Lời Chúa tuần 4 phục sinh - câu truyện minh họa

 

CNPS 4A - Mục tử nhân lành

CNPS 4B - Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ

CNPS 4C -

THỨ HAI - Chúa chiên lành

THỨ BA - Sự thật cứu rỗi

THỨ TƯ - Ðức tin là ánh sáng

THỨ NĂM - Củng cố đức tin

THỨ SÁU - Ðường về quê trời

THỨ BẢY - Cầu nguyện nhân danh Chúa

Thánh Marcô - Sư Tử Có Ðôi Cánh

Thánh Giuse Thợ - Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin vâng

Thánh Philipphê Và Thánh Giacôbê - Ðến Với Chúa

 

 

CNPS 4A - Mục tử nhân lành

Ga 10, 1- 10

"Ta là cửa chuồng chiên."

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ." Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào."

TRUYỆN KỂ

1. Chuồng chiên

Chuồng chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái. Đó là một dãy hàng rào chắc chắn theo hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Chiều đến, các mục tử lùa chiên vào chuồng qua khung cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ cho một vài người nào đó. Và khi ngày mới trở về, họ đưa chiên ra khỏi chuồng để đi ăn nơi những đồng cỏ.

Chuồng chiên là nơi bảo đảm an toàn cho đoàn chiên. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen thuộc này khi so sánh mình với cửa chuồng chiên và với người mục tử tốt lành để mạc khải tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung và nhất là sự bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng.

Phản ứng đầu tiên của dân chúng khi nghe qua hai hình ảnh này là không hiểu được ý Chúa Giêsu muốn nói gì, mặc dầu Người đã dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối với họ. Phải chăng chúng ta ngày hôm nay đôi khi cũng phản ứng như thế, đó là chúng ta không hiểu không hoặc muốn hiểu những gì Chúa muốn nói với mình qua những dấu chỉ đơn sơ của cuộc sống thường ngày. Phải chăng chúng ta sợ hiểu được ý định của Thiên Chúa để rồi phải canh tân đời sống cho hợp với ý định cảo cả ấy? Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn giải thích cho họ: Ta là cửa chuồng chiên. Ai qua Ta mà vào thì sẽ được giải thoát. Ta là mục tử tốt lành, hiến mạng sống vì chiên. Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết ta.

2. Cửa chuồng chiên

Ngày nọ, có một du khách viếng thánh địa, nhìn thấy một chuồng chiên ngoài đồng, anh ta bèn hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó rằng: Cửa chuồng của anh ở đâu? Người mục tử trả lời: Tôi chính là cửa chuồng. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta lùa bầy chiên vào chuồng mỗi khi chiều xuống như thế nào. Sau đó anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không một chú chiên nào có thể bỏ chuồng mà đi ra, cũng chẳng thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua anh ta.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu tự sánh ví mình như cửa chuồng chiên và như người mục tử nhân lành. Cả hai hình ảnh này đều nói lên sự hiểu biết, sự chăm sóc và sự bảo vệ Ngài dành cho chúng ta, là những con chiên được Ngài hướng dẫn.

3. Chúa sống giữa chúng tôi

Một nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói: Phải, chúng tôi đã biết ngài: Ngài đã sống ở đây. Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói: Không, Đức Giêsu sống ở nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi. Nhưng người đó vãn khăng khăng bảo: Chúng tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài. Rồi ông dẫn nhà truyền giáo đến Nghĩa Trang và chỉ cho thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng an giấc nơi cộng đoàn của họ.

Thánh Phêrô đã chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy Chí Thánh từ đầu cho tới khi kết thúc. Phêrô đã chia sẻ về thái độ của Chúa Giêsu đang khi bị hành xử: Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe, Người phó mình cho Đấng xét xử công minh

4. Dấu chân của mục tử

Trời mùa đông giá rét, một đêm nọ, vua thánh Venceslaô đi đến nhà thờ để viếng Thánh Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa vì giá lạnh, nhưng thánh nhân bảo: Cứ chịu khó đi theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ làm như vậy và cảm thấy ấm hẳn lên.

Với chúng ta cũng vậy. Theo dấu chân của vị mục tử nhân lành, chúng ta sẽ được bình an và hạnh phúc bởi vì Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

5. Anh phải sống

có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống để nuôi dạy đàn con."

Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc.

6. Cửa ràn chiên – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

Những ngày làm việc ở Mông Cổ đã cho tôi hiểu được thế nào là ràn chiên và cửa ràn chiên. Người chăn chiên chuyên nghiệp ở đó đều là dân du mục (tương tự như chăn vịt chạy đồng ở xứ ta) cứ tối đến họ lùa chiên vào ràn. Ràn không phải là một thứ chuồng trại cố định như heo bò của ta. Ràn (tiếng Anh chính xác dịch là ‘enclosure’, ‘stable’ chỉ là theo nghĩa rộng) là miếng đất trống gần lều trại được rào dậu bằng đá xếp hoặc cành cây. Chiên có thể thuộc nhiều đàn khác nhau được lùa vào ràn qua một lối mở duy nhất gọi là cửa. Sẽ có một người trực qua đêm canh gác bên đống lửa đốt ngay giữa lối ra vào được che chắn cách sơ sài. Sáng ra, các người chăn chiên sẽ vào lùa đàn chiên của mình ra dưới sự giám sát của người trực đêm. Chỉ khi nào thấy có những biểu hiện thuận thảo giữa chiên và người chăn dắt, anh giữ cửa hay trực đêm mới xác định được người chăn chiên đó quả thật là mục tử của đàn vật mình đang lùa đi ăn.

7. Cửa chuồng chiên

Cha Mark Link SJ. có mô tả một cái chuồng chiên trong câu chuyện “vùng đất Thánh- The Holy Land” của John Kellman: Chuồng chiên ở Do Thái có một bức tường bằng đá bao chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng: Ngày nọ một du khách Thánh địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu?" Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng." Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có chủ chiên nào có thể bỏ chuồng chiên đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta."

Như thế, hình ảnh mục tử và cửa chuồng chiên đều chỉ vào Đức Kitô, và là hình ảnh mô phạm cho các bậc chủ chiên.

8. Tình yêu quên mình

Có câu chuyện thật dễ thương trong cuốn tự thuật của Jimmy Cagney, nam diễn viên nổi tiếng ở HollyWood. Câu chuyện xảy ra vào thời tuổi trẻ của Cagney khi mẹ ông đang nằm trên giường chờ chết. Chung quanh giường có 4 cậu con trai đều mang tên Cagney và cô em gái duy nhất của họ là Jeannie. Vì bị nhồi máu cơ tim, bà Cagney không nói được nữa. Sau khi lần lượt bá cổ cả năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải, cánh tay duy nhất còn hoạt động đựơc lên. Jimmy mô tả những gì xảy ra sau đó:

"Mẹ tôi dùng ngón tay chỉ Harry rồi chỉ vào ngón trỏ của bàn tay vô dụng của bà, sau đó chỉ tôi rồi chỉ vào ngón giữa, rồi chỉ Eddie rồi chỉ vào ngón áp út, chỉ Bill rồi chỉ vào ngón út, chỉ Jeannien rồi chỉ vào ngón cái. Đoạn bà cầm ngón cái để vào giữa lòng bàn tay, rồi áp chặt ngón cái dưới bốn ngón kia tụm lại. Sau đó bà dùng bàn tay còn khỏe vỗ nhẹ lên nắm đấm bàn tay trái" (James Cagney).

Jimmy nói rằng cử chỉ của mẹ ông thật tuyệt vời. Mọi người đều biết ý nghĩa của cử chỉ ấy tức bốn anh em có bổn phận che chở cho bé Jeannie sau khi mẹ họ qua đời. đó là một cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa mà không lời nào có thể diễn tả hay hơn.

9. Chết cho đoàn chiên

Theo gương Chúa Giêsu, trong thời nạn đại dịch Covid 19 này, chúng ta thấy rất nhiều Linh mục đã qua đời, người ta đạt câu hỏi tại sao Linh mục, mục tử coi sóc đoàn chiên mà lại chết nhiều như thế? Là vì phần lớn các linh mục đã xả thân liều mình vì đoàn chiên đang lâm nguy tử vì bệnh Covid, các Ngài đến chăm sóc an ủi và làm các bí tích sau cùng cho đoàn chiên nên đã bị lây nhiễm và qua đời. Cụ thể hơn có một vị Linh mục đã nhường máy trợ thở cho một thanh niên và rồi Ngài cũng đã qua đời vì bệnh Covid 19.

10. Chúa Giêsu Mục Tử như mẹ hiền ấp ủ con

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Hôm qua, tôi đọc trên báo điện tử một bài báo về viết về một Bà mẹ phi thường gần 10 năm ăn cám nuôi 4 con học đại học ở xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Bà mẹ đó là bà Tăng Thị Lộc, chồng bà bị cụt một chân vì mắc bệnh phong. Gia đình nhà chồng cũng là một gia đình nghèo, đông con. Khi bà về nhà chồng, cha mẹ chồng chia cho vợ chồng bà một mảnh đất và dựng cho một túp lều nhỏ để chui ra chui vào. Từ khi lấy chồng, bà đã thực sự thấm thía thế nào là nghèo, là cơ cực, đói khát. Cái đói đó thấm thía hơn bao giờ hết khi lần lượt 4 đứa con của bà ra đời, vì chưng mỗi lần mang thai và sinh ra con ra, chưa bao giờ bà biết thế nào là một ngày nghỉ đẻ, cũng chưa bao giờ bà được tẩm bổ, bồi dưỡng như những người phụ nữ khác mang thai và sinh con. Cũng một phần vì thế mà con cái bà giờ đều thấp bé, gầy gò. Nhưng ngay cả trong cảnh cùng khổ ấy, người mẹ kiên cường vẫn lạc quan, bà kể: “Nhờ trời thương, nên ngần ấy năm ăn cám, tôi vẫn khỏe như người ta ăn cơm, vẫn lao động và nuôi ngần ấy đứa con. Mà tôi ăn cám riết thành quen, đến nỗi không còn cảm giác khó ăn nữa. Đều đặn mỗi bữa tôi ăn 3 bát cám ngon lành. Người ta nhìn hoàn cảnh tôi, ai cũng nói tôi khổ. Nhưng ở trong cái khổ đó, tôi không thấy mình khổ. Khổ vì chồng, vì con, vì tương lai con cái, thì khổ thế chứ khổ nữa tôi vẫn chịu được. Qủa thế, gần 10 năm trời ăn cám lợn để ki cóp từng đồng nuôi 4 người con ăn học, có những lúc tôi đã đứng giữa cánh đồng nắng chang chang và òa khóc vì tưởng rằng không còn đủ sức thực hiện ước mơ nhìn thấy con ăn học thành tài, nhưng tình yêu và sức mạnh phi thường của một người mẹ đã giúp tôi vượt qua tất cả, để giờ đây sau một chặng đường dài đầy khó khăn của cuộc đời mình, tôi đã có thể mỉm cười khi thấy 4 người con của mình đều đã học xong đại học và có những bước đi vững vàng trong cuộc sống."

11. Tiếng gọi yêu thương

(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh em tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu ngày: “Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài biết bao!”

Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:

- Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Macta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa”, nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng." Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.

Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bờ bến.

12. Đồng cỏ xanh, Dòng suối mát

(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.

Thế mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.

Cuộc đời co thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc." Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27).

13. Tình mẹ hiền

Có một anh bạn nhà nghèo, chạy vạy mãi mới được một suất hợp tác lao động, anh coi đó như cách duy nhất để giúp đỡ gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan, xứ người chẳng phải thiên đường, anh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm từng đồng. Để nhà khỏi buồn, trong thư anh tô vẽ về một cuộc sống chỉ có trong mơ.

Ngày về, mọi người mừng rỡ nhận quà, anh lại tiếp tục nói về cuộc sống trong mơ.

Đêm. Chỉ còn mẹ. Hết nắn tay nắn chân anh rồi mẹ lại sụt sùi. Anh nghẹn ngào khi nghe mẹ nói:

- Dối mẹ làm gì. Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung sướng được hở con!

Hóa ra tình mẹ thật sâu lắng. Sâu lắng đến độ có thể hiểu được con tim của con. Mẹ có thể hiểu được con đang nghĩ gì, muốn gì. Mẹ cũng có thể biết được phải làm gì để xoa dịu nỗi đau cho con.

Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Người mục tử luôn gắn liền đời mình với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời con.

14. Ơn gọi thánh hiến – Lm Dom. Trần Quang Hiền

Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi

Chiều hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng Đaminh Rosalima vừa mới qua đời vào buổi sáng cùng ngày, là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi đang phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà Chúa, nghĩa là hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến, một cuộc đời hoàn toàn sống cho Thiên Chúa là Đấng Tình Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của Nữ Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng hay nhắc nhở nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới biết chúng ta trung thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận hiến cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung thành sống theo lời mời gọi của Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến hơi thở cuối cùng.

Đời tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy sinh, từ bỏ để sống triệt để lời mời gọi của đời sống thánh hiến.

15. Ta là chủ chiên lành.

Trong một cuộc giao tranh đạo quân của đại tướng Monmouth bị thua chạy một cách thê thảm. Riêng ông cũng phải lẩn trốn. Ban ngày ông đến náu trong những hang núi, đến đêm mới dám ra đi. Sau cùng, địch quân cũng đuổi kịp. Ông bí quá, chạy vào căn lều của người chăn chiên.

Thay vì đóng cửa không cho ông vào, người chăn chiên đã làm một nghĩa cử cao đẹp. Anh đã đổi áo của mình cho ông mặc trá hình, rồi thân chinh ra gặp địch quân của đại tướng.

Người chăn chiên đã chiến đấu rất anh dũng và cố ý kéo dài cuộc giao tranh để Monmouth có giờ tẩu thoát. Với thanh kiếm, anh đã cầm chân địch quân trong vòng ba tiếng đồng hồ, cho đến khi mệt lả, không còn đủ sức chiến đấu nữa thì bị địch quân giết chết. Lúc đó đại tướng Monmouth đã đi xa rồi.

16. Vẽ Thiên Chúa

Trong buổi học giáo lý vào ngày Chúa nhật, một em đang cắm cúi vẽ hình. Thầy giáo hỏi em đang vẽ gì thế. Em trả lời đang vẽ hình của Thiên Chúa. Thầy giáo nói, “Không ai nhìn thấy Thiên Chúa như thế nào, làm sao vẽ được?” Em bé đã trả lời, “Sau khi em vẽ xong bức hình này thì ta sẽ biết."

Chúng ta không biết bức hình của em vẽ Thiên Chúa ra sao. Tuy nhiên, bài Phúc âm hôm nay và đáp ca, đã vẽ ra một hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh của người Mục Tử. Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên” và “Ta là mục tử tốt lành."

17. “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì."

Tôi nhớ đã vài lần viếng thăm một người phụ nữ nằm bệnh viện gần 2 tháng. Một ngày nọ khi vào thăm bà, tôi thấy cả gia đình đã qui tụ đầy đủ vì họ đã được thông báo cho biết và gần ra đi rồi. Căn phòng bệnh nhân đầy ắp người, nhưng không ai đề cập đến số phận của bà. Họ nói về những chuyện xảy ra trong cộng đoàn, về thời tiết, về tin tức… Tôi đi ra ngoài một chút rồi trở lại thăm bà vào đúng lúc cả gia đình đã đi ăn trưa. Chỉ còn một mình tôi với bà, bà nói: “Thưa cha, cha biết rằng con sắp chết rồi!” Theo tâm lý tôi tự nghĩ trong đầu: “Không đâu! Bà sẽ vượt qua được cơn bệnh. Bà sẽ còn sống lâu thêm nữa." Nhưng rồi tôi lại nghĩ rằng tốt hơn hết cứ nói, “Phải, tôi biết!” Rồi tôi hỏi bà thêm: “Bà nghĩ sao về điều này?” Bà nói: “Phải, con cũng sẵn sàng để chết. Con đã chuẩn bị." Tôi đề nghị, “Tôi có thể làm gì để giúp bà được không?” Bà nói: “Xin cha làm ơn đọc cho con nghe Thánh vịnh 23." Tôi đã đọc thật chậm để cùng cầu nguyện với bà. Lúc đó chúng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an lớn lao khó diễn tả bằng lời, cả hai chúng tôi đều cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện cùng với chúng tôi trong phòng bệnh nhân. Chỉ một thời gian ngắn sau đó bà đã ra đi bình an.

18. Mỗi người chúng ta là một kẻ cô đơn nhỏ bé

Cách đây đã lâu, bà Ann Landers viết trên trang báo do bà phụ trách và được đăng lại nhiều lần như sau:

“Từ khi tôi bắt đầu phụ trách cột báo này, tôi đã học hỏi được rất nhiều – gồm cả điều có ý nghĩa nhất mà Leo Rosten đã mang trong tâm trí khi ông nói: “Mỗi người chúng ta là một kẻ cô đơn nhỏ bé, tận sâu thẳm bên trong tâm hồn, và đã khóc lên để được thông cảm." Tôi đã biết được điều đau khổ xảy ra như thế nào đối với những người không có ai để nói chuyện. Đối với tôi, sự thành công của cột báo là đã nhấn mạnh đến sự bi ai chính yếu của xã hội chúng ta, sự cô độc, cảm giác bất ổn, nỗi sợ hãi đang ám ảnh, gây tê liệt và làm tổn thương quá nhiều người trong chúng ta. Tôi đã biết được rằng sự thành công về tiền bạc, đạt được bằng cấp học vấn, và địa vị chính trị cũng như xã hội không mở ra những cánh cửa dẫn tới sự bình an trong tâm trí hay sự an toàn nội tâm. Tất cả chúng ta là những kẻ đi lang thang trên hành tinh này giống như những con chiên."

Phải, xét về mặt tâm lý, con người cũng giống như những con chiên mang nhiều nỗi lo âu sợ hãi, rất dễ bị tổn thương, và cần được mục tử săn sóc, chăn dắt, hướng dẫn. “Ta chính là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên của Ta và chiên của Ta biết Ta."

19. Mục tử nhân lành

Họa sĩ vẽ hình phim hoạt họa nổi danh, Jules Pfeiffer đang thảo luận về một loạt hình hí họa ông đã thực hiện cho các tờ báo. Trong số đó, có hình một em bé trai không muốn đi học đến trường vì sợ ba mẹ sẽ dọn ra khỏi nhà đang khi em đi học. Nó không muốn đi ngủ vì sợ ba mẹ sẽ chết trong khi nó ngủ. Đối diện với những nỗi sợ hãi này “giống như một người canh gác đang trực hai mươi bốn giờ liền”, Pfeiffer đã phát biểu như vậy.

Hình ảnh sợ hãi của em bé trai chính là hình ảnh của chúng ta đang bước đi trong cuộc đời. Dù chúng ta có đi lạc, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vẫn sẵn sàng bỏ tất cả 99 con chiên khác, ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Người sẽ vác chúng ta lên vai, yêu thương và săn sóc, vì Người là mục tử tốt lành.

Có một câu chuyện huyền thoại Do Thái nói về Môsê. Ngày xưa khi Môsê đang chăn dắt đàn chiên của nhạc phụ ở Jethro, ông thấy một con chiên nhỏ chui qua bụi rậm và trốn mất. Môsê đã bỏ hết mọi sự đuổi theo con chiên nhỏ đó vì sợ nó đi lạc sẽ bị thú dữ ăn thịt. Sau cùng ông đã đuổi kịp con chiên nhỏ khi nó dừng lại bên giòng suối nước. Thì ra con chiên khát nước, nên nó chạy ra giòng suối để uống. Sau khi uống nước xong, Môsê ẵm chiên lên và nói: “Cưng ơi, ta đâu có biết ngươi chạy đi là vì ngươi khát nước. Bây giờ chân của ngươi mỏi mệt lắm rồi." Nói như vậy rồi Môsê vác chiên lên vai và mang nó về đàn.

Khi Thiên Chúa nhìn thấy sự tận tình yêu thương của Môsê như thế, Ngài liền nói, “Rốt cuộc Ta cũng đã tìm ra được con người mà Ta đang tìm kiếm. Ta sẽ đặt Môsê là người chăn dắt Israel dân Ta."

20. Hy sinh suốt đời

Ngày 20.4.2002, nhật báo Chicago Sun Times đăng tin về linh mục Gary Graf, 43 tuổi, thuộc tổng giáo phận Chicago, vị mục tử giầu tình thương đối với những người di dân nói tiếng Tây Ban Nha thuộc giáo xứ Holy Family, Waukegan, Illinois. Ngài đã bình phục sau một cuộc giải phẫu dâng hiến 60/o lá gan của mình cho một người giáo dân đang cần thay gan để sống thêm một thời gian nữa. Người giáo dân này tên là Miguel Zavala, một người đàn ông khoảng 40 tuổi.

Trước cử chỉ hy sinh và lòng bác ái cao cả này của cha chính xứ, một giáo dân trong giáo xứ đã phát biểu: “Cha Gary thật là vị mục tử nhân lành. Ngài hy sinh mạng sống của mình cho con chiên bằng bất cứ giá nào có thể." Trong lá thư gửi cho giáo dân, cha Gary đã viết: “Ơn gọi độc thân, cùng với sự hy sinh vì nước trời, đã cho phép tôi trở nên một thành phần của gia đình to lớn hơn, bởi vì tất cả các anh chị em trong giáo xứ là gia đình của tôi."

Các bác sĩ cho biết rằng loại gan cha Graf dâng tặng được coi là rất hiếm. Và công việc ban tặng như thế tuy giúp ích được cho nhiều người, nhưng cũng rất nguy hiểm cho tính mạng của cả hai người, người cho lẫn người nhận.

Qua cách ban tặng một phần lá gan của mình cho giáo dân, cha Graf đã phản ảnh ý nghĩa của dụ ngôn về người mục tử tốt lành như chính Chúa Giêsu đã làm: “Ta chính là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên. Noi gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nhiều giám mục, linh mục, nam nữ tu sĩ và các bậc cha mẹ cũng đang hy sinh cuộc đời của mình cho đàn chiên. Sự hy sinh của họ không phải một lần là xong, nhưng kéo dài mỗi ngày suốt cuộc đời!

21. Tiếng gọi yêu thương

Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa cho ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này:”Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài biết bao!"

Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:

- Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Matta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa” nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng." Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.

Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.

22. “Ta đến để anh em được sống và sống dồi dào."

Phải chăng Đức Giêsu đang nói về sự sống đời đời, hoặc Người cũng nói về cuộc sống này nữa? Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, những lời nói này được áp dụng cho cả cuộc sống của chúng ta trên trái đất, cũng như cho cả niềm hy vọng của chúng ta đối với cuộc sống đời đời.

Có một giai thoại dễ thương của Tây Ban Nha như sau: Khi người ta đi đến cổng thiên đàng, và đang tìm cách đi vào, thì thánh Phêrô hỏi họ bằng một câu hỏi xa lạ. Ngài nói với mỗi người:”Hãy nói cho ta nghe. Trong khi còn sống trên mặt đất, người có biết tận dụng tất cả những thú vui trần thế, mà do lòng nhân lành, Thiên Chúa đã dành sẵn cho ngươi không?"

Nếu người nào đáp lại là “Thưa ngài, không ạ”, thì thánh Phêrô liền lắc đầu buồn bã và nói “Than ôi, hỡi bạn, ta không thể để cho ngươi vào được, không thể vào bất cứ cổng nào. Làm sao ngươi có thể trông mong mình sẵn sàng vui hưởng được những vui thú trên thiên đàng, nếu ngươi không tự chuẩn bị cho mình biết đón nhận được những thú vui đó, thông qua trung gian là những thú vui trần thế? Ta bắt buộc phải gửi trả ngươi xuống mặt đất, cho đến khi ngươi học hỏi được một cách tốt hơn."

