CNPS 5B - Cây nho nối kết cành nho
THỨ NĂM - Niềm vui được trọn vẹn
THỨ SÁU - Yêu thương và phục vụ
THỨ BẢY - Chấp nhận lội ngược dòng
Thánh Giuse Thợ - Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện
và xin vâng
Thánh Philipphê Và Thánh Giacôbê - Ðến Với Chúa
NGÀY CỦA MẸ (chúa nhật thứ hai trong tháng Năm)
CNPS 5A - Xem thấy Cha
Lời Chúa: Ga 14, 1-12
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: “Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy
đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ cho các con rồi, Thầy
sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy
đi đâu, các con đã biết đường rồi."
Ông Tôma thưa Người rằng: “Lạy
Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?”
Chúa Giêsu đáp: “Thầy là đường,
là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các
con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ các con biết và đã xem
thấy Người."
Philipphê thưa: “Lạy Thầy, xin tỏ
cho chúng con xem thấy Cha, và như thế là đủ cho chúng con." Chúa Giêsu
nói cùng ông rằng: “Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy
ư, Philipphê? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha, sao con lại nói “Xin tỏ cho chúng
con xem thấy Cha”? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư?
Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở
trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở
trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật
các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm những việc Thầy đã làm. Người ấy còn
làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha."
TRUYỆN KỂ
1. Nhà cha tôi
Khi thánh Gioan Kim Khẩu được
triệu đến gặp Hoàng đế La Mã Arcadius và bị đe dọa trục xuất, ngài đã trả lời:
“Các người không thể trục xuất tôi được, vì thế giới này là nhà của Cha tôi.”
Hoàng đế giận dữ hét lên: “Vậy
thì ta sẽ giết ngươi." Gioan vặn lại: “Không, ngài không thể, bởi vì cuộc
sống của tôi được liên kết với Chúa Kitô.”
Hoàng đế trả lời dứt khoát: “Kho
báu của ngươi sẽ bị tịch thu."- “Thưa ngài, ngài không thể làm điều đó vì
kho báu của tôi ở trên Thiên đàng cũng như trái tim tôi ở đó.”
Hoàng đế đe dọa: “Ta sẽ đuổi
ngươi khỏi thần dân của ngươi, và ngươi sẽ không còn bạn bè nào nữa."-
“Thưa ông, điều đó ông cũng không thể làm được, vì tôi có một Người Bạn trên
Thiên Đàng đã nói: ‘Ta sẽ không bao giờ lìa bỏ hay bỏ rơi con.’”
* Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu, Đường, Sự Thật và Sự Sống, đưa ra cho chúng ta cùng một đảm bảo: “Trong
nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở. Thầy đi dọn chỗ cho các con, rồi Thầy sẽ trở lại
đón các con vào với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó.”
2. Có ai nữa?
Có câu chuyện về một người đàn
ông rơi xuống vách đá. Trong lúc rơi xuống, anh ta cố gắng níu lấy được một
cành cây. Nhìn chằm chằm xuống hẻm núi sâu, anh ta rùng mình, nhìn lên và gọi
to: “Làm ơn giúp tôi với. Có ai ở trên đó không?” Sau một khoảng im lặng khủng
khiếp, một giọng nói trả lời: “Phải, tôi đây.” Người bị nạn hét lên: “Bạn là
ai?” – “Là Ta, là Chúa!” Vô cùng vui mừng, người đàn ông nói: “Cảm ơn. Ngài đến
cứu con à?” Chúa phán: “Phải! Hãy buông tay ra.” Người đàn ông suy nghĩ một
giây rồi gọi tiếp: “Có ai khác ở trên đó không?”
* Chúng ta có thể hiểu việc người
đàn ông không muốn buông tay, nhưng quả thật, không có ai khác ở đó. Chúa Giêsu
nói điều đó khá rõ vào Chúa nhật hôm nay: “Thầy là Đường” (Ga 14,6). Người
không nói một con đường nào, nhưng chính là Con Đường.
3. Ước vọng thiên đàng
Một giáo lý viên hỏi các em
trong lớp giáo lý: “Có bao nhiêu em muốn lên Thiên đàng?” Tất cả bọn trẻ đều
giơ tay trừ một cậu bé tên là Nam. Khi giáo lý viên hỏi cậu tại sao cậu không
muốn lên Thiên đàng, cậu ấy nói: “Em xin lỗi cô, nhưng mẹ em bảo em về nhà ngay
sau khi học xong, bà nói nhà hôm nay có tiệc.”
Chà, cũng như những em thiếu
nhi, Thiên đàng vẫn là niềm khao khát, ước mơ của hầu hết mọi người. Chẳng hạn,
77% người Mỹ tin vào Thiên đàng và 76% người Mỹ tin rằng cơ hội đến được đó là
“tốt hoặc khá tốt." Bây giờ vẫn còn một số người không tin vào Thiên đàng
hoặc không quan tâm đến đó.
Nhà tâm lý học Sigmund Freud,
cho biết: “Thiên đàng là một tưởng tượng của con người bắt nguồn từ bản năng tự
bảo tồn của họ.” Triết gia trường đại học Harvard, Alfred North Whitehead, từng
hỏi: “Bạn có thể tưởng tượng điều gì ngu ngốc hơn ý tưởng về Thiên đàng của
Kitô giáo không?”
* Bạn có đón nhận Chúa Giêsu là
Chúa và là Đấng Cứu Độ và tin vào lời hứa của Người về một nơi ở trên trời như
được mô tả trong Tin Mừng hôm nay?
4. Nhà Cha
Nhà chú giải Kinh Thánh Tin lành
nổi tiếng của thế kỷ 18, Matthew Henry, biết trước rằng một số người sẽ thương
tiếc quá mức khi ông ra đi, nên đã viết những lời an ủi và trấn an này: “Các bạn
có muốn biết tôi đang ở đâu không? Tôi đang ở trong nhà của Cha tôi, trong những
căn phòng đã được chuẩn bị sẵn cho tôi ở đây. Tôi đang ở nơi tôi muốn đến –
không còn ở trên biển cả đầy bão tố nữa, mà ở trong bến cảng bình yên, an toàn
của Thiên Chúa.
Thời kỳ gieo hạt của tôi đã xong
và tôi đang gặt hái; niềm vui của tôi giống như niềm vui của mùa gặt. Các bạn
có muốn biết nó thế nào với tôi không? Tôi được hoàn thiện trong sự thánh thiện.
Ân sủng được mở rộng trong vinh quang. Các bạn có muốn biết tôi đang làm gì
không? Tôi chiêm ngắm Chúa, không phải qua một tấm kính mù mờ, mà là mặt đối mặt.
Tôi được dự phần vào sự vui hưởng ngọt ngào của Đấng Cứu Chuộc quý báu của tôi.
Tôi đang hát Halêluia cho Đấng ngự trên ngai tòa, và tôi không ngừng ca ngợi Ngài.
Bạn có biết đoàn ngũ nào tôi
đang hiện diện không? Nó còn tốt hơn so với cộng đoàn tốt nhất trên trái đất.
Đây là các thiên thần thánh thiện và linh hồn của những người công chính đã được
chúc phúc…Tôi đang ở cùng với nhiều người quen cũ mà tôi đã làm việc và cầu
nguyện, và với những người đã đến đây trước tôi. Cuối cùng, các bạn có biết điều
này sẽ tiếp tục trong bao lâu không? Đó là một bình minh không bao giờ phai!
Sau hàng triệu triệu thời đại, nó vẫn sẽ tươi mới như bây giờ. Vì vậy, đừng
than khóc cho tôi!
5. Chúa tỏ mình
Nhà thần học Karl Barth diễn
thuyết cho một lớp sinh viên tại đại học Princeton. Một sinh viên hỏi nhà thần
học người Đức: “Thưa ông, ông có nghĩ rằng Chúa cũng tỏ mình ra trong các tôn
giáo khác chứ không chỉ trong Kitô giáo không?”
Câu trả lời của Barth khiến đám
đông sửng sốt. Với một giọng mạnh mẽ nhưng khiêm tốn, ông trả lời: “Không, Chúa
không hề tỏ mình ra trong bất kỳ tôn giáo nào, kể cả Kitô giáo. Ngài đã bày tỏ
chính Ngài trong Con của Ngài.”
* Đây cũng là điều đáng cho
chúng ta suy nghĩ. Hiện nay có ba tôn giáo lớn trên thế giới: Hồi giáo, Do Thái
giáo và Kitô giáo. Nhưng chỉ có một Con Thiên Chúa, Đấng duy nhất qua đó Thiên
Chúa đã bày tỏ chính Ngài và Đấng duy nhất có những lời dạy vượt trên tất cả mọi
tôn sư. Người là Đường, Sự Thật và Sự Sống cho mọi người.
6. Lên thiên đàng
Bạn có biết rao giảng về Thiên
đàng là sai trái về mặt chính trị không? Các nhà kiểm duyệt văn hóa nói rằng đó
là một thứ thoát ly hoặc tình cảm vô vọng. Phim trường Hollywood và các phương
tiện truyền thông thường dạy rằng thế giới này là tất cả. Theo lập trường của họ,
tốt hơn hết bạn nên vui hưởng tất cả những gì bạn có thể ngay bây giờ, bởi vì
cái chết của bạn cũng giống như cái chết của chó và mèo.
Tôi nghe kể về một cậu bé mười
tuổi đang đi dạo trên bãi biển với mẹ của mình. Họ nhìn thấy một con hải cẩu đã
chết. Cậu bé hỏi: “Mẹ ơi, chuyện gì đã xảy ra với nó vậy?” Bà ấy nói: “Nó đã chết
và lên Thiên đàng.” Cậu bé suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Và có phải Chúa vừa ném
nó trở lại không?”
7. Tìm Chúa
Con đã yêu Chúa quá muộn màng,
ôi Đấng tốt đẹp rất cổ kính và rất tân kỳ! Con đã yêu Chúa quá muộn! Này Chúa vốn
ở trong con, mà con lại ở ngoài con, và tìm Chúa ở bên ngoài. Là kẻ xấu xa, con
đã lăn xả vào những thụ tạo xinh đẹp Chúa đã dựng nên.
Chúa đã ở với con mà con lại
không ở với Chúa. Chính những vật, nếu không hiện hữu trong Chúa, thì không bao
giờ hiện hữu, đã cầm giữ con xa Chúa. Chúa đã kêu gọi, đã gào thét, đã thắng sự
điếc lác của con.
Chúa đã soi sáng, đã chiếu rọi,
đã xua đuổi sự mù lòa của con. Chúa đã tỏa mùi thơm của Chúa ra và con đã được
hít lấy và đâm ra say mê Chúa. Con đã được nếm Chúa và đâm ra đói khát Chúa.
Chúa đã chạm tới con và con ước ao sự bình an của Chúa. (Thánh Augustinô, Tự
Thuật X, Chương 27/Phần 38).
8. Con đường
Trong Thế chiến hai, ở Malaya, một
tù nhân cố gắng trốn thoát khỏi trại tù binh. Anh ta được giúp đỡ bởi một người
bản địa, người đã dẫn anh ta đi xuyên qua một khu rừng rậm và từ đó đến tự do
và trở về nhà. Người bản địa đi trước, và người đàn ông đi theo anh phía sau. Rất
khó khăn, họ tìm đường đi qua bụi gai và bụi rậm, lên xuống, ngoằn ngoèo, và
người đàn ông trở nên rất mệt mỏi.
Lúc đó, anh ấy hỏi người bản địa:
“Bạn có chắc đây là con đường không?” Người bản xứ nhìn anh ta, và anh ta nói bằng
tiếng Anh ngọng nghịu: “Không có con đường nào khác. Tôi là con đường. Nếu anh
muốn được tự do và về nhà, thì anh phải đi theo tôi.”
* Cũng vậy, trong Bài Tin Mừng
hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai có thể đến với Cha mà không qua Thầy.” Khi chúng ta bướ đi với Người
qua cuộc sống trần gian đầy những thử thách và khó khăn, đau khổ và thất vọng
này, để về Nhà Cha trên trời, tất cả những gì chúng ta phải làm là nhớ rằng
chúng ta chỉ bước theo Người. (Cha Lakra).
9. Không, cảm ơn
(Chuyện vui)
Nhà truyền giáo Billy Graham kể
về thời gian của những năm đầu tiên trong sứ vụ rao giảng của mình. Khi sắp hướng
dẫn một buổi truyền giảng tại một thị trấn ở Nam Carolina, ông cần gửi một lá
thư. Ông hỏi một cậu bé trên phố làm cách nào để đến được bưu điện. Cậu bé chỉ
đường cho ông. Billy nói: “Nếu cháu đến nhà thờ Báptít Trung tâm tối nay, ta sẽ
chỉ cho cháu biết làm thế nào để lên Thiên đàng, nhà của Chúa Cha.”
Cậu bé trả lời: “Không, cảm ơn.
Ông thậm chí còn không biết đường đến bưu điện, mà ông lại định dạy cháu cách
lên Thiên đàng sao?!”
10.
Đường Giêsu, Đường con đi--‘Với Cả Tâm Tình’--GM. Giuse Vũ Duy Thống
Trong những ngày đầu tháng 02
năm 1990, có một con đường ở huyện ngoại thành đã được báo chí làm cho nổi tiếng.
Con đường ấy một đầu là giăng ngang biểu ngữ khai trương phòng vật lý trị liệu
trá hình, còn đầu kia là sừng sững một khách sạn mini sang trọng làm nhà riêng
của người biển thủ, chức danh là giám đốc. Con đường ấy chợt nổi tiếng vì những
vụ tai tiếng.
Từ hai mươi thế kỷ nay, trong
Giáo Hội, người ta biết có một con đường thật danh tiếng và luôn luôn nổi tiếng.
Con đường ấy mở ra bằng một tình thương và kết thúc bằng một hạnh phúc. Con đường
ấy trải dài tin yêu để lâng lâng vươn lên sự sống. Con đường ấy thấp sáng hy vọng
để dẫn tới Nhà Cha trên trời. Đường mở về miên viễn, Đường dẫn đến vĩnh hằng.
Đó là đường mang tên Chúa Giêsu.
11. Sống là một hành
trình
Một người nói chuyện với bạn là
một Kitô-hữu già cả: “Tôi sợ rằng anh gần đất xa trời rồi!” Người kia nhẹ nhàng
đáp: “Tôi biết chứ, nhưng nhân danh Chúa, tôi không sợ, mà tôi còn đặt hi vọng
vào đó.”
Sống là hành trình. Mà hành
trình thì phải hướng đến một điểm tới. Trong cuộc hành trình tới một nơi tôi
chưa từng biết, nếu tôi tự hướng dẫn thì dễ lạc đường; tôi đi theo sự hướng dẫn
của người khác thì có thể khá hơn; nhưng không gì bảo đảm bằng hành trình theo
sự hướng dẫn của Chúa Giêsu: “Không ai lên trời được ngoại trừ Con Người Đấng
đã từ trời xuống
12. Câu Kinh Thánh ngọt
ngào nhất
Một Kitô-hữu già cả sắp chết. Một
người đến nói:
- Con đọc cho cụ nghe một câu
Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé !
- Vâng.
- “Trong nhà Cha có nhiều chỗ...
Ta đi dọn chỗ cho các con”
- Không, đó không phải là câu ngọt
ngào nhất. Đọc tiếp đi
- ..."Ta sẽ trở lại để Ta ở
đâu các con cũng ở đó với Ta"
- Đó mới là câu ngọt ngào nhất.
Điều tôi cần, không phải là một chỗ, mà là chính Chúa.
13. Chúa ở trong ta
Một Kitô-hữu già cả sắp chết. Một
người đến nói:
- Con đọc cho cụ nghe một câu
Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé !
- Vâng.
- “Trong nhà Cha có nhiều chỗ...
Ta đi dọn chỗ cho các con”
- Không, đó không phải là câu ngọt
ngào nhất. Đọc tiếp đi
- ..."Ta sẽ trở lại để Ta ở
đâu các con cũng ở đó với Ta"
- Đó mới là câu ngọt ngào nhất.
Điều tôi cần, không phải là một chỗ, mà là chính Chúa.
14. cậu bé đánh trống.
Trận chiến giữa Pháp và hai nước
liên kết Ý và Áo đầu năm 1796, kết liễu ngày 17.11.1796 như sau:
Đại tướng Bonaparte đưa quân đến
một địa điểm, có cái cầu bắc qua trận tuyến địch. Trong lúc trận thế đang nguy,
đại tướng Bonaparte hô tiến qua cầu. Không một ai qua! Đại tướng xuống ngựa, giựt
lá cờ quân đoàn chân bước qua cầu, miệng hô: “Ai yêu tổ quốc thì theo ta."
Ngó lại, trên cầu chỉ có một mình mà lá cờ rách nhiều mảnh vì đạn của quân địch.
Khi ấy có cậu bé mới 13 tuổi đánh trống thúc quân. Hai tay đập mạnh vào trống
chân bước qua cầu theo đại tướng. Quân sĩ tràn theo qua cầu, đại tướng
Bonaparte toàn thắng và cũng chấn dứt cuộc chiến tranh ấy.
Tám năm sau, Bonaparte đã là
hoàng đế Napoléon trở lại chỗ cũ, có nghi lễ đón tiếp rất linh đình. Hoàng đế
Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 20 tuổi hiện trong quân đoàn tại đó.
Hỏi đến Vidal thì cậu đã nghỉ
phép để đưa đám tang mẹ. Hoàng đế Napoléon đã bãi bỏ mọi lễ nghi quân cách, đi
thẳng đến làng Vidal, theo sau đám tang đến huyệt, đọc bài điếu văn. Rồi đi bộ
với Vidal trở về. Vidal từ chối và mời hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:
“Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên đường đau
kho,å con cho ta theo con cho có bạn”
15. Thật thà thì thua thiệt
Một hôm anh sự thật và anh dối
trá gặp nhau tại một ngã ba đường. Hai bên trao đổi nhau về cuộc sống. Anh sự
thật thì gương mặt hốc hác, quần áo xốc xếch, bẩn thiểu, tâm sự như sau:
- Cuộc sống của tôi ngày càng bi
đát. Đã ba ngày rồi, tôi không có một hạt cơm trong bụng. Nơi nào tôi đến thì
tôi cũng như bạn bè đều gặp rắc rối. Nếu cứ như thế này, tôi không biết đi về
đâu.
Anh dối trá liền lên lớp với cái
nhìn đắc chí:
- Anh đừng than thân trách phận
làm gì. Này hãy đi theo tôi, anh sẽ được ăn sung mặc sướng.
Họ dắt nhau vào phòng ăn của một khách sạn
sang trọng. Sau khi đã ăn uống no nê, mọi người lui về phòng mình. Tuy nhiên
anh dối trả không chịu trả tiền, hắn nài nĩ sự thật ngồi nán lại. Vừa thấy ông
chủ khách sạn đi qua, hắn đập bàn và la lớn tiếng:
- Tôi đã trả tiền cho nhân viên
lâu lắm rồi, chừng nào các ông mới đem tiền thối lại cho tôi?
Ông chủ liền đi tìm nhân viên để
hỏi chuyện. Anh ta cho biết anh chưa hề nhận bất cứ đồng bạc nào. Sau một hồi cải
cọ, sự dối trá mới rút tiền ra trả rồi nói lớn:
- Thôi được, tôi trả tiền thêm một
lần nữa đây, mang tiền thối lại cho tôi gấp.
Sợ mất mặt và gây tiếng xấu cho
khách sạn, ông chủ khách san không nhận tiền và thừa nhận vị khách này đã trả
tiền ăn cho khách sạn. Ông chủ tìm người nhân viên hầu bàn để khiển trách. Nhân
viên đó thề thốt rằng mình không hề nhận tiền, nhưng chẳng ai chịu tin, anh chỉ
biết giơ tay lên trời mà kêu than:
- Hỡi sự thật đáng thương, ngươi
còn đó hay chết rồi?
Nghe thế, anh sự thật nhìn nhân
viên và cố gắng thét lên;
- Ta vẫn còn sống đây, nhưng đã
ba ngày ta không có hạt cơm trong bụng. Giờ đây miệng ta bị lấp đầy, ta không
thể nói được nữa. Ngươi phải tự đấu tranh cho mình, lưỡi ta bị cột lại rồi.
Anh sự thật cố gắng nói thật lớn
nhưng nhân viên hầu bàn không nghe thấy gì. Khi hai người ra khỏi khách sạn,
anh dối trá cười nắc nẻ và nói với anh sự thật:
- Ngươi phục tài ta chưa?
Nhưng anh sự thật trả lời:
- Ta thà chết đói còn hơn là làm
điều dối trá như ngươi.
Từ đó hai người vĩnh viễn chia tay nhau.
Sống theo sự thật thì phải chấp
nhận chịu mất mát hy sinh, thua thiệt. Đó là một chân lý của cuộc sống.
16. Bố sai rồi
Trong một gia đình nọ. Ông chồng
là người không tin có Thiên Chúa. Ông thường nhạo báng việc cầu nguyện dự lễ để
thờ phượng Thiên Chúa. Trái lại, bà vợ của ông lại là một tín hữu sùng tín. Hằng
ngày bà đều đến nhà thờ cầu nguyện cho chồng sớm được ơn trở về với Chúa. Bà
luôn ăn ở ngay lành và dạy con sống tốt lành đạo đức để sau khi chết được lên
thiên đàng hưởng nhan thánh Thiên Chúa.
Dù sống giữa hai niềm tin trái
nghịch giữa bố mẹ, người con trai duy nhất của hai người vẫn sống ngoan ngoãn với
cha mẹ. Rồi một ngày kia, đứa con trai yêu quý bị mắc cơn bệnh phổi hiểm nghèo.
Nghe bác sĩ cho biết mình sắp bị chết, em đã hỏi ông bố bấy giờ đang ở bên giường
bệnh rằng: "Bố ơi, xin bố hãy nói thật cho con biết: sau khi chết con sẽ
đi về đâu? Nếu theo mẹ dạy thì con sẽ được về trời gặp gỡ Thiên Chúa là Cha hằng
yêu thương con và sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi với Chúa và sau này còn được
đoàn tụ với cả bố mẹ trên thiên đàng. Còn nếu theo bố thì sau khi chết sẽ chẳng
còn gì nữa: con sẽ chẳng còn ai để yêu thương con và bảo vệ cho con…
Ông bố nghe đứa con yêu hỏi mà
tê tái lòng. Ông liền ôm con vào lòng và nói với con: "Bố đã sai rồi con ạ.
Con hãy tin theo mẹ con nhé." Đứa con lại nói: "Nhưng nếu bố không
cùng tin Chúa như mẹ, thì làm sao sau này con có thể gắp được cả bố mẹ trên
thiên đàng được?"
Trước lời nói đơn sơ của đứa con
thân yêu, ông bố của em đã không kềm nổi những giọt nước mắt thống hối. Sau
ngày con qua đời, ông đã xin theo học khóa giáo lý dự tòng. Nhờ được nghe Lời
Chúa, ông đã đạt tới đức tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa và thiên đàng đời
sau. Ông đã tập sống đức tin bằng việc thực tập đức cậy và đức mến. Cụ thể là cầu
nguyện sớm hôm để phó thác cuộc đời trong tay Chúa quan phòng, thực thi yêu
thương bằng sự tha thứ và khiêm nhường phục vụ tha nhân noi gương Chúa Giê-su.
Ông năng đến nhà thờ dự lễ và rước lễ để được kết hiệp với Chúa Giê-su Thánh Thể
là mầm sống lại trong ngày sau hết. Ông xác tín Chúa Giê-su chính là con đường
duy nhất dẫn đưa ông lên trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa như lời Người dạy:
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy”
17. Đừng xao xuyến
Trong buổi tĩnh tâm các linh mục
quốc tế ngày 12.10.1998 tại thành phố Monterrey, nước Mexico, qua bài nói chuyện
của đức cố Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, ngài đã chỉ ra một số điểm sai xót của
Đức Giêsu, một trong những điểm sai xót đó là những lời giảng dạy, hành động
xem ra mâu thuẫn.
Ví dụ như: có lần, Ngài đưa ra lời
mời gọi: phúc cho kẻ nghèo, kẻ phải đói, kẻ phải khóc, kẻ bị người ta oán ghét
(x. Lc 6, 20-22); hay "ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều
mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Lc 9, 24); hoặc
làm sao có thể ví Nước Thiên Chúa, Nước của Đấng toàn năng, vô tận với một hạt
cải (x. Lc 13, 18-19); và điều mâu thuẫn lớn nhất chính là "Con Thiên
Chúa, Đấng hằng sống"; “Đấng công chính!" lại phải chấp nhận sự chết
và chết nhục nhằn trên Thập giá??? (x. Lc 23, 47).
Những mâu thuẫn kiểu như thế,
hôm nay lại được Đức Giêsu cất lên khi căn dặn các môn đệ: “Anh em đừng xao xuyến!”
(Ga 14,1). Phải chăng lời của Đức Giêsu nói với các môn đệ giờ này xem ra có vẻ
không tâm lý, mâu thuẫn với hoàn cảnh hiện tại, bởi lẽ các ông rất buồn vì Thầy
trò sắp phải xa nhau. Vậy, câu hỏi được đặt ra là chính Đấng đang nói: “Anh em
đừng xao xuyến!” (Ga 14,1), Ngài có xao xuyến không? Và từ đó, như một hệ luận,
chúng ta tin hay không tin vào lời nói của Đức Giêsu!
18. Cần có được sự sống đời
đời
Một mẫu gương đáng để chúng ta
noi theo khi sống niềm tin của mình vào Đấng là đường, là sự thật, và là sự sống....đó
chính là triết gia Pascal. Cả cuộc đời và sự nghiệp của ông đã đi vào trong lối
suy tư mang đậm niềm tin nơi Đức Giêsu. Điều này được chứng minh khi người nhà
của Pascal tìm thấy nơi gấu áo của ông lúc ông đã qua đời, tấm giấy chính tay
ông viết và lưu giữ suốt cuộc đời, ông viết: "Sự sống đời đời là hiểu biết
và yêu mến Đức Kitô và Đấng đã sai Ngài... lửa, lửa, lửa; nước mắt, nước mắt,
nước mắt của tình yêu."
Đó là bí quyết sống niềm tin,
phó thác của B. Pascal một văn hào, một triết gia, một nhà toán học. Đây cũng
phải là bí quyết sống của mỗi chúng ta khi xác định quê hương của chúng ta ở
trên trời. Nơi quê hương ấy hoàn toàn khác với quê hương hay những thực tại mà
chúng ta thấy hiện nay, vì thế, mọi việc làm, lời nói... của chúng ta hãy quy
chiếu về đó như là điểm đến của cuộc đời nơi những người có niềm tin vào Chúa
và cuộc sống đời sau.
Quê hương ấy được thánh Giáo phụ
Augustinô diễn tả như sau: “Hội Thánh được biết có hai cuộc sống Thiên Chúa đã
mạc khải và trao ban, đó là cuộc sống trong đức tin và cuộc sống trực kiến, cuộc
sống lữ hành và cuộc sống nơi cư ngụ vĩnh viễn, cuộc sống lầm than vất vả và cuộc
sống nghỉ ngơi an nhàn, cuộc sống ra sức làm việc và cuộc sống chiêm ngắm tôn
nhan Thiên Chúa là phần thưởng."
19. Mục đích của sự sống
đến từ đâu?
Có một tác giả đã nói lên tính
cách bí ẩn của cuộc sống con người bằng một câu chuyện như sau: Tại một vùng
quê nọ bên Tây Phương, một ông từ coi nhà thờ có thói quen mỗi ngày cứ 15 phút
trước giờ ngọ, ông gọi điện thoại đến người phụ trách tổng đài trong vùng và hỏi
giờ. Ngạc nhiên về thói quen lạ lùng ấy, người tổng đài đã hỏi lại: "Thưa
ông, nếu không có gì làm phiền ông, xin ông cho biết lý do tại sao ông hỏi như
thế mỗi ngày?"
Ông từ nhà thờ giải thích:
"Thưa ông, có gì đâu, tôi là người có trách nhiệm phải kéo chuông mỗi ngày
vào đúng giờ ngọ. Tôi cần hỏi giờ chính xác thôi." Người tổng đài điện thoại
mới vỡ lẽ ra, ông nói với ông từ nhà thờ: "Thật là buồn cười, trong khi
ông điện thoại đến hỏi giờ nơi tôi, thì chính tôi là người điều chỉnh đồng hồ của
tôi theo tiếng chuông của ông."
Tác giả của câu chuyện trên kết
luận: "Cuộc sống quả là bí ẩn mà những người trong cuộc không thể nào tự
mình tìm ra được câu trả lời." Chúng ta cần có một câu giải đáp từ bên
ngoài về ý nghĩa và mục đích của cuộc sống, và người có thể nói với chúng ta về
ý nghĩa và mục đích của cuộc sống chính là Thiên Chúa, chủ tể của sự sống.
20. Cần biết được đường
đi
Mười năm về trước, một lần từ
Bình Dương về Long Khánh. Trên đường đi tôi thấy một bảng chỉ dẫn Bình Dương -
Biên Hòa 30 km. Tôi yên tâm cứ thế mà đi. Đi được khoảng một tiếng đồng hồ, tự
nhiên tôi có cảm tưởng là sao hôm nay con đường này lạ quá và tôi đã dừng xe lại
hỏi một người bên đường từ đây đến Biên Hòa còn bao xa?
Và tôi hốt hoảng với câu trả lời:
còn 30 cây số nữa.
Bình Dương cách Biên Hòa 30 cây
số. Đi cả một tiếng đồng hồ mà vẫn còn 30 cây số.
Tôi bắt đầu lo lắng, vì hai bên
đường toàn cây cao su vắng lặng, không một bóng người.
Làm sao đây? Rủi hư xe hoặc hết
xăng thì như thế nào đây?
Với cảm nghiệm này, tôi mới thấy
tầm mức quan trọng của Lời Chúa hôm nay:
“Ta là con đường, là sự thật và
là sự sống."
Con đường chính là cái giúp
chúng ta đến nơi mà chúng ta mong đợi. Con đường càng tốt, càng đưa chúng ta tới
đích nhanh. Con đường càng sáng sủa, càng giúp chúng ta nhận định chính xác điểm
đến của chúng ta. Dĩ nhiên, nếu con đường vòng vèo sẽ làm chúng ta mất nhiều thời
giờ và lâu tới đích hơn.
Chúa Giêsu là con đường, con đường
thật, con đường chân chính dẫn đến Chúa Cha.
21. Dụ ngôn về con đường
Chú ruồi với con đường
Hôm ấy là một ngày cuối tháng Bảy
bình thường như mọi ngày. Tôi đang ngồi trong một căn phòng yên tĩnh ẩn giữa rừng
thông và lắng nghe những âm thanh tuyệt vọng của trận chiến sinh tử đang diễn
ra cách chỗ tôi ngồi một vài bước chân. Đó là một chú ruồi nhỏ đang dốc chút sức
lực cuối cùng để vượt qua tấm kính của cửa sổ. Những nỗ lực điên cuồng không
mang lại chút hy vọng nào. Càng cố gắng, nó càng mau kiệt sức. Thật vô ích khi
chú ruồi cứ nhất định muốn phá vỡ tấm kính bằng sức lực nhỏ bé của mình.
Cuối cùng, chú ruồi phải chịu số
phận bi đát. Nó kiệt sức và gục chết trên bậu cửa. Chỉ cách mười bước chân
thôi, cánh cửa đang rộng mở. Chỉ mất mười giây đồng hồ để bay đến đó, và con vật
bé nhỏ này sẽ ra được với thế giới bên ngoài mà nó đang tìm kiếm. Chỉ cần một
phần nhỏ sức lực đã bỏ phí, nó đã có thể thoát khỏi chiếc bẫy mà nó tự áp đặt
cho mình, nhưng nó đã không làm thế. Nó đã chết một cách thê thảm.
Chú ong đất với con đường
Khi chúng ta nhốt một con ong đất
vào một chiếc lọ thủy tinh, chúng ta thấy chú ong cứ luẩn quẩn ở đáy lọ và tìm cách
thoát ra ngoài bằng con đường ở đáy lọ, đang khi đó, nắp lọ mở rộng, nhưng nó
không bao giờ nghĩ tới. Chúng ta nhiều khi cũng như chú ong đất, chỉ loay hoay
tìm hướng ra từ mặt đất, không thể hướng lên cao, nên chúng ta phải nhờ Chúa
Giêsu. Chính Chúa Giêsu giúp chúng ta hướng lên, hướng lên cao tới tầm mức của
một con người và tầm mức của một con Chúa.
22. Thầy là đường
Chuyện xưa kể rằng: ‘một hôm Đức
Phật dẫn các đồ đệ của Ngài ngắm trăng rằm đang treo lơ lửng xa xa ngoài chùa;
Ngài chỉ tay lên mặt trăng và hỏi các đồ đệ: Các con có nhìn thấy gì chăng? Liền
tức thời, các môn đệ không ngần ngại đáp: dạ, chúng con nhìn thấy mặt trăng to
tròn! Nghe thế, Đức Phật liền nói: Ta chẳng phải là ánh trăng kia, nhưng ta chỉ
là một ngón tay chỉ cho các con hướng nhìn về ánh sáng tuyệt diệu đó mà thôi!’
Thật sự, nhìn lại các nhà sáng lập
tôn giáo trên thế giới, chưa một vị nào dám khẳng định: họ chính là đường, là sự
thật và là sự sống, ngoài Đức Ki-tô là Thiên Chúa xuống thế làm người, chịu khổ
nạn, chịu chết và phục sinh như lời Người đã phán hứa cả.
Cũng trong niềm vui Phục Sinh nối
tiếp trong đời sống của mỗi chúng ta, một lần nữa, Chúa Giê-su muốn chúng ta
hãy xác tín vào Người như Người đã từng dạy dỗ các Thánh Tông Đồ, đặc biệt ông
Tô-ma và Phi-lip-phê trong đoạn Tin Mừng hôm nay “Thầy là đường, là sự thật và
là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”
23. Chứng nhân cho con đường
Giêsu
Theo nhật báo Chứng Nhân kitô hữu
(Témoignage Chrétien), vào năm 1941 có một vị linh mục bị Đức Quốc Xã giam trong
trại tập trung dành cho người gốc Do thái. Như bao tù nhân khác, ngài cũng bị
hành hạ và ngược đãi thậm tệ. Tuy nhiên ngài vẫn vui vẻ và luôn sẵn sàng giúp đỡ
anh em đồng cảnh ngộ đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và tuyệt vọng.
Trong cảnh tù đày đói khát, một
vụn bánh còn quý hơn vàng, vậy mà ngài dám chia sớt phần ăn ít ỏi của mình cho
những bạn tù yếu sức hơn.
Những lúc trời rét buốt xương, tấm
áo len được xem là kho tàng vô giá, thế mà có lần ngài tặng không chiếc áo len
đang mặc cho bạn tù đang lâm trọng bệnh nằm run cầm cập trong xó nhà.
Ngài là nhịp cầu yêu thương giữa
những kẻ bất hoà, đem sự khích lệ tinh thần cho những tâm hồn sầu muộn... Ngài
đã cứu được mấy bạn tù tuyệt vọng khỏi tự huỷ mình nhờ những khuyên lơn an ủi...
Vì thế, các tù nhân trong trại rất yêu quý và xem ngài như người cha thứ hai. Họ
đều gọi ngài cách thân thương là... Bố.
Trong trại tù còn có một thanh
niên bụi đời, lớn lên nơi đầu đường xó chợ, căm hờn mọi người, không ngần ngại
phạm bất kỳ tội ác nào.
Vị linh mục khả ái từng bước tiếp
cận, trò chuyện, giúp đỡ, khuyên răn, và cuối cùng đã cảm hoá được chàng thanh
niên chai đá và tưởng chừng như vô phương cứu chữa nầy. Ngài cũng mong ước dần
dần dẫn dắt cậu về với đạo thánh Chúa.
Thế rồi, một hôm, có lệnh chuyển
cha sang trại Ao-sơ-vích (Auschwitz), một trại tập trung mà chỉ mới nghe danh
xưng, mọi trại viên đều phải kinh hoàng. Đó là lò hủy diệt con người bằng những
hầm hơi ngạt và lò thiêu xác.
Trước khi chia tay với các bạn
tù và đặc biệt với cậu thanh niên mới hoàn lương, ngài quyết định phải giới thiệu
đôi nét về Chúa Giêsu cho cậu với hy vọng cậu sẽ trở thành người con Chúa.
Ngài vỗ vai cậu và ôn tồn nói
"Này, con yêu của Bố, đã từ lâu Bố rất mong con nhận biết và trở thành môn
đệ Chúa Giêsu."
Cậu thanh niên thưa lại: "Nhưng
con chưa biết gì về Chúa Giêsu cả. Bố có thể kể sơ lược về Ngài cho con biết được
không?"
Biết mình không còn thời gian để
giới thiệu dông dài vì giờ chuyển trại sắp đến, vị linh mục già thinh lặng cúi
đầu, cầu nguyện giây lát, rồi ngài ngẩng lên khiêm tốn đáp: "Chúa Giêsu mà
Bố muốn cho con tin và yêu mến, Ngài giống như Bố đây!"
Bấy giờ cậu thanh niên nhìn thẳng
vào mắt ngài cách trìu mến và chân thành đáp lại: "Nếu Chúa Giêsu mà giống
Bố thì có thể một ngày nào đó, con sẽ tin và yêu mến Chúa Giêsu!"
Sau thế chiến thứ hai, người ta
không còn gặp lại vị linh mục nầy nữa. Còn cậu thanh niên thì được sống sót qua
các trại tập trung trở về với gia đình và đã thuật lại câu chuyện trên đây về một
mục tử đã thực sự trở thành hình ảnh trung thực của Chúa Cứu Thế. Cũng chính nhờ
hình ảnh Chúa Giêsu ngời sáng lên nơi con người và cuộc đời của vị mục tử tốt
lành nầy, chàng thanh niên được cảm hoá và trở thành người con Chúa.
23. Con đường mang tên
Giêsu
Theo Báo Thanh Niên số 69 ngày
thứ ba 30.4.1996, Thành phố Hồ Chí Minh đang tiến hành công việc chỉnh đổi tên
đường trên địa bàn toàn thành phố. Bởi vì trong hơn 1000 con đường của thành phố
có khoảng 100 con đường trùng tên và hơn 300 con đường mang số. Đợt đổi tên này
sẽ đặt tên mới cho các con đường trên. Ngoài ra, một số nhân vật lịch sử trước
kia có tên đường, nhưng đã bị huỷ bỏ, nay có thể sẽ được phục hồi, như gần đây
đã phục hồi tên đường cho Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
Tới đây, dự kiến sẽ có con đường
mang tên Đức Tổng Giám Mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Con đường TGM. Nguyễn Văn
Bình sẽ thay thế đường Nguyễn Hâu, nối liền đường Hai Bà Trưng với bên hông Nhà
Thờ Chính Toà và Công Xã Paris với công viên Nữ Vương Hoà Bình trước mặt tiền
Vương Cung Thánh Đường Đức Bà.
Có một con đường thật danh tiếng
và luôn luôn nổi tiếng, không thể thay đổi được, từ hai mươi thế kỷ nay, trong
Giáo Hội chúng ta ai cũng biết, đó là con đường mang tên Giêsu. Chính Chúa
Giêsu đã tuyên bố: “Ta là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống." Trả lời cho
ông Tôma, đồng thời Chúa Giêsu để lộ cho biết từ nay chỉ có một con đường duy
nhất được mở ra trong ơn Cứu Độ, và tên gọi con đường ấy chính là Ngài.
24. Con đường thế tục
Trong số báo Time đầu năm 2002
có nói đến Cliff Baxter, một nhân vật cao cấp trong tổ hợp kinh tài năng lượng
Enron, người đang có trong nhà băng hàng triệu đôla, đang có vợ đẹp con khôn,
đang có căn nhà đáng nhà 700 ngàn, thế mà tuần trước Baxter đã lái chiếc xe
Mercedes mới mua 80 ngàn đôla của mình đến một con đường nhỏ, rút súng bắn vào
đầu một phát để kết thúc cuộc sống mà có lẽ anh cho là không hạnh phúc bằng cái
chết.
Cứ tưởng vừa giàu có sang trọng
vừa được nhiều người mến mộ thì hạnh phúc lắm. Thành ra quan niệm về hạnh phúc
của con người không có gì là bảo đảm chắc chắn hết.
25. Con đường vị tha và vị
kỷ
Một lần tôi vào quán ăn trên đường,
tôi chú ý đến bàn ăn bên cạnh, vì nơi đó có một đứa bé khó tánh. Thức ăn bày ra
trước mặt nó, vậy mà nó không bằng lòng với những gì đang có. Người mẹ ngồi bên
cạnh hết sức nhẫn nại, vừa năn nỉ vỗ vành, vừa cố gắng cho thức ăn vào miệng
cho con, nhưng cuối cùng, bà không thể nào làm gì hơn được. Bên cạnh đó, cũng
có một đứa bé lẵng lặng đứng nhìn. Nó nhìn những tô thức ăn của thực khách đã
dùng xong nhưng còn thừa lại. Nó cũng nhìn vào tô thức ăn mà đứa bé khó tánh kia
đang làm khó mẹ nó. Người mẹ trẻ cũng nhìn thấy đứa bé đang đứng nhìn như thế,
bà gọi em đến và cho em tô thức ăn gần như còn nguyên vẹn. Em rục rè cho tất cả
những gì trong tô vào trong chiếc lon của em và mang ra ngoài. Bên ngoài còn một
đứa trẻ khác nhỏ hơn, đang ngồi chờ đợi. Người chị vui mừng, cho em ăn trước,
sau đó nó mới dùng phần còn lại.
Tôi chợt suy nghĩ. Đứa bé có người
mẹ bên cạnh, được nâng niu chiều chuộng, nó không biết tận hưởng hạnh phúc mà
nó đang có, mà lại đòi hỏi cái gì không có trong hiện tại, nên nó khó chịu và
không chấp nhận hiện tại. Còn đứa bé có đứa em đang ngồi chờ bên ngoài, nó biết
tận dụng những gì mình có được, để mang lại lợi ích cho mình và cho người khác.
Hạnh phúc không ở đâu xa, nó ở
ngay bên cạnh, nếu ai biết tận hưởng thì sẽ được, còn ai không biết thì sẽ
không bao giờ nhận được.
26. Con đường cho đức tin
đơn sơ
Có lẽ những ai đã học qua chương
trình Văn Học lớp 12 đều không quên một tiểu tiết vui vui trong truyện ngắn
"Đôi Mắt" của Nam Cao. Trong đó, anh Hoàng kể cho anh Độ nghe một câu
chuyện "nực cười nhưng chẳng dám cười."
Anh kể rằng: "Tôi kể cho
anh nghe chuyện nầy thế nào anh cũng cho là bịa. Nhưng tôi có bịa tí nào, tôi
chết. Một hôm, tôi đi chợ Huyện chơi. Ở nhà đã hỏi đường cẩn thận rồi, nhưng đến
một ngã ba, lại quên béng mất, không biết phải rẽ lối nào. Đành đứng lại, chờ
có người đi qua thì hỏi, chờ mãi mới thấy có một anh thanh niên vác một bó tre
đi tới. Tôi chào rồi hỏi: 'Đi chợ Huyện lối nào, ông làm ơn chỉ giúp tôi'...
Anh ta bảo: 'Ông cứ đi lối nầy, đến chỗ có một cây đa to thì rẽ về tay phải, đi
một quãng lại rẽ về tay trái, qua một cánh đồng, vào đường gạch làng Ngò, vòng
ra đằng sau đình, rẽ về tay phải, đi một quãng nữa thì đến chợ'.
Đại khái như thế chứ không hoàn
toàn đúng như thế. Chỉ biết nó lôi thôi rắc rối, nhiều bên phải bên trái, đến nỗi
tôi không tài nào nhận ra được. Cuối cùng, anh bày cho tôi một cách: Đứng đợi đấy,
gặp ai gánh hàng đi chợ thì đi theo...."
Tình huống của anh Hoàng đôi khi
chúng ta cũng có thể gặp phải. Nếu ta đang ở một nơi xa lạ cần phải hỏi thăm đường
đi. Đôi khi cách chỉ đường quá phức tạp đến nỗi ta "hỏi cũng bằng không."
Nhưng cũng có thể ta may mắn gặp được một người tử tế, nhiệt tình, người ấy
nói: "Thật khó chỉ cho anh. Thôi, anh cứ đi theo tôi, tôi sẽ dẫn anh đi."
27. Người dẫn đường
Jack là một công nhân khai thác
đá. Anh tuy ít học, nhưng lại có một đời sống rất tất lành. Anh gần gũi, cảm
thông và chia sẻ với mọi người trong những công việc nặng nhọc hay nhẹ nhàng.
Không ai thấy sự nóng nảy, cáu gắt trên khuôn mặt của anh bao giờ, dù có những
lúc anh làm việc rất vất vả...
Một người bạn của anh hỏi anh:
"Này Jack, tại sao anh đối xử tốt với mọi người như vậy?" Anh đơn sơ
trả lời rằng: "vì Chúa dạy tôi như vậy đó." Bạn anh lại tiếp tục hỏi
anh: "Chúa của anh ra sao?" Anh quá bối rối trước câu hỏi này vì anh
không phải biết trình bày Chúa của mình như thế nào để cho bạn anh hiểu đây.
Nhưng sau một phút ngập ngừng,
anh trả lời với bạn của anh rằng: "Chúa tôi giống như tôi vậy nè."
Người bạn của Jack nghe vậy quá xúc động và nói với anh rằng: "Vậy thì tôi
xin tin vào Chúa của anh." Vài ngày sau, người ta thấy Jack dẫn người bạn
của mình đến một ngôi nhà thờ gần đó để người ấy được gia nhập vào đạo và trở
thành Kitô hữu.
28. Đi tìm minh chủ
Truyện kể rằng: có một chàng
thanh niên khỏe mạnh, muốn tìm một ông chủ tốt làm sư phụ.
- Anh ta đến với một người giầu
có trong làng, anh rất hài lòng về cách cư xử của người này. Nhưng một hôm,
theo người này đến một nơi, thấy người này quì lạy một người tự xưng là ông quỉ.
Chàng thanh niên phân vân tự nghĩ: như vậy ông chủ mình còn thua ông quỉ. Anh
ta liền xin ông chủ cho đi theo ông quỉ.
- Ông quỉ hài lòng với người
thanh niên lắm, sai hắn làm cái này cái kia…đều được việc, nhưng một hôm chàng
theo ông quỉ tới đầu làng, chàng thấy ông quỉ không dám đi gần cây Thánh giá dựng
ở đó, chàng thanh niên bỡ ngỡ, hỏi căn cớ tại sao thì ông quỉ cho biết, người
chết trên đó là ông Giêsu. Chàng thanh niên lại bỏ ông quỉ đi tìm hiểu Ông
Giêsu.
- Người ta giới thiệu chàng vào
gặp cha xứ.
Sau một thời gian tìm hiểu,
chàng được rửa tội, cha xứ thấy chàng to con, khỏe mạnh, cha đề nghị chàng làm
việc bác ái, đưa đồ giúp người qua khúc sông, vì nơi đó không có thuyền không
có cầu. Chàng vui vẻ làm theo, ngày nào cũng có mặt để giúp những người mang
vác nặng nề.
Nhưng một hôm, chàng vác một em
bé trên vai cho mẹ em rảnh tay lội nước.
Chàng cảm thấy Em bé gì mà nặng
quá, nặng như cả mấy bao gạo trên vai, làm chàng thanh niên khỏe mạnh lực lưỡng
muốn té nhào. Chàng than: " Sao em nhỏ ăn cái gì mà nặng thế, anh vác
không nổi!
Em bé đang ôm đầu chàng, bật cười
lớn, em nói: "Anh vác nổi sao được, anh đang vác cả một Thiên Chúa dựng
nên trời đất đấy mà! Này chàng thanh niên, Ta rất hài lòng với việc giúp đỡ của
con. Ta là Giêsu con đang tìm kiếm.
Chàng thanh niên đó chính là ông
thánh Giorgiô, đã từ bỏ mọi sự trần gian đi theo Chúa Kitô.
29. Đừng xao xuyến
Con tàu ra khơi thì gặp phải
giông bão. Gió to và sóng lớn. Mọi hành khách đều hốt hoảng. Chỉ một mình em nhỏ
vẫn bình tĩnh ngồi chơi nơi xó góc. Người ta hỏi em tại sao thì em trả lời: Làm
sao tôi có thể sợ hãi đang khi ba tôi là người điều khiển con tàu.
Cũng thế trong một cuộc động đất,
người ta thấy một bà già hăng say giúp đỡ các nạn nhân, mặc dù nhà cửa của bà
cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi bà tại sao lại không lo lắng sợ hãi, thì bà trả
lời: Thiên Chúa quyền năng. Người làm được mọi sự và Ngài luôn lo liệu cho tôi
những sự tốt đẹp nhất.
30. Hoàn toàn đúng
Có câu chuyện kể rằng hai người
đàn ông sống trong một ngôi làng nhỏ nọ, hai người ấy đã đấu khẩu với nhau cách
kịch liệt nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề của họ; thế là họ quyết định
đi hỏi ý kiến của một người có tiếng là khôn ngoan nhất làng. Người thứ nhất đến
nhà người khôn ngoan đó kể hết câu chuyện của mình xong liền hỏi: "Thưa ông,
ông nghĩ sao?"
Người khôn ngoan trả lời: "
Ông đúng hoàn toàn." Rồi người thứ hai cũng đến và kể câu chuyện xảy ra giữa
họ rồi hỏi như người thứ nhất, và câu trả lời của người khôn ngoan đó cũng là:
"Ông hoàn toàn đúng."
Sau khi khách đã về thì bà vợ của
người khôn ngoan đó mới trách chồng: "Sao ông có thể trả lời như vậy được.
Hai người họ kể hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau mà ông lại nói cả hai hoàn
toàn đúng. Điều ấy thật vô lý, cả hai người không thể cùng hoàn toàn đúng được!"
Người khôn ngoan cũng trả lời cho bà vợ: "Bà hoàn toàn đúng!"
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu nói cùng các môn đệ: "Các con đừng để lòng mình bị bối rối. Hãy tin
vào Thiên Chúa... và tin vào Thầy... Thầy bảo thật cùng các con, bất cứ ai tin
vào Thầy thì sẽ làm được các việc Thầy đã làm" (Jn 14:1,12).
31. Tìm đường để sống
Nhà tu đức học nổi tiếng của Ấn
độ, cha An tôn Mê-lô có làm một bài thơ, nội dung như sau: “Một hôm lang thang
trên phố, tôi thấy một cửa hiệu với hàng chữ: Tại đây có bán chân lý." Tò
mò tôi bước vào. Cô bán hàng niềm nở đón tiếp tôi và hỏi: “Ông muốn mua loại
chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện?" Tôi cho cô biết dĩ
nhiên tôi đang đi tìm thứ chân lý toàn diện, thứ chân lý không pha trộn giả dối,
thứ chân lý mà lý trí tôi phải đầu hàng vô điều kiện. Tôi muốn có chân lý đơn
thuần và toàn diện.
Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu rồi
chỉ sang một cửa hiệu khác, nơi có bán thứ chân lý mà tôi đang đi tìm. Người
đàn ông đứng bán hàng nhìn tôi với lòng thông cảm. Ông chỉ cho tôi xem giá biểu
của món hàng mà tôi muốn mua, rồi nói với tôi: “Thưa ông, giá của món hàng rất
cao." Đã cương quyết mua cho được chân lý toàn diện, tôi liền hỏi: “Giá
bao nhiêu, xin cho tôi biết." Người bán hàng trả lời: “Nếu ông muốn mua thứ
chân lý này, ông phải trả bằng cả cuộc sống của ông."
Tôi ra khỏi cửa hiệu, lòng buồn
rười rượi. Tôi cứ nghĩ rằng tôi có thể mua chân lý toàn diện bằng giá rẻ. Thì
ra tôi chưa sẵn sàng để đón nhận chân lý. Tôi vẫn chưa muốn cho đi cuộc sống của
tôi. Tôi vẫn còn bám chặt vào những xác tín của riêng tôi."
Bài thơ ngụ ngôn trên đây hẳn muốn
nói lên thái độ của nhiều người trong chúng ta đối với Đấng tự xưng là Đường,
là Sự Thật và là Sự Sống.
32. Sống cho đời sau
Có một bà giàu sang mơ thấy mình
được đưa vào thiên đàng. Bà ta đi một vòng và nhìn thấy một tòa biệt thự huy
hoàng đang được được xây dựng. Bà ta bèn hỏi thiên thần dẫn đường:
- Tòa biệt thự này được xây dựng
cho ai thế?
Thiên thần trả lời:
- Cho người làm vườn của bà đó.
Bà ta ngạc nhiên bởi vì ở trần
gian, người làm vườn của bà ta chỉ ở trong một túp lều tranh xiêu vẹo, nhỏ bé đến
nỗi không có đủ chỗ cho cả gia đình bác ấy nữa. Thấy vậy, thiên thần liền nói:
- Ở trần gian, bác ấy có thể khá
hơn, nếu bác ấy đã không quảng đại, đã không bác ái.
Đi được một quãng, nhìn thấy một
căn nhà lụp xụp cũng đang được cất lên, bà ta liền hỏi:
- Căn nhà lụp xụp này được cất
lên cho ai thế?
Thiên thần trả lời:
- Cho bà đó.
Bà ta bực tức và nói:
- Tôi quen ở nhà cao cửa rộng,
làm sao chui rúc được trong một căn nhà tồi tàn như thế này.
Thiên thần đáp:
- Chúng tôi đã làm hết sức mình
mà chỉ được có vậy mà thôi, bởi vì vật liệu bà gửi lên quá ít.
33. Thầy là đường
Họa sĩ Broulette đã vẽ một loạt
ba bức tranh để diễn tả điều đã nhìn thấy trong đời sống văn minh hiện đại. Bức
tranh thứ nhất vẽ một người đàn ông điên loạn đang cố gắng tìm kiếm một miếng
giấy quan trọng trong căn phòng bề bộn. Tất cả những ngăn kéo đã mở toang ra,
giấy tờ ném bừa bãi khắp nơi, Khăn trải giường rách nát, các bức tranh rơi xuống
khỏi vách tường. Một tên quỷ đang đi theo con người điên loạn đó. Tay nó nắm giữ
tờ giấy quan trọng ông đang tìm kiếm một cách tuyệt vọng.
Bức tranh này diễn tả con người
thời đại đang mải miết kiếm tìm một điều thần diệu mang lại hạnh phúc cho họ
trong cuộc đời. Có lẽ tờ giấy đã bị mất sẽ không bao giờ được tìm thấy, nhưng
trên con đường tìm kiếm, nhiều người đã thử tìm trong men rượu, sắc dục, cờ bạc…
mà chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.
Bức tranh thứ hai diễn tả một
người đàn ông xanh xao gầy còm hốc hác với một cái xuổng đang nỗ lực đào bới
trong cánh đồng bát ngát. Đàng sau lưng, ông để lại vô số những cái lỗ đã tốn
công đào bới. Và bên cạnh mỗi cái lỗ là một chiếc hộp mở nắp ra, bên trong hoàn
toàn trống rỗng.
Bức tranh này cho thấy một con
người đang đi tìm kiếm mục đích của cuộc đời, nhưng chẳng tìm thấy cái nào mang
lại hạnh phúc. Con người luôn đi tìm kiếm điều gì lớn lao và tốt đẹp hơn. Tôi
phải có cái này, cái kia, thì cuộc đời mới đầy đủ. Cuộc đời luôn thúc đẩy, lôi
kéo con người vào một nhu cầu mới, và chẳng bao giờ có được một giây phút để tận
hưởng cái mình đang có.
Bức tranh thứ ba vẽ về một người
bị bịt miệng và bị trói vào một cái ghế, với đôi con mắt trợn trừng kinh khiếp
nhìn đăm đăm vào một tên cướp đang thu dọn tất cả những đồ đạc có giá trị trong
căn phòng của mình.
Bức tranh này chứng tỏ những nỗ
lực vô ích của một người tìm kiếm hạnh phúc qua của cải vật chất trong cuộc đời.
Sau cùng thần chết sẽ cướp đi tất cả mọi sự.
Bài Phúc âm hôm nay, là những lời
chỉ đạo cho các tông đồ khi cuộc đời của họ bước vào một giai đoạn mới: cuộc đời
sau cái chết của Chúa Giêsu với bối cảnh thù nghịch từ phía xã hội, trong tâm
trạng hoang mang lo sợ của họ. Phải làm sao bây giờ? Đâu là ý nghĩa cuộc đời?
Chúa Giêsu đã cho họ những hướng dẫn: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống."
34. Thầy là đường
Gerhard Frost đã dùng một ví dụ
như sau: “Hãy tưởng tượng bạn đi bộ ngang qua nhà hàng xóm. Cả gia đình đang chất
hành lý lên xe hơi để đi nghỉ hè. Họ có ba người con đều dưới năm tuổi đang ngồi
trong xe mini-van nóng lòng chờ ba má hoàn tất mọi sự để lên đường. Bạn bước tới
chiếc xe mini-van, thò đầu vào trong cửa sổ và hỏi: “Các cháu sẽ đi đến đâu?”
Chúng chẳng biết gì! “Các cháu sẽ lấy xa lộ nào?” “Tối nay, các cháu sẽ ăn cơm ở
đâu?” Chúng cũng chẳng biết! Nhưng nếu bạn hỏi: “Các cháu sẽ đi với ai?” Các bé
reo lên: “À, với ba mẹ!”
Các em bé không biết chính xác
là đi đâu, không biết cả đường đi, cũng không biết sẽ ăn uống ngủ nghỉ ở đâu,
nhưng biết chắc chắn rằng mình sẽ đi với ai. Niềm tin tưởng vào ba má là tất cả
vấn đề. Ba má sẽ săn sóc, dẫn đưa các bé đi tới nơi tới chốn bình an.
Thiên Chúa cũng không trả lời tất
cả các câu hỏi, các chi tiết hay thắc mắc về điều gì sẽ xảy ra, nhưng Người ban
cho chúng ta chính Con Một của Người, Đức Giêsu Kitô, vừa là người hướng dẫn, vừa
là con đường cho chúng ta đi.
35. Sự sống thật
Người dân Hebrides ở quần đảo
phía tây Scotland, có một huyền thoại về một vị thần biển rất thích bắt trẻ em
của loài người để nuôi. Vị thần biển này thường đi tìm kiếm trẻ em trên những
con tàu qua lại trên biển từ đảo này sang đảo khác. Vào một dịp, vị thần này nổi
lên đuổi theo chiếc tàu nhỏ chở hành khách trong đó có một em bé trai. Tuy
nhiên, con tàu đã cập bến kịp thời. Khi người ta đưa em lên đất liền, vị thần
biển đã gửi đi một làn sóng nhỏ đuổi theo, chạy thẳng vào trái tim của em bé
trai. Lúc đó vị thần biển đã hơi thất vọng vì không bắt ngay được em bé, nên phải
núp dưới những làn sóng và người ta nghe có tiếng phán rằng: “Đứa trẻ này sẽ trở
về với ta vì ta đã đặt một phần bản thân ta vào trong trái tim của nó."
Nhiều năm sau, dân làng trên đảo
đã ngạc nhiên khi thấy, vào một ngày, có một chàng thanh niên mạnh khỏe bước xuống
chiếc thuyền chèo, nhưng anh lại không bơi thuyền hướng về một hòn đảo khác, mà
chèo ra biển khơi mênh mông. Dân làng đồng thanh kêu gọi lớn tiếng: “Không có
hòn đảo nào về hướng đó cả." Nhưng anh vẫn cứ chèo, và khi trôi ra thật xa
ngoài biển khơi, họ trông thấy anh nhào xuống nước trở về với thần biển là người
đã đặt một phần bản thân mình vào trong trái tim của em bé trai khi nó còn nhỏ.
Huyền thoại này nói về ý nghĩa của
mầu nhiệm sáng tạo và cứu độ của Thiên Chúa. Khi Thiên Chúa tạo dựng nên nhân
loại, Người cũng đặt một phần thần tính của Người, linh hồn vĩnh cửu, vào trong
trái tim của chúng ta. Và Người khao khát chờ đợi chúng ta trở về với nguồn mạch
của sự sống vĩnh cửu đó.
36. Sự sống
Ngày 20.4.1999 hai em học sinh
da trắng đã bắn vào trường trung học Columbine ở Colorado gây nên cái chết bi
thảm cho 12 học sinh, một thầy giáo và nhiều học sinh khác bị thương. Nguyên
nhân sâu xa gây nên cái chết bi thảm này, theo tôi, là việc hai em thiếu niên
này đã tham gia vào tổ chức của Satan, đảng viên Đức Quốc xã. Chúng đã từ chối
niềm tin vào Thiên Chúa và Đức Kitô “là đường, sự thật và sự sống." Thay
vì kiếm tìm sự sống, họ đã chọn lựa cái chết. Một trong những câu chuyện được
báo chí tường thuật lại, đó là câu chuyện của cô Cassie Bernall, một trong 33 nạn
nhân của cuộc đổ máu bi thảm này.
Khi bước vào tuổi thiếu nữ, cô
Cassie đã trải qua những cơn khủng hoảng của niềm tin. Cô đã phải phân vân chọn
lựa Chúa Giêsu hay Satan. Thoạt tiên, cô đã chọn Satan. Cô thường hội nhóm cầu
cơ và có một cái nhìn rất bi quan về cuộc sống, do đó, cô đã có ý định tự tử.
Cha mẹ đã đưa cô tới gặp gỡ và trao đổi với vị lãnh đạo tinh thần. Nhưng sau
cùng chính ông cũng lắc đầu và nói: “Hết hy vọng gì đối với đứa con gái này!”
Nhưng Chúa Giêsu đã có chương trình cứu rỗi của Người.
Vài tuần sau đó, cô Cassie đi
vào nhà thờ và nói rằng: “Mục sư sẽ không bao giờ tin được điều gì đã xảy ra!”
Chúa Giêsu đã tìm được con chiên lạc, và cô Cassie đã gặp được Đức Kitô một
cách rất cá nhân và mật thiết. Chỉ một tuần lễ trước khi chết, cô đã đến nói
chuyện với giới trẻ về ý định của cô là “muốn trở thành một gương mẫu cho những
người vô tín ngưỡng và cho cả những người Kitô hữu nữa." Cùng với nhóm trẻ,
cô tham gia những việc bác ái từ thiện, tình nguyện giúp đỡ những người nghèo,
vô gia cư trong các trung tâm. Cô đưa Thánh Kinh đến nhà trường và đọc mỗi
ngày.
Vào ngày định mệnh xảy ra, cô
đang ngồi thinh lặng đọc Thánh Kinh trong thư viện. Hai tên sát nhân tông cửa
chạy vào. Những em học sinh khác núp xuống dưới gầm bàn của thư viện. Một tên
sát nhân tiến ngay đến chỗ cô ngồi và hỏi: “Cô tin vào Thiên Chúa hả?” Các em học
sinh núp dưới gầm bàn nghe lén được câu chuyện kể lại. Với một giọng quả quyết
và nhẹ nhàng, cô trả lời: “Phải, tôi tin vào Thiên Chúa." Sau đó tên sát
nhân, kẻ chọn chủ nghĩa Satan và Đức Quốc xã, đã chĩa súng, và nã đạn vào đầu
cô. Cô gục xuống tại chỗ. Sau khi cô chết, Chris, người anh cả của Cassie đã
tìm thấy một miếng giấy trên bàn học ghi lại những lời sau đây:
“Giờ đây tôi đã từ bỏ tất cả mọi
sự. Tôi đã tìm thấy con đường duy nhất để biết Đức Kitô và cảm nghiệm về Đấng
quyền năng. Con đường đó đã mang Người trở lại đời sống của tôi. Và giúp tìm ra
ý nghĩa để cùng chịu đau khổ và cùng chết với Người. Do đó, dù bất kỳ sự gì xảy
ra, tôi sẽ là một con người sống trong đời sống mới của những người sống lại từ
cõi chết."
37. Sống là khám phá Đức
Kitô
Đức Cố Giáo Hoàng G.P.II nói với
giới trẻ năm 1988: “Khám phá Đức Kitô là một cuộc phiêu lưu đẹp nhất đời chúng
con. Nhưng khám phá ra Ngài một lần mà thôi thì không đủ. Mỗi khám phá người ta
có về Người lại trở thành một lời mời gọi kiếm tìm Người hơn nữa…." Chính
thái độ khao khát của Tôma, của Philipphê trong Tin Mừng hôm nay đã nhắc bảo
chúng ta hãy lên đường khám phá Đức Kitô, đến gần Đức Kitô, học biết và yêu mến
Đức Kitô nhiều hơn nữa: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao
chúng con biết đường?”…”Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, thì
chúng con mãn nguyện."
Và chúng ta đừng quên: sự khám
phá Đức Kitô để tiếp tục tiến bước trên con đường của Ngài không phải là những
chuyện “chọc trời khuấy nước”, những công trình vĩ đại lớn lao, những hy sinh hảm
mình của những bậc tu trì đạt đạo, những suy niệm thần bí cao siêu… mà cốt yếu
là những hành vi ứng xử bình thường trong cuộc sống mỗi ngày, những hy sinh thầm
lặng, những việc phục vụ âm thầm, những chiến đấu và chiến thắng tính hư tật xấu
với cái tôi, những tràng hạt mân côi, những thánh lễ…Đó chính là những”mũi chỉ
đuờng kim dệt nên tấm thảm họa hình Đức Kitô” mà trong lúc nhất thời, nhìn từ mặt
trái, chúng ta sẽ không nhận ra cái nét đẹp tuyệt vời của “bức tranh tổng thể."
CNPS 5B - Cây nho nối kết cành nho
Lời Chúa: Ga 15, 1-8
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. Nhành
nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào trong Thầy
không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái thì Người tỉa sạch để
nó sai trái hơn.
Các con đã được tỉa sạch nhờ lời
Thầy đã nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng
như nhành nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho;
các con cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy là cây nho, các con
là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ sinh nhiều trái,
vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở trong Thầy, thì bị
vứt ra ngoài như ngành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại, quăng vào lửa
cho nó cháy đi. Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các
con muốn gì cứ xin, và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các
con sinh nhiều trái, và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy.”
TRUYỆN KỂ
1. Chuyện cây nho
Theo tiến sĩ Campell Morgan:
“Chúa Giêsu nói dụ ngôn này vào một trong hai cảnh: một số người cho rằng: Đức
Giêsu dẫn các môn đệ từ phòng tiệc ly ngang qua đền thờ. Cửa đền thờ trong tuần
lễ Vượt Qua mở suốt đêm cho khách hành hương ra vào. Trên cong đền thờ, cây nho
bằng vàng là quốc huy của Do thái sáng loáng dưới ánh trăng thanh của những đêm
rằm trong mát. Cảnh tượng ấy vô cùng đẹp đẽ và thơ mộng.
Một số khác cho rằng: Đức Giêsu
dẫn các môn đệ ra khỏi thành xuống khe suối Kêdrôn. Ngồi giữa khung cảnh đó, họ
nhìn thấy nho mọc khắp trong vùng, rồi Ngài nói: “Thầy là cây nho thật … anh em
là cành.” Đồng thời họ cũng nhìn thấy rải rác trong thung lũng đêm tối những
đám cháy đang thiêu rụi những cành nho bị cắt quẳng đi lúc ban ngày. Trong bối
cảnh đó Đức Giêsu nói thêm: “Ai kết hợp với Thầy … thì người ấy sinh hoa kết quả
dồi dào … Ai không kết hợp với Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho va sẽ
khô héo. Người ta sẽ ném nó vào lửa cho cháy đi” (Parables and Metaphores of
our Lord, No 62).
Khi Đức Giêsu nói: “Thầy là cây
nho đích thực và Cha Thầy là người trồng nho”, Người muốn các môn đệ nhận ra
Người là cây nho Chúa Cha đã đưa từ trời xuống trồng cho thế gian được sống nhờ
kết hợp với Người.
2. Liên kết với Người
Một thầy kiện mới mở được một
văn phòng luật sư khang trang lịch sự. Bỗng nghe có tiếng chân người ngoài cửa
bước vào, ông vờ như không thấy. Vội nhắc ống diện thoại lên, nói thật to trong
ống nghe:
- Alô, văn phòng luật sư đây.
- Vâng, từ ngày tốt nghiệp đại học
đến nay, tôi đã thắng nhiều vụ kiện lớn. Các công ty danh tiếng đều nhờ cậy
tôi. Tôi được rất nhiều người tin tưởng. Tuy thu nhập cao nhưng tôi luôn dành
10% cho các công việc từ thiện.
Có tiếng gõ cửa, ông quay lại,
thấy người đàn bà đang đứng chờ từ nãy, ông mới lịch sự thưa:
- Xin lỗi bà, tôi có khách quý đến.
Quay lưng lại, anh hỏi người vừa
bước vào:
- Anh cần gì?
- Thưa luật sư, có phải hôm nay
là ngày đầu tiên văn phòng của ngài bắt đầu làm việc?
- Đúng thế, anh cần tôi giúp vụ
kiện nào?
- Dạ thưa không tôi là người của
công ty đien thoại được cử đến để gắn đường dây điện thoại cho ngài!
Tin mừng hôm nay mời gọi chúng
ta nhìn lại mối liên hệ của chúng ta với Chúa.
3. Ở lại
Đoạn Tin Mừng này chỉ có 8 câu,
vậy mà có tới 8 lần chữ "Ở lại.”
Thử tò mò đọc lại từng lần để
xem mỗi lần có ý nghĩa gì đặc biệt không:
- Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở
lại trong anh em.
- Cũng như cành nho không thể tự
mình sinh hoa trái nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế nếu không ở
lai trong Thầy.
- Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở
lại trong người ấy thì người ấy sinh nhiều trái.
- Ai không ở lại trong Thầy thì
bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo.
- Nếu anh em ở lại trong Thầy và
lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được như ý.
Sau đây là một số ý nghĩa mà
chúng ta có thể khám phá ra được:
- "Ở lại" là gì? Như
cành nho ở lại trong cây nho -(1) Là một sư liên kết chặt chẽ đến nỗi tuy hai
nhưng thành một. Cây nho và cành nho tuy một bên là "cây" một bên là
"cành", nhưng cả hai đều là "nho.” (2) Sự liên kết này không cần
cho một bên nhưng rất cần cho bên kia. Cây nho không cần đến cành nho lắm,
nhưng cành nho thì nhất thiết phải "ở lại" trong cây nho. (3) Sự liên
kết phải vững bền, nghĩa là mãi mãi, không lúc nào mà không liên kết. Khi nào cành
không liên kết với cây thì nó không còn la cành nho nữa mà trở thành cành củi.
-Tóm lại, "ở lại" trong Đức Giêsu là điều kiện sống còn, không thể
không có đối với kitô hữu.
4. Con người cô đơn.
Khắp trên thế giới, nơi đâu cũng
có bán máy chụp Kodak. Người ta có thể nói: “Các cửa hiệu bán máy chụp hình và
phim Kodak không bao giờ đóng cửa.” Khi các cửa tiệm Đông phương đóng cửa nghỉ,
thì các tiệm ở Tây phương mở cửa bán.
Ông chủ hãng phim Kodak sống ở
toà nhà sang trọng bậc nhất New York, có không biết bao nhiêu tiền của ký gửi
trong các ngân hàng lớn trên khắp thế giới, muốn lấy ra lúc nào tùy thích. Tài
khoản thâu nhập của ông không tính theo mỗi năm, mỗi tháng, mà tính theo mỗi
giây đồng hồ. Ông muốn gì cũng có, ông hưởng hết phúc lộc của con người. Người
nào muốn ra tranh cử Tổng thống cũng đều phải nhờ ông làm hậu thuẫn, giúp đỡ tiền
bạc. Mọi thứ trên đời này ông đều có, duy chỉ có một điều vô cùng quan trọng
thì ông lại không có. Đó chính là Thiên Chúa. Vì không có Chúa nên lúc nào ông
cũng cảm thấy cô đơn trống vắng. Mọi người thấy ông, cứ nghĩ là ông được sung
sướng, nhưng thực ra ông rất đau khổ.
Ông dùng tiền của quá dư thừa của
mình mà đi chu du vòng quanh thế giới, hưởng muôn sự khoái lạc thế gian, hầu khỏa
lấp nỗi cô đơn, trống vắng trong cõi lòng. Nhưng một tâm hồn không có Chúa thì
tất cả vũ trụ cũng không thể làm cho họ được hạnh phúc.
Kết thúc chuyến du lịch vòng
quanh thế giới mà cõi lòng ông vẫn hoang vắng, buồn bã. Vì quá tuyệt vọng, ông
đã lao mình xuống đại dương mênh mông tìm sự giải thoát.
5. Kết hợp với Chúa.
Văn hào kiêm triết gia nổi tiếng
người Ấn độ Rabindranath Tagore đã viết như sau:
“Trên bàn tôi là sợi dây Guitar, tôi xoay nó
qua lại theo các chiều khác nhau, nó không bị ràng buộc chi cả. Vì nó được cuộn
tròn nên khi tôi xoắn đầu này thì đầu kia cũng bật dậy, sợi dây dẫy nảy trong
tay tôi, mà chẳng phát ra một âm thanh nào. Hiện tượng này biến mất khi tôi buộc
nó vào chiếc đàn Guitar, hai đầu bị gắn chặt để sợi dây căng thẳng, rồi với đầu
ngón tay, tôi gảy nhẹ vào sợi dây và lạ thay, một âm vang nổi lên hầu như du
dương. Đây chính là lúc sợi dây được tự do để tạo nên nốt nhạc.
Cũng thế, trong cách trồng cây
cà chua, cây yếu ớt ngã xoài trên mặt đất, nhiều khi lá bị héo úa dập nát.
Nhưng nếu cây được cột vào một cọc dựng đứng, mọi phần tử của cây được phơi ra
ánh nắng, cây sẽ mơn mởn và đâm nhiều bông trái. Chính vì bị ràng buộc mà cây
đã có nhiều triển vọng sinh hoa kết quả”
6. Tôi để Chúa ở đâu
trong đời tôi?
Thi sĩ Lamartine của Pháp có kể
lại một giai thoại như sau:
Một hôm, tình cờ tôi đi ngang
qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kì lạ: cứ sau một tiếng gõ búa vào
đá là ông lại nghe thấy một tiếng cám ơn! Đến gần nơi phát ra âm thanh, thi sĩ
Lamartine mới thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa
vào phiến đá, ông lại thốt lên hai tiếng “Cám ơn.”
Thi sĩ Lamartine nấn ná đến hỏi
chuyện, người thợ đá mới giải thích: “Tôi tạ ơn Chúa.” Ngạc nhiên về lòng tin của
một con người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn nhiều người, thi sĩ bảo:
Giả như bác được giàu có thì tôi
hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai tiếng “Cám ơn.” Đàng này, Thiên Chúa
chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất, đó là lúc Ngài tạo tên bác. Sau đó
Ngài ban cho bác một cây búa, và rồi không còn ngó ngàng gì đến bác nữa? Thế
thì tại sao bác lại mỏi miệng để cám ơn Ngài?
Nghe nói thế, người thợ đá mới hỏi
vặn lại thi sĩ:
- Ông cho rằng, Thiên Chúa chỉ
nghĩ đến tôi có một lần thôi sao?
Dĩ nhiên -Thi sĩ Lamartine bèn
thách thức- Chúa chỉ nghĩ đến bác chỉ có một lần thôi!
Người thợ đá nghèo như đầy lòng
tin mếu máo thốt lên:
- Tôi nghĩ điều đó không gì là
đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ Thiên Chúa đã đoái thương đến một người thợ đá
thấp hèn như tôi, dù chỉ một lần thôi, vậy không đủ tôi cám ơn Ngài sao? Vâng,
cám ơn Chúa, cám ơn Chúa!
Nói xong, người thợ đá bỏ mặc
cho thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen thuộc của ông! Vừa đập đá vừa cám
ơn Chúa!
7. Kết hợp với Chúa
Một linh mục truyền giáo tại Phi
châu, sống trong một trung tâm truyền giáo hẻo lánh ở một miền quê. Ngài có một
nhà máy phát điện nhỏ dùng để cung cấp điện cho thánh đường và nhà xứ. Một hôm
có một người địa phương tới thăm cha, ông trông thấy bóng điện treo từ trần nhà
rủ xuống phòng khách của ngài. Ông ta bỡ ngỡ hết sức khi thấy ngài chỉ bật một
nút nhỏ ở vách tường thì ngọn đèn sáng ngay. Thấy khoái quá, ông ta xin ngài
cho ông ta một bóng đèn. Vị linh mục lập tức đi lấy tặng cho ông ta một bóng.
Ít lâu sau, nhân dịp đến thăm
gia đình ông, vừa vào nhà, ngài rất bỡ ngỡ khi thấy ông ta dùng dây thừng treo
bóng đèn lủng lẳng giữa trần nhà. Thấy vẻ ngạc nhiên của cha, ông ta bèn phân
bua với cha rằng:
Thưa cha, mấy bóng đèn cha cho
chẳng sao sáng được... Vị linh mục mỉm cười và từ từ giải thích cho ông ta hiểu
rằng: Bóng đèn chỉ có thể thắp sáng với điều kiện là nó phải được gắn liền với
nguồn điện phát ra từ máy phát điện.
Chúng con có thấy bóng điện
trong nhà thờ đang sáng không?
Dạ có.
Muốn sáng thì phải làm sao?
Thưa phải được nối với nguồn điện.
Chúng con thấy bóng đèn trong
nhà thờ của chúng ta được nối với nguồn điện bằng những dây điện. Chỉ khi được
nối với nguồn điện như thế thì bóng điện mới sáng được.
Giả như Chúa Giêsu có mặt trong
nhà thờ với chúng ta hôm nay thì cha sẽ xin Chúa nói lại với chúng ta như thế
này: Ta là cái máy phát điện, chúng con là những ngọn đèn điện. Đèn nào muốn
sáng thì phải nối với ta bằng giây.
Giá Chúa nói như thế thì chúng
ta sẽ dễ hiểu hơn. Tiếc rằng vào thời của Chúa… chưa có điện nên, Chúa phải
dùng hình ảnh cây nho.
Tóm lại là Chúa muốn nói gì nào?
Thưa Chúa muốn bảo: Ai muốn có sự
sống của Chúa thì phải liên kết với Chúa, giống như cành nho nào muốn có trái
thì phải gắn với cây nho.
8. Kết hợp với Chúa Thánh
Thể
Thánh Têrêsa Calcutta, Đấng sáng
lập dòng Thừa sai Bác ái được phong thánh ngày 16.10.2003, khi sang Liên Xô cũ
để xin mở chi nhánh dòng, bà được các vị lãnh đạo đồng ý ngay. Nhưng khi bà xin
cho có linh mục ở tại trụ sở dòng, thì họ không cho. Thánh Têrêsa Calcutta giải
thích: Nguồn sức mạnh của các nữ tu chúng tôi là có Mình Thánh Chúa. Do đó
chúng tôi cần có linh mục dâng lễ mỗi ngày cho chúng tôi.
Lịch sử Giáo Hội có ghi lại chuyện
bà Marthe Robin một trong những người được in năm dấu thánh. Trên 30 năm, bà
không ăn uống gì, chỉ sống bằng Mình Thánh Chúa. Cha linh hướng thuật lại mỗi lần
đem Mình Thánh Chúa cho bà thì ngài có cảm tưởng y như Mình Thánh bay từ tay
mình vào thẳng nơi miệng bà thật sự. Bà âm thầm sống trong một căn nhà nho nhỏ,
chỉ có cha linh hướng săn sóc, đi đâu cha cũng khóa cửa lại, vì bà chẳng cần ăn
uống gì hết.
Tuy mắt đã mù, không đọc sách
báo cũng chẳng nghe đài phát thanh, nhưng mỗi lần có ai vấn an bà việc gì, thì
bà trả lời như thể bà đang nghe thấy tất cả những tin tức cuối cùng và mới mẻ
nhất về nơi chỗ diễn tiến của sự việc vừa xảy ra.
9. Ở nhà mà vẫn truyền
giáo nhờ hiệp thông với Chúa
Thánh nữ Tê-rê-sa Hài Đồng
Giê-su, sinh năm 1873 tại A-lăng-sông (Alancon) nước Pháp. Ngay từ năm 15 tuổi,
Tê-rê-sa đã được đặc ân gia nhập dòng kín Các-men. Chín năm sau, tức năm 1897,
chị Tê-rê-sa đã an nghỉ trong Chúa do bị bệnh lao phổi. Thế mà, ngay sau khi
qua đời, tiếng thơm nhân đức của ngài đã vang đi khắp nơi. Rồi 28 năm sau, tức
vào năm 1925, Tê-rê-sa đã được Đức Pi-ô XI phong lên bậc hiển thánh và được đặt
làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Mới
đây, Đức Gio-an Phao-lô Đệ Nhị lại phong Tê-rê-sa làm tiến sĩ của Hội Thánh.
Đọc tiểu sử của thánh nữ, ta thấy
chị không phải vất vả đi khắp nơi giảng dạy giáo lý Thánh Kinh cho dân chúng,
đương đầu với lạc giáo như thánh Đa-minh; Không sống khắc khổ hay ăn chay đánh
tội như thánh Phan-xi-cô Khó Khăn; Không phải bỏ quê hương đi đến những vùng xa
xôi truyền giáo như thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê; Không để lại nhiều tác phẩm có
giá trị triết lý và thần học như thánh Tô-ma A-qui-nô; Không làm nhiều phép lạ
giúp đỡ những người nghèo kho bất hạnh như thánh Mác-tin Po-rê; Không chịu cực
hình đau khổ để làm chứng cho Chúa như các thánh tử đạo Việt Nam... Thế nhưng tại
sao Tê-rê-sa lại được Hội Thánh tôn vinh như một đại Thánh của thế kỷ XX và
XXI? Thưa chính là nhờ chị có đời sống nội tâm đạo đức, luôn kết hiệp mật thiết
với Đức Giê-su như cành nho gắn liền với thân cây nho. Nhờ sự kết hiệp đó, dù
không làm được những việc lớn lao bề ngoài, nhưng Tê-rê-sa đã đem lại nhiều ích
lợi cho Hội Thánh, đặc biệt là đường lối nên thánh của chị thánh phù hợp với Lời
Chúa dạy và với tâm lý của con người thời đại mới. Nhờ kết hiệp mật thiết với Đức
Giê-su, mà Tê-rê-sa đã đem lại một sinh lưc mới cho Hội Thánh, như lời Chúa
phán: "Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh
nhiều hoa trái. Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).
10. Nhánh gắn liền với
cây
Mở đầu cho vở kịch mang tên:
"Chiếc hài bằng Satin" của Paul Rolden, một văn thi sĩ người Pháp đầu
thế kỷ XX là một cảnh thật xúc động. Một trận cuồng phong bỗng dưng kéo dài tới
nhận chìm chiếc tàu đang di chuyển đơn độc giữa đại dương. Chiếc tàu vỡ nát và
mọi người trên tàu đều bị mất tích, ngoại trừ một vị thừa sai sống sót nhờ cột
chặt người vào chiếc cột buồm.
Nhận thấy chiếc cột buồm đang chồm
nổi với cơn sóng ác nghiệt và mình cũng đang gần kề cái chết, vị thừa sai đã
dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: "Ôi lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã
cho con đón nhận cái chết như thế này. Cuộc đời con không ít lần con cảm thấy lời
dạy của Chúa quá khó khăn và con đã cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Giờ đây con
đang gần Chúa hơn lúc nào hết, thân thể con đang bị trói chặt vào chiếc giá gỗ
và con sắp chết trên chiếc giá gỗ này. Con có thể tháo gỡ thân thể con khỏi sự
trói buộc, nhưng con không muốn, vì sự trói buộc sẽ cho con cảm giác được gần
và giống Chúa hơn.”
11. Chịu cắt tỉa
Cha Titus Brandsma, thời thế chiến
thứ hai, là viện trưởng viện đại học Hòa Lan. Ngài bị Đức Quốc xã bắt và giam tại
trại Tập Trung Dachau, Người ta nhốt ngài trong một chiếc cũi chó. Đám lính
canh, mỗi lần đi qua, bắt ngài sủa lên như chó. Cuối cùng, ngài đã chết thê thảm,
vì bị tra tấn quá tàn nhẫn.
Trong không gian nhỏ bé của một
cũi chó, bị chế nhạo như con chó và bị đối xử như một con vật ghê tởm…ngài vẫn
chịu đựng. Đặc biệt, còn đủ kiên trì viết lại nhiều suy nghĩ về đau khổ, trong
một cuốn sách cũ kỹ, trên một khoàng trống ở giữa hai hàng chữ. Chúng ta có thể
nêu ra ở đây một lá thư ngỏ của ngài, gởi Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, không một nỗi
đau nào làm con ngã xuống được, vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của
Chúa.
Con đường cô độc chúa đã đi qua,
đã giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan…Tình yêu của Chúa đã biến
màn đêm tăm tối trong con thành nguồn sáng rực rỡ.
12. Ở lại với Chúa và có
Chúa ở lại với ta
Ngày 18 tháng 11-2005 tại Roma,
Đức Thánh Cha Bênêđictô đã gặp các em bé mới rước lễ lần đầu. Một em tên là
Andrea hỏi Đức Thánh Cha:
- Thưa Đức Thánh Cha, Đức Thánh
Cha có kỷ niệm gì về ngày rước lễ lần đầu của Đức Thánh Cha không?
Đức Thánh Cha trả lời:
Đó là một ngày Chúa Nhật cuối
tháng Ba, năm 1936, cách đây 69 năm. Trong ngày đó, Cha hứa với Chúa Giêsu,
theo khả năng của Cha: "Con muốn luôn ở với Chúa.” Và Cha đã xin Ngài:
"Nhưng trước hết, xin Chúa hãy ở với con.” Từ đó, Chúa Giêsu đã luôn nắm
tay Cha, dắt Cha đi trong những tình huống khó khăn.
Ở lại với Chúa và Chúa ở lại với
ta. Đó chính là sự hiệp thông mang lại hoa trái siêu nhiên, như Chúa đã ước
mong và diễn tả trong dụ ngôn về cây nho. Do đó, lời cầu nguyện của Đức Thánh
Cha phải là lời cầu nguyện thường xuyên và tha thiết nhất của mỗi người chúng
ta, nếu chúng ta thực sự muốn trở thành những cành nho luôn sinh hoa trái.
13. Gặp được Chúa
Tại
Phi Châu, có ông già vào thăm cha, thấy trong nhà cha có cây đèn đốt ngược
(Bóng điện). Ông xin cha một cái. Cha cho ông cái bóng điện hư. Đưa về ông cột
dây vào rồi treo lên trần nhà. Không thấy bóng sáng như ở nhà cha. Ông hỏi cha,
cha cho biết: Nếu muốn bóng sáng thì phải có điện chuyển qua dây vào bóng đèn mới
sáng được. Cũng như ông muốn là người có đạo, sống sốt sáng là nhờ có ơn Chúa
thông qua ông khi chịu phép Rửa tội, ông mới trở nên người Công Giao, mới sống
đạo, mới biết Chúa, mới được đầy sống sáng trong đức tin.
Phaolô gặp được Chúa Giêsu (bài
đọc 1) và từ con người phản nghịch trở thành con người của ơn thánh, từ con người
ghét đạo trở thành con người nhiệt thành rao giảng Tin Mừng.
14. Để cành liền thân
Có hai thầy tu nọ sống với nhau
đã 40 năm trời, họ chưa bao giờ cãi cọ, dù chỉ một lần. Cho đến một ngày nọ,
người này nói với người kia: “Này, anh bạn không nghĩ đã đến lúc chúng ta phải
cãi nhau, ít nữa một lần sao?”
Người kia đáp: “Đúng vậy, nào
chúng ta hãy bắt đầu! Nhưng chúng ta bắt đầu cãi nhau về chuyện gì?”
Người này bảo: “Về chiếc bánh mì
này được không?”
“Được, hãy tranh luận về chiếc
bánh này. Chung ta sẽ làm thế nào đây nhỉ?”
Người này liền nói: “Chiếc bánh
này của tôi; nó thuộc về tôi.”
Người kia đáp: “Nếu thế, thì bạn
hãy lấy nó đi.”
Sở dĩ cuộc sống có xích mích và
giận hờn, là do chính cái ngã to lớn có trong con người. Khi cái ngã càng trở
nên bé nhỏ, sự bình an sẽ càng lớn. Cái ngã sẽ huỷ hoại sự bình an.
15. Nên một với nhau
trong Chúa Kitô
La Fontaine đã viết một câu chuyện
ngụ ngôn như thế này: "Một ngày nọ, tất cả các chi thể trong thân mình quyết
tâm đình công, không chịu làm việc để phản đối cái miệng, vì nhận thấy rằng:
cái miệng từ đó tới giờ chỉ có ăn mà không chịu làm gì cả. Trước sự phản đối
nay, cái miệng quyết định là từ nay sẽ không ăn nữa. Kết quả là chỉ sau một
ngày mà thôi, tất cả các chi thể khác đều mệt mỏi rã rời và không còn đủ khả
năng để trở lại với công việc của mình nữa.”
Trong cuộc sống đời thường, đã
muốn hay không muốn chúng ta cũng phải dựa vào người khác để có cái ăn cái mặc
để chúng ta có thể sống và tồn tại. Thì trong đời sống đạo, đời sống siêu nhiên
cũng vậy, chúng ta không phải là những hon đá nằm cạnh nhau một cách lạnh lùng,
mà chúng ta là những anh em với nhau, những anh em có cùng một Cha trên trời,
những anh em cũng sống nhờ vào một nguồn sống duy nhất là Đức Kitô, cho nên
chúng ta phải yêu thương gắn bó với nhau. Vã lại chính Đức Kitô đã từng xác nhận
rằng: "Điều gì các con đã làm cho một trong những anh em bé mọn nhất ở
đây, là các con đã làm cho chính Ta.” Như thế, sống gắn bó với anh chị em của
mình cũng là lúc chúng ta đang sống gắn bó với Chúa.
16. Đến với Chúa
Người ta kể lại như sau: đang
khi phi hành gia Amstrong chuẩn bị đổ bộ xuống mặt trăng, thì phi hành gia
Aldrin ở lại phi thuyền Apollo. Ông ta mở gói bánh mì và chai rượu nho, đặt
chúng lên máy vi tính. Và ông ta cho biết:
- Tôi đổ rượu nho vào ly… Vì tại
mặt trăng, trọng lượng chỉ bằng 1/6 ở trái đất, nên rượu nho từ từ dâng lên
thành ly trông rất đẹp mắt. Thật là thú vị khi nghĩ rằng chất lỏng đầu tiên được
rót và uống trên mặt trăng cũng như thực phẩm đầu tiên được ăn tại đó lại là những
chất liệu làm nên Mình và Máu Thánh Chúa.
Ngay trước khi dùng những món
này, ông ta đã đọc đoạn Phúc âm hôm nay: Ta là cây nho, các con là cành nho. Bất
cứ ai ở trong Ta và được Ta ở trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa
trái. Bởi vì không có Ta, các con sẽ không làm được gì.
17. Kết hợp nên một là điều
cốt yếu phải giữ
Tại bán đảo Dingle, ở Co. Kerry,
có một tảng đá được biết đến như là Tảng Đá của những giọt nước mắt, Carraig
nan Deoir. Tảng đá đó nằm tại khúc quanh của con đường đi tới Dingle. Dân di cư
từ các hòn đảo Blasket và mũi Slea hay dừng chân tại đây mot lúc và khóc. Từ
nơi đây, họ liếc nhìn lại quê nhà mà họ vừa mới từ đó ra đi, và sẽ không bao giờ
lại được nhìn thấy nữa. Bên kia khúc quanh này, con đường được trải dài tới
Dingle, đi đến tận Cobh, và đến những con tàu sẽ đưa họ tới nơi bị lưu đày.
Vào giờ ra đi, Đức Giêsu cảm thấy
rất gần gũi với các tông đồ của Người. Và Người đã bày tỏ cho họ về điều này.
Người cũng muốn họ gần gũi với Người nữa. Người nhìn thấy trước rằng trong đêm
hôm đó, họ sẽ bỏ rơi Người.
18. Chúa muốn chia sẻ sức
mạnh của Chúa
Có một bộ phim mang tựa đề
"Shadow of the Hawk, Bóng Con Ưng.” Trong đó, có một cặp vợ chồng trẻ và một
người Da Đỏ dẫn đường lên núi chạy trốn đám người dữ.
Tại một nơi, người đàn bà bị vấp
ngã và nói, "Tôi không thể cất thêm một bước nào nữa."
Người đàn ông đỡ vợ đứng dậy và
nói, "Thế nhưng, em ơi, chúng ta phải tiến tới. Chúng ta không còn đường lựa
chọn nữa!" Cô vợ lắc đầu đáp, "Em không thể đi nổi nữa! Em không thể
đi nổi nữa!"
Sau đấy, người Da Đỏ chỉ đường
nói với người đàn ông, "Hãy ôm bà sát vào lòng ông. Hãy để sức mạnh và
lòng can đảm của ông truyền sang bà ấy."
Người đàn ông làm như vậy, và chỉ
trong vài phút ngắn ngủi, người đàn bà mỉm cười và nói, "Giờ đây, em đã đi
được rồi! Giờ đây, em đã đi lại được rồi!"
Đó cũng chính là điều mà Chúa
Giêsu muốn thực thi cho mỗi người chúng ta. Ngài muốn chia sẻ với ta không chỉ
có sức mạnh của chính Ngài và lòng can đảm, nhưng còn cả mạng sống của Ngài nữa.
19. Bán cho con 1 giờ của
cha
Câu chuyện đã làm tôi suy nghĩ
mãi, nội dung câu chuyện nói về việc đứa con muốn người cha của em dành cho em
một khoảng thời gian nên em đã hỏi cha. "Cha ơi, một giờ làm việc cha kiếm
được bao nhiêu tiền?” Người cha đó mới đầu đã rất bực khi nghe đứa con bé bỏng
của mình hỏi vậy. Nhưng ông đã cho con biết một giờ làm được bao tiền, sau khi
nghe cha nói em bé đã hỏi xin người cha tiền. Người cha quát: "Sao con ích
kỷ thế, cha đã làm việc cả ngày vất vả mà con còn xin tiền để mua đồ chơi vớ vẩn.
Thằng bé nhìn cha vội vã trở về phòng. Sau khi tắm rửa, cơm nước và nằm thoải
mái xem tivi, người cha sực nhớ lại hành động của mình hồi sáng và cảm thấy tội
nghiệp thằng bé. Có thể thằng bé muốn mua một cái gì đó và ông đã đưa cho con
tiền. Thằng bé bật dậy lấy tiền của cha và lấy thêm một chút tiền lẻ mà nó đã để
dành được dưới gối.
Thằng bé nói: "Con đủ tiền
rồi, cha bán cho con 1 giờ làm việc của cha đi. Con muốn cha chơi với con nhưng
lúc nào cha cũng bận làm việc"!
Hãy dành thời gian cho con cái,
cho gia đình của bạn, đó là thông điệp mà các thiên thần nhỏ cũng như gia đình
của bạn đang mong muốn.
20. Jacques Lebreton còn
trái tim
Năm 1974, ông Jacques Lebreton
được 78 tuổi, mới được Đức Giám mục địa phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó
tế cho.
Người ta thắc mắc :
- Trước đây ông là một đảng viên
Cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt
! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng. Mắt đâu để đọc sách ?
Tay đâu,để đổ nước ban Bí tích Thánh Tẩy cho người ta.Thế thì truyền chức Phó tế
cho ông để làm gì ?!
Đức Giám mục trả lời :
Jacques Lebreton còn trái tim.
Quả thực, sau khi lãnh Phó tế, thầy Jacques
Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường Đại học,
được rất nhiều sinh viên ca tụng.
Tâm tình của thầy Jacques Lebreton rất giống
tâm tình của thánh Phaolô : “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng, tự
ý làm việc ấy thì tôi có công, còn nếu ngoài ý tôi, thì đó là trách nhiệm Chúa
đã ký thác cho tôi !” (1 Cr 9,16-17). 21. Tình yêu nối kế và chia sẻ
Bé gái Angelina Lornadi sống ở
thành phố Dorila bị ung thư bao tử. Sau nhiều cuộc giải phẫu và nhiều cách điều
trị với tất cả mọi cố gắng, bác sĩ Cortez đành phải báo tin buồn cho bà Maria,
mẹ của bé Angelina, là ông đã bó tay và bé Angelina sẽ chết. Bà Maria như hóa
điên khi nghe điều đó. Bà quì bên cạnh người con gái và cầu nguyện. Mọi người
nghe thấy bà cầu xin với Thiên Chúa cho bà chết thay cho con bà. Mọi người ra
khỏi phòng cho bà được yên. Khi trở lại, họ không thể tin ở mắt mình: bé
Angelina đang đứng cạnh giường, trông rất rạng rỡ và khỏe mạnh, còn bà Maria
đang nằm gục trên giường. Bà thều thào nói: “Thiên Chúa đã đáp lại lời cầu nguyện
của tôi.”
Bác sĩ Cortez hết sức kinh ngạc
và hoài nghi. Ông cho khám nghiệm bé Angelina và thấy rằng cô bé hoàn toàn khỏe
mạnh. Ông cho xét nghiệm bà Maria, và thấy rằng bà sắp chết vì chứng bệnh ung
thư bao tử trước đó con gái bà đã mắc phải. Bà Maria đã chết sau đó vài giờ.
Bác sĩ Cortez đã nói: “Tôi không
thể giải thích được việc này trên phương diện y học. Có lẽ tôi chưa hiểu hết sức
mạnh huyền bí của tình mẫu tử, hoặc một thế lực siêu nhiên nào đó.”
22. Tột đỉnh của tình yêu
“Kế hoạch D cùng những chú đại
bàng” đưa ra nhiều chi tiết về sự can đảm của những người lính dù, những người
đã tiến hành cuộc tái chiếm Châu Âu vào ngày D. 6-6-1944. Họ hy sinh tính mạng
để đồng đội được hạ cánh an toàn. Trong số 219 người nhảy dù, chỉ có 73 người sống
sót. Những con người can đảm này đã sống đúng ý nghĩa lời Chúa Giêsu trong bài
đọc hôm nay: Họ chết để cho người khác được sống.
Sự hy sinh của những người lính
dù và lời Chúa hôm nay mời gọi tôi nhìn lại tinh thần hy sinh của tôi. Tôi sẵn
sàng hy sinh thế nào một chút tiện nghi và thời giờ (chưa nói đến hy sinh tính
mạng)?
Bạn chỉ cho đi quá ít khi cho đi
của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực sự cho đi (Kahil Gibran).
23. Kết nối cới Chúa
Một truyện cổ Do thái kể về một
phụ nữ không còn đến hội đường nữa. Một ngày nọ, vị giáo trưởng Do thái đến nhà
bà và xin được ngồi cạnh bà bên bếp lửa. Thật lâu, không ai nói lời nào. Rồi vị
giáo trưởng cấm lấy cái gắp than, gắp ra cục than hồng và bỏ trên mặt đất. Cả
hai cùng theo dõi, cục than tàn dần rồi tắt ngụm. Sau đó, người phụ nữ lên tiếng:
“Tôi đã hiểu, tôi sẽ trở lại hội đường.”
Có điều gì đe dọa tách tôi ra khỏi
Chúa Giêsu và làm tôi mất đi ngọn lửa của mình không? Tôi có thể giúp đỡ người
nào đã bị tách lìa khỏi Chúa Giêsu, như vị giáo trưởng đã giúp người phụ nữ
trong câu truyện trên đây không?
Chúng ta tìm thoải mái giữa những
người hợp ý với mình, và tìm được tăng trưởng giữa những người khác ý. (Frank
A.Clark).
CNPS 5C -
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ HAI - Những giới hạn
Lời
Chúa: Ga 14, 21-26
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và
tuân giữ, người ấy là kẻ yêu mến Thầy, và ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu
mến, và Thầy cũng yêu mến và tỏ mình ra cho người ấy."
Ông
Giuđa, không phải Giuđa Iscariô, thưa Người rằng: “Lạy Thầy, tại sao Thầy sẽ tỏ
mình ra cho chúng con, mà không tỏ cho thế gian?” Chúa Giêsu trả lời: “Ai yêu mến
Thầy, sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng Ta sẽ đến và ở
trong người ấy. Kẻ không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Lời mà các con
nghe, không phải là của Thầy, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Thầy. Thầy đã nói với
các con những điều này khi còn ở với các con. Nhưng Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần,
mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Người sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc
nhở cho các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con."
TRUYỆN KỂ
1. Để được ở với Chúa
Một
tu sĩ Dòng Tên đã chia sẻ kinh nghiệm:
Sau
những ngày bố ráp căng thẳng, ông và một số anh em bị bắt giữ. Một viên công an
nói với các tu sĩ bằng một giọng đắc thắng: “Trong những ngày qua chắc các ông
đã cầu nguyện nhiều để thoát khỏi tay chúng tôi. Nhưng các ông thấy đó, làm sao
có thể thoát khỏi tay chúng tôi được."
Nghe
thế, vị tu sĩ điềm nhiên trả lời: “Quả thật chúng tôi đã cầu nguyện nhiều,
nhưng chúng tôi không cầu nguyện để thoát khỏi tay các ông, mà để được ở trong
tay Chúa."
Để
được ở trong tay Chúa, để được ở với Chúa, để được Chúa cư ngụ trong tâm hồn,
đó là mục đích của cuộc sống đức tin mà người Kitô hữu phải không ngừng theo đuổi.
Đó cũng là một trong những ý tưởng nổi bật trong Tin mừng Gioan. Những môn đệ đầu
tiên đã đến xem nơi Chua Giêsu cư ngụ và đã ở lại với Ngài. Chúa Giêsu đã kêu gọi
họ trước tiên là đến và ở với Ngài.
2. Cần học tập để yêu
Chiang,
thầy của Jonathan là nhân vật trong tác phẩm “Jonathan Livingston Seagull” của
Richard Bach. Khi đến ngày Chiang phải chia tay với người học trò trẻ tuổi của
mình, Jonathan biết đây là giây phút đặc biệt. Anh tự hỏi không biết thầy sẽ
cho mình lời khuyên gì lúc chia tay. Chiang chỉ thốt ra vỏn vẹn vài tiếng:
“Jonathan, hãy vun đắp tình thương.” Đó cũng chính là lời khuyên Chúa Giêsu
khuyên các môn đệ lúc chia tay.
Không
biết Chúa Giêsu sẽ trả lời thế nào nếu tôi hỏi Ngài phải áp dụng lời khuyên của
Ngài lúc giã biệt vào đời sống của tôi lúc này?
Chúng
ta đã học bay như chim trên trời, học bơi như cá dưới nước, nhưng lại không học
điều đơn giản là chung sống với nhau. (Martin Luther King)
3. Lời trăn trối
Trong
cuốn sách “The living stone” có một câu chuyện như sau: Jonathan làm được những
việc phi thường, phần lớn vì hấp thụ được từ vị thầy khả kính. Ngày vị thầy sắp
lìa trần, ngài cho gọi Jonathan trở về để gặp thầy lần cuối. Jonathan hy vọng
thầy sẽ truyền cho bí quyết đặc biệt mà suốt đời thầy còn cất giữ. Nhưng lời
trăn trối cuối cùng của ông chỉ vỏn vẹn mấy chữ: “Hãy hành động vì yêu mến."
Chúa
Giêsu trước khi giã biệt các môn đệ cũng nhắn nhủ các ông về điều căn bản: “Ai
nghe và giữ giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy." Chúa Giêsu
không đòi những kẻ yêu mến Ngài phải có những rung động thuộc cảm tính... Tuy
nhiên một tình yêu đúng nghĩa là luôn luôn tìm cách làm đẹp lòng người yêu sẵn
sàng cho đi tất cả vì người yêu, chứ không dừng lại ở những rung động của thân
xác phần nào nói lên tính vị kỷ của mình
4. Phải yêu mến Chúa
Thánh
Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một
người bạn, có lẽ anh đã gặp nhiều thử thách trong đời, vì thế, anh chia sẻ với
Phanxicô rằng anh không thể nào yêu mến Thiên Chúa được.
Đang
khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què ngồi bên lề
đường. Ngài dừng lại hỏi người hành khất: “Này anh, nếu tôi chữa cho anh thấy
được và đi được thì anh có yêu mến tôi không”?
Người
hành khất trả lời: “Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài, mà tôi còn xin
dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài."
Nghe
câu trả lời của người hành khất, thánh Phanxicô quay sang nói với người bạn: “Đấy
anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được mà còn hứa với tôi
như thế huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mặt
mũi lành lặn, Ngài còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh
phải chết vì tội của anh, vậy mà anh không yêu mến Chúa sao”?
5. Yêu mến là vâng phục
Hai
cha con thoả thuận: ông sẽ mua cho cậu một chiếc xe đẹp hơn nếu cậu cạo râu, cắt
tóc dài và đọc Thánh kinh mỗi ngày. Xe mua về, cậu đọc sách nhưng không cắt tóc
và cạo râu. Khi ông đe dọa, cậu nói: “Con đang đọc về Chúa Giêsu, Ngài để tóc
dài và râu dài." Ông bố nói: “Đúng, Ngài đã để râu và tóc, nhưng Ngài luôn
thi hành ý Cha."
6. Yêu Chúa, đó là bổn phận của mỗi người chúng ta.
Nhưng thế nào là yêu Chúa?
Yêu
mến Chúa không phải chỉ là làm một số việc đạo đức bên ngoài như đọc kinh dâng
lễ, còn cuộc sống thì sao cũng được. Yêu Chúa như thế chưa đủ mà còn phải sống
nữa.
Một
người thanh niên có lòng yêu mến cha mẹ nên mỗi lần, bạn ấy đi đâu bạn ấy đều
xin phép cha mẹ. Một số bạn bè thấy thế liền cười nhạo:
- Lớn
rồi mà còn xin với xỏ. Mình trưởng thành rồi, muốn đi đâu thì đi, làm gì thì
làm tuỳ ý.
Người
bạn ấy đã giải thích một cách đơn sơ nhưng hợp lý hợp tình như thế này:
- Hẳn
ba má đã không cần tôi xin, nhưng chắc chắn ba má tôi sẽ rất vui khi tôi xin
phép như vậy. Tôi làm thế để được làm con và làm con thảo của ba mẹ tôi.
Hẳn
Chúa cũng rất vui khi chúng ta biết quan tâm lắng nghe và tuân giữ lời Ngài, để
Ngài có thể đưa chúng ta vào sự hiệp thông sâu xa với tình yêu của Ba Ngôi
Thiên Chúa.
7. Yêu cầu của Chúa
Chúa
đâu có đòi hỏi những món ‘đặc sản’ nào ngoại trừ một tình yêu, một tấm lòng với
tấm lòng, một tình bằng hữu giữa “ta với ta”
“Khách đến nhà không gà thì gỏi.” Lòng hiếu
khách như vậy thật là tuyệt vời; nhưng dù thế cũng không thể diễn tả hết tâm
tình thắm thiết đậm đà của cụ Nguyễn Khuyến khi ông bạn vong niên của mình là cụ
Dương Khuê tới thăm: “Bác đến chơi đây, ta với ta.”
Tình
bạn bằng vai bằng lứa đã thế huống chi là thân phận con người chúng ta đã được
Chúa “đến chơi nhà” và còn “ở lại” với chúng ta nữa. Thật chẳng khác nào được
“rồng đến nhà tôm”! Mà Ngài đâu có đòi hỏi phải dọn cho Ngài những món ‘đặc sản’
nào ngoại trừ một tình yêu, một tấm lòng với tấm lòng, một tình bằng hữu giữa
“ta với ta”: chỉ cần “yêu” và “giữ Lời Chúa” là đủ để Ngài kết mối tình thân mật
đó rồi.
8. Say mê Đức Kitô
Cô
Dương Lệ Quyên là một fan cuồng mộ tài tử Lưu Đức Hoa đến nỗi cha cô phải bán nhà
cửa, vay tiền nặng lãi, cuối cùng bán cả thận, để đưa cô đến gặp thần tượng.
Sau 13 năm theo đuổi, ngày 25/03/2007, cô đã đạt được ý nguyện và chụp ảnh
chung với thần tượng của mình, nhưng cô còn muốn gặp và nói chuyện riêng với
chàng.
Thế
là ông bố đã nhảy sông tự tử để gây áp lực họ Lưu phải chiều ý con gái mình. Lý
tưởng hoá một hình tượng nào đó là điều bình thường nếu không nói là cần thiết
để phát triển. Nhưng “thần tượng hoá” thái quá và nhất là bệnh hoạn lại đưa đến
nhiều tai hoạ khôn lường. Còn đối với Đức Kitô thì Ngài sẽ không để những ai
say mê Ngài, tuân giữ lời của Ngài và ra sức để trở nên giống Ngài, phải thất vọng
vì thần tượng bị sụp đổ.
Bởi
vì chẳng những Ngài mà cả Thiên Chúa Cha của Ngài sẽ yêu mến họ, hiện diện
trong họ và làm cho họ được hạnh phúc.
Say
mê Đức Kitô không làm bạn mắc bệnh tâm thần đâu. Thánh Phêrô đã chẳng nói với Đức
Kitô một cách say mê: “Bỏ Thầy con biết theo ai?” đấy sao (Ga 6,68)? Thánh
Phaolô đã chẳng nói như điên dại: “Tôi đành mất hết, tôi coi tất cả như rác, để
được Chúa Kitô” đấy sao (Pl 3,9)? Và các thánh tử đạo đã chẳng say mê Chúa Kitô
đến mức sẵn sàng chết vì Ngài đó sao? Phần bạn, bạn có dám say mê Chúa Kitô và
sống theo Lời Người không?
9. Tùy thuộc vào Chúa
Những
người vĩ đại sẵn sàng công nhận mình lệ thuộc vào Thiên Chúa trong công việc của
họ. Chẳng hạn, trước khi đến Washington, tổng thống Lincoln nói rằng nếu không
có Thiên Chúa trợ giúp, ông không thể thành công. Benjamin Franklin thì nói đến
sự cần thiết được Thiên Chúa trợ giúp đối với quốc gia: “Nếu một con chim không
thể rơi xuống đất mà không có sự quan phòng của Thiên Chúa, thì liệu một đế quốc
có thể chỗi dậy mà không có Thiên Chúa trợ giúp không?” Phaolô và Barnaba cũng
cảm thấy mình cần được Thiên Chúa trợ giúp.
Tôi
tin vào sự trợ giúp của Thiên Chúa trong cuộc đời tôi như thế nào? Tôi đánh giá
về nó ra sao?
Thiên
Chúa sống ở hai nơi: trên Thiên đàng và trong tim những kẻ tri ân (Isaac
Walton).
10. Đừng xao xuyến
Thủ
đô Luân Đôn thường bị ném bom một cách dữ dội suốt thế chiến thứ hai. Một đêm nọ,
có một cụ già đứng trên một quả đồi nhìn về thành phố. Khi nhìn thấy khói lửa bốc
lên từ thành phố, cụ bắt đầu khóc nức nở: “Chẳng lẽ không còn hy vọng gì sao?”
Rồi
một cơn gió mạnh quét sạch khói đi, cụ thấy một Thánh giá trên đỉnh mái vòm của
nhà thờ thánh Phaolô. Ngay lúc ấy, một làn hy vọng tràn ngập cụ. Cụ không lo lắng
sợ hãi nữa, bởi cụ biết rằng niềm tin vào Chúa Giêsu có sức mạnh lớn hơn sự ác
đang hoành hành nơi thế gian này.
Tôi
lấy lại hy vọng bằng cách nào khi sợ hãi và thất vọng vì sự ác nơi thế gian
này?
Hy
vọng giúp biến niềm tin thành hành động đang khi sự hoài nghi lấn lướt
(E.C.McKenzie).
11. Thầy để lại bình an
Nhạc
sĩ đại tài Pablo Casals cũng là một người hoạt động không mệt mỏi cho hòa bình.
Khi loan báo chương trình đi vòng quanh thế giới để thực hiện một cuộc thấp tự
chinh hòa bình, ông nói: “Trước hết tôi là một con người, thứ đến là một nghệ
sĩ. Là con người, bổn phận của tôi là lo cho hạnh phúc của đồng loại. Tôi sẽ cố
gắng việc này qua âm nhạc là phương tiện Thiên Chúa ban cho tôi, bởi vì âm nhạc
vượt trên mọi ngôn ngữ, chính kiến và biên giới quốc gia. Đóng góp của tôi cho
hòa bình có thể là nhỏ nhoi, nhưng ít ra tôi muốn làm tất cả những gì có thể.”
Chúa
Giêsu nói: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình.” Tôi có thể xây dựng hòa bình bằng
cách nào?
Hòa
bình thế giới bắt đầu từ mỗi con tim. Cây chỉ xanh khi từng chiếc lá cũng xanh.
12. Tình yêu là như thế
Thánh
Augustinô giới thiệu một bản văn hay trong bút tích của ngài bằng cách hỏi “Thế
nào là chân dung của tình yêu?” Ngài không trả lời bằng phép ẩn dụ khi so sánh
tình yêu với ánh mắt trẻ thơ hay bông cúc dưới ánh mặt trời. Nhưng trả lời một
cách thực tế hơn: “Tình yêu có đôi chân đến với người nghèo túng. Tình yêu có
đôi mắt nhìn thấy cảnh cơ cực và túng thiếu. Tình yêu có đôi tai lắng nghe những
tiếng thở dài và nỗi buốn phiền của người khác. Tình yêu là thế đó.” Thánh
Augustinô làm âm vang những gì Chúa Giêsu nói với các môn đệ về tình yêu trong
bài đọc hôm nay.
Áp
dụng lời của Chúa Giêsu và của thánh Augustinô vào cuộc sống hằng ngày, tôi rút
ra được kết luận gì?
Cùng
một bức rào ngăn người khác bên ngoài thì cũng khóa chúng ta lại bên trong.
THỨ BA - Hiệp nhất và bình an
Lời Chúa: Ga 14, 27-31a
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các
môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy
cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng.
Lòng các con đừng xao xuyến và đừng
sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại
với các con.
Nếu các con yêu mến Thầy, thì
các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy
nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy
không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có
quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha,
thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy."
TRUYỆN
KỂ
1. Hòa
bình của Đức Kitô
“Bất
thần tôi cảm thấy xao xuyến lo âu khi nghĩ đến những người Công giáo Đức. Tôi
không biết họ cảm nghĩ thế nào, khi chuẩn bị mừng lễ Giáng sinh. Tôi cảm thấy
nhu cầu cần phải dâng việc rước lễ để cầu nguyện cho nước Đức. Tôi hiểu rằng
chúng ta cần phải cầu nguyện cho sự canh tân luân lý và tinh thần của xứ sở đã
từng sống dưới sự cai trị của Đức Quốc Xã."
Những dòng tâm sự trên đây được
trích từ Nhật ký thiêng liêng của một người đàn bà Pháp được xem là người đã khởi
xướng phong trào Pax christi – Hòa bình của Chúa Kitô. Sinh trưởng trong một
gia đình trưởng giả, nhưng bà Marc đã có một đức tin sốn động và nhiệt thành. Trong
thời Đức Quốc Xã chiếm đóng Pháp, dưới sự hướng dẫn của cha linh hướng, bà đã bắt
đầu viết nhật ký thiêng liêng và chính những trang nhật ký này đã làm phát sinh
một phong trào về sau được gọi là “Hòa bình của Chúa Kitô."
Cuối năm 1944, vào giữa lúc thế
chiến thứ hai còn sôi động, bà xác tín rằng cần phải cầu nguyện cho sự hoán cải
của nước Đức. Ý tưởng này không được nhiều người đón nhận, bởi vì chiến tranh vẫn
còn sôi sục và người ta khó chấp nhận tinh thần hòa giải. Tuy nhiên, bà vẫn
kiên trì trong việc thành lập một phong trào cầu nguyện cho nước Đức được ơn trở
lại. Sau khi nước Đức đầu hàng, phong trào đã lan rộng tại nhiều nước Âu châu.
Ngoài mục đích cầu nguyện và gây ý thức về hòa bình, phong trào còn đưa ra những
sáng kiến về hòa bình.
Từ 50 năm qua, đóng góp lớn lao
nhất của phong trào này không chỉ là cổ võ cho hòa bình thế giới, mà thiết yếu
là làm cho thế giới hiểu được hòa bình mà Chúa Kitô mang lại cho con người.
“Hòa bình của Chúa Kitô."
Quả thực chỉ có Chúa Kitô mới đem lại hòa bình đích thực cho con người. “Ta để
lại bình an cho các con, Ta ban bình an của Ta cho các con."
2.
Bình an của Thầy ban cho anh em
Hôm ấy trên con tàu lênh đênh giữa
biển, hành khách truyện vãn với nhau, trong đó có bàn về Thiên Chúa. Trong số
những người có mặt, có một vị vô thần. Ông này tìm mọi lẽ bác bỏ Thiên Chúa. Lời
ông nói, lý ông đưa ra khá mạnh, khiến một số thính giả xiêu lòng. Thình lình
có cơn bão lớn khiến con tàu muốn đắm. Người ta thấy mất ông vô thần. Họ bảo
nhau đi kiếm thì thấy ông đương quỳ cầu nguyện trong phòng rửa mặt.
Một người hỏi khích ông: “Ông cầu nguyện với ai? Ông là người vô thần
cơ mà?" Ông khiêm nhường đáp: “Người
ta chỉ vô thần khi bình an thôi."
3.
Bình an thương đối và đích thực
“Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho
anh em không như thế gian ban tặng.”
Michael Jackson, một ca sỹ nhạc
rock, anh đã đạt tới đỉnh cao danh vọng. Bây giờ ước mơ của anh là được sống tới
105 tuổi. Vì thế, anh chẳng ngại thuê trực thăng đem khí Oxi từ đỉnh núi cao,
bơm đầy phòng kính nơi anh ở, để tránh mọi sự ô nhiễm.
Tôi tự hỏi: “Liệu anh có thật sự an toàn nơi phòng kín?”
Vâng, lạy Chúa, có nhiều lần con
tự trấn an mình bằng những gì mình có, con chiếm hữu và lo giữ lấy. Trước bạn
bè, con giả vờ như rất an tâm giữa những tiếng ồn ào, huyên náo; nhưng thật sâu
bên trong lại chẳng an tâm. Xin ban cho con bình an của Chúa, thứ bình an mà
không đau khổ nào có thể chạm tới, bình an của một tâm hồn luôn sống trong sự
thật.
4.
Bình an của Đức Giáo hoàng Gioan 23.
Ông Giacôbo Veisu, một nhà điêu
khắc nổi tiếng của Italia đã viết hồi ký về những giây phút cuối đời của Đức
Gioan 23 kể lại như sau:
Vào ngày cuối cùng của chuỗi
ngày đau đớn kéo dài, Linh mục Cabovila, bí thư riêng của Đức Thánh Cha, đến
bên giường bệnh, hôn tay Ngài và hỏi xem Ngài cảm thấy thế nào. Đức Thánh Cha
Gioan 23 trả lời:
-
Tôi cảm thấy trong mình khỏe khoắn và bình an như thể tôi đang ở trong tay
Chúa, nhưng đồng thời tôi cũng cảm thấy hơi lo.
Linh mục Cabovila thưa:
-
Xin Cha đừng lo, những người phải lo là chính chúng con đây. Chúng con đã nói
chuyện với bác sĩ.
Đức Thánh Cha Gioan 23 ngắt lời:
- Họ
đã nói những gì với con?
Linh mục bí thư nghẹn ngào nói:
-
Thưa Đức Thánh Cha, con muốn nói với Cha một sự thật. Hôm nay là ngày của Chúa,
hôm nay là ngày Cha sẽ được về Thiên Đàng!
Nói xong, Linh mục bí thư quì gối
xuống bên giường, hai tay bưng mặt khóc. Vài phút nặng nề trôi qua, bỗng cha cảm
thấy có một bàn tay âu yếm xoa đầu mình và nghe một giọng nói ôn tồn:
-
Hãy ngước mắt nhìn lên! Bình thường người thư ký của Cha rất mạnh mẽ, can đảm,
nhưng sao bây giờ lại trở thành mềm nhũn như thế. Cha đã nói với Người Bề Trên
của Cha những lời hay đẹp nhất mà con người có thể nghe từ miệng Linh mục!
Vâng đó là thứ Bình an đích thực
mà Chúa ban cho những ai tin Chúa.
5.
Bình an đến từ bác ái
Một lần được phỏng vấn trên truyền
hình, Mẹ Têrêsa trực diện với một kẻ hỏi cắc cớ: “Bà yêu thương người nghèo điều đó rất tốt. Nhưng còn biết bao nhiêu
người giàu có của Vatican và Giáo Hội thì sao?”
Mẹ nhìn thẳng vào người phỏng vấn
và nói: “Thưa ông, ông không phải là người
hạnh phúc. Có những điều đang sâu xé ông. Ông không có một chút bình an trong
lòng.”
Lời đó làm ông xụ mặt, và mẹ tiếp
tục khiến ông thêm quặn đau: “Ông nên có niềm tin tưởng.”
-
Làm thế nào tôi có được niềm tin?
-
Ông nên cầu nguyện.
-
Nhưng tôi không thể cầu nguyện.
-
Tôi sẽ giúp ông. Nhưng phần ông, ông nên cho những người xung quanh nụ cười. Một
nụ cười làm ông gần những người khác. Nó mang sự thật về Thiên Chúa vào cuộc sống
của chúng ta.
6.
Sự bình an từ lương tâm ngay lành
Một người hành khất có dáng vẻ
băn khoăn tiều tụy lạ thường. Sau manh áo rách rưới, ông còn đeo trên cổ một
Thánh Giá vàng mà ai cũng có thể trông thấy.
Ngày ngày, ông ta tới xin ăn trước
cửa một nhà thờ ở Paris. Người quen thuộc nhất của ông là một Linh mục trẻ. Vị
Linh mục thường đến dâng lễ ở nhà thờ này. Mỗi lần ra khỏi nhà thờ, Linh mục
thường có thói quen hỏi han và giúp đỡ người hành khất này.
Bỗng một hôm, vị Linh mục không
thấy người ăn xin ấy trước cửa nhà thờ nữa. Ngài đã tìm đến để thăm và giúp đỡ
người hành khất này đang lúc ông ta lên cơn rét run, vì bệnh tật và đói ăn.
Cảm động trước nghĩa cử của Linh
mục, người hành khất đã kể lại cuộc đời mình cho Linh mục nghe. Ông tâm sự rất
thật, không giấu diếm điều gì. Ông nói:
-
Lúc cách mạng bùng nổ thì tôi đang làm quản gia cho một gia đình giàu có. Hai vợ
chồng chủ tôi là những người đạo đức, giàu lòng thương người. Thế nhưng, tôi đã
phản bội họ. Quân cách mạng đã đến và đã bắt họ. Hai vợ chồng và hai đứa con bị
bắt giữ và bị kết án tử hình. Chỉ có người con trai duy nhất là thoát được.
Nghe tới đây, vị Linh mục cảm thấy
choáng váng mặt mày. Nhưng rồi ngài cũng cố gắng lấy lại được vẻ bình tĩnh. Người
hành khất khều khào nói tiếp:
-
Tôi nhìn họ leo lên đoạn đầu đài và thản nhiên theo dõi cảnh người ta chém đầu
họ. Quả thật, tôi là một con quái vật khát máu. Nhưng sau đó tôi bỗng ân hận.
Tôi bị lương tâm giày vò. Tôi không thể nào có được sự bình an trong tâm hồn nữa
và tôi bắt đầu đi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm để cố quên đi tội ác của
mình… Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh gia đình họ trong túi áo này đây. Cây Thánh Giá
treo ở đầu giường kia là của người chồng. Còn Thánh Giá bằng vàng tôi đeo đây
là của người vợ… Xin Chúa tha thứ cho tôi.
Nghe xong những lời tâm sự và
cũng là những lời tự thú trên đây, vị Linh mục trẻ quỳ gối xuống cạnh giường
người hành khất đang hấp hối. Và thay cho một công thức giải tội, ngài nói:
-
Tôi chính là người con trai còn sống sót của gia đình. Đại diện cho gia đình
tôi và với tư cách là một Linh mục, tôi tha tội cho ông nhân danh Cha và Con và
Thánh Thần.
(Người hành khất lạ thường)
Vâng, phải sống với một “Lương
tâm không trách móc điều gì”, chúng ta mới có sự bình an của Chúa.
7.
Bình an bởi lòng tốt
Purna là một môn đệ của Đức Thích
Ca. Một hôm, anh xin thầy cho anh được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng còn
bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Thấy môn sinh của mình có thiện
chí nhưng Đức Phật vẫn sợ, sợ anh ta không kham nổi những thử thách tại nơi đó.
Đức Thích Ca cho anh biết:
-
Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn ác. Bẩm
tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm hại kẻ
khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu, mắng
chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?
Purna thưa:
- Nếu
thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây vẫn còn tốt lành, vì
họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng võ lực, đánh đập và ném đá con.
Đức Thích Ca tiếp lời:
-
Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?
Purna thưa:
-
Trong trường hợp đó, con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa- Ranta còn tốt lành và
thân thiện, vì họ không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc
bén để sát hại con.
Nghe môn đệ nói như thế, Đức Phật
không khỏi ngạc nhiên, Ngài hỏi tiếp:
-
Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt lìa đời?
Không cần suy nghĩ lâu, Purna
đáp:
- Nếu
họ hại đến tính mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người thật tốt lành và thân
thiện, vì họ muốn giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này.
Nghe vậy, Đức Thích Ca bảo:
-
Purna, con đã tu tâm dưỡng tánh đến nơi đến chốn để có được sự ôn hoà, kiên nhẫn
hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân Sronapa-Ranta.
Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bản tính hiếu chiến và bất nhân
như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những ý nghĩ hận
thù, ghen ghét.
Những
người vĩ đại sẵn sàng công nhận mình lệ thuộc vào Thiên Chúa trong công việc của
họ. Chẳng hạn, trước khi đến Washington, tổng thống Lincoln nói rằng nếu không
có Thiên Chúa trợ giúp, ông không thể thành công. Benjamin Franklin thì nói đến
sự cần thiết được Thiên Chúa trợ giúp đối với quốc gia: “Nếu một con chim không
thể rơi xuống đất mà không có sự quan phòng của Thiên Chúa, thì liệu một đế quốc
có thể chỗi dậy mà không có Thiên Chúa trợ giúp không?” Phaolô và Barnaba cũng
cảm thấy mình cần được Thiên Chúa trợ giúp.
Tôi
tin vào sự trợ giúp của Thiên Chúa trong cuộc đời tôi như thế nào? Tôi đánh giá
về nó ra sao?
Thiên
Chúa sống ở hai nơi: trên Thiên đàng và trong tim những kẻ tri ân (Isaac
Walton).
9. Sức mạnh của niềm tin
Những
người vĩ đại sẵn sàng công nhận mình lệ thuộc vào Thiên Chúa trong công việc của
họ. Chẳng hạn, trước khi đến Washington, tổng thống Lincoln nói rằng nếu không
có Thiên Chúa trợ giúp, ông không thể thành công. Benjamin Franklin thì nói đến
sự cần thiết được Thiên Chúa trợ giúp đối với quốc gia: “Nếu một con chim không
thể rơi xuống đất mà không có sự quan phòng của Thiên Chúa, thì liệu một đế quốc
có thể chỗi dậy mà không có Thiên Chúa trợ giúp không?” Phaolô và Barnaba cũng
cảm thấy mình cần được Thiên Chúa trợ giúp.
Tôi
tin vào sự trợ giúp của Thiên Chúa trong cuộc đời tôi như thế nào? Tôi đánh giá
về nó ra sao?
Thiên
Chúa sống ở hai nơi: trên Thiên đàng và trong tim những kẻ tri ân (Isaac
Walton).
10. Bổn phận xây dựng hòa bình
Nhạc
sĩ đại tài Pablo Casals cũng là một người hoạt động không mệt mỏi cho hòa bình.
Khi loan báo chương trình đi vòng quanh thế giới để thực hiện một cuộc thấp tự
chinh hòa bình, ông nói: “Trước hết tôi là một con người, thứ đến là một nghệ
sĩ. Là con người, bổn phận của tôi là lo cho hạnh phúc của đồng loại. Tôi sẽ cố
gắng việc này qua âm nhạc là phương tiện Thiên Chúa ban cho tôi, bởi vì âm nhạc
vượt trên mọi ngôn ngữ, chính kiến và biên giới quốc gia. Đóng góp của tôi cho
hòa bình có thể là nhỏ nhoi, nhưng ít ra tôi muốn làm tất cả những gì có thể.”
Chúa
Giêsu nói: “Phúc cho ai xây dựng hòa bình.” Tôi có thể xây dựng hòa bình bằng
cách nào?
Hòa
bình thế giới bắt đầu từ mỗi con tim. Cây chỉ xanh khi từng chiếc lá cũng xanh.
11. Con người cô đơn.
Khắp
trên thế giới, nơi đâu cũng có bán máy chụp Kodak. Người ta có thể nói: “Các cửa
hiệu bán máy chụp hình và phim Kodak không bao giờ đóng cửa.” Khi các cửa tiệm
Đông phương đóng cửa nghỉ, thì các tiệm ở Tây phương mở cửa bán.
Ông
chủ hãng phim Kodak sống ở toà nhà sang trọng bậc nhất New York, có không biết
bao nhiêu tiền của ký gửi trong các ngân hàng lớn trên khắp thế giới, muốn lấy
ra lúc nào tùy thích. Tài khoản thâu nhập của ông không tính theo mỗi năm, mỗi
tháng, mà tính theo mỗi giây đồng hồ. Ông muốn gì cũng có, ông hưởng hết phúc lộc
của con người. Người nào muốn ra tranh cử Tổng thống cũng đều phải nhờ ông làm
hậu thuẫn, giúp đỡ tiền bạc. Mọi thứ trên đời này ông đều có, duy chỉ có một điều
vô cùng quan trọng thì ông lại không có. Đó chính là Thiên Chúa. Vì không có
Chúa nên lúc nào ông cũng cảm thấy cô đơn trống vắng. Mọi người thấy ông, cứ
nghĩ là ông được sung sướng, nhưng thực ra ông rất đau khổ.
Ông
dùng tiền của quá dư thừa của mình mà đi chu du vòng quanh thế giới, hưởng muôn
sự khoái lạc thế gian, hầu khỏa lấp nỗi cô đơn, trống vắng trong cõi lòng.
Nhưng một tâm hồn không có Chúa thì tất cả vũ trụ cũng không thể làm cho họ được
hạnh phúc.
Kết thúc chuyến du lịch vòng quanh thế giới mà cõi lòng ông vẫn hoang vắng, buồn bã. Vì quá tuyệt vọng, ông đã lao mình xuống đại dương mênh mông tìm sự giải thoát.
Tiền bạc cho ông tất cả nhưng khi không có Chúa, ông không có sự bình an.
THỨ TƯ - Sự kết hiệp thâm sâu
Lời
Chúa: Ga 15, 1-8
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy
là người trồng nho. Nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn
nhành nào trong Thầy không sinh trái thì Người chặt đi, còn nhành nào sinh trái
thì Người tỉa sạch để nó sai trái hơn. Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy đã
nói với các con. Các con ở trong Thầy, và Thầy ở trong các con. Cũng như nhành
nho tự nó không thể sinh trái được, nếu không dính liền với cây nho; các con
cũng vậy, nếu không ở trong Thầy.
"Thầy
là cây nho, các con là nhành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở trong người ấy, kẻ ấy sẽ
sinh nhiều trái, vì không có Thầy, các con không thể làm được gì. Ai không ở
trong Thầy, thì bị vứt ra ngoài như nhành nho, và sẽ khô héo, người ta sẽ thu lại,
quăng vào lửa cho nó cháy đi.
"Nếu
các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin,
và sẽ được. Đây là điều làm Cha Thầy được vinh hiển là các con sinh nhiều trái,
và như thế các con trở nên môn đệ của Thầy."
TRUYỆN KỂ
1. Hệ quả của sự cắt tỉa
Có
một dạo phong trào trồng nho đã nở rộ tại một số tỉnh dọc theo duyên hải miền
Trung. Cây nho không còn là một thứ cây xa lạ đối với nhiều người Việt Nam nữa.
Cây có trái là chuyện thường, nhưng cây phải bị cắt tỉa mới có thể đâm chồi, trổ
hoa và sinh trái, đó là hình ảnh đặc trưng của cây nho. Thật thế, với đôi mắt
không chuyên môn, khi nhìn vào thân nho bị cắt tỉa, có lẽ ai cũng phải xót xa,
có lẽ người ta sẽ nhìn vào người trồng nho như một con người nhẫn tâm, vì người
trồng nho xem ra cắt tỉa cây nho không chút tiếc xót. Nhưng chỉ trong một thời
gian ngắn sau đó, người ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy từ những cành trơ trụi
những mần non nhú ra và hoa cũng bắt đầu xuất hiện.
2. Gắn bó với Thầy
Học
trò hỏi tôn sư:
“Con
phải làm gì để đạt tới Thượng Đế?"
“Nếu
con muốn đạt tới Thượng Đế, con phải biết hai điều này. Điều thứ nhất là mọi cố
gắng để đạt tới Ngài đều hoài công."
“Còn
điều thứ hai?"
“Con
phải hành động như thể con nên một với Thượng Đế”
3. Kết hợp với Đức Kitô.
Văn
hào kiêm triết gia nổi tiếng người Ấn độ Rabindranath Tagore đã viết như sau:
“Trên bàn tôi là sợi dây guitar, tôi xoay nó qua lại theo các chiều khác nhau,
nó không bị ràng buộc chi cả. Vì nó được cuộn tròn nên khi tôi xoắn đầu này thì
đầu kia cũng bật dậy, sợi dây dẫy nảy trong tay tôi, mà chẳng phát ra một âm
thanh nào. Hiện tượng này biến mất khi tôi buộc nó vào chiếc đàn guitar, hai đầu
bị gắn chặt để sợi dây căng thẳng, rồi với đầu ngón tay, tôi gảy nhẹ vào sợi
dây và lạ thay, một âm vang nổi lên hầu như du dương. Đây chính là lúc sợi dây
được tự do để tạo nên nốt nhạc.
Cũng
thế, trong cách trồng cây cà chua, cây yếu ớt ngã xoài trên mặt đất, nhiều khi
lá bị héo úa dập nát. Nhưng nếu cây được cột vào một cọc dựng đứng, mọi phần tử
của cây được phơi ra ánh nắng, cây sẽ mơn mởn và đâm nhiều bông trái. Chính vì
bị ràng buộc mà cây đã có nhiều triển vọng sinh hoa kết quả”
4. Cắt tỉa
Cắt
tỉa là bị chặt đi, mất đi nhưng thử hỏi có cuộc đời nào mà chẳng được đánh giá
bằng những cái mất và những cái được không. Tuy nhiên, với con mắt đức tin, người
ta vẫn nhìn thấy cái được trong cái mất….Đức Hồng Y Etchegaray có lần đã nói:
“Đứng trước cánh rừng, chúng ta không nên dừng lại ở tiếng ngã đổ của cây rừng,
nhưng hãy lắng nghe âm thanh của những mầm non đang mọc lên. (Mỗi ngày một tin
vui).
Nếu
Thánh Anphongsô đã không được Thiên Chúa cắt tỉa bằng việc để cho Ngài thất bại
ê chề trong một cuộc xử kiện mà Ngài làm luật sư, cũng như thánh Ignatiô không
bị cắt tỉa bằng việc bị thương què chân trong một trận chiến, thì chưa chắc gì
các ngài đã tìm ra lý tưởng để đi theo. Chính nhờ sự cắt tỉa đớn đau đó mà các
ngài đã nhận ra tiếng Chúa mời gọi và đã đi theo Chúa, làm cho cuộc đời của
mình đẹp hơn nhiều. Như vậy, các Ngài mất một điều nhưng được lại nhiều điều
khác còn quý hơn.
5. Ở lại trong Chúa
“Ai
không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho, và sẽ khô héo. Người
ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi.”
Mỗi
ngày đọc báo, nghe đài, xem truyền hình tôi lại nghe thấy vụ giết người dã man;
những thảm họa của chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, hạt nhân; những cái chết đầy
thương tâm do các căn bệnh thế kỷ gây ra như Sida, Ebôla… Đâu đâu cũng thấy
tang thương và chết chóc.
Có
lần tôi đã phải bàng hoàng sửng sốt trước mẩu tin: “Một thanh niên đã chỉa súng
bắn chết bố mẹ chỉ vì ông bà không cho cậu ta tiền tiêu vặt.”
Tại
sao cuộc sống hôm nay lại có nhiều tội ác đến thế? Nguyên nhân chính phải chăng
là vì con người xa lìa Thiên Chúa, chạy theo cuộc sống vật chất, do đó trở nên
thoái hóa, buông thả, vô đạo. Đức tin khô héo rồi chết đi.
Lạy
Chúa, xin cho con biết lưu lại trong Chúa qua cuộc sống yêu thương và phục vụ.
6. Liên kết với Chúa Giêsu
Chữ
“Kitô hữu” có nghĩa là “người thuộc về Đức Kitô." Cho nên cuộc sống Kitô hữu
đương nhiên phải là cuộc sống trong Đức Kitô và sống bằng sức sống của Ngài.
Một
nhà truyền giáo sống tại Phi Châu, một lục địa còn sống rất xa đối với ánh sáng
văn minh hiện đại.
Tại
một trung tâm truyền giáo mà vị thừa sai kia làm việc, người ta mới mua được một
máy điện nhỏ, để cung cấp điện cho trung tâm.
Vì
nghe thấy tiếng máy nổ, một số những người sống chung quanh trung tâm, kể cả
con nít lẫn người lớn, đã kéo nhau đến để xem tiếng nổ kia là gì.
Khi
đến trung tâm, họ vô cùng ngạc nhiên, vì không hiểu tại sao lại có những chiếc
đèn, dài có, tròn có, treo ngược ở trên trần nhà và đang tỏa sáng. Họ lại càng
ngạc nhiên hơn nữa khi thấy nhà truyền giáo thắp sáng những ngọn đèn này mà
không cần phải mồi lửa cho chúng. Họ chỉ thấy ngài sờ vào một cục gì đó ở trên
tường, thế là ngọn đèn bỗng sáng trưng.
Một
người trong nhóm đến xem, thấy ở trong góc nhà có một cái bóng đèn dài người ta
bỏ đi đang nằm ở đó. Anh đánh bạo xin nhà truyền giáo.
Tưởng
là người này xin bóng đèn kia về nhà trưng chơi, nên ông đồng ý.
Ít
ngày sau, trong dịp đi thăm các gia đình, nhà truyền giáo ghé vào nhà của người
hôm trước đã xin bóng đèn. Vừa bước vào trong căn nhà lụp sụp, nhà truyền giáo
đã thấy ngay cái bóng đèn điện mà ngài cho hôm trước, được treo ở trên xà nhà,
bằng một sợi giây. Ngài còn đang tủm tỉm cười về ý nghĩ thật đơn sơ của người
dân ở đây, thì chủ nhà lên tiếng;
-
Thưa Cha, sao bóng đèn cha cho con chẳng sáng gì cả. Phải thắp sáng nó như thế
nào hở cha?
Nhà
truyền giáo phá lên cười rồi giải thích:
- Để
cho đèn này sáng, cần phải có một dòng điện, phát ra từ một máy phát điện. Dòng
điện này được dẫn đến bóng đèn bằng một dây kim loại. Ở đây không có điện, đàng
khác bóng đèn này hư rồi, nên làm sao sáng được.
Ngày
xưa, khi giảng về sự cần thiết phải liên kết với Chúa, Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh
cây nho và cành nho.
Ngày
nay, nếu Chúa có trở lại trần gian này để giảng cho chúng ta về đề tài phải
liên kết với Ngài, có lẽ Ngài sẽ không dùng hình ảnh cây nho và cành nho nữa,
mà có thể Ngài dùng hình ảnh bóng đèn điện, với máy phát điện.
7. Bài thơ của Tagore
Mong chẳng còn gì thuộc về con,
Mong chẳng còn gì là của con.
Để con được trắng tay,
Con chỉ còn Ngài để giữ lấy,
Con được chọn Chúa mãi là của con.
Chỉ mong Ngài xóa đi
Mong chẳng còn gì để chiếm hữu,
Mong chẳng còn gì ràng buộc con.
Để con được ngước lên
Con tìm được Ngài là chân lý.
Con được cùng Chúa đồng hành luôn.
Chỉ mong Ngài cất đi,
mong chẳng còn gì để nắm giữ,
mong chẳng còn gì mà tự tôn.
Để con chỉ biết yêu,
Yêu một mình Ngài trọn đời con.
8. Như cành liền cây
“Đến
đây thì ở lại đây, bao giờ bén rễ xanh cây hãy về.” “Ở lại” không chỉ là cư trú
mà còn là ăn uống, còn là chuyện trò, tâm sự, hàn huyên, còn là “ở lại trong
nhau”, nên duyên vợ chồng nữa. Câu ca dao đưa nôi ngày nào thật gần với Lời
Chúa hôm nay. Chúa mời gọi con người có thời giờ dành cho Chúa, cần nghe Lời,
ăn thịt, uống máu Chúa thì mới “bén rễ xanh cây”, mới “sinh nhiều hoa trái” được.
Cành lìa cây, cành cây không thể sinh hoa kết trái; ta xa Chúa làm sao ta có thể
sống, và sống dồi dào, làm sao ta có thể sinh nhiều hoa trái, và hoa trái ấy
làm sao tồn tại được?
Ta
không thể “Phúc Âm Hóa” nếu ta không gần gũi Chúa để Ngài biến đổi đời ta. Phúc
Âm hóa là làm cho Lời Chúa sinh nhiều hoa trái nơi cuộc sống của mỗi người. Điều
này giải thích tại sao phải có mối tương quan liên vị giữa Chúa với ta thì ta mới
đủ khả năng “sinh nhiều hoa trái."
9. Chết thay cho con
Bé
gái Angelina Lornadi sống ở thành phố Dorila bị ung thư bao tử. Sau nhiều cuộc
giải phẫu và nhiều cách điều trị với tất cả mọi cố gắng, bác sĩ Cortez đành phải
báo tin buồn cho bà Maria, mẹ của bé Angelina, là ông đã bó tay và bé Angelina
sẽ chết. Bà Maria như hóa điên khi nghe điều đó. Bà quì bên cạnh người con gái
và cầu nguyện. Mọi người nghe thấy bà cầu xin với Thiên Chúa cho bà chết thay
cho con bà. Mọi người ra khỏi phòng cho bà được yên. Khi trở lại, họ không thể
tin ở mắt mình: bé Angelina đang đứng cạnh giường, trông rất rạng rỡ và khỏe mạnh,
còn bà Maria đang nằm gục trên giường. Bà thều thào nói: “Thiên Chúa đã đáp lại
lời cầu nguyện của tôi.”
Bác
sĩ Cortez hết sức kinh ngạc và hoài nghi. Ông cho khám nghiệm bé Angelina và thấy
rằng cô bé hoàn toàn khỏe mạnh. Ông cho xét nghiệm bà Maria, và thấy rằng bà sắp
chết vì chứng bệnh ung thư bao tử trước đó con gái bà đã mắc phải. Bà Maria đã
chết sau đó vài giờ.
Bác
sĩ Cortez đã nói: “Tôi không thể giải thích được việc này trên phương diện y học.
Có lẽ tôi chưa hiểu hết sức mạnh huyền bí của tình mẫu tử, hoặc một thế lực
siêu nhiên nào đó.”
Câu
chuyện trên thật khó hiểu đối với vị bác sĩ, nhưng cũng là điều khó hiểu đối với
chúng ta. Thiên Chúa đã nhận lời cầu nguyện của bà mẹ, cho bà được chết thay
cho con mình chăng? Điều đó chúng ta không biết rõ. Tuy nhiên, chúng ta biết chắc
một điều: giữa người mẹ và đứa con luôn có một sợi dây thiêng liêng gắn chặt họ
nên một. Đó chính là sợi dây tình yêu nhiệm mầu.
10. Tình yêu nối kết
Ngày
kia, diễn viên hài nổi tiếng Jimmy Durante được mời tham gia một buổi trình diễn
cho các cựu chiến binh trong thế chiến thứ II. Ông báo với ban tổ chức rằng lịch
diễn của mình rất khít khao, nên ông chỉ diễn một đoạn kịch ngắn rồi đi ngay.
Dĩ nhiên là ban tổ chức đồng ý.
Nhưng
khi Jimmy diễn xong, ông vẫn đứng lại trên sân khấu giữa lúc tiếng vỗ tay và
hoan hô càng lúc càng lớn. Ông vẫn đứng đó chờ đợi tiếng vỗ tay chấm dứt… 15 rồi
20 phút… Người thư ký của ông bước ra sân khấu nhắc ông phải đi ngay kẻo trễ.
Ông liền chỉ vào hàng ghế trước và nói: “Hãy nhìn xem! Làm sao chúng ta có thể
đi lúc này?”
Ở
hàng ghế trước có hai cựu chiến binh, mỗi người bị cụt một cánh tay. Một người
mất cánh tay phải, người kia mất cánh tay trái. Mỗi người một bàn tay cùng vỗ
vào nhau một cách rất nhiệt tình. Đó chính là lý do khiến vua hài Jimmy xúc động
đến rơi lệ.
Thật
là một bài học đầy ý nghĩa! Không những chúng ta hãy biết kết hợp với Chúa, mà
còn phải biết liên kết với nhau để tìm thấy niềm vui và niềm hạnh phúc trong cuộc
sống hàng ngày.
11. Như cây liền cành
Trong
Chinh Phụ Ngâm khúc, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm diễn tả: “Thiếp xin thề kiếp sau này,
như chim liền cánh như cây liền cành.” Sự gắn bó khăng khít và chung thuỷ của
tình yêu phu phụ không thể đạt được trọn vẹn ở kiếp này cho nên đành phải hẹn lại
kiếp sau, bởi vì dù “ta với mình” tuy là một nhưng thực sự vẫn là hai. Thế
nhưng, Chúa Giê-su, qua dụ ngôn cây nho, cho biết, sự kết hợp trong mơ đó được
thể hiện nơi tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, không đợi đến “kiếp sau”
trên Thiên quốc mà ngay ở “kiếp này." Lối nói “ở trong nhau” không chỉ là
một biện pháp tu từ mà là một hiện thực nơi bí tích Thánh Thể: Thịt Máu Chúa,
dưới hình bánh rượu, được chan hoà trong máu thịt của chúng ta khi chúng ta rước
lễ.
Bằng
hình ảnh cành nho gắn liền với cây nho, Chúa Giê-su đã cho chúng ta thấy sự cần
thiết và tầm quan trọng của việc mỗi người chúng ta phải kết hợp và gắn bó với
Thiên Chúa; bởi đó là nguồn sống chính yếu để nuôi dưỡng cuộc sống tâm linh mỗi
người.
12. Sinh nhiều hoa trái
Khi
được hỏi có cần giúp đỡ gì không cho cộng đoàn mới lập ở Nga, Mẹ Tê-rê-sa
Can-cút-ta chỉ xin có được một linh mục đến dâng lễ hàng ngày cho các nữ tu của
Mẹ, vì Thánh Lễ và Thánh Thể là nguồn sức mạnh của các con cái Mẹ.
Cuộc
đời và những hoạt động của Mẹ Tê-rê-sa là một bằng chứng sống động của một người
luôn biết “ở lại” trong Thầy Chí Thánh, như cành nho gắn liền và sống nhờ thân
nho, đúng như lời Tin Mừng ta nghe hôm nay. Nhờ đó đời sống của Mẹ đã sinh thật
nhiều hoa trái. Ngày nay, con cái của Mẹ Tê-rê-sa đã có mặt trên hơn 130 quốc
gia với hơn 700 nhà chăm sóc người nghèo đói và yếu liệt.
Lời
Chúa hôm nay nêu rõ rằng yêu thương và phục vụ người khác là hoa trái của sự kết
hiệp với Đức Giê-su. Nhờ gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta sẽ có được nguồn sức mạnh
và tình yêu, để sống tận lực và cống hiến hết mình theo gương Mẹ Tê-rê-sa.
13. Chọn cái chết
Vở
kịch “Bất ngờ” của Paul Claudel mở đầu bằng cảnh đắm tàu trên biển. Người duy
nhất sống sót là một nhà truyền giáo đã tự cột mình vào cột buồm. Nhận thấy chiếc
cột buồm đang trôi nổi với cơn sóng ác nghiệt và mình cũng đang gần kề cái chết,
vị thừa sai đã dâng lên Chúa lời cầu nguyện như sau: "Ôi lạy Chúa, con xin cám ơn Chúa đã cho con đón nhận cái chết như
thế này. Cuộc đời con không ít lần con cảm thấy lời dạy của Chúa quá khó khăn
và con đã cưỡng lại lời mời gọi của Chúa. Giờ đây con đang gần Chúa hơn lúc nào
hết, thân thể con đang bị trói chặt vào chiếc giá gỗ và con sắp chết trên chiếc
giá gỗ này. Con có thể tháo gỡ thân thể con khỏi sự trói buộc, nhưng con không
muốn, vì sự trói buộc sẽ cho con cảm giác được gần và giống Chúa hơn."
Nếu
có thể chọn cách chết, tôi sẽ chọn cách nào? Tại sao?
Khi
tiếng thần chết thì thầm: “Ngươi phải rời bỏ thế gian”, xin cho con nghe được
tiếng Chúa: “Con sắp trở về cùng Ta.” (Norman McLeod).
14. Đến với Chúa trong Giáo hội
Một
truyện cổ Do thái kể về một phụ nữ không còn đến hội đường nữa. Một ngày nọ, vị
giáo trưởng Do thái đến nhà bà và xin được ngồi cạnh bà bên bếp lửa. Thật lâu,
không ai nói lời nào. Rồi vị giáo trưởng cấm lấy cái gắp than, gắp ra cục than
hồng và bỏ trên mặt đất. Cả hai cùng theo dõi, cục than tàn dần rồi tắt ngụm.
Sau đó, người phụ nữ lên tiếng: “Tôi đã hiểu, tôi sẽ trở lại hội đường.”
Có
điều gì đe dọa tách tôi ra khỏi Chúa Giêsu và làm tôi mất đi ngọn lửa của mình
không? Tôi có thể giúp đỡ người nào đã bị tách lìa khỏi Chúa Giêsu, như vị giáo
trưởng đã giúp người phụ nữ trong câu truyện trên đây không?
Chúng
ta tìm thoải mái giữa những người hợp ý với mình, và tìm được tăng trưởng giữa
những người khác ý. (Frank A.Clark).
15. Để sinh hoa kết trái xum xuê
Đức
cố giáo hoàng Phaolô VI đã từng nhấn mạnh rằng phát triển là hình thức truyền
giáo của thời đại hôm nay. Phát triển bản thân, xã hội cũng như Giáo Hội là một
đòi hỏi có tính tất yếu để sống còn. Kitô hữu chúng ta vốn quen thuộc với dụ
ngôn “những nén vàng hay nén bạc” mà Chúa Giêsu kể trong Tin mừng (x. Mt
25,14-30; Lc 19,12-27).
Không
làm sinh lợi những gì chúng ta đã lãnh nhận là một thái độ không chỉ đáng trách
mà còn đáng trừng phạt. Ngay đêm Tiệc ly, trước khi chịu tử nạn, Chúa Kitô đã
khẳng định: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em,
và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn
tại” (Ga 15,16). Người còn nói rõ: “Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em
sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy” (Ga 15,8).
Qua
hình ảnh cây nho, Chúa Kitô cho ta thấy hai điều kiện không thể thiếu nếu muốn
đơm hoa kết trái. Đó là gắn bó và cắt tỉa.
THỨ NĂM - Niềm vui được trọn vẹn
Lời
Chúa: Ga 15, 9-11
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy
cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy.
Nếu
các con tuân giữ lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng
như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người.
Thầy
nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của
các con được trọn vẹn."
TRUYỆN KỂ
1. Tình Chúa yêu thương ta
Đức
Giêsu mời gọi chúng ta hãy ở lại trong tình thương của Ngài: Ngài yêu thương
chúng ta bằng chính tình yêu mà Chúa Cha đã yêu Ngài. Tất cả những gì Đức Giêsu
lãnh nhận từ nơi Cha, Ngài đã trao ban cho chúng ta, không giữ lại gì cho mình.
Đức Giêsu dạy chúng ta biết chia sẻ tình thương với anh em. Chính nhờ sống yêu
thương mà chúng ta có được niềm vui và hạnh phúc trọn vẹn.
Có
một tác giả đã viết trong một bài ca của ông như sau: “Dù anh lấy bầu trời làm
giấy, lấy nước biển làm mực, đốn cây rừng làm bút viết, và dùng con người trên
thế giới trải qua mọi thời đại làm người viết, thì anh cũng không bao giờ diễn
tả hết được tình yêu Thiên Chúa." Đây là một kiểu nói có tính cách khoa đại,
nhưng không phải là không đúng sự thật, vì Kinh Thánh nói: “Từ muôn thưở Chúa
đã yêu con”, “Chúa yêu con từ khi con chưa có tuổi, từ khi chưa có sao trời."
Nếu xét về hiện hữu thì con người chẳng hơn gì sự có mặt của muôn tinh tú trong
thái dương hệ bao la này. Nhưng vũ trụ bao la ấy một ngày kia sẽ trở về hư
không như lời Kinh Thánh: “Trời đất này sẽ qua đi." Nhưng khi mọi sự qua
đi, thì chính con người sẽ tồn tại mãi mãi, tồn tại cả xác lẫn hồn (Lm Phạm Văn
Phượng).
2. Hãy học biết yêu thương.
Ngày
xưa có một chàng thanh niên hồ nghi về sự hiện diện của Thiên Chúa. Một hôm anh
ta tìm đến một tu sĩ nổi tiếng và đạo đức, anh hỏi: - Ngài có tin Thiên Chúa
không?
-
Vâng, tôi tin. Vị tu sĩ trả lời.
-
Nhưng dựa vào đâu mà ngài tin như thế?
-
Tôi tin Thiên Chúa vì tôi biết Ngài. Tôi cảm nhận được sự hiện diện của Ngài
trong tôi mỗi ngày.
-
Nhưng làm sao cảm nhận được như thế?
-
Khi ta yêu thì ta sẽ cảm nhận được Chúa, và những hồ nghi sẽ tan biến như sương
mai phải tan biến lúc mặt trời mọc.
Chàng
thanh niên suy nghĩ một hồi rồi hỏi tiếp:
-
Xin Ngài chỉ rõ cho tôi phải làm điều đó bằng cách nào?
- Bằng
cách thực hiện những việc yêu thương. Anh hãy cố gắng yêu thương những người
chung quanh anh, yêu thương tích cực và không ngừng. Khi anh học biết yêu
thương ngày càng nhiều hơn thì anh cũng sẽ càng ngày càng xác tín hơn về sự hiện
hữu của Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn. Việc này đã được thử nghiệm rồi đấy.
Đó là sự thật.
3. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy
Năm
1963, tại Washington, 200.000 người lắng nghe Martin Luther King. Vị mục sư da
đen, người đoạt giải Nobel Hoà Bình nói chuyện: “Tôi ước mơ một ngày kia, trên
những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những người nô lệ và những người chủ
nô sẽ ngồi với nhau trong một bàn tiệc huynh đệ. Tôi ước mơ một ngày kia, 4 người
con của tôi về sống trong một nước mà chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa,
nhưng vì công lao…”
Ông
ra sức thực hiện ước mơ ấy, biết bao khó khăn thử thách, ghen tương đố kỵ đã đổ
xuống trên đầu ông, nhưng ông vẫn kiên quyết thực hiện hoài bão này.
Năm
1968, Martin Luther King đã gục dưới lằn đạn của những kẻ thù ghét ông. Nhưng
công trình của ông vẫn được tiếp tục, bởi ước mơ của ông đã trở thành ước mơ của
hàng triệu người trên thế giới.
Lạy
Chúa, xin cho con biết ở lại trong tình thương của Chúa.
4. Chấp nhận sự khác biệt
câu
chuyện xảy ra tại Belfast bên xứ Iceland:
Một
linh mục công giáo, một mục sư tin lành, và một giáo trưởng Do thái, đang tranh
luận rất sôi nổi về vấn đề thần học. Thình lình một Thiên Thần hiện ra giữa họ
và nói:
-
Thiên Chúa chúc lành cho các ngươi. Các ngươi hãy nói lên một ước nguyện về hòa
bình và Thiên Chúa toàn năng sẽ chấp nhận.
Thế
là vị mục sư tin lành liền khẩn cầu:
-
Xin Chúa cho tất cả mọi người Công Giáo biến khỏi mảnh đất thân yêu này thì hòa
bình sẽ trở lại tức khắc.
Vị
Linh mục công giáo thì cầu nguyện:
-
Xin đừng để cho một người Tin Lành nào còn có mặt trên mảnh đất Iceland thân
yêu này, và hòa bình sẽ trở lại.
Vị
giáo trưởng Do thái thì lại cúi đầu thinh lặng. Thấy thế Thiên Thần liền hỏi:
-
Còn ngươi, hỡi giáo trưởng, ngươi không có ước nguyện nào ư?
Ông
ta liền thưa:
-
Vâng, tôi không có điều gì để xin nữa. Tôi chờ cho lời cầu của hai vị này được
Chúa chấp nhận là tôi mãn nguyện rồi.
Tình
yêu đòi hỏi phải chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt của người khác. Đó cũng là
nền tảng của một xã hội tốt đẹp. Giềng mối của mọi đố kỵ, chia rẽ dẫn đến bạo động,
hận thù và chiến tranh chính là thái độ bất khoan dung.
5. Tình yêu chỉ một, nhưng cách bày tỏ thì nhiều
Đức
Giám Mục Helder Camara, vị tông đồ nổi tiếng của người nghèo xứ Brasil, đã ghi
lại trong tập thơ của Ngài mang tựa đề “Có muôn ngàn lý do để sống” câu chuyện
sau đây:
Bên
cạnh nhà tôi có một con sáo, quanh năm ngày tháng sống giữa trời. Tôi vẫn có
thói quen nói chuyện với nó. Một hôm, tôi hỏi sáo có nơi ngủ không. Nó ngạc
nhiên trả lời:
-
Có chứ, màn là trời, chiếu là đất, có bao giờ thiếu đâu.
Với
những đòi hỏi của trí khôn, con người muốn biết mọi chuyện, tôi mới tò mò hỏi
nó:
-
Thế thì những lúc mưa gió, sáo trú ẩn mình nơi đâu?
Sáo
nhanh nhẩu trả lời:
- Bộ
ông nghĩ là thỉnh thoảng tôi không cần tắm gội sao?
Tôi
hỏi nó có đói không. Con chim chỉ mỉm cười đáp:
-
Điều tôi muốn là được hót. Tôi sinh ra để hót mà.
Nói
thế rồi nó cất tiếng hót như sau:
- Hỡi
loài người kiêu ngạo, hãy nói cho ta biết đi, liệu các ngươi không chết sao?
Có
lần, tôi nài nĩ con sáo nhận món quà tôi biếu, đó là khúc bánh mì kẹp thịt. Thế
là sáo lại được dịp cười nhạo sự ngây ngô của tôi. Nó bảo:
-
Ông không biết loài sáo chúng tôi không ăn bánh mì và thịt như các ông à?
Một
lần khác tôi hỏi sáo có cầu nguyện không? Nó không hiểu được câu hỏi của tôi.
Nó chỉ cười và nói:
-
Có mấy chú nhóc con lấy đá ném tôi. Nhưng tôi bay đi, tôi cười và tôi hót.
Ngày
kia, tôi có ý nghĩ đưa con sáo vào bệnh viện nhờ các bác sĩ khám bệnh và chữa
trị cho nó. Nhưng tôi chợt nhận ra rằng nó chỉ là một con chim.
Nguyên
nhân của những nỗi bất hạnh nơi con người là việc con người không biết chấp nhận
tư tưởng, hành động và cách sống của nhau.
Ai
cũng muốn người khác phải suy nghĩ, hành động và sống như mình. Ý thức hệ nào
cũng tự cho mình là ưu việt và muốn áp đặt trên mọi người bằng mọi cách.
6. Quỹ đạo của tình yêu
Trái
đất gắn bó với mặt trời theo một định luật bắt nó phải xoay quanh mặt trời 365
ngày 5 giờ 48 phút 46 giây để hoàn thành một vòng tròn bầu dục, lúc nào cũng
như lúc nào, không trệch một li, để cho muôn vật trên trái đất sinh sống. Đức
Giêsu tha thiết kêu gọi chúng ta hãy ở lại trong “quĩ đạo” tình thương của Người
để được hưởng niềm vui trọn vẹn, như Người luôn luôn gắn bó không tách rời khỏi
“quĩ đạo” tình yêu của Chúa Cha. Và dấu hiệu cho biết một người luôn luôn ở lại
trong “quĩ đạo” tình thương của Chúa Giêsu là tuân giữ các “định luật” yêu
thương của Người, như Người đã tuân giữ cẩn trọng các “định luật” của Chúa Cha.
Tình
thương của Thiên Chúa luôn có sẵn đó cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô, như nguồn
điện, nguồn nước được dẫn đến tận nhà; ta chỉ có một việc phải làm, đó là cắm
phích điện và mở vòi nước – ngôi nhà sẽ bừng lên ánh sáng, quạt điện sẽ chạy,
tivi sẽ phát tiếng phát hình, và ta có nước để uống và tắm giặt. ‘Cắm phích’ và
‘mở vòi’ chính là định luật phải được tuân thủ ở đây – để ta có thể “ở lại”
trong quĩ đạo của ‘điện’ và ‘nước’.
Mọi
tội lỗi đều là một hành động ‘cắt’ nguồn
7. Dấu hiệu của môn đệ Chúa
Trong
thế chiến thứ hai, một tù nhân trốn khỏi phân đội lao động ở Auschwitz, một trại
tập trung của Đức Quốc Xã ở Ba Lan. Để làm giảm đi những cuộc trốn chạy, bọn Đức
Quốc Xã chọn mười tù nhân đem giết. Một trong số đó là một người cha của gia
đình.
Khi
bọn lính đưa các nạn nhân đi hành hình, thì một vị linh mục bước ra khỏi vị trí
và tự nguyện thế chỗ cho người này. Viên sĩ quan chịu trách nhiệm rất sửng sốt,
nhưng ông lấy lại bình tĩnh và nói: “Đồng ý.” Nghĩa cử yêu thương anh hùng của
vị linh mục đối với người bạn tù là phản ánh tình yêu Chúa Giêsu đối với chúng
ta và tình yêu Chúa Cha đối với Chúa Giêsu.
Tôi
quảng đại thế nào với bất cứ nghĩa cử yêu thương nào mà Chúa Thánh Thần mời gọi
tôi thực hiện?
Tình
yêu chính là dấu chỉ của Thiên Chúa.
8. Người cần tình yêu hơn
Một
bé gái khoe với bà ngoại các con búp bê của mình. Bà ngoại hỏi: “Cháu thích con
búp bê nào nhất?” Cô bé trả lời: “Bà phải hứa không được cười nhé!” Bà ngoại hứa.
Cô bé liền nhặt lên con búp bê xấu nhất. Bà em hỏi: “Tại sao cháu lại thích nó
nhất?” Cô bé đáp: “Bởi vì con búp bê này cần được thương hơn những con búp bê
xinh đẹp kia.”
Tình
thương của cô bé dành cho con búp bê phản ánh tình thương Chúa Giêsu dành cho
chúng ta. Ngài yêu thương chúng ta vì chúng ta tội lỗi và cần đến tình thương của
Ngài.
Tình
thương Chúa Giêsu dành cho chúng ta và tình thương cô bé dành cho con búp bê tả
tơi mời gọi tôi tự hỏi: Làm thế nào tôi có thể yêu thương nhiều hơn?
Không
ai cần tình thương hơn người chẳng đáng được thương.
9. Nhà cô có nến không?
Một
cô gái trẻ khá giả chuyển sang nhà mới. Đến đó, cô được biết hàng xóm của mình
là một phụ nữ nghèo goá chồng, sống với hai đứa con nhỏ.
Một
ngày nọ, khu phố bị mất điện đột ngột. Một lát sau, cô nghe có tiếng gõ cửa.
Khi ra mở cửa, cô thấy đứa bé con nhà hàng xóm.
Đứa
bé hỏi: "Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?"
Cô
gái trẻ nghĩ thầm trong bụng: "Chắc nhà nó không có nến nên sang hỏi xin
mình. Cho nó một lần, lần sau lại sang xin nữa cho mà xem!"
Thế
nên cô sẵng giọng: "Không có!"
Rồi
cô đưa tay ra định đóng cửa cho mau! Nhưng đứa bé nhanh hơn, nó chìa ra hai cây
nến, mỉm cười nói với cô: "Cháu biết ngay là nhà cô không có nến mà! Mẹ
cháu sợ cô sống có một mình mà không có nến nên bảo cháu mang nến sang cho cô
dùng tạm."
Chỉ
với hai cây nến nhỏ, nhưng ba mẹ con nhà nghèo đó đã thu được thật nhiều:
-
Xét về mặt là con người, họ đã cư xử như một người thư thả về của cải, và có được
sự thanh thản trong tâm hồn, sự thanh thản chẳng tiền nào mua được.
-
Xét về mặt là con Thiên Chúa, khi săn sóc cho cô, họ đã săn sóc chính Chúa của
trời đất này và mua được cho mình hạnh phúc Nước Trời, hạnh phúc chẳng tiền nào
mua được.
Đâu
là cây nến nhỏ tôi có thể trao cho cha mẹ tôi, cho anh em tôi, cho người láng
giềng của tôi, và cho người làm phiền lòng tôi?
THỨ SÁU - Yêu thương và phục vụ
Lời
Chúa: Ga 15, 12-17
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Đây là lệnh truyền của Thầy:
Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn
hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu
các con thi hành những điều Thầy truyền.
Thầy
không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi
các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy
đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn
các con, và đã cắt đặt, để các con đi, và mang lại hoa trái, và để hoa trái các
con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các
con.
Thầy
truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau."
TRUYỆN KỂ
1. Như Thầy yêu thương
(TGM
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Đơn
sơ, rõ ràng và cụ thể. Đó là Lời Chúa. Là Luật Chúa. Là Luật Mới: Yêu Thương.
Đơn sơ vì vắn gọn và tập trung vào một điểm. Rõ ràng vì ai cũng hiểu được và
làm được. Cụ thể vì chính Chúa đã thực hành trước khi truyền dạy cho ta. Yêu
thương nhưng phải yêu thương như Chúa yêu thương. Có 3 điểm.
Chúa
nâng ta lên. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi
Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết." Tôi tớ được nâng lên ngang hàng với chủ
nhân. Môn sinh được nâng lên thành bạn hữu của Thầy. Ở mức cao nhất. Vì được
cùng Thầy chia sẻ tâm tư tình cảm. Kể cả chương trình hành động.
Chúa
chết vì ta. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy
sinh tính mạng vì bạn hữu của mình." Chúa đã làm như vậy.
Chúa
tuyển chọn và sai ta đi. “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã
chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái." Đó là
tình bạn ở mức độ cao. Tin tưởng. Đồng hoá. Coi người bạn là đại diện cho mình.
Cũng như Chúa Cha và Chúa Con là một.
2. Hãy sống yêu thương
Cách
đây không lâu, Soko Asara, thủ lãnh giáo phái “Chân lý tối thượng” đã bị bắt giữ
vì can tội chủ mưu phóng hơi ngạt giết hại 11 người và làm bị thương trên 5.000
người trong một hệ thống đường ngầm tại Tokyo, Nhật Bản. Vị thủ lãnh giáo phái
này thường xuất hiện trong một chiếc xe mầu trắng sang trọng. Mười ngàn tín hữu
tại Nhật Bản và một số nước khác đã sụp lạy khi ông đi qua, họ uống cả nước tắm
gội của ông. Tại một trung tâm của giáo phái nằm dưới chân núi Phú Sĩ vốn là biểu
trưng của thanh bình, cảnh sát đã khám phá cả một kho vũ khí hóa học có khả
năng sát hại hàng chục triệu người. Đó là sự thật mà cảnh sát Nhật đã nắm bắt
được từ giáo phái vốn tự xưng là “Chân lý tối thượng." Tựu trung, sát hại
là khẩu hiệu hàng đầu do vị thủ lãnh giáo phái này truyền đi và được các tín đồ
của ông răm rắp tuân theo.
Con
người vốn khao khát đi tìm chân lý: nơi nào có người dấy lên tự xưng được giác
ngộ và tìm thấy chân lý, nơi đó có những tín đồ chạy theo.
3. Cố gắng yêu thương
Khi
người ta hỏi cha Phêrô (Abbé Pierre), người được người Pháp yêu mến nhất trong
thế kỷ XX (cha giúp đỡ anh em bất hạnh đầu đường xó chợ có công ăn việc làm để
mưu sinh): Nếu mai đây ngài mất đi, người ta nên ghi lại điều gì về cuộc đời
ngài. Cha trả lời liền không ngần ngại: “Xin đề trên mộ tôi câu này: Nơi yên
nghỉ của một người đã cố gắng yêu thương."
Mục
sư Martin Luther King người đã xả thân tranh đấu cho dân da đen được bình đẳng
như người da trắng tại Hoa Kỳ, được giải thưởng Nobel Hòa bình. Cũng vì tinh thần
dấn thân, vì quyền lợi của người da đen mà ông đã bị ám sát. Trong quyển nhật
ký của Luther King đã viết những dòng sau đây: “Tôi rất hãnh diện, nếu ngày tôi
qua đời ai đó sẽ kể lại rằng Martin Luther King là người đã cố gắng sống và yêu
thương."
4. Anh phải sống
Hy
sinh cho người thân yêu là một đòi hỏi thường tình của tình yêu. Hy sinh cho
người xa lạ là điều đáng khâm phục, và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho người
khác được sống quả là một diễn tả tuyệt vời của tinh yêu.
Ai
đã có dịp đọc cuốn tiểu thuyết “Anh phải sống” của Khái Hưng mới thấy thấm thía
lời Đức Giêsu đã day. Nội dung cuốn tiểu thuyết nói về việc hai vợ chồng nọ quá
nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường
về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc
cây nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một người bám. Họ không thể kéo dài mãi
tình trạng hai người cùng bám vào một khúc cây. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả
hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ có một sự lựa chọn. Người chồng bảo người
vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để lo cho các con." Người vợ
cũng bảo người chồng “anh phải sống." Cuối cùng, người vợ buông tay, tự
tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại cho chồng và các con.
5. Sẵn sàng chết cho người khác.
Một
vị đạo sĩ kia kể rằng: Ngày nọ, ông từ trên núi cao đầy băng tuyết đi xuống với
một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người ngã quỵ trên băng tuyết, ông
nói với ngưới Tây Tạng đồng hành:
-
Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng
người Tây tạng trả lời:
-
Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác, khi mà chính mạng sống của
chúng ta đang bị giá lạnh đe dọa.
Nhưng
vị đạo sĩ nói:
-
Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng ta cũng nên chết vì đã giúp
ngưới khác, đó là điều tốt đẹp hơn.
Nói
rồi, vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai và khệ nệ đem người đó xuống
núi, trong khi người Tây tạng đã bỏ xuống trước. Đi được một quãng, vị đạo sĩ
thấy người bạn đồng hành Tây tạng đang nằm dài trên tuyết bất động. Thì ra, anh
ta quá mệt ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc nào không biết, còn vị đạo sĩ vì
phải hết sức vác người bị nạn nên cơ thể nóng lên thêm, nhờ đó mà ông thoát chết
vì lạnh.
6. “Điều Thầy truyền dạy cho anh em là hãy yêu
thương nhau.”
Từ
23 tháng chạp đến tết, đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn lên vì chuẩn bị cầu phúc.
Trong những ngày này, Lỗ Tấn gặp thím Tường Lâm. Thím là một nông dân cần cù.
Chồng trước thì chết sớm, chồng sau chết vì thương hàn, thằng con nhỏ thì bị
chó sói vồ… Họ còn đồn rằng mai sau thím sẽ bị cưa đôi để chia cho hai con ma
chồng. Thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng nói thím là đồ ô uế. Chủ nhà
không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân đèn… Thím từ từ suy
sụp và sinh hoảng loạn.
Lỗ
Tấn thấy thím tóc trắng tóa, tay sách cái làn tre, trong có cái bát mẻ không đựng
gì, tay kia cầm cây gậy trúc đầu toe tóe, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm
gọi tên con mình…
Tiết
trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết vào lúc giao thừa đến, pháo nổ
vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy vậy quát lên: “Tại sao chết vào
lúc tao đang cầu phúc?”
Lạy
Chúa, có nhiều người bên con vẫn đang âm thầm đau khổ chỉ vì những suy nghĩ, lời
nói và hành động thiếu yêu thương của con, xin giúp con hiểu và thực thi giới
răn yêu thương của Ngài.
7. Tình yêu và hy sinh
Yêu
thì phải hy sinh. Một vị Giám mục kia nói: “Tình yêu không có hy sinh là tình
yêu giả. Và hy sinh không vì tình yêu là hy sinh thừa."
Hồi
còn học ở Tiểu chủng viện, tôi có được xem một cuốn phim mà nay tôi vẫn còn nhớ
rất rõ nội dung của nó. Cuốn phim có tựa đề là “Anh phải sống." Nội dung
cuốn phim nói về việc hai vợ chồng nọ quá nghèo, nên phải đi kiếm củi trên ngàn
để bán lấy tiền nuôi con. Hôm đó trên đường về, họ gặp trời giông bão. Họ bị nước
cuốn trôi đi. Họ bám được vào một khúc cây nhưng khúc cây quá nhỏ chỉ đủ cho một
người bám. Họ không thể kéo dài mãi tình trạng hai người cùng bám vào khúc cây
này. Kéo dài thêm thì sẽ chết cả hai. Trước tình trạng đó, đòi hỏi họ phải có một
sự lựa chọn. Người chồng bảo người vợ hãy bám vào khúc cây, vì “em phải sống để
lo cho các con." Người vợ cũng bảo người chồng “anh phải sống." Cuối
cùng, người vợ buông tay, tự tìm lấy cái chết cho mình, để nhường sự sống lại
cho chồng và cho con.
Vâng,
yêu thương là hy sinh, yêu thương chính là quên mình. Quên mình chính là được
mình.
8. Cho đi là lãnh nhận trong niềm vui
Có
một bà mẹ khi dự tiệc, người ta đưa cho bà trái cam để ăn tráng miệng, nhưng vì
nghĩ đến đứa con ở nhà, nên bà bỏ trái cam vào túi.
Đứa
con thấy mẹ về nên hớn hở chạy ra đón, bà liền trao trái cam cho con. Em bé mừng
quýnh và nói “con cám ơn Chúa, con cám ơn mẹ”, rồi định lấy dao bổ cam ra ăn
cho đỡ thèm! Nhưng em chợt nghĩ đến bố đang đạp xích lô nắng nôi thiêu cháy
ngoài đường, em thương bố nên cất trái cam đợi bố về để tặng.
Khi
ông bố vừa về đến nhà, em bé cầm trái cam chạy đến nói:
-
Thưa bố, chắc bố mệt lắm, con có trái cam biếu bố ăn cho đỡ mệt nè, để con phụ
đem xích lô vào nhà cho.
Ông
bố vô cùng cảm động trước cử chỉ của con, ông cám ơn con và định không nhận,
nhưng em cứ nằng nặc đòi bố phải lấy ăn cho đỡ mệt!
Cầm
trái cam vào nhà, ông định lấy dao bổ ra cho hai cha con ăn. Nhưng ông chợt
nghĩ: con còn bé mà còn biết làm cho mình vui, sao mình không biết nghĩ đến vợ
đang vất vả trong bếp? Vì ở đâu có tình yêu ở đấy có quà tặng! Thế là ông cầm
ngay trái cam xuống bếp tươi cười chào vợ và nói:
-
Anh đi làm về, không có gì để tặng em, chỉ có trái cam này, em dùng cho đỡ mệt.
Vợ
rưng rưng nước mắt và khẽ nói: “Em cám ơn anh."
9. Yêu như Thầy đã yêu
Mẹ
Têrêxa Cancutta là một nữ tu dáng dấp bình dân hiền hậu, suốt một đời theo
gương Thầy Giêsu, sống yêu thương phục vụ những người nghèo khổ bất hạnh nhất
trong số những người nghèo khổ của xã hội.
Vừa
qua đời, mẹ đã được thỉnh nguyện tôn phong hiển thánh dù chưa tới hạn 5 năm như
luật định. Bí quyết nên thánh của mẹ thể hiện qua châm ngôn sống này: “Hoa trái
của đức tin là tình yêu. Hoa trái của tình yêu là phục vụ. Hoa trái của phục vụ
là an bình.”
Quả
thật, mẹ Têrêxa chính là mẫu gương sống động thực hiện lời dạy yêu thương của
Chúa: không chỉ yêu những người mình thích, cũng không yêu theo ý riêng mình
hay bất cứ cách nào khác, mà là “yêu thương như Thầy đã yêu.”
10. Khúc nhạc tuyệt vời
Một
người Anh giàu có sưu tầm được một cây đàn violon quí báu, làm cho bộ sưu tập của
ông nên quí giá bội phần. Nhạc sĩ Fritz Kreisler rất thích cây đàn đó, nài nỉ
xin mua lại cây đàn ấy, nhưng ông không chịu bán.
Cuối
cùng, F. Kreisler xin phép được đánh đàn một lần. Khi được ông chủ cây đàn cho
phép, ông đổ cả tâm hồn vào đó, chơi như say như mê. Ông chủ cây đàn ngây ngất
đứng nghe cho đến khi nhạc sĩ chơi xong. Không nói gì cả.
Khi
F. Kreisler nhẹ nhàng đặt cây đàn vào hộp như người mẹ đặt đứa con yêu vào nôi
thì ông chủ cây đàn đột ngột nói: “Anh hãy cầm lấy cây đàn này đi. Nó thuộc về
anh. Tôi không có quyền giữ nó. Nó phải thuộc về người biết sử dụng như anh."
Để
có khúc nhạc tuyệt vời, cây đàn quý cần được nằm trong tay nhạc sĩ thiên tài.
Chúa là nhạc sĩ thiên tài say mê khúc nhạc tình yêu và muốn cất lên khúc nhạc
tuyệt vời đó trong thế giới hôm nay: “Không có tình yêu nào cao quí hơn tình
yêu của người hiến mạng vì người mình yêu.”
Tại
sao tôi chưa trao tâm hồn tôi cho Ngài để khúc nhạc tuyệt vời được tấu lên bởi
Đấng đã chết vì yêu?
11. Tình yêu đích thực
Gene
Stallings, huấn luyện viên bóng đá hàng đầu của trường đại học Alabana đã ngất
xỉu khi bác sĩ nói rằng Johnny, đứa con trai duy nhất của ông được sinh ra với
hội chứng Down (chậm phát triển). Điều này đã xảy ra cách đây 30 năm. Ngày nay,
Stallings xem việc sinh ra Johnny là một trong những món quà lớn của đời ông.
Johnny đã dạy ông thế nào là tình yêu đích thực.
Stallings
nói về đứa con trai của mình: “Tất cả tình yêu của nó là vô điều kiện. Nó không
cần được ghi công. Nó hoàn toàn không vị kỷ.” Stallings nói nếu ông có thể thay
đổi số phận và được một đứa bé bình thường, ông cũng không thay đổi: “Johnny là
một phần lớn cuộc đời tôi. Tôi không đổi thứ gì. Tôi cảm thấy mình được chúc
phúc.”
Tôi
học được gì về tình yêu từ một vài thành viên trong gia đình tôi?
Quyết
định từ bỏ bản thân để yêu thương là chuyện lâu dài cả đời (Elisabeth Stone).
12. Mến Chúa phải yêu người
Thi
sĩ người Anh Leigh Hunt viết một bài thơ mang tên: “Abou ben Adhem.” Một đêm nọ,
Abou thức giấc và thấy một thiên thần đang viết vào sổ tên những người yêu mến
Thiên Chúa nhất. Abou hỏi: “Có tên con không?” Thiên thần đáp: “Không, không có
đâu!” Lúc đó, Abou nói với thiên thần hãy viết rằng ông là người yêu thương anh
em nhất. Thiên thần liền viết rồi biến mất. Đêm hôm sau, thiên thần lại đến trong
ánh quang rực rỡ và chỉ tên những người được Thiên Chúa chúc phúc, và này tên của
Ben Adhem đứng đầu sổ.
Nếu
tôi hỏi thiên thần như Abou đã hỏi, thiên thần sẽ trả lời tôi như thế nào? Và
tôi sẽ đáp lại thiên thần ra sao?
Mỗi
lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh em bé nhỏ nhất... là các ngươi
đã làm cho chính Ta (Mt 25,40).
THỨ BẢY - Chấp nhận lội ngược dòng
Lời
Chúa: Ga 15, 18-21
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu thế gian ghét các con, các
con hãy biết rằng họ đã ghét Thầy trước. Nếu các con thuộc về thế gian, thế
gian sẽ yêu những gì thuộc về nó, nhưng các con không thuộc về thế gian, vì
chính Thầy đã chọn các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con.
Các
con hãy nhớ lại lời Thầy đã nói với các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ.
Nếu
họ đã bắt Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con; nếu họ tuân giữ lời Thầy, thì họ
cũng tuân giữ lời các con. Tại vì danh Thầy mà họ sẽ làm cho các con tất cả những
điều đó, bởi vì họ không biết Đấng đã sai Thầy."
TRUYỆN KỂ
1. Thế gian thù ghét
Tác
giả Tacitus của Đế quốc Rôma vào thế kỷ thứ nhất, trong tập sử ký của ông có
ghi lại cuộc bách hại đầu tiên mà Giáo Hội phải trải qua như sau: “Rôma năm 64,
Hoàng đế Néron, để dẹp bỏ tiếng đồn tố cáo ông là người đã nổi lửa đốt thành
Rôma, đã ra lệnh lùng bắt những người mà dân chúng gọi là Kitô hữu. Một đám
đông vô kể bị bắt giữ vì bị tố cáo không những đã gây ra cuộc hỏa hoạn, mà lại
còn thù nghịch với các thần minh và nhân loại.
"Tất
cả đã bị đem ra chế diễu và bị hành hạ cho đến chết: một số bị gói trong những
mảnh da thú và quăng cho chó cắn xé; một số khác bị thiêu sống, như thế khi màn
đêm vừa buông xuống, người ta dùng họ như những bó đuốc để soi sáng ban đêm;
nhiều người khác bị đóng đinh cách dã man. Cảnh tượng ấy diễn ra trong các vườn
thượng uyển cuả Néron cũng như tại Hí trường, nó dã man đến nỗi đã làm cho dân
chúng xúc động và thêm bất mãn."
Trên
đây là trang sử đầu tiên trong lịch sử các cuộc bách hại Giáo Hội đã trải qua từ
2.000 năm nay. Ở đâu có Giáo Hội, ở đó có bách hại.
2. Bị thế gian thù ghét
Bị
thế gian thù ghét không phải là điều bất thường đối với thân phận làm kitô hữu;
cái bất thường trong thân phận Kitô hữu chính là cuộc sống dễ dãi, thỏa hiệp,
chạy theo dòng thác của thế tục.
Một
sử gia khác của Đế quốc Rôma vào thế kỷ 1 là Plinus cũng phải ngạc nhiên không
hiểu tại sao các Kitô hữu phải bị ghen ghét và bách hại.
Trong
một lá thư thỉnh ý trình lên Hoàng đế Trajanus, với tư cách là toàn quyền
Bithinia, ông đã viết: “Tâu bệ hạ, thần thấy có nhiệm vụ phải thỉnh ý bệ hạ, bởi
vì vấn đề của các người Kitô hữu đang lan rộng, thần phải xử trí thế nào. Cho đến
nay thần tưởng đã làm đúng khi tha bổng những người đã chối bỏ mình là Kitô hữu,
nếu sau khi được xét xử, họ cầu khẩn với các thần mình, dâng hương và rượu trước
ảnh của bệ hạ mà thần cho đặt vào giữa các thần minh, và nhất là phỉ báng ông
Kitô.
"Không
thể cưỡng bách những người Kitô hữu đích thực làm một điều như thế. Qua những
cuộc tra hỏi, sai lầm duy nhất của các Kitô hữu là tụ họp lại trong một ngày
nào đó khi mặt trời vừa lên để ca hát chúc tụng ông Kitô như một Thiên Chúa.
Trong những cuộc tụ họp như thế dường như họ thề quyết không làm điều ác, mà
trái lại trở thành những công dân tốt, thanh liêm và đáng trọng nể."
Quả
là “cây muốn lặng mà gió chẳng đừng." Chứng từ trên đây của Plinus cho thấy
cho dẫu có quyết tâm sống như những công dân tốt, các Kitô hữu vẫn bị nghi ngờ
và bị bách hại.
3. Cái giá của thăng tiến
Một
triết gia nổi tiếng, mỗi khi dạy học, thường bắt học sinh trả tiền. Ngày đó, có
một thanh niên nghèo đến xin làm đệ tử. Ông hỏi: “Anh có gì trả cho tôi không?"
Chàng
thanh niên khôn ngoan đáp: “Con sẽ cho thầy cả con người của con."
Ông
thầy nhìn anh rồi nói: “Được, tôi nhận anh. Nhưng anh phải cố gắng mỗi ngày để
thăng tiến hơn con người hiện tại của anh."
Những
ai muốn tận hiến cho Chúa cũng phải cố gắng mỗi ngày để nên giống Đức Kitô hơn.
Nên giống Chúa Kitô trong đau khổ và trong phục sinh...
4. Những cuộc bách hại đầu tiên.
Tác
giả Tacitus của đế quốc Rôma vào thế kỷ thứ nhất, trong tập sử ký của ông có
ghi lại cuộc bách hại đầu tiên mà Giáo hội phải trải qua. Rôma năm 64, hoàng đế
Néron, để dẹp bỏ tiếng đồn tố cáo là người đã nổi lửa đốt thành Rôma, ông đã ra
lệnh lùng bắt người mà dân chúng gọi là Kitô hữu.
Một
đám đông vô kể bị bắt giữ vì bị tố cáo không những đã gây ra cuộc hỏa hoạn, mà
còn thù nghịch với các thần minh và nhân loại. Tất cả đã bị đem ra chế diễu và
bị hành hạ cho đến chết: một số bị gói trong những mảnh da thú và quăng cho chó
cắn xé; một số khác bị thiêu sống, khi màn đêm vừa buông xuống, người ta dùng họ
thế cho những bó đuốc để soi sáng ban đêm; nhiều người khác bị đóng đinh cách
dã man.
Cảnh
tượng ấy diễn ra trong các vườn thượng uyển của Néron cũng như tại hý trường,
nó dã man đến nỗi đã làm cho dân chúng xúc động và thêm bất mãn.
5. Vì sao thế gian ghét kitô hữu
Đế
quốc Rôma cũng thù ghét họ vì nếp sống của họ không giống như những người khác:
Không mê tín dị đoan, không thờ Hoàng đế La Mã…
Chúa
Giêsu đã cho các môn đệ mình biết trước tình trạng đó. Ngài an ủi họ, đồng thời
dạy họ cách sống giữa một thế gian thù nghịch như thế:
-
“Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng họ ghét Thầy trước.”
-
“Vì các con không thuộc về thế gian… nên thế gian ghét các con.”
-
“Tôi tớ không trọng hơn chủ. Nếu họ đã bắt Thầy thì họ sẽ bắt bớ các con.”
6. Tìm giá trị thật
Một
sĩ quan Đức quốc xã xông vào nhà cha Sở quát lớn:
-
Mày phải đưa thập giá ông Giêsu xuống vất đi, vì đó là tên lừa bịp.
Cha
Sở ôn tồn đáp:
-
Không, Ngài là Thiên Chúa, là Chân, Thiện, Mỹ, là đường chân lý dẫn đến sự sống.
-
Tao không cãi với mày, hoặc là mày chọn vất nó đi, hoặc là mày chọn viên kẹo đồng!
Rồi
hắn lên đạn súng ”rắc” chĩa thẳng vào đầu cha Sở.
Cha
Sở bình tĩnh nói:
-
Tôi quyết không chọn cả hai điều ông nói, tôi chỉ chọn Giêsu, Ngài là Chúa, là
Ánh Sáng ban sự sống.
Viên
sĩ quan liền quăng súng đi, ông ôm chồm lấy Linh mục nghẹn ngào nói:
-
Thưa cha, con xin theo cha.
7. Mang danh Đức Kitô
Ngày
2/4/2015, một nhóm phiến quân al-Shabab đột nhập một ký túc xá của đại học
Garissa ở Kenya thảm sát 147 sinh viên mà hầu hết là ki-tô hữu.
Anh
Nyabwengi, một sinh viên sống sót cho biết mình chứng kiến một bạn sinh viên vì
không đọc được kinh Hồi giáo nên bị kẻ khủng bố cho là Ki-tô hữu và đã bị chúng
bắn chết. Chỉ vì “lý lịch” có liên quan với Đức Ki-tô mà các môn đệ của Ngài
cũng bị “thế gian ghét bỏ” vì “thế gian đã ghét Thầy trước.”
Quả
vậy “Ki-tô hữu” có nghĩa là người “mang danh Đức Ki-tô” nơi bản thân mình, nên
người Ki-tô hữu cũng chung chia thân phận với Ngài, đó là cùng vác thập giá với
Ngài và rồi sẽ cùng Ngài chung hưởng vinh quang, như thánh Phao-lô xác tín: “Nếu
chúng ta cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống lại với Ngài, đó
là niềm tin của chúng ta” (Rm 6,8).
Bạn
hổ thẹn, nhát sợ khi mang danh là Ki-tô hữu ư? Bạn hãy nhớ Chúa nhắn nhủ chúng
ta: “Đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn;” và
Ngài quả quyết: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ thì Thầy cũng tuyên bố
nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 10,28-33).
8. Thuộc về Chúa Kitô
Những
ngày cuối tháng 3/2010 các phương tiện truyền thông ồ ạt vu cáo Đức Thánh Cha
Bênêđictô rằng khi còn là Tổng Giám Mục Munich (Đức) và Hồng Y Bộ trưởng thánh
bộ Tín Lý-Đức Tin của Toà Thánh, ngài bao che cho một số linh mục lạm dụng tình
dục trẻ em.
Nhân
vụ việc này, Elizabet Lev, một sử gia nghệ thuật nổi tiếng, cho biết trong số
39 triệu trẻ em tại Mỹ bị lạm dụng, có 40-60% bị lạm dụng từ trong gia đình và
chỉ có chưa tới 2% là do các linh mục công giáo. Bà Lev nhận định đằng sau những
vụ cáo buộc bất công đó là cả một âm mưu đen tối. Theo bà, “Để tiêu diệt tiếng
nói đạo đức của Giáo hội, cách tốt nhất là tạo tai tiếng cho các bậc chủ chăn.”
Quả
thật, Chúa Giêsu đã tiên báo thân phận các môn đệ của Ngài: một khi đã thuộc về
Đức Kitô, họ không còn thuộc về thế gian nữa, và hệ quả đương nhiên họ phải sẵn
sàng chấp nhận bị “thế gian ghét bỏ” chỉ vì họ không còn thuộc về thế gian nữa.
Bạn
đang sống ở giữa thế gian nhưng lối sống của bạn có phải là lối sống của người
môn đệ Chúa không: hành vi, cư xử của bạn thể hiện mình đang thuộc về Đức Kitô
hay đang hành xử theo kiểu thế gian?
9. Ảnh hưởng tiêu cực của thế gian
Chúa
Giêsu dùng thuật ngữ “thế gian” ở đây theo nghĩa thần học, đó là “xã hội loài
người từ tổ chức không có Thiên Chúa” (W.Barlay). Chính thế gian này đã có thái
độ thù địch với Chúa Giêsu (Ga 15,20). Chính thế gian này mà một cách nào đó
Chúa Giêsu đã đồng hóa với Satan (Ga 17,15). Chính thế gian này mà Chúa Giêsu
đã đánh bại (16,33). Chính thế gian này mà chúng ta cũng sẽ đánh bại nhờ lòng
tin vào Chúa Giêsu (1Ga 5,14).
Trước
đây hoặc giờ đây tôi kinh nghiệm thế nào về ảnh hưởng tiệu cực của thế gian mà
Chúa Giêsu nói đến trong bài đọc hôm nay? Nó có ảnh hưởng gì đến tôi?
Đừng
để mù lòa vì thành kiến hoặc bị ngã lòng vì thời gian. Đừng để bất cứ gì làm tê
liệt đầu óc, trói buộc chân tay hoặc đánh bại tinh thần của bạn (Walter
Fauntroy).
10. Theo luật chơi nào?
Một
tàu chiếm Mỹ chở đầy những tù binh chiến tranh bị thương. Viên sĩ quan quân y
chăm sóc họ một cách tận tình đến nỗi một viên sĩ quan khác phải than phiền:
“Hãy đối xử với họ như họ đã đối xử với các thương binh của chúng ta.” Viên sĩ
quan quân y trả lời: “Tôi sẽ không theo luật chơi của họ, mà là luật chơi của
chúng ta. Tôi sẽ làm hết sức để thay thế mọi nỗi hận thù họ mang trong tim.”
Tôi
thường sử dụng luật chơi nào: luật chơi của Chúa Giêsu hay của thế gian? Tôi cảm
thấy thoải mái ra sao khi làm điều đó?
Anh
ta vẽ một vòng tròn để loại trừ tôi như kẻ dị giáo, phản bội và đáng miệt thị.
Nhưng tình yêu và tôi quyết tâm chiến thắng. Tôi vẽ một vòng tròn ôm trọn anh
ta (Edwin Markham).
11. Baraba và Đức Giêsu
Văn
sĩ Fabran Lagerkvist của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ
quyển tiểu thuyết nổi tiếng có tựa đề là “Baraba." Baraba là một tên cướp
được nhắc đến trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba
là một tên cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm
vào những ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina
có thói quen ân xá cho một tội nhân.
Năm
đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi
họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa
vào sự kiện lịch sử này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại
của Baraba. Baraba đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến.
Baraba có được tất cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng
ông không hề muốn nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý
do khiến văn sĩ Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật
Baraba, ông đã họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con
người được cứu độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người
ngày nay không tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người
thời đại.
Thánh Giuse Thợ - Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin
vâng
Lời Chúa: Mt 13, 54- 58
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân
chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan
và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là
bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao?
Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được
mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người.
Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri
nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình."
Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng
lòng tin.
TRUYỆN KỂ
1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm
1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích
Kitô- giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu
góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy-
lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc,
thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.
Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được
hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Đức
Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái
thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với
các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng
nói: “Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ
khôn ngoan." Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền
nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân
cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái." Sách
này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân:
“Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là
vị cao trọng nhất... Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của
mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa... Kẻ nào nuôi sống mình bằng
sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong
các tâm tình đạo đức...”
2. Đấng bầu cử
Thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ
khi Thánh Nhân cầu cùng Thánh Cả Giuse: “Chưa
bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”
Để kết thúc xin mượn lời cầu của thánh nữ Têrêsa
Avila: “Lạy Thánh Cả Giuse! Trong suốt cuộc
đời, Cha là niềm hy vọng, khi sinh hạ Chúa Giêsu, khi trốn sang Ai Cập, khi sống
những ngày tha hương. Cha đã tìm thấy sức mạnh trong sự tin tưởng sắt đá vào
quyền năng và lòng Nhân Lành của Chúa.
Hôm
nay! Chúng con hết lòng trông cậy, chạy đến cầu xin Ngài. Xin Ngài hiệp lời cầu
với chúng con, để xin Con Ngài nâng đỡ chúng con trong cơn khốn khó, xin Ngài
ban sức mạnh để chúng con tiến lên như Ngài đã đã vượt thắng. xin Ngài ban cho
chúng con ơn trông cậy mà Ngài đã có như ánh sáng hướng dẫn mọi ngày trong đời
chúng con. Amen.”
3. Lao động như phụng tự
“Ông ấy không
phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,55)
Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã
đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi nhánh của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng
thương tiếc, tri ân một thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản
phẩm độc đáo như ipod, iphone và ipad.
Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại
như ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào,
nhưng lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người.
Thánh Giu- se là một trong những người lao động thầm
lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm bổn mạng cho những người lao động âm thầm không
chỉ để nói lên giá trị về các đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội, mà
còn để nêu cao mẫu gương sáng chói nhất của thánh nhân là: biến lao động thành
một của lễ dâng để thờ phương Thiên Chúa.
4. Ông làm gì đó?
Vào thời Trung cổ, có một tín hữu Kitô nọ muốn thực
hiện một cuộc hành hương.
Sau vài ngày đi bộ, người đó bị lạc vào trong một
khu rừng vắng. Tuy là khu rừng vắng nhưng hai bên đường, người ta cũng thấy có
những người thợ đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn đem về.
Người khách hành hương mon men đến gần một người thợ, mồ hôi đang chảy ra nhễ
nhãi và muốn gợi chuyện, nhưng người thợ đập đá ấy chỉ trả lời một cách nhát gừng:
-
Ông không thấy tôi đang lao động một cách vất vả sao mà cứ hỏi hoài vậy?
Người khách hành hương tìm đến người thứ hai, người
này còn có dáng vẻ nặng nhọc hơn. Được hỏi đang tham gia vào công trình xây dựng
nào, người thợ này chỉ trả lời:
-
Người ta thuê tôi làm việc, tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà, tôi đổ
mồ hôi xôi con mắt ra là để kiếm cơm bánh cho vợ con tôi thôi, còn xây dựng gì
thì tôi không cần biết.
Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục
cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi ông lại gặp một người thợ đập đá khác. Người
này cũng có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy không kém 2 người trước, nhưng nhìn kỹ
trong ánh mắt của người thợ đập đá này, người khách hành hương thấy toát lên một
sự thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Đến gần người khách hành huơng lên tiến hỏi:
-
Ông đang làm gì đó?
Người đàn ông mỉm cười và vui vẻ đáp:
-
Ông không biết à, tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường
Và người thợ đập đá đưa tay chỉ xuống một thung
lũng, nơi đó, người khách hành hương nhận ra một ngọn tháp cao và từng viên đá
được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của một ngôi thánh đường.
5. Má em nhận được bao nhiêu?
Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé
trai khoảng 12 tuổi, mỗi buổi sáng vào lúc 7 giờ, đến làng bên cạnh là địa
phương chúng tôi để giao bánh mì. Đây là một em bé linh động, luôn vui vẻ và
đúng giờ như một chiếc đồng hồ. Em dừng lại trước cửa những nhà giàu có muốn có
bánh mì ăn sáng và sau đó lại vội vã đạp xe trở về nhà.
Ngày nọ, tôi
có một cuộc đối thoại lý thú với em bé này như sau:
- Mỗi
buổi sáng em phải dậy sớm, vậy em tự mình dậy hay phải có ai thức em dậy?
-
Má em! Má em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, má
cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, má đánh thức ba dậy, dọn xúp cho ba ăn trước
khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy đi học. Xong
xuôi tất cả thì má lo cho đứa út, cho nó uống sữa và cuối cùng mẹ tự dùng sáng.
Mỗi chuyến giao hàng buổi sáng em được người ta trả
cho bao nhiêu?
- Mỗi
tuần 20 quan. Em có 10 khách hàng.
-
Thế ba em lãnh một ngày được bao nhiêu?
-
30 quan, em nghĩ vậy.
-
Còn má em, má em nhận được bao nhiêu?
-
Má em ư? -
em bé nhìn tôi lộ vẻ kinh ngạc- . Nhưng
má làm việc không vì gì cả cơ mà!
6. Cha Ta và Ta hằng làm việc và
làm việc không ngừng
Sau khi tạo dựng nên con người trong vườn địa đàng,
Thiên Chúa trao cho con người trách nhiệm trông coi công trình sáng tạo của
Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng” (Ga 5,17).
Thiền sư Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc
dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của
ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ
ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của
thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi
hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc bởi vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là
đem trả lại chỗ cũ cho thầy."
Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và
dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!"
7. Giá trị của công việc
Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của
mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc vi hành. Ông lén đặt một tảng đá thật to
giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để bắt buộc người dân phải
bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng tự nhiên ra sao với những vật gây cản
trở mà họ bất ngờ gặp trên đường.
Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó để
quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc áo lượt quần là đi
qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vât
đáng ghét. Thậm chí còn xúc phạm Đức Vua đã không cho người giữ đường xá sạch sẽ.
Nhưng có một điểm chung là: chẳng ai đoái hoài gì đến tảng đá đó, họ thà đi
vòng chứ không chịu đẩy nó ra vệ đường.
Tình cờ một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một
giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đầy tảng đá
đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là nhiễu sự. Nhưng chẳng một ai
dừng lại giúp đỡ bác.
Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành
công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi nằm trên mặt đường,
ở chổ mà lúc nãy tảng đá nằm. Bác mở cái túi thì thấy có rất nhiều tiền. Lúc bấy
giờ bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Sau mỗi trở ngại,
đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.
8. Tầm quan trọng của lao động
Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của
con người trong việc giữ gìn và phát triển thế giới, nên Ðức Giáo Hoàng Piô XII
đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh
Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.
Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức
Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh
rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn
luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống
Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo.
Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời
gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây
đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.
Thánh Philipphê Và Thánh Giacôbê
- Ðến Với Chúa
Lời
Chúa: Ga 14, 6-14
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết
Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người."
Philipphê
thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho
chúng con."
Chúa
Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa
biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ
cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy
ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở
trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở
trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật
các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy
còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con
nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều
gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho."
TRUYỆN
KỂ
1.
Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ--tinmung.net
Thánh
Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại
Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông
theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.
Thánh
Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi
tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm
62 tại Giêrusalem.
Cả
hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân
rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là
những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh
hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng
và mạng sống của mình.
2.
Hai tông đồ
Giáo
hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác
các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời
xác các Ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên
lễ kính các Ngài được dời vào ngày 03 tháng 5.
Hội
Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa –
sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người
theo gương Thầy Giêsu.
Thánh
Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x Ga 1,45); ông
thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng
không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp
Đức Giêsu (x Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn
nguyện (x Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện,
Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x Cv 1,13); ông hết lòng giảng
Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh
Giacôbê là con của ông Alphê (x Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem
(x Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x
1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề
cao Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải
canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền
Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!
3.
Con đường Giêsu
Con
đường nào cũng mang một cái tên, và đưa ta đến một đích điểm. Nhà thơ Nga Raxun
Gamzatov có lần nói đến một con đường đặc biệt:
Trên
trái đất đường đi không kể xiết
Đường
dài lâu, gian khó cũng rất nhiều.
Nhưng
anh hiểu, khó và dài hơn hết,
Là
con đường ta vẫn gọi: tình yêu
Con
đường khó và dài, con đường tình yêu ấy chính là đường đưa ta về quê trời; con
đường ấy có một cái tên: đường Giê-su. Đường Giê-su không phải là một hệ thống
triết lý, nhưng là một con người: “Chính Thầy là Con Đường." Đường Giê-su
thật độc đáo, bởi vì Đức Giê-su không đưa ra một số giáo lý phức tạp phải tin,
một mớ điều răn phải giữ để đi đường, Ngài chỉ ban cho ta một điều răn: yêu
nhau như Ngài đã yêu ta. Hơn nữa, Ngài còn cầm tay ta và cùng bước đi với ta
trên con đường mang tên Giê-su ấy.
4.
Hướng đi của đường đời
Dọc
kênh Tàu Hủ, đường Bến Bình Đông dẫn vào “xóm Đập Bao” (xi măng) ở khu Gò Mã,
quận 8, Sài Gòn, lúc nào cũng mờ mịt đám bụi dày. Một người dân ví von: “Mình
làm nghề giũ bụi nên phận mình cũng như những đám bụi kia, chẳng biết bay về
đâu. Cứ vật vờ xoay vòng mà sống.” Đó cũng là cảm nghiệm của rất nhiều người về
cuộc sống, một cuộc sống vật vờ, xoay vòng, chẳng biết sống để làm gì, đời mình
sẽ đi về đâu giữa bốn phương trời tám phương đất vô định của thế giới này. Chúa
Giêsu đến để cho thấy cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa, có hướng đi rõ ràng:
đi về hạnh phúc đời đời. Hạnh phúc đời đời chính là đi con đường mang tên
Giêsu, con đường hẹp, đường thập giá của bậc sống, đòi hỏi phải nỗ lực hết mình
để tiến bước.
5.
Thầy là đường
Đức
Giêsu là đường, là ĐẠO! Theo Đức Giêsu là đi đường, đi đạo. Đường / đạo là để
đi, không chỉ để có, để giữ! Đi vì ta chưa đến. Đi chứ không dừng lại. Vì khi
ta quyết định dừng lại thì đường hết còn là đường nữa rồi, chưa nói là ta đang
đắp mô và gây tắc nghẽn giao thông. Đức Giêsu là đường, là đạo - nên muốn thấy
rõ đường, biết rõ đạo, thì phải nhìn vào chính Người - không phải nhìn vào bất
cứ ai hay cái gì khác. Đức Giêsu là đường, là đạo – nên lạc đường, lạc đạo trước
hết là lạc khỏi Người. Biết bao lần ta thực sự lạc đạo dù chẳng hề cãi lại một
chữ nào trong Kinh Tin Kính Nixê! Đức Giêsu là đường, là đạo. Con đường này
chính nhờ Người đã đi mà có. Người đi từ phận Chúa đến phận người, từ hang đá
Bêlem tới thập giá Gôngôtha, rồi từ cõi chết đến cõi sống. Đức Giêsu là đường.
Con đường này nên mang tên “Đường Giêsu” – và nếu vì ‘kính bất xưng danh’ thì
ta còn có nhiều tên khác để thay thế - chẳng hạn, đường Hẹp, đường Thập Giá, đường
Phục Vụ, và nhất là: đường Tình Yêu!
6. Thánh Giacôbê hậu
Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh
nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh
Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em
được biết” (x. Cv 12,17).
Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp
Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị
có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông." (x.
Gl 2,9)
Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau
Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv
15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê
đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).
Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô
và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người
hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ
có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.
Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê
mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn
xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân
công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người
đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời."
Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu
trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá
Ngài.
7.
Tông đồ cho người ta thấy Chúa
Trong
một thánh lễ kính các tông đồ, tôi nhớ mang máng nội dung một bài hát như thế
này: “Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta, Người đến với mọi
người. Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta Người đến với mọi
nơi."
Ý
nghĩa của lời hát trên nói lên tất cả sứ mạng của người làm Tông đồ. Thật vậy,
người Tông đồ cần phải có Chúa Kitô trong mình mới có thể mang Chúa Kitô đến
cho những khác. Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống như Đức Kitô đã sống
để người khác thấy Chúa Kitô nơi người Tông đồ. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống
nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mang
Chúa đến với người khác bằng cách sống bác ái yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã
nói: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu
thương nhau” (Ga 13,35). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống công bằng,
chân thật. Vì Chúa Giêsu từng nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga
14,6).
Cũng
như Chúa Giêsu Kitô đã hoạ lại hình ảnh của Chúa Cha, để ai thấy Ngài là thấy
Chúa Cha (x. Ga 14, 9). Người Tông đồ cũng phải hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu
Kitô nơi chính lời nói và việc làm của mình, để ai thấy người Tông đồ là thấy
Chúa Giêsu Kitô.
Lễ Thánh Mat-thi-a
Lời
Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
truyện
NGÀY CỦA MẸ (chúa nhật thứ hai trong
tháng Năm)
Lời
Chúa
TRUYỆN KỂ
1.
truyện