LỜI CHÚA TUẦN 4 MÙA PHỤC SINH
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNPS 4B - CẦU CHO ƠN THIÊN TRIỆU LINH MỤC VÀ TU SĨ
CNPS 4C - CHIÊN TA ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI
THỨ BẢY - CẦU NGUYỆN NHÂN DANH CHÚA
THÁNH MARCÔ - SƯ TỬ CÓ ÐÔI CÁNH
THÁNH GIUSE THỢ - NGƯỜI THỢ VÔ DANH
THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ - ÐẾN VỚI CHÚA
CNPS
4A - MỤC TỬ NHÂN LÀNH
"Ta
là cửa chuồng chiên."
Tin
Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua
cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp.
Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở
cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình
và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau,
vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn
tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ." Chúa Giêsu phán dụ ngôn này,
nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật,
Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều
là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ
được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì
chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống
và được sống dồi dào."
TRUYỆN
KỂ
1. Chuồng
chiên
Chuồng
chiên là một hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái. Đó là một dãy hàng
rào chắc chắn theo hình chữ nhật với một cửa ra vào duy nhất. Chiều đến, các mục
tử lùa chiên vào chuồng qua khung cửa duy nhất này, rồi trao phó việc canh giữ
cho một vài người nào đó. Và khi ngày mới trở về, họ đưa chiên ra khỏi chuồng để
đi ăn nơi những đồng cỏ.
Chuồng
chiên là nơi bảo đảm an toàn cho đoàn chiên. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh quen
thuộc này khi so sánh mình với cửa chuồng chiên và với người mục tử tốt lành để
mạc khải tình yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người nói chung và
nhất là sự bảo vệ của Ngài đối với những ai tin nhận Ngài nói riêng.
Phản
ứng đầu tiên của dân chúng khi nghe qua hai hình ảnh này là không hiểu được ý
Chúa Giêsu muốn nói gì, mặc dầu Người đã dùng những hình ảnh rất quen thuộc đối
với họ. Phải chăng chúng ta ngày hôm nay đôi khi cũng phản ứng như thế, đó là
chúng ta không hiểu không hoặc muốn hiểu những gì Chúa muốn nói với mình qua những
dấu chỉ đơn sơ của cuộc sống thường ngày. Phải chăng chúng ta sợ hiểu được ý định
của Thiên Chúa để rồi phải canh tân đời sống cho hợp với ý định cảo cả ấy? Thế
nhưng Chúa Giêsu vẫn kiên nhẫn giải thích cho họ: Ta là cửa chuồng chiên. Ai
qua Ta mà vào thì sẽ được giải thoát. Ta là mục tử tốt lành, hiến mạng sống vì
chiên. Ta biết các chiên Ta và các chiên ta biết ta.
2. Cửa
chuồng chiên
Ngày
nọ, có một du khách viếng thánh địa, nhìn thấy một chuồng chiên ngoài đồng, anh
ta bèn hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó rằng: Cửa chuồng của anh ở đâu? Người
mục tử trả lời: Tôi chính là cửa chuồng. Đoạn người mục tử kể cho du khách nghe
anh ta lùa bầy chiên vào chuồng mỗi khi chiều xuống như thế nào. Sau đó anh ta
nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không một chú chiên nào có thể bỏ chuồng mà
đi ra, cũng chẳng thú rừng nào có thể đi vào mà không bước qua anh ta.
Từ
câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, qua đó Chúa Giêsu tự
sánh ví mình như cửa chuồng chiên và như người mục tử nhân lành. Cả hai hình ảnh
này đều nói lên sự hiểu biết, sự chăm sóc và sự bảo vệ Ngài dành cho chúng ta,
là những con chiên được Ngài hướng dẫn.
3. Chúa
sống giữa chúng tôi
Một
nhà truyền giáo, lần đầu tiên đến Trung Hoa, giảng về Chúa Giêsu cho một nhóm
dân bản địa. Khi ngài kết thúc, một người nói: Phải, chúng tôi đã biết ngài:
Ngài đã sống ở đây. Nghe thế, nhà truyền giáo liền nói: Không, Đức Giêsu sống ở
nước khác, cách đây gần 2000 năm rồi. Nhưng người đó vãn khăng khăng bảo: Chúng
tôi đã thấy Chúa. Chúa đã sống trong làng này. Chúng tôi biết Ngài. Rồi ông dẫn
nhà truyền giáo đến Nghĩa Trang và chỉ cho thấy ngôi mộ của một nhà truyền giáo
khác, đã từng sống với họ, phục vụ họ và cuối cùng an giấc nơi cộng đoàn của họ.
Thánh
Phêrô đã chứng kiến cuộc khổ nạn của Thầy Chí Thánh từ đầu cho tới khi kết
thúc. Phêrô đã chia sẻ về thái độ của Chúa Giêsu đang khi bị hành xử: Bị phỉ
báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe, Người phó mình
cho Đấng xét xử công minh
4. Dấu
chân của mục tử
Trời
mùa đông giá rét, một đêm nọ, vua thánh Venceslaô đi đến nhà thờ để viếng Thánh
Thể. Viên thị vệ theo hầu xuýt xoa vì giá lạnh, nhưng thánh nhân bảo: Cứ chịu
khó đi theo và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta. Viên thị vệ làm như vậy và cảm
thấy ấm hẳn lên.
Với
chúng ta cũng vậy. Theo dấu chân của vị mục tử nhân lành, chúng ta sẽ được bình
an và hạnh phúc bởi vì Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.
5. Anh
phải sống
có
hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi
trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình
lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một
dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành.
Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi
phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần
khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng
đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp
gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống để nuôi dạy đàn
con."
Tác
phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó phản ánh
quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia đình, cho
xóm ngõ, cho dân tộc.
6. Cửa
ràn chiên – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Những
ngày làm việc ở Mông Cổ đã cho tôi hiểu được thế nào là ràn chiên và cửa ràn
chiên. Người chăn chiên chuyên nghiệp ở đó đều là dân du mục (tương tự như chăn
vịt chạy đồng ở xứ ta) cứ tối đến họ lùa chiên vào ràn. Ràn không phải là một
thứ chuồng trại cố định như heo bò của ta. Ràn (tiếng Anh chính xác dịch là
‘enclosure’, ‘stable’ chỉ là theo nghĩa rộng) là miếng đất trống gần lều trại
được rào dậu bằng đá xếp hoặc cành cây. Chiên có thể thuộc nhiều đàn khác nhau
được lùa vào ràn qua một lối mở duy nhất gọi là cửa. Sẽ có một người trực qua
đêm canh gác bên đống lửa đốt ngay giữa lối ra vào được che chắn cách sơ sài.
Sáng ra, các người chăn chiên sẽ vào lùa đàn chiên của mình ra dưới sự giám sát
của người trực đêm. Chỉ khi nào thấy có những biểu hiện thuận thảo giữa chiên
và người chăn dắt, anh giữ cửa hay trực đêm mới xác định được người chăn chiên
đó quả thật là mục tử của đàn vật mình đang lùa đi ăn.
7. Cửa
chuồng chiên
Cha
Mark Link SJ. có mô tả một cái chuồng chiên trong câu chuyện “vùng đất Thánh-
The Holy Land” của John Kellman: Chuồng chiên ở Do Thái có một bức tường bằng
đá bao chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một lối vào. Kellman kể rằng:
Ngày nọ một du khách Thánh địa đã trông thấy một cái chuồng chiên ngoài đồng gần
Hebron. Anh du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh
đâu?" Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng." Đoạn người mục
tử kể cho du khách nghe anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó. Không có chủ
chiên nào có thể bỏ chuồng chiên đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng nào có thể
đi vào mà không bước qua mình anh ta."
Như
thế, hình ảnh mục tử và cửa chuồng chiên đều chỉ vào Đức Kitô, và là hình ảnh
mô phạm cho các bậc chủ chiên.
8. Tình
yêu quên mình
Có
câu chuyện thật dễ thương trong cuốn tự thuật của Jimmy Cagney, nam diễn viên nổi
tiếng ở HollyWood. Câu chuyện xảy ra vào thời tuổi trẻ của Cagney khi mẹ ông
đang nằm trên giường chờ chết. Chung quanh giường có 4 cậu con trai đều mang
tên Cagney và cô em gái duy nhất của họ là Jeannie. Vì bị nhồi máu cơ tim, bà
Cagney không nói được nữa. Sau khi lần lượt bá cổ cả năm đứa con, bà liền giơ
cánh tay phải, cánh tay duy nhất còn hoạt động đựơc lên. Jimmy mô tả những gì xảy
ra sau đó:
"Mẹ
tôi dùng ngón tay chỉ Harry rồi chỉ vào ngón trỏ của bàn tay vô dụng của bà,
sau đó chỉ tôi rồi chỉ vào ngón giữa, rồi chỉ Eddie rồi chỉ vào ngón áp út, chỉ
Bill rồi chỉ vào ngón út, chỉ Jeannien rồi chỉ vào ngón cái. Đoạn bà cầm ngón
cái để vào giữa lòng bàn tay, rồi áp chặt ngón cái dưới bốn ngón kia tụm lại.
Sau đó bà dùng bàn tay còn khỏe vỗ nhẹ lên nắm đấm bàn tay trái" (James
Cagney).
Jimmy
nói rằng cử chỉ của mẹ ông thật tuyệt vời. Mọi người đều biết ý nghĩa của cử chỉ
ấy tức bốn anh em có bổn phận che chở cho bé Jeannie sau khi mẹ họ qua đời. đó
là một cử chỉ đẹp và đầy ý nghĩa mà không lời nào có thể diễn tả hay hơn.
9. Chết
cho đoàn chiên
Theo
gương Chúa Giêsu, trong thời nạn đại dịch Covid 19 này, chúng ta thấy rất nhiều
Linh mục đã qua đời, người ta đạt câu hỏi tại sao Linh mục, mục tử coi sóc đoàn
chiên mà lại chết nhiều như thế? Là vì phần lớn các linh mục đã xả thân liều
mình vì đoàn chiên đang lâm nguy tử vì bệnh Covid, các Ngài đến chăm sóc an ủi
và làm các bí tích sau cùng cho đoàn chiên nên đã bị lây nhiễm và qua đời. Cụ
thể hơn có một vị Linh mục đã nhường máy trợ thở cho một thanh niên và rồi Ngài
cũng đã qua đời vì bệnh Covid 19.
10.
Chúa Giêsu Mục Tử như mẹ hiền ấp ủ con
(Suy
niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)
Hôm
qua, tôi đọc trên báo điện tử một bài báo về viết về một Bà mẹ phi thường gần
10 năm ăn cám nuôi 4 con học đại học ở xã Diễn Hạnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ
An. Bà mẹ đó là bà Tăng Thị Lộc, chồng bà bị cụt một chân vì mắc bệnh phong.
Gia đình nhà chồng cũng là một gia đình nghèo, đông con. Khi bà về nhà chồng,
cha mẹ chồng chia cho vợ chồng bà một mảnh đất và dựng cho một túp lều nhỏ để
chui ra chui vào. Từ khi lấy chồng, bà đã thực sự thấm thía thế nào là nghèo,
là cơ cực, đói khát. Cái đói đó thấm thía hơn bao giờ hết khi lần lượt 4 đứa
con của bà ra đời, vì chưng mỗi lần mang thai và sinh ra con ra, chưa bao giờ
bà biết thế nào là một ngày nghỉ đẻ, cũng chưa bao giờ bà được tẩm bổ, bồi dưỡng
như những người phụ nữ khác mang thai và sinh con. Cũng một phần vì thế mà con
cái bà giờ đều thấp bé, gầy gò. Nhưng ngay cả trong cảnh cùng khổ ấy, người mẹ
kiên cường vẫn lạc quan, bà kể: “Nhờ trời thương, nên ngần ấy năm ăn cám, tôi vẫn
khỏe như người ta ăn cơm, vẫn lao động và nuôi ngần ấy đứa con. Mà tôi ăn cám
riết thành quen, đến nỗi không còn cảm giác khó ăn nữa. Đều đặn mỗi bữa tôi ăn
3 bát cám ngon lành. Người ta nhìn hoàn cảnh tôi, ai cũng nói tôi khổ. Nhưng ở
trong cái khổ đó, tôi không thấy mình khổ. Khổ vì chồng, vì con, vì tương lai
con cái, thì khổ thế chứ khổ nữa tôi vẫn chịu được. Qủa thế, gần 10 năm trời ăn
cám lợn để ki cóp từng đồng nuôi 4 người con ăn học, có những lúc tôi đã đứng
giữa cánh đồng nắng chang chang và òa khóc vì tưởng rằng không còn đủ sức thực
hiện ước mơ nhìn thấy con ăn học thành tài, nhưng tình yêu và sức mạnh phi thường
của một người mẹ đã giúp tôi vượt qua tất cả, để giờ đây sau một chặng đường dài
đầy khó khăn của cuộc đời mình, tôi đã có thể mỉm cười khi thấy 4 người con của
mình đều đã học xong đại học và có những bước đi vững vàng trong cuộc sống."
11. Tiếng
gọi yêu thương
(Trích
“Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Một
vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh em tín đồ quì cạnh giường bệnh,
cầu xin Chúa cứu chữa ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người
rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu ngày: “Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài
biết bao!”
Nghe
vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
-
Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Macta sai người đi mời Đức
Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa”, nhưng nói: “Lạy Chúa, này
kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng." Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa cách
bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.
Nhiều
khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước,
yêu vô điều kiện, và yêu không bờ bến.
12. Đồng
cỏ xanh, Dòng suối mát
(Trích
“Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)
Dương
Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong
cái chợ nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra
năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng
đơ không thể co duỗi.
Thế
mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba,
chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và
Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và
miệng.
Cuộc
đời co thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục
sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh
Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu
cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn
chân, và có thể làm được rất nhiều việc." Chính tình thương, sự chăm sóc,
và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.
“Chiên
của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27).
13.
Tình mẹ hiền
Có
một anh bạn nhà nghèo, chạy vạy mãi mới được một suất hợp tác lao động, anh coi
đó như cách duy nhất để giúp đỡ gia đình. Nhưng ảo mộng chóng tan, xứ người chẳng
phải thiên đường, anh chỉ còn biết làm quần quật và dành dụm từng đồng. Để nhà
khỏi buồn, trong thư anh tô vẽ về một cuộc sống chỉ có trong mơ.
Ngày
về, mọi người mừng rỡ nhận quà, anh lại tiếp tục nói về cuộc sống trong mơ.
Đêm.
Chỉ còn mẹ. Hết nắn tay nắn chân anh rồi mẹ lại sụt sùi. Anh nghẹn ngào khi
nghe mẹ nói:
- Dối
mẹ làm gì. Giơ xương thế kia thì làm sao mà sung sướng được hở con!
Hóa
ra tình mẹ thật sâu lắng. Sâu lắng đến độ có thể hiểu được con tim của con. Mẹ
có thể hiểu được con đang nghĩ gì, muốn gì. Mẹ cũng có thể biết được phải làm
gì để xoa dịu nỗi đau cho con.
Lời
Chúa hôm nay cho chúng ta thấy chân dung của người mục tử tốt lành. Người mục tử
luôn gắn liền đời mình với đàn chiên tựa như người mẹ gắn liền với định mệnh đời
con.
14. Ơn
gọi thánh hiến – Lm Dom. Trần Quang Hiền
Ngày
thế giới cầu nguyện cho ơn gọi
Chiều
hôm qua tôi đi dâng lễ an táng cho một nữ tu dòng Đaminh Rosalima vừa mới qua đời
vào buổi sáng cùng ngày, là cô của một người giáo dân trong giáo xứ của tôi
đang phục vụ. Nữ Tu thọ 86 tuổi, trong đó 55 năm sống trong nhà Chúa, nghĩa là
hơn nửa đời người sống trong đời thánh hiến, một cuộc đời hoàn toàn sống cho
Thiên Chúa là Đấng Tình Quân của mình. Nhìn vào bề dầy đời sống thánh hiến của
Nữ Tu này, tôi nhớ đến câu nói mà tất cả những ai là saledieng hay nhắc nhở
nhau: “khi nào về với Chuá trên mộ có ghi là tu sĩ saledieng” lúc ấy chúng ta mới
biết chúng ta trung thành. Đời sống thánh hiến là một cuộc đời dấn thân, tận hiến
cho Thiên Chúa và phục vụ tha nhân, là luôn trung thành sống theo lời mời gọi của
Tin Mừng, mỗi ngày mỗi nên giống Đức Kitô hơn và sống cho người khác cho đến
hơi thở cuối cùng.
Đời
tu nhìn bên ngoài rất đẹp nhưng cũng có những hy sinh, từ bỏ để sống triệt để lời
mời gọi của đời sống thánh hiến.
15. Ta
là chủ chiên lành.
Trong
một cuộc giao tranh đạo quân của đại tướng Monmouth bị thua chạy một cách thê
thảm. Riêng ông cũng phải lẩn trốn. Ban ngày ông đến náu trong những hang núi,
đến đêm mới dám ra đi. Sau cùng, địch quân cũng đuổi kịp. Ông bí quá, chạy vào
căn lều của người chăn chiên.
Thay
vì đóng cửa không cho ông vào, người chăn chiên đã làm một nghĩa cử cao đẹp.
Anh đã đổi áo của mình cho ông mặc trá hình, rồi thân chinh ra gặp địch quân của
đại tướng.
Người
chăn chiên đã chiến đấu rất anh dũng và cố ý kéo dài cuộc giao tranh để
Monmouth có giờ tẩu thoát. Với thanh kiếm, anh đã cầm chân địch quân trong vòng
ba tiếng đồng hồ, cho đến khi mệt lả, không còn đủ sức chiến đấu nữa thì bị địch
quân giết chết. Lúc đó đại tướng Monmouth đã đi xa rồi.
16. Vẽ
Thiên Chúa
Trong
buổi học giáo lý vào ngày Chúa nhật, một em đang cắm cúi vẽ hình. Thầy giáo hỏi
em đang vẽ gì thế. Em trả lời đang vẽ hình của Thiên Chúa. Thầy giáo nói,
“Không ai nhìn thấy Thiên Chúa như thế nào, làm sao vẽ được?” Em bé đã trả lời,
“Sau khi em vẽ xong bức hình này thì ta sẽ biết."
Chúng
ta không biết bức hình của em vẽ Thiên Chúa ra sao. Tuy nhiên, bài Phúc âm hôm
nay và đáp ca, đã vẽ ra một hình ảnh của Thiên Chúa. Đó là hình ảnh của người Mục
Tử. Chúa Giêsu đã nói: “Ta là cửa chuồng chiên” và “Ta là mục tử tốt
lành."
17. “Chúa
là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì."
Tôi
nhớ đã vài lần viếng thăm một người phụ nữ nằm bệnh viện gần 2 tháng. Một ngày
nọ khi vào thăm bà, tôi thấy cả gia đình đã qui tụ đầy đủ vì họ đã được thông
báo cho biết và gần ra đi rồi. Căn phòng bệnh nhân đầy ắp người, nhưng không ai
đề cập đến số phận của bà. Họ nói về những chuyện xảy ra trong cộng đoàn, về thời
tiết, về tin tức… Tôi đi ra ngoài một chút rồi trở lại thăm bà vào đúng lúc cả
gia đình đã đi ăn trưa. Chỉ còn một mình tôi với bà, bà nói: “Thưa cha, cha biết
rằng con sắp chết rồi!” Theo tâm lý tôi tự nghĩ trong đầu: “Không đâu! Bà sẽ vượt
qua được cơn bệnh. Bà sẽ còn sống lâu thêm nữa." Nhưng rồi tôi lại nghĩ rằng
tốt hơn hết cứ nói, “Phải, tôi biết!” Rồi tôi hỏi bà thêm: “Bà nghĩ sao về điều
này?” Bà nói: “Phải, con cũng sẵn sàng để chết. Con đã chuẩn bị." Tôi đề
nghị, “Tôi có thể làm gì để giúp bà được không?” Bà nói: “Xin cha làm ơn đọc
cho con nghe Thánh vịnh 23." Tôi đã đọc thật chậm để cùng cầu nguyện với
bà. Lúc đó chúng tôi đã cảm nghiệm được một sự bình an lớn lao khó diễn tả bằng
lời, cả hai chúng tôi đều cảm thấy Chúa Giêsu đang hiện diện cùng với chúng tôi
trong phòng bệnh nhân. Chỉ một thời gian ngắn sau đó bà đã ra đi bình an.
18. Mỗi
người chúng ta là một kẻ cô đơn nhỏ bé
Cách
đây đã lâu, bà Ann Landers viết trên trang báo do bà phụ trách và được đăng lại
nhiều lần như sau:
“Từ
khi tôi bắt đầu phụ trách cột báo này, tôi đã học hỏi được rất nhiều – gồm cả
điều có ý nghĩa nhất mà Leo Rosten đã mang trong tâm trí khi ông nói: “Mỗi người
chúng ta là một kẻ cô đơn nhỏ bé, tận sâu thẳm bên trong tâm hồn, và đã khóc
lên để được thông cảm." Tôi đã biết được điều đau khổ xảy ra như thế nào đối
với những người không có ai để nói chuyện. Đối với tôi, sự thành công của cột
báo là đã nhấn mạnh đến sự bi ai chính yếu của xã hội chúng ta, sự cô độc, cảm
giác bất ổn, nỗi sợ hãi đang ám ảnh, gây tê liệt và làm tổn thương quá nhiều
người trong chúng ta. Tôi đã biết được rằng sự thành công về tiền bạc, đạt được
bằng cấp học vấn, và địa vị chính trị cũng như xã hội không mở ra những cánh cửa
dẫn tới sự bình an trong tâm trí hay sự an toàn nội tâm. Tất cả chúng ta là những
kẻ đi lang thang trên hành tinh này giống như những con chiên."
Phải,
xét về mặt tâm lý, con người cũng giống như những con chiên mang nhiều nỗi lo
âu sợ hãi, rất dễ bị tổn thương, và cần được mục tử săn sóc, chăn dắt, hướng dẫn.
“Ta chính là mục tử tốt lành. Ta biết các chiên của Ta và chiên của Ta biết
Ta."
19. Mục
tử nhân lành
Họa
sĩ vẽ hình phim hoạt họa nổi danh, Jules Pfeiffer đang thảo luận về một loạt
hình hí họa ông đã thực hiện cho các tờ báo. Trong số đó, có hình một em bé
trai không muốn đi học đến trường vì sợ ba mẹ sẽ dọn ra khỏi nhà đang khi em đi
học. Nó không muốn đi ngủ vì sợ ba mẹ sẽ chết trong khi nó ngủ. Đối diện với những
nỗi sợ hãi này “giống như một người canh gác đang trực hai mươi bốn giờ liền”,
Pfeiffer đã phát biểu như vậy.
Hình
ảnh sợ hãi của em bé trai chính là hình ảnh của chúng ta đang bước đi trong cuộc
đời. Dù chúng ta có đi lạc, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành vẫn sẵn sàng bỏ tất cả
99 con chiên khác, ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Người sẽ vác chúng ta lên vai,
yêu thương và săn sóc, vì Người là mục tử tốt lành.
Có
một câu chuyện huyền thoại Do Thái nói về Môsê. Ngày xưa khi Môsê đang chăn dắt
đàn chiên của nhạc phụ ở Jethro, ông thấy một con chiên nhỏ chui qua bụi rậm và
trốn mất. Môsê đã bỏ hết mọi sự đuổi theo con chiên nhỏ đó vì sợ nó đi lạc sẽ bị
thú dữ ăn thịt. Sau cùng ông đã đuổi kịp con chiên nhỏ khi nó dừng lại bên
giòng suối nước. Thì ra con chiên khát nước, nên nó chạy ra giòng suối để uống.
Sau khi uống nước xong, Môsê ẵm chiên lên và nói: “Cưng ơi, ta đâu có biết
ngươi chạy đi là vì ngươi khát nước. Bây giờ chân của ngươi mỏi mệt lắm rồi."
Nói như vậy rồi Môsê vác chiên lên vai và mang nó về đàn.
Khi
Thiên Chúa nhìn thấy sự tận tình yêu thương của Môsê như thế, Ngài liền nói, “Rốt
cuộc Ta cũng đã tìm ra được con người mà Ta đang tìm kiếm. Ta sẽ đặt Môsê là
người chăn dắt Israel dân Ta."
20. Hy
sinh suốt đời
Ngày
20.4.2002, nhật báo Chicago Sun Times đăng tin về linh mục Gary Graf, 43 tuổi,
thuộc tổng giáo phận Chicago, vị mục tử giầu tình thương đối với những người di
dân nói tiếng Tây Ban Nha thuộc giáo xứ Holy Family, Waukegan, Illinois. Ngài
đã bình phục sau một cuộc giải phẫu dâng hiến 60/o lá gan của mình cho một người
giáo dân đang cần thay gan để sống thêm một thời gian nữa. Người giáo dân này
tên là Miguel Zavala, một người đàn ông khoảng 40 tuổi.
Trước
cử chỉ hy sinh và lòng bác ái cao cả này của cha chính xứ, một giáo dân trong
giáo xứ đã phát biểu: “Cha Gary thật là vị mục tử nhân lành. Ngài hy sinh mạng
sống của mình cho con chiên bằng bất cứ giá nào có thể." Trong lá thư gửi
cho giáo dân, cha Gary đã viết: “Ơn gọi độc thân, cùng với sự hy sinh vì nước
trời, đã cho phép tôi trở nên một thành phần của gia đình to lớn hơn, bởi vì tất
cả các anh chị em trong giáo xứ là gia đình của tôi."
Các
bác sĩ cho biết rằng loại gan cha Graf dâng tặng được coi là rất hiếm. Và công
việc ban tặng như thế tuy giúp ích được cho nhiều người, nhưng cũng rất nguy hiểm
cho tính mạng của cả hai người, người cho lẫn người nhận.
Qua
cách ban tặng một phần lá gan của mình cho giáo dân, cha Graf đã phản ảnh ý
nghĩa của dụ ngôn về người mục tử tốt lành như chính Chúa Giêsu đã làm: “Ta
chính là Mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên.
Noi gương Chúa Giêsu, vị mục tử tốt lành, nhiều giám mục, linh mục, nam nữ tu
sĩ và các bậc cha mẹ cũng đang hy sinh cuộc đời của mình cho đàn chiên. Sự hy
sinh của họ không phải một lần là xong, nhưng kéo dài mỗi ngày suốt cuộc đời!
21. Tiếng
gọi yêu thương
Một
vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng. Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh,
cầu xin Chúa cứu chữa cho ông. Họ nhắc với Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của
Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu này:”Chúa biết không mục sư yêu mến
Ngài biết bao!"
Nghe
vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
-
Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và Matta sai người đi mời Đức
Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa” nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ
Chúa yêu đang bị đau nặng." Tôi được yên ủi chẳng phải vì tôi yêu Chúa
cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.
Nhiều
khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính Chúa mới là người yêu chúng ta trước,
yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.
22. “Ta
đến để anh em được sống và sống dồi dào."
Phải
chăng Đức Giêsu đang nói về sự sống đời đời, hoặc Người cũng nói về cuộc sống
này nữa? Tôi không còn nghi ngờ gì nữa, những lời nói này được áp dụng cho cả
cuộc sống của chúng ta trên trái đất, cũng như cho cả niềm hy vọng của chúng ta
đối với cuộc sống đời đời.
Có
một giai thoại dễ thương của Tây Ban Nha như sau: Khi người ta đi đến cổng
thiên đàng, và đang tìm cách đi vào, thì thánh Phêrô hỏi họ bằng một câu hỏi xa
lạ. Ngài nói với mỗi người:”Hãy nói cho ta nghe. Trong khi còn sống trên mặt đất,
người có biết tận dụng tất cả những thú vui trần thế, mà do lòng nhân lành,
Thiên Chúa đã dành sẵn cho ngươi không?"
Nếu
người nào đáp lại là “Thưa ngài, không ạ”, thì thánh Phêrô liền lắc đầu buồn bã
và nói “Than ôi, hỡi bạn, ta không thể để cho ngươi vào được, không thể vào bất
cứ cổng nào. Làm sao ngươi có thể trông mong mình sẵn sàng vui hưởng được những
vui thú trên thiên đàng, nếu ngươi không tự chuẩn bị cho mình biết đón nhận được
những thú vui đó, thông qua trung gian là những thú vui trần thế? Ta bắt buộc
phải gửi trả ngươi xuống mặt đất, cho đến khi ngươi học hỏi được một cách tốt
hơn."
23. Bạn
đang lắng nghe đó chứ?
Các
vỉa hè và những con đường trong thành phố Manhattan thường trở nên thật nhộn nhịp
ồn ào vào giấc trưa bởi người ta tấp nập vội vã tìm quán ăn trưa, xe cộ bấm còi
inh ỏi cùng những tiếng thắng xe nghe đến rợn người, thêm vào đó là tiếng còi hụ
rền rĩ. Có hai người đàn ông đang cùng đi với nhau chen lẫn giữa đám đông. Một
người là thổ địa ở New York còn người kia là dân vùng quê ở Kansas đến thăm. Bất
thình lình, người dân quê dừng lại và nói với người kia rằng: "Khoan đã,
tôi nghe có tiếng dế gáy đâu đây." Ông kia trả lời: "Bộ anh giỡn chơi
hả? Ở đây thường không có dế đâu, mà dù có đi nữa thì làm sao anh có thể nghe
được tiếng nó gáy giữa sự quá ồn ào này?" Anh bạn nhà quê giữ im lặng lắng
nghe trong một vài giây rồi bước tới một góc có bồn xi- măng trồng mấy cây
trong đó. Anh ta lật vài chiếc lá ra và nhìn thấy một con dế đang núp mình
trong đó. Anh bạn ở tỉnh thấy vậy thì rất ngạc nhiên và khâm phục nên nói:
"Tai anh thật là thính!" Anh bạn quê trả lời: "Không phải vậy
đâu, tai anh cũng thính như tai tôi vậy thôi. Chẳng qua tai mỗi người làm quen
với tiếng động mà họ thường lắng nghe mà thôi. Đây, để tôi chứng minh cho anh
xem." Nói xong anh liền móc ra một nắm tiền cắc rồi quăng nó lên lối đi.
Khi tiếng vang do nắm đồng cắc chạm mặt đường thì hầu hết mọi người đang đi đều
quay nhìn về hướng đó. Anh bạn ở quê liền nói: "Anh thấy không, chẳng qua
là nguời ta muốn nghe những gì họ muốn nghe mà thôi. "
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng dạy cùng một bài học đó bằng cách dùng
hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên.
24. Mục
tử tốt lành - Pm. Cao Huy Hoàng
Chúa
Giêsu nói: "Ta là mục tử tốt lành" (Ga 10,11a)
Sau
những thăng trầm ly loạn kể từ 1975, năm 2000 tôi gặp lại người bạn chí thân của
tôi thời trung học Chủng viện Truyền Giáo Lâm Bích do Đức Hồng Y PX. Nguyễn Văn
Thuận sáng lập, nay đã làm Linh mục: Lm Phanxico Xavie Trịnh Hữu Hưởng, tôi hỏi
Cha: "Cuộc đời Linh Mục có vất vả lắm không?" Cha trả lời: "Có,
thật vất vả, nếu nghĩ tới mấy từ "mục tử tốt lành." Chỉ có Chúa Giêsu
mới nói được câu ấy. Mình không hề dám nói như vậy đâu, nhưng đó là lý tưởng mà
cả đời mình nhắm tới"
Tôi
về khoe với anh em tôi - những anh em đã làm linh mục cũng như đã lập gia đình
trong gia đình Lâm Bích - câu nói của Cha Hưởng. Và anh em tôi có dịp chia sẻ
cho nhau một chút hãnh diện về những linh mục xuất thân từ Chủng Viện Truyền
Giáo Lâm Bích, hãnh diện về tôn chỉ mục đích của Đức Hồng Y PX đề ra, hãnh diện
về đường hướng đào tạo của ban Giám Đốc Chủng Viện, hãnh diện về đời sống linh
mục của anh em Lâm Bích... vì chỉ có 200 chủng sinh được đào tạo trong thời
gian 1970- 1975, mà đã hơn 50 chủng sinh lãnh nhận tác vụ Linh Mục, và đang làm
việc khắp năm châu bốn biển. Ấy vậy mới có câu hát: "Anh em con đi, đi khắp
năm châu, với tinh thần Lâm Bích." Vâng, tinh thần Lâm Bích là ở bất cứ
nơi đâu, anh em tôi cũng dẹp bỏ mọi mặc cảm về danh xưng "tu muộn", về
thời gian đào tạo, về trình độ học vấn, về những sự thua kém khác dưới cái nhìn
của những anh em Linh Mục chính qui từ tiểu chủng viện, và nhắm tới ý hướng
"mục tử tốt lành" để việc truyền giáo mang lại kết quả.
Chúa
Giêsu nên mẫu gương "mục tử tốt lành" cho các linh mục, và để nên mẫu
gương ấy, Ngài là Thiên Chúa Ngôi con làm người mà cũng đã vất vả biết chừng
nào, huống chi là những con người được trao tác vụ Linh Mục.
25. Đức
Cha Cassaigne
Năm
1926, Đức Cha Jean Cassaigne đến Việt Nam. Lúc đó ngài còn là một linh mục, và
được cử làm cha sở Di Linh.
Một
hôm khi vào rừng săn bắt kiếm thức ăn, cha gặp một phụ nữ nằm rên la trên một
chòi lá cao. Cha lên thăm và biết được đó là một người cùi bị gia đình bỏ mặc
chờ chết. Cha mang thuốc và thức ăn đến để chăm sóc bà, rồi dạy đạo cho bà.
Từ
đó cha bắt đầu đi tìm kiếm những người cùi, gom họ lại mà chăm sóc. Người ta có
thể đọc thấy những vất vả ngài phải chịu trong việc chăm sóc những người cùi
qua lá thư ngài viết cho một người bạn bên Pháp: “Trong 12 tháng, tôi bị sốt hết
10 tháng. Nhưng tôi không thể nằm nghỉ, vì không chút yên lòng và không có một
ai thay thế tôi lo cho bệnh nhân.”
CNPS 4B - CẦU CHO ƠN THIÊN
TRIỆU LINH MỤC VÀ TU SĨ
Lời Chúa: Ga 10, 11-18
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán: "Ta là mục tử tốt
lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì chiên. Kẻ làm thuê không phải là chủ
chiên, và các chiên không phải là của người ấy, nên khi thấy sói đến, nó bỏ
chiên mà trốn. Sói sẽ bắt chiên và làm chúng tản mát. Kẻ chăn thuê chạy trốn,
vì là đứa chăn thuê, và chẳng tha thiết gì đến đàn chiên.
Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các
chiên Ta biết Ta. Cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha, và Ta thí mạng sống vì
đàn chiên. Ta còn những chiên khác không thuộc đàn này; cả những chiên đó Ta
cũng phải mang về đàn; chúng sẽ nghe tiếng Ta. Và sẽ chỉ có một đàn chiên và một
chủ chiên.
Vì lẽ này mà Cha yêu mến Ta, là Ta thí mạng sống để
rồi lấy lại. Không ai cất mạng sống khỏi Ta, nhưng tự Ta, Ta thí mạng sống. Ta
có quyền thí mạng sống và cũng có quyền lấy lại. Đó là mệnh lệnh Ta đã nhận nơi
Cha Ta.”
TRUYỆN KỂ
1. Mục tử nhân lành
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ là một hình ảnh
quen thuộc đối với người Palestine. Giữa người và chiên có một mối tương quan mật
thiết.
Ở đây Đức Giêsu tự ví mình như người mục tử. Mục tử
nhân lành khác với người chăn thuê, vì dám hy sinh mạng sống mình cho đoàn
chiên, chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Đức Giêsu Kitô. Giữa
Ngài và từng con chiên, có mối dây gắn bó. Tôi biết chiên của tôi và chiên của
tôi biết tôi, như Cha biết tôi và tôi biết Cha.
Đây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều. Chiên
không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động. Chiên là hình ảnh của một ngôi
vị tự do. Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc. Chiên nghe tiếng của
Ngài và đi theo.
Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên có sự hiểu biết
nhau sâu xa, nhận ra nhau dễ dàng, và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
2. Trật đường rầy
Những thông tin gần đây về những đoàn tàu trật bánh
gây tổn thất về nhân mạng làm cho nhiều người sợ hãi. Ngày 2/4/2021, tại Đài
Loan, một đoàn tàu trật đường rầy, va vào vách núi, làm 48 người chết và 86 người
bị thương nặng. Ngày 18/4/2021, tại Ai Cập, một đoàn xe lửa chở khách đã trật
bánh, làm 11 người chết và 98 người bị thương. Nếu làm một bản thống kê chi tiết,
thì số vụ việc tương tự sẽ còn rất nhiều. Tai nạn xảy ra do bất cẩn. Tai nạn
cũng xảy ra do người lái tàu lệch hướng và gây ra sự cố “trật đường rầy.” Trong
đời sống của chúng ta cũng thế, có những người bị “trật đường rầy” khi sống bất
cần, không tôn trọng tiếng nói của lương tâm và không tuân theo những quy định
chung nhằm bảo vệ gia đình, công ích và trật tự xã hội.
Phụng vụ Chúa nhật thứ bốn mùa Phục sinh giới thiệu
với chúng ta một vị hướng dẫn chỉ đường, đó là Chúa Giêsu với danh xưng “Mục tử
nhân lành.” Người hướng dẫn chúng ta đi trên con đường ngay nẻo chính. Người
săn sóc chúng ta và luôn đem lại cho chúng ta những điều tốt lành.
3. Con mắt của vị hoàng đế
Đại tướng Marbot, trong một tập ký sự có kể lại: một
hôm khi còn là thiếu úy, vua Napoléon sai ông làm một việc cực kỳ nguy hiểm. Đó
là giữa đêm khuya, luồn qua bọn lính tuần tiễu đối phương, bắt một người lính
Áo đứng canh bên kia bờ sông Danube, tra khảo để xem tình thế quân địch. Sau
bao nhiêu cố gắng không thể tưởng tượng được, toán quân của thiếu úy vượt qua
được khúc sống và bắt được ba người lính Áo. Sau khi đã hoàn thành công tác, họ
đẩy thuyền ra xa, chèo về. Bỗng giòng nước cuốn mạnh đẩy một gốc cây lớn xô mạnh
vào thuyền. Tiếng động đó báo hiệu cho bọn lính tuần tiễu Áo. Họ vùng lên bắn xối
xả.
Trong cơn nguy biến cùng cực ấy, viên thiếu úy bỗng
nhìn thấy một ánh lửa toả ra từ sườn núi chỗ đóng quân bên kia bờ. Viên thiếu
úy đã hiểu rằng Napoléon đã theo dõi cuộc xô xát và đang chăm chú nhìn từ cửa sổ
của ông.
Đôi mắt phượng hoàng của Napoléon đã xoá tan bóng tối
để gửi đến cho những người lính trẻ sự cổ võ, khuyến khích. Viên thiếu úy có cảm
tưởng như nhà vua đã quên hết cả một đạo binh để chỉ nhìn về phía anh. Sự chăm
chú theo dõi của nhà vua đã đem lại cho những người lính trẻ sự phấn khởi để
giúp họ vượt qua được khó khăn và trở về an toàn.
4. Pho tượng Chúa chiên lành
Pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương La
mã là pho tượng Chúa chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới
pho tượng, có ghi câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng:”Ta là môn đệ của một
Mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên sườn núi và dưới đồng
bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi nơi.”
Chúa Kitô chính là người Mục tử nhìn xa thấy rộng ấy.
Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên,
bao trùm cả thế giới.. Đàn chiên ấy, ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một
phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc
vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa.
5. Liều mạng cứu chiên
Trong quyển The land and the Book, Thomas Thompson
có ghi lại câu chuyện bi đát như sau: Một ngày nọ có chàng mục đồng trẻ tuổi dẫn
đàn súc vật đi về vùng lân cận ngọn núi Thabor. Bỗng có ba tên cướp đường người
Ả rập xuất hiện. Chàng thanh niên biết rõ chàng sẽ gánh chịu những hậu quả khôn
lường, thế nhưng chàng đã không bỏ trốn. Chàng kiên cường chiến đấu để giữ cho
bầy súc vật của chàng khỏi rơi vào tay lũ thổ phỉ. Đoạn cuối được kết thúc bằng
cái chết liều mạng của chàng thanh niên cho đàn cừu của chàng.
6. Quo vadis?
Dưới thời bạo chúa Néron bắt đạo. Rôma ngập tràn máu
lửa, biết bao nhiêu tín hữu đã chết dưới tay ông bạo chúa điên loạn, bạo tàn.
Giáo hội non trẻ do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời
tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ cột của Giáo hội. Các tín hữu tha
thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục hướng dẫn đoàn chiên. Người anh cả
một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên đang nao núng vì sợ thiếu vắng
đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã chẳng khuyên khi người ta bắt bớ
chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành khác sao? Phêrô xách bị gậy đi
trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
- Quo vadis, Domine? Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
Chúa Giêsu trả lời:
- Nếu con bỏ các Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay
lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi
khích lệ đoàn chiên.
7. Tình yêu, con đường duy nhất để đến với thế giới bất
tín
Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy
nhất để đến với thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể
sống thiếu tình yêu. Trước tấm thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch,
vì do nhân danh một tư tưởng cao cả của nhân loại mà con người đã khước từ
Thiên Chúa, mọi Kitô hữu, mọi Linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu (…) thánh
Phanxicô đệ Salê đã nói: "Tất cả đều dành cho tình yêu, đều ở trong tình
yêu, đều vì tình yêu và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo hội.”
Nhưng cái chân lý cao cả ấy hau như đã bị lãng quên,
đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chận. Chỉ có người nữ tu dòng kín trẻ
trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy trong nét tươi tắn của thái độ
Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hon thê của Đấng chịu đóng đinh và đã
vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính thị cũng dâng hiến cho Người tình yêu vì
tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phụ. "Trong trái tim giáo hội
tôi sẽ là tình yêu" thế là đã rõ, mot xác quyết như thế đụng chạm tới tất
cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta không biết yêu và được yêu
trong chân lý (…)
Thánh Nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm
vang đích thực của Trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người
chúng ta. Dù ta là ai, ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình
yêu đã trao ban sự sống cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người,
Người là Đường la Sự Thật và là sự sống.
Công đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử
gia mai ngày có thể thắc mắc "Giáo hội thời Công đồng đã làm gì?" Đức
Phaolô VI đã trả lời họ ngay từ ngày 14.9.1965: "Giáo hội yêu, giáo hội
yêu, yêu bằng trái tim mục tử, yêu bằng trái tim đại kết, yêu bằng trái tim rộng
mở đón nhận mọi người kể cả những người bắt bớ giáo hội.” Ta nên tìm lại cái trực
cảm quan trọng ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa
thành Lisieux: "Giáo hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu.” Chúng ta được
Thiên Chúa yêu thương.
8. Sống và chết vì tình yêu
Ngày 6 tháng 9 năm 1943, năm người lính thuộc đội
quân của Đức quốc Xã bị phục kích và bị sát hại trên đường hành quân gần một
thành phố Italia. Để trả thù, viên đại tá chỉ huy quân đội Đức cho bắt năm mươi
người có thế giá nhất trong thành phố rồi đợi ngày đem đi xử bắn.
Được tin, Đức Tổng Giám Mục sở tại và Đức Cha phó nhất
định tìm cách cứu sống những thường dân vô tội này. Khi đến ngày bị xử bắn, năm
mươi người dân vô tội đó bị bịt mắt, bị trói chặt hai tay về phía sau lưng rồi
đứng thành hàng dài trước công trường của thành phố. Dân làng và thân nhân của
họ chỉ được chứng kiến tấn thảm kịch khủng khiếp này từ xa. Phía sau lưng những
người bị xử bắn là một hàng lính thuộc quân đội Đức quốc xã đang sẵn sàng chờ lệnh
để bóp cò nhả đạn để kết thúc cuộc đời của những người vô tội.
Một lần nữa Đức Tổng Giám Mục lại tìm cách thuyết phục
viên đại tá để xin ông xét lại và tha chết cho những người dân vô tội này. Thế
nhưng ông ta vẫn cứng lòng. Ý chí cương quyết trả thù còn hiện rõ hơn lên trên
nét mặt đã vốn lạnh lùng của ông.
Giờ đã điểm, một hồi còi hú lên báo hiệu giờ phải đến
đã đến.
Đức Tổng Giám Mục lại một lần nữa nài nỉ xin cho được
một đặc ân cuối cùng: Ngài xin cho ngài và Đức Giám Mục phó được ôm hôn từng
người sắp bị xử bắn, xức dầu tha tội và ban cho họ những lời khích lệ cuối
cùng.
Thật là may mắn! Lời thỉnh cầu của Ngài được chấp
thuận. Sau khi ban phép lành tha tội cho người thứ 50, Đức tổng Giám Mục và Đức
Cha Phó tự nguyện đứng tiếp nối vào hàng ngũ của những người bị xử bắn. Với tất
cả tấm lòng chân thành, vị mục tử của đoàn chiên đang phải sống những giờ phút
hãi hùng đến cực độ, bình thản nói với viên đại tá: “Bây giờ không phải chỉ có
50 người mà là 52 người. Chúng tôi xin ngài cứ hạ lệnh bắn. Xin Thiên Chúa nhân
từ tha thứ các tội ác của Ngài”
Đức Tổng Giám Mục vừa dứt lời, thì bỗng dưng từ
trong bầu khí chìm ngập sự chết chóc vang lên những tiếng vỗ tay reo hò.
Tất cả 50 khẩu súng đang nhắm vào 50 người vô tội
cùng một lúc dần dần hạ xuống và thế là cả chủ chăn và đàn chiên đều được thoát
chết.
9. Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho chiên
Năm 1870 chính phủ Hawai ra lệnh cho những người mắc
bệnh phong hủi, phải ở riêng cách biệt với mọi người. Họ dành riêng cù lao
Molokai để đưa những người phong hủi đến ở đó.
Tàu của nhà nước mỗi tuần chỉ tiếp tế cho những người
ở đây một lần. Những người phong hủi sống ở đó thiếu thuốc thang, thiếu sự chăm
sóc, nhất là thiếu an ủi và nâng đỡ đặc biệt là về phương diện tôn giáo. Khi vừa
nghe thấy tin này, được lòng mến Chúa thúc đẩy, cha Damien dòng Thánh Tâm người
nước Bỉ, đã tình nguyện xin Đức Giám mục Giáo phận cho phép ngài được ra sống
chung với những người xấu số đó. Thấy Đức Giám mục có vẻ lưỡng lự, cha Damien
đã quỳ xuống đất thưa rằng:
- Thưa Đức cha, mặc dầu con còn trẻ, nhưng khi khoác
lên mình chiếc áo dòng đen nhà tu, con đã trở nên những người của Chúa, con đã
sẵn sàng chết cho các linh hồn theo gương Chúa Giêsu.
Sau khi được phép đức Giám mục Giáo phận, cha Damien
lên đường ra đi, đến cù lao Molokai để sống chung với anh em phong hủi. Cha đã
sống với họ 16 năm: ra vào thăm nom, tập cho họ nghề nghiệp, dạy họ đọc và chữ
viết, rửa tội, giải tội, xức dầu thánh. Sau một thời gian vì quá gần gũi với những
người cùi, cha đã lây bệnh. Bác sĩ Woons viết rằng: cha Damien đã khác hẳn mười
năm trước đây. Mặt mũi giờ đây bị rộp và sưng lên. Hai tai dày cộm và xệ xuống,
các ngón tay đang lần lượt co quắp lại… cha đã trở nên giống các con chiên của
cha: da trán sưng lên; hai tai phồng ra to; mũi, má, cổ tay đều bị hủi ăn.
Sau 16 năm sống trong hy sinh và bệnh nạn, cha
Damien bị những vi trùng cùi đêm ngày tấn công, và sau hết phải ngã gục và chết
giữa con chiên.
Chúa Giêsu đã từ trời xuống thế để ở với loài người.
Chúa còn chết cho loài người.
Cha Damien đã chết giữa những con chiên mắc bệnh
phong hủi của cha, để một phần nào nói lên được điều Chúa đã nói trong bài Tin
Mừng hôm nay: “Mục tử tốt lành liều mạng sống vì con chiên.”
10. Chiên tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và
chúng theo tôi
Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, thấy ba người
chăn chiên dẫn bầy chiên của mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba
người chăn này kêu chiên mình:
Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả Rập có nghĩa là “Hãy
theo ta! Hãy theo ta!”).
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung
và đi theo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của
anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi
kêu như các anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi,
người Mỹ kêu: “Men ah! Men ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ
quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:
Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh
thôi sao?
Người chăn Syria trả lời:
Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất
cứ ai.
Vâng! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ
ai. Còn những con chiên khỏe mạnh thì luôn nghe theo tiếng của mục tử.
11. Chết thay
Hồi Đệ nhị thế chiến, một trại tù của Đức Quốc xã có
lệnh: “Các tù nhân có nhiệm vụ phải coi lẫn nhau. Nếu một tù nhân nào trốn trại,
thì sẽ có 10 tù nhân khác thế mạng”
Một buổi sáng kia, khi kiểm điểm các tù nhân, viên
cai tù phát giác thiếu một người! Thế là tất cả các tù nhân hôm ấy phải đứng
hàng giờ phơi nắng ngoài sân! Mãi đên chiêu, người sĩ quan Đức có trách nhiệm
nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ, tay chắp sau lưng, bước chân chậm rãi
trên đôi giày bốt-đờ-xô nện trên nền đá nghe “cộp, cộp!” Mắt ông trừng trừng
nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh thoảng ông dừng lại chỉ vào một người
và buông lời cộc lốc: “Mày phải thế mạng!” Cứ như thế ông đã chỉ đến người thứ
9, khi ông dừng lại người tù xấu số thứ 10, thì anh tù bật khóc nức nở! Trong số
tù nhân có Linh mục Maximiliano Kolbe liên giơ tay xin phát biểu:
Xin ông cho tôi được chết thay cho người này! Viên
sĩ quan quát:
Con heo Ba Lan kia, mày có điên không? Cha
Maximiliano Kolbe ôn tồn đáp
Thưa không, tôi là Linh mục chỉ có một mình, anh này
còn vợ con, cần được sống.
Trước sức mạnh của tình thương, viên sĩ quan đứng lặng
người trong giây lát, rồi buông lời:
Thuận.
Thế là cả 10 người “được chọn” bị đẩy vào hầm cho chết
đói! Trong hầm, cha Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu nguyện, cha đã cảm hóa
được 9 người kia xin theo đạo. Sau một tháng người ta mở cửa ngục ra xem, thấy
cha Maximiliano Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy họ đã chích cho
ngài mũi thuốc gọi là mũi thuốc ân huệ kết thúc cuộc đời...!
12. Mẹ chết thay con:
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Giăng
Coóctê (Jean Cortez) đã kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến.
Ông đang điều trị cho một bé gái tên là Angien. Em bị ung thư bao tử, một bệnh
rất hiếm gặp nơi trẻ em. Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành
báo tin buồn cho bà mẹ là ông đành chịu bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo này,
và cho biết Angien đã chết! Bà Maria mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin ấy.
Bà nhất quyết không cho ai đụng vào thi thể của con, và quì cầu nguyện nhiều giờ
bên giường con. Bác sĩ Coóc-tê rất xúc động khi nghe thấy lời bà cầu xin cho
mình được chết thay con. Ong cùng mọi người im lặng ra bên ngoài để bà một mình
với đứa con yêu đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng. Mọi
người hiện diện đều rất ngạc nhiên khi thấy Angien đã khỏe lại. Gương mặt em rạng
rỡ vui vẻ. Em đang ngồi trên giường và ôm mẹ, còn mẹ em thì lại nằm gục trên
giường và đang ở trong tình trạng sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng:
“Thưa bác sĩ, tôi rất mừng được Chúa đã thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi
được chịu bệnh thay thế cho con tôi!” Bấy giờ bác sĩ Coóctê lập tức cho tái xét
nghiệm va kết quả là bé Angien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Maria mẹ em lại mắc
chứng bệnh ung thư bao tử của em mà trước đó bà không hề mắc phải. Thân nhân
xúm lại chung quanh bà Maria để động viên an ủi bà và có người hứa sẽ thay bà
mà nhận bé Angien làm con và chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt. Vài giờ sau bà
Maria tắt thở trong bình an, Bà được mọi người kính phục về tình mẫu tử cao quí
bà dành cho con. Bác sĩ Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích lý do tại
sao chuyện này lại có thể xảy ra được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Angien đã chết.
Có thể đã có một quyền năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh
quái ác từ nơi đứa con sang cho bà mẹ!”
13. Anh phải sống
Có hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều
tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo
dòng nước trở về. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng
sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiec thuyền lan nhỏ bé của
họ bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng
dòng nước xoáy mỗi phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng
xem ra càng đuối dần khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy
sức chịu đựng của chồng đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dỏng nước
lũ cuốn trôi, chỉ kịp gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống
để nuôi nấng đàn con.”
14. Thiên thần hộ mạng
Một thai nhi sắp được chào đời. Nó mới hỏi Thượng đế
rằng: “Thưa Ngài, có phải ngày mai Ngài sẽ đưa con vào đời không?
Thượng đế trả lời: Đúng đó con ạ!
Đứa bé đáp: Nhưng làm sao con sống nổi ở đó khi mà
con quá nhỏ bé và bất lực như thế này?”
Thượng đế đáp: “Hãy yên tâm, trong số những thiên thần,
ta đã chọn cho con một người. Thiên thần của con sẽ ở bên con và chăm sóc con
chu đáo.”
Đứa bé lại hỏi: “Và làm sao con có thể hiểu được khi
họ nói chuyện với con bằng ngôn ngữ mà con chưa hề biết đến?”
Thượng đế trả lời: “Thiên thần của con sẽ nói với
con bằng những lời ngọt ngào và đẹp đẽ nhất mà con chưa từng được nghe, đồng thời
với sự nhẫn nại và cẩn trọng, thiên thần của con sẽ dậy con biết nói nhưng điều
hay lẽ phải.”
- Con nghe nói chốn trần gian lắm kẻ xấu xa. Vậy, ai
sẽ bảo vệ con?
- Thiên thần của con sẽ hộ trì con ngay cả khi điều
đó đe dọa đến tính mạng của mình.
- Nhưng con sẽ rất buồn vì không còn được thấy ngài
nữa.
- Thiên thần của con sẽ luôn nói với con về Ta, và dạy
con cách thức quay về với Ta mỗi khi lạc lối.
- Vậy thưa Ngài, nếu con phải đi ngay bây giờ, xin
hãy cho con biết tên thiên thần hộ mạng của con là gì?
- Tên của người không quan trọng, con chỉ giản đơn gọi
người là Mẹ.
15. Ba chữ D cần thiết cho ơn thiên triệu
Đức Hồng Y Yvan Dias, Tổng trưởng Thánh bộ Phúc âm
hóa các Dân tộc, đại diện Đức Thánh Cha đã chủ toạ bế mạc Năm Thánh 2010 tại
Thánh Địa La Vang.
Sau đại lễ, ĐHY Ivan Dias đã gặp gỡ các Giám Mục Việt
Nam trong một tiếng đồng hồ để chia sẻ về tình hình cũng như gởi gắm sứ điệp. Về
sứ điệp, ngài mời gọi tất cả Giám mục chia sẻ lại cho các linh mục, chủng sinh
của mình về 3 chữ D rất cần thiết trong đời sống của người thuộc về Giáo Hội. 3
Chữ D là: Doctrine, Discipline, Dévotion.
1. Doctrine, về giáo thuyết. Mỗi Linh mục hôm nay được
mời gọi nắm vững giáo lý Giáo hội Công giáo, giáo huấn Giáo hội, học thuyết xã
hội của GHCG, bởi vì nếu không nắm vững những hướng đi trong đó, thì trong cách
ứng xử một Linh mục ở tại giáo xứ nhiều khi có những cái chưa chuẩn mực và nếu
như cả một Giáo hội mà lại không nắm vững về Doctrine này thì rất nguy hiểm, sẽ
đưa Giáo hội đến chỗ không cứu vãn được. Tại sao Tòa Thánh phải lên tiếng về
Giáo hội Trung Quốc? Câu trả lời cho biết vì yếu về giáo thuyết. Nếu hiểu Giáo
hội không thể tự lực tự cường được thì người ta sẽ có chọn lựa khác. Chẳng phải
nói đâu xa, trường hợp của GHVN ngày nay cũng cho thấy thấp thoáng nguy cơ. Hết
rồi thời đối đầu, đã bước sang thời đối thoại. Nhưng đối thoại như thế nào để
mình vẫn là GHCG, đó lại là cả một tuyến mở ra cho suy nghĩ và vì vậy quan trọng
là nắm vững giáo thuyết để có những quyết định phù hợp.
2. Discipline, về kỷ luật. Đây là một vấn đề thường
gây khủng khoảng cho các Giáo hội phương Tây. Vấn đề Linh mục lạm dụng tình dục
là do việc không tuân thủ kỷ luật của Giáo hội, để đến khi bùng nổ ra thì không
vớt vát được. Hiện nay ở nhiều địa phận của Hoa Kỳ đã phải bán hết cơ sở của
mình đi để trang trải cho việc xao lãng kỷ luật của một thời. Đây là một vấn đề
đau lòng. Do đó, tuan thủ kỷ luật đời sống Linh mục là một cách để giúp Linh mục
một đàng thánh hóa bản thân và đàng khác tránh tất cả những hậu quả tai hại. Thời
mới bước chân vào Chủng viện, chắc chắn các chủng sinh đều thuộc lòng câu: Ai sống
theo kỷ luật là sống theo ý Chúa, và sau này trên bước đường lớn hơn, Linh mục
vẫn thường được nghe nhắc nhở: hãy giữ luật thì luật sẽ giữ cho mình, sẽ bảo vệ
mình. Cho nên chữ Discipline mời gọi mỗi người trong hướng đi đời Linh mục cũng
gắn bó với luật lệ của Giáo hội cách khít khao.
3. Dévotion, lòng đạo đức sốt sắng. Ở đây theo như lời
chú giải của ĐHY Dias, thì nó gắn liền với những phong trào đạo đức, có một thời
tưởng như bị bỏ rơi vì đi liền với lòng đạo đức bình dân của đại chúng. Thí dụ:
tràng hạt Mân Côi, có một thời người ta rẻ rúng cho là loại kinh dành cho phụ nữ,
người nhàn rỗi, người già… nhưng sau này người ta cảm nghiệm đươc sức mạnh của
kinh Mân Côi, nhất là sức mạnh hoán cải, sức mạnh thánh thiêng giúp người ta tiến
xa trên đường nên thánh. Những cái thuộc loại Dévotion thì thường gắn liền với
những hình thức văn hóa. Ví dụ: hành hương coi như chuyện đi chơi, nhưng ở đó
cũng là một thứ Dévotion mời gọi Linh mục không nên xem thường. Tất nhiên không
thể loại trừ những hình thức Dévotion truyền thống tôn sùng Thánh Tâm, Chầu
Thánh Thể, hay là những hình thức khác nhau dành cho các Thánh. Một Linh mục mà
rẻ rúng những hình thức đạo đức bình dân thì coi chừng, tưởng là mình ở trên đỉnh
cao trí thức, biết đâu lúc nào đó mình rớt xuống vực mà không hay. Lần hạt Mân
Côi, đó là một lời kinh tháp tùng Linh mục trên mọi bước đường, trong mọi hoàn
cảnh, đó là lời kinh còn lại duy nhất sau khi đã quên đi tất cả. Gắn bó với một
sự đạo đức như thế cũng là một cách giúp cho đời Linh mục được vươn lên, được
thăng tiến. (x. Huấn từ khai mạc Tình tâm Linh Mục Giáo Phận Phan Thiết, ngày
10.1.2011, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).
Chúa nhật IV Phục sinh, ngày cầu nguyện cho ơn thiên
triệu Linh mục và ơn gọi Tu sĩ nam nữ. Giáo Hội luôn cần đến những mục tử tốt
lành. Hãy cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều mục tử đạo đức, thánh thiện như lòng
Chúa mong ước.
16. Bản dịch kinh Thánh tốt nhất
Ba người ngồi trao đổi với nhau về bản dịch Kinh
Thánh.
Ông thứ nhất nói:
- Tôi thích bản dịch A. Nó sáng sủa hơn những bản dịch
trước. Bản dịch này đọc dễ hiểu hơn.
Ông thứ hai nhận định:
- Tôi thì thích bản dịch B hơn. Bản dịch vừa rõ ràng
lại vừa văn chương, rất thích hợp cho chúng ta cầu nguyện.
Ông cuối cùng nhỏ nhẹ nói:
- Phần tôi, tôi thích bản dịch của mẹ tôi nhất. Mẹ
tôi dịch Thánh Kinh ra thực tế, làm cho Thánh Kinh dễ dàng áp dụng vào đời sống
hằng ngày.
17. Hiến mạng cho chiên
Tháng 3 năm 1980 Đức cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San
Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản đối chính phủ vi phạm nhân
quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức bóc lột nông dân. Người
dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức cha đã đứng về phía
nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động của ngài có thể
đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như Chúa Giêsu, Người
Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên được sống và sống
dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày 24/3/1980, một tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức
cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ với giáo dân, đàn chiên của
Giáo phận ngài chăm sóc.
18. Luật độc thân linh mục
Đây là những nhận định của các vị hữu trách trong
các giáo phái, đã chân thành chia sẻ với các vị Chủ Chăn Công Giáo trong một
phiên họp thân mật:
1. Mục Sư Jungmann nói: "Qúi vị đừng nghĩ rằng
chỉ có Giáo Hội Công Giáo của quí vị gặp khủng hoảng, bên Tin Lành chúng toi
còn gặp khủng hoảng nặng hơn bên quí vị rất nhiều.
2. Trong một cuộc họp mặt giữa Linh Mục Công Giáo và
Mục Sư Tin Lành, một Mục Sư phát biểu về đời sống độc thân: "Tôi bắt đầu
hiểu giá trị đời sống độc thân nơi Giáo Hội Công Giáo. Tôi cảm thấy các Cha là
anh em với nhau, và tạo nên một gia đình thực sự, chúng tôi không thể nói được
như thế đối với chúng tôi... Nếu một Mục Sư nào đó thành công, tôi không sung
sướng gì; nếu một Muc Sư nào đó thất bại, tôi cũng không đau xót gì với ông. Giữa
chúng tôi không có bầu khí gia đình, họa chăng cũng chỉ có giữa vợ chồng chúng
tôi thôi.”
3. Đức Tổng Giám Mục Công Giáo ở Beyrouth (Liban)
tâm sự:
- Các Đức Cha hãy cố giữ lấy kho tàng quí báu của
Giáo Hội Latinh, tức là luật Linh Mục độc thân. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm
trong vấn đề này; vì Giáo Phận tôi, một Giáo Phận theo nghi lễ Đông Phương: Có
Linh Mục độc thân và có Linh Mục lập gia đình. Lắm vấn đề phức tạp mà quí vị
không thể tưởng tượng được.”
- Giáo Hội Công Giáo chúng tôi cũng như bên Chính Thống
Giáo luôn nuôi ở tòa Giám Mục vài Cha sống độc thân, để dự phòng sau này làm
Giám Mục kế vị chúng tôi, vì Giáo Luật đòi buộc Giám Mục phải sống độc thân.
- Lại còn phức tạp do luật buộc Linh Mục chỉ được kết
hôn một lần trước khi chịu Chức Thánh. Có những trường hợp Linh Mục mới có 30
hoặc 35 tuổi, vợ ông đã chết, tay bồng tay bế, lũ con nheo nhóc, không ai nuôi
dưỡng, thật nan giải.
- Trong việc mục vụ càng phức tạp hơn: Mặc dầu tập
quán Linh Mục lập gia đình đã có từ xưa truyền lại, Giáo Dân vẫn quí mến Linh Mục
độc thân hơn, các ngài dù ở xa hoặc đi đến đâu, họ cũng tìm cách gặp gỡ, để
xưng tội và xin lễ.
- Linh Mục có gia đình chỉ phục vụ trọn vẹn ngày
Chúa Nhật, còn các ngày khác họ phải lo làm ăn để nuôi sống gia đình. Như thế
làm sao tiếp xúc được với mọi người.
- Thuyên chuyển một Linh Mục có gia đình thật là một
vấn đề khó khăn. Được lệnh ông sẽ bảo: "Con sẵn sàng, nhưng vợ con mắc làm
ở sở kia, các cháu lại đang học ở trường nọ, gia đình con không cùng đồng tâm đến
địa phương đó.”
- Có khi Linh Mục thì tốt, nhưng bà vợ hoặc con cái
chưa nói là xấu, chỉ không được Giáo Dân trong xứ có thiện cảm, thì cũng đủ để
họ ghét luôn cả Linh Mục, rồi dan dà xa việc đạo. Trường hợp mà xảy ra thù hằn
thì còn mất cả Đức Tin nữa. Nếu thuyên chuyển Linh Mục ấy không được, thì cha
truyền con nối, tiếp tục giữ Giáo Xứ từ thế hệ này qua thế hệ khác, làm cho cả
Xứ Đạo phải chịu sự áp bức của một gia đình, nên đời sống đạo hạnh sa sút không
thể lường được.
19. Hạnh phúc được yêu
Cha Nguyễn Minh Hùng kể truyện: Còn nhớ có một lần,
tôi đến thăm một đôi vợ chồng trẻ. Cuộc thăm viếng này đe lại trong tôi lòng cảm
phục, vì đối với tôi, đôi vợ chồng này đã phải chịu đựng và vượt qua những khắc
nghiệt quá sức con người. Họ là một đôi vợ chồng nghèo, có ba đứa con. Cả ba đều
không hiểu biết gì, không nói được. Đứa con trai đầu có khuôn mặt dị dạng trông
rất sợ. Lúc tôi đến, anh đã đi ra rẫy, còn chị đang ngồi đan từng chiếc nan tre
để kiếm thêm tiền chợ, vừa phải trông con. Chị nói về ba đứa con của chị trong
nước mắt: "Nhieu lúc con muốn chết cho rồi, nhưng nghĩ lại ba đứa con, con
phải gượng sống. Cha nhớ cầu nguyện cho vợ chồng con can đảm.”
Bạn cứ nghĩ mà xem, trong tình cảnh đó, ta sẽ làm
gì? An ủi ư? Tôi nghĩ rằng, lời an ủi lúc đó sẽ vô nghĩa, sẽ lạc điệu vô cùng.
Tôi đã im lặng nghe chị kể, để người mẹ đau khổ ấy vơi bớt nỗi lòng, cũng là để
sự thông cảm trong tôi lắng sâu hơn, mạnh hơn đối với những người cha, người mẹ
đáng trân trọng ấy.
Người mục tử yêu mến đàn chiên thật, sẽ là người chấp
nhận hao mòn sức lực, một mực bảo vệ sự sống đàn chiên. Cũng thế, ba đứa bé tật
nguyền kia, nếu chúng không được sống hạnh phúc hơn do những khiếm khuyết trên
cơ thể, thì trong tình yêu của cha mẹ, chúng đang sống hết sức dồi dào.
20. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta
Truyện kể lại, vào dịp lễ Giáng sinh, khi thánh
Hiêrônimô đang cầu nguyện, suy gẫm về mầu nhiệm Nhập thể, Chúa hiện ra hỏi xem
thánh nhân có gì làm quà dâng cho Chúa không? Thánh Hiêrônimô thưa: xin dâng
lên Chúa trái tim của thánh nhân. Chúa hỏi: Còn gì nữa không? Hiêrônimô thưa là
xin dâng lên Chúa bản dịch Thánh kinh từ nguyên văn Hi lạp sang La ngữ được gọi
là bản phổ thông Vulgata. Chúa lại hỏi: còn gì nữa chứ? Thánh nhân thưa: đâu
còn gì nữa.
Chúa bảo còn tội lỗi của con thì sao? Thánh
Hiêrônimô đáp: đâu dám dâng lên Chúa của xấu đó. Chúa bảo cứ dâng lên Chúa để
xin được luyện lọc, thanh tẩy và tha thứ. Tội gì của thanh Hiêrônimô, thì ta
không biết và không cần biết.
Còn tội nóng tính của thánh Hiêrônimô thì giới học
giả Thánh kinh và ai đọc lịch sử thánh nhân thì đều biết cả. Dễ nóng tính,
thánh Hiêrônimô cũng dễ hối hận và mau mắn làm việc đền tội. Có vị giáo hoàng
thời Phục hưng, khi thấy hình thánh Hiêrônimô cầm hòn đá đấm vào ngực ăn năn tội
với nhận xét: Cầm hòn đá là việc làm tốt cho ông để tỏ lòng sám hối, nếu không,
Giáo hội khong bao giờ phong thánh cho ông đâu.
21. Tôi là ai?
Kết quả hình ảnh cho chúa chiên lành Tu viện nổi tiếng
nhất nọ cứ một lần trong năm mở cửa thâu nhận duy nhất 1 thỉnh sinh. Viện Phụ
đích thân phỏng vấn các ứng sinh chỉ hỏi một câu duy nhất. Nhưng trớ trêu thay,
không ai biết được câu hỏi duy nhất đó là câu gì, bởi vì tất cả những ứng viên
nào mà rớt cuộc thi, đều phải uống một viên thuốc do chính Viện Phụ chế ra,
công dụng làm cho các ứng sinh dự thi quên mất câu hỏi được đặt ra. Chính vì thế
mà việc chiêu sinh của Tu viện đã trải qua nhiều năm rồi mà chưa ai có thể biết
câu hỏi đó là gì.
Thế là cậu Ramin là tỏ ra quyết chí hơn cả. Cậu dành
dài năm cố gắng đọc và học qua thật nhiều sách: lịch sử, địa lý, văn chương, triết
lý, nghệ thuật, tâm lý, xã hội học, v.v... Rồi mùa thi đến, Ramin vào thi và
tin chắc mình sẽ trả lời được câu hỏi mà Viện Phụ sẽ hỏi. Hồi hộp bước vào
phòng thi, Ramin được Ngài hỏi câu duy nhất này là: Con hãy tự hỏi: Tôi là ai?
Và trả lời cho ta biết. Tôi là ai? Ramin lặp lại câu hỏi, nhưng không biết phải
trả lời như thế nào cho đúng, bèn rút lui không bao giờ trở lại Đan viện nữa.
Tôi là ai? Ðây là câu hỏi căn bản nhất, để bắt đầu mọi
cuộc dấn thân thực hiện chương trình sống của đời Kitô hữu. Nhất là cuộc sống
tu luyện bản thân, trở nên mục tử tốt. Như vậy rõ ràng những vốn liếng trí thức
không mà thôi thì chưa đủ để trở nên mục tử tốt lành mà Lời Chúa mời gọi chúng
ta hôm nay.
22. “Mục tử phải mang lấy mùi chiên”
Tại Đền thờ Thánh Phêrô, ĐTC Phanxicô cử hành Thánh
Lễ Làm Phép Dầu vào lúc 9giờ30, ngày Thứ Năm Tuần Thánh (28.3.2013), ngài nói với
các Linh mục: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của
mình.”
Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng:
mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn
chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm
vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về
đàng thiêng liêng cũng phải như vậy.
Linh mục Giuse Nguyễn Công Hoàng, Quản xứ Giáo xứ Mẹ
Thiên Chúa, sống gắn bó với đoàn chiên. Siêng năng thăm viếng giáo dân, hay ghé
thăm những gia đình lương dân, thường thăm cha mẹ của các tân tòng. Giúp đỡ người
nghèo, hay đến thăm các bệnh nhân và người già cả. Gần gũi chơi thể thao hàng
ngày với giới trẻ, ca hát sinh hoạt với thiếu nhi, vui tươi và hiền hòa với mọi
người, một linh mục trẻ dễ mến dễ thương…Từ ngày ngài về nhận xứ, số giáo dân
là 1.100. Sau 5 năm số giáo dân tăng lên là 1.544. Tăng 441 giáo dân, một con số
thật lý tưởng cho một vùng truyền giáo và tái truyền giáo giữa địa bàn dân cư
lương dân và anh chị em Tin lành tại Căn cứ 6 (4). Linh mục trẻ mới 5 năm chịu
chức, mang mùi của chiên, trở thành gương sáng trong sứ vụ mục tử.
Cha sở Gioan Vianney “là mục tử mang nặng mùi con
chiên của mình”, ngài là bổn mạng các Linh mục. Hôm nay ngày cầu nguyện cho các
mục tử, xin ngài giúp anh em linh mục chúng con luôn biết sống theo gương sáng
mục tử của ngài. Amen.
23. Con Ốc "Jesus"
Vài năm về trước, tôi đọc được một bài báo của
Carolyn Moran với tựa đề là "Con Ốc Cứu Vãn Cuộc Hôn Nhân Chúng Tôi."
Con ốc là ai? Carolyn giới thiệu "con ốc" bằng câu chuyện: Một ngày nọ,
bà ta đang ăn trưa với chồng và người con trai tên Mike tại nhà ở Los Angeles.
Mike là một phi công trực thăng. Trong lúc ăn, Mike và ba anh nói chuyện với
nhau về chiếc trực thăng mà anh lái: "Này ba, ba có biết không, chiếc trực
thăng coi thì nó thật là kiên cố, nhưng chiếc quạt chong chóng của nó chỉ được
giữ bởi một con ốc sáu cạnh."
Sau đó, anh quay qua mẹ anh, Mike hỏi, "Này mẹ
ơi, mẹ có biết họ gọi con ốc đó là gì không?" Mẹ anh ta nhún vai trả lời:
"Mẹ chịu thua."
Mike mỉm cười và nói, "Họ gọi nó là con ốc
'Jesus'." Chúa Giêsu, qua cái chết và phục sinh, Ngài đã ôm ấp toàn thể
nhân loại với nhau, cũng như chiếc ốc đã nối kết các bộ phận của chiếc trực
thăng với nhau.
Carolyn đã nhìn thấy Chúa Giêsu trong cùng một nhiệm
vụ đối với cuộc hôn nhân của bà y như chiếc ốc có nhiệm vụ trong chiếc trực
thăng của Mike. Chính Chúa Giêsu đã gìn giữ cho cuộc hôn nhân của bà được êm đẹp.
Giống như chiếc trực thăng, hôn nhân cũng là một vấn
đề phức tạp. Có rất nhiều sự kiện có thể đưa đến xáo trộn.
Khi loại bỏ Chúa Giêsu ra khỏi đời sống hôn nhân thì
sẽ giống như là loại bỏ chính con ốc "Jesus" ra khỏi chiếc trực thăng
của Mike vậy. Nó sẽ bị tan rã liền.
24. Triệu chứng 3 lên 1 xuống
Sau những ngày Đại Lễ Phục Sinh, Lễ Lòng Chúa Thương
Xót, ai cũng thấy mệt nhoài, có người kiệt sức phải đi nghỉ, đi khám bệnh. Kết
quả khám sức khỏe cho biết “3 lên, 1 xuống”: máu lên, mỡ lên, đường lên, nhưng
lượng oxy trong máu xuống. Căn bệnh này càng nặng thêm khi bị tác động của môi
trường chung quanh, về vật chất cũng “3 lên, 1 xuống”: gạo lên, điện lên, nước
lên, nhưng lương xuống; về tinh thần cũng “3 lên, 1 xuống”: tội ác lên, sự dữ
lên, án tù lên, nhưng đạo đức xuống, xuống thậm tệ, xuống chạm đáy!
Cái gì lên cao quá cũng không tốt, và cái gì xuống
quá cũng không hay. Phải cân bằng lại thì mới tốt cho sức khỏe. Còn đời sống
tâm linh thì thế nào? Trong năm Đời Sống Dâng Hiến phải chịu khó rà soát lại
coi có căn bệnh thiêng liêng nào không. Chắc ăn nhất là chạy đến “bác sĩ giáo
hoàng” Phanxicô ở Roma để nhờ bắt mạch hốt thuốc. Kết quả lần này cho thấy những
người sống đời dâng hiến thường mắc vào căn bệnh số 7 và số 15 trong số 15 bệnh
nan y được ĐTC liệt kê trong buổi tiếp kiến ngày 22/12/2014 dành cho những người
lãnh đạo các cơ quan trung ương tại giáo triều Rôma, trong đó 60 Hồng y và 50
Giám mục. Căn bệnh đó mang tên: “cạnh tranh và háo danh”; “tìm kiếm lợi lộc trần
tục và phô trương.” Cũng lại “3 lên, 1 xuống”: danh lên, lợi lên, quyền lên
nhưng lòng thương xót xuống! Hám danh, hám lợi, hám quyền, nhưng chẳng có lòng
xót thương!
25. Có tấm lòng của Chúa Chiên Lành
Vào ngày lễ Chúa Chiên Lành năm 1994, để đánh dấu
năm Quốc Tế Gia Đình, Đức Gioan Phaolô II đã phong chân phước cho bà Elysabeta
Calnorimora.
Bà có chồng được hai năm, sinh hai con gái. Người chồng
bỏ theo vợ bé, còn đánh đập bà đến thập tử nhất sinh. Nhưng bà được Chúa cho
thoát tay tử thần, sau đó bà gia nhập Tu hội đời dòng Chúa Ba Ngôi làm việc từ
thiện giúp đỡ nhiều người không may mắn về tinh thần cũng như vật chất, cùng cầu
nguyện liên lỉ cho người chồng ăn năn trở lại. Năm 1925, bà qua đời ở tuổi 51,
lúc ấy người chồng mới thức tỉnh quay trở về, sau ông tu dòng Chúa Ba Ngôi, làm
Linh mục rất thánh thiện.
Như thế, điều ta xin dường như không thấy, nhưng điều
ta được lại vượt quá ước mơ! Quả thật, bà Calnorimora chỉ xin Chúa cho chồng trở
về với gia đình, khi bà còn sống xem ra Chúa không nhận lời, nhưng sau khi bà
qua đời, chẳng những người chồng trở về nuôi con cái đoàng hoàng mà còn trở
thành một Linh mục thánh thiện, hơn lòng bà mơ ước! Chỉ vì nhờ Chúa Giêsu là Mục
Tử nhân lành đã chăn dắt mọi người trong gia đình bà!
26. Đức Cha Sanh
Đức Cha Gioan.B. Sanh thụ phong linh mục ngày 19
tháng 12 năm 1925. Ngày 24 tháng 1 năm 1927 được bổ nhiệm coi xứ đạo Di linh.
Nói là xứ đạo, chứ thực ra, Di linh lúc đó chỉ là một giáo điểm chưa có người
nào tòng giáo, cũng chưa có một tín hữu nào. Đôi khi có những công nhân công
giáo làm đồn điền tại các vùng lân cận tới dự thánh lễ vào ngày chúa nhật. Di
Linh thời đó chỉ có đồng bào thiểu số thuộc sắc tộc Kô Hô. Họ không hiểu tiếng
kinh, mà cũng không có một người kinh nào hiểu tiếng họ.
Nhận giáo xứ được ba năm từ 1927 tới ngày 29 tháng 3
năm 1930 mới có một người thượng lãnh pháp thánh tẩy: tên anh là K’Rai, nhận
tên thánh là Giu Se.
Sắc tộc Kôhô thời đó có rất nhiều người mắc bệnh
phong cùi. Khi còn làm việc được, thì người mắc bệnh cùi vẫn được chung sống với
gia đình, nhưng khi thân tàn ma dại, không làm gì được nữa, và khi các vết ung
cùi phá miệng lở loét, mủ máu váy đầy: khiến những người chung quanh không chịu
được sự hôi tanh, thì dân làng đưa họ vào rừng, cất cho họ một túp lều tranh, để
người cùi ở lại đó một mình, sống chết ra sao mặc kệ. Rồi bị yếu kiệt cô đơn
trong túp lều hiu quạnh, người cùi đói khổ mà chết dần, một cách thảm khốc, hoặc
là vì sống lẻ loi, nên bị cọp ăn thịt. Lúc bệnh vùi đã phá nặng, thì thân thể họ
như một thây ma. Mình mẩy sưng phù lên, hoặc cũng có thể bị khô teo lại, mặt
mày trở nét lạ thường, ai thấy cũng sợ. Hai vành tai chảy dài, dái tai lòng
thòng và sưng phù lên, lỗ mũi bành ra khác thường. Đôi môi sưng húp, cặp mắt đỏ
ngầu, tay chân biến đổi kỳ dị, rồi từng ngón tay, từng ngón chân rụng di, làm
gân co quắp lại.
Một ngày vào cuối thu năm 1927, trong một chuyến đi
thăm làng thượng bên cạnh, nhá nhem tối ngài mới về. Nhưng đang đi ven bìa rừng,
thì có một số bóng đen lố nhố, như những bóng ma xuất hiện trên đường ngài đang
đi. Rồi những người này kêu lớn tiếng: “Ôi Ông, xin thương chúng tôi!”
Ngài hỏi: “Các anh muốn gì?”
Họ đáp: “Chúng tôi là những người hủi bị bỏ rơi, rải
rắc quanh đây, xin Ông giúp đỡ chúng tôi”
Ngài yên ủi họ, và hứa sẽ tổ chức một trại cùi để
đưa họ về cùng sống chết với nhau ở đó. Năm 1929 trại cùi đầu tiên của Việt Nam
được thành lập, cách xứ Di Linh khoảng 1000 mét. Lúc thành lập có 21 người cùi,
cuối năm 1929 số người cùi lên tới 33, và rồi vào năm sau, lên tới 120 người.
Chính ngài lo ăn uống, thuốc men, nhà cửa cho họ. Rồi
hằng ngày cũng chính ngài đứng ra săn sóc họ. Ít lâu sau mới có một số nữ tu tới
cộng tác với ngài.
Ngày 1942 Tòa Thánh phong chức Giám mục cho ngài và
chuyển ngài về coi sóc giáo phận Sàigòn. Tới năm 1955, ngài xin từ chức Giám Mục,
trở về Di linh sống với bổn đạo cũ của ngài và săn sóc trại cùi ngài đã thành lập.
Vì quá tận tụy với những người cùi, nên ngài cũng bị mắc bệnh cùi của họ. Khi bệnh
tình đã quá nặng, có một lần Đức Giám Mục Đàlạt tới đề nghị với ngài, là sẽ đưa
ngài đi Âu Châu điều trị tại một bệnh viện danh tiếng. Nhưng ngài đã chắp hai
tay lại và nói như van nài: “Suốt đời tôi, tôi luôn cầu xin Chúa ban cho tôi ba
điều: Chịu đau khổ - Kiên nhẫn chịu đựng – và được chết nơi đây giữa đoàn chiên
yêu quý của tôi.”
Ngài mất tại Di Linh ngày 31 tháng 10 năm 1973
27. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên
Năm 1986, tại liên hoan phim Cannes, nước Pháp, một
bộ phim về truyền giáo của đạo diễn Roland Joffé đã đoạt giải “Cành Cọ Vàng.” Bộ
phim mang tên “Giáo Điểm Trên Cao” (The Mission). Những biến cố lịch sử trong bộ
phim này đều có thật, đã xảy ra quanh biên giới các quốc gia Argentina,
Paraguay và Brazil vào năm 1750.
Bộ phim kể lại câu chuyện về vị linh mục mang tên
Robert de Niro thuộc dòng Tên. Ngài được sai đến một giáo điểm truyền giáo ở một
vùng núi cao để truyền bá Tin Mừng cho thổ dân da đỏ tại đó. Dân da đỏ đã nhiệt
thành lãnh nhận niềm tin và rất quý mến cha Robert de Niro.
Nhưng vì quyền lợi đất đai, chính quyền bảo hộ Bồ
Đào Nha đã sai quân lính đến giải tán giáo điểm và đuổi thổ dân về rừng. Vị
linh mục cùng dân chúng cương quyết ở lại, để giữ vững niềm tin và bảo vệ cộng
đoàn. Cuối cùng, vì sự cương quyết đó, vị linh mục đã phải lãnh một loạt đạn của
quân lính vào ngực. Ngài gục chết giữa đàn chiên yêu dấu của mình. Ngài đã thí
mạng vì đàn chiên ấy.
28. Sức hút của tình yêu
Trước đây, kênh Truyền Hình Cáp Việt Nam 2, (VCTV2)
chiếu bộ phim “Bến Sông Trăng” của đạo diễn Đỗ Phú Hải. Bộ phim mô tả đời sống
của những người cùi tại trại phong Qui Hòa thuộc Qui Nhơn. Chuyện phim kể rằng:
Có một vị bác sĩ trẻ mới ra trường với danh vị thủ khoa. Sau một lần đến thăm
trại cùi, vị bác sĩ trẻ ấy đã tình nguyện đến để phục vụ những người cùi tại
nơi đây, mặc cho nhiều người dị nghị và ngăn cản. Động lực duy nhất thúc đẩy
chàng bác sĩ ấy hy sinh tất cả vì chàng đã nhìn thấy tấm lòng cao cả và vô vị lợi
của các chị nữ tu đang phục vụ tại nơi này. Chính mẹ bề trên đã đi thông nhà vệ
sinh của các bệnh nhân khi nhà vệ sinh bị tắc nghẽn. Chính gương hy sinh đó đã
làm thay đổi cuộc đời vị bác sĩ.
Phải chăng Đài Truyền Hình Cáp Việt Nam đang góp phần
làm cho lễ Chúa Chiên Lành tăng thêm ý nghĩa khi đề cao các chị nữ tu kia? Các
chị nữ tu đã trở thành “mục tử” của các bệnh nhân bất hạnh. Rồi đến lượt vị bác
sĩ trẻ cũng trở thành “mục tử” sẵn sàng hy sinh tất cả cho những kẻ đau khổ.
29. Tôi có yêu chiên được như thế không?
Mùa hè đỏ lửa năm 1972, cuộc chiến ác liệt xảy ra giữa
hai chế độ Cộng Sản miền Bắc và Cộng Hòa miền Nam. Những vùng sâu vùng xa thường
mất an ninh, quân đội của VN Cộng Hòa không kiểm soát được. Máy bay Mỹ thường
oanh tạc trên vùng đất này, dân chúng miền Trung chạy về Tòa Giám mục Nha
Trang, hy vọng ẩn náu nơi Nhà Chúa để được che chở, nhưng chốc chốc những quả đại
pháo phía Việt Cộng nã vào, làm nhiều người bị thương và có kẻ chết. Vì dân
chúng quá đông nên thiếu lương thực, thỉnh thoảng có chiếc trực thăng phía Cộng
Hòa liều mạng chuyên chở lương thực đến cho đồng bào, nhưng chẳng thấm vào đâu!
Lúc ấy, Đức Cha Phanxico Nguyễn Văn Thuận nhờ một chiếc trực thăng chở ngài về
Saigon để xin tiếp tế nhiều hơn nữa. Khi ngài về ra phi trường Tân Sơn Nhất trở
về Nha Trang, thì có một người đàn bà níu lấy áo ngài vừa khóc vừa nói: “Thưa
ông, cho tôi theo với”, Đức Cha gỡ tay bà ra và ôn tồn nói: “Này bà, bom đạn
ngoài ấy như mưa, bà trốn được vào đây là may rồi, còn đòi ra ngoài đấy làm
gì?” Nhưng bà kia vẫn cứ níu lấy áo ngài và năn nỉ: “Thưa ông, tôi có ba đứa
con, hai đứa tôi đã đưa nó vào Saigon rồi, còn một đứa tôi không biết nó lạc ở
đâu, tôi phải ra tìm nó, tôi không thể sống nếu thiếu nó!” Đức Cha cản bà không
được, đành cho bà lên chung máy bay để trở lại Nha Trang. Ngồi trên trực thăng,
Đức Cha nhìn bà và suy nghĩ: “Bà này chỉ lấy tình mẫu từ tự nhiên đối với con,
còn chính mình được giáo dục hơn bà, ngày chịu chức Linh mục và Giám mục người
ta nói mình là Chúa Kitô thứ hai, thế mà liệu mình có hy sinh cho đoàn chiên
hơn người đàn bà này không. ?!”
Khi Đức Cha đã về tới Nha Trang, ngài nhờ một số người
cùng với ngài đem bánh mì đi phát cho đồng bào, khi tới chân tháp chuông, ngài
thấy một người phụ nữ với bộ mặt sầu não, hai tay chị đang ôm chặt một cái gói,
khi đưa bánh mì đến cho, chị chẳng thèm nói gì, cứ cúi gầm mặt hai tay ghì chặt
cái gói vào ngực, nhân viên phát bánh tưởng chị này đã lấy lương thực nhiều không
muốn cho ai lấy lại, nên họ giật lấy gói của chị đang ôm, thấy thế chị òa lên
khóc! Mọi người ngỡ ngàng và xúc động khi biết bên trong gói đó là một đứa bé
đã chết thối mấy ngày! Nhìn cảnh tượng ấy, Đức Cha cũng không cầm được nước mắt
và càng làm cho ngài suy nghĩ nhiều hơn nữa: Liệu mình có yêu chiên của mình được
như thế hay không?! Có lẽ vì ấn tượng này mà khi ngài nhận chức Giám mục Phó
Giáo Phận Saigon, ngài bằng lòng bị bắt đi tù đày suốt 13 năm trong gian khổ mà
không mở miệng kêu ca! Tưởng đây cũng là một mẫu mục tử nhân lành, diễn tả phần
nào chân dung Mục Tử Nhân Hậu Giêsu.
30. Không hối tiếc vì yêu
Trong cuốn tiểu thuyết Love Story của nhà văn Erich
Segal, nhân vật Jenny Cavillery trước khi chết, đã nói với người yêu là Oliver
Barrett IV rằng: “Yêu là không bao giờ để mình phải nói câu ân hận.” Chúa Giêsu
khẳng định Ngài là mục tử nhân lành ở chỗ: biết rõ từng con chiên, bảo vệ
chiên, thí mạng vì chiên, và sau cùng qui tụ chiên trong một đoàn duy nhất,
không để chúng tản mác thất lạc. Qua tất cả những chứng cứ ấy, ta cảm nhận một
tình yêu đặc biệt nơi Chúa: miên viễn, vô biên, không hối tiếc! Đến hôm nay,
Chúa vẫn yêu thương nhân loại bằng một tình yêu mãnh liệt như vậy: “Không có
tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì người
mình yêu” (Ga 15,13).
Hãy cảm nếm hạnh phúc vì nhận biết mình là người được
Chúa yêu trên hết mọi sự, yêu hết cỡ, yêu đến chết. Cảm nhận ấy mời gọi bạn quyết
tâm yêu mến Ngài, để Ngài dẫn dắt đời bạn.
Khi yêu ai rồi thì người ta không hối tiếc vì đã
yêu. Điều ấy đúng nơi Chúa, và điều ấy có đúng nơi tình yêu bạn dành cho Chúa
không? Bạn đã yêu Chúa đến độ dám hy sinh tất cả vì Chúa không?
31. Xin được làm tôi tớ
Robert Morrison, một nhà truyền giáo nổi tiếng, khi
đi truyền giáo ở Trung Quốc, đã viết thư cho Hội truyền giáo ở bên Anh, để xin
một người trợ giúp. Để đáp lại, có một thanh niên xin được tự nguyện hiến thân
phục vụ.
Sau khi phỏng vấn, các thành viên trong hội truyền
giáo quyết định là mặc dù người thanh niên này là một Kitô hữu sốt sắng, nhưng
anh chưa hề được chuẩn bị và chưa có đủ yếu tố để ra đi truyền giáo, nên họ đề
nghị: “Chúng tôi nghĩ rằng anh chưa phù hợp với vai trò của một người truyền
giáo, nhưng nếu anh bằng lòng ra đi với tư cách là người giúp việc cho nhà truyền
giáo, thì chúng tôi cử anh đi.”
Sau khi nghe câu trả lời này, anh nói: “Dạ, thưa con
xin được sẵn sàng trở thành một người tôi tớ hoặc làm bất cứ việc gì để phục vụ
cho mục tiêu làm sáng danh Chúa.”
Thế là anh được sai đi trong vai trò của một người
lao công, nhưng chẳng bao lâu, anh trở thành một nhà truyền giáo, đó là tiến sĩ
Milne, một trong những nhà truyền giáo tốt lành giỏi giang nhất tại Trung Quốc.
32. Tôi chỉ sống một lần ở đời này
Một phụ nữ được bác sĩ chuẩn đoán đang bị căn bệnh ở
giai đoạn cuối. Trong ít ngày, bà ta vẫn tiếp tục sống như trước. Rồi một hôm,
bà ta tự nhủ: “Tôi đang làm gì? Tôi đang xây dựng tài khoản để làm gì? Tôi đang
sống như thế này là vì cái gì?” Sau đó, bà quyết định sống theo tiếng gọi của
con tim. Người phụ nữ đó sống thêm mười lăm tháng nữa. Trước khi chết, bà ta
tâm sự với một người bạn: “15 tháng cuối đời là chuỗi ngày phong phú nhất trong
cả đời tôi.”
Kinh nghiệm của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi:
giai đoạn nào trong đời tôi phong phú nhất?
Tôi chỉ băng qua thế giới này chỉ một lần. Hãy để
tôi làm những điều tốt đẹp và đừng ngăn cản, vì tôi sẽ chẳng còn băng qua thế
giới này nữa (Stephen Grellet).
33. Tình yêu không sợ hãi
Tháng 3/1980 Đức cha Rômero của San Salvador đã mạnh
mẽ phản đối việc chính phủ không tôn trọng nhân quyền. Ngài ý thức sự phản đối
này có thể dẫn đến tù tội và ngay cả cái chết. Nhưng cũng như Chúa Giêsu, ngài
sẵn sàng hy sinh mạng sống vì những gì ngài tin là thánh ý Thiên Chúa. Ngày
24/3 ngài đã bị ám sát khi đang đứng ở bàn thờ dâng thánh lễ.
Tôi sẵn sàng thế nào trong việc lên tiếng vì những
gì tôi tin là thánh ý Thiên Chúa? Làm sao biết được đâu là thánh ý Thiên Chúa
Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại … biết chiến
đấu mà không sợ thương tích, … biết lao động mà không đòi hỏi phần thưởng nào
khác hơn là biết rằng con đang thực hiện thánh ý Chúa (Thánh Ignatiô Loyola).
34. Chúa biết con cần đến Chúa
Một cô gái tìm thấy trong số tài sản cha cô để lại
sau khi chết, lời cầu nguyện đầy xúc động này: “Lạy Chúa, con không thể cầu
nguyện. Con không thể tìm được sức khỏe và bình an trong tâm trí. Mặc dù Ngài
đã chịu đau khổ hơn con, nhưng điều đó chẳng giúp gì cho con, dù con đã cố gắng.
Xin cất đi sự yếu đuối và ban cho con sức mạnh. Con cần biết rằng có Chúa trợ
giúp, con sẽ thành công. Xin cầm lấy tay con và cho con bám víu vào Ngài. Xin
cho con biết rằng được Chúa nâng đỡ, chẳng gì có thể hại con được.”
Suy nghĩ gì trong lời cầu nguyện của người cha trên
đây liên hệ đến tôi và tôi có thể lấy đó làm lời cầu nguyện của chính tôi?
Lạy Chúa nhân lành, xin cầm tay con dắt con qua
giông tố, qua đêm đen bước vào ánh sáng… Xin dẫn dắt con và đưa con tới quê
nhà. (Thomas A.Dorsey)
35. Chăn chiên cần xả thân
Laura Bell không phải là một mẫu sinh viên tốt nghiệp
đại học, điển hình của quí bạn. Sau khi tốt nghiệp xong, cô chọn nghề chăn cừu
tại Wyoming. một số bạn bè nghĩ rằng cô ta “khùng.” Nhưng vì muốn thách thức
nên Laura đã chấp nhận nghiệp vụ ấy.
Mỗi ngày cô làm việc tới 18 tiếng đồng hồ và làm suốt
cả 7 ngày trong tuần. Cô làm từ sáng sớm và chỉ nghỉ vào lúc mặt trời lặn. Suốt
thời gian này cô hoàn toàn cô đơn chỉ biết bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai
ngàn chú cừu. Mỗi tuần lễ một lần có người cưỡi ngựa băng qua đồi mang đến cho
cô thực phẩm, thư từ và những băng đạn.
Công việc của Laura làm sao giữ cho đàn cừu ở chung
một chỗ. Dẫn chúng đến chỗ có cỏ và nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Cô nói: “Khi bạn hoàn toàn một mình ở ngoài ấy, thì chẳng có ai để sửa đổi lầm
lỗi của bạn cả. Vì thế các bạn phải cảnh giác gấp đôi để coi chừng những hiểm
nguy có thể xảy ra, chẳng hạn có những loài rắn cực độc, và cũng đừng làm điều
gì khiến cho chú ngựa của quí bạn phải bực mình đấy nhé!”
Laura nói rằng việc thay đổi thời tiết là một trong
những niềm vui của nàng nhưng nó cũng gây cho nàng những cơn nhức đầu ghê gớm
nhất. Thời tiết sẽ qui định những động thái của bầy cừu cũng như tính chất ngày
làm việc của nàng. Một buổi sáng nọ, một nhóm cừu tự rời khỏi bầy chính, thế là
Laura bỏ thời gian còn lại trong ngày lần theo dấu vết chúng; ngay khi nàng vừa
tìm thấy chúng thì một cơn mưa bão dìm ngập nàng lẫn bầy cừu trong nước mưa,
đêm ấy, nàng phải chịu rét run trong đống mền ướt sũng nước.
36. Tình yêu biến đổi tâm hồn
Hoàng Tử Bé, trong tác phẩm cùng tên của
Saint-Exupéry, đã yêu một hoa hồng luôn tự hào mình là hoa hồng duy nhất. Khi đến
trái đất và gặp một khu vườn đầy hoa hồng thì cậu cảm thấy rất đau khổ. Cậu kể:
“Đoá hoa của em, cô ta đã có kể với em rằng cô ta là độc nhất vô nhị của loại
hoa hồng trong vũ trụ. Thế nhưng đây này, chỉ mới trong mỗi một khu vườn đã có
đến năm nghìn đoá giống nhau hết.”
Sau khi gặp con cáo và học bài học về tình thân, cậu
nói với các hoa hồng ở vườn hoa: “Các cô chẳng giống chút nào với đoá hoa hồng
của tôi, các cô chưa là gì cả. Chưa ai làm cho các cô thân quen, các cô cũng
chưa làm cho ai thân quen. Các cô giống như con cáo của tôi trước kia. Trước
kia, nó là một con cáo giống như trăm nghìn con cáo. Song tôi đã làm nó thành bạn
thân của tôi, và bây giờ nó trở nên duy nhất trên đời.”
37. Muốn lui quân Tề không dùng Ngô Khởi không xong
Ngô Khởi người nước Vệ, tinh thông binh pháp, làm
quan ở nước Lỗ. Quan Tướng quốc nước Lỗ là Công Nghi Hưu, thường cùng với Ngô
Khởi bàn việc binh, biết Ngô Khởi là người có tài, bèn nói với Lỗ Mục Công,
dùng làm quan đại phu.
Bấy giờ nước Lỗ bị quân Tề tiến đánh, Công Nghi Hưu
nói với Lỗ Mục Công: “Muốn lui quân Tề, không dùng Ngô Khởi không xong!”
Từ khi làm đại tướng, đem hai vạn quân ra đánh Tề,
Ngô Khởi cơm ăn áo mặc cũng như các quân sĩ khác, nằm không giải nệm, đi không
ngồi xe, trông thấy quân sĩ khiêng vác nặng nề cũng đến làm hộ. Một tên quân có
bệnh đau nhọt, Ngô Khởi thân hành chạy chữa thuốc thang, rồi ghé miệng hút mủ
cho nó. Quân sĩ cảm cái ơn Ngô Khởi, khác nào tình cha con, đều dốc tâm cố sức
đánh giặc, và đại thắng.
Với tình yêu mục tử, Ngôi Lời nhập thể đã chia sẻ phận
hèn của tôi, chịu tử nạn để mang vác tội lỗi của tôi, đi vào con đường không được
thế gian chấp nhận, trở nên như viên đá bị thợ xây loại bỏ.
38. Chúa yêu tôi hơn tôi yêu Chúa
Một vị mục sư trung thành, đạo đức, đang đau nặng.
Anh en tín đồ quì cạnh giường bệnh, cầu xin Chúa cứu chữa cho ông. Họ nhắc với
Chúa rằng ông coi sóc bầy chiên của Người rất tận tâm và họ lập đi lập lại câu
này: “Chúa biết không mục sư yêu mến Ngài biết bao!”
Nghe vậy vị mục sư bèn xoay qua phía họ mà nói:
- Xin anh em đừng cầu nguyện như thế. Khi Maria và
Matta sai người đi mời Đức Giêsu, thì họ không nói “Lạy Chúa, này kẻ yêu Chúa”
nhưng nói: “Lạy Chúa, này kẻ Chúa yêu đang bị đau nặng.” Tôi được yên ủi chẳng
phải vì tôi yêu Chúa cách bất toàn, nhưng vì Chúa yêu tôi cách trọn vẹn.”
Nhiều khi chúng ta tưởng mình yêu Chúa nhưng chính
Chúa mới là người yêu chúng ta trước, yêu vô điều kiện, và yêu không bến bờ.
39. Ai muốn theo Ta phải bỏ mình
Hiểu
ý cha, nhưng ngài vẫn tiếp tục nài nỉ: “Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con
muốn trở thành linh mục!”
Vừa
nghe biết ý định cậu con trai muốn đi tu, nước mắt người cha từ từ lăn dài trên
đôi má gầy còm. Phải một lúc lâu sau đó, ông mới nghẹn ngào nói được: “Ba má đã
hy sinh quá nhiều, nhưng để được một người con hiến dâng cho Chúa thì ba má sẽ
lại tiếp tục hy sinh.”
CNPS 4C - CHIÊN TA ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI
Lời Chúa: Ga 10, 27-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Chiên Ta thì
nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. Ta cho chúng được sống đời đời;
chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta.
Ðiều mà Cha Ta ban cho Ta, thì cao trọng hơn tất cả,
và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Ta. Ta và Cha Ta là một.”
TRUYỆN KỂ
1. Chúng theo Tôi--‘Manna’
"Hỡi các thiên thần trên trời, các thiên thần của
Chúa, các thiên thần của bình an và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những bông hồng,
bông súng, những bài hát du dương và những nốt nhạc ngát hương; và xin hãy đổ
tràn nhân đức, can đảm và hạnh phúc trên những nữ tì của Chúa"
Đó là câu kết của một bài văn viết bằng tiếng Pháp,
thấy nằm trong túi áo của Hàn Mạc Tử lúc ông qua đời. Ông đã viết bài này gần
ba tuần trước khi mất để ca ngợi lòng tận tụy của các nữ tu Phan sinh đã chăm
sóc ông trong những ngày cuối đời ở Quy Hòa.
Màu áo dòng trắng, sự tươi tắn và những lời ca êm dịu
đã làm nhẹ nỗi đau của chàng thi sĩ mắc bệnh phong. Thế giới hôm nay vẫn cần ai
đem đến cho nó chút hương thơm của Tuyệt Đối, chút ngọt ngào của Vô Cùng, để
thiên đàng chẳng phải là chuyện xa xôi, huyễn hoặc, Thiên Chúa chẳng phải là
huyền thoại vu vơ.
Hội Thánh hôm nay vẫn cần đến những người của Chúa:
cần bóng linh mục cho những họ lẻ, bị lãng quên, cần bước chân mạnh dạn ra đi
loan báo Tin Mừng, cần sự trầm mặc của người đắm mình trong chiêm niệm cần bàn
tay nhẹ nhàng xoa dịu mọi vết thương, và trên hết cần những trái tim không san
sẻ, dám yêu hết mình, dám sống hết tình, hết mình cho Thiên Chúa, hết tình cho
mọi người, đặc biệt cho những ai đã đánh mất mọi hy vọng.
2. Chiên Tôi thì
nghe tiếng Tôi
Đại Văn Hào Lêon Tolstoi nổi tiếng nhất nước Nga đã
viết một tác phẩm tựa đề: Chiến Tranh và Hòa Bình, ông mô tả lại những chiến
công hiển hách của Đại Đế Napolêon, một thiên tài xưa nay chưa từng có
(1769-1821). Hầu như ông đã làm bá chủ Châu Âu, quân của ông bách chiến bách thắng.
Chỉ còn chiếm thủ đô nước Nga là xong. Ông kéo năm trăm nghìn quân hùng tướng mạnh,
chỉ trong vòng một tháng đã đánh chiếm thủ đô Moscow. Thế là xong. Sĩ quan,
binh sĩ của ông reo hò ăn mừng như chiếm được thiên đàng trần gian. Thế là quan
quân tha hồ hôi của, vơ vét, thành đoàn quân cướp phá, ăn chơi, hãm hiếp, đánh
lộn nhau, làm rối loạn thủ đô huy hoàng của Nga Xô. Napolêon đại đế trước kia
ra lệnh như sấm sét, quan quân răm rắp nghe theo. Nay tại thủ đô chiến thắng
này, ông ra lệnh không còn ai nghe nữa. Binh hùng tướng giỏi của ông trở thành
những con ngựa bất kham, chỉ lo ăn chơi, cướp của, hãm hiếp. Cuối cùng, ông
đành bó tay rút khỏi Moscow (Mascova), lật đật chạy trốn về Pháp với hơn ba
mươi nghìn quân thân tàn ma dại, chết đói, đến nỗi ngựa cũng không còn để giết
mà ăn.
Hơn nửa triệu con chiên hùng dũng tuân lệnh ông, đã
bách chiến bách thắng khắp Châu Âu. Khi những con chiên đó lao đầu theo tiền của,
ăn chơi, chúng không nghe lệnh ông nữa, chúng đã phải chết rữa xác rải rác trên
đường chạy trốn. Nếu chúng biết nghe tiếng ông, thì vinh quang biết mấy!
3. Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và
chúng theo tôi
Dương Ân Điển là đứa trẻ bị bỏ rơi, người ta nhặt được
nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền nam đảo Đài Loan. Câu
chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có
hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.
Thế mà, 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở
thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức
nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những
người vẽ tranh bằng chân và miệng.
Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công
rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận
nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống,
nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với
cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc.”
Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay
đổi số phận của một con người.
***
“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và
chúng theo tôi” (Ga 10,27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương
mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù,
có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị
trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt
trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng
Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương
vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.
4. Ơn gọi trong bóng tối
Trong một quyển truyện có tựa đề Quyền lực và vinh
quang, nhà văn Graham Greene kể lại một câu chuyện có thật xảy ra tại một quốc
gia Nam Mỹ.
Khi ấy, một chính phủ thù ghét đạo Công giáo lên nắm
quyền và ra lệnh trục xuất tất cả các linh mục ra khỏi đất nước. Linh mục nào
còn ở lại và lén lút thi hành mục vụ thì sẽ bị bắt và xử tử. Phần lớn các linh
mục buộc lòng phải rời đi. Một số ít can đảm ở lại thì cũng lần lượt bị bắt và
hành quyết.
Nhưng không ai ngờ rằng vẫn còn sót lại một linh mục.
Vị này không bị chú ý vì... chẳng ai xem ông là một linh mục đúng nghĩa nữa.
Ông đã từng sống bê bối, sống trong tội, và đã hồi tục. Ông không còn chăm sóc
giáo xứ nào, cũng chẳng quan tâm đến những nhu cầu thiêng liêng của người tín hữu.
Mỗi ngày, ông chỉ lang thang kiếm tiền và uống rượu.
Trước đây, giáo dân rất khinh thường ông. Nhưng
trong hoàn cảnh không còn linh mục nào, họ lại cần đến ông. Họ tìm đến để xin
ông ban các bí tích: rửa tội, giải tội, dâng lễ, xức dầu bệnh nhân... Và ông đồng
ý, nhưng với điều kiện: phải trả tiền. Rửa tội cho một em bé thì mấy đồng, giải
tội thì mấy đồng, dâng lễ thì mấy đồng, xức dầu cũng mấy đồng... mọi sự đều có
giá.
Dĩ nhiên, ai cũng biết rằng việc ông cử hành các bí
tích trong tình trạng tội lỗi là điều sai trái. Nhưng thật bất ngờ, chính người
linh mục tội lỗi ấy lại trở thành khí cụ Chúa dùng để nuôi dưỡng đoàn chiên
trong cơn bách hại. Nhờ ông, dân Chúa vẫn còn được lãnh nhận các bí tích, và vẫn
giữ được đức tin.
Thế rồi, nhà cầm quyền bắt đầu để ý đến các hoạt động
của ông và ra lệnh truy nã. Ông sợ bị xử tử, nên tìm cách vượt biên qua nước
khác. Nhưng khi đang trên đường trốn, có người chạy theo, năn nỉ ông quay lại để
ban bí tích sau cùng cho một người hấp hối. Không nỡ để một người chết mà không
được lãnh nhận ơn Chúa, ông đã quay lại. Và rồi, đúng như ông dự đoán, ông bị bắt
và bị đem ra pháp trường.
Trước giờ bị xử bắn, ông ăn năn, xin Chúa tha thứ mọi
tội lỗi, và phó dâng linh hồn mình trong tay Thiên Chúa. Ông bình thản ngước mặt
lên chờ đợi cái chết.
Và rồi – như một dấu chỉ của lòng Chúa thương xót –
ông nhìn thấy giữa đám đông có một người đang âm thầm giơ tay ban phép giải tội
cho mình. Đó là một linh mục khác, vừa mới lén trở về để tiếp tục sứ mạng mục tử
– sứ mạng của một người chăn chiên giữa đoàn chiên đang đói khát.
5. Không ai cướp được
chúng khỏi tay tôi
Một cô gái tìm thấy trong số tài sản cha cô để lại
sau khi chết, lời cầu nguyện đầy xúc động này: “Lạy Chúa, con không thể cầu
nguyện. Con không thể tìm được sức khỏe và bình an trong tâm trí. Mặc dù Ngài
đã chịu đau khổ hơn con, nhưng điều đó chẳng giúp gì cho con, dù con đã cố gắng.
Xin cất đi sự yếu đuối và ban cho con sức mạnh. Con cần biết rằng có Chúa trợ
giúp, con sẽ thành công. Xin cầm lấy tay con và cho con bám víu vào Ngài. Xin
cho con biết rằng được Chúa nâng đỡ, chẳng gì có thể hại con được.”
Suy nghĩ gì trong lời cầu nguyện của người cha trên
đây liên hệ đến tôi và tôi có thể lấy đó làm lời cầu nguyện của chính tôi?
Lạy Chúa nhân lành, xin cầm tay con dắt con qua
giông tố, qua đêm đen bước vào ánh sáng… Xin dẫn dắt con và đưa con tới quê
nhà. (Thomas A.Dorsey)
6. Ta biết chiên của Ta
Khoảng giữa thế kỷ 19, Thánh Gioan Bosco bắt đầu hoạt
động phục vụ những người trẻ nghèo nàn ở thành phố Turinô nước Ý. Họ đã sớm nhận
ra ngài thực sự là một người bạn của họ. Họ yêu quý ngài đến nỗi khi ngài lâm
trọng bệnh thì họ tha thiết cầu nguyện tưởng như muốn xé rách bầu trời, có người
còn xin Chúa cho mình chết thay ngài. Nhờ những lời cầu nguyện ấy, Thánh Gioan
Boscô đã khoẻ lại. Tình cảm trìu mến ấy không thể có được nếu Gioan Bosco và
đám trẻ ấy đã không gần gũi nhau, biết nhau và yêu thương nhau.
Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói "Ta
biết chiên của Ta.” Ngài biết chiên Ngài bởi vì Ngài là mục tử tốt lành. Có nhiều
mức độ biết: có khi chỉ là biết mặt, biết tên; có khi biết như một người quen;
có khi biết như một người bạn thân thiết.
Không biết người ta là một điều rất buồn thảm. Nhà
văn Do Thái Elia Wiesel rất thương cha mình, nhưng người cha ấy đã chết trong
trại tù Auschwitz năm 1944. Trong quyển tự thuật, nhà văn ấy tâm sự: "Tôi
chưa bao giờ thực sự biết cha tôi. Thực đau lòng mà phải thú nhận như vậy. Tôi
đã biết quá ít về người mà tôi yêu quý nhất đời ấy, người mà chỉ cần nhìn tôi một
cái cũng đủ làm cho lòng tôi xao xuyến. Không hiểu những người con khác có gặp
phải vấn đề như tôi không. Họ có biết cha họ không phải chỉ là một con người có
nét mặt uy quyền, buổi sáng đi làm và buổi chiều trở về mang bánh đặt lên bàn
ăn không?"
E rằng những lời buồn thảm trên đây cũng là tiếng
than của rất nhiều đứa con khác. Ngày nay con cái không biết cha mẹ và cha mẹ
không biết con cái. Muốn biết thì phải mất nhiều thời giờ và nhiều cố gắng,
nhưng nó sẽ mang lại nhiều hoa trái. Còn nếu không biết thì sẽ phải gánh chịu
nhiều mất mát. Đời sống trôi qua rất nhanh khiến chúng ta ít biết nhau. Mà
không biết nhau thì không thể yêu thương nhau được.
7. Chúa là mục tử tôi
Một nhóm người ngồi lại với nhau, kể cho nhau nghe
những ký ức vui buồn. Sau một lúc trao đổi, họ đưa ra một số vấn đề thách đố
nhau về hiểu biết Thánh Kinh.
Một thanh niên đứng lên đọc: “Chúa là Mục tử tôi,
tôi không còn thiếu gì…” Anh đọc cả thánh vịnh ấy một cách thành thạo lần thứ
hai và thứ ba giữa tiếng vỗ tay của hoan hô của mọi người.
Người thứ hai lên tiếng là một ông cụ, lưng đã gù và
giọng yếu ớt, nghe rất khó. Ông cụ khom cả người, đứng trong góc nhà và chỉ đọc
một câu: “Thiên Chúa là Mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì.”
Khi ông cụ vừa dứt lời, cả gian phòng bỗng im lặng
như tờ, mọi người đều cúi đầu, chìm lắng trong bầu khí cầu nguyện.
Anh thanh niên có học lúc đó mới lên tiếng giải
thích về hai cách hiểu thánh vịnh: “Quả thật, tôi cũng có hiểu biết thánh vịnh ấy;
tuy nhiên, chính ông cụ đây mới là người hiểu biết vị Mục tử.”
8. Chiên thì phải theo
Chủ.
Có một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syrie, thấy ba người
chăn chiên dẫn bầy của mình đi ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người
chăn này kêu chiên mình:
- Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là
"Hãy theo ta! Hãy theo ta!")
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy chung
và đi theo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của
anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
- Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để
tôi kêu như mấy người kia kêu, xem các con chiên của anh có theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong
xuôi, người Mỹ kêu:"Men ah! Men ah!", nhưng chẳng có con chiên nào
nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:
- Thế chiên của anh không nghe tiếng ai khác, ngoại
trừ anh thôi sao?
Người chăn Syrie trả lời:
- Ồ! có chứ! Nhưng đó là vài con chiên bị bệnh, nó sẽ
đi theo bất cứ ai.
Theo tâm lý học, trong tình yêu có ba mức độ.
Mức độ thứ nhất: Thích nhìn, nghe người mình yêu.
Mức độ thứ hai: Trong mọi chương trình, tính toán của
đời mình đều có bóng dáng của người yêu.
Mức độ cuối cùng: Chia sẻ tất cả những gì mình có, kể
cả cuộc sống của mình vì người mình yêu.
Như thế, theo tức là yêu thương ở mức độ cao. Con
chiên đi theo Chúa phải hoàn toàn chủ động và nhất là phải thiết lập một quan hệ
mật thiết với Chúa là Chủ của mình.
9. Giai điệu hạnh
phúc
Trong một cuốn phim tựa đề là "Giai điệu
hạnh phúc" (La mélodie du bonheur), cô ma-ry là một người đang đi
tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện nữ. Một hôm bà bề trên sai cô đi làm
gia sư trong một gia đình quí tộc. Ông đại uý chủ nhà là người giàu
có, góa vợ và luôn tỏ ra nghiêm khắc trong cách giáo dục con cái. Ông
muốn chúng có tinh thần kỷ luật giống như một người lính trong quân
đội.
Khi mới đến nhận việc, cô Ma-ry đã bị bọn
trẻ cố tình trêu chọc. Nhưng nhờ tình thương của một thầy giáo, kèm
theo sự hiểu biết tâm lý và cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết,
cùng những bài hát vui tươi và vũ điệu lôi cuốn của cô... Cuối cùng
cô đã hòan tòan chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng trở
nên những trẻ em ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng luôn vâng lời cô giáo, không
cần cô phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo kiểu cha của chúng.
Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại uý chủ
nhà.
Câu chuyện kết thúc bằng việc cả gia đình ông
đại úy đã khôn ngoan thoát khỏi sự ruồng bắt của chính quyền phát
xít Đức lúc đó. Họ cùng nhau vượt qua biên giới an toàn để bước vào
một cuộc sống mới đầy yêu thương và hạnh phúc.
10. Đời sống của thánh
Vianney tại giáo xứ Ars
Ngày 13/02/1818, cha Vianey đến nhận nhiệm sở mới.
Cha sống rất đạm bạc. Lối sống đạo đức và giản dị của cha đã chiếm được lòng
yêu mến của giáo dân. Ngài chia sẻ với người nghèo những gì mình có. Ngài dành
nhiều giờ trong ngày để cầu nguyện, ngồi giải tội và thăm viếng giáo dân.
Một người trong giáo xứ đã làm chứng: “ngài cho họ tất
cả những gì mình có.” Ngài bán nhiều đồ vật kỷ niệm để giúp người nghèo. Ngài
nói: “người nghèo là những người bạn của Thiên Chúa” “Nếu các con có nhiều, thì
hãy cho nhiều; nếu các con có ít, thì hãy cho ít; nhưng hãy cho đi với tấm lòng
và niềm vui.”
Cha Vianey làm thay đổi đời sống của giáo xứ và giáo
dân bằng đời sống nhân đức và yêu thương. Ngài thốt lên: “thật là hạnh phúc khi
thấy một Kitô hữu yêu Chúa và yêu tha nhân!” Caterina Lasagne nói về cha
Vianey: “đức bác ái của ngài không chỉ giới hạn ở những người đến xin ngài giúp
đỡ; ngài còn mang tiền, bánh mì, lúa mì đến tận nhà của những ai túng thiếu”
Từ năm 1830 trở đi, rất nhiều người tuốn đến Ars để
được lắng nghe cha Vianey giảng, bởi vì ngài giảng rất thực tế và đánh động tâm
hồn người nghe. Nhất là, họ đến với ngài để được lãnh nhận bí tích hòa giải. Một
làng Ars nhỏ bé nay trở thành trung tâm đón nhận rất nhiều người đến. Các cửa
tiệm buôn bán ở Ars in hình và tượng của cha Vianey để bán cho các khách hành
hương. Mọi người khi tiếp xúc với cha Vianey, họ đều công nhận sự thánh thiện của
vị linh mục. Nhiều người nhận được ơn thay đổi trong đời sống thiêng liêng từ
cha Vianey, nhưng ngài luôn khiêm tốn đáp lại: “Thiên Chúa nhân lành đã chọn
tôi để trở nên một công cụ của ân sủng cho những hối nhân, bởi vì tôi là một
linh mục đáng thương và dốt nát nhất trong số các linh mục.”
11. Người chết vì yêu!
Trong thiệp báo tin Maria Cristina Cella Mocellin
qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền màu xanh hy vọng của cây cỏ
tươi. Chính giữa nổi bật cánh hoa hồng, đọng những giọt sương mai lóng lánh.
Bên trong là di ảnh của Cristina, tươi trẻ, duyên dáng và lộng lẫy trong chiếc
áo ngày cưới. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện trích từ nhật ký của Cristina lúc
còn thiếu nữ: Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha,
trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha
muốn.
Và... cuộc đời Cristina kết thúc vào năm 26 tuổi.
Chiếc bướu ung thư ác tính nơi tử cung mắc phải năm 18 tuổi, tưởng đã chữa
lành, nào ngờ tái xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang
đợi đứa con thứ ba. Khi vị bác sĩ báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc phải
cho bà biết chứng ung thư quái ác tái xuất hiện", Cristina im lặng một
giây. Lấy lại bình tĩnh nàng nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói:
- Tôi đang có thai. Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!
Vị bác sĩ hiểu ngay. Ông không dám đề nghị với nàng
lối trị liệu hóa học, vì như thế có nghĩa là giết chết bào thai!
Maria Cristina sinh hạ Riccardo vào tháng 8 năm
1994. Ngay sau đó, nàng bắt đầu các phương pháp trị liệu hóa học, nhưng quá trễ,
bướu ung thư đã ăn sâu nơi nội tạng. Người mẹ trẻ anh dũng êm ái trút hơi thở
cuối cùng ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ.
Đây là một cái chết đẹp. Chết cho con được sống. Chết
để gìn giữ một sinh linh bé bỏng đã được Thiên Chúa phú bẩm nơi cung lòng của
người mẹ. Chắc chắn mai sau khi lớn lên, đứa bé đã được mẹ chết thay đó, sẽ hết
lòng cảm ơn mẹ. Nhờ mẹ đã hy sinh tính mạng mình, mà người con được bước vào cuộc
đời.
12. Chiên tôi thì nghe
tiếng Tôi
Có một người đàn ông đi gặp bác sĩ để kể về người vợ
của mình. “Tôi cho rằng vợ tôi bị điếc, cô ấy chả nghe thấy tôi nói gì mà toàn
khiến tôi phải nhắc lại.”
Người bác sĩ trả lời: “Được rồi, bây giờ anh cứ về
nhà. Tối nay đứng cách vợ 6 m và nói một điều gì đó. Nếu bà nhà không trả lời,
đứng lại gần 2 m nữa và nhắc lại. Cứ tiếp tục như thế để xem mức độ ngễnh ngãng
của bà ấy nặng đến mức nào.”
Người chồng trở về nhà và thực hiện đúng theo chỉ dẫn.
Ông đứng cách vợ 6 m khi bà đang thái thịt trong bếp và hỏi: “Cưng à, tối nay
mình ăn gì vậy?” Ông không nghe thấy câu trả lời. Ông đứng gần lại 2 m nữa và hỏi
lại. Vẫn không có câu trả lời. Ông đứng gần thêm 2 m. Vẫn chẳng thấy gì. Cuối
cùng, ông tiến sát lại sau vợ và hỏi: “Em yêu, tối nay mình ăn gì?”
Cô vợ bực mình quát: “Đây là lần thứ 4 rồi nhá – thịt
bò hầm!”
Ai cũng biết điếc là khổ. Điếc là cách ly với thế giới
bên ngoài. Điếc là khổ mình và phiền toái với người bên cạnh. Thế mà, cuộc đời
vẫn còn đó những kẻ giả điếc làm ngơ. Họ cố tình bịt tai để khỏi nghe tiếng đồng
loại kể cả tiếng Thiên Chúa. Họ giả điếc để sống theo ý mình. Họ cố tình gạt ra
ngoài tiếng nói của lương tâm, của sự thật và chân lý. Họ bất chấp lề luật. Họ
bỏ ngoài tai lời khuyên dạy của Thiên Chúa và tha nhân. Con người của kẻ giả điếc
là tự tách mình ra khỏi cộng đồng xã hội để sống theo ý riêng.
13. Dâng tất cả
Ngày ơn thiên triệu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã từng mời gọi các bạn trẻ hãy quảng đại đáp lại lời mời gọi theo Chúa, đây
không phải là thứ lòng quảng đại lãng mạn, quá lý tưởng, không được thể hiện ra
bên ngoài bằng hành động hy sinh cụ thể. Và do đó sẽ không kiên trung kéo dài
lâu, gặp khó khăn sẽ dễ dàng nản lòng. Hy sinh là định luật để được trưởng
thành và vững mạnh.
Một ngày kia, Chúa Giêsu đã hiện ra cho thánh
Giêrônimô và hỏi: - Này Giêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô đáp: - Con dâng cho Chúa tất cả những
bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con vừa mới dịch xong.
Chúa Giêsu mỉm cười chấp nhận nhưng chưa hoàn toàn
thỏa mãn, Ngài hỏi thêm: - Con còn có gì nữa để dâng cho Ta không?
Thánh Giêrônimô không chút do dự trả lời: - Con dâng
cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước tới giờ.
Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.
Chúa Giêsu chấp nhận nhưng vẫn chưa mãn nguyện, Ngài
lại hỏi lần thứ ba: - Con còn có gì để dâng cho Ta nữa không?
Lần này, thánh Giêrônimô tỏ vẻ phân vân và nhỏ nhẹ
thưa cùng Chúa: - Thì con đã dâng cho Chúa tất cả rồi, còn gì tốt đẹp nữa đâu
mà con có thể dâng cho Chúa được.
Chúa Giêsu nhìn Giêrônimô với đôi mắt nhân từ, tràn
đầy yêu thương và phán: - Giêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi,
những tật xấu của con? Con giữ nó làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên thập
giá là để đền tội lỗi con mà.
Thánh Giêrônimô dâng cho Chúa tất cả, kể cả những tội
lỗi của mình.
14. Con chiên của Chúa
Cách đây mấy chục năm, Đức Hồng Y Gasquet trong một
cuốn sách nói về người giáo dân, có kể câu chuyện như sau: Một người sắp theo đạo
hỏi linh mục về vai trò của giáo dân trong Giáo Hội như thế nào? Linh mục trả lời:
“Giáo dân có hai vai trò: một là quỳ gối trước bàn thờ, hai là ngồi quay mặt về
tòa giảng.” Và Đức Hồng Y Gasquet hóm hỉnh viết thêm: “Người ta quên mất một
vai trò thứ ba, đó là móc ví tiền ra.”
Câu chuyện trên phản ảnh một quan niệm lệch lạc về địa
vị giáo dân. Vai trò của người giáo dân bị giản lược vào mấy việc: xem lễ, nghe
giảng và góp tiền vào nhà thờ! Ngày nay, Công Đồng Vatican II đã quan niệm Giáo
Hội trước tiên là “Cộng đồng Dân Chúa.” Giáo Hội trước hết là giáo dân chứ
không phải Giáo hoàng, Giám mục hay Linh mục. Ngày nay, giáo dân phải đứng hàng
đầu trong Giáo Hội. Nói như thế không có nghĩa là giáo dân điều khiển tất cả,
nhưng có nghĩa là giáo dân phải lãnh phần trách nhiệm sống đạo chủ động của
mình, như những người trưởng thành giữa xã hội ngày nay.
Sống đạo trong xã hội “dân chủ tập thể” hôm nay dĩ
nhiên giáo dân vẫn phải là những “con chiên” của Chúa, hiền lành yêu thương, đừng
hung bạo ác ôn, nhưng cũng phải từ bỏ thái độ ấu trĩ, vô trách nhiệm và thụ động.
15. Hy sinh cho đàn
chiên
Linh mục Mike Judge, tên thật là Robert Emmet Judge,
là một trong số đông lính cứu hỏa đã hy sinh trong khi đang làm nhiệm vụ ngày
11.9.2001, lúc tòa nhà tháp đôi Trung tâm Thương mại New York bị những chiếc
máy bay của những kẻ khủng bố tấn công.
Là tu sĩ dòng Phanxicô, kể từ sau khi chịu chức linh
mục ngày 25.2.1961 lúc 28 tuổi, linh mục Mike Judge đã được mời gọi trong nhiều
trọng trách khác nhau ở New York. Dù trọng trách nào, dù khó khăn cách mấy, cha
đều ra sức chu toàn nhiệm vụ cách hoàn hảo. Người ta thấy cha thường xuyên giúp
đỡ những người khốn khó, những người thiếu nơi ăn chốn ở, những di dân, những
người bệnh tật, những người gặp nạn… Cả những người nghiện ngập cũng được cha
yêu thương đón nhận…
Tuy phải bận bịu với bao việc bác ái hằng ngày, cha
vẫn không quên cầu nguyện, hăng say thực hành tất cả các nghĩa vụ thiêng liêng
của một linh mục để thánh hóa bản thân. Cha gắn bó với Chúa bằng một tấm lòng tận
tụy, chu đáo tuân giữ luật dòng, và tận hiến mình hoàn toàn trong sự vâng phục
Bề trên. Những ai đã từng tiếp xúc, chuyện trò với cha, đều cảm nhận cha là người
khiêm tốn, dễ gần gũi. Người ta cũng nhận thấy, nơi cha toát ra một sự thánh
thiện và lòng yêu mến Chúa mà không phải ai cũng có thể có…
Năm 1992, cha được chỉ định làm tuyên úy cho lính cứu
hỏa New York. Cha đã dành nhiều thời giờ đến với từng người lính cứu hỏa và gia
đình họ, không phải chỉ như một vị tuyên úy; nhưng còn như người bạn và ân nhân
của họ; giúp đỡ họ bất cứ lúc nào khi họ cần đến cha với tất cả tình yêu
thương.
Sáng ngày 11.9.2001, ngay khi những chiếc máy bay
đâm vào tòa Tháp Đôi, cha đã cùng hàng trăm lính cứu hỏa chạy vào tòa nhà đang
cháy và sắp sụp đổ, để cứu các nạn nhân, để giải tội, để ban bí tích xức dầu và
các nghi thức cuối cùng cho lính cứu hỏa và những người Công Giáo đang hấp hối.
Nhưng khi cha đang thi hành trách vụ, thì tòa nhà sụp đổ, gạch đá đập xuống đầu
cha. Cha đã hy sinh trong khi thi hành nhiệm vụ Thánh Chức của mình.
Dù biết rằng, việc xông vào tòa nhà đang bị cháy là
nguy hiểm vô cùng, nhưng vì trên ba ngàn con người còn kẹt lại trong tòa nhà,
đã khiến cha và nhiều lính cứu hỏa bất chấp mạng sống mình, đặt nhiệm vụ cứu
người bị nạn lên hàng ưu tiên. Thế nên mấy trăm lính cứu hoả và linh mục Judge
vẫn anh dũng lao vào bên trong toà Tháp Đôi…
16. Con chiên nghe mùi
Khi đề cập đến sứ vụ mục tử, Đức Giáo Hoàng Phanxicô
đã nhấn mạnh: các mục tử ngày nay không chỉ lo lắng thuần túy về cơ cấu, nhưng
còn phải “ngửi thấy mùi chiên”; và “phải mang mùi chiên đó vào mình.” Thật vậy,
nếu không “ngửi” và mang “mùi” của chiên nơi mình, có lẽ ranh giới giữa mục tử
và kẻ chăn thuê hay cướp bóc chỉ cách nhau gang tấc! Vì thế, chúng ta không lạ
gì khi vẫn còn đó những vị mục tử luôn nóng nảy, dọa nạt vô cớ; cư xử phân loại;
sống theo hiệu ứng đám đông; hay chỉ biết chăm chút mũ mão cân đai cho chính bản
thân, lo củng cố địa vị và uy tín ngang qua những công trình sang trọng hay những
buổi lễ hội... Khi lựa chọn như thế, ấy là lúc những mục tử đang có xu hướng
“ngoại tình” với những “mục đích rẻ tiền” mà quên đi sứ vụ cao trọng!
Nguyên nhân dẫn đến thảm trạng đau buồn này chính là
không tin phục và chẳng sống theo mẫu gương Thầy Giêsu; luôn để cho lòng tự
nãm, kiêu căng, vụ lợi, ích kỷ, hèn nhát, thiếu tình thương chỉ đạo, nên chỉ biết
lo cho bản thân mà không màng chi đến sứ vụ!
Nếu là mục tử thuộc về Thầy Giêsu, noi gương Đấng
Giàu Lòng Thương Xót, thì lòng dạ các ngài sẽ không yên khi còn đó biết bao con
người khắc khoải, đói khát, bần cùng, tỗi lỗi... đang ngày đêm kêu van thống, để
chỉ mong sao những bước chân của những mục tử dám đi ra “bên lề”, tiến vào những
vùng “ngoại biên” để cứu giúp họ, ngõ hầu những con chiên đen đủi, bất hạnh này
được bàn tay nhân ái của những mục tử nhân lành chạm vào tâm hồn họ, để tâm hồn
chiên lạc và khổ đau được nóng và sáng lên nhờ cảm nghiệm được sự an bình thư
thái...
Làm được điều đó, các vị mục tử mới thực sự là người
thay mặt Chúa để trả lời và mang lại cho con người hôm nay niềm hy vọng mà xã hội
trần thế không làm được.
17. Người thuộc về ai
Một hôm có người bố đến dự cuộc hội thảo dành riêng
cho các bậc làm cha và các giáo viên tại một trường trung học ở thành phố
Chicago của Hoa Kỳ. Khi nói chuyện với một giáo viên từng dạy con trai ông, người
bố bỗng rưng rưng hai hàng lệ. Sau khi lấy lại bình tĩnh, ông ngỏ lời xin lỗi
và nói: "Con trai tôi hiện không còn chung sống với tôi nữa, nhưng tôi vẫn
yêu quí nó và muốn biết nó hiện học hành ra sao."
Tại sao bị vợ con bỏ.
Ông bố cắt nghĩa lý do tại sao vợ ông và bốn đứa con
đã lìa bỏ ông. Ông là một nhà thầu lo việc xây dựng. Có thời gian ông bận rộn
làm việc tới 16 tiếng đồng hồ một ngày. Trong hoàn cảnh đó ông ít khi có giờ gặp
gỡ vợ con. Và ông buồn bã nói tiếp:
"Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con mọi thứ mà
tôi từng mơ ước trao tặng cho họ. Nhưng vì mải mê công việc làm ăn, tôi không
quan tâm tới điều mà các con tôi lấy làm cần thiết hơn cả: đó là chúng cần một
người cha thường xuyên gần gũi để yêu thương và nâng đỡ chúng."
Người bố trong câu chuyện nói trên đã rưng rưng hai
hàng lệ vì chính ông nêu vấn đề đụng chạm tới bề sâu nơi con người ông. Tình
yêu đã là động lực khiến ông chọn kết hôn với một người bạn gái. Hai người đã
chung sống đời vợ chồng và đã sinh được bốn người con. Nhưng chỉ vì mải mê công
việc làm ăn nên ông đã không dành đủ phần quan tâm cần thiết cho vợ con. Kết quả
là vợ ông và bốn đứa con đã lìa bỏ ông. Họ không còn ở trong tầm tay ông nữa.
Ông đau khổ trước sự mất mát quá lớn. Bởi lẽ những con người ruột thịt của ông
mà nay không còn thuộc về ông nữa.
Bài Tin Mừng hôm nay cũng đề cập tới vấn đề nơi bề
sâu của con người Đức Giêsu. Người không những cho biết những ai thuộc về Người
mà còn cho biết chính Người thuộc về ai?
18. Chết thay cho người
Một thảm kịch kinh hoàng xảy ra vào ngày 16/4/2007 tại
trường đại học Virginia, Hoa kỳ: Cho Seung Hui, một sinh viên Đại hàn cãi nhau
dữ dội với bạn gái, nghi rằng cô đã đi với một người đàn ông khác.
Trong cơn giận, anh rút súng đã được lắp sẵn rất nhiều
đạn để bắn bạn gái, bắn luôn người cố vấn được mời đến để giúp cả hai anh chị;
rồi anh đi sang các phòng khác thinh lặng, không nói một lời, bắn xối xả vào
sinh viên bạn bè, giáo sư, làm 32 người gục chết trước khi tự sát. Mọi sinh
viên hoảng sợ cho cơn điên của Cho Seung Hui, ai cũng chạy trốn, trong lúc sợ
hãi có người nhảy xuống từ cửa sổ lầu bốn.
Cơn hoảng sợ của mọi người càng làm nổi lên vẻ đẹp của
tình yêu vị tha nơi ông Liviu Librescu, một giáo sư hàng không của trường đại học.
Khi nghe tiếng súng nổ và tiếng la hét ngày càng đến gần trong lúc giảng bài,
ông đến bên cửa ra vào, giữ cửa đóng kín cho các sinh viên trong lớp tẩu thoát
bất chấp kẻ sát nhân có đập cửa và bắn đạn xuyên qua cánh cửa để đòi vào. Chịu
năm phát đạn, ông gục ngã để rồi không bao giờ chết nữa trong tâm hồn mọi người.
Ông đã bị giết, nhưng nhờ ông mà nhiều sinh viên được
cứu sống.
19. Chúa yêu
Trước năm 1975, một anh phi công đem lòng thương mến
một cô lầm lạc làm nghề bán thân. Anh hy vọng cưới cô về, cô cảm nhận được lòng
quảng đại và yêu thương của chồng và cô sẽ từ bỏ nếp sống cũ. Ai ngờ sau những
ngày cưới không bao lâu, anh phải ra chiến trường, vì có việc riêng anh phải trở
về nhà, anh hoảng hốt bắt gặp quả tang cô vợ đang trong vòng tay người tình.
Anh chịu không nổi, đã rút súng kết liễu hai mạng người! Đời là thế, Chúa thì
khác hẳn!
* “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn lao
hơn tất cả” (Ga 10,29a): Lý do Đức Giê-su đã nói với các môn đệ: “Những gì của
Thầy là của Cha, và của Cha cũng là của Thầy” (Ga 17,10), và “mọi quyền năng
trên trời dưới đất Cha đã trao vào tay Thầy” (Mt 28,18). Nhưng trong những quà
tặng Chúa Cha trao vào tay Chúa Con, thì không có gì Đức Giê-su yêu quý hơn “những
người Cha đã lấy từ trong thế gian mà ban cho Con, và Con đã ban lại cho chúng
những Lời của Cha, và chúng đã giữ Lời Cha” (x. Ga 17,6-8). Bởi thế Đức Giê-su
gìn giữ họ không bị sự dữ nào giựt được họ khỏi tay Ngài.
* “Không ai giựt chúng khỏi tay Cha tôi. Tôi và Cha
tôi là một” (Ga 10,29b-30): Như vậy người có trái tim nghe và thực hành Lời
Chúa, họ ở trong vòng tay quyền năng yêu thương của Chúa Con và Chúa Cha, để
không sự dữ nào giựt được họ khỏi tay Chúa Con (x. Ga 10,28c) và cũng không ai
giựt được họ khỏi tay Chúa Cha (x. Ga 10,29b). Bởi vì cả Chúa Con và Chúa Cha
cùng một quyết tâm gìn giữ họ.
Hình ảnh “chiên ở trong tay Con và tay Cha” còn gợi
nhớ đến Tv 139/138, 5-10: “ Chúa chặn con trước (tay Chúa Con), Ngài ngừa con
sau (tay Chúa Cha). Bàn tay của Ngài (Con và Cha) đặt trên con mãi, và tay hữu
Ngài (quyền năng và yêu thương) nắm lấy con.”
20. Chịu tội thay (cha
Đinh Quang Thịnh)
Một anh Công Giáo mồ côi cha mẹ từ bé, anh không có
nơi nương tựa. Nhiều lúc quá đói anh phải ăn cắp vặt để sống qua ngày! Nhưng
nhiều phen anh bị công an bắt được, anh ra tù vào khám như cơm bữa. Vào trại tù
gặp những tay giang hồ khét tiếng dạy anh nhiều mánh khóe lưu manh hơn. May có
lần anh được ở chung với một số tù nhân chính trị, họ là những người có ý chí
và giàu nghị lực, họ đã dạy anh phải cố gắng vươn lên bằng đôi tay với sức mình
mà sống, chứ đừng sống nhờ vào của ăn ắp.
Sau khi mãn hạn tù, anh trở về đi làm phụ hồ, dù
lương ít nhưng cũng đủ sống qua ngày, và đã từ bỏ nếp sống cũ. Anh thuê một
phòng trọ, ngày kia anh gặp một người bạn đạo Phật từ quê lên tỉnh cũng làm nghề
phụ hồ như anh, thế là hai anh trở nên bạn bè thân thiết. Ngày kia, chủ nhà kêu
mất đồ, họ đi báo công an, và công an ập tới phòng hai anh khám xét, và họ đã
tìm được tang vật trong rương của anh Phật giáo. Công an liền lập biên bản. Anh
Công Giáo biết chắc rằng bạn mình sẽ vào tù, mà vào tù thì học nhiều thói xấu
hơn trước, anh đã có kinh nghiệm này, nên không muốn để bạn mình vào tù. Lúc đó
anh rỉ tai người bạn Phật Giáo: “Tôi sẽ nhận tội thế cho anh, với điều kiện từ
nay anh phải từ bỏ hẳn thói ăn cắp.”Thế rồi, anh nói với công an: “Chính tôi chủ
mưu lấy món đồ đó và tôi giấu vào rương của bạn tôi.” Thế là anh bị công an
còng tay đưa đi. Khi ra tòa, tòa án đã biết anh này đã từng ra tù vào khám, nên
lần này tòa xử anh nặng hơn những lần trước: 10 năm tù giam! Anh Phật Giáo thấy
bạn quá tốt, anh vô cùng hối hận, từ bấy giờ anh không bao giờ ăn cắp nữa và tận
tâm làm việc nhiều hơn để kiếm thêm chút tiền thăm nuôi người bạn, nhất là anh
đã xin theo đạo Công Giáo như bạn anh. Thế ra người ta nói: “Cái khó nó ló cái
khôn.” Anh Công Giáo mồ côi, qua gian khổ anh lại trở thành mục tử cho bạn mình
được gặp Chúa và sống lương thiện.”
Là mục tử được Chúa Giê-su chọn, ta hãy noi gương
thánh Phao-lô khi bị bắt, ông rất thương những người còn ở lại: "Giờ đây,
tôi xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho Lời ân sủng của Người, là Lời có
sức xây dựng và ban cho anh em được hưởng phần gia tài cùng với tất cả những
người đã được thánh hiến.” Mọi người ôm lấy ông Phao-lô rồi oà lên khóc, vì họ
sẽ không còn được nhìn thấy ông nữa! (x. Cv 20,32t)
21. Khoác vai
Nghe thấy tiếng khóc, tám bạn cùng thi kia đều theo
nhau đứng lại. Tất cả quay trở lại bên cậu bé, một em gái bị thiểu năng tâm thần
cúi xuống hôn cậu và nói: “tốt mà, tốt mà.” Nói xong em khoác vai cậu bé. Thấy
thế, tất cả cùng khoác vai nhau chạy đến đích. Mọi người trong sân vận động đứng
dậy vỗ tay hoan hô đến hơn 10 phút.
Còn cả trời đất phải ngạc nhiên khi thấy Chúa yêu
thương lo lắng cho hạnh phúc đời đời của con người đến nỗi như quên mất mình là
Thiên Chúa: Chúa là Vua của các vua và là Chúa của các chúa, nay chỉ vì yêu
thương mà hạ mình nhập thể, mà “khoác vai” con người, mang phận tội nhân, gánh
lấy tội của nhân loại hầu đưa mọi người đến hạnh phúc đời đời!
Cả thánh vịnh 23, với câu mở đầu: “Chúa chăn nuôi
tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” là một bài ca dài tán tụng tình yêu Chúa, tình
yêu đã đem lại bình an cho ai đặt trọn niềm tin vào Chúa. Mục tử và đoàn chiên
là một hình ảnh thật đẹp vừa nói lên tình thương vô biên của Chúa đối với con
người vừa diễn tả được niềm vui và sự bình an của hết thảy những ai đặt trọn niềm
tin vào Chúa.
Tại sao Chúa lại muốn được gọi là mục tử? Vì Ngài rất
yêu ta.
22. Tình yêu Chúa kitô
thúc bách tôi
Khi được bổ nhiệm coi sóc xứ đạo Di linh, Cha Sanh (sau này là ĐGM
Cassaigne) thấy những người cùi không những bị gia đình bỏ rơi mà còn bị xua đuổi
vào rừng; Cha biết cái khổ do bệnh phong của họ không thấm vào đâu so với cái
khổ chịu khinh miệt, chịu xua đuổi. Ngài đã vào rừng tìm họ để mang lương thực,
thuốc men cho họ. Hình ảnh những người xấu số làm Cha nhiều đêm không ngủ được.
Tình yêu Đức Kitô thúc đẩy và thêm sức mạnh khiến
cha không còn biết gì đến nỗi sợ hãi bị lây bệnh, mà sẵn lòng trở nên thân cận,
gần gũi với những người cùi, chỉ mong thấy được nụ cười trên khuôn mặt lở loét
của họ.
Cuối đời, cha cũng lây bệnh cùi và qua đời năm 1973,
rồi được an táng giữa những người cùi trong trại cùi Di linh do ngài lập năm
1929. Ai cũng thấy được nơi ngài sức thu hút của tình yêu Đức Kitô, Đấng đã “đến
để chiên Ta được sống và sống dồi dào”?
Hạnh phúc đời tôi là được làm con chiên của Chúa, được
lắng nghe và đi theo Chúa, “để tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv
23,6).
Tình thương đó không nằm yên mà thúc đẩy tôi chia sẻ
tình yêu mục tử của Đức Kitô đối với tha nhân, theo mẫu gương Mẹ Têrêxa: “hãy
là lời diễn tả sống động về sự tốt lành của Thiên Chúa: tốt lành qua gương mặt,
qua ánh mắt, qua nụ cười, qua sự đón tiếp thân thương nồng nhiệt.”
23. Giới trẻ và ơn gọi
phục vụ
Các bạn trẻ thân mến,
Hôm nay là Chúa nhật Chúa Chiên
Lành – ngày mà cả Hội Thánh chiêm ngắm hình ảnh Đức Giêsu như một Mục tử tốt
lành, Đấng biết từng người chúng ta, yêu thương từng người bằng một tình yêu
không điều kiện, và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đoàn chiên.
Trong ngày đặc biệt này, chúng
ta được đánh động bởi một chứng nhân sống động của thời đại: Đức Giáo hoàng tân
cử Lêô XIV – một người mục tử đã bắt đầu hành trình dấn thân từ những vùng
nghèo nhất của Nam Mỹ.
Sau khi chịu chức linh mục năm
1982, thay vì ở lại nơi tiện nghi, cha Robert Prevost – nay là Đức Giáo hoàng –
đã chọn đến Peru, sống giữa những khu xóm nghèo, nhà lụp xụp, không điện, không
nước sạch. Ngài ăn cơm với người nghèo, dâng Lễ giữa sân nhà, giảng dạy giáo lý
dưới mái lều tạm bợ. Nhưng chính từ những nơi ấy, ngài đã gieo hạt mầm của Tin
Mừng bằng tình yêu cụ thể.
Ngài mở nhà trẻ cho trẻ mồ côi,
dạy chữ cho người già, xây trường học và trạm y tế miễn phí. Ngài vận động bạn
bè ở Mỹ gửi tiền để xây hệ thống nước sạch, phát lương thực, mua thuốc cho người
bệnh – thậm chí bằng chính lương linh mục ít ỏi của mình.
Điều làm người ta nhớ nhất
không phải là những công trình ngài xây, mà là cách ngài sống: sống như một người
trong họ, không đứng từ trên cao chỉ đạo, nhưng cùng đạp xe mang thuốc qua núi,
cùng chèo xuồng phát gạo mùa lũ, cùng khóc – cùng cười – cùng hy vọng với dân
nghèo.
Cha Robert từng nói: “Tôi nhìn
thấy khuôn mặt của Đức Kitô nơi những người nghèo. Họ là những người bạn thiêng
liêng của tôi.”
Các bạn trẻ thân mến,
Giáo hội hôm nay rất cần những
người mục tử như thế – không chỉ là linh mục hay tu sĩ, mà là bất cứ ai biết sống
vì người khác, biết lắng nghe, biết cho đi và dấn thân vì một thế giới tốt đẹp
hơn.
Ơn gọi không bắt đầu bằng tiếng
sét hay sự xuất thần, mà bắt đầu bằng một trái tim biết rung động trước nỗi đau
của người khác, bằng một câu hỏi chân thành: “Con có thể làm gì cho anh em
con?”
Bạn có thể là mục tử giữa lớp học,
trong nhóm bạn, trên mạng xã hội – bằng cách sống chân thật, biết yêu thương,
biết lên tiếng bảo vệ điều đúng, và sẵn sàng cúi xuống nâng đỡ những ai đang gục
ngã.
Hãy để Đức Giêsu, vị Mục tử
nhân lành, chạm đến trái tim bạn – để bạn cũng trở nên người chăn chiên của thời
đại hôm nay: khiêm tốn, dấn thân và sống vì người khác.
THỨ HAI - CHÚA CHIÊN LÀNH
Lời
Chúa: Ga 10, 1-10
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua
cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp.
Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở
cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình
và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau,
vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn
tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ.”
Chúa
Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa
Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất
cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là
cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của
nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn
Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào.”
TRUYỆN KỂ
1. Nghề chăn cừu
Có
một chàng sinh viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một
ngành nghề chuyên môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh
phải làm việc tới mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt
thời gian ở trên núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa
và hai ngàn con cừu.
Mỗi
tuần một lần, người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc
của anh là làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ
và có nước, đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Anh
kể: một buổi sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả
thời gian để lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn
mưa bão ập xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt
đêm.
Trong
sách Samuel, Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như
sau: Tâu bệ hạ, thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một
con sư tử hay một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn
công nó để cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần
sẽ xông tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và
gấu. Thần cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
2. Cửa chuồng chiên
Trong
cuốn “The Holy Land”: vùng đất thánh, tác giả John Kellman mô tả: chuồng chiên ở
Do thái có một bức tường bằng đá chung quanh cao khoảng bốn bộ (cỡ 1m4) và một
lối vào. Ngày nọ một du khách Thánh Địa đã trông thấy một cái chuồng chiên
ngoài đồng gần Hebron, và gặp được người mục tử đang làm việc tại trại cừu. Người
đó chỉ cho du khách thấy cảnh đồi núi và bày cừu đang tung tăng trên cánh đồng
cỏ. Người du khách hỏi người mục tử đang ngồi cạnh đó: “Cửa chuồng của anh
đâu/” Người mục tử liền đáp: “Tôi chính là cửa chuồng.” Đoạn người mục tử kể
cho du khách nghe biết, ban đêm anh ta nằm chặn ngang lối vào chật hẹp đó.
Không có con chiên nào có thể bỏ chuồng đi ra, và cũng chẳng có con thú rừng
nào có thể đi vào mà không bước qua mình anh ta.
3. Theo anh là thủ lãnh.
Một
nhà thám hiểm xứ Soudan đã tháo xiềng xích cho một tên nô lệ 12 tuổi. Rồi săn
sóc dạy dỗ như con, thằng nhỏ đem lòng mến phục vị đại ân nhân.
Giờ
thực hiện cuộc mạo hiểm đầy gian nguy đã đến. Nhà thám hiểm không muốn cưỡng
bách em bé theo mình. Ông nói:
-
Này em, anh sắp lên đường đến miền xa lạ. Cuộc hành trình rất mực cam go: Đường
đi xa xôi, hành lý nặng nề, nước uống đồ ăn thiếu thốn, những mũi tên tẩm thuốc
độc vù vù bên tai, rừng nhiều thú dữ... Em ở lại hay theo anh? Nếu em theo anh,
chúng ta cùng nhau cực nhọc, khi thiếu nước, thiếu ăn, anh cũng chịu khát, nhịn
đói như em, việc em vẫn nhẹ hơn việc anh. Bây giờ tùy em quyết định.
Em
bé nhìn sâu vào mắt nhà thám hiểm, lúc này đã thành người anh, người bạn và
nói:
-
Theo anh là thủ lãnh của em.
Thế
là em nhỏ theo anh lên đường. Những quãng đường dài cực nhọc, những ngày nắng
không nước, em bé lần lượt nếm cả, chân nứt nẻ máu me, nhưng không coi sao, vì
lòng vẫn hăng hái khi thấy người thủ lãnh sốt rét bị thương mà vẫn đi hàng đầu.
Sức chịu đựng của con người có giới hạn, mà nguy hiểm vất vả lại cứ tăng, nhiều
bạn đồng hành bỏ cuộc. Nhà thám hiểm vừa thương hại, vừa để thử lòng, hỏi em
bé:
-
Em có bỏ không?
Lời
thưa đầy hăng hái:
-
Em đã chẳng hứa với anh sao?
Sáu
tháng trời qua đi, cuộc thám hiểm thành công rực rỡ. Đàng sau người thủ lãnh
tươi như hoa nở, em nhỏ đứng hiên ngang đón nhận những lời hoan hô vang dội.
4. Thí mạng sống vì đoàn chiên
Ngày
14 tháng 4, nhiều nơi trên thế giới cử hành nghi thức tưởng nhớ hằng trăm người
chết và mất tích, khi tàu Titanic bị đắm năm 1912. Dịp này, người ta nói nhiều
về cha Byles khi ấy 42 tuổi, đang trên chuyến hải trình định mệnh đến New York
để làm lễ cưới cho em trai là William.
Theo
các nhân chứng có mặt, khi con tàu sắp chìm, vị linh mục này đã mau chóng giúp
đỡ các trẻ em và phụ nữ xuống thuyền cứu hộ, đồng thời ngài tranh thủ giải tội,
ban ơn xá giải cho các tín hữu và lần chuỗi mân côi với hành khách đang gặp nạn
trên tàu. Bà Agnes McCoy, một trong những nạn nhân sống sót trong thảm họa này
kể lại: “Khi con tàu sắp chìm, Cha Byles đứng dưới boong tàu cùng với các tín hữu
Công Giáo; có cả tín hữu Tin Lành và Do Thái cũng cầu nguyện quanh ngài.”
5. Giám mục Myriel
Victor
Hugo, một văn sĩ Pháp nổi tiếng, trong tác phẩm “Những kẻ khốn cùng” đã minh hoạ
tình yêu mục tử của Đức Kitô một cách tuyệt diệu qua hình ảnh Giám mục Myriel,
một người sống triệt để tinh thần mục tử của Đức Kitô: “Tôi đến để cho chiên được
sống, và sống dồi dào”
Bọn
cướp của Gatpa trước đây thường quấy nhiễu vùng núi Ônliun. Sau khi chúng bị
tiêu diệt, một trong các tay đầu mục là Cravat lẩn tránh vào núi. Y cùng một số
lâu la, dư đảng của Gatpa ẩn náu một thời gian tại quận Nice, rồi tràn sang
vùng Piémont, và đột nhiên lại xuất hiện ở địa phận nước Pháp. Có lần y dám đến
tận Ambrun và đang đêm xông vào nhà thờ vơ sạch đồ lễ. Cảnh binh được giao
trách nhiệm lùng bắt, nhưng vô hiệu. Lần nào y cũng trốn thoát, cũng có lúc y
chống cự mãnh liệt. Rõ là một tên khốn kiếp táo tợn. Đương cơn kinh hoàng ấy
thì ĐGM Myriel tới. Đức Cha đi kinh lý. Khi đến Sattelat thì ông xã trưởng đề
nghị Đức Cha trở về, vì Cravat đang chiếm cứ vùng này. Đi sẽ nguy hiểm cho dù
có hộ tống, và có thể phải hy sinh cách vô ích ba bốn người lính bất hạnh.
-
Cũng vì thế mà tôi định không lấy người hộ tống.
- Đức
Cha lại nghĩ thế à?
-
Tôi nghĩ thế lắm cho nên tôi nhất định không lấy sen đầm, và một giờ nữa thì
tôi đi.
- Đức
Cha đi một mình à?
-
Đi một mình.
-
Thưa Đức Cha, Đức Cha đừng làm như vậy.
-
Trên núi này có một xóm nhỏ chỉ bấy nhiêu mà đã ba năm nay tôi chưa đến thăm.
Những người chăn dê hiền lành và lương thiện ấy, họ là những người bạn tốt của
tôi. Họ cũng cần nghe lời Chúa. Vậy mà một giám mục yếu bóng vía thì họ sẽ nghĩ
thế nào?
-
Nhưng mà, thưa Đức Cha, có cướp! Sợ Đức Cha gặp cướp!
-
Tôi cũng vừa nghĩ đến điều ấy. Ông nói có lý. Tôi có thể gặp họ lắm. Những người
ăn cướp này cũng cần nghe nói tới Chúa.
-
Thưa Đức Cha, nhưng mà chúng là một lũ cướp, một bầy chó sói!
-
Ông xã trưởng ạ, có lẽ chính vì bầy thú ấy mà Chúa Giêsu cho tôi làm kẻ đi
chăn. Ai biết đâu đường nẻo của Chúa?
-
Thưa Đức Cha, chúng sẽ cướp hết đồ đạc của Đức Cha.
-
Tôi chẳng có gì cả.
-
Chúng giết Đức Cha mất.
-
Giết một ông cha vừa đi vừa đọc kinh? Chà chà! Để làm gì chứ?
- Lạy
Chúa, rủi Đức Cha gặp chúng thật?
-
Tôi sẽ xin họ làm phước cho kẻ khó của tôi.
- Đức
Cha đừng đi, nguy đến tính mạng mất.
- Dứt
khoát chỉ có thế thôi à? Tôi có mặt trên thế gian này không phải để gìn giữ
tính mệnh mà để chăn giữ các linh hồn.
Đành
phải để mặc Đức Cha. Đức Cha ra đi chỉ có một em bé tình nguyện đi theo dẫn đường.
Việc Đức Cha khư khư đòi đi ấy đồn đại khắp xứ làm người ta vô cùng hoảng sợ. Đức
Cha cưỡi con la, đi suốt qua núi chẳng gặp một ai và đến với những người chăn
dê, bạn tốt của Đức Cha, một cách bình an. Đức Cha ở lại với họ nửa tháng, dạy
giáo lý, ban phép Thêm sức, và dạy chữ cho họ.
Hôm
sắp từ biệt xứ này, Đức Cha quyết định tổ chức một buổi lễ tạ ơn với nghi thức
đại trào Giám mục. Đức Cha ngỏ ý với Cha xứ. Nhưng làm thế nào? Chẳng có đồ lễ
của Toà Giám mục. Chỉ có thể đưa cho Đức Cha dùng một bộ đồ lễ nhà xứ nghèo nàn
với mấy chiếc áo choàng lụa đã sờn đính tua vàng giả. Đức Cha nói: “Không sao,
Cha xứ à! Đến giờ giảng chúng ta cứ báo tin về buổi lễ đi. Mọi việc rồi sẽ đâu
vào đấy.”
Người
ta lùng các nhà thờ quanh vùng. Tất cả các thứ sang trọng ở các xứ đạo nghèo
này nhập lại cũng không lọc ra được một bộ lễ phục tạm coi được cho một Thầy
Sáu hát Phúc âm, chứ đừng nói cho một vị Giám mục.
Đang
lúng túng như vậy thì có hai người lạ mặt đi ngựa mang một cái hòm to, đặt ở
trước nhà Cha xứ rồi quay đi ngay. Mở hòm ra thì thấy một áo choàng dạ vàng, một
chiếc mũ gầu nạm kim cương, một Thánh giá Tổng giám mục, một chiếc gậy tuyệt đẹp.
Tất cả những phẩm phục này bị mất trộm một tháng trước ở kho nhà thờ Đức Bà
Ambrun. Trong hòm còn có một mảnh giấy đề mấy chữ: “Cravat gửi tặng Đức Cha
Myriel.”
Thấy
thế, Đức Cha nói: “Tôi đã nói mọi việc rồi đâu sẽ vào đấy mà”
Không
có ai yếu hèn hơn tôi, nhưng cũng chẳng có ai mạnh mẽ hơn tôi nếu tôi đặt tất cả
cuộc đời tôi trong niềm tin vào sức mạnh của Đức Kitô, Đấng đã đến để cho tôi
được sống và sống dồi dào: “Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy,
thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.”
(Ga 15,5)
6. Chiên tôi nghe tiếng tôi
Một
du khách muốn tận mắt thấy chiên không theo người lạ, như Chúa Giêsu đã nói,
“vì chúng không biết tiếng người lạ” (10,5). Ông dàn xếp với người chăn chiên để
mặc áo khoác và đội mũ của người chăn chiên vào. Rồi ông ta đến với đàn chiên
và gọi: “Manah” có nghĩa là “đến đây.” Nhưng không một con chiên nào chạy lại cả.
Bị tác động sâu sắc, du khách hỏi: “Những con chiên của ông có bao giờ theo ai
khác, ngoài ông không?” Người chăn chiên trả lời: “Có. Đôi khi một con chiên bị
ốm nặng, nó sẽ theo bất cứ ai.”
Tôi
chăm chú nghe tiếng Chúa Giêsu, chủ chiên của tôi như thế nào?
Thiên
Chúa luôn quan tâm đến chúng ta hơn là chúng ta thực sự lắng nghe Ngài (Morton
Kelsey).
7. Để anh em được sống dồi dào
Một
phụ nữ được bác sĩ chuẩn đoán đang bị căn bệnh ở giai đoạn cuối. Trong ít ngày,
bà ta vẫn tiếp tục sống như trước. Rồi một hôm, bà ta tự nhủ: “Tôi đang làm gì?
Tôi đang xây dựng tài khoản để làm gì? Tôi đang sống như thế này là vì cái gì?”
Sau đó, bà quyết định sống theo tiếng gọi của con tim. Người phụ nữ đó sống
thêm mười lăm tháng nữa. Trước khi chết, bà ta tâm sự với một người bạn: “15
tháng cuối đời là chuỗi ngày phong phú nhất trong cả đời tôi.”
Kinh
nghiệm của người phụ nữ mời gọi tôi tự hỏi: giai đoạn nào trong đời tôi phong
phú nhất?
Tôi
chỉ băng qua thế giới này chỉ một lần. Hãy để tôi làm những điều tốt đẹp và đừng
ngăn cản, vì tôi sẽ chẳng còn băng qua thế giới này nữa (Stephen Grellet).
8. Cha Pierre, một tấm lòng vĩ đại
René
Belbenoit, một người tù khổ sai trên hòn đảo Quỷ thuộc nước Pháp, vượt ngục bằng
một chiếc thuyền độc mộc của thổ dân. Sau khi băng qua hàng ngàn hải lý trên biển
Antilles, đi bộ xuyên qua những cánh rừng rậm của châu Mỹ La tinh, ông đã thoát
được đến Hoa Kỳ.
Ông
viết một cuốn sách tường thuật lại cuộc vượt ngục của ông, cuốn Dry Guillotine.
Cuốn sách đó đã trở nên một best-seller với hàng triệu ấn bản trong một thời
gian ngắn, và được các nhà xã hội học và giới văn học của Mỹ đặc biệt quan tâm,
vì nhờ đó mà họ biết đến số phận bi thảm của các tù nhân.
Trong
sách có thuật lại một tình tiết đặc sắc. Đó là khi Marcel, người cầm đầu toán
vượt ngục, ra lệnh cặp thuyền vào bờ, cạnh một trại tù bỏ hoang để nghỉ qua
đêm.
Trong
lúc loay hoay tìm cành khô đốt lửa, họ bắt gặp một ngôi mộ nhỏ với một thánh
giá đẽo gọt sơ sài nằm dưới một đám dây leo chằng chịt. Trên hòn đảo này, ngôi
mộ là chuyện bất thường, vì ở đây tù nhân nào chết cũng bị đưa ra biển vứt làm
mồi cho cá mập cho gọn.
Marcel
vung mã tấu dọn sạch rong rêu trên cây thánh giá rồi trầm giọng bảo: “Linh mục
Pierre đấy! Cũng là một tù nhân khổ sai như các cậu và tớ.”
Rồi
anh chùng giọng xuống, như thì thầm: “Một sứ giả của Chúa!”
Sau
đó Marcel kể cho mọi người nghe chuyện anh ta gặp cha Pierre trên chuyến tàu chở
tù nhân ra Guyane: “Thoạt tiên chúng tớ khinh tởm ông khi biết ông bị lưu đày
vì đã nhẫn tâm giết một bà lão goá bụa cư ngụ cạnh nhà thờ, và gọi ông là ‘lão
thầy tu lạc đạo.”
Nhưng
thái độ của các tù nhân thay đổi dần dần vì ai cũng thấy ông lao động cật lực
như mọi tù nhân và không bao giờ phàn nàn. Xong việc ông còn cố giúp những bạn
tù thương tật khác.
Khi
trại Oraput được lệnh đóng cửa vì bệnh dịch, ông xin được di chuyển đến đảo
Saint-Louis, nơi biệt giam những tên bị hủi, một thế giới hoàn toàn cách ly với
xã hội con người. Hằng tuần, một tên cai ngục đáp ca-nô vứt bừa lên bãi cát một
bao thực phẩm rồi chuồn thẳng. Gầy gò như cây đinh, nhưng ông vẫn chăm sóc bọn
người hủi không mệt mỏi.
Một
hôm, người ta mang đến cho ông tên Groscaillou. Nằm dài trên chiếc cáng, coi hắn
không còn tí gì là dáng dấp của con người. Vừa thấy ông mang ly sữa đến, hắn hốt
hoảng "Không, không thể là cha Pierre"
-
Anh biết tôi à? Cha Pierre dịu dàng hỏi.
-
Con là Groscaillou, người làm vườn trong nhà thờ lúc trước, hắn đáp.
Cha
nhìn hắn thật lâu trước khi thốt nên lời: "Khốn khổ cho anh. Chúa trừng phạt
anh thật nghiêm khắc.”
Bọn
hủi xum xít quanh tấm lều đổ nát, háo hức lắng nghe. Giọng tên tội phạm thì thầm
như từ cõi âm vọng lại:
-
Chính tôi đã giết mụ góa Duval. Biết mụ vừa nhận một món tiền khá lớn. Tối hôm
đó, tôi khoác chiếc áo dòng đánh cắp của cha và đến bấm chuông. Thấy tà áo đen
thấp thoáng, mụ tin tưởng vội ra mở cổng. Khi nhận ra rõ mặt, mụ hãi quá định
gào lên cầu cứu, buộc lòng tôi phải siết cổ mụ. Quay lại nhà nguyện tôi chạm mặt
ngay với cha Pierre. Người biết tôi vừa làm một cú dại dột. Sau khi nghe tôi
xưng tội, cha khuyên tôi nên ra đầu thú. Lúc bọn "cớm" đến bắt cha,
dù nắm rõ bí ẩn của vụ án, cha vẫn tuân thủ giới luật im lặng của Chúa. Chấp nhận
1 bản án chung thân như một tông đồ tử đạo, không hé răng khai báo. Các cậu hãy
giải oan cho cha để tôi ra đi thanh thản.
-
Không cần thiết đâu anh ạ! Hãy thành tâm khấn nguyện và anh sẽ được tha thứ.
Cha từ tốn đáp.
Sáng
hôm sau, các tù nhân bắt gặp thi thể Groscaillou ngoài bãi cát, bấp bênh theo
triều sóng.
Sáu
tháng trôi qua, khi quyết định tự do của cha được gởi đến thì đã quá muộn. Trước
khi mất, cha mong sẽ được chôn trên đảo, giữa những người bất hạnh mà cha hằng
chăm sóc. Chính những tên đại bàng đã kính cẩn an táng và dựng cho cha cây
thánh giá này.
Marcel
ngừng kể, đăm chiêu nhìn ngôi mộ đơn sơ ở bìa rừng rồi khẽ kết luận: “một tấm
lòng vĩ đại.”
9. Không có ai chăm sóc bệnh nhân thay cho tôi
Năm
1926, Đức Cha Jean Cassaigne đến Việt Nam. Lúc đó ngài còn là một linh mục, và
được cử làm cha sở Di Linh.
Một
hôm khi vào rừng săn bắt kiếm thức ăn, cha gặp một phụ nữ nằm rên la trên một
chòi lá cao. Cha lên thăm và biết được đó là một người cùi bị gia đình bỏ mặc
chờ chết. Cha mang thuốc và thức ăn đến để chăm sóc bà, rồi dạy đạo cho bà.
Từ
đó cha bắt đầu đi tìm kiếm những người cùi, gom họ lại mà chăm sóc. Người ta có
thể đọc thấy những vất vả ngài phải chịu trong việc chăm sóc những người cùi
qua lá thư ngài viết cho một người bạn bên Pháp: “Trong 12 tháng, tôi bị sốt hết
10 tháng. Nhưng tôi không thể nằm nghỉ, vì không chút yên lòng và không có một
ai thay thế tôi lo cho bệnh nhân.”
THỨ BA - SỰ THẬT CỨU RỖI
Lời
Chúa: Ga 10, 22- 30
Khi
ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu
đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do- thái vây quanh Người và
nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô,
thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết."
Chúa
Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi
làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông
không thuộc về đàn chiên tôi.
Chiên
Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống
đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi
tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có
thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một."
TRUYỆN KỂ
1. Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta
Hành
hương Rôma, pho tượng gây xúc cảm nhất cho khách hành hương là pho tượng Chúa
chiên lành vác con chiên thất lạc trên vai đem trở về. Dưới pho tượng, có ghi
câu của Abercies vào cuối thế kỷ II rằng: “Ta
là môn đệ của một mục tử thánh thiện đã dẫn đàn chiên ra đồng cỏ xanh tươi bên
sườn núi và dưới đồng bằng, vị mục tử có đôi mắt lớn nhìn đến khắp mọi
nơi."
Chúa
Kitô chính là người mục tử nhìn xa thấy rộng ấy. Nhờ sự chết và phục sinh, Chúa
đã đạp đổ mọi ngăn cách để mở rộng đàn chiên, bao trùm cả thế giới. Đàn chiên ấy,
ngày nay chúng ta chỉ được nhìn thấy một phần nhỏ và hạn hẹp, sau này trên chốn
vinh quang mới được chứng kiến tầm vóc vĩ đại của đại gia đình Thiên Chúa
2. Tôi biết chiên của tôi.
“Biết”
theo thánh Gioan là “yêu thương”
Có
một câu chuyện truyền kỳ rất hay kể lúc Môisen trốn khỏi Ai cập, chăn chiên cho
Giêtrô trong đồng vắng: có một con chiên trong bầy bỏ đàn đi mất Môisen kiên nhẫn
đi tìm nó và ông đã tìm thấy nó đang uống nước bên giòng suối. Môisen đến bên
nó để tay trên mình nó và nói thật nhỏ nhẹ:
- Tại vì mày khát nên mày bỏ đi?
Ông không giận con chiên vì nó đã làm ông mệt mỏi, nhưng cảm thông với nó và
mang nó trở về. Thượng Đế nhìn thấy như vậy, Ngài phán: “Nếu người này thương xót một con chiên đi lạc như vậy, đây chính là
người ta muốn lập làm người lãnh đạo dân ta."
3. Chiên không nghe theo tiếng người lạ.
Một
người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, đã thấy ba người chăn chiên dẫn bầy mình ăn
chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:
- Men ah! Men ah! (Theo
tiếng Ả rập có nghĩa là “Hãy theo ta! Hãy theo ta!”)
Các
con chiên của người này liền tách khỏi bầy và đi theo người ấy lên đồi.
Người
chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.
Người
Mỹ nói với người chăn thứ ba:
- Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để
tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.
Anh
ta sẵn sàng cho người Mỹ này mượn đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu: “Men ah! Men
ah!”, nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:
- Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh
thôi sao?
Người
chăn Syria trả lời:
- Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất
cứ ai.
Người
ta tìm thấy trong một cuốn nhật ký những tâm tình sau đây:
Suốt
đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một đứa con tôi về với Chúa. Trong lễ
nghi an táng cháu, Cha sở kể câu chuyện sau: “Một Mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự
nhiên bầy cừu sợ hãi. Người mục tử không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối
cùng ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dắt nó qua
bên bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng
theo. Và thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người Mục tử.
Một
mai nếu có phải theo con tôi về với Chúa, tôi chẳng sợ.
4. Mục tử tốt lành là mục tử luôn lo cho đoàn chiên.
Đây
là lời cầu nguyện của thánh Grêgôriô:
Lạy Đấng Mục Tử nhân lành, Đấng mang cả đoàn chiên
trên vai. Xin chỉ cho con chỗ nghỉ ngơi, xin dẫn con đến đồng cỏ xanh mà bổ dưỡng;
xin gọi con đích danh, để con được nghe tiếng Chúa, vì con là chiên của Chúa.
Xin cho con biết Chúa đang chăn chiên ở đâu, để con
tìm thấy đồng cỏ cứu độ và được đầy no lương thực bởi trời.
Xin cho con biết chạy đến nguồn suối mà múc lấy của
uống thần linh, của uống chính Chúa ban như dòng nước từ nguồn mạch chảy tuôn
cho những người đang khát. Chúa đã tuôn đổ dòng nước này từ cạnh sườn Chúa khi
lưỡi đòng khai mạch. Ai nếm hưởng nước này thì trở nên mạch nước vọt lên đem lại
sự sống đời đời.
Xin Chúa cho con biết phải làm gì để được nghỉ ngơi
bồi dưỡng! Phải theo đường nào để tới chỗ nghỉ trưa. Xin đừng để con vì không
biết sự thật mà rời xa bàn tay Chúa dắt dìu, nhập đoàn với những bầy chiên xa lạ,
không phải là đoàn chiên của Chúa. Amen.
5. Việc làm minh chứng
Trả
lời cho viên sĩ quan cai ngục về nguồn gốc của mình, cha Kôn- bê dõng dạc nói: “Tôi là một linh mục Công Giáo." Lời
tuyên bố này được minh chứng bằng những việc bác ái ngài thực hiện trong tù, đặc
biệt bằng hành động chết thay cho một người bạn tù đáng thương. Những hành vi
bác ái ấy minh chứng cha Kôn- bê thuộc về Thiên Chúa và là môn đệ Chúa Giêsu.
Chúa
Giêsu luôn thể hiện nguồn gốc của mình thuộc về Chúa Cha, bằng lời giảng dạy và
việc làm. Đời sống của Ngài khiến những người đương thời nhìn nhận nơi Ngài
không có điều gì gian dối, là “người vô tội” và là “Con Thiên Chúa." Việc
của Ngài làm chứng minh nguồn gốc của Ngài.
6. Tình yêu dẫn dắt
Một
phụ nữ đi nghỉ hè ở Israel đang quan sát một người chăn chiên lùa bầy chiên của
ông ta. Người và vật đến một con suối cạn. Dù tiếng người chăn chiên gọi, bầy
chiên vẫn hoảng sợ và do dự. Ông ta cúi xuống, nhẹ nhàng bế một con lên và đem
sang bên kia suối. Khi chiên mẹ thấy chiên con ở bờ bên kia, nó đi qua dòng nước.
Lập tức những con khác cũng đi theo.
Tôi
có nhớ đã bao giờ tôi trở nên sợ hãi và do dự để theo Chúa Giêsu chưa? Điều gì
đã giúp tôi thắng vượt sợ hãi và do dự?
Chúa
là mục tử chăn dắt tôi, Tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người
cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi đến dòng nước trong lành, Và bổ sức cho tôi.
Người
dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, Vì danh dự của Người (Tv 23,1- 3)
7. Hãy theo tôi
Trong
thế chiến thứ hai, những pháo đài bay từ Mỹ đến đảo Saipan ở Thái Bình Dương. Mỗi
máy bay được hướng dẫn bởi một chiếc xe Jeep nhỏ với một tín hiệu: “Hãy theo tôi.” Rồi chiếc xe dẫn đường
cho chiếc máy bay khổng lồ đến điểm đáp được chỉ định ở đường băng trên đảo. Một
phi công trẻ nhận xét về chiếc xe Jeep: “Tôi không phải là một người sùng đạo,
nhưng chiếc xe Jeep và tín hiệu kỳ lạ của nó nhắc tôi về Chúa Giêsu. Mặc dù
Ngài chỉ là một bác nhà quê nhỏ bé, ốm yếu, nhưng các nhân vật lớn trong thời đại
chúng ta sẽ bị hư mất, nếu không có sự hướng dẫn của Ngài.”
Điều
gì ngăn cản tôi theo sát Chúa Giêsu hơn? Chúa Giêsu sẽ nói gì với chúng tôi về
điều đó?
Chúa
Giêsu hằng sống vẫn có hai tay: một tay để chỉ đường, và một tay để nâng đỡ ta
suốt chặn đường (T.W.Mason).
THỨ TƯ - ÐỨC TIN LÀ ÁNH SÁNG
Lời Chúa: Ga 12, 44-50
Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin
vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Đấng đã sai Ta. Và ai thấy
Ta là thấy Đấng đã sai Ta.
Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta,
người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì
không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế
gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta,
thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.
Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Đấng
sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết
rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như
Cha đã dạy.”
TRUYỆN
KỂ
1.
Có đủ ánh sáng cho mỗi bước đi
Chú bé cùng với bố đang đi trên con đường mòn trong
đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ. Bóng đêm trước mặt gây cho chú cảm
giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi, chiếc đèn này chỉ chiếu sáng có chíu
xí trên đường, con sợ quá!” Bố đáp: “Con ạ, ánh sáng này đúng là hơi yếu, nhưng
nó cũng đủ soi cho con đi tới cuối đường.”
Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối,
nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi. Và ta cũng chỉ cần bấy nhiêu.
Nhưng ta chắc chắn một điều: Ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường,
ánh sáng đó đủ soi cho ta đến cuối đường đời.
2.
Ánh sáng cần có trước
Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã
làm ra nó trước cả trời và đất.
Khi đã có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo.
Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời
làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người và hong khô quần áo. Nhờ có ánh
sáng ta mới thấy được sự vật chung quanh ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều
chứng bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn
đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường mà đi
trong đêm tối.
Nếu không có ánh sáng, sinh vật không lớn lên được
và sẽ chết dần mòn... Bởi thế người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng
(Frank Mihalic).
3.
Hãy bật sáng lên
Tại nhà thờ nọ, trong một buổi tối giảng tĩnh tâm,
có hàng ngày tín hữu đến tham dự, nhằm khuyến khich con cái Chúa biết chiếu
sáng lòng tốt của mình ra cho mọi người, linh mục thuyết giảng ra lệnh cho tắt
hết các đèn trong nhà thờ.
Trong giây lát, bóng tối bao trùm cả nhà thờ. Cha
nói:
- Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. Tất cả những ai
nhìn thấy ánh sáng của que diêm này, xin hô lên rằng mình thấy nhé!
Cả nhà thờ to lớn, song chỉ ánh sáng một que diêm nhỏ,
ai cũng nhìn thấy nên đồng thanh hô to:
- Thấy!
Cha liền giải thích:
- Bất cứ hành động nào của lòng tốt cũng đều tương tự
như thế. Một nguồn sáng dù nhỏ cũng có thể chiếu sáng ra giữa muôn ngàn tội lỗi
xấu xa của nhân loại. Một hành động của lòng tốt dù thật nhỏ, cũng vẫn được
phơi bầy trước Chúa và loài người.
Kế đến, linh mục cho phân phát mỗi người một que
diêm và bảo:
- Bây giờ mỗi người hãy đốt que diêm lên!
Trong giây lát, bóng tối trong nhà thờ đã nhường chỗ
cho ánh sáng tỏa ra từ những que diêm li ti khiến nhà thờ tràn ngập những ánh
sáng lung linh một cách kỳ diệu. Vị linh mục kết luận:
- Hãy coi đó, dù nghèo nàn về phần thiêng liêng,
chúng ta cũng có thể đánh bại bóng tối tăm của tội lỗi và chiếu sáng cả thế giới
bằng tình yêu và sự thánh thiện của mình.
4.
Ánh sáng bởi tình yêu
Một vị đạo sĩ nọ một lần kia hỏi các học trò của
mình như thế này:
- Bằng cách nào người ta có thể xác định rõ, lúc nào
là lúc chấm dứt đêm tối và bắt đầu ánh sáng ban ngày ?
Một học trò đáp:
- Đó là lúc mà ta nhìn một con vật ở đàng xa và ta
có thể biết đó là một con cừu hay một con chó.
- Không đúng - Vị đạo sĩ trả lời.
Một học trò khác thưa:
- Đó là lúc mà ta nhìn một cây lớn ở đàng xa và có
thể biết đó là một cây vả hay một cây đào!
Một lần nữa vị đạo sĩ cũng lắc đầu và nói:
- Không phải.
- Thưa thầy, vậy thì đó là lúc nào ? - Các học trò
xôn xao hỏi.
Vị đạo sĩ giải đáp:
- Đó là lúc mà bạn nhìn lên khuôn mặt của bất cứ ai,
bạn cũng nhận ra người ấy là anh em của mình. Vì nếu bạn không nhận ra như vậy
thì bất luận đó là giờ nào, đó cũng là bóng tối thôi.
5.
Ánh sáng là thuốc chữa trị
Mới đây, một bệnh viện thuộc trường đại học y khoa
Stanford bên Hoa Kỳ đã sáng chế ra một loại cửa sổ nhân tạo đặt trong các phòng
hồi sức, nhằm giúp cho bệnh nhân chóng được hồi phục. Người vẽ kiểu cho loại cửa
sổ nhân tạo này là một người chuyên chụp ảnh ở tiểu bang California. Khi chăm
sóc cho người cha ruột của mình trong bệnh viện, ông đã chứng kiến cảnh thoi
thóp thở của cha mình, khi nhìn lên trần nhà của phòng hồi sức. Nhìn lên trần
nhà ấy người ta chỉ thấy toàn một màu trắng với những lỗ đen. Các bác sĩ ở đấy
cho biết, vì phải nằm lâu ngày trong căn phòng thiếu cửa sổ, thiếu ánh sáng tự
nhiên, nên không những bệnh nhân khó hồi phục mà còn để lộ ra những triệu chứng
của bệnh tâm thần.
Nhưng rồi với những cánh cửa sổ nhân tạo được ráp mới,
nhờ một hệ thống điện toán tinh vi, bệnh nhân có thể cảm thấy như đang tiếp xúc
với ánh sáng bên ngoài. Trong 24 giờ đồng hồ, ánh sáng trên khung cửa nhân tạo
thay đổi 65 lần. Bệnh nhân có thể nhìn thấy ánh mặt trời lên cũng như những áng
mây bay qua khung cửa. Những bệnh nhân tuy nằm trong phòng hồi sức nhưng vẫn cảm
thấy mình như gần gũi với thiên nhiên. Họ thấy bớt cô đơn và nhờ đó mà họ mau
bình phục.
Trong tương lai gần đây, người ta cũng có thể tạo ra
cảnh trăng lên cũng như những vì sao lấp lánh trên khung cửa.
6.
Thiên đàng được Chúa mời gọi
Cha Đinh Quang Thịnh kể truyện:
Trong lớp giáo lý Dự Tòng, có anh T, đến ngày anh
chuẩn bị cưới vợ, nên rất cần tiền, chẳng những để tổ chức đám cưới mà còn muốn
có căn nhà cho vợ chồng xum họp.
Lần kia, anh đang ngồi uống cà phê với bạn tại một
quán cóc, thình lình có một em bé cầm mấy tấm vé số đi tới, không hiểu lý do
nào em vấp ngã, làm tung vé số vào người anh T, em vội vàng xin lỗi anh, trong
lúc nhặt mấy tấm vé số lên, em nói: “Chú ơi, chắc là mấy tấm vé số này Trời muốn
cháu đưa cho chú, chú sẽ gặp may.” Nhưng anh T quắc mắt xua đuổi: “Xạo mày,
trúng thì giữ lấy mà xài đừng quấy rầy tao.” Em lại cố năn nỉ: “Chú thương mua
giúp để cháu kịp giờ về đi học”, nhưng anh T quay đi nơi khác buông lời cộc lốc:
“Cút đi!”
Thấy vậy, bạn anh liền nói: “Thôi để chú mua giúp
cho.” Chiều hôm đó, sau giờ mở số, anh bạn trúng độc đắc thật, quá vui mừng nên
gọi điện cho anh T và khoe: “T à, mấy tờ vé số sáng nay cậu không mua, tớ mua
trúng rồi nè. Cậu cám ơn Trời cho tớ nhé.” Nghe được cú điện thoại, T sững sờ
và vô cùng hối hận, tự vò đầu bứt tai than thân trách phận: “Trời ơi sao mình
ngu thế, đúng là thần tài đến nhét tiền vào tay mình mà lại khước từ.”
Lúc ấy, T nghe như tiếng em bán vé số còn đang dội lại
lời mời làm xé nát tim T và, tự kết án mình quá ngu! Đó chỉ là chuyện vé số may
rủi, dù có trúng độc đắc tậu được biệt thự lớn chăng nữa, thì cũng chưa chắc gì
hạnh phúc, có khi vì đó mà lại mang họa! Thế mà còn làm cho T ray rứt, xót xa
vì sự ngu đần của mình.
Kẻ nào quyết liệt xua đuổi ánh sáng Tin Mừng Cứu Độ,
không kết hợp với Chúa Giêsu, là Đấng Cứu Độ duy nhất (x Cv 4,12), thì ngày ra
khỏi thế gian, nó tự lên án mình cách chua xót hơn người khước từ mua vé số, vì
để người khác mua, họ lại trúng.
7. Để
Chúa soi sáng và thành đạt
Kaka, cầu thủ đắt giá nhất một thời, thường tuyên
xưng niềm tin trên sân cỏ như làm dấu thánh giá, mặc áo có dòng chữ “Tôi thuộc
về Chúa Giêsu”… Kaka kể rằng Chúa đã cứu anh trong một tai nạn hồi nhỏ: “Lẽ ra
tôi đã trở thành người tàn phế, nhưng Chúa đã tặng tôi cuộc sống hạnh phúc và sự
nghiệp thành công như bây giờ.” Anh cũng thú nhận nếu không có niềm tin vào
Chúa, anh đã sa ngã vào những đêm ăn chơi cùng bạn bè tại Milan.
Tựa như với Kaka, ánh sáng của Đức Giêsu xua tan cảnh
hỗn mang trong tâm hồn, giúp ta không còn bị xâu xé bởi những đam mê vô độ, những
dục vọng hỗn loạn. Ánh sáng ấy cũng soi sáng cho ta nhìn thấy những thực tại của
cuộc đời đúng với giá trị thật của chúng, không còn bị che đậy bởi những hào
nhoáng giả tạo bên ngoài.
Khi bạn nhìn về mình, có cái nhìn khách quan của người
khác, có cái nhìn chủ quan của chính mình. Nhưng chỉ có cái nhìn của Chúa về bạn
mới chính xác, không có gì ẩn khuất, che đậy được nữa. Bạn chỉ biết rõ và chính
xác về mình nhờ soi dưới ánh sáng của Chúa Giêsu – chẳng hạn qua những tiêu chí
của người môn đệ trong Tin Mừng.
8.
Chúa là ánh sáng giữa nhân loại
John Donne viết bài thơ về một người được nghe kể rằng
Thiên Chúa sống trên một ngọn núi ở tận cùng trái đất. Có người kia đi đến ngọn
núi và bắt đầu cuộc hành trình leo lên đỉnh núi. Chính lúc đó, Thiên Chúa nghĩ:
“Ta có thể làm gì để cho dân Ta thấy Ta yêu thương chúng sâu sắc thế nào?”
Thiên Chúa quyết định đi xuống núi và sống giữa mọi người. Vì vậy, khi người
kia lên tới đỉnh núi, thì Thiên Chúa không có ở đó. Anh ta nghĩ: “Thiên Chúa
không sống ở đây, và ngay cả có lẽ Ngài không hiện hữu.”
Ý của Donne là chúng ta thường tìm Thiên Chúa không
đúng chỗ, mà quên rằng Ngài từ trời xuống và sống giữa chúng ta.
Trước kia tôi đã tìm Thiên Chúa ở đâu? Hiện giờ tôi
tìm Ngài ở đâu? Tương lai tôi có thể tìm Ngài ở đâu?
Thiên Chúa định cư bất cứ ở đâu chúng ta để Ngài vào
(Ngạn ngữ Do thái cổ).
THỨ NĂM - CỦNG CỐ ĐỨC TIN
Lời Chúa: Ga 13, 16-20
Sau khi đã rửa chân các môn đệ, Chúa Giêsu phán với
các ông: "Thật, Thầy bảo thật các con: Tôi tớ không trọng hơn chủ, kẻ được
sai không trọng hơn đấng đã sai mình. Nếu các con biết điều đó mà thực hành thì
có phúc.
Thầy không nói về tất cả các con, vì Thầy biết những
kẻ Thầy đã chọn, nhưng lời Thánh Kinh sau đây phải được ứng nghiệm: Chính kẻ ăn
bánh của Ta sẽ giơ gót lên đạp Ta. Thầy nói điều đó với các con ngay từ bây giờ,
trước khi sự việc xảy đến, để một khi xảy đến, các con tin rằng: Thầy là ai. Thật,
Thầy bảo thật các con: Ai đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy, và ai đón nhận
Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy."
TRUYỆN
KỂ
1.
Thật phúc cho anh em
Khi giảng cho các Giám mục Anh Giáo, ông Jean Vanier
có kể câu chuyện như sau xảy ra tại cộng đoàn của ông, một cộng đoàn được lập tại
nước Pháp để giúp những người cơ nhỡ.
Nhà ông có nhận nuôi anh Eric, 16 tuổi, vừa mù lại vừa
điếc. Anh không đi được, không muốn ăn, chỉ quậy phá và muốn chết. Anh thật là
mối kinh hoàng cho những ai phải chăm lo cho anh. Làm sao để anh yêu cuộc sống
này?
Làm sao để anh thấy mình được yêu và đáng quý, bất
chấp những khiếm khuyết của mình? Tìm đâu thứ ngôn ngữ để một người vừa mù vừa
điếc hiểu được điều ấy?
Ông Jean Vanier có nhiệm vụ tắm cho anh mỗi sáng. Và
ông đã tìm ra được thứ ngôn ngữ mà anh hiểu được, cảm được, thứ ngôn ngữ của
bàn tay, ngôn ngữ của thịt.
“Lời đã thành thịt, để thịt của chúng ta thành lời,”
ông đã nói như thế. Khi Thầy Giêsu chạm tay của mình vào chân các môn đệ để rửa
với sự trân trọng và yêu thương, chắc họ đã cảm được thứ ngôn ngữ không lời đó.
Kinh nghiệm được Thầy rửa chân là kinh nghiệm chẳng thể nào quên. Thầy muốn các
môn đệ tiếp tục làm điều Thầy đã làm:
“Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm
như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13, 15).
2.
Chỗ cho đức khiêm nhường
Chúng ta không còn nghe nói đến những nhân đức Kitô
giáo nữa hay cả đến những nhân đức thường nữa. Tất cả mang tiếng xấu. Chúng
không còn chỗ trong văn hóa của chúng ta. Thời nay sống khiêm nhường khó biết
bao! Hãy nhìn xem: Để được thăng cấp, phải tự đặt giá trị của mình nổi lên. Mọi
kiểu đánh giá đều được đặt trên sự cạnh tranh và tham vọng. Người ta còn tính rằng
để sống, cần phải đè nén và hạ bệ người khác để cho mình lên. Làm sao sống
khiêm tốn trong một thế giới văn minh tôn sùng minh tinh, thần tượng, siêu sao,
thị trường, thời trang …
Chúa nói đến đức này bằng hành động và giải thích. Bằng
hành động: Trước lễ vượt qua, Người rửa chân cho các môn đệ. Đức Giêsu đã làm
tôi tớ, Người có mục đích sẵn sàng phục vụ người khác. Nhưng chúng ta lại quên
cử chỉ của Đức Giêsu ngay sau lễ chiều thứ năm tuần thánh. Chúng ta đã mừng lễ
rất tốt, nhưng chúng ta trước và sau lễ chẳng sống chút gì với Thánh lễ.
Bằng lời nói, Đức Giêsu lưu ý chúng ta đến đức khiêm
nhường: “Tôi tớ không lớn hơn chủ. Kẻ được sai đi không lớn hơn người sai bảo."
3.
Chúa Giêsu tuyển chọn môn đệ
Tình thương Chúa đã trao ban một cách trọn vẹn,
nhưng con vẫn có thể đón nhận hoặc chối từ. Điều đó đã xảy ra nơi nhóm Mười
Hai, là những người được Chúa săn sóc một cách đặc biệt. Ông Giu-đa đã trở
thành kẻ phản bội vì từ chối yêu thương, còn các tông đồ khác, dù có yếu đuối lỗi
lầm, nhưng vẫn một lòng trung thành với tình yêu của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa có lầm chăng? Con tin chắc Chúa không
lầm khi Chúa chọn ông Giu-đa. Và con tin chắc Chúa không lầm khi Chúa chọn con.
Vì đó là chương trình Chúa thực hiện ơn cứu độ. Chúa đã chọn gọi con, con đã dứt
khoát đứng về phía Chúa khi gia nhập Giáo Hội, khi con tuyên xưng niềm tin vào
Chúa. Nhưng có những lúc con đã lạm dụng tự do Chúa ban để không chọn Chúa, để
chối từ tình thương Chúa. Đồng thời con cũng chối từ sống yêu thương anh em.
Con đã chối từ hạnh phúc khi chối từ tình yêu. Con đã chọn đau khổ khi cố tình
sống ngoài tình yêu.
Lạy Chúa, xin Chúa gìn giữ con sống trong tình yêu
Chúa. Xin đừng để con lạm dụng tự do để phản bội Chúa. Và nếu con có yếu đuối lỡ
lầm, xin cho con biết tin tưởng trở về với Tình Yêu. Amen.
4.
Phục vụ Chúa trong anh em.
Thánh Biển Đức căn dặn các đan sĩ: “Khi anh em đón
tiếp và phục vụ khách, thì không phải anh em đang đón tiếp và phục vụ khách, mà
là cung kính đón tiếp chính Đức Kitô ở trong khách." Và Đức Giêsu cũng đã
đồng hóa chính Ngài hiện thân trong mọi mảnh đời khi Ngài nói về ngày phán xét
chung: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những
anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt
25,40).
Như thế, khi ý thức được Chúa ở trong mọi người, thì
chúng ta không thể nổi giận cau có với “Chúa” được, mà là một sự kính trọng và
chu đáo như Mattha và Maria đã đón Chúa vào nhà mình. Thấy Chúa trong anh em
thì chúng ta sẽ dễ tôn trọng và yêu thương nhau...
5.
Khai sinh hội bác ái Vinh Sơn.
Khoảng năm 1883, dưới sự lãnh đạo của một thanh niên
Ozanam, 8 thanh niên Công giáo trường đại học Paris thường gặp nhau để thảo luận
chiến thuật bảo vệ Giáo hội đang bị tấn công tứ phía. Những buổi thảo luận đã
diễn ra suốt một năm, nhưng chưa đưa đến một hành động nào. Tình cờ 8 sinh viên
nghe một lời thách thức của kẻ chuyên chống phá Giáo hội:
“Các anh luôn
nói đến công lao Giáo hội của các anh trong quá khứ, nhưng Giáo hội các anh bây
giờ đã chết rồi. Nếu các anh bảo Giáo hội vẫn đang sống, hãy chứng minh đi. Một
năm qua, tôi chỉ thấy các anh thảo luận tranh cãi nhau bằng môi mép, nhưng chưa
thấy một hành động cụ thể nào."
Lời thách đố ấy được 8 sinh viên Công giáo tiếp nhận
như một bài học quí giá. Buổi chiều hôm đó, thay vì thảo luận, hành động đầu
tiên của họ là thu nhặt số củi khô dùng để sưởi ấm ở phòng trọ và họ còn mang
biếu cho người nghèo đang rét run tại phòng bên cạnh vì không có tiền để mua chất
đốt.
Đó là buổi chiều đầu tiên khai sinh hội Bác ái Vinh
Sơn chuyên hoạt động giúp đỡ người nghèo theo tinh thần thánh Vincent de Paul.
Những người tiên phong của hội này hiểu rằng: Người tín hữu Kitô không thể bênh
vực Giáo hội bằng những lời nói suông mà phải bằng chính những hành động cụ thể,
bằng chính cả cuộc sống của họ.
6.
Bài học Đón Nhận
Trong khung cảnh bữa tiệc ly, sau khi rửa chân cho
các môn đệ để dạy các ông bài học yêu thương và phục vụ, Chúa Giêsu dạy tiếp một
bài học rất cần cho mọi Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với
mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy; và ai đón nhận Thầy là đón nhận
Đấng đã sai Thầy."
“No man is an island”, đó là tựa đề một quyển sách
(Không ai là một hòn đảo). Ai sống cũng có những người khác sống chung quanh.
Cuộc sống đầy những dịp gặp gỡ. Khi tôi đến gặp ai, nếu người ta lạnh nhạt với
tôi, tôi có khó chịu không? Thế thì tại sao khi người ta đến với tôi, tôi lại
không đón nhận. Huống chi Chúa Giêsu còn muốn tôi coi những người đến với tôi là
do Chúa sai đến.
7.
Gặp Chúa trong đời
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy thức giấc rất sớm.
Anh quyết định chuẩn bị căn xưởng nhỏ của anh cho tươm tất rồi vào phòng khách
chờ đợi cho bằng được người khách quý. Người khách đó không ai khác hơn là
chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ Ngài đã hiện ra và báo cho anh biết
Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm hồn tràn ngập hân
hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã nghe được tiếng gõ cửa.
Lòng anh hồi hộp sung sướng. Hẳn là Chúa đến. Anh ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đang
đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát thư. Sáng hôm đó là một
ngày cuối đông. Cái lạnh đã khiến mặt mũi tay chân người phát thư đỏ như gấc.
Người thợ giầy không nỡ để nhân viên bưu điện run lẩy bẩy ngoài cửa. Anh mời
ông ta vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng
dậy cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng khách chờ Chúa. Nhìn
qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa nhà. Anh gọi nó lại
hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết đường về nhà. Người
thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn, báo cho người khách quý biết
mình đã đi ra ngoài. Nhưng tìm đường dẫn đứa bé về nhà đâu phải là chuyện đơn
giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra nhà đứa bé và khi anh về lại
nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có người đang đợi anh.
Nhưng đó không phải Chúa mà là một người đàn bà với dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết
đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chợp mắt suốt đêm qua. Nghe thế,
người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa đêm anh mới về nhà, anh để
nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa chưa đến thăm anh.
Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe tiếng Chúa nói với anh:
“Cám ơn con đã dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà.
Cám ơn con đã săn sóc an ủi Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay."
8.
Yêu như Chúa yêu
Edith và Kelo lấy nhau đã hai mươi ba năm nhưng họ vẫn
không có con. Dầu vậy tình yêu giữa hai người luôn đằm thắm. Mỗi lần đi công
tác, người chồng luôn viết thư và gửi quà về cho vợ. Tháng 2/1950, Kelo được gửi
đi công tác tại Nhật Bản. Lần này, Kelo không gửi quà về cho vợ nữa. Người vợ
nghĩ rằng, chồng cần dành tiền để mua một ngôi nhà mới chăng.
Tháng ngày trôi qua, cứ mỗi lần người vợ mong chồng
về nhà thì bà lại nhận được một lá thư, trong đó, người chồng báo tin là sẽ nán
ở lại một vài tuần nữa. Vài tuần rồi một tháng, thời gian chờ đợi ngày càng dài
hơn và những cánh thư cũng bắt đầu thưa dần.
Bẵng đi một thời gian, người vợ nhận được một lá thư
trong đó chỉ có vỏn vẹn vài chữ. Như một hồi chuông báo tử, người chồng cho biết
ông muốn được ly dị để cưới một cô gái Nhật Bản tên là Aikô, mười chín tuổi. Chờ
cho những cảm xúc ban đầu lắng dịu, Edith bắt đầu hồi tâm lại, bà nghĩ rằng, chồng
bà không vượt qua được nỗi cô đơn vì xa vợ quá lâu, nhưng ông đã tỏ ra thành thực
và can đảm xin ly dị để cưới cô gái hơn là lợi dụng cô.
Bà Edith xây dựng cuộc sống còn lại trên sự cảm
thông cao độ ấy. Thế là bà viết thư cho chồng và xin ông đừng cắt đứt liên lạc
với bà. Không bao lâu, bà nhận được tin của người chồng cũ, ông cho biết ông đã
có được hai đứa con gái. Bà Edith liền gửi quà mừng.
Trong những lá thư sau, Kelo kể đủ mọi chuyện cho
người vợ cũ của mình biết: nào là về gia đình ông, nào là vợ ông đã tiến bộ
trong việc học Anh ngữ, nào là ông đã giảm ký và đứa con gái nhỏ của ông đã mọc
thêm mấy cái răng.
Nhưng rồi một ngày kia một lá thư khủng khiếp nhất
đã đến tay bà: Kelo cho biết ông đang chờ chết vì bệnh ung thư phổi. Những lá
thư cuối cùng của ông đầy nước mắt, không phải cho ông mà là cho Aikô và hai đứa
con gái của ông. Ông đã dành dụm đủ tiền để gửi con sang Mỹ học, nhưng bệnh tật
đã ngốn hết số tiền ấy.
Sau khi Kelo qua đời, Edith viết thư ngỏ ý bảo lãnh
hai đứa con gái riêng của ông sang Mỹ. Edith đón nhận hai đứa con của người chồng
cũ như chính con của mình. Mãi đến tuổi năm mươi, bà mới biết thế nào là làm mẹ.
Giờ đây, sau khi tan sở, bà có đủ lý do để vội vã về nhà. Trong khi đó, vì
thương con, Aikô cũng thường xuyên liên lạc với Edith. Edith chợt hiểu rằng,
người mẹ này hẳn cô đơn vì nhớ con, bởi thế nên Edith quyết định bảo lãnh cho
Aikô sang Mỹ.
Tháng 8/1957, Aikô nhận được giấy nhập cảnh. Khi máy
bay đáp xuống phi trường quốc tế New Yord, tự nhiên Edith cảm thấy lo sợ: bà sợ
bà không vượt qua được sự thù ghét đối với người đàn bà ngoại quốc đã cướp mất
chồng bà. Vị hành khách cuối cùng ra khỏi máy bay là một người thấp bé, mảnh khảnh
đến độ Edith tưởng chỉ là một cô bé. Bà gọi tên Aikô và người đó chạy đến ngả
vào cánh tay của bà. Hai người ôm ghì lấy nhau thật lâu. Ý nghĩ phi thường chợt
đến với Edith:
“Tôi đã cầu nguyện cho Kelo trở về với tôi, giờ đây
chồng tôi đang hiện diện trong hai đứa con gái nhỏ và người đàn bà dịu dàng mà
ông đã từng yêu thương. Lạy Chúa, xin giúp con yêu thương người đàn bà
này."
Mẹ Têrêsa Calcutta nói: “Yêu thương thật sự là yêu
thương cho đến khi nào cảm thấy bị tổn thương."
9.
Xin cho con “nhỏ” hơn Thầy!
Suy niệm: Để lập cộng đoàn Emmau chuyên đón tiếp và
nuôi dưỡng những người vô gia cư tại Pháp, cha Pierre đã chịu bao khổ nhục cay
đắng. Khi được hỏi muốn ghi câu gì trên mộ của mình, cha trả lời: “Xin đề trên
mộ tôi câu này: nơi yên nghỉ của một người đã cố gắng yêu thương.” Cuộc đời của
cha chỉ muốn được hoạ lại lý tưởng yêu thương theo mẫu gương của Thầy mình là Đức
Giêsu. Bài Tin Mừng hôm nay tiếp theo việc Đức Giêsu “cúi xuống” rửa chân cho
các môn đệ. Ngài muốn dạy cho ta sự cao trọng trong Nước Trời không do làm các
việc vĩ mô to tát, nhưng do những nghĩa cử phục vụ bình thường, nhỏ bé trong cuộc
sống. Con đường phục vụ, “cúi xuống,” hạ mình của ông Thầy cũng phải là con đường
của các môn đệ.
Mời Bạn: Nhiều Kitô hữu hôm nay lại thực hiện Lời
Chúa theo cung cách “lộn ngược”: mình quá cao trọng vì chức vụ này, chức thánh
kia, nên không thể nào làm những việc phục vụ nhỏ nhặt, tầm thường! Trong xã hội
cũng như các sinh hoạt của giáo xứ, dòng tu, lắm khi ta đùng đùng giận dữ và phản
ứng chỉ vì cảm thấy không được coi trọng, không được đặt để vào chức vụ tương xứng
với khả năng (theo chủ quan) của mình. Thế là bài học ông Thầy quỳ xuống rửa
chân cho môn đệ mất tác dụng mà chỉ còn là một kỷ niệm đẹp của Tuần Thánh!
10.
Muốn làm lớn
Trường đại học Eastern Mennonite đưa ra mục quảng
cáo lạ tai như sau lên tạp chí “Đời sinh viên.” Sau khi mô tả người thời nay
đang nổ lực thế nào để “làm lớn”, mục quảng cáo lưu ý rằng điều đó cũng tương tự
như vào thời Chúa Giêsu: ngay cả các môn đệ Ngài thân tín nhất của Ngài cũng muốn
làm lớn. Trong bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu nói một câu hết sức ấn tượng về thái
độ này, và Ngài nói bằng hành động cũng hết sức ấn tượng: Ngài lấy khăn thắt
lưng và rửa chân cho các môn đệ. Nói khác đi, Ngài đã minh họa lời nói của Ngài
bằng gương sáng. Hễ ai muốn làm lớn, thì phải làm người phục vụ. Mục quảng cáo
kết luận: “Vậy nếu bạn muốn làm lớn, hãy đến và học nơi trường chúng tôi.”
Tại sao tôi muốn “làm lớn/”
Gương mẫu không phải là điều chính yếu trong cuộc sống,
nhưng lại là điều duy nhất. (Albert Scheweitzer)
11.
Đón tiếp Đấng đã sai Thầy
Một nữ sinh nói với một người bạn: “Tôi tin Thiên
Chúa và tôi tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng tôi không tin Giaó hội.”
Người bạn của cô nói: “Không thể như thế được! Bạn không thể tách rời Chúa
Giêsu khỏi Giaó hội. Cả hai là một, như Chúa Giêsu và Chúa Cha là một. Trong
ngày lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần đã đến và làm cho Chúa Giêsu và các môn đệ
Ngài thành một thân thể duy nhất, là Giaó hội.”
Tôi có khuynh hướng tách rời Chúa Giêsu khỏi Giaó hội
như thế nào? Tại sao?
Bạn không thể có Thiên Chúa là Cha, nếu không có
Giaó hội là Mẹ (Thánh Augustinô).
12. Đôi giày dính bùn (bài giảng cho thiếu nhi)
Ở một
ngôi trường nhỏ nọ, có một cậu bé tên là Minh. Một ngày mưa, sân trường lầy lội
bùn đất, và các bạn nhỏ ai nấy đều dơ giày. Minh thấy cô lao công đang lúi húi
lau chùi hành lang, đôi tay đã nứt nẻ vì lạnh. Cậu dừng lại, nghĩ đến việc mình
có thể giúp. Vậy là sau giờ học, Minh xin phép ở lại, lấy chổi và giẻ lau để
lau bớt bùn đất trên sàn.
Một số
bạn nhìn thấy liền nói:
–
“Sao cậu lại làm việc đó? Đó là việc của người giúp việc mà!”
Nhưng
Minh chỉ mỉm cười và nói:
–
“Chúa Giêsu đã từng rửa chân cho các môn đệ. Mình cũng muốn làm việc nhỏ bé gì
đó để giúp đỡ.”
Hôm
đó, cô lao công nhìn Minh bằng ánh mắt thật trìu mến, không nói nhiều, nhưng cả
cô và cậu bé đều cảm thấy lòng mình ấm áp.
Các
em thân mến,
Chúa
Giêsu là Thầy, là Chúa, nhưng Ngài đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, một việc
mà thường chỉ người đầy tớ mới làm. Qua đó, Chúa dạy chúng ta rằng: yêu thương
không phải chỉ bằng lời nói, mà là bằng hành động khiêm tốn và phục vụ người
khác.
Khi
các em giúp cha mẹ việc nhà, chia sẻ đồ chơi với bạn, hay an ủi một người đang
buồn, là các em đang giống Chúa Giêsu đó! Như Chúa nói:
“Ai
đón nhận kẻ Thầy sai, là đón nhận Thầy.”
Vậy,
mỗi khi chúng ta yêu thương và phục vụ nhau, là chúng ta đang đón tiếp chính
Chúa Giêsu và Thiên Chúa Cha vào trong cuộc sống mình. Và như lời Chúa hứa:
“Nếu
các con biết điều đó mà thực hành, thì có phúc.”
Chúng
ta hãy cùng sống yêu thương như Chúa nhé!
THỨ SÁU - ÐƯỜNG VỀ QUÊ TRỜI
Lời Chúa: Ga 14, 1-6
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Lòng các con đừng xao xuyến. Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy.
Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở, nếu không, Thầy đã nói với các con rồi; Thầy
đi để dọn chỗ cho các con. Và khi Thầy đã ra đi và dọn chỗ các con rồi, Thầy sẽ
trở lại đem các con đi với Thầy, để Thầy ở đâu thì các con cũng ở đó. Thầy đi
đâu, các con đã biết đường rồi."
Ông Tôma thưa Người rằng: "Lạy Thầy, chúng con
không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường đi?"
Chúa Giêsu đáp: "Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy."
TRUYỆN
KỂ
1.
Đường sự sống
Đức Phật bi quan vì thấy con người đắm chìm trong
vòng xoáy khắc nghiệt của sinh, lão, bệnh, tử. Nên Phúc, Lộc, Thọ mãi mãi là niềm
mơ ước của con người. Mơ ước chỉ là mơ ước. Vì chưa ai tìm ra con đường đến được
nơi ước mơ. Nhưng hôm nay Chúa Giê-su loan báo một lời làm nức lòng con người.
Sáng lên niềm hi vọng: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống."
Chúa là đường. Đi theo Chúa ta sẽ đến nơi. Chúa là sự thật. Đi theo Chúa ta
không lo bị lầm lạc. Chúa là sự sống. Sống với Chúa ta không bao giờ chết. Và
còn hơn nữa ta sẽ được hạnh phúc. Vì đó là thiên đàng. Thiên đàng là nơi Chúa
Giê-su ở với Chúa Cha. Đây không còn là ước mơ. Nhưng là hiện thực. Vì chính
Chúa chuẩn bị chỗ cho ta ở thiên đàng. “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở; nếu
không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn
chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh
em cũng ở đó."
Tuy nhiên đi theo Chúa không phải dễ dàng. Vì có những
thế lực ma quỷ luôn tìm cách chặn đường. Bằng gian dối. Bằng chết chóc. Chính
Chúa Giê-su đã phải chiến đấu để mở ra con đường sự thật và sự sống.
2. Đường về quê trời
Khi tìm giải đáp cho một bài đố tìm đường từ một khởi
điểm dẫn tới một địa điểm được yêu cầu thì người tham dự thường lúng túng, vì
có quá nhiều đường có thể dẫn tới nơi nhưng thực sự lại dẫn đến ngõ cụt. Nhưng
nếu tinh ý quan sát một chút, người ta có thể thấy công việc tìm kiếm dễ như trở
bàn tay. Ðó là thay vì bắt đầu từ điểm khởi hành với nhiều ngõ rẽ, chúng ta hãy
bắt đầu từ nơi đến rồi đi ngược lại. Với phương pháp này ta sẽ dễ dàng tìm ra
con đường ngắn nhất dẫn đến nơi phải đến.
Như vậy, điều quan trọng không phải là biết đường
không mà thôi, mà còn là và nhất là biết nơi mình đến, cần biết nơi mình đến
trước khi bắt đầu đi. Khi hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, chúng con không biết
Thầy đi đâu, thì làm sao chúng con biết đường đi tới", thánh Thomas tông đồ
đã lý luận theo cùng một nguyên tắc như nói trên.
3.
Dọn chỗ cho anh em
Khi chúng ta có những dự tính tương lai, khi chúng
ta mơ ước về ngày mai, chúng ta rất hay hy vọng tìm được một chỗ tốt nào đó cho
mình gửi tấm thân tàn để sống những ngày còn lại. Hay một ngôi mộ yên mả đẹp
cho nắm xương tàn.
Ngày nay, người ta đang hy vọng xây những dẫy nhà
chung cư tiện nghi để giải quyết những nhà ổ chuột cho hàng ngàn gia đình. Ai
cũng mong muốn có một chỗ ở mới, những láng giềng lân cận tốt. Ai cũng khao
khát được ở ngôi nhà của riêng mình với những tiện nghi theo kiểu mới, hợp thời
trang, giữa khu vườn có phong cảnh lý tưởng.
Nhưng có biết bao gia đình không bao giờ tìm được một
nơi ở tương xứng cho gia đình vì quá nghèo và giá cả quá mắc.
Tin mừng hôm nay dắt đưa chúng ta đến xem kế hoạch của
Thiên Chúa đang dọn một chỗ ở mênh mông tráng lệ cho con người. Ngài là kiến
trúc sư muôn đời, là sở hữu chủ vô biên.
4.
Triết gia Diogène bán sự khôn ngoan.
Một ngày nọ, triết gia Diogène của Hy Lạp đã đến giữa
chợ Athènes và dựng lên một căn lều có ghi đậm hàng chữ như sau: “Ở đây có bán
sự khôn ngoan."
Một bậc khoa cử tình cờ đi qua căn lều đọc được lời
rao bảo, mới cười thầm trong bụng... Muốn biết đàng sau căn lều ấy có những gì,
ông mới sai người đầy tớ cầm tiền để dò la và mua cho được cái mà người bán gọi
là sự khôn ngoan.
Người đầy tớ cầm tiền ra đi làm theo lời căn dặn của
chủ... Anh đưa cho Diogène 3 hào và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan.
Cầm lấy 3 hào bỏ vào tủi, triết gia Diogène nói với người đầy tớ một cách trang
trọng như sau: “Anh hãy về đọc lại cho chủ anh câu này: Trong tất cả mọi sự, hãy
nghĩ đến cùng đích."
Vị khoa cử thành Athènes vô củng thích thú vì lời
khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà như khuôn vàng thước ngọc để
chính ông suy niệm mỗi ngày, và tất cả nhưng ai đi qua trước nhà ông đều có thể
đọc thấy.
5.
Sống gửi thác về
“Sinh ký, tử quy” sống là gởi, chết là về. Đời này
không phải là quê hương mà chỉ là nơi chúng ta gởi thân trong một khoảng thời
gian nào đó. Khi chết, chúng ta sẽ về quê hương thật. Đó là chân lý. Nhưng nhiều
người quên hẳn chân lý đó. Họ sống ở trần gian như là đang ở quê hương vĩnh viễn,
không hề nghĩ tới lúc phải rời bỏ cái “Ký túc xá” này, không hề nghĩ tới nơi
mình sẽ về.
Một người nói chuyện với bạn là một Kitô hữu đã già:
“Tôi sợ rằng anh gần đất xa trời rồi." Người kia nhẹ nhàng đáp: “Tôi biết
chứ, nhưng nhân danh Chúa tôi không sợ, mà tôi còn đặt hy vọng vào đó."
6.
Câu Thánh Kinh ngọt ngào nhất
Một Kitô hữu già cả sắp chết. Một người đến nói:
- Con đọc cho cụ nghe một câu Thánh Kinh ngọt ngào
nhất nhé!
- Vâng.
- Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ… Ta đi dọn chỗ cho
các con. (Ga 14,2)
- Không, đó không phải là câu ngọt ngào nhất, đọc tiếp
đi.
- Ta sẽ trở lại để Ta ở đâu thì con sẽ ở đó với Ta
(Ga 12,26).
- Đó mới là câu ngọt ngào nhất. Điều tôi cần không
phải là một chỗ, mà là chính Chúa.
7.
Không quên mục đích
Jules César, một tướng lĩnh lừng danh của Rôma thời
xưa...khi vượt biển sang Phi Châu, lúc đặt chân lên đất đã bị trượt chân và bị
té ngã. Cảm giác đầu tiên là ông sợ hãi nên đâm ra lo lắng... sợ rằng, đây là một
điềm xấu gì chăng. Thế nhưng, sau đó, César đã bình tĩnh lại ngay, ông giơ tay
lên và kêu to như để thức tỉnh chính mình.
- Hỡi Phi Châu! Ta ôm lấy mi!
Và cuối cùng, vì cái té ngã bất ngờ đó mà ông đã chiến
thắng và được hiển vinh.
Chúa Giêsu đã quả quyết “Nước Trời phải dùng sức mạnh
mới chiếm được”
8.
Cùng gian khổ, cùng vinh quang
Năm l796, chiến tranh giữa Pháp và Liên Minh Ý-Áo, Đại
tướng Bonaparte của Pháp đã đưa quân đội đến một địa điểm, có cây cầu bắc qua
trận tuyến của địch.
Khi trận chiến đã đến hồi quyết định, Bonaparte hô
quân tiến qua cầu, nhưng không một ai qua! Bonaparte xuống ngựa, giựt lá cờ
quân đoàn, chân bước qua cầu, miệng hô to:
- Ai yêu tổ quốc thì theo ta.
Lịch sử kể lại rằng, lúc đó trên cầu người ta thấy
chỉ có một mình ông với lá cờ đã rách nhiều mảnh vì đạn của địch quân. Rất may
sau đó có cậu bé 13 tuổi đánh trống thúc quân, hai tay đập mạnh vào trống, chân
bước qua cầu theo đại tướng, quân sĩ thấy vậy liền tràn theo qua cầu. Bonaparte
toàn thắng và chấm dứt chiến tranh.
8 năm sau, Bonaparte đã là hoàng đế Napoléon, trở lại
chỗ cũ, có lễ nghi nghinh tiếp rất long trọng. Napoléon muốn bắt tay cậu bé
Vidal đã 21 tuổi hiện ở trong quân đoàn tại đó. Hỏi đến Vidal thì cậu đã xin
nghỉ phép để về đưa đám tang mẹ. Napoléon bãi bỏ tất cả nghi lễ quân đội, đi thẳng
đến làng của Vidal, theo sau đám tang đến tận huyệt, đọc bài điếu văn rồi đi bộ
cùng Vidal trở về. Vidal từ chối và mời Hoàng đế lên xe. Hoàng đế Napoléon đáp:
- Tám năm trước con đã liều chết theo ta trên con đường
chết, nay trên con đường đau khổ, con cho ta theo con, cho có bạn!
Ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu rỗi.
9.
Cầu nguyện và việc bổn phận
Kẻ làm việc hăng hái mà không làm đúng bổn phận phải
làm hay làm việc phụ mà bỏ việc chính, đó là kẻ đi trật đường Chúa thiết lập!
Thánh Phaolô nhắc nhở môn đệ Timôthê: “Con hãy tránh xa những người: hình thức
của Đạo thánh thì họ còn giữ, nhưng cái chính yếu thì đã chối bỏ” (2Tm 3, 5);
thánh Augustin phê bình: “Họ chạy khỏe lắm đó, nhưng trật đường mất rồi.” Đó
cũng là lý do mà Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhắc nhở cho hàng giáo sĩ: “Một
nỗi nguy thường xuyên nơi các giáo sĩ, là họ quá năng nổ trong công việc của
Chúa, mà quên mất Chúa là Chủ của công việc.”
Vậy mỗi buổi mai ta hãy cầu nguyện với Chúa là đường
dẫn ta đi từng ngày, cho ta biết phải đi đâu, làm việc gì cho đúng ý Ngài. Có
thế mọi việc ta làm mới tôn vinh Thiên Chúa (x 1Cr 10, 31), xứng đáng là con
Thiên Chúa, như Ngài nói với ta trong Chúa Giêsu khi ta lãnh nhận Bí tích Thánh
Tẩy: “Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Tv 2, 7: Đáp ca).
10.
Đi theo con đường Kitô
Cuộc đời chúng ta gắn liền với những con đường. Đó
có thể là con đường phố với đèn xanh đèn đỏ, hay con đường quê, đường núi nơi
các buôn làng, hoặc “vô hình” hơn, đó có thể là những con đường biển, đường
hàng không. Những con đường đó, chúng ta sẽ bỏ lại sau lưng một khi chúng ta đã
đi qua chúng. Lại có những con đường gắn liền với cuộc sống, chạy xuyên suốt cuộc
đời, là chính cách ăn nết ở của chúng ta. Có khi đó là con đường tội lỗi của cuộc
sống gian dối bất công. Có khi đó là con đường lành thánh của cuộc sống lương
thiện và nhân ái. Chính theo nghĩa này mà Chúa Giêsu nói Ngài là “con đường, là
sự thật và là sự sống.”
Con đường của Chúa bao hàm lời mời gọi kết hiệp với
Ngài để đồng nhất cuộc sống mình với cung cách sống của Chúa, và cùng đi con đường
thập giá để cùng sống với Ngài trong cuộc phục sinh vinh quang.
Con đường nào dù có tốt mấy đi nữa cũng không thể
đưa bạn đến đích nếu bạn cứ ngồi lỳ không chịu theo nó mà bước tới. Chúa Giêsu
là con đường đưa đến sự Thật toàn vẹn và sự Sống vĩnh cửu cũng mời gọi bạn làm
môn đệ của Ngài nghĩa là đi theo con đường thập giá của Ngài. Con đường mang
tên Kitô đó đã trở thành con đường của bạn, con đường cho bạn chưa?
11.
Thầy sẽ lại đến
Sau vụ đặt bom cảng Pearl Harbor vào ngày 7-12-1941,
người Nhật xâm nhập Philippines. Ba tháng sau, ngày 11-4-1942, tướng Douglas
McArthur buộc phải trốn khỏi Philippines. Trước khi đến Úc, ông bảo người dân
trong đảo: “Tôi sẽ trở lại.” Ngày 20-10-1944, ông đã giữ lời hứa. Hạ cánh xuống
đảo Leyte, McArthur nói: “Tôi đã trở lại.”
Chúa Giêsu cũng hứa sau khi rời bỏ thế gian, một
ngày nào đó Ngài sẽ trở lại. Cũng như tướng McArthur, Chúa Giêsu cũng sẽ nói:
“Ta đã trở lại.”
Tôi có nồng nhiệt mong đợi Chúa Giêsu trở lại như
người dân đảo nồng nhiệt mong đợi McArthur trở lại không?
Nếu tâm hồn con người cống hiến cho những phù phiếm
trần gian, thay vì cho Đấng sáng tạo ra nó, thì chẳng còn quy luật gì cả.
(Dietrich Bonhoeffer)
12.
Thầy ở đâu anh em cũng ở đó
John Peterson viết một bài thánh ca về thiên đàng,
trong đó có một đoạn như sau: “Trên ngọn núi, nơi mặt trời khuất bóng, thiên
đàng đang chờ đợi tôi. Trên ngọn núi, nơi mặt trời khuất bóng, tôi sẽ thấy Chúa
Giêsu, Đấng cứu độ tôi.” Một nhà phê bình âm nhạc nói với Peterson: “Hãy bỏ qua
ý niệm ở với Chúa Giêsu và dành thời giờ để mô tả niềm vui thiên đàng.” Dĩ
nhiên, Peterson từ chối, bởi vì bản chất của niềm vui thiên đàng chính là đối
diện với Chúa Giêsu.
Tôi cảm thấy thoải mái ra sao với ý nghĩ rằng mình
đang trực diện với Chúa Giêsu?
Mục đích của tôn giáo không phải là đưa chúng ta vào
thiên đàng, mà là đem thiên đàng vào trong chúng ta.
THỨ BẢY - CẦU NGUYỆN NHÂN
DANH CHÚA
Lời Chúa: Ga 14, 7-14
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con
biết và đã xem thấy Người."
Philipphê thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con
xem thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con." Chúa Giêsu nói cùng ông rằng:
"Philipphê, Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa biết Thầy ư?
Ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: Xin tỏ cho chúng con xem thấy
Cha? Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy ư? Những điều Thầy
nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở trong Thầy, Ngài
làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy. Ít ra
các con hãy tin, vì các việc Thầy đã làm.
Thật, Thầy bảo thật các con: Ai tin vào Thầy, người ấy
sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao
hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ
làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều gì các con nhân danh Thầy mà xin
cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho."
TRUYỆN
KỂ
1.
Kết hợp với Chúa, làm được mọi sự
Chúng ta nghe nói đây đó nhiều vị thánh đã làm phép
lạ cách phi thường. Có nhiều đấng làm phép lạ ngay khi còn sống, chẳng hạn như
thánh Giêrađô, Vinh Sơn, Mattinô...
Đứng trước những phép lạ đó, chúng ta không khỏi ngỡ
ngàng và ngạc nhiên! Tuy nhiên, chìa khóa để mở ra sự bất ngờ này, chính là sự
kết hiệp mật thiết sâu xa giữa các thánh và Đức Giêsu. Vì thế, việc phi thường
các thánh làm thực ra không phải, mà là Chúa đang hành động nơi các ngài.
2.
Không ai nhìn thấy Thiên Chúa.
Một vị vua nọ nảy ra ý nghĩ táo bạo, ông cho mời các
lãnh đạo tôn giáo đến và ra lệnh trong một tuần phải làm thế nào cho ông thấy
được Thiên Chúa, nếu không sẽ bị chém đầu.
Thật là một đòi hỏi nan giải và hóc búa. Làm thế nào
có thể thỏa mãn được một ước muốn càn rỡ như thế. Biết được mối lo âu của các
nhà lãnh đạo, một kẻ chăn chiên đến xin các vị lãnh đạo tôn giáo được làm công
việc đó.
Vào một buổi sáng như đã hẹn, kẻ chăn chiên dẫn nhà
vua đến đồng cỏ nơi anh ta thường chăn súc vật. Họ đi bộ, chứ không dùng xe,
khi tới nơi, mặt trời đã gần đỉnh ngọ. Kẻ chăn chiên đưa tay chỉ mặt trời và
xin nhà vua nhìn.
Vua nổi giận bảo anh muốn làm mù đôi mắt của ông hay
sao. Bấy giờ kẻ chăn chiên mới quì xuống trước mặt vua và thưa: “Tâu bệ hạ, chỉ
một vật do bàn tay Thiên Chúa tạo dựng mà ánh quang của nó rực rỡ đến nỗi bệ hạ
chẳng dám nhìn, thì làm sao bệ hạ có thể nhìn thấy Thiên Chúa được/”
Chính lúc ấy, nhà vua đã nhìn thấy Thiên Chúa không
phải bằng đôi mắt trần gian, nhưng bẳng đôi mắt của niềm tin.
3.
Cái bóng chữa bệnh
Có một vị ẩn sĩ sống khiêm tốn và nghèo khó. Ngày
kia, một Thiên thần đến nói với ngài: “Chúa sai tôi đến gặp ngài, ngài có thể
xin bất cứ điều gì ngài muốn. Vậy, ngài có muốn được ơn chữa bệnh không ?” Vị ẩn
sỹ trả lời: “Không, thà để chính Chúa chữa trị thì tốt hơn." Thiên thần lại
đề nghị: “Hay ngài có muốn trở thành mẫu gương để người khác nhìn vào mà sống tốt
đẹp hơn không ?” Vị ẩn sỹ khiêm tốn nói: “Không, bởi thế tôi sẽ trở thành trung
tâm của sự chú ý."
Cuối cùng Thiên Thần nói: “Ít nhất ngài nên xin một
điều gì đó vì Chúa muốn thế."
“Vâng, tôi xin điều này: xin cho mọi việc thiện được
thực hiện qua tôi mà tôi không hề hay biết." Thế là lời ước của vị ẩn sỹ
thành hiện thực, Thiên Chúa ban cho cái bóng của Ngài có được mọi quyền năng.
Nơi nào có bóng Ngài đi qua người bệnh được chữa khỏi, niềm vui thay cho sầu khổ
và đất đai trở thành phì nhiêu. Nhưng ẩn sỹ không hề hay biết điều đó, vì dân
chúng chỉ chú ý đến cái bóng, đến độ quên hẳn Ngài.
Xin cho con biết sống như Thánh Gioan Tẩy giả “Người
phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi."
4.
Khao khát sẽ thấy
Một môn đệ nọ đến trước mặt sư phụ mình và cung kính
xin sư phụ của mình chỉ cho anh biết cách tìm thấy Chúa. Vốn là một học giả
uyên thâm, ông thầy chỉ mỉm cười mà không nói gì cả. Một hôm, nhân lúc trời
nóng bức, thầy trò liền rủ nhau ra sông tắm. Môn đệ nhảy xuống sông, vùng vẫy,
bơi lội thoải mái giữa dòng nước trong. Ngắm nhìn đệ tử một lát, rồi sư phụ
cũng nhảy xuống, bơi đến cạnh người môn đệ. Bất chợt ông nắm tóc anh dìm xuống
dưới nước hồi lâu. Người môn đệ hốt hoảng, vùng vẫy cho đến lúc thầy mình buông
ra, anh vội trồi đầu lên thở hít mạnh. Sư phụ hỏi:
- Lúc thầy dìm con dưới nước, con khao khát cái gì
hơn hết ?
Môn đệ ngạc nhiên, trả lời:
- Lúc đó, con chỉ khao khát khí trời mà thôi.
Sư phụ lại hỏi:
- Vậy thì con có khao khát Chúa như vậy không ? Nếu
con khao khát Chúa nồng nhiệt như thế, thì con sẽ tìm thấy Ngài. Bằng không,
thì dù con có miệt mài suốt cuộc đời trên sách vở, thì cũng chẳng ích gì. Con
không thể nào tìm thấy Chúa nếu con không khao khát Chúa như khao khát khí trời
để sống.
5.
Thấy bằng đức tin
Có một người đàn bà đạo đức nọ, suốt đời chỉ nuôi một
nỗi khát khao duy nhất, đó là được xem thấy dung nhan Chúa trước khi chết.
Một đêm nọ, trong giấc mơ của bà, Thiên Chúa cho biết
Ngài sẽ đến thăm bà nội trong đêm mai.
Thế là ngày hôm sau, người đàn bà đã sửa soạn nhà cửa
và chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn để đón tiếp và đãi “Vị Thượng Khách."
Người đàn bà chờ đợi mãi mà vẫn không thấy Chúa đến.
Đêm về khuya, buồn ngủ quá, bà đã thiếp đi trong sự chán nản. Bỗng có tiếng gọi.
Bà tỉnh dậy và thấy Chúa bảo:
-Tại sao Cha đến mà con không tiếp đón Cha ?
Người đàn bà đã giải thích là bà đã ngồi chờ đợi
Chúa suốt buổi tối ở trước cổng nhà.
Rồi Chúa cho bà biết Chúa đã đến nhà bà bằng cổng
sau. Rồi Ngài hẹn đêm sau đó Ngài sẽ đến.
Thế là ngày hôm sau, người đàn bà đạo đức lại chuẩn
bị một lần nữa với hy vọng chắc chắn lần này thế nào Chúa cũng cho được gặp
Ngài. Chuẩn bị xong bà lại ngồi chờ Chúa, bà chờ mãi cho đến tối, cứ chạy ra cổng
trước, rồi chạy vào cổng sau, nhưng tuyệt nhiên không thấy tăm hơi một vị khách
nào cả.
Lần này cũng trong giấc mơ, Chúa lại hiện ra và
trách bà. Ngài cho biết Ngài đã đến qua cửa sổ. Thế rồi lần này Ngài lại hẹn ở
tại một giếng nước trong vùng.
Nghe đến đây, người đàn bà chợt nhận ra trò chơi
“cút bắt” của Chúa và ngay lúc đó Ngài giải thích:
- Nếu con chỉ muốn thấy Cha ở một nơi nào đó mà
thôi, thì con sẽ không bao giờ thấy Cha được ở mọi nơi. Cha cho con thấy Cha,
không phải là một lần trước khi con chết, nhưng là mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút
trong cuộc đời của con. Và điều kiện để con có thể thấy Cha, là con hãy từ bỏ
khát vọng được xem thấy Cha bằng con mắt trần tục, vì con mắt ấy quá hữu hạn
không thể nhìn thấy sự vô biên của Cha. Con chỉ có thể xem thấy Cha bằng con mắt
của con tim mà thôi.
Vâng! Con người chỉ có thể thấy Thiên Chúa bằng
chính đôi mắt của con tim và đôi mắt của con tim chính là đôi mắt đức tin, mà
chỉ có một mình Thiên Chúa mới có thể ban cho con người mà thôi.
6.
Chúa ở cùng người trung thực
Có ông vua kia, rất uy quyền và giàu có, ông lại
không có con để truyền ngôi. Ông loan báo cho toàn dân: tất cả những em nào muốn
được ta truyền ngôi vua cho, thì hãy đến ta lãnh mỗi em một hạt bắp đem về trồng.
Sau một tháng cây bắp em nào lớn nhất, thì đó là dấu
em đó được ta chọn kế vị ngai báu. Thế là em nào cũng đến nhận hạt giống đem về.
Trong số đó có một em hết sức chăm bón hạt giống vua trao, nhưng nó không mọc
lên được. Đến hạn kỳ, các em nộp lại kết quả hạt giống đã nhận, có rất nhiều em
đưa đến cho vua những cây bắp mập, lớn, lá sum suê, vua đều lắc đầu và gạt những
em đó đứng qua một bên, chỉ có em trồng hạt bắp không mọc lên được, thưa với đức
vua: “Con đã hết sức chăm bón nó, nhưng nó không mọc lên được!”
Lúc ấy, vua ôm lấy em và khen: “Em này quá tốt, sống
rất thực thà, em đang đi trên đường sự thật, ta sẽ truyền ngôi cho.” Những em
khác thấy thế phản đối, thì vua nói: “Các em có cây bắp cao lớn, tất cả đều là
gian dối, vì hạt bắp ta đã luộc rồi, vậy tại sao trồng hạt bắp ta trao lại có
thể mọc lên cây lớn?! Quả là một lũ gian dối mà đòi làm vua để lãnh đạo đất nước
ư?!”
7.
Trí khôn của ta đây
Trong câu chuyện ngụ ngôn “Trí khôn của ta đây,” người
nông dân đã chỉ cho chú cọp thấy trí khôn bằng cách dùng mưu mẹo để trói cọp
vào gốc cây, châm lửa đốt, rồi cho cọp thấy trí khôn là gì.
Tựa như trí khôn không thể được nhìn thấy cách tỏ tường
mà chỉ có thể được nhận biết qua các việc làm, thì Thiên Chúa cũng vậy, Ngài
thường tỏ mình qua hành động, qua các công trình Ngài đã thực hiện, vì Ngài là
Đấng vô hình. Theo thư Do-thái, Thiên Chúa tỏ mình bằng nhiều thể nhiều cách,
nhưng cách sau cùng và trọn hảo là qua chính Con Một của Ngài. Sự hiện diện trọn
hảo đến mức, ai thấy Người Con là thấy Chúa Cha, và tất cả những gì Con làm, đều
là hành động của Cha được thể hiện qua Con.
Chúa Giê-su không phải là con rối của Chúa Cha,
nhưng nhờ sự vâng phục tuyệt đối, Ngài đã làm cho Cha được thể hiện qua cuộc đời
của mình.
8.
Chỉ cần có Chúa mà thôi
Có những nghệ sĩ tài hoa từ giã cuộc đời sau khi để
lại một bức thư tuyệt mệnh. Có những nhà kinh doanh được coi là thành đạt với một
tài sản kếch xù, một ngày nọ tự kết liễu đời mình bằng một phát súng.
Những hiện tượng đó vẫn luôn là dấu chấm hỏi thật lớn
đang còn bỏ ngỏ: Tại sao? Mọi người đều khát vọng tìm đến hạnh phúc. Tại sao lại
có những kết cuộc bi thảm như thế?
Đức cha Ngô Quang Kiệt lý giải điều đó qua lời chia
sẻ nhân ngày lễ giỗ thân mẫu của Ngài: “Nhân loại ngày nay dù có đầy đủ tiện
nghi vật chất hơn, nhưng nếu thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì vẫn là những
kẻ khốn cùng nhất” (Vietcatholic 06/3/2008).
Lời cầu xin của Philipphê: “Xin tỏ cho chúng con thấy
Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện” vẫn luôn là bài học cần thiết cho
chúng ta giữa cuộc sống đầy dẫy bon chen và bận rộn này.
9.
Hãy tin vào Thầy
Sau khi rèn luyện ý chí của mình, Patrick Henry nói:
“Giờ đây, tôi bỏ lại mọi tài sản cho gia đình. Ứơc gì tôi có thể cho họ một điều
gì lớn hơn, đó là Kitô giáo. Nếu họ có đạo Kitô và tôi chẳng cho họ xu nào, họ
cũng đã giàu có rồi. Nhưng nếu họ không có đạo, thì dù tôi cho họ cả thế gian
này, họ vẫn nghèo túng.” Trong bài đọc hôm nay, Chúa Giêsu cũng cho thấy một mối
quan tâm đối với các môn đệ Ngài.
Tôi có thể làm gì nếu lúc này tôi xem ra thất bại
trong việc thông truyền đức tin cho những người thân yêu?
Chúng ta muốn cho con cái những gì chúng ta không
có. Nhưng chắc chắn chúng ta có thể cho chúng cái chúng ta đã có, đó là đức
tin.
10.
Ánh sáng muôn dân
Tạp chí Irish Express số ra ngày 3-10-1986 đăng ở đầu
trang câu truyện rất kỳ lạ. Huấn luyện viên Đavit Hay của đội Glasgow Celtis cấm
các cầu thủ không được cầu nguyện trên sân banh. Ông nói thói quen này có thể
chấp nhận được ở bất cứ đâu, nhưng không phải ở Scotland. Ông nói thêm: “Tôn
giáo là việc riêng… tôi muốn hạn chế nó.”
Sân banh có thể là nơi thích hợp để bày tỏ tôn giáo
hay không, thì đó vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Nhưng điều chắc chắn là Chúa Giêsu
kêu gọi mỗi người chúng ta làm chứng nhân Tin mừng cứu rỗi con người.
Bằng cách nào tôi làm chứng tốt nhất cho Tin mừng cứu
rỗi con người?
Lời chứng giống như nước hoa. Nếu nó thực sự tốt, bạn
chẳng cầu kêu gọi chú ý đến nó, vì “Hữu xạ tự nhiên hương.”
THÁNH
MARCÔ - SƯ TỬ CÓ ÐÔI CÁNH
Lời Chúa: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và
phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật.
Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và
đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ,
nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì
cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành
mạnh.”
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời,
và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có
Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ
kèm theo.
TRUYỆN
KỂ
1.
Tiểu sử thánh Marcô
Theo nhiều nguồn tài liệu, mẹ ngài là bà Maria, một
bà góa giàu có ở Giêrusalem, có nhà rộng rãi, có thể làm nơi hội họp của các
tín hữu được và thánh Phêrô cũng thường trú ngụ ở nơi này.
Thánh nhân theo người bà con là Barnabê và tông đồ
Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất. Nhưng khi đến Pergê thì
ngài trở về Giêrusalem, có lẽ vì lý do sức khỏe. Sau đó, ngài đã tháp tùng theo
thánh Phêrô giảng đạo ở Rôma. Ngài đã chứng kiến “khoảng ba ngàn người theo đạo
“ nhờ bài giảng của thánh Phêrô; ngài thấy tận mắt thánh Phêrô chữa lành người
què từ khi lọt lòng mẹ” tại cửa Đền thờ; ngài cũng bị “các tư tế viên lãnh binh
Đền thờ và các người thuộc nhóm Sađốc” bắt giam...
Chính thánh Phêrô đã trao cho ngài sứ mạng phúc âm
hoá Alexandia. Ngài đã thành lập giáo đoàn này, và hướng dẫn mọi người sống
hoàn thiện đạo đức không kém giáo đoàn Giêrusalem. Toàn thể giáo đoàn đều hiệp
nhất trong một niềm tin, cậy, mến, chuyên cần phụng sự Chúa và phục vụ nhau.
Chính vì thế mà ma quỷ ganh tị. Chúng xúi dục những
người ngoại giáo quá khích chống đối bách hại thánh nhân. Họ bắt ngài; cột cổ
kéo lôi trên sỏi đá làm cho da thịt ngài bị xé rách nát ra. Máu chảy đầm đìa. Rồi
đem bỏ vào ngục. Sáng hôm sau, họ lại dắt ngài ra và hành hạ y như hôm trước.
Đau đớn quá, ngài kiệt sức dần và tắt thở.
2.
Ai cũng là người truyền đạo
June là một cô bé 5 tuổi xinh đẹp và lanh lợi. Cha
là một mục sư. Mỗi khi đi đâu, Mẹ thường cho em theo.
Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu điện, một ông lão thấy
em liền hỏi:
- Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?
- Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
- Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu
không?
Ông già kinh ngạc và xúc động trước câu hỏi đơn sơ
đó. Ông thẫn thờ đáp:
- Không, bé ạ!
- Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ
cho ông thành một người thật đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ.
Ít tuần sau, ông tìm đến nhà thờ và theo đạo. Ông
cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định theo Chúa.
3.
Hồng ân được ban để chia sẻ
Fritz Kreisler (18751962) là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi
tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ các buổi hòa nhạc
và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do đó, trong một chuyến
lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không đủ tiền mua.
Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở lại, thì cây đàn đã
được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ mới của cây vĩ cầm để
xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó là một bảo vật quí giá.
Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý:
-Xin đàn một lần trước khi nó bị ký thác cho sự câm
lặng.
Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ tài ba đã làm cho
nhà sưu tầm thực sự xúc động vì tiếng đàn du dương của mình, đến nỗi ông ấy phải
kêu lên:
- Kreisler ơi! Tôi, tôi không có quyền giữ chiếc đàn
này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để thiên hạ được thưởng
thức âm thanh của nó.
4.
Sư Tử Có Ðôi Cánh
Khách du lịch đến thưởng ngoạn Venezia, một thành phố
mơ mộng nằm trên sông nước và được làm tăng thêm vẻ đẹp bằng những công trình
kiến trúc độc đáo cũng như bằng những tác phẩm nghệ thuật thời danh nằm ở mạn
đông bắc Italia, không thể bỏ qua công trường Marcô, công trình mang tên của vị
thánh bổn mạng của thành phố Venezia và cũng là vị thánh Giáo hội mừng kính hôm
nay.
Trên con đường tiến gần đến công trường Marcô, du
khách nhìn thấy một con sư tử có đôi cánh đứng sừng sững trên một ngọn tháp
cao. Hình sư tử này nhắc đến sự nghiệp viết sách Phúc Âm đầu tiên của thánh
Marcô, như chứng từ của sử gia Papias, sinh sống vào cuối thế kỷ thứ hai viết
như sau:
"Marcô, người thông ngôn của Phêrô, đã viết ra
đúng những gì nhớ được, tuy không theo thứ tự, về những điều Ðức Kitô đã nói và
đã làm. Marcô không trực tiếp nghe Chúa giảng, cũng không phải là môn đệ của
Ngài. Nhưng ông đã tháp tùng Phêrô, người đã giảng dạy theo những gì ông cảm thấy
cần thiết, chứ không phải chủ tâm thuật lại lời Chúa một cách có hệ thống.”
Marcô là người thông ngôn và lãnh trách nhiệm chép lại
những lời Phêrô giảng, vì thế không lạ gì ở cuối bức thư thứ nhất, Phêrô gọi
ông là "Marcô, người con của tôi.”
5.
Truyền giáo là kể truyện
Giáo Hội Hàn Quốc đang thực hiện chương trình Loan
Báo Tin Mừng Hai Mươi Hai Mươi, nghĩa là mọi người Công Giáo phải nỗ lực truyền
giáo để đến năm 2020, số tín hữu Công Giáo chiếm tỉ lệ 20% tổng số dân Nam Hàn,
đạt 10 triệu người Công Giáo, gấp đôi số tín hữu hiện nay. Đang khi ấy ở Việt
Nam, các số liệu cho thấy năm 1960, tỉ lệ người Công Giáo chiếm 7, 17% dân số
và cuối năm 2010 tỉ lệ này là 7, 18%! Thật đáng tiếc và cũng đáng trách, việc
loan báo Tin Mừng của chúng ta không được quan tâm đúng mức, nên chưa làm tăng
được 1% tỉ lệ dân số trong 50 năm qua! Vì thế, hôm nay mệnh lệnh loan báo Tin Mừng
của Đức Gisu cần phải được mọi người Công Giáo Việt Nam khẩn cấp thực hành.
“Truyền giáo chính là kể câu chuyện về Đức Giêsu như
các Tông Đồ xưa” (Sứ điệp Đại Hội Truyền Giáo Á Châu năm 2006). Đó là một Giêsu
chính bạn đã cảm nghiệm trong cuộc sống bản thân, một Giêsu Phục Sinh đang đồng
hành với con người. Bạn kể về Ngài bằng ngôn ngữ của tình yêu, một tình yêu được
diễn đạt bằng mọi lãnh vực của cuộc sống: tinh thần lẫn vật chất. Cuối cùng,
câu chuyện về Đức Giêsu ấy được kể trong Nhiệm Thể Ngài là Giáo Hội, khi bạn cộng
tác, phối hợp và liên kết với các hội đoàn, nhóm… trong giáo xứ, giáo phận của
mình.
Tôi suy nghĩ xem sẽ kể câu chuyện về Đức Giêsu bằng
phương cách nào và quyết tâm thực hiện mỗi ngày.
6.
Tứ phương thiên hạ không xa
Báo Hiệp Thông số 39 tường thuật sự kiện bác sĩ
Phanxicô Trần Hữu Ngạn, nguyên giám đốc Bệnh viện Phong Qui Hoà (1985-2001),
gia nhập Kitô giáo năm 2004.
Ông đã nhận xét đời sống của các nữ tu dòng Phan
Sinh Thừa Sai Đức Mẹ tận tâm phục vụ các bệnh nhân phong đã tác động sâu xa đến
hành trình theo Chúa của mình: “Nhiều năm sống và làm việc bên cạnh các nữ tu…
mới biết họ có một lẽ sống đặc biệt. Họ chấp nhận cuộc sống khổ hạnh, tự nguyện
làm những việc thiện một cách âm thầm để phục vụ những người bất hạnh.” Với các
chị, “tứ phương thiên hạ” không ở đâu xa, mà là bệnh viện với các bệnh nhân,
nhân viên, bác sĩ mà các chị gặp gỡ hằng ngày. Tin Mừng đã và đang được loan
báo qua những cử chỉ nhân ái và bằng đời sống siêu thoát của các chị.
“Hội Thánh tồn tại nhờ việc truyền giáo tựa như ngọn
lửa có nhờ việc lửa cháy” (Emil Brunner). Nếu không loan báo Tin Mừng cho người
anh em thì Hội Thánh hay bất cứ đoàn thể, giáo xứ, hội dòng nào… chẳng có lý do
gì để tồn tại. Chính việc hăng hái truyền giáo cho thấy sức sống và sự trưởng
thành của Hội Thánh hoặc đoàn thể...
7.
Thế giới vị kỷ vô thần thì hỗn loạn
Kẻ nào chủ trương sống vô thần, không chấp nhận Tin
Mừng Hội Thánh rao giảng để lãnh Bí tích Thánh Tẩy gia nhập Hội Thánh, thì còn
độc ác hơn thú vật. Đan cử:
- Nhiều phương tiện thông tin đại chúng đưa tin hải
quan Hàn Quốc phát hiện và tịch thu hàng nghìn viên sản phẩm “thuốc thịt người.”
Theo hải quan Hàn Quốc, thi thể những đứa bé đã chết bị sấy khô trên lò trước
khi bị nghiền thành bột.
- Ngày 17-05-2012, Cảnh sát Thái Lan bắt giữ một người
Anh gốc Đài Loan, tên Chow Hok Kuen tại Bankok. Trong hành lý của Hok Kuen có
chứa 6 bào thai sấy khô, quấn vàng lá theo nghi thức tà thuật. Những bào thai
này khoảng 2-8 tháng tuổi. Vụ bắt giữ được tiến hành sau khi cảnh sát nhận được
thông tin rằng xác bào thai được giới nhà giàu săn mua trên một trang web
chuyên các dịch vụ tà thuật.
Chow Hok Kuen khai rằng đã mua các bào thai nhiều
ngày trước với giá 200. 000 baht (6.500USD) và dự kiến sẽ bán chúng sang Đài
Loan với giá gấp 6 lần. Nguồn gốc bào thai hiện chưa được rõ. Anh ta cho biết định
bán cho những người tin rằng sở hữu các bào thai sẽ làm họ may mắn và giàu có”
- tướng Wiwat Kamchamnan, cảnh sát Bangkok cho biết.
8.
Hạnh phúc đời đời
Đúng thế, ở mọi nơi và trong mọi thời, điều được mọi
người coi trọng lại không nằm ở sự thành đạt thế tục mà nằm ở chỗ khác, trong đời
sống tinh thần, trong tình yêu. Tình yêu là sự sống và vẻ đẹp thần linh của
Thiên Chúa. Một đời sống không thể được coi là hạnh phúc nếu không có tình yêu,
không yêu ai và không được ai yêu.
Một em bé hỏi chị Bernadette: "Chị đã được thấy
Đức Mẹ, chắc là Đức Mẹ đẹp lắm nhỉ?" Bernadette trả lời: "Đẹp lắm em ạ,
đẹp đến nỗi ai đã thấy được một lần thì chỉ mong chết để lại được thấy nữa.” Lời
chị Bernadette cho thấy vẻ đẹp thần linh có sức hấp dẫn vượt qua tất cả. Mọi điều
thiện hảo nơi thế gian này chỉ là không không trước hạnh phúc Nước Trời.
“Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Ki-tô chỉ vì đời
này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người. Nhưng
không phải thế! Đức Ki-tô đã trỗi dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an
giấc ngàn thu... Quả thế, như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì
mọi người nhờ liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống.” (1Cr
15,19-22)
9.
Tin Mừng cho mọi tạo vật
Thủ lãnh của một bộ tộc kia nằm hấp hối trên giường.
Ông cho gọi ba người có thể thay thế ông và nói:
- Ta phải chọn một người kế tục. Các ngươi hãy leo
lên đỉnh núi linh thiêng của chúng ta, và mang về cho bộ tộc một món quà quí
giá nhất.
Người thứ nhất trở về đem theo một thỏi vàng lớn.
Người thứ hai mang về viên ngọc vô giá. Còn người thứ ba trở về với hai bàn tay
trắng. Hết sức ngạc nhiên, vị tù trưởng mới hỏi:
- Món quà quí giá của ngươi đâu?
Người này điềm tĩnh trả lời:
- Khi tôi lên tới đỉnh núi, tôi thấy ở phía bên kia
một vùng đất phì nhiêu màu mỡ, tại đó dân chúng có thể hưởng một cuộc sống sung
túc tốt đẹp.
Người tù trưởng nói:
- Ngươi sẽ nối nghiệp ta. Ngươi đã mang về món quà
quí giá nhất: Một viễn tượng tương lai tốt đẹp.
10.
Cô bé bán diêm
Trong đêm đông rét buốt ấy, cô bé không bán được bao
diêm nào, giữa lúc bụng thì đói, thân xác thì giá lạnh. Cô bé đành nép vào một
góc tường giữa phố để trốn những cơn gió lạnh. Vì lạnh quá, cô bé đành phải
đánh lên những que diêm để sưởi ấm mình. Que diêm thứ nhất sáng lên, cô bé nhìn
thấy một cái lò sưởi ấm áp. Que diêm thứ hai bùng lên, cô nhìn thấy một bàn ăn
thơm phức. Que diêm thứ ba lóe lên, cô bé nhìn thấy một cây noel rực rỡ. Cứ thế,
cô đánh hết que diêm này đến que diêm khác để nhìn thấy những ảo ảnh xuất hiện.
Que diêm cuối cùng sáng lên, cô bé nhìn thấy bà nội hiền hậu đã mất của cô hiện
ra, cầm lấy tay cô, rồi hai bà cháu bay vút lên cao, cao mãi tới nơi không còn
giá lạnh, không còn đói khát, không còn sợ hãi nữa.
Sáng hôm sau, người ta tìm thấy cô bé đã chết vì giá
rét trong đêm giao thừa, bên cạnh là những que diêm cháy dở mà cô đã đánh lên để
sưởi ấm mình.
Hình ảnh đẹp nhất trong câu truyện là cảnh hai bà
cháu bay lên trời cao để thoát khỏi những đau khổ ở đời này. Có lẽ, đó cũng là
ước muốn của nhiều người. Tuy nhiên, hôm nay, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một
chân lý cao cả hơn: lên trời không phải là một cuộc chạy trốn, cũng không phải
là một giấc mơ hão huyền, nhưng là một hiện thực đang được khởi đầu ngay từ trần
thế này. Con đường lên trời được nối dài từ con đường loan báo Tin Mừng. Đó
chính là sứ vụ Chúa trao cho các môn đệ trước khi về trời: “Các con hãy đi khắp
thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật.”
11.
Ánh sáng chứng nhân
Năm 1917, tại Fatima, Đức Mẹ hiện ra với ba em
Luxia, Phanxicô và Giaxinta. Ba em đã đơn sơ hỏi Đức Mẹ: “Thưa Bà, Bà ở đâu đến?”
Đức Mẹ đưa tay lên cao và nói: “Từ trời xuống.” Ba em liền xin với Đức Mẹ: “Xin
Bà cho chúng con cũng được lên trời.” Đức Mẹ mỉm cười đáp: “Phanxicô và
Giaxinta sẽ được về trời trong một ngày gần đây. Còn Luxia thì hãy chịu khó ở lại
trần thế này một thời gian nữa.”
Quả thật, sau đó, Phanxicô và Giaxinta đã được về trời
sớm. Còn Luxia trở thành một nữ tu trong tu viện kín. Bà sống rất thọ và chỉ
qua đời cách đây ít năm.”Luxia” có nghĩa là “ánh sáng.” Vì thế, Luxia đã được mời
gọi để trở nên ánh sáng chứng nhân cho Chúa ở trần gian.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để lên đường
loan báo Tin Mừng cho anh chị em mình bằng cách chiếu ánh sáng niềm tin và tình
yêu cho người thế. Đó chính là con đường ngắn nhất dẫn đưa chúng ta về trời.
12.
Một chút ánh sáng thêm sức mạnh
Đức cha Dupuch, giám mục Alger, tới thăm một phụ nữ
nằm liệt giường, trong một gác nhỏ sát mái nhà, bà vẫn vui vẻ chịu đựng, không
hề phàn nàn kêu ca. Đức Cha có hỏi: “Tại sao bà chịu đựng được bệnh tật, đau đớn
đến thế?”
Bà này chỉ vào khung cửa sổ nhỏ chỗ trên nóc nhà để
có ánh sáng chiếu vào căn gác và nói: “Thưa Đức Cha, con chỉ nhìn thấy một chút
trời qua cửa sổ nhỏ này, mà con chịu đựng được tất cả.” Ý nghĩ một ngày kia được
về trời, về thiên đàng, giúp bà này có sức chịu đựng mọi đau khổ.
13. Tìm kiếm sự sống đời đời
Thánh Tôma More tử đạo, giữ chức chưởng ấn nước Anh,
vì muốn trung thành với Giáo Hội, nên đã bị tống giam.
Vợ của ông đến thăm và năn nỉ: “Tại sao mình không
lo cứu lấy mạng sống?”
Thánh Tôma More đáp: “Theo em nghĩ, thì anh sống ở
trần gian này được bao lâu nữa?”
Bà vợ trả lời: “Sức khỏe của anh cũng hứa hẹn ít nhất
20 năm nữa.”
Thánh nhân trả lời: “Em đề nghị cho anh một hành động
hết sức điên dại! Để sống 20 năm, mà phải hy sinh cuộc sống đời đời.”
Cuộc sống đời đời của chúng ta thật quan trọng, ta
phải luôn luôn nghĩ tới nó, lo lắng cho nó, đặt nó lên trên mọi mưu tính, mọi của
cải, mọi quyết định…
14.
Hãy coi trọng điều đáng trọng
Vua Napoléon III, trong cuộc du lịch qua Elgérie, có
vào thăm một nữ tu viện, vua có hỏi một nữ tu: “Sơ có muốn tôi giúp gì không?
Sơ có bà con này cần tôi nâng đỡ không?”
Nữ tu đó trả lời: “Thưa hoàng đế, tôi chỉ có một
nguyện vọng. Xin nhà vua giúp cho.”
Vua Napoléon băn khoăn hỏi: “Nguyện vọng gì?”
Nữ tu đó đáp: “Tôi tin đức vua đảm bao cho tôi được
vào thiên đàng.”
Nhà vua trả lời với cả sự trịnh trọng: “Ôi điều đó
ngoài uy quyền của một ông vua dưới đất. Chính Sơ lại có thể dùng lời cầu nguyện
để giúp tôi việc đó, hơn là chính tôi có thể làm được cho Sơ.”
Nghĩ tới nước trời, nghĩ tới phần rỗi đời đời, chúng
ta hãy cầu nguyện, vì chính Chúa đã phán: xin thì sẽ được (Mt 6,8; Lc 11,10).
15.
Tự hào về niềm tin
Một vị tuyên uý quân đội người Mỹ vừa giảng một bài
cho các binh sĩ Mỹ trong một thánh lễ tại một giáo đường ở Châu Âu. Chủ đề của
bài giảng là: “Hãy tự hào về đức tin công giáo của bạn; Đừng xấu hổ khi phải
công khai tuyên xưng nó.”
Sau thánh lễ, một lính thủy do rất xúc động vì bài
giảng đã chận vị tuyên uý ngay trước cửa giáo đường và hỏi; “Thưa cha, cha có bằng
lòng nghe con xưng tội không?” Vị tuyên uý trả lời: “Tôi rất sung sướng được
nghe anh xưng tội.” Thế là chàng lính thủy quì ngay xuống lối đi bên cạnh ngay
trước giáo đường. Vị tuyên uý vội nói; “Đừng quì gối kẻo thiên hạ nhìn kìa!”
Chàng lính thủy đáp lại: “Kệ họ, thưa cha, cứ để họ nhìn, con hãnh diện về đức
tin của con.”
16.
Nhiều cách loan báo Tin Mừng
Ruddell Norris là một chàng trai cần mẫn. Chỉ tội
chàng ta nhút nhát. Nói chuyện với kẻ khác chàng đã thấy là khó khăn rồi, huống
chi phải bàn chuyện tôn giáo với họ. Thế rồi một ngày kia chàng nảy ra một ý kiến.
Ruddell đọc sách khá nhiều và chàng biết có nhiều cuốn sách nói về đức tin công
giáo. Vì vậy chàng quyết định dành riêng một phần tiền tiết kiệm hàng tuần để
mua những cuốn sách ấy. Ruddel để những cuốn sách ấy ở những nơi mà chàng nghĩ
người ta thường cầm chúng lên đọc. Chẳng hạn, ở những phòng chờ đợi và tiếp
khách.
Một hôm, một thiếu phụ vốn là bạn của gia đình chàng
kể cho cha mẹ chàng biết cô ấy đã trở lại đạo thế nào và chồng cô đã trở về với
Giáo hội thế nào. Cô nói: “Tất cả bắt đầu do một quyển sách nhỏ mà tôi đã tìm
thấy tại phòng chờ đợi ở bệnh viện.” Anh chị em có thể tưởng tượng được chàng
trai đã phấn khởi biết bao khi biết được tầm ảnh hưỏng mà chỉ một trong những tập
sách nhỏ của chàng đã tạo ra.
Câu chuyện của Ruddell Morris nhấn mạnh một điều
quan trọng trong việc công bố Tin Mừng: Có nhiều cách để công bố Tin Mừng.
Chúng ta có thể công bố một cách trực tiếp như Ruddell đã làm. Hoặc “công bố” một
cách gián tiếp, chẳng hạn bằng lời cầu nguyện hoặc giúp đỡ tài chính cho các hoạt
động truyền giáo của Giáo hội.
17.
Đi khắp tứ phương thiên hạ
Rất nhiều mệnh lệnh của Chúa Giêsu, như mệnh lệnh
truyền giáo hôm nay, đã bị giảm thiểu một cách đáng ngại. Việc “đi khắp tứ
phương thiên hạ” bị hiểu là đi khắp nơi trong cái không gian vật chất giới hạn
trên mặt đất này. Mệnh lệnh “loan báo Tin Mừng” bị hạn hẹp vào việc “rửa tội”
cho người ta. Rồi chúng ta lại hay quên rằng Chúa muốn “mọi loài thụ tạo” được
loan báo Tin Mừng chứ không riêng gì “loài người.” Chính vì thế, yếu tố môi trường
hay bị lãng quên trong nội dung của lời rao giảng. Việc hạn hẹp mệnh lệnh của
Chúa như thế chẳng khác nào thái độ cầu an muốn trốn tránh một sứ mạng đòi hỏi
phải mở rộng ra những biên giới bao la hơn nhiều.
Theo Công đồng Vaticanô II, “tứ phương thiên hạ”
chính là “thế giới của con người, tức là toàn thể gia đình nhân loại với mọi sự
thuộc môi trường sinh sống của gia đình này” (GS 2). Điều đó có nghĩa là việc
truyền giáo phải thấm sâu vào mọi lĩnh vực văn hoá, xã hội, chính trị, v.v…,
nói tắt, mọi phương diện con người đụng chạm đến. Và “thế giới” ấy cần được
nghe và thấm nhuần những “giá trị Tin Mừng” trước đã. Có như thế, Chúa Thánh Thần
mới tác động và khơi dậy lòng tin nơi người nghe để họ tin, lãnh nhận phép Rửa
và được cứu độ (c. 16).
18.
Chọn lựa cốt yếu của cuộc đời
Gabby Douglas, vận động viên thể dục thẩm mỹ 16 tuổi
của Mỹ, đoạt hai huy chương vàng trong Olympic London 2012, đã tuyên xưng niềm
tin của mình khi trả lời với báo giới: “Đức tin của tôi dứt khoát là mạnh mẽ. Mỗi
ngày tôi đều suy gẫm Kinh Thánh và trích dẫn một số câu khi ở London để củng cố
đức tin mạnh mẽ hơn mỗi ngày. Vì thế tôi đã khoác lên mình áo giáp của Thiên
Chúa.”
Tuyên xưng niềm tin và loan báo Tin Mừng là sứ mạng
và căn tính của Kitô hữu. Và đồng thời loan báo không chỉ dừng lại ở người này
hoặc người kia, nơi này hoặc nơi kia, lúc này hay lúc khác, nhưng là toàn bộ cuộc
sống của tất cả những ai đã chịu phép rửa.
“Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào có ích
gì.” (Mt 16,26).
19.
Têrêxa yêu sự sống đời đời
Trong Thủ Bản Tự Thuật, thánh Têrêxa kể lại rằng:
“Suốt đời, Chúa nhân lành đã cưng chìu con: những kỳ niệm đầu tiên của đời con
ghi đầy những nụ cười, những mơn trớn êm đềm nhất!… Nhưng nếu Chúa đặt bên con
nhiều tình thương thì Ngài cũng cho con một trái tim để yêu và cảm xúc dạt dào,
cho nên con yêu Ba Má biết bao và con tìm đủ mọi cách để tỏ lòng yêu Ba Má, vì
hễ trong lòng con có gì thì con phải bộc lộ ra ngoài. Có điều là cách con tỏ
tâm tình đôi khi kỳ cục lắm, như lời Má chứng minh trong đoạn thư sau đây: “Con
bé này tinh nghịch có một, nó đến vuốt ve Má và chúc Má chóng chết: Má à! Con
muốn Má chết lắm!…
“Mắng nó thì nó bảo: “Má chết để về thiên đàng. Thế
Má chả bảo con là phải chết mới được vào thiên đàng là gì.
“Lúc nào nó yêu Ba quá, nó cũng chúc Ba chết như thế!…”
Đối với Têrêxa, chẳng còn cái chết, mà chỉ còn một
cánh cửa mở ra cho hạnh phúc hoàn hảo, trọn vẹn. Ước chi đức tin trong tôi cũng
lớn lên để tôi luôn vui mừng đi tìm sự sống thật trong mọi tình huống, kể cả
trong những đau khổ của ngày hôm nay, “vì một khi cùng chịu đau khổ với Người,
chúng ta sẽ cùng được hưởng vinh quang với Người.” (Rm 8,17)
20.
Trốn cái chết là vô lý
Thời Chiến Quốc có người đem dâng vua nước Sở vị thuốc
bất tử.
Người ấy bưng vị thuốc vào, có viên quan canh cửa hỏi
rằng: “Vị thuốc này có ăn được không?” Người đáp: “Ăn được.” Tức thì viên quan
giật lấy vị thuốc mà ăn.
Chuyện nói đến tai vua. Vua phán bắt viên quan đem
giết.
Viên quan kêu lên rằng: “Thần đã hỏi người đem dâng
thuốc. Người ấy nói rằng: ‘Ăn được’ nên thần mới dám ăn. Thế là thần vô tội mà
lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng người đem dâng nói là ‘bất tử’, nghĩa là ăn
vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới ăn, đã phải sắp chết, vậy thuốc tử chớ
sao gọi là bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội mà
tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin.”
Vua nghe nói có lý, bèn tha viên quan ấy không giết
nữa.
THÁNH GIUSE THỢ - NGƯỜI THỢ
VÔ DANH
Lời Chúa: Mt 13, 54- 58
Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân
chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan
và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là
bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao?
Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được
mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người.
Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri
nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình."
Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng
lòng tin.
TRUYỆN
KỂ
1.
Ghi nhận lịch sử - Phụng Vụ
Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Piô XII thiết lập năm
1955 và được ấn định vào ngày 1 tháng 5 để mang lại cho lao động một chiều kích
Kitô- giáo. Thật vậy, khuôn mặt thánh Giuse, người thợ mộc ở Nagiarét, đã kỳ diệu
góp phần giúp chúng ta hiểu được giá trị và sự cao cả của giới lao động. Từ Hy-
lạp Tectôn được dịch là “thợ mộc” gán cho Giuse có lẽ chỉ định người thợ mộc,
thợ đá hoặc thợ kim loại và cũng có thể là thợ xây dựng nhà cửa.
Do truyền thống gia đình, chắc chắn Đức Giêsu đã được
hướng dẫn để làm nghề này. Vì thế, chúng ta đọc trong Tin Mừng của Marcô: (Đức
Giêsu) không phải là bác thợ, con Bà Maria sao? (Mc 6,3). Đối với người Do Thái
thuộc thời soạn thảo Kinh thánh, công việc tay chân cũng thánh thiêng, đối với
các Rabbi hay các tư tế cũng thế. Các Rabbi bình giảng sách Giảng viên cũng nói:
“Con hãy lo cho mình có được một nghề nghiệp, song song với việc học hỏi lẽ
khôn ngoan." Thế rồi, không những hành nghề mà thôi, song còn phải truyền
nghề cho con cái vì như sách Talmud đã chép: “Kẻ nào không dạy nghề tay chân
cho con mình, kẻ đó như thể cướp mất sự nghiệp sinh tồn của con cái." Sách
này còn nhấn mạnh đến tính chất thánh thiêng và giá trị của công việc tay chân:
“Người thợ, trong lúc lao động, không buộc đứng dậy tiếp bậc kinh sư cho dù là
vị cao trọng nhất... Kẻ nào giúp ích cho người đồng loại bằng sức lao động của
mình thì cao trọng hơn người học biết Thiên Chúa... Kẻ nào nuôi sống mình bằng
sức lao động thì cao trọng hơn người vô công rỗi nghề, chỉ biết giam mình trong
các tâm tình đạo đức...”
2.
Đấng bầu cử
Thánh nữ Têrêsa Avila đã quả quyết một cách mạnh mẽ
khi Thánh Nhân cầu cùng Thánh Cả Giuse: “Chưa
bao giờ tôi xin Thánh Giuse điều gì mà Ngài không nhận lời”
Để kết thúc xin mượn lời cầu của thánh nữ Têrêsa
Avila: “Lạy Thánh Cả Giuse! Trong suốt cuộc
đời, Cha là niềm hy vọng, khi sinh hạ Chúa Giêsu, khi trốn sang Ai Cập, khi sống
những ngày tha hương. Cha đã tìm thấy sức mạnh trong sự tin tưởng sắt đá vào
quyền năng và lòng Nhân Lành của Chúa.
Hôm
nay! Chúng con hết lòng trông cậy, chạy đến cầu xin Ngài. Xin Ngài hiệp lời cầu
với chúng con, để xin Con Ngài nâng đỡ chúng con trong cơn khốn khó, xin Ngài
ban sức mạnh để chúng con tiến lên như Ngài đã đã vượt thắng. xin Ngài ban cho
chúng con ơn trông cậy mà Ngài đã có như ánh sáng hướng dẫn mọi ngày trong đời
chúng con. Amen.”
3.
Lao động như phụng tự
“Ông ấy không
phải là con bác thợ sao?” (Mt 13,55)
Khi Steve Jobs qua đời, nhiều người trên thế giới đã
đặt nến và trái táo cắn dở trước các chi nhánh của tập đoàn Apple, bày tỏ lòng
thương tiếc, tri ân một thiên tài đã làm thay đổi cuộc sống con người với các sản
phẩm độc đáo như ipod, iphone và ipad.
Bên cạnh các tên tuổi lớn với những phát minh vĩ đại
như ông, vẫn có đại đa số những con người vô danh không có một phát minh nào,
nhưng lại đóng góp thật to lớn cho sự thiện hảo và hạnh phúc của con người.
Thánh Giu- se là một trong những người lao động thầm
lặng ấy. Hội Thánh đặt ngài làm bổn mạng cho những người lao động âm thầm không
chỉ để nói lên giá trị về các đóng góp cho hạnh phúc của gia đình và xã hội, mà
còn để nêu cao mẫu gương sáng chói nhất của thánh nhân là: biến lao động thành
một của lễ dâng để thờ phương Thiên Chúa.
4.
Ông làm gì đó?
Vào thời Trung cổ, có một tín hữu Kitô nọ muốn thực
hiện một cuộc hành hương.
Sau vài ngày đi bộ, người đó bị lạc vào trong một
khu rừng vắng. Tuy là khu rừng vắng nhưng hai bên đường, người ta cũng thấy có
những người thợ đá đang cố gắng đục đẽo và vác trên vai từng tảng đá lớn đem về.
Người khách hành hương mon men đến gần một người thợ, mồ hôi đang chảy ra nhễ
nhãi và muốn gợi chuyện, nhưng người thợ đập đá ấy chỉ trả lời một cách nhát gừng:
-
Ông không thấy tôi đang lao động một cách vất vả sao mà cứ hỏi hoài vậy?
Người khách hành hương tìm đến người thứ hai, người
này còn có dáng vẻ nặng nhọc hơn. Được hỏi đang tham gia vào công trình xây dựng
nào, người thợ này chỉ trả lời:
-
Người ta thuê tôi làm việc, tôi chỉ biết rằng từ sáng sớm đến chiều tà, tôi đổ
mồ hôi xôi con mắt ra là để kiếm cơm bánh cho vợ con tôi thôi, còn xây dựng gì
thì tôi không cần biết.
Trong thinh lặng, người khách hành hương lại tiếp tục
cuộc hành trình. Lên đến đỉnh đồi ông lại gặp một người thợ đập đá khác. Người
này cũng có dáng vẻ mệt nhọc tiều tụy không kém 2 người trước, nhưng nhìn kỹ
trong ánh mắt của người thợ đập đá này, người khách hành hương thấy toát lên một
sự thanh thản và nhẫn nhục lạ thường. Đến gần người khách hành huơng lên tiến hỏi:
-
Ông đang làm gì đó?
Người đàn ông mỉm cười và vui vẻ đáp:
-
Ông không biết à, tôi đang góp công xây dựng một ngôi thánh đường
Và người thợ đập đá đưa tay chỉ xuống một thung
lũng, nơi đó, người khách hành hương nhận ra một ngọn tháp cao và từng viên đá
được xếp lại ngay ngắn để làm nên bốn bức tường của một ngôi thánh đường.
5.
Má em nhận được bao nhiêu?
Trong suốt mùa hè năm ấy, tôi có dịp quan sát một bé
trai khoảng 12 tuổi, mỗi buổi sáng vào lúc 7 giờ, đến làng bên cạnh là địa
phương chúng tôi để giao bánh mì. Đây là một em bé linh động, luôn vui vẻ và
đúng giờ như một chiếc đồng hồ. Em dừng lại trước cửa những nhà giàu có muốn có
bánh mì ăn sáng và sau đó lại vội vã đạp xe trở về nhà.
Ngày nọ, tôi
có một cuộc đối thoại lý thú với em bé này như sau:
- Mỗi
buổi sáng em phải dậy sớm, vậy em tự mình dậy hay phải có ai thức em dậy?
-
Má em! Má em đánh thức tất cả mọi người trong nhà, trước hết là em. Kế đó, má
cho em ăn sáng và em ra đi. Sau đó, má đánh thức ba dậy, dọn xúp cho ba ăn trước
khi ba đi làm. Rồi lại đến giờ đánh thức mấy đứa em của em dậy đi học. Xong
xuôi tất cả thì má lo cho đứa út, cho nó uống sữa và cuối cùng mẹ tự dùng sáng.
Mỗi chuyến giao hàng buổi sáng em được người ta trả
cho bao nhiêu?
- Mỗi
tuần 20 quan. Em có 10 khách hàng.
-
Thế ba em lãnh một ngày được bao nhiêu?
-
30 quan, em nghĩ vậy.
-
Còn má em, má em nhận được bao nhiêu?
-
Má em ư? -
em bé nhìn tôi lộ vẻ kinh ngạc- . Nhưng
má làm việc không vì gì cả cơ mà!
6.
Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng
Sau khi tạo dựng nên con người trong vườn địa đàng,
Thiên Chúa trao cho con người trách nhiệm trông coi công trình sáng tạo của
Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã từng nói: “Cha Ta và Ta hằng làm việc và làm việc không ngừng” (Ga 5,17).
Thiền sư Hyakyjo thường làm việc với các đệ tử, mặc
dù ông đã 80 tuổi. Ông thường nhổ cỏ trong vườn, quét sân, hái củi. Các đệ tử của
ông cảm thấy buồn vì ông thầy già của họ làm việc cực nhọc, không chịu nghỉ
ngơi theo lời họ khuyên. Vì thế, một lần kia họ đem giấu hết dụng cụ làm việc của
thầy Hyakyjo. Ngày hôm đó, thầy Hyakyjo không chịu dùng bữa. Ngày hôm sau, rồi
hôm sau nữa, ông thầy già cũng không ăn. Các đệ tử đoán: “Chắc bởi vì tụi mình dấu đồ làm việc của thầy chứ gì? Thôi, tốt hơn là
đem trả lại chỗ cũ cho thầy."
Thế rồi, ngày họ làm việc, ông thầy già cũng làm và
dùng bữa như trước. Chiều đến, Hyakyjo dạy họ: “Không làm, không ăn!"
7.
Giá trị của công việc
Ngày xưa, có một ông vua muốn thử xem thần dân của
mình ra sao, ông bèn tổ chức một cuộc vi hành. Ông lén đặt một tảng đá thật to
giữa một con đường nhiều người qua lại, không phải để bắt buộc người dân phải
bê nó đi, mà muốn xem người dân sẽ phản ứng tự nhiên ra sao với những vật gây cản
trở mà họ bất ngờ gặp trên đường.
Sau khi đặt tảng đá, ông nấp vào một chỗ gần đó để
quan sát. Nhiều người trông rất giàu có và lịch sự, ăn mặc áo lượt quần là đi
qua. Họ than phiền với nhau rằng tảng đá làm nghẽn đường đi, coi nó là một vât
đáng ghét. Thậm chí còn xúc phạm Đức Vua đã không cho người giữ đường xá sạch sẽ.
Nhưng có một điểm chung là: chẳng ai đoái hoài gì đến tảng đá đó, họ thà đi
vòng chứ không chịu đẩy nó ra vệ đường.
Tình cờ một bác nông dân nghèo đi chợ về ngang với một
giỏ đầy rau. Nhìn thấy tảng đá, bác đặt giỏ của mình xuống và cố đầy tảng đá
đi. Nhiều người đi qua thấy vậy, cười giễu bác là nhiễu sự. Nhưng chẳng một ai
dừng lại giúp đỡ bác.
Sau nhiều nỗ lực, cuối cùng bác nông dân cũng thành
công. Khi đẩy tảng đá đi được, bác mới phát hiện có một cái túi nằm trên mặt đường,
ở chổ mà lúc nãy tảng đá nằm. Bác mở cái túi thì thấy có rất nhiều tiền. Lúc bấy
giờ bác đã hiểu được một điều mà nhiều người khác không hiểu: Sau mỗi trở ngại,
đều ẩn chứa những cơ hội cho mỗi con người.
8.
Tầm quan trọng của lao động
Vì muốn nâng cao tầm quan trọng của sức lao động của
con người trong việc giữ gìn và phát triển thế giới, nên Ðức Giáo Hoàng Piô XII
đã thiết lập ngày lễ Thánh Giuse Thợ vào năm 1955. Nhưng sự liên hệ giữa Thánh
Giuse và ý nghĩa lao động đã có từ lâu trong lịch sử.
Trong nỗ lực cần thiết để nói lên nhân tính của Ðức
Giêsu trong đời sống thường nhật, ngay từ ban đầu Giáo Hội đã hãnh diện nhấn mạnh
rằng Ðức Giêsu là một người thợ mộc, hiển nhiên là được cha nuôi của Ngài huấn
luyện, một cách thành thạo và khó nhọc trong công việc ấy. Nhân loại giống
Thiên Chúa không chỉ trong tư tưởng và lòng yêu thương, mà còn trong sự sáng tạo.
Dù chúng ta chế tạo một cái bàn hay một vương cung thánh đường, chúng ta được mời
gọi để phát sinh kết quả từ bàn tay và tâm trí chúng ta, nhất là trong việc xây
đắp Nhiệm Thể Ðức Kitô.
THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ - ÐẾN VỚI
CHÚA
Lời
Chúa: Ga 14, 6-14
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán cùng Tôma rằng: "Thầy là đường, là sự thật và là sự sống.
Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy. Nếu các con biết Thầy, thì cũng biết
Cha Thầy. Ngay từ bây giờ, các con biết và đã xem thấy Người."
Philipphê
thưa: "Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con xem thấy Cha và như thế là đủ cho
chúng con."
Chúa
Giêsu nói cùng ông rằng: "Thầy ở với các con bấy lâu rồi, thế mà con chưa
biết Thầy ư? Philipphê, ai thấy Thầy là xem thấy Cha. Sao con lại nói: 'Xin tỏ
cho chúng con xem thấy Cha?' Con không tin Thầy ở trong Cha, và Cha ở trong Thầy
ư? Những điều Thầy nói với các con, không phải tự mình mà nói, nhưng chính Cha ở
trong Thầy, Ngài làm mọi việc. Các con hãy tin rằng Thầy ở trong Cha, và Cha ở
trong Thầy. Ít ra các con hãy tin vì các việc Thầy đã làm. Thật, Thầy bảo thật
các con: Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm. Người ấy
còn làm được những việc lớn lao hơn, vì Thầy về với Cha. Và điều gì các con
nhân danh Thầy mà xin Cha, Thầy sẽ làm, để Cha được vinh hiển trong Con. Nếu điều
gì các con nhân danh Thầy mà xin cùng Thầy, Thầy sẽ làm cho."
TRUYỆN KỂ
1. Thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ--tinmung.net
Thánh
Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại
Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông
theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.
Thánh
Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi
tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm
62 tại Giêrusalem.
Cả
hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân
rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là
những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh
hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng
và mạng sống của mình.
2. Hai tông đồ
Giáo
hội tôn kính hai vị tông đồ này trong cùng một ngày, vì vào thế kỷ thứ V, xác
các thánh được đưa về Rôma với nhau và đặt ở đền thờ các thánh tông đồ. Ngày dời
xác các Ngài là ngày 01 tháng 5. Nhưng vì trùng với lễ thánh Giuse thợ, cho nên
lễ kính các Ngài được dời vào ngày 03 tháng 5.
Hội
Thánh kính hôm nay, cũng chỉ vì các ngài đã sinh nhiều con cho Thiên Chúa –
sinh các tín hữu – nhờ các ngài hết lòng loan báo Tin Mừng và phục vụ mọi người
theo gương Thầy Giêsu.
Thánh
Philipphê là người đã giới thiệu Đấng Mêsia cho ông Nathanael (x Ga 1,45); ông
thưa với Đức Giêsu ở đây có một em bé có năm chiếc bánh và hai con cá, nhưng
không đủ nuôi đoàn lũ dân đông (x Ga 6,5-7); dân ngoại đến nhờ ông dẫn họ đến gặp
Đức Giêsu (x Ga 12,21-22); ông xin Thầy Giêsu cho biết Chúa Cha thế là được mãn
nguyện (x Ga 14,8); trong ngày lễ Ngũ Tuần, ông và các môn đệ cùng cầu nguyện,
Chúa Thánh Thần đã đến biến đổi lòng các ông (x Cv 1,13); ông hết lòng giảng
Tin Mừng nên bị đóng đinh, xác ông hiện nay được chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh
Giacôbê là con của ông Alphê (x Mt 10,3); ông là Giám mục đầu tiên ở Giêrusalem
(x Gl 1,18-19); ông là một trong những người được gặp Chúa Giêsu Phục Sinh (x
1Cr 15,7: Bài đọc). Ông viết một bức thư trong Tân Ước nội dung chính ông đề cao
Đức Tin phải thể hiện việc làm, phải biết dùng tiền của đúng ý Chúa, và phải
canh giữ lời nói cho xứng hợp với ơn làm con Chúa. Cuối đời, ông bị xô từ nóc Đền
Thờ xuống và bị ném đá cho đến chết!
3. Con đường Giêsu
Con
đường nào cũng mang một cái tên, và đưa ta đến một đích điểm. Nhà thơ Nga Raxun
Gamzatov có lần nói đến một con đường đặc biệt:
Trên
trái đất đường đi không kể xiết
Đường
dài lâu, gian khó cũng rất nhiều.
Nhưng
anh hiểu, khó và dài hơn hết,
Là
con đường ta vẫn gọi: tình yêu
Con
đường khó và dài, con đường tình yêu ấy chính là đường đưa ta về quê trời; con
đường ấy có một cái tên: đường Giê-su. Đường Giê-su không phải là một hệ thống
triết lý, nhưng là một con người: “Chính Thầy là Con Đường." Đường Giê-su
thật độc đáo, bởi vì Đức Giê-su không đưa ra một số giáo lý phức tạp phải tin,
một mớ điều răn phải giữ để đi đường, Ngài chỉ ban cho ta một điều răn: yêu
nhau như Ngài đã yêu ta. Hơn nữa, Ngài còn cầm tay ta và cùng bước đi với ta
trên con đường mang tên Giê-su ấy.
4. Hướng đi của đường đời
Dọc
kênh Tàu Hủ, đường Bến Bình Đông dẫn vào “xóm Đập Bao” (xi măng) ở khu Gò Mã,
quận 8, Sài Gòn, lúc nào cũng mờ mịt đám bụi dày. Một người dân ví von: “Mình
làm nghề giũ bụi nên phận mình cũng như những đám bụi kia, chẳng biết bay về
đâu. Cứ vật vờ xoay vòng mà sống.” Đó cũng là cảm nghiệm của rất nhiều người về
cuộc sống, một cuộc sống vật vờ, xoay vòng, chẳng biết sống để làm gì, đời mình
sẽ đi về đâu giữa bốn phương trời tám phương đất vô định của thế giới này. Chúa
Giêsu đến để cho thấy cuộc sống của chúng ta có ý nghĩa, có hướng đi rõ ràng:
đi về hạnh phúc đời đời. Hạnh phúc đời đời chính là đi con đường mang tên
Giêsu, con đường hẹp, đường thập giá của bậc sống, đòi hỏi phải nỗ lực hết mình
để tiến bước.
5. Thầy là đường
Đức
Giêsu là đường, là ĐẠO! Theo Đức Giêsu là đi đường, đi đạo. Đường? đạo là để
đi, không chỉ để có, để giữ! Đi vì ta chưa đến. Đi chứ không dừng lại. Vì khi
ta quyết định dừng lại thì đường hết còn là đường nữa rồi, chưa nói là ta đang
đắp mô và gây tắc nghẽn giao thông. Đức Giêsu là đường, là đạo - nên muốn thấy
rõ đường, biết rõ đạo, thì phải nhìn vào chính Người - không phải nhìn vào bất
cứ ai hay cái gì khác. Đức Giêsu là đường, là đạo – nên lạc đường, lạc đạo trước
hết là lạc khỏi Người. Biết bao lần ta thực sự lạc đạo dù chẳng hề cãi lại một
chữ nào trong Kinh Tin Kính Nixê! Đức Giêsu là đường, là đạo. Con đường này
chính nhờ Người đã đi mà có. Người đi từ phận Chúa đến phận người, từ hang đá
Bêlem tới thập giá Gôngôtha, rồi từ cõi chết đến cõi sống. Đức Giêsu là đường. Con
đường này nên mang tên “Đường Giêsu” – và nếu vì ‘kính bất xưng danh’ thì ta
còn có nhiều tên khác để thay thế - chẳng hạn, đường Hẹp, đường Thập Giá, đường
Phục Vụ, và nhất là: đường Tình Yêu!
6.
Thánh Giacôbê hậu
Dầu cho các sách Phúc Âm không nói nhiều tới thánh
nhân nhưng Ngài đã giữ được một địa vị sáng giá trong Giáo hội sơ khai, Thánh
Phêrô khi được cứu thoát khỏi tù đã nói: “Hãy đem tin cho Giacôbê và các anh em
được biết” (x. Cv 12,17).
Khi tiếp xúc với các tông đồ, Thánh Phaolô đã đến gặp
Giacôbê. Sau này Thánh Phaolô nói: “Giacôbê, Kêpha (Phêrô) và Gioan, những vị
có thế giá như cột trụ ấy đã bắt tay tôi và Barnaba tỏ dấu hợp thông." (x.
Gl 2,9)
Tại công đồng Giêrusalem, Giacôbê đã lên tiếng sau
Phêrô, tóm kết diễn từ về việc rao giảng Phúc Âm cho dân ngoại (x. Cv
15,13-31). Lần sau cùng về Giêrusalem, thánh Phaolô đã đến gặp thánh Giacôbê
đang họp với hàng niên trưởng (x. Cv 21,18).
Để diễn tả sự thánh thiện của Giacôbê, thánh Eusêbiô
và Hiêrônimô đã nói rằng: thánh nhân giữ mình đồng trinh suốt đời và con người
hiến mình cho Thiên Chúa này không uống rượu, kiêng thịt, đi chân không và chỉ
có một chiếc áo. Quì cầu nguyện nhiều, đầu gối Ngài chai cứng như da lạc đà.
Năm 62, các luật sĩ lo lắng vì sự rạng rỡ Giacôbê
mang lại cho Kitô giáo. Họ triệu vời thánh nhân đến ở trước công nghị để tra vấn
xem Ngài nghĩ gì về Chúa Kitô. Trên sân thượng ngoài đền thờ, họ bắt thánh nhân
công khai nói lời bội giáo cho dân nghe, Ngài nói: “Chúa Giêsu là con người
đang ngự bên hữu Thiên Chúa quyền năng và đến một ngày kia sẽ đến trên mây trời."
Dân chúng đồng loạt lên tiếng tôn vinh Chúa Giêsu
trong khi các luật sĩ và biệt phái xông vào thánh nhân. Họ đã quyết định ném đá
Ngài.
7. Tông đồ cho người ta thấy Chúa
Trong
một thánh lễ kính các tông đồ, tôi nhớ mang máng nội dung một bài hát như thế
này: “Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta, Người đến với mọi
người. Tông đồ là người mang Chúa Kitô, để qua ta, để trong ta Người đến với mọi
nơi."
Ý
nghĩa của lời hát trên nói lên tất cả sứ mạng của người làm Tông đồ. Thật vậy,
người Tông đồ cần phải có Chúa Kitô trong mình mới có thể mang Chúa Kitô đến
cho những khác. Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống như Đức Kitô đã sống
để người khác thấy Chúa Kitô nơi người Tông đồ. Thánh Phaolô đã nói: “Tôi sống
nhưng không phải là tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Mang
Chúa đến với người khác bằng cách sống bác ái yêu thương. Chính Chúa Giêsu đã
nói: “Cứ dấu này mà người ta nhận ra các con là môn đệ của Thầy là các con yêu
thương nhau” (Ga 13,35). Mang Chúa đến với người khác bằng cách sống công bằng,
chân thật. Vì Chúa Giêsu từng nói: “Ta là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” (Ga
14,6).
Cũng
như Chúa Giêsu Kitô đã hoạ lại hình ảnh của Chúa Cha, để ai thấy Ngài là thấy
Chúa Cha (x. Ga 14, 9). Người Tông đồ cũng phải hoạ lại hình ảnh của Chúa Giêsu
Kitô nơi chính lời nói và việc làm của mình, để ai thấy người Tông đồ là thấy
Chúa Giêsu Kitô.
THÁNH
MATTHIA – ĐƯỢC SAI ĐI
Lời Chúa: Ga 15, 9-17
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng:
"Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình
yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của
Thầy; cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình
yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó, để niềm vui của Thầy ở trong các
con, và niềm vui của các con được trọn vẹn.
"Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến
nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của
người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi
hành những điều Thầy truyền.
"Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ
không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy
đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết.
Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã
chọn các con, và đã cắt đặt, để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái
các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho
các con. Thầy truyền cho các con điều này là: các con hãy yêu mến nhau.”
TRUYỆN KỂ
1. Thánh Matthias, Tông đồ
Tài liệu duy nhất đáng kể về thánh Mathia là tường
thuật của sách Công vụ các tông đồ (Cv 1,15-26). Theo điều kiện mà thánh Phêrô
đưa ra để chọn người thế chân cho Giuđa trong nhóm 12. Chúng ta biết thánh
Mathia là một trong số các môn đệ của Chúa Giêsu. Ngài đã theo Chúa Giêsu “Khởi
từ lúc Gioan thanh tẩy cho đến ngày Chúa Giêsu về trời” (c. 22)
Khi Chúa Giêsu đã về trời, các tông đồ vâng lệnh
Chúa trở về Giêrusalem cầu nguyện chờ đón Chúa Thánh Thần đến. Họ gặp nhau lại
khoảng 120 người. Lúc ấy Phêrô lên tiếng nhắc lại sự Giuda phản bội và kết luận:
- “Phải chọn
lấy thêm một người để cùng chúng tôi làm chứng tá cho sự sống lại của Chúa
Giêsu.”
Cộng đoàn đã đề cử hai người xem ra xứng đáng nhất,
với vinh dự này là Giuse, gọi là Barsabba biệt danh là Giustô và Matthia. Thế rồi
họ cầu nguyện và bắt thăm chọn người Chúa muốn. Matthia đã trúng cử và nhập vào
nhóm 12.
Vị tân tông đồ, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, đã
ra đi rao giảng Phúc âm và hiến phần còn lại cho việc tông đồ, thánh Clementê,
thánh Alexandria kể lại rằng: các giáo huấn của thánh Matthia tập chú vào nhu cầu
phải hy sinh hãm dẹp xác thịt và những ước muốn lăng loàn. Đó là bài học quan
trọng Ngài đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu và đem ra thực hành.
Nhiều sứ giả cho rằng thánh Matthia đi từ Giuđêa tới
tận Ethiopie rao giảng và làm cho vô số người trở lại đạo. Sau ba mươi năm bị
bách hại, nỗ lực và thành công, Ngài bị ném đá và bị chặt đầu dưới thời Nerô
vào năm 63.
Theo dân Hy lạp, thánh Matthia đã mang Kitô giáo đến
miền Cappadôcia rồi bị đóng đinh vào thập giá ở Côlehis. Và xác Ngài được đưa về
Giêrusalem. Một phần các xương thánh vẫn còn ở đền thờ Đức Bà cả nơi thánh nhân
đã làm nhiều phép lạ.
2. Anh em hãy ở lại
trong tình thương của Thầy.
Năm 1963, tại Washington, 200.000 người lắng nghe
Martin Luther King. vị mục sư da đen, người đoạt giải Nobel hoà bình nói chuyện:
“Tôi ước mơ một ngày kia, trên những cánh đồng miền Georgia, con cháu của những
người nô lệ và của những chủ nô sẽ ngồi chung với nhau trong một bàn tiệc huynh
đệ. Tôi mơ ước một ngày kia, 4 người con của tôi về sống trong một nước mà
chúng không còn bị xét xử vì màu da nữa, nhưng vì công lao...”
Ông ra sức thực hiện ước mơ ấy, biết bao khó khăn thử
thách, ghen tương đố kỵ đã ập xuống trên ông, nhưng ông vẫn kiên quyết thực
hiên hoài bão này.
Năm 1968, M.L. King đã ngã gục dưới lằn đạn của những
kẻ thù ghét ông. Nhưng công trình của ông vẫn được tiếp tục, bởi ước mơ của ông
đã trở thành ước mơ của hàng triệu con người trên thế giới.
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết ở lại trong tình
thương của Chúa.
3. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau
Từ 23 tháng chạp đến tết, đất Trung Quốc nhộn nhịp hẳn
lên vì chuẩn bị cầu phúc. Trong những ngày này, Lố Tấn gặp thím Tường Lâm. Thím
là một nông dân cần cù. Chồng trước thì chết sớm, Cồng sau chết vì thương hàn,
thằng con nhỏ thì bị chó sói vồ... Họ còn đồn rằng mai sau thím sẽ bị cưa đôi để
chia cho hai con ma chồng. Thím luôn phải sống trong sợ hãi. Ai cũng coi thím
là đồ ô uế. Chủ nhà không cho thím sờ tay vào các lễ vật, dù đó chỉ là cái chân
đèn... Thím từ từ suy sụp và sinh hoảng loạn.
Lỗ Tấn thấy thím, tóc trắng toá, tay sách cái làn
tre, trong có cái bát mẻ không đựng gì, tay kia cầm cây gậy trúc đầu dưới toe
toé, lang thang trên đường, miệng lẩm bẩm gọi tên đứa con mình...
Tiết trời lạnh lẽo, thím nằm chết trên một đống tuyết
vừa lúc giao thừa đến, pháo nổ vang trời. Các gia đình giàu có mở cửa ra, thấy
vậy quát lên: “Tại sao chết vào lúc tao đang cầu phúc?”
Lạy Chúa, có nhiều người bên con vẫn đang âm thầm
đau khổ chỉ vì những suy nghĩ, lời nói và hành động thiếu yêu thương của con.
Xin giúp con hiểu và thực thi giới răn yêu thương của Ngài.
4. Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em
Mọi người đều xót xa và thương tiếc anh: trung uý
Nguyễn văn Ngữ, người cảnh sát giao thông Hà Nội đã hy sinh trong ngày Mùng Hai
Tết Bính Tý, vì đương đầu với hơn chục tên côn đồ say rượu và say máu, cầm dao
chém một anh xích lô cùng một khách đi đường.
Anh đã xả thân vì mọi người, đã chết để người dân được
sống yên lành, đã hy sinh mà không cần báo đáp, tri ân.
Dù xã hội còn nhiều những tay côn đồ, nhưng tôi tin
rằng vẫn luôn có những người như anh, âm thần hiến thân cho tình yêu đồng loại.
Chứng từ của anh làm cho Lời Chúa hôm nay trở nên sinh động và thúc bách chúng
tôi, những người nhận mình là kitô hữu hay môn đệ của Đức Kitô, thực thi điều
răn mới của Ngài.
Chắc chăn tấm gương cao đẹp của anh tiếp thêm sức sống
cho bao người đang thầm lặng muốn sống đẹp đời mình.
Xin giúp con dám sống và dám chết cho Tình yêu.
5. Mang Chúa đến cho mọi người
Trong việc dành cho người mù ở đảo Sardaigne (Ý) có
một cô gái tên là Pina, mù cả hai mắt từ hồi còn nhỏ. Rủi ro thay! Cha tuyên úy
của nhà mù vừa bị bệnh tê liệt, không thể dâng lễ được nữa. Vì lý do đó, người
ta định đưa Chúa Giêsu ra khỏi nhà. Nghe tin ấy, cô Pina kêu nài tận đến Đức
Giám mục, xin ngài để Chúa Giêsu ở lại, vì đó là ánh sáng duy nhất của những kẻ
mù lòa như cô. Cô được phép, và cùng một trật cũng được đặc ân trao Mình Thánh
Chúa cho cha tuyên úy và các bạn của cô.
Nhưng không những thế cô luôn luôn cầu nguyện và ước
ao phục vụ hơn nữa theo sức cô.
Cô được dùng mấy giờ trên đài phát thanh nọ của tư
nhân, và với phương tiện ấy, cô đã chuyển đến cho các bạn cô món quà tuyệt hảo
nhất mà cô nhận được nơi Chúa để nâng đỡ những người đau khổ bằng chính kinh
nghiệm của cô: Những bài suy niệm, những lời khuyên nhủ, những khuyến khích, và
biết bao là câu chuyện bổ ích khác...
Làm sao cô Pina học được, làm được những điều ấy khi
mà cô cũng như cả nhà đều phải mù loà: Ai đọc sách cho cô nghe: Ai giảng dạy
cho cô hiểu? Đó là nhờ cô, ngoài những điều nghe người ta nói, còn nghe đài
phát thanh quốc gia, đặc biệt là đài phát thanh Vatican; cô nghe những bài suy
niệm Phúc âm, những tin tức nóng bỏng trên thế giới, những lời nhắn nhủ tha thiết
của Đức Thánh cha, theo dõi những biến cố trong Hội Thánh... Cô mù lòa, nhưng
ánh sáng Phúc âm vẫn chiếu giọi đến tâm hồn cô, cho cô chất liệu để suy niệm và
sau đó chuyển lại cho những người bạn cùng đau khổ như cô.
Trong một thời gian rất lâu, chẳng ngờ rằng cô Pina
là người tàn phế! Khi biết được, ai cũng xúc động. Cuộc đời của cô đã làm cho
nhiều người, nhất là những tâm hồn tận hiến phải suy nghĩ:
* Có bao giờ tôi nghĩ đến việc dùng vài giờ trong tuần
lễ, hoặc ít là mười lăm phút mỗi ngày để giúp người khác chưa?
* Tôi có biết săn sóc nhà cửa, nấu nướng, may vá và
làm những việc lặt vặt trong nhà không?..
6. Sẵn sàng chết cho người khác
Một vị đạo sĩ kia kể rằng: Ngày nọ, ông từ trên núi
cao đầy băng tuyết đi xuống với một người Tây Tạng. Dọc đường, ông gặp một người
ngã quỵ trên băng tuyết, ông nói với người Tây Tạng đồng hành:
- Chúng ta mau lại giúp đỡ người gặp nạn đó!
Nhưng người Tây Tạng trả lời:
- Không ai bắt buộc chúng ta phải giúp đỡ kẻ khác,
khi mà chính mạng sống của chúng ta đang bị giá lạnh đe doạ.
Nhưng vị đạo sĩ nói:
- Dù chúng ta có phải chết vì lạnh đi nữa thì chúng
ta cũng nên chết vì đã giúp người khác, đó là điều tốt đẹp hơn.
Nói rồi, vị đạo sĩ chạy lại vác người bị nạn lên vai
và khệ nệ đem người đó xuống núi, trong khi người Tây Tạng đã bỏ xuống trước.
Đi được một quãng, vị đạo sĩ thấy người bạn đồng hành Tây Tạng đang nằm dài
trên tuyết bất động. Thì ra, anh ta quá mệt ngồi nghỉ và bị lạnh cóng chết lúc
nào không biết, còn vị đạo sĩ vì phải hết sức vác người bị nạn, nên cơ thể nóng
lên thêm, nhờ đó mà ông thoát chết vì lạnh.
7. Không phải anh em đã chọn Thầy
“Tôi là một linh mục công giáo Ba Lan, tôi đã già,
tôi muốn chết thay cho ông này, vì ông có vợ con.” Quyết định của cha Kônbê
(Maximilianus Maria Kolbe) đã cứu được ông Francis.
Không phải chỉ mình ông và gia đình ông, cha còn cứu
được 9 người khác, khỏi nỗi tuyệt vọng, những người sẽ cùng bị bỏ đói đến chết
với cha. Từ hầm giam, không còn nghe thấy tiếng khóc than nguyền rủa. Chỉ có tiếng
hát và lời kinh...
Cái chết của cha làm mọi người kinh ngạc, vì nó là bằng
chứng của một tình yêu.
Không có tình yêu nào lớn bằng tình yêu hiến mạng
cho người bạn của mình. Ông Francis chẳng phải là bạn của cha Kôn-bê, nhưng ông
thành bạn của cha vì được cha hiến mạng. Hãy ở lại trong Thầy, ở lại trong tình
yêu của Thầy.
8. Đức Gioan 23 yêu như Chúa yêu
Đức Cha Roncalli làm đại diện tông tòa tại Bulgari từ
năm 1925 tới năm 1934. Trong những năm đó công việc của ngài rất khó khăn phức
tạp. Ngài có trách nhiệm cả một vùng rộng lớn đang sôi động về chính trị, chia
rẽ về mặt tôn giáo. Có những chia rẽ tầm trọng giữa Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống
Giáo và Hồi Giáo. Mặt khác trong Giáo Hội địa phương, lại có sự chia rẽ giữa
linh mục triều và tu sĩ dòng… Trong thời gian này, Đức Tổng Giám Mục Roncalli
nhận được một bức thư nặng lời chê trách, trì trích ngài về mọi mặt, do một
linh mục bất mãn viết. Đọc thơ xong, Đức Cha Roncalli không nói một lời, cũng
không hề tỏ ra một cử chỉ nào ác cảm với linh mục đó.
Thời gian trôi qua, ngài giữ chức sứ thần tòa thánh
tại Paris từ năm 1945 tới 1952 rồi làm Hồng Y Giáo Chủ ở Venise từ năm 1953 tới
năm 1958 và sau cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu là Gioan XXIII năm 1958.
Khi ngài đắc cử Giáo Hoàng, thì vị linh mục bất mãn
viết thơ cho ngài trước đây, vẫn còn sống. Gặp dịp giáo dân trong vùng tổ chức
một cuộc viếng thăm Rôma, để yết kiến Đức Giáo Hoàng là vị tổng giám mục yêu
quý của họ ngày xưa, linh mục này, cũng ghi tên trong phái đoàn. Đến Rôma, ngài
lại xin đặc ân được tiếp kiến Đức Giáo Hoàng. Lời thỉnh cầu đó được Đức Giáo
Hoàng XXIII chấp thuận. Sau đây là lời chính linh mục:
“Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican,
để đợi tới phiên được vào triều yết Đức thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức
thư bất mãn năm xưa, và lòng tôi vô cùng hối hận, tôi thầm nghĩ đã mấy chục năm
trôi qua, giờ đây chắc Đức Thánh Cha không còn nhớ gì. Lòng tôi cảm thấy xao
xuyến, hồi hộp, hy vọng nếu ngài còn nhớ, thì chắc lòng nhân hậu ngài cũng bỏ
qua cho tôi… Đang lúc suy nghĩ miên man, bỗng cửa mở. Đức Ông phụ tá dẫn tôi
vào. Vừa thấy tôi, Đức Thánh Cha đã niềm nở, đưa tay bắt và mời ngồi. Ngài ân cần
hỏi thăm công việc mục vụ của tôi, của giáo phận, và bùi ngùi nhắc tới các bạn
cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, như thể xứ sở tôi cũng là quê hương ngài vậy.
“Lúc đó lòng tôi khấp khởi mừng thầm, vì chắc Đức
Thánh Cha đã quên hẳn bức thư hỗn láo năm nào… Câu truyện vẫn tiếp tục trong bầu
không khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn thánh kinh,
vừa từ từ mở ra, ngài để trước mắt tôi bức thư, tôi đã trì trích, thóa mạ ngài.
Tôi xấu hổ và sợ hãi quá. Có ai ngờ đã mấy chục năm trôi qua, mà bức thư không
tốt đẹp gì đó, ngài vẫn còn giữ. Tôi đang lúng túng, âu lo thắc mắc, thì Đức
Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: “Con đừng bận tâm, Cha không bao
giờ giận con. Cha cảm ơn con, Cha cũng là người, thì cũng yếu đuối, Cha để lại
bức thư con vào cuốn thánh kinh, để khi có dịp, Cha đọc lại là xét mình, hầu có
thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại, và xa lánh những lầm lỡ có thể
xẩy ra đến trong tương lai. Mỗi lần cha đọc thư này, cha lại nhớ đến con và cầu
nguyện cho con.
“Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng.
Ngài còn chúc lành cho tôi, và ôm hôn từ giã tôi.
“Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung của
một vị Giáo Hoàng hiền lành, khiêm nhường đến thế.”
Giữ một bức thư chê bai, trì trích, thóa mạ mình, để
rồi coi đi coi lại, qua nhiều năm tháng, nhằm mục đích sửa đổi những khuyết điểm
của mình, và cầu cho ngừoi thóa mạ mình, là một hành vi anh hùng, đầy tự chủ, đầy
thánh thiện.
Chúng ta chỉ mến Chúa thực sự khi ta biết yêu người,
tha thứ lỗi lầm kẻ khác và luôn luôn cư xử độ lượng với nhau.
9. Yêu như Chúa yêu
“Chí Phèo” là truyện ngắn nổi tiếng của nhà
văn Nam Cao. Truyện ngắn này nổi tiếng đến nỗi tên của hai nhân vật trong truyện
là Chí Phèo và Thị Nở đã trở thành danh từ chung ám chỉ sự xấu xa thấp hèn trên
đời. Thế nhưng, giữa sự xấu xa thấp hèn đó vẫn ánh lên một điều quý giá sáng ngời:
đó là tình yêu.
Chí Phèo là một đứa con hoang bị bỏ rơi tại một lò gạch
bỏ không khi mới lọt lòng mẹ. Được người ta nhặt về nuôi, lớn lên đi ở đợ hết
nhà này sang nhà khác. Vì lòng ghen ghét của tay điền chủ Lý Kiến, Chí Phèo phải
đi tù 7 năm. Mãn hạn tù, Chí Phèo trở về nhà thành một tay nát rượu, thường đến
cổng nhà Lý Kiến chửi bới, tự rạch mặt và nằm ăn vạ. Dưới mắt dân làng Vũ Đại,
Chí Phèo như một con quỷ dữ, ai thấy cũng tránh xa.
Thế rồi, vào một đêm kia, trong cơn say, Chí Phèo gặp
Thị Nở, một người đàn bà xấu xí đến cùng cực, tâm thần không ổn định, bị mọi
người hắt hủi. Trong cảnh khốn cùng ấy, hai người đã yêu nhau. Chí Phèo muốn lấy
Thị Nở làm vợ và muốn trở thành người lương thiện. Nhưng bà cô già của Thị Nở
không đồng ý. Thế là trong cơn tuyệt vọng, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, rút dao
đâm chết Bá Kiến, sau đó tự đâm vào cổ mình tự sát.
Câu truyện “Chí Phèo” cho chúng ta thấy: Con người
dù xấu xa đê hèn đến mấy cũng khao khát yêu và được yêu. Nhưng tiếc thay, Chí
Phèo và Thị Nở đã bị người đời từ chối quyền được làm người lương thiện, nhất
là quyền yêu và được yêu.
Trong lúc con người “sẻn so” với tình yêu như thế,
thì Chúa Giêsu đã đến để rao giảng và ban phát tình yêu không ngừng. Trong bài
Tin Mừng theo thánh Gioan hôm nay, Chúa đã truyền cho các môn đệ: “Các con hãy
yêu mến nhau như Thầy đã yêu mến các con.”
10. Hai biển hồ uống chung một dòng sông
Ở Palestine có 2 biển hồ. Biển hồ thứ nhất gọi là Biển
Chết. Đúng như tên gọi, nơi đây không có sự sống. Không có loài cá nào sống nổi
trong nước hồ này. Biển hồ thứ hai là Galilê, đây là biển hồ thu hút nhiều
khách du lịch nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, từng đàn
cá tung tăng bơi lội, cây cối chung quanh tốt tươi xanh rờn.
Có một điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều cùng đón
nhận nguồn nước từ sông Giođan. Nước sông Giođan chảy vào Biển Chết, Biển Chết
đón nhận và giữ lại cho riêng mình, nên nước trở thành tù đọng và mặn chát. Biển
hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Giođan rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ
và sông lạch. Vì vậy, nước hồ luôn trong sạch và mang lại sự sống cho cây cối,
muông thú và con người.
Dòng sông tốt là dòng sông biết đem phù sa đến bồi đắp
cho những cánh đồng bát ngát. Dòng sông trong mát là dòng sông luôn luân chuyển.
Ngày nào dòng sông ngừng lại, dòng sông sẽ trở thành ao tù vẩn đục hôi tanh. Thế
giới hôm nay đang đói khát tình yêu đích thực. Chúng ta hãy ra khỏi chính mình
để đến với tha nhân trong tình liên đới yêu thương, như dòng sông luôn trôi mãi
đến tận chân trời, tưới mát những nơi cằn cỗi nhất.
Mỗi người hãy là một dòng sông yêu thương, bắt nguồn
từ tình yêu Thiên Chúa, chảy tràn đến cho muôn người. Ước mong dòng sông ấy
luôn chảy mãi không ngừng, cho đi tất cả, càng cho đi mạch nước càng tuôn trào.
11. Yêu đến cùng
Gene Stallings, huấn luyện viên bóng đá hàng đầu của
trường đại học Alabana đã ngất xỉu khi bác sĩ nói rằng Johnny, đứa con trai duy
nhất của ông được sinh ra với hội chứng Down (chậm phát triển). Điều này đã xảy
ra cách đây 30 năm. Ngày nay, Stallings xem việc sinh ra Johnny là một trong những
món quà lớn của đời ông. Johnny đã dạy ông thế nào là tình yêu đích thực.
Stallings nói về đứa con trai của mình: “Tất cả tình
yêu của nó là vô điều kiện. Nó không cần được ghi công. Nó hoàn toàn không vị kỷ.”
Stallings nói nếu ông có thể thay đổi số phận và được một đứa bé bình thường,
ông cũng không thay đổi: “Johnny là một phần lớn cuộc đời tôi. Tôi không đổi thứ
gì. Tôi cảm thấy mình được chúc phúc.”
Tôi học được gì về tình yêu từ một vài thành viên
trong gia đình tôi?
Quyết định từ bỏ bản thân để yêu thương là chuyện
lâu dài cả đời (Elisabeth Stone).
12. Yêu Chúa và yêu người
Thi sĩ người Anh Leigh Hunt viết một bài thơ mang
tên: “Abou ben Adhem.” Một đêm nọ, Abou thức giấc và thấy một thiên thần đang
viết vào sổ tên những người yêu mến Thiên Chúa nhất. Abou hỏi: “Có tên con
không?” Thiên thần đáp: “Không, không có đâu!” Lúc đó, Abou nói với thiên thần
hãy viết rằng ông là người yêu thương anh em nhất. Thiên thần liền viết rồi biến
mất. Đêm hôm sau, thiên thần lại đến trong ánh quang rực rỡ và chỉ tên những
người được Thiên Chúa chúc phúc, và này tên của Ben Adhem đứng đầu sổ.
Nếu tôi hỏi thiên thần như Abou đã hỏi, thiên thần sẽ
trả lời tôi như thế nào? Và tôi sẽ đáp lại thiên thần ra sao?
Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong các anh
em bé nhỏ nhất... là các ngươi đã làm cho chính Ta (Mt 25,40).
13. Bầu trời bé nhỏ của chúng ta
Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ bên Tàu, có một em
bé đói rách, tiều tụy và mắc bênh phong cùi. Em bị dân chúng đánh đập và đuổi
ra khỏi làng. Trước cảnh tượng ấy, một nhà truyền giáo phương xa đã bế em trên
tay, che chở em khỏi gậy gộc phũ phàng.
Thấy có người chịu mang em đi, dân làng mới thôi
không đánh đập em nữa, nhưng miệng thì vẫn không ngớt rủa xả.
Giờ đây, những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má
em. Không phải là những giọt nước mắt đau buồn và tủi hận, nhưng là những giọt
nước mắt vui mừng và tin tưởng. Em đã hỏi:
- Tại sao ông lại lo lắng cho tôi?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Vì ông trời đã tạo nên cả hai chúng ta. Em là em
gái của tôi và từ nay em sẽ không còn phải đói khổ, long đong vất vả nữa.
Suy nghĩ một hồi, em hỏi tiếp:
- Vậy tôi phải làm gì?
Nhà truyền giáo trả lời:
- Em hãy trao tặng cho người khác tình yêu của em,
càng nhiều càng tốt.
Từ đó cho đến khi qua đời, trong suốt ba năm, em
luôn chăm sóc, giúp đỡ, băng bó vết thương và đút cơm cho các bệnh nhân trong
trại cùi mà nhà truyền giáo đã đưa em vào.
Tới năm mười một tuổi, khi em qua đời, các bệnh nhân
đã khóc và nói với nhau vói tất cả niềm thương nhớ:
- Bầu trời bé nhỏ đang xa lìa chúng ta.
14. Yêu để biết Chúa
Tình yêu
Lần kia, có một thanh niên nghi ngờ về sự hiện hữu của
Thiên Chúa. Vì thế, anh ta đến thăm viếng một tu sĩ nổi tiếng là thánh thiện.
Anh hỏi vị tu sĩ: “Thầy có tin tưởng vào Thiên Chúa không?”
Vị tu sĩ đáp: “Có chứ.”
Người thanh niên hỏi: “Dựa vào chứng cứ nào mà thầy
tin được?
Vị tu sĩ đáp: “Ta tin tưởng vào Thiên Chúa, bởi vì
ta biết Người. Mỗi ngày, ta đều cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa
trong tâm hồn ta.”
Người thanh niên hỏi: “Nhưng làm thế nào điều đó có
thể xảy ra được?
Vị tu sĩ đáp: “Khi biết sống yêu thương, thì chúng
ta cảm nghiệm được Thiên Chúa, và nỗi nghi ngờ tan biến, giống như làn sương buổi
sáng bị tan biến trước ánh nắng mặt trời vậy.”
Người thanh niên suy nghĩ về câu nói này trong giây
lát, rồi hỏi: “Làm thế nào để con có thể đạt được niềm tin chắc chắn này?”
Vị tu sĩ đáp: “Bằng cách hành động theo tình yêu.
Con hãy cố gắng yêu thương những người đồng loại; yêu thương họ một cách tích cực
và không ngừng. Trong khi con học hỏi được cách càng ngày càng yêu thương hơn,
thì con sẽ càng ngày càng trở nên tin tưởng vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và
sự bất tử của linh hồn. Điều này đã được thử nghiệm. Đây là đường lối đúng đắn.”
15. Tình yêu cần hy sinh
Báo Công giáo và dân tộc số 1558 có đăng câu truyện
“Mẹ tôi” của một tác giả vô danh, với vài câu dẫn vào câu truyện rất dễ gây ấn
tượng: “Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do
chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu,
châm chọc tôi.”
Xấu hổ vì mẹ, anh chỉ muốn thoát khỏi nhà, cố học
hành chăm chỉ và sau cùng có một học bổng du học Singapore. Sau khi lập gia
đình, có vợ và mấy đứa con, anh mua cho mẹ một căn nhà nhỏ ở quê nhà, đôi lúc lén
lút gửi cho mẹ một ít tiền để không ai biết đó là mẹ mình.
Một hôm anh ghé về nhà mẹ thì hàng xóm cho biết bà
đã mất mấy ngày trước, và được sở an sinh xã hội lo mai táng chu đáo do không
có thân nhân. Đang lúc thấy nhẹ cả người, yên trí từ nay không sợ phải xấu hổ
vì mẹ nữa, thì hàng xóm trao cho anh bức thư của mẹ anh:
“Con yêu quí,
“Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. (…) Mẹ buồn vì đã làm
con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây.
“Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn
và hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi yên nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt,
nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sĩ có
thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận vì việc đó. Mẹ rất hãnh diện
vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những việc mẹ đã làm được cho con. Con
đã nhìn thấy cả một thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ…
“Mẹ yêu con lắm.”
Người con đó không thể nói được điều gì ngoài một chữ
“Mẹ” đơn sơ, nhưng với cả tấm lòng, khi anh thấm thía trong từng thớ thịt tình
yêu của người mẹ như một câu danh ngôn diễn tả: “Với thế giới, bạn chỉ là một
ai đó, nhưng có thể với một ai đó, bạn là cả thế giới.”
16. Tình yêu hiến mạng
Năm 1880, tại nước Ý, một cậu bé tên là Giuse
Moscati được sinh ra. Ngay từ những ngày thơ ấu cậu đã va chạm với nhiều nghịch
cảnh: năm 12 tuổi là cái chết bất ngờ của người anh, năm 17 tuổi là sự ra đi
vĩnh viễn của người cha, rồi đến căn bệnh tiểu đường sớm xuất hiện nơi người mẹ.
Tất cả thúc đẩu cậu theo học y khoa với lý tưởng làm bác sĩ để xoa dịu nỗi khổ
đau và đem con người tới Thiên Chúa.
Bác sĩ Moscati đã không quản ngại chen chân vào tận
hang cùng ngõ hẻm để săn sóc bệnh nhân. Người ta đến với ngài với tất cả niềm
hy vọng. Rất nhiều bệnh nhân không những được khỏi bệnh thể xác, nhưng họ còn
được giải toả tâm hồn. Từ đâu ông có sức mạnh đó?
Sức mạnh đó ông kín múc được nơi tình yêu Chúa. Mỗi
giây phút đời ông đều là những giây phút kết hợp với Thiên Chúa. Trên tường cao
trong phòng làm việc, luôn có Tượng Thánh gía bên cạnh đó có khắc câu: “Ôi thần
chết, ta sẽ là tử thần của ngươi.”
Đang được mọi người quí mến thì ông đột ngột ra đi
năm 47 tuổi. Dân chúng trong vùng vô cùng thương tiếc. Trước đây họ đến nhờ ông
giúp chữa bệnh thì nay họ đến cầu xin ông cầu bầu trong nhiều hoàn cảnh khác
nhau. Trong thời gian điều tra phong thánh đã có hai phép lạ chữa bệnh xảy ra.
Cuối cùng, bác sĩ Moscati đã được phong chân phước ngày 16.11.1975, và phong hiển
thánh ngày 25.10.1987.
Tình yêu hiến mạng của Đức Kitô là nguồn cho sức mạnh
và vẻ đẹp cao cả của đời ngài. Tôi cũng muốn cuộc đời mình thật mạnh mẽ và cao
đẹp, sao tôi chưa yêu người khác như Chúa yêu tôi?
Lời Chúa Tuần 4 Phục Sinh
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch