Lời Chúa tuần 12 thường niên _ câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 12 THƯỜNG NIÊN
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNTN 12A - Tuyên xưng Thầy trước mặt người đời

CNTN 12B - Gió lẫn biển đều vâng lệnh Người

CNTN 12C -

THỨ HAI - Phương thế tốt để tự biết mình

THỨ BA - Thi hành điều muốn người khác làm cho mình

THỨ TƯ - Cây tốt trái tốt, cây xấu trái xấu

THỨ NĂM - Nhà xây trên đá

THỨ SÁU - Chữa người phong cùi

THỨ BẢY - Đầy tớ đại đội trưởng

Lễ Thánh Tâm

Lễ Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô

 

CNTN 12A - Tuyên xưng Thầy trước mặt người đời

Lời Chúa: Mt 10, 26-33

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời."

TRUYỆN KỂ

1. Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.

Đứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết.

Nỗi sợ xuất hiện dưới muôn ngàn dáng vẻ. Sợ cô đơn, sợ bệnh tật, sợ phụ bạc, sợ tương lai. Sợ thất nghiệp, sợ nghèo đói, sợ thất học, sợ chia ly...

Có những nỗi sợ mang tính đạo đức: sợ phải sống theo lương tâm, phải làm chứng cho sự thật, sợ trước sự ác đang hoành hành, sợ tôn giáo bị mai một...

Có khi người ta sợ nhau: người da đen sợ người da trắng, nước nghèo sợ nước giàu, bạn bè, anh em, hàng xóm cũng sợ nhau.

Lắm khi chúng ta sợ Chúa, không như con sợ cha, nhưng như một nô lệ trước một ông chủ khó tính. Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người. Nỗi sợ làm người ta mất vui, mất bình an và tự do. Bởi thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ.

2. Sợ và chọn lựa

Một người kia nói chuyện với Chúa về những giá trị. Anh hỏi Ngài:

- Giá trị một phút ở trên trời là bao nhiêu?

- Một tỷ năm.

- Giá trị một xu trên trời là bao nhiêu?

- Một tỷ đô la.

Anh liền xin: “Ngài có thể cho tôi một xu?”

Chúa nói: “Đợi một phút."

3. Người tin không biết sợ

Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.

- Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em?

- Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em!

- Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh?

4. Có Chúa ở cùng

Nữ bác sĩ Sheila Cassidy đến nước Chilê làm việc phục vụ cho dân nghèo. Một hôm cô trị bệnh cho một lãnh tụ phe đối lập. Chính quyền biết chuyện nên bắt giam cô. Cô đã thuật lại như sau: “… Sau 4 ngày bị giam cầm và tra tấn, họ để tôi một mình trong phòng giam… Nhưng lạ thay, tôi không cảm thấy cô đơn và buồn chán, trái lại còn cảm thấy vui nữa, vì tôi biết có Chúa ở với tôi." Bác sĩ Sheila đã cảm nghiệm được điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn chúng con."

Hãy tự hỏi bạn sợ điều gì nhất trong đời? Và bạn sẽ nói gì với Chúa về nỗi sợ đó?

5. Đức Giám mục Oscar Romero

Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe.

Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: "Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi." Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đang lúc dâng Thánh Lễ.

6. Trái tim chuột

Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: "Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột."

7. Thánh Phaolô can đảm

Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng. Ngài nói: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng.." Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về một số nguy hiểm đã phải trải qua: 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm (2Cr 12,24-25). Ngài phải được gọi là chiến sĩ của Tin mừng, anh hùng của đức tin, của lòng nhiệt thành, bất chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì:

Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai. (Nguyễn bá Học)

Chúa muốn cho các tông đồ của Ngài phải yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin mừng. Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng: con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức Linh mục: con có muốn tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không?

- Thưa con muốn.

Một sự dấn thân trọn vẹn: Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong những điều cao cả của cuộc sống con người. Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn

8. Gương can đảm.

Các vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng đức tin như sau:

Ghèssèssén là một bé trai Éthiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Em thuộc một gia đình quí tộc lâu đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Ông không bao giờ chấp nhận kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.

Lớn lên em được học ở trường Công giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các em Công giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công giáo, ước ao được rước lễ. Nhưng cac Cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến của ba má em.

Ngày nọ, em bị Ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em từ chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi:

Con đến gặp Ba con, cùng đi với con có Mẹ con. Ông ôm hôn con, và con hôn đầu gối Ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve:

- Ta và Mẹ đã quyết định cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ: “Dạ."

Con đã trả lời:

- Không.

Cha con nói gằn giọng:

- Mày nói gì?

- Con nói “Không”, vì con muốn được học ở nơi các Cha Cố.

- Im đi! Ta muốn mày cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công giáo!

- Thưa cha, con đã là Công giáo trong tâm hồn rồi.

Nghe các lời này, ông nổi cơn tam bành, hét to:

- Đồ bị chúc dữ! Mày, con của Rèdada, lại muốn trở thành Công giáo! Ta thích mày chết đi còn hơn!

Ông nghiến răng, nắm tay đấm. Ông dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la to: “Phải phạt nó."

Mẹ con thì im lặng. Ba con lặp lại:

- Hãy bỏ tôn giáo đó đi! Nếu không, tao giết mày như một con vật.

- Con không thể bỏ đạo thánh được, thà chết còn hơn. Ba là Ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là Cha của linh hồn con.

Thế là một trận đòn với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do Ba con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng tay.

Ba con lại hỏi một lần nữa:

- Có bỏ đạo Công giáo không?

Con trả lời:

- Không, thà chết…

Trải qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững lập trường bắt con bỏ đạo. Ông hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích!

Ngày 7/9 vọng lễ Sinh nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với Ba cậu:

- Cho con đến Gouala, nhà các Cha.

Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm gì khác. Ông đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala.

Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn chịu phép Rửa tội và Rước lễ. Em nói:

- Các Cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo nữa sao? Xin đừng sợ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu! Vì Ngài, con sẵn sàng dâng cả mạng sống con.

9. Mối dây liên lạc với Thiên Chúa.

Một em bé chơi diều, thả con diều lên cao đến độ con diều trở nên như một chấm nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời, một người qua đường hỏi em:

- Em đang làm gì vậy?

Em bé trả lời:

- Cháu đang chơi thả diều.

- Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên trời cả.

Em bé thưa lại:

- Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong tay cháu đây mà.

Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài.

10. Anh em đừng sợ

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi những làn khói trắng tại thành Vatican Rôma bay lên, cả Rôma đổ xô về đền thờ thánh Phêrô và tất cả thế giới hướng về thủ đô của Giáo hội Công giáo. Vị Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo sau Mật Nghị Hồng y đã được bầu lên ngôi. Chuông của các Giáo đường ở Rôma vang rền chào đón một triều Giáo hoàng mới bắt đầu. Ít phút sau, tên của vị Giáo hoàng - Đức Karol Wojtyla với tước vị Gioan Phaolô II được xướng lên, vị Giáo hoàng đến từ sau bức màn sắt, đất nước Balan. Ngài đã bước ra ban công để chúc lành cho thế giới với trách nhiệm kế vị thánh Phêrô, một trong những lời mà Ngài đã ngỏ lời với thế giới: “Đừng sợ và tin vào Chúa Kitô."

Lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xác định rõ tinh thần của Đức Kitô: “Anh em đừng sợ” (Mt 10,26) mà trước đó Đức Kitô nói đến viễn cảnh những người tin sẽ phải đối diện với sự bách hại và thử thách niềm tin (x. Mt 10,17-25). Hãy sống với niềm tin vào Thầy, vào Cha Thầy. Niềm tin biểu lộ bằng sự vượt qua sợ hãi, sợ hãi do những cơn bách hại, sợ hãi do từng cụ thể hoàn cảnh gây cho con người bối rối lo âu...

11. 365 từ đừng sợ

Trong đại hội giới trẻ thế giới tổ chức tại Panama vào tháng 1/2019, khi suy tư về những lời của Sứ Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Đừng sợ!”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi giới trẻ hãy nêu đích danh những nỗi sợ của các bạn. Ngài cho thấy có nhiều bạn trẻ đang vẫn tiếp tục chỉnh sửa (photoshop) hình ảnh của họ hoặc ẩn núp sau những căn tính giả tạo, trong một nỗ lực để làm cho phù hợp với những tiêu chuẩn giả tạo và không thể đạt tới được. Sự không chắc chắn của thị trường lao động, một cảm thức về sự thiếu thốn và thiếu sự an toàn về cảm xúc là những nỗi sợ đang tiêm nhiễm người trẻ.

Kinh Thánh cho ta thấy Abraham, Giacop, Môsê, Phêrô, các tông đồ và ngay cả Chúa Giêsu cũng đã kinh qua sự sợ hãi và nỗi khổ. Những người có chí khí, một khi đã chọn cho đời mình một lý tưởng để phụng sự, thì đương nhiên dám đánh đổi mọi sự, và chấp nhận mọi thứ. Đời sống thánh Phaolô đã minh chứng như thế. Ngài đã hùng hồn tuyên bố: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8, 35-37).

Đức Phanxicô cho thấy, cụm từ “đừng sợ” được lặp lại 365 lần trong Kinh Thánh,“như thể nói cho chúng ta rằng, Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi mỗi ngày trong năm."

12. Sức mạnh của lòng nhân lành

Một nữ tài xế taxi sau đi đón một vị khách lên xe đã bị vị khách này kề dao vào cổ và đòi tiền. Thì ra đây là một tên cướp. Cô bình tĩnh lấy tất cả tiền ra đưa cho kẻ cướp và nói: “Đây là tất cả số tiền mà tôi kiếm được trong ngày hôm nay, nếu anh thấy ít quá thì có thể lấy thêm mấy đồng tiền lẻ trong túi tôi nữa."

Tên cướp có vẻ sững sờ bởi thái độ của nữ tài xế. Cô nói tiếp: “Anh sống ở đâu? Muộn rồi. Gia đình anh có thể lo lắng cho anh. Tôi sẽ đưa anh về nhà." Trước sự quan tâm của nữ tài xế, tên cướp đã thu dao lại.

Trên đường đi, cô trò chuyện với tên cướp: “Gia đình tôi từng sống một cuộc sống rất khó khăn, nên tôi học lái xe và trở thành tài xế taxi. Mặc dù tôi không kiếm được nhiều tiền, nhưng chúng tôi đã sống tốt hơn trước đây. Nhưng hãy nhìn anh xem! Một người đàn ông với cơ thể khỏe mạnh. Anh không thể làm gì để kiếm sống sao? Nếu anh tiếp tục đi con đường này, cuộc sống của anh sẽ bị hủy hoại!”

Khi đến nơi tên cướp muốn xuống, nữ tài xế nói với theo: “Nghe này, không phải là anh cướp của tôi, mà là tôi đưa tiền cho anh đấy. Hãy dùng số tiền đó để làm việc đúng đắn và đừng đi ăn cướp nữa."

Tên cướp im lặng suốt quãng đường đi đột nhiên nói lớn và trả lại tiền cho nữ tài xế: “Chị à, tôi hứa sẽ không lặp lại chuyện này một lần nữa, dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra."

13. Nhận & chối--Anmai.

Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.

Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa."

Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật." “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng."

Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa."

Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được."

“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu."

14. Sợ là mình dọa mình

Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi

"Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." (Mt. 10, 29-31)

* * *

Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.

Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.

Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu... Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.

Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: "Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà."

Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.

Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.

Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.

Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.

15. Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.

Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A'ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: "có người sắp đánh bom tự sát!"

Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1,000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!

16. Không biết sợ là tâm tình của Chúa Kitô

Sử gia Tertullianô đã viết: “Những người tin theo Chúa Kitô được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa Kitô. Lời Chúa nói: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy”đã thấm nhập vào tâm hồn các Kitô hữu, nên mỗi khi phải đau khổ cũng như bị bách hãi, cấm cách, lời nói đó lại văng vẳng bên tai như chính Chúa Kitô hiện diện nói với họ. Vì thế, trên pháp trường, họ coi gươm giáo nhẹ như lông hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường, nếu họ chối bỏ Chúa. Họ đã hưởng ứng Lời Chúa: “Anh em đừng sợ kẻ chỉ giết chết thân xác, nhưng phải sợ Đấng có quyền giết chết cả xác lẫn hồn."

17. Ai sợ thì bị tê liệt

Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu tẩu thuốc hút có vẻ nhàn hạ. Một người khách lạ qua đường hỏi thăm:

- Ruộng trồng bông gòn của ông có khá không?

Nông dân trả lời:

- Tôi không có trồng bông gòn vì sợ có nhiều cỏ dại.

Người kia hỏi tiếp:

- Vậy thì vườn bắp của ông ra sao?

- Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.

- Vậy ông có trồng khoai tây không?

- Không có, vì sợ sâu đất.

Người khách lạ mở to đôi mắt ngạc nhiên hỏi:

- Vậy thì ông trồng cái quái gì?

- Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi sợ gì hết.

18. Người chủ chăn can đảm

Oscar Romero đã trở nên mẫu gương can đảm cho thời đại hôm nay khi không khiếp sợ khuất phục trước kẻ thù của Tin Mừng.

Khi mới được chọn làm Tổng Giám mục San Salvado năm 1977, Đức Cha Oscar là con người bảo thủ và trầm lặng. Nhưng ngài đã đổi thái độ khi chứng kiến những gì đang sảy ra trên quê hương đất nước. Các bài giảng của ngài đã vạch trần tội ác của chính quyền đương nhiệm và làm chấn động các thành phần liên hệ. Mặc dù tính mạng bị đe doạ thường xuyên, cũng như tận mắt nhìn thấy các thân hữu bị sát hại, ngài vẫn không khiếp sợ. Đức Cha khẳng định: "Khi gặp hiểm nguy người chủ chăn không thể nào trốn chạy hay rời bỏ đàn chiên để bảo đảm an toàn cá nhân. Thế nên, tôi cũng sẽ ở với đàn chiên của tôi cho đến cùng."

Hậu quả là ngài bị kẻ thù bắn chết lúc đang dâng Thánh lễ vào một sáng tháng Ba năm 1980.

Những kẻ sát hại Đức Cha tưởng bịt được miệng chân lý, nhưng càng bịt họ càng rơi vào tình trạng sợ hãi và thất bại. Riêng Đức Cha Oscar, mặc dầu thân xác bị ngã xuống vì hận thù, gian ác và bất công, nhưng linh hồn ngài vẫn tồn tại trong Thiên Chúa đến muôn đời.

19. Chờ đợi gì nơi cuộc sống?

Vào tuần thánh năm 1980, một đài phát thanh nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo. Cô phát biểu cảm nghĩ của mình như sau:

- Sau khi bác sĩ chuẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên, với đức tin tôi có cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy.

Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và một cây viết. Cô giải thích:

- Không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên, vẫn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa, nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa.

Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi:

- Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng, thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?

Cô mỉm cười nói:

- Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi.

20. Cần biết sợ Chúa

Tuyến đường xe lửa vừa mới được hoàn thành. Sáng hôm ấy, chú bé con bác nông phu trong ấp lấy làm lạ vì thấy một chiếc xe hơi ngừng lại trước cửa nhà mình. Ông giám đốc sở hỏa xa bước xuống và bắt đầu xem xét cây cầu mới bắc. Chú bé tò mò đi theo. Một lúc sau, ông giám đốc quay lại và hỏi:

- Này em, em có biết tôi là ai không?

Chú bé trả lời:

- Chắc chắn ông là người của sở hỏa xa.

Ông giám đốc hỏi tiếp:

- Vậy em có biết tôi đang cần gì hay không?

Chú bé ngây thơ nói:

- Thưa ông, cháu nghĩ rằng ông cần phải xin Chúa tha tội, vì ông đã vi phạm ngày Chúa nhật, ngày của Chúa hôm nay.

Sững sờ nhìn chú bé, ông giám đốc bèn hỏi:

- Ai bảo em nói thế?

Chú bé thành thật trả lời:

- Chẳng ai bảo cháu cả. Cháu mới chợt nghĩ ra mà thôi.

Ông giám đốc ôn tồn nói:

- Cám ơn cháu đã nhắc cho tôi nhớ lại bổn phận của tôi đối với Chúa.

21. Sợ miệng đời

Tại một trường học ở Nagasaky bên Nhật, có tất cả 150 học sinh nội trú, thế nhưng chỉ có một em là công giáo. Trước và sau mỗi bữa ăn, em đều chắp tay cầu nguyện. Những em khác thấy thế liền chế diễu và mách với thày hiệu trưởng. Ngày kia, thày hiệu trưởng kêu em lên văn phòng và hỏi:

- Tại sao em làm như vậy? Em không sợ chúng bạn cười chê hay sao?

Em trả lời:

- Thưa thày, em là người Kitô hữu, em phải cầu nguyện với Chúa luôn. Em không được vô phép lãnh nhận thực phẩm Chúa ban mà không kêu cầu và cảm tạ Ngài.

Nghe lời ấy, thày hiệu trưởng bèn úp mặt xuống lòng bàn tay và khóc lên một cách hổ thẹn:

- Trời ơi, thày đây cũng là người tin Chúa, nhưng thày lại chẳng dám tỏ ra cho ai biết. Từ đây sắp tới, nhờ ơn Chúa, thày sẽ cố gắng làm tròn bổn phận của một người Kitô hữu.

22. Đừng sợ

Cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu ở Sarajevo, Yugloslavia Nam Tư, đã để lại hàng trăm trẻ em với những rối loạn nghiêm trọng về tình cảm. Vào thập niên 1990 những y tá quân y Hoa Kỳ phục vụ tại Sarajevo đã báo cáo rằng các bệnh viện tràn ngập trẻ em cần phải được săn sóc về cả thể lý lẫn tinh thần. Trong một bệnh viện, vấn đề khó khăn hằng đêm là làm sao giúp các trẻ em ngủ yên giấc. Ngay khi bóng đêm vừa phủ xuống, các em bắt đầu khóc. Các y tá không thể tìm ra một phương thức nào an ủi được các em. Sau cùng, một người y tá đã đề nghị rằng nỗi sợ hãi của các em có thể liên hệ tới sự thiếu an ninh. Họ đã đưa ra một sáng kiến rất độc đáo là cho mỗi em một miếng bánh mì để giữ vào ban đêm. Bởi các em đã từng trải qua những cơn sợ hãi vì chết đói, miếng bánh mì tạo ra sự bảo đảm đối với các em. Đêm hôm đó, tất cả các em đã ngủ ngon lành, trong tay mỗi em nắm chặt miếng bánh mì của mình.

Sau trận tấn công của quân đội Nhật ở Trân Châu Cảng – Pearl Harbor – vào năm 1941, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã cảnh giác như sau: “Chúng ta không có gì để sợ ngoại trừ chính sự sợ hãi." Tổng thống đã ngụ ý rằng kẻ thù xấu xa nhất của Hoa Kỳ trong cuộc đệ nhị thế chiến không phải là người Nhật, nhưng chính là sự sợ hãi.

23. Có Chúa

Thánh nữ Têrêsa Avila là một nhà thần học nổi tiếng, một vị cải cách của dòng Carmêlô, và là vị cố vấn tinh thần cho nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha thời Trung cổ, thánh Gioan Thánh giá. Nhưng công việc mục vụ của thánh nữ Têrêsa đã không được đón nhận trọn vẹn trong cộng đoàn thánh nữ yêu mến. Những nữ tu trong dòng đã chểnh mảng sống đức tin và thực hành đời sống tu đức. Do đó thánh nữ đã kêu gọi một cuộc cải cách. Và để đáp lại lời kêu gọi đó, họ đã tìm cơ hội để trục xuất thánh nữ ra khỏi tu viện mà chính thánh nữ đã thành lập.

Cơ hội đã đến, vào một đêm giông bão, thánh nữ đã bị đuổi ra khỏi tu viện. Đang khi cưỡi xe lừa ra đi với bộ áo dòng chùm kín mít từ đầu tới chân, thì hai chiếc bánh xe bị chui xuống đường mương, rồi cả chiếc xe bị lật úp, đổ thánh nữ xuống vũng bùn. Têrêsa đã ngồi yên ở đó, trong vũng bùn, nhìn lên bầu trời và cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu đây là cách Ngài đối xử với bạn bè của Ngài, thảo nào Ngài không có nhiều bạn được."

Mặc dù chán nản, Têrêsa vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Thánh nữ đã viết: “Thiên Chúa dùng ma quỉ như một cục đá nhọn đâm vào những người Kitô hữu." Têrêsa đã không chỉ dạy bài học này, mà chính bản thân thánh nữ đã sống. Thánh nữ đã không đầu hàng, ngay cả khi bị những nữ tu vây cánh với các linh mục và giám mục để gây khó khăn. Thánh nữ vẫn giữ vững đường ngay nẻo chính. Và sau cùng, thánh nữ đã chiến thắng bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Và ngày nay, một nữ tu đã từng bị tống cổ ra khỏi tu viện đã trở thành thánh Tiến sĩ của Giáo Hội, một bậc thầy và tư tưởng gia mẫu mực, trong khi những nữ tu đã cư xử tệ bạc với thánh nữ đã chết từ lâu rồi mà vẫn chưa được ai biết đến.

24. Đức Gioan XXIII tín thác

Khi còn là một linh mục trẻ làm việc ở Bergamo, nước Ý, Angelo Roncalli – sau trở thành Giáo Hoàng lấy tên là Gioan XXIII – đã viết những dòng chữ về lòng tin tưởng và phó thác rất khiêm tốn của ngài như sau:

“Tôi sẽ cố gắng không để cảm giác lo âu về tương lai hay những ý kiến của bất cứ người nào, ngay cả vì lòng tốt của họ, dù có suy nghĩ và có nền tảng chắc chắn ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi. Tôi đã sinh ra trong sự nghèo nàn và tôi sẽ phải chết nghèo. Chắc chắn rằng vào đúng lúc Thiên Chúa quan phòng, cũng như trong quá khứ, sẽ lo liệu điều cần thiết cho tôi còn hơn điều tôi đã mong đợi. Điều rất xấu cho tôi nếu tôi trở nên dính bén với của cải thế gian, ngay cả trong cấp độ nhẹ nhất. Đối với những giấc mơ dị thường mà trong đó lòng kiêu hãnh của tôi có thể được vui thỏa bằng những tư tưởng đáng kính, những địa vị, v.v… tôi sẽ rất cẩn thận không để thỏa mãn chúng, nhưng phải khước từ ngay lập tức. Chúng làm cho tâm trí an bình của một người trở nên buồn thảm, làm hao tổn nghị lực và lấy đi tất cả nguồn vui thực sự, cùng những giá trị và phẩm giá của một người tốt có thể làm ra. Đối với tôi, tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất rất khiêm tốn, rất mực khiêm tốn, là từ bỏ mọi sự cho Thiên Chúa."

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã sống rất khiêm tốn và phó thác tất cả mọi sự trong bàn tay của Thiên Chúa quan phòng, là tấm gương sáng phản ảnh lời Chúa giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần."

25. Tất cả là hồng ân

Ngày kia, thánh Vianney tới thăm một em nhỏ nằm liệt trên giường bệnh, không còn cơ may được cứu sống. Cha hỏi em:

- Con có đau lắm không?

Em trả lời:

- Thưa cha, không ạ. Bởi vì cơn đau hôm qua, thì hôm nay con không còn cảm thấy nữa. Còn cơn đau hôm nay, thì ngày mai con cũng sẽ chẳng cảm thấy gì.

- Thế con có muốn được khỏi bệnh hay không?

- Thưa cha, không. Bởi vì trước kia con bị đau dữ lắm. Sợ rằng khỏi bệnh, con sẽ bị đau dữ hơn. Cứ thế này cũng được.

Và cha Vianney đã nhận xét:

- Chúng ta phải lấy làm xấu hổ khi so sánh mình với em nhỏ đầy lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng. Hãy yêu mến thánh giá, vì đó là ơn lành Chúa ban cho những người bạn hữu nghĩa thiết, dưới ánh sáng đức tin, thì mọi sự đều là hồng ân của Chúa.

26. Ai mạnh hơn?

Có một cậu bé được cha mẹ gửi học trong một trường nội trú. Ngay buổi tối đầu tiên, trước khi lên giường đi ngủ, cậu bé đã quì gối xuống và cầu nguyện. Thế là một chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé và tiếp theo là những tiếng cười giễu cợt.

Tối hôm sau, cậu bé cũng lại quì gối và cầu nguyện. Những em khác trong phòng thì chờ đợi để chế nhạo. Thế nhưng khi nhìn thấy dáng bộ trang nghiêm và sốt sắng của cậu bé., các em khác tỏ vẻ dè dặt, rồi im lặng và thán phục. Sau cùng, những em khác cũng đã bắt chước, quì gối và cầu nguyện trước khi đi ngủ.

Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời nói của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay:

- Các con đừng sợ.

27. Tình yêu không sợ hãi

Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái phong cùi và chìa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến thiếu nữ bở ngỡ, và cô không dám đưa tay ra đáp lễ.

Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc trại phong bèn giải thích:

- Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách, vì nhiều người sợ lây bệnh.

- Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, chứ đâu cấm khách hôn bệnh nhân?

Vừa nói xong, ông Raoul liền tiến đến ôm hôn người cùi. Mọi người sững sờ trước cử chỉ đầy yêu thương và thân thiện ấy. Phút chốc, cả đám người cùi nhào đến ôm lấy ông. Và một giọng nói ngẹn ngào thốt lên:

- Hôm nay chúng tôi cảm thấy mình thực sự là con người.

Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi."

28. Cái sợ đem lại bình an

Thánh tử đạo Lwanga là một nhân vật có nhiều uy tín tại triều đình Uganda và chịu nhiều ảnh hưởng từ Joseph Mukasa, vị tổng quản đứng đầu đội thị vệ của nhà vua. Khi nhà vua giết hại một nhà truyền giáo, Mukasa không ngần ngại trách cứ nhà vua, và đã đem cả sinh mạng ra trả giá cho lời nói đó: Ngày 15.10.1885 quan Joseph Mukasa chịu xử trảm, rồi bị thiêu cháy. Tuy được chỉ định thay thế Mukasa đứng đầu đội thị vệ, nhưng cái chết dũng cảm của Mukasa vẫn rực sáng trong lòng Lwanga.

Một đứa trẻ được triệu đến hoàng cung cho nhà vua thoả mãn tật ấu dâm của ông. Không thấy đứa trẻ đến, nhà vua phát hiện ra một thị vệ đã dạy giáo lý Công giáo cho đứa trẻ đó. Lên cơn cuồng nộ, nhà vua ra lệnh xử trảm người dạy giáo lý, và ra lệnh mọi Kitô hữu trong hoàng cung phải bị điệu ra toà chịu xét xử. Nhà vua tuyên bố: “Ai không cầu nguyện, hãy đứng bên ta, còn những ai cầu nguyện, thì đứng ra đàng kia.” Nghe thế, Lwanga tụ họp các Kitô hữu lại để cầu nguyện cho mọi người được thêm mạnh tin, và khi nhà vua hỏi có ai dám chịu chết vì đức tin không thì tất cả hiên ngang bước ra tuyên xưng tình yêu đối với Đức Kitô. Thấy thế, cả một thị vệ đứng bên vua cũng bước ra xin đứng cùng hàng với họ!

Tất cả đều bị hành hạ dã man cho đến chết, trong đó có một số bị thiêu sống. Các lý hình hết sức bỡ ngỡ khi Lwanga bước ra giúp họ chất củi lên giàn thiêu sắp thiêu sống ngài. Khi thánh Lwanga sắp tắt thở, người ta nghe ngài kêu lên: “Katonda!” (Lạy Thiên Chúa của con!).

29. Sao con lại khóc?

Thánh nữ Anê Lê Thị Thành, quê quán ở Phát Diệm, là mẹ của sáu người con. Bà bị bắt vì tội chứa chấp các linh mục. Trước mặt quan quân, dù là một phụ nữ yếu đuối, cũng khẳng khái tuyên xưng: “Thà chết chứ không phản bội tình yêu Chúa Kitô.”

Chị Lucia Nụ, con gái út của bà Anê vào thăm mẹ trong tù, đã khóc lóc thảm thiết khi nhìn thấy mẹ thân mình tả tơi đẫm máu. Lúc ấy, bà Anê đã nói với con gái: “Sao con lại khóc? Sao con không để mẹ chọn tình yêu Chúa Kitô và sớm về hưởng hạnh phúc thiên đàng?”

Đó cũng chính là điều chúng ta tự vấn hôm nay:

Tại sao chúng ta lo âu sợ hãi khi biết rằng Chúa vẫn hằng nâng đỡ, dìu dắt và ban sức mạnh cho chúng ta?

Tại sao chúng ta không dám hy sinh, không dám đón nhận thập giá, khi biết rằng Chúa vẫn ở bên cạnh chúng ta, đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời?

Chớ gì với đức tin, đức cậy, đức mến, dù trải qua gian nan thử thách, chúng ta vẫn nghe lời Chúa thì thầm bên tai: “Thầy đây, đừng sợ!”

30. Chúa ở với tôi

Bác sĩ Sheila Cassidy đến Chilê đã thực hiện sứ mạng giữa những người nghèo nhất. Một ngày nọ, bà chữa bệnh cho một thủ lãnh của phe đối lập. Biết được điều này, công an mật bắt bà và tra tấn. Bà đã viết trong cuốn “Niềm tin táo bạo” những dòng như sau: “Sau bốn ngày tra tấn thể xác… tôi được để lại một mình trong một căn phòng nhỏ. Không thể nào tin được… Tôi rất đỗi vui mừng vì biết rằng Thiên Chúa ở với tôi, và rằng họ không thể làm gì được tôi cũng như chẳng làm tôi thay đổi được điều đó.” Giờ đây Sheila đã hiểu được Lời Chúa: “Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.”

Trong cuộc sống, tôi sợ cái gì nhất? Tôi đã nói sao với Chúa về điều đó?

Lạy Chúa, con không nài xin để không bao giờ phải đau khổ. Nhưng con chỉ muốn Chúa không hề bỏ rơi con trong đau khổ (Thánh Bernadette Soubirous).

CNTN 12B - Gió lẫn biển đều vâng lệnh Người

Lời Chúa: Mc 4, 35-41

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ.”

Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.

Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi.” Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"

Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

TRUYỆN KỂ

1. Thiên Chúa hiện diện--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Buổi chiều ngày 27-3-2020, khi đại dịch Covid-19 đang lên đến đỉnh điểm tại châu Âu và châu Mỹ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự một buổi cầu nguyện chưa từng có trong lịch sử. Tại quảng trường thánh Phêrô, trong thời tiết mưa và lạnh của Rôma, chỉ mình Đức Thánh Cha với mấy người phụ tá hiện diện. Đức Thánh Cha đã cùng với cả thế giới Công giáo cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt. Một buổi cầu nguyện đầy cảm xúc. Trong giờ cầu nguyện này, Bài Tin mừng theo Thánh Máccô được đọc lên để diễn tả bối cảnh thế giới. Đức Giêsu ở trên thuyền với các môn đệ. Bão ập đến. Chúa đang ngủ. Các môn đệ kinh hãi kêu với Chúa: chúng con chết mất! Chúa Giêsu đã dẹp yên bão tố bằng một lời ra lệnh. Biển trở lại an bình. Diễn giải Lời Chúa, Đức Thánh Cha trấn an chúng ta: Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện với nhân loại đang gánh chịu đại hoạ do dịch bệnh. Như Người ở trên cùng một chiếc thuyền với các môn đệ, nay Chúa cũng đang hiện diện giữa chúng ta. Sau khi truyền lệnh cho sóng gió và biển yên lặng, Chúa quở trách các môn đệ: “Sao nhát thế! Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Từ bài Tin Mừng, Đức Thánh Cha mời gọi thế giới hãy tin tưởng vào Chúa, hãy liên đới với nhau trong lúc hoạn nạn và chắc chắc Chúa sẽ giải cứu chúng ta.

Trong truyền thống của một số nền văn hoá cổ xưa, biển là quyền lực của sự dữ. Biển cũng như một quái vật, nuốt chửng vào lòng những nạn nhân bị đắm tàu thuyền hay đuối nước. Qua mạc khải của Thánh Kinh, Thiên Chúa quyền năng thống trị biển. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng phải vâng phục.

Thiên Chúa có hiện hữu không? Nếu có, tại sao Ngài dửng dưng với nỗi thống khổ của con người? Đó là câu hỏi nhiều người thường đặt ra, khi đối diện với đau khổ thử thách trong cuộc đời. Không dễ đưa ra một câu trả lời cho câu hỏi trên. Đau khổ là một thực tại gắn liền với cuộc sống con người. Dù cao sang giàu có đến mấy, con người ta không tránh khỏi đau khổ. Nếu thoát khỏi đau khổ do thiếu thốn vật chất, thì lại vướng vào đau khổ về tinh thần. Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa luôn hiện diện giữa con người và Ngài sẽ ra tay cứu giúp họ vào lúc Ngài muốn.

Có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa vắng bóng trong cuộc đời, giống như các môn đệ kêu van với Chúa: “Thày ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” Khi kêu lên những lời đó, các ông nghĩ rằng Chúa đang ngủ và bỏ rơi các ông. Tuy vậy, vào lúc các ông đang gặp gian nguy, Chúa đã can thiệp. Biển trở lại an bình, và niềm vui cũng trở lai với mọi người.

CNTN 12C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ HAI - Phương thế tốt để tự biết mình

Lời Chúa: Mt 7, 1-5

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy.

Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.

Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh”, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi."

TRUYỆN KỂ

1. Khôn ngoan khi sửa lỗi

Ở một đền thờ Hy lạp, ngay lối cổng vào, có khắc câu: “Hãy tự biết mình." Tại sao lại có câu nói đó? Thưa, bởi vì biết mình là một điều khó, nhưng nếu khó mà không làm được thì làm sao biết được người khác? Không biết mình thì không thể tồn tại theo hướng tích cực, mà nếu có tồn tại thì cũng trở thành trò cười cho thiên hạ, bởi vì nhiều khi: “Ngôn hành bất tất."

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho thấy tác hại của việc kiêu ngạo, háo danh nên không biết mình. Vì không biết, nên đâu thấy nơi mình có khuyết điểm, lỗi lầm trầm trọng, vì thế mới thích “lên mặt dạy đời."

2. Cái đà trong mắt mình

Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!" Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Anh làm việc dù bị tật nguyền.

Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: Thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta.

Chúa Giêsu phán: “…đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thế nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,1-2). Như thế, khi phải phán xét, chúng ta xét đoán trong bao dung thương mến như Ngài. Vì chúng ta sẽ “được” hay “bị” Thiên Chúa xét xử, đều do chính cách xét đoán của chúng ta đối với người khác: Quảng đại vị tha hay hẹp hòi ích kỷ, khoan dung độ lượng hay “bới lông tìm vết”, “chẻ sợi tóc làm tư” khi xét đoán người khác.

3. Biểu diễn trồng táo

Tại một xứ Hồi giáo, có một người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ, vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua:

- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.

Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:

- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.

Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:

- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần nhận thấy không đủ điều kiện để trồng hạt táo này.

Nhà vua đưa mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.

Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra lúc con nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.

Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:

- Tâu bệ hạ, các ngài là những người quyền thế cao trọng, không thiếu thốn gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con người khốn khổ, chỉ vì lỡ lấy thức ăn của người khác cho đỡ đói, thế mà các ngài đã kết án treo cổ hạ thần.

Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xang trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.

4. Cái gương của satan

Một hôm satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương vô cùng kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nhìn vào tấm gương cũng xấu xí, ghê rợn. Satan nghĩ có thể đưa tấm gương lên thiên đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần.

Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thú khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Nhưng càng bay tới thiên đàng thì hắn càng thấy gương mặt hắn xấu thê thảm. Cứ thế chưa tới cửa thiên đàng thì hắn không chịu vẻ thô bạo xấu xí của hắn nữa. Tay hắn run lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ tan từng mảnh và lan tràn khắp trên mặt đất. Đó là khởi đầu đại họa cho con người: từng hạt cát nhỏ bám vào mắt ai thì nằm mãi ở đó, và người đó chỉ thấy cái xấu trên thế gian này thôi.

Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người, đó là một cái nhìn của quỷ.

Nơi mỗi người vẻ đẹp của Thiên Chúa vẫn còn chiếu sáng. Chính cái nhìn này mới là nền tảng cho đức ái Kitô giáo.

5. Ngưới mất búa

Sở dĩ ta nên tránh việc phê phán và nghĩ xấu cho người là vì đoán xét của ta thường sai lạc, ít khi ta phê phán người khác một cách khách quan, mà thường phê phán theo cảm tính và ý nghĩ chủ quan của ta. Câu chuyện sau đây trong sách Liệt Tử vừa nghe thì thấy rất tầm thường nhưng nó chứa đựng một chân lý sâu xa về sự phê phán chủ quan của ta.

Có người đánh mất cái búa. ngờ cho đứa con nhà láng giếng lấy trộm.

Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, cử động, không một tí gì, là không rõ ra đứa ăn trộm búa cả.

Được một lúc, người ấy tìm thấy chiếc búa trong hố thì hôm sau trông thấy con người láng giềng: ngôn ngữ, cử chỉ, lại không còn một tí gì giống đứa ăn trộm búa nữa.

Câu chuyện này được viết ra hằng ngàn năm trước đây, vừa nghe thì có vẻ nhạt nhẽo vô duyên, nhưng đọc kỹ thì thấy nó phản ứng thật trung thực tâm lý của đa số con người đã sống từ ngàn năm trước cũng như hiện đang sống bây giờ. Sở dĩ phán đoán của chúng ta sai lạc là vì lý trí của ta thường bị chi phối bởi trăm ngàn yếu tố: như tiền bạc, danh vọng, lợi, hại, yêu, ghét, thân, sợ…

6. Phần thưởng cho người không chỉ trích

Trong kho tàng truyện các thánh tu hành, có câu chuyện rất hay của ẩn sĩ Macariô. Ngài qua đời năm 300 ở Ai Cập.

Macariô sống ẩn dật 30 năm trong phòng mình. Suốt trong thời gian đó, có một vị linh mục vẫn đến cử hành thánh lễ trong phòng của Ngài. Để cám dỗ và quấy rầy vị tu hành này, ma quỷ xúi giục một người kia đến gặp vị ẩn sĩ Macariô và nói:

- Vị linh mục đến làm lễ mỗi ngày đó chính là một kẻ tội lỗi vì thế không nên cho ông ấy cử hành thánh lễ nữa.

Ẩn sĩ Macariô đáp lại:

- Hỡi con, Kinh Thánh dạy rằng: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Nếu linh mục ấy là người tội lỗi, thì Chúa sẽ tha thứ cho cha ấy."

Sau khi nói như vậy, ẩn sĩ Macariô bắt đầu cầu nguyện và đã giải thoát cho người kia khỏi bị quỷ ám.

Khi vị linh mục đến làm lễ, cha ấy vẫn được tiếp đón vui vẻ như thường. Và Thiên Chúa thấy lòng nhân hậu của ẩn sĩ Macariô nên muốn khích lệ ngài bằng một dấu hiệu. Khi vị linh mục tiến lên bàn thờ, thì Macariô thấy một thiên thần từ trời xuống và đặt tay lên đầu vị linh mục và vị này biến thành một cột lửa trước lễ vật thánh.

Trong khi ẩn sĩ Macariô còn ngây ngất trước thị kiến này, thì ngài nghe có tiếng nói:

- Hỡi con người, tại sao ngươi lại ngạc nhiên ngỡ ngàng. Nếu một vua chúa trên trần gian này còn không cho phép thần dân mình xuất hiện trước mặt mình với quần áo nhơ bẩn, thì làm sao quyền năng của Thiên Chúa lại chấp nhận cho người cử hành Mầu Nhiệm Thánh mà ô uế trước vinh quang trời cao. Ngươi đáng được chứng kiến sự kiện này vì ngươi đã không chỉ trích vị linh mục.

Viện phụ Pineng, trong truyện các thánh tu hành, cũng đã trả lời cho một đan sĩ hỏi ngài xem có cần phải che tội cho người anh em mình không? Ngài đáp:

- Chính trong lúc chúng ta che tội cho người anh em chúng ta, thì Chúa cũng che tội cho chúng ta như vậy.

Mẹ Têrêsa bảo: “Đức Giêsu khuyến khích ta đừng xét đoán ai. Cố đừng xét đoán người khác. Nếu bạn xét đoán người khác thì bạn không thể nào yêu họ được."

7. Xét mình

Các nhà hiền triết tự cổ chí kim đều coi việc xét mình là cơ bản cho sự khôn ngoan. Triết gia Socrates nói: “Hãy biết mình.” Đức Khổng tử nói người quân tử giống như kẻ bắn cung, nếu bắn trật thì xét lại chính mình (chứ đừng chê cây cung bị cong). Đức Phật cũng coi việc giác ngộ như bước đầu để thành Phật. Chúa Giêsu dạy “đừng xét đoán” người khác nhưng trước tiên hãy xét mình, bởi vì khi mình chưa loại bỏ được cái xà trong mắt mình, là những nết xấu và thành kiến của mình, thì mình không thể thấy và lấy được cái rác trong mắt anh em. Với cái nhìn tầm xa hơn, việc xét mình còn giúp mình nhận thức rõ hơn thân phận mình trước mặt Thiên Chúa: thân phận tội lỗi. Như thế, nếu chúng ta mong được Thiên Chúa phán xét với lòng thương xót, thì chúng ta cũng phải biết sống với anh chị em bằng lòng nhân ái bao dung.

Kinh nghiệm bản thân cho thấy chúng mình thích xét người hơn xét mình. Xét mình thì dễ thấy những điều tốt đẹp còn xét người thì, ôi thôi, biết bao là nết xấu. Để diệt trừ tận căn xu hướng thiên lệch ấy, mời bạn thực hành xét mình theo chiều sâu: không chỉ xét mình theo kiểu mình có phạm điều gì trong 10 điều răn hay không, mà còn xét những hành vi tiêu biểu của mình – dù chưa phải là hành vi tội lỗi – xem những động cơ sâu xa nào đã tác động lên chúng.

8. Đừng xét đoán

Ngày nọ, Khổng Tử sai môn sinh sủng ái nhất của mình là Nhan Hồi vào bếp nấu cơm. Đang đọc sách nhà trên, bỗng nghe tiếng động, ông nhìn vào bếp và bắt gặp Nhan Hồi xới cơm đưa vào miệng. Ông cho rằng học trò tín cẩn của mình là kẻ ăn vụng.

Thực ra, khi mở vung xới cơm, Nhan Hồi đã sơ ý để một cơn gió thổi bụi vào nồi. Thay vì xới phần bẩn bỏ đi, Nhan Hồi đã quyết định ăn, coi như mình đã ăn xong phần mình, nghĩ rằng không nên bỏ phí trong hoàn cảnh cơm ít, người đông. Hiểu được sự thật, Khổng Tử ngẩng đầu than rằng: “Trên đời có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không thể hiểu được đúng sai!”

Kinh nghiệm này của Khổng Tử cũng được gặp thấy trong giáo huấn của Đức Giêsu: “Đừng xét đoán!” Thực tại thì muôn vẻ, cái nhìn của ta về thực tại thường phiến diện; vô số các suy luận và kết luận của ta rất bấp bênh. Chính vì thế Đức Giêsu chỉ dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa, Đấng “thấu suốt mọi bí ẩn” (Mt 6,6); “còn ta là ai mà dám xét đoán anh em mình” (Gc 4,12)?

Nếu có một ai đó cần được tôi xét đoán, thì người đó chính là tôi, như lời Chúa nhắc nhở: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi mới lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”

9. Sự sáng suốt đáng buồn

“Có một sự sáng suốt đáng buồn, khi chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi người khác. Cũng có một xét đoán đầy yêu thương, khi đã nhìn thấy những điểm sáng tốt đẹp, ngay từ bóng tối những điều không tốt đẹp nơi anh em mình” (Đức hồng y PX. Thuận).

Rất tiếc ta thường có “sự sáng suốt đáng buồn” (xét đoán người khác) hơn là sự “xét đoán đầy yêu thương” (nhìn thấy những điểm tích cực nơi người lầm lỗi). Ta có khuynh hướng rất xấu là nhìn thấy thói hư tật xấu của tha nhân hơn là nhận ra những điều tích cực nơi họ. Đức Giêsu dạy ta không ai có quyền xét đoán người khác, vì chẳng có ai tốt lành, thánh thiện đủ để làm việc này. Nhìn kỹ vào mình, ta sẽ nhận ra mình còn có những lầm lỗi tệ hại hơn.

10. Cách nói quả báo

Khi thấy một tai nạn hay một điều không may giáng xuống trên ai đó, người ta dễ nói theo quan niệm thông thường rằng đó là do “quả báo”, “trời phạt”, “gieo gió thì gặt bão,” v.v… Mà nếu “nó” không làm gì “ác” thì ắt là tông chi họ hàng nhà “nó” đã làm nên giờ đây “quít làm cam chịu”, thế thôi!

Thật là “lô-gích” nhưng cũng thật là thiếu bác ái, thiếu thông cảm với người anh em trong cơn hoạn nạn. Chúa Giê-su không khuyến khích kiểu suy nghĩ như thế. Ngài dạy đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, sống bao dung để được Thiên Chúa khoan dung. Mỗi người hãy sửa đổi chính mình để ngày càng nên hoàn thiện trước mắt Thiên Chúa và mọi người.

Cách nói “quả báo” là một hình thức xét đoán, một kiểu trả thù trong tâm trí đối với những kẻ mình không ưa. Cách xét đoán theo kiểu ki-tô hữu là luôn biết thông cảm và giúp đỡ người ta trong cơn hoạn nạn, vì: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em."

11. Giúp nhau sửa lỗi thì tốt hơn lên án

Một đạo sĩ trẻ sống trên triền núi được nhiều tín đồ mộ mến, nhưng gần đây đi đến đâu cũng nghe người ta bàn tán về mối quan hệ bất chính giữa vị tu hành và cô thiếu nữ thường xuyên đến đạo viện. Để chấm dứt lời đồn đoán, các bô lão đã tìm đến với đạo sư niên trưởng trong vùng và đề nghị ông cùng đi với họ như một nhân chứng có uy tín. Chẳng đặng đừng, vào buổi sáng sớm nọ, vị đạo trưởng phải lên núi với khá đông thiện nam tín nữ. Nhiều tín đồ mừng thầm, vì chỉ ít phút nữa, họ sẽ vạch mặt chỉ tên kẻ lợi dụng danh nghĩa nhà tu.

Nghe tiếng người xôn xao từ đàng xa vọng lại, vị đạo sĩ trẻ biết có chuyện chẳng lành, nhưng vì quá cấp bách, chàng phải đề nghị cô gái trốn vào chiếc thùng gỗ để cạnh góc nhà. Khi tới nơi, đạo trưởng thấy vẻ bất an của vị tu sĩ và đưa mắt nhìn quanh ông đoán biết mọi sự, nên đến ngồi trên chiếc hòm gỗ và mời chủ nhân ngôi đền cùng ngồi để đàm đạo, đang khi mọi người lùng xục khắp nơi để tìm cô gái mà họ đoán chắc đang có mặt tại đây. Sau nhiều cố gắng tìm kiếm nhưng không gặp, họ nản lòng và từng người một lủi thủi xuống núi. Khi mọi người đã về hết, trước lúc từ biệt, vị đạo trưởng nói:

- Hãy cẩn thận giữ linh hồn của anh.

Người tu sĩ đã phạm lỗi biết rất rõ vị đạo sĩ cao niên vừa cứu anh khỏi bẽ mặt với đám đông đang phẫn nộ và muốn vạch trần sự thật từng được che dấu. Nghe đâu sau này vị đạo sĩ trẻ ấy đã toàn tâm toàn ý tu tâm sửa tính, và trở thành bậc thầy đạo hạnh nổi tiếng khắp vùng.

Là con người ai cũng có lúc lỡ lầm. Có những lầm lỗi gây ra hậu quả nặng nề cho tội nhân và những người liên hệ, nhưng nhiều trường hợp chỉ là những sai lỗi vốn gắn với thân phận yếu hèn của con người. Để vươn lên trong sự hoàn thiện thì dù lỗi nặng hay nhẹ, vô tình hay hữu ý, người có lỗi cần nhận ra và quyết tâm sửa đổi. Kinh Thánh gọi cố gắng đó là “sám hối và canh tân.”

13. Sửa mình trước đã

Có ba cái nhìn về một người:

- cái nhìn khách quan của người khác về ta,

- cái nhìn chủ quan của ta về chính mình và

- cái nhìn của Thiên Chúa về ta.

Người khác nhìn ta từ bên ngoài, nên không thấy rõ mọi ngóc ngách của tâm hồn ta. Cái nhìn chủ quan của ta về mình cũng có thể sai lạc vì mình thường nghĩ tốt về mình. Chỉ mình Thiên Chúa mới có cái nhìn chính xác về ta, vì vậy chỉ mình Ngài mới có đủ khả năng và thẩm quyền để xét đoán ta.

Chúa dạy ta đừng vội xét đoán anh em. Lý do: thói thường nhìn người khác chỉ thấy điều xấu, còn nhìn chính mình thì chỉ thấy điều tốt. Vì thế, trước khi sửa lỗi người khác, hãy sửa lỗi mình trước. Có lẽ ai cũng thấy được ta chẳng bao giờ sửa cho hết các thói hư tật xấu của mình, do đó, ta chẳng khi nào dám sửa lỗi anh em, khi không cần thiết.

Hãy kiểm điểm bản thân để tháo gỡ những cái xà to tướng đang che khuất mắt mình, nhờ đó có cái nhìn khách quan và bao dung hơn đối với những khuyết diểm của anh em.

14. Thiên Chúa bao dung

Một nhà thơ vô danh đã viết: “Tôi mơ thấy mình chết vào một đêm kia. Cổng thiên đàng rộng mở. Với sự dịu dàng thân ái, Thiên Chúa dẫn tôi vào bên trong. Tôi ngạc nhiên nhận ra những người tôi từng quen biết trên thế gian, trong đó có một số người tôi từng xét đoán và cho là xấu xa. Tôi nghẹn ngào không nói nên lời. Bởi lẽ những người này cũng ngạc nhiên không kém, vì không ai ngờ rằng tôi đã đến đây.”

Tôi thường có xu hướng tiêu cực trong việc xét đoán người khác chăng? Đặc biệt là ai? Tại sao?

Hãy kiểm tra bàn tay bạn trước khi chỉ ngón tay vào một ai đó. Hãy lưu ý có ba ngón tay đang chỉ ngược vào bạn.

THỨ BA - Thi hành điều muốn người khác làm cho mình

Lời Chúa: Mt. 7, 6. 12-14

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.

"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.

"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy."

TRUYỆN KỂ

1. Hãy qua cửa hẹp

Một cuốn phim Mỹ với nội dung như sau: Có đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn đưa nhau đi nghỉ cuối tuần tại Las Vegas, một thành phố cờ bạc nổi tiếng nhất nước Mỹ. Ðang lúc thuận thời vận, hai người chia sẻ cho nhau ước muốn có được một căn nhà.

Một nhà tỷ phú tình cờ theo dõi câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng cho họ một triệu Mỹ kim. Chỉ sau một đêm họ có thể trở thành triệu phú. Nghĩ thế, họ ra phòng luật sư để ký giao kèo.

Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỷ phú, người chồng cũng bắt đầu nghĩ lại, viễn ảnh mất vợ bỗng làm anh lo sợ. Thế nhưng đã quá muộn, sau một đêm để có được tất cả cũng chính là lúc họ mất nhau để rồi đi đến tan vỡ.

2. Điểm đến

Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:

- Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?

Thiên sư trả lời:

- Không dễ cũng không khó.

Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.

Thiền sư dõng dạc trả lời:

- Vì tu đắc đạo không ở đó.

Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:

- Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?

Thiền sư trả lời:

- Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.

Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.

3. Gần hay xa ở lòng mình

Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:

- Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?

Thiên sư trả lời:

- Không dễ cũng không khó.

Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.

Thiền sư dõng dạc trả lời:

- Vì tu đắc đạo không ở đó.

Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:

- Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?

Thiền sư trả lời:

- Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.

Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.

4. Có chông gai mới hiểu tấm lòng

Năm 1796, chiến tranh giữa Pháp và liên minh Ý-Áo, Đại tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua trận tuyến của địch.

Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:

- Ai yêu tổ quốc thì theo ta.

Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta chỉ thấy có mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn qua cầu. Bonaparte toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.

8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:

- Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!

5. Tình yêu luôn có lý

Một hôm, một người phụ nữ đến thăm một người bạn và tình cờ đọc được một câu rất ngông dán trên tủ lạnh nhà người ấy: “Hãy thực thi sự tử tế một cách càn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa.” Bà chép câu này đem về nhà dán ở nhà mình và quyết làm theo. Chồng bà, một giáo viên, thấy câu đó cũng thích và đem chép lên bảng trong lớp học. Một học sinh cũng thấy hay nên chép về cho cha mình. Ông này là biên tập viên của một nhật báo địa phương nên ông lại đưa lên báo. Chẳng mấy chốc, câu nói như vết dầu loang đã lan rộng nhiêu nơi tại nước Mỹ và đã thúc đẩy được nhiều cử chỉ đẹp rất “vô nghĩa.”

Thí dụ tại Chicago, một buổi sáng có một thiếu nữ tự động đến từng nhà của những người hàng xóm và cào tuyết trước gara đậu xe giúp họ; tại Saint Louis, một người đàn ông bình thường rất cau có nhưng một hôm ông ra đường bị một chiếc xe khác quệt trầy xe ông, ông thò đầu ra khỏi xe, mỉm cười nói “không có gì đâu”; tại San Francisco, một người đàn ông dừng xe để đóng thuế qua cầu San Francisco chẳng những cho xe mình mà còn cho cả dãy xe phía sau.

6. Vô thần chỉ là hời hợt và nông cạn

Một vị linh mục đang chăm chú đọc sách, trước mặt ngài là một chàng thanh niên tự xưng là vô thần. Anh ta quan sát từng cử chỉ của vị linh mục và mở đầu cuộc tấn công bằng những lời này:

- Tôi không tin bất cứ những gì mà linh mục các ông rao giảng. Các ông có biết là các ông đang bán thuốc phiện ru ngủ quần chúng không?

Bị xúc phạm như thế, nhưng vị linh mục không để lộ bất cứ phản ứng nào. Ngài nhìn người thanh niên với tất cả thông cảm và nói:

- Anh có tin Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật không?

Người thanh niên trả lời như một cái máy:

- Không, thế giới tự nó mà có, vật chất tự biến hóa thành vạn vật.

Vị linh mục mỉm cười hỏi tiếp:

- Anh bạn trẻ, anh là người có học, chắc chắn anh đã có dịp đọc một vài quyển sách đứng đắn về hiện tượng tôn giáo.

Người thanh niên lắc đầu quả quyết:

- Tôi đã và sẽ không bao giờ đọc những thứ sách vô bổ ấy.

Vị linh mục hỏi tiếp

-Thế anh có đọc Kinh Thánh?

Người thanh niên lại được dịp cho Kinh Thánh chỉ là những chuyện nhảm nhí.

Vị linh mục vẫn tỏ ra thản nhiên trước thái độ gây hấn của người thanh niên. Ngài gợi thêm:

- Chắc anh cũng đồng ý rằng, từ 2.000 năm qua, lịch sử của nhân loại đã chịu ảnh hưởng sâu rộng của một người có tên là Giêsu.

Người thanh niên phản đối.

- Anh có bao giờ suy nghĩ về những vấn đề tôn giáo và luân lý trong cuộc sống không?

Người thanh niên la lớn

- Mất giờ vô ích.

Với ánh mắt vừa buồn bã vừa trìu mến, vị linh mục nhìn người thanh niên hồi lâu rồi chậm rãi nói:

- Anh bạn trẻ! Anh không có vẻ gì là người vô thần cả, mà chỉ là người sống hời hợt nông cạn và thiếu hiểu biết mà thôi.

Vâng, sống với những con người như thế quả là không đem lại cho đời mình một ích lợi gì. Chúa bảo chúng ta đừng mất giờ cho những con người như thế.

7. Thất bại là cơ hội

Albert Einstein đến năm lên 4 tuổi mới biết nói, và phải đến năm 7 tuổi mới biết đọc. Thầy giáo đã từng nhận xét về ông như sau: “Chậm phát triển, khó gần, luôn có những ước mơ ngớ ngẩn." Ông từng bị đuổi học và bị từ chối nhận vào trường Bách khoa Zurich, vậy mà ông đã trở thành một nhà bác học nổi tiếng nhất thế giới chưa ai sánh kịp.

Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!"

- Henry Ford nói: “Thất bại chính là cơ hội để bạn khởi đầu lần nữa một cách hoàn hảo hơn."

Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy. Thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào. Con đường hẹp chính là cái giá để trả cho vinh quang thiên quốc của chúng ta.

8. Chọn điều tốt hơn

Nhà lãnh tụ vĩ đại Châu Phi là Paul Kruger sống vào những năm bước ngoặc của thế kỷ. Một ngày nọ, ông được mời gọi chia sẻ một vài vùng đất cho những người anh em đang mang mối thù truyền kiếp. Bởi vì vùng đất này có đồi núi, sông hồ và mỏ, cho nên ông nhận thấy rằng dù có chia thế nào, thì những cuộc tranh dành nảy lửa cũng sẽ xảy ra. Kruger căn nhắc kỹ lưỡng, rồi ông chợt nảy ra một cách giải quyết. Ông cho gọi anh em lại, rồi để một người trong họ phân chia đất, và cho người ấy chọn trước phần anh ta muốn.

Tôi làm thế nào để giải quyết những tranh cãi có liên quan đến tôi hoặc giữa những người xung quanh tôi? Tôi đã cải tiến được gì?

Đây là nơi hạnh phúc. Hiện tại là giờ hạnh phúc. Bí quyết để được hạnh phúc là làm cho người khác hạnh phúc (Robert C. Ingersoll).

9. Cọn niềm tin

Henry Newman là một tác giả về đời sống thiêng liêng. Trong cuốn sách “Cầu nguyện và hy vọng”, ông đã viết những lời đáng ngạc nhiên: “Những ai cầu xin với niềm hy vọng, có thể xin bất cứ điều gì, chẳng hạn như xin cho thời tiết thuận lợi. Những lời cầu nguyện cụ thể này chỉ là một cách để nói rằng chúng ta phải tin tưởng vào lòng nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa… Hễ khi nào chúng ta cầu nguyện với niềm hy vọng, chúng ta mới phó thác cuộc đời trong tay Chúa.”

Niềm tin vào lòng nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa trong tôi đang sâu sắc đến mức nào? Thông qua lời cầu nguyện, tôi phó thác cuộc đời tôi trong tay Chúa cách cụ thể ra sao?

Hãy phó thác đời mình cho Chúa,

Tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay (Tv 36,5)

10. Chọn điều vĩnh cửu

Tờ “Sports Illustrated” có đăng câu truyện về trường dạy quần vợt ở Florida dành cho các thiếu niên. Sinh hoạt của nó giống như buổi cắm trại của hải quân:tắt đèn lúc 10 giờ tối, cả tuần không xem truyền hình. Nhưng các thiếu niên vẫn liên kết với nhau qua những cổng hẹp để đi hết đoạn đường khó khăn chỉ với mục đích trở nên xuất sắc trong bộ môn quần vợt. Hành động của họ nhắc lại lời thánh Phaolô: “Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại, chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát” (1Cr 9,25).

Ở mức độ nào tôi thường hướng công việc đến những thành quả chóng qua, hơn là đạt thành quả tinh thần tồn tại mãi?

Nếu tia nắng là vũ khí chiến tranh, thì hẳn là năng lượng mặt trời đã được dùng từ nhiều thế kỷ trước. (George Potts).

11. Con đường của tình yêu

Đệ tử của một đạo sĩ Do thái thưa với thầy mình rằng:

- Thưa thầy, tại sao những người lành lại phải đau khổ hơn những người xấu?

Vi đạo sĩ trả lời:

- Hãy nghe đây, một người nhà nông có hai con bò, một con khỏe mạnh và một con yếu. Ông ta sẽ đặt ách kéo cày lên con nào?

- Chắc chắn là trên con khoẻ.

Vi đạo sĩ kết luận:

- Chúa là Đấng hay thương xót cũng hành động như thế. Để kéo thế giới tiến tới, Ngài đặt ách lên những người tốt.

Không phải là thế giới hôm nay, mà bất cứ lúc nảo con người cũng bị cám dỗ, bị lôi kéo đến nền văn minh hưởng thụ, tiện nghi. Chúa Kitô lại đi con đường ngược lại, con đường thập giá.

Có phải khi suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô là chúng ta tôn thờ sự đau khổ không? Không, chúng ta không tôn thờ sự đau khổ mà tôn thờ tình yêu sẵn lòng chịu đau khổ vì người mình yêu.

Tình yêu - sự sống thần linh - đòi phải có thập giá như một phương thế không thể thiếu để thanh luyện và tăng triển tình yêu.

THỨ TƯ - Cây tốt trái tốt, cây xấu trái xấu

Lời Chúa: Mt 7, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé.

Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao?

Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng."

TRUYỆN KỂ

1. Xem quả biết cây

Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu truyện ngụ ngôn:

Một vị giáo sĩ nọ đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện cho một đôi vợ chồng trẻ: họ là những người rất mực đạo đức, nhưng không có con. Nghe thế vị tiên tri trả lời: "Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn cho họ có con."

Thế nhưng, 5 năm sau, vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này ông nghe thấy tiếng trẻ con cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng cách đây 5 năm, có một người hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời người hành khất vào nhà, cho ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã, người hành khất đã chúc lành cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được hai đứa con.

Vị giáo sĩ trở lại gặp vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri mỉm cười trả lời: "Ta chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi vợ chồng trẻ này, và nhờ lời chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các thánh có cách thay đổi chương trình của Thiên Chúa."

Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác.

2. Xem quả biết cây.

Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi:

- Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?

Người xem tướng thưa rằng:

- Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem “bạn người ta” mà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cần, biết giữ phép nước thì thần đoán người ấy là người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng.

Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.

Nếu thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hay dở.

Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở cường thịnh nhất đời Chiên Quốc.

Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai?

3. Xem quả biết cây

Trong bài giảng cho giáo triều mùa Chay năm 2010, cha Cantalamessa nhấn mạnh: “Ki-tô giáo không bắt đầu bằng việc bảo cho con người điều gì họ phải làm, nhưng là điều gì Thiên Chúa đã làm cho họ” Nói cách khác, những việc Ki-tô hữu làm phải là những việc được đòi hỏi bởi tình yêu của Thiên Chúa. Những việc này không phải lúc nào cũng dễ chịu. Giữa một xã hội xem nhẹ mạng sống con người mà phải nâng niu từng thi hài bé nhỏ của thai nhi và cho bé một chỗ nằm tươm tất thì không dễ chịu chút nào! Phải sống công bình và sự thật giữa một xã hội đảo lộn các giá trị không phải là một chọn lựa tự nhiên v.v. Nhưng, những hành động cao quý như thế là lời đáp trả của tín hữu đối với Thiên Chúa sau khi đã cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa dặt dìu đời mình từng bước, đồng thời minh chứng họ là Ki-tô hữu. Tình yêu Thiên Chúa thúc bách họ thực hiện những nghĩa cử.

4. Vun trồng nhân đức

Cuộc thảm sát đẫm máu xảy ra vào buổi sáng 16/4/2007 tại trường Đại học Công Nghệ Virginia, nước Mỹ, đã làm chấn động cả thế giới.

Cho Seung Hui, kẻ sát nhân, đã nã súng bắn chết 32 sinh viên rồi cuối cùng tự kết liễu đời mình. Điều tra về thân thế của hung thủ, người ta mới nhận ra anh là một con người mắc chứng tự kỷ từ nhỏ, thích sống cô độc và nuôi dưỡng lòng hận thù.

Nếu như gia đình và xã hội quan tâm loại trừ những mầm mống xấu nơi con người anh sớm hơn và triệt để hơn thì có lẽ thảm kịch ấy đã không xảy ra. Rất nhiều thảm kịch trong gia đình và xã hội là hậu quả của những nhân cách bệnh hoạn, lệch lạc.

“Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” Đây là kinh nghiệm của người trồng cây; đây cũng là kinh nghiệm ngàn đời trong công cuộc trồng người.

Muốn trở thành cây tốt để sinh trái tốt, chúng ta phải không ngừng vun trồng các nhân đức (tức tập luyện các thói quen tốt) và tháo gỡ các thói tật xấu nơi mình.

5. Tin là để Chúa làm

Nhiều người muốn tìm cảm giác mạnh đã băng qua thác Niagara trên một sợi dây. Một người trong họ đã quyết định tăng mức độ và đẩy qua dây một người ngồi trên xe cút kít. Anh ta luyện tập mỗi ngày với một gánh đá sỏi. Một người chứng kiến nói: “Cậu đã sẵn sàng chưa. Bây giờ điều cần là có một người đủ tin tưởng vào cậu để ngồi trên xe cút kít.” Con người táo bạo kia hỏi: “Ông có hoàn toàn tin chắc là tôi đã sẵn sàng không?” Người kia nói: “Tin.” Con người táo bạo nói: “Tốt lắm! Hãy ngồi vào xe đi!”

Thiên Chúa không phải là một người liều lĩnh, nhưng Ngài đang tìm kiếm những người dám tin tưởng để “ngồi vào xe cút kít” và dám đương đầu với công việc lớn lao vì Nước Trời. Tôi đã sẵn sàng chưa?

Tôi có bình tĩnh để phó thác trong tay Đấng gìn giữ thế giới, trong đôi tay yêu thương của Ngài không?

6. Xem quả biết cây

Hai thiếu niên Clevenand nảy ra ý tưởng về một bộ truyện tranh hoạt họa độc đáo. Chúng cố gắng bán cho một số biên tập viên, nhưng tất cả điều từ chối, vì cùng một lý do là nhân vật chính quá ngốc nghếch. Cuối cùng các thiếu niên này bỏ ý định làm phim hình và bán bản quyền với giá 130 đô la. Đó chính là bộ phim “Siêu nhân” sau này. Những người được gọi là chuyên gia như các biên tập viên hóa ra lại là những người không nhìn xa thấy rộng. Bởi vì các thiếu niên đã tin tưởng họ và đã bán một báu vật với giá rẻ mạt.

Có nhiều chuyên gia nói rằng sống bằng lời Chúa là ngu xuẩn. Theo họ, thật là dại dột khi đặt niềm tin vào người đã sống cách đây 2.000 năm. Tôi bị ảnh hưởng bởi những người này ở mức độ nào và như thế nào?

Bạn hãy sống cuộc sống hiện tại như khi bạn đứng trước tòa phán xét của Chúa.

7. Cứ xem quả thì biết cây

Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả. Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời Chúa. Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo. Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15). Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy cơ này. Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân Chúa. Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.

Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh lừa. Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi cho họ. Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói: hình ảnh quả và cây.

Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến. “Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây găng không?” (c. 16). Hẳn là không rồi. Cây tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).

Hơn nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định: cây tốt không thể sinh quả xấu, và cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18). Chính vì thế cứ nhìn quả thì biết cây. Cứ nhìn những công việc do một người làm, ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).

Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả tốt, đó là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.

THỨ NĂM - Nhà xây trên đá

Lời Chúa: Mt 7, 21-29

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta.”

"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn.”

Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.

TRUYỆN KỂ

1. Sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng

Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi.”

Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.

2. Đẹp không bằng bền

Gần cầu Bình Triệu, quận Thủ Đức – Sài gòn, nơi ven sông có một căn nhà biệt thự rất đẹp. Người người nhìn thấy đã trầm trồ, khen ngợi công trình tuyệt mỹ này. Hai tháng sau, người dân thấy lạ kỳ đến ngỡ ngàng vì không còn thấy nó đâu nữa! Hóa ra, trong hai tháng vừa qua, căn nhà mà người ta đã từng thích thú, giờ đây, nó đã bị nước cuốn trôi ra xa bờ khoảng 15m. Phải chăng ngôi nhà này móng không vững, hay ở dưới đã có dòng nước xoáy ngầm lớn làm cho đất bị sụt?

Hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên nền đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: "Ðường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm ‘Thánh lâm thời’: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ" (ÐHV. 44).

3. Nhìn người mà nghĩ đến ta

Đầu tháng 5/2009, cơn bão Nargis đổ bộ vào châu thổ Irrawaddy của Miến Điện (Myanma) với những cơn lốc xoáy làm nước dâng lên sau bão với mức 3,5 m. Nước tràn vào khu vực đồng bằng làm cho hàng triệu ngôi nhà sụp đổ và gây ra cái chết cho 78.000 người.

Theo Đài BBC, ngày 19/5/2009, ý kiến của các chuyên gia cho rằng: Châu thổ Irrawaddy của Miến Điện có nhiều nét tương đồng với đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá dễ bị thiệt hại nặng nề trong trường hợp các cơn bão mạnh cấp 14 đổ bộ vào, châu thổ rộng lớn này đa số là nhà cửa sơ sài, tạm bợ với những mái tranh, vách đất, không có nhiều các công trình kiên cố như đổ móng, cột bê tông…

4. Phải biết vâng lời

Cách đây ít lâu, có một thuỷ thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị nghiêm phạt vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận dân chúng cho rằng quá khắt khe. Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong ngành hải quân đã trả lời rằng: Theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng, ông cho rằng kỷ luật là biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh khống thắc mắc, và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.

Ông kể lại một kinh nghiệm khi cẩu chiếc tàu rất nặng đang bị biển động. Chiếc tàu hư được cặp vào tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!” Tức khắc đoàn thuỷ thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chết ngay tại chỗ, nhưng thuỷ thủ đoàn đã vâng lệnh nên tất cả thoát hiểm. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Quả thật, vâng lời đã cứu mạng.

5. Gót A-sin

Một tu sĩ nọ sáng nào cũng thức dậy sớm để đọc kinh cầu nguyện. Nhưng một hôm ông ngủ quên. Satan đã đánh thức ông dậy và nhắc ông đọc kinh cầu nguyện. Ông ngạc nhiên hỏi lý do, Satan chỉ mỉm cười không đáp. Sau cùng ông Nhân Danh Chúa bảo Satan phải nói thật. Và Satan đã nói thật như sau:

Những ngày ông có đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông cảm thấy tự mãn và do đó không đề phòng, nên tôi dễ cám dỗ ông hơn. Còn nếu ngày nào ông quên đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông sẽ thấy ông còn thiếu sót nên trong ngày ông cố gắng sống tốt theo ý Chúa hơn, lúc đó tôi khó mà cám dỗ ông được.

6. Lợi ích của việc bác ái

Mới đây, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ nói về sức khỏe con người đã đồng ý với nhau rằng, để sống khỏe, sống an vui thì mỗi ngày phải tập thể dục đều đặn, ăn uống cách quân bình, và nhất là thực hành việc tốt cho kẻ khác. Đó là quan điểm căn bản mà hiện nay các bác sĩ Hoa Kỳ thường khuyên các thân chủ đến khám bệnh.

Chính vì thế mà hiện nay, để đề phòng bệnh, các bác sĩ, những nhân viên phụ trách về sức khỏe, đang cố gắng cổ võ một phong trào sống và làm việc tốt, quan tâm đến việc phục vụ tha nhân để phòng bệnh. Các nhà nghiên cứu quan sát thêm, tại sao làm việc tốt cho kẻ khác lại giúp cho chính đương sự sống an vui không bệnh hoạn.

Bác sĩ Highchery vừa qua đời, đã kể lại kết quả công việc nghiên cứu lâu dài của ông về điểm này như sau: khi đương sự làm việc để phục vụ kẻ khác thì nhận lại niềm vui, lòng biết ơn nồng nhiệt của người thụ ân. Cảm nghiệm được niềm vui và lòng biết ơn này, tạo ra nơi cơ thể người thi ân một cảm giác ấm áp. Cảm giác ấm áp này lại kích thích cơ thể bài tiết ra thêm nhiều chất kháng tố, chống lại những xâm nhập của vi trùng bệnh và làm cho đương sự cảm thấy rất thoải mái, quên hết những ưu phiền.

Để thử nghiệm nguyên tắc làm việc tốt để chữa bệnh và phòng bệnh, bác sĩ Horis tại bệnh viện của đại học California ở San Francisco đã khuyến khích các bệnh nhân hãy làm việc tốt giúp đỡ lẫn nhau để mau lành bệnh. Kết quả trông thấy được là những bệnh nhân nào sẵn sàng làm việc tốt cho kẻ khác thì mau lành bệnh hơn là các bệnh nhân ích kỷ, sống khép kín trong những âu lo phiền muộn riêng mình.

7. Bí quyết phục vụ người nghèo của Mẹ Teresa

Năm 1971, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã loan báo việc trao giải thưởng Gioan 23 cho mẹ Têrêsa thành Calcutta với những lời lẽ như sau: "Giải thưởng được trao cho một nữ tu khiêm tốn, âm thầm, nhưng không lọt qua được đôi mắt quan sát của những ai đã chú ý đến công việc phục vụ bác ái cho những người nghèo. Nữ tu có tên là Têrêsa thành Calcutta. Từ 20 năm đã qua, trên khắp các nẻo đường đất nước toàn cầu, nữ tu thực hiện một cách tuyệt diệu sứ mạng tình thương đối với những người cùi, những kẻ già lão bị bỏ rơi và những trẻ em mồ côi.”

Đây là bí quyết phục vụ người nghèo của mẹ: "Bí quyết đời sống tôi rất đơn sơ. Đó là cầu nguyện. Trong lời cầu nguyện, tôi được phúc say mê yêu mến Chúa Kitô và tôi hiểu được rằng, cầu nguyện là yêu mến Chúa và thực hành Lời Chúa. Cầu nguyện giúp tôi nhớ lại và sống Lời Chúa phán: "Ta đói, các con cho Ta ăn, Ta đau yếu, bị cầm tù, các con đã đến viếng thăm.”

8. Làm điều Chúa muốn

Một nhà tu đức vạch ra một trong âm mưu của ma quỷ không phải là cám dỗ ta làm điều xấu mà là cám dỗ ta làm điều tốt, nhưng không phải là điều tốt Chúa muốn.

Lời Chúa hôm nay cảnh báo cho ta điều đó. Nếu chỉ siêng năng “đọc kinh, xem lễ”, tham dự những lễ nghi long trọng mà thiếu việc “thi hành ý của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” thì chưa đủ để vào Nước Trời, mà trái lại còn đáng bị Chúa gọi là “phường gian ác” và bị đuổi đi “khuất mắt Chúa.”

Thi hành ý Chúa Cha không phải là cứ làm bất kỳ điều gì mình cho là tốt mà là làm điều tốt Chúa Cha muốn. Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta khi Ngài từ khước ý riêng mình để chọn con đường cứu độ bằng thập giá như ý Chúa Cha muốn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).

Chúng ta phải luôn cảnh giác trước những cám dỗ êm dịu là pha mình vào nhiều hoạt động xét khách quan không xấu, thậm chí còn rất tốt nữa. Thế nhưng đó có thể là những điều tốt giả bởi vì không phải là điều tốt Chúa muốn. Trong tình huống có nhiều chọn lựa mà chọn lựa nào xem ra cũng tốt, thì điều gì giúp chúng ta giống với Chúa Kitô vác thập giá nhất đó chính là điều tốt mà Chúa muốn chúng ta thực hiện.

9. Đánh trống bỏ dùi

Có một cách hiểu thành ngữ “đánh trống bỏ dùi”, theo đó “dùi” là những tiếng trống lẻ theo sau hồi trống dài. Gọi là “lẻ” nhưng những “dùi” này rất quan trọng vì nó giúp phân biệt các mệnh lệnh khác nhau. Như “ba hồi chín dùi” là họp toàn dân, trong khi “ba hồi ba dùi” nghĩa là có cha về dâng thánh lễ. Vậy “đánh trống bỏ dùi” là chỉ đánh những trống hồi, còn bỏ những tiếng trống lẻ theo sau. Nó ám chỉ cung cách làm việc thiếu chu đáo, thiếu tinh thần trách nhiệm, không làm đến nơi đến chốn, nửa làm nửa không.

Theo cách hiểu này, cũng là “đánh trống bỏ dùi” nếu nói tin Chúa mà không sống đức tin trong đời thường. Chúa Giê-su cho biết đức tin ấy không thể đem lại ơn cứu rỗi: “Không phải bất cứ ai nói lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu.”

Tin trong lời mà không tin trong đời, người ta mắc phải căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” với các triệu chứng: nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, làm nửa vời, bỏ dở dang. Khi Chia Sẻ Lời Chúa, ta mắc bệnh này khi chỉ đề ra những lý giải thật hay mà không hoán cải đời sống, không thực thi Lời Chúa. Nó biến việc chia sẻ Lời Chúa thành giờ lý thuyết suông, biện bác bằng những “ngôn từ” vô bổ.

THỨ SÁU - Chữa người phong cùi

Lời Chúa: Mt 8, 1-4

Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người.

Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch."

Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh."

Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi.

Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết."

TRUYỆN KỂ

1. Không đau mới nguy hại

Cho đến thế kỷ 20, bệnh phong cùi vẫn còn là một huyền thoại đối với con người. Một bác sĩ làm việc tại một trại Y khoa bên Ấn Ðộ đã tình cờ khám phá ra rằng người mắc bệnh phong cùi không cảm thấy đau đớn trong những tế bào đã bị vi trùng xâm nhập. Ngày nọ, ông không thể mở được cửa phòng, ông mới trao chìa khóa cho cô bé 12 tuổi. Ông không ngờ nó đã vặn chìa khóa một cách dễ dàng. Xem xét những ngón tay của nó, ông nhận thấy chìa khóa đã làm mất đi một mảng thịt trong lòng bàn tay và chạm đến xương, thế mà nó không cảm thấy đau đớn.

Nhờ khám phá này, viên bác sĩ đã giúp cho những người phong cùi biết cách đề phòng để tránh gây thương tích cho thân thể của họ. Ông đã giải phẫu những giây thần kinh của bàn tay và dạy họ cách điều khiển các cơ bắp của bàn tay. Ông cũng giải phẫu mũi của bệnh nhân để mang lại cho họ một gương mặt dễ coi hơn. Ngoài ra, ông cũng khám phá ra rằng những người mắc bệnh phong cùi dễ bị mù mắt, lý do vì họ không còn cảm nhận được đau đớn khi những chất dơ bẩn xâm nhập vào mắt, nhờ đó ông cũng giúp họ lo vệ sinh mắt một cách chu đáo hơn. Với những khám phá này, ông đã đánh đổ được huyền thoại cho rằng phong cùi là căn bệnh bất trị.

2. Liên đới và không liên đới

Có một câu chuyện thật ấn tượng về một linh mục đã trọng tuổi thuộc dòng Phanxicô. Chuyện là thế này:

Ngài là một linh mục rất thương người, vì thế, sau lễ truyền chức linh mục cho ngài, có một người sẵn sàng tài trợ mọi mặt để tổ chức thánh lễ tạ ơn tại quê hương cho thật “hoành tráng."

Tuy nhiên, ngài đã từ chối, và không quên ngỏ lời xin toàn bộ số tiền đó để xây nhà, khoan giếng, thuốc thang cho anh chị em bị phong cùi mà ngài đã biết đến họ cách đó vài năm trong một khu rừng sâu thẳm không một bóng người qua lại.

Tại sao họ lại có một cuộc sống khổ đến vậy? Thưa! Chỉ vì bị kỳ thị và sợ liên lụy cũng như sợ bị lây nhiễm, nên người ta đã đẩy anh chị em đó vào trong một thế giới riêng, tách biệt khỏi xã hội bên ngoài.

3. Bệnh phong của tâm hồn

Trong những chuyến đi diễn thuyết để kêu gọi giúp đỡ những người phong cùi trên khắp thế giới, vị đại ân nhân của họ là Raoul Folereau thường kể câu truyện như sau: Tại một thị trấn nọ, có một người đàn ông được mọi người yêu mến bỗng ngã bệnh. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nghi ngờ ông bị bệnh phong cùi. Từ đó, người ta không còn thấy ông ra đường nữa, và ngay cả trong nhà, ông cũng không còn được đi lại tự do nữa. Gia đình ông đã giam ông trên giường, khung trời còn lại của ông chính là tấm mùng. Một ngày nọ, người đàn ông trốn ra khỏi nhà, nhưng đã bị bắt lại. Và rồi một lần nữa, ông đã trốn thoát được, không phải để được sống tự do, mà là để tự vẫn. Người ta đưa xác ông đến giảo nghiệm, và kết quả cho thấy ông không hề mắc bệnh phong cùi.

Kể lại câu truyện trên đây, Raoul Folereau muốn nêu bật nỗi khổ tâm của những người mắc bệnh phong cùi. Nỗi đau đớn trong thể xác có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với sự ruồng bỏ, mà xã hội ở bất cứ thời đại nào cũng dành cho người phong cùi.

Hôm nay, Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bị bệnh phong cùi vì anh có lòng tin. Anh tiến lại bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch."

4. Tôi muốn cho chị được hạnh phúc

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa Calcutta đến khu nhà của những người hấp hối do chính Mẹ thiết lập, để tạo điều kiện cho những người nghèo khổ tìm được cái chết xứng với nhân phẩm con người. Buổi tối hôm đó, người ta đưa đến một người đàn bà đói khát và bệnh tật. Mẹ đã đến thăm và săn sóc người đàn bà này với tất cả sự ưu ái, dịu hiền. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào nói với Mẹ:

- Thưa bà, tại sao bà săn sóc tôi như thế?

Mẹ Têrêsa trả lời:

- Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc.

Trên khuôn mặt mà bóng tử thần đang chập chờn cướp lấy sự sống, đôi mắt người thiếu phụ bỗng sáng lên niềm vui. Người thiếu phụ cố gắng thì thào:

- Bà hãy lặp lại lần nữa đi.

Với tất cả âu yếm, Mẹ Têrêsa mỉm cười trả lời:

- Vâng, tôi muốn cho chị được hạnh phúc.

Như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người thiếu phụ tiếp tục nói:

- Một lần nữa, xin bà hãy lặp lại điều đó một lần nữa.

Và người đàn bà khốn khổ nắm lấy tay Mẹ Têrêsa đặt trên ngực minh, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của niềm hạnh phúc mà chỉ có một tâm hồn quảng đại mới có thể ban phát.

5. Chứng nhân cho tình yêu

Chị Véronique, một người Pháp, 55 năm bị mắc bệnh phong Hansen, 20 năm bị mù lòa.

Dưới đây là một trong những lời nguyện của chị được ghi lại theo tạp chí Prier, xuất bản năm 1979.

Lạy Chúa,

Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả.

Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước, con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con.

Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay. Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, Ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con.

Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa. Chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: Cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến mức độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn!

Vâng, lạy Chúa! Muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn. Bởi vì, nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải ra đi vĩnh biệt cõi thế, con cũng sẽ chẳng tiếc hận gì.

Đời con đã được quá ư đầy tràn những điều diệu kỳ tột độ: Đó là con đã được sống đắm mình trong Tình Yêu, Đã được Chúa lấp đầy chan chứa bằng Tình Yêu Vượt quá cả những gì con tim con hằng mong ước.

Ôi lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử quá tốt với bé gái Véronique của Cha.

Và chiều nay, ôi Tình Yêu của con! con xin dâng lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người phong cùi trên mặt đất.

Xin Cha thương một cách đặc biệt, cả đến những người bị bệnh “cùi tâm hồn” đang đè bẹp hủy hoại, Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy.

Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến đời con cho họ, bởi vì họ cũng là những người anh chị em con.

Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến nữa, Cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh “cùi tâm hồn."

Con là bé gái thân thương của Cha, Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi, Như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình.

Cha hãy ôm con vào lòng, như người cha ấp ủ đứa con cưng trong vòng tay của mình.

Cha hãy nhận chìm con thật sâu xuống tận đáy trái tim Cha, Cho con được ở đấy cùng với mọi người thân yêu của con, Bây giờ và cho đến mãi muôn đời… Amen.

(Véronique)

Vâng! Thật hết sức can đảm. Cuộc sống đã trở thành một chứng nhân cho tình yêu.

6. Nỗi đau của tội lỗi

Đớn đau trong thân xác, cô đơn trong tâm hồn vì bị người xa lánh, nhà thơ mang bệnh phong cùi Hàn Mặc Tử đã đau khổ thốt lên:

“Hồn đã cắn đã cào nhai ngấu nghiến

Thịt da tôi sượng sần và tê điếng

Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Bấy giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lạy cả miền không gian”

Tin Mừng thuật lại anh phong cùi khổ đau cùng cực đã đến van xin Chúa Giêsu chữa lành: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể…” Anh đã không thất vọng vì chính Chúa Giêsu đích thân giơ tay chạm đến anh. Bàn tay thánh thiện đầy quyền năng của Chúa đã trao lại cho anh “ngoại hình thẩm mỹ.” Tất cả những gì Chúa đụng chạm đến đều được thánh hoá và trở nên sạch đẹp.

Đức Thánh Cha trong chuyến tông du Bồ Đào Nha mới đây đã lặp lại một nguyên tắc muôn thuở: “Chỉ có một điều đáng sợ đó là tội lỗi.” Quả thật tội lỗi là thứ “vi-rút” còn đáng sợ hơn cả bệnh phong cùi nữa.

7. Tôi muốn, anh sạch đi

Một giáo viên hóa học kể với một người bạn chuyện ông ta đã đi nghỉ mát như thế nào. Với chi phí riêng của mình, ông bay đến Ấn độ, đến những vùng quê và dạy những người phong hủi chế ra thuốc mỡ từ các loài thực vật địa phương để làm dịu căn bệnh của họ. Người bạn vô cùng xúc động và nói: “Điều đó nói cho tôi chính tình yêu Chúa Giêsu dành cho những người phong hủi.”

Một phụ nữ thổ dân người Úc nói: “Nếu bạn đến giúp tôi, bạn đang lãng phí thời giờ của bạn. Nhưng nếu bạn đến vì sự tự do của tôi và của bạn, thì chúng ta hãy hợp tác với nhau.” Lời nhận xét của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi: Bà ta có ngụ ý gì khi nói như thế và điều đó áp dụng vào tôi như thế nào?

Cuộc sống chúng ta không chỉ phụ thuộc bản thân, nhưng còn phụ thuộc vào những người cần đến chúng ta (Elie Wieses).

8. Nếu Ngài muốn

Các nữ tu phục vụ một trại phong ở miền Trung nói với khách tham quan rằng mỗi gia đình người phong có một ngôi nhà nhỏ xinh xắn, nhưng kiểu nhà và màu sắc khác nhau một chút. Tại sao vậy? Để người phong không cảm thấy bị đối xử như “cá mè một lứa.” Các nữ tu ấy đã điều trị cho người phong không chỉ bằng thuốc men, nhưng với cả tấm lòng của mình. Cũng vậy, Đức Giê-su luôn tế nhị, sẵn lòng đón tiếp và chữa lành cho các người phong. Ngài đụng vào người phong này không phải chỉ bằng đôi bàn tay, nhưng với cả tấm lòng trắc ẩn của mình. Còn người phong, hiếm có lời cầu xin nào khiêm tốn và đầy tin tưởng cho bằng lời của người phong này: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người phong ấy đến với Chúa với ước mong được Ngài chữa lành, với lòng phó thác, đặt ý Chúa trên ý muốn của anh.

 “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Khi bạn phó thác cho ý muốn của Chúa, Ngài sẽ ban cho bạn những gì tốt đẹp nhất. Bạn hãy xét lại lời cầu nguyện của mình, phải chăng lâu nay bạn thường “ép” Chúa phải làm theo ý muốn bạn, hay tin tưởng, phó thác nơi ý muốn nhân lành của Ngài?

THỨ BẢY - Đầy tớ đại đội trưởng

Lời Chúa: Mt 8, 5-17

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó." Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"

Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng." Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin." Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.

Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài. Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta."

TRUYỆN KỂ

1. Sức mạnh của niềm tin

Một cuộc nghiên cứu tại một trường đại học ở Hoa Kỳ thực hiện nơi 2800 người già cũng chứng minh rằng con số những người không bao giờ đến nhà thờ bị nhồi máu cơ tim cao gấp hai lần so với những người đi lễ hàng tuần. Bác sĩ Haberth, Giáo sư phụ khảo thuộc trường đại học y khoa ở Hoa Kỳ ghi nhận rằng: Từ 60 đến 90% những lần viếng thăm bác sĩ đều liên quan đến những chứng mất ngủ, huyết áp cao và bệnh tim, ông khẳng định rằng: Lời cầu nguyện thường xuyên có sức mạnh ngăn chặn lại nhịp tim và nhịp thở cũng như huyết áp.

Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẩy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên." Trên quan điểm của Archimède, văn hào Kierkegaard đã giải thích thêm: “Điểm tựa ấy chính là đức tin, tin vào Thiên Chúa có thể làm được mọi chuyện."

Viên bách quản là người ngoại đạo mà ông tỏ ra khiêm tốn và tin tưởng cầu xin Ðức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ đang bệnh nặng. Ông không dám đòi hỏi Chúa đến tận nơi, khi khiêm tốn nhận ra mình bất xứng và không dám rước Ngài vào nhà mình chỉ “xin Thầy phán một lời." Trước niềm tin mạnh mẽ và khiêm tốn của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu tỏ ra hài lòng và thán phục niềm tin mạnh mẽ của một người ngoại giáo: Một niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt!

2. Nỗ lực rồi cậy trông

Nữ thủ tướng Margaret Hilda Thatcher sinh ra tại một thị trấn nhỏ của Anh. Từ nhỏ, bố của Margaret đã giáo dục cô rất nghiêm khắc. Ông thường xuyên nói với cô những câu như: “Cho dù làm bất cứ việc gì cũng phải tranh làm đầu tiên, tuyệt đối không được đứng sau người khác. Cho dù ngồi xe bus cũng phải ngồi hàng ghế đầu. Hơn nữa, tuyệt đối không được phép nói: “Khó quá” hay “Con không làm được."

Quả thực đối với cô bé Margaret, yêu cầu như vậy là quá nghiêm khắc. Nhưng có điều cũng chính vì sự giáo dục nghiêm khắc của bố như vậy nên Margaret đã hình thành thái độ học tập tích cực. Mỗi khi làm chuyện gì, Margaret luôn mang trong mình niềm tin tất thắng, hơn nữa sẽ cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu của mình. Cô đã dùng hành động thực tế để chứng minh mình phải ”vĩnh viễn ngồi ở ghế hàng đầu."

Hồi Margaret học đại học, nhà trường đề ra kế hoạch dạy tiếng Latinh trong vòng năm năm. Kết quả chỉ trong một học kỳ, Margaret đã học xong hết, hơn nữa thành tích thì lại rất cao. Cô đã xuất sắc đứng đầu. Margaret không chỉ có thành tích xuất sắc mà còn tích cực tham gia thể thao, ca hát, diễn thuyết và những hoạt động khác của trường. Cô đã trở thành học sinh ưu tú của trường. Giảng viên đại học của Margaret đã từng nói: “Margaret là học sinh xuất sắc nhất của trường chúng tôi từ khi thành lập đến nay. Cô bé lúc nào cũng tự tin, luôn làm tốt mọi chuyện." Cô đã có một niềm tin mạnh vào cuộc sống và tương lai của mình.

Về sau, Thatcher trở thành một nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử nước Anh, trở thành ngôi sao sáng chói trên vũ đài chính trị Châu Âu.

3. Cầu nguyện với lòng tin

Cha Charler de Foucauld cũng cầu xin Chúa rất nhiều. Nhưng Cha luôn kết thúc bằng câu Chúa đã nói ở Vườn Cây Dầu “Nhưng xin đừng theo ý con mà hãy theo ý Chúa.” Một cách cầu xin vừa đơn sơ ở chỗ muốn gì cứ thành thật bày tỏ, nhưng cũng vừa phó thác.

Khi bị rơi vào hoàn cảnh đau thương, tôi thường ngã lòng không muốn cầu nguyện nữa. Như thế là tôi đã quên rằng Chúa là Đấng “Gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, mang lấy những nỗi đau của chúng ta.” Tôi đã quên lời mời gọi ưu ái của Ngài “Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho anh em được nghỉ ngơi bồi dưỡng.”

4. Niềm tin phải tuyêt đối

Có một người kia đi biển, tình cờ gặp một trận cuồng phong bão táp. Trận cuồng phong bão tố này đã làm ông sợ đến nỗi muốn ngất đi. Giữa lúc đó thì mắt ông lại thấy như Chúa Giêsu đang đi trên mặt biển tiến về phía ông. Nhớ lại câu chuyện trong Tin Mừng thuở xưa, lúc các tông đồ của Chúa cũng gặp hoàn cảnh tương tự như vậy, ông kêu to: “Lạy Chúa, nếu thật là Ngài, xin hãy cho tôi cũng đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức Giêsu bảo:

- Hãy lại đây.

Nghe thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ theo, ông nhảy xuống nước tiến về phía Đức Giêsu bất chấp sóng to gió cả.

Đức Giêsu mỉm cười đưa tay đón lấy ông và hỏi:

- Tại sao con nghi ngờ Lời Ta nói, hỡi kẻ kém lòng tin.

Nghĩ mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại.

- Đâu có, con có nghi ngờ Lời Chúa nói bao giờ đâu.

Chúa lắc đầu hỏi:

- Thế tại sao con lại mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ trước khi con tiến về phía Ta?

Nhìn hai vật vô ích trên mình, ông gãi đầu thưa:

- Cái này..., những cái này con mang theo chỉ để phòng hờ!

5. Dám chết vì đức tin mới là tin

Ngày quân đội Liên Xô tràn vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị mục sư.

Viên sĩ quan chỉ vào cây Thánh Giá treo trên tường và nói:

- Ông biết không? Cái đó là sự dối trá do các mục sư bày ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, giúp cho những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bấy giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng, ông không hề bao giờ tin ông Giêsu là con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

- Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan quát lớn:

- Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!

Nói thế rồi anh ta rút súng ra chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

- Nếu ông không nhận rằng, đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông!

Vị mục sư điềm tĩnh trả lại:

- Tôi không thể nói như vậy, vì không đúng. Đức Giêsu thật là con Thiên Chúa.

Nghe thế, viên sĩ quan liền buông khẩu súng rơi xuống sàn nhà, rồi chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư, vừa khóc vừa nói:

- Đúng thế, đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng, có người dám chết vì đức tin, cho tới khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng, vẫn có người dám chết cho Đức Kitô. Chính ngài đã củng cố Đức Tin cho tôi!

6. Chỉ một lời nói

Ca dao Việt Nam nhắc nhở: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Câu nói của viên đại đội trưởng được xem là câu nói hay nhất của một người ngoại giáo trong Tin Mừng, vừa lòng Đức Giê-su và được Ngài tấm tắc khen ngợi. Câu nói này diễn tả hai điều: một là sự tế nhị tinh tế và hai là lòng tin mạnh mẽ. Tế nhị vì ông biết rằng người Do Thái vào nhà người ngoại giáo bị ô uế theo luật, sẽ phải chịu nghi thức thanh tẩy; do đó, ông xin Ngài đừng vào nhà ông, để tránh cho Ngài một tình trạng khó xử. Lòng tin mạnh mẽ đến độ ông tin rằng vị Thầy Giê-su quyền năng này có khả năng chữa bệnh từ xa, chỉ bằng một lời nói. Như vậy, chỉ cần một câu nói của ông làm Đức Giê-su hài lòng thán phục, và cũng chỉ cần một lời nói của Ngài khiến đầy tớ ông được lành mạnh.

“Một vết chém của con dao có thể chữa khỏi được, nhưng một vết chém của lưỡi thì khó lòng chữa khỏi” (ngạn ngữ Tây Ban Nha). Lời nói có sức mạnh, đem lại niềm vui, nhưng cũng có sức hủy diệt, đem lại chết chóc. Bạn hãy là tông đồ bằng miệng lưỡi, nói những lời tế nhị, tốt đẹp, đem lại an bình, niềm vui cho người chung quanh.

Hãy khởi đầu một ngày sống bằng vài lời nói tích cực, vui tươi và tế nhị với người lân cận.

7. Cần đến Chúa

Một giáo viên ở vùng quê luôn nhắc nhở học trò rằng Chúa Giêsu sẵn lòng giúp đỡ chúng những khi cần thiết. Một ngày mùa đông nọ, một trận bão tuyết ập đến. Cô giáo cho lớp học nghỉ sớm và dẫn học trò đi xuyên qua tuyết và gió. Nói một cách văn chương, cô ta đang lôi kéo chúng qua vũng tuyết dày đặc. Đột nhiên, một cậu bé nói với cô giáo: “Em nghĩ đã đến lúc phải kêu cầu Chúa Giêsu.”

Tôi có nhớ đã bao giờ, sau khi cố gắng làm những gì có thể, tôi hướng về Chúa Giêsu để xin Ngài trợ giúp không? Tôi đã đạt kết quả gì?

Cầu nguyện là cách diễn tả chúng ta là ai… Cuộc sống chúng ta chưa được hoàn thành. (Thomas Merton)

8. Nền tảng cho đời sống

Một giáo viên ở vùng quê luôn nhắc nhở học trò rằng Chúa Giêsu sẵn lòng giúp đỡ chúng những khi cần thiết. Một ngày mùa đông nọ, một trận bão tuyết ập đến. Cô giáo cho lớp học nghỉ sớm và dẫn học trò đi xuyên qua tuyết và gió. Nói một cách văn chương, cô ta đang lôi kéo chúng qua vũng tuyết dày đặc. Đột nhiên, một cậu bé nói với cô giáo: “Em nghĩ đã đến lúc phải kêu cầu Chúa Giêsu.”

Tôi có nhớ đã bao giờ, sau khi cố gắng làm những gì có thể, tôi hướng về Chúa Giêsu để xin Ngài trợ giúp không? Tôi đã đạt kết quả gì?

Cầu nguyện là cách diễn tả chúng ta là ai… Cuộc sống chúng ta chưa được hoàn thành. (Thomas Merton)

9. Điều không thể lại có thể

Năm 1842, Quốc hội Mỹ cười đùa khi Samuel Morse giải thích ý tưởng truyền tin bằng giây kim loại. Năm 1878, Nghị viện Anh cười đùa khi Thomas Edison giải thích ý tưởng tạo ra ánh sáng trong một cái lọ thủy tinh. Năm 1908, viên chức J.P Morgan cười đùa khi Bill Durant đưa ra ý tưởng một ngày nào đó nửa triệu xe hơi mỗi năm sẽ di chuyển trên các nẻo đường quốc gia.

Khi tôi nghe một ai đó, đặc biệt một người trẻ tuổi, trình bày một ý tưởng mà tôi không hoàn toàn lĩnh hội được hoặc không đồng ý, tôi thường phản ứng ra sao? Tôi nên phản ứng thế nào? Vì sao?

Một ý tưởng mới là rất mong manh. Nó có thể bị giết chết chỉ vì một cái cười khẩy hay một cái ngáp; bị đâm chết bời một lời châm biếm và nhai nghiến đến chết bởi cái cau mày của một người đáng kính. (Charles Brower)

Lễ Thánh Tâm

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lễ Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

Lời Chúa: Lc 1, 57-66. 80

Khi đến ngày sinh, bà Êlisabeth sinh hạ một con trai. Láng giềng bà con nghe biết Chúa đã tỏ lòng nhân hậu lớn lao đối với bà liền đến chúc mừng bà. Ngày thứ tám, người ta đến làm phép cắt bì cho con trẻ, và họ lấy tên Dacaria của cha nó mà đặt cho nó. Nhưng bà mẹ đáp lại rằng: “Không được, nó sẽ gọi tên là Gioan.” Họ bảo bà rằng: “Không ai trong họ hàng bà có tên đó’’. Và họ làm hiệu hỏi cha con trẻ muốn gọi tên gì. Ông xin một tấm bảng và viết: “Tên nó là Gioan.” Và mọi người đều bỡ ngỡ.

Bỗng chốc lưỡi ông mở ra, và ông liền chúc tụng Chúa. Mọi người lân cận đều kinh hãi. Và trên khắp miền núi xứ Giuđêa, người ta loan truyền mọi việc đó. Hết thảy những ai nghe biết đều để bụng nghĩ rằng: “Con trẻ này rồi sẽ nên thế nào? Vì quả thực, bàn tay Chúa đã ở với nó.” Con trẻ lớn lên, mạnh mẽ trong lòng: nó ở trong hoang địa cho đến ngày tỏ mình ra cùng dân Israel.

TRUYỆN KỂ

1. Dọn dường cho Đấng Cứu Thế

Chu Văn An, Tư nghiệp Quốc tử giám, là thầy giáo của nhiều vị vua nhà Trần, cảm thấy xót xa trước cơ nghiệp lừng lẫy của nhà Trần đang có nguy cơ ngày càng lụn bại bởi vua ham chơi, bởi bọn tham quan, nịnh thần. Trong lúc quân thần ai cũng sợ mất ghế, sợ bị chụp mũ là phản động, chống lại triều đình, nên không có ai dám nói gì, chỉ hèn nhát ấm ức trong lòng, chỉ có cụ Chu Văn An dám kháng nghị qua bản Thất trảm sớ, gửi lên vua Trần Dụ Tông xin chém bảy tên gian thần vì giang sơn đất nước. Vua Trần Dụ Tông chỉ xem qua mà không thi hành.

Cụ Chu Văn An xin treo mũ, từ quan, trả lại chức Tế tửu đầy quyền lực, bổng lộc, đó là khí tiết dũng cảm của người quân tử.

Nhìn dưới góc độ văn hóa phương Đông, Gioan Tẩy giả được giới thiệu như là người quân tử xuyên suốt mọi thời đại, người mà Chúa Giêsu khen ngợi: Ngôn sứ “hơn cả ngôn sứ” (Mt 11,9), người được Thiên Chúa sai đến tiền hô dọn dường cho Đấng Cứu Thế đến với nhân loại. Người sống “tu thân” trong hoang địa và rao giảng sự sám hối. Thẳng thắn, dám tố cáo những sai phạm, can đảm đương đầu với quyền lực đen tối.

 2. Chúa phải lớn lên còn tôi phải nhỏ đi

Lúc còn là thanh niên, anh đã say sưa nghiện ngập đủ mọi thứ: cà phê, thuốc lá, rựơu mạnh có tiếng. Nhưng rồi một hôm, chàng đọc thấy trên mặt báo lời kêu gọi giúp nuôi chủng sinh ở các giáo phận nghèo. Đọc xong chàng rất đỗi phân vân, một đàng chàng muốn mình phải làm một cái gì đó, đàng khác, chàng thấy những thứ đó quá hấp dẫn, chả có vẻ tội lỗi gì cả!

 Tuy nhiên, chàng đã quyết định: bỏ tất cả... nhưng dần dần với thời gian. Chàng đóng góp số tiền tiêu sài ấy vào quĩ truyền bá đức tin để giúp nuôi ít chủng sinh nghèo. Cứ thế liên tiếp trong mấy mươi năm, nhiều thế hệ chủng sinh, linh mục đã được chàng giúp đỡ. Họ liên lạc thư tín với chàng mỗi lúc một nhiều...Thời gian trôi qua, đến ngày chàng thanh niên nghiện ngập thành ông cụ già 85 tuổi. Ngày kỷ niệm sinh nhật thứ 85 của cụ, cụ tuyên bố trước mặt họ hàng: “Với những hy sinh suốt mấy mươi năm qua, tôi đã đài thọ cho việc huấn luyện các chủng sinh, và đến nay, con số các linh mục rải rác khắp nơi được tôi giúp đỡ đã lên đến 30 người. Tôi rất hạnh phúc. Tôi đã đầu tư thành công, và tôi sẽ còn tiếp tục đầu tư như thế cho đến giờ Chúa gọi.”

Vâng cụ già đã biết làm cho mình nhỏ đi và cho Chúa được lớn lên, lớn lên qua những cánh tay nối dài của Ngài.

Ước gì khẩu hiệu này cũng trở thành lý tưởng và luật sống của mỗi người chúng ta. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là sống cho Chúa. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là không ngừng khước bỏ và cắt xén đi những gì là thừa thãi trong cuộc sống, để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu. Sống đối với người tín hữu Kitô chúng ta là suy nghĩ và hành động trong Chúa Kitô, để dung mạo của Ngài được chiếu sáng trong chúng ta, và nhờ ơn cứu độ của Ngài được loan báo cho mọi người.

3. Sứ điệp cứu nguy

Thánh Gioan Baotixita là không đưa ra những lý lẽ cao siêu, không ôm đồm những tham vọng xa vời, mà chỉ nhấn mạnh đến những điều căn bản nhất, khuyên làm những việc cần thiết nhất, đưa người ta nhìn vào mục đích quan trọng nhất đời mình.

Tới đây, chúng ta có thể tóm lược chân dung Thánh Gioan Baotixita ở hai nét này: Một là khiêm nhường nghèo khó, hai là thi hành ơn gọi một cách đơn giản với những gì là căn bản nhất.

Với chân dung đó, Thánh Gioan Baotixita đã đem một sứ điệp Chúa gởi đến cho nhân loại nói chung và dân Chúa nói riêng, để cứu nguy phần rỗi.

Thánh Gioan Baotixita đã qua đời. Nhưng sứ điệp cứu nguy phần rỗi vẫn được Chúa gởi vào lịch sử mọi thời mọi nơi, bằng cách này hay bằng cách khác.

Đức Mẹ tại Fatima, khi thấy đời sống đức tin sa sút trầm trọng, cũng đã nhắc tới những gì căn bản nhất để cứu con người khỏi sa vào con đường đi xuống hỏa ngục.

4. Sinh nhật vào Hạ chí

Nhưng tại sao lại mừng sinh nhật thánh Gioan Tẩy giả vào ngày 24 tháng 6 này? Người ta có thể biết rõ ngày sinh tháng đẻ của người sao? Không phải như vậy! Ngày xửa ngày xưa mấy ai nhớ rõ được đúng ngày sinh của mình. Họa chăng một vài bậc quan vương nào đó sinh ra trong các đền vua đầy văn hào văn sĩ mới có người ngồi đó để ghi ngày sinh tháng đẻ. Chúa Giêsu, Đức Maria, thánh Gioan đều là dân nghèo về mặt xã hội làm sao có thể để lại ngày sinh rõ ràng. Chính việc các ngài đản sinh mới quan trọng. Còn các ngài sinh ra ngày nào, giờ nào thì hậu thế liệu mà đặt ra theo một vài tiêu chuẩn nào đó.

Đối với Gioan Tẩy giả, người ta đã căn cứ vào một câu người nói để tính ra ngày sinh của người. Người đã nói về Đức Giêsu rằng: "Ngài phải tiến lên; còn tôi phải suy đi.” Vậy lúc Đức Giêsu tiến lên phải là lúc Gioan lui xuống. Đức Giêsu đã sinh ra ngày 25 tháng 12 là ngày Đông chí, ngày mặt trời bắt đầu tiến lên trong quỹ đạo của nó, thì tốt nhất nên đặt ngày sinh của Gioan vào ngày mặt trời bắt đầu đi xuống. Và đó là ngày 24 tháng 6, tức là nửa năm trước ngày Đông chí. Và hợp với lời sứ thần loan báo, bà Ysave thụ thai trước Đức Maria sáu tháng.

Những điều trên đây một đàng cho chúng ta thấy địa vị đặc biệt của Gioan Tẩy giả trong hàng ngũ các thánh. Nói đúng hơn người ở ngoài hàng ngũ này vì chỉ mình người khi sinh ra đã được khỏi tội Ađam (chỉ có Đức Giêsu và Đức Maria không mắc tội đó). Và đàng khác chúng ta được thấy cuộc đời của người gắn liền với cuộc đời của Đức Giêsu.

Ba bài Kinh Thánh hôm nay dường như muốn nhắc lại ba giai đoạn chính trong cuộc sống của Gioan. Bài sách Isaia gợi lên ơn gọi tiền định của người. Bài Tin Mừng nhắc đến hôm người sinh ra. Và bài sách Công vụ nói lên hoạt động chính Người đã làm theo sứ mạng.

5. Khiêm tốn

Tác giả La-phông-ten đã viết nhiều câu chuyện ngụ ngôn, trong đó có câu chuyện về con ếch và con bò để dạy chúng ta bài học là đừng quá tự cao như sau:

Ngày kia có một con ếch thấy một con bò to lớn vĩ đại nên rất ngưỡng mộ và mong sao cho mình cũng được trở nên vĩ đại như vậy. Từ tư tưởng biến thành hành động, con ếch liền xuống ao để uống nước cho bụng phình to ra sao cho bằng con bò kia. Cứ thế, cứ thế, nó uống mãi uống hoài mà vẫn không sao to được bằng con bò. Nó lại cố uống thêm… cho đến khi một tiếng “Bốp” nổ vang lên và con ếch đã bị chết banh xác.

Câu chuyện trên cho chúng ta thấy tự thẳm sâu trong cõi lòng, hầu như ai cũng muốn được người khác nể phục ca tụng. Ai cũng muốn tự nâng mình lên chứ không thích hạ mình xuống. Nhưng chúng ta ý thức giá trị của đức khiêm tốn và tập luyện nhân đức ấy, để việc tông đồ chúng ta làm được đẹp lòng Chúa và đạt được nhiều thành quả tốt đẹp.

6. Nép mình dưới bóng thập giá

Có một anh khờ nọ muốn được giải thoát khỏi cái bóng của mình... Nhưng càng trốn chạy bao nhiêu thì cái bóng đó lại càng đeo đuổi phía sau không dứt ra được. Anh lăn lộn trên đất, nhảy xuống sông… nhung dù đi đâu, làm gì, thì cái bóng của anh vẫn luôn ở phía sau.

Một cụ già khôn ngoan nghe biết chuyện đã cố vấn cho anh khờ như sau: "Để thoát khỏi cái bóng của mình, anh chỉ cần đến núp dưới bóng của một cây lớn là được.” Anh khờ nghe lời đến núp dưới một cây lớn và từ ngày đó đã không còn bị cái bóng theo đuổi phía sau nữa.

Chỉ khi biết khiêm tốn nép mình dưới bóng cây Thập giá Chúa Giê-su, chúng ta mới có thể thoát được cái bóng của các thói hư, chạy theo hư danh, khoái lạc, lợi lộc… trong cuộc sống.

Hôm nay Hội Thánh mừng kính trọng thể ngày sinh của một con người đã từng đến nép mình dưới cây Thập giá Chúa Giê-su. Con người ấy chính là Gio-an Tẩy Giả, vị tiền hô của Đấng Cứu Thế. Ông đã luôn khiêm hạ nép mình dưới bóng Chúa Giê-su và hiến cả cuộc đời phụng sự Người như ông đã nói với các môn đệ: “Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: Tôi đây không phải là Đấng Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi: (Ga 3,28-30).

7. Gioan và Hêrôđê

Tôi thấy thánh Gioan Tẩy Giả Và Vua Hêrôđê, kẻ đã ra lệnh chém đầu Người, là hai khuôn mặt hoàn toàn tương phản. Gioan là người mạnh mẽ, chí khí, còn Hêrôđê là người yếu đuối, do dự. Một đàng thì sống khắc khổ, giản án dị, còn đàng kia lại thích xa hoa, hưởng thụ. Hêrôđê đã bắt giam ông Gioan vì ông mạnh mẽ tố cáo nhà vua đã lấy vợ của anh mình. Thật ra vua cũng tỏ ra kính phục nhà tiên tri, biết ông là người công chính và thánh thiện, nhiều khi ông đã bênh vực Gioan. Nhưng ông là người thiếu ý chí, bị bao vây bởi đam mê, dục vọng. Và tuy là người cai trị khôn khéo nhưng ông lại bị các khuynh hướng xấu xa làm chủ mình. Thế nên ông đã bắt Gioan tống ngục, chắc hẳn là dưới sức ép của bà Hêrôđiađê, người chị dâu mà ông ta đoạt làm vợ. Rồi trong một bữa tiệc, ông đã hài lòng về điệu múa của cô con gái của bà đến độ đã hứa ban cho cô ta bất cứ điều gì cô xin.

Một lời hứa bốc đồng. Đó không phải là tiếng nói của lý trí, của lương tâm mà là của cảm tính, của bản năng. Và thế là ông đã mắc mưu bà Hêrôđiađê rồi. Bà bảo con gái hãy xin cái đầu của Gioan. Đã lỡ hứa trước mặt các thực khách, nhà vua đành phải giữ lời, mặc dù trong thâm tâm không muốn giết con người công chính này.

Vua Hêrôđê tiêu biểu cho những con người để cho phần thú tính nơi mình lấn lướt; mặc dù đôi khi lý trí và lương tâm vẫn còn lóe lên nơi họ, kêu gọi họ hãy vươn cao lên, nhưng không đủ sức kéo họ ra khỏi vũng bùn lầy bởi họ đã quen sống trong những sự thấp hèn.

Đối diện với Hêrôđê, ông Gioan Tẩy Giả xuất hiện như một con người có lý tưởng, sống nhất quán vì lý tưởng đời mình; một con người của bổn phận; con người biết chiến đấu cương quyết chống lại những lôi cuốn của bản năng thấp hèn; con người của những đỉnh cao.

8. Noi gương Gioan Tẩy Giả

Theo cha Basséville, ông Jeannet là người công giáo rất đạo đức, nhận thấy mình có bổn phận phải rao giảng Chúa cho người khác, nên đã tự nguyện trở nên tông đồ giáo dân cho Chúa và các linh hồn.

Nhưng rồi ông bị người ta này chê là giả hình. Người kia chê là ông thiếu khả năng. Người nọ bảo là ông kém cỏi. Người khác lạ bảo lòng không xứng hợp. Đứng trước những lời chê bai đó, ông Jeannet mất tinh thần, thối chí định bỏ việc tông đồ.

Đêm hôm ấy, Chúa cho ông nằm mơ là mình đã chết. Sau khi chết, thiên thần bản mệnh dẫn ông đến một gian phòng, để chờ Chúa đến phát xét. Ngay trước cửa gian phòng, ông thấy một tấm bảng kẻ hàng chữ lớn: “Phòng triển lãm đời sống ông Jeannet. Bước vào trong, ông thấy có nhiều bức vẽ rất đẹp. Bức thì vẽ lại những lần ông đang quì cầu nguyện ở gia đình cho các tội nhân và người ngoại. Bức thì vẽ những lần ông đang dự thánh lễ. Bức thì vẽ lại những lần ông đang lao động, để cầu nguyện cho tội nhân này. Bức thì vẽ lại những lần ông đi thăm viếng người ngoại kia. Bức thì vẽ lại người tội nhân và người ngoại được trở về với Chúa, do việc ông chịu đựng những lời chê bai trong khi làm việc tông đồ.

Vừa mơ đến đây, thì ông giật mình thức dậy. Ông cho giấc mơ là lời Chúa an ủi và cảnh cáo mình. Ông liền quỳ lên giường cám ơn Chúa cho mình còn sống. Rồi ông quyết chí lại tiếp tục làm việc tông đồ để đưa các linh hồn về cho Chúa.

Thưa anh chị em, hôm nay kính thánh Gioan là tiền hô và tẩy giả của Chúa, ta cũng bắt chước ông Jeannet làm việc tông đồ cho Chúa như ông Jeannet trên đây để bắt chước thánh Gioan là tiền hô tẩy giả của Chúa.

9. Đứa trẻ này rồi sẽ nên thế nào?

Một người láng giềng của tôi thuật lại: Trong thời gian người vợ mang thai, anh cầu ngày cầu đêm cho được con trai. Tối 28 tết, anh chồng thấp thỏm chờ đợi thời khắc đứa con chào đời. Hy vọng sẽ là đứa con trai như lòng anh mong ước.

Thế rồi vào khoảng 10 giờ tối, khi nghe cô đỡ báo tin người vợ sinh con trai, anh quá đỗi vui mừng, vội chạy vào nhà lấy hai dây pháo thật dài, treo ngay dưới hai chuồng bồ câu giữa sân, bật quẹt châm ngòi. Hai tràng pháo nổ giòn vang dội cả xóm. Tất cả bồ câu đông đảo trong hai chuồng hoảng hốt vỗ cánh bay tán loạn không sót một con!

Niềm vui có đứa con chào đời quá lớn khiến người cha trót dại treo hai dây pháo ngay dưới chuồng bồ câu khiến chúng bay sạch, gây tổn thất không nhỏ cho kinh tế gia đình.

Một niềm vui còn lớn hơn nhiều đã đến với hai ông bà Da-ca-ri-a khi bé Gioan chào đời. Mọi người lân cận đến chúc mừng hai ông bà được Chúa thương cho sinh con trong tuổi già. Ai cũng chúc mừng mẹ tròn con vuông. Ai cũng trầm trồ khen đứa bé thật dễ thương đang nằm trong lòng mẹ. Ai cũng mỉm cười với bé, đặt nhiều hy vọng vào bé: "Đứa trẻ này rồi ra sẽ thế nào đây? Và quả thật, có bàn tay Chúa phù hộ em" (Lc 1,66).

Thế rồi cậu bé Gioan lớn dần lên theo năm tháng mà không để cho bất kỳ ai thất vọng. Người đã sống đẹp và đã chết hào hùng.

Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ dãi tiện nghi nơi gia đình lối xóm, rút vào trong hoang địa khô cằn để sống gắn bó với Thiên Chúa, chú tâm lắng nghe và thực hiện ý Người.

10. Người mở đường cho Chúa

Có một lần ông Ra-un cùng vợ đến thăm một trại cùi. Ông bà thường vẫn có thói quen bắt tay các anh chị em phong cùi vì họ biết bệnh phong cùi khó lây lan.

Ông giám đốc trại cùi dẫn hai ông bà đi thăm trại và giới thiệu với họ trường hợp của một nữ bệnh nhân tên là Tella. Ông Ra-un giơ tay ra định bắt tay Tella, nhưng bà này vội giấu tay lại phía sau lưng nhanh như chớp rồi nói:

- Luật cấm bắt tay.

Thấy ông giám đốc có vẻ ngượng ngùng, ông Ra-un hỏi:

- Thế ở đây có cấm ôm hôn người cùi không?

Ông giám đốc bối rối trả lời:

- Luật của chúng tôi không dự trù trường hợp này.

Ông Ra-un liền kết luận:

- Như thế là được phép ôm hôn người bệnh phải không? Nói rồi ông Ra-un ôm và hôn bà Tella với tất cả lòng thương mến chân thành. Cử chỉ yêu thương bất ngờ ấy của ông Ra-un như một tiếng sét đập tan và tiêu hủy tất cả mọi ngăn cách sợ sệt giữa hàng trăm anh chị em phong cùi đứng chung quanh và sau đó người cùi nào cũng muốn ôm hôn ông Ra-un, người tông đồ nhiệt thành và là bạn đáng yêu của hàng triệu anh chị em phong cùi trên khắp thế giới.

Ông thường nói: Tôi không phải là bác sĩ nên tôi không thể chữa cho họ lành bệnh được. Tôi chỉ có thể thương họ thôi, bởi vì họ cũng là con cái của Chúa.

11. Vào hoang địa

Lm Nguyễn Hồng Giáo kể truyện: Ít năm sau chiến tranh, tôi có dịp đi thăm một anh em tu sĩ chúng tôi ở Xuyên Mộc. Ngài phụ trách một giáo xứ khoảng 4.000 giáo dân và ba địa điểm cách giáo xứ từ 7 đến 20 cây số với số giáo dân khoảng 6.000 người nữa. Tôi đã đi thăm hai địa điểm lớn ở xa. Đó. là hai làng kinh tế mới. Tôi thấy giáo dân thật sốt sắng, đầy can đảm trong công việc làm ăn cũng như trong việc đạo.

Đặc biệt tôi gặp một gia đình Dòng Ba Phanxicô gốc ở Phú Nhuận. Khi tôi đến, ông đang dạy giáo lý hôn nhân cho một chị độ 25 tuổi. Ông bà cho biết: họ có mấy người con trai, trong đó có đứa nghiện xì ke đã làm cho họ rất khổ tâm. Để tránh cho mấy đứa khác khỏi bị lôi kéo vào con đường hư hỏng đó, hai ông bà đã quyết định đưa cả gia đình tới đây sinh sống từ 1980.

Bây giờ họ sống nghèo nhưng vui và bình an. Tinh thần đơn sơ, nghèo khó, vui tươi và phó thác của Dòng Ba đã giúp họ can đảm sống cuộc đời thiếu thốn vì lợi ích của con cái. Họ nói tuy họ không giàu có nhưng con cái họ không hư hỏng.

Theo "ơn gọi” và hoàn cảnh riêng của mình, hai người công giáo này đáng cho ta khâm phục không kém Gioan Tẩy Giả, và chắc chắn là gần gũi và dễ noi gương hơn noi gương vị Tiền Hô.

12. Làm chứng cho ánh sáng

Trong ngày lễ mừng sinh nhật của thánh Gioan Tẩy giả hôm nay, chúng ta cùng nhau nhìn lại và khám khá về con người sứ giả của Tin mừng. Ngài đã sống và làm chứng cho sự thật. Như lời thánh sử Gioan viết: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, người đó tên là Gioan Tẩy giả, ông đến để làm chứng cho Ánh Sáng” (Ga1, 6). Thật vậy, ngày nay nhân loại đang cần những chứng nhân sống động hơn là thầy dạy. Tôi lại chợt nhớ đến một chứng từ có tựa đề là “Con Nay Trở Về” của Phan Như Ngọc, nguyên trưởng phòng vật lý hạt nhân viện khoa học Việt Nam. Vì là một nhà khoa học, và cũng là một người vô thần, ông ta cho rằng, ai tin vào Thiên Chúa là người mê tín, dị đoan. Trong suốt mười ba năm dạy học, ông ta nhồi nhét cho các sinh viên những tư tưởng duy vật và chống lại đường lối của Thiên Chúa.

Đến năm 1989, trong một chuyến đi công tác tại Đức, ông ta gặp được một nhà truyền giáo Hà Lan, tên là Henk Wolthaus đến phát Thánh Kinh và những quyển sách nhỏ cho mọi người. Vì có tính tò mò, ông muốn biết cuốn sách này nói gì. Khi mở những trang đầu cuốn Thánh Kinh, ông cảm thấy khó chịu, không thể hiểu được tại sao vũ trụ này lại được tạo dựng trong sáu ngày? Thật là vô lý. Khi đọc tới cuốn Tân ước, ông cũng không thể tin việc Chúa Giêsu chữa lành cho người mù được sáng mắt, người cùi được sạch, kẻ què đi được, người chết sống lại… Tất cả như những câu truyện thần thoại dành cho trẻ con.

Những phép lạ trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen lý luận theo kiểu vô thần của ông ta không sao hiểu nổi. Từ cái khó hiểu và vô lý đó đã nẩy ra trong đầu ông ta một câu hỏi, đó là: Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại tin vào Kinh Thánh? Họ là những người cuồng tín, hay là chính mình là người ngu dốt? Và từ những cuốn sách mỏng của người truyền đạo Hà Lan, ông ta đã đọc được những câu bất hủ sau đây:

Isaac Newton (Anh, 1642-1727) đã kết luận: "Trong Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”

Victor Hugo (Pháp 1802-1885) viết: "Nước Anh có hai cuốn sách: Kinh Thánh và Shakespear. Nước Anh sinh ra Shakespear, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh.”

Albert Einstein (Đức, 1879-1955), nhà vật lý được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ 20, đã phát biểu: "Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, Tôn giáo mà thiếu khoa học là què quặt.”

Theo như lời tự thuật của Phan Như Ngọc, lúc bấy giờ ông chưa được hiểu biết nhiều về Thiên Chúa, nhưng Chúa đã mở cõi lòng chai cứng và làm thay đổi não trạng và thành kiến của ông. Ông ta xác tín rằng, "Chúa dùng Thánh Kinh và những lời của các nhà khoa học để mở con mắt đức tin cho tôi. Mười ba năm dạy học là mười ba năm tôi bước đi trên con đường lầm lạc và xa cách Thiên Chúa, tôi cảm thấy xót xa ân hận vô cùng. Nếu linh hồn của lớp đàn em tôi bị hư mất là chính tôi phải gánh chịu một phần trách nhiệm, vì tôi đã gây nên tội."

Thật là một điều kỳ diệu. Là một nhà khoa học, một người vô thần, ông ta lại dám nói những lời xác tín như thế để làm chứng cho Tin mừng trong thế kỷ 21 này, ông ta đã nói lên sự thật về tình yêu Thiên Chúa. Như lời thánh GioanTẩy giả đã công bố: “Tôi không phải là Đấng Cứu Thế, nhưng sẽ có một Người đến sau tôi, và tôi không xứng đáng cởi giây giầy Ngài” (Lc 3,16). Sứ vụ rao giảng của Gioan là dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến, ngài kêu goi người ta ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng. Ngài bảo vệ cho chân lý và sự thật. Khi đã tố cáo vua Hêrôđê phạm tội loạn luân với bà Hêrôđia, vì ông này đã chiếm vợ của anh mình, thì sứ vụ rao giảng của Gioan Tẩy giả được chấm dứt khi ngài bị tống vào ngục và bị chặt đầu, cái chết của ngài là làm chứng cho sự thật.

Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô

Lời Chúa: Mt 16, 13-19

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó." Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống."

Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở."

TRUYỆN KỂ

1. Hai đá tảng và trụ cột của Giáo hội

Trong mọi công trình xây dựng, các chuyên gia đều chú trọng đến nền móng và trụ cột nâng đỡ toàn bộ kiến trúc của công trình.

Trong ngôi nhà Giáo hội cũng vậy, chúng ta là những viên gạch để xây dựng lên và đã được Thiên Chúa kiến thiết với nền móng vững chắc từ “đá tảng niềm tin Phêrô và cột trụ bền vững nhiệt thành Phaolô." Hai vị được nhìn nhận như là nền móng và trụ cột của công trình Giáo hội Chúa giữa trần gian. Trong kinh tiền tụng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, Giáo hội đã long trọng tuyên bố: ”Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân."

Thánh Phêrô lúc đầu có tên là Simon, làm nghề đánh cá và đã có gia đình. Ngài được Chúa Giêsu gọi đi theo Người trong một lần đánh cá ở trên biển. Ngài đã đại diện các môn đệ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 16, 16) được Chúa đặt đứng đầu nhóm Mười Hai. Ngài là một trong bốn môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (x. Mt 4, 18-22) được tham dự hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa... Trong những lúc khó khăn nguy khốn, vì yếu lòng tin ngài đã chối Chúa ba lần nhưng đã quay trở lại và làm cho đức tin của Giáo hội phát triển mạnh tại Giêrusalem, sau khi Chúa về trời. Ngài tử đạo khoảng năm 64-67.

Thánh Phaolô, trước đây là một biệt phái, sau khi bị Chúa làm cho ngã ngựa và làm mù lòa trên đường Đamas khi đang bách hại đạo Chúa. Ngài đã được Chúa chọn làm tông đồ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngài thành lập nhiều cộng đoàn cũng như viết thư thăm hỏi, giải quyết những vấn đề của cộng đoàn mà ngài không thể tới được. Ngài tử đạo năm 67 tại Rôma.

Noi gương hai thánh tông đồ, chúng ta gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô để kín múc nơi Người nguồn sức mạnh tình yêu, hầu chia sẻ cho mọi người và sống chứng nhân Tin Mừng.

2. Hình ảnh Chúa Kitô

Ngày kia, hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế." Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.

Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, hoàng đế cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.

Sứ mệnh căn bản của mỗi Kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.

Lạy Chúa, xin cho con biết kiên nhẫn đục đẽo tâm hồn và cuộc sống con để dung nhan Ngài giãi sáng qua mọi hành vi của đời sống con.

3. Tác phẩm của tình yêu

Nhà điêu khắc Dannecker người Đức, đã để nhiều công khó trong công tác tạc một bức tượng của Chúa Giêsu bằng cẩm thạch. Trong hai năm đầu, bức tượng đã xong, nhà điêu khắc mời một em bé vào phòng vẽ của mình và hỏi em bé rằng:

- Ai đó?

Em bé tức khắc trả lời:

- Một vĩ nhân.

Nhà điêu khắc buồn và nghĩ rằng, công khó của mình trong hai năm kể như đã hỏng. Ông tiếp tục tạc lại trong sáu năm nữa và mời một em bé khác vào phòng vẽ và hỏi:

- Em biết bức tượng này là ai không?

Sau khi nhìn bức tượng một lúc, yên lặng và nước mắt tràn ra đôi mi, em khẽ nói:

- Hỡi những con trẻ đau khổ hãy đến cùng ta!

Nhà điêu khắc thoả mãn, thành công về tác phẩm của mình. Nhà điêu khắc Dannecker sau đó đã tuyên bố:

- Tôi đã thấy Chúa Cứu Thế Giêsu và hình ảnh của Ngài đã thể hiện trong khi tôi tạc bức tượng Ngài bằng cẩm thạch này.

Sau đó ít lâu, hoàng đế Napoléon Bonaparte yêu cầu nhà điêu khắc tạc cho hoàng đế bức tượng nữ thần Vệ Nữ để trưng bày trong viện bảo tàng Louvre, Paris. Hoàng đế hứa sẽ trả cho ông một món tiền rất lớn, nhưng Dannecker từ chối. Ông nói rằng: “Một người đã thấy Đấng Kitô và đã tạc vẽ mặt của Ngài rồi, thì không thể dùng nghệ thuật của mình vào những việc ở đời này được nữa, bởi vì làm như thế là tục hoá nghệ thuật của mình mất rồi."

4. “Ngục thất nơi giam hai thánh Phêrô và Phaolô: Từ tăm tối trở thành ánh sáng."

Sau một năm trời khai quật, Nhà ngục Mamertine, nơi Thánh Phêrô và Phaolô phải giam giữ trước khi bị hành hình, đã được tân trang và mở cửa lại.

Địa điểm nhà ngục nằm cạnh Quần thể Cổ Roma (Ancient Roman Forum), tạc sâu vào vách đá của đồi Capitol (Capitoline Hill) và nhìn xuống ngôi nhà dùng làm Nghị viện thời đó. Người ta vẫn tin là nhà ngục này – còn có tên gọi là Carcer Tullianum – được hoàng đế Roma Servius Tullius xây vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, gồm có hai phòng giam chồng lên nhau. Phòng giam dưới là một khoảng chật hẹp ẩm thấp, chỉ xuống được qua một lỗ hổng trên sàn phòng giam trên, được sử dụng suốt thời kỳ Cộng hoà và Đế quốc Roma để làm tù ngục giam giữ và hành quyết.

Chính tại phòng giam này viên tướng chỉ huy quân đội người Gaule là Vercingetorix bị xiết cổ chết sau trận chiến thắng của Julius Caesar, và cũng tại nơi đây, trong tù ngục âm u, Jugurtha, vua người Numidians đã bị để cho chết đói. Vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, Sallust một văn sĩ Roma đã mô tả nhà ngục này “sâu 12 feet, chung quang là tường và trên là mái vòm bằng đá. Khung cảnh thật ghê tởm và đáng sợ vì bị bỏ bê, tối tăm và hôi thối.”

Một thế kỷ sau lời mô tả như trên của Sallust, Thánh Phêrô và Phaolô đã phải đến cư ngụ trong phòng giam dưới cực kỳ ghê tởm này, trong những ngày cuối đời trước khi tử vì đạo, bị cầm tù theo lệnh của hoàng đế Nero. Sự hiện diện của hai vị tông đồ đã chuyển biến địa điểm thất vọng này thành nơi chỗ hy vọng, khi các ngài rao giảng đức tin cho lính canh ngục là Processus và Martinianus. Hai người lính Roma xin được rửa tội, nhưng không có nước trong phòng giam để cử hành bí tích này, vì thế Thánh Phêrô dùng gậy đập trên nền phòng và nước phun ra từ tảng đá. Địa điểm nơi dòng nước của phép lạ này chảy ra nay còn được ghi nhớ nơi phòng giam dưới.

Những người giam giữ Phêrô giúp ông vượt ra khỏi nhà ngục tồi tệ này, nhưng sau khi gặp được Chúa Kitô trên con đường Appian, Thánh Phêrô quay trở lại và tự ý nhận lấy cái chết là bị đóng đinh vào thập giá tại đấu trường của Nero trên đồi Vatican.

Tuần qua, văn phòng của vị giám sát khảo cổ tại Roma loan báo rằng công việc khai quật đã khám phá ra những phần còn lại của các bích họa cho biết việc chuyển đổi nơi này thành một không gian tôn kính của người Kitô giáo đã xảy ra ngay tận đầu thế kỷ thứ 7, cùng thời gian với việc Curia (Nghị viện) được biến đổi thành một thánh đường cũng như nhiều cấu trúc khác trong khu vực Quần thể. Cuộc khai quật dõi tìm được dấu vết nhiều giai đoạn khác nhau của khu vực này, từ lúc còn là khu mỏ đá cổ cho đến khi trở thành nhà ngục cho đến lúc “biến đổi rất nhanh”thành một trung tâm tôn kính Thánh Phêrô.

Ngày nay, ngục giam này nằm dưới ngôi Thánh đường San Giuseppe dei Falegnami xây vào thế kỷ 17, nhưng địa điểm là do Tòa giám quản giáo phận Roma sở hữu và sẽ được Opera Romana Pellegrinaggi mở cửa cho công chúng vào thăm viếng có thể là từ đầu tháng 7 này. Ở đó khách hành hương có cơ hội tỏ lòng tôn kính hai thánh Phêrô và Phaolô. Hai thánh nhân đã từng nhìn ra ngoài Quần thể nơi có nhiều đền đài thờ phượng những con người phàm đã biến thành thần nhân, và các ngài đã có dũng cảm tuyên xưng Tin Mừng của Thần Chúa đã sinh hạ làm người phàm. (x.VietCatholic News, 03-7-2010).

5. Phêrô và Phaolô, tượng đài hiệp nhất.

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy laị có những điểm tương đồng lạ lùng.Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội (x. Làm nụ hoa trắng. ĐGM Vũ Duy Thống).

6. Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất. Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa.

Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến." Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào."

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa. luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen.

7. Đứng dậy nhờ ơn Chúa

Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White Palace (Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật nghĩa là họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị khuyết tật thực sự.

Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn vẫn phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu tự tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn, khiến bạn không thể tiến lên."

Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con trai.

Quả thực, con người luôn có những khuyết tật. Có người bị khuyết tật điều này, người điều kia. Không ai hoàn hảo về thể xác hay về tâm hồn. Tuy nhiên, có người biết bổ túc cho khuyết tật của mình bằng nghị lực, bằng phấn đấu, bằng niềm tin vươn lên. Nhưng cũng có người buông xuôi, than trách cho số phận và để mặc cho dòng đời đưa đẩy.

Nick không phải là một thiên tài. Nick là một nhân vật điển hình cho bao người biết phấn đấu vươn lên để bổ túc cho khuyết tật của mình. Anh không có chân tay nhưng anh vẫn lạc quan phấn đấu vươn lên, nhất là biết dùng môi miệng mình để diễn thuyết, để rao giảng về Thiên Chúa.

8. "ST" nghĩa là sự thánh thiện

Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo tặc." Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự "ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).

Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng nguyền rủa này.

Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi." Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự "ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh.

Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)."

Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong hiện tại và suốt cuộc đời.

9. Ngài Là Cha Tôi--‘Lẽ Sống’--R. Veritas

Truyện cổ Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế. Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng tung hô.

Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.

Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần... Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời: "Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha tôi."

"Ngài là cha tôi": đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.

"Ngài là cha tôi": danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể gọi Chúa là Cha.

10. Con có yêu mến Thầy không?

Nơi bệnh viện mà nữ tu Antoinette đang phục vụ có một ông lính già cực kỳ khó tính. Gặp ai ông cũng nhăn nhó, nạt nộ. Có chuyện gì trái ý, ông la lối rùm beng lên.

Ngày kia, đang mải mê phục vụ, nữ tu Antoinette nghe tiếng "lính già khó tính" hét lớn: Đem cho tôi một quả trứng luộc." Antoinette vui vẻ đem quả trứng đến cho ông.

- Trứng chưa chín đủ mà cũng đem tới à? Lính già khó tính nhăn nhó. Antoinette tươi cười đem trứng đi luộc lại.

- Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Vô ý vô tứ quá!

Antoinette chẳng biết làm sao. Chị bèn đi lấy một cái bếp lò đến kê bên giường và trao cho ông lính già khó tính một cái trứng để luộc cho vừa ý ông. Ông lính già thấy thế nổi máu nóng lên, đạp đổ bếp lò, quẳng quả trứng xuống nền gạch, miệng quát lớn: "Cô không biết tôi là bệnh nhân sao? Bệnh nhân mà đi luộc trứng à?"

Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, thinh lặng cúi xuống thu nhặt, quét dọn ... Lát sau, chi đem đến cho ông lính già khó tính một cái trứng khác: "Ông cố gắng dùng thử cái trứng này, tôi luộc vừa chín thôi?" Bất giác, ông lính già rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: "Tôi ăn quả trứng này cũng là ăn lòng tốt của cô nữa."

Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng hơn bất cứ một biến đổi ngoạn mục nào, nhất là nó có khả năng biến đổi cả lòng người nữa.Ước gì chúng ta biết noi gương theo Thầy Chí Thánh Giêsu luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp nơi con người và luôn hy vọng vào những người đang lầm lạc trong cuộc đời này để dùng tình yêu mà cảm hoá họ.

Xin cho chúng ta luôn biết nhẫn nại và quảng đại với những sai lỗi của con người và luôn coi họ hành động sai lầm vì họ không biết và ngây ngô mà thôi. Chắc chắn rằng khi chúng ta biết hành động yêu thương như Chúa, như nữ tu Antoinette, chúng ta sẽ trở thành những tông đồ "trụ cột" như hai thánh Phêrô và Phaolô mà chúng ta mùng kính hôm nay.

11. Ách êm ái và gánh nhẹ nhàng

Ngày kia, chị thánh Têrêxa đố các chị em trong dòng:

- Các chị có biết ngày lễ vui mừng của em là ngày nào không?

Vừa hỏi xong, chị thánh đã mau mắn trả lời ngay:

- Đó là ngày Chúa thử thách em nhiều nhất. Đó là ngày Chúa để cho em chịu nhiều đau khổ nhất.

Một hôm kia, bà bề trên hỏi chị:

- Sáng nay, sao em vui thế?

Chị thành thật thưa lại:

- Dạ, con vừa làm được hai việc hy sinh.

Chị thánh Têrêxa thú nhận là chị đã tập được một thói quen rất anh hùng, đó là luôn mỉm cười. Chị nói:

- Tôi đã tập được thói quen mỉm cười trong mọi lúc, trong mọi nơi, trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh.

Tình yêu chân thật được đo lường bằng sự quên mình vì người khác. Chúa Giêsu đã dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)

Được thúc đẩy bởi tình yêu, sau khi bị đánh đòn vì Chúa Giêsu, “các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.” (Cv 5,41); riêng thánh Phaolô: “Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng.” (2Cr 11,24-27)

Tình yêu là lý do của việc sẵn lòng chịu đau khổ của ngài: “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2Cr 11,28-29)

Niềm vui và bình an là hoa trái của một tình yêu chân thật. Sức mạnh của tình yêu là ở đó; hạnh phúc do tình yêu mang lại là ở đó; thiên đường cũng ở đó!

12. Các con bảo Thầy là ai

Trước khi trở lại đạo, Genesius, vị thánh quan thầy của giới tài tử sân khấu, là một kịch sĩ nổi tiếng có nhiều ác cảm với đạo. Một phần ghét đạo, một phần lại sống trong thời của vị hoàng đế bắt đạo Diocletianus, nên anh định viết một vở hài kịch chế diễu các nghi lễ Kitô giáo. Để viết kịch, anh phải giả làm dự tòng đến một giáo đoàn ở Rôma để xin học đạo, định bụng là sau khi biết đủ những gì cần biết, anh sẽ viết một vở kịch chế diễu phép rửa tội.

Nhưng khi nói với các diễn viên về phép rửa trong lúc tập kịch, tự nhiên Genesius lại thấy mình muốn tin và ước ao chịu phép rửa. Lòng ao ước đó cứ lớn dần lên trong anh, cho đến hôm lần đầu diễn vở kịch cho hoàng đế và quần thần xem, thì Thánh Thần tác động lên anh, anh không đóng kịch nữa mà kêu lên từ đáy lòng: “Hỡi các bạn hề của tôi, tôi ao ước được trở nên một Kitô hữu.”

Các bạn diễn hỏi tại sao thì anh nói: “Suốt đời tôi chỉ là phù du, nay tôi đã tìm thấy Thiên Chúa.” Mọi người, kể cả hoàng đế rũ ra mà cười, nghĩ rằng Genesius nhập vai rất hay. Hai kịch sĩ bước vào, một đóng vai linh mục, một phù thủy. Khi họ hỏi anh muốn gì, anh lập lại ước muốn được rửa tội. Hai kịch sĩ đó rửa tội cho anh đúng như anh chỉ cho họ.

Rồi Genesius nói với hoàng đế, binh lính và dân chúng: “Tôi viết và đóng kịch để chế diễu (…) nhưng nay tôi đã tin và khi tôi nói những lời này, tôi thấy thiên thần của Chúa ở quanh tôi. Các thiên thần cho tôi biết nước rửa tội đã rửa tôi sạch hết mọi tội lỗi cũng như các sự dữ tôi đã làm. (…)

“Hỡi hoàng đế, hãy tin vào những mầu nhiệm này! Tôi sẽ dạy cho ngài và ngài sẽ biết Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật.”

Lời Genesius làm đám đông nhốn nháo cả lên, hoàng đế cho trói anh lại mà đánh đòn và xẻo thịt anh. Dù phải đau đớn, anh vẫn tuyên xưng Giêsu là Thiên Chúa. Khi hoàng đế ra lệnh chém đầu, anh kêu to: “Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và chúng ta sẽ có sự sống nhờ danh Ngài.”

Chúa hỏi các tông đồ: “Các con bảo Thầy là ai?” vì nhận biết Chúa là điều cốt yếu trong niềm tin Kitô, để được sự sống đời đời.

13. Vì Chúa và hội Thánh

Có người hỏi Đức ông Polgallo:

- Là người thân cận của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vậy điều gì nơi Đức Thánh Cha đánh động Đức ông nhất?

- Dĩ nhiên ngài là vị Giáo Hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng với cá nhân tôi, điều ngài làm tôi cảm kích hơn cả là lòng yêu mến Hội Thánh. Trong các chuyến tông du, ngài hòa mình vào đám đông và để mọi người lôi kéo như quên mọi hiểm nguy có thể xảy đến. Những lúc thân mật chúng tôi thưa với ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha đã vất vả với công việc lại còn tự đặt mình vào nhiều hoàn cảnh có thể nguy hiểm đến tính mạng. Xin Đức Thánh Cha đừng để đám đông lôi kéo như thế vì rất nguy hiểm.”

Mỗi lần nghe chúng tôi góp ý như vậy, ngài chỉ cười và dịu dàng nói:

- Tất cả vì Hội Thánh! Tất cả vì Hội Thánh!

Thánh Phêrô và Phaolô là mẫu gương “vì Chúa và vì Hội Thánh” cho các Kitô hữu thuộc mọi thời đại. Kinh tiền tụng thánh lễ hôm nay Giáo Hội đã ca tụng: “Các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Đức Kitô, nên các ngài đáng được thế giới ngưỡng mộ và được lãnh nhận cùng một triều thiên vinh quang.”

Lời Chúa Tuần 12 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch

CNTN 12A - Tuyên xưng Thầy trước mặt người đời

Lời Chúa: Mt 10, 26-33

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: "Các con đừng sợ những người đó, vì không có gì che giấu mà không bị thố lộ; và không có gì kín nhiệm mà không hề hay biết. Ðiều Thầy nói với các con trong bóng tối, hãy nói nơi ánh sáng; và điều các con nghe rỉ tai, hãy rao giảng trên mái nhà.

"Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn: Các con hãy sợ Ðấng có thể ném cả xác lẫn hồn xuống địa ngục. Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần.

"Vậy ai tuyên xưng Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt người đời, thì Thầy sẽ chối nó trước mặt Cha Thầy, là Ðấng ngự trên trời."

TRUYỆN KỂ

1. Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người.

Đứa bé sợ xa mẹ, cô gái sợ già, người già sợ chết.

Nỗi sợ xuất hiện dưới muôn ngàn dáng vẻ. Sợ cô đơn, sợ bệnh tật, sợ phụ bạc, sợ tương lai. Sợ thất nghiệp, sợ nghèo đói, sợ thất học, sợ chia ly...

Có những nỗi sợ mang tính đạo đức: sợ phải sống theo lương tâm, phải làm chứng cho sự thật, sợ trước sự ác đang hoành hành, sợ tôn giáo bị mai một...

Có khi người ta sợ nhau: người da đen sợ người da trắng, nước nghèo sợ nước giàu, bạn bè, anh em, hàng xóm cũng sợ nhau.

Lắm khi chúng ta sợ Chúa, không như con sợ cha, nhưng như một nô lệ trước một ông chủ khó tính. Nỗi sợ cứ quấn lấy đời người. Nỗi sợ làm người ta mất vui, mất bình an và tự do. Bởi thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ đừng sợ.

2. Sợ và chọn lựa

Một người kia nói chuyện với Chúa về những giá trị. Anh hỏi Ngài:

- Giá trị một phút ở trên trời là bao nhiêu?

- Một tỷ năm.

- Giá trị một xu trên trời là bao nhiêu?

- Một tỷ đô la.

Anh liền xin: “Ngài có thể cho tôi một xu?”

Chúa nói: “Đợi một phút."

3. Người tin không biết sợ

Một sĩ quan người Anh có đức tin mạnh mẽ cùng gia đình xuống tàu để phục vụ ở một xứ xa. Tàu rời bến được vài ngày thì gặp bão. Mọi người rất sợ, nhưng vợ viên sĩ quan sợ hơn cả, còn ông thì bình thản như chẳng có gì xảy ra. Vợ ông trách là ông không quan tâm gì đến an nguy của vợ con. Ông không nói nhiều, vào phòng rồi quay trở ra với một thanh kiếm trong tay. Ông dí mũi kiếm vào ngực vợ. Lúc đầu bà tái mặt nhưng liền sau đó bỗng cười lớn tiếng không tỏ gì là sợ hãi nữa.

- Làm sao em có thể cười khi anh dí mũi kiếm vào ngực em?

- Làm sao em sợ được khi lưỡi kiếm ấy ở trong tay một người rất thương em!

- Vậy tại sao em lại muốn anh sợ cơn bão này khi anh biết rằng nó ở trong tay của Cha anh là người hằng yêu mến anh?

4. Có Chúa ở cùng

Nữ bác sĩ Sheila Cassidy đến nước Chilê làm việc phục vụ cho dân nghèo. Một hôm cô trị bệnh cho một lãnh tụ phe đối lập. Chính quyền biết chuyện nên bắt giam cô. Cô đã thuật lại như sau: “… Sau 4 ngày bị giam cầm và tra tấn, họ để tôi một mình trong phòng giam… Nhưng lạ thay, tôi không cảm thấy cô đơn và buồn chán, trái lại còn cảm thấy vui nữa, vì tôi biết có Chúa ở với tôi." Bác sĩ Sheila đã cảm nghiệm được điều Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng con đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn chúng con."

Hãy tự hỏi bạn sợ điều gì nhất trong đời? Và bạn sẽ nói gì với Chúa về nỗi sợ đó?

5. Đức Giám mục Oscar Romero

Khi mới lên làm Tổng Giám Mục giáo phận San Salvador, Đức Cha Oscar Romero vẫn còn theo lập trường bảo thủ. Nhưng chẳng bao lâu sau, khi nhìn thấy những bất công xã hội, ngài đã thay đổi. Mỗi ngày Chúa nhật, ngài giảng ở nhà thờ chánh tòa tố cáo những tội ác đã diễn ra mà đa số là do các viên chức chính phủ. Các bài giảng của ngài như một luồng điện mạnh chạm đến toàn xã hội. Khi ngài nói, hầu như mọi người đều ngưng việc để lắng nghe.

Ngài bị đặt vào tình trạng bị đe dọa thường xuyên. Một vài bạn bè thân thích của ngài đã bị giết chết. Nhưng ngài vẫn không im tiếng, cũng không lánh đi nơi khác an toàn hơn. Ngài nói: "Một mục tử chân chính khi thấy nguy hiểm không thể bỏ đoàn chiên để cứu lấy mạng sống mình. Tôi sẽ ở lại với dân tôi." Và ngài đã bị chết dưới lằn đạn tháng ba năm 1980 đang lúc dâng Thánh Lễ.

6. Trái tim chuột

Có một con chuột kia rất sợ mèo. Một vị thần tội nghiệp nó nên biến nó thành mèo. Thành mèo rồi nó lại sợ chó. Vị thần biến nó thành chó. Thành chó rồi nó lại sợ cọp. Vị thần cho nó thành cọp. Nhưng thành cọp rồi nó lại sợ người thợ săn. Vị thần đành chịu thua: "Ta có biến mi thành bất cứ thứ gì đi nữa thì cũng không giúp mi hết sợ, bởi vì trái tim của mi vẫn là trái tim chuột."

7. Thánh Phaolô can đảm

Thánh Phaolô là gương mẫu của sự dấn thân trong việc rao giảng Tin mừng. Ngài nói: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng.." Vì vậy, Ngài đã lên đường truyền giáo bất chấp mọi nguy hiểm đang rình chờ. Trong thư gửi cho tín hữu Côrintô ngài đã cho biết về một số nguy hiểm đã phải trải qua: 5 lần bị đánh 39 trượng, 3 lần bị tra tấn, một lần bị ném đá, 3 lần bị đắm tầu một ngày một đêm (2Cr 12,24-25). Ngài phải được gọi là chiến sĩ của Tin mừng, anh hùng của đức tin, của lòng nhiệt thành, bất chấp mọi gian nan thử thách, bởi vì:

Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả,
Anh hùng hào kiệt có hơn ai. (Nguyễn bá Học)

Chúa muốn cho các tông đồ của Ngài phải yêu mến Ngài và dấn thân trọn vẹn trên con đường rao giảng Tin mừng. Ta thấy khi cưới nhau thì hai người nam nữ hứa hiến thân cho nhau suốt đời. Khi khấn dòng: con hứa với Chúa sống khó nghèo, vâng lời và khiết tịnh. Khi lãnh chức Linh mục: con có muốn tận hiến toàn thân cho Thiên Chúa vì phần rỗi mọi người không?

- Thưa con muốn.

Một sự dấn thân trọn vẹn: Chúng ta cùng nhau sống mãi tới già. Đó là một trong những điều cao cả của cuộc sống con người. Những kẻ ngại ngùng dấn thân trọn vẹn sẽ chỉ có một đời sống nghèo nàn

8. Gương can đảm.

Các vị Truyền giáo đã kể lại một nhân chứng đức tin như sau:

Ghèssèssén là một bé trai Éthiopie 12 tuổi, tính tình luôn vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Em thuộc một gia đình quí tộc lâu đời trong tỉnh Agamie. Ba em, thủ lãnh và khô khan. Ông không bao giờ chấp nhận kẻ khác bất tuân lời ông hoặc chống lại ông.

Lớn lên em được học ở trường Công giáo Gouala. Tâm hồn em đã bị đánh động bởi các nghi lễ, các lời giảng dạy của các vị Truyền giáo, nhất là gương sống đạo của các em Công giáo sáng nào cũng đi dự lễ, rước lễ. Em rất thích đạo Công giáo, ước ao được rước lễ. Nhưng cac Cha Thừa Sai chưa cho em nhập đạo, vì cần chờ ý kiến của ba má em.

Ngày nọ, em bị Ba gọi về. Em hứa với chúng tôi sẽ trở lại ngay ngày hôm sau. Nhưng em đã không xuất hiện lại mấy ngày nay. Chúng tôi đã nghĩ người ta đã dùng vũ lực để giữ em lại. Tệ hơn người ta bắt em từ chối ý muốn theo đạo. Và đây là câu chuyện mà em đã kể cho chúng tôi:

Con đến gặp Ba con, cùng đi với con có Mẹ con. Ông ôm hôn con, và con hôn đầu gối Ba theo như tập tục ở xứ con. Lúc ấy, ông nói với một giọng vuốt ve:

- Ta và Mẹ đã quyết định cưới vợ cho con, ta chỉ yêu cầu con một chữ: “Dạ."

Con đã trả lời:

- Không.

Cha con nói gằn giọng:

- Mày nói gì?

- Con nói “Không”, vì con muốn được học ở nơi các Cha Cố.

- Im đi! Ta muốn mày cưới vợ. Biết đâu mày còn muốn theo đạo Công giáo!

- Thưa cha, con đã là Công giáo trong tâm hồn rồi.

Nghe các lời này, ông nổi cơn tam bành, hét to:

- Đồ bị chúc dữ! Mày, con của Rèdada, lại muốn trở thành Công giáo! Ta thích mày chết đi còn hơn!

Ông nghiến răng, nắm tay đấm. Ông dữ tợn và hung hăng như một con sư tử. Dì con và các binh lính la to: “Phải phạt nó."

Mẹ con thì im lặng. Ba con lặp lại:

- Hãy bỏ tôn giáo đó đi! Nếu không, tao giết mày như một con vật.

- Con không thể bỏ đạo thánh được, thà chết còn hơn. Ba là Ba của thân xác con, nhưng chính Chúa là Cha của linh hồn con.

Thế là một trận đòn với biết bao lằn roi cây, roi da hà mã bủa lên thân xác con rất đau đớn do Ba con và các lính của ông đánh đập. Cuối cùng, đao phủ của con thấm mệt và dừng tay.

Ba con lại hỏi một lần nữa:

- Có bỏ đạo Công giáo không?

Con trả lời:

- Không, thà chết…

Trải qua mấy ngày liền, bị đánh đập, cho ăn thiếu thốn, trói buộc. Ba con vẫn giữ vững lập trường bắt con bỏ đạo. Ông hứa hẹn, dụ dỗ, đe dọa… Nhưng tất cả đều vô ích!

Ngày 7/9 vọng lễ Sinh nhật Đức Mẹ, cậu can đảm nói với Ba cậu:

- Cho con đến Gouala, nhà các Cha.

Vị thủ lãnh Rèdada không còn biết làm gì khác. Ông đồng ý. Trời còn chưa sáng, em đã hăm hở lên đường về lại Gouala.

Một niềm vui lớn lao cho em và cho chúng tôi. Chúng tôi băng bó các vết thương cho em. Em thành khẩn lặp lại ý muốn chịu phép Rửa tội và Rước lễ. Em nói:

- Các Cha còn sợ con trở thành kẻ chối đạo nữa sao? Xin đừng sợ! Con sẽ không phản bội Chúa Giêsu của con đâu! Vì Ngài, con sẵn sàng dâng cả mạng sống con.

9. Mối dây liên lạc với Thiên Chúa.

Một em bé chơi diều, thả con diều lên cao đến độ con diều trở nên như một chấm nhỏ khó có thể trông thấy được. Thấy tay em cầm đầu dây và mặt cứ ngước lên trời, một người qua đường hỏi em:

- Em đang làm gì vậy?

Em bé trả lời:

- Cháu đang chơi thả diều.

- Diều đâu, tôi không thấy gì ở trên trời cả.

Em bé thưa lại:

- Bác không trông thấy, nhưng cháu chắc chắn là con diều của cháu đang ở trên đó, vì cháu còn giữ được đầu dây trong tay cháu đây mà.

Thiên Chúa cũng thế, người ta không trông thấy Ngài, nhưng có thể cầm được những mối dây, để cảm được sự hiện diện và tình yêu thương của Ngài.

10. Anh em đừng sợ

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, khi những làn khói trắng tại thành Vatican Rôma bay lên, cả Rôma đổ xô về đền thờ thánh Phêrô và tất cả thế giới hướng về thủ đô của Giáo hội Công giáo. Vị Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo sau Mật Nghị Hồng y đã được bầu lên ngôi. Chuông của các Giáo đường ở Rôma vang rền chào đón một triều Giáo hoàng mới bắt đầu. Ít phút sau, tên của vị Giáo hoàng - Đức Karol Wojtyla với tước vị Gioan Phaolô II được xướng lên, vị Giáo hoàng đến từ sau bức màn sắt, đất nước Balan. Ngài đã bước ra ban công để chúc lành cho thế giới với trách nhiệm kế vị thánh Phêrô, một trong những lời mà Ngài đã ngỏ lời với thế giới: “Đừng sợ và tin vào Chúa Kitô."

Lời của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II xác định rõ tinh thần của Đức Kitô: “Anh em đừng sợ” (Mt 10,26) mà trước đó Đức Kitô nói đến viễn cảnh những người tin sẽ phải đối diện với sự bách hại và thử thách niềm tin (x. Mt 10,17-25). Hãy sống với niềm tin vào Thầy, vào Cha Thầy. Niềm tin biểu lộ bằng sự vượt qua sợ hãi, sợ hãi do những cơn bách hại, sợ hãi do từng cụ thể hoàn cảnh gây cho con người bối rối lo âu...

11. 365 từ đừng sợ

Trong đại hội giới trẻ thế giới tổ chức tại Panama vào tháng 1/2019, khi suy tư về những lời của Sứ Thần Gabriel nói với Đức Maria: “Đừng sợ!”, Đức Giáo Hoàng Phanxicô kêu gọi giới trẻ hãy nêu đích danh những nỗi sợ của các bạn. Ngài cho thấy có nhiều bạn trẻ đang vẫn tiếp tục chỉnh sửa (photoshop) hình ảnh của họ hoặc ẩn núp sau những căn tính giả tạo, trong một nỗ lực để làm cho phù hợp với những tiêu chuẩn giả tạo và không thể đạt tới được. Sự không chắc chắn của thị trường lao động, một cảm thức về sự thiếu thốn và thiếu sự an toàn về cảm xúc là những nỗi sợ đang tiêm nhiễm người trẻ.

Kinh Thánh cho ta thấy Abraham, Giacop, Môsê, Phêrô, các tông đồ và ngay cả Chúa Giêsu cũng đã kinh qua sự sợ hãi và nỗi khổ. Những người có chí khí, một khi đã chọn cho đời mình một lý tưởng để phụng sự, thì đương nhiên dám đánh đổi mọi sự, và chấp nhận mọi thứ. Đời sống thánh Phaolô đã minh chứng như thế. Ngài đã hùng hồn tuyên bố: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Như có lời chép: Chính vì Ngài mà mỗi ngày chúng con bị giết, bị coi như bầy cừu để sát sinh. Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8, 35-37).

Đức Phanxicô cho thấy, cụm từ “đừng sợ” được lặp lại 365 lần trong Kinh Thánh,“như thể nói cho chúng ta rằng, Chúa muốn giải thoát chúng ta khỏi sự sợ hãi mỗi ngày trong năm."

12. Sức mạnh của lòng nhân lành

Một nữ tài xế taxi sau đi đón một vị khách lên xe đã bị vị khách này kề dao vào cổ và đòi tiền. Thì ra đây là một tên cướp. Cô bình tĩnh lấy tất cả tiền ra đưa cho kẻ cướp và nói: “Đây là tất cả số tiền mà tôi kiếm được trong ngày hôm nay, nếu anh thấy ít quá thì có thể lấy thêm mấy đồng tiền lẻ trong túi tôi nữa."

Tên cướp có vẻ sững sờ bởi thái độ của nữ tài xế. Cô nói tiếp: “Anh sống ở đâu? Muộn rồi. Gia đình anh có thể lo lắng cho anh. Tôi sẽ đưa anh về nhà." Trước sự quan tâm của nữ tài xế, tên cướp đã thu dao lại.

Trên đường đi, cô trò chuyện với tên cướp: “Gia đình tôi từng sống một cuộc sống rất khó khăn, nên tôi học lái xe và trở thành tài xế taxi. Mặc dù tôi không kiếm được nhiều tiền, nhưng chúng tôi đã sống tốt hơn trước đây. Nhưng hãy nhìn anh xem! Một người đàn ông với cơ thể khỏe mạnh. Anh không thể làm gì để kiếm sống sao? Nếu anh tiếp tục đi con đường này, cuộc sống của anh sẽ bị hủy hoại!”

Khi đến nơi tên cướp muốn xuống, nữ tài xế nói với theo: “Nghe này, không phải là anh cướp của tôi, mà là tôi đưa tiền cho anh đấy. Hãy dùng số tiền đó để làm việc đúng đắn và đừng đi ăn cướp nữa."

Tên cướp im lặng suốt quãng đường đi đột nhiên nói lớn và trả lại tiền cho nữ tài xế: “Chị à, tôi hứa sẽ không lặp lại chuyện này một lần nữa, dù cho bất cứ chuyện gì xảy ra."

13. Nhận & chối--Anmai.

Một sĩ quan quân đội Nga đến gặp một vị mục sư Hungary và xin được nói chuyện riêng với ông. Viên sĩ quan là một chàng trai trẻ, tướng khí hung hãn và dương dương tự đắc trong tư thế của kẻ chiến thắng.

Khi cửa phòng khách đã được đóng lại rồi, viên sĩ quan chỉ cây thánh giá treo trên tường và nói với vị mục sư rằng: “Ông biết không, cái đó là sự dối trá do các mục sư bày đặt ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, để giúp những người giàu dễ dàng kềm hãm họ trong tình trạng ngu dốt. Bây giờ chỉ có tôi và ông, ông hãy thú nhận với tôi rằng: ông không hề bao giờ tin rằng Chúa Giêsu Kitô là con Thiên Chúa."

Vị mục sư cười và trả lời rằng: “Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật." “Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi”, viên sĩ quan hét lên. Anh ta rút ra một khẩu súng lục, chĩa vào vị mục sư và hăm doạ: “Nếu ông không nhận rằng đó chỉ là một sự dối trá, thì tôi sẽ nổ súng."

Vi mục sư điềm tĩnh trả lời: “Tôi không thể nói như thế, vì không đúng. Đức Giêsu thật sự là Con Thiên Chúa."

Viên sĩ quan vứt khẩu súng xuống sàn nhà và chạy đến ôm vị mục sư. Anh ta vừa khóc vừa nói: “Đúng thế, đúng thế. Tôi cũng tin như vậy, nhưng tôi đã không thể tin rằng có những người dám chết vì đức tin cho đến khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Bây giờ chính tôi cũng có thể chết cho Đức Kitô. Ngài đã chứng minh cho tôi rằng: Điều này có thể làm được."

“Các vị tử đạo nhắc nhở chúng ta rằng: chết vì niềm tin là hồng ân được trao ban cho thiểu số, nhưng sống niềm tin là ơn gọi của mọi tín hữu."

14. Sợ là mình dọa mình

Hãy tin vào sự quan phòng của Chúa và không còn sợ hãi

"Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ." (Mt. 10, 29-31)

* * *

Một người mù dò dẫm bước qua chiếc cầu khỉ dài bắc ngang một con sông rộng. Khi qua được nửa cầu, bất thần anh bị trượt chân và rơi xuống. May thay, anh quơ tay vớ được sàn cầu và cố sức bám chặt vào đó. Thế là người anh đong đưa, lắc lư giữa chừng. Anh cố rướn mình đu người lên nhưng không đủ sức.

Hai cánh tay gầy guộc không kham nổi sức nặng của toàn thân. Anh kinh hoàng tột độ! Sợ rằng lát nữa đây, khi đôi tay không còn sức níu, toàn thân anh sẽ rơi bịch xuống và dòng nước ác nghiệt sẽ kết liễu đời anh.

Đang khi còn treo mình lơ lửng như thế, anh hình dung ra biết bao nhiêu điều khủng khiếp sẽ xảy đến với mình trong chừng mươi phút nữa. Có thể anh sẽ rơi xuống ngay những mõm đá lởm chởm giữa dòng sông và tan xương nát thịt. Rồi sau đó, thân xác anh sẽ bị cuốn theo dòng nước hung tợn và sẽ làm mồi cho tôm cá; người thân sẽ mất công tìm kiếm mà chẳng thấy xác anh đâu... Anh toát mồ hôi lạnh. Anh gào anh khóc thảm thiết, gào thật to để may ra có người nghe thấy và đến cứu mình.

Một số người đi qua thấy vậy bảo rằng: "Đừng sợ! Vì đây là mùa khô và nước sông chỉ cao chừng nửa mét. Buông tay ra đi! Không hề hấn gì đâu! Chân anh chỉ cách mặt nước có một thước thôi mà."

Nhưng anh không tin. Làm sao tin được người lạ! Biết đâu người ta lừa dối anh. Anh vẫn tiếp tục kêu gào, tiếp tục van xin người qua kẻ lại kéo anh lên.

Cuối cùng kiệt sức, anh buông mình xuống trong tuyệt vọng.

Quá bất ngờ, anh rơi xuống dòng nước hiền hoà chỉ cao ngang đầu gối, cách chỗ anh đu đưa chừng hơn một mét. Anh cười lên khanh khách như một gã điên khùng! Cười sung sướng vì tưởng đã chết mà vẫn còn được sống và nhất là cười cho sự khờ khạo, ngu xuẩn của mình.

Như người mù trên đây, cuộc đời chúng ta bị bao trùm bởi vô vàn nỗi sợ do chính mình tạo nên.

15. Nỗi sợ bom còn giết nhiều người hơn cả chính trái bom.

Ngày 30 tháng 8 năm 2005, ngay tại thủ đô Baghdad, giữa lúc có cả triệu người Hồi giáo I-rắc thuộc hệ phái Shiite trên đường hành hương, đang chen chúc nhau băng qua cây cầu Al A'ema bắc qua sông Tigris để tiến về ngôi đền Al-Kadhimiya, bỗng có ai đó la hoảng lên rằng: "có người sắp đánh bom tự sát!"

Thế là cả triệu người hành hương hoảng loạn xô lấn chà đạp nhau nhằm thoát ra khỏi cây cầu, khiến thành cầu gảy đổ làm cho rất nhiều người rơi xuống sông hàng loạt và chết đuối chồng chất trong dòng nước lạnh ngắt; một số khác bị chết ngạt do đám đông đè lên. Con số tử vong lên đến cả 1,000 người. Một tổn thất nhân mạng lớn lao khủng khiếp chỉ vì nỗi sợ bom! Nỗi sợ bom đã sát hại nhiều nhân mạng hơn cả những trái bom có sức công phá lớn nhất!

16. Không biết sợ là tâm tình của Chúa Kitô

Sử gia Tertullianô đã viết: “Những người tin theo Chúa Kitô được mệnh danh là Kitô hữu. Kitô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Kitô, nên họ đã và phải có một tâm tình như Chúa Kitô. Họ không sợ chết. Họ không sợ hình khổ. Họ không sợ bách hại, bởi vì họ đã đi cùng một đường với Chúa Kitô. Lời Chúa nói: “Ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo Thầy”đã thấm nhập vào tâm hồn các Kitô hữu, nên mỗi khi phải đau khổ cũng như bị bách hãi, cấm cách, lời nói đó lại văng vẳng bên tai như chính Chúa Kitô hiện diện nói với họ. Vì thế, trên pháp trường, họ coi gươm giáo nhẹ như lông hồng, coi lý hình như bạn hữu. Họ chỉ sợ một Thiên Chúa, Đấng sẽ phán xét họ, nếu họ đi trệch đường, nếu họ chối bỏ Chúa. Họ đã hưởng ứng Lời Chúa: “Anh em đừng sợ kẻ chỉ giết chết thân xác, nhưng phải sợ Đấng có quyền giết chết cả xác lẫn hồn."

17. Ai sợ thì bị tê liệt

Vào một ngày đầu tháng Bảy, một nông dân ngồi trên chiếc ghế đu đưa trước hiên nhà, tay cầu tẩu thuốc hút có vẻ nhàn hạ. Một người khách lạ qua đường hỏi thăm:

- Ruộng trồng bông gòn của ông có khá không?

Nông dân trả lời:

- Tôi không có trồng bông gòn vì sợ có nhiều cỏ dại.

Người kia hỏi tiếp:

- Vậy thì vườn bắp của ông ra sao?

- Tôi không trồng bắp vì sợ hạn hán.

- Vậy ông có trồng khoai tây không?

- Không có, vì sợ sâu đất.

Người khách lạ mở to đôi mắt ngạc nhiên hỏi:

- Vậy thì ông trồng cái quái gì?

- Hổng trồng gì ráo trọi để khỏi sợ gì hết.

18. Người chủ chăn can đảm

Oscar Romero đã trở nên mẫu gương can đảm cho thời đại hôm nay khi không khiếp sợ khuất phục trước kẻ thù của Tin Mừng.

Khi mới được chọn làm Tổng Giám mục San Salvado năm 1977, Đức Cha Oscar là con người bảo thủ và trầm lặng. Nhưng ngài đã đổi thái độ khi chứng kiến những gì đang sảy ra trên quê hương đất nước. Các bài giảng của ngài đã vạch trần tội ác của chính quyền đương nhiệm và làm chấn động các thành phần liên hệ. Mặc dù tính mạng bị đe doạ thường xuyên, cũng như tận mắt nhìn thấy các thân hữu bị sát hại, ngài vẫn không khiếp sợ. Đức Cha khẳng định: "Khi gặp hiểm nguy người chủ chăn không thể nào trốn chạy hay rời bỏ đàn chiên để bảo đảm an toàn cá nhân. Thế nên, tôi cũng sẽ ở với đàn chiên của tôi cho đến cùng."

Hậu quả là ngài bị kẻ thù bắn chết lúc đang dâng Thánh lễ vào một sáng tháng Ba năm 1980.

Những kẻ sát hại Đức Cha tưởng bịt được miệng chân lý, nhưng càng bịt họ càng rơi vào tình trạng sợ hãi và thất bại. Riêng Đức Cha Oscar, mặc dầu thân xác bị ngã xuống vì hận thù, gian ác và bất công, nhưng linh hồn ngài vẫn tồn tại trong Thiên Chúa đến muôn đời.

19. Chờ đợi gì nơi cuộc sống?

Vào tuần thánh năm 1980, một đài phát thanh nước Áo truyền đi một bài phỏng vấn vô cùng cảm động. Người được phỏng vấn là một nữ sinh viên đang nằm chờ cái chết đến từng ngày tại một bệnh viện ở thủ đô Áo. Cô phát biểu cảm nghĩ của mình như sau:

- Sau khi bác sĩ chuẩn đoán và cho biết tôi mắc chứng sưng bạch huyết, tôi có cảm tưởng như trời sập xuống trên tôi. Tuy nhiên, với đức tin tôi có cảm thấy như Chúa muốn gửi đến cho tôi một cơ may mới. Từ hai ba năm nay tôi đã bắt đầu có một cái nhìn mới. Tôi nhận ra đau khổ của riêng tôi cũng như của những người chung quanh phản ảnh chính nỗi đau khổ của Chúa Giêsu chịu đóng đinh và bị bỏ rơi trên thập giá. Tôi đã tìm cách yêu thích nỗi đau khổ ấy.

Chính vì muốn chấp nhận đau khổ mà cô gái đã ghi danh vào trường y khoa. Nằm trên giường bệnh, biết mình không còn sống bao lâu nữa, vậy mà cô vẫn cầm trên tay một cuốn sách và một cây viết. Cô giải thích:

- Không ai có thể nói cho tôi biết chắc một trăm phần trăm là tôi sẽ không học xong hoặc tôi sẽ không bao giờ trở thành bác sĩ. Tuy nhiên, vẫn luôn có những phép lạ. Và riêng tôi, tôi xác tín rằng tôi phải thực thi ý Chúa, nếu tôi muốn tiến tới. Đó là cách thế tôi chuẩn bị đón nhận cái chết, chuẩn bị đi vào thiên đàng. Tôi để Chúa làm việc hầu cho tất cả mọi việc trở thành tình yêu. Tất cả mọi sự, từ việc học hành của tôi cho đến những việc nhỏ mọn tôi làm cho người khác. Bởi vì tôi không làm được những việc quan trọng nữa.

Không khỏi ngạc nhiên trước những lời phát biểu trên đây, người phóng viên liền hỏi:

- Tôi đọc thấy trên gương mặt của cô niềm vui và hy vọng, thế nhưng cô còn chờ đợi gì nơi cuộc sống này?

Cô mỉm cười nói:

- Tôi chờ đợi mọi sự từ cuộc sống. Nhưng trên hết mọi sự là tình yêu của Chúa. Chính Ngài cho tôi nếm thử thiên đàng. Chỉ có như thế tôi mới đương đầu được với những đau khổ đang đè nặng trên tôi.

20. Cần biết sợ Chúa

Tuyến đường xe lửa vừa mới được hoàn thành. Sáng hôm ấy, chú bé con bác nông phu trong ấp lấy làm lạ vì thấy một chiếc xe hơi ngừng lại trước cửa nhà mình. Ông giám đốc sở hỏa xa bước xuống và bắt đầu xem xét cây cầu mới bắc. Chú bé tò mò đi theo. Một lúc sau, ông giám đốc quay lại và hỏi:

- Này em, em có biết tôi là ai không?

Chú bé trả lời:

- Chắc chắn ông là người của sở hỏa xa.

Ông giám đốc hỏi tiếp:

- Vậy em có biết tôi đang cần gì hay không?

Chú bé ngây thơ nói:

- Thưa ông, cháu nghĩ rằng ông cần phải xin Chúa tha tội, vì ông đã vi phạm ngày Chúa nhật, ngày của Chúa hôm nay.

Sững sờ nhìn chú bé, ông giám đốc bèn hỏi:

- Ai bảo em nói thế?

Chú bé thành thật trả lời:

- Chẳng ai bảo cháu cả. Cháu mới chợt nghĩ ra mà thôi.

Ông giám đốc ôn tồn nói:

- Cám ơn cháu đã nhắc cho tôi nhớ lại bổn phận của tôi đối với Chúa.

21. Sợ miệng đời

Tại một trường học ở Nagasaky bên Nhật, có tất cả 150 học sinh nội trú, thế nhưng chỉ có một em là công giáo. Trước và sau mỗi bữa ăn, em đều chắp tay cầu nguyện. Những em khác thấy thế liền chế diễu và mách với thày hiệu trưởng. Ngày kia, thày hiệu trưởng kêu em lên văn phòng và hỏi:

- Tại sao em làm như vậy? Em không sợ chúng bạn cười chê hay sao?

Em trả lời:

- Thưa thày, em là người Kitô hữu, em phải cầu nguyện với Chúa luôn. Em không được vô phép lãnh nhận thực phẩm Chúa ban mà không kêu cầu và cảm tạ Ngài.

Nghe lời ấy, thày hiệu trưởng bèn úp mặt xuống lòng bàn tay và khóc lên một cách hổ thẹn:

- Trời ơi, thày đây cũng là người tin Chúa, nhưng thày lại chẳng dám tỏ ra cho ai biết. Từ đây sắp tới, nhờ ơn Chúa, thày sẽ cố gắng làm tròn bổn phận của một người Kitô hữu.

22. Đừng sợ

Cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu ở Sarajevo, Yugloslavia Nam Tư, đã để lại hàng trăm trẻ em với những rối loạn nghiêm trọng về tình cảm. Vào thập niên 1990 những y tá quân y Hoa Kỳ phục vụ tại Sarajevo đã báo cáo rằng các bệnh viện tràn ngập trẻ em cần phải được săn sóc về cả thể lý lẫn tinh thần. Trong một bệnh viện, vấn đề khó khăn hằng đêm là làm sao giúp các trẻ em ngủ yên giấc. Ngay khi bóng đêm vừa phủ xuống, các em bắt đầu khóc. Các y tá không thể tìm ra một phương thức nào an ủi được các em. Sau cùng, một người y tá đã đề nghị rằng nỗi sợ hãi của các em có thể liên hệ tới sự thiếu an ninh. Họ đã đưa ra một sáng kiến rất độc đáo là cho mỗi em một miếng bánh mì để giữ vào ban đêm. Bởi các em đã từng trải qua những cơn sợ hãi vì chết đói, miếng bánh mì tạo ra sự bảo đảm đối với các em. Đêm hôm đó, tất cả các em đã ngủ ngon lành, trong tay mỗi em nắm chặt miếng bánh mì của mình.

Sau trận tấn công của quân đội Nhật ở Trân Châu Cảng – Pearl Harbor – vào năm 1941, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã cảnh giác như sau: “Chúng ta không có gì để sợ ngoại trừ chính sự sợ hãi." Tổng thống đã ngụ ý rằng kẻ thù xấu xa nhất của Hoa Kỳ trong cuộc đệ nhị thế chiến không phải là người Nhật, nhưng chính là sự sợ hãi.

23. Có Chúa

Thánh nữ Têrêsa Avila là một nhà thần học nổi tiếng, một vị cải cách của dòng Carmêlô, và là vị cố vấn tinh thần cho nhà thần bí vĩ đại người Tây Ban Nha thời Trung cổ, thánh Gioan Thánh giá. Nhưng công việc mục vụ của thánh nữ Têrêsa đã không được đón nhận trọn vẹn trong cộng đoàn thánh nữ yêu mến. Những nữ tu trong dòng đã chểnh mảng sống đức tin và thực hành đời sống tu đức. Do đó thánh nữ đã kêu gọi một cuộc cải cách. Và để đáp lại lời kêu gọi đó, họ đã tìm cơ hội để trục xuất thánh nữ ra khỏi tu viện mà chính thánh nữ đã thành lập.

Cơ hội đã đến, vào một đêm giông bão, thánh nữ đã bị đuổi ra khỏi tu viện. Đang khi cưỡi xe lừa ra đi với bộ áo dòng chùm kín mít từ đầu tới chân, thì hai chiếc bánh xe bị chui xuống đường mương, rồi cả chiếc xe bị lật úp, đổ thánh nữ xuống vũng bùn. Têrêsa đã ngồi yên ở đó, trong vũng bùn, nhìn lên bầu trời và cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu đây là cách Ngài đối xử với bạn bè của Ngài, thảo nào Ngài không có nhiều bạn được."

Mặc dù chán nản, Têrêsa vẫn tin tưởng vào Thiên Chúa. Thánh nữ đã viết: “Thiên Chúa dùng ma quỉ như một cục đá nhọn đâm vào những người Kitô hữu." Têrêsa đã không chỉ dạy bài học này, mà chính bản thân thánh nữ đã sống. Thánh nữ đã không đầu hàng, ngay cả khi bị những nữ tu vây cánh với các linh mục và giám mục để gây khó khăn. Thánh nữ vẫn giữ vững đường ngay nẻo chính. Và sau cùng, thánh nữ đã chiến thắng bằng sự trung thành với Thiên Chúa. Và ngày nay, một nữ tu đã từng bị tống cổ ra khỏi tu viện đã trở thành thánh Tiến sĩ của Giáo Hội, một bậc thầy và tư tưởng gia mẫu mực, trong khi những nữ tu đã cư xử tệ bạc với thánh nữ đã chết từ lâu rồi mà vẫn chưa được ai biết đến.

24. Đức Gioan XXIII tín thác

Khi còn là một linh mục trẻ làm việc ở Bergamo, nước Ý, Angelo Roncalli – sau trở thành Giáo Hoàng lấy tên là Gioan XXIII – đã viết những dòng chữ về lòng tin tưởng và phó thác rất khiêm tốn của ngài như sau:

“Tôi sẽ cố gắng không để cảm giác lo âu về tương lai hay những ý kiến của bất cứ người nào, ngay cả vì lòng tốt của họ, dù có suy nghĩ và có nền tảng chắc chắn ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi. Tôi đã sinh ra trong sự nghèo nàn và tôi sẽ phải chết nghèo. Chắc chắn rằng vào đúng lúc Thiên Chúa quan phòng, cũng như trong quá khứ, sẽ lo liệu điều cần thiết cho tôi còn hơn điều tôi đã mong đợi. Điều rất xấu cho tôi nếu tôi trở nên dính bén với của cải thế gian, ngay cả trong cấp độ nhẹ nhất. Đối với những giấc mơ dị thường mà trong đó lòng kiêu hãnh của tôi có thể được vui thỏa bằng những tư tưởng đáng kính, những địa vị, v.v… tôi sẽ rất cẩn thận không để thỏa mãn chúng, nhưng phải khước từ ngay lập tức. Chúng làm cho tâm trí an bình của một người trở nên buồn thảm, làm hao tổn nghị lực và lấy đi tất cả nguồn vui thực sự, cùng những giá trị và phẩm giá của một người tốt có thể làm ra. Đối với tôi, tôi chỉ nghĩ đến điều duy nhất rất khiêm tốn, rất mực khiêm tốn, là từ bỏ mọi sự cho Thiên Chúa."

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã sống rất khiêm tốn và phó thác tất cả mọi sự trong bàn tay của Thiên Chúa quan phòng, là tấm gương sáng phản ảnh lời Chúa giảng dạy trong bài Phúc âm hôm nay: “Nào người ta không bán hai chim sẻ với một đồng tiền đó sao? Thế mà không con nào rơi xuống đất mà Cha các con không biết đến. Phần các con, tóc trên đầu các con đã được đếm cả rồi. Vậy các con đừng sợ: các con còn đáng giá hơn chim sẻ bội phần."

25. Tất cả là hồng ân

Ngày kia, thánh Vianney tới thăm một em nhỏ nằm liệt trên giường bệnh, không còn cơ may được cứu sống. Cha hỏi em:

- Con có đau lắm không?

Em trả lời:

- Thưa cha, không ạ. Bởi vì cơn đau hôm qua, thì hôm nay con không còn cảm thấy nữa. Còn cơn đau hôm nay, thì ngày mai con cũng sẽ chẳng cảm thấy gì.

- Thế con có muốn được khỏi bệnh hay không?

- Thưa cha, không. Bởi vì trước kia con bị đau dữ lắm. Sợ rằng khỏi bệnh, con sẽ bị đau dữ hơn. Cứ thế này cũng được.

Và cha Vianney đã nhận xét:

- Chúng ta phải lấy làm xấu hổ khi so sánh mình với em nhỏ đầy lòng tin tưởng vào Chúa quan phòng. Hãy yêu mến thánh giá, vì đó là ơn lành Chúa ban cho những người bạn hữu nghĩa thiết, dưới ánh sáng đức tin, thì mọi sự đều là hồng ân của Chúa.

26. Ai mạnh hơn?

Có một cậu bé được cha mẹ gửi học trong một trường nội trú. Ngay buổi tối đầu tiên, trước khi lên giường đi ngủ, cậu bé đã quì gối xuống và cầu nguyện. Thế là một chiếc giày bay vèo qua đầu cậu bé và tiếp theo là những tiếng cười giễu cợt.

Tối hôm sau, cậu bé cũng lại quì gối và cầu nguyện. Những em khác trong phòng thì chờ đợi để chế nhạo. Thế nhưng khi nhìn thấy dáng bộ trang nghiêm và sốt sắng của cậu bé., các em khác tỏ vẻ dè dặt, rồi im lặng và thán phục. Sau cùng, những em khác cũng đã bắt chước, quì gối và cầu nguyện trước khi đi ngủ.

Câu chuyện trên làm cho chúng ta nhớ tới lời nói của Chúa Giêsu trong đoạn Tin Mừng hôm nay:

- Các con đừng sợ.

27. Tình yêu không sợ hãi

Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô gái phong cùi và chìa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến thiếu nữ bở ngỡ, và cô không dám đưa tay ra đáp lễ.

Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc trại phong bèn giải thích:

- Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân bắt tay khách, vì nhiều người sợ lây bệnh.

- Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt tay khách, chứ đâu cấm khách hôn bệnh nhân?

Vừa nói xong, ông Raoul liền tiến đến ôm hôn người cùi. Mọi người sững sờ trước cử chỉ đầy yêu thương và thân thiện ấy. Phút chốc, cả đám người cùi nhào đến ôm lấy ông. Và một giọng nói ngẹn ngào thốt lên:

- Hôm nay chúng tôi cảm thấy mình thực sự là con người.

Thánh Gioan viết: “Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi."

28. Cái sợ đem lại bình an

Thánh tử đạo Lwanga là một nhân vật có nhiều uy tín tại triều đình Uganda và chịu nhiều ảnh hưởng từ Joseph Mukasa, vị tổng quản đứng đầu đội thị vệ của nhà vua. Khi nhà vua giết hại một nhà truyền giáo, Mukasa không ngần ngại trách cứ nhà vua, và đã đem cả sinh mạng ra trả giá cho lời nói đó: Ngày 15.10.1885 quan Joseph Mukasa chịu xử trảm, rồi bị thiêu cháy. Tuy được chỉ định thay thế Mukasa đứng đầu đội thị vệ, nhưng cái chết dũng cảm của Mukasa vẫn rực sáng trong lòng Lwanga.

Một đứa trẻ được triệu đến hoàng cung cho nhà vua thoả mãn tật ấu dâm của ông. Không thấy đứa trẻ đến, nhà vua phát hiện ra một thị vệ đã dạy giáo lý Công giáo cho đứa trẻ đó. Lên cơn cuồng nộ, nhà vua ra lệnh xử trảm người dạy giáo lý, và ra lệnh mọi Kitô hữu trong hoàng cung phải bị điệu ra toà chịu xét xử. Nhà vua tuyên bố: “Ai không cầu nguyện, hãy đứng bên ta, còn những ai cầu nguyện, thì đứng ra đàng kia.” Nghe thế, Lwanga tụ họp các Kitô hữu lại để cầu nguyện cho mọi người được thêm mạnh tin, và khi nhà vua hỏi có ai dám chịu chết vì đức tin không thì tất cả hiên ngang bước ra tuyên xưng tình yêu đối với Đức Kitô. Thấy thế, cả một thị vệ đứng bên vua cũng bước ra xin đứng cùng hàng với họ!

Tất cả đều bị hành hạ dã man cho đến chết, trong đó có một số bị thiêu sống. Các lý hình hết sức bỡ ngỡ khi Lwanga bước ra giúp họ chất củi lên giàn thiêu sắp thiêu sống ngài. Khi thánh Lwanga sắp tắt thở, người ta nghe ngài kêu lên: “Katonda!” (Lạy Thiên Chúa của con!).

29. Sao con lại khóc?

Thánh nữ Anê Lê Thị Thành, quê quán ở Phát Diệm, là mẹ của sáu người con. Bà bị bắt vì tội chứa chấp các linh mục. Trước mặt quan quân, dù là một phụ nữ yếu đuối, cũng khẳng khái tuyên xưng: “Thà chết chứ không phản bội tình yêu Chúa Kitô.”

Chị Lucia Nụ, con gái út của bà Anê vào thăm mẹ trong tù, đã khóc lóc thảm thiết khi nhìn thấy mẹ thân mình tả tơi đẫm máu. Lúc ấy, bà Anê đã nói với con gái: “Sao con lại khóc? Sao con không để mẹ chọn tình yêu Chúa Kitô và sớm về hưởng hạnh phúc thiên đàng?”

Đó cũng chính là điều chúng ta tự vấn hôm nay:

Tại sao chúng ta lo âu sợ hãi khi biết rằng Chúa vẫn hằng nâng đỡ, dìu dắt và ban sức mạnh cho chúng ta?

Tại sao chúng ta không dám hy sinh, không dám đón nhận thập giá, khi biết rằng Chúa vẫn ở bên cạnh chúng ta, đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường đời?

Chớ gì với đức tin, đức cậy, đức mến, dù trải qua gian nan thử thách, chúng ta vẫn nghe lời Chúa thì thầm bên tai: “Thầy đây, đừng sợ!”

30. Chúa ở với tôi

Bác sĩ Sheila Cassidy đến Chilê đã thực hiện sứ mạng giữa những người nghèo nhất. Một ngày nọ, bà chữa bệnh cho một thủ lãnh của phe đối lập. Biết được điều này, công an mật bắt bà và tra tấn. Bà đã viết trong cuốn “Niềm tin táo bạo” những dòng như sau: “Sau bốn ngày tra tấn thể xác… tôi được để lại một mình trong một căn phòng nhỏ. Không thể nào tin được… Tôi rất đỗi vui mừng vì biết rằng Thiên Chúa ở với tôi, và rằng họ không thể làm gì được tôi cũng như chẳng làm tôi thay đổi được điều đó.” Giờ đây Sheila đã hiểu được Lời Chúa: “Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn.”

Trong cuộc sống, tôi sợ cái gì nhất? Tôi đã nói sao với Chúa về điều đó?

Lạy Chúa, con không nài xin để không bao giờ phải đau khổ. Nhưng con chỉ muốn Chúa không hề bỏ rơi con trong đau khổ (Thánh Bernadette Soubirous).

CNTN 12B - Gió lẫn biển đều vâng lệnh Người

Lời Chúa: Mc 4, 35-41

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Ngày ấy, khi chiều đến, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Chúng ta hãy sang bên kia biển hồ.”

Các ông giải tán đám đông; vì Người đang ở dưới thuyền, nên các ông chở Người đi. Cũng có nhiều thuyền khác theo Người.

Chợt có một cơn bão lớn và những lớp sóng ùa vào thuyền đến nỗi sắp đầy nước. Và Người thì ở đàng lái dựa gối mà ngủ. Các ông đánh thức Người và nói: "Thưa Thầy, chúng con chết mất mà Thầy không quan tâm đến sao?" Chỗi dậy, Người đe gió và phán với biển rằng: "Hãy im đi, hãy lặng đi.” Tức thì gió ngừng biển lặng như tờ. Rồi Người nói với các ông: "Sao các con sợ hãi thế? Các con không có đức tin ư?"

Bấy giờ các ông kinh hãi và nói với nhau rằng: "Người là ai mà cả gió lẫn biển cũng đều vâng lệnh Người?"

TRUYỆN KỂ

1. Thiên Chúa hiện diện--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Buổi chiều ngày 27-3-2020, khi đại dịch Covid-19 đang lên đến đỉnh điểm tại châu Âu và châu Mỹ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự một buổi cầu nguyện chưa từng có trong lịch sử. Tại quảng trường thánh Phêrô, trong thời tiết mưa và lạnh của Rôma, chỉ mình Đức Thánh Cha với mấy người phụ tá hiện diện. Đức Thánh Cha đã cùng với cả thế giới Công giáo cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt. Một buổi cầu nguyện đầy cảm xúc. Trong giờ cầu nguyện này, Bài Tin mừng theo Thánh Máccô được đọc lên để diễn tả bối cảnh thế giới. Đức Giêsu ở trên thuyền với các môn đệ. Bão ập đến. Chúa đang ngủ. Các môn đệ kinh hãi kêu với Chúa: chúng con chết mất! Chúa Giêsu đã dẹp yên bão tố bằng một lời ra lệnh. Biển trở lại an bình. Diễn giải Lời Chúa, Đức Thánh Cha trấn an chúng ta: Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện với nhân loại đang gánh chịu đại hoạ do dịch bệnh. Như Người ở trên cùng một chiếc thuyền với các môn đệ, nay Chúa cũng đang hiện diện giữa chúng ta. Sau khi truyền lệnh cho sóng gió và biển yên lặng, Chúa quở trách các môn đệ: “Sao nhát thế! Anh em vẫn chưa có lòng tin sao?” Từ bài Tin Mừng, Đức Thánh Cha mời gọi thế giới hãy tin tưởng vào Chúa, hãy liên đới với nhau trong lúc hoạn nạn và chắc chắc Chúa sẽ giải cứu chúng ta.

Trong truyền thống của một số nền văn hoá cổ xưa, biển là quyền lực của sự dữ. Biển cũng như một quái vật, nuốt chửng vào lòng những nạn nhân bị đắm tàu thuyền hay đuối nước. Qua mạc khải của Thánh Kinh, Thiên Chúa quyền năng thống trị biển. Ngài ra lệnh cho chúng và chúng phải vâng phục.

Thiên Chúa có hiện hữu không? Nếu có, tại sao Ngài dửng dưng với nỗi thống khổ của con người? Đó là câu hỏi nhiều người thường đặt ra, khi đối diện với đau khổ thử thách trong cuộc đời. Không dễ đưa ra một câu trả lời cho câu hỏi trên. Đau khổ là một thực tại gắn liền với cuộc sống con người. Dù cao sang giàu có đến mấy, con người ta không tránh khỏi đau khổ. Nếu thoát khỏi đau khổ do thiếu thốn vật chất, thì lại vướng vào đau khổ về tinh thần. Lời Chúa hôm nay khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa luôn hiện diện giữa con người và Ngài sẽ ra tay cứu giúp họ vào lúc Ngài muốn.

Có những lúc chúng ta cảm thấy như Chúa vắng bóng trong cuộc đời, giống như các môn đệ kêu van với Chúa: “Thày ơi, chúng ta chết mất, Thầy chẳng lo gì sao?” Khi kêu lên những lời đó, các ông nghĩ rằng Chúa đang ngủ và bỏ rơi các ông. Tuy vậy, vào lúc các ông đang gặp gian nguy, Chúa đã can thiệp. Biển trở lại an bình, và niềm vui cũng trở lai với mọi người.

CNTN 12C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ HAI - Phương thế tốt để tự biết mình

Lời Chúa: Mt 7, 1-5

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thể nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy.

Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy.

Sao ngươi thấy cái rác trong mắt anh em, mà không thấy cái đà trong mắt ngươi? Hoặc sao ngươi bảo anh em: “Để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt anh”, và này: cái đà đang ở trong mắt ngươi. Đồ giả hình, hãy lấy cái đà khỏi mắt ngươi trước đã, rồi ngươi sẽ thấy rõ để lấy cái rác ra khỏi mắt anh em ngươi."

TRUYỆN KỂ

1. Khôn ngoan khi sửa lỗi

Ở một đền thờ Hy lạp, ngay lối cổng vào, có khắc câu: “Hãy tự biết mình." Tại sao lại có câu nói đó? Thưa, bởi vì biết mình là một điều khó, nhưng nếu khó mà không làm được thì làm sao biết được người khác? Không biết mình thì không thể tồn tại theo hướng tích cực, mà nếu có tồn tại thì cũng trở thành trò cười cho thiên hạ, bởi vì nhiều khi: “Ngôn hành bất tất."

Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng lối nói ngoa ngữ để cho thấy tác hại của việc kiêu ngạo, háo danh nên không biết mình. Vì không biết, nên đâu thấy nơi mình có khuyết điểm, lỗi lầm trầm trọng, vì thế mới thích “lên mặt dạy đời."

2. Cái đà trong mắt mình

Đang đi dạo, tôi ngạc nhiên nhìn thấy một người ngồi trên ghế cuốc vườn. Tôi nghĩ: “Quá lười biếng!" Nhưng đột nhiên tôi thấy đôi nạng dựa ở ghế của anh. Anh làm việc dù bị tật nguyền.

Bài học tôi học được về sự phán đoán nông nổi vẫn khắc ghi trong tôi cho đến hôm nay: Thánh giá của người khác đôi khi là do cái nhìn hạn hẹp của ta.

Chúa Giêsu phán: “…đừng đoán xét để khỏi bị đoán xét. Các con đoán xét thế nào thì các con cũng bị đoán xét như vậy. Các con dùng đấu nào mà đong, thì cũng sẽ đong lại cho các con bằng đấu ấy” (Mt 7,1-2). Như thế, khi phải phán xét, chúng ta xét đoán trong bao dung thương mến như Ngài. Vì chúng ta sẽ “được” hay “bị” Thiên Chúa xét xử, đều do chính cách xét đoán của chúng ta đối với người khác: Quảng đại vị tha hay hẹp hòi ích kỷ, khoan dung độ lượng hay “bới lông tìm vết”, “chẻ sợi tóc làm tư” khi xét đoán người khác.

3. Biểu diễn trồng táo

Tại một xứ Hồi giáo, có một người đàn ông bị vua ra lệnh treo cổ, vì đã ăn trộm thức ăn của người khác. Như thường lệ, trước khi bị xử, tội nhân được nhà vua cho phép xin một ân huệ. Kẻ tử tội bèn xin nhà vua:

- Tâu bệ hạ, xin cho thần được trồng một cây táo. Chỉ trong một đêm thôi, hạt giống sẽ nảy mầm, mọc thành cây và có trái ăn tức khắc. Đây là một bí quyết mà cha thần đã truyền lại cho thần. Thần tiếc là khi thần chết đi rồi, bí quyết này sẽ không được truyền lại cho hậu thế.

Nhà vua truyền chuẩn bị mọi sự để sáng hôm sau tử tội sẽ biểu diễn trồng táo. Đến giờ hẹn, trước mặt vua và các quan văn võ, tên trộm đào một cái lỗ nhỏ và nói:

- Chỉ có người nào chưa hề ăn trộm của người khác mới trồng được hạt giống này. Vì tôi đã lỡ ăn trộm nên không thể trồng được.

Nhà vua vẫn chiều lòng tên ăn trộm, nên quay sang nhìn tể tướng. Sau một lúc do dự, vị tể tướng thưa:

- Tâu bệ hạ, thần nhớ lúc còn niên thiếu, thần cũng đã có lần lấy của người khác. Thần nhận thấy không đủ điều kiện để trồng hạt táo này.

Nhà vua đưa mắt nhìn quanh các quan văn võ đang có mặt. Ông nghĩ may ra quan thủ kho trong triều là người nổi tiếng trong sạch có thể đủ điều kiện. Nhưng quan thủ kho cũng lắc đầu từ chối và tuyên bố với mọi người rằng ông cũng đã có lần gian tham trong chuyện tiền bạc.

Không tìm được ai, nhà vua mới định cầm hạt táo đến bỏ vào lỗ. Nhưng ông cũng chợt nhớ ra lúc con nhỏ ông đã có lần đánh cắp báu vật của vua cha.

Bấy giờ người tử tội mới chua xót lên tiếng:

- Tâu bệ hạ, các ngài là những người quyền thế cao trọng, không thiếu thốn gì. Vậy mà các ngài không thể trồng được hạt táo này, chỉ vì các ngài cũng đã có lần lấy của người khác. Còn hạ thần, một con người khốn khổ, chỉ vì lỡ lấy thức ăn của người khác cho đỡ đói, thế mà các ngài đã kết án treo cổ hạ thần.

Nghe thế, nhà vua và cả triều thần như xốn xang trong lương tâm. Ông bèn ra lệnh phóng thích người ăn trộm.

4. Cái gương của satan

Một hôm satan thích chí vô cùng vì đã phát minh ra được một cái gương vô cùng kỳ diệu: Bất cứ điều gì trong gương ấy cũng bị đảo lộn. Khuôn mặt kiều diễm nhất nhìn vào tấm gương cũng xấu xí, ghê rợn. Satan nghĩ có thể đưa tấm gương lên thiên đàng để chia rẽ Thiên Chúa và các thiên thần.

Satan liền đội tấm gương lên đầu và bay thẳng lên trời. Dọc đường hắn nhìn vào tấm gương và càng thích thú khi thấy gương mặt xấu xí của hắn nay càng xấu xí hơn. Nhưng càng bay tới thiên đàng thì hắn càng thấy gương mặt hắn xấu thê thảm. Cứ thế chưa tới cửa thiên đàng thì hắn không chịu vẻ thô bạo xấu xí của hắn nữa. Tay hắn run lẩy bẩy và đánh rơi tấm gương xuống trần gian. Tấm gương vỡ tan từng mảnh và lan tràn khắp trên mặt đất. Đó là khởi đầu đại họa cho con người: từng hạt cát nhỏ bám vào mắt ai thì nằm mãi ở đó, và người đó chỉ thấy cái xấu trên thế gian này thôi.

Câu chuyện trên muốn nói rằng: nhìn thấy cái xấu nơi người khác không phải là điều tự nhiên của con người, đó là một cái nhìn của quỷ.

Nơi mỗi người vẻ đẹp của Thiên Chúa vẫn còn chiếu sáng. Chính cái nhìn này mới là nền tảng cho đức ái Kitô giáo.

5. Ngưới mất búa

Sở dĩ ta nên tránh việc phê phán và nghĩ xấu cho người là vì đoán xét của ta thường sai lạc, ít khi ta phê phán người khác một cách khách quan, mà thường phê phán theo cảm tính và ý nghĩ chủ quan của ta. Câu chuyện sau đây trong sách Liệt Tử vừa nghe thì thấy rất tầm thường nhưng nó chứa đựng một chân lý sâu xa về sự phê phán chủ quan của ta.

Có người đánh mất cái búa. ngờ cho đứa con nhà láng giếng lấy trộm.

Anh ta trông dáng nó đi, rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, cử động, không một tí gì, là không rõ ra đứa ăn trộm búa cả.

Được một lúc, người ấy tìm thấy chiếc búa trong hố thì hôm sau trông thấy con người láng giềng: ngôn ngữ, cử chỉ, lại không còn một tí gì giống đứa ăn trộm búa nữa.

Câu chuyện này được viết ra hằng ngàn năm trước đây, vừa nghe thì có vẻ nhạt nhẽo vô duyên, nhưng đọc kỹ thì thấy nó phản ứng thật trung thực tâm lý của đa số con người đã sống từ ngàn năm trước cũng như hiện đang sống bây giờ. Sở dĩ phán đoán của chúng ta sai lạc là vì lý trí của ta thường bị chi phối bởi trăm ngàn yếu tố: như tiền bạc, danh vọng, lợi, hại, yêu, ghét, thân, sợ…

6. Phần thưởng cho người không chỉ trích

Trong kho tàng truyện các thánh tu hành, có câu chuyện rất hay của ẩn sĩ Macariô. Ngài qua đời năm 300 ở Ai Cập.

Macariô sống ẩn dật 30 năm trong phòng mình. Suốt trong thời gian đó, có một vị linh mục vẫn đến cử hành thánh lễ trong phòng của Ngài. Để cám dỗ và quấy rầy vị tu hành này, ma quỷ xúi giục một người kia đến gặp vị ẩn sĩ Macariô và nói:

- Vị linh mục đến làm lễ mỗi ngày đó chính là một kẻ tội lỗi vì thế không nên cho ông ấy cử hành thánh lễ nữa.

Ẩn sĩ Macariô đáp lại:

- Hỡi con, Kinh Thánh dạy rằng: “Đừng xét đoán để khỏi bị xét đoán. Nếu linh mục ấy là người tội lỗi, thì Chúa sẽ tha thứ cho cha ấy."

Sau khi nói như vậy, ẩn sĩ Macariô bắt đầu cầu nguyện và đã giải thoát cho người kia khỏi bị quỷ ám.

Khi vị linh mục đến làm lễ, cha ấy vẫn được tiếp đón vui vẻ như thường. Và Thiên Chúa thấy lòng nhân hậu của ẩn sĩ Macariô nên muốn khích lệ ngài bằng một dấu hiệu. Khi vị linh mục tiến lên bàn thờ, thì Macariô thấy một thiên thần từ trời xuống và đặt tay lên đầu vị linh mục và vị này biến thành một cột lửa trước lễ vật thánh.

Trong khi ẩn sĩ Macariô còn ngây ngất trước thị kiến này, thì ngài nghe có tiếng nói:

- Hỡi con người, tại sao ngươi lại ngạc nhiên ngỡ ngàng. Nếu một vua chúa trên trần gian này còn không cho phép thần dân mình xuất hiện trước mặt mình với quần áo nhơ bẩn, thì làm sao quyền năng của Thiên Chúa lại chấp nhận cho người cử hành Mầu Nhiệm Thánh mà ô uế trước vinh quang trời cao. Ngươi đáng được chứng kiến sự kiện này vì ngươi đã không chỉ trích vị linh mục.

Viện phụ Pineng, trong truyện các thánh tu hành, cũng đã trả lời cho một đan sĩ hỏi ngài xem có cần phải che tội cho người anh em mình không? Ngài đáp:

- Chính trong lúc chúng ta che tội cho người anh em chúng ta, thì Chúa cũng che tội cho chúng ta như vậy.

Mẹ Têrêsa bảo: “Đức Giêsu khuyến khích ta đừng xét đoán ai. Cố đừng xét đoán người khác. Nếu bạn xét đoán người khác thì bạn không thể nào yêu họ được."

7. Xét mình

Các nhà hiền triết tự cổ chí kim đều coi việc xét mình là cơ bản cho sự khôn ngoan. Triết gia Socrates nói: “Hãy biết mình.” Đức Khổng tử nói người quân tử giống như kẻ bắn cung, nếu bắn trật thì xét lại chính mình (chứ đừng chê cây cung bị cong). Đức Phật cũng coi việc giác ngộ như bước đầu để thành Phật. Chúa Giêsu dạy “đừng xét đoán” người khác nhưng trước tiên hãy xét mình, bởi vì khi mình chưa loại bỏ được cái xà trong mắt mình, là những nết xấu và thành kiến của mình, thì mình không thể thấy và lấy được cái rác trong mắt anh em. Với cái nhìn tầm xa hơn, việc xét mình còn giúp mình nhận thức rõ hơn thân phận mình trước mặt Thiên Chúa: thân phận tội lỗi. Như thế, nếu chúng ta mong được Thiên Chúa phán xét với lòng thương xót, thì chúng ta cũng phải biết sống với anh chị em bằng lòng nhân ái bao dung.

Kinh nghiệm bản thân cho thấy chúng mình thích xét người hơn xét mình. Xét mình thì dễ thấy những điều tốt đẹp còn xét người thì, ôi thôi, biết bao là nết xấu. Để diệt trừ tận căn xu hướng thiên lệch ấy, mời bạn thực hành xét mình theo chiều sâu: không chỉ xét mình theo kiểu mình có phạm điều gì trong 10 điều răn hay không, mà còn xét những hành vi tiêu biểu của mình – dù chưa phải là hành vi tội lỗi – xem những động cơ sâu xa nào đã tác động lên chúng.

8. Đừng xét đoán

Ngày nọ, Khổng Tử sai môn sinh sủng ái nhất của mình là Nhan Hồi vào bếp nấu cơm. Đang đọc sách nhà trên, bỗng nghe tiếng động, ông nhìn vào bếp và bắt gặp Nhan Hồi xới cơm đưa vào miệng. Ông cho rằng học trò tín cẩn của mình là kẻ ăn vụng.

Thực ra, khi mở vung xới cơm, Nhan Hồi đã sơ ý để một cơn gió thổi bụi vào nồi. Thay vì xới phần bẩn bỏ đi, Nhan Hồi đã quyết định ăn, coi như mình đã ăn xong phần mình, nghĩ rằng không nên bỏ phí trong hoàn cảnh cơm ít, người đông. Hiểu được sự thật, Khổng Tử ngẩng đầu than rằng: “Trên đời có những việc chính mắt mình trông thấy rành rành mà vẫn không thể hiểu được đúng sai!”

Kinh nghiệm này của Khổng Tử cũng được gặp thấy trong giáo huấn của Đức Giêsu: “Đừng xét đoán!” Thực tại thì muôn vẻ, cái nhìn của ta về thực tại thường phiến diện; vô số các suy luận và kết luận của ta rất bấp bênh. Chính vì thế Đức Giêsu chỉ dành quyền xét đoán cho Thiên Chúa, Đấng “thấu suốt mọi bí ẩn” (Mt 6,6); “còn ta là ai mà dám xét đoán anh em mình” (Gc 4,12)?

Nếu có một ai đó cần được tôi xét đoán, thì người đó chính là tôi, như lời Chúa nhắc nhở: “Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi mới lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em.”

9. Sự sáng suốt đáng buồn

“Có một sự sáng suốt đáng buồn, khi chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi người khác. Cũng có một xét đoán đầy yêu thương, khi đã nhìn thấy những điểm sáng tốt đẹp, ngay từ bóng tối những điều không tốt đẹp nơi anh em mình” (Đức hồng y PX. Thuận).

Rất tiếc ta thường có “sự sáng suốt đáng buồn” (xét đoán người khác) hơn là sự “xét đoán đầy yêu thương” (nhìn thấy những điểm tích cực nơi người lầm lỗi). Ta có khuynh hướng rất xấu là nhìn thấy thói hư tật xấu của tha nhân hơn là nhận ra những điều tích cực nơi họ. Đức Giêsu dạy ta không ai có quyền xét đoán người khác, vì chẳng có ai tốt lành, thánh thiện đủ để làm việc này. Nhìn kỹ vào mình, ta sẽ nhận ra mình còn có những lầm lỗi tệ hại hơn.

10. Cách nói quả báo

Khi thấy một tai nạn hay một điều không may giáng xuống trên ai đó, người ta dễ nói theo quan niệm thông thường rằng đó là do “quả báo”, “trời phạt”, “gieo gió thì gặt bão,” v.v… Mà nếu “nó” không làm gì “ác” thì ắt là tông chi họ hàng nhà “nó” đã làm nên giờ đây “quít làm cam chịu”, thế thôi!

Thật là “lô-gích” nhưng cũng thật là thiếu bác ái, thiếu thông cảm với người anh em trong cơn hoạn nạn. Chúa Giê-su không khuyến khích kiểu suy nghĩ như thế. Ngài dạy đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán, sống bao dung để được Thiên Chúa khoan dung. Mỗi người hãy sửa đổi chính mình để ngày càng nên hoàn thiện trước mắt Thiên Chúa và mọi người.

Cách nói “quả báo” là một hình thức xét đoán, một kiểu trả thù trong tâm trí đối với những kẻ mình không ưa. Cách xét đoán theo kiểu ki-tô hữu là luôn biết thông cảm và giúp đỡ người ta trong cơn hoạn nạn, vì: “Anh em đong đấu nào, thì Thiên Chúa cũng sẽ đong đấu ấy cho anh em."

11. Giúp nhau sửa lỗi thì tốt hơn lên án

Một đạo sĩ trẻ sống trên triền núi được nhiều tín đồ mộ mến, nhưng gần đây đi đến đâu cũng nghe người ta bàn tán về mối quan hệ bất chính giữa vị tu hành và cô thiếu nữ thường xuyên đến đạo viện. Để chấm dứt lời đồn đoán, các bô lão đã tìm đến với đạo sư niên trưởng trong vùng và đề nghị ông cùng đi với họ như một nhân chứng có uy tín. Chẳng đặng đừng, vào buổi sáng sớm nọ, vị đạo trưởng phải lên núi với khá đông thiện nam tín nữ. Nhiều tín đồ mừng thầm, vì chỉ ít phút nữa, họ sẽ vạch mặt chỉ tên kẻ lợi dụng danh nghĩa nhà tu.

Nghe tiếng người xôn xao từ đàng xa vọng lại, vị đạo sĩ trẻ biết có chuyện chẳng lành, nhưng vì quá cấp bách, chàng phải đề nghị cô gái trốn vào chiếc thùng gỗ để cạnh góc nhà. Khi tới nơi, đạo trưởng thấy vẻ bất an của vị tu sĩ và đưa mắt nhìn quanh ông đoán biết mọi sự, nên đến ngồi trên chiếc hòm gỗ và mời chủ nhân ngôi đền cùng ngồi để đàm đạo, đang khi mọi người lùng xục khắp nơi để tìm cô gái mà họ đoán chắc đang có mặt tại đây. Sau nhiều cố gắng tìm kiếm nhưng không gặp, họ nản lòng và từng người một lủi thủi xuống núi. Khi mọi người đã về hết, trước lúc từ biệt, vị đạo trưởng nói:

- Hãy cẩn thận giữ linh hồn của anh.

Người tu sĩ đã phạm lỗi biết rất rõ vị đạo sĩ cao niên vừa cứu anh khỏi bẽ mặt với đám đông đang phẫn nộ và muốn vạch trần sự thật từng được che dấu. Nghe đâu sau này vị đạo sĩ trẻ ấy đã toàn tâm toàn ý tu tâm sửa tính, và trở thành bậc thầy đạo hạnh nổi tiếng khắp vùng.

Là con người ai cũng có lúc lỡ lầm. Có những lầm lỗi gây ra hậu quả nặng nề cho tội nhân và những người liên hệ, nhưng nhiều trường hợp chỉ là những sai lỗi vốn gắn với thân phận yếu hèn của con người. Để vươn lên trong sự hoàn thiện thì dù lỗi nặng hay nhẹ, vô tình hay hữu ý, người có lỗi cần nhận ra và quyết tâm sửa đổi. Kinh Thánh gọi cố gắng đó là “sám hối và canh tân.”

13. Sửa mình trước đã

Có ba cái nhìn về một người:

- cái nhìn khách quan của người khác về ta,

- cái nhìn chủ quan của ta về chính mình và

- cái nhìn của Thiên Chúa về ta.

Người khác nhìn ta từ bên ngoài, nên không thấy rõ mọi ngóc ngách của tâm hồn ta. Cái nhìn chủ quan của ta về mình cũng có thể sai lạc vì mình thường nghĩ tốt về mình. Chỉ mình Thiên Chúa mới có cái nhìn chính xác về ta, vì vậy chỉ mình Ngài mới có đủ khả năng và thẩm quyền để xét đoán ta.

Chúa dạy ta đừng vội xét đoán anh em. Lý do: thói thường nhìn người khác chỉ thấy điều xấu, còn nhìn chính mình thì chỉ thấy điều tốt. Vì thế, trước khi sửa lỗi người khác, hãy sửa lỗi mình trước. Có lẽ ai cũng thấy được ta chẳng bao giờ sửa cho hết các thói hư tật xấu của mình, do đó, ta chẳng khi nào dám sửa lỗi anh em, khi không cần thiết.

Hãy kiểm điểm bản thân để tháo gỡ những cái xà to tướng đang che khuất mắt mình, nhờ đó có cái nhìn khách quan và bao dung hơn đối với những khuyết diểm của anh em.

14. Thiên Chúa bao dung

Một nhà thơ vô danh đã viết: “Tôi mơ thấy mình chết vào một đêm kia. Cổng thiên đàng rộng mở. Với sự dịu dàng thân ái, Thiên Chúa dẫn tôi vào bên trong. Tôi ngạc nhiên nhận ra những người tôi từng quen biết trên thế gian, trong đó có một số người tôi từng xét đoán và cho là xấu xa. Tôi nghẹn ngào không nói nên lời. Bởi lẽ những người này cũng ngạc nhiên không kém, vì không ai ngờ rằng tôi đã đến đây.”

Tôi thường có xu hướng tiêu cực trong việc xét đoán người khác chăng? Đặc biệt là ai? Tại sao?

Hãy kiểm tra bàn tay bạn trước khi chỉ ngón tay vào một ai đó. Hãy lưu ý có ba ngón tay đang chỉ ngược vào bạn.

THỨ BA - Thi hành điều muốn người khác làm cho mình

Lời Chúa: Mt. 7, 6. 12-14

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đừng lấy của thánh mà cho chó, và đừng vất ngọc trai trước mặt heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi quay lại cắn xé các con.

"Vậy tất cả những gì các con muốn người ta làm cho các con, thì chính các con hãy làm cho người ta như thế! Đấy là điều mà lề luật và các tiên tri dạy.

"Các con hãy vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy; cửa và đường đưa tới sự sống thì chật hẹp, và ít kẻ tìm thấy."

TRUYỆN KỂ

1. Hãy qua cửa hẹp

Một cuốn phim Mỹ với nội dung như sau: Có đôi vợ chồng trẻ mới thành hôn đưa nhau đi nghỉ cuối tuần tại Las Vegas, một thành phố cờ bạc nổi tiếng nhất nước Mỹ. Ðang lúc thuận thời vận, hai người chia sẻ cho nhau ước muốn có được một căn nhà.

Một nhà tỷ phú tình cờ theo dõi câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ: nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng cho họ một triệu Mỹ kim. Chỉ sau một đêm họ có thể trở thành triệu phú. Nghĩ thế, họ ra phòng luật sư để ký giao kèo.

Nhưng khi người vợ lên đường đến với nhà tỷ phú, người chồng cũng bắt đầu nghĩ lại, viễn ảnh mất vợ bỗng làm anh lo sợ. Thế nhưng đã quá muộn, sau một đêm để có được tất cả cũng chính là lúc họ mất nhau để rồi đi đến tan vỡ.

2. Điểm đến

Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:

- Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?

Thiên sư trả lời:

- Không dễ cũng không khó.

Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.

Thiền sư dõng dạc trả lời:

- Vì tu đắc đạo không ở đó.

Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:

- Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?

Thiền sư trả lời:

- Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.

Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.

3. Gần hay xa ở lòng mình

Trong lúc huấn đức cho đồ đệ, một người mới nhập viện lên tiếng hỏi vị Thiền sư:

- Thưa Thầy, con quyết chí tu cho đắc đạo dễ hay khó?

Thiên sư trả lời:

- Không dễ cũng không khó.

Người đồ đệ ngạc nhiên hỏi:

- Tại sao lại không dễ cũng không khó? Con thật không hiểu, xin thầy giải thích.

Thiền sư dõng dạc trả lời:

- Vì tu đắc đạo không ở đó.

Người đồ đệ càng sửng sốt hơn:

- Con không thể nào hiểu được. Vậy làm sao để đạt đích?

Thiền sư trả lời:

- Vì đường tu không khoảng cách. Khi con ngưng bước là lúc con tới đích.

Xin Chúa cho chúng ta thực thi những gì Chúa đòi hỏi. Xin cho chúng ta luôn đi sát Chúa và hướng thẳng tới đích cao vời.

4. Có chông gai mới hiểu tấm lòng

Năm 1796, chiến tranh giữa Pháp và liên minh Ý-Áo, Đại tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua trận tuyến của địch.

Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:

- Ai yêu tổ quốc thì theo ta.

Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta chỉ thấy có mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn qua cầu. Bonaparte toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.

8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:

- Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!

5. Tình yêu luôn có lý

Một hôm, một người phụ nữ đến thăm một người bạn và tình cờ đọc được một câu rất ngông dán trên tủ lạnh nhà người ấy: “Hãy thực thi sự tử tế một cách càn dở và những cử chỉ đẹp một cách vô nghĩa.” Bà chép câu này đem về nhà dán ở nhà mình và quyết làm theo. Chồng bà, một giáo viên, thấy câu đó cũng thích và đem chép lên bảng trong lớp học. Một học sinh cũng thấy hay nên chép về cho cha mình. Ông này là biên tập viên của một nhật báo địa phương nên ông lại đưa lên báo. Chẳng mấy chốc, câu nói như vết dầu loang đã lan rộng nhiêu nơi tại nước Mỹ và đã thúc đẩy được nhiều cử chỉ đẹp rất “vô nghĩa.”

Thí dụ tại Chicago, một buổi sáng có một thiếu nữ tự động đến từng nhà của những người hàng xóm và cào tuyết trước gara đậu xe giúp họ; tại Saint Louis, một người đàn ông bình thường rất cau có nhưng một hôm ông ra đường bị một chiếc xe khác quệt trầy xe ông, ông thò đầu ra khỏi xe, mỉm cười nói “không có gì đâu”; tại San Francisco, một người đàn ông dừng xe để đóng thuế qua cầu San Francisco chẳng những cho xe mình mà còn cho cả dãy xe phía sau.

6. Vô thần chỉ là hời hợt và nông cạn

Một vị linh mục đang chăm chú đọc sách, trước mặt ngài là một chàng thanh niên tự xưng là vô thần. Anh ta quan sát từng cử chỉ của vị linh mục và mở đầu cuộc tấn công bằng những lời này:

- Tôi không tin bất cứ những gì mà linh mục các ông rao giảng. Các ông có biết là các ông đang bán thuốc phiện ru ngủ quần chúng không?

Bị xúc phạm như thế, nhưng vị linh mục không để lộ bất cứ phản ứng nào. Ngài nhìn người thanh niên với tất cả thông cảm và nói:

- Anh có tin Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật không?

Người thanh niên trả lời như một cái máy:

- Không, thế giới tự nó mà có, vật chất tự biến hóa thành vạn vật.

Vị linh mục mỉm cười hỏi tiếp:

- Anh bạn trẻ, anh là người có học, chắc chắn anh đã có dịp đọc một vài quyển sách đứng đắn về hiện tượng tôn giáo.

Người thanh niên lắc đầu quả quyết:

- Tôi đã và sẽ không bao giờ đọc những thứ sách vô bổ ấy.

Vị linh mục hỏi tiếp

-Thế anh có đọc Kinh Thánh?

Người thanh niên lại được dịp cho Kinh Thánh chỉ là những chuyện nhảm nhí.

Vị linh mục vẫn tỏ ra thản nhiên trước thái độ gây hấn của người thanh niên. Ngài gợi thêm:

- Chắc anh cũng đồng ý rằng, từ 2.000 năm qua, lịch sử của nhân loại đã chịu ảnh hưởng sâu rộng của một người có tên là Giêsu.

Người thanh niên phản đối.

- Anh có bao giờ suy nghĩ về những vấn đề tôn giáo và luân lý trong cuộc sống không?

Người thanh niên la lớn

- Mất giờ vô ích.

Với ánh mắt vừa buồn bã vừa trìu mến, vị linh mục nhìn người thanh niên hồi lâu rồi chậm rãi nói:

- Anh bạn trẻ! Anh không có vẻ gì là người vô thần cả, mà chỉ là người sống hời hợt nông cạn và thiếu hiểu biết mà thôi.

Vâng, sống với những con người như thế quả là không đem lại cho đời mình một ích lợi gì. Chúa bảo chúng ta đừng mất giờ cho những con người như thế.

7. Thất bại là cơ hội

Albert Einstein đến năm lên 4 tuổi mới biết nói, và phải đến năm 7 tuổi mới biết đọc. Thầy giáo đã từng nhận xét về ông như sau: “Chậm phát triển, khó gần, luôn có những ước mơ ngớ ngẩn." Ông từng bị đuổi học và bị từ chối nhận vào trường Bách khoa Zurich, vậy mà ông đã trở thành một nhà bác học nổi tiếng nhất thế giới chưa ai sánh kịp.

Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!"

- Henry Ford nói: “Thất bại chính là cơ hội để bạn khởi đầu lần nữa một cách hoàn hảo hơn."

Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy. Thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào. Con đường hẹp chính là cái giá để trả cho vinh quang thiên quốc của chúng ta.

8. Chọn điều tốt hơn

Nhà lãnh tụ vĩ đại Châu Phi là Paul Kruger sống vào những năm bước ngoặc của thế kỷ. Một ngày nọ, ông được mời gọi chia sẻ một vài vùng đất cho những người anh em đang mang mối thù truyền kiếp. Bởi vì vùng đất này có đồi núi, sông hồ và mỏ, cho nên ông nhận thấy rằng dù có chia thế nào, thì những cuộc tranh dành nảy lửa cũng sẽ xảy ra. Kruger căn nhắc kỹ lưỡng, rồi ông chợt nảy ra một cách giải quyết. Ông cho gọi anh em lại, rồi để một người trong họ phân chia đất, và cho người ấy chọn trước phần anh ta muốn.

Tôi làm thế nào để giải quyết những tranh cãi có liên quan đến tôi hoặc giữa những người xung quanh tôi? Tôi đã cải tiến được gì?

Đây là nơi hạnh phúc. Hiện tại là giờ hạnh phúc. Bí quyết để được hạnh phúc là làm cho người khác hạnh phúc (Robert C. Ingersoll).

9. Cọn niềm tin

Henry Newman là một tác giả về đời sống thiêng liêng. Trong cuốn sách “Cầu nguyện và hy vọng”, ông đã viết những lời đáng ngạc nhiên: “Những ai cầu xin với niềm hy vọng, có thể xin bất cứ điều gì, chẳng hạn như xin cho thời tiết thuận lợi. Những lời cầu nguyện cụ thể này chỉ là một cách để nói rằng chúng ta phải tin tưởng vào lòng nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa… Hễ khi nào chúng ta cầu nguyện với niềm hy vọng, chúng ta mới phó thác cuộc đời trong tay Chúa.”

Niềm tin vào lòng nhân hậu vô bờ của Thiên Chúa trong tôi đang sâu sắc đến mức nào? Thông qua lời cầu nguyện, tôi phó thác cuộc đời tôi trong tay Chúa cách cụ thể ra sao?

Hãy phó thác đời mình cho Chúa,

Tin tưởng vào Ngài, Ngài sẽ ra tay (Tv 36,5)

10. Chọn điều vĩnh cửu

Tờ “Sports Illustrated” có đăng câu truyện về trường dạy quần vợt ở Florida dành cho các thiếu niên. Sinh hoạt của nó giống như buổi cắm trại của hải quân:tắt đèn lúc 10 giờ tối, cả tuần không xem truyền hình. Nhưng các thiếu niên vẫn liên kết với nhau qua những cổng hẹp để đi hết đoạn đường khó khăn chỉ với mục đích trở nên xuất sắc trong bộ môn quần vợt. Hành động của họ nhắc lại lời thánh Phaolô: “Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại, chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát” (1Cr 9,25).

Ở mức độ nào tôi thường hướng công việc đến những thành quả chóng qua, hơn là đạt thành quả tinh thần tồn tại mãi?

Nếu tia nắng là vũ khí chiến tranh, thì hẳn là năng lượng mặt trời đã được dùng từ nhiều thế kỷ trước. (George Potts).

11. Con đường của tình yêu

Đệ tử của một đạo sĩ Do thái thưa với thầy mình rằng:

- Thưa thầy, tại sao những người lành lại phải đau khổ hơn những người xấu?

Vi đạo sĩ trả lời:

- Hãy nghe đây, một người nhà nông có hai con bò, một con khỏe mạnh và một con yếu. Ông ta sẽ đặt ách kéo cày lên con nào?

- Chắc chắn là trên con khoẻ.

Vi đạo sĩ kết luận:

- Chúa là Đấng hay thương xót cũng hành động như thế. Để kéo thế giới tiến tới, Ngài đặt ách lên những người tốt.

Không phải là thế giới hôm nay, mà bất cứ lúc nảo con người cũng bị cám dỗ, bị lôi kéo đến nền văn minh hưởng thụ, tiện nghi. Chúa Kitô lại đi con đường ngược lại, con đường thập giá.

Có phải khi suy tôn Thánh Giá Chúa Kitô là chúng ta tôn thờ sự đau khổ không? Không, chúng ta không tôn thờ sự đau khổ mà tôn thờ tình yêu sẵn lòng chịu đau khổ vì người mình yêu.

Tình yêu - sự sống thần linh - đòi phải có thập giá như một phương thế không thể thiếu để thanh luyện và tăng triển tình yêu.

THỨ TƯ - Cây tốt trái tốt, cây xấu trái xấu

Lời Chúa: Mt 7, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Hãy coi chừng các tiên tri giả. Họ mặc lốt chiên đến cùng các con, nhưng bên trong, họ là sói dữ hay cắn xé.

Hãy xem quả thì các con sẽ biết được chúng. Nào ai hái được trái nho nơi bụi gai, hoặc trái vả nơi bụi găng sao?

Cũng thế, cây tốt thì sinh trái tốt, còn cây xấu thì sinh trái xấu. Cây tốt không thể sinh trái xấu, và cây xấu không thể sinh trái tốt. Các cây không sinh trái tốt sẽ bị chặt đi và ném vào lửa. Vậy coi trái thì các con sẽ nhận biết được chúng."

TRUYỆN KỂ

1. Xem quả biết cây

Nhà tu đức học nổi tiếng người Ấn Ðộ là cha Anthony de Mello có kể câu truyện ngụ ngôn:

Một vị giáo sĩ nọ đến gặp một tiên tri và xin ngài cầu nguyện cho một đôi vợ chồng trẻ: họ là những người rất mực đạo đức, nhưng không có con. Nghe thế vị tiên tri trả lời: "Ta rất lấy làm tiếc, Chúa không muốn cho họ có con."

Thế nhưng, 5 năm sau, vị giáo sĩ trở lại thăm đôi vợ chồng trẻ, lần này ông nghe thấy tiếng trẻ con cười đùa trong nhà. Người chồng giải thích rằng cách đây 5 năm, có một người hành khất lang thang trước nhà họ, người chồng mời người hành khất vào nhà, cho ăn uống và mặc quần áo mới cho. Trước khi từ giã, người hành khất đã chúc lành cho đôi vợ chồng trẻ và Chúa đã ban cho họ được hai đứa con.

Vị giáo sĩ trở lại gặp vị tiên tri để xin một lời giải thích. Vị tiên tri mỉm cười trả lời: "Ta chỉ có thể nói rằng có một vị thánh đã đến thăm đôi vợ chồng trẻ này, và nhờ lời chúc phúc của ngài, họ đã có được hai đứa con; các thánh có cách thay đổi chương trình của Thiên Chúa."

Một cuộc sống thánh thiện lúc nào cũng có âm hưởng trên người khác, một chứng tá đức tin luôn có sức đánh động người khác.

2. Xem quả biết cây.

Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước, xa gần ai ai cũng biết tiếng. Vua Trang Vương thấy thế vời lại hỏi:

- Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế?

Người xem tướng thưa rằng:

- Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem “bạn người ta” mà biết được người ta hay hoặc dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy họ chơi với những người bạn hiếu, đễ, huấn, cần, biết giữ phép nước thì thần đoán người ấy là người hay, thân tất một ngày vẻ vang, nhà tất một ngày thịnh vượng.

Như thần xem cho quan lại, mà thấy chơi với những người bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một lợi ích.

Nếu thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần thì có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc lỗi có nhiều người can ngăn thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trị yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục. Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay hay dở.

Vua Trang Vương cho nói là phải. Bấy giờ liền kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở cường thịnh nhất đời Chiên Quốc.

Chúng ta tự hỏi xem bạn bè chung quanh chúng ta là những người như thế nào? Từ đó mà chúng ta biết mình là ai?

3. Xem quả biết cây

Trong bài giảng cho giáo triều mùa Chay năm 2010, cha Cantalamessa nhấn mạnh: “Ki-tô giáo không bắt đầu bằng việc bảo cho con người điều gì họ phải làm, nhưng là điều gì Thiên Chúa đã làm cho họ” Nói cách khác, những việc Ki-tô hữu làm phải là những việc được đòi hỏi bởi tình yêu của Thiên Chúa. Những việc này không phải lúc nào cũng dễ chịu. Giữa một xã hội xem nhẹ mạng sống con người mà phải nâng niu từng thi hài bé nhỏ của thai nhi và cho bé một chỗ nằm tươm tất thì không dễ chịu chút nào! Phải sống công bình và sự thật giữa một xã hội đảo lộn các giá trị không phải là một chọn lựa tự nhiên v.v. Nhưng, những hành động cao quý như thế là lời đáp trả của tín hữu đối với Thiên Chúa sau khi đã cảm nghiệm tình yêu Thiên Chúa dặt dìu đời mình từng bước, đồng thời minh chứng họ là Ki-tô hữu. Tình yêu Thiên Chúa thúc bách họ thực hiện những nghĩa cử.

4. Vun trồng nhân đức

Cuộc thảm sát đẫm máu xảy ra vào buổi sáng 16/4/2007 tại trường Đại học Công Nghệ Virginia, nước Mỹ, đã làm chấn động cả thế giới.

Cho Seung Hui, kẻ sát nhân, đã nã súng bắn chết 32 sinh viên rồi cuối cùng tự kết liễu đời mình. Điều tra về thân thế của hung thủ, người ta mới nhận ra anh là một con người mắc chứng tự kỷ từ nhỏ, thích sống cô độc và nuôi dưỡng lòng hận thù.

Nếu như gia đình và xã hội quan tâm loại trừ những mầm mống xấu nơi con người anh sớm hơn và triệt để hơn thì có lẽ thảm kịch ấy đã không xảy ra. Rất nhiều thảm kịch trong gia đình và xã hội là hậu quả của những nhân cách bệnh hoạn, lệch lạc.

“Cây tốt thì sinh quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu.” Đây là kinh nghiệm của người trồng cây; đây cũng là kinh nghiệm ngàn đời trong công cuộc trồng người.

Muốn trở thành cây tốt để sinh trái tốt, chúng ta phải không ngừng vun trồng các nhân đức (tức tập luyện các thói quen tốt) và tháo gỡ các thói tật xấu nơi mình.

5. Tin là để Chúa làm

Nhiều người muốn tìm cảm giác mạnh đã băng qua thác Niagara trên một sợi dây. Một người trong họ đã quyết định tăng mức độ và đẩy qua dây một người ngồi trên xe cút kít. Anh ta luyện tập mỗi ngày với một gánh đá sỏi. Một người chứng kiến nói: “Cậu đã sẵn sàng chưa. Bây giờ điều cần là có một người đủ tin tưởng vào cậu để ngồi trên xe cút kít.” Con người táo bạo kia hỏi: “Ông có hoàn toàn tin chắc là tôi đã sẵn sàng không?” Người kia nói: “Tin.” Con người táo bạo nói: “Tốt lắm! Hãy ngồi vào xe đi!”

Thiên Chúa không phải là một người liều lĩnh, nhưng Ngài đang tìm kiếm những người dám tin tưởng để “ngồi vào xe cút kít” và dám đương đầu với công việc lớn lao vì Nước Trời. Tôi đã sẵn sàng chưa?

Tôi có bình tĩnh để phó thác trong tay Đấng gìn giữ thế giới, trong đôi tay yêu thương của Ngài không?

6. Xem quả biết cây

Hai thiếu niên Clevenand nảy ra ý tưởng về một bộ truyện tranh hoạt họa độc đáo. Chúng cố gắng bán cho một số biên tập viên, nhưng tất cả điều từ chối, vì cùng một lý do là nhân vật chính quá ngốc nghếch. Cuối cùng các thiếu niên này bỏ ý định làm phim hình và bán bản quyền với giá 130 đô la. Đó chính là bộ phim “Siêu nhân” sau này. Những người được gọi là chuyên gia như các biên tập viên hóa ra lại là những người không nhìn xa thấy rộng. Bởi vì các thiếu niên đã tin tưởng họ và đã bán một báu vật với giá rẻ mạt.

Có nhiều chuyên gia nói rằng sống bằng lời Chúa là ngu xuẩn. Theo họ, thật là dại dột khi đặt niềm tin vào người đã sống cách đây 2.000 năm. Tôi bị ảnh hưởng bởi những người này ở mức độ nào và như thế nào?

Bạn hãy sống cuộc sống hiện tại như khi bạn đứng trước tòa phán xét của Chúa.

7. Cứ xem quả thì biết cây

Thời nào Hội Thánh cũng có những ngôn sứ giả. Họ mang dáng dấp là người của Chúa, người nói lời Chúa. Họ hấp dẫn quần chúng và có nhiều người chạy theo. Đức Giêsu dạy ta phải coi chừng họ (c. 15). Ngài dùng một hình ảnh quen thuộc để nói lên mối nguy cơ này. Các ngôn sứ giả đội lốt chiên tốt lành mà đến với dân Chúa. Nhưng thực chất họ là sói dữ tham mồi.

Cái khó là nhận ra bộ mặt thật của họ để không bị đánh lừa. Không nhận ra họ là sói, chúng ta có thể dễ làm mồi cho họ. Đức Giêsu dùng một hình ảnh khác để chỉ cho ta cách phân biệt chiên với sói: hình ảnh quả và cây.

Cây nào sinh quả ấy: đó là một nguyên tắc bất biến. “Có ai hái được nho ở bụi gai, hay hái vả trên cây găng không?” (c. 16). Hẳn là không rồi. Cây tốt ắt sinh quả tốt, cây bị sâu ắt sinh quả chẳng ra gì (c. 17).

Hơn nữa, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng định: cây tốt không thể sinh quả xấu, và cây xấu không thể sinh quả tốt được (c. 18). Chính vì thế cứ nhìn quả thì biết cây. Cứ nhìn những công việc do một người làm, ta sẽ biết người ấy là ai (cc. 16. 20).

Những môn đệ đích thực của Đức Giêsu hẳn sẽ sinh quả tốt, đó là sống công chính như giáo huấn của Bài Giảng trên núi.

THỨ NĂM - Nhà xây trên đá

Lời Chúa: Mt 7, 21-29

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Không phải tất cả những ai nói với Thầy: "Lạy Chúa, Lạy Chúa", là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào nước trời. Trong ngày đó, nhiều người sẽ nói với Thầy rằng: "Lạy Chúa, Lạy Chúa, nào chúng con đã không nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó ư?" Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với chúng rằng: "Ta chẳng hề biết các ngươi, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt Ta.”

"Vậy ai nghe những lời Thầy nói đây và đem thực hành, thì giống như người khôn ngoan, đã xây nhà mình trên đá; mưa có đổ xuống, nước có tràn vào, gió bão có thổi đến và lùa vào nhà đó, nhà đó vẫn không sập, vì nhà ấy được xây trên đá. Và hễ ai nghe những lời Thầy nói đây mà không đem ra thực hành, thì giống như người ngu đần, xây nhà mình trên cát, khi mưa sa nước lũ, gió thổi và lùa vào nhà đó, nhà sẽ sập và sẽ trở nên đống hoang tàn.”

Khi Chúa đã nói xong những lời trên, dân chúng kinh ngạc về giáo lý của Người: vì Người dạy dỗ họ như Đấng có quyền, chứ không như luật sĩ và các biệt phái của họ.

TRUYỆN KỂ

1. Sống theo những đòi hỏi của Tin Mừng

Mẹ Têrêsa Calcutta đã có lần phát biểu: Tôi muốn các nữ tu của tôi luôn có nụ cười rạng rỡ trên gương mặt của họ. Tôi đã cho về nhà nhiều thiếu nữ dự tu, vì họ chưa vui vẻ đủ, họ không có khả năng để cười. Khi tôi thấy các nữ tu đi làm việc mà mặt mày ủ rũ, nụ cười chưa nở trên môi, tôi liền nói với họ: "Các chị hãy về nhà ngủ một giấc, rồi sau đó mới đi làm việc, các chị quá mệt mỏi rồi.”

Mẹ Têrêsa quả đã sống cho đến cùng những đòi hỏi của Tin Mừng. Mẹ đã nhiều lần quả quyết rằng công việc mà Mẹ và các nữ tu của Mẹ đang thực hiện không phải là công tác xã hội, mà thiết yếu là hành động bác ái. Hành động bác ái hay sống bác ái là sống và rao giảng Tin Mừng, mà nói đến Tin Mừng là nói đến vui tươi, hân hoan. Do đó, thật mâu thuẫn khi Tin Mừng được sống với bộ mặt ủ rũ, khi Tin Mừng được loan báo với cung giọng buồn thảm.

2. Đẹp không bằng bền

Gần cầu Bình Triệu, quận Thủ Đức – Sài gòn, nơi ven sông có một căn nhà biệt thự rất đẹp. Người người nhìn thấy đã trầm trồ, khen ngợi công trình tuyệt mỹ này. Hai tháng sau, người dân thấy lạ kỳ đến ngỡ ngàng vì không còn thấy nó đâu nữa! Hóa ra, trong hai tháng vừa qua, căn nhà mà người ta đã từng thích thú, giờ đây, nó đã bị nước cuốn trôi ra xa bờ khoảng 15m. Phải chăng ngôi nhà này móng không vững, hay ở dưới đã có dòng nước xoáy ngầm lớn làm cho đất bị sụt?

Hôm nay, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người xây nhà. Nếu người xây nhà khôn ngoan, kinh nghiệm thì sẽ xây nhà mình trên nền đá, còn nếu thiếu khôn ngoan và hiểu biết thì sẽ xây nhà trên những thứ tạm bợ. Tiếp theo, Ngài đưa ra hình ảnh của những trận mưa lớn và nước dâng. Hậu quả là những ai xây nhà trên nền đá sẽ vững vàng, còn xây trên cát sẽ sụp đổ tan tành.

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận cũng nói về những hạng người giả hình này như sau: "Ðường Hy vọng dài thăm thẳm, Con đừng làm ‘Thánh lâm thời’: Phong ba dồn dập, nước sơn sẽ phai nhạt và tượng thánh sẽ hiện hình quỷ" (ÐHV. 44).

3. Nhìn người mà nghĩ đến ta

Đầu tháng 5/2009, cơn bão Nargis đổ bộ vào châu thổ Irrawaddy của Miến Điện (Myanma) với những cơn lốc xoáy làm nước dâng lên sau bão với mức 3,5 m. Nước tràn vào khu vực đồng bằng làm cho hàng triệu ngôi nhà sụp đổ và gây ra cái chết cho 78.000 người.

Theo Đài BBC, ngày 19/5/2009, ý kiến của các chuyên gia cho rằng: Châu thổ Irrawaddy của Miến Điện có nhiều nét tương đồng với đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long được đánh giá dễ bị thiệt hại nặng nề trong trường hợp các cơn bão mạnh cấp 14 đổ bộ vào, châu thổ rộng lớn này đa số là nhà cửa sơ sài, tạm bợ với những mái tranh, vách đất, không có nhiều các công trình kiên cố như đổ móng, cột bê tông…

4. Phải biết vâng lời

Cách đây ít lâu, có một thuỷ thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị nghiêm phạt vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt nặng đến độ dư luận dân chúng cho rằng quá khắt khe. Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong ngành hải quân đã trả lời rằng: Theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng, ông cho rằng kỷ luật là biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh khống thắc mắc, và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.

Ông kể lại một kinh nghiệm khi cẩu chiếc tàu rất nặng đang bị biển động. Chiếc tàu hư được cặp vào tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!” Tức khắc đoàn thuỷ thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chết ngay tại chỗ, nhưng thuỷ thủ đoàn đã vâng lệnh nên tất cả thoát hiểm. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Quả thật, vâng lời đã cứu mạng.

5. Gót A-sin

Một tu sĩ nọ sáng nào cũng thức dậy sớm để đọc kinh cầu nguyện. Nhưng một hôm ông ngủ quên. Satan đã đánh thức ông dậy và nhắc ông đọc kinh cầu nguyện. Ông ngạc nhiên hỏi lý do, Satan chỉ mỉm cười không đáp. Sau cùng ông Nhân Danh Chúa bảo Satan phải nói thật. Và Satan đã nói thật như sau:

Những ngày ông có đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông cảm thấy tự mãn và do đó không đề phòng, nên tôi dễ cám dỗ ông hơn. Còn nếu ngày nào ông quên đọc kinh cầu nguyện buổi sáng, ông sẽ thấy ông còn thiếu sót nên trong ngày ông cố gắng sống tốt theo ý Chúa hơn, lúc đó tôi khó mà cám dỗ ông được.

6. Lợi ích của việc bác ái

Mới đây, các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ nói về sức khỏe con người đã đồng ý với nhau rằng, để sống khỏe, sống an vui thì mỗi ngày phải tập thể dục đều đặn, ăn uống cách quân bình, và nhất là thực hành việc tốt cho kẻ khác. Đó là quan điểm căn bản mà hiện nay các bác sĩ Hoa Kỳ thường khuyên các thân chủ đến khám bệnh.

Chính vì thế mà hiện nay, để đề phòng bệnh, các bác sĩ, những nhân viên phụ trách về sức khỏe, đang cố gắng cổ võ một phong trào sống và làm việc tốt, quan tâm đến việc phục vụ tha nhân để phòng bệnh. Các nhà nghiên cứu quan sát thêm, tại sao làm việc tốt cho kẻ khác lại giúp cho chính đương sự sống an vui không bệnh hoạn.

Bác sĩ Highchery vừa qua đời, đã kể lại kết quả công việc nghiên cứu lâu dài của ông về điểm này như sau: khi đương sự làm việc để phục vụ kẻ khác thì nhận lại niềm vui, lòng biết ơn nồng nhiệt của người thụ ân. Cảm nghiệm được niềm vui và lòng biết ơn này, tạo ra nơi cơ thể người thi ân một cảm giác ấm áp. Cảm giác ấm áp này lại kích thích cơ thể bài tiết ra thêm nhiều chất kháng tố, chống lại những xâm nhập của vi trùng bệnh và làm cho đương sự cảm thấy rất thoải mái, quên hết những ưu phiền.

Để thử nghiệm nguyên tắc làm việc tốt để chữa bệnh và phòng bệnh, bác sĩ Horis tại bệnh viện của đại học California ở San Francisco đã khuyến khích các bệnh nhân hãy làm việc tốt giúp đỡ lẫn nhau để mau lành bệnh. Kết quả trông thấy được là những bệnh nhân nào sẵn sàng làm việc tốt cho kẻ khác thì mau lành bệnh hơn là các bệnh nhân ích kỷ, sống khép kín trong những âu lo phiền muộn riêng mình.

7. Bí quyết phục vụ người nghèo của Mẹ Teresa

Năm 1971, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã loan báo việc trao giải thưởng Gioan 23 cho mẹ Têrêsa thành Calcutta với những lời lẽ như sau: "Giải thưởng được trao cho một nữ tu khiêm tốn, âm thầm, nhưng không lọt qua được đôi mắt quan sát của những ai đã chú ý đến công việc phục vụ bác ái cho những người nghèo. Nữ tu có tên là Têrêsa thành Calcutta. Từ 20 năm đã qua, trên khắp các nẻo đường đất nước toàn cầu, nữ tu thực hiện một cách tuyệt diệu sứ mạng tình thương đối với những người cùi, những kẻ già lão bị bỏ rơi và những trẻ em mồ côi.”

Đây là bí quyết phục vụ người nghèo của mẹ: "Bí quyết đời sống tôi rất đơn sơ. Đó là cầu nguyện. Trong lời cầu nguyện, tôi được phúc say mê yêu mến Chúa Kitô và tôi hiểu được rằng, cầu nguyện là yêu mến Chúa và thực hành Lời Chúa. Cầu nguyện giúp tôi nhớ lại và sống Lời Chúa phán: "Ta đói, các con cho Ta ăn, Ta đau yếu, bị cầm tù, các con đã đến viếng thăm.”

8. Làm điều Chúa muốn

Một nhà tu đức vạch ra một trong âm mưu của ma quỷ không phải là cám dỗ ta làm điều xấu mà là cám dỗ ta làm điều tốt, nhưng không phải là điều tốt Chúa muốn.

Lời Chúa hôm nay cảnh báo cho ta điều đó. Nếu chỉ siêng năng “đọc kinh, xem lễ”, tham dự những lễ nghi long trọng mà thiếu việc “thi hành ý của Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” thì chưa đủ để vào Nước Trời, mà trái lại còn đáng bị Chúa gọi là “phường gian ác” và bị đuổi đi “khuất mắt Chúa.”

Thi hành ý Chúa Cha không phải là cứ làm bất kỳ điều gì mình cho là tốt mà là làm điều tốt Chúa Cha muốn. Chúa Giêsu nêu gương cho chúng ta khi Ngài từ khước ý riêng mình để chọn con đường cứu độ bằng thập giá như ý Chúa Cha muốn: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,40).

Chúng ta phải luôn cảnh giác trước những cám dỗ êm dịu là pha mình vào nhiều hoạt động xét khách quan không xấu, thậm chí còn rất tốt nữa. Thế nhưng đó có thể là những điều tốt giả bởi vì không phải là điều tốt Chúa muốn. Trong tình huống có nhiều chọn lựa mà chọn lựa nào xem ra cũng tốt, thì điều gì giúp chúng ta giống với Chúa Kitô vác thập giá nhất đó chính là điều tốt mà Chúa muốn chúng ta thực hiện.

9. Đánh trống bỏ dùi

Có một cách hiểu thành ngữ “đánh trống bỏ dùi”, theo đó “dùi” là những tiếng trống lẻ theo sau hồi trống dài. Gọi là “lẻ” nhưng những “dùi” này rất quan trọng vì nó giúp phân biệt các mệnh lệnh khác nhau. Như “ba hồi chín dùi” là họp toàn dân, trong khi “ba hồi ba dùi” nghĩa là có cha về dâng thánh lễ. Vậy “đánh trống bỏ dùi” là chỉ đánh những trống hồi, còn bỏ những tiếng trống lẻ theo sau. Nó ám chỉ cung cách làm việc thiếu chu đáo, thiếu tinh thần trách nhiệm, không làm đến nơi đến chốn, nửa làm nửa không.

Theo cách hiểu này, cũng là “đánh trống bỏ dùi” nếu nói tin Chúa mà không sống đức tin trong đời thường. Chúa Giê-su cho biết đức tin ấy không thể đem lại ơn cứu rỗi: “Không phải bất cứ ai nói lạy Chúa là được vào Nước Trời cả đâu.”

Tin trong lời mà không tin trong đời, người ta mắc phải căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” với các triệu chứng: nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, làm nửa vời, bỏ dở dang. Khi Chia Sẻ Lời Chúa, ta mắc bệnh này khi chỉ đề ra những lý giải thật hay mà không hoán cải đời sống, không thực thi Lời Chúa. Nó biến việc chia sẻ Lời Chúa thành giờ lý thuyết suông, biện bác bằng những “ngôn từ” vô bổ.

THỨ SÁU - Chữa người phong cùi

Lời Chúa: Mt 8, 1-4

Khi Chúa Giêsu ở trên núi xuống, đám đông dân chúng theo Người.

Có một người cùi đến lạy Người mà thưa rằng: "Lạy Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể chữa tôi được sạch."

Chúa Giêsu giơ tay ra chạm đến anh ta và phán: "Ta muốn. Anh hãy lành bệnh."

Tức thì anh ta liền lành khỏi bệnh phong cùi.

Chúa Giêsu phán bảo anh ta: "Hãy ý tứ, đừng nói với ai. Hãy đi trình diện với tư tế và dâng của lễ theo luật Môsê để minh chứng cho họ biết."

TRUYỆN KỂ

1. Không đau mới nguy hại

Cho đến thế kỷ 20, bệnh phong cùi vẫn còn là một huyền thoại đối với con người. Một bác sĩ làm việc tại một trại Y khoa bên Ấn Ðộ đã tình cờ khám phá ra rằng người mắc bệnh phong cùi không cảm thấy đau đớn trong những tế bào đã bị vi trùng xâm nhập. Ngày nọ, ông không thể mở được cửa phòng, ông mới trao chìa khóa cho cô bé 12 tuổi. Ông không ngờ nó đã vặn chìa khóa một cách dễ dàng. Xem xét những ngón tay của nó, ông nhận thấy chìa khóa đã làm mất đi một mảng thịt trong lòng bàn tay và chạm đến xương, thế mà nó không cảm thấy đau đớn.

Nhờ khám phá này, viên bác sĩ đã giúp cho những người phong cùi biết cách đề phòng để tránh gây thương tích cho thân thể của họ. Ông đã giải phẫu những giây thần kinh của bàn tay và dạy họ cách điều khiển các cơ bắp của bàn tay. Ông cũng giải phẫu mũi của bệnh nhân để mang lại cho họ một gương mặt dễ coi hơn. Ngoài ra, ông cũng khám phá ra rằng những người mắc bệnh phong cùi dễ bị mù mắt, lý do vì họ không còn cảm nhận được đau đớn khi những chất dơ bẩn xâm nhập vào mắt, nhờ đó ông cũng giúp họ lo vệ sinh mắt một cách chu đáo hơn. Với những khám phá này, ông đã đánh đổ được huyền thoại cho rằng phong cùi là căn bệnh bất trị.

2. Liên đới và không liên đới

Có một câu chuyện thật ấn tượng về một linh mục đã trọng tuổi thuộc dòng Phanxicô. Chuyện là thế này:

Ngài là một linh mục rất thương người, vì thế, sau lễ truyền chức linh mục cho ngài, có một người sẵn sàng tài trợ mọi mặt để tổ chức thánh lễ tạ ơn tại quê hương cho thật “hoành tráng."

Tuy nhiên, ngài đã từ chối, và không quên ngỏ lời xin toàn bộ số tiền đó để xây nhà, khoan giếng, thuốc thang cho anh chị em bị phong cùi mà ngài đã biết đến họ cách đó vài năm trong một khu rừng sâu thẳm không một bóng người qua lại.

Tại sao họ lại có một cuộc sống khổ đến vậy? Thưa! Chỉ vì bị kỳ thị và sợ liên lụy cũng như sợ bị lây nhiễm, nên người ta đã đẩy anh chị em đó vào trong một thế giới riêng, tách biệt khỏi xã hội bên ngoài.

3. Bệnh phong của tâm hồn

Trong những chuyến đi diễn thuyết để kêu gọi giúp đỡ những người phong cùi trên khắp thế giới, vị đại ân nhân của họ là Raoul Folereau thường kể câu truyện như sau: Tại một thị trấn nọ, có một người đàn ông được mọi người yêu mến bỗng ngã bệnh. Sau khi chẩn đoán, bác sĩ nghi ngờ ông bị bệnh phong cùi. Từ đó, người ta không còn thấy ông ra đường nữa, và ngay cả trong nhà, ông cũng không còn được đi lại tự do nữa. Gia đình ông đã giam ông trên giường, khung trời còn lại của ông chính là tấm mùng. Một ngày nọ, người đàn ông trốn ra khỏi nhà, nhưng đã bị bắt lại. Và rồi một lần nữa, ông đã trốn thoát được, không phải để được sống tự do, mà là để tự vẫn. Người ta đưa xác ông đến giảo nghiệm, và kết quả cho thấy ông không hề mắc bệnh phong cùi.

Kể lại câu truyện trên đây, Raoul Folereau muốn nêu bật nỗi khổ tâm của những người mắc bệnh phong cùi. Nỗi đau đớn trong thể xác có lẽ chỉ là một phần nhỏ so với sự ruồng bỏ, mà xã hội ở bất cứ thời đại nào cũng dành cho người phong cùi.

Hôm nay, Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người bị bệnh phong cùi vì anh có lòng tin. Anh tiến lại bái lạy Người và nói: “Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch."

4. Tôi muốn cho chị được hạnh phúc

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa Calcutta đến khu nhà của những người hấp hối do chính Mẹ thiết lập, để tạo điều kiện cho những người nghèo khổ tìm được cái chết xứng với nhân phẩm con người. Buổi tối hôm đó, người ta đưa đến một người đàn bà đói khát và bệnh tật. Mẹ đã đến thăm và săn sóc người đàn bà này với tất cả sự ưu ái, dịu hiền. Sau khi đã hồi sức, người đàn bà mở tròn đôi mắt đẫm lệ và thì thào nói với Mẹ:

- Thưa bà, tại sao bà săn sóc tôi như thế?

Mẹ Têrêsa trả lời:

- Bởi vì tôi muốn cho chị được hạnh phúc.

Trên khuôn mặt mà bóng tử thần đang chập chờn cướp lấy sự sống, đôi mắt người thiếu phụ bỗng sáng lên niềm vui. Người thiếu phụ cố gắng thì thào:

- Bà hãy lặp lại lần nữa đi.

Với tất cả âu yếm, Mẹ Têrêsa mỉm cười trả lời:

- Vâng, tôi muốn cho chị được hạnh phúc.

Như một điệp khúc không bao giờ ngừng, người thiếu phụ tiếp tục nói:

- Một lần nữa, xin bà hãy lặp lại điều đó một lần nữa.

Và người đàn bà khốn khổ nắm lấy tay Mẹ Têrêsa đặt trên ngực minh, như muốn níu kéo một chút hơi ấm của tình người, hơi ấm của niềm hạnh phúc mà chỉ có một tâm hồn quảng đại mới có thể ban phát.

5. Chứng nhân cho tình yêu

Chị Véronique, một người Pháp, 55 năm bị mắc bệnh phong Hansen, 20 năm bị mù lòa.

Dưới đây là một trong những lời nguyện của chị được ghi lại theo tạp chí Prier, xuất bản năm 1979.

Lạy Chúa,

Chúa đã đến và đã xin con tất cả, và con, con cũng đã hiến dâng cho Chúa tất cả.

Xưa kia, con ưa thích đọc sách, và Chúa đã muốn mượn đôi mắt của con. Ngày trước, con thích chạy nhảy trong những khu rừng thưa, và Chúa đã muốn mượn đôi chân của con.

Mỗi độ xuân về, con tung tăng hái lượm những cánh hoa tươi, và Chúa lại xin con đôi tay. Bởi con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, Ưa ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con.

Thế mà giờ đây, đầu con hầu như chẳng còn sợi tóc nào, Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh xinh nữa. Chỉ còn lại một vài que củi khô queo nham nhúa.

Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem: Cái thân thể diễm kiều của con đã bị hủy hoại đến mức độ nào. Thế nhưng, con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng lên Chúa lời tạ ơn!

Vâng, lạy Chúa! Muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ ơn. Bởi vì, nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải ra đi vĩnh biệt cõi thế, con cũng sẽ chẳng tiếc hận gì.

Đời con đã được quá ư đầy tràn những điều diệu kỳ tột độ: Đó là con đã được sống đắm mình trong Tình Yêu, Đã được Chúa lấp đầy chan chứa bằng Tình Yêu Vượt quá cả những gì con tim con hằng mong ước.

Ôi lạy Chúa là Cha của con, Cha đã đối xử quá tốt với bé gái Véronique của Cha.

Và chiều nay, ôi Tình Yêu của con! con xin dâng lời nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người phong cùi trên mặt đất.

Xin Cha thương một cách đặc biệt, cả đến những người bị bệnh “cùi tâm hồn” đang đè bẹp hủy hoại, Con yêu thương đặc biệt những con người bất hạnh ấy.

Và chiều nay trong âm thầm, con xin tận hiến đời con cho họ, bởi vì họ cũng là những người anh chị em con.

Ôi lạy Cha, Tình Yêu của con, con xin dâng Cha căn bệnh phong cùi thân xác của con, để cho những người thân yêu kia đừng bao giờ biết đến nữa, Cái đắng cay, cái lạnh lẽo kinh hồn của căn bệnh “cùi tâm hồn."

Con là bé gái thân thương của Cha, Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã tàn phế của con để dẫn con đi, Như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của mình.

Cha hãy ôm con vào lòng, như người cha ấp ủ đứa con cưng trong vòng tay của mình.

Cha hãy nhận chìm con thật sâu xuống tận đáy trái tim Cha, Cho con được ở đấy cùng với mọi người thân yêu của con, Bây giờ và cho đến mãi muôn đời… Amen.

(Véronique)

Vâng! Thật hết sức can đảm. Cuộc sống đã trở thành một chứng nhân cho tình yêu.

6. Nỗi đau của tội lỗi

Đớn đau trong thân xác, cô đơn trong tâm hồn vì bị người xa lánh, nhà thơ mang bệnh phong cùi Hàn Mặc Tử đã đau khổ thốt lên:

“Hồn đã cắn đã cào nhai ngấu nghiến

Thịt da tôi sượng sần và tê điếng

Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên

Bấy giờ tôi dại tôi điên

Chắp tay tôi lạy cả miền không gian”

Tin Mừng thuật lại anh phong cùi khổ đau cùng cực đã đến van xin Chúa Giêsu chữa lành: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể…” Anh đã không thất vọng vì chính Chúa Giêsu đích thân giơ tay chạm đến anh. Bàn tay thánh thiện đầy quyền năng của Chúa đã trao lại cho anh “ngoại hình thẩm mỹ.” Tất cả những gì Chúa đụng chạm đến đều được thánh hoá và trở nên sạch đẹp.

Đức Thánh Cha trong chuyến tông du Bồ Đào Nha mới đây đã lặp lại một nguyên tắc muôn thuở: “Chỉ có một điều đáng sợ đó là tội lỗi.” Quả thật tội lỗi là thứ “vi-rút” còn đáng sợ hơn cả bệnh phong cùi nữa.

7. Tôi muốn, anh sạch đi

Một giáo viên hóa học kể với một người bạn chuyện ông ta đã đi nghỉ mát như thế nào. Với chi phí riêng của mình, ông bay đến Ấn độ, đến những vùng quê và dạy những người phong hủi chế ra thuốc mỡ từ các loài thực vật địa phương để làm dịu căn bệnh của họ. Người bạn vô cùng xúc động và nói: “Điều đó nói cho tôi chính tình yêu Chúa Giêsu dành cho những người phong hủi.”

Một phụ nữ thổ dân người Úc nói: “Nếu bạn đến giúp tôi, bạn đang lãng phí thời giờ của bạn. Nhưng nếu bạn đến vì sự tự do của tôi và của bạn, thì chúng ta hãy hợp tác với nhau.” Lời nhận xét của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi: Bà ta có ngụ ý gì khi nói như thế và điều đó áp dụng vào tôi như thế nào?

Cuộc sống chúng ta không chỉ phụ thuộc bản thân, nhưng còn phụ thuộc vào những người cần đến chúng ta (Elie Wieses).

8. Nếu Ngài muốn

Các nữ tu phục vụ một trại phong ở miền Trung nói với khách tham quan rằng mỗi gia đình người phong có một ngôi nhà nhỏ xinh xắn, nhưng kiểu nhà và màu sắc khác nhau một chút. Tại sao vậy? Để người phong không cảm thấy bị đối xử như “cá mè một lứa.” Các nữ tu ấy đã điều trị cho người phong không chỉ bằng thuốc men, nhưng với cả tấm lòng của mình. Cũng vậy, Đức Giê-su luôn tế nhị, sẵn lòng đón tiếp và chữa lành cho các người phong. Ngài đụng vào người phong này không phải chỉ bằng đôi bàn tay, nhưng với cả tấm lòng trắc ẩn của mình. Còn người phong, hiếm có lời cầu xin nào khiêm tốn và đầy tin tưởng cho bằng lời của người phong này: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” Người phong ấy đến với Chúa với ước mong được Ngài chữa lành, với lòng phó thác, đặt ý Chúa trên ý muốn của anh.

 “Tôi muốn, anh hãy được sạch.” Khi bạn phó thác cho ý muốn của Chúa, Ngài sẽ ban cho bạn những gì tốt đẹp nhất. Bạn hãy xét lại lời cầu nguyện của mình, phải chăng lâu nay bạn thường “ép” Chúa phải làm theo ý muốn bạn, hay tin tưởng, phó thác nơi ý muốn nhân lành của Ngài?

THỨ BẢY - Đầy tớ đại đội trưởng

Lời Chúa: Mt 8, 5-17

Khi ấy, Chúa Giêsu vào thành Capharnaum, thì có một đại đội trưởng đến thưa Chúa rằng: "Lạy Thầy, thằng nhỏ nhà tôi đau nằm ở nhà, nó bị tê liệt đau đớn lắm!" Chúa Giêsu phán bảo ông rằng: "Tôi sẽ đến chữa nó." Nhưng viên đại đội trưởng thưa Người rằng: "Lạy Thầy, tôi không đáng được Thầy vào dưới mái nhà tôi, nhưng xin Thầy chỉ phán một lời, thì thằng nhỏ của tôi sẽ lành mạnh. Vì chưng, cũng như tôi chỉ là người ở dưới quyền, nhưng tôi cũng có những người lính thuộc hạ, tôi bảo người này đi thì anh đi, tôi bảo người kia đến thì anh đến, tôi bảo gia nhân làm cái này thì nó làm!"

Nghe vậy, Chúa Giêsu ngạc nhiên và nói với những kẻ theo Người rằng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta không thấy một lòng tin mạnh mẽ như vậy trong Israel. Ta cũng nói cho các ngươi biết rằng: nhiều người từ phương đông và phương tây sẽ đến dự tiệc cùng Abraham, Isaac và Giacóp trong nước trời. Còn con cái trong nước sẽ bị vứt vào nơi tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc lóc nghiến răng." Ðoạn Chúa nói với viên sĩ quan rằng: "Ông cứ về, ông được như ông đã tin." Và ngay giờ ấy, gia nhân ông đã được lành mạnh.

Khi Chúa Giêsu vào nhà ông Phêrô, thấy bà mẹ vợ ông đang sốt rét liệt giường. Chúa chạm đến tay bà và cơn sốt biến đi. Bà chỗi dậy tiếp đãi các ngài. Ðến chiều, họ đưa đến cho Chúa nhiều người bị quỷ ám: Chúa dùng lời đuổi quỷ, và chữa lành tất cả các bệnh nhân, để ứng nghiệm lời tiên tri Isaia nói rằng: "Người đã gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, và đã mang lấy những nỗi đau thương của chúng ta."

TRUYỆN KỂ

1. Sức mạnh của niềm tin

Một cuộc nghiên cứu tại một trường đại học ở Hoa Kỳ thực hiện nơi 2800 người già cũng chứng minh rằng con số những người không bao giờ đến nhà thờ bị nhồi máu cơ tim cao gấp hai lần so với những người đi lễ hàng tuần. Bác sĩ Haberth, Giáo sư phụ khảo thuộc trường đại học y khoa ở Hoa Kỳ ghi nhận rằng: Từ 60 đến 90% những lần viếng thăm bác sĩ đều liên quan đến những chứng mất ngủ, huyết áp cao và bệnh tim, ông khẳng định rằng: Lời cầu nguyện thường xuyên có sức mạnh ngăn chặn lại nhịp tim và nhịp thở cũng như huyết áp.

Nhà vật lý Archimède đã nói: “Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẩy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên." Trên quan điểm của Archimède, văn hào Kierkegaard đã giải thích thêm: “Điểm tựa ấy chính là đức tin, tin vào Thiên Chúa có thể làm được mọi chuyện."

Viên bách quản là người ngoại đạo mà ông tỏ ra khiêm tốn và tin tưởng cầu xin Ðức Giêsu chữa lành cho người đầy tớ đang bệnh nặng. Ông không dám đòi hỏi Chúa đến tận nơi, khi khiêm tốn nhận ra mình bất xứng và không dám rước Ngài vào nhà mình chỉ “xin Thầy phán một lời." Trước niềm tin mạnh mẽ và khiêm tốn của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu tỏ ra hài lòng và thán phục niềm tin mạnh mẽ của một người ngoại giáo: Một niềm tin khiêm nhường, đơn sơ nhưng mãnh liệt!

2. Nỗ lực rồi cậy trông

Nữ thủ tướng Margaret Hilda Thatcher sinh ra tại một thị trấn nhỏ của Anh. Từ nhỏ, bố của Margaret đã giáo dục cô rất nghiêm khắc. Ông thường xuyên nói với cô những câu như: “Cho dù làm bất cứ việc gì cũng phải tranh làm đầu tiên, tuyệt đối không được đứng sau người khác. Cho dù ngồi xe bus cũng phải ngồi hàng ghế đầu. Hơn nữa, tuyệt đối không được phép nói: “Khó quá” hay “Con không làm được."

Quả thực đối với cô bé Margaret, yêu cầu như vậy là quá nghiêm khắc. Nhưng có điều cũng chính vì sự giáo dục nghiêm khắc của bố như vậy nên Margaret đã hình thành thái độ học tập tích cực. Mỗi khi làm chuyện gì, Margaret luôn mang trong mình niềm tin tất thắng, hơn nữa sẽ cố gắng hết sức để thực hiện mục tiêu của mình. Cô đã dùng hành động thực tế để chứng minh mình phải ”vĩnh viễn ngồi ở ghế hàng đầu."

Hồi Margaret học đại học, nhà trường đề ra kế hoạch dạy tiếng Latinh trong vòng năm năm. Kết quả chỉ trong một học kỳ, Margaret đã học xong hết, hơn nữa thành tích thì lại rất cao. Cô đã xuất sắc đứng đầu. Margaret không chỉ có thành tích xuất sắc mà còn tích cực tham gia thể thao, ca hát, diễn thuyết và những hoạt động khác của trường. Cô đã trở thành học sinh ưu tú của trường. Giảng viên đại học của Margaret đã từng nói: “Margaret là học sinh xuất sắc nhất của trường chúng tôi từ khi thành lập đến nay. Cô bé lúc nào cũng tự tin, luôn làm tốt mọi chuyện." Cô đã có một niềm tin mạnh vào cuộc sống và tương lai của mình.

Về sau, Thatcher trở thành một nữ thủ tướng đầu tiên trong lịch sử nước Anh, trở thành ngôi sao sáng chói trên vũ đài chính trị Châu Âu.

3. Cầu nguyện với lòng tin

Cha Charler de Foucauld cũng cầu xin Chúa rất nhiều. Nhưng Cha luôn kết thúc bằng câu Chúa đã nói ở Vườn Cây Dầu “Nhưng xin đừng theo ý con mà hãy theo ý Chúa.” Một cách cầu xin vừa đơn sơ ở chỗ muốn gì cứ thành thật bày tỏ, nhưng cũng vừa phó thác.

Khi bị rơi vào hoàn cảnh đau thương, tôi thường ngã lòng không muốn cầu nguyện nữa. Như thế là tôi đã quên rằng Chúa là Đấng “Gánh lấy các bệnh tật của chúng ta, mang lấy những nỗi đau của chúng ta.” Tôi đã quên lời mời gọi ưu ái của Ngài “Hỡi tất cả những ai gồng gánh nặng nề, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho anh em được nghỉ ngơi bồi dưỡng.”

4. Niềm tin phải tuyêt đối

Có một người kia đi biển, tình cờ gặp một trận cuồng phong bão táp. Trận cuồng phong bão tố này đã làm ông sợ đến nỗi muốn ngất đi. Giữa lúc đó thì mắt ông lại thấy như Chúa Giêsu đang đi trên mặt biển tiến về phía ông. Nhớ lại câu chuyện trong Tin Mừng thuở xưa, lúc các tông đồ của Chúa cũng gặp hoàn cảnh tương tự như vậy, ông kêu to: “Lạy Chúa, nếu thật là Ngài, xin hãy cho tôi cũng đi trên mặt nước mà đến với Ngài." Đức Giêsu bảo:

- Hãy lại đây.

Nghe thế, ông vội mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ theo, ông nhảy xuống nước tiến về phía Đức Giêsu bất chấp sóng to gió cả.

Đức Giêsu mỉm cười đưa tay đón lấy ông và hỏi:

- Tại sao con nghi ngờ Lời Ta nói, hỡi kẻ kém lòng tin.

Nghĩ mình bị Chúa trách oan, ông vội vã cãi lại.

- Đâu có, con có nghi ngờ Lời Chúa nói bao giờ đâu.

Chúa lắc đầu hỏi:

- Thế tại sao con lại mặc chiếc áo an toàn và mang phao cứu hộ trước khi con tiến về phía Ta?

Nhìn hai vật vô ích trên mình, ông gãi đầu thưa:

- Cái này..., những cái này con mang theo chỉ để phòng hờ!

5. Dám chết vì đức tin mới là tin

Ngày quân đội Liên Xô tràn vào chiếm thủ đô Hungary, một viên sĩ quan trẻ dáng vẻ hung hãn đầy tự đắc của kẻ chiến thắng đã đến gặp vị mục sư.

Viên sĩ quan chỉ vào cây Thánh Giá treo trên tường và nói:

- Ông biết không? Cái đó là sự dối trá do các mục sư bày ra để làm mê hoặc đám dân nghèo, giúp cho những kẻ giàu dễ dàng kìm hãm họ trong cảnh ngu dốt. Bấy giờ chỉ có ông với tôi. Ông hãy thú nhận với tôi rằng, ông không hề bao giờ tin ông Giêsu là con Thiên Chúa.

Vị mục sư cười và trả lời:

- Ông bạn ơi, tôi tin thật đấy, vì đó là sự thật.

Viên sĩ quan quát lớn:

- Ông đừng có lừa dối tôi, cũng đừng diễu cợt tôi!

Nói thế rồi anh ta rút súng ra chĩa vào vị mục sư và hăm dọa:

- Nếu ông không nhận rằng, đó chỉ là sự dối trá, thì tôi bắn ông!

Vị mục sư điềm tĩnh trả lại:

- Tôi không thể nói như vậy, vì không đúng. Đức Giêsu thật là con Thiên Chúa.

Nghe thế, viên sĩ quan liền buông khẩu súng rơi xuống sàn nhà, rồi chạy lại ôm chầm lấy vị mục sư, vừa khóc vừa nói:

- Đúng thế, đúng thế! Tôi cũng tin như vậy. Nhưng tôi không thể tin rằng, có người dám chết vì đức tin, cho tới khi chính tôi khám phá ra điều này. Tôi xin cám ơn ngài. Ngài đã củng cố lòng tin của tôi. Ngài đã chứng minh cho tôi thấy rằng, vẫn có người dám chết cho Đức Kitô. Chính ngài đã củng cố Đức Tin cho tôi!

6. Chỉ một lời nói

Ca dao Việt Nam nhắc nhở: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Câu nói của viên đại đội trưởng được xem là câu nói hay nhất của một người ngoại giáo trong Tin Mừng, vừa lòng Đức Giê-su và được Ngài tấm tắc khen ngợi. Câu nói này diễn tả hai điều: một là sự tế nhị tinh tế và hai là lòng tin mạnh mẽ. Tế nhị vì ông biết rằng người Do Thái vào nhà người ngoại giáo bị ô uế theo luật, sẽ phải chịu nghi thức thanh tẩy; do đó, ông xin Ngài đừng vào nhà ông, để tránh cho Ngài một tình trạng khó xử. Lòng tin mạnh mẽ đến độ ông tin rằng vị Thầy Giê-su quyền năng này có khả năng chữa bệnh từ xa, chỉ bằng một lời nói. Như vậy, chỉ cần một câu nói của ông làm Đức Giê-su hài lòng thán phục, và cũng chỉ cần một lời nói của Ngài khiến đầy tớ ông được lành mạnh.

“Một vết chém của con dao có thể chữa khỏi được, nhưng một vết chém của lưỡi thì khó lòng chữa khỏi” (ngạn ngữ Tây Ban Nha). Lời nói có sức mạnh, đem lại niềm vui, nhưng cũng có sức hủy diệt, đem lại chết chóc. Bạn hãy là tông đồ bằng miệng lưỡi, nói những lời tế nhị, tốt đẹp, đem lại an bình, niềm vui cho người chung quanh.

Hãy khởi đầu một ngày sống bằng vài lời nói tích cực, vui tươi và tế nhị với người lân cận.

7. Cần đến Chúa

Một giáo viên ở vùng quê luôn nhắc nhở học trò rằng Chúa Giêsu sẵn lòng giúp đỡ chúng những khi cần thiết. Một ngày mùa đông nọ, một trận bão tuyết ập đến. Cô giáo cho lớp học nghỉ sớm và dẫn học trò đi xuyên qua tuyết và gió. Nói một cách văn chương, cô ta đang lôi kéo chúng qua vũng tuyết dày đặc. Đột nhiên, một cậu bé nói với cô giáo: “Em nghĩ đã đến lúc phải kêu cầu Chúa Giêsu.”

Tôi có nhớ đã bao giờ, sau khi cố gắng làm những gì có thể, tôi hướng về Chúa Giêsu để xin Ngài trợ giúp không? Tôi đã đạt kết quả gì?

Cầu nguyện là cách diễn tả chúng ta là ai… Cuộc sống chúng ta chưa được hoàn thành. (Thomas Merton)

8. Nền tảng cho đời sống

Một giáo viên ở vùng quê luôn nhắc nhở học trò rằng Chúa Giêsu sẵn lòng giúp đỡ chúng những khi cần thiết. Một ngày mùa đông nọ, một trận bão tuyết ập đến. Cô giáo cho lớp học nghỉ sớm và dẫn học trò đi xuyên qua tuyết và gió. Nói một cách văn chương, cô ta đang lôi kéo chúng qua vũng tuyết dày đặc. Đột nhiên, một cậu bé nói với cô giáo: “Em nghĩ đã đến lúc phải kêu cầu Chúa Giêsu.”

Tôi có nhớ đã bao giờ, sau khi cố gắng làm những gì có thể, tôi hướng về Chúa Giêsu để xin Ngài trợ giúp không? Tôi đã đạt kết quả gì?

Cầu nguyện là cách diễn tả chúng ta là ai… Cuộc sống chúng ta chưa được hoàn thành. (Thomas Merton)

9. Điều không thể lại có thể

Năm 1842, Quốc hội Mỹ cười đùa khi Samuel Morse giải thích ý tưởng truyền tin bằng giây kim loại. Năm 1878, Nghị viện Anh cười đùa khi Thomas Edison giải thích ý tưởng tạo ra ánh sáng trong một cái lọ thủy tinh. Năm 1908, viên chức J.P Morgan cười đùa khi Bill Durant đưa ra ý tưởng một ngày nào đó nửa triệu xe hơi mỗi năm sẽ di chuyển trên các nẻo đường quốc gia.

Khi tôi nghe một ai đó, đặc biệt một người trẻ tuổi, trình bày một ý tưởng mà tôi không hoàn toàn lĩnh hội được hoặc không đồng ý, tôi thường phản ứng ra sao? Tôi nên phản ứng thế nào? Vì sao?

Một ý tưởng mới là rất mong manh. Nó có thể bị giết chết chỉ vì một cái cười khẩy hay một cái ngáp; bị đâm chết bời một lời châm biếm và nhai nghiến đến chết bởi cái cau mày của một người đáng kính. (Charles Brower)

Lễ Thánh Tâm

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lễ Trái tim Vô Nhiễm Đức Mẹ

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lễ Sinh Nhật Thánh Gioan Tẩy Giả

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1. truyện

Lễ hai thánh Phêrô và Phaolô

Lời Chúa: Mt 16, 13-19

Khi ấy, Chúa Giêsu đến địa hạt thành Cêsarêa Philipphê, và hỏi các môn đệ rằng: “Người ta bảo Con Người là ai?” Các ông thưa: “Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là Êlia, kẻ khác lại bảo là Giêrêmia hay một tiên tri nào đó." Chúa Giêsu nói với các ông: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai?” Simon Phêrô thưa rằng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống."

Chúa Giêsu trả lời rằng: “Hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Vậy Thầy bảo cho con biết: Con là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và cửa địa ngục sẽ không thắng được. Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước trời. Sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở."

TRUYỆN KỂ

1. Hai đá tảng và trụ cột của Giáo hội--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Trong mọi công trình xây dựng, các chuyên gia đều chú trọng đến nền móng và trụ cột nâng đỡ toàn bộ kiến trúc của công trình.

Trong ngôi nhà Giáo hội cũng vậy, chúng ta là những viên gạch để xây dựng lên và đã được Thiên Chúa kiến thiết với nền móng vững chắc từ “đá tảng niềm tin Phêrô và cột trụ bền vững nhiệt thành Phaolô." Hai vị được nhìn nhận như là nền móng và trụ cột của công trình Giáo hội Chúa giữa trần gian. Trong kinh tiền tụng lễ hai thánh Phêrô và Phaolô, Giáo hội đã long trọng tuyên bố: ”Thánh Phêrô là người đầu tiên tuyên xưng đức tin, thánh Phaolô là người làm sáng tỏ đức tin, thánh Phêrô thiết lập Hội Thánh tiên khởi cho người Israel, thánh Phaolô là thầy giảng dạy muôn dân."

Thánh Phêrô lúc đầu có tên là Simon, làm nghề đánh cá và đã có gia đình. Ngài được Chúa Giêsu gọi đi theo Người trong một lần đánh cá ở trên biển. Ngài đã đại diện các môn đệ tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 16, 16) được Chúa đặt đứng đầu nhóm Mười Hai. Ngài là một trong bốn môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu (x. Mt 4, 18-22) được tham dự hầu hết những biến cố quan trọng trong cuộc đời công khai của Chúa... Trong những lúc khó khăn nguy khốn, vì yếu lòng tin ngài đã chối Chúa ba lần nhưng đã quay trở lại và làm cho đức tin của Giáo hội phát triển mạnh tại Giêrusalem, sau khi Chúa về trời. Ngài tử đạo khoảng năm 64-67.

Thánh Phaolô, trước đây là một biệt phái, sau khi bị Chúa làm cho ngã ngựa và làm mù lòa trên đường Đamas khi đang bách hại đạo Chúa. Ngài đã được Chúa chọn làm tông đồ rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Ngài thành lập nhiều cộng đoàn cũng như viết thư thăm hỏi, giải quyết những vấn đề của cộng đoàn mà ngài không thể tới được. Ngài tử đạo năm 67 tại Rôma.

Noi gương hai thánh tông đồ, chúng ta gắn kết cuộc đời mình với Đức Kitô để kín múc nơi Người nguồn sức mạnh tình yêu, hầu chia sẻ cho mọi người và sống chứng nhân Tin Mừng.

2. Hình ảnh Chúa Kitô

Ngày kia, hoàng đế của một vương quốc lớn đã mời gọi các nghệ sĩ từ nhiều nước đến dự cuộc thi “mô tả chân dung hoàng đế." Các nghệ sĩ Ấn Độ đến với đầy đủ dụng cụ và các thứ đá hoa kim cương quí nhất. Các nghệ sĩ Ai cập thì mang đến đủ thứ đồ nghề và một khối cẩm thạch hảo hạng. Sau cùng người ta rất nhạc nhiên khi thấy phái đoàn Hy Lạp chỉ mang vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng.

Mỗi phái đoàn dự thi trong một căn phòng đặc biệt của cung điện. Khi thời gian đã hết, hoàng đế cho trưng bày các tác phẩm tranh giải. Ông hết sức khen các bức chân dung của chính mình do các nghệ sĩ Ấn Độ và Ai cập tạc nên. Sau cùng đến phòng trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế chỉ thấy duy nhất một bức tường đã được đánh bóng đến độ khi hoàng đế nhìn vào ông thấy khuôn mặt của mình hiện ra từng nét. Và phái đoàn Hy Lạp đã đoạt giải nhất trong cuộc thi đó.

Sứ mệnh căn bản của mỗi Kitô hữu là hoạ lại dung nhan của Đức Kitô nơi cuộc sống và tâm hồn của mình. Để đạt được điều đó, chúng ta phải đục đẽo, phải loại bỏ tất cả những gì là gồ ghề, thô nháp, những thói hư tật xấu và phải cầu xin để có một đức tin vững mạnh.

Lạy Chúa, xin cho con biết kiên nhẫn đục đẽo tâm hồn và cuộc sống con để dung nhan Ngài giãi sáng qua mọi hành vi của đời sống con.

3. Tác phẩm của tình yêu

Nhà điêu khắc Dannecker người Đức, đã để nhiều công khó trong công tác tạc một bức tượng của Chúa Giêsu bằng cẩm thạch. Trong hai năm đầu, bức tượng đã xong, nhà điêu khắc mời một em bé vào phòng vẽ của mình và hỏi em bé rằng:

- Ai đó?

Em bé tức khắc trả lời:

- Một vĩ nhân.

Nhà điêu khắc buồn và nghĩ rằng, công khó của mình trong hai năm kể như đã hỏng. Ông tiếp tục tạc lại trong sáu năm nữa và mời một em bé khác vào phòng vẽ và hỏi:

- Em biết bức tượng này là ai không?

Sau khi nhìn bức tượng một lúc, yên lặng và nước mắt tràn ra đôi mi, em khẽ nói:

- Hỡi những con trẻ đau khổ hãy đến cùng ta!

Nhà điêu khắc thoả mãn, thành công về tác phẩm của mình. Nhà điêu khắc Dannecker sau đó đã tuyên bố:

- Tôi đã thấy Chúa Cứu Thế Giêsu và hình ảnh của Ngài đã thể hiện trong khi tôi tạc bức tượng Ngài bằng cẩm thạch này.

Sau đó ít lâu, hoàng đế Napoléon Bonaparte yêu cầu nhà điêu khắc tạc cho hoàng đế bức tượng nữ thần Vệ Nữ để trưng bày trong viện bảo tàng Louvre, Paris. Hoàng đế hứa sẽ trả cho ông một món tiền rất lớn, nhưng Dannecker từ chối. Ông nói rằng: “Một người đã thấy Đấng Kitô và đã tạc vẽ mặt của Ngài rồi, thì không thể dùng nghệ thuật của mình vào những việc ở đời này được nữa, bởi vì làm như thế là tục hoá nghệ thuật của mình mất rồi."

4. “Ngục thất nơi giam hai thánh Phêrô và Phaolô: Từ tăm tối trở thành ánh sáng."

Sau một năm trời khai quật, Nhà ngục Mamertine, nơi Thánh Phêrô và Phaolô phải giam giữ trước khi bị hành hình, đã được tân trang và mở cửa lại.

Địa điểm nhà ngục nằm cạnh Quần thể Cổ Roma (Ancient Roman Forum), tạc sâu vào vách đá của đồi Capitol (Capitoline Hill) và nhìn xuống ngôi nhà dùng làm Nghị viện thời đó. Người ta vẫn tin là nhà ngục này – còn có tên gọi là Carcer Tullianum – được hoàng đế Roma Servius Tullius xây vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, gồm có hai phòng giam chồng lên nhau. Phòng giam dưới là một khoảng chật hẹp ẩm thấp, chỉ xuống được qua một lỗ hổng trên sàn phòng giam trên, được sử dụng suốt thời kỳ Cộng hoà và Đế quốc Roma để làm tù ngục giam giữ và hành quyết.

Chính tại phòng giam này viên tướng chỉ huy quân đội người Gaule là Vercingetorix bị xiết cổ chết sau trận chiến thắng của Julius Caesar, và cũng tại nơi đây, trong tù ngục âm u, Jugurtha, vua người Numidians đã bị để cho chết đói. Vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, Sallust một văn sĩ Roma đã mô tả nhà ngục này “sâu 12 feet, chung quang là tường và trên là mái vòm bằng đá. Khung cảnh thật ghê tởm và đáng sợ vì bị bỏ bê, tối tăm và hôi thối.”

Một thế kỷ sau lời mô tả như trên của Sallust, Thánh Phêrô và Phaolô đã phải đến cư ngụ trong phòng giam dưới cực kỳ ghê tởm này, trong những ngày cuối đời trước khi tử vì đạo, bị cầm tù theo lệnh của hoàng đế Nero. Sự hiện diện của hai vị tông đồ đã chuyển biến địa điểm thất vọng này thành nơi chỗ hy vọng, khi các ngài rao giảng đức tin cho lính canh ngục là Processus và Martinianus. Hai người lính Roma xin được rửa tội, nhưng không có nước trong phòng giam để cử hành bí tích này, vì thế Thánh Phêrô dùng gậy đập trên nền phòng và nước phun ra từ tảng đá. Địa điểm nơi dòng nước của phép lạ này chảy ra nay còn được ghi nhớ nơi phòng giam dưới.

Những người giam giữ Phêrô giúp ông vượt ra khỏi nhà ngục tồi tệ này, nhưng sau khi gặp được Chúa Kitô trên con đường Appian, Thánh Phêrô quay trở lại và tự ý nhận lấy cái chết là bị đóng đinh vào thập giá tại đấu trường của Nero trên đồi Vatican.

Tuần qua, văn phòng của vị giám sát khảo cổ tại Roma loan báo rằng công việc khai quật đã khám phá ra những phần còn lại của các bích họa cho biết việc chuyển đổi nơi này thành một không gian tôn kính của người Kitô giáo đã xảy ra ngay tận đầu thế kỷ thứ 7, cùng thời gian với việc Curia (Nghị viện) được biến đổi thành một thánh đường cũng như nhiều cấu trúc khác trong khu vực Quần thể. Cuộc khai quật dõi tìm được dấu vết nhiều giai đoạn khác nhau của khu vực này, từ lúc còn là khu mỏ đá cổ cho đến khi trở thành nhà ngục cho đến lúc “biến đổi rất nhanh”thành một trung tâm tôn kính Thánh Phêrô.

Ngày nay, ngục giam này nằm dưới ngôi Thánh đường San Giuseppe dei Falegnami xây vào thế kỷ 17, nhưng địa điểm là do Tòa giám quản giáo phận Roma sở hữu và sẽ được Opera Romana Pellegrinaggi mở cửa cho công chúng vào thăm viếng có thể là từ đầu tháng 7 này. Ở đó khách hành hương có cơ hội tỏ lòng tôn kính hai thánh Phêrô và Phaolô. Hai thánh nhân đã từng nhìn ra ngoài Quần thể nơi có nhiều đền đài thờ phượng những con người phàm đã biến thành thần nhân, và các ngài đã có dũng cảm tuyên xưng Tin Mừng của Thần Chúa đã sinh hạ làm người phàm. (x.VietCatholic News, 03-7-2010).

5. Phêrô và Phaolô, tượng đài hiệp nhất.

Giáo hội mừng kính hai thánh Tông đồ, hai cột trụ Giáo hội cùng chung một ngày. Hai con ngưòi khác nhau từ cá tính đến thân thế nhưng cùng chung một ơn gọi từ Chúa Kitô, cùng chung một niềm tin vào Chúa Kitô, chung một sứ mạng Chúa Kitô trao phó và cuối đời cùng chịu tử đạo vì Chúa Kitô tại Roma. Cùng chia sẽ một niềm tin, cùng thi hành một sứ mạng, Chúa Kitô đã đã đưa hai Ngài đến một cùng đích, một vinh quang đội triều thiên khải hoàn. Hai con người khác biệt ấy laị có những điểm tương đồng lạ lùng.Chúa Kitô đã nối những điểm tương đồng ấy để tất cả được nên một ở trong Người. Thánh Phêrô, trước đây hèn nhát, sợ hãi, chối Chúa, về sau yêu Chúa nồng nàn thiết tha. Thánh Phaolô, trước kia ghét Chúa thậm tệ, sau này yêu Chúa trên hết mọi sự. Trước kia hai vị rất khác biệt, bây giờ cả hai nên một trong tình yêu Chúa.

Sự nghiệp Tông đồ tiếp bước Chúa Kitô, hai vị hiệp nhất trong cùng một lòng chân thành tuyên xưng, hiệp nhất trong một tâm huyết nhiệt thành rao giảng để rồi mãi mãi hiệp nhất trong cùng một đức tin minh chứng. Mặc dù có nhiều khác biệt về thành phần bản thân, về ơn gọi theo Chúa về hướng truyền giáo, nhưng cả hai vị đã tạo nên sự hiệp nhất trong đa dạng. Cùng chịu tử đạo. Cùng trở thành nền móng xây toà nhà Giáo hội. Cùng trở nên biểu tượng hiên ngang của niềm tin Công Giáo. Hai Vì Sao Sáng được Giáo hội mừng chung vào một ngày lễ 29 tháng 6. Hai Tông Đồ cột trụ đã trở nên tượng đài của sự hiệp nhất trong Giáo hội. Hiệp nhất là một công trình được xây dựng với nhiều nổ lực của con người dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh. “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều chính, yêu thương trong tất cả”, đó là khuôn vàng thước ngọc cho tinh thần hiệp nhất trong Giáo hội (x. Làm nụ hoa trắng. ĐGM Vũ Duy Thống).

6. Là người tội lỗi được Chúa nhìn đến.

Đón nhận ánh sáng từ nơi Chúa Kitô, hoạt động truyền giáo theo sự dẫn dắt của Chúa Thánh Linh, hai Thánh Tông đồ trở nên nền tảng hiệp nhất. Hai ngài trở thành chói sáng như hai vì sao trong vòm trời Giáo Hội, đáng được các tín hữu chiêm ngắm noi theo. Hai ngài đã biết khiêm tốn, nhận mình là thấp hèn tội lỗi rồi mở tâm hồn ra đón nhận tình thương của Thiên Chúa.

Khi trả lời câu phỏng vấn: “Jorge Bergoglio là ai?”, Đức Thánh cha Phanxicô đáp: “Tôi là người tội lỗi được Chúa nhìn đến." Và ngài tuyên bố: “Chính tôi là người tội lỗi đây, có gì lạ đâu! Cái lạ là ở chỗ được Chúa nhìn đến, được Chúa xót thương. Và từ đó người ta tìm xem Chúa xót thương ở chỗ nào."

Xin hai Thánh Tông Đồ giúp chúng con luôn biết tín thác vào tình thương của Chúa. luôn biết tiến bước theo các ngài trên con đường theo Chúa. Amen.

7. Đứng dậy nhờ ơn Chúa

Trong buổi trò chuyện, diễn thuyết tối 22/05 tại White Palace (Tp. HCM), Nick Vujicic đã cho mọi người thấy rằng, người bị khuyết tật nghĩa là họ khiếm khuyết điều gì đó, nhưng người mang nỗi tự ti mới là người bị khuyết tật thực sự.

Nick đã nói: “Dù ai đó không phải ngồi trên xe lăn nhưng bạn vẫn phải trải qua những thời điểm khó khăn trong cuộc sống. Nếu lúc đó bạn thiếu tự tin, bạn sợ thất bại, sợ nhìn về tương lai thì chính điều đó sẽ níu kéo bạn, khiến bạn không thể tiến lên."

Nick còn nói thêm: “Khi tôi 10 tuổi, tôi gần như muốn buông xuôi, tôi muốn đầu hàng và nghĩ không bao giờ có công việc, có thể cưới vợ, lập gia đình. Nhưng bây giờ tôi không chỉ lấy vợ, lập gia đình mà còn có đứa con trai.

Quả thực, con người luôn có những khuyết tật. Có người bị khuyết tật điều này, người điều kia. Không ai hoàn hảo về thể xác hay về tâm hồn. Tuy nhiên, có người biết bổ túc cho khuyết tật của mình bằng nghị lực, bằng phấn đấu, bằng niềm tin vươn lên. Nhưng cũng có người buông xuôi, than trách cho số phận và để mặc cho dòng đời đưa đẩy.

Nick không phải là một thiên tài. Nick là một nhân vật điển hình cho bao người biết phấn đấu vươn lên để bổ túc cho khuyết tật của mình. Anh không có chân tay nhưng anh vẫn lạc quan phấn đấu vươn lên, nhất là biết dùng môi miệng mình để diễn thuyết, để rao giảng về Thiên Chúa.

8. "ST" nghĩa là sự thánh thiện

Người ta kể rằng: tại một vùng miền quê nước Mỹ, có hai anh em nhà kia vì quá đói khổ, nghèo nàn đã trở thành kẻ "bần cùng sinh đạo tặc." Họ rủ nhau đi ăn cắp cừu của nông dân trong vùng. Không may hai anh em bị bắt. Dân trong làng đưa ra một hình phạt là khắc lên trán tội nhân hai mẫu tự "ST", có nghĩa là quân trộm cắp (viết tắt từ chữ stealer).

Không chịu nổi sự nhục nhã này, người anh đã trốn sang một vùng khác sinh sống để mong chôn chặt dĩ vãng. Thế nhưng, anh chẳng bao giờ quên được nỗi nhục nhã mỗi khi ai đó hỏi anh về ý nghĩa hai chữ "ST" đáng nguyền rủa này.

Còn người em, anh tự nói với bản thân mình: "Tôi cần phải lấy lại lòng tin của những người xung quanh và của chính tôi." Thế là anh tiếp tục ở lại xứ sở của mình. Chẳng mấy chốc anh đã xây dựng cho mình một sự nghiệp cũng như tiếng thơm là một người nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người khác với tất cả những gì mình có thể. Anh lao động bằng đôi tay của mình. Anh dành một phần hoa lợi để giúp đỡ người nghèo. Anh sống chan hoà tình yêu thương với mọi cư dân trong vùng. Tuy nhiên, cho dẫu thời gian có qua đi, hai mẫu tự "ST" vẫn còn in dấu trên vầng trán anh. Nhưng chẳng mấy ai để ý đến ý nghĩa hai chữ ST trên vầng trán của anh.

Ngày kia, có một người lạ mặt hỏi một cụ già trong làng về ý nghĩa hai mẫu tự này. Cụ già suy nghĩ một hồi rồi trả lời: "Tôi không biết rõ lai lịch của hai chữ viết tắt ấy, nhưng cứ nhìn vào cuộc sống của anh ta, tôi đoán hai chữ đó có nghĩa là người thánh thiện (saint)."

Hôm nay lễ kính thánh Phêrô và Phaolô, các ngài trở thành thánh nhân cao cả là nhờ biết khép lại quá khứ để chỉ lo tìm kiếm ý Chúa và thực thi trong hiện tại và suốt cuộc đời.

9. Ngài Là Cha Tôi--‘Lẽ Sống’--R. Veritas

Truyện cổ Roma thường ghi lại các cuộc chiến thắng khải hoàn của các vị Hoàng đế. Sau một lần thắng trận, các vị hoàng đế thường hướng dẫn các đoàn quân tiến qua các ngã phố cho dân chúng tung hô.

Lần kia, các đường phố đều đông nghẹt. Người ta phải dựng một khán đài đặc biệt để hoàng gia có thể theo dõi cuộc diễu hành. Khi hoàng đế và quân đội tiến đến gần khán đài nơi hoàng hậu và các công chúa, hoàng tử đang chờ đợi, người ta kinh ngạc vô cùng vì vị hoàng tử nhỏ nhất đã rời khỏi khán đài và chạy vụt đến chiến xa của hoàng đế.

Những người vệ binh có trách nhiệm giữ an ninh hai bên đường đã chận hoàng tử lại. Họ giải thích cho cậu biết rằng: xa giá đang tiến lại gần chính là xa giá của hoàng đế. Không ai được phép đến gần... Vị hoàng tử nhỏ điềm nhiên trả lời: "Ngài là hoàng đế của các ông, còn đối với tôi thì ngài là cha tôi."

"Ngài là cha tôi": đó phải là danh xưng mà chúng ta có quyền sử dụng để gọi Thiên Chúa. Ðó cũng là danh xưng nói lên mối liên hệ mật thiết mà Thiên Chúa luôn muốn thắt chặt với từng người trong chúng ta.

"Ngài là cha tôi": danh xưng ấy cũng cho phép chúng ta khẳng định về giá trị của con người chúng ta. Dù chúng ta có bất tài, yếu hèn, tội lỗi đến đâu, chúng ta vẫn có thể gọi Chúa là Cha.

10. Con có yêu mến Thầy không?

Nơi bệnh viện mà nữ tu Antoinette đang phục vụ có một ông lính già cực kỳ khó tính. Gặp ai ông cũng nhăn nhó, nạt nộ. Có chuyện gì trái ý, ông la lối rùm beng lên.

Ngày kia, đang mải mê phục vụ, nữ tu Antoinette nghe tiếng "lính già khó tính" hét lớn: Đem cho tôi một quả trứng luộc." Antoinette vui vẻ đem quả trứng đến cho ông.

- Trứng chưa chín đủ mà cũng đem tới à? Lính già khó tính nhăn nhó. Antoinette tươi cười đem trứng đi luộc lại.

- Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Vô ý vô tứ quá!

Antoinette chẳng biết làm sao. Chị bèn đi lấy một cái bếp lò đến kê bên giường và trao cho ông lính già khó tính một cái trứng để luộc cho vừa ý ông. Ông lính già thấy thế nổi máu nóng lên, đạp đổ bếp lò, quẳng quả trứng xuống nền gạch, miệng quát lớn: "Cô không biết tôi là bệnh nhân sao? Bệnh nhân mà đi luộc trứng à?"

Nữ tu Antoinette chẳng nói nửa lời, thinh lặng cúi xuống thu nhặt, quét dọn ... Lát sau, chi đem đến cho ông lính già khó tính một cái trứng khác: "Ông cố gắng dùng thử cái trứng này, tôi luộc vừa chín thôi?" Bất giác, ông lính già rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: "Tôi ăn quả trứng này cũng là ăn lòng tốt của cô nữa."

Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng hơn bất cứ một biến đổi ngoạn mục nào, nhất là nó có khả năng biến đổi cả lòng người nữa.Ước gì chúng ta biết noi gương theo Thầy Chí Thánh Giêsu luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp nơi con người và luôn hy vọng vào những người đang lầm lạc trong cuộc đời này để dùng tình yêu mà cảm hoá họ.

Xin cho chúng ta luôn biết nhẫn nại và quảng đại với những sai lỗi của con người và luôn coi họ hành động sai lầm vì họ không biết và ngây ngô mà thôi. Chắc chắn rằng khi chúng ta biết hành động yêu thương như Chúa, như nữ tu Antoinette, chúng ta sẽ trở thành những tông đồ "trụ cột" như hai thánh Phêrô và Phaolô mà chúng ta mùng kính hôm nay.

11. Ách êm ái và gánh nhẹ nhàng

Ngày kia, chị thánh Têrêxa đố các chị em trong dòng:

- Các chị có biết ngày lễ vui mừng của em là ngày nào không?

Vừa hỏi xong, chị thánh đã mau mắn trả lời ngay:

- Đó là ngày Chúa thử thách em nhiều nhất. Đó là ngày Chúa để cho em chịu nhiều đau khổ nhất.

Một hôm kia, bà bề trên hỏi chị:

- Sáng nay, sao em vui thế?

Chị thành thật thưa lại:

- Dạ, con vừa làm được hai việc hy sinh.

Chị thánh Têrêxa thú nhận là chị đã tập được một thói quen rất anh hùng, đó là luôn mỉm cười. Chị nói:

- Tôi đã tập được thói quen mỉm cười trong mọi lúc, trong mọi nơi, trong mọi trường hợp, trong mọi hoàn cảnh.

Tình yêu chân thật được đo lường bằng sự quên mình vì người khác. Chúa Giêsu đã dạy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15,13)

Được thúc đẩy bởi tình yêu, sau khi bị đánh đòn vì Chúa Giêsu, “các Tông Đồ ra khỏi Thượng Hội Đồng, lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giê-su.” (Cv 5,41); riêng thánh Phaolô: “Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng.” (2Cr 11,24-27)

Tình yêu là lý do của việc sẵn lòng chịu đau khổ của ngài: “Không kể các điều khác, còn có nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội Thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2Cr 11,28-29)

Niềm vui và bình an là hoa trái của một tình yêu chân thật. Sức mạnh của tình yêu là ở đó; hạnh phúc do tình yêu mang lại là ở đó; thiên đường cũng ở đó!

12. Các con bảo Thầy là ai

Trước khi trở lại đạo, Genesius, vị thánh quan thầy của giới tài tử sân khấu, là một kịch sĩ nổi tiếng có nhiều ác cảm với đạo. Một phần ghét đạo, một phần lại sống trong thời của vị hoàng đế bắt đạo Diocletianus, nên anh định viết một vở hài kịch chế diễu các nghi lễ Kitô giáo. Để viết kịch, anh phải giả làm dự tòng đến một giáo đoàn ở Rôma để xin học đạo, định bụng là sau khi biết đủ những gì cần biết, anh sẽ viết một vở kịch chế diễu phép rửa tội.

Nhưng khi nói với các diễn viên về phép rửa trong lúc tập kịch, tự nhiên Genesius lại thấy mình muốn tin và ước ao chịu phép rửa. Lòng ao ước đó cứ lớn dần lên trong anh, cho đến hôm lần đầu diễn vở kịch cho hoàng đế và quần thần xem, thì Thánh Thần tác động lên anh, anh không đóng kịch nữa mà kêu lên từ đáy lòng: “Hỡi các bạn hề của tôi, tôi ao ước được trở nên một Kitô hữu.”

Các bạn diễn hỏi tại sao thì anh nói: “Suốt đời tôi chỉ là phù du, nay tôi đã tìm thấy Thiên Chúa.” Mọi người, kể cả hoàng đế rũ ra mà cười, nghĩ rằng Genesius nhập vai rất hay. Hai kịch sĩ bước vào, một đóng vai linh mục, một phù thủy. Khi họ hỏi anh muốn gì, anh lập lại ước muốn được rửa tội. Hai kịch sĩ đó rửa tội cho anh đúng như anh chỉ cho họ.

Rồi Genesius nói với hoàng đế, binh lính và dân chúng: “Tôi viết và đóng kịch để chế diễu (…) nhưng nay tôi đã tin và khi tôi nói những lời này, tôi thấy thiên thần của Chúa ở quanh tôi. Các thiên thần cho tôi biết nước rửa tội đã rửa tôi sạch hết mọi tội lỗi cũng như các sự dữ tôi đã làm. (…)

“Hỡi hoàng đế, hãy tin vào những mầu nhiệm này! Tôi sẽ dạy cho ngài và ngài sẽ biết Chúa Giêsu Kitô là Thiên Chúa thật.”

Lời Genesius làm đám đông nhốn nháo cả lên, hoàng đế cho trói anh lại mà đánh đòn và xẻo thịt anh. Dù phải đau đớn, anh vẫn tuyên xưng Giêsu là Thiên Chúa. Khi hoàng đế ra lệnh chém đầu, anh kêu to: “Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa và chúng ta sẽ có sự sống nhờ danh Ngài.”

Chúa hỏi các tông đồ: “Các con bảo Thầy là ai?” vì nhận biết Chúa là điều cốt yếu trong niềm tin Kitô, để được sự sống đời đời.

13. Vì Chúa và hội Thánh

Có người hỏi Đức ông Polgallo:

- Là người thân cận của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, vậy điều gì nơi Đức Thánh Cha đánh động Đức ông nhất?

- Dĩ nhiên ngài là vị Giáo Hoàng rất thông minh và thánh thiện. Nhưng với cá nhân tôi, điều ngài làm tôi cảm kích hơn cả là lòng yêu mến Hội Thánh. Trong các chuyến tông du, ngài hòa mình vào đám đông và để mọi người lôi kéo như quên mọi hiểm nguy có thể xảy đến. Những lúc thân mật chúng tôi thưa với ngài: “Thưa Đức Thánh Cha, chúng con thấy Đức Thánh Cha đã vất vả với công việc lại còn tự đặt mình vào nhiều hoàn cảnh có thể nguy hiểm đến tính mạng. Xin Đức Thánh Cha đừng để đám đông lôi kéo như thế vì rất nguy hiểm.”

Mỗi lần nghe chúng tôi góp ý như vậy, ngài chỉ cười và dịu dàng nói:

- Tất cả vì Hội Thánh! Tất cả vì Hội Thánh!

Thánh Phêrô và Phaolô là mẫu gương “vì Chúa và vì Hội Thánh” cho các Kitô hữu thuộc mọi thời đại. Kinh tiền tụng thánh lễ hôm nay Giáo Hội đã ca tụng: “Các ngài đã dùng đường lối khác biệt để quy tụ một gia đình duy nhất cho Đức Kitô, nên các ngài đáng được thế giới ngưỡng mộ và được lãnh nhận cùng một triều thiên vinh quang.”

Lời Chúa Tuần 12 Thường Niên
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch