ phá tan im lặng và nói: “Khi còn nhỏ, tôi thường chơi
trong một cánh đồng gần một giao lộ, ở đó có một bảng chỉ đường và tôi thường
xoay hướng mũi tên để những du khách đi sai đường. Lúc này, khi nằm đây, tôi tự
hỏi không biếtcó bao nhiêu người đã đi sai đường hoặc đã bị thương tổn vì hành
động đó của tôi và cả những hành động đó của tôi và cả những hành động tội lỗi
khác của tôi nữa.”
Lời Chúa Giêsu và câu chuyện về cụ già đang hấp hối mời gọi tôi tự
hỏi: “Hiện giờ tôi có dẫn người khác đi sai đường một cách nào đó không?”
Khi còn trẻ, tôi ngưỡng mộ những người thông minh. Giờ đây, khi về
già, tôi thán phục những người tử tế (Abraham Heschel).
15. Kẻ bé nhỏ
“Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã!”
John Newton nhận xét, “Hiếm khi Satan tấn công ai một cách thô
bạo. Một khúc gỗ tươi có thể an toàn đứng cạnh một ngọn nến; nhưng chỉ với một
vài mảnh vụn, một vài que củi, bạn có thể biến khúc gỗ tươi thành tro, và lửa
của nó có thể thiêu rụi một cánh rừng. Cũng thế, gương xấu của bạn là những que
củi có thể dẫn đến việc hỏng cả một thế hệ!”
“Chỉ một vài mảnh vụn, vài
que củi, một cánh rừng có thể bị thiêu rụi!” Cũng thế, cớ vấp phạm của bạn và
tôi, tuy nhỏ, vẫn có thể đốt cháy cuộc đời của những ‘kẻ bé nhỏ’; và có thể, cả
một thế hệ. ‘Kẻ bé nhỏ’ ở đây còn là tất cả những ai dễ bị tổn thương.
THỨ BA - ĐÚNG VỊ TRÍ, LÀM ĐIỀU PHẢI LÀM
Lời Chúa: Lc 17, 7-10
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ai trong các con có người đầy tớ
cày bừa hay chăn súc vật ngoài đồng trở về liền bảo nó rằng: "Mau lên, hãy
vào bàn dùng bữa", mà trái lại không bảo nó rằng: "Hãy lo dọn bữa tối
cho ta, hãy thắt lưng và hầu hạ ta cho đến khi ta ăn uống đã, sau đó ngươi mới
ăn uống"? Chớ thì chủ nhà có phải mang ơn người đầy tớ, vì nó đã làm theo
lệnh ông dạy không? Thầy nghĩ rằng không.
"Phần các con cũng vậy, khi các con làm xong mọi điều đã
truyền dạy các con, thì các con hãy nói rằng: "Chúng tôi là đầy tớ vô
dụng, vì chúng tôi đã làm điều chúng tôi phải làm.”
TRUYỆN KỂ
1. Tinh Thần Phục Vụ Ðích Thực
Nhân vật nổi tiếng trong Giáo Hội hiện nay được thế giới nhắc nhớ
và thương mến nhất, hẳn phải là Mẹ Terêsa Calcutta, một người đã được nhiều giải
thưởng nhất:
giải Magsaysay do chính phủ Phi Luật Tân dạo thập niên 60;
đầu năm 1971, Mẹ lại được Ðức Phaolô VI trao giải Gioan XXIII vì
hòa bình;
giải thưởng Kenedy do chính phủ Hoa Kỳ tặng, tất cả số tiền nhận
được, Mẹ đã dùng để xây dựng trung tâm Kenedy tại một khu ổ chuột ở ngoại ô
Calcutta;
tháng 12/1972 chính phủ Ấn nhìn nhận sự đóng góp của Mẹ và trao
tặng Mẹ giải Nêru;
nhưng đáng kể hơn nữa là giải Nobel Hoà bình năm 1979, đây là giải
thưởng đã làm cho tên tuổi Mẹ Têrêsa được cả thế giới biết đến,
cũng như những lần khác, khi một viên chức chính phủ Ấn gọi điện
thoại để chúc mừng, Mẹ đã trả lời: "Tất cả vì vinh quang Chúa.”
2. Tin vào Thiên Chúa nên ta tin vào bản thân
Peter là một giáo sư đại học, ông vừa hoàn thành một cuốn sách
biên khảo công phu sau ba năm nghiên cứu, được mọi người khen hay, và ông lấy
làm hãnh diện, vì hai vợ chồng ông đều thực hiện thiền định và cố gắng tâm linh
hóa hằng ngày.
Ông gặp trăn trở vì biết hãnh diện chỉ là gia tăng bản ngã và tự
bảo mình không nên đi vào con đường kiêu hãnh viển vông này, nhưng bà vợ lại
cho rằng kiêu hãnh chân chính vẫn không thuộc về bản ngã.
Hai người đưa vấn đề đến đạo sư Darshani. Đạo sư đã phân tích và
chỉ cho thấy lòng kiêu hãnh bắt ngưồn từ việc coi hành động của mình như là do
tác nhân độc lập, một thực tế riêng rẽ, và điều đó là hư ảo; đằng sau các thể
hiện đúng đắn, chính Đấng Tối Cao đã tác động.
Ông xin một phương pháp để giúp ông kiểm soát được lòng kiêu hãnh
này mỗi khi nổi lên, nhưng đạo sư gợi ý ông đọc cuốn “Gương Chúa Giêsu” (Sách
gương phúc) của Thomas A. Kempis, trong đó bàn về việc chúng ta không được kiêu
hãnh vì đã làm việc tốt, sách có câu này: “Liệu đất sét có được tôn vinh hơn
người đã làm ra nó hay sao?”
3. Khiêm tốn là một điều khó.
Một thầy rabbi già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm
nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: “Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai
khôn ngoan như thầy.” Người khác nói: “Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin
của tổ phụ Abraham.” Người thứ ba nói: “Chắc chắn sự kiên nhẫn của thấy không
thua sự kiên nhẫn của ông Gióp.” Người thứ tư thêm vào: “Về sự cầu nguyện thân
mật với Chúa, chỉ có Maisen và thầy mà thôi.”
Vị rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ
ông mới hỏi: “Ông có nghe họ ca tụng ông không”?
Ông liền trả lời: “Có.” Nhưng vợ ông lại hỏi: “Thế tại sao ông lại
tỏ thái độ bực tức như thế”? Vị rabbi than phiền: “Vì không có ai nhắc đến sự
khiêm tốn của tôi.”
4. “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh?”
Trong thư thứ 1Cr 4,7 thánh Phaolô nói: “Bạn có gì mà bạn đã không
nhận lãnh?” Nếu xét cho kỹ thì tất cả những gì ta cho là tài ba hay công lao
“của ta” đều không phải thực là của mình.
- Trí óc ta thông minh ư? Đó là nhờ Chúa sinh ra ta như thế. Nhiều
người khác mới sinh ra đã đần độn.
- Sức khoẻ ta dồi dào ư? Cũng nhờ Chúa sinh ta ra sẵn như vậy.
Nhiều kẻ sinh ra đã sẵn èo ọt.
- Ta có nhiều năng khiếu ư? Cũng do Chúa sinh ra ta như vậy.
- Ta đẹp ư? Cũng thế.
- Ta làm nhiều việc thành công ư? Đó là nhờ ta có sẵn thông minh,
sức khoẻ, năng khiếu.
Bởi vậy, dù ta làm được gì thì ta cũng là đầy tớ vô dụng thôi.
5. Ai khiêm tốn là công cụ của Chúa
Người ta hỏi Thánh Phanxicô Assisi nhờ đâu và bằng cách nào mà
ngài làm được nhiều việc như thế. Thánh nhân đáp:
- Thiên Chúa ở trên Thiên đàng nhìn xuống dưới đất. Ngài tự hỏi:
“Tìm đâu ra một người yếu đuối nhất, nhỏ bé nhất và hèn hạ nhất đây?”
Thế rồi Thiên Chúa tìm thấy tôi. Ngài lại tự nhủ: “Ta đã tìm được
nó rồi. Qua nó, Ta sẽ làm những việc Ta muốn. Nó sẽ không tự phụ được với những
việc đó, bởi vì nó biết rằng Ta xử dụng nó chỉ vì sự yếu đuối, nhỏ bé và hèn hạ
của nó thôi” (Christian Herald).
6. Phẩm giá cao quý khi làm tròn bổn phận
Một nhân viên gác cầu quay có nhiệm vụ quay cây cầu lên cao mỗi khi
có tàu thuỷ qua lại phía dưới. Một ngày kia, cậu con trai ông đi qua phía cầu
để chơi và xem cha mình làm việc. Thình lình cậu bé trượt chân té. Thầy con bị
té, người cha hốt hoảng định kéo con lên.
Nhưng ngay lúc đó một chuyến tàu chở đầy hành khách đang lao tới
trong tiếng còi văng vẳng từ xa vọng lại. Ông phải nâng cầu lên cho con tàu đi
qua và như vậy con trai yêu quý của ông sẽ chết. Tâm trí bấn loạn… nhưng ông
cũng đã hoàn tất nhiệm vụ, để rồi phải nhìn chiếc tàu đi qua với những hành
khách nhộn nhịp cười nói mà lòng quặn đau…
Trong cuộc đời, có lần nào tôi đã dám hy sinh vì anh em mà không
tính toán, dám phục vụ mà không nghĩ thiệt hơn?
Lạy Chúa, xin cho con biết phục vụ một cách vô vị lợi, vì đó là
bổn phận của con. (Hosanna).
7. “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng.
Mẹ Têrêsa nói: “Điều quan trọng không là làm nhiều, làm tất cả,--
nhưng là sẵn sàng làm bất cứ gì, vào bất cứ lúc nào.”
Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu Abbert
Schweitzer làm “người hùng của thế kỷ.” Hai năm sau, tức năm 1952, Abbert
Schweitzer được thưởng giải NOBEL hòa bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên
dương là một thiên tài đa dạng: ông vừa là một triết gia lừng danh, một thần
học gia danh tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc, và
còn là một bác sĩ thừa sai.
Cuộc đời ông có nhiều điểm nổi bật làm cho ông thành “người hùng
của thế kỷ.”
Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ
thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho
những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.
Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30, nhằm ngày 14-01-1905 ông đến một
hộp thư ở Paris gởi một số thư từ về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo
cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ
đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai làm việc giữa đám dân nghèo. Những lá
thư ấy lập tức bị phản đối ngay.
Trong cuốn sách của ông nhan đề “Bên ngoài đời sống và tư tưởng
của tôi”, Schweitzer viết: “Bà con và bè bạn tôi đồng loạt phản đối dự tính mà
họ cho là điên rồ của tôi. Họ bảo tôi là một người đem chôn dấu tài năng đã
được ủy thác cho mình. Một phu nhân đầy tinh thần tiến bộ nọ chứng tỏ cho tôi
rằng, tôi có thể sinh ích lợi hơn nhiều bằng cách là một giảng sư đại học, để
phục vụ cho ngành y khoa bản xứ hơn là lao mình vào hành động mà tôi đang toan
tính.”
Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những dự định của
mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông
đến Phi châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực, lúc bấy giờ được gọi là
Phi châu xích đạo. Sau cùng, ông đã chết ở đó vào năm 1965 hưởng thọ 95 tuổi.
Đây là ít lời Abbert Schweitzer để lại cho hậu thế:
- Cuộc sống trở nên khó khăn hơn khi chúng ta sống vì người khác,
nhưng nó cũng trở nên đẹp đẽ và hạnh phúc hơn.
- Người lạc quan là người nhìn đâu cũng thấy đèn xanh, còn người
bi quan thấy khắp nơi chỉ toàn đèn đỏ... kẻ thực sự khôn ngoan thì mù màu.
- Thành công không phải là chìa khóa mở cánh cửa hạnh phúc. Hạnh
phúc là chìa khóa dẫn tới cánh cửa thành công. Nếu bạn yêu điều bạn đang làm,
bạn sẽ thành công.
- Một bí mật lớn cho thành công là bước đi trên đường đời luôn
tràn trề sinh lực.
8. Xứng với địa vị cao cả trong Nước Trời
Hồng y Karol Wojtyla trên đường ra phi trường qua Roma để bầu Giáo
hoàng, vì Đức Gioan Phaolô I mới qua đời. Gần tới phi trường, bỗng có một bà cụ
ra chận đầu xe ngài. Đức Hồng y ân cần hỏi:
- Tại sao bà cụ khóc?
Bà cụ mếu máo trả lời:
- Thưa cha, con chỉ có mỗi con mèo là bạn, thế mà người bên cạnh
nhà, họ bắt mất, con xin lại họ không trả.
Ngài mời bà cụ lên xe và bảo tài xế quay xe lại để bà dẫn ngài đến
nhà người đã bắt mèo, và sau khi ngài đòi lại được con mèo, rồi trao cho bà cụ,
ngài tiếp tục ra phi trường đi Roma để bầu vị Tân Giáo hoàng. Trong cuộc bỏ
phiếu kín, ngày 18-10-1978, Chúa đã chọn người đầy tớ hèn mọn đi bắt mèo cho bà
cụ, đặt làm Giáo hoàng, người mục tử xuất sắc chăm sóc Hội Thánh và lãnh đạo cả
thế giới.
Một Hồng y đi bắt mèo giúp bà cụ chỉ là việc nhỏ diễn tả lòng nhân
ái mà đã được Chúa cất nhắc lên địa vị cao sang như vậy; huống chi khi bất cứ
ai chu toàn nhiệm vụ chính là cầu nguyện và giảng Lời, thì chắc chắn sẽ được
cất nhắc địa vị cao cả hơn trong Nước Trời. Người như thế mới làm ứng nghiệm
Lời Đức Giêsu dạy: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người
ấy,Cha Thầy và Thầy sẽ đến với người ấy” (Ga 14,23: Tung Hô Tin Mừng).
9. Tôi tớ vô dụng
Năm 19 tuổi, thánh Phanxicô Salê bị bệnh nặng, nghĩ mình sắp chết,
ngài nói với giáo sư y khoa: “Sau khi con chết, xin thầy lấy xác con để cho
sinh viên học tập, mổ xẻ… điều đó an ủi con khi con chết. Con nghĩ rằng khi còn
sống, mình chỉ là đầy tớ vô dụng. Con muốn ít nhất sau khi chết, còn có cái gì
tốt.”
Về sau, là một vị giám mục tài đức, thành công, làm việc tông đồ
không biết mệt mỏi, ngài vẫn luôn luôn nói: “Tôi chỉ là đầy tớ vô dụng.” Thánh
nhân đã sống theo Lời Chúa dạy hôm nay: cố gắng chu toàn bổn phận mình phải
làm, theo danh phận đòi hỏi.
Người môn đệ Đức Kitô không tự hào về những gì mình đã làm cho Chúa,
cũng chẳng tự mãn về những thành công do danh phận mang lại, vì ý thức mình chỉ
là “cây bút chì” trong bàn tay họa sĩ tài ba là Thiên Chúa.
10. Tin vào Chúa
Trong suốt chuyến viếng thăm Pêru vào năm 1980, Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô đã vô cùng xúc động khi nghe đại diện của những người nghèo phát
biểu: “Chúng con đói khát. Chúng con sống trong bất hạnh, bệnh tật và thất
nghiệp. Những phụ nữ sinh con trong lao phổi, con của chúng con chết hoặc lớn
lên yếu đuối và không có tương lai.
"Nhưng bất chấp tất cả, chúng con vẫn tin tưởng vào Thiên
Chúa của sự sống. Chúng con cùng sánh bước với Giaó hội và trong Giaó hội, và
điều đó giúp chúng con sống xứng đáng là con cái của Thiên Chúa và là anh em
của Chúa Kitô.”
Nếu Đức Thánh Cha yêu cầu tôi đưa ra câu trả lời cho lời phát biểu
này, tôi có thể nói gì và tại sao?
Thế gian đang qua đi cùng với dục vọng của nó. Còn ai thi hành ý
muốn của Thiên Chúa thì tồn tại mãi mãi (1 Ga 2,17).
11. Phục vụ là dùng ơn Chúa cho nên
Bộ phim họat hình “Peanuts” chiếu cảnh Charlie Brown đang chăm chú
nhìn vào hộp dụng cụ. Cậu ta nói: “Tớ không làm được! Tớ không làm được!” Lucy
tình cờ đi ngang qua và hỏi Charlie chuyện gì thế. Charlie trả lời: “Tớ muốn
làm một ghế mộc, nhưng không có ghế mộc để làm nó.” Áp dụng sự kiện trên vào
Chúa Giêsu, chúng ta thấy Chúa Giêsu chính là chiếc ghế mộc của chúng ta. Trước
khi Ngài trao hiến bản thân cho chúng ta, chúng ta không có chiếc ghế mộc nào
để từ đó xây dựng lại thế giới đã bị tan vỡ.
Chúa Giêsu trở nên chiếc ghế mộc và Ngài để lại công việc cho
chúng ta, điều đó có ý nghĩa gì?
Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà
phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên
hình vạn trạng của Thiên Chúa (1P 4,10).
12. Thước đo đức tin
Tại một miền quê khá yên tĩnh, một mục sư tận tuỵ phục vụ, dù con
số giáo dân thật ít ỏi. Năm này qua năm khác, sứ vụ của ông xem ra khá đơn
điệu. Chỉ sau nhiều năm, ông mới biết, một trong những người mà ông đã chinh
phục cho Chúa Kitô là Charles Spurgeon, mệnh danh “Hoàng Tử của Các Nhà Truyền
Giáo.” Spurgeon đã đem về cho Chúa hàng vạn linh hồn. “Không có giới hạn nào
cho những điều tốt mà một người có thể làm, nếu người ấy không quan tâm đến
phần thưởng!”
Sứ điệp Tin Mừng hôm nay không dựa trên thái độ của ‘chủ’ nhưng
dựa trên thái độ của ‘tớ’, thái độ phục vụ! Chúa Giêsu cho biết, đó chính là
‘thước đo đức tin’ của người môn đệ. ‘Tớ’ phải hoàn thành nhiệm vụ mà không
mong đợi phần thưởng của ‘chủ’.
Đức Bênêđictô 16 nói, “Nếu chúng ta phục vụ ý muốn của Thiên Chúa
với lòng khiêm tốn, không đòi hỏi bất cứ điều gì từ Ngài, thì chính Chúa Giêsu
lại phục vụ chúng ta, giúp đỡ chúng ta, khích lệ chúng ta; Ngài ban cho chúng
ta sức mạnh và sự thanh thản!” Bài đọc khôn ngoan hôm nay viết, “Ai trung
thành, sẽ được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân phúc và xót
thương những ai Người tuyển chọn!” Sự trung thành tin yêu đó là ‘thước đo đức
tin’ của người môn đệ!
THỨ TƯ - BIẾT TẠ ƠN THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Lc 17, 11-19
Khi Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, Người đi qua biên giới Samaria
và Galilêa. Khi Người vào một làng kia thì gặp mười người phong cùi đang đứng ở
đàng xa, họ cất tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng
tôi.” Thấy họ, Người bảo họ rằng: "Các ngươi hãy đi trình diện với các tư
tế.” Trong lúc họ đi đường, họ được lành sạch.
Một người trong bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở
lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và
tạ ơn Người: Mà người ấy lại là người xứ Samaria. Nhưng Chúa Giêsu phán rằng:
"Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia
đâu? Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại này.” Rồi
Người bảo kẻ ấy rằng: "Ngươi hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của ngươi đã
cứu chữa ngươi.”
TRUYỆN KỂ
1. Cần có lòng biết ơn
Giáo dục cho trẻ em về lòng biết ơn là điều quan trọng.
Cha mẹ thường dạy con cám ơn người làm ơn cho mình. Cám ơn là đi
từ món quà đến người trao tặng. Mỗi người chúng ta đã nhận biết bao quà tặng
trong đời, nên chẳng ai là người trọn vẹn nếu không có lòng biết ơn.
Bản thân tôi là một quà tặng do nhiều người cho: cha mẹ, ông bà tổ
tiên, các anh hùng dân tộc…
Chỉ cần để lòng biết ơn đi lên mãi, lên tới nguồn, tôi sẽ gặp được
Thiên Chúa như Người Tặng Quà viết hoa.
2. Biến tự do thành nô lệ
Trong suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức
nặng của lao động khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã
giải phóng họ và đưa họ vào vùng đất tự do. Ðể đánh dấu cuộc giải phóng khỏi
các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu
Lễ. Ðó là lý do tại sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó
chính là biểu trưng của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người
Do thái không thể có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của
tự do, và đó là ý nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã
thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã
biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo
dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong
ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ
mới đối với người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp
gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai
con người, nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
3. Hoa trái của đức tin
Nghệ sĩ Lê Vũ Cầu trước khi được lành bệnh, ông là một người ngoại
đạo. Lúc thập tử nhất sinh, ông đã được giới nghệ sĩ chuẩn bị tang lễ cho ông
cách chu đáo. Tuy nhiên, khi có người Công Giáo đến thăm và gợi ý đưa ông đến
đền Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp của Dòng Chúa Cứu Thế để cầu khấn Đức Mẹ, ông đã đồng
ý. Khi đến nơi, kỳ lạ thay, ông không xin cho mình được khỏi bệnh, nhưng ông
lại xin đức tin. Thật nhiệm mầu, không những ông được ơn đức tin, mà ông còn
được lành luôn căn bệnh xơ gan cổ trướng của mình. Sau đó, ông đã được đón nhận
Bí tích Thánh Tẩy và dành thời gian còn lại để tạ ơn Chúa bằng việc sống đạo
thật tốt, làm nhiều việc từ thiện bác ái.
Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay, hẳn ít có ai dán can đảm để
xin ơn đức tin như Lê Vũ Cầu! Bởi vì khi xin ơn đức tin, chúng ta phải thay đổi
đời sống, dám chấp nhận lội ngược dòng để làm chứng cho đức tin mà mình đã lãnh
nhận.
4. Xem thấy lòng biết ơn
Kurt Emmerich - bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu
chuyện sau đây về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga:
Hàng ngàn thương binh đã được ông giải phẫu tại bệnh viện dã
chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông không bao giờ quên. Người lính trẻ
đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc
rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh với tất cả nỗ lực có thể được qua
hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.
Trong lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn
thể các phần còn lại với nhau ở khóe miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã
giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn
còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh: “Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi
muốn nghe anh phát biểu một điều gì với môi miệng mới của anh.”
Anh thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một
cách rất cẩn thận và rồi với nụ cười mỉm đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo
những chữ: “Cám ơn”
5. Lấy Chúa làm gia nghiệp
Thánh Gioan Kim Khẩu, một giáo phụ có tài hùng biện, phải chịu
đựng cơn giận của hoàng đế Arcadius. Trong cơn giận, hoàng đế hỏi các cố vấn để
tìm ra một cách trừng phạt Gioan Kim Khẩu cho hả dạ.
- Tịch thu tài sản của hắn!, một người nói.
- Ai sẽ bị hại?, hoàng đế hỏi, không phải là Gioan Kim Khẩu đâu,
mà là người nghèo, vì hắn cho hết những gì hắn có.
- Tống hắn vào ngục!, người thứ hai nói.
- Thế thì có ích gì? Hắn tự hào vì xiềng xích.
- Vậy thì, giết hắn đi!, một giọng nói khác.
- Như thế thì có gì hơn? Chỉ là mở cửa trời cho hắn.
Sau cùng, một tên có vẻ khôn ngoan hơn hết đề nghị: “Gioan Kim
Khẩu chỉ sợ một điều duy nhất trên đời này. Hắn sợ tội. Chúng ta phải làm cho
hắn phạm tội.”
Lời đề nghị sau hết này cho thấy rõ sự tự do và hạnh phúc lớn lao
của người lấy Chúa làm gia nghiệp:“Nếu chúng ta cùng chết với Người, thì chúng
ta sẽ cùng sống với Người.” (2Tm 2,11)
6. Đúng là lòng tốt thực sự
John Hughes là một tài xế taxi nại Nữu ước. Một sáng nọ, trong khi
lau chùi xe, ông bắt gặp một chiếc nhẫn bằng ngọc bảo trên xe. Ông cố nhớ xem
chiếc nhẫn này là của người hành khách nào. Cuối cùng, ông nhớ đến một người
phụ nữ đã mang theo rất nhiều tiền.
Sau hai ngày tìm kiếm, ông gặp lại người phụ nữ và hồi hộp trả lại
chiếc nhẫn cho bà ta. Chẳng những không thưởng, mà bà ta cũng chẳng nói một lời
cám ơn.
Sau đó, ông John Hughes nói:”Tôi rất mừng vì dù sao cũng đã gặp
được bà ta. Đó là việc tôi phải làm.”
7. Nhật ký của một bà già.
Đây là những lời của một bà già viết trong Nhật ký:
Chúa ban cho tôi biết bao ơn lành của Chúa, Chúa cho tôi đôi mắt,
để tôi nhìn ngắm bao kỳ công, Chúa cho tôi đôi tai, để tôi nghe đủ âm thanh,
Chúa cho tôi đôi môi, để tôi hé mở nụ cười, Chúa ban cho tôi hai tay, để tôi
bưng chén cơm, cầm bút, Chúa cho tôi đôi chân, dẫn tôi đi khắp nẻo đường, Chúa
cho tôi khối óc, để tôi biết phân biệt điều thực điều hư, Mà đã có lần nào tôi
nhớ đến những thứ ấy để cám ơm Chúa chưa?
Hay phải đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, tôi mới nhận ra
những thứ ấy thật quý giá.
8. Biết ơn người nhà
Hai tiếng “Cám ơn” giúp ích rất nhiều chẳng những cho ta mà còn
cho người được nghe nó nữa:
- Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sẵn
sàng giúp ta nữa.
- Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người
ta sẽ làm việc vui vẻ hơn.
Hai tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì
càng sinh hiệu quả nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn
học trò, chủ cám ơn tớ...
Nhưng tại sao người ta thường cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn
“người nhà” ? (Frank Mihalic).
9. Nhắc khéo
Một cậu bé ngồi hàng ghế đầu trên xe buýt. Thấy một cụ già lên xe,
cậu nhường ghế cho cụ. Ông cụ ung dung ngồi xuống, không nói tiếng nào. Cậu bé
hỏi:
- Thưa ông, ông vừa nói gì thế ?
- Tôi có nói gì đâu.
- Vậy mà cháu tưởng ông nói “cám ơn” chứ. (Quote)
10. Lòng tốt và lòng biết ơn VÔ HẠN
Hồi còn học Trung Học, có một cuốn sách tôi rất thích đọc đó là
cuốn “Những Tấm Lòng Cao Cả” của Edmondo Amicis. Trong tác phẩm này tôi thấy có
rất nhiều chuyện hay. Và đây là một trong những chuyện đó. Chuyện kể rằng:
Có một thầy giáo nọ ở tỉnh Torino nước Ý được phân công đến dạy
học cho những người tù trong suốt mùa đông.
Để giảng bài, ông đứng giữa một căn phòng hình ống, chung quanh là
tường cao trần trụi có rất nhiều những ô cửa sổ nhỏ gắn chấn song sắt: Mỗi ô
cửa là một xà lim, bên trong những ô cửa đó là những khuôn mặt hốc hác, râu tóc
bù xù và những ánh mắt hết sức dữ tợn của những tội nhân với nhiều loại tội
khác nhau, hay là những khuôn mặt của những tội nhân đang bị dày vò bởi những
lỗi lầm đã trót phạm của mình...
Thầy giáo cứ thế giảng bài, đi đi lại lại quanh phòng, còn học
sinh thì áp sát cuốn vở vào song sắt mà hí hoáy ghi chép.
Trong đám tù có một người mang số 78 là chăm chỉ chuyên cần nhất.
Anh nhìn xuống thầy giáo với đôi mắt cung kính mến phục. Anh còn trẻ. Trước đây
làm thợ mộc. Trong một lần bị oan ức, anh đã tức giận ném mạnh cái bào gỗ vào
đầu tên chủ xưởng khiến hắn bị tử thương. Anh bị kết án 20 năm cấm cố. Chỉ
trong ba tháng học mùa đông, người tù ấy đã biết đọc biết viết khá thông thạo.
Một hôm, buổi học vừa xong, anh đưa tay ra hiệu mời thầy giáo lại
gần ô cửa sổ của anh. Anh buồn rầu báo tin rằng, hôm sau anh sẽ phải chuyển đi
trại giam khác. Anh ngỏ lời từ biệt và xin được hôn lên đôi bàn tay thầy giáo.
Thuyết phục nài nỉ mãi, anh mới được toại nguyện. Người thầy khi rút tay lại
thì thấy tay mình đẫm nước mắt...
Thời gian thấm thoát trôi qua, chợt một hôm, thầy giáo ra mở cửa
thì thấy một người lạ mặt quần áo nghèo túng, râu tóc đã bắt đầu muối tiêu.
Người ấy nghẹn ngào tự giới thiệu:
- Thầy ơi, con chính là người tù số 78 mà thầy đã dạy cho con biết
đọc biết viết trong một mùa đông giá lạnh cách đây 6 năm. Bây giờ thì con đã
được mãn hạn tù, con đến xin thầy vui lòng nhận cho một vật nhỏ mà tự tay con
đã làm ra trong tù, con chỉ thành tâm muốn biểu lộ lòng biết ơn vô hạn của con
đối với thầy.
Thầy giáo lại một lần nữa xúc động đỡ lấy món quà, ông nhận ra
ngay đó là một chiếc bình mực làm bằng gỗ, trên mặt có khắc tỉ mỉ hình một
quyển tập và một dòng chữ nắn nót trân trọng: “BIẾT ƠN THẦY...”
11. Diễn tả tình yêu Chúa là lời tri ân đẹp nhất
Một thiếu nữ tìm đến Ấn Độ xin gia nhập Dòng Thừa sai Bác ái của
Mẹ Têrêxa. Theo luật Dòng, trong ngày đầu tiên mới đến, chị được mời sang Nhà
Hấp hối, ngôi nhà đón tiếp những người sắp chết. Mẹ Têrêxa nói với cô gái:
“Chắc là con đã nhìn thấy linh mục dâng lễ, con đã thấy ngài chạm đến Thánh Thể
với sự chăm chú và yêu thương xiết bao. Vậy con cũng hãy đi và làm như thế tại
Nhà Hấp hối, vì con sẽ tìm thấy Chúa Giêsu nơi thân thể những người anh em khốn
khổ…”
Người thiếu nữ vâng lời ra đi… rồi cô trở lại với nụ cười rạng rỡ
như chưa từng có, cô vui vẻ thốt lên: “Thưa Mẹ, con đã sờ được vào Thân thể
Chúa Giêsu suốt ba tiếng đồng hồ!”
Khi Mẹ Têrêxa hỏi thêm, cô kể rằng: “Con đến Nhà Hấp hối thì người
ta vừa mang đến một người ngã xuống một hố sâu, mình mẩy đầy những vết thương
lở loét và hôi thối. Con đã đến tắm rửa băng bó cho anh. Con biết mình làm như
thế là đã chạm được đến Thân thể Chúa Giêsu.”
12. Lòng tin cứu chữa
Có người nằm mơ một giấc mơ đáng sợ. Ông thấy mình đứng trước một
biệt thự nguy nga, bên trong có hai hành lang với hai hàng chữ: “Bên phải dành
cho người công giáo, bên trái cho dân ngoại.”
Không do dự, ông theo hành lang bên phải. Đi một lát, ông thấy một
lối rẽ khác, với bảng chỉ dẫn: “Bên phải dành cho người có đức tin vững mạnh,
bên trái dành cho kẻ ích kỷ.”
Ông đi vào lối rẽ phải, lại gặp một bảng chỉ dẫn khác: “Bên phải
dành cho ai có đời sống thánh thiện, bên trái dành cho những người tội lỗi.”
Một lần nữa ông chọn bên phải. Đang hân hoan rảo bước thì ông gặp
một cảnh tượng hãi hùng ở cuối hành lang ấy: cảnh hoả ngục với muôn vàn hình
khổ không sao tả xiết làm cho ông hoảng hốt rú lên và giật mình thức dậy. Ông
tự hỏi sau một lúc bàng hoàng: “Đây là mơ hay là thực?”
Ước gì tôi đừng bao giờ tự cho mình là xứng đáng dựa vào những gì
bên ngoài, mà chỉ biết ngợi khen và tạ ơn Chúa đã yêu tôi dù tôi bất xứng, để
xứng đáng nghe Chúa nói: “Lòng tin của con đã cứu chữa con!"
THỨ NĂM - SỐNG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI
Lời Chúa: Lc 17, 20-25
Khi ấy, những người biệt phái hỏi Chúa Giêsu "Khi nào nước
Thiên Chúa đến", thì Người đáp lại rằng: "Nước Thiên Chúa không đến
để cho người ta quan sát, và người ta sẽ không nói được: "Này nước trời ở
đây hay ở kia.” Vì nước Thiên Chúa ở giữa các ông.”
Chúa lại phán cùng các môn đệ rằng: "Sẽ có ngày các con ước
ao thấy được một ngày của Con Người mà không được thấy. Người ta sẽ bảo các
con: "Này Người ở đây và này Người ở kia", các con chớ đi đến và đừng
tìm kiếm. Vì như chớp sáng loè từ chân trời này đến phương trời kia thế nào,
thì Con Người cũng sẽ đến trong ngày của Người như vậy. Nhưng tiên vàn Người
phải chịu đau khổ nhiều, và bị dòng dõi này xua đuổi.”
TRUYỆN KỂ
1. Sống sung mãn giây phút hiện tại
Hiện nay, con số các nhóm khủng bố có mầu sắc tôn giáo đang gia
tăng đáng kể. Năm 1968, không có hoạt động khủng bố nào liên hệ đến tôn giáo,
nhưng ngày nay có rất nhiều nhóm tự xưng là Kitô giáo, Do thái giáo, Ấn giáo,
Hồi giáo. Mẫu số chung của các nhóm này là niềm tin vào một ngày thế mạt, họ
chủ trương bạo động, vì tin rằng nhờ cuộc chiến tranh ở qui mô thế giới, hay
nhờ một thiên tai nào đó, họ sẽ được đưa vào Thiên Ðàng.
Các giáo phái mong mỏi ngày thế mạt đã khởi sắc tại Hoa Kỳ từ thế
kỷ 19 và hiện nay vẫn còn thu hút nhiều tín đồ. Tuy nhiên mới đây một số đã cáo
chung vì bạo động: cách đây vài năm, một giáo phái tại Nam Hàn đã lôi kéo nhiều
tín đồ đến chỗ tự vẫn và đã tự giải tán, vì ngày thế mạt họ chờ đợi đã không
đến. Vụ phun hơi ngạt do giáo phái "Chân Lý Tối Thượng" chủ trương
tại Nhật Bản dạo tháng 3/1995 cũng cho thấy sự khởi sắc bất ngờ của niềm tin
vào ngày thế mạt nơi người Nhật bản.
Tin vào ngày thế mạt, tức ngày Chúa lại đến trong vinh quang cũng
là một trong những điểm nòng cốt của Kitô giáo. Tuy nhiên, ngày đó có phải là
năm 2000, năm 3000 hay một thời điểm nhất định nào không? Cái bí ẩn ấy không
bao giờ được vén mở. Chúa Giêsu loan báo Ngài sẽ trở lại, nhưng không cho biết
ngày giờ nào.
2. Tại sao lại mong Chúa đến?
Trong một lớp giáo lý dự tòng cho người lớn tuổi, một hôm, thầy
giáo lý viên hỏi mọi người rằng: “Tại sao lại theo đạo Công Giáo?” Lúc đó, có
một chị đã trả lời: “Con theo đạo để xin Chúa cho con khỏi đau khổ, bệnh tật...!”
Thầy giáo đó trả lời: “Việc thoát khỏi đau khổ và bệnh tật không phải là lý do
chính, việc quan trọng chính là bạn tin nhận Chúa làm chủ cuộc đời của mình,
sống phó thác nơi Thiên Chúa và đón nhận cũng như khám phá ra ý nghĩa của đau
khổ trong cuộc sống hiện tại, mặt khác, khi theo đạo, bạn được mời gọi bước
theo Đức Giêsu trên con đường hy sinh, quên mình vì người khác, thực hành những
điều Ngài dạy. Có thế, bạn mới được bình an thực sự.”
3. Chuẩn bị cho ngày Chúa đến
Một cha sở kia khuyên bổn đạo: “Hãy ăn năn hối cải trở về với Chúa
một ngày trước khi chết.” Bổn đạo chưa hiểu rõ lời khuyên của cha có ý nghĩa
gì...
Cha cắt nghĩa: “Không ai biết mình chết khi nào. Có lẽ tối nay
chăng? Có lẽ ngày mai chăng? Bởi thế, muốn cho chắc chắn, hãy ăn năn hối cải
trở về với Chúa ngay bây giờ, ngay ngày hôm nay là một ngày trước khi chúng ta
có thể chết mà chúng ta không biết.”
4. Chúa ở đâu Thiên đàng ở đó.
Một nhà truyền giáo đến thăm viếng một cậu bé da đen trong lúc cậu
sắp sửa lìa đời. Cậu bé liền nói với nhà truyền giáo này về niềm hạnh phúc mà
cậu cảm thấy và niềm ao ước được về với Chúa Giêsu.
Cậu bé nói:
- Chẳng bao lâu, con sẽ được lên Thiên Đàng, con sẽ nhìn thấy Đức
Giêsu và ở với Ngài mãi mãi.
Nhà truyền giáo đáp:
- Nhưng nếu Đức Giêsu phải rời khỏi Thiên Đàng , con sẽ làm gì?
- Con sẽ đi theo Người.
Nhà truyền giáo lại nói:
- Nhưng giả thử Đức Giêsu đi xuống hỏa ngục, con sẽ làm gì?
Trong giây lát, với một cái nhìn thông minh và một nụ cười trên
nét mặt , cậu bé đáp:
- Ồ, ở đâu có Đức Giêsu, thì ở đó không thể có hỏa ngục. Chúa
Giêsu ở đâu, ở đó là Thiên Đàng.
5. Nước ấy đã đến cho tôi
Vào thời Nga Hoàng, một thanh niên vì chịu ảnh hưởng sâu đậm tư
tưởng của đại văn hào Tolstoi và nhất là giáo huấn của Chúa Giêsu, nên đã từ
chối thi hành nghĩa vụ quân sự. Ra trước tòa, anh đã trình bày niềm xác tín là
anh không thể cầm khí giới giết người. Sau khi nghe người thanh niên biện hộ,
quan tòa mới phát biểu như sau:
- Tốt lắm, tôi đã hiểu được lý tưởng của anh. Nhưng anh còn phải
thực tế. Lý tưởng anh đề ra là lý tưởng của Nước Trời, mà Nước Trời thì chưa
đến.
Nghe thế, người thanh niên dõng dạc trả lời:
- Thưa ông, tôi nhìn nhận
là Nước ấy chưa đến cho ông... nhưng Nước ấy đã đến cho tôi. Tôi không thể sống
như Nước ấy chưa đến, để tiếp tục chém giết và gieo rắc hận thù”
6. Nước Trời ở trong lòng người
Một hiền sĩ đang ngồi tại cổng thành Roma, bỗng một người đi ngang
qua cất tiếng hỏi:
- Thưa ngài dân thành Roma có hiền hòa đức độ không ạ? Vị hiền sĩ
hỏi lại:
- Thế ông từ đâu đến? Và xin ông cho tôi biết dân ông đang sống
cùng, tính tình họ thế nào? Người kia đáp:
- Dạ, tôi ở thành phố Sàigòn, dân này là dân ba trợn, độc ác, tôi
không sống nổi với họ! Vị hiền sĩ đáp ngay:
- Thế thì dân ở Roma này còn độc ác, dữ tợn hơn thế, ông nên tránh
xa thì hơn!
Lát sau lại có người khác đến hỏi:
- Thưa ngài, dân thành Roma có hiền hòa đức độ không ạ? Vị hiền sĩ
hỏi lại:
- Vậy ông từ đâu tới? Và xin ông cho tôi biết là dân thành nơi ông
đang sống, họ thế nào? Người kia đáp:
- Dạ tôi ở thành phố Sàigòn, dân ở đó rất hiền hòa, tử tế, bởi vì
ngày nào họ cũng đi dự Thánh Lễ, chăm chú nghe Lời Chúa và rước Lễ, tôi sống
với họ rất hạnh phúc. Vị hiền sĩ đáp ngay:
- Thế thì dân thành Roma còn hiền hòa, tử tế hơn dân ở Sàigòn đấy,
vì đây là thủ đô của người Công Giáo, xin mời ông đến với sống chung với họ.
Thật đúng như Lời Chúa Giêsu đã nói: “Người ta không thể nói:
“Nước Trời ở đây hay ở kia, vì Nước Trời ở trong mọi người!” (Lc 17,21).
7. Qua thập giá đến Nước Trời
Nhà thần học nổi tiếng Teilhard de Chardin gồm tóm suy tư của mình
trong ba tiếng: “Đăng giả hội” (những gì vươn lên cao thì sẽ tụ hội với nhau).
Nếu vậy, thì đỉnh vươn cao nhất của nhân loại là được Kitô hoá, nghĩa là mọi
con người sống với Cha trong tâm tình con thảo của Đức Ki-tô, và tụ hội nơi
Chúa Ki-tô, vua vũ trụ. Thế nhưng, trước khi đến ngày quang lâm với ánh chớp
chói loà còn sáng chói hơn cả triệu triệu đèn pha hay bom nguyên tử ấy, thì Đức
Ki-tô phải chấp nhận bị dìm trong tăm tối: tăm tối của Vườn Dầu, tăm tối của
khổ hình thập giá, tăm tối của mồ đá… và hôm nay tăm tối nơi những người nghèo
đói, đau khổ, bị bách hại vì sống cho niềm tin, cho chân lý…
Ghi nhớ một nguyên lý ngàn đời: có đau khổ vì chân lý mới đạt được
vinh quang, có qua thập giá vì Nước Trời mới đạt được phục sinh vinh hiển. Bạn có
sẵn sàng chấp nhận không?
8. Sự khôn ngoan của Chúa
Một bài thơ cổ mô tả một người đàn ông nằm dưới gốc cây sồi giữa
cánh đồng bí. Đôi mắt ông lướt từ những trái bí lớn trên thân cây nhỏ bé đến
những quả sồi bé nhỏ trên nhánh cây lớn. Ông tự nhủ: “Thiên Chúa hẳn đã sai
lầm! Lẽ ra Ngài phải đặt trái bí trên nhánh cây lớn và đặt quả sồi nơi những
thân leo.”
Ông chợt thiếp đi, hoàn toàn hài lòng với nhận xét khôn ngoan của
mình. Vài phút sau, ông chợt thức dậy, vì một quả sồi rơi trượt qua mũi ông.
Ông xoa mũi và tự nhủ: “Có lẽ cách của Thiên Chúa khôn ngoan hơn cả.”
Điều gì tôi thường tự hỏi liên quan đến sự khôn ngoan của Thiên
Chúa quan phòng thế giới này?
Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn của loài người (1Cr
1,25).
9. Nước Trời trong tình yêu
Philemon là một kitô hữu sống ở Côrintô. Ông có một nô lệ bỏ trốn
tên là Ônêximô. Phaolô gặp Ônêximô ở Rôma, dạy dỗ và rửa tội cho anh ta vào năm
62 sau công nguyên. Lá thư Phaolô viết cho Philemon để xin ông tha thứ cho
Ônêxi mô và đón nhận anh ta trở lại không như một nô lệ, mà như một người anh
em. Đây là một trong những lá thư ngắn nhất của Phaolô, nhưng cũng là một trong
những lá thư nồng nàn nhất.
Từ quan điểm thực tế, thư của thánh Phaolô gửi cho Philemon thách
thức tôi điểm lại mối quan hệ của tôi đối với những người đã gây đau khổ cho
tôi, vì đã đối xử bất công với tôi.
Nếu bạn phải chịu đựng bất công do người khác gây ra, hãy thật
lòng tha thứ cho họ, để không còn hai con người xấu xa nữa.
10. Nước Trời trong lòng người
Một cô bé bốn tuổi đang cùng ông nội đứng bên một cái giếng đã có
từ lâu đời. Họ vừa múc nước lên để uống. Cô bé hỏi: “Nội ơi, Chúa sống ở đâu?”
Cụ già nâng cô bé lên miệng giếng và nói: “Hãy nhìn xuống giếng và cho nội biết
cháu tháy gì?” Thấy bóng mình dưới nước, cô bé trả lời: “Cháu thấy chính cháu.”
Lúc đó cụ già nói: “Đó chính là nơi Thiên Chúa sống trong cháu. Nước Trời cũng
giống như thế: nó ở trong lòng con người, nơi tình yêu ngự trị.”
Tôi tin tưởng sâu sắc đến mức nào lời thánh Phaolô: “Anh em là đền
thờ của Thiên Chúa” (1Cr 3,16).
Chính sự hiện diện của Thiên Chúa giúp tôi nối kết với bạn sâu xa
trong lòng tôi. (Sách Talmud)
11. Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa các ông
Trong kinh Lạy Cha, chúng ta xin cho “Nước Cha trị đến.” Lời cầu
nguyện này dễ làm ta tưởng rằng Nước Chúa chưa đến, và chỉ hiển hiện khi Chúa
tái lâm để đưa những kẻ được tuyển chọn vào Nước Trời. Lời Chúa hôm nay xác
quyết rằng Nước Chúa đã bắt đầu và đang hiện diện giữa lòng thế giới hôm nay và
đang tiến tới chỗ hoàn tất. Như thế, người Kitô hữu không phải là loại người
mải lo xây dựng một thiên đàng ảo tưởng như người vô thần vẫn chế diễu. Trái
lại, họ tích cực nỗ lực xây dựng Nước Trời ngay hôm nay bằng đời sống
tin-cậy-mến. Nếu thiên đàng là được ở với Chúa, thì các Kitô hữu đang được ở
cùng Chúa trong cuộc sống này rồi, với Nước Trời trong tâm hồn rồi, chứ không
phải chờ đến ngày sau.
Khi bạn chỉ lo đọc kinh cầu nguyện, mà xao lãng hay coi nhẹ bổn
phận làm cho thế giới này thêm tình yêu thương, huynh đệ, công bằng, hạnh phúc,
là bạn đang tạo cớ cho người ngoài đạo tưởng bạn chỉ lo xây dựng một thiên đàng
mai sau. Người Kitô hữu không ngồi chờ ngày tận thế, nhưng hoạt động cho Nước
Chúa trị đến trong tâm hồn và cuộc sống của mình.
THỨ SÁU - SỐNG TRONG NGÀY CỦA CHÚA
Lời Chúa: Lc 17, 26-37
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như sự kiện đã
xảy ra thời Noe thế nào, thì trong ngày Con Người cũng xảy đến như vậy. Thiên
hạ cứ ăn uống, cưới vợ gả chồng, mãi cho tới ngày Noe vào tầu, rồi nước lụt đến
tiêu diệt mọi người.
"Lại cũng như đã xảy ra thời ông Lót: người ta ăn uống, mua
bán, trồng tỉa, xây cất, nhưng ngày ông Lót ra khỏi thành Sôđôma, thì trời liền
mưa lửa và sinh diêm, tiêu diệt mọi người. Cũng sẽ xảy như thế trong ngày Con
Người xuất hiện.
"Trong ngày đó, ai ở trên mái nhà có đồ vật trong nhà, thì
chớ xuống lấy đi; và ai ở ngoài đồng cũng đừng trở về. Các con hãy nhớ trường
hợp vợ ông Lót. Ai lo cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đành mất sự sống
mình thì giữ được nó.
"Thầy bảo các con: Trong đêm ấy sẽ có hai người trên một
giường, thì một người bị đem đi, và người kia sẽ được để lại. Hai phụ nữ xay
cùng một cối, thì một người sẽ bị đem đi, còn người kia sẽ được để lại. Hai
người ở ngoài đồng, thì một người bị đem đi, và người kia được để lại.”
Các môn đệ thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, chuyện đó ở đâu
vậy?" Người phán bảo các ông: "Xác ở đâu thì diều hâu tựu lại đó.”
TRUYỆN KỂ
1. Sống chết bất ngờ
Gần đây trong y học, người ta nói đến hội chứng Brugada. Hội chứng
này thường gặp ở nơi nam giới vùng Đông Nam Á.
Nó có thể gây tử vong bất thình lình và nhanh chóng, cho một người
khi ngủ vào ban đêm, dù trước đó anh vẫn khỏe mạnh. Số người mắc hội chứng có
tính di truyền này hiện đang gia tăng.
Đến nay người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân gây bệnh.
2. Thực tại cánh chung
Trong những cuốn phim giả tưởng do trung tâm điện ảnh Holywood sản
xuất trong thời gian gần đây, gây nhiều ấn tượng nhất có lẽ là cuốn phim:
"Ngày Tận Cùng Của Trái Ðất.” Cũng giống như thời Noê, chỉ có 50 người
chuẩn bị kịp, họ đã đi vào trong một phi thuyền đặc biệt và tránh được thiên
tai xẩy ra cho trái đất, họ đã đi đến một hành tinh khác, và như vậy bảo đảm
cho sự trường tồn của nhân loại. Với những xảo thuật tân tiến, cuốn phim đã có
thể tạo ra những ấn tượng mạnh trên người xem.
Tuy nhiên, cũng như tất cả những lời đe dọa do nhiều giáo phái
tung ra, những hình ảnh của cuốn phim dù khủng khiếp đến đâu, cũng chỉ là những
hình ảnh, nghĩa là mời gọi người xem, suy nghĩ về một thực tại khác sâu xa hơn,
thường được gọi là thực tại cánh chung.
3. An toàn nhất thế giới
Ngay từ lúc chiếc phi cơ của hãng hàng không Singapore bắt đầu lăn
bánh từ phi đạo của phi trường Tưởng Giới Thạch, Ðài Loan, vào một buổi tối thứ
Ba trong tháng 11 năm 2000, bà Sally Walker đã có một cảm giác không ổn. Hai
tay nắm chặt vào chỗ dựa tay của ghế ngồi trong phần đuôi của chiếc phi cơ chỉ
có phân nữa hành khách, người phụ nữ Hoa Kỳ bốn mươi sáu tuổi này lo lắng nhìn
giông tố đang thổi ào ào bên ngoài cửa sổ phi cơ.
Vào lúc 11h48' tối, chiếc phi cơ di chuyển ra phi đạo để bay về
Los Angeles, Hoa Kỳ, bà Walker, một giáo sư tại đại học Giorgie đã lầm thầm cầu
nguyện khi nhìn thấy hai cánh phi cơ bị nghiêng ngả và thân phi cơ bị lắc mạnh.
Khi chiếc phi cơ di chuyển ở vận tốc cất cánh với một cú sốc thật mạnh và rồi
thêm một lần nữa, chiếc phi cơ bị giật dữ dội sang bên trái và nổ tung. Các quả
cầu lửa bắn ra khi chiếc phi cơ bị bể làm ba phần, bay rít trên mặt đường nhựa
của sân bay.
Sau này, ngồi trên chiếc xe lăn bà Walker kể lại sự thoát chết từ
chiếc phi cơ ngập lửa rằng: "Mọi thứ đều bị đốt cháy. Thật là một cơn ác
mộng khủng khiếp.” Bà Walker bị thương nhẹ ở chân là một trong những người rất
may mắn. Hơn tám mươi người trong số một trăm bảy mươi chín hành khách của
chuyến bay định mệnh đã chết trong tai nạn này. Một số người bị đốt cháy đến độ
không còn có thể nhận diện được.
Tai nạn thảm khốc này xảy ra đúng một năm sau khi chiếc phi cơ của
hãng hàng không Ai Cập bị rớt trên đường bay từ thủ đô Cairô đến New York, Hoa
Kỳ, gây thiệt mạng cho hai trăm bảy mươi người. Nó xảy ra tại một trong những
phi trường được xem là an toàn nhất thế giới, và được hoạt động bởi một trong
những công ty an toàn nhất thế giới.
4. Chuẩn bị cho ngày sau hết
Thánh Hiêrônimô tin rằng, Thánh Địa là nơi sẽ xảy ra cuộc phán xét
chung, vì thế, ngài hy sinh qua ở ngay tại Thánh Địa, đêm ngày ăn chay, cầu
nguyện. Suy niệm Lời Chúa, nhớ đến ngày tận thế, ngày Chúa phán xét chung, để
nhắc nhở mình phải luôn luôn sống trong sự ăn năn thống hối và đền tội.
5. Cơn bão số 9
Cơn bão số 9 mang tên Ketsana hồi cuối tháng 9 năm 2009 được dự
báo sẽ theo hướng tây bắc đổ bộ vào Quảng Trị, bỗng bất ngờ chuyển hướng tây
nam ập vào Quảng Ngãi khiến nhiều ghe tầu trở tay không kịp. Giống như thế,
ngày cánh chung cũng được báo trước và chắc chắn sẽ đến, thế nhưng tính bất ngờ
vẫn còn nguyên. Vì thế, Đức Giêsu nhắc nhở chúng ta luôn tỉnh thức, sẵn sàng.
Cưới vợ, lấy chồng, làm ăn, trồng trọt, xây cất... không phải là điều xấu. Thế
nhưng mải mê lo toan những điều đó mà quên đi mục đích tối hậu là “tìm kiếm
Nước Thiên Chúa” thì lời cảnh cáo thời ông Noe vẫn còn hiện thực trong thời của
chúng ta.
6. Cứ từ từ, đừng vội!
Có một truyện ngụ ngôn về ba con quỉ học việc. Chúng đến trần gian
để tập sự. Chúng nói với Satan là chúa quỉ về những kế hoạch cám dỗ loài người.
Con quỉ thứ nhất nói: - Tôi sẽ bảo với loài người là không có
Thiên Chúa.
Con quỉ thứ hai nói: - Tôi sẽ bảo họ là không có hỏa ngục.
Satan trả lời: - Mi sẽ không lừa dối ai được bằng cách đó, ngay
đến bây giờ loài người vẫn biết có một hỏa ngục dành cho tội nhân.
- Con quỉ thứ ba nói: - Tôi sẽ bảo với loài người đừng có vội vã
làm gì, cứ từ từ.
Satan đáp: - Đi đi, mày sẽ làm hại được vô số loài người bằng cách
đó.
7. Nọa tính
Một đồ vật ta để trong phòng nó sẽ cứ nằm ỳ tại đó nếu không có ai
đụng tới. Một hòn đá ta ném đi, sẽ tự động ghì lại và rơi xuống khi hết đà.
Tinh thần con người cũng không tránh nổi sự trì trệ kiểu đó.
- Sự nguội lạnh, phai lạt: Một ly nước nóng để trên bàn, dù ta
không làm gì, nó vẫn từ từ bớt nóng, và trở thành lạnh ngắt. Sự Nhiệt thành của
ta đối với nước Trời cũng vậy.
- Sự cạn kiệt: Một chiếc xe Honda chạy mãi mà không được châm
thêm, xăng sẽ vơi dần và cạn kiệt. Sự hăng say ban đầu nếu không được bồi bổ
thêm bằng ơn Chúa qua sự cầu nguyện… cũng sẽ cạn dần. Người ta thường nói: ‘Quì
lâu, chầu mỏi’.
8. Suýt chết để sống mạnh hơn
Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các
bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng.
Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện
nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến
New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này
giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim.
Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ
với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều này đã
ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải
phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề.
9. Chết là sống hết mình
Mục sư King nổi tiếng với giải Nobel hoà bình năm 1964 nhờ tài
lãnh đạo của ông đối với cuộc đấu tranh bất bạo động cho quyền bình đẳng của
người da đen. Ông đã ấu tranh cho họ trên xe buýt, nơi trường học, tại thùng
phiếu… Và chính trong cuộc đấu tranh ngày 4-4-1968, ông đã bị bắn chết tại
Memphis tiểu bang Tennessi.
Sự hy sinh tính mạng vì tình thương của mục sư King đã mang lại
nhiều quyền cho người da đen. Phần tôi, tôi đã làm gì cho những người anh em
bên cạnh tôi, khi xung quanh tôi còn bao người khốn khổ, bao người cần sự bênh
vực nâng đỡ?
10. Thiếu cảnh giác
Thế chiến thứ 2 bắt đầu vào ngày 1.9.1939, khi quân Đức tấn công
vào nước Balan nhưng thực ra, quốc trưởng Hitler của Đức đã có kế hoạch tấn
công Balan trước đó 6 ngày, tức là vào ngày 26-8-1939. Mười sáu đại đơn vị đã
chuẩn bị sẵn sàng, nhưng có vài diễn biến chính trị vào giờ chót đã làm Hitler
ra lệnh hoãn cuộc tấn công.
Lệnh hoãn chiến được cấp tốc truyền đến mọi đơn vị lớn nhỏ. Nhưng
có một đơn vị do trung úy Henher chỉ huy lại không nhận được lệnh kịp thời, nên
đã nổ súng, kéo qua biên giới tiến vào lãnh thổ Balan, chiếm một ngọn đồi chiến
lược với một nhà ga xe lửa và bắt một tù binh.
Khi gọi điện thoại về báo cáo chiến công, trung úy Henher được
lệnh phải thả tù binh và rút quân về tức khắc.
Mặc dù Đức đã nổ súng và đã chiếm đóng mấy địa điểm chiến lược
trên lãnh thổ Balan vào ngày 26.8.1939, nhưng khi đại binh Đức ồ ạt tấn công
qua biên giới, quân đội Balan vẫn bị đánh bất ngờ. Sự thiếu cảnh giác và không
làm những việc cần phải làm nhiều khi cũng đem lại những thảm họa thật không
lường trước được.
Những người thời ông Noê và ông Lót quả đã làm rất nhiều việc cho
cuộc sống thể xác, nhưng đã không làm gì trước những lời cảnh cáo của Chúa cho
nên họ đã phải chịu những thảm họa thật thảm thương.
11. Cùng làm việc với Chúa
Augustignasi Vadovaski là nhạc sỹ kiêm chính trị gia nổi tiếng của
Balan vào đầu thế kỷ XX cũng thế. Người ta kể lại rằng:
Một người đàn bà nọ có một đứa con đang tập tễnh đánh bài vỡ lòng
trên đàn dương cầm. Muốn động viên cậu bé hăng say hơn nữa trong việc học tập,
ngày kia, bà mẹ mua vé đưa cậu đến dự buổi độc tấu dương cầm của nhạc sỹ
Vadovaski. Để cho cậu con trai có thể thấy rõ, cũng như chiêm ngưỡng được nhà
nhạc sỹ đại tài, bà mẹ đã cố gắng mua cho được hai chỗ gần sân khấu.
Giữa lúc bà mẹ đang bận chuyện trò với một người bạn thì cậu bé
biến mất! Thì ra cậu bé đã trốn mẹ để lên tận sân khấu, và khi đến giờ trình
diễn, đèn trên sân khấu bừng sáng, màn được kéo ra, và người ta thấy cậu bé đã
ngồi chễm chệ trước cây đàn dương cầm từ bao giờ! Chưa hết ngạc nhiên, mọi
người đã nghe vang lên tiếng đàn ngập ngừng của cậu qua bài học vỡ lòng. Lúc
tiến ra sân khấu, nhạc sỹ Vadovaski mỉm cười nói với cậu bé:
- Cháu cứ tiếp tục đi.
Rồi ông bước tới, đứng đàng sau cậu bé, dùng bàn tay trái của mình
đệm bè thêm cho bản nhạc. Một lúc sau, ông sử dụng luôn cả bàn tay phải ôm trọn
lấy cậu bé và đệm luôn phần trên của bản nhạc. Bốn bàn tay quyện vào nhau. Nhà
nhạc sỹ đại tài và cậu bé đã tấu lên được một trong những khúc nhạc du dương lạ
thường. Khán giả hôm ấy đã không ngớt vỗ tay tán thưởng.
12. Sống phút hiện tại
Cậu Gioan Berchman đang hăng say chơi banh với chúng bạn. Cha xứ
tiến đến hỏi các cậu:
- Nếu một giờ nữa Chúa đến gọi chúng con ra khỏi thế gian, chúng
con sẽ làm gì bây giờ?
Một cậu thưa:
- Con sẽ chạy về nhà xin lỗi mẹ con, vì con đi đá banh chưa xin
phép.
Cậu khác:
- Con sẽ vào Nhà Thờ cầu nguyện, và xin cha giải tội, vì mấy tháng
nay con chưa xưng tội.
…………
Đến lượt Gioan Berchman nói:
Con cứ tiếp tục chơi banh cho đến khi Chúa đến gọi con, vì mọi
việc trong ngày: Đi lễ, học bài, phụ giúp cha mẹ, con đã hoàn tất, và giờ này
là giờ chơi banh của con, cha mẹ con đã cho phép.
Như thế cậu Gioan Berchman đang đá banh là cậu đang sống đẹp từng
giây phút hiện tại, nghĩa là cậu đang sống trong Nước Thiên Chúa!
13. Vinh quang từ thập giá
Nhà thần học nổi tiếng Teilhard de Chardin gồm tóm suy tư của mình
trong ba tiếng: “Đăng giả hội” (những gì vươn lên cao thì sẽ tụ hội với nhau).
Nếu vậy, thì đỉnh vươn cao nhất của nhân loại là được Kitô hoá, nghĩa là mọi
con người sống với Cha trong tâm tình con thảo của Đức Ki-tô, và tụ hội nơi
Chúa Ki-tô, vua vũ trụ. Thế nhưng, trước khi đến ngày quang lâm với ánh chớp
chói loà còn sáng chói hơn cả triệu triệu đèn pha hay bom nguyên tử ấy, thì Đức
Ki-tô phải chấp nhận bị dìm trong tăm tối: tăm tối của Vườn Dầu, tăm tối của
khổ hình thập giá, tăm tối của mồ đá… và hôm nay tăm tối nơi những người nghèo
đói, đau khổ, bị bách hại vì sống cho niềm tin, cho chân lý…
Hãy ghi nhớ một nguyên lý ngàn đời: có đau khổ vì chân lý mới đạt
được vinh quang, có qua thập giá vì Nước Trời mới đạt được phục sinh vinh hiển.
Bạn có sẵn sàng chấp nhận không?
14. Thấy điều cần thấy
Gene Perret, nhà sọan kịch cho Bob Hope, đang lắng nghe tiếp viên
hàng không hướng dẫn về những an toàn thông thường. Bà chợt chú ý hơn khi nghe
nói “Có thể có năm mươi cách để bỏ người yêu, nhưng chỉ có năm cách rời bỏ máy
bay.” Một vài giây sau, cô tiếp viên nói thêm: “Xin vui lòng quay thẳng ghế lại
và ngồi ở vị trí thoải mái nhất. Sau đó quý vị có thể dựa vào người hàng khách
ở đằng sau.”
Tại sao có một số người quan sát sự vật và tìm thấy điều hài hước
trong đó, còn những người khác thì không? Tại sao một số người quan sát sự vật
và tìm thấy Thiên Chúa, còn những người khác thì không?
Nếu một người nghẹt mũi không ngửi thấy hương của bông hoa hồng,
thì sự kiện đó không do bông hoa, mà do bản thân người ấy. Điều đó cũng đúng
đối với những người nói rằng không có Thiên Chúa (Ralph Richardson).
15. Yêu thương phải là điều cốt yếu
Bộ phim họat hình “Peanuts” có cảnh Charlie báo cho Snoopy đừng
đến gần nhà Lucy, vì hôm nay Lucy gặp chuyện không may. Snoopy không lời khuyến
cáo của Charlie, đã chạy đến nhà Lucy và gõ cửa. Khi Lucy gõ cửa, Snoopy đặt
một cái hôn vào mũi cô bé. Sau đó Snoopy vui vẻ nói: “Đó chính là để bạn chấm
dứt chuyện không may.”
Tôi có sẵn sàng làm những chuyện táo bạo, để đem tình yêu đến cho
một ai đó, nhất là những người xem ra không đáng yêu chưa?
Không ai cần tình yêu hơn người không đáng yêu. Nếu chúng ta chờ
cho họ trở nên đáng yêu rồi mới yêu họ, chúng ta sẽ phải chờ suốt đời. Chính
khi được yêu mà họ sẽ trở nên đáng yêu (Louis Evely).
16. Sẵn sàng
Có thể so sánh Nước Thiên Chúa với một đứa trẻ. Một đứa trẻ vẫn
sống và lớn lên, nhưng chưa trở thành người lớn. Nước Thiên Chúa cũng thế: nó
vẫn tồn tại và lớn lên, nhưng chưa đạt mức trưởng thành? Khi nào chúng ta có
thể mong chờ Chúa Giêsu đến trong vinh quang để tuyên bố một kết thúc từ lâu
mong đợi? Không ai biết được. Và đó là lý do tại sao Chúa Giêsu nói: “Anh em
phải luôn sẵn sàng” (Mt 24,44).
Tôi quan tâm thế nào đến lời thánh Phêrô: “Trong khi mong đợi ngày
đó, anh em phải cố gắng sao cho Thiên Chúa thấy anh em tinh tuyền, không chi
đáng trách và sống bình an” (2P 3,14).
Chúng ta làm việc để trưởng thành, chứ không phải để đạt một cái
gì đó (Elbert Hubbard).
17. Mọi chuyện có thể thay đổi, cần sẵn sàng
Từ nửa đầu năm 2011, nhiều hiện tượng thiên nhiên bất thường như
động đất ở Nhật, hay thông tin về sao chổi Elenin sẽ đi qua gần trái đất vào
cuối năm nay, làm cho nhiều người nghĩ ngày tận thế đã đến nơi. Ông Harold
Camping, người Mỹ, từng nói chắc nịch rằng: ngày 21 tháng 5 là Ngày Phán Xét và
ngày 21 tháng 10 là Ngày Tận Thế. Thế nhưng, những tiên đoán của ông đã không
xảy ra. Chúa Giêsu đã từng nói rõ: “Về ngày và giờ đó thì không ai biết được,
ngay cả các thiên sứ trên trời hay cả người Con cũng không; chỉ một mình Chúa
Cha biết mà thôi” (Mt 24,36). Chúa còn đề cập đến hai biến cố lịch sử trong Cựu
Ước là lụt Đại Hồng Thủy và thành Sôđôma bị thiêu hủy để mô tả khía cạnh bất
ngờ của ngày Quang Lâm.
Có em học sinh lớp 4 nói với cô giáo: “Nếu đúng ngày tận thế, con
nghĩ chúng ta học làm gì nữa.” Một nhóm sinh viên nửa đùa nửa thật: “Được chứng
kiến sự tận thế của thế giới quả là thời khắc lịch sử vĩ đại lắm chứ!” Các bà,
các cô nhà giàu thì vội rủ nhau đi xem bói, lên kế hoạch “tẩu tán tài sản”, mua
sắm thả cửa, đi du lịch. Riêng bạn và nhóm bạn sẽ làm gì?
18. Biết chọn và phải chọn
Nhạc sĩ Văn Cao có những vần thơ nói về vấn đề sống-chết nghe như
âm hưởng của Lời Chúa hôm nay: “Giữa sự sống và sự chết, tôi chọn sự sống. Để
bảo vệ sự sống, tôi chọn sự chết.” Sự sống là cái gì quý giá nhất trong cuộc
đời, vì thế đáng cho ta nâng niu, chọn lựa. Thế nhưng, đừng quên rằng sự chết,
nấp dưới vỏ bọc sự sống, cũng có sức hấp dẫn ghê gớm. Chẳng hạn sự chết của
rượu chè say sưa, của phim ảnh đồi truỵ, của ma tuý, của phá thai, của đời sống
buông thả. Người chạy theo tưởng nó là được sống, là cuộc đời, nhưng thực ra,
là phải chết. Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gọi đích danh đó là nền văn
minh sự chết. Ngược lại, để có được sống thật, thì phải dám chấp nhận chết:
chết vì quên mình để phục vụ đồng loại, chết do hy sinh từ bỏ cho những giá trị
của Nước Trời.
Hãy xác tín rằng chiến thắng cuối cùng thuộc về sự sống vĩnh cửu.
Vì thế, bạn hãy mạnh dạn hy sinh những sự sống giả tạo, để có thể đạt được sự
sống muôn đời của Chúa.
THỨ BẢY - CẦU NGUYỆN LÀ SỨC MẠNH
Lời Chúa: Lc 18, 1-8
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông
phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng mà rằng: "Trong thành kia, có một vị
thẩm phán không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta. Trong thành
đó lại có một bà goá đến thưa ông ấy rằng: "Xin ông minh oan cho tôi khỏi
tay kẻ thù.” Trong một thời gian lâu dài, ông không chịu, nhưng sau đó ông nghĩ
rằng: "Mặc dầu ta không kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng kính nể người
ta, nhưng vì bà goá này cứ quấy rầy ta mãi, nên ta sẽ xử cho bà ấy, kẻo bà ấy
đến mãi làm ta nhức óc.”
Rồi Chúa phán: "Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương
nói đó. Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn hằng kêu
cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? Thầy bảo các con, Chúa sẽ
kíp giải oan cho họ. Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin
trên mặt đất nữa chăng?"
TRUYỆN KỂ
1. Tin vào Chúa công minh
Tuần báo Công Giáo Dân Tộc số ra ngày 15/10/1995 ở Mục Trong Tuần,
có ghi một sự kiện như sau: Trong 4 năm thực hiện pháp lệnh tối cao của công
dân được Hội Ðồng nhà nước ban hành ngày 7/5/1991, riêng tại Thành phố Sàigòn
có 36 đơn vị chức năng đã nhận được 11,635 đơn từ, trong đó có tới 81.5% đơn từ
tố cáo khiếu nại về nhà cửa, đất đai. Theo số liệu chưa đầy đủ, đơn từ tố cáo
khiếu nại còn tồn đọng chưa giải quyết là 6,520 đơn. Bài báo đưa ra đề nghị:
"Ðể có thể giải quyết rốt ráo những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo của mọi
người dân khi quyền lợi chính đáng của mình bị xâm phạm, quyết định cuối cùng
của Ủy ban nhân dân các cấp chưa đủ thuyết phục, cần có một tòa án xét xử công
minh.”
Phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là biết đón nhận ý muốn của
Thiên Chúa, ngay cả và nhất là khi phải trải qua nghịch cảnh, thất bại, khổ
đau; phó thác như Chúa Giêsu đã sống chính là luôn tin rằng từ những mất mát,
đổ vỡ và ngay cả từ tội lỗi và sự chết, Thiên Chúa vẫn luôn có thể rút ra những
điều tốt đẹp cho con người.
2. Hãy xin thì sẽ được
Trong một lớp học nọ, một học sinh trung học không bao giờ để cho
cô giáo của cậu được yên, lúc nào cậu cũng tìm cách quấy phá cho cô tức giận.
Một buổi sáng nọ, trước giờ lớp cô giáo đang ngồi loay hoay viết thì cậu học
sinh xuất hiện. Không một chút kính nể, cậu hỏi cô:
- Cô đang làm gì đó?
Cô giáo trả lời:
- Tôi đang cầu nguyện với Chúa.
Liếc mắt thấy những dòng chữ bằng tốc ký, cậu học sinh tấn công:
- Chúa mà cũng biết đọc được tốc ký à?
Cô giáo vừa xếp tờ giấy cho vào cuốn Kinh Thánh vừa trả lời:
- Chúa có thể làm được mọi sự, ngay cả nhậm lời cầu xin của tôi.
Thừa lúc cô giáo chuẩn bị để bắt đầu lớp học, cậu học trò lanh tay
rút tờ giấy từ quyển Kinh Thánh và cho vào cuốn sách của mình.
Hai mươi năm sau, người học trò ngổ ngáo ngày xưa nay đã là giám
đốc của một công ty. Một hôm, anh tình cờ xem lại cuốn sách của thời trung học,
mẫu giấy của cô giáo mà anh đã đánh cắp và cho vào cuốn sách của mình giờ đây
đã nhạt màu, anh cho mẩu giấy vào trong ví của mình. Trở lại văn phòng, anh xin
cô thư ký đọc giùm mẩu giấy được viết bằng tốc ký, mẩu giấy có chứa đựng một
lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, với sự chọc phá của Bill, chắc con
không thể nào tiếp tục dạy ở lớp này nữa. Xin Chúa hãy biến đổi tâm hồn em, em
có thể là một người rất tốt mà cũng có thể là một người rất xấu.”
Vài tuần lễ sau đó, Bill truy tìm chỗ ở của cô giáo ngày xưa, anh
cám ơn cô vì đã cầu nguyện cho anh. Lời cầu nguyện đã được Chúa nhậm lời ngoài
sự mong đợi của cô: "Hãy xin thì sẽ được. Khi các con cầu nguyện và xin
bất cứ điều gì, hãy tin rằng mình sẽ nhận được thì các con sẽ được ban cho điều
các con cầu xin.”
3. Nói chuyện với Chúa
Nhắc đến cuộc đời của cha Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars,
người ta không thể quên câu chuyện người nông dân xứ Ars cầu nguyện:
Mỗi ngày trước khi ra đồng, anh đều ghé vào nhà thờ cầu nguyện
giây lát rồi mới ra đồng. Khi trở về, anh cũng ghé vào nhà thờ để cầu nguyện
như vậy. Trong xứ ai ai cũng nể và kính phục về sự chuyên cần lao động và cầu
nguyện của anh. Nhưng người ta không biết anh nói gì trong lời cầu nguyện của
mình.
Một hôm có người hỏi: “Ngày ngày ông ghé vào nhà thờ mấy lần để
làm gì thế ?”
Anh nông dân trả lời: “Tôi nói chuyện với Chúa và Chúa bàn chuyện
với tôi.”
4. Ông có muốn vào không ?
Một người đưa tin phóng ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín. Ông gõ
cửa nhưng không ai mở cả. Ông biết trong nhà có người vì trước đó ông đã nhìn
qua cửa sổ thấy họ. Bởi đó ông nổi cáu vừa la lớn tiếng vừa dùng hết sức mình
đập vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 30 lần thì một cái đầu mới thò ra qua
một lỗ nhỏ trên cánh cửa, hỏi:
- Ông có muốn vào không ?
- Muốn vào không ư ? Tôi đã kêu cửa muốn khản cả cổ rồi đây này.
- Xin ông thông cảm. Mỗi ngày rất nhiều đứa bé hàng xóm cứ đến gõ
cửa để phá chơi rồi lại chạy trốn. Ban đầu chúng tôi tưởng ông cũng thế. Nhưng
khi nghe ông vẫn kiên trì kêu cửa, chúng tôi biết ông muốn vào thật nên mới mở
cửa cho ông (Bruno Hagspiel)..
5. Địa chỉ của lòng tin và tình yêu
Beppo Sala là một cậu bé 8 tuổi. Cha mẹ cậu rất nghèo mà phải nuôi tới 6 đứa con. Mẹ cậu lại sắp sinh thêm đứa thứ 7. Tuy còn nhỏ nhưng Beppo cũng biết khi đứa bé sinh ra thì nó phải thiếu thốn như thế nào. Cậu muốn làm một việc gì đó để giúp cha mẹ.
Cậu nhịn ăn quà, dùng tiền mua một chiếc bong bóng bay. Cậu viết một bức thư ngắn cột vào bong bóng rồi thả cho bay lên trời. Bức thư viết “Chúa ơi, trong vài tuần nữa mẹ con sẽ sinh em bé. Nhưng gia đình chúng con nghèo quá. Xin Chúa giúp chúng con tìm được một chiếc chăn và vài bộ quần áo cho nó. Đồ cũ thôi cũng được. Con là Beppo Sala, nhà ở Arcorle.”
Beppo về nhà hồi hộp chờ đợi. Chờ đã 3 ngày mà chẳng thấy gì cả. Đến ngày thứ tư, một nhân viên bưu điện mang tới nhà Beppo một thùng giấy lớn có ghi rõ “Người nhận: Beppo Sala, Arcorle. Người gởi: Rovingo.” Trong nhà chẳng ai có quen người nào tên Rovingo cả nên bảo nhân viên bưu điện trả về người gởi. Nhưng không có địa chỉ người gởi nên cậu bé đành mở thùng ra coi. Trong thùng toàn là quần áo trẻ con rất sạch và đẹp. Có cả một chiếc chăn nhỏ nữa.
Thì ra một người nào đó tên
Rovingo đã tình cờ nhặt được chiếc bong bóng và bức thư của cậu bé nên đã thay
Chúa gởi quà cho em của cậu.
Nhiều khi Thiên Chúa đáp lời cầu nguyện của chúng ta bằng một cách
thức và vào một thời điểm mà chúng ta không ngờ. (Pastor Paterno).
6. Chìa khóa thành công của satan
Hôm đó, quỷ vương tổ chức một bữa tiệc mừng sinh nhật thật lớn,
trong đó, những đặc phái viên của quỷ đều tụ tập về để báo cáo lại kết quả mà
chúng đã thu hoạch được trong việc bày ra những chước cám dỗ của chúng đối với
loài người.
Một tên quỷ nói:
- Trong một đoàn người Công giáo đi hành hương, tôi đã thả những
thú vật hoang dã của sa mạc ra tiêu diệt họ, và hiện nay hàng đống xương của họ
vương vãi trắng xóa trên cát.
Quỷ vương hồi hộp theo dõi:
- Rồi sao nữa ? Hãy tường trình tiếp đi ?
Tên quỷ than phiền:
- Nhưng mấy người Công giáo này cứ kiên trì cầu nguyện cho đến lúc
bị lũ thú dữ ăn thịt, vì thế linh hồn của bọn họ đều được cứu rỗi.
Quỷ vương thở dài chán nản.
Một tên quỷ khác nói:
-Tôi đã cho một luồng gió Tây thổi mạnh vào một con tàu chở đầy
người Công giáo, và tất cả bọn họ đều bị chết đuối.
Quỷ vương nôn nóng:
- Rồi sao nữa ? Thành công chứ ?
Tên quỷ này cũng phàn nàn: Cũng giống như trường hợp trên, linh
hồn của tất cả bọn họ đều được cứu rỗi.
Tên quỷ thứ ba báo cáo:
- Trong suốt 10 năm, tôi đã cố gắng cám dỗ một người Công giáo,
chỉ một người thôi. Tôi đã làm cho anh ta lơ là trong việc bổn phận và tôi đã
thành công. Bây giờ, anh ta đã trở thành một con người luôn sao lãng bổn phận.
Quỷ vương la lên vui mừng:
- Thế là hỏa ngục có thể ca hát mừng rỡ được rồi.
7. Lời nguyện tự đáy lòng
Một ẩn sĩ sống trên núi để suốt ngày cầu nguyện và thinh lặng.
Một sáng kia, có một thanh niên thăm ông.
- “Cheikh” (Tiếng A-rập có nghĩa là một người hiểu biết, một nhà
hiền triết) “Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.”
Vị ẩn sĩ đang chiêm niệm nên không ngước mắt lên.
Và người thanh niên buồn rầu ra đi. Ngày hôm sau anh trở lại:
- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.
Nhưng lời yêu cầu của anh cũng không được đáp trả, giống như hôm
trước. Tuy nhiên, vì rất tha thiết, anh trở lại một lần thữ ba.
Lúc ấy vị ẩn sĩ đang chuẩn bị bữa ăn đạm bạc của mình: chắc là anh
may mắn hơn.
- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.
Nhưng lời yêu cầu cũng không được phúc đáp
- Chẳng lẽ câu hỏi không quan trọng gì nên ngài không buồn nghe
sao ?
Bấy giờ vị ẩn sĩ ngước mắt lên nhìn với ánh mắt đầy nhân hậu,
nhưng, cũng giống như các ngày trước, ông vẫn làm thinh.
Được ánh mắt khuyến khích, ngày hôm sau, chàng trai lại đến, hy
vọng sẽ được ông trả lời
- Cheikh, xin dạy con cầu nguyện.
Trước sự im lặng kiên trì của vị ẩn sĩ, anh nổi giận.
Cuối cùng, vị ẩn sĩ mới nói với anh:
- Tôi không trả lời vì muốn thử xem anh có thực sự khao khát không.
Vì lòng khao khát của anh tự nó đã là một lời cầu nguyện rồi. Thiên Chúa chẳng
đòi hỏi gì khác hơn là anh tìm kiếm Người. (Truyện cổ Ảrập)
8. Con đỡ đầu của bà bán hoa
Trong một cuộc chuyện trò với một nhóm phụ nữ Công Giáo đạo đức về
ơn gọi Linh Mục, Đức Hồng Y Louis-Edouard Pie nói.
“Tôi biết rất rõ một cậu bé nghèo thật nghèo, chào đời nơi một
ngôi làng gần thành Chartres. Cậu bé nghèo ấy rất ước ao trở thành Linh Mục
nhưng song thân quá nghèo lại sớm lìa bỏ cõi đời khiến cậu trở thành đứa trẻ mồ
côi. Vào một ngày Lễ Ba Vua, cậu bé bước vào nhà thờ Chính Tòa Poitiers. Cậu bé
ngỡ ngàng và vô cùng xúc động khi theo dõi buổi cử hành Phụng Vụ. Thánh Lễ quá
đẹp và quá trang trọng khiến cậu bé cảm thấy cổ họng nghẹn cứng và không cầm
được nước mắt. Cậu bé bước ra khỏi thánh đường với khuôn mặt dàn dụa nước mắt.
Nơi công trường trước nhà thờ Chính Tòa có một phụ nữ bán hoa đang
ngồi đó. Trông thấy cậu bé khóc, bà động lòng trắc ẩn và âu yếm cất tiếng hỏi:
- Sao con lại khóc ? Bé cưng của bà ?
Cậu bé mếu máo trả lời:
- Con muốn trở thành Linh Mục nhưng con lại quá nghèo!
Người phụ nữ có quả tim vàng trả lời ngay:
- Chính bà sẽ giúp con, con an tâm!
Giữ lời hứa, người phụ nữ nghèo ấy, đêm ngày thức thật khuya dậy
sớm để làm việc. Bà làm việc thật vất vả nhưng kiếm đủ số tiền đóng cho đứa con
trai bà nuôi đang theo học nơi Chủng Viện.
Nói đến đây, Đức Hồng Y Louis-Edouard Pie với đôi mắt đẫm lệ,
nghẹn ngào kết thúc câu chuyện với nhóm phụ nữ Công Giáo đạo đức:
- Thưa quý bà, người phụ nữ nghèo tốt lành ấy nay đã qua đời.
Nhưng cậu bé nghèo kia đã kiên trì trong ơn gọi, đã thụ phong Linh Mục, rồi
Giám Mục và nay là Hồng Y. Cậu bé nghèo ấy chính là tôi đây, người đang nói
chuyện với quí bà và là Hồng Y của quí bà đây!
9. Ampere dạy cầu nguyện
Một chàng sinh viên Văn Khoa tò mò vào Nhà Thờ, tình cờ anh gặp
thấy nhà bác học Ampère, có thói quen cứ sau Thánh Lễ ông ở lại cầu nguyện. Anh
đợi nhà bác học cầu nguyện xong, anh theo nhà bác học về tới nhà và hỏi:
- Thưa ngài, con xin hỏi một điều, con học ngành Văn Khoa, nên không
dám hỏi về chuyện khoa học, con chỉ xin hỏi về vấn đề Đức Tin.
Nhà bác học ngỡ ngàng nói lại:
- Tôi là kẻ yếu kém về Đức Tin nhất, nhưng nếu có thể giúp gì cho
anh, tôi sẵn sàng.
Chàng thanh niên mừng rỡ hỏi tiếp:
- Thưa ngài, một người vừa là một nhà khoa học vĩ đại, vừa là
người Kitô hữu siêng năng dự Lễ cầu nguyện, thì có thích hợp không?
Ông Ampère ôn tồn đáp:
- Con người chỉ thực sự là vĩ đại khi người ấy biết dự Lễ và cầu
nguyện mà thôi! Chính Chúa Giêsu là bậc vĩ đại nhất, vì Ngài toàn năng, muốn gì
được nấy, cho kẻ đói ăn, chữa mọi bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỷ… thế mà
Ngài vẫn chu đáo việc cầu nguyện trước những sinh hoạt trong ngày. Điều ấy Đức
Giêsu đã khẳng định với mọi người: muốn là người vĩ đại, phải ưu tiên việc cầu
nguyện (x Mc 1,32-39). Chính vì vậy mà Ngài dạy mọi người rằng: “Chúng con hãy
cầu nguyện luôn đừng nhàm chán!” (Lc 18,1).
10. Bí quyết của thầy võ Giêsu
Mỗi môn phái võ đều có những thế võ đặc biệt để phòng thân, gọi là
“võ bí truyền.” Tuy nhiên, những thế võ bí truyền này có khi mất tác dụng vì
môn sinh không chuyên cần luyện tập. Tôn giáo nào cũng có những tôn chỉ và mục
đích nhằm dạy con người ăn ngay ở lành theo tiếng lương tâm.
Người kitô hữu có một bí quyết phòng thân là nghe và thực hành lời
của Chúa dạy để đề phòng cho linh hồn khỏi bị ma quỷ cướp mất. Nhưng trong thực
tế thì có nhiều môn sinh của thầy Giêsu đã khuất phục kẻ thù là ma quỷ, không
phải vì họ không nghe lời Chúa, cũng không phải vì họ không hiểu lời Chúa,
nhưng vì họ không chuyên cần tập luyện đêm ngày thế võ bí truyền của Thầy đã
chỉ dạy là cầu nguyện, cầu nguyện và cầu nguyện không ngừng.
11. Liệu có còn gặp niềm tin nữa không.
Tôi biết ông H. làm công nhân cho một xí nghiệp nuôi gà, nhưng lâu
nay tôi lại thấy ông ở nhà, nên tò mò hỏi:
- Sao kỳ này tôi thấy ông ở
nhà làm việc vặt, bỏ nghề nuôi gà rồi sao?
- Thưa cha, con không thể
tiếp tục làm trong sở đó được, vì đã mấy lần thủ trưởng ép con đồng lõa ăn cắp
gà. Có ngày ông ấy bảo con: “Tối nay ông trói 5 cặp gà lớn, mập để sẵn đấy cho
tôi, khi có người đến gõ cửa, ông đưa gà ra cho họ, tôi chịu trách nhiệm hết và
sẽ bồi dưỡng xứng đáng cho ông!”
Ngày khác ông ta lại ra
lệnh cho con phải lấy cái này cái kia trong xí nghiệp cho ông ấy! Cha thấy cứ
như thế thì lương tâm con chịu sao được?! Vậy mà không làm theo thủ trưởng thì
cũng chết với ông ấy! Do đó con đành xin nghỉ việc, dù chưa đến tuổi hưu, mà
nghỉ ngang như vậy sẽ không được hưởng lương hưu mặc dù con đã làm ở đó 25 năm
rồi. Con quyết định như thế là vì con nhớ lại Lời Thánh Kinh dạy: “Thiên Chúa
là cờ trận của tôi!” (Xh 17, 15).
Bởi thế, “ít tiền, ít của
mà là người công chính, còn hơn nhiều bạc nhiều vàng mà là kẻ ác nhân!” (x. Tv
37/36, 16).
12. Chẳng có gì để nghe
Một phụ nữ kia có một giấc mơ kỳ lạ: Một thiên thần đưa bà đến nhà
thờ để làm việc thờ phượng. Bà thấy một nhạc sĩ dạo đàn, thấy phím đàn lên
xuống, nhưng chẳng nghe thấy tiếng nhạc. Ca đoàn hát thánh ca, nhưng cũng chẳng
nghe được lời nào. Khi nhìn xuống cộng đoàn, bà thấy ai nấy đọc kinh, nhưng
cũng không nghe thấy âm thanh gì. Bà quay về phía thiên thần và hỏi: “Tại sao
tôi không nghe thấy gì?” Thiên thần trả lời: “Chẳng có gì để nghe cả.”
Thật đáng buồn là câu truyện đó nói lên một chuyện thường gặp
trong đời sống tâm linh, nhiều khi chúng ta giữ kỹ lề luật tỉ mỉ mà cuộc sống
không có gì thay đổi, lời tuyên xưng đứ ctin nằm sẵn trên miệng nhưng việc làm
của đức tin thì chẳng thấy gì, xét bề ngoài thì chẳng ai trách được điều chi
nhưng nhìn vào bên trong thì thiếu sức sống, thiếu lòng mến, thiếu một tương
giao thâm sâu với Chúa!
Qua cách hành xử của bà góa, Chúa đề cao sự kiên trì cầu nguyện.
Điều Chúa muốn thấy nơi các môn đệ là một đời sống tâm linh mạnh mẽ, một lòng
mến sốt sắng, và một mối tương giao thâm sâu với Thiên Chúa mà cầu nguyện là
phương thế không có gì thay thế được.
13. Chìa khóa hạnh phúc nằm trong túi
Giovanni Carnevali (1804-1876) là một hoạ sĩ tài danh nước Ý mà
những ngày tuổi trẻ trôi qua trong phóng túng, buông thả, và thậm chí còn đánh
mất cả niềm tin.
Khi đã quá lục tuần, sống ở Bergamo, một hôm ông lên đường về thăm
lại quê cũ ở Montegrino, Bắc Ý. Hôm đó trời đẹp nên ông quyết định thả bộ về
quê, … đến lúc trời tối đen ông mới về đến làng quê năm xưa. Mọi ngõ ngách
trong làng đều gợi lại trong lòng ông nhiều kỷ niệm thân yêu thời niên thiếu.
Cuối cùng ông đến trước cửa nhà mình. Ông đứng trong bóng tối bên
ngoài nhìn vào mái nhà xưa, và thấy cảnh gia đình đang quì gối lần hạt qua cánh
cửa sổ mở. Ông bất chợt bật khóc! Sau bao nhiêu năm bôn ba giữa giòng đời xoay
vần, ông thấy mình gặp lại được bầu khí bình an và linh thánh sống động thời
thơ ấu.
Đức tin thời niên thiếu sống lại trong ông, và ông quỳ gối bên
ngoài mà hiệp ý lần hạt với gia đình bên trong. Khi lần hạt xong, trào dâng xúc
động, ông lặng lẽ quay về Bergamo. Từ buổi tối hồng ân đó, ông bắt đầu một cuộc
sống mới tràn đầy niềm vui trong một niềm tin sống động, với chuỗi kinh Mân côi
là chiếc chìa khóa hạnh phúc lúc nào cũng nằm trong túi áo cho đến ngày ly
trần.
14. Cầu nguyện là nối với nguồn sức mạnh
Trải nghiệm của Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận có thể
giúp chúng ta hiểu thêm cách thức cầu nguyện trong mọi hoàn cảnh với
sự kiên trì. Trong cuốn “Năm chiếc bánh và hai con cá” ngài kể, có
người hỏi:
- Lúc còn trong trại giam, khi cầu nguyện, cha thích đọc
kinh gì?
- Dĩ nhiên là tôi thích những kinh Chúa Giêsu và Hội Thánh
dạy như: Kinh Lạy Cha, Kính Mừng, kinh Tin Kính…
- Chỉ có vậy thôi sao?
- Còn chứ! Tùy hoàn cảnh mà tôi có thể thưa: “Xin thương
xót con, vì con là kẻ có tội”, “Linh hồn tôi ngợi khen Chúa”, “Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm”, “Xin Cha cho chúng hiệp nhất nên một”,
“Con phó linh hồn trong tay Cha”…Và khi không còn sức để đọc một kinh,
tôi lập đi lập lại: “Giêsu, có con đây.”
Đèn điện không thể sáng, nếu không nối với nguồn điện.
Dòng sông sẽ cạn khô, nếu dòng suối bế tắc. Một người không còn khả
năng hít thở khí trời, chắc chắn sẽ chết. Chúng ta sẽ không thể
hoàn tất ơn gọi người Kitô hữu cách hoàn hảo, nếu không nối nguồn
với Thiên Chúa bằng lời cầu nguyện.
15. Chỗ dựa cho con người
Năm 1787, khi Geogre Washington, vị tổng thống đầu tiên của nước
Mỹ, và 55 chiến hữu trong cuộc đấu tranh giành độc lập họp nhau để bàn luận về
số phận tương lai của nước Mỹ thì Benjamin Franklin, một người có tuổi và được
mọi người kính trọng vì sự khôn ngoan, thông thái và đức độ, đã phát biểu:
“Thưa các ông, trước hết chúng ta hãy cầu nguyện! Tôi không còn sống bao năm,
mà càng sống, tôi càng nghiệm thấy rõ là chính Thiên Chúa chỉ huy công việc
loài người. Nếu một con chim sẻ rơi xuống đất cũng không ngoài thánh ý Chúa,
thì một quốc gia đang xây dựng tại sao lại không cần đến sự trợ giúp của Ngài?”
Và tất cả những nhà lập quốc Hoa kỳ đã đứng lên cầu nguyện.
Thiên Chúa không chỉ là chỗ dựa cho Benjamin Franklin mà trước đó
đã là chỗ dựa cho Đavít khi phải chạy trốn Ápsalôm, con mình: “Quá nhiều kẻ
đang nói về con: "Chúa Trời đâu cứu hắn!" Nhưng lạy Chúa, chính Ngài
là khiên che thuẫn đỡ, là vinh dự của con, là Đấng cho con được ngẩng đầu bất
khuất. Tôi vừa cất tiếng kêu lên cùng Chúa, Chúa liền đáp lại từ núi thánh của
Người” (Tv 3,3-5); Chúa là chỗ nương ẩn cho hoàng hậu Ét-te khi gặp sự khắc
khoải lo âu: “Lạy Chúa của con, lạy Vua chúng con, Ngài là Thiên Chúa duy nhất.
Này con đang liều mạng, xin đến cứu giúp con. Con cô đơn, chẳng còn ai cứu
giúp, ngoại trừ Ngài” (Et 4,17); Chúa cũng là nơi duy nhất Đức Kitô hướng về cả
khi Ngài thấy như bị Chúa bỏ rơi: “Lạy Chúa con thờ, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con
sao?”
16. Cầu nguyện là công việc của tình yêu
Chờ đợi có thể gây thất vọng, vì chúng ta không chủ động. Cũng
thế, cầu nguyện có thể gây thất vọng, vì chúng ta không chủ động, nhưng là
Thiên Chúa. Điều đó có nghĩa là con tim cứng cỏi của chúng ta đôi khi lang thang
đây đó lúc cầu nguyện. Chúng ta nên làm gì khi điều này xảy ra? Thánh Phanxicô
Salêsiô trả lời: “Hãy đưa con tim phiêu bạt trở về một cách yên lặng. Hãy trả
con tim nhạy cảm cho chủ của nó. Nếu trong suốt giờ cầu nguyện, bạn chẳng làm
gì, ngoại trừ gắn bó con tim với Chủ của nó, bạn đã cầu nguyện tốt đẹp.”
Khó khăn lớn nhất tôi trải qua trong giờ cầu nguyện hằng ngày là
gì?
Trong khi cầu nguyện, điều quan trọng không phải là suy nghĩ
nhiều, nhưng là yêu mến nhiều. (Thánh Têrêsa Avila)
17. Cầu nguyện và sức sống
Câu nói “dân ta vốn hiếu học” đang bị nghi ngờ, vì qua một số
nghiên cứu, 22% người dân được hỏi trả lời rằng họ không cần và không quan tâm
việc học nữa (X. Quốc Thanh, “Cú sốc của một người làm giáo dục cả đời,” Tuổi
Trẻ Cuối Tuần ngày 16/10/2011: 25). Có thể nói, dân ta đang đánh mất đặc tính
của mình. Phải chăng Ki-tô hữu cũng đang đánh mất chính mình như thế khi không
còn cầu nguyện? Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận khẳng định, nhiều
người mất ơn Chúa gọi, mất đức tin, phản bội Hội Thánh, vì họ bỏ cầu nguyện từ
lâu. Ngược lại, nhiều họ đạo, giáo xứ không có linh mục mà vẫn giữ vững đức tin
suốt nhiều chục năm là nhờ đọc kinh cầu nguyện trong các gia đình. Điều này cho
thấy, không phải Thiên Chúa vắng bóng khi con người cầu khẩn, nhưng Ngài luôn ở
với và phù trì những ai sống mối tình thân với Ngài. Vấn đề là liệu con người
còn cầu nguyện với Ngài không?
Lịch sinh hoạt hằng ngày của bạn có khoản nào dành cầu nguyện với
Chúa không? Nếu chưa, mời bạn điều chỉnh lại cho phù hợp với lịch sống của một
Ki-tô hữu.
18. Kiên trì cầu nguyện
Dan Reuttiger cao một thước tám mươi và mảnh khảnh. Anh có một ước
mơ là được chơi cho đội Notre Dame. Nhưng cả hai lần xin gia nhập đội, anh đều
bị từ chối. Anh đã dành ra hầu như suốt đêm cầu nguyện ở Our Lady kiểu hang
động trong khuôn viên của trường, và đến lần thứ ba thì anh đã được chấp nhận.
Không thể tin được là anh đã làm cho đội dành được sự ủng hộ của hơn năm mươi
ngàn người hâm mộ ở trận chung kết của mùa bóng. Hơn thế nữa, ước mơ của
Reuttiger còn được Holywood dựng thành phim.
Tôi có kiên trì như Reuttiger và bà góa trong bài đọc hôm nay
không?
Lạy Chúa, xin cho con sự cương quyết và dẻo dai của cây cỏ dại
(Leon Walters).
19. Trái táo thứ mười
Có một người hành khất không cơm ăn áo mặc cũng không mái nhà trú
nắng che mưa, đã ngửa mặt lên trời than thở kêu cầu chúa dủ lòng thương.
- Chúa động lòng thương gửi đến cho ông ba trái táo ăn cho đỡ đói.
- Kế đó Chúa lại gửi thêm ba trái táo nữa để ông đổi lấy tấm lá
làm nơi trú nắng che mưa.
- Lần thứ ba Ngài cũng gửi đến ba trái táo để ông đổi lấy manh áo
che thân.
- Sau cùng, Chúa gửi trái táo thứ 10 để ông dùng nó mà tỏ lòng
biết ơn vì chín trái táo trước.
Người hành khất nhận trái táo thứ mười, ngắm nghía thật lâu, càng
nhìn lại càng thấy nó ngon ngọt hơn chín trái táo trước. Ông thấy thèm nhưng
trong thâm tâm cũng quá rõ là Chúa muốn ông dùng trái táo thứ mười này để tỏ
lòng biết ơn ngài.
Cuối cùng, ông nghĩ: "Chúa có hàng triệu những trái táo khác
trên mặt đất này, vậy trái táo thứ mười này có là gì với Ngài đâu. Nghĩ rồi,
ông ta ăn luôn cả trái táo thứ mười và chỉ dành cho Chúa chút cùi ở giữa.
Lễ
kính - CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ
Lời Chúa Ga 2,
13-22
Lễ Vượt Qua của dân
Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem; Người thấy ở trong đền thờ có những
người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc. Người chắp
dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, Người
hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ, và bảo những người
bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha
Ta thành nơi buôn bán."
Môn đệ liền nhớ lại
câu Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi."
Bấy giờ người
Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có
quyền làm như vậy." Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ
này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại." Người Do-thái đáp lại: "Phải
bốn muơi sáu năm mới xây được đền thờ này mà ông, ông sẽ dựng lại trong ba ngày
ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi
Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh
Thánh và tin lời Người đã nói.
TRUYỆN KỂ
1. Lịch sử
Đại thánh đường
Latêranô được dâng kính Đấng Cứu Thế và từ thế kỷ XII cũng được dâng kính thánh
Gioan Tẩy Giả, là nhà thờ cổ nhất của Đức Giáo Hoàng, được mang danh là “Mẹ và
là Đầu của mọi nhà thờ trên thế giới."
Sau khi chiến thắng
các đối thủ tranh giành ngai hoàng đế, Constantin đã ký sắc lệnh Milanô vào năm
313 công nhận Kitô giáo là một tôn giáo hợp pháp trên đế quốc La Mã. Thế là các
tín hữu lục tục từ các hang toại đạo bước vào xã hội công khai, không còn sự bắt
bớ nữa.
Hoàng đế Constantin
làm một cử chỉ đẹp: nhường cung điện ở đồi Latran cho ccác Giáo Hoàng làm nơi
trú ngụ. Năm 324 Đức Giáo Hoàng Sylvester I đã thánh hiến đại thánh đường và cự
ngụ tại nơi đây cho đến thế kỷ thứ XIV, sau đó mới dời về Vatican, cạnh đền thờ
thánh Phêrô. Đây cũng là Vương Cung Thánh Đường của giáo phận Rôma, lý do: ngai
toà của vị Giám mục Rôma được đặt tại đây.
Đền thờ này được gọi
là “mẹ các nhà thờ” vì là nhà thờ đầu tiên được chính quyền hợp pháp công nhận
trên đế quốc La Mã và vì cũng là nhà thờ chính tòa của địa phận Rôma, nơi đó có
ngai toà của Đức Giáo Hoàng.
Qua các trận hoả hoạn,
động đất và càn quét của man dân, của Đức của Pháp... đại thánh đường Lateranô
phải tái thiết lại nhiều lần. Ngáy 28.4.1726 sau một công trình tái thiết lớn,
Đức Bênêđíctô XIII đã thánh hiến lại và công nhận ngày 9.11 là ngày thánh hiến
Đền Thờ.
2. Đền thờ tâm hồn
Nhà thờ gỗ đá đã
khiến Thánh Augustinô nghĩ đến nhà thờ tâm hồn. Việc xây dựng nhà thờ vật chất
làm Ngài nghĩ đến việc xây dựng nhà thờ tâm hồn.
Vì thế, trong lễ
khánh thành một nhà thờ ở giáo phận mình, ngài đã giảng như sau: “Điều đã diễn
ra lúc xây cất nhà thờ này cũng diễn ra khi các tín hữu tụ họp nơi đây: khi anh
chị em nghe loan báo Lời Chúa, khi anh chị em lãnh nhận bí tích Rửa tội, khi
anh chị em nghe giảng huấn, đó là những lúc anh chị em được cưa, được bào, được
ráp bởi tay các thợ mộc thợ nề. Nhưng ta chỉ xây dựng Nhà Chúa thực sự nếu mọi
người đều hợp nhất với nhau trong tình huynh đệ."
Mở đầu câu chuyện,
ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn “đứng đầu những người thu
thuế”) và lo thu tích của cải (“và là người giàu có”) - Cuối câu chuyện, ông
thay đổi hẳn: “Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này”; phân phát tài sản cho người
nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13
v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
3. Nhà thờ không có Chúa
Mohandas Karamchand
Gandhi là anh hùng dân tộc Ấn Độ, lãnh đạo cuộc đấu tranh chống chế độ thực dân
của đế quốc Anh và giành độc lập cho Ấn Độ với sự ủng hộ nhiệt liệt của người
dân trong đấu tranh bất bạo động.
Du học ở Anh và sau đó về Ấn Độ, Gandhi làm luật sư, tiếp đó làm việc tại Nam Phi - thuộc địa của nước Anh. Nam Phi nổi tiếng về phân biệt chủng tộc.
Ở Nam Phi, Gandhi có dịp đọc
Kinh Thánh của Kitô giáo, lập tức giáo huấn của Đức Giêsu cuốn hút ông, nhất là
tám mối phúc thật. Ông rất tâm đắc trước Lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát
và bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao
thấp, Do Thái hay lương dân...
Quyết định học đạo,
Gandhi đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi trong đạo và cũng để tìm
hiểu thêm về giáo lý Kitô giáo.
Tuy nhiên, khi ông bước đến cửa nhà thờ, thật là bất ngờ khi người giữ cửa trả lời: “Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu anh muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến nhà thờ khác dành riêng cho dân da màu mà xin."
Gandhi rất sốc, tức giận, bỏ về
nhà và không theo đạo Kitô. ông ghi lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như
sau: “Tôi rất thán phục Đức Giêsu và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của
Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của
Ngài! Nếu trong đạo Kitô mà cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo
có hơn gì Ấn giáo có phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập
đạo này. Tốt nhất là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống
theo giáo lý truyền thống của cha ông là đủ!”
4. Chúa chăm sóc đền thờ tâm hồn
Ngày kia Bà thánh
Catarina thành Sienna bị một cơn cám dỗ dường như quá sức của mình. Bà phải vất
vả lắm mới qua được cơn cám dỗ này. Sau khi cơn cám dỗ đã qua, Bà thấy Chúa hiện
ra Bà liền hỏi Chúa:
- Lạy Chúa lúc tâm
hồn con bị cám dỗ đầy những hình ảnh tối tăm nhơ nhớp như thế thì Chúa ở đâu?
Chúa trả lời:
- Con yêu quí của
Cha, Cha ở ngay trong lòng của con.
- Trong lòng của
con? Lẽ nào Chúa lại ở trong lòng của con trong những lúc như thế được?
- Vậy con hãy trả lời
cho Cha hay: Cơn cám dỗ đó đã làm cho con vui sướng hay cực khổ?
- Lạy Chúa khi đó
con vô cùng đau buồn và khổ cực.
- Con biết ai đã
làm cho con đau buồn và cực khổ như vậy nếu không phải là Cha ở trong lòng con?
Con có tin rằng nếu không có Cha ở trong con thì cơn cám dỗ dã lôi kéo con làm
cho con sa ngã phạm tội rồi không? Phần con, con đã hết sức chống cự, còn Cha,
Cha đã giúp con chiến thắng. Chiến đấu sẽ làm cho con trở nên vững mạnh và giúp
con có thêm nhiều công nghiệp”
5. Thiếu sót là chúng ta
Một ký giả hỏi mẹ
Tê-rê-xa: “Đâu là những thiếu sót của Giáo Hội hôm nay?” Mẹ trả lời: “Ông và
tôi, chúng ta là sự thiếu sót ấy, vì chính chúng ta là Giáo Hội.” Thật vậy, những
thiếu sót nơi Ki-tô hữu làm biến dạng gương mặt thánh thiện và khả ái của Hội
Thánh.
Đâu đó có vài Hội
Thánh thu nhỏ, thay vì là dấu chỉ Nước Trời lại có nhiều dấu vết của “hang trộm
cướp,” của “nơi buôn bán.” Có những Ki-tô hữu sống như vật lạ trong thân thể Hội
Thánh khiến cho sự sống của Chúa Ki-tô không thể phát triển; họ trở thành dị dạng
khiến người khác không thể nhận ra hình ảnh Đức Ki-tô nơi họ; đền thờ tâm hồn họ
đang dần trở nên sào huyệt của ma quỷ.
Thiếu sót ấy là
chúng ta.
Con số đông đảo những
người trên thế giới chưa nhận biết Đức Kitô, chưa được nghe nói về Ngài có làm
bạn ray rứt không? Phải chăng vì những thiếu sót của chúng ta, mà anh em lương
dân bị chặt đứt nhịp cầu đến với Đức Ki-tô? Phải chăng vì cộng đoàn chúng ta
chưa sống đời sống cầu nguyện nên anh em lương dân chưa nhận ra nhà Chúa là nhà
cầu nguyện? Phải chăng vì chúng ta chưa sống bác ái mà nhà Chúa trở thành “hang
trộm cướp”?
6. Nhà của Cha Tôi
Người mẹ có 4 người
con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi, nhất là vào lúc cha của chúng đi
làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa
thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm
ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn
giản: “Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về."
Không đầy năm phút mọi đồ chơi được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi
cho chúng ta cách thực hành ít nhất một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng
hôm nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha Tôi." Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của
Cha Người trên trần gian. Thỉnh thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ.
Người khích lệ những gì làm cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng thờ.
Người lên án những gì làm cho nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do
Chúa đuổi những người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu,
Người anh cả, mỗi người chúng ta có thể nói: “Đây là nhà Cha tôi." Ngôi
nhà thờ này, nhà thờ của chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà
của Cha chúng ta.
7. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi
xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh không thích vâng phục. Anh nói:
"Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế này, thế nọ. Không có tự do trong
việc này."
Cha sở không nói một
lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở
làm như không thấy. Cậu bé la lên: "Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha
không thấy dấu đằng kia à!"
Cha sở bình tĩnh trả
lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị
chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự
do hành động."
Cậu bé nhận ra bài
học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân chơi.
8. Sự điên rồ khôn ngoan
Ðức Giêsu quả là
điên rồ khi dám đụng tới Ðền Thánh Giêrusalem, vì đó chính là kết tinh của tình
cảm, đức tin và niềm kiêu hãnh của toàn dân do thái. Việc Ngài thanh tẩy Ðền thờ
mang tính cách trầm trọng chẳng khác gì ai đó dám xé cờ tổ quốc hoặc đập nát tượng
lãnh tụ một nước. Cho nên cái giá mà Ðức Giêsu phải trả cho việc này là Ngài sẽ
bị giết chết. Bài Tin Mừng hiểu được cái giá đó, nên có câu "Vì nhiệt tâm
lo việc Nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân."
Còn ông Phaolô thì
nói với các tín hữu Côrintô: "Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm
thiêng dấu lạ, còn người hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao
giảng một Ðức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể
chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ." Phaolô có đầy đủ mọi điều kiện để
làm một Rabbi đáng kính đối với người do thái, hoặc làm một triết gia đáng nể đối
với người hy lạp. Thế mà ông bỏ tất cả để đi làm một việc điên rồ là rao giảng
về thập giá.
Có nhiều điều trong
cách sống của kitô hữu cũng bị người không kitô coi là điên rồ. Do người ta coi
thế nên tôi không dám làm? hay dù người ta coi thế, tôi vẫn can đảm làm, theo
gương Ðức Giêsu và Thánh Phaolô?
9. Thanh tẩy đền thờ
Mahatma Gandhi, vị
thánh của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự thuật của mình, ông kể rằng khi còn
theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh Thánh, đặc biệt là "Bài giảng
trên núi." Ông xác tín rằng Kitô giáo chính là giải đáp cho hệ thống đẳng
cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự
nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một
nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ
nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ, xin mời ông đến một nhà thờ dành
riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không
bao giờ trở lại.
10. Nhà của Chúa
Lời nguyện sau đây
được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm
cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp mọi người nào cần đến tình thương của
đồng loại, anh em, nhưng cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị,
bất hòa.
Xin làm cho ngưỡng
cửa này đủ phẳng để những bước chân của trẻ thơ và những người lầm đường lạc lối
vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này
là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước Chúa.
11. Đức Giêsu xua đuổi người buôn bán
Vào dịp lễ Vượt qua
của người Do thái, Đức Giêsu lên Giêrusalem, thấy người ta đổi tiền, mua bán
súc vật làm ô uế Đền thờ, Ngài lấy làm khó chịu xua đuổi họ ra khỏi đền thờ:
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn
bán." Cũng nên biết là những người ở xa đến khó có thể đem theo súc vật để
hiến dâng, cho nên việc mua bán súc vật trong Đền thờ là cần thiết hay ít ra được
dung thứ. Vậy nếu việc mua bán súc vật là tiện lợi cho người từ xa tới, thì sao
Đức Giêsu lại tỏ ra khó chịu, lên tiếng cảnh giác những người buôn bán súc vật
quanh Đền thờ? Thưa chúng ta thấy có một số lý do:
a) Những khách hành hương
Lễ Vượt qua của người Do thái được tổ chức rất long trọng ở
Giêsrusalem. Theo luật pháp, mọi người nam Do thái sống cách xa Giêrusalem
trong vòng 25 cây số bắt buộc phải đi dự lễ. Trong các lễ của người Do thái, lễ
Vượt qua là lễ trọng nhất. Không phải chỉ có người Do thái trong xứ Palestine đến
dự lễ mà các người Do thái ở khắp nơi cũng hướng về quê hương và mong được mừng
lễ Vượt qua tại Giêrusalem ít nhất một lần trong đời, giống như người Hồi giáo
muốn hành hương về thánh địa La Mecque. Chuyện nghe thật đáng kinh ngạc, nhưng
dường như cũng đã có đến 2. 200. 000 người Do thái đã tập họp về Xứ thánh dự lễ
Vượt qua,
b) Việc dâng của lễ
Theo thói quen, mỗi khi hành hương lên Giêrusalem mừng lễ người
ta thường dâng của lễ bằng con vật sống. Trong sân đền thờ có chỗ bán con vật sống
là việc bình thường. Nhưng cái không bình thường là sự lạm dụng. Luật qui định
là bất cứ con vật nào dùng làm lễ tế đều phải lành lặn, không tỳ vết. Các chức
sắc quản trị đền thờ bổ dụng những người kiểm tra để khám xét con vật, mỗi lần
khám xét đều phải trả lệ phí một phần mười hai siếc-lơ. Nếu khách hành hương
mua một con vật ngoài đến thờ, chắc chắn con vật ấy sẽ bị từ chối khi khám xét.
Ngoài ra, mỗi con vật mua trong đền thờ có khi phải trả đắt gấp 15 lần so với
giá mua bên ngoài. Khách hành hương nghèo bị bóc lột trắng trợn khi muốn dâng lễ
vật. Sự bất công xã hội này càng tệ hại thêm vì nó làm dưới danh nghĩa tôn
giáo.
c) Việc đổi tiền
Luật buộc mỗi người Do thái phải nộp thuế cho đền thờ từ 19 tuổi
trở lên. Tiền thuế phải nộp là nửa siếc-lơ, bằng hai ngày lương công nhật.
Trong việc giao dịch bình thường, có đủ mọi thứ tiền ở Palestine, nhưng thuế nộp
cho đền thờ là một thứ tiền riêng của người Do thái, khách hành hương phải đổi
lấy thứ tiền này. Người ta lấy lý do là các thứ tiền khác bị xem là ô uế không
thể dùng để trả nợ cho Thiên Chúa.
Việc đổi tiền bạc có ăn lời đôi chút là chuyện thường. Kinh
Talmud qui định:”Mỗi người cần có đồng nửa siếc-lơ, người ấy phải chi cho người
đổi bạc chút ít tiền lời." Nhưng đàng này khách hành hương phải chịu những
tệ nạn bọn đổi bạc với giá cắt cổ. Nhìn thấy những sự bóc lột quá đáng như thế,
Đức Giêsu bừng bừng nổi giận. Thánh Gioan cho biết là Chúa đã lấy dây bện thành
một ngọn roi xua đuổi bọn họ và đạp đổ tung thùng tiền.
12. Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh thoảng đài
truyền hình VN lại cho chiếu bộ phim "Tiếng chim hót trong bụi mận
gai" mà tác gỉa là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin Lành. Khi viết cuốn
tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quang điểm của đạo Tin Lành để phê phán luật độc
thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ hội để
chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc sống
cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội.
Câu chuyện về một
linh mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là một linh mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng
đầy tham vọng. Vị linh mục này có khá nhiều ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người
đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc.
Trong số các người
mến mộ Cha Ráp, có một bà già quí phái giàu có. Bà quí mến Cha cách đặc biệt
nhưng không được đáp lại, nên tình yêu đã biến thành thù hận. Thay vì trả thù
theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc
đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài
sản kếch sù của bà cho Giáo Hội Công Giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo Hội
phải cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản đó. Cách trả thù của bà quí phái giàu có
đã thành công: Cha Ráp dần dần được cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo Hội.
Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của
Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái
với sự tình nguyện "sống độc thân vì Nước Trời" mà Cha đã khấn hứa.
13. Tiền vào, Chúa ra
Ở bên Pháp, có đôi
vợ chồng bác nông dân kia làm tá điền cho một ông bá tước giàu có. Đội vợ chồng
này tuy nghèo nhưng lại có lòng đạo đức. Mỗi buổi sáng, khi vừa nghe tiếng
chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã lập tức thức dậy và mau mắn đến nhà thờ tham
dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng. Sau lễ, họ trở về nhà, vội ăn sáng rồi vác cuốc
ra đồng làm việc và mãi đến chiều tối mới trở về nhà. Ngày nào hai vợ chồng
cũng đều đọc kinh tối chung với nhau trước khi ngủ. Họ luôn sống vui vẻ hòa thuận
và chưa hề nghe họ cãi vã to tiếng với nhau bao giờ. Họ được mọi người trong
làng khen ngợi bình chọn là một gia đình đạo đức tiêu biểu và họ trở thành
gương sáng cho các đôi vợ chồng khác học tập noi theo.
Ông chủ đất này muốn
thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền kia có thật hay không. Một hôm,
ông sai gia nhân mang một túi đựng 100 đồng tiền vàng đến bí mật để ngay trước
cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền. Sáng hôm ấy, khi mở cửa đi lễ như thường
lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng được ai đó để trước cửa nhà. Thế là đôi vợ
chồng thôi không đi lễ nữa và vội đóng cửa lại để đếm tiền. Đếm đi đếm lại mãi,
đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn uống và không ra đồng làm việc. Sau khi đã nắm
vững số tiền đang giữ, hai vợ chồng bàn định tìm chỗ để cất giấu cho an toàn. Mỗi
người một ý không ai chịu ai cả, và lần đầu tiên họ đã cãi vã nhau. Cuối cùng họ
nhất trí sẽ để túi tiền ngay dưới gối và nằm đè lên cho chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn
khống yên tâm, nên cả hai đều không dám rời xa chiếc giường. Thực đúng như lời
Chúa đã phán: "Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt
6,21). Lúc nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số tiền kia đến dộo ăn uống ngủ nghĩ thất
thường.
Cũng từ hôm ấy, hai
vợ chồng chẳng còn tha thiết cùng đi dâng lễ mỗi sáng và đọc kinh tối chung với
nhau nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ có ngày chủ nhân túi tiền đến đòi lại số
tiền ấy. Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều suy nhược và bị cảm ho
đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng của đôi vợ chồng này, một
hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói chuyện, ông đã ôn tồn giải
thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh của họ. Ông cũng tường thuật
cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để chứng minh lời Đức Giêsu nói:
"Không ai có thể làm tôi hai chủ!.. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên
Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và lời thánh Phaolô: "Lòng
yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ" (1 Tm 6,10).
Ông bá tước đã thuyết
phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng trả lại túi vàng cho ông không thiếu đồng
nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá điền đã tìm lại được sự bình an trong tâm
hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm đọc kinh dự lễ để thờ phượng Chúa, phó
thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng, và thực thi giới răn yêu thương như Đức
Giêsu đã dạy.
14. Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán
Các em thiếu nhi
thân mến,
Người ta kể rằng: một
người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày
chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không
nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng không nghe có âm thanh nào
cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói
nào cả.
Người ấy rất đỗi ngạc
nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói: "Ông không nghe thấy gì, vì không có
gì để nghe cả. Những người trong nhà thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà
chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không
thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ
nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ Chuá bằng môi bằng
miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu rồi.
Có bao giờ các em đọc
kinh hay hát thánh ca trong nhà thờ mà không suy nghĩ gì đến lời kinh, tiếng
hát cuả mình không? Có khi nào ngồi đây nghe giảng mà tâm trí các em đang bay ở
mãi tận khung trời xa xôi nào đó không? Ðó chính là lối thờ phượng máy móc, vụ
hình thức của những nguoi đi đạo lâu năm. Họ đọc kinh theo thói quen. Họ hát
theo thói quen. Họ nghe giảng theo thói quen. Họ không còn ý thức đến hành vi của
mình nữa, và cũng không có một cảm xúc hay một tâm tình thờ phượng đích thực
nào trong những việc làm của mình.
Qua câu chuyện này,
người ta muốn nói điều gì? Thưa, câu chuyện này dậy ta một bài học quan trọng:
khi nào ta vào nhà thờ, thờ phượng Chúa, ta hãy đến đó với một tấm lòng ước muốn
ra mắt Chúa, và tôn kính Ngài trong mọi việc ta làm trong nhà thờ.
15. Thánh Đường, điểm hẹn
Một giáo xứ miền
quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất hẳn
hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng duy
nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc
phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của
cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu
là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì
muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại muốn
nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận, không
bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không thiếu,
nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn đề địa
điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân chúng
trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là
xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói khát.
Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau.
Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ
dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương tự,
họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn mà
hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không cần
một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt những
bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau…
Điểm gặp gỡ của
tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là
“đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên
xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
16. Xây dựng tâm hồn con người
Chuyện Mạnh Tử, nhà
tử tưởng, chính trị và giáo dục lớn của Trung Hoa, là người kế thừa tư tưởng
Nho gia của Khổng Tử, mồ côi cha từ nhỏ, vì thế mà người mẹ Chương Thị rất lưu
tâm đến việc nuôi dưỡng giáo dục Mạnh Tử nên người. Nhà Mạnh Tử ban đầu ở dưới
chân núi, gần nghĩa trang.
Mạnh Tử cùng lũ trẻ
con chơi đùa, thường gặp cảnh đưa tang nên cũng bắt chước theo: đào, chôn, lăn,
khóc. Mẹ Mạnh Tử thấy vậy ái ngại: “Chỗ này u ám, tang tóc không phải chỗ con ta
ở được."
Bà bèn chuyển nhà tới
gần một chợ phiên, đến buổi chợ là ồn ào huyên náo cảnh mặc cả trả giá, cảnh
buôn bán lời qua tiếng lại, chẳng thiếu chuyện lừa lọc, điêu ngoa. Mẹ Mạnh Tử lại
nghĩ: “Chỗ thị phi, gian dối này cũng không phải chỗ con ta ở được." Mạnh
mẫu không muốn con bị ô nhiễm bởi thói chợ búa chỉ biết mưu đồ kiếm lợi.
Lần thứ ba bà chuyển
nhà đến gần trường học. Tuy nhà cửa nhỏ bé tồi tàn, nhưng luôn có những Nho
sinh dáng vẻ cao nhã, phong thái chuẩn mực. Mạnh Tử cùng lũ trẻ túm tụm dưới gốc
cây tập tành học lễ nghĩa, nhân cách, chắp tay cúi chào, nhường nhịn, rất ra
dáng và cung kính, khiến Mạnh mẫu từ xa nhìn xem, trong sâu thẳm nội tâm rất
vui mừng: “Đây mới là hoàn cảnh cư trú tốt nhất cho con ta nên người."
Sách Tam Tự Kinh cũng viết rằng “Dưỡng bất giáo, nãi phụ quá”, “Giáo bất
nghiêm, sư chi nọa." Nuôi mà không dạy, là lỗi người cha; dạy mà không
nghiêm, là lỗi người thầy.
Dẫu cho việc tin
vào Chúa Giêsu là cớ vấp phạm đối với người Do Thái, và là sự điên rồ đối với
người Hy Lạp, là thua thiệt đối với dân ngoại gán cho những các Kitô hữu, song
chính các Kitô hữu đang là những người được hướng dẫn tiến đến sự khôn ngoan
khi chọn lấy Chúa Kitô là Đường Cứu Độ, vì chính họ được giáo huấn để sống
trong tình thương Thiên Chúa dành cho con người.
17. Yếu tố con người.
Paganini là một nhạc
sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX. Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm
như có một điều gì bất ổn và khi nhìn kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải
là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông lên đài danh vọng.
Ông đứng lặng trong
giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong
giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn. Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến
nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc. Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp
cây đàn quý giá của ông và đã đặt một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó. Trong
lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu, khiến ông mạnh dạn cầm
lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu.
Ông nói với khán giả:
Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng trong buổi
trình diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh tuý của âm
nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của nhạc sĩ. Phải
yếu tố con người mới là quan trọng.
Từ câu chuyện này
chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó chúng ta thấy Chúa Giêsu xua đuổi
phường buôn bán ra khỏi đền thờ, vì họ đã biến đền thờ, nơi cầu nguyện thành một
chốn buôn bán, thành một hang ổ trộm cướp.
18. Người bị kết án tử hình
Linh Mục Frank
Roof, cựu tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu bang Kentucky, kể lại một chuyện
cảm động về một tù nhân tên là Paul Kordenbrock.
Paul lớn lên trong
một môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết lý phổ thông thời đó là
"Hãy làm, nếu cảm thấy thích"
Chính triết lý này
đã lôi cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết tình trạng tệ hại này đến tệ hại
khác. Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn khi nhận được tin là mình sẽ bị
xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị
giam giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul
xin cha Roof ban phép giải tội, và xin được rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã
đưa đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul được giới thiệu đến các tử tội
Công Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban quản trị nhà tù để cho cha Roof cử
hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ bé đang từ từ chờ đón án tử của
mình. Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng
tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các tử tội.
Tất cả sự kiện này
không phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn
theo học các khóa giáo lý hàm thụ: lớp Cựu Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo
huấn Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở
thành một giáo lý viên có bằng cấp thuộc một giáo phận và đã thi hành chương
trình RCIA - chương trình dài một năm để khai tâm cho những người lớn- cho các
tử tội nhận đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul đã đưa ít là một người tử tội về với
Đức Kitô.
19. Mười điều răn mới
Mục đích giới luật
của Thiên Chúa không phải là để hạn chế chúng ta, nhưng là để chỉ cho chúng ta
phương cách sống. Giới luật của Thiên Chúa chính là ánh sáng cho những bước
chân của chúng ta, và là ngọn đèn soi chiếu đường đi cho chúng ta. Mười điều
răn của Người rất tốt đẹp. Nhưng lời giảng dậy của Đức Kitô còn đi xa hơn nhiều.
Kẻ nào hài lòng với giới luật cũ, thì cũng giống như một người vẫn cứ bước đi bằng
ngọn nến, sau khi đã có đèn điện rồi vậy.
Trong phần sau đây,
chúng ta nhìn vào mười điều răn dưới ánh sáng lời giảng dạy của Đức Kitô (Có thể
sử dụng hai giọng nói):
Cũ: Hãy nghe đây, hỡi
nhà Israel! Ta là Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Đấng đã đưa các ngươi ra khỏi
đất Ai cập, ra khỏi nơi chốn nô lệ.
Mới: Hãy nghe đây,
hỡi những người đi theo Đức Kitô, dân tộc mới của Thiên Chúa! Ta là Chúa, Thiên
Chúa của các con. Đấng đã đưa các con ra khỏi cảnh tối tăm, để đi vào ánh sáng.
Các con có thể nhìn thấy những hiệu quả của ánh sáng nơi lòng nhân ái, lối sống
ngay thẳng và theo lẽ phải.
Các con đã từng nô
lệ cho tội lỗi và những hành động sai trái. Hiện nay, các con phải sống trong tự
do của con cái Thiên Chúa.
Cũ: Ta là Chúa,
Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được có vị thần nào đi trước Ta.
Mới: Ta là Chúa,
Thiên Chúa của các con. Ta không phải là một Thiên Chúa xa lạ và xa cách các
con. Ta là bạn bè và người cố vấn của các con. Hãy coi chừng các vị thần, họ sẽ
phản bội các con. Tiền bạc là một loại thần phổ biến nhất. Các con không thể phục
vụ Thiên Chúa và tiền bạc được.
Cũ: Các ngươi không
được kêu tên Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, một cách vô cớ.
Mới: Kể từ bây giờ,
Ta muốn các con gọi Ta bằng một tên mới. Hãy gọi Ta là Cha. Hãy gọi tên đó
không phải trong sự sợ hãi, mà bằng tình yêu. Hãy cầu khẩn danh xưng đó trong sự
ca ngợi, biết ơn, cũng như hãy cho Ta biết những nhu cầu của các con. Tên của
các con đều được viết trong lòng bàn tay Ta.
Cũ: Các ngươi hãy
nhớ giữ ngày sabát.
Mới: Các con hãy
ghi nhớ rằng tất cả mọi ngày đều thuộc về Thiên Chúa, và hãy sống thánh thiện.
Nhưng hãy dành ngày đầu tiên trong tuần, ngày Chúa nhật, làm một ngày đặc biệt.
Đây là một ngày mà Đức Giêsu, người Anh Cả của các con, đã bẻ gãy xiềng xích của
sự chết và sống lại vinh quang từ hầm mộ. Ngày này nhắc nhở các con rằng các
con là một dân tộc đang hành hương tiến về miền đất hứa của sự sống đời đời. Sự
an bình và thư giãn của ngày Sabát là điều dự báo trước về niềm vui sắp đến.
Cũ: Các ngươi hãy
kính trọng cha mẹ.
Mới: Các con hãy
yêu thương cha mẹ, đó là những tâm hồn quí giá mà nhờ có họ, các con được mời gọi
vào bữa tiệc của sự sống. Các con hãy giúp đỡ cha mẹ khi họ cô độc. Hãy an ủi
cha mẹ khi họ đau yếu. Hãy săn sóc cha mẹ khi họ già cả và yếu đuối.
Cũ: Các ngươi chớ
giết người.
Mới: Các con không
được gây đau khổ cho người khác bằng bất cứ cách nào. Hãy thương xót như Cha
các con là Đấng thương xót. Đừng phê phán ai, và các con sẽ không bị phê phán.
Đừng kết án ai, và các con sẽ không bị kết án. Hãy yêu thương kẻ thù. Hãy cư xử
tốt với những người ghét các con. Hãy chúc phúc cho những người nguyền rủa các
con. Hãy cầu nguyện cho những người nói điều ác chống lại các con. Từ đó, các
con sẽ chứng tỏ rằng các con chính là những con cái của Thiên Chúa.
Cũ: Các ngươi chớ
phạm tội ngoại tình.
Mới: Các con hãy
yêu thương người bạn đời của các con, như thể đó là một nửa của các con. Sự
trung thành về thể lý là điều vĩ đại, nhưng sự trung thành trong tâm hồn lại
còn tốt đẹp hơn nữa.
Cũ: Các ngươi chớ lấy
của người.
Mới: Có nhiều cách
thức ăn cắp. Nếu các con chất đống và tích trữ những của cải mà các con không cần
đến, trong khi đồng loại của các con lại đang cần đến – đó là một hình thức ăn
cắp. Những tài sản trên trái đất này đều được dành cho tất cả những con cái của
Thiên Chúa. Như vậy, Ta nói với các con: hãy đem của cải cho người nào đang cần
đến, hãy chia sẻ cơm bánh cho kẻ đói khát, hãy cho kẻ rách rưới ăn mặc, hãy mở
lòng ra cho những người cô đơn và không có nhà, và ánh sáng của Thiên Chúa sẽ
chiếu tỏa trên các con.
Cũ: Các ngươi chớ làm chứng dối.
Mới: Các con hãy trở nên ánh sáng cho người đồng loại, chứ không
phải là nguồn tối tăm. Hãy dùng những lời lẽ để xây dựng, nâng đỡ và an ủi người
đồng loại. Nếu các con không thể tìm được điều gì tốt đẹp để nói về người đồng
loại, thì hãy giữ im lặng.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn vợ người khác.
Mới: Các con vẫn có thể phạm tội ngoại tình trong tư
tưởng và lòng ao ước, cũng như trong hành động. Tội ngoại tình ở trong tâm hồn
trong ước muốn chiếm đoạt người khác. Do đó, các con hãy phấn đấu giữ tâm hồn
thanh sạch.
Cũ: Các ngươi chớ thèm muốn tài sản của người khác.
Mới: Ta nói với các con: đừng thèm muốn bất cứ
tài sản nào. Đừng tích trữ kho tàng trên trái đất này. Nói đúng hơn, các con
hãy phấn đấu để làm cho bản thân mình được trở nên phong phú dưới mắt Thiên
Chúa. Nếu các con thèm muốn bất cứ điều gì nơi người đồng loại, thì hãy thèm muốn
sự ân cần trong tâm hồn và cách cư xử tử tế. Kết luận: Hãy tuân theo các giới
răn, không phải vì sợ hãi, mà vì lòng yêu mến. Và nếu bạn nhận thấy mười điều
răn là quá nhiều, không nhớ được, thì bạn có thể rút gọn thành hai giới răn:
Yêu mến Chúa hết linh hồn hết trí khôn, và yêu mến người đồng loại như chính bản
thân mình.
20. Đền thờ mới
Năm 1979, vài tháng
trước khi nhận giải Nobel hòa bình, Mẹ Têrêxa Calcutta đã được ông Tổng thư ký
Liên Hiệp Quốc P. Cuellar giới thiệu với đại diện các quốc gia như sau: “Đây là
con người quyền lực nhất thế giới.”
Được gọi là người
có quyền lực nhất, bởi vì Mẹ Têrêxa có thể vượt qua mọi rào cản về ý thức hệ,
tôn giáo, chủng tộc và chính trị.
Người ta vẫn còn nhớ
sau một trận động đất dữ dội, chính phủ Liên Xô (cũ) đã mời Mẹ Têrêxa đến mở một
trung tâm cứu trợ các nạn nhân. Mẹ Têrêxa nhận lời, nhưng đưa ra một điều kiện:
“Chúng tôi không thể sống mà không có sự hiện diện của Chúa Giêsu trong bí tích
Thánh Thể. Do đó, chúng tôi chỉ đến Liên Xô với điều kiện có một linh mục cử
hành thánh lễ hàng ngày cho chúng tôi.” Thế là một ngôi nhà thờ đã bị Lênin
đóng cửa suốt 70 năm, nay được mở cửa trở lại và Mẹ Têrêxa có thể đón tiếp bất
cứ ai Mẹ muốn.
21. Người chăm sóc những đền thờ tâm hồn
Trên tờ báo Thanh
Niên số ra ngày 02/3/2006 có một bài phóng sự mang tựa đề: Nữ “chủ hộ” anh hùng
của gia đình hơn 300 người.
Bài báo viết về nữ
tu Mai Thị Mậu được vinh dự là nữ tu Công Giáo đầu tiên được Chủ tịch nước
phong tặng danh hiệu Anh Hùng Lao Động. Năm nay, người nữ tu ấy bước vào tuổi
65 và là “chủ hộ” của một “đại gia đình” trên 300 con người, với 95% là người
dân tộc K’ho và Nùng. Trong số đó, một nửa lại là những người mắc bệnh phong
cùi. Mái nhà tràn ngập tình thương ấy ở rất gần chúng ta. Đó chính là trại cùi
Di Linh, Lâm Đồng.
Năm 27 tuổi, sau
khi tốt nghiệp trung cấp y tá, nữ tu Mai Thị Mậu đã tình nguyện về phục vụ những
người cùi ở Di Linh. Có thể nói: sau Đức cha Caissaigne, người có công thành lập
trại phong Di Linh, thì nữ tu Mai Thị Mậu là người gắn bó lâu nhất với những
người cùi: chị đã phục vụ người cùi trong suốt 38 năm trường!
Với tình yêu cao cả,
người nữ tu ấy đã dùng đôi tay hiền dịu để chăm sóc những đền thờ thân xác đã bị
hủy hoại, lở loét vì căn bệnh khủng khiếp. Gương mẫu của chị nữ tu nhắc nhở
chúng ta: ở bên cạnh chúng ta đây, còn có biết bao đền thờ thân xác đang hao
mòn vì bệnh tật, vì đói khát, vì thương tật. Chúng ta hãy biết trân trọng, cứu
giúp và đỡ nâng xác thân của những người khác vì đó là đền thờ của Chúa.
22. Chúa chơi trò trốn tìm
Một hôm, đang lúc
đùa vui với các thiên thần, Thiên Chúa ra cho họ câu đố vui có thưởng. Ngài
nói: "Ta muốn chơi trò chơi cút bắt với loài người. Các con nghĩ xem đâu
là nơi ẩn trốn tốt nhất mà con người khó tìm ra Ta được?"
Thế là các thiên thần
tranh nhau trả lời. Vị thì nói là Chúa hãy ẩn trốn ở đáy biển khơi, khó tìm lắm!
Vị khác lại nói là Chúa hãy ẩn mình trên những đỉnh núi cao, chẳng ai leo tới
đó được! Vị thì nói là Chúa hãy ẩn khuất giữa những lớp mây trời, loài người
không ai nghĩ tới... Thế nhưng Chúa chỉ cười và cuối cùng, Ngài nói: "Sai
bét hết. Chỗ ẩn nấp tốt nhất Ta có thể chọn để loài người không phát hiện được
Ta, đó là ngay trong tâm hồn của họ!" (phỏng theo Cha Anthony de Mello)
Ngày xưa thánh
Augustino cũng khắc khoải đi tìm Chúa suốt ba mươi năm đầu đời. Ngài miệt mài
tìm Chúa trong văn chương, trong triết lý, trong những học thuyết sai lầm và cả
trong những đam mê thế tục... nhưng chẳng gặp được nên cảm thấy khắc khoải buồn
sầu. Mãi đến tuổi ba mươi, ngài mới được ánh sáng chân lý chiếu soi và được đón
nhận Chúa. Bấy giờ ngài cảm thấy an bình hạnh phúc nhưng đồng thời cũng lấy làm
hối tiếc vì biết Chúa quá muộn: "Lạy Chúa, con yêu Chúa quá muộn màng.
Chúa vẫn ở trong con, đang khi con mải lo tìm Chúa bên ngoài.”
Chúa ở trong con,
còn con thì đi tìm Chúa bên ngoài! Thật là trớ trêu và trái khoáy, giống như ta
đang để chùm chìa khoá trong túi mà lại lục lọi tìm kiếm khắp nơi.
23. Mại thánh
Thượng Tọa Thích Nhất
Hạnh,một vị sư nổi tiếng ở hải ngoại,trong một lần thuyết pháp, Thượng Tọa có kể
câu chuyện:
“Lần kia ác thần Mara đến thăm đức Phật, ngài
hỏi:
- Sao bạn, kỳ này
làm ăn có khấm khá không? Mara gắt lên:
- Khá thế nào được.
Lúc nào tôi cũng bực tức: Nói thì phải nói dối, làm thì phải làm ác hại kẻ
khác, lại còn phải nghe đầy tớ của tôi cứ hay bàn về chuyện nhân ái, tha thứ
yêu thương, làm tôi muốn điên tiết lên! Tôi chỉ ước sớm ngày nào thoát ra khỏi
kiếp này để được làm Phật như ông!
Nghe Mara than
trách thế, đức Phật rất cảm thông, ngài nói:
- Bạn tưởng tôi làm
Phật sung sướng lắm sao? Các đồ đệ của tôi lợi dụng tôi xây chùa, tạc hình tôi
cho chúng sinh cúng bái, khuyến khích chúng sinh dâng nhiều lễ vật: nào gà, nào
xôi, nào trái cây đủ loại và nhiều món khác v. v… Tôi đâu có dùng những thứ đó,
nên sau lễ, mấy vị chủ trì chùa vơ hết những lễ phẩm đưa về phòng hưởng dùng,
như thế họ lợi dụng tôi mà trở nên giàu có, còn tôi chỉ hít khói nhang đen nghẹt
mũi, thâm môi, sạm mặt! Bởi vậy, nếu bạn biết làm Phật như thế thì tôi tin chắc
bạn sẽ từ chối.”
Lời Chúa Tuần 32 Thường Niên
Thường niên V - GS C - PS Ngoại lịch