23. Bạn đang lắng nghe đó chứ?

Các vỉa hè và những con đường trong thành phố Manhattan thường trở nên thật nhộn nhịp ồn ào vào giấc trưa bởi người ta tấp nập vội vã tìm quán ăn trưa, xe cộ bấm còi inh ỏi cùng những tiếng thắng xe nghe đến rợn người, thêm vào đó là tiếng còi hụ rền rĩ. Có hai người đàn ông đang cùng đi với nhau chen lẫn giữa đám đông. Một người là thổ địa ở New York còn người kia là dân vùng quê ở Kansas đến thăm. Bất thình lình, người dân quê dừng lại và nói với người kia rằng: "Khoan đã, tôi nghe có tiếng dế gáy đâu đây." Ông kia trả lời: "Bộ anh giỡn chơi hả? Ở đây thường không có dế đâu, mà dù có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe được tiếng nó gáy giữa sự quá ồn ào này?" Anh bạn nhà quê giữ im lặng lắng nghe trong một vài giây rồi bước tới một góc có bồn xi- măng trồng mấy cây trong đó. Anh ta lật vài chiếc lá ra và nhìn thấy một con dế đang núp mình trong đó. Anh bạn ở tỉnh thấy vậy thì rất ngạc nhiên và khâm phục nên nói: "Tai anh thật là thính!" Anh bạn quê trả lời: "Không phải vậy đâu, tai anh cũng thính như tai tôi vậy thôi. Chẳng qua tai mỗi người làm quen với tiếng động mà họ thường lắng nghe mà thôi. Đây, để tôi chứng minh cho anh xem." Nói xong anh liền móc ra một nắm tiền cắc rồi quăng nó lên lối đi. Khi tiếng vang do nắm đồng cắc chạm mặt đường thì hầu hết mọi người đang đi đều quay nhìn về hướng đó. Anh bạn ở quê liền nói: "Anh thấy không, chẳng qua là nguời ta muốn nghe những gì họ muốn nghe mà thôi. "

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cùng một bài học đó bằng cách dùng hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên.

24. Mục tử tốt lành - Pm. Cao Huy Hoàng

Chúa Giêsu nói: "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10,11a)

Sau những thăng trầm ly loạn kể từ 1975, năm 2000 tôi gặp lại người bạn chí thân của tôi thời trung học Chủng viện Truyền Giáo Lâm Bích do Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn Thuận sáng lập, nay đã làm Linh mục: Lm Phanxico Xavie Trịnh Hữu Hưởng, tôi hỏi Cha: "Cuộc đời Linh Mục có vất vả lắm không?" Cha trả lời: "Có, thật vất vả, nếu nghĩ tới mấy từ "mục tử tốt lành." Chỉ có Chúa Giêsu mới nói được câu ấy. Mình không hề dám nói như vậy đâu, nhưng đó là lý tưởng mà cả đời mình nhắm tới"

Tôi về khoe với anh em tôi - những anh em đã làm linh mục cũng như đã lập gia đình trong gia đình Lâm Bích - câu nói của Cha Hưởng. Và anh em tôi có dịp chia sẻ cho nhau một chút hãnh diện về những linh mục xuất thân từ Chủng Viện Truyền Giáo Lâm Bích, hãnh diện về tôn chỉ mục đích của Đức Hồng Y PX đề ra, hãnh diện về đường hướng đào tạo của ban Giám Đốc Chủng Viện, hãnh diện về đời sống linh mục của anh em Lâm Bích... vì chỉ có 200 chủng sinh được đào tạo trong thời gian 1970- 1975, mà đã hơn 50 chủng sinh lãnh nhận tác vụ Linh Mục, và đang làm việc khắp năm châu bốn biển. Ấy vậy mới có câu hát: "Anh em con đi, đi khắp năm châu, với tinh thần Lâm Bích." Vâng, tinh thần Lâm Bích là ở bất cứ nơi đâu, anh em tôi cũng dẹp bỏ mọi mặc cảm về danh xưng "tu muộn", về thời gian đào tạo, về trình độ học vấn, về những sự thua kém khác dưới cái nhìn của những anh em Linh Mục chính qui từ tiểu chủng viện, và nhắm tới ý hướng "mục tử tốt lành" để việc truyền giáo mang lại kết quả.

Chúa Giêsu nên mẫu gương "mục tử tốt lành" cho các linh mục, và để nên mẫu gương ấy, Ngài là Thiên Chúa Ngôi con làm người mà cũng đã vất vả biết chừng nào, huống chi là những con người được trao tác vụ Linh Mục.

25. Đức Cha Cassaigne

Năm 1926, Đức Cha Jean Cassaigne đến Việt Nam. Lúc đó ngài còn là một linh mục, và được cử làm cha sở Di Linh.

Một hôm khi vào rừng săn bắt kiếm thức ăn, cha gặp một phụ nữ nằm rên la trên một chòi lá cao. Cha lên thăm và biết được đó là một người cùi bị gia đình bỏ mặc chờ chết. Cha mang thuốc và thức ăn đến để chăm sóc bà, rồi dạy đạo cho bà.

Từ đó cha bắt đầu đi tìm kiếm những người cùi, gom họ lại mà chăm sóc. Người ta có thể đọc thấy những vất vả ngài phải chịu trong việc chăm sóc những người cùi qua lá thư ngài viết cho một người bạn bên Pháp: “Trong 12 tháng, tôi bị sốt hết 10 tháng. Nhưng tôi không thể nằm nghỉ, vì không chút yên lòng và không có một ai thay thế tôi lo cho bệnh nhân.”

CNPS 4B - Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và tu sĩ

Lời Chúa: Ga 10, 11-18

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn, vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên.

Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ chiên.

Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi Cha Ta.”

TRUYỆN KỂ

1. Mục tử nhân lành

Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ là một hình ảnh quen thuộc đối với người Palestine. Giữa người và chiên có một mối tương quan mật thiết.

Ở đây Đức Giêsu tự ví mình như người mục tử. Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê, vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên, chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.

Hội Thánh là đoàn chiên của Đức Giêsu Kitô. Giữa Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Cha biết tôi và tôi biết Cha.

Đây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều. Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động. Chiên là hình ảnh của một ngôi vị tự do. Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc. Chiên nghe tiếng của Ngài và đi theo.

Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên có sự hiểu biết nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng, và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.

2. Trật đường rầy

Những thông tin gần đây về những đoàn tàu trật bánh gây tổn thất về nhân mạng làm cho nhiều người sợ hãi. Ngày 2/4/2021, tại Đài Loan, một đoàn tàu trật đường rầy, va vào vách núi, làm 48 người chết và 86 người bị thương nặng. Ngày 18/4/2021, tại Ai Cập, một đoàn xe lửa chở khách đã trật bánh, làm 11 người chết và 98 người bị thương. Nếu làm một bản thống kê chi tiết, thì số vụ việc tương tự sẽ còn rất nhiều. Tai nạn xảy ra do bất cẩn. Tai nạn cũng xảy ra do người lái tàu lệch hướng và gây ra sự cố “trật đường rầy.” Trong đời sống của chúng ta cũng thế, có những người bị “trật đường rầy” khi sống bất cần, không tôn trọng tiếng nói của lương tâm và không tuân theo những quy định chung nhằm bảo vệ gia đình, công ích và trật tự xã hội.

Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn mùa Phục sinh giới thiệu với chúng ta một vị hướng dẫn chỉ đường, đó là Chúa Giêsu với danh xưng “Mục tử nhân lành.” Người hướng dẫn chúng ta đi trên con đường ngay nẻo chính. Người săn sóc chúng ta và luôn đem lại cho chúng ta những điều tốt lành.

3. Con mắt của vị hoàng đế

Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một hôm khi còn là thiếu úy, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua được khúc sống và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối xả.

Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu úy đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ của ông.

Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xoá tan bóng tối để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.

4. Pho tượng Chúa chiên lành

Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng:”Ta là môn đệ của một Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi.”

Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới.. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.

5. Liều mạng cứu chiên

Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.

6. Quo vadis?

Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.

Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:

- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?

Chúa Giêsu trả lời:

- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.

Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên.

7. Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất tín

Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình yêu. Trước tấm thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại mà con người đã khước từ Thiên Chúa, mọi Kitô hữu, mọi Linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu (…) thánh Phanxicô đệ Salê đã nói: "Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình yêu, đều vì tình yêu và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo hội.”

Nhưng cái chân lý cao cả ấy hau như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chận. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hon thê của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính thị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phụ. "Trong trái tim giáo hội tôi sẽ là tình yêu" thế là đã rõ, mot xác quyết như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu trong chân lý (…)

Thánh Nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của Trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường la Sự Thật và là sự sống.

Công đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia mai ngày có thể thắc mắc "Giáo hội thời Công đồng đã làm gì?" Đức Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14.9.1965: "Giáo hội yêu, giáo hội yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi người kể cả những người bắt bớ giáo hội.” Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux: "Giáo hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu.” Chúng ta được Thiên Chúa yêu thương.

8. Sống và chết vì tình yêu

Ngày 6 tháng 9 năm 1943, năm người lính thuộc đội quân của Đức quốc Xã bị phục kích và bị sát hại trên đường hành quân gần một thành phố Italia. Để trả thù, viên đại tá chỉ huy quân đội Đức cho bắt năm mươi người có thế giá nhất trong thành phố rồi đợi ngày đem đi xử bắn.

Được tin, Đức Tổng Giám Mục sở tại và Đức Cha phó nhất định tìm cách cứu sống những thường dân vô tội này. Khi đến ngày bị xử bắn, năm mươi người dân vô tội đó bị bịt mắt, bị trói chặt hai tay về phía sau lưng rồi đứng thành hàng dài trước công trường của thành phố. Dân làng và thân nhân của họ chỉ được chứng kiến tấn thảm kịch khủng khiếp này từ xa. Phía sau lưng những người bị xử bắn là một hàng lính thuộc quân đội Đức quốc xã đang sẵn sàng chờ lệnh để bóp cò nhả đạn để kết thúc cuộc đời của những người vô tội.

Một lần nữa Đức Tổng Giám Mục lại tìm cách thuyết phục viên đại tá để xin ông xét lại và tha chết cho những người dân vô tội này. Thế nhưng ông ta vẫn cứng lòng. Ý chí cương quyết trả thù còn hiện rõ hơn lên trên nét mặt đã vốn lạnh lùng của ông.

Giờ đã điểm, một hồi còi hú lên báo hiệu giờ phải đến đã đến.

Đức Tổng Giám Mục lại một lần nữa nài nỉ xin cho được một đặc ân cuối cùng: Ngài xin cho ngài và Đức Giám Mục phó được ôm hôn từng người sắp bị xử bắn, xức dầu tha tội và ban cho họ những lời khích lệ cuối cùng.

Thật là may mắn! Lời thỉnh cầu của Ngài được chấp thuận. Sau khi ban phép lành tha tội cho người thứ 50, Đức tổng Giám Mục và Đức Cha Phó tự nguyện đứng tiếp nối vào hàng ngũ của những người bị xử bắn. Với tất cả tấm lòng chân thành, vị mục tử của đoàn chiên đang phải sống những giờ phút hãi hùng đến cực độ, bình thản nói với viên đại tá: “Bây giờ không phải chỉ có 50 người mà là 52 người. Chúng tôi xin ngài cứ hạ lệnh bắn. Xin Thiên Chúa nhân từ tha thứ các tội ác của Ngài”

Đức Tổng Giám Mục vừa dứt lời, thì bỗng dưng từ trong bầu khí chìm ngập sự chết chóc vang lên những tiếng vỗ tay reo hò.

Tất cả 50 khẩu súng đang nhắm vào 50 người vô tội cùng một lúc dần dần hạ xuống và thế là cả chủ chăn và đàn chiên đều được thoát chết.

9. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên

Năm 1870 chính phủ Hawai ra lệnh cho những người mắc bệnh phong hủi, phải ở riêng cách biệt với mọi người. Họ dành riêng cù lao Molokai để đưa những người phong hủi đến ở đó.

Tàu của nhà nước mỗi tuần chỉ tiếp tế cho những người ở đây một lần. Những người phong hủi sống ở đó thiếu thuốc thang, thiếu sự chăm sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ đặc biệt là về phương diện tôn giáo. Khi vừa nghe thấy tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức Giám mục Giáo phận cho phép ngài được ra sống chung với những người xấu số đó. Thấy Đức Giám mục có vẻ lưỡng lự, cha Damien đã quỳ xuống đất thưa rằng:

- Thưa Đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi khoác lên mình chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu.

Sau khi được phép đức Giám mục Giáo phận, cha Damien lên đường ra đi, đến cù lao Molokai để sống chung với anh em phong hủi. Cha đã sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Sau một thời gian vì quá gần gũi với những người cùi, cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười năm trước đây. Mặt mũi giờ đây bị rộp và sưng lên. Hai tai dày cộm và xệ xuống, các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của cha: da trán sưng lên; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn.

Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết giữa con chiên.

Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế để ở với loài người. Chúa còn chết cho loài người.

Cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh phong hủi của cha, để một phần nào nói lên được điều Chúa đã nói trong bài Tin Mừng hôm nay: “Mục tử tốt lành liều mạng sống vì con chiên.”

10. Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi

Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, thấy ba người chăn chiên dẫn bầy chiên của mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:

Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả Rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta!”).

Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung và đi theo người ấy lên đồi.

Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.

Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:

Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như các anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.

Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu: “Men ah! Men ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:

Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?

Người chăn Syria trả lời:

Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.

Vâng! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai. Còn những con chiên khỏe mạnh thì luôn nghe theo tiếng của mục tử.

11. Chết thay

Hồi Đệ nhị thế chiến, một trại tù của Đức Quốc xã có lệnh : “Các tù nhân có nhiệm vụ phải coi lẫn nhau. Nếu một tù nhân nào trốn trại, thì sẽ có 10 tù nhân khác thế mạng”

Một buổi sáng kia, khi kiểm điểm các tù nhân, viên cai tù phát giác thiếu một người! Thế là tất cả các tù nhân hôm ấy phải đứng hàng giờ phơi nắng ngoài sân! Mãi đên chiêu, người sĩ quan Đức có trách nhiệm nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ, tay chắp sau lưng, bước chân chậm rãi trên đôi giày bốt-đờ-xô nện trên nền đá nghe “cộp, cộp!” Mắt ông trừng trừng nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh thoảng ông dừng lại chỉ vào một người và buông lời cộc lốc : “Mày phải thế mạng!” Cứ như thế ông đã chỉ đến người thứ 9, khi ông dừng lại người tù xấu số thứ 10, thì anh tù bật khóc nức nở! Trong số tù nhân có Linh mục Maximiliano Kolbe liên giơ tay xin phát biểu :

Xin ông cho tôi được chết thay cho người này! Viên sĩ quan quát:

Con heo Ba Lan kia, mày có điên không? Cha Maximiliano Kolbe ôn tồn đáp

Thưa không, tôi là Linh mục chỉ có một mình, anh này còn vợ con, cần được sống.

Trước sức mạnh của tình thương, viên sĩ quan đứng lặng người trong giây lát, rồi buông lời :

Thuận.

Thế là cả 10 người “được chọn” bị đẩy vào hầm cho chết đói! Trong hầm, cha Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu nguyện, cha đã cảm hóa được 9 người kia xin theo đạo. Sau một tháng người ta mở cửa ngục ra xem, thấy cha Maximiliano Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy họ đã chích cho ngài mũi thuốc gọi là mũi thuốc ân huệ kết thúc cuộc đời...!

12. Mẹ chết thay con:

Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Giăng Coóctê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Angien. Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ là ông đành chịu bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết Angien đã chết! Bà Maria mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin ấy. Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quì cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe thấy lời bà cầu xin cho mình được chết thay con. Ong cùng mọi người im lặng ra bên ngoài để bà một mình với đứa con yêu đã chết.

Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng. Mọi người hiện diện đều rất ngạc nhiên khi thấy Angien đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ. Em đang ngồi trên giường và ôm mẹ, còn mẹ em thì lại nằm gục trên giường và đang ở trong tình trạng sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa đã thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh thay thế cho con tôi!” Bấy giờ bác sĩ Coóctê lập tức cho tái xét nghiệm va kết quả là bé Angien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Maria mẹ em lại mắc chứng bệnh ung thư bao tử của em mà trước đó bà không hề mắc phải. Thân nhân xúm lại chung quanh bà Maria để động viên an ủi bà và có người hứa sẽ thay bà mà nhận bé Angien làm con và chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt. Vài giờ sau bà Maria tắt thở trong bình an, Bà được mọi người kính phục về tình mẫu tử cao quí bà dành cho con. Bác sĩ Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích lý do tại sao chuyện này lại có thể xảy ra được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Angien đã chết. Có thể đã có một quyền năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!”

13. Anh phải sống

Có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiec thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dỏng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống để nuôi nấng đàn con.”

14. Thiên thần hộ mạng

Một thai nhi sắp được chào đời. Nó mới hỏi Thượng đế rằng: “Thưa Ngài, có phải ngày mai Ngài sẽ đưa con vào đời không?

Thượng đế trả lời: Đúng đó con ạ!

Đứa bé đáp: Nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà con quá nhỏ bé và bất lực như thế này?”

Thượng đế đáp: “Hãy yên tâm, trong số những thiên thần, ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của con sẽ ở bên con và chăm sóc con chu đáo.”

Đứa bé lại hỏi: “Và làm sao con có thể hiểu được khi họ nói chuyện với con bằng ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?”

Thượng đế trả lời: “Thiên thần của con sẽ nói với con bằng những lời ngọt ngào và đẹp đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời với sự nhẫn nại và cẩn trọng, thiên thần của con sẽ dậy con biết nói nhưng điều hay lẽ phải.”

- Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Vậy, ai sẽ bảo vệ con?

- Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều đó đe dọa đến tính mạng của mình.

- Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được thấy ngài nữa.

- Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy con cách thức quay về với Ta mỗi khi lạc lối.

- Vậy thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin hãy cho con biết tên thiên thần hộ mạng của con là gì?

- Tên của người không quan trọng, con chỉ giản đơn gọi người là Mẹ.

15. Ba chữ D cần thiết cho ơn thiên triệu

Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại Thánh Địa La Vang.

Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3 Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.

1. Doctrine, về giáo thuyết. Mỗi Linh mục hôm nay được mời gọi nắm vững giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn Giáo hội, học thuyết xã hội của GHCG, bởi vì nếu không nắm vững những hướng đi trong đó, thì trong cách ứng xử một Linh mục ở tại giáo xứ nhiều khi có những cái chưa chuẩn mực và nếu như cả một Giáo hội mà lại không nắm vững về Doctrine này thì rất nguy hiểm, sẽ đưa Giáo hội đến chỗ không cứu vãn được. Tại sao Tòa Thánh phải lên tiếng về Giáo hội Trung Quốc? Câu trả lời cho biết vì yếu về giáo thuyết. Nếu hiểu Giáo hội không thể tự lực tự cường được thì người ta sẽ có chọn lựa khác. Chẳng phải nói đâu xa, trường hợp của GHVN ngày nay cũng cho thấy thấp thoáng nguy cơ. Hết rồi thời đối đầu, đã bước sang thời đối thoại. Nhưng đối thoại như thế nào để mình vẫn là GHCG, đó lại là cả một tuyến mở ra cho suy nghĩ và vì vậy quan trọng là nắm vững giáo thuyết để có những quyết định phù hợp.

2. Discipline, về kỷ luật. Đây là một vấn đề thường gây khủng khoảng cho các Giáo hội phương Tây. Vấn đề Linh mục lạm dụng tình dục là do việc không tuân thủ kỷ luật của Giáo hội, để đến khi bùng nổ ra thì không vớt vát được. Hiện nay ở nhiều địa phận của Hoa Kỳ đã phải bán hết cơ sở của mình đi để trang trải cho việc xao lãng kỷ luật của một thời. Đây là một vấn đề đau lòng. Do đó, tuan thủ kỷ luật đời sống Linh mục là một cách để giúp Linh mục một đàng thánh hóa bản thân và đàng khác tránh tất cả những hậu quả tai hại. Thời mới bước chân vào Chủng viện, chắc chắn các chủng sinh đều thuộc lòng câu: Ai sống theo kỷ luật là sống theo ý Chúa, và sau này trên bước đường lớn hơn, Linh mục vẫn thường được nghe nhắc nhở: hãy giữ luật thì luật sẽ giữ cho mình, sẽ bảo vệ mình. Cho nên chữ Discipline mời gọi mỗi người trong hướng đi đời Linh mục cũng gắn bó với luật lệ của Giáo hội cách khít khao.

3. Dévotion, lòng đạo đức sốt sắng. Ở đây theo như lời chú giải của ĐHY Dias, thì nó gắn liền với những phong trào đạo đức, có một thời tưởng như bị bỏ rơi vì đi liền với lòng đạo đức bình dân của đại chúng. Thí dụ: tràng hạt Mân Côi, có một thời người ta rẻ rúng cho là loại kinh dành cho phụ nữ, người nhàn rỗi, người già… nhưng sau này người ta cảm nghiệm đươc sức mạnh của kinh Mân Côi, nhất là sức mạnh hoán cải, sức mạnh thánh thiêng giúp người ta tiến xa trên đường nên thánh. Những cái thuộc loại Dévotion thì thường gắn liền với những hình thức văn hóa. Ví dụ: hành hương coi như chuyện đi chơi, nhưng ở đó cũng là một thứ Dévotion mời gọi Linh mục không nên xem thường. Tất nhiên không thể loại trừ những hình thức Dévotion truyền thống tôn sùng Thánh Tâm, Chầu Thánh Thể, hay là những hình thức khác nhau dành cho các Thánh. Một Linh mục mà rẻ rúng những hình thức đạo đức bình dân thì coi chừng, tưởng là mình ở trên đỉnh cao trí thức, biết đâu lúc nào đó mình rớt xuống vực mà không hay. Lần hạt Mân Côi, đó là một lời kinh tháp tùng Linh mục trên mọi bước đường, trong mọi hoàn cảnh, đó là lời kinh còn lại duy nhất sau khi đã quên đi tất cả. Gắn bó với một sự đạo đức như thế cũng là một cách giúp cho đời Linh mục được vươn lên, được thăng tiến. (x. Huấn từ khai mạc Tình tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết, ngày 10.1.2011, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).

Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng Chúa mong ước.

16. Bản dịch kinh Thánh tốt nhất

Ba người ngồi trao đổi với nhau về bản dịch Kinh Thánh.

Ông thứ nhất nói:

- Tôi thích bản dịch A. Nó sáng sủa hơn những bản dịch trước. Bản dịch này đọc dễ hiểu hơn.

Ông thứ hai nhận định:

- Tôi thì thích bản dịch B hơn. Bản dịch vừa rõ ràng lại vừa văn chương, rất thích hợp cho chúng ta cầu nguyện.

Ông cuối cùng nhỏ nhẹ nói:

- Phần tôi, tôi thích bản dịch của mẹ tôi nhất. Mẹ tôi dịch Thánh Kinh ra thực tế, làm cho Thánh Kinh dễ dàng áp dụng vào đời sống hằng ngày.

17. Hiến mạng cho chiên

Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của ngài có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.

Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận ngài chăm sóc.

18. Luật độc thân linh mục

Đây là những nhận định của các vị hữu trách trong các giáo phái, đã chân thành chia sẻ với các vị Chủ Chăn Công Giáo trong một phiên họp thân mật:

1. Mục Sư Jungmann nói: "Qúi vị đừng nghĩ rằng chỉ có Giáo Hội Công Giáo của quí vị gặp khủng hoảng, bên Tin Lành chúng toi còn gặp khủng hoảng nặng hơn bên quí vị rất nhiều.

2. Trong một cuộc họp mặt giữa Linh Mục Công Giáo và Mục Sư Tin Lành, một Mục Sư phát biểu về đời sống độc thân: "Tôi bắt đầu hiểu giá trị đời sống độc thân nơi Giáo Hội Công Giáo. Tôi cảm thấy các Cha là anh em với nhau, và tạo nên một gia đình thực sự, chúng tôi không thể nói được như thế đối với chúng tôi... Nếu một Mục Sư nào đó thành công, tôi không sung sướng gì; nếu một Muc Sư nào đó thất bại, tôi cũng không đau xót gì với ông. Giữa chúng tôi không có bầu khí gia đình, họa chăng cũng chỉ có giữa vợ chồng chúng tôi thôi.”

3. Đức Tổng Giám Mục Công Giáo ở Beyrouth (Liban) tâm sự:

- Các Đức Cha hãy cố giữ lấy kho tàng quí báu của Giáo Hội Latinh, tức là luật Linh Mục độc thân. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này; vì Giáo Phận tôi, một Giáo Phận theo nghi lễ Đông Phương: Có Linh Mục độc thân và có Linh Mục lập gia đình. Lắm vấn đề phức tạp mà quí vị không thể tưởng tượng được.”

- Giáo Hội Công Giáo chúng tôi cũng như bên Chính Thống Giáo luôn nuôi ở tòa Giám Mục vài Cha sống độc thân, để dự phòng sau này làm Giám Mục kế vị chúng tôi, vì Giáo Luật đòi buộc Giám Mục phải sống độc thân.

- Lại còn phức tạp do luật buộc Linh Mục chỉ được kết hôn một lần trước khi chịu Chức Thánh. Có những trường hợp Linh Mục mới có 30 hoặc 35 tuổi, vợ ông đã chết, tay bồng tay bế, lũ con nheo nhóc, không ai nuôi dưỡng, thật nan giải.

- Trong việc mục vụ càng phức tạp hơn: Mặc dầu tập quán Linh Mục lập gia đình đã có từ xưa truyền lại, Giáo Dân vẫn quí mến Linh Mục độc thân hơn, các ngài dù ở xa hoặc đi đến đâu, họ cũng tìm cách gặp gỡ, để xưng tội và xin lễ.

- Linh Mục có gia đình chỉ phục vụ trọn vẹn ngày Chúa Nhật, còn các ngày khác họ phải lo làm ăn để nuôi sống gia đình. Như thế làm sao tiếp xúc được với mọi người.

- Thuyên chuyển một Linh Mục có gia đình thật là một vấn đề khó khăn. Được lệnh ông sẽ bảo: "Con sẵn sàng, nhưng vợ con mắc làm ở sở kia, các cháu lại đang học ở trường nọ, gia đình con không cùng đồng tâm đến địa phương đó.”

- Có khi Linh Mục thì tốt, nhưng bà vợ hoặc con cái chưa nói là xấu, chỉ không được Giáo Dân trong xứ có thiện cảm, thì cũng đủ để họ ghét luôn cả Linh Mục, rồi dan dà xa việc đạo. Trường hợp mà xảy ra thù hằn thì còn mất cả Đức Tin nữa. Nếu thuyên chuyển Linh Mục ấy không được, thì cha truyền con nối, tiếp tục giữ Giáo Xứ từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho cả Xứ Đạo phải chịu sự áp bức của một gia đình, nên đời sống đạo hạnh sa sút không thể lường được.

19. Hạnh phúc được yêu

Cha Nguyễn Minh Hùng kể truyện: Còn nhớ có một lần, tôi đến thăm một đôi vợ chồng trẻ. Cuộc thăm viếng này đe lại trong tôi lòng cảm phục, vì đối với tôi, đôi vợ chồng này đã phải chịu đựng và vượt qua những khắc nghiệt quá sức con người. Họ là một đôi vợ chồng nghèo, có ba đứa con. Cả ba đều không hiểu biết gì, không nói được. Đứa con trai đầu có khuôn mặt dị dạng trông rất sợ. Lúc tôi đến, anh đã đi ra rẫy, còn chị đang ngồi đan từng chiếc nan tre để kiếm thêm tiền chợ, vừa phải trông con. Chị nói về ba đứa con của chị trong nước mắt: "Nhieu lúc con muốn chết cho rồi, nhưng nghĩ lại ba đứa con, con phải gượng sống. Cha nhớ cầu nguyện cho vợ chồng con can đảm.”

Bạn cứ nghĩ mà xem, trong tình cảnh đó, ta sẽ làm gì? An ủi ư? Tôi nghĩ rằng, lời an ủi lúc đó sẽ vô nghĩa, sẽ lạc điệu vô cùng. Tôi đã im lặng nghe chị kể, để người mẹ đau khổ ấy vơi bớt nỗi lòng, cũng là để sự thông cảm trong tôi lắng sâu hơn, mạnh hơn đối với những người cha, người mẹ đáng trân trọng ấy.

Người mục tử yêu mến đàn chiên thật, sẽ là người chấp nhận hao mòn sức lực, một mực bảo vệ sự sống đàn chiên. Cũng thế, ba đứa bé tật nguyền kia, nếu chúng không được sống hạnh phúc hơn do những khiếm khuyết trên cơ thể, thì trong tình yêu của cha mẹ, chúng đang sống hết sức dồi dào.

20. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta

Truyện kể lại, vào dịp lễ Giáng sinh, khi thánh Hiêrônimô đang cầu nguyện, suy gẫm về mầu nhiệm Nhập thể, Chúa hiện ra hỏi xem thánh nhân có gì làm quà dâng cho Chúa không? Thánh Hiêrônimô thưa: xin dâng lên Chúa trái tim của thánh nhân. Chúa hỏi: Còn gì nữa không? Hiêrônimô thưa là xin dâng lên Chúa bản dịch Thánh kinh từ nguyên văn Hi lạp sang La ngữ được gọi là bản phổ thông Vulgata. Chúa lại hỏi: còn gì nữa chứ? Thánh nhân thưa: đâu còn gì nữa.

Chúa bảo còn tội lỗi của con thì sao? Thánh Hiêrônimô đáp: đâu dám dâng lên Chúa của xấu đó. Chúa bảo cứ dâng lên Chúa để xin được luyện lọc, thanh tẩy và tha thứ. Tội gì của thanh Hiêrônimô, thì ta không biết và không cần biết.

Còn tội nóng tính của thánh Hiêrônimô thì giới học giả Thánh kinh và ai đọc lịch sử thánh nhân thì đều biết cả. Dễ nóng tính, thánh Hiêrônimô cũng dễ hối hận và mau mắn làm việc đền tội. Có vị giáo hoàng thời Phục hưng, khi thấy hình thánh Hiêrônimô cầm hòn đá đấm vào ngực ăn năn tội với nhận xét: Cầm hòn đá là việc làm tốt cho ông để tỏ lòng sám hối, nếu không, Giáo hội khong bao giờ phong thánh cho ông đâu.

21. Tôi là ai?

Kết quả hình ảnh cho chúa chiên lành Tu viện nổi tiếng nhất nọ cứ một lần trong năm mở cửa thâu nhận duy nhất 1 thỉnh sinh. Viện Phụ đích thân phỏng vấn các ứng sinh chỉ hỏi một câu duy nhất. Nhưng trớ trêu thay, không ai biết được câu hỏi duy nhất đó là câu gì, bởi vì tất cả những ứng viên nào mà rớt cuộc thi, đều phải uống một viên thuốc do chính Viện Phụ chế ra, công dụng làm cho các ứng sinh dự thi quên mất câu hỏi được đặt ra. Chính vì thế mà việc chiêu sinh của Tu viện đã trải qua nhiều năm rồi mà chưa ai có thể biết câu hỏi đó là gì.

Thế là cậu Ramin là tỏ ra quyết chí hơn cả. Cậu dành dài năm cố gắng đọc và học qua thật nhiều sách: lịch sử, địa lý, văn chương, triết lý, nghệ thuật, tâm lý, xã hội học, v.v... Rồi mùa thi đến, Ramin vào thi và tin chắc mình sẽ trả lời được câu hỏi mà Viện Phụ sẽ hỏi. Hồi hộp bước vào phòng thi, Ramin được Ngài hỏi câu duy nhất này là: Con hãy tự hỏi: Tôi là ai? Và trả lời cho ta biết. Tôi là ai? Ramin lặp lại câu hỏi, nhưng không biết phải trả lời như thế nào cho đúng, bèn rút lui không bao giờ trở lại Đan viện nữa.

Tôi là ai? Ðây là câu hỏi căn bản nhất, để bắt đầu mọi cuộc dấn thân thực hiện chương trình sống của đời Kitô hữu. Nhất là cuộc sống tu luyện bản thân, trở nên mục tử tốt. Như vậy rõ ràng những vốn liếng trí thức không mà thôi thì chưa đủ để trở nên mục tử tốt lành mà Lời Chúa mời gọi chúng ta hôm nay.

22. “Mục tử phải mang lấy mùi chiên”

Tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu vào lúc 9giờ30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh (28.3.2013), ngài nói với các Linh mục: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.”

Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải như vậy.

Linh mục Giuse Nguyễn Công Hoàng, Quản xứ Giáo xứ Mẹ Thiên Chúa, sống gắn bó với đoàn chiên. Siêng năng thăm viếng giáo dân, hay ghé thăm những gia đình lương dân, thường thăm cha mẹ của các tân tòng. Giúp đỡ người nghèo, hay đến thăm các bệnh nhân và người già cả. Gần gũi chơi thể thao hàng ngày với giới trẻ, ca hát sinh hoạt với thiếu nhi, vui tươi và hiền hòa với mọi người, một linh mục trẻ dễ mến dễ thương…Từ ngày ngài về nhận xứ, số giáo dân là 1.100. Sau 5 năm số giáo dân tăng lên là 1.544. Tăng 441 giáo dân, một con số thật lý tưởng cho một vùng truyền giáo và tái truyền giáo giữa địa bàn dân cư lương dân và anh chị em Tin lành tại Căn cứ 6 (4). Linh mục trẻ mới 5 năm chịu chức, mang mùi của chiên, trở thành gương sáng trong sứ vụ mục tử.

Cha sở Gioan Vianney “là mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng mục tử của ngài. Amen.

23. Con Ốc "Jesus"

Vài năm về trước, tôi đọc được một bài báo của Carolyn Moran với tựa đề là "Con Ốc Cứu Vãn Cuộc Hôn Nhân Chúng Tôi." Con ốc là ai? Carolyn giới thiệu "con ốc" bằng câu chuyện: Một ngày nọ, bà ta đang ăn trưa với chồng và người con trai tên Mike tại nhà ở Los Angeles. Mike là một phi công trực thăng. Trong lúc ăn, Mike và ba anh nói chuyện với nhau về chiếc trực thăng mà anh lái: "Này ba, ba có biết không, chiếc trực thăng coi thì nó thật là kiên cố, nhưng chiếc quạt chong chóng của nó chỉ được giữ bởi một con ốc sáu cạnh."

Sau đó, anh quay qua mẹ anh, Mike hỏi, "Này mẹ ơi, mẹ có biết họ gọi con ốc đó là gì không?" Mẹ anh ta nhún vai trả lời: "Mẹ chịu thua."

Mike mỉm cười và nói, "Họ gọi nó là con ốc 'Jesus'." Chúa Giêsu, qua cái chết và phục sinh, Ngài đã ôm ấp toàn thể nhân loại với nhau, cũng như chiếc ốc đã nối kết các bộ phận của chiếc trực thăng với nhau.

Carolyn đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong cùng một nhiệm vụ đối với cuộc hôn nhân của bà y như chiếc ốc có nhiệm vụ trong chiếc trực thăng của Mike. Chính Chúa Giêsu đã gìn giữ cho cuộc hôn nhân của bà được êm đẹp.

Giống như chiếc trực thăng, hôn nhân cũng là một vấn đề phức tạp. Có rất nhiều sự kiện có thể đưa đến xáo trộn.

Khi loại bỏ Chúa Giêsu ra khỏi đời sống hôn nhân thì sẽ giống như là loại bỏ chính con ốc "Jesus" ra khỏi chiếc trực thăng của Mike vậy. Nó sẽ bị tan rã liền.

24. Triệu chứng 3 lên 1 xuống

Sau những ngày Đại Lễ Phục Sinh, Lễ Lòng Chúa Thương Xót, ai cũng thấy mệt nhoài, có người kiệt sức phải đi nghỉ, đi khám bệnh. Kết quả khám sức khỏe cho biết “3 lên, 1 xuống”: máu lên, mỡ lên, đường lên, nhưng lượng oxy trong máu xuống. Căn bệnh này càng nặng thêm khi bị tác động của môi trường chung quanh, về vật chất cũng “3 lên, 1 xuống”: gạo lên, điện lên, nước lên, nhưng lương xuống; về tinh thần cũng “3 lên, 1 xuống”: tội ác lên, sự dữ lên, án tù lên, nhưng đạo đức xuống, xuống thậm tệ, xuống chạm đáy!

Cái gì lên cao quá cũng không tốt, và cái gì xuống quá cũng không hay. Phải cân bằng lại thì mới tốt cho sức khỏe. Còn đời sống tâm linh thì thế nào? Trong năm Đời Sống Dâng Hiến phải chịu khó rà soát lại coi có căn bệnh thiêng liêng nào không. Chắc ăn nhất là chạy đến “bác sĩ giáo hoàng” Phanxicô ở Roma để nhờ bắt mạch hốt thuốc. Kết quả lần này cho thấy những người sống đời dâng hiến thường mắc vào căn bệnh số 7 và số 15 trong số 15 bệnh nan y được ĐTC liệt kê trong buổi tiếp kiến ngày 22/12/2014 dành cho những người lãnh đạo các cơ quan trung ương tại giáo triều Rôma, trong đó 60 Hồng y và 50 Giám mục. Căn bệnh đó mang tên: “cạnh tranh và háo danh”; “tìm kiếm lợi lộc trần tục và phô trương.” Cũng lại “3 lên, 1 xuống”: danh lên, lợi lên, quyền lên nhưng lòng thương xót xuống! Hám danh, hám lợi, hám quyền, nhưng chẳng có lòng xót thương !

25. Có tấm lòng của Chúa Chiên Lành

Vào ngày lễ Chúa Chiên Lành năm 1994, để đánh dấu năm Quốc Tế Gia Đình, Đức Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho bà Elysabeta Calnorimora.

Bà có chồng được hai năm, sinh hai con gái. Người chồng bỏ theo vợ bé, còn đánh đập bà đến thập tử nhất sinh. Nhưng bà được Chúa cho thoát tay tử thần, sau đó bà gia nhập Tu hội đời dòng Chúa Ba Ngôi làm việc từ thiện giúp đỡ nhiều người không may mắn về tinh thần cũng như vật chất, cùng cầu nguyện liên lỉ cho người chồng ăn năn trở lại. Năm 1925, bà qua đời ở tuổi 51, lúc ấy người chồng mới thức tỉnh quay trở về, sau ông tu dòng Chúa Ba Ngôi, làm Linh mục rất thánh thiện.

Như thế, điều ta xin dường như không thấy, nhưng điều ta được lại vượt quá ước mơ! Quả thật, bà Calnorimora chỉ xin Chúa cho chồng trở về với gia đình, khi bà còn sống xem ra Chúa không nhận lời, nhưng sau khi bà qua đời, chẳng những người chồng trở về nuôi con cái đoàng hoàng mà còn trở thành một Linh mục thánh thiện, hơn lòng bà mơ ước! Chỉ vì nhờ Chúa Giêsu là Mục Tử nhân lành đã chăn dắt mọi người trong gia đình bà!

26. Đức Cha Sanh

Đức Cha Gioan.B. Sanh thụ phong linh mục ngày 19 tháng 12 năm 1925. Ngày 24 tháng 1 năm 1927 được bổ nhiệm coi xứ đạo Di linh. Nói là xứ đạo, chứ thực ra, Di linh lúc đó chỉ là một giáo điểm chưa có người nào tòng giáo, cũng chưa có một tín hữu nào. Đôi khi có những công nhân công giáo làm đồn điền tại các vùng lân cận tới dự thánh lễ vào ngày chúa nhật. Di Linh thời đó chỉ có đồng bào thiểu số thuộc sắc tộc Kô Hô. Họ không hiểu tiếng kinh, mà cũng không có một người kinh nào hiểu tiếng họ.

Nhận giáo xứ được ba năm từ 1927 tới ngày 29 tháng 3 năm 1930 mới có một người thượng lãnh pháp thánh tẩy: tên anh là K’Rai, nhận tên thánh là Giu Se.

Sắc tộc Kôhô thời đó có rất nhiều người mắc bệnh phong cùi. Khi còn làm việc được, thì người mắc bệnh cùi vẫn được chung sống với gia đình, nhưng khi thân tàn ma dại, không làm gì được nữa, và khi các vết ung cùi phá miệng lở loét, mủ máu váy đầy: khiến những người chung quanh không chịu được sự hôi tanh, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh, để người cùi ở lại đó một mình, sống chết ra sao mặc kệ. Rồi bị yếu kiệt cô đơn trong túp lều hiu quạnh, người cùi đói khổ mà chết dần, một cách thảm khốc, hoặc là vì sống lẻ loi, nên bị cọp ăn thịt. Lúc bệnh vùi đã phá nặng, thì thân thể họ như một thây ma. Mình mẩy sưng phù lên, hoặc cũng có thể bị khô teo lại, mặt mày trở nét lạ thường, ai thấy cũng sợ. Hai vành tai chảy dài, dái tai lòng thòng và sưng phù lên, lỗ mũi bành ra khác thường. Đôi môi sưng húp, cặp mắt đỏ ngầu, tay chân biến đổi kỳ dị, rồi từng ngón tay, từng ngón chân rụng di, làm gân co quắp lại.

Một ngày vào cuối thu năm 1927, trong một chuyến đi thăm làng thượng bên cạnh, nhá nhem tối ngài mới về. Nhưng đang đi ven bìa rừng, thì có một số bóng đen lố nhố, như những bóng ma xuất hiện trên đường ngài đang đi. Rồi những người này kêu lớn tiếng: “Ôi Ông, xin thương chúng tôi!”

Ngài hỏi: “Các anh muốn gì?”

Họ đáp: “Chúng tôi là những người hủi bị bỏ rơi, rải rắc quanh đây, xin Ông giúp đỡ chúng tôi”

Ngài yên ủi họ, và hứa sẽ tổ chức một trại cùi để đưa họ về cùng sống chết với nhau ở đó. Năm 1929 trại cùi đầu tiên của Việt Nam được thành lập, cách xứ Di Linh khoảng 1000 mét. Lúc thành lập có 21 người cùi, cuối năm 1929 số người cùi lên tới 33, và rồi vào năm sau, lên tới 120 người.

Chính ngài lo ăn uống, thuốc men, nhà cửa cho họ. Rồi hằng ngày cũng chính ngài đứng ra săn sóc họ. Ít lâu sau mới có một số nữ tu tới cộng tác với ngài.

Ngày 1942 Tòa Thánh phong chức Giám mục cho ngài và chuyển ngài về coi sóc giáo phận Sàigòn. Tới năm 1955, ngài xin từ chức Giám Mục, trở về Di linh sống với bổn đạo cũ của ngài và săn sóc trại cùi ngài đã thành lập. Vì quá tận tụy với những người cùi, nên ngài cũng bị mắc bệnh cùi của họ. Khi bệnh tình đã quá nặng, có một lần Đức Giám Mục Đàlạt tới đề nghị với ngài, là sẽ đưa ngài đi Âu Châu điều trị tại một bệnh viện danh tiếng. Nhưng ngài đã chắp hai tay lại và nói như van nài: “Suốt đời tôi, tôi luôn cầu xin Chúa ban cho tôi ba điều: Chịu đau khổ - Kiên nhẫn chịu đựng – và được chết nơi đây giữa đoàn chiên yêu quý của tôi.”

Ngài mất tại Di Linh ngày 31 tháng 10 năm 1973

27. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên

Năm 1986, tại liên hoan phim Cannes, nước Pháp, một bộ phim về truyền giáo của đạo diễn Roland Joffé đã đoạt giải “Cành Cọ Vàng.” Bộ phim mang tên “Giáo Điểm Trên Cao” (The Mission). Những biến cố lịch sử trong bộ phim này đều có thật, đã xảy ra quanh biên giới các quốc gia Argentina, Paraguay và Brazil vào năm 1750.

Bộ phim kể lại câu chuyện về vị linh mục mang tên Robert de Niro thuộc dòng Tên. Ngài được sai đến một giáo điểm truyền giáo ở một vùng núi cao để truyền bá Tin Mừng cho thổ dân da đỏ tại đó. Dân da đỏ đã nhiệt thành lãnh nhận niềm tin và rất quý mến cha Robert de Niro.

Nhưng vì quyền lợi đất đai, chính quyền bảo hộ Bồ Đào Nha đã sai quân lính đến giải tán giáo điểm và đuổi thổ dân về rừng. Vị linh mục cùng dân chúng cương quyết ở lại, để giữ vững niềm tin và bảo vệ cộng đoàn. Cuối cùng, vì sự cương quyết đó, vị linh mục đã phải lãnh một loạt đạn của quân lính vào ngực. Ngài gục chết giữa đàn chiên yêu dấu của mình. Ngài đã thí mạng vì đàn chiên ấy.

28. Sức hút của tình yêu

Trước đây, kênh Truyền Hình Cáp Việt Nam 2, (VCTV2) chiếu bộ phim “Bến Sông Trăng” của đạo diễn Đỗ Phú Hải. Bộ phim mô tả đời sống của những người cùi tại trại phong Qui Hòa thuộc Qui Nhơn. Chuyện phim kể rằng: Có một vị bác sĩ trẻ mới ra trường với danh vị thủ khoa. Sau một lần đến thăm trại cùi, vị bác sĩ trẻ ấy đã tình nguyện đến để phục vụ những người cùi tại nơi đây, mặc cho nhiều người dị nghị và ngăn cản. Động lực duy nhất thúc đẩy chàng bác sĩ ấy hy sinh tất cả vì chàng đã nhìn thấy tấm lòng cao cả và vô vị lợi của các chị nữ tu đang phục vụ tại nơi này. Chính mẹ bề trên đã đi thông nhà vệ sinh của các bệnh nhân khi nhà vệ sinh bị tắc nghẽn. Chính gương hy sinh đó đã làm thay đổi cuộc đời vị bác sĩ.

Phải chăng Đài Truyền Hình Cáp Việt Nam đang góp phần làm cho lễ Chúa Chiên Lành tăng thêm ý nghĩa khi đề cao các chị nữ tu kia? Các chị nữ tu đã trở thành “mục tử” của các bệnh nhân bất hạnh. Rồi đến lượt vị bác sĩ trẻ cũng trở thành “mục tử” sẵn sàng hy sinh tất cả cho những kẻ đau khổ.

29. Tôi có yêu chiên được như thế không?

Mùa hè đỏ lửa năm 1972, cuộc chiến ác liệt xảy ra giữa hai chế độ Cộng Sản miền Bắc và Cộng Hòa miền Nam. Những vùng sâu vùng xa thường mất an ninh, quân đội của VN Cộng Hòa không kiểm soát được. Máy bay Mỹ thường oanh tạc trên vùng đất này, dân chúng miền Trung chạy về Tòa Giám mục Nha Trang, hy vọng ẩn náu nơi Nhà Chúa để được che chở, nhưng chốc chốc những quả đại pháo phía Việt Cộng nã vào, làm nhiều người bị thương và có kẻ chết. Vì dân chúng quá đông nên thiếu lương thực, thỉnh thoảng có chiếc trực thăng phía Cộng Hòa liều mạng chuyên chở lương thực đến cho đồng bào, nhưng chẳng thấm vào đâu! Lúc ấy, Đức Cha Phanxico Nguyễn Văn Thuận nhờ một chiếc trực thăng chở ngài về Saigon để xin tiếp tế nhiều hơn nữa. Khi ngài về ra phi trường Tân Sơn Nhất trở về Nha Trang, thì có một người đàn bà níu lấy áo ngài vừa khóc vừa nói: “Thưa ông, cho tôi theo với”, Đức Cha gỡ tay bà ra và ôn tồn nói: “Này bà, bom đạn ngoài ấy như mưa, bà trốn được vào đây là may rồi, còn đòi ra ngoài đấy làm gì?” Nhưng bà kia vẫn cứ níu lấy áo ngài và năn nỉ: “Thưa ông, tôi có ba đứa con, hai đứa tôi đã đưa nó vào Saigon rồi, còn một đứa tôi không biết nó lạc ở đâu, tôi phải ra tìm nó, tôi không thể sống nếu thiếu nó!” Đức Cha cản bà không được, đành cho bà lên chung máy bay để trở lại Nha Trang. Ngồi trên trực thăng, Đức Cha nhìn bà và suy nghĩ: “Bà này chỉ lấy tình mẫu từ tự nhiên đối với con, còn chính mình được giáo dục hơn bà, ngày chịu chức Linh mục và Giám mục người ta nói mình là Chúa Kitô thứ hai, thế mà liệu mình có hy sinh cho đoàn chiên hơn người đàn bà này không. ?!”

Khi Đức Cha đã về tới Nha Trang, ngài nhờ một số người cùng với ngài đem bánh mì đi phát cho đồng bào, khi tới chân tháp chuông, ngài thấy một người phụ nữ với bộ mặt sầu não, hai tay chị đang ôm chặt một cái gói, khi đưa bánh mì đến cho, chị chẳng thèm nói gì, cứ cúi gầm mặt hai tay ghì chặt cái gói vào ngực, nhân viên phát bánh tưởng chị này đã lấy lương thực nhiều không muốn cho ai lấy lại, nên họ giật lấy gói của chị đang ôm, thấy thế chị òa lên khóc! Mọi người ngỡ ngàng và xúc động khi biết bên trong gói đó là một đứa bé đã chết thối mấy ngày! Nhìn cảnh tượng ấy, Đức Cha cũng không cầm được nước mắt và càng làm cho ngài suy nghĩ nhiều hơn nữa: Liệu mình có yêu chiên của mình được như thế hay không?! Có lẽ vì ấn tượng này mà khi ngài nhận chức Giám mục Phó Giáo Phận Saigon, ngài bằng lòng bị bắt đi tù đày suốt 13 năm trong gian khổ mà không mở miệng kêu ca! Tưởng đây cũng là một mẫu mục tử nhân lành, diễn tả phần nào chân dung Mục Tử Nhân Hậu Giêsu.

30. Không hối tiếc vì yêu

Trong cuốn tiểu thuyết Love Story của nhà văn Erich Segal, nhân vật Jenny Cavillery trước khi chết, đã nói với người yêu là Oliver Barrett IV rằng: “Yêu là không bao giờ để mình phải nói câu ân hận.” Chúa Giêsu khẳng định Ngài là mục tử nhân lành ở chỗ: biết rõ từng con chiên, bảo vệ chiên, thí mạng vì chiên, và sau cùng qui tụ chiên trong một đoàn duy nhất, không để chúng tản mác thất lạc. Qua tất cả những chứng cứ ấy, ta cảm nhận một tình yêu đặc biệt nơi Chúa: miên viễn, vô biên, không hối tiếc! Đến hôm nay, Chúa vẫn yêu thương nhân loại bằng một tình yêu mãnh liệt như vậy: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì người mình yêu” (Ga 15,13).

Hãy cảm nếm hạnh phúc vì nhận biết mình là người được Chúa yêu trên hết mọi sự, yêu hết cỡ, yêu đến chết. Cảm nhận ấy mời gọi bạn quyết tâm yêu mến Ngài, để Ngài dẫn dắt đời bạn.

Khi yêu ai rồi thì người ta không hối tiếc vì đã yêu. Điều ấy đúng nơi Chúa, và điều ấy có đúng nơi tình yêu bạn dành cho Chúa không? Bạn đã yêu Chúa đến độ dám hy sinh tất cả vì Chúa không?

31. Xin được làm tôi tớ

Robert Morrison, một nhà truyền giáo nổi tiếng, khi đi truyền giáo ở Trung Quốc, đã viết thư cho Hội truyền giáo ở bên Anh, để xin một người trợ giúp. Để đáp lại, có một thanh niên xin được tự nguyện hiến thân phục vụ.

Sau khi phỏng vấn, các thành viên trong hội truyền giáo quyết định là mặc dù người thanh niên này là một Kitô hữu sốt sắng, nhưng anh chưa hề được chuẩn bị và chưa có đủ yếu tố để ra đi truyền giáo, nên họ đề nghị: “Chúng tôi nghĩ rằng anh chưa phù hợp với vai trò của một người truyền giáo, nhưng nếu anh bằng lòng ra đi với tư cách là người giúp việc cho nhà truyền giáo, thì chúng tôi cử anh đi.”

Sau khi nghe câu trả lời này, anh nói: “Dạ, thưa con xin được sẵn sàng trở thành một người tôi tớ hoặc làm bất cứ việc gì để phục vụ cho mục tiêu làm sáng danh Chúa.”

Thế là anh được sai đi trong vai trò của một người lao công, nhưng chẳng bao lâu, anh trở thành một nhà truyền giáo, đó là tiến sĩ Milne, một trong những nhà truyền giáo tốt lành giỏi giang nhất tại Trung Quốc.

32. Tôi chỉ sống một lần ở đời này

Một phụ nữ được bác sĩ chuẩn đoán đang bị căn bệnh ở giai đoạn cuối. Trong ít ngày, bà ta vẫn tiếp tục sống như trước. Rồi một hôm, bà ta tự nhủ: “Tôi đang làm gì? Tôi đang xây dựng tài khoản để làm gì? Tôi đang sống như thế này là vì cái gì?” Sau đó, bà quyết định sống theo tiếng gọi của con tim. Người phụ nữ đó sống thêm mười lăm tháng nữa. Trước khi chết, bà ta tâm sự với một người bạn: “15 tháng cuối đời là chuỗi ngày phong phú nhất trong cả đời tôi.”

Kinh nghiệm của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi: giai đoạn nào trong đời tôi phong phú nhất?

Tôi chỉ băng qua thế giới này chỉ một lần. Hãy để tôi làm những điều tốt đẹp và đừng ngăn cản, vì tôi sẽ chẳng còn băng qua thế giới này nữa (Stephen Grellet).

33. Tình yêu không sợ hãi

Tháng 3/1980 Đức cha Rômero của San Salvador đã mạnh mẽ phản đối việc chính phủ không tôn trọng nhân quyền. Ngài ý thức sự phản đối này có thể dẫn đến tù tội và ngay cả cái chết. Nhưng cũng như Chúa Giêsu, ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì những gì ngài tin là thánh ý Thiên Chúa. Ngày 24/3 ngài đã bị ám sát khi đang đứng ở bàn thờ dâng thánh lễ.

Tôi sẵn sàng thế nào trong việc lên tiếng vì những gì tôi tin là thánh ý Thiên Chúa? Làm sao biết được đâu là thánh ý Thiên Chúa

Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại … biết chiến đấu mà không sợ thương tích, … biết lao động mà không đòi hỏi phần thưởng nào khác hơn là biết rằng con đang thực hiện thánh ý Chúa (Thánh Ignatiô Loyola).

34. Chúa biết con cần đến Chúa

Một cô gái tìm thấy trong số tài sản cha cô để lại sau khi chết, lời cầu nguyện đầy xúc động này: “Lạy Chúa, con không thể cầu nguyện. Con không thể tìm được sức khỏe và bình an trong tâm trí. Mặc dù Ngài đã chịu đau khổ hơn con, nhưng điều đó chẳng giúp gì cho con, dù con đã cố gắng. Xin cất đi sự yếu đuối và ban cho con sức mạnh. Con cần biết rằng có Chúa trợ giúp, con sẽ thành công. Xin cầm lấy tay con và cho con bám víu vào Ngài. Xin cho con biết rằng được Chúa nâng đỡ, chẳng gì có thể hại con được.”

Suy nghĩ gì trong lời cầu nguyện của người cha trên đây liên hệ đến tôi và tôi có thể lấy đó làm lời cầu nguyện của chính tôi?

Lạy Chúa nhân lành, xin cầm tay con dắt con qua giông tố, qua đêm đen bước vào ánh sáng… Xin dẫn dắt con và đưa con tới quê nhà. (Thomas A.Dorsey)

35. Chăn chiên cần xả thân

Laura Bell không phải là một mẫu sinh viên tốt nghiệp đại học, điển hình của quí bạn. Sau khi tốt nghiệp xong, cô chọn nghề chăn cừu tại Wyoming. một số bạn bè nghĩ rằng cô ta “khùng.” Nhưng vì muốn thách thức nên Laura đã chấp nhận nghiệp vụ ấy.

Mỗi ngày cô làm việc tới 18 tiếng đồng hồ và làm suốt cả 7 ngày trong tuần. Cô làm từ sáng sớm và chỉ nghỉ vào lúc mặt trời lặn. Suốt thời gian này cô hoàn toàn cô đơn chỉ biết bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn chú cừu. Mỗi tuần lễ một lần có người cưỡi ngựa băng qua đồi mang đến cho cô thực phẩm, thư từ và những băng đạn.

Công việc của Laura làm sao giữ cho đàn cừu ở chung một chỗ. Dẫn chúng đến chỗ có cỏ và nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ. Cô nói: “Khi bạn hoàn toàn một mình ở ngoài ấy, thì chẳng có ai để sửa đổi lầm lỗi của bạn cả. Vì thế các bạn phải cảnh giác gấp đôi để coi chừng những hiểm nguy có thể xảy ra, chẳng hạn có những loài rắn cực độc, và cũng đừng làm điều gì khiến cho chú ngựa của quí bạn phải bực mình đấy nhé!”

Laura nói rằng việc thay đổi thời tiết là một trong những niềm vui của nàng nhưng nó cũng gây cho nàng những cơn nhức đầu ghê gớm nhất. Thời tiết sẽ qui định những động thái của bầy cừu cũng như tính chất ngày làm việc của nàng. Một buổi sáng nọ, một nhóm cừu tự rời khỏi bầy chính, thế là Laura bỏ thời gian còn lại trong ngày lần theo dấu vết chúng; ngay khi nàng vừa tìm thấy chúng thì một cơn mưa bão dìm ngập nàng lẫn bầy cừu trong nước mưa, đêm ấy, nàng phải chịu rét run trong đống mền ướt sũng nước.

36. Tình yêu biến đổi tâm hồn

Hoàng Tử Bé, trong tác phẩm cùng tên của Saint-Exupéry, đã yêu một hoa hồng luôn tự hào mình là hoa hồng duy nhất. Khi đến trái đất và gặp một khu vườn đầy hoa hồng thì cậu cảm thấy rất đau khổ. Cậu kể: “Đoá hoa của em, cô ta đã có kể với em rằng cô ta là độc nhất vô nhị của loại hoa hồng trong vũ trụ. Thế nhưng đây này, chỉ mới trong mỗi một khu vườn đã có đến năm nghìn đoá giống nhau hết.”

Sau khi gặp con cáo và học bài học về tình thân, cậu nói với các hoa hồng ở vườn hoa: “Các cô chẳng giống chút nào với đoá hoa hồng của tôi, các cô chưa là gì cả. Chưa ai làm cho các cô thân quen, các cô cũng chưa làm cho ai thân quen. Các cô giống như con cáo của tôi trước kia. Trước kia, nó là một con cáo giống như trăm nghìn con cáo. Song tôi đã làm nó thành bạn thân của tôi, và bây giờ nó trở nên duy nhất trên đời.”

37. Muốn lui quân Tề không dùng Ngô Khởi không xong

Ngô Khởi người nước Vệ, tinh thông binh pháp, làm quan ở nước Lỗ. Quan Tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu, thường cùng với Ngô Khởi bàn việc binh, biết Ngô Khởi là người có tài, bèn nói với Lỗ Mục Công, dùng làm quan đại phu.

Bấy giờ nước Lỗ bị quân Tề tiến đánh, Công Nghi Hưu nói với Lỗ Mục Công: “Muốn lui quân Tề, không dùng Ngô Khởi không xong!”

Từ khi làm đại tướng, đem hai vạn quân ra đánh Tề, Ngô Khởi cơm ăn áo mặc cũng như các quân sĩ khác, nằm không giải nệm, đi không ngồi xe, trông thấy quân sĩ khiêng vác nặng nề cũng đến làm hộ. Một tên quân có bệnh đau nhọt, Ngô Khởi thân hành chạy chữa thuốc thang, rồi ghé miệng hút mủ cho nó. Quân sĩ cảm cái ơn Ngô Khởi, khác nào tình cha con, đều dốc tâm cố sức đánh giặc, và đại thắng.

Với tình yêu mục tử, Ngôi Lời nhập thể đã chia sẻ phận hèn của tôi, chịu tử nạn để mang vác tội lỗi của tôi, đi vào con đường không được thế gian chấp nhận, trở nên như viên đá bị thợ xây loại bỏ.

38. Chúa yêu tôi hơn tôi yêu Chúa

Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa cho ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này: “Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài biết bao!”

Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:

- Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Matta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa” nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng.” Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.”

Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.

39. Ai muốn theo Ta phải bỏ mình

ĐHY Cardjin, vị sáng lập phong trào Thanh lao công, đã kể rằng ngài sinh ra và lớn lên trong một gia đình rất nghèo. Năm 13 tuổi, vào một buổi tối, ngài rón rén xin cha cho ngài được tiếp tục đi học trong năm học tới. Người cha im lặng hồi lâu rồi trả lời: “Con ơi, ở tuổi con, ba đã phải đi làm rồi, nay thì ba đã già, sức đã cạn rồi, có lẽ con phải…”

Hiểu ý cha, nhưng ngài vẫn tiếp tục nài nỉ: “Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con muốn trở thành linh mục!”

Vừa nghe biết ý định cậu con trai muốn đi tu, nước mắt người cha từ từ lăn dài trên đôi má gầy còm. Phải một lúc lâu sau đó, ông mới nghẹn ngào nói được: “Ba má đã hy sinh quá nhiều, nhưng để được một người con hiến dâng cho Chúa thì ba má sẽ lại tiếp tục hy sinh.”

CNPS 4C -

Lời Chúa:

TRUYỆN KỂ

1. truyện

THỨ HAI - Chúa chiên lành

Lời Chúa: Ga 10, 1-10

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ.”

Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào.”

TRUYỆN KỂ

1. Nghề chăn cừu

Có một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.

Mỗi tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.

Anh kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.

Trong sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.

2. Cửa chuồng chiên

Trong cuốn “The Holy Land”: vùng đất thánh, tác giả John Kellman mô tả: chuồng chiên ở Do thái có một bức tường bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần Hebron, và gặp được người mục tử đang làm việc tại trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh đồi núi và bày cừu đang tung tăng trên cánh đồng cỏ. Người du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh đâu/” Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng.” Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe biết, ban đêm anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.

3. Theo anh là thủ lãnh.

Một nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.

Giờ thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng bách em bé theo mình. Ông nói:

- Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh, chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước, thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em quyết định.

Em bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và nói:

- Theo anh là thủ lãnh của em.

Thế là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu. Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em bé:

- Em có bỏ không?

Lời thưa đầy hăng hái:

- Em đã chẳng hứa với anh sao?

Sáu tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.

4. Thí mạng sống vì đoàn chiên

Ngày 14 tháng 4, nhiều nơi trên thế giới cử hành nghi thức tưởng nhớ hằng trăm người chết và mất tích, khi tàu Titanic bị đắm năm 1912. Dịp này, người ta nói nhiều về cha Byles khi ấy 42 tuổi, đang trên chuyến hải trình định mệnh đến New York để làm lễ cưới cho em trai là William.

Theo các nhân chứng có mặt, khi con tàu sắp chìm, vị linh mục này đã mau chóng giúp đỡ các trẻ em và phụ nữ xuống thuyền cứu hộ, đồng thời ngài tranh thủ giải tội, ban ơn xá giải cho các tín hữu và lần chuỗi mân côi với hành khách đang gặp nạn trên tàu. Bà Agnes McCoy, một trong những nạn nhân sống sót trong thảm họa này kể lại: “Khi con tàu sắp chìm, Cha Byles đứng dưới boong tàu cùng với các tín hữu Công Giáo; có cả tín hữu Tin Lành và Do Thái cũng cầu nguyện quanh ngài.”

5. Giám mục Myriel

Victor Hugo, một văn sĩ Pháp nổi tiếng, trong tác phẩm “Những kẻ khốn cùng” đã minh hoạ tình yêu mục tử của Đức Kitô một cách tuyệt diệu qua hình ảnh Giám mục Myriel, một người sống triệt để tinh thần mục tử của Đức Kitô: “Tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào”

Bọn cướp của Gatpa trước đây thường quấy nhiễu vùng núi Ônliun. Sau khi chúng bị tiêu diệt, một trong các tay đầu mục là Cravat lẩn tránh vào núi. Y cùng một số lâu la, dư đảng của Gatpa ẩn náu một thời gian tại quận Nice, rồi tràn sang vùng Piémont, và đột nhiên lại xuất hiện ở địa phận nước Pháp. Có lần y dám đến tận Ambrun và đang đêm xông vào nhà thờ vơ sạch đồ lễ. Cảnh binh được giao trách nhiệm lùng bắt, nhưng vô hiệu. Lần nào y cũng trốn thoát, cũng có lúc y chống cự mãnh liệt. Rõ là một tên khốn kiếp táo tợn. Đương cơn kinh hoàng ấy thì ĐGM Myriel tới. Đức Cha đi kinh lý. Khi đến Sattelat thì ông xã trưởng đề nghị Đức Cha trở về, vì Cravat đang chiếm cứ vùng này. Đi sẽ nguy hiểm cho dù có hộ tống, và có thể phải hy sinh cách vô ích ba bốn người lính bất hạnh.

- Cũng vì thế mà tôi định không lấy người hộ tống.

- Đức Cha lại nghĩ thế à?

- Tôi nghĩ thế lắm cho nên tôi nhất định không lấy sen đầm, và một giờ nữa thì tôi đi.

- Đức Cha đi một mình à?

- Đi một mình.

- Thưa Đức Cha, Đức Cha đừng làm như vậy.

- Trên núi này có một xóm nhỏ chỉ bấy nhiêu mà đã ba năm nay tôi chưa đến thăm. Những người chăn dê hiền lành và lương thiện ấy, họ là những người bạn tốt của tôi. Họ cũng cần nghe lời Chúa. Vậy mà một giám mục yếu bóng vía thì họ sẽ nghĩ thế nào?

- Nhưng mà, thưa Đức Cha, có cướp! Sợ Đức Cha gặp cướp!

- Tôi cũng vừa nghĩ đến điều ấy. Ông nói có lý. Tôi có thể gặp họ lắm. Những người ăn cướp này cũng cần nghe nói tới Chúa.

- Thưa Đức Cha, nhưng mà chúng là một lũ cướp, một bầy chó sói!

- Ông xã trưởng ạ, có lẽ chính vì bầy thú ấy mà Chúa Giêsu cho tôi làm kẻ đi chăn. Ai biết đâu đường nẻo của Chúa?

- Thưa Đức Cha, chúng sẽ cướp hết đồ đạc của Đức Cha.

- Tôi chẳng có gì cả.

- Chúng giết Đức Cha mất.

- Giết một ông cha vừa đi vừa đọc kinh? Chà chà! Để làm gì chứ?

- Lạy Chúa, rủi Đức Cha gặp chúng thật?

- Tôi sẽ xin họ làm phước cho kẻ khó của tôi.

- Đức Cha đừng đi, nguy đến tính mạng mất.

- Dứt khoát chỉ có thế thôi à? Tôi có mặt trên thế gian này không phải để gìn giữ tính mệnh mà để chăn giữ các linh hồn.

Đành phải để mặc Đức Cha. Đức Cha ra đi chỉ có một em bé tình nguyện đi theo dẫn đường. Việc Đức Cha khư khư đòi đi ấy đồn đại khắp xứ làm người ta vô cùng hoảng sợ. Đức Cha cưỡi con la, đi suốt qua núi chẳng gặp một ai và đến với những người chăn dê, bạn tốt của Đức Cha, một cách bình an. Đức Cha ở lại với họ nửa tháng, dạy giáo lý, ban phép Thêm sức, và dạy chữ cho họ.

Hôm sắp từ biệt xứ này, Đức Cha quyết định tổ chức một buổi lễ tạ ơn với nghi thức đại trào Giám mục. Đức Cha ngỏ ý với Cha xứ. Nhưng làm thế nào? Chẳng có đồ lễ của Toà Giám mục. Chỉ có thể đưa cho Đức Cha dùng một bộ đồ lễ nhà xứ nghèo nàn với mấy chiếc áo choàng lụa đã sờn đính tua vàng giả. Đức Cha nói: “Không sao, Cha xứ à! Đến giờ giảng chúng ta cứ báo tin về buổi lễ đi. Mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy.”

Người ta lùng các nhà thờ quanh vùng. Tất cả các thứ sang trọng ở các xứ đạo nghèo này nhập lại cũng không lọc ra được một bộ lễ phục tạm coi được cho một Thầy Sáu hát Phúc âm, chứ đừng nói cho một vị Giám mục.

Đang lúng túng như vậy thì có hai người lạ mặt đi ngựa mang một cái hòm to, đặt ở trước nhà Cha xứ rồi quay đi ngay. Mở hòm ra thì thấy một áo choàng dạ vàng, một chiếc mũ gầu nạm kim cương, một Thánh giá Tổng giám mục, một chiếc gậy tuyệt đẹp. Tất cả những phẩm phục này bị mất trộm một tháng trước ở kho nhà thờ Đức Bà Ambrun. Trong hòm còn có một mảnh giấy đề mấy chữ: “Cravat gửi tặng Đức Cha Myriel.”

Thấy thế, Đức Cha nói: “Tôi đã nói mọi việc rồi đâu sẽ vào đấy mà”

Không có ai yếu hèn hơn tôi, nhưng cũng chẳng có ai mạnh mẽ hơn tôi nếu tôi đặt tất cả cuộc đời tôi trong niềm tin vào sức mạnh của Đức Kitô, Đấng đã đến để cho tôi được sống và sống dồi dào: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (Ga 15,5)

6. Chiên tôi nghe tiếng tôi

Một du khách muốn tận mắt thấy chiên không theo người lạ, như Chúa Giêsu đã nói, “vì chúng không biết tiếng người lạ” (10,5). Ông dàn xếp với người chăn chiên để mặc áo khoác và đội mũ của người chăn chiên vào. Rồi ông ta đến với đàn chiên và gọi: “Manah” có nghĩa là “đến đây.” Nhưng không một con chiên nào chạy lại cả. Bị tác động sâu sắc, du khách hỏi: “Những con chiên của ông có bao giờ theo ai khác, ngoài ông không?” Người chăn chiên trả lời: “Có. Đôi khi một con chiên bị ốm nặng, nó sẽ theo bất cứ ai.”

Tôi chăm chú nghe tiếng Chúa Giêsu, chủ chiên của tôi như thế nào?

Thiên Chúa luôn quan tâm đến chúng ta hơn là chúng ta thực sự lắng nghe Ngài (Morton Kelsey).

7. Để anh em được sống dồi dào

Một phụ nữ được bác sĩ chuẩn đoán đang bị căn bệnh ở giai đoạn cuối. Trong ít ngày, bà ta vẫn tiếp tục sống như trước. Rồi một hôm, bà ta tự nhủ: “Tôi đang làm gì? Tôi đang xây dựng tài khoản để làm gì? Tôi đang sống như thế này là vì cái gì?” Sau đó, bà quyết định sống theo tiếng gọi của con tim. Người phụ nữ đó sống thêm mười lăm tháng nữa. Trước khi chết, bà ta tâm sự với một người bạn: “15 tháng cuối đời là chuỗi ngày phong phú nhất trong cả đời tôi.”

Kinh nghiệm của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi: giai đoạn nào trong đời tôi phong phú nhất?

Tôi chỉ băng qua thế giới này chỉ một lần. Hãy để tôi làm những điều tốt đẹp và đừng ngăn cản, vì tôi sẽ chẳng còn băng qua thế giới này nữa (Stephen Grellet).

8. Cha Pierre, một tấm lòng vĩ đại

René Belbenoit, một người tù khổ sai trên hòn đảo Quỷ thuộc nước Pháp, vượt ngục bằng một chiếc thuyền độc mộc của thổ dân. Sau khi băng qua hàng ngàn hải lý trên biển Antilles, đi bộ xuyên qua những cánh rừng rậm của châu Mỹ La tinh, ông đã thoát được đến Hoa Kỳ.

Ông viết một cuốn sách tường thuật lại cuộc vượt ngục của ông, cuốn Dry Guillotine. Cuốn sách đó đã trở nên một best-seller với hàng triệu ấn bản trong một thời gian ngắn, và được các nhà xã hội học và giới văn học của Mỹ đặc biệt quan tâm, vì nhờ đó mà họ biết đến số phận bi thảm của các tù nhân.

Trong sách có thuật lại một tình tiết đặc sắc. Đó là khi Marcel, người cầm đầu toán vượt ngục, ra lệnh cặp thuyền vào bờ, cạnh một trại tù bỏ hoang để nghỉ qua đêm.

Trong lúc loay hoay tìm cành khô đốt lửa, họ bắt gặp một ngôi mộ nhỏ với một thánh giá đẽo gọt sơ sài nằm dưới một đám dây leo chằng chịt. Trên hòn đảo này, ngôi mộ là chuyện bất thường, vì ở đây tù nhân nào chết cũng bị đưa ra biển vứt làm mồi cho cá mập cho gọn.

Marcel vung mã tấu dọn sạch rong rêu trên cây thánh giá rồi trầm giọng bảo: “Linh mục Pierre đấy! Cũng là một tù nhân khổ sai như các cậu và tớ.”

Rồi anh chùng giọng xuống, như thì thầm: “Một sứ giả của Chúa!”

Sau đó Marcel kể cho mọi người nghe chuyện anh ta gặp cha Pierre trên chuyến tàu chở tù nhân ra Guyane: “Thoạt tiên chúng tớ khinh tởm ông khi biết ông bị lưu đày vì đã nhẫn tâm giết một bà lão goá bụa cư ngụ cạnh nhà thờ, và gọi ông là ‘lão thầy tu lạc đạo.”

Nhưng thái độ của các tù nhân thay đổi dần dần vì ai cũng thấy ông lao động cật lực như mọi tù nhân và không bao giờ phàn nàn. Xong việc ông còn cố giúp những bạn tù thương tật khác.

Khi trại Oraput được lệnh đóng cửa vì bệnh dịch, ông xin được di chuyển đến đảo Saint-Louis, nơi biệt giam những tên bị hủi, một thế giới hoàn toàn cách ly với xã hội con người. Hằng tuần, một tên cai ngục đáp ca-nô vứt bừa lên bãi cát một bao thực phẩm rồi chuồn thẳng. Gầy gò như cây đinh, nhưng ông vẫn chăm sóc bọn người hủi không mệt mỏi.

Một hôm, người ta mang đến cho ông tên Groscaillou. Nằm dài trên chiếc cáng, coi hắn không còn tí gì là dáng dấp của con người. Vừa thấy ông mang ly sữa đến, hắn hốt hoảng "Không, không thể là cha Pierre"

- Anh biết tôi à? Cha Pierre dịu dàng hỏi.

- Con là Groscaillou, người làm vườn trong nhà thờ lúc trước, hắn đáp.

Cha nhìn hắn thật lâu trước khi thốt nên lời: "Khốn khổ cho anh. Chúa trừng phạt anh thật nghiêm khắc.”

Bọn hủi xum xít quanh tấm lều đổ nát, háo hức lắng nghe. Giọng tên tội phạm thì thầm như từ cõi âm vọng lại:

- Chính tôi đã giết mụ góa Duval. Biết mụ vừa nhận một món tiền khá lớn. Tối hôm đó, tôi khoác chiếc áo dòng đánh cắp của cha và đến bấm chuông. Thấy tà áo đen thấp thoáng, mụ tin tưởng vội ra mở cổng. Khi nhận ra rõ mặt, mụ hãi quá định gào lên cầu cứu, buộc lòng tôi phải siết cổ mụ. Quay lại nhà nguyện tôi chạm mặt ngay với cha Pierre. Người biết tôi vừa làm một cú dại dột. Sau khi nghe tôi xưng tội, cha khuyên tôi nên ra đầu thú. Lúc bọn "cớm" đến bắt cha, dù nắm rõ bí ẩn của vụ án, cha vẫn tuân thủ giới luật im lặng của Chúa. Chấp nhận 1 bản án chung thân như một tông đồ tử đạo, không hé răng khai báo. Các cậu hãy giải oan cho cha để tôi ra đi thanh thản.

- Không cần thiết đâu anh ạ! Hãy thành tâm khấn nguyện và anh sẽ được tha thứ. Cha từ tốn đáp.

Sáng hôm sau, các tù nhân bắt gặp thi thể Groscaillou ngoài bãi cát, bấp bênh theo triều sóng.

Sáu tháng trôi qua, khi quyết định tự do của cha được gởi đến thì đã quá muộn. Trước khi mất, cha mong sẽ được chôn trên đảo, giữa những người bất hạnh mà cha hằng chăm sóc. Chính những tên đại bàng đã kính cẩn an táng và dựng cho cha cây thánh giá này.

Marcel ngừng kể, đăm chiêu nhìn ngôi mộ đơn sơ ở bìa rừng rồi khẽ kết luận: “một tấm lòng vĩ đại.”

9. Không có ai chăm sóc bệnh nhân thay cho tôi

Năm 1926, Đức Cha Jean Cassaigne đến Việt Nam. Lúc đó ngài còn là một linh mục, và được cử làm cha sở Di Linh.

Một hôm khi vào rừng săn bắt kiếm thức ăn, cha gặp một phụ nữ nằm rên la trên một chòi lá cao. Cha lên thăm và biết được đó là một người cùi bị gia đình bỏ mặc chờ chết. Cha mang thuốc và thức ăn đến để chăm sóc bà, rồi dạy đạo cho bà.

Từ đó cha bắt đầu đi tìm kiếm những người cùi, gom họ lại mà chăm sóc. Người ta có thể đọc thấy những vất vả ngài phải chịu trong việc chăm sóc những người cùi qua lá thư ngài viết cho một người bạn bên Pháp: “Trong 12 tháng, tôi bị sốt hết 10 tháng. Nhưng tôi không thể nằm nghỉ, vì không chút yên lòng và không có một ai thay thế tôi lo cho bệnh nhân.”

THỨ BA - Sự thật cứu rỗi

Lời Chúa: Ga 10, 22- 30

Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do- thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết."

Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi.

Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một."

TRUYỆN KỂ

1. Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta

Hành hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: “Ta là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi."

Chúa Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa

2. Tôi biết chiên của tôi.

“Biết” theo thánh Gioan là “yêu thương”

Có một câu chuyện truyền kỳ rất hay kể lúc Môisen trốn khỏi Ai cập, chăn chiên cho Giêtrô trong đồng vắng: có một con chiên trong bầy bỏ đàn đi mất Môisen kiên nhẫn đi tìm nó và ông đã tìm thấy nó đang uống nước bên giòng suối. Môisen đến bên nó để tay trên mình nó và nói thật nhỏ nhẹ:

- Tại vì mày khát nên mày bỏ đi? Ông không giận con chiên vì nó đã làm ông mệt mỏi, nhưng cảm thông với nó và mang nó trở về. Thượng Đế nhìn thấy như vậy, Ngài phán: “Nếu người này thương xót một con chiên đi lạc như vậy, đây chính là người ta muốn lập làm người lãnh đạo dân ta."

3. Chiên không nghe theo tiếng người lạ.

Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, đã thấy ba người chăn chiên dẫn bầy mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:

- Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta!”)

Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy và đi theo người ấy lên đồi.

Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.

Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:

- Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.

Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu: “Men ah! Men ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:

- Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?

Người chăn Syria trả lời:

- Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.

Người ta tìm thấy trong một cuốn nhật ký những tâm tình sau đây:

Suốt đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một đứa con tôi về với Chúa. Trong lễ nghi an táng cháu, Cha sở kể câu chuyện sau: “Một Mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự nhiên bầy cừu sợ hãi. Người mục tử không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối cùng ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dắt nó qua bên bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng theo. Và thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người Mục tử.

Một mai nếu có phải theo con tôi về với Chúa, tôi chẳng sợ.

4. Mục tử tốt lành là mục tử luôn lo cho đoàn chiên.

Đây là lời cầu nguyện của thánh Grêgôriô:

Lạy Đấng Mục Tử nhân lành, Đấng mang cả đoàn chiên trên vai. Xin chỉ cho con chỗ nghỉ ngơi, xin dẫn con đến đồng cỏ xanh mà bổ dưỡng; xin gọi con đích danh, để con được nghe tiếng Chúa, vì con là chiên của Chúa.

Xin cho con biết Chúa đang chăn chiên ở đâu, để con tìm thấy đồng cỏ cứu độ và được đầy no lương thực bởi trời.

Xin cho con biết chạy đến nguồn suối mà múc lấy của uống thần linh, của uống chính Chúa ban như dòng nước từ nguồn mạch chảy tuôn cho những người đang khát. Chúa đã tuôn đổ dòng nước này từ cạnh sườn Chúa khi lưỡi đòng khai mạch. Ai nếm hưởng nước này thì trở nên mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời.

Xin Chúa cho con biết phải làm gì để được nghỉ ngơi bồi dưỡng! Phải theo đường nào để tới chỗ nghỉ trưa. Xin đừng để con vì không biết sự thật mà rời xa bàn tay Chúa dắt dìu, nhập đoàn với những bầy chiên xa lạ, không phải là đoàn chiên của Chúa. Amen.

5. Việc làm minh chứng

Trả lời cho viên sĩ quan cai ngục về nguồn gốc của mình, cha Kôn- bê dõng dạc nói: “Tôi là một linh mục Công Giáo." Lời tuyên bố này được minh chứng bằng những việc bác ái ngài thực hiện trong tù, đặc biệt bằng hành động chết thay cho một người bạn tù đáng thương. Những hành vi bác ái ấy minh chứng cha Kôn- bê thuộc về Thiên Chúa và là môn đệ Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu luôn thể hiện nguồn gốc của mình thuộc về Chúa Cha, bằng lời giảng dạy và việc làm. Đời sống của Ngài khiến những người đương thời nhìn nhận nơi Ngài không có điều gì gian dối, là “người vô tội” và là “Con Thiên Chúa." Việc của Ngài làm chứng minh nguồn gốc của Ngài.

6. Tình yêu dẫn dắt

Một phụ nữ đi nghỉ hè ở Israel đang quan sát một người chăn chiên lùa bầy chiên của ông ta. Người và vật đến một con suối cạn. Dù tiếng người chăn chiên gọi, bầy chiên vẫn hoảng sợ và do dự. Ông ta cúi xuống, nhẹ nhàng bế một con lên và đem sang bên kia suối. Khi chiên mẹ thấy chiên con ở bờ bên kia, nó đi qua dòng nước. Lập tức những con khác cũng đi theo.

Tôi có nhớ đã bao giờ tôi trở nên sợ hãi và do dự để theo Chúa Giêsu chưa? Điều gì đã giúp tôi thắng vượt sợ hãi và do dự?

Chúa là mục tử chăn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, Và bổ sức cho tôi.

Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, Vì danh dự của Người (Tv 23,1- 3)

7. Hãy theo tôi

Trong thế chiến thứ hai, những pháo đài bay từ Mỹ đến đảo Saipan ở Thái Bình Dương. Mỗi máy bay được hướng dẫn bởi một chiếc xe Jeep nhỏ với một tín hiệu: “Hãy theo tôi.” Rồi chiếc xe dẫn đường cho chiếc máy bay khổng lồ đến điểm đáp được chỉ định ở đường băng trên đảo. Một phi công trẻ nhận xét về chiếc xe Jeep: “Tôi không phải là một người sùng đạo, nhưng chiếc xe Jeep và tín hiệu kỳ lạ của nó nhắc tôi về Chúa Giêsu. Mặc dù Ngài chỉ là một bác nhà quê nhỏ bé, ốm yếu, nhưng các nhân vật lớn trong thời đại chúng ta sẽ bị hư mất, nếu không có sự hướng dẫn của Ngài.”

Điều gì ngăn cản tôi theo sát Chúa Giêsu hơn? Chúa Giêsu sẽ nói gì với chúng tôi về điều đó?

Chúa Giêsu hằng sống vẫn có hai tay: một tay để chỉ đường, và một tay để nâng đỡ ta suốt chặn đường (T.W.Mason).

THỨ TƯ - Ðức tin là ánh sáng

Lời Chúa: Ga 12, 44-50

Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Đấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Đấng đã sai Ta.

Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.

Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Đấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy.”

TRUYỆN KỂ

1. Có đủ ánh sáng cho mỗi bước đi

Chú bé cùng với bố đang đi trên con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ. Bóng đêm trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi, chiếc đèn này chỉ chiếu sáng có chíu xí trên đường, con sợ quá!” Bố đáp: “Con ạ, ánh sáng này đúng là hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi tới cuối đường.”

Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi. Và ta cũng chỉ cần bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: Ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sáng đó đủ soi cho ta đến cuối đường đời.

2. Ánh sáng cần có trước

Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất.

Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng ta mới thấy được sự vật chung quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi trong đêm tối.

Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được và sẽ chết dần mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).

3. Hãy bật sáng lên

Tại nhà thờ nọ, trong một buổi tối giảng tĩnh tâm, có hàng ngày tín hữu đến tham dự, nhằm khuyến khich con cái Chúa biết chiếu sáng lòng tốt của mình ra cho mọi người, linh mục thuyết giảng ra lệnh cho tắt hết các đèn trong nhà thờ.

Trong giây lát, bóng tối bao trùm cả nhà thờ. Cha nói:

- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Tất cả những ai nhìn thấy ánh sáng của que diêm này, xin hô lên rằng mình thấy nhé!

Cả nhà thờ to lớn, song chỉ ánh sáng một que diêm nhỏ, ai cũng nhìn thấy nên đồng thanh hô to:

- Thấy!

Cha liền giải thích:

- Bất cứ hành động nào của lòng tốt cũng đều tương tự như thế. Một nguồn sáng dù nhỏ cũng có thể chiếu sáng ra giữa muôn ngàn tội lỗi xấu xa của nhân loại. Một hành động của lòng tốt dù thật nhỏ, cũng vẫn được phơi bầy trước Chúa và loài người.

Kế đến, linh mục cho phân phát mỗi người một que diêm và bảo:

- Bây giờ mỗi người hãy đốt que diêm lên!

Trong giây lát, bóng tối trong nhà thờ đã nhường chỗ cho ánh sáng tỏa ra từ những que diêm li ti khiến nhà thờ tràn ngập những ánh sáng lung linh một cách kỳ diệu. Vị linh mục kết luận:

- Hãy coi đó, dù nghèo nàn về phần thiêng liêng, chúng ta cũng có thể đánh bại bóng tối tăm của tội lỗi và chiếu sáng cả thế giới bằng tình yêu và sự thánh thiện của mình.

4. Ánh sáng bởi tình yêu

Một vị đạo sĩ nọ một lần kia hỏi các học trò của mình như thế này:

- Bằng cách nào người ta có thể xác định rõ, lúc nào là lúc chấm dứt đêm tối và bắt đầu ánh sáng ban ngày ?

Một học trò đáp:

- Đó là lúc mà ta nhìn một con vật ở đàng xa và ta có thể biết đó là một con cừu hay một con chó.

- Không đúng - Vị đạo sĩ trả lời.

Một học trò khác thưa:

- Đó là lúc mà ta nhìn một cây lớn ở đàng xa và có thể biết đó là một cây vả hay một cây đào!

Một lần nữa vị đạo sĩ cũng lắc đầu và nói:

- Không phải.

- Thưa thầy, vậy thì đó là lúc nào ? - Các học trò xôn xao hỏi.

Vị đạo sĩ giải đáp:

- Đó là lúc mà bạn nhìn lên khuôn mặt của bất cứ ai, bạn cũng nhận ra người ấy là anh em của mình. Vì nếu bạn không nhận ra như vậy thì bất luận đó là giờ nào, đó cũng là bóng tối thôi.

5. Ánh sáng là thuốc chữa trị

Mới đây, một bệnh viện thuộc trường đại học y khoa Stanford bên Hoa Kỳ đã sáng chế ra một loại cửa sổ nhân tạo đặt trong các phòng hồi sức, nhằm giúp cho bệnh nhân chóng được hồi phục. Người vẽ kiểu cho loại cửa sổ nhân tạo này là một người chuyên chụp ảnh ở tiểu bang California. Khi chăm sóc cho người cha ruột của mình trong bệnh viện, ông đã chứng kiến cảnh thoi thóp thở của cha mình, khi nhìn lên trần nhà của phòng hồi sức. Nhìn lên trần nhà ấy người ta chỉ thấy toàn một màu trắng với những lỗ đen. Các bác sĩ ở đấy cho biết, vì phải nằm lâu ngày trong căn phòng thiếu cửa sổ, thiếu ánh sáng tự nhiên, nên không những bệnh nhân khó hồi phục mà còn để lộ ra những triệu chứng của bệnh tâm thần.

Nhưng rồi với những cánh cửa sổ nhân tạo được ráp mới, nhờ một hệ thống điện toán tinh vi, bệnh nhân có thể cảm thấy như đang tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài. Trong 24 giờ đồng hồ, ánh sáng trên khung cửa nhân tạo thay đổi 65 lần. Bệnh nhân có thể nhìn thấy ánh mặt trời lên cũng như những áng mây bay qua khung cửa. Những bệnh nhân tuy nằm trong phòng hồi sức nhưng vẫn cảm thấy mình như gần gũi với thiên nhiên. Họ thấy bớt cô đơn và nhờ đó mà họ mau bình phục.

Trong tương lai gần đây, người ta cũng có thể tạo ra cảnh trăng lên cũng như những vì sao lấp lánh trên khung cửa.

6. Thiên đàng được Chúa mời gọi

Cha Đinh Quang Thịnh kể truyện:

Trong lớp giáo lý Dự Tòng, có anh T, đến ngày anh chuẩn bị cưới vợ, nên rất cần tiền, chẳng những để tổ chức đám cưới mà còn muốn có căn nhà cho vợ chồng xum họp.

Lần kia, anh đang ngồi uống cà phê với bạn tại một quán cóc, thình lình có một em bé cầm mấy tấm vé số đi tới, không hiểu lý do nào em vấp ngã, làm tung vé số vào người anh T, em vội vàng xin lỗi anh, trong lúc nhặt mấy tấm vé số lên, em nói: “Chú ơi, chắc là mấy tấm vé số này Trời muốn cháu đưa cho chú, chú sẽ gặp may.” Nhưng anh T quắc mắt xua đuổi: “Xạo mày, trúng thì giữ lấy mà xài đừng quấy rầy tao.” Em lại cố năn nỉ: “Chú thương mua giúp để cháu kịp giờ về đi học”, nhưng anh T quay đi nơi khác buông lời cộc lốc: “Cút đi!”

Thấy vậy, bạn anh liền nói: “Thôi để chú mua giúp cho.” Chiều hôm đó, sau giờ mở số, anh bạn trúng độc đắc thật, quá vui mừng nên gọi điện cho anh T và khoe: “T à, mấy tờ vé số sáng nay cậu không mua, tớ mua trúng rồi nè. Cậu cám ơn Trời cho tớ nhé.” Nghe được cú điện thoại, T sững sờ và vô cùng hối hận, tự vò đầu bứt tai than thân trách phận: “Trời ơi sao mình ngu thế, đúng là thần tài đến nhét tiền vào tay mình mà lại khước từ.”

Lúc ấy, T nghe như tiếng em bán vé số còn đang dội lại lời mời làm xé nát tim T và, tự kết án mình quá ngu! Đó chỉ là chuyện vé số may rủi, dù có trúng độc đắc tậu được biệt thự lớn chăng nữa, thì cũng chưa chắc gì hạnh phúc, có khi vì đó mà lại mang họa! Thế mà còn làm cho T ray rứt, xót xa vì sự ngu đần của mình.

Kẻ nào quyết liệt xua đuổi ánh sáng Tin Mừng Cứu Độ, không kết hợp với Chúa Giêsu, là Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12), thì ngày ra khỏi thế gian, nó tự lên án mình cách chua xót hơn người khước từ mua vé số, vì để người khác mua, họ lại trúng.

7. Để Chúa soi sáng và thành đạt

Kaka, cầu thủ đắt giá nhất một thời, thường tuyên xưng niềm tin trên sân cỏ như làm dấu thánh giá, mặc áo có dòng chữ “Tôi thuộc về Chúa Giêsu”… Kaka kể rằng Chúa đã cứu anh trong một tai nạn hồi nhỏ: “Lẽ ra tôi đã trở thành người tàn phế, nhưng Chúa đã tặng tôi cuộc sống hạnh phúc và sự nghiệp thành công như bây giờ.” Anh cũng thú nhận nếu không có niềm tin vào Chúa, anh đã sa ngã vào những đêm ăn chơi cùng bạn bè tại Milan.

Tựa như với Kaka, ánh sáng của Đức Giêsu xua tan cảnh hỗn mang trong tâm hồn, giúp ta không còn bị xâu xé bởi những đam mê vô độ, những dục vọng hỗn loạn. Ánh sáng ấy cũng soi sáng cho ta nhìn thấy những thực tại của cuộc đời đúng với giá trị thật của chúng, không còn bị che đậy bởi những hào nhoáng giả tạo bên ngoài.

Khi bạn nhìn về mình, có cái nhìn khách quan của người khác, có cái nhìn chủ quan của chính mình. Nhưng chỉ có cái nhìn của Chúa về bạn mới chính xác, không có gì ẩn khuất, che đậy được nữa. Bạn chỉ biết rõ và chính xác về mình nhờ soi dưới ánh sáng của Chúa Giêsu – chẳng hạn qua những tiêu chí của người môn đệ trong Tin Mừng.

8. Chúa là ánh sáng giữa nhân loại

John Donne viết bài thơ về một người được nghe kể rằng Thiên Chúa sống trên một ngọn núi ở tận cùng trái đất. Có người kia đi đến ngọn núi và bắt đầu cuộc hành trình leo lên đỉnh núi. Chính lúc đó, Thiên Chúa nghĩ: “Ta có thể làm gì để cho dân Ta thấy Ta yêu thương chúng sâu sắc thế nào?” Thiên Chúa quyết định đi xuống núi và sống giữa mọi người. Vì vậy, khi người kia lên tới đỉnh núi, thì Thiên Chúa không có ở đó. Anh ta nghĩ: “Thiên Chúa không sống ở đây, và ngay cả có lẽ Ngài không hiện hữu.”

Ý của Donne là chúng ta thường tìm Thiên Chúa không đúng chỗ, mà quên rằng Ngài từ trời xuống và sống giữa chúng ta.

Trước kia tôi đã tìm Thiên Chúa ở đâu? Hiện giờ tôi tìm Ngài ở đâu? Tương lai tôi có thể tìm Ngài ở đâu?

Thiên Chúa định cư bất cứ ở đâu chúng ta để Ngài vào (Ngạn ngữ Do thái cổ).

THỨ NĂM - Củng cố đức tin

Lời Chúa: Ga 13, 16-20

Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì có phúc.

Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ, trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy."

TRUYỆN KỂ

1. Thật phúc cho anh em

Khi giảng cho các Giám mục Anh Giáo, ông Jean Vanier có kể câu chuyện như sau xảy ra tại cộng đoàn của ông, một cộng đoàn được lập tại nước Pháp để giúp những người cơ nhỡ.

Nhà ông có nhận nuôi anh Eric, 16 tuổi, vừa mù lại vừa điếc. Anh không đi được, không muốn ăn, chỉ quậy phá và muốn chết. Anh thật là mối kinh hoàng cho những ai phải chăm lo cho anh. Làm sao để anh yêu cuộc sống này?

Làm sao để anh thấy mình được yêu và đáng quý, bất chấp những khiếm khuyết của mình? Tìm đâu thứ ngôn ngữ để một người vừa mù vừa điếc hiểu được điều ấy?

Ông Jean Vanier có nhiệm vụ tắm cho anh mỗi sáng. Và ông đã tìm ra được thứ ngôn ngữ mà anh hiểu được, cảm được, thứ ngôn ngữ của bàn tay, ngôn ngữ của thịt.

“Lời đã thành thịt, để thịt của chúng ta thành lời,” ông đã nói như thế. Khi Thầy Giêsu chạm tay của mình vào chân các môn đệ để rửa với sự trân trọng và yêu thương, chắc họ đã cảm được thứ ngôn ngữ không lời đó. Kinh nghiệm được Thầy rửa chân là kinh nghiệm chẳng thể nào quên. Thầy muốn các môn đệ tiếp tục làm điều Thầy đã làm:

“Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 15).

2. Chỗ cho đức khiêm nhường

Chúng ta không còn nghe nói đến những nhân đức Kitô giáo nữa hay cả đến những nhân đức thường nữa. Tất cả mang tiếng xấu. Chúng không còn chỗ trong văn hóa của chúng ta. Thời nay sống khiêm nhường khó biết bao! Hãy nhìn xem: Để được thăng cấp, phải tự đặt giá trị của mình nổi lên. Mọi kiểu đánh giá đều được đặt trên sự cạnh tranh và tham vọng. Người ta còn tính rằng để sống, cần phải đè nén và hạ bệ người khác để cho mình lên. Làm sao sống khiêm tốn trong một thế giới văn minh tôn sùng minh tinh, thần tượng, siêu sao, thị trường, thời trang …

Chúa nói đến đức này bằng hành động và giải thích. Bằng hành động: Trước lễ vượt qua, Người rửa chân cho các môn đệ. Đức Giêsu đã làm tôi tớ, Người có mục đích sẵn sàng phục vụ người khác. Nhưng chúng ta lại quên cử chỉ của Đức Giêsu ngay sau lễ chiều thứ năm tuần thánh. Chúng ta đã mừng lễ rất tốt, nhưng chúng ta trước và sau lễ chẳng sống chút gì với Thánh lễ.

Bằng lời nói, Đức Giêsu lưu ý chúng ta đến đức khiêm nhường: “Tôi tớ không lớn hơn chủ. Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai bảo."

3. Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ

Tình thương Chúa đã trao ban một cách trọn vẹn, nhưng con vẫn có thể đón nhận hoặc chối từ. Điều đó đã xảy ra nơi nhóm Mười Hai, là những người được Chúa săn sóc một cách đặc biệt. Ông Giu-đa đã trở thành kẻ phản bội vì từ chối yêu thương, còn các tông đồ khác, dù có yếu đuối lỗi lầm, nhưng vẫn một lòng trung thành với tình yêu của Chúa.

Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng? Con tin chắc Chúa không lầm khi Chúa chọn ông Giu-đa. Và con tin chắc Chúa không lầm khi Chúa chọn con. Vì đó là chương trình Chúa thực hiện ơn cứu độ. Chúa đã chọn gọi con, con đã dứt khoát đứng về phía Chúa khi gia nhập Giáo Hội, khi con tuyên xưng niềm tin vào Chúa. Nhưng có những lúc con đã lạm dụng tự do Chúa ban để không chọn Chúa, để chối từ tình thương Chúa. Đồng thời con cũng chối từ sống yêu thương anh em. Con đã chối từ hạnh phúc khi chối từ tình yêu. Con đã chọn đau khổ khi cố tình sống ngoài tình yêu.

Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con sống trong tình yêu Chúa. Xin đừng để con lạm dụng tự do để phản bội Chúa. Và nếu con có yếu đuối lỡ lầm, xin cho con biết tin tưởng trở về với Tình Yêu. Amen.

4. Phục vụ Chúa trong anh em.

Thánh Biển Đức căn dặn các đan sĩ: “Khi anh em đón tiếp và phục vụ khách, thì không phải anh em đang đón tiếp và phục vụ khách, mà là cung kính đón tiếp chính Đức Kitô ở trong khách." Và Đức Giêsu cũng đã đồng hóa chính Ngài hiện thân trong mọi mảnh đời khi Ngài nói về ngày phán xét chung: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).

Như thế, khi ý thức được Chúa ở trong mọi người, thì chúng ta không thể nổi giận cau có với “Chúa” được, mà là một sự kính trọng và chu đáo như Mattha và Maria đã đón Chúa vào nhà mình. Thấy Chúa trong anh em thì chúng ta sẽ dễ tôn trọng và yêu thương nhau...

5. Khai sinh hội bác ái Vinh Sơn.

Khoảng năm 1883, dưới sự lãnh đạo của một thanh niên Ozanam, 8 thanh niên Công giáo trường đại học Paris thường gặp nhau để thảo luận chiến thuật bảo vệ Giáo hội đang bị tấn công tứ phía. Những buổi thảo luận đã diễn ra suốt một năm, nhưng chưa đưa đến một hành động nào. Tình cờ 8 sinh viên nghe một lời thách thức của kẻ chuyên chống phá Giáo hội:

 “Các anh luôn nói đến công lao Giáo hội của các anh trong quá khứ, nhưng Giáo hội các anh bây giờ đã chết rồi. Nếu các anh bảo Giáo hội vẫn đang sống, hãy chứng minh đi. Một năm qua, tôi chỉ thấy các anh thảo luận tranh cãi nhau bằng môi mép, nhưng chưa thấy một hành động cụ thể nào."

Lời thách đố ấy được 8 sinh viên Công giáo tiếp nhận như một bài học quí giá. Buổi chiều hôm đó, thay vì thảo luận, hành động đầu tiên của họ là thu nhặt số củi khô dùng để sưởi ấm ở phòng trọ và họ còn mang biếu cho người nghèo đang rét run tại phòng bên cạnh vì không có tiền để mua chất đốt.

Đó là buổi chiều đầu tiên khai sinh hội Bác ái Vinh Sơn chuyên hoạt động giúp đỡ người nghèo theo tinh thần thánh Vincent de Paul. Những người tiên phong của hội này hiểu rằng: Người tín hữu Kitô không thể bênh vực Giáo hội bằng những lời nói suông mà phải bằng chính những hành động cụ thể, bằng chính cả cuộc sống của họ.

6. Bài học Đón Nhận

Trong khung cảnh bữa tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học yêu thương và phục vụ, Chúa Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho mọi Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy; và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy."

“No man is an island”, đó là tựa đề một quyển sách (Không ai là một hòn đảo). Ai sống cũng có những người khác sống chung quanh. Cuộc sống đầy những dịp gặp gỡ. Khi tôi đến gặp ai, nếu người ta lạnh nhạt với tôi, tôi có khó chịu không? Thế thì tại sao khi người ta đến với tôi, tôi lại không đón nhận. Huống chi Chúa Giêsu còn muốn tôi coi những người đến với tôi là do Chúa sai đến.

7. Gặp Chúa trong đời

Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.

Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy cám ơn và tiếp tục công việc.

Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.

Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh. Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.

Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh: “Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay."

8. Yêu như Chúa yêu

Edith và Kelo lấy nhau đã hai mươi ba năm nhưng họ vẫn không có con. Dầu vậy tình yêu giữa hai người luôn đằm thắm. Mỗi lần đi công tác, người chồng luôn viết thư và gửi quà về cho vợ. Tháng 2/1950, Kelo được gửi đi công tác tại Nhật Bản. Lần này, Kelo không gửi quà về cho vợ nữa. Người vợ nghĩ rằng, chồng cần dành tiền để mua một ngôi nhà mới chăng.

Tháng ngày trôi qua, cứ mỗi lần người vợ mong chồng về nhà thì bà lại nhận được một lá thư, trong đó, người chồng báo tin là sẽ nán ở lại một vài tuần nữa. Vài tuần rồi một tháng, thời gian chờ đợi ngày càng dài hơn và những cánh thư cũng bắt đầu thưa dần.

Bẵng đi một thời gian, người vợ nhận được một lá thư trong đó chỉ có vỏn vẹn vài chữ. Như một hồi chuông báo tử, người chồng cho biết ông muốn được ly dị để cưới một cô gái Nhật Bản tên là Aikô, mười chín tuổi. Chờ cho những cảm xúc ban đầu lắng dịu, Edith bắt đầu hồi tâm lại, bà nghĩ rằng, chồng bà không vượt qua được nỗi cô đơn vì xa vợ quá lâu, nhưng ông đã tỏ ra thành thực và can đảm xin ly dị để cưới cô gái hơn là lợi dụng cô.

Bà Edith xây dựng cuộc sống còn lại trên sự cảm thông cao độ ấy. Thế là bà viết thư cho chồng và xin ông đừng cắt đứt liên lạc với bà. Không bao lâu, bà nhận được tin của người chồng cũ, ông cho biết ông đã có được hai đứa con gái. Bà Edith liền gửi quà mừng.

Trong những lá thư sau, Kelo kể đủ mọi chuyện cho người vợ cũ của mình biết: nào là về gia đình ông, nào là vợ ông đã tiến bộ trong việc học Anh ngữ, nào là ông đã giảm ký và đứa con gái nhỏ của ông đã mọc thêm mấy cái răng.

Nhưng rồi một ngày kia một lá thư khủng khiếp nhất đã đến tay bà: Kelo cho biết ông đang chờ chết vì bệnh ung thư phổi. Những lá thư cuối cùng của ông đầy nước mắt, không phải cho ông mà là cho Aikô và hai đứa con gái của ông. Ông đã dành dụm đủ tiền để gửi con sang Mỹ học, nhưng bệnh tật đã ngốn hết số tiền ấy.

Sau khi Kelo qua đời, Edith viết thư ngỏ ý bảo lãnh hai đứa con gái riêng của ông sang Mỹ. Edith đón nhận hai đứa con của người chồng cũ như chính con của mình. Mãi đến tuổi năm mươi, bà mới biết thế nào là làm mẹ. Giờ đây, sau khi tan sở, bà có đủ lý do để vội vã về nhà. Trong khi đó, vì thương con, Aikô cũng thường xuyên liên lạc với Edith. Edith chợt hiểu rằng, người mẹ này hẳn cô đơn vì nhớ con, bởi thế nên Edith quyết định bảo lãnh cho Aikô sang Mỹ.

Tháng 8/1957, Aikô nhận được giấy nhập cảnh. Khi máy bay đáp xuống phi trường quốc tế New Yord, tự nhiên Edith cảm thấy lo sợ: bà sợ bà không vượt qua được sự thù ghét đối với người đàn bà ngoại quốc đã cướp mất chồng bà. Vị hành khách cuối cùng ra khỏi máy bay là một người thấp bé, mảnh khảnh đến độ Edith tưởng chỉ là một cô bé. Bà gọi tên Aikô và người đó chạy đến ngả vào cánh tay của bà. Hai người ôm ghì lấy nhau thật lâu. Ý nghĩ phi thường chợt đến với Edith:

“Tôi đã cầu nguyện cho Kelo trở về với tôi, giờ đây chồng tôi đang hiện diện trong hai đứa con gái nhỏ và người đàn bà dịu dàng mà ông đã từng yêu thương. Lạy Chúa, xin giúp con yêu thương người đàn bà này."

Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Yêu thương thật sự là yêu thương cho đến khi nào cảm thấy bị tổn thương."

9. Xin cho con “nhỏ” hơn Thầy!

Suy niệm: Để lập cộng đoàn Emmau chuyên đón tiếp và nuôi dưỡng những người vô gia cư tại Pháp, cha Pierre đã chịu bao khổ nhục cay đắng. Khi được hỏi muốn ghi câu gì trên mộ của mình, cha trả lời: “Xin đề trên mộ tôi câu này: nơi yên nghỉ của một người đã cố gắng yêu thương.” Cuộc đời của cha chỉ muốn được hoạ lại lý tưởng yêu thương theo mẫu gương của Thầy mình là Đức Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo việc Đức Giêsu “cúi xuống” rửa chân cho các môn đệ. Ngài muốn dạy cho ta sự cao trọng trong Nước Trời không do làm các việc vĩ mô to tát, nhưng do những nghĩa cử phục vụ bình thường, nhỏ bé trong cuộc sống. Con đường phục vụ, “cúi xuống,” hạ mình của ông Thầy cũng phải là con đường của các môn đệ.

Mời Bạn: Nhiều Kitô hữu hôm nay lại thực hiện Lời Chúa theo cung cách “lộn ngược”: mình quá cao trọng vì chức vụ này, chức thánh kia, nên không thể nào làm những việc phục vụ nhỏ nhặt, tầm thường! Trong xã hội cũng như các sinh hoạt của giáo xứ, dòng tu, lắm khi ta đùng đùng giận dữ và phản ứng chỉ vì cảm thấy không được coi trọng, không được đặt để vào chức vụ tương xứng với khả năng (theo chủ quan) của mình. Thế là bài học ông Thầy quỳ xuống rửa chân cho môn đệ mất tác dụng mà chỉ còn là một kỷ niệm đẹp của Tuần Thánh!

10. Muốn làm lớn

Trường đại học Eastern Mennonite đưa ra mục quảng cáo lạ tai như sau lên tạp chí “Đời sinh viên.” Sau khi mô tả người thời nay đang nổ lực thế nào để “làm lớn”, mục quảng cáo lưu ý rằng điều đó cũng tương tự như vào thời Chúa Giêsu: ngay cả các môn đệ Ngài thân tín nhất của Ngài cũng muốn làm lớn. Trong bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu nói một câu hết sức ấn tượng về thái độ này, và Ngài nói bằng hành động cũng hết sức ấn tượng: Ngài lấy khăn thắt lưng và rửa chân cho các môn đệ. Nói khác đi, Ngài đã minh họa lời nói của Ngài bằng gương sáng. Hễ ai muốn làm lớn, thì phải làm người phục vụ. Mục quảng cáo kết luận: “Vậy nếu bạn muốn làm lớn, hãy đến và học nơi trường chúng tôi.”

Tại sao tôi muốn “làm lớn/”

Gương mẫu không phải là điều chính yếu trong cuộc sống, nhưng lại là điều duy nhất. (Albert Scheweitzer)

11. Đón tiếp Đấng đã sai Thầy

Một nữ sinh nói với một người bạn: “Tôi tin Thiên Chúa và tôi tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng tôi không tin Giaó hội.” Người bạn của cô nói: “Không thể như thế được! Bạn không thể tách rời Chúa Giêsu khỏi Giaó hội. Cả hai là một, như Chúa Giêsu và Chúa Cha là một. Trong ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã đến và làm cho Chúa Giêsu và các môn đệ Ngài thành một thân thể duy nhất, là Giaó hội.”

Tôi có khuynh hướng tách rời Chúa Giêsu khỏi Giaó hội như thế nào? Tại sao?

Bạn không thể có Thiên Chúa là Cha, nếu không có Giaó hội là Mẹ (Thánh Augustinô).

THỨ SÁU - Ðường về quê trời

Lời Chúa: Ga 14, 1-6

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi đâu, các con đã biết đường rồi."

Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?"

Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy."

TRUYỆN KỂ

1. Đường sự sống

Đức Phật bi quan vì thấy con người đắm chìm trong vòng xoáy khắc nghiệt của sinh, lão, bệnh, tử. Nên Phúc, Lộc, Thọ mãi mãi là niềm mơ ước của con người. Mơ ước chỉ là mơ ước. Vì chưa ai tìm ra con đường đến được nơi ước mơ. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su loan báo một lời làm nức lòng con người. Sáng lên niềm hi vọng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống." Chúa là đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chúa là sự thật. Đi theo Chúa ta không lo bị lầm lạc. Chúa là sự sống. Sống với Chúa ta không bao giờ chết. Và còn hơn nữa ta sẽ được hạnh phúc. Vì đó là thiên đàng. Thiên đàng là nơi Chúa Giê-su ở với Chúa Cha. Đây không còn là ước mơ. Nhưng là hiện thực. Vì chính Chúa chuẩn bị chỗ cho ta ở thiên đàng. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó."

Tuy nhiên đi theo Chúa không phải dễ dàng. Vì có những thế lực ma quỷ luôn tìm cách chặn đường. Bằng gian dối. Bằng chết chóc. Chính Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để mở ra con đường sự thật và sự sống.

2. Ðường về quê trời

Khi tìm giải đáp cho một bài đố tìm đường từ một khởi điểm dẫn tới một địa điểm được yêu cầu thì người tham dự thường lúng túng, vì có quá nhiều đường có thể dẫn tới nơi nhưng thực sự lại dẫn đến ngõ cụt. Nhưng nếu tinh ý quan sát một chút, người ta có thể thấy công việc tìm kiếm dễ như trở bàn tay. Ðó là thay vì bắt đầu từ điểm khởi hành với nhiều ngõ rẽ, chúng ta hãy bắt đầu từ nơi đến rồi đi ngược lại. Với phương pháp này ta sẽ dễ dàng tìm ra con đường ngắn nhất dẫn đến nơi phải đến.

Như vậy, điều quan trọng không phải là biết đường không mà thôi, mà còn là và nhất là biết nơi mình đến, cần biết nơi mình đến trước khi bắt đầu đi. Khi hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết đường đi tới", thánh Thomas tông đồ đã lý luận theo cùng một nguyên tắc như nói trên.

3. Dọn chỗ cho anh em

Khi chúng ta có những dự tính tương lai, khi chúng ta mơ ước về ngày mai, chúng ta rất hay hy vọng tìm được một chỗ tốt nào đó cho mình gửi tấm thân tàn để sống những ngày còn lại. Hay một ngôi mộ yên mả đẹp cho nắm xương tàn.

Ngày nay, người ta đang hy vọng xây những dẫy nhà chung cư tiện nghi để giải quyết những nhà ổ chuột cho hàng ngàn gia đình. Ai cũng mong muốn có một chỗ ở mới, những láng giềng lân cận tốt. Ai cũng khao khát được ở ngôi nhà của riêng mình với những tiện nghi theo kiểu mới, hợp thời trang, giữa khu vườn có phong cảnh lý tưởng.

Nhưng có biết bao gia đình không bao giờ tìm được một nơi ở tương xứng cho gia đình vì quá nghèo và giá cả quá mắc.

Tin mừng hôm nay dắt đưa chúng ta đến xem kế hoạch của Thiên Chúa đang dọn một chỗ ở mênh mông tráng lệ cho con người. Ngài là kiến trúc sư muôn đời, là sở hữu chủ vô biên.

4. Triết gia Diogène bán sự khôn ngoan.

Một ngày nọ, triết gia Diogène của Hy Lạp đã đến giữa chợ Athènes và dựng lên một căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: “Ở đây có bán sự khôn ngoan."

Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời rao bảo, mới cười thầm trong bụng... Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì, ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi là sự khôn ngoan.

Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của chủ... Anh đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy 3 hào bỏ vào tủi, triết gia Diogène nói với người đầy tớ một cách trang trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích."

Vị khoa cử thành Athènes vô củng thích thú vì lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất cả nhưng ai đi qua trước nhà ông đều có thể đọc thấy.

5. Sống gửi thác về

“Sinh ký, tử quy” sống là gởi, chết là về. Đời này không phải là quê hương mà chỉ là nơi chúng ta gởi thân trong một khoảng thời gian nào đó. Khi chết, chúng ta sẽ về quê hương thật. Đó là chân lý. Nhưng nhiều người quên hẳn chân lý đó. Họ sống ở trần gian như là đang ở quê hương vĩnh viễn, không hề nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái “Ký túc xá” này, không hề nghĩ tới nơi mình sẽ về.

Một người nói chuyện với bạn là một Kitô hữu đã già: “Tôi sợ rằng anh gần đất xa trời rồi." Người kia nhẹ nhàng đáp: “Tôi biết chứ, nhưng nhân danh Chúa tôi không sợ, mà tôi còn đặt hy vọng vào đó."

6. Câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất

Một Kitô hữu già cả sắp chết. Một người đến nói:

- Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất nhé!

- Vâng.

- Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ… Ta đi dọn chỗ cho các con. (Ga 14,2)

- Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất, đọc tiếp đi.

- Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu thì con sẽ ở đó với Ta (Ga 12,26).

- Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần không phải là một chỗ, mà là chính Chúa.

7. Không quên mục đích

Jules César, một tướng lĩnh lừng danh của Rôma thời xưa...khi vượt biển sang Phi Châu, lúc đặt chân lên đất đã bị trượt chân và bị té ngã. Cảm giác đầu tiên là ông sợ hãi nên đâm ra lo lắng... sợ rằng, đây là một điềm xấu gì chăng. Thế nhưng, sau đó, César đã bình tĩnh lại ngay, ông giơ tay lên và kêu to như để thức tỉnh chính mình.

- Hỡi Phi Châu! Ta ôm lấy mi!

Và cuối cùng, vì cái té ngã bất ngờ đó mà ông đã chiến thắng và được hiển vinh.

Chúa Giêsu đã quả quyết “Nước Trời phải dùng sức mạnh mới chiếm được”

8. Cùng gian khổ, cùng vinh quang

Năm l796, chiến tranh giữa Pháp và Liên Minh Ý-Áo, Đại tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua trận tuyến của địch.

Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:

- Ai yêu tổ quốc thì theo ta.

Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta thấy chỉ có một mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn theo qua cầu. Bonaparte toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.

8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:

- Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!

Ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu rỗi.

9. Cầu nguyện và việc bổn phận

Kẻ làm việc hăng hái mà không làm đúng bổn phận phải làm hay làm việc phụ mà bỏ việc chính, đó là kẻ đi trật đường Chúa thiết lập! Thánh Phaolô nhắc nhở môn đệ Timôthê: “Con hãy tránh xa những người: hình thức của Đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2Tm 3, 5); thánh Augustin phê bình: “Họ chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất rồi.” Đó cũng là lý do mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở cho hàng giáo sĩ: “Một nỗi nguy thường xuyên nơi các giáo sĩ, là họ quá năng nổ trong công việc của Chúa, mà quên mất Chúa là Chủ của công việc.”

Vậy mỗi buổi mai ta hãy cầu nguyện với Chúa là đường dẫn ta đi từng ngày, cho ta biết phải đi đâu, làm việc gì cho đúng ý Ngài. Có thế mọi việc ta làm mới tôn vinh Thiên Chúa (x 1Cr 10, 31), xứng đáng là con Thiên Chúa, như Ngài nói với ta trong Chúa Giêsu khi ta lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2, 7: Đáp ca).

10. Đi theo con đường Kitô

Cuộc đời chúng ta gắn liền với những con đường. Đó có thể là con đường phố với đèn xanh đèn đỏ, hay con đường quê, đường núi nơi các buôn làng, hoặc “vô hình” hơn, đó có thể là những con đường biển, đường hàng không. Những con đường đó, chúng ta sẽ bỏ lại sau lưng một khi chúng ta đã đi qua chúng. Lại có những con đường gắn liền với cuộc sống, chạy xuyên suốt cuộc đời, là chính cách ăn nết ở của chúng ta. Có khi đó là con đường tội lỗi của cuộc sống gian dối bất công. Có khi đó là con đường lành thánh của cuộc sống lương thiện và nhân ái. Chính theo nghĩa này mà Chúa Giêsu nói Ngài là “con đường, là sự thật và là sự sống.”

Con đường của Chúa bao hàm lời mời gọi kết hiệp với Ngài để đồng nhất cuộc sống mình với cung cách sống của Chúa, và cùng đi con đường thập giá để cùng sống với Ngài trong cuộc phục sinh vinh quang.

Con đường nào dù có tốt mấy đi nữa cũng không thể đưa bạn đến đích nếu bạn cứ ngồi lỳ không chịu theo nó mà bước tới. Chúa Giêsu là con đường đưa đến sự Thật toàn vẹn và sự Sống vĩnh cửu cũng mời gọi bạn làm môn đệ của Ngài nghĩa là đi theo con đường thập giá của Ngài. Con đường mang tên Kitô đó đã trở thành con đường của bạn, con đường cho bạn chưa?

11. Thầy sẽ lại đến

Sau vụ đặt bom cảng Pearl Harbor vào ngày 7-12-1941, người Nhật xâm nhập Philippines. Ba tháng sau, ngày 11-4-1942, tướng Douglas McArthur buộc phải trốn khỏi Philippines. Trước khi đến Úc, ông bảo người dân trong đảo: “Tôi sẽ trở lại.” Ngày 20-10-1944, ông đã giữ lời hứa. Hạ cánh xuống đảo Leyte, McArthur nói: “Tôi đã trở lại.”

Chúa Giêsu cũng hứa sau khi rời bỏ thế gian, một ngày nào đó Ngài sẽ trở lại. Cũng như tướng McArthur, Chúa Giêsu cũng sẽ nói: “Ta đã trở lại.”

Tôi có nồng nhiệt mong đợi Chúa Giêsu trở lại như người dân đảo nồng nhiệt mong đợi McArthur trở lại không?

Nếu tâm hồn con người cống hiến cho những phù phiếm trần gian, thay vì cho Đấng sáng tạo ra nó, thì chẳng còn quy luật gì cả. (Dietrich Bonhoeffer)

12. Thầy ở đâu anh em cũng ở đó

John Peterson viết một bài thánh ca về thiên đàng, trong đó có một đoạn như sau: “Trên ngọn núi, nơi mặt trời khuất bóng, thiên đàng đang chờ đợi tôi. Trên ngọn núi, nơi mặt trời khuất bóng, tôi sẽ thấy Chúa Giêsu, Đấng cứu độ tôi.” Một nhà phê bình âm nhạc nói với Peterson: “Hãy bỏ qua ý niệm ở với Chúa Giêsu và dành thời giờ để mô tả niềm vui thiên đàng.” Dĩ nhiên, Peterson từ chối, bởi vì bản chất của niềm vui thiên đàng chính là đối diện với Chúa Giêsu.

Tôi cảm thấy thoải mái ra sao với ý nghĩ rằng mình đang trực diện với Chúa Giêsu?

Mục đích của tôn giáo không phải là đưa chúng ta vào thiên đàng, mà là đem thiên đàng vào trong chúng ta.

THỨ BẢY - Cầu nguyện nhân danh Chúa

Lời Chúa: Ga 14, 7-14

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người."

Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con." Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm.

Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho."

TRUYỆN KỂ

1. Kết hợp với Chúa, làm được mọi sự

Chúng ta nghe nói đây đó nhiều vị thánh đã làm phép lạ cách phi thường. Có nhiều đấng làm phép lạ ngay khi còn sống, chẳng hạn như thánh Giêrađô, Vinh Sơn, Mattinô...

Đứng trước những phép lạ đó, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng và ngạc nhiên! Tuy nhiên, chìa khóa để mở ra sự bất ngờ này, chính là sự kết hiệp mật thiết sâu xa giữa các thánh và Đức Giêsu. Vì thế, việc phi thường các thánh làm thực ra không phải, mà là Chúa đang hành động nơi các ngài.

2. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa.

Một vị vua nọ nảy ra ý nghĩ táo bạo, ông cho mời các lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.

Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm thế nào có thể thỏa mãn được một ước muốn càn rỡ như thế. Biết được mối lo âu của các nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo tôn giáo được làm công việc đó.

Vào một buổi sáng như đã hẹn, kẻ chăn chiên dẫn nhà vua đến đồng cỏ nơi anh ta thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe, khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và xin nhà vua nhìn.

Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thưa: “Tâu bệ hạ, chỉ một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được/”

Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không phải bằng đôi mắt trần gian, nhưng bẳng đôi mắt của niềm tin.

3. Cái bóng chữa bệnh

Có một vị ẩn sĩ sống khiêm tốn và nghèo khó. Ngày kia, một Thiên thần đến nói với ngài: “Chúa sai tôi đến gặp ngài, ngài có thể xin bất cứ điều gì ngài muốn. Vậy, ngài có muốn được ơn chữa bệnh không ?” Vị ẩn sỹ trả lời: “Không, thà để chính Chúa chữa trị thì tốt hơn." Thiên thần lại đề nghị: “Hay ngài có muốn trở thành mẫu gương để người khác nhìn vào mà sống tốt đẹp hơn không ?” Vị ẩn sỹ khiêm tốn nói: “Không, bởi thế tôi sẽ trở thành trung tâm của sự chú ý."

Cuối cùng Thiên Thần nói: “Ít nhất ngài nên xin một điều gì đó vì Chúa muốn thế."

“Vâng, tôi xin điều này: xin cho mọi việc thiện được thực hiện qua tôi mà tôi không hề hay biết." Thế là lời ước của vị ẩn sỹ thành hiện thực, Thiên Chúa ban cho cái bóng của Ngài có được mọi quyền năng. Nơi nào có bóng Ngài đi qua người bệnh được chữa khỏi, niềm vui thay cho sầu khổ và đất đai trở thành phì nhiêu. Nhưng ẩn sỹ không hề hay biết điều đó, vì dân chúng chỉ chú ý đến cái bóng, đến độ quên hẳn Ngài.

Xin cho con biết sống như Thánh Gioan Tẩy giả “Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi."

4. Khao khát sẽ thấy

Một môn đệ nọ đến trước mặt sư phụ mình và cung kính xin sư phụ của mình chỉ cho anh biết cách tìm thấy Chúa. Vốn là một học giả uyên thâm, ông thầy chỉ mỉm cười mà không nói gì cả. Một hôm, nhân lúc trời nóng bức, thầy trò liền rủ nhau ra sông tắm. Môn đệ nhảy xuống sông, vùng vẫy, bơi lội thoải mái giữa dòng nước trong. Ngắm nhìn đệ tử một lát, rồi sư phụ cũng nhảy xuống, bơi đến cạnh người môn đệ. Bất chợt ông nắm tóc anh dìm xuống dưới nước hồi lâu. Người môn đệ hốt hoảng, vùng vẫy cho đến lúc thầy mình buông ra, anh vội trồi đầu lên thở hít mạnh. Sư phụ hỏi:

- Lúc thầy dìm con dưới nước, con khao khát cái gì hơn hết ?

Môn đệ ngạc nhiên, trả lời:

- Lúc đó, con chỉ khao khát khí trời mà thôi.

Sư phụ lại hỏi:

- Vậy thì con có khao khát Chúa như vậy không ? Nếu con khao khát Chúa nồng nhiệt như thế, thì con sẽ tìm thấy Ngài. Bằng không, thì dù con có miệt mài suốt cuộc đời trên sách vở, thì cũng chẳng ích gì. Con không thể nào tìm thấy Chúa nếu con không khao khát Chúa như khao khát khí trời để sống.

5. Thấy bằng đức tin

Có một người đàn bà đạo đức nọ, suốt đời chỉ nuôi một nỗi khát khao duy nhất, đó là được xem thấy dung nhan Chúa trước khi chết.

Một đêm nọ, trong giấc mơ của bà, Thiên Chúa cho biết Ngài sẽ đến thăm bà nội trong đêm mai.

Thế là ngày hôm sau, người đàn bà đã sửa soạn nhà cửa và chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn để đón tiếp và đãi “Vị Thượng Khách."

Người đàn bà chờ đợi mãi mà vẫn không thấy Chúa đến. Đêm về khuya, buồn ngủ quá, bà đã thiếp đi trong sự chán nản. Bỗng có tiếng gọi. Bà tỉnh dậy và thấy Chúa bảo:

-Tại sao Cha đến mà con không tiếp đón Cha ?

Người đàn bà đã giải thích là bà đã ngồi chờ đợi Chúa suốt buổi tối ở trước cổng nhà.

Rồi Chúa cho bà biết Chúa đã đến nhà bà bằng cổng sau. Rồi Ngài hẹn đêm sau đó Ngài sẽ đến.

Thế là ngày hôm sau, người đàn bà đạo đức lại chuẩn bị một lần nữa với hy vọng chắc chắn lần này thế nào Chúa cũng cho được gặp Ngài. Chuẩn bị xong bà lại ngồi chờ Chúa, bà chờ mãi cho đến tối, cứ chạy ra cổng trước, rồi chạy vào cổng sau, nhưng tuyệt nhiên không thấy tăm hơi một vị khách nào cả.

Lần này cũng trong giấc mơ, Chúa lại hiện ra và trách bà. Ngài cho biết Ngài đã đến qua cửa sổ. Thế rồi lần này Ngài lại hẹn ở tại một giếng nước trong vùng.

Nghe đến đây, người đàn bà chợt nhận ra trò chơi “cút bắt” của Chúa và ngay lúc đó Ngài giải thích:

- Nếu con chỉ muốn thấy Cha ở một nơi nào đó mà thôi, thì con sẽ không bao giờ thấy Cha được ở mọi nơi. Cha cho con thấy Cha, không phải là một lần trước khi con chết, nhưng là mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút trong cuộc đời của con. Và điều kiện để con có thể thấy Cha, là con hãy từ bỏ khát vọng được xem thấy Cha bằng con mắt trần tục, vì con mắt ấy quá hữu hạn không thể nhìn thấy sự vô biên của Cha. Con chỉ có thể xem thấy Cha bằng con mắt của con tim mà thôi.

Vâng! Con người chỉ có thể thấy Thiên Chúa bằng chính đôi mắt của con tim và đôi mắt của con tim chính là đôi mắt đức tin, mà chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho con người mà thôi.

6. Chúa ở cùng người trung thực

Có ông vua kia, rất uy quyền và giàu có, ông lại không có con để truyền ngôi. Ông loan báo cho toàn dân: tất cả những em nào muốn được ta truyền ngôi vua cho, thì hãy đến ta lãnh mỗi em một hạt bắp đem về trồng.

Sau một tháng cây bắp em nào lớn nhất, thì đó là dấu em đó được ta chọn kế vị ngai báu. Thế là em nào cũng đến nhận hạt giống đem về. Trong số đó có một em hết sức chăm bón hạt giống vua trao, nhưng nó không mọc lên được. Đến hạn kỳ, các em nộp lại kết quả hạt giống đã nhận, có rất nhiều em đưa đến cho vua những cây bắp mập, lớn, lá sum suê, vua đều lắc đầu và gạt những em đó đứng qua một bên, chỉ có em trồng hạt bắp không mọc lên được, thưa với đức vua: “Con đã hết sức chăm bón nó, nhưng nó không mọc lên được!”

Lúc ấy, vua ôm lấy em và khen: “Em này quá tốt, sống rất thực thà, em đang đi trên đường sự thật, ta sẽ truyền ngôi cho.” Những em khác thấy thế phản đối, thì vua nói: “Các em có cây bắp cao lớn, tất cả đều là gian dối, vì hạt bắp ta đã luộc rồi, vậy tại sao trồng hạt bắp ta trao lại có thể mọc lên cây lớn?! Quả là một lũ gian dối mà đòi làm vua để lãnh đạo đất nước ư?!”

7. Trí khôn của ta đây

Trong câu chuyện ngụ ngôn “Trí khôn của ta đây,” người nông dân đã chỉ cho chú cọp thấy trí khôn bằng cách dùng mưu mẹo để trói cọp vào gốc cây, châm lửa đốt, rồi cho cọp thấy trí khôn là gì.

Tựa như trí khôn không thể được nhìn thấy cách tỏ tường mà chỉ có thể được nhận biết qua các việc làm, thì Thiên Chúa cũng vậy, Ngài thường tỏ mình qua hành động, qua các công trình Ngài đã thực hiện, vì Ngài là Đấng vô hình. Theo thư Do-thái, Thiên Chúa tỏ mình bằng nhiều thể nhiều cách, nhưng cách sau cùng và trọn hảo là qua chính Con Một của Ngài. Sự hiện diện trọn hảo đến mức, ai thấy Người Con là thấy Chúa Cha, và tất cả những gì Con làm, đều là hành động của Cha được thể hiện qua Con.

Chúa Giê-su không phải là con rối của Chúa Cha, nhưng nhờ sự vâng phục tuyệt đối, Ngài đã làm cho Cha được thể hiện qua cuộc đời của mình.

8. Chỉ cần có Chúa mà thôi

Có những nghệ sĩ tài hoa từ giã cuộc đời sau khi để lại một bức thư tuyệt mệnh. Có những nhà kinh doanh được coi là thành đạt với một tài sản kếch xù, một ngày nọ tự kết liễu đời mình bằng một phát súng.

Những hiện tượng đó vẫn luôn là dấu chấm hỏi thật lớn đang còn bỏ ngỏ: Tại sao? Mọi người đều khát vọng tìm đến hạnh phúc. Tại sao lại có những kết cuộc bi thảm như thế?

Đức cha Ngô Quang Kiệt lý giải điều đó qua lời chia sẻ nhân ngày lễ giỗ thân mẫu của Ngài: “Nhân loại ngày nay dù có đầy đủ tiện nghi vật chất hơn, nhưng nếu thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì vẫn là những kẻ khốn cùng nhất” (Vietcatholic 06/3/2008).

Lời cầu xin của Philipphê: “Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” vẫn luôn là bài học cần thiết cho chúng ta giữa cuộc sống đầy dẫy bon chen và bận rộn này.

9. Hãy tin vào Thầy

Sau khi rèn luyện ý chí của mình, Patrick Henry nói: “Giờ đây, tôi bỏ lại mọi tài sản cho gia đình. Ứơc gì tôi có thể cho họ một điều gì lớn hơn, đó là Kitô giáo. Nếu họ có đạo Kitô và tôi chẳng cho họ xu nào, họ cũng đã giàu có rồi. Nhưng nếu họ không có đạo, thì dù tôi cho họ cả thế gian này, họ vẫn nghèo túng.” Trong bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng cho thấy một mối quan tâm đối với các môn đệ Ngài.

Tôi có thể làm gì nếu lúc này tôi xem ra thất bại trong việc thông truyền đức tin cho những người thân yêu?

Chúng ta muốn cho con cái những gì chúng ta không có. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể cho chúng cái chúng ta đã có, đó là đức tin.

10. Ánh sáng muôn dân

Tạp chí Irish Express số ra ngày 3-10-1986 đăng ở đầu trang câu truyện rất kỳ lạ. Huấn luyện viên Đavit Hay của đội Glasgow Celtis cấm các cầu thủ không được cầu nguyện trên sân banh. Ông nói thói quen này có thể chấp nhận được ở bất cứ đâu, nhưng không phải ở Scotland. Ông nói thêm: “Tôn giáo là việc riêng… tôi muốn hạn chế nó.”

Sân banh có thể là nơi thích hợp để bày tỏ tôn giáo hay không, thì đó vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Nhưng điều chắc chắn là Chúa Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta làm chứng nhân Tin mừng cứu rỗi con người.

Bằng cách nào tôi làm chứng tốt nhất cho Tin mừng cứu rỗi con người?

Lời chứng giống như nước hoa. Nếu nó thực sự tốt, bạn chẳng cầu kêu gọi chú ý đến nó, vì “Hữu xạ tự nhiên hương.”

Thánh Marcô - Sư Tử Có Ðôi Cánh

Lời Chúa: Mc 16, 15-20

Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh.”

Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.

TRUYỆN KỂ

1. Tiểu sử thánh Marcô

Theo nhiều nguồn tài liệu, mẹ ngài là bà Maria, một bà góa giàu có ở Giêrusalem, có nhà rộng rãi, có thể làm nơi hội họp của các tín hữu được và thánh Phêrô cũng thường trú ngụ ở nơi này.

Thánh nhân theo người bà con là Barnabê và tông đồ Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất. Nhưng khi đến Pergê thì ngài trở về Giêrusalem, có lẽ vì lý do sức khỏe. Sau đó, ngài đã tháp tùng theo thánh Phêrô giảng đạo ở Rôma. Ngài đã chứng kiến “khoảng ba ngàn người theo đạo “ nhờ bài giảng của thánh Phêrô; ngài thấy tận mắt thánh Phêrô chữa lành người què từ khi lọt lòng mẹ” tại cửa Đền thờ; ngài cũng bị “các tư tế viên lãnh binh Đền thờ và các người thuộc nhóm Sađốc” bắt giam...

Chính thánh Phêrô đã trao cho ngài sứ mạng phúc âm hoá Alexandia. Ngài đã thành lập giáo đoàn này, và hướng dẫn mọi người sống hoàn thiện đạo đức không kém giáo đoàn Giêrusalem. Toàn thể giáo đoàn đều hiệp nhất trong một niềm tin, cậy, mến, chuyên cần phụng sự Chúa và phục vụ nhau.

Chính vì thế mà ma quỷ ganh tị. Chúng xúi dục những người ngoại giáo quá khích chống đối bách hại thánh nhân. Họ bắt ngài; cột cổ kéo lôi trên sỏi đá làm cho da thịt ngài bị xé rách nát ra. Máu chảy đầm đìa. Rồi đem bỏ vào ngục. Sáng hôm sau, họ lại dắt ngài ra và hành hạ y như hôm trước. Đau đớn quá, ngài kiệt sức dần và tắt thở.

2. Ai cũng là người truyền đạo

June là một cô bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha là một mục sư. Mỗi khi đi đâu, Mẹ thường cho em theo.

Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy em liền hỏi:

- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?

- Chúa cho cháu đó!

Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:

- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?

Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:

- Không, bé ạ!

- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật đẹp đẽ!

Nói xong, bé vội chạy theo mẹ.

Ít tuần sau, ông tìm đến nhà thờ và theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.

3. Hồng ân được ban để chia sẻ

Fritz Kreisler (18751962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hòa nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.

Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đàn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý:

-Xin đàn một lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm lặng.

Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự xúc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi ông ấy phải kêu lên:

- Kreisler ơi! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng thức âm thanh của nó.

4. Sư Tử Có Ðôi Cánh

Khách du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường Marcô, công trình mang tên của vị thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm nay.

Trên con đường tiến gần đến công trường Marcô, du khách nhìn thấy một con sư tử có đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh Marcô, như chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết như sau:

"Marcô, người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói và đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy cần thiết, chứ không phải chủ tâm thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống.”

Marcô là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại những lời Phêrô giảng, vì thế không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi ông là "Marcô, người con của tôi.”

5. Truyền giáo là kể truyện

Giáo Hội Hàn Quốc đang thực hiện chương trình Loan Báo Tin Mừng Hai Mươi Hai Mươi, nghĩa là mọi người Công Giáo phải nỗ lực truyền giáo để đến năm 2020, số tín hữu Công Giáo chiếm tỉ lệ 20% tổng số dân Nam Hàn, đạt 10 triệu người Công Giáo, gấp đôi số tín hữu hiện nay. Đang khi ấy ở Việt Nam, các số liệu cho thấy năm 1960, tỉ lệ người Công Giáo chiếm 7, 17% dân số và cuối năm 2010 tỉ lệ này là 7, 18%! Thật đáng tiếc và cũng đáng trách, việc loan báo Tin Mừng của chúng ta không được quan tâm đúng mức, nên chưa làm tăng được 1% tỉ lệ dân số trong 50 năm qua! Vì thế, hôm nay mệnh lệnh loan báo Tin Mừng của Đức Gisu cần phải được mọi người Công Giáo Việt Nam khẩn cấp thực hành.

“Truyền giáo chính là kể câu chuyện về Đức Giêsu như các Tông Đồ xưa” (Sứ điệp Đại Hội Truyền Giáo Á Châu năm 2006). Đó là một Giêsu chính bạn đã cảm nghiệm trong cuộc sống bản thân, một Giêsu Phục Sinh đang đồng hành với con người. Bạn kể về Ngài bằng ngôn ngữ của tình yêu, một tình yêu được diễn đạt bằng mọi lãnh vực của cuộc sống: tinh thần lẫn vật chất. Cuối cùng, câu chuyện về Đức Giêsu ấy được kể trong Nhiệm Thể Ngài là Giáo Hội, khi bạn cộng tác, phối hợp và liên kết với các hội đoàn, nhóm… trong giáo xứ, giáo phận của mình.

Tôi suy nghĩ xem sẽ kể câu chuyện về Đức Giêsu bằng phương cách nào và quyết tâm thực hiện mỗi ngày.

6. Tứ phương thiên hạ không xa

Báo Hiệp Thông số 39 tường thuật sự kiện bác sĩ Phanxicô Trần Hữu Ngạn, nguyên giám đốc Bệnh viện Phong Qui Hoà (1985-2001), gia nhập Kitô giáo năm 2004.

Ông đã nhận xét đời sống của các nữ tu dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ tận tâm phục vụ các bệnh nhân phong đã tác động sâu xa đến hành trình theo Chúa của mình: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh các nữ tu… mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh.” Với các chị, “tứ phương thiên hạ” không ở đâu xa, mà là bệnh viện với các bệnh nhân, nhân viên, bác sĩ mà các chị gặp gỡ hằng ngày. Tin Mừng đã và đang được loan báo qua những cử chỉ nhân ái và bằng đời sống siêu thoát của các chị.

“Hội Thánh tồn tại nhờ việc truyền giáo tựa như ngọn lửa có nhờ việc lửa cháy” (Emil Brunner). Nếu không loan báo Tin Mừng cho người anh em thì Hội Thánh hay bất cứ đoàn thể, giáo xứ, hội dòng nào… chẳng có lý do gì để tồn tại. Chính việc hăng hái truyền giáo cho thấy sức sống và sự trưởng thành của Hội Thánh hoặc đoàn thể...

7. Thế giới vị kỷ vô thần thì hỗn loạn

Kẻ nào chủ trương sống vô thần, không chấp nhận Tin Mừng Hội Thánh rao giảng để lãnh Bí tích Thánh Tẩy gia nhập Hội Thánh, thì còn độc ác hơn thú vật. Đan cử:

- Nhiều phương tiện thông tin đại chúng đưa tin hải quan Hàn Quốc phát hiện và tịch thu hàng nghìn viên sản phẩm “thuốc thịt người.” Theo hải quan Hàn Quốc, thi thể những đứa bé đã chết bị sấy khô trên lò trước khi bị nghiền thành bột.

- Ngày 17-05-2012, Cảnh sát Thái Lan bắt giữ một người Anh gốc Đài Loan, tên Chow Hok Kuen tại Bankok. Trong hành lý của Hok Kuen có chứa 6 bào thai sấy khô, quấn vàng lá theo nghi thức tà thuật. Những bào thai này khoảng 2-8 tháng tuổi. Vụ bắt giữ được tiến hành sau khi cảnh sát nhận được thông tin rằng xác bào thai được giới nhà giàu săn mua trên một trang web chuyên các dịch vụ tà thuật.

Chow Hok Kuen khai rằng đã mua các bào thai nhiều ngày trước với giá 200. 000 baht (6.500USD) và dự kiến sẽ bán chúng sang Đài Loan với giá gấp 6 lần. Nguồn gốc bào thai hiện chưa được rõ. Anh ta cho biết định bán cho những người tin rằng sở hữu các bào thai sẽ làm họ may mắn và giàu có” - tướng Wiwat Kamchamnan, cảnh sát Bangkok cho biết.

8. Hạnh phúc đời đời

Đúng thế, ở mọi nơi và trong mọi thời, điều được mọi người coi trọng lại không nằm ở sự thành đạt thế tục mà nằm ở chỗ khác, trong đời sống tinh thần, trong tình yêu. Tình yêu là sự sống và vẻ đẹp thần linh của Thiên Chúa. Một đời sống không thể được coi là hạnh phúc nếu không có tình yêu, không yêu ai và không được ai yêu.

Một em bé hỏi chị Bernadette: "Chị đã được thấy Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Bernadette trả lời: "Đẹp lắm em ạ, đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa.” Lời chị Bernadette cho thấy vẻ đẹp thần linh có sức hấp dẫn vượt qua tất cả. Mọi điều thiện hảo nơi thế gian này chỉ là không không trước hạnh phúc Nước Trời.

“Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu... Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” (1Cr 15,19-22)

9. Tin Mừng cho mọi tạo vật

Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường. Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:

- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí giá nhất.

Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn. Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:

- Món quà quí giá của ngươi đâu?

Người này điềm tĩnh trả lời:

- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung túc tốt đẹp.

Người tù trưởng nói:

- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.

10. Cô bé bán diêm

Trong đêm đông rét buốt ấy, cô bé không bán được bao diêm nào, giữa lúc bụng thì đói, thân xác thì giá lạnh. Cô bé đành nép vào một góc tường giữa phố để trốn những cơn gió lạnh. Vì lạnh quá, cô bé đành phải đánh lên những que diêm để sưởi ấm mình. Que diêm thứ nhất sáng lên, cô bé nhìn thấy một cái lò sưởi ấm áp. Que diêm thứ hai bùng lên, cô nhìn thấy một bàn ăn thơm phức. Que diêm thứ ba lóe lên, cô bé nhìn thấy một cây noel rực rỡ. Cứ thế, cô đánh hết que diêm này đến que diêm khác để nhìn thấy những ảo ảnh xuất hiện. Que diêm cuối cùng sáng lên, cô bé nhìn thấy bà nội hiền hậu đã mất của cô hiện ra, cầm lấy tay cô, rồi hai bà cháu bay vút lên cao, cao mãi tới nơi không còn giá lạnh, không còn đói khát, không còn sợ hãi nữa.

Sáng hôm sau, người ta tìm thấy cô bé đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa, bên cạnh là những que diêm cháy dở mà cô đã đánh lên để sưởi ấm mình.

Hình ảnh đẹp nhất trong câu truyện là cảnh hai bà cháu bay lên trời cao để thoát khỏi những đau khổ ở đời này. Có lẽ, đó cũng là ước muốn của nhiều người. Tuy nhiên, hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một chân lý cao cả hơn: lên trời không phải là một cuộc chạy trốn, cũng không phải là một giấc mơ hão huyền, nhưng là một hiện thực đang được khởi đầu ngay từ trần thế này. Con đường lên trời được nối dài từ con đường loan báo Tin Mừng. Đó chính là sứ vụ Chúa trao cho các môn đệ trước khi về trời: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.”

11. Ánh sáng chứng nhân

Năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ hiện ra với ba em Luxia, Phanxicô và Giaxinta. Ba em đã đơn sơ hỏi Đức Mẹ: “Thưa Bà, Bà ở đâu đến?” Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói: “Từ trời xuống.” Ba em liền xin với Đức Mẹ: “Xin Bà cho chúng con cũng được lên trời.” Đức Mẹ mỉm cười đáp: “Phanxicô và Giaxinta sẽ được về trời trong một ngày gần đây. Còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại trần thế này một thời gian nữa.”

Quả thật, sau đó, Phanxicô và Giaxinta đã được về trời sớm. Còn Luxia trở thành một nữ tu trong tu viện kín. Bà sống rất thọ và chỉ qua đời cách đây ít năm.”Luxia” có nghĩa là “ánh sáng.” Vì thế, Luxia đã được mời gọi để trở nên ánh sáng chứng nhân cho Chúa ở trần gian.

Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để lên đường loan báo Tin Mừng cho anh chị em mình bằng cách chiếu ánh sáng niềm tin và tình yêu cho người thế. Đó chính là con đường ngắn nhất dẫn đưa chúng ta về trời.

12. Một chút ánh sáng thêm sức mạnh

Đức cha Dupuch, giám mục Alger, tới thăm một phụ nữ nằm liệt giường, trong một gác nhỏ sát mái nhà, bà vẫn vui vẻ chịu đựng, không hề phàn nàn kêu ca. Đức Cha có hỏi: “Tại sao bà chịu đựng được bệnh tật, đau đớn đến thế?”

Bà này chỉ vào khung cửa sổ nhỏ chỗ trên nóc nhà để có ánh sáng chiếu vào căn gác và nói: “Thưa Đức Cha, con chỉ nhìn thấy một chút trời qua cửa sổ nhỏ này, mà con chịu đựng được tất cả.” Ý nghĩ một ngày kia được về trời, về thiên đàng, giúp bà này có sức chịu đựng mọi đau khổ.

13. Tìm kiếm sự sống đời đời

Thánh Tôma More tử đạo, giữ chức chưởng ấn nước Anh, vì muốn trung thành với Giáo Hội, nên đã bị tống giam.

Vợ của ông đến thăm và năn nỉ: “Tại sao mình không lo cứu lấy mạng sống?”

Thánh Tôma More đáp: “Theo em nghĩ, thì anh sống ở trần gian này được bao lâu nữa?”

Bà vợ trả lời: “Sức khỏe của anh cũng hứa hẹn ít nhất 20 năm nữa.”

Thánh nhân trả lời: “Em đề nghị cho anh một hành động hết sức điên dại! Để sống 20 năm, mà phải hy sinh cuộc sống đời đời.”

Cuộc sống đời đời của chúng ta thật quan trọng, ta phải luôn luôn nghĩ tới nó, lo lắng cho nó, đặt nó lên trên mọi mưu tính, mọi của cải, mọi quyết định…

14. Hãy coi trọng điều đáng trọng

Vua Napoléon III, trong cuộc du lịch qua Elgérie, có vào thăm một nữ tu viện, vua có hỏi một nữ tu: “Sơ có muốn tôi giúp gì không? Sơ có bà con này cần tôi nâng đỡ không?”

Nữ tu đó trả lời: “Thưa hoàng đế, tôi chỉ có một nguyện vọng. Xin nhà vua giúp cho.”

Vua Napoléon băn khoăn hỏi: “Nguyện vọng gì?”

Nữ tu đó đáp: “Tôi tin đức vua đảm bao cho tôi được vào thiên đàng.”

Nhà vua trả lời với cả sự trịnh trọng: “Ôi điều đó ngoài uy quyền của một ông vua dưới đất. Chính Sơ lại có thể dùng lời cầu nguyện để giúp tôi việc đó, hơn là chính tôi có thể làm được cho Sơ.”

Nghĩ tới nước trời, nghĩ tới phần rỗi đời đời, chúng ta hãy cầu nguyện, vì chính Chúa đã phán: xin thì sẽ được (Mt 6,8; Lc 11,10).

15. Tự hào về niềm tin

Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải công khai tuyên xưng nó.”

Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng lòng nghe con xưng tội không?” Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được nghe anh xưng tội.” Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!” Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức tin của con.”

16. Nhiều cách loan báo Tin Mừng

Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ tội chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến. Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp khách.

Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện.” Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập sách nhỏ của chàng đã tạo ra.

Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng. Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc giúp đỡ tài chính cho các hoạt động truyền giáo của Giáo hội.

17. Đi khắp tứ phương thiên hạ

Rất nhiều mệnh lệnh của Chúa Giêsu, như mệnh lệnh truyền giáo hôm nay, đã bị giảm thiểu một cách đáng ngại. Việc “đi khắp tứ phương thiên hạ” bị hiểu là đi khắp nơi trong cái không gian vật chất giới hạn trên mặt đất này. Mệnh lệnh “loan báo Tin Mừng” bị hạn hẹp vào việc “rửa tội” cho người ta. Rồi chúng ta lại hay quên rằng Chúa muốn “mọi loài thụ tạo” được loan báo Tin Mừng chứ không riêng gì “loài người.” Chính vì thế, yếu tố môi trường hay bị lãng quên trong nội dung của lời rao giảng. Việc hạn hẹp mệnh lệnh của Chúa như thế chẳng khác nào thái độ cầu an muốn trốn tránh một sứ mạng đòi hỏi phải mở rộng ra những biên giới bao la hơn nhiều.

Theo Công đồng Vaticanô II, “tứ phương thiên hạ” chính là “thế giới của con người, tức là toàn thể gia đình nhân loại với mọi sự thuộc môi trường sinh sống của gia đình này” (GS 2). Điều đó có nghĩa là việc truyền giáo phải thấm sâu vào mọi lĩnh vực văn hoá, xã hội, chính trị, v.v…, nói tắt, mọi phương diện con người đụng chạm đến. Và “thế giới” ấy cần được nghe và thấm nhuần những “giá trị Tin Mừng” trước đã. Có như thế, Chúa Thánh Thần mới tác động và khơi dậy lòng tin nơi người nghe để họ tin, lãnh nhận phép Rửa và được cứu độ (c. 16).

18. Chọn lựa cốt yếu của cuộc đời

Gabby Douglas, vận động viên thể dục thẩm mỹ 16 tuổi của Mỹ, đoạt hai huy chương vàng trong Olympic London 2012, đã tuyên xưng niềm tin của mình khi trả lời với báo giới: “Đức tin của tôi dứt khoát là mạnh mẽ. Mỗi ngày tôi đều suy gẫm Kinh Thánh và trích dẫn một số câu khi ở London để củng cố đức tin mạnh mẽ hơn mỗi ngày. Vì thế tôi đã khoác lên mình áo giáp của Thiên Chúa.”

Tuyên xưng niềm tin và loan báo Tin Mừng là sứ mạng và căn tính của Kitô hữu. Và đồng thời loan báo không chỉ dừng lại ở người này hoặc người kia, nơi này hoặc nơi kia, lúc này hay lúc khác, nhưng là toàn bộ cuộc sống của tất cả những ai đã chịu phép rửa.

“Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì.” (Mt 16,26).

19. Têrêxa yêu sự sống đời đời

Trong Thủ Bản Tự Thuật, thánh Têrêxa kể lại rằng: “Suốt đời, Chúa nhân lành đã cưng chìu con: những kỳ niệm đầu tiên của đời con ghi đầy những nụ cười, những mơn trớn êm đềm nhất!… Nhưng nếu Chúa đặt bên con nhiều tình thương thì Ngài cũng cho con một trái tim để yêu và cảm xúc dạt dào, cho nên con yêu Ba Má biết bao và con tìm đủ mọi cách để tỏ lòng yêu Ba Má, vì hễ trong lòng con có gì thì con phải bộc lộ ra ngoài. Có điều là cách con tỏ tâm tình đôi khi kỳ cục lắm, như lời Má chứng minh trong đoạn thư sau đây: “Con bé này tinh nghịch có một, nó đến vuốt ve Má và chúc Má chóng chết: Má à! Con muốn Má chết lắm!…

“Mắng nó thì nó bảo: “Má chết để về thiên đàng. Thế Má chả bảo con là phải chết mới được vào thiên đàng là gì.

“Lúc nào nó yêu Ba quá, nó cũng chúc Ba chết như thế!…”

Đối với Têrêxa, chẳng còn cái chết, mà chỉ còn một cánh cửa mở ra cho hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn. Ước chi đức tin trong tôi cũng lớn lên để tôi luôn vui mừng đi tìm sự sống thật trong mọi tình huống, kể cả trong những đau khổ của ngày hôm nay, “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người, chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17)

20. Trốn cái chết là vô lý

Thời Chiến Quốc có người đem dâng vua nước Sở vị thuốc bất tử.

Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh cửa hỏi rằng: “Vị thuốc này có ăn được không?” Người đáp: “Ăn được.” Tức thì viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn.

Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem giết.

Viên quan kêu lên rằng: “Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: ‘Ăn được’ nên thần mới dám ăn. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người đem dâng nói là ‘bất tử’, nghĩa là ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã phải sắp chết, vậy thuốc tử chớ sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.”

Vua nghe nói có lý, bèn tha viên quan ấy không giết nữa.

Thánh Giuse Thợ - Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin vâng

Lời Chúa: Mt 13, 54- 58

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người.

Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình."

Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.

TRUYỆN KỂ

1. Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ

Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm 1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích Kitô- giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy- lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc, thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.

Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Đức Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng nói: “Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ khôn ngoan." Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái." Sách này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân: “Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là vị cao trọng nhất... Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa... Kẻ nào nuôi sống mình bằng sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong các tâm tình đạo đức...”

2. Đấng bầu cử

Thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ khi Thánh Nhân cầu cùng Thánh Cả Giuse: “Chưa bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”

Để kết thúc xin mượn lời cầu của thánh nữ Têrêsa Avila: “Lạy Thánh Cả Giuse! Trong suốt cuộc đời, Cha là niềm hy vọng, khi sinh hạ Chúa Giêsu, khi trốn sang Ai Cập, khi sống những ngày tha hương. Cha đã tìm thấy sức mạnh trong sự tin tưởng sắt đá vào quyền năng và lòng Nhân Lành của Chúa.

Hôm nay! Chúng con hết lòng trông cậy, chạy đến cầu xin Ngài. Xin Ngài hiệp lời cầu với chúng con, để xin Con Ngài nâng đỡ chúng con trong cơn khốn khó, xin Ngài ban sức mạnh để chúng con tiến lên như Ngài đã đã vượt thắng. xin Ngài ban cho chúng con ơn trông cậy mà Ngài đã có như ánh sáng hướng dẫn mọi ngày trong đời chúng con. Amen.”

3. Lao động như phụng tự

 “Ông ấy không phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,55)

Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi nhánh của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng thương tiếc, tri ân một thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản phẩm độc đáo như ipod, iphone và ipad.

Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại như ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào, nhưng lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người.

Thánh Giu- se là một trong những người lao động thầm lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm bổn mạng cho những người lao động âm thầm không chỉ để nói lên giá trị về các đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội, mà còn để nêu cao mẫu gương sáng chói nhất của thánh nhân là: biến lao động thành một của lễ dâng để thờ phương Thiên Chúa.

4. Ông làm gì đó?

Vào thời Trung cổ, có một tín hữu Kitô nọ muốn thực hiện một cuộc hành hương.

Sau vài ngày đi bộ, người đó bị lạc vào trong một khu rừng vắng. Tuy là khu rừng vắng nhưng hai bên đường, người ta cũng thấy có những người thợ đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn đem về. Người khách hành hương mon men đến gần một người thợ, mồ hôi đang chảy ra nhễ nhãi và muốn gợi chuyện, nhưng người thợ đập đá ấy chỉ trả lời một cách nhát gừng:

- Ông không thấy tôi đang lao động một cách vất vả sao mà cứ hỏi hoài vậy?

Người khách hành hương tìm đến người thứ hai, người này còn có dáng vẻ nặng nhọc hơn. Được hỏi đang tham gia vào công trình xây dựng nào, người thợ này chỉ trả lời:

- Người ta thuê tôi làm việc, tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà, tôi đổ mồ hôi xôi con mắt ra là để kiếm cơm bánh cho vợ con tôi thôi, còn xây dựng gì thì tôi không cần biết.

Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi ông lại gặp một người thợ đập đá khác. Người này cũng có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy không kém 2 người trước, nhưng nhìn kỹ trong ánh mắt của người thợ đập đá này, người khách hành hương thấy toát lên một sự thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Đến gần người khách hành huơng lên tiến hỏi:

- Ông đang làm gì đó?

Người đàn ông mỉm cười và vui vẻ đáp:

- Ông không biết à, tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường

Và người thợ đập đá đưa tay chỉ xuống một thung lũng, nơi đó, người khách hành hương nhận ra một ngọn tháp cao và từng viên đá được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của một ngôi thánh đường.

5. Má em nhận được bao nhiêu?

Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé trai khoảng 12 tuổi, mỗi buổi sáng vào lúc 7 giờ, đến làng bên cạnh là địa phương chúng tôi để giao bánh mì. Đây là một em bé linh động, luôn vui vẻ và đúng giờ như một chiếc đồng hồ. Em dừng lại trước cửa những nhà giàu có muốn có bánh mì ăn sáng và sau đó lại vội vã đạp xe trở về nhà.

 Ngày nọ, tôi có một cuộc đối thoại lý thú với em bé này như sau:

- Mỗi buổi sáng em phải dậy sớm, vậy em tự mình dậy hay phải có ai thức em dậy?

- Má em! Má em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, má cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, má đánh thức ba dậy, dọn xúp cho ba ăn trước khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy đi học. Xong xuôi tất cả thì má lo cho đứa út, cho nó uống sữa và cuối cùng mẹ tự dùng sáng.

Mỗi chuyến giao hàng buổi sáng em được người ta trả cho bao nhiêu?

- Mỗi tuần 20 quan. Em có 10 khách hàng.

- Thế ba em lãnh một ngày được bao nhiêu?

- 30 quan, em nghĩ vậy.

- Còn má em, má em nhận được bao nhiêu?

- Má em ư? - em bé nhìn tôi lộ vẻ kinh ngạc- . Nhưng má làm việc không vì gì cả cơ mà!

6. Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng

Sau khi tạo dựng nên con người trong vườn địa đàng, Thiên Chúa trao cho con người trách nhiệm trông coi công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đã từng nói: “Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng” (Ga 5,17).

Thiền sư Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc bởi vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là đem trả lại chỗ cũ cho thầy."

Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!"

7. Giá trị của công việc

Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc vi hành. Ông lén đặt một tảng đá thật to giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để bắt buộc người dân phải bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng tự nhiên ra sao với những vật gây cản trở mà họ bất ngờ gặp trên đường.

Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó để quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc áo lượt quần là đi qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vât đáng ghét. Thậm chí còn xúc phạm Đức Vua đã không cho người giữ đường xá sạch sẽ. Nhưng có một điểm chung là: chẳng ai đoái hoài gì đến tảng đá đó, họ thà đi vòng chứ không chịu đẩy nó ra vệ đường.

Tình cờ một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đầy tảng đá đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là nhiễu sự. Nhưng chẳng một ai dừng lại giúp đỡ bác.

Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi nằm trên mặt đường, ở chổ mà lúc nãy tảng đá nằm. Bác mở cái túi thì thấy có rất nhiều tiền. Lúc bấy giờ bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Sau mỗi trở ngại, đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.

8. Tầm quan trọng của lao động

Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của con người trong việc giữ gìn và phát triển thế giới, nên Ðức Giáo Hoàng Piô XII đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.

Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo. Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.

Thánh Philipphê Và Thánh Giacôbê - Ðến Với Chúa

Lời Chúa: Ga 14, 6-14

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người."

Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con."

Chúa Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho."

TRUYỆN KỂ

1. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ--tinmung.net

Thánh Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.

Thánh Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm 62 tại Giêrusalem.

Cả hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng và mạng sống của mình.

2. Hai tông đồ

Giáo hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời xác các Ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên lễ kính các Ngài được dời vào ngày 03 tháng 5.

Hội Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa – sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người theo gương Thầy Giêsu.

Thánh Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x Ga 1,45); ông thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp Đức Giêsu (x Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn nguyện (x Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện, Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x Cv 1,13); ông hết lòng giảng Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.

Thánh Giacôbê là con của ông Alphê (x Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem (x Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x 1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề cao Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!

3. Con đường Giêsu

Con đường nào cũng mang một cái tên, và đưa ta đến một đích điểm. Nhà thơ Nga Raxun Gamzatov có lần nói đến một con đường đặc biệt:

Trên trái đất đường đi không kể xiết

Đường dài lâu, gian khó cũng rất nhiều.

Nhưng anh hiểu, khó và dài hơn hết,

Là con đường ta vẫn gọi: tình yêu

Con đường khó và dài, con đường tình yêu ấy chính là đường đưa ta về quê trời; con đường ấy có một cái tên: đường Giê-su. Đường Giê-su không phải là một hệ thống triết lý, nhưng là một con người: “Chính Thầy là Con Đường." Đường Giê-su thật độc đáo, bởi vì Đức Giê-su không đưa ra một số giáo lý phức tạp phải tin, một mớ điều răn phải giữ để đi đường, Ngài chỉ ban cho ta một điều răn: yêu nhau như Ngài đã yêu ta. Hơn nữa, Ngài còn cầm tay ta và cùng bước đi với ta trên con đường mang tên Giê-su ấy.

4. Hướng đi của đường đời

Dọc kênh Tàu Hủ, đường Bến Bình Đông dẫn vào “xóm Đập Bao” (xi măng) ở khu Gò Mã, quận 8, Sài Gòn, lúc nào cũng mờ mịt đám bụi dày. Một người dân ví von: “Mình làm nghề giũ bụi nên phận mình cũng như những đám bụi kia, chẳng biết bay về đâu. Cứ vật vờ xoay vòng mà sống.” Đó cũng là cảm nghiệm của rất nhiều người về cuộc sống, một cuộc sống vật vờ, xoay vòng, chẳng biết sống để làm gì, đời mình sẽ đi về đâu giữa bốn phương trời tám phương đất vô định của thế giới này. Chúa Giêsu đến để cho thấy cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa, có hướng đi rõ ràng: đi về hạnh phúc đời đời. Hạnh phúc đời đời chính là đi con đường mang tên Giêsu, con đường hẹp, đường thập giá của bậc sống, đòi hỏi phải nỗ lực hết mình để tiến bước.

5. Thầy là đường

Đức Giêsu là đường, là ĐẠO! Theo Đức Giêsu là đi đường, đi đạo. Đường / đạo là để đi, không chỉ để có, để giữ! Đi vì ta chưa đến. Đi chứ không dừng lại. Vì khi ta quyết định dừng lại thì đường hết còn là đường nữa rồi, chưa nói là ta đang đắp mô và gây tắc nghẽn giao thông. Đức Giêsu là đường, là đạo - nên muốn thấy rõ đường, biết rõ đạo, thì phải nhìn vào chính Người - không phải nhìn vào bất cứ ai hay cái gì khác. Đức Giêsu là đường, là đạo – nên lạc đường, lạc đạo trước hết là lạc khỏi Người. Biết bao lần ta thực sự lạc đạo dù chẳng hề cãi lại một chữ nào trong Kinh Tin Kính Nixê! Đức Giêsu là đường, là đạo. Con đường này chính nhờ Người đã đi mà có. Người đi từ phận Chúa đến phận người, từ hang đá Bêlem tới thập giá Gôngôtha, rồi từ cõi chết đến cõi sống. Đức Giêsu là đường. Con đường này nên mang tên “Đường Giêsu” – và nếu vì ‘kính bất xưng danh’ thì ta còn có nhiều tên khác để thay thế - chẳng hạn, đường Hẹp, đường Thập Giá, đường Phục Vụ, và nhất là: đường Tình Yêu!

6. Thánh Giacôbê hậu

Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em được biết” (x. Cv 12,17).

Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông." (x. Gl 2,9)

Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv 15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).

Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.

Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời."

Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá Ngài.

7. Tông đồ cho người ta thấy Chúa

Trong một thánh lễ kính các tông đồ, tôi nhớ mang máng nội dung một bài hát như thế này: “Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta, Người đến với mọi người. Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta Người đến với mọi nơi."

Ý nghĩa của lời hát trên nói lên tất cả sứ mạng của người làm Tông đồ. Thật vậy, người Tông đồ cần phải có Chúa Kitô trong mình mới có thể mang Chúa Kitô đến cho những khác. Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống như Đức Kitô đã sống để người khác thấy Chúa Kitô nơi người Tông đồ. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống bác ái yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu thương nhau” (Ga 13,35). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống công bằng, chân thật. Vì Chúa Giêsu từng nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga 14,6).

Cũng như Chúa Giêsu Kitô đã hoạ lại hình ảnh của Chúa Cha, để ai thấy Ngài là thấy Chúa Cha (x. Ga 14, 9). Người Tông đồ cũng phải hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu Kitô nơi chính lời nói và việc làm của mình, để ai thấy người Tông đồ là thấy Chúa Giêsu Kitô.

Lời Chúa Tuần 4 Phục Sinh
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch