LỜI CHÚA TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNTN 15A
- dụ ngôn về người gieo giống
CNTN 15B
- Lệnh sai đi Nhóm 12
THỨ HAI
- Phần thưởng môn đệ Chúa
THỨ TƯ - Mặc khải cho kẻ bé mọn
THỨ SÁU
- Con Người là chủ ngày Sabbat
THỨ BẢY - Người tôi tớ hiền lành và khiêm tốn
CNTN 15A - dụ ngôn về người gieo giống
Mt
13, 1-9 hoặc 1-23
Ngày
ấy, Chúa Giêsu ra khỏi nhà và đi đến ngồi ở ven bờ biển. Dân chúng tụ tập quanh
Người đông đảo đến nỗi Người phải xuống thuyền mà ngồi, còn tất cả dân chúng
thì đứng trên bờ. Và Người dùng dụ ngôn mà nói với họ nhiều điều. Người nói:
"Này
đây, có người gieo giống đi gieo lúa. Trong khi gieo, có hạt rơi xuống vệ đường,
chim trời bay đến ăn mất. Có hạt rơi xuống trên đá sỏi, chỗ có ít đất, nó liền
mọc lên, vì không có nhiều đất. Khi mặt trời mọc lên, bị nắng gắt, và vì không
đâm rễ sâu, nên liền khô héo. Có hạt rơi vào bụi gai, gai mọc um tùm, nên nó chết
nghẹt. Có hạt rơi xuống đất tốt và sinh hoa kết quả, có hạt được một trăm, có hạt
sáu mươi, có hạt ba mươi. Ai có tai thì hãy nghe.”
Các
môn đệ đến gần thưa Người rằng: "Tại sao Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ?"
Người đáp lại: "Về phần các con, đã cho biết những mầu nhiệm Nước Trời,
còn họ thì không cho biết. Vì ai đã có, thì ban thêm cho họ được dư dật; còn kẻ
không có, thì cái họ có cũng bị lấy đi. Bởi thế, Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ:
vì họ nhìn mà không thấy, lắng tai mà không nghe và không hiểu chi hết. Thế mới
ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói về họ rằng: 'Các ngươi lắng tai nghe mà chẳng
hiểu, trố mắt nhìn mà chẳng thấy gì. Vì lòng dân này đã ra chai đá, họ đã bịt
tai nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, và lòng chúng hiểu được mà
hối cải, và Ta lại chữa chúng cho lành'. Phần các con, phúc cho mắt các con vì
được thấy; và phúc cho tai các con vì được nghe. Quả thật, Thầy bảo các con:
Nhiều vị tiên tri và nhiều đấng công chính đã ao ước trông thấy điều các con thấy,
mà không được thấy; mong ước nghe điều các con nghe, mà không được nghe.
"Vậy,
các con hãy nghe dụ ngôn về người gieo giống: Kẻ nào nghe lời giảng về Nước Trời
mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp lấy điều đã gieo trong lòng nó: đó là kẻ thuộc
hạng gieo dọc đường. Hạt rơi trên đá sỏi là kẻ khi nghe lời giảng, thì tức khắc
vui lòng chấp nhận, nhưng không đâm rễ sâu trong lòng nó, đó là kẻ nông nổi nhất
thời, nên khi cuộc bách hại, gian nan xảy đến vì lời Chúa, thì lập tức nó vấp
ngã. Hạt rơi vào bụi gai, là kẻ nghe lời giảng, nhưng lòng lo lắng việc đời,
ham mê của cải, khiến lời giảng bị chết nghẹt mà không sinh hoa kết quả được. Hạt
gieo trên đất tốt, là kẻ nghe lời giảng mà hiểu được, nên sinh hoa kết quả đến
nỗi có hạt được một trăm, có hạt sáu mươi, có hạt ba mươi.” Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Gieo hạt giống cho
mình
Tại
một vùng miền quê nọ có một người nông dân trồng được giống ngô rất tốt. Năm
nào những cây ngô của ông cũng cho ra những bắp ngô vừa to, vừa thơm ngon, hạt
nào cũng đều tăm tắp. Hàng năm ông đem ngô tới hội chợ của vùng để thi và lần
nào cũng giành giải nhất. Ai cũng cho rằng hẳn ông đang sở hữu một bí quyết nào
đó.
Ngày
nọ. một phóng viên đến phỏng vấn ông, anh ta rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng
người nông dân luôn chia sẻ những hạt giống ngô tốt nhất của mình với những người
hàng xóm ở các trang trại xung quanh.
Tại
sao ông lại chia sẻ những hạt giống tốt nhất của mình cho những người hàng xóm
và cũng là đối thủ trong các cuộc thi ngô hàng năm? – Người phóng viên hỏi.
– Ồ,
anh không biết à? – Người nông dân trả lời – Gió sẽ mang những hạt phấn hoa từ
cánh đồng này sang cánh đồng khác. Nếu những người hàng xóm của tôi chỉ trồng
những cây ngô không tốt thì rõ ràng, khi ngô được thụ phấn nhờ gió sẽ làm giảm
chính chất lượng ngô của tôi. Tôi muốn trồng ra những cây ngô tốt thì tôi cũng
tôi cũng phải giúp những người xung quanh trồng được ngô tốt đã!
Hóa
ra cuộc sống chỉ nhận lại những cái mình đã cho đi.
2. Tôn giáo có ích gì?
Có
một lần người thợ làm xà bông và một vị giáo trưởng đi dạo và chuyện trò với
nhau. Người thợ làm xà bông đã nói:
–
Tôn giáo có ích gì? Tôn giáo nào cũng rao giảng chân lý, bình an, lòng thiện hảo.
Nhưng ngài hãy nhìn vào thực trạng của thế giới: chiến tranh, đói khổ, và bao
nhiêu hệ lụy khác xem ra sẽ chẳng bao giờ chấm dứt. Tôn giáo đâu có giúp được
gì cho nhân loại?
Vị
giáo trưởng im lặng và hai người tiếp tục đi qua một khu phố nghèo. Tại một con
hẻm lầy lội, vị giáo trưởng chỉ vào một em bé ăn mặc bẩn thỉu, và nói:
–
Ông hãy nhìn đứa bé kia. Ông cho rằng xà bông để tẩy xóa nhơ bẩn trên thân thể
và quần áo của con người. Vậy ông hãy thử nhìn đứa bé kia. Xà bông của ông để
làm gì? Với tất cả mọi thứ xà bông hiện có trên thế giới, đứa bé nhơ bẩn này vẫn
cứ nhơ bẩn. Tôi chẳng biết xà bông dùng để làm gì?
Nghe
lời ấy, người thợ làm xà bông cãi lại:
–
Nó dơ bẩn là tại nó. Xà bông sẽ không có ích gì, nếu người ta không sử dụng nó.
Bấy
giờ vị giáo trưởng mới nhỏ nhẹ nói:
–
Ðúng thế, xà bông sẽ vô ích, nếu người ta không sử dụng nó. Tôn giáo cũng vậy.
Tôn giáo sẽ vô ích nếu con người không sống theo tôn giáo của mình.
3. Chủ nghĩa vô thần nảy
sinh từ tín hữu?
Trong
một cuộc phỏng vấn dành cho báo Figaro, Đức Hồng Y Paul Poupard, chủ tịch văn
phòng đối thoại với những người không tin, đã nhìn nhận cuộc hành hương của
500.000 người trẻ về quảng trường Compostellos như biểu tượng cho nỗi khát vọng
và sự tìm kiếm những giá trị tâm linh.
Con
người không thể sống mà lại không nhìn nhận một chiều kích tâm linh siêu việt
trong đời mình. Người ta loan báo Thượng Đế đã chết, nhưng hôm nay người ta lại
nhìn nhận sự hiện diện sống động của Ngài ngay giữa lòng những xã hội tục hoá
hay vô tín ngưỡng.
Đồng
thời ĐHY cũng nhìn vào sự xuất hiện của nhiều giáo phái huyền bí hiện nay như một
thách đố cho Giáo Hội. Khi những khát vọng tôn giáo hay không tìm được lời giải
đáp nơi Giáo Hội thì người ta sẽ lần đến những giáo phái khác. Vì thế, sau
thách đố của chủ nghĩa vô thần, là thách đố về mục vụ đối với Giáo Hội hôm nay.
Chính Công đồng Vat. II cũng đã xác quyết: Người tín hữu phải chịu trách nhiệm
không nhỏ trong việc khai sinh ra chủ nghĩa vô thần. Phải nói rằng họ che giấu
hơn là bày tỏ khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa và tôn giáo.
Chúng
ta có thể than phiền vì người đời không đón nhận Tin Mừng. Thế nhưng trước khi
than phiền, chúng ta cũng cần phải tự hỏi: Tôi đã thực sự rao giảng lời Chúa,
hay mới chỉ là rao giảng những suy nghĩ, những lập trường của cá nhân tôi.
4. Ngài dùng dụ ngôn mà
nói với họ nhiều điều
Một
Rabbi do thái kia rất thích dùng các câu chuyện để giải thích những chân lý. Có
một môn sinh hỏi ông tại sao ông thích dùng cách đó. Thay cho câu trả lời, ông
lại kể một câu chuyện như sau:
Ngày
xửa ngày xưa, chàng Sự Thật đi rảo khắp nơi, không mặc quần áo mà cũng chẳng
trang sức gì cả, cho nên ai nấy vừa thấy chàng là mắc cỡ đỏ mặt và chạy trốn hết.
Sự Thật buồn lắm. Một hôm chàng gặp nàng Dụ Ngôn mặc một chiếc áo muôn màu tuyệt
đẹp.
–
Anh Sự Thật ơi, sao anh buồn thế?
–
Tôi buồn vì tôi vừa già vừa xấu, không ai muốn nhìn tôi.
–
Không phải thế đâu. Nàng Dụ Ngôn cười đáp. Ðây anh hãy mượn chiếc áo của tôi mặc
vào. Rồi anh sẽ thấy điều gì xảy ra.
Chàng
Sự Thật mặc chiếc áo muôn màu của nàng Dụ Ngôn vào. Và chàng đi đâu cũng được mọi
người niềm nở tiếp đón.
Kể
xong câu chuyện, Vị Rabbi kết luận: Người ta rất khó đón nhận sự thật “trần trụi”,
nhưng rất dễ đón nhận sự thật được diễn tả bằng dụ ngôn.
5. Bốn thái độ trước Lời
Chúa
Chúng
ta hãy nghe chính Ðức Giêsu giải nghĩa 4 loại đất, tiêu biểu cho 4 thái độ của
con người trước Lời Chúa:
Ðất
vệ đường: những kẻ chẳng thiết tha gì đến Lời Chúa. Lời gieo xuống đó chẳng bao
lâu thì bị quỷ dữ cướp đi.
Ðất
lẫn sỏi đá: những người mau mắn đón nhận Lời Chúa nhưng không quý chuộng bao
nhiêu. Khi gặp chút gian khó thì bỏ cuộc.
Ðất
có nhiều gai: những người cũng đón nhận lời Chúa, nhưng điều họ quan tâm hơn là
những đam mê, vui thú, của cải… Các thứ sau này như gai góc um tùm dần dần làm
cho Lời Chúa chết ngạt.
Ðất
tốt: những người sốt sắng nghe Lời và quảng đại thi hành.
6. Giác ngộ
Một
ông vua nọ có thói quen mỗi ngày nghe một đoạn trong kinh Bagayad Gita.
Người
phụ trách việc đọc kinh này là một nhà sư đạo đức, thông thái. Cứ mỗi lần đọc
xong một đoạn kinh, ông lại dùng đến kiến thức uyên bác của mình để giải thích
cho vua nghe. Và ngày nào ông cũng đặt câu hỏi “Bệ hạ có hiểu những gì thần vừa
dẫn giải không?"
Nhưng
lần nào nhà vua cũng chỉ trả lời “Khanh nên hỏi điều đó với khanh trước đã”…
Ngày nọ, giữa lúc đọc kinh, ông bỗng được giác ngộ và nhận ra tất cả mọi sự đều
là hão huyền. Thế là nhà sư quyết từ bỏ mọi sự và lên đường bắt đầu cuộc sống của
một người hành khất.
Trước
khi ra đi, ông nói với nhà vua “Tâu bệ hạ, thế là cuối cùng hạ thần đã hiểu được:
Giác ngộ đích thực, hiểu biết chân lý chính là thực thi chân lý."
7. Đất xấu
Nhưng
vẫn còn đó những mảnh đất vệ đường, đá sỏi, bụi gai khi con người vẫn đọc Lời
Chúa, vẫn nghe Lời Chúa nhưng không để cho lời Chúa đâm rễ sâu trong tâm hồn
nên không sinh hoa kết quả:
Đó
là những kitô hữu nhưng sống buông thả theo các dục vọng trần thế: Chưa có vợ
có chồng nhưng vẫn ăn chung ở chạ. Đã có vợ có chồng nhưng vẫn lén lút với những
mối tình ngang trái.
Đó
là những kitô hữu, nhưng không biết tôn trọng sức khỏe và sự sống của kẻ khác:
chửi bới, bỏ vạ, cáo gian, đánh đập anh chị em xung quanh; sẵn sàng phá thai
hay cộng tác với người khác để phá thai.
Đó
là những kitô hữu, nhưng sống gian dối: không thành thật với các thành viên
trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ, trong các mỗi tương quan xã hội; bán
hàng giả nhưng vẫn nói là hàng thật, bán thức ăn bẩn nhưng vẫn cho đó là thức
ăn sạch.
Đó
là những kitô hữu, nhưng sống thiếu bác ái yêu thương, hằn thù ghen ghét nhau:
chủ trương giải quyết mọi vấn đề bằng bạo lực, hậu quả là nhiều người bị thương
tổn về thân xác và tâm hồn, thậm chí bị lấy đi cả tính mạng.
Đó
là những kitô hữu, nhưng không giữ đức công bằng: sẵn sàng cho vay nặng lãi;
vay mượn của cải người khác mà không trả; dùng thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản của
người khác.
Đó
là những kitô hữu, nhưng không ngăn chặn sự xấu, sự ác, trái lại, còn tiếp tay
để cho sự xấu và sự ác lan tràn khắp nơi trong gia đình, giáo xứ và xã hội.
Còn
chúng ta thì sao? Xin Chúa loại ra khỏi tâm hồn chúng ta mảnh đất vệ đường, sỏi
đá, bụi gai. Xin Chúa biến đổi tâm hồn mỗi người chúng ta trở thành những mảnh
đất tốt, để Lời Chúa được thấm nhập và sinh nhiều hoa trái, hầu xứng đáng lãnh
nhận sự chúc phúc của Chúa (x. Lc 11,28).
8. Hạt giống quý
Ở Đồng
Tháp Mười có một loại lúa gọi là lúa trời, vì lúa tự nhiên mọc trên cánh đồng
mênh mông đầy nước. Còn gọi là lúa ma vì mỗi ngày chỉ chín vài ba hạt mỗi bông
vào ban đêm, và sẽ rụng ngay khi mặt trời mọc. Muốn thu hoạch thì bơi xuồng vào
đồng lúa từ nửa đêm đến sáng.
Cây
lúa ma thích hợp vùng sình lầy trũng thấp, và có sức sống rất mãnh liệt. Hạt
lúa ma có râu dài 3 -4 cm, khi hạt chín rụng xuống, râu này sẽ cắm ngập vào bùn
non, ẩn nhẫn nằm đó chờ đến khi mùa mưa bắt đầu đem đủ độ ẩm cho đất thì hạt nẩy
mầm. Đến mùa nước nổi, nước dâng cao bao nhiêu thì lúa vẫn vươn đọt và bông cao
hơn mặt nước. Thân cây lúa ma cứng, bông lúa ít hạt vì hạt mọc thưa so với bông
lúa thường, hạt to hơn, thời gian hạt chín kéo dài từ rằm tháng 9 đến rằm tháng
10 âm lịch. Vì lúa mọc giữa đồng nước mênh mông và chỉ chín vài hạt mỗi bông
nên không thể gặt như giống lúa trồng mà thu hoạch bằng cách bơi xuồng vào đồng
lúa, dùng hai thanh tre đập ngọn lúa vào be xuồng cho lúa rụng vào xuồng.
Sau
khi đem về người ta ngâm lúa ba hôm rồi phơi khô thì râu lúa sẽ rụng đi, sau đó
đem xay. Hoặc sau khi đem lúa về, đem phơi xong dùng chày giả nhẹ cho gảy râu,
cách này làm hạt cơm lúa ma dẻo, thơm ngon hơn cách trên. Hạt gạo lúa trời rất
cứng cơm, thời gian nấu lâu hơn nấu gạo thường gấp ba lần. Cơm có màu hồng nhạt,
dẻo, rất thơm, ngọt và béo không gạo nào bằng, nước cơm chắt ra pha thêm mật
ong hay đường phèn là thức uống thơm ngon giàu dinh dưỡng.
Hiện
nay diện tích lúa ma bị thu hẹp rất nhiều, chỉ còn khoảng 500 ha ở Vườn Quốc
gia Tràm Chim, Đồng Tháp. Theo Tiến sĩ Dương văn Ni thì giống lúa ma đã có tên
trong bộ gen nguồn quý hiếm của Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế. Từ gen của những
cây lúa ma cao nhỏng gầy nhom này, các nhà khoa học đã áp dụng công nghệ sinh học
cho ra đời nhiều giống lúa thơm cao sản đã và đang trồng trên đồng ruộng Việt
Nam. Ở Brazil, người ta đóng gói gạo lúa ma, mỗi gói chỉ 200g xuất sang Mỹ với
giá 7 đô la một gói, tương ứng 3 500 USD một tấn. (KS. La thị Hiền, Lúa ma Đồng
Tháp Mười, Hạt ngọc trời ban)
Lạy
Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con biết đón nhận và thực hành hạt giống Lời
Chúa với cả tấm lòng nhiệt thành và trung kiên, đừng để những quyến rũ thế
gian, ba thù, chim trời, sỏi đá, gai góc, làm thui chột, lấn át, chết đi mầm sống
Lời Chúa.
9. Lời Thiên Chúa – Lm.
Minh Vận, CRM
Trong
số những vị anh hùng xây dựng Hợp Chủng Quốc, phải kể đến Benjamin Franklin, tạ
thế năm 1790. Ông là một văn sĩ, nhà ấn loát và xuất bản; lại còn là một nhà
phát minh, một khoa học gia, thương gia và nhà ngoại giao. Một hôm, ông nhận được
món quà từ Ấn Độ. Đó là một cây chổi bông lau. Nhìn cây chổi, ông thấy có vài hạt
còn dính lại ở đó, ông đã nhặt ra và lấy đem gieo, thế là hạt giống nảy mầm,
sinh hoa kết hạt. Tới mùa gặt, ông lại lấy những hạt giống đó đem phân phát cho
các bạn hữu xóm ngõ. Tất cả đều đem gieo và chẳng bao lâu, Hoa Kỳ đã có một kỹ
nghệ làm chổi bông lau phát đạt rải rắc khắp nơi trong quốc gia. Đó cũng là nhờ
Benjamin Franklin đã có sáng kiến và biệt tài, biết lợi dụng vài hạt giống nhỏ
mọn.
Các
bài Thánh Kinh chúng ta vừa nghe, tỏ cho thấy nghĩa vụ chúng ta là phải có: Lắng
nghe Lời Chúa – Rảo giảng Lời Chúa – Sống theo Lời Chúa.
10. Hạt giống xấu
Trong
cuộc họp báo đầu tiên của Bộ trưởng Giáo dục Trung Quốc, Chu Tế, phóng viên nhí
Lý Gia Hy, 12 tuổi, của kênh thiếu nhi Đài CCTV, đã chất vấn ông Bộ trưởng của
mình: “Cháu được biết ngành giáo dục đã có nhiều cố gắng trong việc giảm nhẹ cặp
sách đến trường cho học sinh, nhưng tại sao đến nay cặp của chúng cháu vẫn còn
rất nặng? Câu hỏi thứ hai là các bạn đều nói không đủ thời gian để ngủ, bác bộ
trưởng có cách nào để chúng cháu được ngủ nhiều hơn không?" Một câu cật vấn
nhẹ nhàng, nhưng làm cho người nghe nhói lòng! Trong một lá thư gởi Chúa Hài đồng
nhân dịp Giáng sinh, một em học lớp 4 đã than thở với Chúa Hài Đồng: “Con ước
mong sao chương trình học ở trường nhẹ hơn, dễ hơi để con có thời gian học Giáo
Lý và sinh hoạt Phong trào Thiếu Nhi." Là những người có trách nhiệm, khi
đọc lá thư, chúng tôi không khỏi chạnh lòng.
Quả
đúng như vậy, vì đa phần các em phải học sáng học chiều. Chưa đủ các em còn phải
tranh thủ học đêm; học chính khoá, học phụ đạo, học thêm, học bồi dưỡng, học
nâng cao…. Cả thời gian nghỉ hè cũng bị bớt trước xén sau. Tệ hại hơn nữa là
nhiều em Thiếu nhi Công giáo bỏ cả việc học Giáo lý, bỏ cả lễ ngày Chúa Nhật để
đi học thêm cho kịp chương trình ở trường. Tất cả chỉ vì chương trình học ở trường
quá nặng, quá ôm đồm.
11. Sức sống của hạt giống
Vào
một đêm nọ, người phụ nữ nằm mơ. Chị thấy mình bước vào một siêu thị. Khách
hàng tấp nập. Có một quày hàng đặc biệt, người ta chen chân không lọt. Chị ngạc
nhiên thấy Chúa Giêsu đứng bán ở quày hàng này.
Chờ
đợi đến phiên mình, chị hỏi: Chúa mà cũng bán hàng sao? Chúa bán cái gì ở đây vậy?
Chúa
trả lời: Ta bán mọi sự con đang ước muốn trong trái tim con.
Chị
nói liền một hồi: Thưa Chúa, con muốn có bình an, có tình yêu, có hạnh phúc, có
khôn ngoan và tự do không sợ hãi. Suy nghĩ một lúc, chị lại thêm: không chỉ cho
con mà thôi nhưng còn cho chồng, cho con và cho những người thân yêu của con nữa.
Chúa
mỉm cười và nói: hỡi con yêu dấu, ở đây,Ta không bán hoa trái mà chỉ bán hạt giống
thôi. (Anthony de Mello).
12. Hai khu vườn. – Lm.
Ignatiô Trần Ngà
Có
hai khu vườn nằm cạnh nhau, tuy cũng thuộc dạng đất màu mỡ như nhau, có điều kiện
tưới tiêu như nhau và cùng được gieo trồng bằng những hạt giống y như nhau… Thế
mà hai khu vườn này lại tương phản nhau cách lạ lùng.
Vườn
anh Nam thì đầy hoa thơm trái tốt, thu hút nhiều du khách đến xem: họ đua nhau
chụp hình bên những luống hoa xinh đẹp; họ trầm trồ khen ngợi những cành cây
trĩu trái, họ thưởng thức những trái cây ngọt lịm mới ngắt còn đang tươi…
Trong
khi đó, vườn chị Nữ bên cạnh thì đầy gai góc và sỏi đá, chẳng ai muốn để mắt
nhìn đến và nếu có ai liều lĩnh bước vào khu vườn này thì cảm thấy rờn rợn
trong người.
Chị
Nữ rất buồn vì thấy vườn của anh Nam tốt đẹp hấp dẫn đến thế, còn khu vườn của
chị thì tệ hại quá chừng. Chị cho biết là chị và anh Nam cùng gieo vào khu vườn
của hai người những hạt giống hoa và cây trái như nhau, thế mà kết quả lại hoàn
toàn trái ngược nhau.
Sở
dĩ có sự khác biệt đáng tiếc này là vì anh Nam đã dọn sạch sỏi đá và mọi thứ
gai góc trong vườn trước khi gieo hạt; còn chị Nữ thì phạm phải một sai lầm tai
hại là bỏ qua công việc hệ trọng này.
13. Gieo và gặt
Nhạc
sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc “Gieo và Gặt” với giai điệu vui tươi, ca từ đậm chất
thơ và có ý nghĩa sâu sắc.
Gieo
thành thật, gặt được niềm tin.
Gieo
lòng tốt, gặt về thân tình.
Gieo
kiên nhẫn, sẽ gặt quang vinh.
Gieo
tha thứ, sẽ gặt được an bình.
Gieo
dối trá, sẽ ra ngờ vực.
Gieo
ích kỷ, sẽ chỉ cô đơn.
Gieo
kiêu hãnh, sẽ lãnh đau thương.
Gieo
đố kỵ, là ky cóp muộn phiền.
Gieo
cay đắng, sẽ tăng hủy diệt.
Gieo
biếng lười, ra người buông trôi.
Gieo
lo lắng, tay trắng âu lo.
Gieo
tội lỗi, suốt đời gặt tội lỗi.
Có
gieo thì mới có gặt. Gieo giống nào thì gặt giống đó.Thánh Phaolô viết: “Ai
gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu thì
sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà
gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời. Khi làm
điều thiện, chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn
lòng” (Gl 6,7-9).
14. Nước làm sạch rổ
rau.
Bà
vợ đi lễ về làm cơm sáng hơi muộn cho làm người chồng khó chịu. Người chồng thì
khô khan, thỉnh thoảng mới đến nhà thờ. Vợ thì siêng năng đi lễ để nghe Lời
Chúa.
Bụng
đang đói, chồng tức bực hỏi vợ:
–
Em đi lễ hằng ngày như vậy để được cái gì?
Bà
vợ trả lời:
–
Được nhiều lắm, anh ạ.
Chồng
hỏi tiếp:
–
Được cái gì?
Vợ
thản nhiên đáp:
–
Được nghe Lời Chúa. Được Lời Chúa soi dẫn và rửa sạch tâm hồn em!
Chồng
trợn mắt:
– Rửa
sạch?
Vợ
chỉ tay vào rổ rau mới rửa, trả lời:
–
Vâng, nước đã làm cho bụi bặm rổ rau này sạch trơn!
Người
chồng hiểu, lặng thinh và suy nghĩ!
15. Lời Chúa khắc ghi
trong lòng.
Hôm
ấy, một nhà thừa sai Công giáo gặp một cậu bé người Ả rập trên đường từ trường
về nhà. Nhà truyền giáo vui vẻ hỏi:
–
Sao, hôm nay con học thêm được gì về sách Coran?
Mắt
cậu sáng lên và mau mắn đọc thuộc lòng những câu trích từ sách Coran là sách
thánh của các tín đồ Hồi giáo. Nhà truyền giáo nói thêm:
–
Bây giờ, con thử viết những lời đó trên đất để cha có thể hiểu dễ dàng hơn và học
mau thuộc hơn không?
Cậu
bé đáp:
–
Thưa cha, không được! Lời Thánh phải được viết trong trí và ghi khắc trong lòng
chứ không thể viết trên đất được.
16. Rao giảng bằng cuộc
sống.
Khi
một người ra đi gieo Lời Chúa, người ấy không biết rõ việc mình đang làm và kết
quả của hạt giống đó sẽ ra thế nào thì ông H.L. Gee đã thuật lại cho chúng ta
câu chuyện sau đây:
Trong
xóm đạo của ông, có một cụ già cô độc tên là Tôma. Cụ thọ hơn bạn bè của cụ nên
không còn ai biết cụ nữa. Khi cụ Tôma qua đời, ông Gee nghĩ rằng không ai đi
đưa đám cụ nên ông quyết định đi để còn có người đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối
cùng. Không có ai đi đưa cả, hôm đó trời lại mưa dầm ướt lạnh. Khi quan tài đến
nghĩa trang, có một quân nhân đứng ở cổng chờ, đó là một sĩ quan nhưng trên áo
mưa không thấy quân hàm. Quân nhân đó đứng bên huyệt dự lễ an táng. Xong lễ,
ông ta tiến đến bên huyệt đưa tay lên chào theo nghi thức dành cho một vị vua.
Rồi ông Gee và quân nhân đó ra về.
Khi
họ đang đi, gió thổi bật cái áo mưa của vị sĩ quan và ông Gee thấy quân hàm của
ông ta, quân hàm thiếu tướng. Vị sĩ quan nói với ông Gee:
–
Có lẽ ông ngạc nhiên không hiểu tôi làm gì ở đây. Nhiều năm trước đây cụ Tôma
là giáo viên dạy giáo lý ở trường tôi. Tôi là một thằng bé ngỗ nghịch và là một
thứ gai nhức nhối cho cụ. Cụ không hề biết cụ đã làm gì cho tôi nhưng cả đời
tôi mang ơn cụ, và hôm nay tôi phải đến để nghiêng mình chào tiễn cụ lần cuối.
Ông
Tôma không biết được việc mình đã làm, không một giáo sư hay nhà truyền giáo
nào biết được. Công tác của chúng ta là gieo ra không chút nản lòng và phần còn
lại hãy để cho Chúa định liệu.
17. Hạt giống Lời Chúa
Ông
Chirgwin, trong quyển sách mang tựa đề: “Thánh Kinh trong thế giới truyền
giáo”đã kể câu chuyện sau đây:
Tokichi
Ishi-I, một tên giết người không gớm tay, đã đạt được kỷ lục hạ sát nhiều nạn
nhân nhất bằng những phương thế không thể tưởng tượng nổi.
Hắn
ta tàn nhẫn hạ sát đàn ông, đàn bà, kể cả trẻ con. Với bàn tay khát máu, hắn đã
thủ tiêu bất cứ người nào tình cờ hắn gặp và muốn giết. Nhưng cuối cùng, hắn
cũng bị bắt và bị kết án tử hình.
Lúc
ở nhà tù chờ ngày hành quyết, hai phụ nữ đi công tác tông đồ thử khuyên nhủ hắn,
nhưng tất cả những câu hỏi han, trò chuyện của họ không làm cho hắn mảy may cảm
lòng, trái lại hắn nhìn thẳng vào họ với cặp mắt dữ tợn như một hung thủ.
Cuối
cùng, mất hết kiên nhẫn, hai phụ nữ ra về. Hai bà chỉ để lại cho hắn quyển
Thánh Kinh Tân Ước, với một hy vọng mỏng manh là hắn sẽ đọc và Lời Chúa sẽ hoạt
động nơi mà tiếng nói con người trở nên hoàn toàn bất lực.
Niềm
hy vọng của họ đã trở thành hiện thực, Ishi-I đã đọc những câu chuyện trong Tân
Ước hình như có một sự thu hút mãnh liệt, khiến hắn cứ tiếp tục đọc, đọc mãi và
cuối cùng hắn đọc đến câu chuyện diễn tả cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Lời Chúa
Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha trên thập giá: “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng,
vì chúng không biết việc chúng làm." Lời ấy đã thắng sự chống trả cuối
cùng trong tâm hồn của hắn. Sau đó Ishi-I thuật lại:
“Đọc
đến lời ấy “Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng
làm”, tôi mới dừng lại. Con tim tôi hình như bị đánh động, bị đâm thâu bằng một
con dao dài. Tôi có thể gọi đó là lòng thương xót của Ngài? Tôi không biết,
nhưng điều duy nhất tôi biết là sự hung dữ, tàn bạo nơi tôi đã tan biến và tôi
đã tin."
Cuối
cùng, ông Chirgwin, tác giả câu chuyện này, kết thúc câu chuyện bằng sự ngạc
nhiên tột độ của những nhân viên nhà giam có phận sự đến dẫn Ishi-I đi hành quyết.
Họ đã không gặp một tên sát nhân hung bạo như họ chờ đợi, nhưng là một con người
hoà nhã, lễ độ. Ishi-I, tên sát nhân đã được Lời Chúa tái sinh.
(Câu
chuyện này khiến tôi liên tưởng đến một chuyện phim video mới đây được giải thưởng
Oscar, mang tựa đề: “Dead man walking” (Người chết biết đi). Ở các quầy cho
thuê băng video, mang tựa đề: “Tên tử tội”).
18. Hạt giống tình yêu
Người
ta kể rằng: Một người cha kia có ba đứa con trai, tuy sinh ra trong nghèo khổ,
nhưng nhờ chuyên cần làm việc và tiết kiệm, ông đã trở nên một điền chủ giầu
có. Lúc cuối đời, tuổi già sức yếu, ông tính việc chia gia tài cho các con, ông
muốn biết đứa con nào thông minh nhất để giao phó phần lớn gia tài của ông cho
nó. Ông gọi cả ba người con tới bên giường bệnh, trao cho mỗi đứa năm đồng và bảo
hãy đi mua cái gì có thể lấp đầy căn phòng trống trải và u tối của ông.
Ba
người con vâng lời cha cầm tiền ra chợ. Người anh cả nghĩ rằng việc này quá dễ
dàng, anh mua một bó rơm lớn đem về, người con thứ hai nghĩ kỹ hơn, anh mua những
bao lông vịt rất đẹp mắt, người con út lo nghĩ: biết mua gì với năm đồng này để
có thể lấp đầy căn phòng lớn của cha? Cuối cùng anh đã nghĩ ra, anh mua một cây
nến và một bao diêm.
Ngày
hôm sau, cả ba người con đều tụ họp trong phòng cha già. Người con cả mang rơm
ra trải, nhưng phòng quá rộng, chỉ phủ được một góc, người con thứ đổ lông vịt
ra, nhưng cũng chỉ phủ được hai góc của căn phòng. Người cha tỏ vẻ thất vọng.
Người con út từ từ rút trong túi ra một cây nến và một hộp diêm, thoáng một cái
căn phòng đầy ánh sáng. Mọi người ngạc nhiên, người cha già rất sung sướng vì
quà tặng của người con út, ông quyết định trao phần lớn ruộng đất và gia sản
cho anh ta, vì ông thấy anh ta đủ thông minh để quản trị gia sản của mình và nhờ
đấy cũng có thể giúp đỡ các người anh nữa.
Cuộc
sống mỗi người chúng ta, cuộc sống những người chung quanh chúng ta, cuộc sống
của xã hội chúng ta, có lẽ nhiều khi cũng giống như một căn phòng tối, chỉ cần
một người nào đó thắp lên một tia sáng nhỏ là những người chung quanh sẽ cảm thấy
ấm áp và phấn khởi hơn: một tia sáng nhỏ của cái mỉm cười, một tia sáng nhỏ của
lời chào hỏi thăm nom, một tia sáng nhỏ của tình yêu san sẻ, một tia sáng nhỏ của
cảm thông, tha thứ, một tia sáng nhỏ của niềm tin giải tỏa qua sự hân hoan chấp
nhận cuộc đời.
19. Hạt giống yêu
thương
Khi
ĐGM. Fulton Sheen thuyết giảng trước công chúng, giải thích về ngôn sứ Giona và
sứ mạng của ông. Thì từ trong đám thính giả có một người luôn tìm cách quấy
phá. Anh ta tỏ sự hoài nghi, liệu Thiên Chúa có làm cho Giôna còn sống sau ba
ngày nằm trong bụng cá hay không.
–
Vì quá mệt mỏi, ĐGM nói: “Bạn hãy quên điều ấy đi! Tôi sẽ hỏi Giôna khi tôi lên
thiên đàng.”
–
Anh ta hỏi lại: “Nếu ông Giôna không có trên ấy thì sao?”
–
ĐGM nói: “Thì chính anh sẽ hỏi ông ấy.”
Thật
vậy, cùng một nội dung của câu chuyện, của một bài giảng, nhưng thái độ của người
nghe đón nhận cách khác nhau. Người thì tâm đắc, người thì hờ hững, kẻ chống đối.
có người nghe như “nước đổ lá môn”; nghe như “Bò nghe Radio." Có người
nghe trong hoài nghi, chất vấn.
Trong
cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu cũng thế, trước tình trạng hờ hững, vô tâm của
dân chúng, để bắt đầu cho một loạt bài giảng bằng dụ ngôn của mình, Đức Giêsu
đã dùng một số hình ảnh rất thân quen, và bình dân để truyền tải sứ điệp của
Thiên Chúa. Như trong bài Tin Mừng hôm nay, dụ ngôn “người gieo giống” muốn nói
lên ý nghĩa, và tầm quan trọng của Lời Chúa, và khơi dậy thái độ của thính giả
khi nghe lời Người giảng dạy.
20. Hạt giống nụ cười
Anh
chàng Hans có khuôn mặt rất dị dạng, khó coi. Nên bị dân làng xa lánh, khinh miệt.
anh sống trong cô đơn và chết trong lặng lẽ. dân làng chẳng ai quan tâm đến cái
chết vô danh ấy.
Thế
nhưng, ít lâu sau đó, người ta đã tìm thấy tờ di chúc của anh. Hans đã ký để lại
một gia tài lớn: 40.000 Đôla cho em bé gái Amatin, vốn chẳng có quan hệ họ hàng
gì với anh. Trên tờ di chúc người ta đọc thấy lý do sau đây: “Mọi người đã cau
mày, quay mặt mỗi khi gặp tôi. Còn em bé Amatin đã âu yếm tặng tôi một nụ cười
khả ái, đầy tình thương. Đó là nụ cười duy nhất mà tôi đã nhận được trong suốt
quãng đời đau khổ của mình.” (Giấc mộng vàng)
Một
nụ cười giá 40.000 đôla, hơn thế nữa, một nụ cười đã đem lại hạnh phúc cho cả một
đời người. một nụ cười đã lấy lại giá trị cho cả cuộc sống hầu như vô giá trị.
Qua
câu chuyện trên, mỗi người hãy tự vấn lại lương tâm của chính mình: Có bao giờ
tôi tỏ ra cử chỉ thân thiện với người mà tôi không ưa thích; Có bao giờ tôi nói
tiếng “xin lỗi” với người ăn xin, khi ta không có gì cho họ hay không? Có một
giai thoại đầy tình người của nhà văn Tonxtoi như thế này: một hôm nhà văn
Tonxtoi gặp một người ăn xin, ông đã nói “xin lỗi người anh em” ăn xin của
mình. Người ăn xin cảm động nói: “Thưa ông, ông đã cho tôi cái mà chưa có ai
cho tôi bao giờ. Đó là ông đã coi tôi như người anh em của ông."
21. Hạt giống Goretti
Ngày
6 tháng 7 năm 2002, kỷ niệm một trăm năm ngày vị thánh nữ trẻ Maria Goretti
tuyên xưng tình yêu và lòng can đảm trung thành với Chúa Giêsu. Lên mười tuổi
thánh nữ rước lễ lần đầu với tất cả lòng yêu mến Chúa Giêsu.
Ba
tháng trước khi mừng sinh nhật thứ 12, một người hàng xóm tên là Alessandro
Serenelli đã cố hãm hiếp thánh nữ. Maria từ chối và kháng cự quyết liệt.
Alessandro đã dùng dao đâm nhiều nhát vào người Maria. Ngày hôm sau, ngày 6
tháng 7 năm 1902, thánh nữ đã qua đời trước khi tha thứ cho kẻ đã cố tình hãm
hiếp và giết người. “Phải, vì tình yêu của Chúa Giêsu tôi tha tội cho anh và
tôi muốn anh cùng ở với tôi trên thiên đàng."
Mang
đầy tủi nhục, đớn đau và bị mọi người xa lánh, Alessandro đã bị kết án vào tù.
Tuy nhiên, hạt giống tha thứ và yêu thương Maria đã gieo vào tâm hồn anh đã dần
dần phát sinh hoa trái. Anh đã cảm nghiệm được ơn trở lại.
Sau
27 năm tù, ngay sau khi được thả ra anh đi thẳng đến nhà mẹ của Maria để xin lỗi,
đồng thời cùng với bà đi tham dự lễ Giáng sinh, anh đã bước lên trước mặt cộng
đoàn, xác nhận tội lỗi của mình, và van xin sự tha thứ của Thiên Chúa, cũng như
của cộng đoàn. Chính anh đã đứng ra làm chứng để phong thánh cho Maria Goretti.
Ngày
24 tháng 6 năm 1950 anh đã đứng ở quảng trường thánh Phêrô khi Đức Giáo Hoàng
Piô XII công bố Maria Goretti là một vị thánh. Sau cùng, Alessandro Serenelli
đã chết vào ngày 6 tháng 5 năm 1970 trong tu viện Capuchin nơi anh đã xin vào
làm vườn để ăn năn đền tội và cầu nguyện.
22. Hạt giống Teresa
Calcutta
Xưa
kia Mẹ têrêsa thành Calcutta đã phải làm sự lựa chọn như vậy. Lúc mới bước vào
đời sống tu trì, Mẹ Têrêsa chưa bắt đầu giúp đỡ người nghèo khổ ngay. Khoảng
trên 20 năm Mẹ đã dạy học cho con cái của những người giầu có nhất ở Calcutta,
An Độ.
Mỗi
ngày Mẹ nhìn xuống xóm nhà nghèo bẩn thỉu và dân chúng sống chen chúc ngoài đường
phố xung quanh những người giầu có nơi Mẹ làm việc. Mẹ hài lòng với cuộc sống của
mình. Cho đến một đêm, Mẹ phải đi bộ về nhà và nghe thấy tiếng rên rỉ của một
người phụ nữ kêu xin giúp đỡ. Nhận ra tình trạng nguy kịch của bà, Mẹ Têrêsa vội
vã đưa bà vào một nhà thương gần nhất. Đến nhà thương, người ta bảo mẹ phải ngồi
chờ. Mẹ biết rằng người phụ nữ có thể chết nếu không được săn sóc thuốc thang
ngay lập tức, do đó Mẹ lại đưa bà vào một nhà thương khác. Một lần nữa Mẹ lại bị
từ chối. Người phụ nữ thuộc về giai cấp bị bỏ quên trong xã hội. Trong tuyệt vọng,
Mẹ đã đưa bà về nhà. Đến khuya bà đã ra đi êm ái trong cánh tay yêu thương của
Mẹ Têrêsa.
Đêm
hôm đó, Mẹ Têrêsa đã khẳng định rằng từ nay trở đi điều này sẽ không còn bao giờ
xảy ra nữa cho bất cứ ai Mẹ đã gặp, Mẹ đã quyết định dâng hiến đời mình để thoa
dịu vết thương của những người đang chịu đau khổ xung quang Mẹ. Dù sống hay chết,
họ phải được cư xử xứng đáng với phẩm giá của con người. Mẹ sẽ làm mọi sự trong
quyền hạn của mình để họ phải được cư xử tốt đẹp hơn với tình yêu và sự kính trọng
mà tất cả mọi người đáng được hưởng.
23. Hạt giống yêu
thương
Tại
Úc Châu có dân tộc Chimbu thuộc đảo Tân Ghinê. Hàng ngàn năm qua họ sống khép
kín trong những bộ tộc riêng tại vùng núi hiểm trở. Các bộ tộc này không quan hệ
với nhau họ sống hoàn toàn biệt lập. vì thế, chỉ có 3 tiệu người mà họ nói tới
700 ngôn ngữ.
Các
vị thừa sai cố học, đọc một ngôn ngữ, và họ dựa vào đó mà dịch ra một thứ tiếng
chung gọi là Esperanto, có nghĩa là niềm Hy vọng. Tiếng này được rút ra từ các
nhóm ngôn ngữ khác nhau để làm nên một thổ ngữ Melanesien.
Khi
chị nữ tu Mary Claude Đem Lời Chúa Đến rao giảng thì được họ đón nhận rất dễ
dàng. Dường như lịch sử truyền khẩu của họ qua các thế hệ đều nói tới một Vị
nào đó sẽ đến.
Chị
Mary Claude kể: “Có một bà góa trẻ làm công cho địa điểm truyền giáo để kiếm tiền
nuôi ba đứa con. Xảy ra có những người thuộc bọ lạc của bà đến xin tiền. Tôi
khuyên chị nên tiết kiệm tiền để lo cho các con. Nhưng chị ấy đã nói một câu
làm tôi bất ngờ: Chúa Giêsu dạy rằng ai cho người thân cận đang túng thiếu là
cho chính Chúa, nên con phải có bổn phận giúp đỡ họ."
24. Hạt giống đức tin
Hãy
coi trường hợp kẻ tống tiền anh Ba Đông (Badong), một Kitô hữu giáo dân, người
Phi Luật Tân. Trên đường đi dụ cuộc họp Thành Phố của Đức Maria tại Manila năm
1966, anh bị một chàng thanh niên giơ dao găm chặn lại để tống tiền. Lời Chúa
mà anh Ba từng học hỏi và chia sẻ, tự nhiên đến với anh, đòi anh phải yêu tha
nhân như chính mình, kể cả người thù địch đang cầm dao đe dọa anh.
Vậy
anh Ba Đông không những giao cho người ấy số tiền người ấy yêu cầu, anh còn mời
người ấy ngồi lại để giải khát và dùng bữa nữa. Kết quả thật lạ lùng: Cách đối
xử của anh Ba Đông khiến kẻ tống tiền tò mò tìm đến cuộc họp Thành Phố của Đức
Maria. Chính ở đây anh ta đã hoàn toàn được hoán cải bởi luật tình yêu, là giới
luật duy nhất của Thành Phố của Đức Maria.
Trước
mắt mọi người và trước sự ngỡ ngàng cũng như cảm động của họ, kẻ tống tiền đã
xưng thú và ăn năn trở lại. Trước kia anh ta khác nào thửa đất bên vệ đường, hoặc
đất đầy sỏi đá và đất ở giữa bụi gai, thì nay anh đã trở nên thửa đất mang lại
bông hạt gấp bội so với trước kia.
25. Nghe và hiểu
Mahatma
Gandhi, một vĩ nhân nổi tiếng cả thế giới, người đã dành được độc lập tự do cho
Ấn Độ mà không tốn một viên đạn, đấu tranh liên lỉ bằng phương pháp bất bạo động
hòa bình.
Một
hôm, trong lúc vội vàng lên xe lửa với một người bạn và bị tuột mất một chiếc
dép. Ông lập tức tháo ngay chiếc dép còn lại mà quẳng xuống sân ga, nơi ông vừa
đứng đợi tàu. Người bạn ngạc nhiên hỏi ông:
-
Sao anh lại quẳng cái dép của anh xuống đó?
- Để
có ai lượm, thì lượm được cả đôi mà đi.
Việc
quẳng ngay cái dép đó cho thấy những suy tính vị tha đã trở nên một phản xạ tự
nhiên, như bản tính thứ hai của ông. Cả đời Gandhi là hy sinh cho hạnh phúc người
khác.
Từ
đâu mà ông sống vị tha được nư thế? Có thể nói rằng Lời Chúa chính là yếu tố
căn bản xây dựng nên nhân cách đáng kính của ông. Dù không phải là một Kitô hữu,
nhưng lúc nào ông cũng có cuốn Phúc Âm ở ngay bên, để đọc, suy gẫm, và sống.
“Lời
Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt
kết quả” (Is 5,11). Đời sống Gandhi cho thấy Lời Chúa là lời mạnh mẽ, ban sức sống,
và luôn nảy sinh hoa trái tốt đẹp!
26. Mảnh đất tốt
Có
một người nông dân bị mất một chiếc đồng hồ trong kho thóc. Đó chỉ là một đồng
hồ thông thường thôi, nhưng nó có một giá trị đặc biệt đối với ông vì nó là kỷ
niệm vô giá từ người cha kính yêu đã mất của ông.
Sau
một thời gian dài tìm kiếm vô vọng, ông phải nhờ sự trợ giúp của những đứa trẻ
đang chơi bên ngoài. Ông hứa, nếu ai tìm được chiếc đồng hồ bị mất sẽ được thưởng.
Nghe
thấy vậy, đám trẻ nhanh chân chạy xung quanh kho thóc tìm kiếm. Chúng đi khắp
nơi, lục tìm ở mọi chỗ, từ nơi chứa thóc đến chỗ cho gia súc ăn, nhưng vẫn
không thấy. Khi ông đề nghị bọn trẻ dừng việc tìm kiếm thì có một bé trai chạy
tới và yêu cầu ông cho nó một cơ hội nữa.
Người
nông dân nhìn đứa bé và nghĩ: "Sao lại không? Vì cậu bé này có vẻ khá chân
thành!"
Ông
dẫn cậu bé trở lại trong kho. Một lúc sau, cậu đã chạy ra và trên tay là chiếc
đồng hồ của ông. Người nông dân rất vui và ngạc nhiên, ông hỏi: "Làm cách
nào mà cháu tìm được nó, trong khi tất cả các bạn đã bỏ cuộc?"
Cậu
bé đáp: "Cháu không làm gì cả, cháu chỉ đơn giản ngồi im một chỗ và lắng
nghe... Trong thinh lặng, cháu theo tiếng đồng hồ tích tắc mà tìm ra nó.”
Tại
sao vậy? Những suy tính vị kỷ đã ồn ào át đi tiếng tích tắc của tình yêu, những
suy tính đó làm cho ”lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo
mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được...”
Lòng
nhân hậu là mảnh đất tốt để nghe và hiểu lời Chúa: ”Còn kẻ được gieo trên đất tốt,
đó là kẻ nghe Lời và hiểu, thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra, kẻ được gấp
trăm, kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục." (Mt 13,1-23)
27. Thúng lúa cuối
cùng
Một
người nông dân do dự trước thúng lúa duy nhất còn lại: Đem gieo vãi hay cất giữ
để ăn từ từ mà nuôi sống gia đình? Cuối cùng, ông đã quyết định gieo vãi và kết
quả là một mùa gặt bội thu.
Thiên
Chúa còn quả quyết hơn nhiều trong vụ mùa cứu độ của Ngài. Ngài có Người Con Một
“vốn là Thiên Chúa và hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha” (Ga 1,18). Vậy trao ban
Quí Tử cho nhân loại để cứu độ nhân loại hay giữ lại? Không hề đắn đo trước quyết
định liều lĩnh này, mà vì tình yêu, Ngài sẵn sàng cho đi tất cả, cho đi cả Người
Con duy nhất của mình (Ga 3,16). Và chính Người Con này đã trở nên như hạt giống
chịu mục nát qua cái chết tủi nhục trên thánh giá để mang lại một mùa gặt bội
thu.
Mùa
gặt đó đang trải rộng đến tất cả những ai biết chuẩn bị mảnh đất tâm hồn mình thật
tốt, thật màu mỡ.
“Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
CNTN
15B - Lệnh sai đi Nhóm 12
Lời Chúa: Mc 6, 7-13
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu gọi mười hai
tông đồ và sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền trên các thần
ô uế. Và Người truyền các ông đi đường, đừng mang gì, ngoài cây gậy, không mang
bị mang bánh, không mang tiền trong túi, nhưng chân đi dép, và đừng mặc hai áo.
Người lại bảo: "Đến đâu, các
con vào nhà nào, thì ở lại đó cho đến khi ra đi. Ai không đón tiếp các con,
cũng không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi đó, phủi bụi chân để làm chứng tố
cáo họ.” Các ông ra đi rao giảng sự thống hối. Các ông trừ nhiều quỷ, xức dầu
chữa lành nhiều bệnh nhân.
TRUYỆN KỂ
1. Lời sai đi
Mỗi khi tham dự Phụng vụ Thánh
Thể, vào lúc kết thúc Thánh lễ, vị linh mục chủ tế nói với cộng đoàn: “Lễ xong
chúc anh chị em đi bình an!”
Nhiều người hiểu lầm coi đây là
lời chào tạm biệt của vị linh mục. Đây không phải là lời chào, mà là lệnh truyền
lên đường, còn gọi là lời sai đi. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta đón nhận Lời
Chúa và rước Thánh Thể. Vào lúc Phụng vụ Thánh lễ kết thúc, cũng là lúc một
Thánh lễ khác khởi đầu, đó là Thánh-lễ-cuộc-đời.
Giữa Phụng vụ Thánh lễ và
Thánh-lễ-cuộc-đời có một mối liên hệ mật thiết. Một linh mục thánh thiện đã
nói: “Trong Thánh lễ buổi sáng, tôi là tư tế và Chúa Giê-su là của lễ. Còn
trong thời gian trọn một ngày, chính tôi là của lễ và Chúa Giê-su là Tư tế.”
Như thế, lời tuyên bố cuối lễ là
lời nhắn nhủ các tín hữu với nội dung đại ý như sau: chúng ta vừa kết thúc Phụng
vụ Thánh lễ. Chúng ta vừa được nuôi dưỡng bằng Lời Hằng Sống và Thánh Thể. Giờ
đây chúng ta hãy khởi đầu một nghi lễ khác. Anh chị em hãy lên đường, để chia sẻ
những gì mình cảm nghiệm khi lắng nghe Lời Chúa và khi rước Thánh Thể trong
Thánh lễ này.
Lời tuyên bố của vị linh mục,
chính là lời sai đi, nhân danh Chúa Giê-su và nhân danh Giáo Hội.
2. Chúa cần đến chúng ta
Trong thời kỳ chiến tranh Triều
Tiên, một ngôi làng bị pháo kích nặng nề. Giữa làng có một ngôi nhà thờ, trước
nhà thờ có một tượng Đức Giêsu được đặt trên một cái bệ. Nhưng sau khi khói lửa
của trận pháo kích tan đi, người ta chỉ còn thấy cái bệ, còn pho tượng thì biến
đâu mất.
Những người lính đồng minh cố gắng
đi tìm và cuối cùng cũng tìm thấy tượng Chúa bị văng khỏi đó một khoảng khá xa.
Tuy nhiên hai cánh tay của Chúa đã bị hỏng mất. Họ cung cấp một chiếc máy bay để
chở pho tượng về Mỹ cho thợ làm lại hai cánh tay.
Nhưng Cha Xứ từ chối. Cha bảo cứ
đặt pho tượng lên bệ như cũ, phía dưới viết thêm hàng chữ: "Các con thân mến,
hãy cho ta mượn đôi cánh tay của các con.”
3. Chúa sai tôi đi
Sau thế chiến thứ nhất, một linh
mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi
truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy
nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha
cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao
lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp
tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo
đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt
sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh,
cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người
chung quanh:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã
trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: "Nay
con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng
nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm
chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa.” Và ngài an bình đi về với Đấng
mình đã trọn đời dâng hiến.
4. Một tấm gương đức tin
Một tội nhân được giong đi pháp
trường. Đến nơi hành quyết lính vây quanh thành ba vòng: vòng trong cầm gươm,
vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, sĩ quan oai vệ cưỡi ngựa cưỡi voi. Bỗng
tội nhân lên tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói riêng với
viên chỉ huy. Với viên chỉ huy tội nhân nói:
"Tôi xin gửi quan 30 đồng
tiền để xin quan một ân huệ: xin đừng chém tôi một nhát, nhưng chém ba nhát.
Nhát thứ nhất, tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất Việt Nam giảng
đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành nên tôi. Còn nhát thứ ba như lời
di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí trong đức tin, theo gương vị chủ
chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần phúc cùng các thánh trên trời."
Tội nhân là Đức Cha An (Giuse
Diaz Sanjurjo) vừa dứt lời, lính liền trói ngài vào cây cọc hình thập giá. Dân
công giáo có mặt oà lên khóc. Lính chém Đức Cha ba nhát như ngài đã yêu cầu. Đầu
và mình của vị tử đạo bị ném xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo
liền bị tống giam. Đồ đạc sách vở của Đức Cha đều bị đốt.
Đó là ngày 20 tháng 7, 1857. Trước
đó hai tháng, Đức Cha đã viết thư tạm biệt Đức Giám Mục và các linh mục trong
Giáo Phận. Từ nhà ngục tỉnh Nam Định ngày 28 tháng 5,1857, Đức Cha An viết:
"Tù nhân trong Chúa gửi lời
tạm biệt Đức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. Xin tất cả anh em
tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm... Gông xiềng tôi đang
mang được coi là những báu vật Đức Giêsu gửi cho tôi. Tôi vui mừng lắm và chỉ ước
ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hoà với máu cực thánh Đức Giêsu rửa linh hồn tôi
được sạch mọi tội lỗi. Xin anh em cầu cho tôi vững tin đến cùng..."
5. Đóng góp
Một vị Thị trưởng mở một Lễ hội
lớn và mời mọi thị dân đến dự. Phần thức ăn thì vị Thị Trưởng hứa cung cấp đầy
đủ. Phần rượu thì ông kêu gọi mỗi người khi đến dự hãy mang theo một chai, đến
đổ vào một thùng rất lớn rồi mọi người sẽ uống chung.
Tới ngày Lễ hội, ai nấy đều mang
chai rượu mình đến đổ vào thùng. Khi mọi người đổ xong, vị Thị trưởng cầm ly đến
múc từ trong thùng ra, rồi nâng ly tuyên bố "Lễ Hội chính thức bắt đầu.”
Tuy nhiên khi ông Thị Trưởng uống,
thì ôi thôi chỉ toàn là nước! Bởi vì ai cũng nghĩ rằng người ta sẽ mang rượu thật
đổ vào đấy, chỉ một chai nước của mình thì có làm loãng bao nhiêu đâu! Thế là Lễ
Hội thất bại thê thảm, chỉ vì sự tiêu cực và ích kỷ của thị dân.
Chúa mời gọi chúng ta cộng tác
vào công trình của Ngài. Chúng ta hãy là những người tích cực chứ đừng tiêu cực
như những thị dân trong chuyện trên. Chúng ta đừng chỉ biết nhận mà cũng hãy biết
cho.
6. Trang bị đầy đủ
Một chàng hiệp sĩ chuẩn bị làm một
chuyến viễn du. Chàng tính trước tất cả mọi tình huống có thể xảy ra, để trang
bị tất cả những điều cần thiết để đối phó.
Chàng mang theo một thanh gươm
và một bộ áo giáp để sẵn sàng chiến đấu với quân thù. Chàng mang thêm một bình
dầu chống nắng để thoa lên da phòng khi phải đi giữa trời trưa nắng gắt. Lại
mang thêm một cái rìu để đốn củi đốt lên phòng lúc đi lạc ban đêm trong rừng.
Chàng còn mang thêm một cái lều và rất nhiều chăn mền phòng khi gặp tiết trời
trở lạnh. Lại có cả nồi niêu xoong chão để nấu nướng kẻo có lúc không gặp được
quán ăn. Và chàng cũng không quên chở theo mấy bao ngũ cốc cho con ngựa vì sợ dọc
đường không mua được. Và với những hành trang rất đầy đủ đó, chàng bắt đầu lên
đường.
Nhưng mới đi được một khoảng thì
gặp một chiếc cầu cũ kỹ lung lay. Chàng mới đi được đến giữa cầu thì chiếc cầu
gãy sụp vì không chịu nổi sức nặng của mớ hành lý. Thế là anh chàng hiệp sĩ chết
đuối mà không hoàn thành được cuộc hành trình đã dự định.
Khi Đức Giêsu sai 12 tông đồ ra
đi truyền giáo, Ngài căn dặn họ một mặt đừng mang nhiều hành trang, mặt khác
hãy phó thác cho Chúa Quan Phòng. Muốn hành trình đi xa thì hành trang phải nhẹ
nhàng. Tuy nhiên ra đi với hành trang nhẹ nhàng đòi hỏi phải có đức tin vững chắc.
7. Chúng ta là công cụ của Chúa
Một ngày mùa đông, một người bộ
hành bắt gặp một cậu bé đang ngồi ăn xin ở dạ cầu. Cậu bé vừa lạnh run vừa rất
đói. Người bộ hành cảm thấy bất nhẫn nên nói với Chúa:
- Thưa Chúa, sao Chúa không làm
gì hết để giúp cậu bé này?
Chúa đáp:
- Ta đã làm rồi chứ.
Người bộ hành rất ngạc nhiên trước
câu trả lời ấy nên vặn lại:
- Nhưng dù Chúa có làm gì đi nữa
thì xem ra chẳng có hiệu quả gì cả.
- Ta đồng ý.
- Nhân tiện, xin mạo muội hỏi
Chúa một câu nữa: Chúa đã làm gì nào?
- Thì Ta đã tạo dựng nên con đó.
Chúng ta là dụng cụ Chúa dùng để
lo cho người khác, và chúng ta có trách nhiệm về hạnh phúc của người khác.
8. Ánh sáng của Chúa
Ở thành phố Dallas, bang Texas
Hoa Kỳ, có một cặp vợ chồng thất nghiệp hàng ngày đi lượm những lon bia và lon
nước ngọt để bán lại kiếm tiền sinh sống. Một hôm, đang khi tìm kiếm trong những
thùng rác, họ gặp được một cảnh rất đau lòng, đó là một đứa bé bị cha mẹ vất bỏ
và đã chết trong thùng rác. Họ báo cảnh sát để tìm cha mẹ đứa bé. Nhưng chẳng
tìm ra. Cũng chẳng ai đứng ra lo chôn cất đứa bé xấu số ấy.
Thế là hai vợ chồng nghèo này
quyết định làm việc đó. Họ lấy hết số tiền đang có để mua một chiếc quan tài nhỏ
và một bó hoa, rồi đưa tiễn đứa bé tới nơi an nghỉ cuối cùng. Có thể nói, những
giọt lệ của họ trước nấm mồ của đứa bé cũng thánh thiện như những giọt lệ Đức
Giêsu đã đổ ra trước nấm mồ của Ladarô.
Để trở thành ánh sáng tỏa chiếu
trong thế giới tối tăm này, chúng ta không cần phải có nhiều tiền, mà chỉ cần
có một tấm lòng biết hướng tới người khác.
9. Thánh Phanxicô Assisi truyền giáo.
Thánh Phanxicô gọi một thầy dòng
cùng đi giảng với ngài. Hai thầy trò cùng đi các đường phố Assise, cách nghiêm
trang, suy tưởng về Chúa... Về nhà, thầy dòng hỏi cha thánh:
- Giảng ở đâu ?
Cha thánh trả lời:
- Giảng là đem Chúa đến bằng
gương sáng, bằng cách sốt sắng mang Chúa trong tâm hồn.
Trong cuộc sống văn minh đầy tiện
nghi hôm nay, nhiều Kitô hữu đã lao mình vào cuộc sống vật chất, họ chỉ biết hưởng
thụ, thu tích cho nhiều của cải mà quên đi vai trò làm chứng của mình. Họ là những
Kitô hữu vô thần. Tại sao đã là Kitô hữu mà lại vô thần được ? Thưa, trên danh
nghĩa thì họ là Kitô hữu thật, nhưng trong thực tế, cách sống của họ hoàn toàn
là vô thần. Chúng ta có thể nói: họ còn vô thần hơn cả người vô thần nữa. Cách
sống thiếu gương mẫu của họ vô tình biến đổi từ nhân chứng đến “phản chứng”,
thay vì lôi kéo người ta đến với Chúa lại đẩy người ta ra xa Chúa hơn.
10. Indira tầm đạo.
Inđira đến gặp một đạo sĩ Makia
và ngỏ lời:
- Xin ngài hãy chỉ cho tôi một
thần linh để tôi tôn thờ và một tôn giáo để sống theo.
Đạo sĩ Makia liền đem Indira đến
toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi một vị thần được dành cho một căn phòng riêng.
Dừng chân đầu tiên trước tượng
thần Batđa đạo sĩ giới thiệu:
- Đây là vị thần sẽ cất hết sự
đau khổ khỏi thế giới.
Nhưng Indira lắc đầu và xin được
sang phòng khác. Trước vị thần thứ hai đạo sĩ Makia giới thiệu:
- Đây là nữ thần Sôpha có bí quyết
giúp con người tránh được đau khổ.
Nhưng Indira cũng lại xin đạo sĩ
đi nơi khác. Cuối cùng hai người dẫn đến trước một vị thần bị treo trên thập
giá. Indira tò mò hỏi:
- Vị thần này là ai mà bị treo
trên thập tự như thế ?
Đạo sĩ chậm rải trả lời:
- Đây là thần của những người đạo
Kitô.
Với chút xúc động lộ trên mặt, Indira
xin đạo sĩ giải thích thêm về những gì cần phải làm để trở thành đồ độ của Đấng
chịu treo trên thập giá. Đạo sĩ ngạc nhiên hỏi:
- Này anh Indira, anh làm tôi thắc
mắc. Hai vị thần anh gặp lúc trước, một đề nghị cất hết mọi đau khổ, một đề nghị
giúp tránh sự đau khổ, thế mà anh không thích vị nào cả. Tại sao anh lại thích
và muốn làm đồ đệ của Vị chết nhục nhãø trên thập tự như thế ?
Indira giải thích:
- Hứa làm mất đi sự đau khổ trên
trần gian này là hứa suông. Người ta không thể nào cất đi được những đau khổ.
Và dạy con người tránh đau khổ là dạy con người sống thấp hèn, và người ta cũng
không thể nào tránh được đau khổ. Nhưng nhìn vào vị thần của người Kitô chấp nhận
sự đau khổ trên thập tự, tôi hiểu được ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Rồi
một khi người ta hiểu và chấp nhận đau khổ thì niềm tin và an hòa sẽ trổ sinh
trên thế giới này. Đó là lý do tôi bị thu hút bởi Đấng chịu treo trên thập giá
kia, và muốn làm đồ đệ của Ngài. Vậy xin đạo sĩ đưa tôi đến nơi người Kitô sống
để được trở thành người Kitô.
Đạo sĩ dẫn Indira đến nhà thờ những
người Công giáo để xin lãnh bí tích rửa tội.
Khi vừa bước vào làng thì hai
người đã nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp. Đây một nhóm người đang cãi lộn.
Nơi khác có những kẻ như đang sắp đánh giết lẫn nhau. Nơi khác nữa thì nghe vẳng
lại những lời nói tục tĩu vô lễ. Bảng ghi “Coi chừng bị móc túi” được dán nơi
công cộng.
Indira hỏi đạo sĩ:
- Đây là đâu ?
Đạo sĩ trả lời:
- Thôi, chúng ta hãy đi nơi
khác. Tôi mộ mến và tin vào Đấng đã chịu đóng đinh trên thập giá. Nhưng tôi
không muốn trở thành người Kitô hữu nữa.
11. Người truyền các ông đi đường đừng mang gì
Một hôm, có người lạ mặt tới
thăm cha Don Bosco, Người này chào ngài như thường lệ.
- Chào Don Bosco, bây giờ ra
sao?
- Vẫn không có xu nào...
- Kỳ quá! Nếu bây giờ cha phải
có ngay một số tiền, thì cha sẽ làm gì?
- Tôi sẽ ngửa mặt lên với Chúa
Quan Phòng...
- Vâng, Chúa Quan Phòng! Lại
Chúa Quan Phòng! Một cách nói quá đẹp, nhưng tôi hỏi cha nếu bây giờ cha phải
có một số tiền ngay lập tức thì sao?
- Trong trường hợp đó, tôi sẽ
nói với ông: thưa ông xin ông ra phía cổng thì sẽ thấy có một người, lúc này
đây đang đem đến cho Don Bosco một món tiền dâng cúng.
- Sao? Cha nói thật không? Mà
lúc tôi vào đây, tôi chẳng thấy ai ngoài đó. Ai nói với cha?
- Chẳng ai nói với tôi hết,
nhưng tôi biết, và Chúa Quan Phòng cũng biết.
Người lạ mặt đó cũng rất bỡ ngỡ,
liền đi ra phòng khách và thấy có một người ngồi chờ ở đó. Người ấy hỏi:
- Có phải ông muốn gặp cha Don
Bosco phải không?
- Vâng, tôi mang đến cho ngài một
số tiền dâng cúng.
Và thánh nhân cũng vừa bước tới
cửa phòng:
- Ông thấy đó, tôi có lý để tin
tưởng vào Chúa Quan Phòng.
"Vì thợ thì đáng được nuôi
ăn"phải không chúng con? Chúa đã nói như thế mà.
12. Tìm lại được niềm tin
Một người lính già ngồi trên ghế
đá trong một công viên. Ông chụm đôi tay run rẩy trên đầu một cây gậy. Đôi mắt
mỏi mệt của ông nhìn vào khoảng trống. Bao cùng cực, bao thất vọng và khó khăn
đè nặng trên ông đến độ ông chỉ còn có thể lắc đầu than thở: “Không, không còn
có người tốt nữa!”
Vào lúc đó, có một bà ăn mặc
sang trọng đi ngang qua trước mặt ông, tay bà dắt một bé gái. Bé nhìn cụ già.
- Má, ông này làm gì thế ?
- Ông ngồi nghỉ, con thân yêu.
-Tại sao ông ngồi nghỉ ?
- Bởi vì ông mệt.
- Có phải là một ông ngọi (ngoại)
không ?
- Đúng, con ạ .
- Mề đay đeo trên áo ông là cái
gì vậy?
- Đó là một huân chương, bởi vì
ông đã đánh trận.
- Tại sao ông mặc áo cũ rách thế
?
- Tại ông không thể mua những áo
mới.
- Tại sao ông không thể mua những
áo mới ?
- Vì ông nghèo.
- Má !!!
- Gì thế con ?
- Hôm nay là lễ bổn mạng của con
phải không ?
- Ừ thì con biết đấy !
- Má, con có gì trong ngày lễ của
con không?
- Con có kẹo, có bánh ngọt, và
cái túi nhỏ trong đó có 20 quan Pháp. Con làm mất rồi à?
- Không, thưa má, còn đây.! . .
Má à !
- Gì con ?
- Hai mươi quan này là của con
phải không?
- Chắc chắn rồi !
- Cả hai mươi quan chứ ?
- Ừ, cả 20 quan.
- Con có thể làm những gì con muốn với số tiền
này chứ ?
- Đúng.
Thế là em bé rời tay mẹ, chạy
ngay về phía cụ già, mở cái túi nhỏ của em ra và rút tờ giấy 20 quan đưa cho cụ
già vừa làm vừa nói một cách thật dễ thương : “của cụ đấy !”
Đôi mắt của người lính già khốn khổ bỗng vụt
sáng.Ông cầm lấy tờ giấy bạc. Trong giây phút, ông không thể thốt ra được lời
nào, rồi bất thình lình, ông nói :
- Xin Chúa trả công cho cháu,
Thiên Thần tốt lành của ông!
Em bé đã trở lại bên mẹ.
- Má ơi, con có phải là một Thiên Thần không?
Cảm động, bà mẹ đáp :
- Phải, con là một Thiên Thần.
Thế tại sao con lại không có
cánh?
- Cũng có những Thiên Thần không
có cánh, con ạ !
Người mẹ ôm mạnh con vào lòng …
Và trên chiếc ghế đá lạnh nước mắt của người lính già chảy thành dòng ướt đẫm cả
bộ râu rậm của ông, bởi vì ông đã tìm lại được niềm tin vào con người.
13. Gỡ bỏ hành trang
Ulysses Grant là tổng tư lệnh
liên quân trong trận nội chiến, và sau này là Tổng thống Hoa Kỳ trong hai nhiệm
kỳ. Ông K.B.Washburn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, làm chứng về lối sống đơn giản của
ông Grant như sau:
“Khi ông Grant rời tổng hành
dinh, mở một chiến dịch quyết định, ông không đem theo hành trang như thói quen
các binh sĩ. Tất cả lệ thuộc vào phản ứng mau lẹ, điều quan trọng là ông không
bị cản trở bởi hành trang. Ông không đem theo tùy viên, không ngựa hay tôi tớ,
không đem theo áo khoác và ngay cả một chiếc sơ mi. Trọn hành trang của ông
trong 6 ngày –tôi có mặt lúc đó- là chiếc bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như một
người lính trơn, ngủ giữa màn trời chiếu đất.”
Tướng Grant đi tay không. Đức
Giêsu và các Tông đồ cũng vậy. Chúng ta vừa đọc, Đức Giêsu đã sai phái những
người lãnh đạo của Ngài ra sao. Người nói với họ: “Không đem theo đồ ăn, không
giỏ xách, không tiền và không áo ngoài nữa.”
14. Hạnh phúc của nhà truyền giáo
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam
đã ghi lại tên tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la
Motte và Đức Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Tòa Thánh đã đặt hai giám mục
này làm Giám quản Tông Tòa đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ
trách Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Campuchia, Lào, Thái Lan. Đức
Cha Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung
Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người
Pháp, từ bỏ gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, Ngài dùng tàu buồm vượt
qua Địa Trung Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước
Trung Đông, Vịnh Ba Tư, Ấn độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc
Việt Nam, lúc đi ngang qua Huế, thuyền của Ngài bị một cơn bão đánh giạt vào
Philippin. Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha. Với
sự can thiệp của Tòa Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải
qua nhiều gian khổ, nhưng tim Ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài
nói: "Tôi phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc.” Vừa được trả tự do, Ngài
tìm mọi cách để đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác Ngài được chôn vùi tại đây
theo như Ngài mơ ước. Một câu nói của Ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: "Tôi
tự cho mình hạnh phúc nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt
và tới Trung Quốc !"
15. khi anh em vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi
Ở với họ, chung sống với họ, họ
cho ăn cái gì thì ăn cái đó. Nói thì đơn giản, nhưng đi vào thực tế thì không
đơn giản chút nào vì mỗi địa phương đều có văn hóa ẩm thực khác nhau. Không cần
phải nói thời Chúa Giêsu, cách đây cả hơn hai ngàn năm, nói ngay tại đất nước
chúng ta, ở ngay vùng Kontum, cách đây hơn một trăm năm thôi, các nhà thừa sai
ngoại quốc đã gặp khó khăn như thế nào trong việc thích nghi với người dân tộc
Làng Hồ về cách ăn uống. Các ngài phải ăn cả những thịt thối rữa như một vị thừa
sai kể rằng:
“… Một hôm tôi yêu cầu một người
dân tộc kể cho tôi nghe các loại động vật mà chính anh ta và những người dân tộc
khác có thể ăn. Anh ta cười và nói với tôi: "Đúng hơn, tôi nên kể cho ông
nghe tên những loài vật mà chúng tôi không được ăn.” Và anh kể ra bốn loại.
Rồi anh nói thêm: "Ngoài bốn
loài vật này, chúng tôi ăn tất cả những gì động đậy, nhúc nhích trong không
khí, trên đất và cả dưới nước nữa.” Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là những
con vật còn sống khi người ta giết chết làm thịt, bởi vì dù con vật đã chết vì
bệnh hoặc vì bị con vật khác giết, thậm chí đã thối rữa thì người dân tộc vẫn cứ
ăn như thường.
Một ngày kia, tôi đi ngang qua
khu rừng. Một người dân làng Dak Rô Ting quen biết tôi, đã gọi tôi từ xa và mời
tôi dùng bữa tối. Anh muốn thiết đãi tôi một bữa tiệc. Tôi quay lại và đến gần
anh. Anh đang nấu thức ăn trong một ống lồ ô đặt trên đống lửa. Món gì vậy? Anh
đã may mắn vớ được một phần còn lại của một con nai đã thối rữa. Anh cẩn thận
lượm từng con giòi đang lúc nhúc trong đống thịt thối, bỏ vào đầy một ống lồ ô
để làm một bữa tiệc, mà theo anh thì đây phải là một bữa tiệc dành cho bậc quyền
quý đấy.
… Và tại làng Kơ Long: có cơm ăn
là tốt rồi:
16. Ba lời nhủ bảo của thân phụ
Sau thế chiến thứ nhất, một linh
mục trẻ người Pháp được bài sai đi coi xứ. Tay xách vali, cha mạnh dạn ra đi
truyền giáo. Đến nơi chỉ thấy hầm sâu, tường đổ. Nhà thờ, nhà xứ, chỉ còn duy
nhất một bức tường xiêu vẹo.
Không một chút sờn lòng, cha
cùng với các tín hữu tích cực kiến thiết lại ngôi thánh đường đổ nát. Chẳng bao
lâu sau, đền thờ vật chất đã hoàn thành khang trang đẹp đẽ. Giờ đây, cha lại tiếp
tục xây dựng đền thờ tâm hồn. Nhờ đời sống gương mẫu, cha đã tu sửa lại lòng đạo
đức của cả đoàn chiên.
Tuổi cha chưa cao nhưng đã kiệt
sức, giữa lúc tình cha con đang mặn nồng, gắn bó. Dầu vậy, nằm trên giường bệnh,
cha vẫn thản nhiên vui vẻ. Giờ hấp hối đến, cha nhỏ nhẹ nói với những người
chung quanh:
- Giờ đây tôi vui mừng vì đã
trung thành giữ lời nhủ bảo của thân phụ ngày tôi chịu chức linh mục: "Nay
con làm linh mục Chúa, cha chỉ cầu ước cho con 3 điều: Thứ nhất, lúc con chết đừng
nợ ai xu nào; Thứ hai, khi qua đời con cũng chẳng còn xu nào; Thứ ba, lúc lâm
chung con đừng vướng một chút tội nào với Chúa.” Và ngài an bình đi về với Đấng
mình đã trọn đời dâng hiến.
17. Câu chuyện chiếc Minsk
Sau khi về nhận xứ Malâm, Cha
Gioan NVH có ngay kế hoạch bán chiếc xe máy Honda Nhật đang chạy để mua một chiếc
Minsk. Bà con nực cười ông cha xứ mình chạy chiếc Minsk giống mấy người xe thồ,
xe ôm, chẳng ra dáng vẻ ông cha xứ tí nào. Mãi đến mấy tháng sau họ mới hiểu,
chiếc Minsk là phương tiện tốt nhất có thể đưa cha đi đến vùng Đami cách Giáo xứ
nhà 70 cây số về hướng tây bắc, giáp ranh với Bảo Lộc Lâm Đồng, nơi ấy, có vài
trăm con chiên đang tản mác trên các đồi chè ngập nắng.
Vào ngày 11-9-2001, chúng tôi được
đi với Cha Gioan đến thăm vùng Đami đèo núi. Được biết, bà con hầu hết từ những
tỉnh miền Bắc đến đây tìm kế sinh nhai. Họ sống trên đồi, nhà này cách nhà kia
có khi cả cây số. Chỉ mới 6 tháng sau khi về nhận xứ và năm lần “đến xem nơi
người ở và ở lại với người” mà Cha Gioan đã thuộc hầu hết địa chỉ của con chiên
và thành lập được ba điểm tập trung để dâng Thánh Lễ. Còn các Bí tích hầu hết cử
hành tại nhà dân. Sau hơn 10 năm, Đami nay đã tràn đầy sức sống mới của Tin Mừng,
đã là Giáo Xứ với ba bốn Giáo Họ.
Chiếc Minsk là phương tiện,
nhưng là phương tiện đơn sơ mà hiệu quả của một sứ giả có tấm lòng mang Sứ Điệp
Tin Mừng đến cho muôn dân. Chiếc Minsk ắp đầy kỷ niệm của bao lần vấp đá, trượt
đồi, té ngã, cán chó, tai nạn… và cả những lần bị rượt đuổi vu vơ vì tội làm lễ
nhà dân không xin phép…
18. Ơn ta đã đủ cho ngươi
Đức Tổng Giám mục Vacchelli, Tổng
Thư ký Hội đồng Giám mục Ý quốc, khi được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Trợ lý Tổng
Trưởng của Thánh Bộ Rao giảng Tin Mừng cho các Dân tộc và Chủ tịch Hiệp hội
Giáo hoàng Truyền giáo, ngài cho hay: “Gia nhập vào Thánh Bộ là chịu trách nhiệm
trực tiếp với 1.100 giáo phận trên toàn cầu, 2.000 giám mục và vô số các giáo
sĩ, nam nữ tu sĩ. Và trên hết vấn đề chính không chỉ là nghèo đói, nhưng là xây
dựng một đời sống theo đường lối Kitô giáo. Vì thế, phạm vi rộng hơn nhiều.”
Đối mặt với lượng công việc đồ sộ
như vậy, ngài vẫn tràn trề hy vọng nói: “Khi anh làm việc cho Thiên Chúa, Người
luôn đi trước anh, thu xếp tính hèn yếu của anh bằng ân huệ của Người.” Nếu ý
thức được như thế, các vị thừa sai của Chúa sẽ bớt sợ bớt lo khi thấy trách nhiệm
năng nề, đồng thời sẽ bớt tự mãn kiêu căng khi làm được việc này việc nọ.
19. Ba lô Lên Đường
Ngày 11 tháng 12 năm 1979, Mẹ
Têrêxa Calcutta đáp máy bay đến Oslo. thủ đô Na Uy, để lãnh giải thưởng Nobel
Hòa Bình. Mặc bộ y phục đặc biệt của mình, là chiếc sari có đường viền màu xanh
và chân đi dép, bất chấp thời tiết lạnh dưới không độ.
Một tay nắm chặt tràng chuỗi Mân
Côi, còn tay kia một túi xách nhỏ, khiến cho cả đoàn xe hùng hậu ra nghênh đón
Mẹ Têrêsa tại phi trường, phải chưng hửng về không, vì Mẹ chẳng có mang theo gì
hơn.
20. Hành trang đi gieo
Linh mục Anto Kudukkamthadam là
Cha Sở giáo xứ Piploda bên Ấn Độ. Vốn liếng kiến thức về xã hội học đã giúp Cha
Anto biết rõ địa hình địa thế của xứ đạo. Theo Cha, có từ 5-7% dân làng là người
giàu, 10% là giới trung lưu, còn lại 80% là người nghèo. Thế nhưng, Cha Anto
nói: “ Vị Linh Mục tu sĩ nào dám công khai lên tiếng tố giác hố sâu bất công
này thì tính mạng bị lâm nguy. Nữ tu Rani Maria bị ám sát cách dã man, chỉ vì
Chị hoạt động xã hội, khuyến khích các bà các cô biết tự tổ chức, phân định các
hoàn cảnh và làm việc chung với nhau. Hoạt động của Chị Rani Maria mang lại kết
quả tốt đẹp. Nhưng kết quả tốt đẹp lại gây khó chịu cho giới giàu có trong làng
và họ thuê người giết Chị.”
Thời gian đầu vô cùng khó khăn.
Một ngày, tôi tưởng như giờ cuối cùng đã điểm. Một nhóm thanh niên thuộc phong
trào chính trị Ấn giáo đến giáo xứ gặp tôi. Họ chất vấn tôi đủ điều: “ Ông là
ai mà dám ở đây? Rồi ông đến đây để làm gì? Ông không phải dân địa phương, như
thế có nghĩa ông nhận tiền viện trợ của Anh hoặc của Mỹ! May mắn thay, tôi nói
được tiếng Hindi địa phương. Sau khi giải thích việc đang làm, tôi kết thúc:
“Các anh có thể giết tôi, tôi sẵn sàng chết vì Đức Chúa GIÊSU KITÔ!
Dần dần, họ dịu lại. Một thời
gian sau, khi họ thấy chúng tôi thật sự giúp dân làng, đặc biệt mở các lớp học
bình dân, thì chính những người từng dọa giết tôi, lại gửi con cái họ đến học
trường chúng tôi! Cha Anto lấy lại bình tĩnh nhờ cầu nguyện và suy gẫm mỗi
ngày. Rồi từ sau vụ khỏi bệnh lạ lùng, uy tín của Cha Anto càng gia tăng thêm.
Số là, một ngày kia, một dân làng bị bò húc gãy xương sống. Họ mang người bị nạn
đến, xin Cha chữa vì nghĩ Cha là thầy thuốc. Cha Anto nói với người bệnh: ”Tôi
không có thuốc, nhưng chỉ duy nhất Đức Chúa GIÊSU KITÔ có thể chữa ông lành.”
Nói xong, Cha đặt tay trên ông và sốt sắng cầu nguyện. Bỗng chốc người bị nạn đứng
lên và đi đứng như thường.
Từ đó, Cha Anto điều động một
nhóm cầu nguyện và tiếp tục làm việc tông đồ trong an bình, không còn bị quấy
nhiễu nữa!
21. Gìn giữ cái áo rách
Có một đệ tử muốn từ bỏ mọi sự của
thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu. Hành trang
duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày.
Ngày kia, anh đau đớn vô cùng
khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát tả tơi. Không còn cách nào
khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác. Chiếc áo thứ hai này cũng
bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới
giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế nhưng, khi có mèo anh lại phải
lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực,
anh cảm thấy mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt
chiu để kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải
kiếm cỏ cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện,
anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng sinh sản, người cắt cỏ
cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang sơ đã biến thành một
trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm đông. Con người đã một
thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay nghiễm nhiên trở thành một
ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn,
anh lại muốn có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh
trở thành một người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng
ban đầu đã hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một “cái áo rách.”
22. Gieo và gặt
Có một người phụ nữ mù đi taxi tới
một tòa nhà. Lúc đến nơi, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng. Tài xế
taxi dẫn cô vào chỗ an toàn rồi nói: “Tôi không thu tiền của cô, bởi vì so với
cô thì việc kiếm tiền của tôi chắc là dễ dàng hơn.”
Vừa đúng lúc này, từ trong khu
cư xá, người đàn ông có dáng vẻ của một ông chủ đi ra. Ông cũng lên chiếc xe
taxi đó rồi đi. Trên đường, hai người đàn ông vui vẻ chuyện trò cùng nhau. Khi
xuống xe, đồng hồ hiển thị số tiền là 100 ngàn đồng nhưng người đàn ông lấy ra
số tiền 200 ngàn và nói: “Tiền này bao gồm cả số tiền của người phụ nữ lúc nãy.
Tôi cũng không phải vĩ đại gì, nhưng chắc là việc kiếm tiền cũng dễ dàng hơn cậu
một chút, hy vọng cậu có thể tiếp tục làm việc tốt!”
23. Giũ bụi chân:
Vì là những người được sai đi
rao truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ được tiếp đón một cách vô vị lợi
từ những gia đình mà họ viếng thăm. Nhưng Đức Giê-su cũng tiên liệu sứ điệp kêu
gọi hoán cải mà họ rao giảng có thể có những người khước từ: “Còn nơi nào người
ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ
ý phản đối họ” (6: 11).
Đây là tập tục của người Do thái
sau cuộc hành trình trở về từ nước ngoài. Khi đặt chân lên đất thánh, họ giũ bụi
đường khỏi giày dép để không đưa bụi phàm trần vào đất thánh của mình. Trong lời
căn dặn của Đức Giê-su, không có bất kỳ một sự khinh bỉ nào đối với những người
khước từ sứ điệp, nhưng hành động “giũ bụi chân” nói lên lời cảnh cáo mạnh mẽ đối
với những ai khước từ Tin Mừng cứu độ.
24. Tôi chỉ là cây đước
Đức Hồng Y GB Phạm minh Mẫn đã
thuật lại như sau: Khi Ngài đang ở chủng viện Cần Thơ thì nhận được sắc phong của
Tòa Thánh chọn Ngài làm Giám mục Tổng Giáo Phận Sài Gòn, Ngài hết sức lo sợ và
nói rằng: "Tôi chỉ là cây đước, cây bần ở vùng nước mặn Cà Mau, bây giờ bứng
tôi lên trồng ở thành phố thì làm sao tôi có thể làm việc được?”
Trong lúc còn băn khoăn như thế,
thì Ngài nhận được một lá thư từ một người bạn là một Sr gửi từ nước ngoài về
và nói với Ngài rằng: "Ngày xưa khi Thiên Chúa cần một người cha cho dân
riêng của Ngài thì Ngài đã chọn Apbraham, và Apbraham đã đứng lên; khi Thiên
Chúa cần một vị lãnh đạo dân riêng của Ngài, Chúa đã gọi một anh chàng nói ngọng,
và thế là Mosê đã đứng lên, và khi Chúa cần một người đứng đầu Giáo Hội của
Ngài, Chúa đã chọn một anh thuyền chài và cũng là con người đã chối Chúa và thế
là Phêrô đã đứng lên. Và bây giờ Chúa cũng muốn chọn cha để làm một người lãnh
đạo và phục vụ Dân Chúa, chẳng lẽ Cha không đứng dậy hay sao?"
Những lời này đã tiếp thêm sức mạnh
cho Đức Hồng Y để Ngài sẵn sàng đón nhận nhiệm vụ mới.
25. Truyền giáo bằng đời bác ái
Một hôm, vào dịp lễ Phục Sinh, một
vị tổng thanh tra giáo dục đi săn tại miền Di linh. Lúc đó Di linh mà một khu rừng,
chỉ có dân tộc thiểu số Kô Hô sinh sống. Hổ, nai, các thú rừng khác có rất nhiều.
Vị tổng thanh tra này chưa biết đã có một làng cùi, do Cha Gioan B. Sanh thành
lập. Nghe tiếng súng nổ, Cha Sanh ra gặp vị tổng thanh tra (Người Pháp) và nói
cho Ông biết là không một ai được lai vãng tới khu vực này. Vị thanh tra bỡ ngỡ,
và ra oai hỏi: “Ông lấy quyền nào mà ngăn cản chúng tôi”, Cha Sanh chỉ vào làng
cùi và dẫn Ông vào coi. Vừa thấy những người cùi, Ông ghê sợ vội bỏ đi, và
không cần ai ngăn cấm, Ông cũng không giám bén mảng đến khu vực đầy sợ hãi này.
Tuy nhiên khi bỏ đi, Ông cũng tỏ thái độ bực bội với linh mục Sanh, và tỏ ra
mình cũng có quyền giải tán làng cùi này. Nhưng rồi mấy tuần lễ sau: Cha Sanh
đã nhận được một bưu kiện lớn, trong đó có nhiều thuốc men và dụng cụ y tế… kèm
theo một mảnh giấy: “Tôi tặng Cha món quà này, để giải đáp câu hỏi, mà sự hiện
diện những người cùi Di Linh, luôn gợi lại trong trí óc tôi.” Dưới ký tên Tổng
thanh tra.
Cách bốn năm sau, khi Cha Sanh
đã về nhận chức Giám Mục Sàigòn, thì vào một buổi trưa, ngài nhận được một bức
điện: “Xin Đức Cha cấp tốc tới bệnh viện trung ương Nam Vang: Một bệnh nhận liệt
nặng muốn gặp. Có xe tới đón.”
Xe đưa Đức Cha Sanh khởi hành từ
Sàigòn lúc 6 giờ chiều, tới 10 giờ đêm mới tới Nam Vang. Ngài vào trọ đêm tại
tòa giám mục Nam Vang. Sáng sớm hôm sau vào bệnh viện. Bệnh nhân liệt nặng này
chính là vị tổng thanh tra, trước đây vẫn ác cảm với đạo. Tuy có rửa tội, nhưng
đã bỏ đạo từ lâu. Từ ngày gặp linh mục Sanh ở Di Linh: hình ảnh một linh mục sống
giữa những con người cùi ghê tởm, hy sinh băng bó vết thương cho họ, đã ghi sâu
vào đầu óc Ông. Đó là một nhân chứng sống động của đức bác ái Kitô giáo. Ông đã
tìm về với Chúa. Ông xin Đức Cha giải tội cho Ông, trước khi Ông từ giã cõi đời.
26. Sống giản dị
E.B.Washburne mô tả tướng Grant
đã tiến hành chiến dịch trong cuộc nội chiến như thế nào: “Tất cả phụ thuộc vào
khả năng di chuyển nhanh. Điều quan trọn đối với tướng Grant là mang hành lý
càng nhẹ càng tốt. Ông không mang theo cận vệ cũng chẳng có áo khoác ngoài,
ngay cả một áo sơ mình sạch. Lúc đó tôi ở với ông và biết rằng toàn bộ hành
trang của ông trong sáu ngày chỉ là một bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như những
binh sĩ thường nhất, ngủ trên đất, và khỏi cần có gì đắp ngoài vòm trời.”
Gương của tướng Grant và lời
Chúa Giêsu mời gọi tôi tự hỏi: lối sống của tôi có giản dị không? Tôi lệ thuộc
vào của cải vật chất ra sao?
Một nửa những phiền toái là do
chúng ta không biết mình cần ít như thế nào (Tướng Richard Byrd)
27. Quả thận thánh
Vào ngày 13 tháng 11 năm 2009,
theo tờ Dallas Morning News đã đưa tin, bà Carrie Gehling, 45 tuổi, đã bị mất cả
hai chân vì bệnh tiểu đường, đau tim, và cần được ghép thận sau nhiều năm lọc
thận. Bác sỹ cho biết bà đang gặp nguy cơ đến tính mạng. Trong lúc bệnh tật và
khó khăn, Bà Gehling chạy đến Đức Ông và cũng là cha xứ Mark Seitz tại nhà thờ
Saint Rita ở Dallas, tiểu bang Texas, để nhờ ngài tìm kiếm quả thận cho bà. Khi
nhận được tin này, Đức Ông Seitz đã suy nghĩ, tại sao không phải là tôi? Sau
đó, ngài quyết định tặng quả thận của mình cho bệnh nhân, ngài coi việc hiến tặng
này là biểu lộ tình yêu và nhiệm vụ của linh mục. Ngài nói rằng: "Tôi noi
gương Chúa Giê-su vì Ngài đã hy sinh mạng sống cho tôi, thì tôi cũng có thể cho
đi một quả thận cho người đang cần được sống.”
Hơn nữa, ngài rất ngưỡng mộ lòng
dũng cảm của bà Gehling khi phải đối phó với căn bệnh khủng khiếp này, nhưng bà
ấy luôn vẫn tin tưởng vào lòng nhân từ và tình yêu của Thiên Chúa khi tiếp cận
với những người khác. Để có được đức tin mạnh mẽ như thế, thì bà ta cũng đã trải
qua một kinh nghiệm về quá khứ của tuổi trẻ. Như lời bà Gehling nói với Dallas
Morning News rằng: Khi được 20 tuổi, bà đã bị mất niềm tin một thời gian sau
khi người cha qua đời vì căn bệnh đau tim. Một ngày kia, tôi tỉnh dậy và nghĩ rằng,
mình thật là điên khùng. Bà nói tiếp: Nếu cha tôi còn sống sau cơn đau tim, thì
ông ta chỉ sống như một loài thực vật. Vậy những gì Chúa đã làm là tốt nhất. Lời
sau cùng, bà Gehling nói rằng: Không có từ ngữ nào có thể nói lên lời cảm ơn. Làm
thế nào để có thể nói lời cảm ơn với một người đã cho bạn một cuộc sống mới! Bà
đã gọi đây là quả "thận thánh", trong khi đó vị linh mục Seitz nói,
món quà ấy chỉ là một cố gắng sống theo gương của Chúa Kitô.
28. Hãy đi
Một mẩu đối thoại vui giữa một
tâm-hồn-được-sai-đi với Chúa. Những câu đối thoại ngắn thôi nhưng có thể nói
lên được mấy đặc tính cốt yếu của việc truyền giáo:
- HÃY ĐI!, Chúa sai tôi.
- Chúa sai con đi sao?, tôi ngạc
nhiên hỏi.
- Đúng, Ta sai con.
- Nhưng con chưa sẵn sàng, và
đang mắc bạn bè, và con không thể xa gia đình. Chúa biết là không có ai thay thế
cho con.
- Con đừng đánh trống lảng. HÃY
ĐI!, một lần nữa Chúa sai tôi.
- Nhưng con không muốn đi.
- Ta đâu có hỏi là con muốn hay
không.
- Xin Chúa hiểu cho, con là người
có ít khả năng. Hơn nữa, gia đình con không thích thế, hàng xóm con sẽ nghĩ gì
về con?
- Con đừng lo nghĩ vớ vẩn. HÃY
ĐI! Chúa sai tôi lần thứ ba.
- Có thực là Chúa nhất định sai
con không?, tôi ngập ngừng hỏi.
- Con có yêu Ta không?, Chúa hỏi
lại tôi.
- Lạy Chúa, con sợ lắm. Người ta
sẽ ghét con, cắt con ra từng miếng nhỏ. Con không thể một mình làm hết mọi việc.
- Con nghĩ rằng Ta ở đâu? HÃY
ĐI!
Và tôi phải trả lời: “Lạy Chúa,
này con đây. Xin hãy sai con.”
29. Mẹ tôi là nhà truyền giáo
Trong một bài tiểu luận, một bé
gái mười hai tuổi đã viết: “Khi tôi được yêu cầu viết về một nhà truyền giáo
tôi biết, một vài nhân vật xuất hiện trong tâm trí tôi, như Mẹ Têrêxa, rồi tôi
dừng lại và suy nghĩ: ‘Tôi không thể viết về một trong những người vĩ đại đó vì
tôi không thực sự biết họ. Đúng là tôi đã nghe tên, đã đọc và nghe kể về họ,
nhưng tôi không biết được họ như thế nào’.
‘Nhà truyền giáo tốt mà tôi nghĩ
đến là mẹ tôi. Điều này nghe có vẻ lạ tai nhưng tôi chắc chắn là một nhà truyền
giáo không cần được thụ phong. Việc truyền giáo của mẹ tôi là làm một bà nội trợ
và một người mẹ cho tôi và cả gia đình. Mẹ tôi không bao giờ ích kỷ và coi mình
là người thứ nhất trong gia đình. Tôi không bao giờ bị bỏ đói hoặc thiếu thốn
tình thương dạt dào của mẹ. Đúng như các nhà truyền giáo, mẹ tôi phải can đảm
nhiều lắm. Bà có thể dễ dàng chơi bingo và bỏ quên tôi, nhưng bà không làm thế.
Hy sinh lớn nhất của bà là nghĩ đến tôi trước bản thân mình. Tôi thật may mắn
có một bà mẹ truyền giáo.”
Chúa không sai tôi đi đâu xa, dạy
những điều xa lạ, mà chỉ cần tôi để mặc Ngài làm việc trong tôi, như công cụ
cho tình yêu của Ngài. Đó là truyền giáo.
30. Để biết mình bần cùng
Chủng sinh Richard Roos muốn biết
rõ cảm giác khi không có đồ ăn thức uống và tiền bạc. Vào một Mùa Chay, anh đi
ăn xin và cuốc bộ 800 dặm từ SanDiego đến San Francisco. Anh viết: “Mỗi buổi
chiều, khoảng hai hay ba giờ, tôi bắt đầu thấy lo lắng không biết đêm nay tôi
ngủ ở đâu. Và dĩ nhiên, tôi cảm nhận được sự bất lực của cái nghèo. Khi bạn đến
gõ cửa để xin ăn và trú ngụ, bạn sẽ cảm thấy mình quá bần cùng. Khi bạn ngửa
tay ra trước người khác và tùy thuộc vào sự định đoạt của họ, bạn không có bất
cứ quyền lực nào cả”
Tại sao Chúa Giêsu bảo các môn đệ
không mang tiền bạc hay lương thực? Liệu hôm nay người có còn nói với họ như thế
không?
Khi một người bắt đầu mặc bộ đồ
gấm, người ấy thật khó mà dậy sớm được (Jockey E.Arcaro).
31. Truyền giáo tại gia là bí quyết hạnh phúc
Tại trại hè quốc tế với chủ đề
loan báo Tin mừng, cô gái đến từ Phi Châu đã trình bày một phương cách gây ấn
tượng nhất cho các tham dự viên qua kinh nghiệm sau đây: “Khi muốn rao giảng
Kitô giáo cho một làng ngoại giáo, các Kitô hữu tại nước tôi không gởi đến đó
sách báo hay các nhà thừa sai, nhưng cử đến làng một gia đình Kitô hữu tốt
lành. Gương sáng của gia đình ấy sẽ cải hoá cả làng.”
Đời sống thuận hoà yêu thương giữa
vợ-chồng và cha mẹ-con cái, đặc biệt sự hoà hợp giữa hai con tim trong gia đình
Kitô giáo luôn là dấu ấn cho các gia đình chung quanh. Nếu mỗi Kitô hữu là một
tông đồ với sứ mạng đem Chúa Kitô đến cho người khác, thì mỗi gia đình Công
giáo cũng phải là tổ ấm tông đồ tỏa lan ánh sáng Giêsu, là muối, là men Tin Mừng
cho các gia đình hàng xóm lân cận.
“Hãy truyền đạo đức lại cho con cái bạn, chỉ
có đạo đức mới làm chúng sung sướng, chứ không phải tiền bạc” (nhạc sĩ Beethoven).
CNTN
15C -
TRUYỆN KỂ
1. truyện
Lễ kính thánh Maria Madalena - Hãy
báo tin cho anh em Ta hay
Lời Chúa: Ga 20, 1. 11-18
Ngày đầu tuần, Maria Mađalêna đi
ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối, và bà thấy tảng đá đã được lăn ra khỏi mồ.
(Bà liền chạy về tìm Simon Phêrô
và người môn đệ khác được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng:
"Người ta đã lấy xác Thầy khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta để Thầy
ở đâu.”)
Bà Maria đang còn đứng gần mồ
Chúa mà than khóc, nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang
ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía
đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta
đã lấy mất xác Chúa tôi, và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa
nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó. Nhưng bà chưa biết
là Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia,
sao mà khóc? Bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa
ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu,
để tôi đến lấy xác Người.” Chúa Giêsu gọi: "Maria.” Quay mặt lại, bà thưa
Người: "Rabboni", nghĩa là "Lạy Thầy.” Chúa Giêsu bảo bà:
"Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy báo tin cho các
anh em Ta hay và bảo họ rằng: "Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về
cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con.”
Maria Mađalêna đi báo tin cho
các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa, và Chúa đã phán với tôi những điều
ấy.”
TRUYỆN KỂ
1. Ngại nhắc máy
“Này các chị có nghe điện thoại
reo không? Sao tôi gọi mãi mà không có ai nhấc máy lên nghe vậy?” Từ dưới sân lầu,
giữa trời nắng gắt, tiếng chị H, trực phòng khách lanh lảnh vang lên. Thật ra
không phải chúng ta không nghe, nhưng ai cũng ngại nhấc máy. Vì đã nghe rồi thì
sau đó phải”thông tin” lại cho người có liên quan hay phải đi gọi người dùm cho
chị H.
Nhưng hôm nay, lời chị đánh động
tôi rất nhiều. Vì đối với Chúa tôi cũng có thái độ như thế. Biết bao lần tôi đã
dửng dưng trước những”cú phone” Chúa gọi cho tôi. Tôi không muốn nghe vì ngại
phải thi hành những”Sứ điệp” của Chúa sẽ truyền dạy tôi. Cũng có thể nhiều lần
Chúa gọi tôi ở đầu dây bên kia, nhưng tôi bận nghe hay nói với người khác ở đầu
dây bên này. Như thế làm sao tôi có thể nghe được”điện” của Chúa?
2. Cùng khóc
Cô bé đi học về muộn... Ở nhà bố
mẹ rất lo... Thấy cô về, bố mẹ hỏi xem cô đã đi đâu và làm gì?
- Con dừng lại giúp bạn con...
Xe đạp của bạn con bị hỏng.
- Nhưng con đâu có biết sửa xe?
- Đúng ạ! Nhưng con dừng lại để
cùng khóc với bạn ấy.
Lúc này lúc khác – qua những biến
cố, những dữ kiện – Chúa vẫn lên tiếng gọi thẳng tên chúng ta nhằm để chúng ta
biết Người sống lại và hằng sống... Những lần gọi thẳng tên như thế sẽ giúp
chúng ta bình an và đi tới để nói cho mọi người rằng: chúng ta có Chúa sống lại
cùng đi…
3. Cần biết tên từng người
Dù bà Maria không còn thấy gì và
không nhận ra ai nữa cả, nhưng khi Đức Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở
lại,”Ta biết các chiên Ta... Chiên Ta biết tiếng Ta....” Chúa cũng biết đích
danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận ra tiếng
Ngài không?
Một sinh viên Cao đẳng sư phạm đến
thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh nhớ tên tất cả các học sinh
trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được
phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả những học sinh thân yêu của anh
tụ tập xung quanh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tất cả các em đều được gọi,
nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất
ngượng ngùng.
4. Hết lòng loan báo Tin Mừng Phục Sinh
Thánh Giáo Hoàng Ghêgôriô Cả đã
khen ngợi lòng yêu mến thiết tha của thánh nữ như thế này:
“Maria Mađalêna, sau khi ra mồ
và không thấy xác Thầy mình ở đây nữa, liền tưởng là người ta đã mang Thầy mình
đi rồi và chạy đi đưa tin cho các môn đệ. Các môn đệ tới, thấy như vậy và tin lời
người phụ nữ đã nói. Sách Thánh đã viết về họ rằng: Vậy các môn đệ trở về nhà.
Nhưng tiếp theo: Còn Maria thì đứng lại ở ngoài cứa mồ mà khóc lóc.,,
Trong câu chuyện này, ta phải thấy
tình yêu đã làm cháy lòng người phụ nữ kia đến thế nào. Chúng ta thấy dù các
môn đệ đã ra về, nhưng chị vẫn không rời bỏ mồ Chúa. Chị còn muốn tìm Đấng mà
người ta không thấy. Chị khóc lóc mà tìm. Và bởi cháy lửa tình yêu mến đối với
Chúa, chị càng nồng nàn ao ước tìm được Đấng mà chị tưởng là người ta đã mang
đi: chính vì vậy mà chỉ có một mình chị đã thấy Người vì chị đã ở lại mà tìm. Ở
đây chúng ta nhớ lời của Chúa đã nói xưa được ứng: Ai kiên trung đến cùng sẽ được
cứu rỗi.”
5. Yêu mến và tha thứ luôn có họ hàng với nhau
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm
sống, một phụ nữ đã kể lại như sau:
Tôi nhớ ngày tôi còn là một thiếu
nữ, một lần kia cha mẹ tôi dắt tôi đi xem cuốn phim tựa đề là”ảo ảnh cuộc đời.”
Phim đó kể lại chuyện một cô gái không những đã bội bạc mà còn khinh khi làm khổ
người mẹ đang hết lòng yêu thương và hy sinh cho cô. Qua nhiều biến có thăng trầm,
cuối cùng, người mẹ đau khổ đó chết, cô gái trở về thống hối tiếc thương.
Về nhà, hôm ấy gia đình bàn tán
về ý nghĩa của câu chuyện trong phim. Tôi nhớ rõ là tôi đã bực bội phê bình to
tiếng:
- Bấy giờ trở về ăn năn thống hối
làm gì nữa, vì mẹ đã chết rồi.
Tôi thấy mẹ tôi định trả lời,
nhưng cha tôi dùng ánh mắt ngăn mẹ tôi lại và nói:
- Không có sự trở về nào là trễ
trong tình thương con ạ.
Ngày đó, thú thật tôi không hiểu
gì nhiều về câu trả lời của cha tôi. Nhưng bây giờ đã là mẹ, tôi mới thấm ý
nghĩa của lời đó. Chính câu nói ấy đã giúp tôi luôn sẵn sàng yêu thương tha thứ
cho con cái tôi.
6. Mặt trái của đau khổ
Một tu sĩ trẻ nọ được gởi đến
làm việc với một số anh em khác, công việc của họ là dệt một khung vải rộng lớn,
trên đó mỗi người ngày ngày dệt phần được trao phó, việc làm xem ra độc điệu và
vô nghĩa. Ngày nọ, không còn chịu đựng nổi một công việc nhàm chán như thế. Người
tu sĩ trẻ thốt lên với tất cả sự giận dữ của mình:
Trước khi tôi được sai đến đây,
người ta nói với tôi về một công trình nghệ thuật cao cả mà tôi sẽ góp phần
vào. Bây giờ tôi chỉ thấy rằng, tôi phải dùng kim đâm qua xỏ lại như một cái
máy, tôi không thấy đâu là nghệ thuật cả.
Nghe thế, vị tu sĩ già mới nói với
thầy như sau:
Con ơi làm sao con thấy được
công trình nghệ thuật mà chúng ta đang cộng tác để thực hiện bởi những gì con
đang thấy là mặt trái của tấm thảm. Hơn nữa, việc con đang làm là một điểm nhỏ
trong công trình mà thôi.
Khi tấm thảm đã hoàn thành, người
ta lật tấm thảm lại. Lúc bấy giờ, vị tu sĩ trẻ mới thấy rằng mình góp phần vào
một tuyệt tác. Đó là bức tranh của Ba Vua triều bái hài nhi Giêsu, những đường
kim mà người tu sĩ trẻ ngày ngày đút qua xỏ lại, chính là hào quang sáng chói
trên đầu Chúa Hài Nhi. Điều mà thầy cho là vô nghĩa nhất giờ đây hiện lên như một
kỳ công.
THỨ
HAI - Phần thưởng môn đệ Chúa
Lời Chúa: Mt 10,34 - 11,1
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
Tông đồ rằng: "Các con chớ tưởng rằng Thầy đến để mang hoà bình cho thế
gian: Thầy không đến để đem hoà bình, nhưng đem gươm giáo. Vì chưng, Thầy đến để
gây chia rẽ con trai với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng
mình: và thù địch của người ta lại là chính người nhà mình. Kẻ nào yêu mến cha
mẹ hơn Thầy, thì chẳng xứng đáng với Thầy. Kẻ nào yêu con trai con gái hơn Thầy,
thì chẳng xứng đáng với Thầy.
Kẻ nào không vác thập giá mình
mà theo Thầy, thì không xứng đáng với Thầy. Kẻ nào cố tìm mạng sống mình thì sẽ
mất, và kẻ nào đành mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm lại được nó.
Kẻ nào đón tiếp các con là đón
tiếp Thầy, và kẻ nào đón tiếp Thầy, là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. Kẻ nào đón tiếp
một tiên tri với danh nghĩa là tiên tri, thì sẽ lãnh phần thưởng của tiên tri;
và kẻ nào đón tiếp người công chính với danh nghĩa người công chính, thì sẽ
lãnh phần thưởng của người công chính. Kẻ nào cho một trong những người bé mọn
này uống chỉ một bát nước lã mà thôi với danh nghĩa là môn đệ, thì quả thật, Thầy
nói với các con: người ấy không mất phần thưởng đâu."
Sau khi Chúa Giêsu truyền dạy
xong các điều ấy cho mười hai tông đồ, Người rời khỏi đó để đi dạy dỗ và rao giảng
trong các thành phố của các ông.
TRUYỆN KỂ
1. Không xứng với Thầy
Văn Cao là một nhạc sĩ có tài với
bản Tiến Quân Ca bất hủ. Nhưng ông cũng là một thi sĩ ít được ai biết đến. Ông
có làm một bài thơ ngắn Không Đề như sau:
“Con
thuyền đi qua để lại sóng. Đoàn tàu đi qua để lại tiếng. Đoàn người đi qua để lại
bóng. Tôi không đi qua tôi để lại gì?”
Ông muốn để lại chút gì cho đời
của kẻ đã mang tiếng ở trong trời đất. Và ông hiểu rằng mình không thể để lại
gì, nếu không vượt qua chính mình. Cái tôi và tất cả những gì thuộc về nó, đều
là đối tượng phải vượt qua. Vượt qua cái tôi không làm tôi mất nó, nhưng lại được
một cái tôi viên mãn.
Phải chăng đó là điều Văn Cao, một
Kitô hữu ẩn danh đến lúc chết, muốn gửi gấm qua những vần thơ này?
2. Chúa Giêsu không đem đến bình an
“Anh
em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem
bình an, nhưng để đem gươm giáo.”
Ai
không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì sẽ không xứng với Thầy. Ai giữ mạng sống
mình, thì sẽ mất; còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.” (Mt. 10, 34. 38-39)
Đó chính là điều vẫn xảy ra, mãi
mãi những kẻ tin và những kẻ không tin Chúa Kitô vẫn xung khắc với nhau. Mãi
mãi chồng và vợ, cha và con chia rẽ nhau và gây khổ cho nhau vì đôi bên không
cùng một lập trường khi phải đối mặt với giáo huấn của Chúa Kitô.
Chúa Giêsu lúc nào cũng vẫn muốn
gieo sự bình an, nhưng Người cũng là con người thực tế, vì biết rằng trên trần
gian Người sẽ mãi mãi là chủ đề gây trang cãi, chống đối và chia rẽ vậy. (J.Y.G)
3. Tin tưởng vào Chúa
Ngày hôm sau, khi một chút ánh
sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn
sầu và tuyệt vọng của các tù nhân khác. Bầu khí sầu thảm như đám tang. Một
trong các tù nhân đã tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người
khác gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh. Sau cùng anh lắng nghe lời tôi. Cách
đây hai năm trong một cuộc họp liên tôn tại California, tôi đã gặp lại anh. Mặt
mừng rỡ, anh tiến tới gặp tôi và cám ơn tôi. Anh đã cho mọi người xem các vết sẹo
còn hằn trên cổ.
Trong cuộc hành trình, khi các
tù nhân biết có giám mục Nguyễn Văn Thuận, họ đến với tôi để kể lể các nỗi âu
lo của họ. Tôi đã chia sẻ các khổ đau của họ và an ủi họ hàng giờ và suốt cả
ngày. Trong ba ngày trên tàu, tôi an ủi các tù nhân khác và tôi Suy Niệm về cuộc
khổ nạn của Chúa Giêsu. Đêm thứ hai, giữa cái lạnh của Thái Bình Dương trong
tháng mười hai, tôi bắt đầu hiểu rằng ơn gọi của tôi bắt đầu một giai đoạn mới.
Trong giáo phận, tôi đã đưa ra các sáng kiến khác nhau cho công tác rao truyền
Tin Mừng cho người bên lương. Giờ đây, tôi phải cùng Chúa Giêsu đi về nguồn gốc
của việc loan báo Tin Mừng, phải cùng Ngài ra đi chết “bên ngoài tường thành”
bên ngoài tường thánh (ĐHY Phan xicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Chứng nhân Hy Vọng).
4. Tranh đấu trong tâm hồn
Denys le Chartreux đã suy tư về
sự chia rẽ, xung đột trong Giáo hội như sau:
“Những người tin, yêu mến Thiên
Chúa tìm kiếm sự bình an tâm hồn, họ sẽ cảm nghiệm bổn phận bất tuân với những
điều xấu. Họ sẽ chia rẽ với những gì làm cản trở đời sống thiêng liêng và sự
trong sáng của tình yêu Thiên Chúa....”
Đứng trước xung đột nội tâm,
chia rẽ, những cảnh tang thương mà ta phải đối diện. Chúng ta hãy chiêm ngắm sự
tranh đấu hiệp nhất trong thánh ý Cha của Đức Kitô nơi vườn Cây Dầu để tiếp tục
chiến đấu, vượt qua xung đột để lửa tình yêu, bình an và hy vọng được đốt lên
trong tâm hồn. Chúng ta ngắm nhìn khuôn mặt của Chúa Kitô vác thập giá, Ngài
đang cùng ta tranh đấu, gánh trên vai xung đột chia rẽ, để chúng ta cùng với
Ngài lãnh nhận chiến thắng Phục sinh.
5. Thánh giá tâm hồn
Một hôm, Chúa Giêsu hiện ra với
hai môn đệ, Ngài đưa họ đến đầu con đường rồi trao cho mỗi người một cây thập
giá và nói: “Các con hãy vác thập giá này và đi đến cuối con đường, Thầy sẽ đợi
các con ở đó." Nói xong, Chúa biến đi. Và hai môn đệ bắt đầu vác lấy thập
giá của mình.
Người thứ nhất xem ra vác nhẹ
nhàng, chân rảo bước mỗi lúc một nhanh. Nội trong ngày hôm đó, anh đã đến cuối
đường và vui mừng gặp Chúa Giêsu đang đứng chờ sẵn ở đó.
Còn người thứ hai mãi đến chiều
hôm sau mới đi hết con đường, xem ra anh ta mệt mỏi, không còn vác, nhưng kéo
lê thập giá mỗi lúc một nặng thêm và làm anh ta gần kiệt sức. Vừa gặp Ngài, anh
ta phàn nàn ngay: “Chúa đối xử bất công quá. Chúa cho con cây thập giá nặng,
còn anh kia Chúa cho thập giá nhẹ, nên anh ấy đã đến trước con lâu như vậy."
Gương mặt vui tươi của Chúa bỗng
trở nên nghiêm nghị. Ngài nói: “Này con, Ta không đối xử bất công, hai cây thập
giá giống và nặng như nhau. Con đừng trách thập giá nặng nhẹ, nó trở nên nặng
là vì tâm hồn con ngay từ đầu và trong suốt quãng đường Ta đã chỉ, con luôn
than phiền và càng than phiền thì nó càng trở nên nặng nề. Người bạn đồng hành
của con đến trước, vì tâm hồn lúc nào cũng tràn đầy yêu thương."
6. Có nhiều thánh giá không?
Một thiếu nữ đẹp, con nhà quyền
quý muốn nhập vào một dòng tu rất khắc khổ. Để thử thách ơn gọi của cô, Mẹ bề
trên vẽ lên một bức tranh rất đáng sợ về những đòi hỏi khắc khe của tu viện.
Nghe xong, cô bé có vẻ lung lay im lặng. Một lúc sau Mẹ bề trên hỏi:
- Con không nói gì ư?
- Thưa Mẹ, con chỉ có một câu hỏi:
trong nhà Dòng này có nhiều Thánh Giá không?
- Ồ, khắp nơi trong nhà dòng, chỗ
nào cũng có Thánh Giá.
- Vậy thì thưa Mẹ, con hy vọng sẽ
không gặp khó khăn gì cả, bởi vì mọi nơi và trong mọi giây phút, con đều có
Thánh Giá bên cạnh con. Con có thể chịu đựng được tất cả. (Góp nhặt)
7. Chết thay cho nhiều người
Ông Ngô Phụng sống vào thời vua
Khang Hy nhà Thanh, được dân Đài Loan tôn kính như một vị thánh. Ông được triều
đình nhà Thanh bổ nhiệm làm thông sự kiêm chức hương trưởng và trấn trưởng cai
trị một bộ lạc dân sơn cước. Bộ lạc này sống trong mê tín dị đoan, hàng năm đều
giết một người để tế thần.
Một lần nọ, Ngô Phụng cỡi ngựa vừa
đi dạo để xem xét sự tình, bỗng ông nghe thấy từ phía xa xa, bên sườn núi trước
mặt, có tiếng ồn ào, huyên náo. Ông phi ngựa tới thì thấy một cảnh hãi hùng bày
ra trước mắt. Nơi gốc cây cổ thụ, một thiếu nữ bị trói chặt, miệng kêu gào thảm
thiết. Người nữ tên là Sơn Tuệ Lân bị bộ lạc bắt để giết tế thần. Ngô Phụng lặng
lẽ tiến đến bên gốc cây và đứng trước mặt thiếu nữ như muốn chết thay cho nàng.
Thấy viên quan cai đến, anh tù trưởng rất sợ hãi. Ngô Phụng khuyên họ đừng giết
người như thế. Họ thả cô Sơn Tuệ Lân và hứa sẽ không tế thần bằng cách giết người
như vậy nữa. Từ đó cô Sơn Tuệ Lân dầu có người yêu, nhưng nguyện không lấy chồng
để trả ơn, hầu hạ người cứu mình.
Một ngày kia, viên tù trưởng đến
gặp Ngô Phụng, kể lể các thiên tai đang gây thiệt hại cho dân sơn cước của mình
và xin Ngô Phụng cho phép giết một người để tế thần, hầu tránh cho dân chúng khỏi
phải chịu sự trừng phạt của thần thánh. Ngô Phụng chấp thuận và nói với viên tù
trưởng:
- Lúc sắp rạng đông đêm 10 tháng
8, về phía Đông Nam xóm Xã Khẩu, anh em sẽ thấy một người cỡi ngựa trắng, mặc
áo đỏ đi qua. Anh em có thể giết người ấy để tế thần.
Viên tù trưởng trở về và chuẩn bị kế hoạch.
Khi người cỡi ngựa trắng, mặc áo đỏ phi tới, dân sơn cước núp chờ sẵn đã bắn chết
ngay người đó. Thi hành xong nhiệm vụ, bọn tráng niên chạy ùa tới bên xác chết,
họ đều trố mắt kinh ngạc, vì người bận áo đỏ không ai xa lạ. Đó chính là Ngô Phụng,
vị quan ân nhân của họ. Ngay lúc ấy, người con trai họ Ngô và cô em gái nuôi
Sơn Tuệ Lân phi ngựa tới. Họ khóc ngất bên xác người cha.
Trước mặt dân sơn cước, con trai
Ngô Phụng đọc tờ di chúc cho họ nghe, trong đó cho biết, ông Ngô Phụng dâng sớ
lên triều đình xin miễn tội cho bọn đã bắn chết ông, và xin cải thiện đời sống
của dân thiểu số, đồng thời cũng khuyên dân sơn cước từ đây trở đi nên bỏ hẳn tục
lệ tế thần bằng mạng người. Nghe xong tờ di chúc, tù trưởng trong 48 thôn xóm lập
tức nhóm họp và quyết định từ đây bãi bỏ tục lệ tế thần bằng mạng người. Họ dựng
bia ở các bộ lạc để ghi nhớ người đã vì nghĩa hy sinh mạng sống.
Ngô Phụng chết đi để cho bao người
được sống.
8. Biến đổi triệt để
Cách đây nhiều thế kỷ, những
hình phạt thường rất tàn bạo. Có một người đàn ông bị bắt vì tội ăn trộm cừu.
Chính quyền xăm lên trán anh một chữ T (trộm). Người đàn ông này thay đổi hoàn
toàn. Nhiều năm sau, khi ông ta đã cao niên, những đứa trẻ hỏi bố mẹ chúng hai
chữ trên trán ông ta có nghĩa gì. Họ trả lời: “thánh.” Cuộc đời hoán cải của
người đàn ông này chứng tỏ chúng ta cũng có thể chuyển hướng đời mình được. Tất
cả những gì chúng ta cần, đó là lời cầu xin ơn Chúa.
Điều gì trong cuộc sống tôi cần
phải biến đổi hay ít ra cần sửa đổi? Tôi có thể bắt đầu việc này như thế nào?
Sự hối hận cốt yếu nằm ở tấm
lòng đau đớn vì tội lỗi, và đau đớn bởi tội lỗi. Một số người hối tiếc, nhưng
không bao giờ biến đổi. (Donnell Thorton)
9. Cuộc chiến trong tâm hồn
Trong Kinh thánh, có một tình bạn
lớn lao giữa Đavít và Gionathan, con trai vua Saul. Một ngày nọ, vua Saul ra lệnh
cho Gionathan phải phản bội Đavít, nhưng anh đã không chịu. Sự từ chối của
Gionathan minh họa lời Chúa Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay. Khi một việc gì
đó là đúng hay sai, thì ngay cả cha mẹ cũng không thể buộc ta phản bội lương
tâm mình. Quyết định theo Chúa Giêsu là đúng hay sai, không ai có thể can thiệp
hoặc ngăn cản, kể cả cha mẹ chúng ta.
Lời Chúa mời gọi tôi tự hỏi: Bạn
bè hay ngay cả gia đình tôi có ngăn cản tôi theo Chúa không? Hoặc họ giúp đỡ
tôi ra sao?
Đó là một cuộc đấu tranh từ ngàn
xưa: một bên là tiếng la hét từ đám đông, bên kia là tiếng nói của lương tâm
(Tướng Douglass MacArthur).
10. Nghịch lý thập giá
Một học sinh lớp 5 nói với bạn
mình là người công giáo rằng: Chúa của bạn ác lắm, vì Chúa của bạn đòi hễ ai
tin Chúa thì phải bỏ những thứ mình có và phải vác thập giá mà theo Chúa!!! Lời
con trẻ đơn sơ nhưng chứa đựng một chân lý nhức nhối về phía chúng ta. Theo
tính tự nhiên, ai mà chẳng dị ứng đối với thập giá! Chúa cũng biết thế – Ngài
đã chẳng run sợ đến mướt mồ hôi máu trong vườn Cây Dầu là gì? Thế nhưng Ngài vẫn
mạnh mẽ tuyên bố: “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy thì không xứng với
Thầy.”
Chúa Giê-su hoá giải nghịch lý
thập giá và chứng minh tính đúng đắn của qui luật đó qua cái chết và phục sinh
của chính Ngài: “Phải qua đau khổ mới tiến được vào vinh quang.”
Nếu bạn biết Chúa chịu khổ nạn
như thế là để đền bù thay cho bạn, vì tội của bạn thì bạn còn nghĩ Chúa “ác” nữa
không? Nếu bạn biết Ngài mời bạn cùng vác thập giá để được hạnh phúc với Ngài,
thì bạn còn nghĩ Chúa “ác” với bạn nữa không?
Bạn thấy việc bổn phận nào đang
là thập giá cho bạn? Bạn hãy chu toàn việc đó cách vui lòng.
THỨ
BA - Đón nhận và sám hối
Lời Chúa: Mt 11, 20-24
Khi ấy, Chúa Giêsu quở trách các
thành đã chứng kiến nhiều phép lạ Người làm mà không chịu sám hối: "Hỡi
Côrôzain, khốn cho ngươi! Hỡi Bethsaiđa, khốn cho ngươi! Vì nếu đã xảy ra tại
Tyrô và Siđon các phép lạ diễn ra nơi các ngươi, thì họ đã mặc áo nhặm, rắc tro
mà ăn năn hối cải từ lâu rồi. Nên Ta bảo các ngươi: Trong ngày phán xét, Tyrô
và Siđon sẽ được xét xử khoan dung hơn các ngươi.
"Còn ngươi, hỡi Capharnaum,
chớ thì ngươi nhắc mình lên tận trời sao? Ngươi sẽ phải rơi xuống địa ngục, vì
nếu các phép lạ diễn ra giữa ngươi mà xảy ra tại Sôđôma, thì thành ấy đã tồn tại
cho đến ngày nay. Vậy Ta bảo thật các ngươi: Trong ngày phán xét, Sôđôma sẽ được
xét xử khoan dung hơn ngươi."
TRUYỆN KỂ
1. Sám hối để được ơn tha thứ
Sự cố ngày 11-09-2001 tại nước Mỹ
khi tòa nhà tháp đôi sụp đổ và cướp đi sinh mạng của biết bao nhân tài đã làm
cho cả thế giới phải sững sờ! Tại sao một đất nước nổi tiếng về an ninh, khoa học...
lại để xảy ra biến cố đáng tiếc này?
Sau hàng loạt những câu hỏi nhằm
thỏa mãn sự thắc mắc tự nhiên của con người, thì câu hỏi quan trọng nhất và
cũng là gốc rễ, căn nguyên của vấn đề được đưa ra, câu hỏi đó là: “Tại sao
Thiên Chúa cho phép xảy ra một thảm họa kinh hoàng như vậy?”
Và người ta nhận được câu trả lời
của một người dân: “Tôi nghĩ Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, bởi vì từ nhiều
năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học và đời sống của chúng
ta. Như thế, chúng ta làm sao có thể mong Chúa can thiệp khi ta đã khẩn thiết
xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình!"
2. Sám hối
Một bé gái rất nghịch ngợm. Vì
bé không chịu nói xin lỗi nên bà mẹ đã phạt bằng cách cất hết đồ chơi và bắt nằm
trên giường.
Tan sở về, người cha lên lầu thăm bé và nói:
“Chỉ cần con xin lỗi, mẹ sẽ cho ăn và trả lại đồ chơi."
Cô bé ngước nhìn với vẻ cương
quyết, không chút hối hận, và nói: “Ba ạ, họ lấy đồ chơi của con, không cho con
ăn tối, nhưng họ không thể lấy đi những suy nghĩ của con!" Dù thế nào đi nữa,
bé vẫn khăng khăng giữ những ý nghĩ của mình.
Hối hận thật cần thiết!
3. Mua tiền lẻ bằng niềm vui
Trong cuốn nhật ký của một người
thanh niên đạo đức, người ta tìm thấy những dòng tự thuật như thế này:
“Bước ra khỏi nhà sách một ít,
tôi nhận ra số tiền dư mà chị bán hàng mới đưa lộn cho tôi. Lương tâm tôi nhắc
phải sống công bằng. Nhưng tôi đã tự trấn an: “Nhằm nhò gì ba cái lẻ đó. Hơn nữa
đó là lỗi của người khác chứ đâu có phải là lỗi của tôi." Và tôi tiếp tục
bước đi.
Tới nửa đoạn đường, chân tôi cứng
lại như có một sức mạnh nào đó níu kéo lại, khi tự đáy lòng tôi Lời Chúa vang
lên: “Khốn cho ngươi." Tôi tự nghĩ: chắc hẳn Chúa đang buồn vì hành động của
tôi, vì tôi đã biết Chúa nhiều. Sau giây phút ngập ngừng, tôi quyết định trở lại
hiệu sách và hoàn lại số tiền cho chị. Chị nhìn tôi, cười thật tươi sau tiếng
cám ơn. Chưa bao giờ tôi cảm thấy được nhẹ nhàng cả người như thế.
4. Phép lạ của tình yêu
Thời vua Luis 13 đang trị vì nước
Pháp, ngày kia hoàng hậu Anne d’Autriche mở tiệc đãi khách. Hôm đó bà đeo sợi
dây chuyền bằng ngọc. Thánh Vincent de Paul có mặt trong bữa tiệc đó, đã nói với
bà: “Thưa hoàng hậu, nếu bà muốn bà có thể làm một phép lạ."
Hoàng hậu nhìn thánh nhân với vẻ
đầy kinh ngạc. Thánh nhân nói tiếp: “Vâng, bà có thể đổi viên ngọc này thành
bánh mì giúp những người nghèo đói." Vài giờ sau, phép lạ đã xảy ra: Hoàng
hậu trao cho thánh Vincent được Paul sợi dây chuyền ấy để bán lấy tiền mua bánh
mì cho người nghèo.
Ngày nay vẫn xảy ra những phép lạ
tương tự, hiểu theo nghĩa những việc kì diệu được thực hiện do ơn Chúa tác động.
Khi thấy những “phép lạ” bác ái, hy sinh do người khác làm, tôi có sám hối về
lòng ích kỷ của mình không?
5. Lỗi lầm lớn nhất
Trong dịp hành hương Fatima ngày
11/5/2010, Đức Bênêđitô XVI đã nói: “Sự bách hại ác liệt nhất đối với Giáo Hội
không đến từ kẻ thù bên ngoài, mà xuất phát từ tội lỗi ngay trong lòng Giáo Hội,
vì thế Giáo Hội cần khẩn thiết học lại bài học sám hối, cần chấp nhận sự thanh
luyện.” Phải chăng vì không học bài học sám hối để trở về với Chúa mà chúng ta
đang góp phần tạo cho xã hội này không còn chuẩn mực đạo đức? Dân thành ngoại
giáo Tia và Xiđôn nghe Lời Chúa đã mau mắn sám hối, còn chúng ta sao cứ chây lì
trong tội và làm ô Danh Chúa?
Lỗi lầm lớn nhất của con người
là không ý thức được những sai trái của mình và sám hối là hành động thiêng
liêng nhất của con người. Đâu là cách hành xử của bạn?
6. Hoa trái của lòng tốt
Cũng trong tập hồi ký của mình,
thủ tướng của nước Anh thời đệ nhị thế chiến là ông Winston Churchill đã kể lại
một câu chuyện như sau:
Cha mẹ ông đưa ông về Scotland
nghỉ hè. Ngày nọ, cậu bé Winston đang tắm trong một dòng sông gần nhà, thì chân
cậu bị vọp bẻ. Cậu kêu la thất thanh. Nghe tiếng kêu, một cậu bé trai từ nông
trại gần bên đã vội chạy đến và nhảy ngay xuống sông cứu Winston.
Cảm động vì nghĩa tử của cậu bé,
ngày hôm sau, cha mẹ của Winston đã tìm đến nông trại để cám ơn cậu bé. Ông hỏi
cậu bé lớn lên sẽ làm gì, cậu bé đáp:
- Cháu nghĩ rằng, cháu sẽ tiếp tục
nghề nông của ba cháu.
Cha của Winston gợi ý:
- Cháu không có hoài bão nào
khác hơn ư?
Cậu bé đáp:
- Cháu luôn mơ ước được làm một
bác sĩ, nhưng nhà cháu nghèo như thế này thì lấy tiền đâu cho cháu đi học.
Nghe thế, ông bố của Churchill
liền hứa hẹn:
- Cháu đừng lo, hoài bão của cháu
sẽ được thực hiện, bác sẽ giúp cháu.
Winston Churchill sau này trở
thành thủ tướng nước Anh. Năm 1934, trong chuyến công tác tại Bắc Phi, ông bị
sưng cuống phổi trầm trọng. Bác sĩ riêng của ông, người đã khám phá ra thuốc
Peniciline đã chữa trị cho ông. Đây là lần thứ hai bác sĩ này đã cứu mạng cho
Winston Churchill, bởi vì cậu bé đã từng cứu Winston khỏi chết đuối năm xưa
không ai khác hơn là cậu bé nhà nghèo có tên Alexandre Flenmming, mà nay là bác
sĩ riêng của thủ tướng.
7. Chủ nghĩa hưởng thụ
Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa
năm 2010, phần “Hiện trạng xã hội Việt Nam dưới ánh sáng đức tin,” nói đến chủ
nghĩa hưởng thụ như một thách đố đối với người Công giáo. Với người thấm nhiễm
chủ nghĩa này, điều họ quan tâm số một là tiện nghi vật chất, tiền bạc của cải,
để có điều kiện hưởng thụ tối đa; niềm tin tôn giáo bị xem là thứ yếu. Họ thờ ơ
lãnh đạm trước những sinh hoạt của tôn giáo.
Thái độ thờ ơ ấy không tiêu diệt,
nhưng làm tê liệt sự sống của tôn giáo. Các thành quanh bờ hồ Galilê ngày xưa bị
Chúa quở trách cũng vì sự thờ ơ lãnh đạm này. Chứng kiến phép lạ Chúa làm, nghe
lời Ngài giảng, nhưng họ không quan tâm đến Ngài. Ngài có đó, ở giữa họ, nhưng
như không hiện hữu với họ, không ảnh hưởng gì đến họ.
Chủ nghĩa hưởng thụ không phải
chỉ ở trong siêu thị, ngoài hè phố, nhưng có thể thâm nhập vào tâm hồn bạn. Dấu
hiệu của căn bệnh xã hội này là lối sống thực dụng, tìm mọi cách để hưởng thụ,
và đặc biệt thái độ dửng dưng, thờ ơ với việc sống những giá trị của Tin Mừng,
tham gia việc chung... Bạn có nhận ra những dấu hiệu ấy nơi suy nghĩ và lối sống
của mình chưa?
8. Tin vào Chúa
Ngôi sao bóng rổ Horace Grant
cùng với cả đội đến Philadelphia. Đêm nọ, ông thấy một người đàn ông vô gia cư
ngủ trước cửa nhà thờ. Ông hỏi người này: “Ông không sợ một mình ở đây giữa đêm
khuya thế này sao?” Người đàn ông chỉ tượng Chúa Giêsu trên đầu và nói: “Không,
tôi tin vào Ngài.” Cuộc đời của Grant bị tác động bởi niềm tin sâu sắc của người
đàn ông này.
Câu truyện trên và lời Chúa hôm
nay nhắc nhở tôi rằng niềm tin cũng như cái nền nhà, nếu nó không chắc, thì
ngôi nhà không thể đứng vững được. Tôi có thể làm gì để cho đức tin của tôi nên
mạnh mẽ hơn?
Đức tin không có việc làm cũng
giống như một con chim không có cánh; dù rằng nó có thể chạy nhảy trên đất,
nhưng không thể nào tung bay lên trời được (Joseph Beaumont).
9. Chọn Chúa hay thế gian?
Cách biển Galilê vài dặm là cảnh
đổ nát của thành Corazin thời xưa. Khi ngồi yên lặng giữa cảnh đổ nát đó, dường
như bạn nghe được tiếng Chúa Giêsu vang vọng qua các thế kỷ: “Khốn cho ngươi, hỡi
Corazin!”
Tiếng Chúa vang vọng mời gọi tôi
tự hỏi: Cuộc sống của tôi sẽ kết thúc như thế nào?
Sau khi phủi đi những vướng bận
của cuộc đời, chắc hẳn sẽ còn lại những gì là trong sạch và cương quyết. Điều
đó tốt hay xấu? Bản thân ta đã thực hiện điều đó như thế nào? (John Steinbeck)
THỨ TƯ - Mặc khải cho kẻ bé mọn
Lời Chúa:
Mt 11, 25-27
Khi ấy,
Chúa Giêsu thưa rằng: "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xưng tụng Cha, vì Cha
đã giấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều ấy, mà lại
mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì ý Cha muốn như vậy. Mọi sự đã
được Cha Ta trao phó cho Ta. Và không ai biết Con trừ ra Cha; và cũng không ai
biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho."
TRUYỆN KỂ
1. Kẻ bé mọn gặp được Nước Trời
Chị
Edit Stein là một phụ nữ Do thái được coi là thông thái, trí tuệ. Chị đậu tiến
sĩ triết học với hạng tối danh dự tại Đức, và là người cộng tác với ông tổ của
Hiện tượng luận là triết gia Husserl.
Việc
tìm kiếm Chân Lý đã dẫn chị đến với đạo Công giáo. Chị đã đi tu Dòng Kín Cát
Minh và đã bị giết tại trại giam của Đức quốc xã. Chị Bênêđícta Thánh Giá được
phong thánh năm 1998 bởi Đức Gioan Phaolô II.
Sự
thông thái khiêm tốn đã giúp Chị gặp được Nước Trời như một kẻ bé mọn.
2. Nhận biết Thiên Chúa là việc của đức tin, không phải của lý
trí
Thánh
Têrêsa Avila, tuy không học hành nhiều, nhưng đã có kinh nghiệm sống động về
Thiên Chúa và đã trình bày kinh nghiệm thiêng liêng của mình một cách tốt đẹp,
đến nỗi đã được đặt làm tiến sĩ Hội Thánh, vì giáo huấn của thánh nữ để lại là
kho tàng thiêng liêng quý báu giúp mọi thành phần Giáo Hội đến với mầu nhiệm
Thiên Chúa.
Để cảm
nếm và sống hòa hiệp với Thiên Chúa, cần trở nên những người bé mọn theo tinh
thần Phúc Âm. Ðức tin Kitô giáo hướng dẫn chúng ta đến một con người cụ thể, một
vị Thiên Chúa chấp nhận sống với con người, chứ không phải những lý lẽ thần học
cao siêu. Một con người khiêm tốn có thể có đức tin sâu xa hơn một nhà thông
thái. Ðức tin là một hồng ân cần được lãnh nhận hơn là kết quả của sưu tầm trí
thức của con người.
3. Tinh thần trẻ thơ
Chị
Têrêsa thành Lisieux sống và mang tinh thần bé nhỏ: Luôn làm những việc bé nhỏ,
chị đã thổ lộ và cầu nguyện: “Con là một linh hồn rất bé mọn, chỉ có thể dâng
những điều bé mọn cho Chúa."
Nhờ
tinh thần phó thác vào Chúa, chị cảm nhận ra tình yêu Chúa ngay cả những đen tối
nhất của tâm hồn đó là cảm nghiệm được nước Trời: “Ngay cả những khi gặp thử
thách ốm đau, con không sợ, vì Chúa luôn ở bên con, nâng đỡ con, vì Ngài đã
nâng đỡ con từ khi con còn tấm bé, và sẽ nâng đỡ con mãi mãi cho đến hơi thở cuối
cùng."
Chính
tinh thần bé nhỏ đã khiến chị sờ tới nước Trời và trong Thiên Chúa chị được
bình an tâm hồn khi đặt mỗi gánh nặng bệnh tật vào Chúa.
“Như
trẻ thơ nép mình lòng mẹ
Trong con hồn lặng lẽ an vui” (Tv130,2).
4. Đám táng Thiên Chúa
“Thiên
Chúa đã chết”, đó là câu nói của triết gia Nietzche mà sau này được nhiều người
lặp lại. Ngày nọ, những người này muốn cử hành lễ nghi an táng, để từ biệt ý
nghĩ Thiên Chúa hiện hữu. Họ nhờ bác phu già trông coi nghĩa trang đào sẵn cho
một cái huyệt. Hiện diện trong buổi lễ, ngoài bác phu già, tất cả đều là bậc
trí thức trong xã hội. Khi người chủ trì khai mạc buổi lễ thì bác phu già la
lên:
-
Không thể được, vì quan tài chưa đến.
Thiên
Chúa vô hình, cần gì đến quan tài để tẩm liệm. Một vài người xúm lại kéo bác
phu già ra xa, nhưng ông vùng vẫy và la lớn:
-
Không. Thiên Chúa không chết. Thỉnh thoảng không ngủ được, ra đây ngồi, tôi vẫn
nghe tiếng tim Ngài đập, nếu không tin, tối nay tụ họp lại đây quí vị sẽ thấy.
Động
tính hiếu kỳ, họ bỏ dở buổi lễ và hẹn nhau tối sẽ trở lại. Tuy nhiên, tiếng động
bên ngoài vọng lại khiến suốt đêm họ không thể nhận ra đâu là tiếng đập của quả
tim Thiên Chúa. Họ dời tụ điểm đến một vùng quê, nhưng vắng tiếng động thành phố
thì lại có tiếng côn trùng. Cuối cùng họ quyết định gặp nhau tại sa mạc. Bầu
khí tĩnh mịch của sa mạc về đêm làm họ cảm thấy được cất khỏi gánh nặng lo
toan, trở về với cõi lòng và chăm chú lắng nghe. Bỗng một người la to: “Tôi đã
nghe thấy." Nhiều người khác phụ họa: “Chúng tôi cũng đã nghe thấy."
Có người phân tích âm thanh của nó giống như âm thanh của mỗi lần cố gắng sống
hoàn thiện. Họ đã tin phục lời bác phu già và nhất là tìm lại được niềm tin.
5. Niềm vui của tâm hồn hiền lành
Một
hôm sói hỏi sóc:
- Vì
đâu mà họ nhà sóc ngươi luôn vui vẻ nhảy nhót còn bọn sói chúng ta luôn buồn sầu?
- Ông
buồn vì ông ác. Tính độc ác đã bóp nghẹt tim ông. Còn chúng tôi vui vẻ vì chúng
tôi hiền lành và không làm điều ác cho ái. (Tolstoi kể)
6. Người mù mà thấy được
Hôm
đó trời ảm đạm. Cô ngủ quên và trễ giờ làm việc. Rồi mọi việc trong văn phòng
làm cô như muốn điên lên. Khó khăn lắm mới làm xong mọi việc. Rồi cô đón xé
buýt về như mọi hôm. Chỉ có điều hôm nay cô rất bực mình. Một ngày thật “tồi tệ
“, cô nghĩ thế.
Lần
này cũng như mọi lần, chuyến xe buýt lại đến đón khách trễ, tệ hơn lại còn hết
chỗ ngồi. Xui xẻo gì đâu! Cô đành phải đứng. Chiếc xe làm cô lắc lư tứ phía. Đã
bực mình, cô càng cảm thấy buồn bực hơn!
Chợt
cô nghe một giọng nói phía trước. Giọng nói của một người đàn ông cũng “bị” đứng
như cô.
- Trời
đẹp lắm phải không quí vị!
Vì
đông quá, cô không nhìn rõ được mặt ông ta. Cô chỉ nghe được giọng ông đang giới
thiệu huyên thuyên về cảnh mùa xuân, rồi cảnh vật những con đường xe buýt đi
qua! Nào là nhà thờ, công viên, nghĩa địa, đội cứu hỏa. Và lạ thay, hầu như tất
cả mọi hành khách trên xe đều nhìn ra ngoài cửa sổ để ngắm cảnh vật ông giới
thiệu. Ông nói hăng say và nhiệt tình đến mức cô phải mỉm cười. Đây là nụ cười
đầu tiên trong ngày.
Rồi
cũng về đến nhà. Khi chen giữa đám đông để xuống xe, cô cố liếc nhìn người “hướng
dẫn viên du lịch." Ồ! Ông nào có trẻ trung gì. Ông đã đứng tuổi, trên mặt
có hàm râu quai nón, đeo kính đen và cầm trên tay cây gậy nhỏ màu trắng.
- Ồ!
Ông bị mù!
Xin
Chúa cho chúng ta có được tinh thần lạc quan để luôn biết ca tụng Chúa kể cả những
khi thất bại trong cuộc đời.
7. Nước Trời thuộc về các tâm hồn trẻ thơ
Ông
Babis sống tại bang Indiana bên Hoa Kỳ, kể lại một kinh nghiệm nhận ra tình yêu
thương của Thiên Chúa trong và qua đứa cháu nội của ông như sau:
“Vì một
trường hợp sinh nở khó khăn, nên một trong hai đứa cháu nội của tôi vừa được
sinh ra đã chết. Đứa còn sống sót nhưng bị tàn tật nặng cả về thể xác lẫn tinh
thần, vô phương chữa trị. Dĩ nhiên là cha mẹ của cháu buồn lắm. Là ông bà nội,
chúng tôi cũng buồn không kém.
Thằng
bé có khuôn mặt kháu khỉnh làm sao! Nhưng lại tàn tật trông thật đáng thương!
Tuy nhiên, ai trong gia đình cũng đều yêu thương cháu cách đặc biệt, ai cũng muốn
quấn quít với cháu.
Mỗi
khi bế cháu vào lòng, tim tôi se lại và một nỗi buồn nào đó lại đè nặng tâm hồn
tôi. Cho đến một ngày nọ, tôi còn nhớ rõ lắm, nhớ thật rõ. Lúc đó đứa cháu nội
tôi đã được hơn hai tuổi. Chiều hôm đó, tôi trông cháu giúp con tôi để chúng đi
dâng lễ. Tôi đặt thằng bé nằm trên giường và mở cho nó nghe một đĩa nhạc mang nội
dung Thánh Kinh, hầu hết là những bài ca giáo lý do các trẻ em hát. Thằng bé vừa
nghe, vừa mỉm cười, nó múa máy động chân động tay, còn miệng thì ầm ừ những gì
mà tôi không hiểu.
Tôi
nhìn cháu phản ứng, bỗng dưng nỗi buồn trong lòng tôi tan biến giữa những tiếng
hát của đám trẻ vang lên trong đĩa hát.
Bất
chợt tôi cảm nghiệm sâu xa rằng, Thiên Chúa hiểu những tiếng ầm ừ của thằng
cháu tôi và Ngài lắng nghe nó với tất cả lòng yêu thương. Ngài nói chuyện với
nó qua giọng kể và tiếng hát của những em nhỏ phát ra từ đĩa hát.
Xác
tín ấy đã hàn gắn vết thương lòng tôi, đồng thời cũng củng cố lòng tin của tôi
vào tình thương yêu nhân từ Chúa dành cho mỗi người. Cũng hôm ấy tôi hiểu Lời
Chúa trong Tin Mừng. “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Ta đừng ngăn cản chúng, vì Nước
Trời thuộc về những ai giống như chúng.” (Mt 19,14).
8. Thần chết và nhà khoa học
Lần
kia, một nhà khoa học thành công trong kỹ thuật tái tạo chính mình một cách
hoàn hảo đến nỗi người ta không thể nào phân biệt được con người tái chế với
con người gốc của ông. Một ngày nọ, biết Thần Chết đang tìm mình, ông tạo ra một
tá bản sao của mình. Thần Chết bối rối không biết mẫu nào trong mười ba mẫu trước
mặt mình là nhà khoa học, vì thế y bỏ đi và trở về trời.
Không
lâu sau, vì là một chuyên gia về bản chất con người, Thần Chết nghĩ ra một mưu
kế hết sức tinh vi. Ông nói, “Ông quả là một thiên tài khi thành công tạo ra những
bản sao hoàn hảo của ông. Tuy nhiên, tôi đã khám phá một lỗi trong công trình của
ông, chỉ một lỗi nhỏ thôi."
Ngay
lập tức nhà khoa học nhảy ra và la lên, “Không thể được. Lỗi ở đâu?"
“Ở
ngay đây”, Thần Chết vừa nói vừa chộp ông giữa những bản sao và đem đi.
9. Bà là ai?
Một
phụ nữ ngất xỉu sắp chết đột nhiên cảm thấy mình được đưa lên trời và đứng trước
Thẩm Phán.
“Bà
là ai?”, Một người hỏi bà.
“Tôi
là vợ thị trưởng”, bà đáp.
“Tôi
không hỏi bà là vợ của ai mà bà là ai?"
“Tôi
là mẹ của bốn đứa trẻ."
“Tôi
không hỏi bà là mẹ của ai mà bà là ai?"
“Tôi
là giáo viên."
“Tôi
không hỏi nghề nghiệp của bà mà bà là ai?"
Và cứ
thế. Dù trả lời gì, thì dường như bà không đưa ra câu trả lời thoả đáng cho câu
hỏi, “Bà là ai?"
“Tôi
là một Kitô hữu."
“Tôi
không hỏi bà theo tôn giáo nào mà bà là ai?"
“Tôi
là người đi lễ hằng ngày và giúp đỡ những ai nghèo khó và bần cùng."
“Tôi
không hỏi bà làm gì mà bà là ai?"
Rõ
ràng, bà bị đánh hỏng và phải về lại trần gian. Sau khi bình phục, bà quyết tâm
tìm cho ra mình là ai. Điều đó đã làm nên một sự thay đổi.
Trách
nhiệm của bạn là trở nên chính mình. Không phải trở nên một ai đó, hay không phải
một ai đó - vì trong đó có mầm mống của tham lam và tham vọng -không phải là
người này, người kia - vì như thế, là bị điều kiện hoá - nhưng phải trở nên
chính mình.
10. Cái tôi
Chuyện
kể về một thầy tu sống trong sa mạc Ai Cập, một người vốn quá đau khổ trước cám
dỗ đến nỗi không thể chịu được nữa. Vì thế ông quyết định rời căn phòng của
mình và đi đến một nơi khác.
Khi
ông đang mang dép để thực hiện quyết tâm, ông thấy một thầy khác đang ở cách
ông một khoảng không xa. Thầy đó cũng đang xỏ dép vào chân.
“Thầy
là ai?”, ông hỏi người lạ mặt.
“Tôi
là cái tôi của anh”, người đó đáp. “Nếu vì tôi mà anh rời nơi này, thì tôi sẽ
cho anh biết, dù anh đi đâu tôi cũng sẽ theo anh."
Một
khách hàng thất vọng nói với bác sĩ tâm lý, “Dù đi đâu, tôi vẫn dẫn chính mình
theo - và nó làm hỏng hết."
Cả điều
bạn chạy trốn - lẫn điều bạn mong muốn - đều ở trong bạn.
THỨ NĂM - Ách của tôi êm ái
Lời
Chúa: Mt 11, 28-30
Khi ấy,
Chúa Giêsu phán rằng: "Hãy đến với Ta tất cả, hỡi những ai khó nhọc và
gánh nặng, Ta sẽ nâng đỡ bổ sức cho các ngươi. Hãy mang lấy ách của Ta và hãy học
cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng, và tâm hồn các ngươi sẽ gặp
được bình an.
Vì
ách của Ta thì êm ái và gánh của Ta thì nhẹ nhàng."
TRUYỆN KỂ
1. Mang “ách” và “gánh” của Chúa để được bình an
Trong
xã hội ngày nay, số người tự tử khá cao. Điều đáng nói là những người tự tử ở độ
tuổi thanh thiếu niên lại nhiều nhất. Tại Nhật Bản, người ta ước tính cứ 16
phút lại có một người tự tử. Tự tử chiếm tỉ lệ cao hơn cả tại nạn giao thông ở
đất nước này.
Khi
tìm hiểu nguyên nhân, người ta nhận thấy nhiều bạn trẻ bế tắc trong công việc,
thất bại trong tình yêu, không tìm ra ý nghĩa, giá trị của cuộc sống, nên đã
tìm đến cái chết như một sự giải thoát. Nói chung, họ thấy gánh nặng cuộc đời
quá lớn, khiến không thể mang vác nổi, vì thế đành “hạ gánh buông trôi” cho
dòng đời đưa đẩy.
Hôm
nay, Đức Giêsu mời gọi hãy mang lấy “ách” và “gánh” của Ngài để được bình an và
hạnh phúc, vì “ách” của Ngài thì êm ái và “gánh” của Ngài thì nhẹ nhàng. Đồng
thời Đức Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta hãy học với Ngài vì Ngài hiền hậu và
khiêm nhường trong lòng.
2. Thiên Chúa luôn thương yêu
Khi Đức
Giám mục Watts còn nhỏ, ngày nọ chạy sang nhà một bà già hàng xóm. Bà nhờ ngài
đọc cho bà nghe một đoạn Kinh Thánh rồi nói: “Khi con lớn chút nữa, người ta sẽ
bảo con rằng Thiên Chúa luôn rình xem khi nào con phạm lỗi để trừng phạt. Nhưng
ta không muốn con nghĩ như thế, mà ta muốn con chăm đọc Kinh Thánh để luôn nhớ
rằng Thiên Chúa luôn thương yêu con, Ngài luôn để mắt nhìn đến con."
3. Lạn Tương Như và Liêm Pha
Lạn
Tương Như được phong làm tướng quốc. Liêm Pha cậy mình có nhiều công hơn mà lại
bị đứng dưới, nên tức giận hăm he hễ gặp mặt Tương Như là giết đi. Tương Như vì
thế cứ lánh mặt mãi... Một hôm Tương Như ra ngoài, gặp toán lính tiền đạo của
Liêm Pha, vội sai tên đánh xe đi tránh vào trong ngõ, đợi Liêm Pha đi qua rồi mới
đi ra. Bọn xá nhân thấy thế càng giận bèn họp nhau hỏi Tương Như:
-
Chúng tôi bỏ nhà cửa, xa thân thích đến đây hầu ngài, tức coi ngài là bậc thượng
phu nên mến mà theo. Nay ngài cùng Liêm tướng quân cùng hàng mà hạng thứ lại ở
trên. Liêm Pha dọa, ngài đã không báo lại, đã tránh ở triều, nay lại tránh ở
ngoài đường. Sao ngài lại sợ quá như vậy? Chúng tôi lấy làm xấu hổ, vậy xin đi
thôi, không ở nữa.
Tương
Như nói: - Các ngươi xem tướng quân có hơn được vua Tần không?
Bọn
xá nhân đáp: - Không.
Tương
Như nói:
- Lấy
cái oai của vua Tần, thiên hạ ai dám chống, mà Tương Như này dám mắng giữa triều
đình, lại làm nhục cả quần thần nữa. Tương Như dẫu hèn, há lại sợ một Liêm tướng
quân ư? Nhưng ta nghĩ, Tần sở dĩ không dám đánh Triệu là vì e có ta và Liêm tướng
quân. Nay hai con hổ tranh nhau, thế không cùng sống. Tần nghe tin, tất thừa cơ
đánh Triệu. Ta sở dĩ chịu nhục tránh Liêm tướng quân là coi việc nước là trọng
và thù riêng là khinh vậy thôi.
Bọn
xá nhân mọp lạy mà rằng:
- Tiểu
nhân chúng tôi trí hẹp làm gì hiểu nổi đại chí của tướng công.
Liêm
Pha khi nghe thuật lại việc làm của Tương Như cả thẹn mà rằng: “Ta thật còn kém
Lạn Tương Như xa lắm." Bèn đến tạ tội với Tương Như, quì mọp mà rằng: “Tôi
tính thô bạo, đội ơn tướng quân bao dung, nghĩ lấy làm hổ thẹn quá." Tương
Như đỡ dậy, nắm tay cùng khóc và kết làm bạn sống chết với nhau.
4. “Hãy học với Tôi”
Học ở
đây không giống như học chữ mà là học làm người.
Công
Minh Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đã ba năm mà không mấy khi đọc
sách.
Thầy
Tăng Tử hỏi: “Ngươi đến đây học đã ba năm nay, ta xem ý ngươi không mấy khi học
tập sách vở như các anh em khác, là tại làm sao?
-
Công Minh Tuyên nói: Thưa thầy, con vẫn học. Con thấy: thầy ở trong nhà, trước
mặt song thân, lúc nào cũng hiếu thuận, hoà nhã, cho đến giống vật như chó,
mèo, thầy cũng không quở mắng bao giờ; - thầy ứng tiếp bạn bè cung kính ung
dung, rất có lễ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đều nể phục; - Thầy ở triều đình, đối
với kẻ dưới, bề ngoài rất là nghiêm trang, mà trong bụng rất là nhân từ, không
có ý hại ai bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui lòng học mãi mà chưa được.
Con đâu dám không học mà cứ ở cửa nhà thầy."
Thầy
Tăng Tử nghe đoạn, tạ lại Công Minh Tuyên và nói rằng: “Ta nay thật không bằng
con."
Đó là
học làm người. Học làm người thì phải học suốt đời. Có lẽ suốt cuộc đời cũng
chưa xong. Phải học hoài học mãi.
5. Vua cũng là người
Vua
Philipphê nước Macedonia là cha sinh ra vua Alexandre le Grand, hằng ngày có
các thiếu niên quí phái hầu cận. Sáng sáng, họ có bổn phận phải vào tận long
sàng đánh thức nhà vua mà tâu:
- Xin
bệ hạ nhớ cho: “Vua cũng là người."
Vua sai người nhắc mình mỗi ngày như thế là để
chế ngự tính khí kiêu ngạo, là thói thường làm hư hoại cuộc sống con người.
Vua
chẳng qua cũng chỉ là một người. Chúng ta cũng hãy nên tự nhắc cho mình hoặc viết
chữ lớn dán ở phòng ngủ: Ta nên nhớ ta là một người, phận sự ta phải ăn ở cho xứng
đáng.
Đối với
bản thân hay tha nhân, ta phải luôn sống cho xứng nhân vị là bậc làm người.
6. Có khó mới giỏi
Thánh
Philipphê Nêri biết tính mình rất nóng và trước Mình Thánh Chúa, ngài xin Chúa
giúp ngài chữa lành tính nóng nảy này. Chúa hứa giúp ngài.
Sau đó Nêri bước ra khỏi nhà thờ và chỉ công
việc cho giáo dân. Hôm đó một anh thanh niên xưa nay rất thân với ngài bỗng
dưng không chịu nghe lời lại còn dám cãi to tiếng với ngài nữa. Nêri nổi giận
“sạt” anh ta một trận. Nhưng sau đó, ngài nghĩ lại, hối hận vì sự nóng nảy của
mình, và xin Chúa tha. Cuối ngày hôm đó, lại có một giáo dân bình thường, rất
hiền lành, dễ bảo, nay bỗng trở chứng, làm Nêri nổi cơn thịnh nộ một lần nữa.
Tối đó, trước Mình Thánh Chúa, Nêri cúi đầu
thưa Chúa:
- Con
xin lỗi Chúa vì con đã nóng nảy. Mà tại sao Chúa lại không giúp con sửa tính xấu
này?
Chúa trả lời thánh nhân rằng:
- Con ạ, con xin Ta giúp sửa đổi tính nết và
Ta đã giúp con bằng cách cho hai người bạn thân tốt của con tạo dịp cho con sửa
mình, thế mà con đâu nhận ra đó là ơn của Ta!
Vâng,
đừng quá quan trọng chính mình. Hãy coi mình chỉ là một con người...
7. Gánh êm ái
Người
cha nọ đi dạo với cậu con trai cưng. Sau khi vui đùa thỏa thích giữa cánh đồng
đầy hoa, hai cha con tung tăng rảo bước ra về. Dọc đường bỗng cậu con trai cưng
6 tuổi này nói với cha: “Bố ơi, con buồn ngủ”, rồi chẳng mấy chốc tay chân cậu
hóa bủn rủn. Cha cậu phải cõng cậu lên. Cậu bé gục vào lưng cha, ngủ thoải mái.
Sau này, người cha đã ghi lại trong một trang nhật ký rằng: “Thế là tôi cõng
cái ách êm ái đó suốt quãng đường dài trở về nhà.” Khi chúng ta yêu, ta dễ cảm
nhận những gánh nặng do người yêu mang lại thật nhẹ nhàng và êm ái.
Chúa
Giêsu quả quyết rằng ách của Người êm ái và gánh của Người nhẹ nhàng, miễn là
chúng ta đến với Người và đón nhận Người.
8. Lời bổ sức cho tâm hồn
THĐ
Giám Mục Thế Giới về Lời Chúa năm 2008 cho biết các tín hữu ít hiểu biết và ít
đọc Lời Chúa. Phải chăng vì Chúa nói những lời “chói tai quá”? Hay vì người ta
sợ Lời Chúa đòi hỏi triệt để quá? Quả thật, Lời Chúa như “lửa hồng và như cái
búa đập vỡ tảng đá” (Gr 23,29), “sắc bén hơn gươm hai lưỡi; thấu tận nơi phân
cách linh hồn và tinh thần, đến tận xương tủy” (Dt 4,12). Lời Chúa không cho
phép người nghe thỏa hiệp, đi nước đôi, nhưng phải chọn lựa quyết liệt và hoán
cải đến cùng.
Những
đòi hỏi này đã khiến nhiều người bỏ cuộc như chàng thanh niên giàu có. Nhưng
cũng có những người trung kiên như Phê-rô xác tín rằng, đó là “lời ban sự sống.”
Về phần mình, Mẹ Ma-ri-a đã giữ tất cả Lời Chúa và suy niệm trong lòng.
THĐ
Giám Mục nhắc nhở “mỗi nhà cần có cuốn Kinh Thánh, gìn giữ cẩn thận và xứng
đáng, đọc và cầu nguyện với Kinh Thánh; gia đình phải đề ra những hình thức và
kiểu mẫu giáo dục cầu nguyện, huấn giáo, học hỏi về việc sử dụng Kinh Thánh, để
các thanh niên thiếu nữ, người già cùng trẻ em lắng nghe, hiểu, chúc tụng và sống
Lời Chúa.”
Giáo
xứ và gia đình bạn có đọc và suy niệm Lời Chúa không? Bạn làm gì để gia đình và
giáo xứ bạn bắt đầu đọc và suy niệm Lời Chúa?
9. Ách của tôi
Ách
là một bộ cương bằng gỗ được dùng để nối cổ hai con bò lại, nhờ đó chúng có thể
kéo chung một xe. Người thợ mộc chuốc những cái ách sao cho thích hợp với mỗi
con vật để nó khỏi bị đau. Một truyền thuyết kể lại rằng Chúa Giêsu làm những
cái ách ở xưởng mộc Nazaeth. Vì vậy, Ngài biết rõ mình nói gì khi tuyên bố “Ách
tôi êm ái.” Từ “êm ái” có thể dịch là “rất thích hợp.” Nói khác đi, Chúa Giêsu
muốn nói rằng: “Hãy tin tôi và trao ách của anh em cho tôi. Khi hợp tác với
nhau, chúng ta có thể kéo bất cứ gánh nặng nào.”
Điều
gì ngăn cản tôi tin tưởng? Tôi và Chúa có thể cùng kéo gánh nặng nào?
Chúng
ta định hướng cách an toàn qua mọi cơn bão, miễn là trái tim ta tốt, ý định
hăng say và niềm tin kết hợp ta với Chúa cách vững bền (Francis de Sales).
10. Sức mạnh của tình yêu
Nhiều
ngày sau khi chiếc tàu Titanic chìm ở Bắc Đại Tây Dương, một tờ báo đưa ra hai
tấm hình trái ngược nhau. Bức đầu tiên chỉ phần con tàu bị đập thủng bởi tảng
băng to lớn, với lời chú giải: “Sự yếu đuối của con người và sức mạnh của thiên
nhiên.” Bức thứ hai là hình ảnh hành khách nhường chỗ trên tàu cứu nạn cho một
phụ nữ với đứa con trên tay, kèm theo lời chú giải: “Sự yếu đuối của thiên
nhiên và sức mạnh của con người.”
Có lẽ
tôi không hát bài ca ngợi Chúa, vì tôi có khuynh hướng tập trung nhiều vào bức ảnh
đầu tiên về chiếc tàu Titanic (sức mạnh của thiên nhiên), và không quan tâm đủ
đến bức ảnh thứ hai (sức mạnh của con người được tăng tiến nhờ ơn Chúa) chăng?
“Ơn của
Thầy đã đủ cho con, vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn trong sự yếu đuối.”
(2Cr 12,9)
11. Trong tình yêu không có đau khổ
Roger
Bolduc chết ở Waterville, Maine, sau một căn bệnh ung thư kéo dài. Cho đến lúc
chết ông vẫn xem căn bệnh của ông như là một món quà của Thiên Chúa. Ngay trước
đó, ông viết: “Nhiều thứ trước đây tôi cho là quan trọng, thì bây giờ chỉ là vụn
vặt, Thiên Chúa đã trở nên quá hiện thực. Tôi đã luôn cảm nhận và giờ đây còn cảm
nhận hơn nữa sức mạnh và sự gần gũi của Thiên Chúa. Tôi cảm thấy mình được yêu
thương.”
Khi
nào tôi cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa nhất: Khi thịnh vượng hay lúc
rủi ro? Tôi giải thích điều này ra sao?
Vào
giữa mùa đông cuối cùng tôi nhận ra rằng trong tôi có một mùa hè không thể nào
dập tắt được. (Albert Camus).
12. Hiền lành
Những
tác phẩm của Thomas Merton vẫn còn tác động mạnh đến suy nghĩ của thế giới. Một
ngày nọ, khi ông đang ngồi ngoài trời, một con bướm bay đến đậu trên tay ông.
Ông viết: “Chú bướm không bay đi, cho đến lúc cần đến bàn tay, tôi thổi nhẹ (và
nó tung cánh bay về khu rừng). Hình ảnh này có một điều gì đẹp đẽ, diu dàng. Đó
là điều mà có lẽ Chúa Giê su đã làm.
Sự dịu
hiền của Chúa Giêsu khiến tôi tự nhìn lại cuộc sống của mình. Tôi đã đối xử với
người khác và với thiên nhiên ra sao?
Chúa
phán: “Ta sẽ đổ đầy thần khí Ta trên tôi tớ Ta. Ngài sẽ không bẻ gãy cây lau bị
dập, cũng không dập tắt tim đèn còn khói” (Is 42,1-3)
13. Sức mạnh bởi lòng cậy trông
Những
người trông cậy vào Chúa thì được thêm sức mạnh. Như thể chim bằng, họ tung
cánh. Họ chạy hoài mà không mỏi, đi mãi mà chẳng chùn chân. (Is 40,31)
Bod
Richards là nhà vô địch môn nhảy sào thế vận hội Mỹ. Một kỉ niệm đáng nhớ của
ông về những ngày thế vận hội, đó là Fred Hansen, một vận động viên nhảy sào
người Mỹ khác. Fred rất căng thẳng và lo lắng, vì không đạt thứ hạng cao trong
môn nhảy sào. Fred ngừng lại “trong cuộc tranh đua gay cấn” để đọc bức thư
trong đó cha của anh nhắc nhở rằng anh có thể được chắp vào đôi cánh đại bàng.
Được khích lệ bởi những người trích dẫn sách ngôn sứ Isaia của cha anh, Fred đã
nhảy qua được mức xà tiếp theo.
Tôi
có nhớ lần nào Thiên Chúa có dùng người khác để đổ tràn ân sủng vào cuộc đời
tôi không?
Thiên
Chúa đến với mỗi người bằng một con đường riêng (Ralph Waldo Emerson).
THỨ
SÁU - Con Người là chủ ngày Sabbat
Lời Chúa: Mt 12, 1-8
Khi ấy, vào ngày Sabbat, Chúa
Giêsu đi ngang cánh đồng lúa. Các môn đệ của Người đói, liền bứt bông lúa mà
ăn.
Thấy vậy, các người biệt phái
thưa với Người rằng: "Kìa, các môn đệ của Ngài làm điều không được phép
làm trong ngày Sabbat.”
Người nói với các ông rằng:
"Các ông không đọc thấy Đavít và những người đi với ông đã làm gì khi đói
lả sao? Các ông cũng không đọc thấy Đavít vào đền thờ Chúa ăn bánh trưng hiến,
bánh mà ông và các kẻ theo ông không được phép ăn, chỉ trừ các tư tế được ăn mà
thôi sao? Hay các ông không đọc thấy trong luật rằng: Ngày Sabbat, các tư tế
trong đền thờ vi phạm ngày Sabbat mà không mắc tội đó sao?
Tôi bảo cho các ông biết, đây có
Đấng còn trọng hơn đền thờ nữa. Vì nếu các ông biết được điều này là: "Ta
muốn lòng nhân từ, chứ không muốn hy lễ", chắc các ông không bao giờ lên
án những người vô tội, vì chưng Con Người cũng là chủ ngày Sabbat.”
TRUYỆN KỂ
1. Ta muốn lòng nhân (Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.)
Đức Khổng Tử đòi người quân tử
phải có năm đức tính gọi là ngũ thường. Đứng đầu của ngũ thường là lòng nhân. Ngài
viết: “Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử? Người quân
tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân, dù trong lúc vội vàng
cũng theo điều nhân (Luận Ngữ, IV, 5).
Trong giáo huấn của Đức Giêsu,
lòng nhân có một chỗ đứng đặc biệt. Hai lần câu này của ngôn sứ Hôsê được trích
dẫn trong Mátthêu: “Ta muốn lòng nhân, chứ đâu cần lễ tế” (9, 13; 12, 7).
Giữ Luật phải đem lại cho con
người hạnh phúc, phải đi với lòng nhân. Giữ Luật mà cứng nhắc, thiếu lòng nhân,
lòng bao dung, thì đó là thứ hy lễ Chúa không cần (Hs 6, 6).
2. Lề luật và lương tâm
Nhà giảng thuyết Alexander
Smellie có lần viết: Cụm từ “tôi phải” là một quy luật đạo đức khi lương tâm được
ơn trên soi sáng hướng dẫn, nhưng khi lương tâm lệch lạc vì tội lỗi, hẹp hòi và
quá khích, câu đó có thể đẩy ta vào chỗ đi ngược lại Đức Kitô.
Một người Ấn Độ nói với một quan chức Anh:
“Khi người chồng chết, thì lương tâm bảo chúng tôi là phải hoả thiêu người vợ
góa trong tang lễ của chồng.”
Quan chức Anh đáp: “Nếu anh làm
thế, thì lương tâm bảo tôi là phải treo cổ anh !”
3. Paparazzi của Chúa
“Paparazzi” theo tiếng Ý là tên
gọi những tay chuyên rình chụp hình lén những nhân vật nổi tiếng để gây
xì-căng-đan. Nhưng người Biệt phái này hẳn cũng đóng vai paparazzi đeo bám theo
Chúa Giêsu và các môn đệ bén gót mới có thể bắt gặp các ông này bứt lúa ăn
trong ngày sabat, một việc họ bảo là không được phép làm trong ngày hưu lễ. Thế
là có cớ để “kiếm chuyện” với Chúa Giêsu. Mang sẵn một định kiến đầy ác ý tìm
cách bắt lỗi người khác như thế là tự bít kín mọi ngõ ngách để cảm thông, và đồng
thời biến lề luật trở thành công cụ săn lùng và kết án người khác (5 phút Lời
Chúa).
Hôm nay, trước cảnh các môn đệ
Chúa Giêsu đói bụng, bứt mấy bông lúa vò nát để ăn, nhân cơ hội này người biệt
phái bắt bẻ Chúa Giêsu về luật sabát, bởi vì:
- Người Biệt phái chú tâm đến
hình thức của luật đến nỗi quên đi bản chất của luật là bác ái yêu thương, họ sẵn
sàng để người khác đói khát chứ không thà lỗi luật. Luật là cứu sống chứ không
phải giết chết.- Họ vốn chủ trương là hassidim, nghĩa là giữ luật cách khắt
khe, nên khi bắt bẻ Chúa Giêsu là ngầm ý đề cao mình và che giấu sự giả hình của
mình.
- Họ xem luật như cứu cánh và bắt
buộc Thiên Chúa phải theo ý họ mà thưởng công cho họ. Trong khi luật chỉ là dẫn
đường, còn cùng đích phải là Thiên Chúa.
4. Tấu khúc nhạc yêu thương
Thi sĩ George Herbert, người
Anh, ngoài tài làm thơ, ông còn có năng khiếu về hoà nhạc.
Một buổi tối nọ, lúc đang trên
đường đi dự buổi hoà nhạc, thi sĩ gặp một chiếc xe ngựa bị sa lầy. Trên xe hàng
hóa chất rất nặng. Bác đánh xe ngựa thì già yếu và con ngựa thì quá đỗi gầy
còm.
Không chút ngần ngại, thi sĩ đã
bỏ cây đàn bên vệ đường rồi giúp bác đánh xe ngựa bốc dỡ hàng hoá và đẩy chiếc
xe ra khỏi vũng lầy. Sau đó, ông lại tiếp tục giúp xếp hàng lên xe. Rồi nhìn
con ngựa gầy còm mà ái ngại cho nó, ông tặng bác đánh xe ngựa một số tiền để
mua cỏ cho nó ăn.
Công việc xong xuôi thì trời đã
về khuya. Bộ đồ dạ hội của thi sĩ cũng đã lem luốc những bùn. Tuy thế, ông vẫn
đến nơi đã hẹn. Tới nơi thì buổi dạ hội đã xong rồi.
Một người bạn nói với ông: “Nhà
thơ của chúng ta đã lỡ mất một buổi hoà nhạc tuyệt vời.”
Thi sĩ George Herbert mỉm cười
đáp lại: “Phải, đúng thế. Nhưng để đền bù lại, tôi đã tấu được một khúc nhạc
tuyệt vời hơn rất nhiều. Đó chính là tấu khúc nhạc yêu thương.”
Đời người ví như một khúc nhạc. Nhưng có khúc nhạc
nào đẹp cho bằng những khúc nhạc tình thương được vang lên tự cõi lòng con người.
5. Nhan Hồi "ăn vụng"
Ngày nọ Khổng Tử dẫn đệ tử từ nước
Lỗ sang nước Tề. Trong đám đệ tử có Nhan Hồi và Lộ Tử là hai môn sinh được Khổng
Tử sủng ái nhất.
Thời Đông Chu, loạn lạc khắp nơi
khiến dân chúng lầm than đói khổ. Thầy trò Khổng Tử cũng có nhiều ngày nhịn đói
cầm hơi. Ngày đầu tiên đến đất Tề, Khổng Tử và các môn sinh được một người nhà
giàu biếu một ít gạo. Khổng Tử liền phân công: Lộ Tử và các môn sinh khác vào rừng
kiếm củi, còn Nhan Hồi dảm nhận việc nấu cơm.
Đang đọc sách ở nhà trên, Khổng
Tử bỗng nghe thấy tiếng động ở nhà bếp. Nhìn xuống, Ngài bắt gặp Nha hồi đang mở
vung xới cơm cho tay vào nắm từng nắm nhỏ rồi bỏ vào miệng. Khổng Tử than thở:
”Người học trò tín cẩn nhất của Ta lại là kẻ ăn vụng.”
Khi Lộ Tử và các môn sinh khác
trở về, Khổng Tử cho tập họp các môn sinh lại và nói: ”Bữa cơm đầu tiên trên đất
Tề làm cho Thầy chạnh lòng nhớ đến quê hương, Thầy muốn xới một bát cơm để cúng
Cha mẹ. Nhưng liệu nồi cơm này có sạch không?”
Nhạn Hồi chắp tay thưa: ”Dạ nồi
cơm này không sạch. Khi cơm vừa chín con mở vung ra xem thử. Chẳng may một cơn
gió tràn vào. Bồ hóng và bụi rơi xuống làm bẩn nồi cơm. Sau đó con xới cơm bẩn
ra định vất đi. Nhưng nghĩ rằng cơm ít mà anh em thì đông. Cho nên con đã ăn phần
cơm ấy. Thưa Thầy như vậy là hôm nay con đã ăn cơm rồi.”
Nghe Nhạn Hồi nói xong, Khổng Tử
lại ngẩng mặt lên trời mà than rằng: ”Chao ôi! Thế ra trên đời này có những việc
chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không hiểu được đúng sự thật. Suýt nữa
Khổng Tử này trở thành kẻ hồ đồ.”
6. Trịnh Công Sơn và Nguyễn Du và lòng nhân
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết:
“Sống trong đời sống cần có một tấm lòng.” Sống trong xã hội văn minh và tiến bộ
hôm nay lẽ ra con người được vui vẻ và hạnh phúc hơn. Nhưng trong thực tế đau
khổ, bất hạnh, bất công vẫn đang diễn ra khắp nơi trên thế giới.
Tại sao vậy? - Thưa, vì thiếu tấm
lòng. Thế giới hôm nay với nền văn hóa thực dụng giúp con người năng động, nhạy
bén trong việc kiếm tiền và hưởng thụ, nhưng cũng dễ trở nên vô tâm, vô cảm với
người khác và vì thế, gây ra đau khổ cho nhau.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống
với nhau cần có một tấm lòng, tấm lòng nhân hậu của người con cái Thiên Chúa là
Đấng nhân hậu. Tấm lòng nhân hậu khi cư xử với đồng loại thì quý giá hơn các của
lễ hay nói cách khác, đó mới chính là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa hơn cả.
Bon chen trong dòng xoáy vật chất
và hưởng thụ của xã hội hôm nay, lòng người trở nên hẹp hòi, ích kỷ, để rồi chỉ
biết kết án, nghi ngại thay vì nâng đỡ, sẻ chia. Là môn đệ Chúa Giêsu, bạn phải
có một tấm lòng bao dung, yêu thương, tha thứ, hầu đem lại niềm vui và hạnh
phúc cho nhiều người xung quanh bạn. Vì "Có tài mà cậy chi tài... Thiện
căn ở tại lòng ta. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du).
7. Bài Ca của người Tôi tớ
Cha Bernard Haring, trong quyển
Giáo Hội Cần Loại Linh Mục Nào? (Priesthood Imperiled…), đã trình bày rất hay về
Phép Rửa của Đức Giêsu như một định hướng cho toàn bộ sứ vụ của Người.
Bốn “Bài Ca Của Người Tôi Tớ” là
chương trình sống và hoạt động của Đức Giêsu, Đấng trở thành “một người trong
chúng ta.” Người xoá mình, chìm khuất giữa người ta, không ồn ào, không cố gây ấn
tượng, nên người ta không dễ gì nhận ra Người. Chính nhờ xoá mình và nên “một
trong chúng ta” như vậy, Người đã có thể đồng hành, đồng cảm, chia sẻ và cứu chữa
chúng ta là những ‘cây lau bị giập’, những ‘tim đèn leo lét’.
Chính trong cung cách sứ mạng
đó, Đức Giêsu được thấy rõ là người Tôi Trung, người được Thiên Chúa yêu dấu.
Sống đời môn đệ theo cung cách
Thầy Giêsu: loan báo Nước Thiên Chúa trong âm thầm khiêm tốn, cùng sống, đồng
hành, chia sẻ với anh chị em mình. Nhiệt tâm loan báo công lý của Thiên Chúa và
đưa công lý đó đến tòan thắng; nhưng không vênh vang, không hống hách trịch thượng,
mà với một thái độ đơn sơ khiêm nhường.
8. Đức Đạt Lai Lạt Ma và bẩy bài học làm người
1.
Thứ nhất: “học nhận lỗi”
Con
người thường không chịu nhận lỗi lầm về mình, tất cả mọi lỗi lầm đều đổ cho người
khác, cho rằng bản thân mình mới đúng. Thật ra không biết nhận lỗi chính là một
lỗi lầm lớn.
2.
Thứ hai: “học nhu hòa”
Răng
người ta rất cứng, lưỡi người ta rất mềm, đi hết cuộc đời răng người ta lại rụng
hết, nhưng lưỡi thì vẫn còn nguyên. Cho nên cần phải học mềm mỏng, nhu hòa thì
đời con người ta mới có thể tồn tại lâu dài được.
3.
Thứ ba: "học nhẫn nhục”
Thế
gian này nếu nhẫn được một chút thì sóng yên bể lặng, lùi một bước biển rộng trời
cao. Nhẫn, vạn sự được tiêu trừ. Nhẫn chính là biết xử sự, biết hóa giải, dùng
trí tuệ và năng lực làm cho chuyện lớn hóa thành nhỏ, chuyện nhỏ hóa thành
không.
4.
Thứ tư: “học thấu hiểu”
Thiếu
thấu hiểu nhau sẽ nảy sinh những thị phi, tranh chấp, hiểu lầm.
Mọi
người nên thấu hiểu thông cảm lẫn nhau, để giúp đỡ lẫn nhau. Không thông cảm lẫn
nhau làm sao có thể hòa bình được?
5.
Thứ năm: “học buông bỏ”
Cuộc
đời như một chiếc vali, lúc cần thì xách lên, không cần dùng nữa thì đặt nó xuống,
lúc cần đặt xuống thì lại không đặt xuống, giống như kéo một túi hành lý nặng nề
không tự tại chút nào cả. Năm tháng cuộc đời có hạn, biết buông bỏ thì mới tự tại
được!
6.
Thứ sáu: “học cảm động”
Cảm
động là tâm thương yêu, tâm Bồ tát, tâm Bồ đề; trong cuộc đời mấy mươi năm của
tôi, có rất nhiều câu chuyện, nhiều lời nói làm tôi cảm động, cho nên tôi cũng
rất nỗ lực tìm cách làm cho người khác cảm động.
7.
Thứ bảy: “học sinh tồn”
Để
sinh tồn, chúng ta phải duy trì bảo vệ thân thể khỏe mạnh; thân thể khỏe mạnh
không những có lợi cho bản thân, mà còn làm cho gia đình, bạn bè yên tâm, cho
nên đó cũng là hành vi hiếu đễ với người thân.
9. Ý nghĩa của lề luật
Theo truyền thống Do Thái, việc
bứt lúa coi như việc gặt hái là một trong 39 việc cấm làm trong ngày Sa-bát. Vì
thế các người biệt phái đã nại vào luật này để chỉ trích các môn đệ đã bứt lúa
ăn trong ngày Sa-bát. Hành động bứt lúa của các môn đệ không chỉ để mua vui mà
vì một nhu cầu lớn hơn liên quan đến sự sống: “Đói”!
Thế nhưng những người biệt phái
thông luật lại không nắm được cái cốt tuỷ của lề luật đó là sự yêu thương và
lòng nhân hậu. Chúa Giêsu là Đấng Mê-si-a đến để chấn chỉnh lại lề luật, Ngài
muốn con người được yêu thương và được sống. Đa-vít khi đói còn được ăn “bánh
tiến” nữa là… Thế nên, sự sống con người quý trọng hơn thái độ nệ luật biết
bao. Nếu chúng ta giữ luật mà không chú trọng đến trọng tâm của luật thì luật
chỉ còn là gánh nặng và là xích xiềng ràng buộc chúng ta.
Luật Hội Thánh cho nghỉ việc xác
ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng là để người tín hữu có nhiều thời gian đến
gần với Thiên Chúa hơn.
Hãy làm tròn bổn phận của người
Ki-tô hữu: gia tăng việc đạo đức, bố thí, thăm người nghèo, bệnh nhân, v.v…
10. Nói chuyện với Chúa
Keith Miller bị một tai nạn trầm
trọng khi còn là sinh viên. Lúc nằm bên đường chờ xe cứu thương đến, anh nghĩ
là mình sắp chết.Anh nhấm mắt lại và cầu nguyện. Sau đó anh nói: “Khi cầu nguyện,
tôi thấy một cảm giác bình an rất lạ lan tỏa khắp ý thức của tôi. Tôi tự nghĩ:
Thật xấu hổ vì đã tìm được niềm an bình này quá trễ trong cuộc sống.”
Kinh nghiệm cầu nguyện của Keith
Miller và của vua Ezêkia mời gọi tôi tự hỏi: đã bao giờ tôi có cảm nghiệm tương
tự như vậy chưa?
Nếu những làn sóng nhỏ của chiếc
radio có thể truyền đi những giai điệu ngọt ngào trong đêm tối và vượt qua các
ngọn núi và mặt biển, và nếu những nốt nhạc thanh thoát từ cây đàn viôlon được
truyền đi xa mạc và qua cả tiếng ồn ào của thành phố, thì tại sao loài người lại
cứ băn khoăn: liệu Thiên Chúa có nghe lời họ cầu nguyện không? (Marvin Drake).
11. Món quà của tình yêu
Bạn hãy tưởng tượng bạn tặng quà
sinh nhật cho con gái nhỏ của bạn. Hãy tưởng tượng khi mở quà cô bé chỉ giữ lại
giấy gói quà và xem thường món quà. Thí dụ này cho ta cái nhìn sâu sắc về những
gì người Biệt phái đã làm. Họ đã biến tôn giáo thành một cái gì đó mà Thiên
Chúa không hề dự định. Họ đang giữ trong tay giấy gói quà (luật lệ), mà xem món
quà (tình yêu của Chúa) như không có giá trị gì.
Lời Chúa hôm nay mời gọi tôi tự
hỏi: tôi ở trong tình trạng nguy hiểm đến mức nào vì đã làm những gì người Biệt
phái làm, đó là coi nhẹ món quà tình yêu Chúa và chỉ giữ lại giấy bọc?
Lạy Chúa, xin giúp con nhận ra rằng
tôn giáo không chỉ là một chuỗi của giáo điều cần thực hiện, nhưng là một người
cần đi theo. Tôn giáo cũng không phải là hệ thống luật lệ, mà là sống cuộc sống
yêu thương.
12. Ta muốn lòng nhân
Năm 1892, tại đại học Stanford,
Hoa Kỳ, có một học sinh 18 tuổi đang gặp khó khăn trong việc trả tiền học. Cậu
ta là một đứa trẻ mồ côi, và cậu ta không biết đi nơi đâu để kiếm ra tiền. Thế
là cậu nảy ra một sáng kiến. Cậu ta cùng một người bạn khác quyết định tổ chức
một buổi nhạc hội ngay trong khuôn viên trường để kiếm tiền ăn học.
Họ tìm đến người nghệ sĩ dương cầm
đại tài Ignacy J Paderewski. Người quản lý của Paderewski yêu cầu một khoản phí
bảo đảm $2000 để cho ông ấy được biểu diễn. Sau khi họ thoà thuận xong, hai người
sinh viên ấy bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị để cho buổi trình diễn được
thành công.
Ngày trọng đại ấy cuối cùng đã đến.
Paderewski cuối cùng cũng đã có buổi diễn tại Stanford. Thế nhưng không may là
vé vẫn chưa được bán hết. Sau khi tổng kết số tiền bán vé lại, họ chỉ có được
$1600. Quá thất vọng, họ đến chỗ của của Paderewski để trình bày hoàn cảnh của
mình. Hai người sinh viên ấy đưa Paderewski toàn bộ số tiền bán vé, cùng với 1
check nợ $400, và hứa rằng họ sẽ trả số nợ ấy sớm nhất có thể.
“KHÔNG”, Paderewski nói. “Không thể chấp nhận
điều này được.”
Ông ta xé tờ check, trả lại
$1,600 cho hai chàng thanh niên và nói: “Đây là 1600 đô, sau khi trừ hết tất cả
các chi phí cho buổi biểu diễn thì còn bao nhiêu các cậu cứ giữ lấy cho việc học.
Còn dư bao nhiêu thì hãy đưa cho tôi.”
Hai cậu sinh viên ấy vô cùng bất
ngờ, xúc động cảm ơn Paderewski..
Đây chỉ là một làm nhỏ, nhưng đã
chứng minh được nhân cách tuyệt vời của Paderewski.
Tại sao ông ấy có thể giúp hai
người mà ông ấy thậm chí không hề quen biết?
Chúng ta tất cả đều đã bắt gặp
những tình huống như vậy trong cuộc sống của mình? Và hầu hết chúng ta đều
nghĩ: "Nếu chúng ta giúp họ, chúng ta sẽ được gì?”
Thế nhưng, những người vĩ đại họ
lại nghĩ khác: "Giả sử chúng ta không giúp họ, điều gì sẽ xảy ra với những
con người đang gặp khó khăn ấy?” Họ không mong đợi sự đền đáp, Họ làm chỉ vì họ
nghĩ đó là việc nên làm, vậy thôi.
Người nghệ sĩ dương cầm tốt bụng
Paderewski hôm nào sau này trở thành Thủ Tướng của Ba Lan. Ông là một vị lãnh đạo
tài năng. Thế nhưng không may chiến tranh thế giới nổ ra, và đất nước của ông bị
tàn phá nặng nề. Có hơn một triệu rưỡi người Ba Lan đang bị chết đói, và bây giờ
chính phủ của ông không còn tiền để có thể nuôi sống họ được nữa. Paderewski không
biết đi đâu để tìm sự giúp đỡ. Ông ta bèn đến Cơ Quan Cứu Trợ Lương Thực Hoa Kỳ
để nhờ sự trợ giúp.
Người đứng đầu cơ quan đó chính
là Herbert Hoover (1874-1964), người sau này trở thành Tổng Thống thứ 31 của
Hoa Kỳ (1929-1933). Ông Hoover đồng ý giúp đỡ và nhanh chóng gửi hàng tấn lương
thực để cứu giúp những người Ba Lan đang bị đói khát ấy.
Thảm họa cuối cùng cũng đã được
ngăn chặn. Thủ Tướng Paderewski lúc bấy giờ mới cảm thấy nhẹ nhõm. Ông bèn quyết
định đi sang Mỹ để tự mình cảm ơn ông Hoover vì cử chí cao quý của ông ấy đã
giúp đỡ người dân Ba Lan trong những lúc khó khăn. Thế nhưng khi Paderewski chuẩn
bị nói câu cảm ơn thì ông Hoover vội cắt ngang và nói: “Ngài không cần phải cảm
ơn tôi đâu, thưa ngài Thủ Tướng. Có lẽ ngài không còn nhớ, nhưng trước đây,
ngài có giúp đỡ hai cậu sinh viên trẻ tuổi ở bên Mỹ được tiếp tục đi học, và
tôi là một trong hai chàng sinh viên đó!”
Lòng nhân từ luôn được ca ngợi!
Nó có khả năng biến bóng tối thành ánh sáng, làm cho điều ác thành điều lành,
gieo niềm hy vọng vào vực sâu thất vọng và cảm hóa được cả những kẻ ác. Sức mạnh
của lòng nhân từ được trình bày đậm nét trên thập giá Đức Kitô!
Khi bước vào thế giới với lòng
nhân từ, chúng ta bước đi với sức mạnh của Thiên Chúa để xây dựng một thế giới
mới theo phong cách của Đức Kitô, đúng như mệnh lệnh của Ngài:
THỨ BẢY - Người tôi tớ hiền lành và khiêm tốn
Lời
Chúa: Mt 12, 14-21
Khi ấy,
các người biệt phái đi ra ngoài, bàn mưu kế chống lại Chúa Giêsu để hãm hại Người.
Biết thế, Chúa Giêsu rời bỏ nơi ấy. Có nhiều kẻ đi theo Người, và ai có bệnh, đều
được Người chữa lành. Người cấm họ đừng cho ai biết Người, để ứng nghiệm lời
tiên tri Isaia đã chép rằng:
"Này
là tôi tớ Ta đã chọn, là người Ta rất yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Ta sẽ cho
Thần trí ngự trên Người. Người sẽ rao giảng sự công chính cho dân ngoại. Người
không cãi cọ hay dức lác, và không ai nghe tiếng Người ngoài đường phố. Người
không bẻ gãy cây sậy đã giập, không dập tắt tim đèn còn khói, cho đến lúc Người
khiến sự công minh được toàn thắng. Dân ngoại sẽ hy vọng vào danh Người."
TRUYỆN KỂ
1. Đối thoại và hợp tác
Đức
Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nhắn nhủ các Đức Giám mục Việt Nam trong buổi triều
yết ngày 27-6-2009 như sau: “Trong tinh thần đối thoại và hợp tác tôn trọng
nhau, chỉ mong Giáo hội có thể góp phần xứng đáng vào sinh hoạt quốc gia, vào
việc phục vụ tất cả người dân.”
Xin
cho chúng ta biết sống phục vụ như người Tôi Trung Giêsu để “xây dựng một xã hội
công bằng, liên đới và bình đẳng.”
2. Tin vào Thiên Chúa quan phòng dù đau khổ
Kế hoạch
Phân Sáp được vua Tự Đức cho thi hành vào năm 1851 và 1856, gồm bốn mặt:
- Mặt
thứ nhất, không cho người công giáo ở trong làng công giáo của mình, nhưng phải
đến ở trong các làng bên lương.
- Mặt
thứ hai, mỗi người công giáo phải bị năm người lương canh giữ cẩn mật.
- Mặt
thứ ba, các làng công giáo bị phá hủy, của cải ruộng đất của người công giáo bị
tịch thu và giao vào tay những người bên lương, những người này sử dụng và nộp
thuế lại cho Nhà nước.
- Mặt
thứ bốn, không cho người đàn ông công giáo ở một nơi với người đàn bà công
giáo, không cho vợ chồng công giáo ở với nhau, mỗi người phải đi ở một nơi xa
nhau, con cái của người công giáo thì phải để cho gia đình người lương nuôi.
Đây
là một kế hoạch nhằm tiêu diệt Giáo hội Công giáo Việt Nam. Nhưng bàn tay Chúa
dẫn đưa lạ lùng: Giáo hội Công giáo Việt Nam đến hôm nay vẫn còn lớn mạnh và
phát triển không ngừng.
3. Lòng nhân hậu của Mahatma Gandhi
Năm
1922, Mahatma Gandhi, nhà cách mạng bất bạo động của Ấn đã bị chính quyền bảo hộ
kết án tù 6 năm. Biết ông là người gây nhiều ảnh hưởng, viên quản đốc trại đã
biệt giam ông, mọi liên lạc đều do người cai tù Phi châu da đen nổi tiếng là lạnh
lùng đảm nhận. Vì bất đồng ngôn ngữ, cả hai chỉ có thể trao đổi với nhau bằng cử
điệu và ánh mắt.
Ngày
nọ, trên đường đem cơm đến phòng giam của Gandhi, người tù da đen bị con rắn độc
cắn. Không bỏ lỡ một giây, Gandhi để phần cơm sang bên, vội vàng lấy mảnh chén
vỡ vạch hình chữ thập trên vết cắn, rồi kề miệng hút hết lượng máu nhiễm độc,
sau đó với số thuốc gia truyền đem theo, ông đã dùng để rịt vết thương cho người
ấy. Người da đen liền quì xuống trước mặt Gandhi tỏ dấu cám ơn. Trái tim chai cứng
giờ đây đã biết rung động, vì đây là lần đầu tiên trong kiếp sống khốn khổ của
anh, anh đã nhận được một đối xử bằng tình người. Cũng từ đó anh hết lòng giúp
đỡ Gandhi, và nhờ thế nhà cách mạng còn sống sót để tiếp tục lãnh đạo cuộc
tranh đấu.
Chính
quyền Anh đã an tâm khi dựng lên bức tường ngăn cách Gandhi với các đồng hương,
bức tường ấy là người da đen lạnh lùng vô cảm. Thế nhưng có một sợi dây leo đã
bò qua được bức tường ấy, đó là sợi dây leo tình thương.
4. Nhìn thấy cái xấu hay điều tốt nơi người khác
Một
hôm satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương vô cùng kỳ diệu:
Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nhìn
vào tấm gương cũng xấu xí, ghê rợn. Satan nghĩ có thể đưa tấm gương lên thiên
đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần.
Satan
liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm
gương và càng thích thứ khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn.
Nhưng càng bay tới thiên đàng thì hắn càng thấy gương mặt hắn xấu thê thảm. Cứ
thế chưa tới cửa thiên đàng thì hắn không chịu vẻ thô bạo xấu xí của hắn nữa.
Tay hắn run lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ tan từng
mảnh và lan tràn khắp trên mặt đất. Đó là khởi đầu đại họa cho con người: từng
hạt cát nhỏ bám vào mắt ai thì nằm mãi ở đó, và người đó chỉ thấy cái xấu trên
thế gian này thôi.
Câu
chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều
tự nhiên của con người, đó là một cái nhìn của quỷ.
Nơi mỗi
người vẻ đẹp của Thiên Chúa vẫn còn chiếu sáng. Chính cái nhìn này mới là nền tảng
cho đức ái Kitô giáo.
5. Đối đầu là mưu chước của ma quỷ
Đối đầu
dễ dẫn đến hận thù và hận thù thì dễ đưa đến bế tắc. Vua Philipphê nước
Macedonia khi đang đem quân đi vây thành Mêtôn, thì có một tên cung thủ đại tài
tên là Astê đến xin vào đội tinh binh của nhà vua. Người ấy khoe rằng, tài nghệ
cung tên của mình rất hay, chim bay dầu lẹ đến mức nào, anh ta cũng bắn không
sai bao giờ. Vua mỉa mai bảo:
- Được,
để bao giờ đánh trận với chim se sẻ ta sẽ dùng đến tài của ngươi.
Astê
nghe câu nói mỉa mai ấy thì căm tức vô cùng. Chẳng cần phải suy nghĩ lâu dài,
anh liền chạy thẳng vào thành sắp bị vây để chờ dịp trả thù.
Một
hôm, Astê đứng trên bờ thành, thấy vua Philipphê đang đi kinh lý các trại đóng
ngoài thành, liền lấy một cây tên, viết vào mấy chữ: “gửi cho con mắt bên phải
của vua Philipphê”, rồi bắn xuống. Tên trúng giữa mắt phải của vua.
Vua
cho rút mũi tên ra rồi truyền cho ghi lên mũi tên ấy câu này: “Ta mà lấy được
thành này, Astê sẽ bị xử giảo”, rồi bảo quân sĩ bắn tên ấy vào thành.
Sau
quả đã xảy ra đúng như vậy.
Vâng!
Vua Philipphê đã phải mua một giá rất đắt khi thấy mình nói được một lời có ý vị.
Nhưng mà Astê còn trả giá đắt hơn cái thú trả thù của anh ta.
6. Con chiên hiền lành bị đem đi sát tế
Hãy
nhìn vào gương Chúa Giêsu, thầy nhân lành, Cha chí ái của chúng ta, để học với
Ngài bài học về sự hiền lành để có thể chinh phục được cả thế giới này.
Thánh
Phanxicô Salesiô đã có lần quả quyết: “Kẻ hiền lành sẽ làm chủ các tâm hồn và mọi
ý chí sẽ ở trong lòng họ."
Sau
đây là lời cầu nguyện mà mỗi một tu sĩ Bác Ái Truyền Giáo đọc trước khi làm việc
Tông Ðồ. Lời ấy cũng được dùng như lời Cầu Nguyện của Y Sĩ trong trung tâm
Shishu Bhavan, trung tâm trẻ em ở Calcutta:
Lạy
Chúa, vua Chữa Lành, con quỳ gối trước Ngài, Vì mọi quà tặng tuyệt hảo đều xuất
phát từ Chúa, Xin ban cho con đôi tay khéo léo, một tâm trí minh mẫn, một tâm hồn
tử tế và hiền lành.
Xin
cho con chỉ nhắm đến một mục đích, đó là sức mạnh để xoa dịu phần nào sự đau khổ
của anh chị em con, và thực sự nhận biết đó là điều tiên quyết của con. Amen.
7. Người Tôi Trung, được Thiên Chúa yêu dấu
Cha
Bernard Haring, trong quyển Giáo Hội Cần Loại Linh Mục Nào? (Priesthood
Imperiled …), đã trình bày rất hay về phép rửa của Đức Giê-su như một định hướng
cho toàn bộ sứ vụ của người. Bốn “Bài Ca Của Người Tôi Tớ” là chương trình sống
và hoạt động của Đức Giê-su, Đấng trở thành “một người trong chúng ta.”
Người
xoá mình, chìm khuất giữa người ta, không ồn ào, không cố gây ấn tượng, nên người
ta không dễ gì nhận ra người. Chính nhờ xoá mình và nên “một trong chúng ta”
như vậy, người đã có thể đồng hành, đồng cảm, chia sẻ và cứu chữa chúng ta là
những ‘cây lau bị giập’, những ‘tim đèn leo lét’.
Chính
trong cung cách sứ mạng đó, Đức Giê-su được thấy rõ là Người Tôi Trung, người
được Thiên Chúa yêu dấu.
8. Luật phản hồi
Một số
học sinh đang trở về nhà trên chuyến xe lửa trong dịp Giáng Sinh. Một cậu khoe
những thành tích đã đạt được trong học kỳ một vừa qua: cóp bài, đánh cắp ở
phòng ăn, làm lộn xộn sách trong thư viện. Một cụ già đi qua giữa hai hàng ghế
lên tiếng: “Ta không thể nghe con nói nữa và xin lỗi vì đã ngắt lời con. Nhưng
là một người chỉ mong những gì tốt đẹp nhất cho con, hãy để ta nói con nghe “luật
phản hồi”: bạn sẽ nhận lại những gì bạn đã làm hoặc gây ra cho kẻ khác.”
Lời của
cụ già nói với cậu học sinh và lời của Mica nói với dân Israel mời gọi tôi tự hỏi:
“Luật phản hồi” sẽ như thế nào đối với tương lai của tôi?
Sống
theo quy luật đúng đắn mang lại tăng tiến trong hiện tại và là cách đầu tư cho
tương lai.
9. Dịu dàng hay bạo lực?
Mặt
trời và gió đang tranh cãi xem ai mạnh hơn ai, thì một cơ hội đã đến để giải
quyết cuộc tranh cãi. Có một người mặt áo khoác đang đi xuống đường quê. Cả hai
thỏa thuận rằng ai có thể làm cho người này cởi áo nhanh hơn, thì là người thắng
cuộc. Gió làm trước: nó thổi đi thổi lại, nhưng càng thổi, người kia càng giữ
áo chặt hơn. Đến lượt mặt trời: nó chỉ tỏa hết ánh sáng của mình, tức thì người
kia cởi áo khoác.
Ý của
ngụ ngôn là thế này: người ta đạt kết quả bằng sự dịu dàng hơn là bằng bạo lực.
Điều này mời gọi tôi tự hỏi: làm cách nào tôi có thể dịu dàng hơn trong cuộc sống?
Những
gì đến từ con tim có thể lay động được con tim (Don Sibet).
Thường
niên V-GS C-PS Ngoại lịch