CNPS 3B - Chứng nhân về Chúa Giêsu Phục sinh
THỨ HAI - Tin vào Đấng Thiên Sai
THỨ TƯ - Ý nghĩa của cuộc sống
Lễ kính thánh Marcô - Sư Tử Có Ðôi Cánh
CNPS 3A - Hai môn
đệ Em-mau
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần,
có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc
đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra.
Đang khi họ nói truyện và trao đổi
ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị
che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa
trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời:
"Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những
sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay." Chúa hỏi: "Việc gì thế?"
Các ông thưa: "Sự việc liên
can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực
trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà
các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh
Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel.
Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm
chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không
thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống.
Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các
phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp."
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ
khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu
đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến
tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người.
Khi gần đến làng hai ông định tới,
Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời
ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn." Người liền
vào với các ông. Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng,
bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất.
Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi
Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?"
Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về
Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai
ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon."
Hai ông cũng thuật lại các việc
đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
TRUYỆN KỂ
1. Người
bạn trong bước đường cùng
Noreen Towers là một người làm
việc phục vụ cho những người nghèo. Nhưng cô chán nản vì thấy hầu như những việc
làm của mình không thành công. Một tối kia cô giật mình thức giấc và cảm thấy
hình như Chúa Giêsu đang nói chuyện với cô, Ngài hỏi: “Con không thể tin vào chương trình của Thầy đã vạch sẵn cho con
ư?"
Một thoáng cảm nghiệm chóng qua ấy
đã thay đổi hẳn con người cô: từ một người chán chường, cô đã trở thành một người
có đức tin không thể nào lay chuyển nổi (Mark Link, Vison 2000).
“Chúa
Giêsu Kitô có cách nào khác để đi vào lòng người nếu không phải là qua một trái
tim tan nát?”
(Oscar Wilde).
2. Vị trí làng Emmau.
Emmau là quê hương của hai môn đệ
mà hôm nay hai ông trở về sau cái chết của Đức Giêsu. Ngày nay chúng ta khó mà
đặt được vị trí cho làng nhỏ này. Các bản văn không hợp nhau về dậm đường xa.
Có bản viết Emmau nằm về phia tây bắc Giêrusalem và cách đó 60 dậm, có bản viết
cách 160 dậm. Mỗi dậm đường là 185 mét. Nếu nhận Emmau cách Giêrusalem 160 dậm
thì khỏang cách là 29 cây số, như vậy thì làm sao hai môn đệ có thể trở về ngay
trong một ngày được. Như vậy, bản văn viết 60 dậm có vẻ hợp lý hơn vì Emmau chỉ
cách Giêrusalem có 11 cây số.
3. Chúa
đến nơi tha nhân.
Một tác giả kể câu truyện ngụ
ngôn sau đây:
Vào buổi sáng nọ, người thợ giầy
thức giấc rất sớm. Anh quyết định chuẩn bị chiếc xưởng nhỏ của anh cho tươm tất
rồi vào phòng khách chờ đợi cho bằng được người khách quí. Và người khách đó
không ai khác hơn là chính Chúa, bởi vì tối qua trong giấc mơ, Ngài đã hiện ra
và báo cho anh biết Ngài sẽ đến thăm anh trong ngày hôm sau.
Người thợ giầy ngồi chờ đợi, tâm
hồn tràn ngập hân hoan. Khi những tia nắng sớm vừa rọi qua khung cửa, anh đã
nghe được tiếng gõ cửa. Lòng anh hồi hộp, sung sướng, hẳn là Chúa đến. Anh ra mở
cửa. Thế nhưng kẻ đang đứng trước mặt anh không phải là Chúa, mà là người phát
thư.
Sáng hôm đó là một ngày cuối
đông, cái lạnh đã khiến mặt mũi, tay chân người phát thư đỏ như gấc. Người thợ
giầy không nỡ để nhân viên bưu điện phải run lẩy bẩy ngòai cửa. Anh mời ông ta
vào nhà và pha trà mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đứng dậy
cám ơn và tiếp tục công việc.
Người thợ giầy lại vào phòng
khách chờ Chúa. Nhìn qua cửa sổ, anh thấy một em bé đang khóc sướt mướt trước cửa
nhà. Anh gọi nó lại, hỏi cớ sự. Nó mếu máo cho biết đã lạc mất mẹ và không biết
đường về nhà. Người thợ giầy lấy bút viết vài chữ để lại trên bàn báo cho người
khách quí biết mình phải đi ra ngòai.
Nhưng tìm đường dẫn bé về nhà
đâu phải là chuyện đơn giản và nhanh chóng. Mãi chiều tối anh mới tìm ra được
nhà đứa bé, và khi anh về lại nhà thì phố xá đã lên đèn.
Vừa bước vào nhà, anh đã thấy có
người đang đợi anh, nhưng đó không phải là Chúa, mà là một người đàn bà với
dáng vẻ tiều tụy. Bà cho biết đứa con của bà đang ốm nặng và bà đã không thể chớp
mắt suốt đêm qua. Nghe thế, người thợ giầy lại hối hả đến săn sóc đứa bé. Nửa
đêm anh mới về đến nhà, anh để nguyên quần áo và lên giường ngủ.
Thế là một ngày đã qua mà Chúa
chưa đến thăm anh. Nhưng đột nhiên trong giấc ngủ, người thợ giầy nghe thấy tiếng
Chúa nói với anh: “Cảm ơn con đã dọn trà
nóng cha Ta uống. Cám ơn con đã dẫn đường cho Ta về nhà. Cám ơn con đã săn sóc ủi
an Ta. Cám ơn con đã tiếp đón Ta ngày hôm nay."
4. Đức
Giáo hoàng Piô XI
Được thăng giáo hoàng là một việc
rất trọng đại. Khi Đức Piô XI đăng quang, Ngài đã can đảm qua hết các lễ nghi rồi,
nhưng đến khi các nghi thức xong xuôi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn
viết của Đức tiên Giáo hoàng, tức Đức Bênêdictô XV, thì tự nhiên một mối lo âu
bao trùm lấy Ngài. Thực sự lúc ấy có biết bao lo lắng đổ trên đầu vị Giáo hoàng
vì Giáo hội bị tấn công mọi mặt. Cuộc đệ nhất thế chiến vừa chấm dứt và cuộc đệ
nhị thế chiến đang âm ỉ, Giáo hội phải trải qua một giai đoạn thử thách gắt
gao.
Nghĩ đến tất cả những chuyện ấy,
Đức Piô tràn ngập lo âu. Lúc ấy Ngài làm công việc duy nhất mà một người lo sợ
có thể làm đó là Ngài qùi xuống, cầu nguyện. Trong khi Ngài cầu nguyện như thế,
tay Ngài đưa ra, chạm phải một chiếc ảnh còn lại trên bàn giấy của Đức
Bênêdictô XV. Ngài cầm mẫu ảnh lên xem và tự nhiên nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn
Ngài tràn ngập bình an. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng.
Những làn sóng lo âu, sợ sệt trong tâm hồn Đức Piô XI êm lặng lại.
Ngài giữ bức ảnh ấy trên bàn giấy
của Ngài luôn. Từ đó về sau, mỗi lần lo âu gì, Ngài chỉ việc nhìn vào bức ảnh để
trên bàn đó và nhớ rằng Chúa Giêsu sẵn sàng phán một lời truyền cho sóng gió phải
yên lặng.
5. Tại
sao thất vọng sợ hãi?
Một sĩ quan công giáo, người Anh
được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu
đến một nơi được chỉ định. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dôi. Một
cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm.
Mọi người trên tầu hết sức sợ
hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời
trách móc chồng đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô
tư chẳng mấy quan tâm. Chính thái độ bình tâm này của chồng mà bà vợ xem như là
một biểu hiệu thiếu lo lắng, thông cảm, yêu thương đối với vợ con nên bà càng tức
giận xỉ vả hơn.
Trước tình thế khó xử đó, khi đã
có đôi lời giãi bầy vắn tắt, viên sĩ quan rời căn phòng một lát rồi quay trở lại
với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và
dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng
cười lớn tiếng không chút gì nao núng cả.
Viên sĩ quan hỏi:
-
Làm sao mình có thể cười khi nhận thấy mũi kiếm sắp đâm vào ngực?
Bà vợ trả lời:
-
Làm sao em lại phải sợ khi biết lưỡi kiếm ấy nằm trong tay một người thương yêu
em.
Bấy giờ viên sĩ quan nghiêm giọng
nói:
- Vậy
tại sao em lại muốn anh sợ hãi cơn bão tố này khi anh biết rằng nó ở trong tay
của Chúa là Đấng luôn luôn yêu thương anh?
6. Họ
nài ép Chúa
Sự kiện này minh chứng cho điều
mà William Barlay gọi là sự tế nhị của Chúa Giêsu. Ngài không áp đặt chúng ta.
Ngài chờ đợi chúng ta một lời mời. Ý chí tự do là món quà tốt nhất và cũng là
nguy hiểm nhất mà chúng ta có được. Chúng ta có thể sử dụng nó để mời Chúa
Giêsu vào đời ta hoặc để Ngài đi qua.
Tôi mời Chúa Giêsu đi vào đời
tôi một cách cụ thể nào đây?
Mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta
(Mt 25,40).
7. Tâm hồn
bừng cháy lên
Trong tang lễ của Đức
Gioan-Phaolô II, nhiều bạn trẻ vừa đi vừa giơ cao hình ngài vừa khóc. Ngay cả
những người vô thần cũng thấy một điều gì đó là linh thiêng trong đời sống hy
sinh tất cả vì yêu của ngài. Trong những lời cuối cùng của Đức Gioan-Phaolô II
được ghi nhận trước khi đi vào hôn mê, ngài cố gắng thốt lên những lời cho các
bạn trẻ đang đứng đợi ở ngoài quảng trường thánh Phêrô: “Các con thân mến, trong mọi hoàn cảnh, Cha luôn luôn cố gắng để có thể
đến gần với các con...”
Một tâm hồn bừng cháy lòng muốn
về ngay Giêrusalem để loan báo Tin Mừng không chỉ gặp thấy nơi hai môn đệ Emau,
mà còn thấy nơi Đức Gioan-Phaolô II, nơi cha M. Kolbe, Mẹ Têrêxa, Đức Cha
Cassaigne v.v…và hết thảy những ai đã gặp Đức Kitô phục sinh.
Tại sao tâm hồn các ngài bừng
cháy lên khi gặp Đức Kitô phục sinh? Vì nơi các ngài, Đức Kitô là tất cả, tình
yêu, lẽ sống, hy vọng, hạnh phúc ...
Tại sao tâm hồn tôi chưa bừng
cháy lên trong tôi?
8. Tìm gặp
Chúa
Có hai chàng thanh niên là anh
em ruột với nhau, nhưng sống rất khô khan nguội lạnh. Vào một buổi sáng, hai cậu
lái xe xuống một dốc núi giữa lúc trời mưa tầm tã. Bỗng hai cậu gặp một cụ già,
người ướt sũng đang khập khiễng bước đi.
Hai cậu bèn dừng xe mời cụ lên.
Thì ra ông cụ đang trên đường đi dự lễ tại một nhà thờ cách đó chừng 5 cây số.
Vì trời còn mưa, nên hai cậu quyết định chờ để chở cụ về nhà. Một phần vì tò mò,
hai cậu đã bước vào trong nhà thờ, thay vì ngồi ở ngoài xe.
Và rồi một sự biến đổi đã xảy
ra. Hai cậu quyết định làm lại cuộc đời và trở nên những con người đạo đức sốt
sắng. Cụ già đã nói với hai cậu không phải bằng lời nhưng bằng một hành vi
gương mẫu. Nhìn thấy cụ đi lễ trong buổi sáng mưa bão, tâm hồn các cậu đã bừng
cháy lên. Và rồi trong lúc bẻ bánh nơi nhà thờ, hai cậu đã khám phá ra Chúa
Giêsu mà hai cậu đã đánh mất.
9. Đồng
hành với nhau và với Chúa
Một bà già người Đức thuật lại
câu truyện mà chính bà là người trong chuyện: Khoảng năm 1942, bà và một số người
Đức bị đưa đi lưu đày xa quê hương. Tất cả là người Công Giáo và cùng lao động
tại một nông trường, nơi ấy không có nhà thờ cũng không có linh mục. Nhưng mỗi
chiều Chúa Nhật, họ được phép tụ họp trong một nghĩa trang để cầu nguyện với
nhau.
Khi biết cách đó một ngàn cây số,
có linh mục thì họ quyết định hàng tháng đóng góp một số tiền để mua vé cho một
bà già đi đến nơi đó mang Mình Thánh Chúa về cho họ chịu. Mỗi Chúa Nhật họ đều
trung thành gặp gỡ nhau, sốt sắng cầu nguyện, suy niệm Lời Chúa, cuối tháng thì
rước Mình Thánh Chúa.
Trong suốt 20 năm dài, cộng đoàn
Kitô hữu đó sống đùm bọc, yêu thương nhau cho đến năm 1962 được trả tự do. Bà
già thuật lại câu chuyện trên chính là người điều khiển cộng đoàn cầu nguyện mỗi
chiều Chúa Nhật. Sau khi kể lại câu chuyện này thì bà thêm: "Mặc dầu được thả về tự do, nhưng chúng
tôi ra về với một niềm lưu luyến sâu đậm và nhớ nhung vô cùng những phút giây
đoàn kết, yêu thương trong tình người và tình Chúa đó."
10. Người
lữ khách.
“Sáng
mai, ta sẽ mổ tim của cháu ra”,
bác sĩ giải phẫu tim nói với em bé trai. Em trả lời, “Ông sẽ tìm thấy Chúa Giêsu ở đó." Bác sĩ ngước mặt lên nhìn,
buồn bã. “Tôi sẽ mổ tim của em ra”, ông
nói tiếp, “để xem xem nó đã bị bệnh
gì."
“Nhưng
khi ông mở tim của cháu ra”, em
bé nói, “ông sẽ tìm thấy Chúa Giêsu ở
đó."
Bác sĩ giải phẫu lại nhìn vào
cha mẹ của em đang ngồi im lặng bên cạnh giường bệnh và nói: “Khi tôi trông thấy trái tim bị bệnh như thế
nào, tôi sẽ khâu trái tim và ngực cháu lại, rồi tôi sẽ dự định phải làm
gì."
Nhưng
ông sẽ tìm thấy Chúa Giêsu đang ở trong trái tim của cháu”, em bé cố nhấn mạnh. “Thánh Kinh nói rằng Người ở đó mà. Tất cả những bài ca Thánh Vịnh đều
nói Người sống ở đó. Ông sẽ tìm thấy Người trong trái tim của cháu."
Bác sĩ cảm thấy đã đủ, bèn lạnh lùng nói: “Ta
sẽ nói cho cháu biết ta sẽ tìm thấy cái gì trong trái tim của cháu. Ta sẽ tìm
thấy cơ bắp nào bị hỏng, làm cho máu chảy chậm và những động mạch nào bị yếu.
Và ta sẽ tìm ra cách để làm cho cháu khỏe lại”,
“Ông
sẽ thấy Chúa Giêsu ở đó”, đứa
bé tiếp tục nói, “Người sống ở đó mà!”
Bác sĩ giải phẫu bỏ phòng bệnh
nhân bước ra đi.
Sau cùng, bác sĩ đã ngồi trong
văn phòng làm việc, ghi lại những chi tiết về cuộc giải phẫu, “Van tim bị hỏng, động mạch phổi bị hỏng, sự
suy thoái của cơ bắp thịt trong tim lan rộng. Thay tim không hy vọng gì, cũng
không mong điều trị được. Phương pháp điều trị: thuốc giảm đau và nghỉ ngơi.
Tiên đoán…” Viết tới đây, ông ngừng lại suy nghĩ, “chết trong vòng một năm."
Ông ngừng bản báo cáo, nhưng cảm
thấy còn có điều gì nữa để nói. Ông hỏi lớn: “Tại sao?” Rõ ràng rằng ông đang nói chuyện với Thiên Chúa. “Tại sao Ngài đã làm như vậy? Ngài đã mang
nó tới đây; Ngài đã đặt nó vào cơn đau đớn này; và chính Ngài đã chúc dữ cho nó
chết sớm. Tại sao?”
Những giọt nước mắt nóng hổi chảy
xuống, nhưng cơn giận của ông còn nóng hơn nữa. “Ngài đã tạo dựng nên em bé, và Ngài đã làm nên trái tim đó. Nó sẽ chết
trong vòng vài tháng nữa. Tại sao?”
Cuộc đối thoại giữa ông bác sĩ
giải phẫu và Thiên Chúa đã bắt đầu. Trong cuộc đối thoại đó, ông bác sĩ tuyệt vọng
này đã khám phá ra sự hiểu biết mới về tình yêu và sự quan phòng của Thiên
Chúa. Rồi ông khóc.
Bây giờ ông đang ngồi bên cạnh
giường bệnh của em bé trai; cha mẹ của em ngồi đối diện với ông. Bỗng chú bé thức
dậy thì thầm, “Ông đã mổ trái tim của
cháu ra chưa?” “Rồi”, Bác sĩ trả lời. “Ông
đã tìm thấy cái gì?” em bé hỏi. “Tôi
đã tìm thấy Chúa Giêsu ở đó." Bác sĩ thành thật trả lời.
Trong cuộc hành trình trên trần
gian, Thiên Chúa luôn hiện diện để đồng hành với con người, nhưng nhiều khi con
người không nhận ra Ngài.
11. Thợ
cắt tóc
Karl Barth, một trong những nhà
thần học Tin lành nổi tiếng nhất của thế kỷ 20, một ngày nọ đang ngồi trên xe
điện ở Basel, Thụy Sĩ, nơi ông sống và thuyết trình. Một du khách đến thành phố
leo lên xe điện và ngồi xuống cạnh Barth.
Hai người đàn ông bắt đầu trò
chuyện với nhau. Barth hỏi: “Bạn mới đến
thành phố à?” Khách du lịch nói: “Vâng."
Barth hỏi: “Có điều gì bạn đặc biệt muốn
biết ở thành phố này không?” “Vâng,” anh ấy nói, “Tôi rất muốn gặp nhà thần học nổi tiếng Karl Barth. Bạn có biết ông ta
không?”
Barth trả lời: “Thực tế là tôi có biết. Tôi cạo râu cho ông
ấy mỗi sáng.” Du khách xuống xe điện khá vui mừng. Anh ta trở về khách sạn
và tự nhủ: “Hôm nay mình đã gặp thợ cắt
tóc của Karl Barth.”
* Điều đó làm tôi thích thú. Vị
khách du lịch đó đã đứng trước mặt chính người mà anh ta muốn gặp nhất, nhưng
ngay cả khi có manh mối rõ ràng nhất, anh ta lại không bao giờ nhận ra rằng người
đàn ông mà anh ta đang nói chuyện chính là người đàn ông vĩ đại đó. Nó làm tôi
nhớ đến phản ứng của Maria vào buổi sáng Phục Sinh. Trong cơn đau buồn, cô ấy
nghĩ người đàn ông mà cô đang nói chuyện là người làm vườn. Tất nhiên là không.
Nhưng phải cho đến khi Người gọi tên cô, cô mới nhận ra rằng mình đã nói chuyện
với Chúa Phục Sinh. Và, dĩ nhiên, nó làm tôi nhớ đến cảnh tượng trên đường
Emmaus, hai môn đệ đi bộ một lúc với Chúa Phục Sinh, và họ cũng không biết mình
đang trò chuyện với ai. (Rev. King Duncan, Collected Sermons, www.Sermons.com.
Được trích dẫn bởi cha Tony Kayala)
12. Ăn
trưa với Chúa
Một cậu bé đi bộ qua công viên về
nhà sau khi dự lớp học giáo lý ngày Chúa nhật. Cậu không thể ngừng suy nghĩ về
bài học ngày hôm đó về lời dạy của Chúa Giêsu về Ngày Phán Xét Cuối Cùng. Điều
khiến cậu ấn tượng nhất là điều mà giáo lý viên nói: “Khi bạn cho người khác một thứ gì đó là bạn đang thực sự cho Chúa
Giêsu, và bạn sẽ tìm thấy Chúa Giêsu phục sinh trong mọi người bạn gặp.”
Khi tiếp tục đi qua công viên, cậu
để ý thấy một bà lão đang ngồi trên băng ghế. Bà ấy trông cô đơn và đói khát.
Vì vậy, cậu ngồi xuống cạnh bà, lấy một thanh sô-cô-la mà cậu đã để dành và đưa
cho bà một ít. Bà đón nhận với một nụ cười tươi tỉnh, và cậu nhìn bà cười khi
bà nhai sô-cô-la. Rồi họ ngồi bên nhau trong im lặng, chỉ mỉm cười với nhau. Cuối
cùng, cậu bé đứng dậy ra về. Khi bắt đầu bước đi, cậu quay lại, chạy trở lại
băng ghế và ôm chặt lấy người phụ nữ.
Khi cậu về đến nhà, mẹ cậu nhìn
thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt cậu và hỏi: “Hôm nay điều gì làm con vui thế?” Cậu ấy nói: “Con đã chia sẻ thanh sô-cô-la của mình với Chúa Giêsu.” Trước khi
mẹ cậu kịp hỏi thêm, cậu nói: “Mẹ biết
không, bà ấy có nụ cười đẹp nhất thế giới.” Trong khi đó, bà lão trở về căn
hộ nhỏ nơi bà sống với em gái. Em gái bà hỏi: “Lại cứ cười! Hôm nay điều gì làm chị vui thế?” Bà ấy trả lời: “Chị ngồi trong công viên và ăn một thanh
sô-cô-la với Chúa Giêsu. Và, em biết đấy, Ngài trông trẻ hơn chị tưởng rất nhiều.”
* Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng
ta biết rằng chúng ta sẽ gặp gỡ và cảm nghiệm Chúa Giêsu phục sinh ở những nơi
và những con người không ngờ tới.
13. Có
phải là Chúa Giêsu
Vài năm trước, một nhóm nhân
viên bán máy tính từ Milwaukee đã tham gia một hội nghị bán hàng ở Chicago. Họ
đã hứa với vợ rằng họ sẽ về nhà đúng giờ để ăn tối. Nhưng cuộc họp kéo dài quá
giờ, và những người này phải chạy lao đến nhà ga tay cầm sẵn vé. Khi họ đi qua
nhà ga, một người trong nhóm đã vô tình đá phải chiếc bàn đặt một giỏ táo.
Không dừng lại, tất cả đã đến tàu và lên tàu với những tiếng thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng một người trong số họ dừng
lại, cảm thấy hối hận cho cậu bé bị đổ giỏ táo. Ông vẫy tay tạm biệt những người
bạn đồng hành của mình và quay trở lại với cậu bé. Ông bỗng nhận ra cậu bé mười
tuổi bị mù. Người đàn ông nhặt những quả táo lên và nhận thấy rằng một số quả bị
thâm tím. Ông thò tay vào ví và nói với cậu bé: “Đây, làm ơn cầm lấy tờ 10 đôla này cho những thiệt hại mà chúng tôi đã
gây ra. Tôi hy vọng nó sẽ không làm hỏng ngày của cậu. Khi ông bắt đầu bỏ
đi, cậu bé ngơ ngác gọi theo: “Ông có phải
là Chúa Giêsu không?”
* Chúa Giêsu đến với chúng ta dưới
nhiều hình dạng khác nhau.
14. Luôn
tin tưởng
Alexander I. Solzhenitsyn đã chứng
tỏ sức mạnh của Lời Chúa trong cuốn sách của mình, One Day in the Life of Ivan
Denisovich (Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denisovich), một cuốn sách dựa
trên những trải nghiệm trong tù của chính ông.
Ivan nhận thấy rằng một trong những
bạn tù của anh ta ở Quần đảo Gulag không bị suy sụp, và ánh sáng hi vọng trong
mắt anh ta không suy giảm như ở tất cả những người bị kết án khác. Điều này là
do mỗi đêm trong cái chõng của mình trước khi tắt bóng đèn tù mù, người đàn ông
này cung kính mở ra một số mảnh giấy nhàu nát, mà bằng cách nào đó đã thoát khỏi
sự kiểm duyệt gắt gao. Trên đó là những đoạn được sao chép từ Phúc Âm. Cuốn
Sách Sự Sống này là bí mật về sức mạnh và sự bền bỉ của người đàn ông này,
trong góc tối nhất sau Bức màn sắt.
* Đó là một cách chúng ta gặp gỡ
Chúa Kitô phục sinh – trong việc “Bẻ Bánh Sự Sống” là Lời Chúa.
15. Chỉ
đường
Có một câu chuyện kỳ lạ về một
du khách nọ, một hôm đang đi trên đường thì một người đàn ông cưỡi ngựa chạy vụt
qua. Trong mắt người này có một cái nhìn gian ác và có vệt máu trên tay anh.
Vài phút sau, một đám đông những
người cưỡi ngựa kéo đến và muốn biết liệu người du khách có nhìn thấy ai đó với
bàn tay vấy máu đi ngang qua hay không. Họ đang ráo riết truy đuổi anh ta.
Du khách hỏi: “Anh ấy là ai?” Thủ lĩnh đám đông nói: “Một kẻ làm ác.” Người du khách hỏi: “Và chắc các bạn đuổi theo anh ta để đưa anh
ta ra trước công lý phải không?”
“Không,” người lãnh đạo nói, “chúng tôi đuổi theo anh ta để chỉ đường cho anh ta.” [Cha Anthony
de Mello, Taking Flight (New York: Bantam Doubleday Dell Publishing Group,
Inc., 1990), tr. 65.]
* Bức tranh mà chúng ta có trong
Tân Ước là về một Thiên Chúa theo đuổi chúng ta để có thể chỉ đường cho chúng
ta. Chúa Kitô đến với hai môn đệ. Họ không nhận ra Người, nhưng chính Chúa
Giêsu là người chủ động. Người đồng hành với họ và giải thích Kinh Thánh cho họ.
16. Lấy
lại tự tin
Có một câu chuyện về một người
lính Anh trong Thế chiến thứ nhất đã mất tinh thần vì trận chiến dai dẳng và
anh đã đào ngũ. Anh cố gắng đến bờ biển để đi thuyền về nước Anh vào đêm đó,
nhưng cuối cùng anh lại lang thang trong đêm tối như mực, lạc lối một cách vô vọng.
Trong bóng tối, anh bắt gặp thứ
mà anh nghĩ là một biển chỉ đường. Trời tối đến nỗi anh phải trèo lên cột để có
thể đọc nó. Khi lên đến đỉnh cột, anh đánh một que diêm để xem và thấy mình
đang nhìn thẳng vào mặt Chúa Giêsu. Anh ta nhận ra rằng, thay vì leo lên biển
chỉ đường, anh đã trèo lên một cây thánh giá bên đường. Rồi anh nhớ đến Đấng đã
chết vì anh. . . người đã chịu đau khổ. . . người đã không bao giờ thoái lui.
Sáng hôm sau, người lính trở lại
chiến hào. [“To Illustrate,” Preaching Magazine, (tháng 1-tháng 2 năm 1989).]
* Có lẽ đó là điều bạn và tôi cần
làm trong những khoảnh khắc đau khổ và tăm tối – đánh một que diêm trong bóng tối
và nhìn lên khuôn mặt của Chúa Giêsu. Người đến với chúng ta như Người đã đến với
hai môn đệ trên đường Emmaus, cho dù chúng ta có thể không nhận ra Người.
17. Chữa
bệnh
Ông nội của triết gia người Do
Thái Martin Buber bị què. Một ngày nọ, người ta yêu cầu ông kể một câu chuyện về
thầy của mình. Và ông bắt đầu kể lại việc thầy của ông thường nhảy và múa trong
khi cầu nguyện như thế nào.
Ông già vừa nói vừa đứng dậy và
bị cuốn hút bởi câu chuyện của mình đến nỗi bản thân ông cũng bắt đầu nhảy và
múa để diễn tả ông thầy của mình đã làm điều đó thế nào. Kể từ lúc đó, ông đã
được chữa khỏi bệnh tật của mình.
* Khi kể câu chuyện về Chúa
Kitô, chúng ta đạt được hai điều. Chúng ta giúp người khác cảm nghiệm Người, và
chính chúng ta cũng trải nghiệm quyền năng của Người nhiều hơn nữa. Chúng ta có
thể thấy điều đó xảy ra trong Tin Mừng hôm nay.
18. Bản
danh sách
Trong bộ phim đoạt giải Oscar
năm 1993, Schindler’s List (Bản danh sách của Schindler) đứng đầu. Oskar
Schindler là một doanh nhân ích kỷ, giữa Thế chiến II, đã biến nhà máy sinh lời
của mình thành một vỏ bọc nhà xưởng làm ăn thua lỗ để cứu người Do Thái khỏi
phòng hơi ngạt.
Cuối phim, khi chiến tranh kết
thúc, Schindler đứng cùng chung với những người mà ông đã cứu. Ông nhìn quanh
các khuôn mặt của họ và sau đó ông bắt đầu suy sụp. Ông giơ chiếc đồng hồ lên
và nói rằng nếu ông bán nó đi thì ông đã có thể cứu được năm người khác. Ông
cũng làm như vậy với các khuy áo măng sét của mình.
Sau đó, ông bắt đầu liệt kê tất
cả những cách mà ông có thể đã cứu được nhiều người hơn nếu ông bớt lười biếng
hơn và bớt tự cho mình là trung tâm sớm hơn một chút. Ông đã nhận ra sứ mệnh của
mình, nhưng ông tiếc rằng mình đã không thực hiện đầy đủ hơn.
* Chúng ta cũng mang một sứ mệnh.
Chúng ta đang trên một hành trình đầy ý nghĩa, một cuộc hành hương, hành trình
Emmaus của chúng ta. Chúa Kitô không muốn chúng ta phải hối tiếc, nên hôm nay
Người nhắc nhở chúng ta điều này một lần nữa. (E-Priest).
19. Nghi
thức giải tán
Một giáo lý viên nọ giảng cho
thiếu nhi của mình về Bí tích Thánh Thể. Cô hỏi các thiếu nhi, theo ý kiến của
các em, đâu là phần quan trọng nhất của Thánh lễ. Không chớp mắt, một cậu thiếu
nhi trả lời: “Lễ xong! Chúc anh chị em đi
bình an!” Ban đầu, giáo lý viên nghĩ rằng cậu bé nói đùa, nhưng cậu ấy hoàn
toàn nghiêm túc và muốn nói những gì cậu ấy nói. Vì vậy, giáo lý viên đã yêu cầu
cậu giải thích, và đây là câu trả lời của cậu ấy:
“Toàn
bộ mục đích của Thánh lễ là nuôi dưỡng chúng ta về mặt thiêng liêng – trước hết,
bằng Lời Chúa trong Phụng vụ Lời Chúa; và thứ hai, bằng Sự sống của Chúa trong
Phụng vụ Thánh Thể, đỉnh cao là Rước Lễ. Và Thiên Chúa nuôi dưỡng chúng ta để
chúng ta có thể ra đi làm chứng cho Người bằng đời sống, lời nói và việc làm của
chúng ta.” Giáo lý viên rất ấn tượng và khuyến khích cậu thiếu nhi tiếp tục. Và
vì thế cô nói thêm: “Thánh lễ không kết thúc với Nghi thức Giải tán. Ngược lại,
nó bắt đầu từ đó. Giống như hai môn đệ Emmaus, chúng ta phải ra đi và nói cho
người khác biết ý nghĩa của Chúa Giêsu đối với chúng ta.” (James Valladares in Your Words, O Lord, Are
Spirit, and They Are Life; do cha Botelho trích dẫn).
20. Cùng
với Chúa phục sinh
Trong chuyến đi tàu đầu tiên, một
bé gái được mẹ đặt ở giường ngủ phía trên. Người mẹ trấn an cô ấy rằng Chúa
Giêsu sẽ trông chừng cô suốt đêm. Khi đèn tắt, cô gái trở nên hoảng hốt và gọi
nhỏ: “Mẹ ơi, mẹ có ở đó không?”
“Có
con yêu,” mẹ
cô trả lời. Một lát sau, đứa trẻ gọi to hơn: “Bố ơi, bố cũng ở đó à?”
“Có”, là câu trả lời. Sau khi điều này được lặp đi lặp lại
nhiều lần, một trong những hành khách khó chịu và mất kiên nhẫn và nói to: “Tất cả chúng tôi đều ở đây. Cha của cháu, mẹ
của cháu, anh chị em của cháu và anh em họ của cháu, chú thím của cháu – tất cả
đều ở đây. Bây giờ thì ngủ đi!” Có sự im lặng trong một lúc.
Sau đó, bằng một giọng thì thầm,
đứa trẻ hỏi: “Mẹ ơi, có phải Chúa Giêsu
phục sinh đang đi cùng chúng ta không?”
21. Chúa
ở đâu
Một cặp vợ chồng nọ có hai đứa
con trai, 8 tuổi và 10 tuổi, chúng rất nghịch ngợm. Chúng luôn gây ra rắc rối
và cha mẹ chúng biết rằng nếu có bất kỳ trò nghịch ngợm nào xảy ra trong khu phố
của họ, con của họ có liên lụy.
Mẹ của các cậu bé nghe nói rằng
một linh mục ở giáo xứ trung tâm thành phố đã thành công trong việc kỷ luật trẻ
em, vì vậy bà đã hỏi liệu ngài có thể nói chuyện với các cậu con của bà không.
Vị linh mục đồng ý nhưng yêu cầu gặp riêng từng đứa. Vì vậy, người mẹ đã cho đứa
con 8 tuổi của mình gặp trước vào buổi sáng, và ấn định cuộc hẹn cho cậu bé lớn
hơn vào buổi chiều.
Vị linh mục, một người to lớn với
giọng nói oang oang, đặt cậu bé ngồi xuống và hỏi cậu một cách nghiêm nghị: “Chúa ở đâu?” một câu hỏi giáo lý căn bản.
Cậu bé há hốc miệng và không đáp lại. Vì vậy, vị linh mục lặp lại câu hỏi với
giọng nghiêm khắc hơn: “Chúa ở đâu!!?”
Một lần nữa, cậu bé không cố gắng trả lời. Vì vậy, cha càng cao giọng hơn và hất
ngón tay vào mặt cậu bé và hỏi to: “THIÊN
CHÚA ĐANG Ở ĐÂU!?” Cậu bé hét lên hoảng hốt chạy thẳng về nhà và lao vào tủ
quần áo của mình, đóng sầm cửa lại sau lưng. Khi anh cậu tìm thấy cậu trong tủ
quần áo, anh ấy hỏi: “Chuyện gì đã xảy ra
vậy?” Người em thở hổn hển trả lời: “Lần
này chúng ta gặp rắc rối LỚN rồi, Dave. Chúa đang mất tích – và họ nghĩ CHÚNG
TA đã làm điều đó!
22. Bức
họa của Rembrandt
Trong các tác phẩm của danh họa
Rembrandt, có một bức rất ấn tượng vẽ cảnh Đức Giêsu đang ngồi cùng bàn với hai
môn đệ Emmau. Điều gây ấn tượng là vẻ mặt sung sướng vô ngần của hai môn đệ lúc
họ nhận ra Chúa. Bức họa nổi tiếng này được đặt trong một nhà bảo tàng, và có một
chuyên viên phụ trách giải thích ý nghĩa của nó cho các khách tham quan.
Lần kia một cặp vợ chồng vừa có
đứa con duy nhất bị chết vì tai nạn. Họ buồn quá không biết làm gì nên cùng
nhau đến nhà bảo tàng ấy để giải khuây. Họ cũng được người hướng dẫn ấy dẫn đến
bức họa này. Ban đầu, hai vợ chồng chẳng buồn để ý tới những lời giải thích.
Nhưng dần dần họ bị cuốn hút vào. Và cuối cùng, khi người hướng dẫn dứt lời thì
họ tâm sự với người hướng dẫn: "Chúng
tôi đã nghe nói về bức họa này nhiều lần, nhưng chưa lần nào chúng tôi được
nghe người nào trình bày một cách hấp dẫn như ông. Chúng tôi thực sự xúc động."
Người hướng dẫn đáp: "Thực ra, không phải lần nào tôi cũng
trình bày một cách xác tín như vậy đâu. Có lần tôi đã nói một cách rất hời hợt
qua loa."
Rồi ông ta kể: "Ba năm trước, vợ tôi bị ung thư, sức
khoẻ cạn kiệt dần, rồi nàng chết một cách hết sức đau đớn. Tôi không thể nào chấp
nhận nỗi các chết này, vì nàng là một người rất tốt, không đáng bị chết như thế.
Tôi tưởng như cả thế giới sụp đổ. Tim tôi như vỡ tan. Nhưng vì bổn phận, tôi vẫn
phải đến làm việc ở nhà bảo tàng này. Tôi giải thích ý nghĩa các bức họa một
cách hết sức máy móc, vô hồn.
"Thế
rồi một hôm, tôi chợt hiểu ra rằng bức họa này không chỉ liên can đến hai người
môn đệ tuyệt vọng này, mà cả đến tôi nữa. Cũng như hai ông ấy,
tôi đã tuyệt vọng và trở thành một người
lữ hành cô đơn. Dù tôi là một người tín hữu, nhưng đối với tôi Đức Giêsu chỉ là
một nhân vật mờ mịt trong những trang sách Tin Mừng. Tuy nhiên hôm đó tôi cảm
thấy Ngài đang hiện diện thực sự bên cạnh tôi, Ngài ở bên tôi như một người bạn
hiểu rất rõ mọi nỗi khổ đau của loài người. Từ lúc đó "mắt tôi mở ra, lòng
tôi cháy bừng lên" như hai môn đệ ấy. Tôi đã tìm lại được hy vọng và lẽ sống
cho đời mình. Bởi vậy từ đó trở đi, mỗi khi tôi kể câu chuyện Emmau là tôi kể về
chính cảm nghiệm của mình."
Cặp vợ chồng không cầm được nước
mắt: "Chúng tôi cũng thế. Chúng tôi
đã ‘mở mắt ra và thấy lòng mình cháy bừng lên’. Hôm nay chúng tôi cũng tìm lại
được hy vọng và lẽ sống cho đời mình, vì biết rằng Đức Giêsu phục sinh đang thực
sự ở bên cạnh chúng tôi." (Flor McCarthy)
23.
Thiên Chúa thật gần gũi
Loew là một phu khuân vác ở bến
tàu. Anh là đảng viên của đảng Lao động Thụy Sĩ. Bỗng một hôm Loew nảy ra ý định
thử đi tìm hiểu điều mà người công giáo hằng tin tưởng, có một Thiên Chúa thật
không?
Anh đến một dòng khổ tu và nói
thật ý định của mình với cha Bề trên. Cha không nói với anh điều gì ngoài những
lời:
-
Anh đã đi đúng đường rồi đó. Anh hãy tiếp tục đi đi, hãy coi tu viện này là nhà
của anh.
Rồi cha Bề trên giơ tay chỉ nhà
nguyện, nói:
-
Đây là nhà nguyện đang dâng lễ.
Loew vào, anh quì xuống như bao
kẻ khác. Rồi anh cứ qùi mãi trong khi những người khác đã thay đổi thế quì, đứng,
ngồi. Đến lúc đã mỏi gối. Loew ngồi lên thì mọi người lại quì rụp xuống vì lúc
đó là lúc dâng Mình Máu Thánh Chúa.
Rồi đến khi rước lễ, mọi người
lên rước lễ, chỉ mình Loew ngồi đó, thật chẳng giống ai, Loew nghĩ thầm.
Nhìn những người rước lễ đi xuống,
Loew nhận ra những khuôn mặt: học thức, địa vị, bình dân... Loew tự hỏi: sao những
kẻ này mê tín, dị đoan quá thế? Ăn miếng bánh nhỏ bằng đồng xu thế kia để làm
gì, họ có điên không nhỉ?
Nhưng ý tưởng trên của Loew đã bị
một tư tưởng khác tấn công: không lẽ những người có học thức, có địa vị xã hội
hơn tôi mà họ lại điên, còn tôi thì ngược lại, khôn hơn sao? Hay là tôi điên?
Thế rồi, Loew tìm hiểu phép
Thánh Thể với cha bề trên. Thời gian sau, Loew tâm sự:
"Bây
giờ, tôi có thể nói như hai môn đệ Emmaus: Tôi nhận ra Ngài, lúc Ngài bẻ
bánh." Chính lúc bẻ bánh chúng tôi mới nhận ra
chúng ta là anh chị em trong Đức Kitô. Có những người mà trước đó gặp ngoài đường,
chúng ta dửng dưng như người xa lạ, nhưng trên bàn tiệc thánh, chúng ta thấy gần
gũi với nhau. Tôi gặp Chúa Kitô nơi họ, cũng như họ gặp Chúa Kitô nơi tôi. Bởi
chúng tôi cùng tin Phúc Âm, cùng lãnh nhận một của ăn là Mình và Máu thánh Chúa
Kitô."
CNPS 3B - Chứng nhân về Chúa Giêsu Phục sinh
Lời Chúa: Lc 24, 35-48
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Luca.
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các
việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi
người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán:
"Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ.”
Nhưng mọi người bối rối tưởng
mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ
như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương
thịt như các con thấy Thầy có đây.”
Nói xong, Người đưa tay chân cho
họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây
các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật
ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ.
Đoạn Người phán: "Đúng như
lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm
hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh.”
Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép
rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống
lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn
tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm
chứng nhân về những điều ấy.”
TRUYỆN KỂ
1. Hạ xuống để nâng lên
Trước
khi dâng mình cho Chúa, Thánh An-phong là một luật sư lỗi lạc. Ngài rất nổi
danh vì tài hùng biện và vì lý luận đanh thép sắc ben. Nhờ tài ba, ngài đã
thành công trong rất nhiều vụ án hiểm hóc. Nhưng một hôm, Chúa đã để cho ngài
phải thất bại. Trong một vụ án mà ngài thấy là đơn giản, dễ dàng, ngài đã bị
thua một cách thảm hại. Trước thất bai cay đắng đó, ngài thấy như cả bầu trời sụp
đổ. Danh tiếng phút chốc tan như mây bay. Uy tín bị cuốn đi trong làn gió thoảng.
Cả một màn đen tối u ám phủ xuống cuộc đời.
Chẳng
còn biết tìm an ủi ở nơi nào khác, thánh An-phong quay về bên Chúa, chìm đắm
trong lời kinh cầu nguyện. Nhờ ơn Chúa, ngài tìm được niềm bình an. Hơn thế nữa,
ngài nghe được tiếng Chúa mời gọi đi vào con đường Chúa muốn. Từ đó, ngài hiến
thân trọn vẹn để phục vụ Chúa, ngài đã trở thành linh mục, giám mục và lập ra
Dòng Chúa Cứu Thế. Sau này, khi nhìn lại, ngài hiểu rằng chính Chúa đã hiện diện
trong những thất bại để đưa ngài về con đường theo ý Chúa. Chính Chúa đã dùng
những đau kho để huấn luyện ngài trong đức khiêm nhường phó thác. Chính bàn tay
Chúa đã hạ ngài xuống trong danh vọng trần thế để nâng ngài lên trong vinh
quang Nước Trời.
2. Làm chứng bằng đời sống.
Cách
đây ít lâu, trong một cuộc hội thảo của giới trẻ về đề tài” Truyền giáo năm
2000”, nhiều bạn trẻ đề nghị phải xử dụng tối đa các phương tiện truyền thông
tân tiến trong những năm cuối cùng của thế kỷ 20, gồm sách vở báo chí, phim ảnh
có phẩm chất và hấp dẫn, để rao giảng Tin Mừng cho mọi tầng lớp và mọi lứa tuổi.
Một số bạn trẻ khác nhấn mạnh đến công tác xã hội và bác ái. Một số bạn trẻ
khác đi xa hơn bằng cách đề nghị Giáo hội chống lại những bất công xã hội, những
chà đạp quyền con người, để xây dựng công lý và hoà hợp.
Trong
lúc mọi người đang hăng hái đưa ra những chương trình to lớn và đề nghị những
hoạt động vĩ đại, thì một thiếu nữ da mầu giơ tay xin phát biểu:”Tại Phi châu
nghèo nàn và chậm tiến của chúng tôi, chúng tôi không gửi, hay đúng hơn không
có khả năng gửi đến những làng chúng tôi muốn truyền giáo những sách vở, báo
chí, phim ảnh, chúng tôi chỉ gửi đến đó một gia đình công giáo tốt, để dân làng
thấy thế nào là đời sống Kitô giáo. (R.D. Wahrheit, Ánh sáng hy vọng, tr 208)
3. Gương lành lôi kéo.
Một
nhà truyền giáo Ấn độ, ông Gordon M. Suer đã xin một tín đồ Ấn độ giáo sống bên
cạnh, để nuôi dạy ông học tiếng bản xứ, nhưng tín đồ Ấn độ giáo này từ chối như
sau:
-
Thưa ngài, tôi không đến dạy tiếng bản xứ cho ngài, vì tôi không muốn trở nên
người Kitô hữu.
Nhà
truyền giáo trả lời:
-
Tôi muốn học tiếng bản xứ để có thể giao thiệp với những người chung quanh, để
hiểu biết họ hơn chứ không nhằm bắt họ phải trở lại đạo Chúa.
Nhưng
người tín đồ Ấn giáo đáp lại:
-
Thưa ngài, tôi biết vậy nhưng đối với tôi, tôi nhận thấy rằng: không ai có thể
sống bên cạnh ngài lâu, mà không bị ngài cảm hóa tin theo Chúa. Tôi không thể dạy
ngài, vì tôi không thể sống bên cạnh ngài mà không trở thành người Kitô hữu.
4. Cuộc sống mới của các môn đệ
Có
thể nói sau khi Đức Giêsu chết thì các môn đệ cũng chết luôn, chết về mặt tinh
thần và về luân lý: nhóm 12 đã rã rời, vì Giuđa đã tự vẫn, Tôma đã bỏ đi do khủng
hoảng đức tin, những người còn lại thì co cụm với nhau trong căn phòng đóng kín
cửa, lòng họ đầy sợ hãi, nghi ngờ, mặc cảm tội lỗi, buồn phiền và thất vọng.
Nhưng
ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu phục sinh cũng làm cho họ sống lại: Ngài chủ động
đến với họ chứ không chờ họ đi tìm Ngài, Ngài không nói một lời trách móc nhưng
lại chúc bình an, Ngài ăn uống với họ để họ tin chắc Ngài vẫn sống, Ngài mở trí
cho các ông hiểu ý nghĩa Thánh Kinh, Ngài lại còn sai họ ra đi rao giảng cho
muôn dân. Tất cả những việc làm tế nhị và yêu thương ấy đã giúp cho các môn đệ
-
không còn sợ hãi
-
không còn nghi ngờ
-
không còn mặc cảm tội lỗi
-
không còn buồn phiền
-
không còn thất vọng
Con
người cũ của các ông không còn, các ông như được sống lại trong con người mới,
sẵn sàng ra đi khắp nơi loan báo Tin Mừng phục sinh cho mọi người.
5. "Hãy nhìn chân tay Thầy"
Một
người con kia rất yêu thương cha mình. Người cha là một nông dân, suốt đời cần
cù lao động để nuôi sống gia đình. Khi người cha chết đi, lòng người con rất buồn
rầu. Anh cứ đứng gần thi thể của cha mà nhìn, nhất là nhìn đôi bàn tay của cha.
Anh nói: "Nhìn đôi bàn tay sần sùi chai sạm ấy, tôi nhớ lại tất cả những cực
nhọc khổ sở mà cha tôi đã chịu vì yêu thương tôi"
Khi
hiện đến với các môn đệ, Đức Giêsu cũng bảo họ hãy nhìn chân tay Ngài, những
chân tay không phải chai sạm mà đầy những thương tích. Nhìn không phải chỉ để
xác nhận Đức Giêsu hôm nay cũng chính là Đức Giêsu hôm qua bị đóng đinh, mà còn
để nhận ra tình thương bao la vô bờ bến của Ngài: "Không có tình thương
nào lớn hơn tình của người thí mạng sống cho người mình thương.”
Khi
hiện ra với Tôma, Đức Giêsu cũng bảo ông hãy chạm đến các vết thương của Ngài,
rồi Ngài nói: "Đừng hồ nghi nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20, 28). Tin gì?
Khong chỉ tin là Ngài đã sống lại, mà còn tin vào tình thương của Ngài.
6. Đời sống chứng nhân
Albert
Schweitzer là mot cậu bé rất thông minh, lại say mê âm nhạc. Khi trưởng thành cậu
chơi đàn Organ, và cuối cùng đã trở thành Tiến sĩ âm nhạc. Sau đó, Albert
nghiên cứu các chủ đề về tôn giáo, và đã đậu Tiến Sĩ Triết Học. Ông làm Hiệu
Trưởng trường Đại Học.
Như
thể học chưa đủ, ông từ chức Hiệu trưởng để theo ngành y khoa, 7 năm sau, trở
thành bác sĩ với bằng Tiến sĩ Y Khoa. Với 3 bằng cấp Tiến sĩ, Albert Schweitzer
dễ dàng trở thành một người giàu có, và nổi tiếng.
Thế
nhưng, tiến sĩ Albert Schweitzer lại cùng với người vợ bán tất cả gia tài, sang
tận Châu Phi thiết lập một bệnh viện ở Lambarene. Ông cứu giúp hàng ngàn người
phong cùi và những người mắc bệnh buồn ngủ.
Ông
huấn luyện y tá và điều dưỡng để phụ giúp ông. Khi hết tiền mua thuốc, ông trở
về Âu Châu, trình diễn âm nhạc trong thành phố lớn, lấy tiền vé vào cửa để trả
tiền mua thuốc cho bệnh viện của ông ở Lambarene. Ông tin rằng những người
nghèo ở Châu Phi đều là những thành viên trong gia đình Thiên Chúa. Ông được giải
thưởng Nobel Hòa Bình năm 1953.
Sau
khi dâng hiến cả cuộc đời cho người Châu Phi nghèo khổ, nhà truyền giáo đã đi về
nhà Cha năm 1965 lúc 90 tuổi.
7. Chứng nhân cho niềm vui
Chúng
ta hãy là chứng nhân của niềm vui. Nếu các môn đệ buồn phiền vì Thầy đã chịu khổ
hình, thì các ông lại vui mừng biết bao khi nghe tin Thầy sống lại. Nếu các môn
đệ lo âu vì sợ người ta đã giết Thầy sẽ bắt luôn cả trò, thì các ông lại trọn
niềm hân hoan khi thấy Thầy sống lại ra khỏi mồ. Nếu chúng ta thực sự ra khỏi nỗi
âu lo về mình, chúng ta sẽ tràn đầy niềm vui. Nếu chúng ta mang lại nụ cười cho
những người bất hạnh, chúng ta đang công bố tin vui Phục sinh.
Đức
Hồng Y Danielou có nói: "Chúng ta hãy tự khai mở niềm hy vọng của người bất
hạnh, cho dù điều đó đe dọa đến của cải chúng ta.”
Cha
Charles de Foucauld quả quyết: "Chỉ có một số người có khả năng làm chứng
bằng lời nói, nhưng mọi người đều có thể làm chứng bằng đời sống lương thiện,
gương mẫu, và bằng đời sống Kitô hữu sinh động.”
Trong
nghi thức rửa tội của Giáo hội Ấn Độ, người chịu phép Rửa tội đặt tay lên đầu
và nói: "Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin mừng" (1Cr. 9,
16).
Vậy
lời rao giảng Tin mừng sinh động nhất, hữu hiệu nhất và cao đẹp nhất chính là một
cuộc đời quên mình phục vụ như nhà truyền giáo Albert Shweitzer đã làm cho những
người phong cùi Châu Phi.
8. Bác tài xế tắc xi làm chứng cho Chúa:
Một
vị linh mục sau chuyến du lịch Đài Bắc trở về đã thuật lại một
cách truyền giáo của một bác tài xế xe tắc-xi tại đây như sau:
"Ngày
nọ, tôi đón tắc-xi từ khách sạn đi sang trung tâm thành phố Đài Bắc
mua quà lưu niệm. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong xe có dán một tờ
giấy ghi mấy dòng chữ như sau: "Bạn có thể thấy một vài quyển
sách về tôn giáo ở hộc bên hông xe. Trong khi xe đang chạy, bạn có thể
đọc sách và nếu thích, bạn có thể mang sách theo khi rời khỏi xe mà
không phải trả tiền mua sách.” Tôi tò mò tìm hộc sách và thấy một
chục cuốn sách mỏng bằng tranh, nội dung về cuộc đời Đức Giê-su in
trên giấy trắng khá đẹp, một ít sách truyện tranh các thánh và các
danh nhân tôn giáo, một ít cuốn là những mẩu chuyện sống đức tin giữa
đời thường... Ngoài ra, phía trên kính chiếu hậu trước mặt tài xế
cũng có treo một ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp nhỏ. Tôi mở lời hỏi bác
tài xế:
-
Này bác tài, xin vui lòng cho biết: Hành khách đi xe của bác có ai quan
tâm đến hộc sách đạo của bác không?
-
Ồ, có chứ! Có nhiều người đã lấy ra xem, và có người còm cầm theo
mang về nhà nữa.
Tôi
hỏi tiếp:
-
Bác có cảm tưởng gì khi thấy người ta đọc sách đạo do bác giới
thiệu?
-
Tôi cảm thấy rất vui anh à! Anh biết không: tôi là người tín hữu công giáo
nhưng không có nhiều giờ để đi lễ nhà thờ. Vì tôi phải luôn chạy xe
kiếm sống. Do đó, đây là cách làm công tác tông đồ của tôi. Tôi rất
mừng vì đã có thể làm được hai việc một lúc: Vừa lái xe nuôi gia đình
lại vừa rao giảng Tin Mừng mà không bị mất thêm thời giờ. Tôi nghĩ
rằng tôi đang làm một việc thật tuyệt vời!
9. Không sợ khi có cha
Có
một cậu bé 5 tuổi vừa thức giấc trong một đêm giông tố bão bùng. Cậu mở mắt, thấy
cảnh vật tối tăm. Ngoài trời giông tố, sấm chớp rợn rùng. Từng đợt gió rít lên
tạo thành những âm thanh gầm thét như đang giận dữ đạp đổ nhà cửa và cây cối. Bốn
bề xao động. Cậu sợ hãi, hốt hoảng và cầu cứu cha:
-
Cha ơi, cha ơi! Con sợ quá!
-
Cha đây, cha đây! Cậu nghe tiếng cha vọng lại
-
Cha đâu sao con không thấy? Con sợ quá! Cậu giơ tay ra phía trước quờ quạng.
-
Cha đây, Cha đây! Người cha bước lại ngồi xuống bên cậu. Cậu ôm lấy cha, ap đầu
vào ngực cha. Người cha đỡ cậu nằm xuống và vỗ về cậu. Cậu bé yên lặng nắm lấy
bàn tay Cha dìu dịu đi vào giấc ngủ an lành. Bên ngoài mưa bão vẫn còn, nhưng sự
sợ hại nơi cậu bé đã tan biến trong lòng của Cha.
Vang,
Chúa Phục sinh vẫn tiếp tục đến bên cuộc đời chúng ta như xưa Ngài đã từng đến
với các tông đồ. Ngài vẫn đến với chúng ta qua những biến cố vui buồn, qua những
thăng trầm của giòng đời. Ngài vẫn đang mời gọi chúng ta đặt cuộc đời trong bàn
tay quan phòng của Chúa. Cho dù cuộc đời có nghiều nghi nan. Cho dù giòng đời
có nhiều bất trắc và giông tố. Hãy lấy đức tin mà nắm vào Chúa. Hãy lấy lòng cậy
trông mà phó thác vào Chúa. Hay lấy lòng mến để vâng theo thánh ý Chúa.
Xin
Chúa Giêsu phục sinh luôn ở lại với chúng ta theo như lời Người đã nói:
"Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.” Xin Chúa luôn là khiên
che, thuẫn đỡ cho cuộc đời chúng ta. Amen.
10. "Footprints.”
Có
một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển
đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.
-
Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng... anh thấy có bốn dấu chân trên cát.
Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để
chia sẻ niềm vui với anh.
-
Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu...anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và
anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại.
Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau
đó, anh thắc mắc với Chúa: "Khi con thành công, hạnh phúc...Chúa lại đồng
hành với con, đi với con...Nhưng khi con thất bại, đau khổ...những lúc con cần
Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”
Chúa
Giêsu trả lời: "Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành
cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của
Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con.”
11. Đừng sợ
Một
buổi tối nọ, trong căn nhà ấm cúng của một bác nông phu, người cha âu yếm đưa mắt
nhìn cậu con trai với vẻ hài lòng sung sướng vì thấy con mình càng khôn lớn,
càng ngoan và gan dạ. Ông tự nhủ đã đến lúc cậu phải ra chuồng ngựa ban đêm một
mình để cho ngựa uống nước. Nghĩ rồi ông bảo con cầm đèn ra chuồng ngựa. Cậu
con thưa với vẻ do dự:
- Bố
ơi, con rất sợ bóng tối. Con sợ đi một mình.
Nghe
con nói thế, ông liền đứng dậy cầm đèn dẫn con ra trước hiên nhà. Ông thắp đèn
đặt vào tay con và hỏi:
- Với
đèn sáng này, con thấy rõ đến đâu ?
Cậu
trả lời: Con thấy rõ tới nữa đường ra cổng.
Người
cha bảo con hãy cầm đèn đi ra tới đó. Khi cậu con tới nơi, ông hỏi theo: Từ đó
con nhìn tới đâu nữa ?
-
Con nhìn rõ tới cổng, cậu đáp.
Ông
giục cậu đi tới cổng. Từ cổng cậu nhìn thấy chuồng ngựa, cậu nhìn thấy rõ ràng
từng con ngựa. Từ hiên nhà, người cha nói vọng ra:
-
Con hãy đổ nước cho ngựa uống rồi trở về nhà.
Thế
là từ đấy cậu không còn sợ nữa.
12. Tìm Chúa mà không thấy Chúa
Một
con cá sống ở đại dương hỏi một con cá khác:
-
Xin lỗi bác, bác già hơn và kinh nghiệm hơn cháu. Hẳn là bác có thể giúp cháu
được. Xin bác hãy nói cho cháu biết: cháu có thể tìm thấy ở đâu điều mà người đời
thường gọi là đại dương? Cháu đã tìm kiếm khắp nơi mà chẳng thấy.
Cá
già nói:
- Đại
dương ư? Cháu đang lội trong đó mà!
-
Đây ư? Nhưng chỉ là nước thôi mà. Cái mà cháu tìm kiếm là đại dương kìa.
Rồi
con cá non dại đó đã rất thất vọng ngoe nguẩy cái vây và lội đi tìm kiếm ở nơi
khác.
Chúa
Giêsu đã nhiều lần dùng Kinh thánh để chứng tỏ cho chúng ta biết rằng: Người
đang hiện diện nơi tha nhân và những anh chị em chung quanh là chi thể của Người
(ICr 12, 27; I Cr 6, 15; ICr 10, 17), Người tự đồng hóa mình với tha nhân nên
những gì chúng ta làm cho tha nhân là làm cho chính Ngươi (Mt 25, 40)...
["Vậy anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người là một bộ phận" (ICr
12, 27);
"Nào
anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao? (I
Cr 6, 15);
"Bởi
vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy
nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể" (I Cr 10, 17).
"Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé
nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy" (Mt 25, 40).]. Vậy
mà chúng ta vẫn chưa xác tín lời Người dạy, chưa nhận ra Người đang sống bên cạnh,
đang đồng hành với chúng ta.
13. Tiếng lương tâm
Ngày
8.10.1951, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm
sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành nhạc
nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cáo cho "Ông Xếp" nhà ga hay
tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa, chia nhau đi tìm kiếm dọc theo đường
xe lửa, suốt 2 tiếng đồng hồ, mới phát giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt
trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi hành
khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng
thanh niên 24 tuổi, khi được hỏi thì anh ta trả lời ấp úng là không biết gì cả,
nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật, nên người ta cũng bỏ qua.
Hai
tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu Viện các Cha Dòng Benedictô xin nhập
Dòng. Anh được nhận, sau 2 năm thử luyện, thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận
anh vào Tập Viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập Viện, anh được phép về
thăm gia đình 2 tuần lễ. Ngay ngày đầu tiên, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm
thấy xác Emma nằm trong vũng máu, anh quì chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau,
lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết, anh
đã la lên trong tiếng khóc nức nở: "Tôi không thể chịu được nữa!" Rồi
anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người
ta đã quên đi vì không điều tra ra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma
xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói, là cô ta không biết gì đến anh nữa. Vì thế,
anh ta đã nổi cơn điên, nên đã hành động độc ác như thế.
14. Chứng nhân hiện đại--AM. Trần Bình An
Linh
mục Gioan Lee Tae-seok sinh năm 1962, là con thứ 9 trong 10 người con. Cha mẹ
ngài là người Công giáo khiêm nhường, sống ở TP Busan, Nam Hàn. Gioan mồ côi
cha lúc 9 tuổi, mẹ ngài phải nuôi cả gia đình bằng nghề thơ may. Gioan học rất
giỏi, rất ấn tượng với tiểu sử của Albert Schweitzer và ước muốn làm bác sĩ.
Nhưng
khi ngài thấy người anh đi tu dòng Phanxicô, ngài cảm thấy có ơn thiên triệu.
Tuy nhiên, mẹ ngài muốn ngài học nghề thuốc trước. Một phần vâng lời mẹ, ngài
đã làm bác sĩ. Ngài là bác sĩ phẫu thuật trong quân đội Hàn quốc. Nhưng ngài vẫn
cảm thấy ơn gọi làm linh mục. Thấy con trai muốn vậy, người mẹ chiều theo ý
con. Ngài tu Dòng Salêdieng, sang Sudan phục vụ.
Tại
Tonj, ngài xây dựng một bệnh viện điều dưỡng. Mỗi ngày ngài điều trị khoảng 300
bệnh nhân. Ngài có chiếc xe Jeep để có thể tự lái đi đến các bệnh nhân chưa bao
giờ đến gặp ngài. Ngài đích thân tìm kiếm các bệnh nhân. LM Gioan lớn lên trong
cảnh nghèo khổ và không bao giờ xa cách người nghèo ở Tonj.
ĐGM
Choi Duk-ki quyết định đến Tonj để tận mắt chứng kiến LM Gioan bằng xương bằng
thịt. Thấy tỏ tường, ĐGM nói LM Gioan “như một vị thánh.” ĐGM nói rằng kinh
nghiệm giống như “đồng hành với LM Damian ở Molokai, đồng hành với Chúa Giêsu.”
LM Gioan làm cho tình yêu Chúa Kitô là ánh sáng dẫn đường trong mọi nỗ lực của
ngài dành cho người phong cùi và cho thấy rõ ràng là “chúng ta phải đối xử với
nhau như Chúa Giêsu.”
Tính
cách và nụ cười của ngài đã thu hút giới trẻ. Giáo dân đến xưng tội thường gọi
ngài bằng biệt danh “Cha Jolly” (Cha Vui vẻ). Ngài xây trường học với sự trợ
giúp của các học sinh mà ngài dạy toán và nhạc. Ngài còn lập ban kèn đồng Don
Bosco và thấy giới trẻ phấn khởi vì họ sống trong cảnh khốc liệt.
Nhưng
có lần ngài đi nghỉ ở Seoul. Ngài có thói quen kiểm tra sức khỏe tổng quát,
ngài được chẩn đoán bị ung thư đại tràng và ung thư gan. Đầu tiên ngài được hóa
trị, nhưng trong vài tháng cuối đời, bệnh ngài sa sút mau chóng và qua đời ngày
14/1/2010, khi mới 47 tuổi.
Tài
liệu của đài truyền hình Hàn quốc về cuộc đời LM Gioan ở Tonj đã được chuyển
thành phim “Đừng Thương Tiếc Ngài Sudan” (Don’t Cry For Me Sudan). Chỉ xem phim
10 phút là ai cũng sụt sùi cảm động. (Theo Trầm Thiên Thu, Thánh Nhân của Thế kỷ
21, Catholic Herald.co.uk)
15. Em bé napalm
Câu
truyện "Em bé napalm"- Phan Thị Kim Phúc đã làm rung động hàng triệu
trái tim, do nhiếp ảnh gia Nick Út ghi lại khoảng khắc đau thương của một bé
gái Việt Nam, 9 tuổi, trần truồng đang chạy hoảng loạn sau trận bom đổ xuống tại
Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. Theo lời chị thuật lại: "Lúc đó là khoảng 2 giờ
chiều một ngày tháng 6.1972, làng Trảng Bàng bùng cháy với những đợt bom napalm
giội xuống. Tôi cùng những đứa trẻ khác cố chạy thoát, nhưng hai người anh sinh
đôi của tôi đã chết tại chỗ… Rất đau lòng. Tôi nghe thấy tiếng bom nổ, rồi đột
nhiên lửa bùng lên quanh tôi. Quần áo tôi bị lửa thiêu trụi. Tôi bỏ chạy trên
đường và lọt vào ống kính của chú Út. Tôi được chú Út đưa đến một bệnh viện nhi
đồng của Mỹ cứu chữa....” Năm 1992, chị và chồng rời Cuba đến định cư ở Canada.
Tại đây, tổ ấm của họ đã được vun đắp và chào đón hai cậu con trai.
Khi
hỏi chị về ký ức “Em bé năm xưa” và những ngày đau đớn do bị bỏng bom napalm,
chị Kim Phúc trải lòng: "Đừng nghĩ rằng cô bé khóc vì đau và sợ hãi mà hãy
nghĩ rằng, cô ấy đang khóc vì khát vọng hòa bình. Kim Phúc cho biết thêm, khó
khăn nhất đối với chị không phải là vượt qua những đau thương, mà chính là tha
thứ cho những người đã bỏ bom ngôi làng và gây ra cho chị nhiều nỗi khổ đau. Chị
nói: "Mọi người cũng muốn biết tôi sẽ trách cứ những ai và với những gì đã
gây ra cho tôi, nhưng tôi không thể giữ mãi hận thù trong lòng. Cuộc sống đã dạy
tôi hiểu rằng, tha thứ còn mạnh hơn bất kỳ vũ khí chiến tranh nào.”
Năm
2008, chị đã có bài phát biểu ấn tượng trên Đài phát thanh quốc gia Canada có
tên là " Đường dài tới sự tha thứ", chị nói: "Tôi vẫn còn nhiều
vết sẹo trên cơ thể và mỗi ngày vẫn đau đớn vô cùng, song trái tim tôi đã được
chữa lành. Bom napalm công phá mạnh mẽ, nhưng lòng tin, sự tha thứ và tình yêu
còn lớn hơn thế. Chúng ta sẽ chẳng có chiến tranh nếu mọi người đều có thể học
cách sống với tình yêu chân thành, hy vọng và sự tha thứ. Tôi luôn biết ơn những
người đã cho tôi sự sống, giờ tôi có thể chấp nhận bức ảnh đó, như là một món
quà đầy sức mạnh. Tôi có thể làm việc với nó vì hòa bình.”
16. Gặp được Chúa
Regina
Riley có kể một câu chuyện mà nhiều bậc cha mẹ cần lưu tâm tới. Trong nhiều năm
trời bà đã từng cầu nguyện cho hai cậu con trai trở về với đức tin... Thế rồi một
buổi sáng Chủ Nhật nọ, ngay trong nhà thờ, bà không the nào tin vào mắt mình nổi
khi thấy hai đứa con bà bước vào nhà thờ ngồi vào hàng ghế đối diện bà. Sau đó
bà liền hỏi hai cậu con rằng điều gì đã thôi thúc chúng trở lại với đức tin. Cậu
nhỏ liền kể lại câu chuyện sau đây:
Vào
một buổi sáng Chủ Nhật, vào thời gian nghỉ hè tại Colorado, hai cậu lái xe đổ
xuống một con đường ở dốc núi, lúc đó trời đang mưa tầm tã. Bỗng nhiên họ gặp một
cụ già không dù che, người ướt sũng đang bước đi dáng điệu khập khễnh. Dù mưa
to, cụ vẫn hăng hái tiến bước trên đường. Hai anh em liền dừng xe mời cụ lên.
Thì ra ông cụ đang trên đường đi lễ tại một nhà thờ ở cuối con đường cách đó ba
dặm (quãng 5km). Hai anh em liền lái xe đưa cụ đến đó. vì trời mưa vẫn còn nặng
hạt và chẳng bíêt làm gì hay hơn, nên hai anh em quyết định chờ đợi cụ già để
mang cụ về lại nhà sau khi lễ tan. Nhưng ngay sau đó hai cậu liền nghĩ nếu thế thì
nên vào luôn trong nhà thờ hơn là ngồi đợi ngoài xe, thế là trong khi hai anh
em lắng nghe các bài đọc Thánh Kinh và tham dự việc bẻ bánh thì có một điều đã
làm họ xúc động sâu xa. Về sau họ chỉ có thể cắt nghĩa với bà mẹ như thế này:
"Mẹ ơi! Mẹ biết không, lúc bấy giờ giống như là chúng con trở về nhà sau một
chuyến đi dài đằng đẵng đầy mệt mỏi.”
17. Cái tách đựng trà
Câu
chuyện "Cái tách đựng trà" của Lã Phụng Tiên sau đây nói lên ý nghĩa
Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay:
Một
hôm có hai ông bà sang trọng bước vào một cửa tiệm bán đồ sành đồ sứ. Bà đến
bên quầy hàng bày đầy những ly tách, bà cầm một cái tách uống trà lên và thỏ thẻ
với ông: "Ông này, coi cái tách uống nước dễ thương quá!" Ông cầm lấy
ngắm nghía một hồi rồi nói: "Đúng, bà nói đúng. Đây là cái tách đựng trà dễ
thương nhất mà tôi đã thấy.” Tách trà liền nói: "Cám ơn ông bà khen tặng,
nhưng cháu không phải luôn đẹp như vậy đâu.” Bà hỏi lại: "Sao cháu lại
khiêm nhường thế? Lúc nào cháu cũng đẹp!" Tách đựng trà trả lời: "Trước
kia cháu chỉ là cục đất sét xấu xa, thế nhưng, một ngày kia có người bàn tay ướt
át ôm cháu bỏ lên bánh xe lăn. Sau đó ông quay cháu như chong chóng đến choáng
váng. Cháu phát khóc mà ông cũng không tha. Bị xoay vần quá lâu, cháu đau mình
mẩy đến muốn chết được. Sau cùng ông cho cháu ngừng, nhưng lại tệ hơn, ông bỏ
cháu vào một cái lò nung nóng đến 500 độ. Cháu toát cả mồ hôi ra, da dẻ cháy
khét, đen thui... Ông mới chịu cho cháu ra khỏi lò. Nhưng cô thư ký của ông
quét lên mình cháu một lớp sơn khét lẹt, vẽ rồng rắn vào mình cháu rồi cô đặt
cháu vào một chiếc lò nung còn tệ hơn lần trước, khiến da dẻ cháu xém lại, cứng
nhắc như mot cái vẩy bằng sành. Sau cùng, cô để cháu ở ngoài cho nguội, rồi để
lên kệ này bên cạnh chiếc gương to lớn. Cháu không thể tin được mình đẹp như thế.
Cháu đã nhận thức ra rằng: Những đau đớn cháu chịu thật đáng giá va mang lại
cho cháu một vẻ mỹ miều vẫn còn tồn tại."
Câu
chuyện "Cái tách đựng trà" cũng mang một sứ điệp giống như bài Tin Mừng
hôm nay. Trước khi Chúa Giêsu sống lại vinh quang, Ngài đã chịu khổ hình và đã
chết đi trong đau khổ mà Thánh Phêrô đã tường trình rằng: Thiên Chúa đã cho Đức
Kitô từ cõi chết sống lại để "hoàn tất việc Người dùng miệng các tiên tri
mà báo trước. Đức Kitô của Ngài phải chịu khổ hình.”
18. Thấy vậy mà không phải vậy
Khi
nói về Khổng Tử, người ta có kể lại một giai thoại như thế này: Trong thời gian
ở nước Tề, thầy trò của Khổng Tử đã gặp phải cảnh đói kém nhọc nhằn. Mỗi ngày một
người chỉ ăn được một phần cơm nhất định mà thôi. Một ngày nọ, ông đang nằm đọc
sách, chợt nghe có tiếng ai đó đang mở nắp nồi cơm.
Liếc
mắt nhìn thì ong nhận ra đó là Nhan Hồi, người học trò thân tín của mình đang vốc
từng nắm cơm cho vào miệng. Một lúc sau, khi cơm đã dọn xong, các môn sinh chắp
tay mời thầy của mình dùng cơm. Nhưng rồi trước khi ăn, Khổng Tử ngõ ý muon
dùng một ít cơm trắng để gọi là dâng cúng cho cha mẹ. Ý kiến này được mọi người
tán thành. Riêng cậu học trò Nhan Hồi thì im lặng, dáng vẽ lắng lo nghĩ ngợi.
Khổng Tử điềm nhiên hỏi tiếp: "Ta không biết cơm này có sach không?"
Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Bấy giờ Nhan Hồi mới lễ phép thưa: "Dạ bẩm
Thầy! Nồi cơm này không được sạch. Bởi vì trong lúc thổi cơm, con đã vô tình để
bụi rớt vào, và con định xới lớp cơm bẩn đó bỏ đi. Nhưng con nghĩ rằng: cơm nấu
thì có giới hạn, nếu bỏ đi số cơm bẩn đó thì sẽ mất một phần ăn. Nên mạn phép
Thầy, con đã ăn phần cơm bẩn đó, còn cơm sạch để Thầy và các anh em ăn. Mà nồi
cơm đã được ăn trước rồi thì chúng ta không nên cúng nữa Thầy ạ!" Nghe
xong điều đó, Khổng Tử ngước mặt lên trời đấm ngực mà than rằng: trên đời này,
có những việc chúng ta trông thấy rành rành trước mắt, mà còn hiểu không đúng sự
thật, một tí nữa thì Khong Tử này đã trở thành kẻ hồ đồ rồi.
19. Bắt đầu một sự sống mới
Elena
Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô
chỉ còn sống được sáu tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một
tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ.
Bởi
những việc làm đắc lực và có hiệu quả, cô được mời đến New York để thuyết
trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi đã chữa cô khỏi bệnh tim.
Sau
khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm mà đến Nam Mỹ với công việc hằng ngày
là phục vụ những người khốn khổ. Cảm nghiệm về một cái chết gần kề đã giúp cô
có một định hướng mới cho cuộc đời và sẵn sàng hy sinh tất cả cho một lẽ sống.
Ai
cũng muốn sống, nhưng Lời Chúa cho biết có không ít người đã chết mà không hề
biết: “Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực
ra đã chết. Hãy tỉnh thức!” (Kh 3,1-2).
Khi
phạm tội, người ta giết hại chính mình, nuôi kẻ sát nhân mà vẫn tưởng là phục vụ
sự sống: “Anh em đã chối bỏ Đấng Thánh và Đấng Công chính, mà lại xin ân xá cho
một tên sát nhân. Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống” (Cv 3,14-15).
Đức
Kitô đã sống lại từ cõi chết để bắt đầu một sự sống mới nơi những ai tin. Cái
chết đau đớn của Đức Kitô phô bày cho mọi người thấy rõ tội ác nặng nề của họ,
không có ý làm cho ai thất vọng mà chỉ để đánh thức kẻ mê ngủ, dựng họ dậy để bắt
đầu một cuộc sống mới: “Vậy anh em hãy sám hối và trở lại cùng Thiên Chúa” (Cv
3,19).
20. Gia đình và sự hiện diện của Chúa
Để
minh xác Chúa Giêsu Phục Sinh chỉ muốn ban bình an cho ai tích cực và ý thức
tham dự Thánh Lễ: Văn phòng Nghiên Cứu Hiện Tượng của Hoa Kỳ về Đời Sống Hôn
Nhân, kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách về Gia Đình trích dẫn trong tài
liệu có tựa đề “Bí tích Hôn Phối” xuất bản năm 1989 như sau:
- Trong
100 gia đình không theo đạo Công Giáo, thì có khoảng 50 gia đình ly dị (50%).
- Trong
100 gia đình theo Công Giáo, chỉ đi dự Lễ Chúa nhật thì có khoảng 10 gia đình
ly dị (10%).
- Trong
100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ và rước Chúa hằng ngày, gia đình còn có giờ cầu
nguyện riêng, thì ly dị xuống thấp nhất, tối đa chỉ còn khoảng 1% gia đình ly dị.
21. Niềm tin làm tất cả
Noreen
Towers đang làm công tác từ thiện nhưng không có dấu hiệu thành công. Một đêm nọ,
cô đi ngủ trong chán nản. Sáng hôm sau, sau khi thức giấc một lát, dường như
Chúa Giêsu nói với cô: “Con không tin vào chương trình Ta sắp đặt cho con sao?”
Cảm nghiệm trong nháy mắt đó đã biến đổi cô từ một người chán nản thành một người
có niềm tin không gì lay chuyển được.
Tôi
đã học được gì từ những giây phút chán nản trong đời mình?
Xuyên
qua một trái tim bị dập nát, Chúa Kitô có thể bước vào (Oscar Wilde).
CNPS 3C
TRUYỆN KỂ
1. truyện
THỨ HAI - Tin vào
Đấng Thiên Sai
Hôm
sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy
chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các
môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân
chúng đã được ăn bánh. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ
cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu.
Khi
gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây
bao giờ?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm
ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn
bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng
vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các
ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu." Họ liền thưa lại rằng:
"Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu
đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài
sai đến."
TRUYỆN KỂ
1. Đói khát tinh thần
Bốn
tỷ người sống trên trái đất này. Nửa tỷ người chịu đói khát và suy dinh dưỡng
mãn tính. Nhưng con số thống kê còn đáng sợ hơn về sự đói khát và thiếu thốn
như sau: có đến 3 tỷ người đói khát và thiếu thốn về mặt tinh thần mãn tính. Đó
là điều Chúa Giêsu đề cập đến trong bài đọc hôm nay, khi Ngài khuyến khích con
người tìm kiếm không những lương thực cho thân xác. Mà còn tìm kiếm lương thực
cho linh hồn nữa.
Ai
là người tôi biết đang chịu đói khát tinh thần mãn tính? Bước khởi đầu để có thể
giúp người đó là gì?
Mọi
tâm hồn - từ một thiếu niên đến một tài xế - đều có một khoảng trống tinh thần
mà chỉ tình yêu vô biên mới có thể thỏa mãn được.
2. Tìm kiếm – tin vào Đấng Thiên Chúa sai đến
Vua
Louis XIV, vị vua được gọi là Vua Mặt Trời (Le Roi Soleil) và cũng được biết với
danh hiệu Louis Đại đế (Louis le Grand hay Le Grand Monarque). Triều đại của
ông kéo dài 72 năm, dài nhất trong lịch sử nước Pháp. Vua Louis thường có thói
quen dâng thánh lễ tại nhà thờ Versailles. Dân chúng cũng đến đó tham dự thánh
lễ rất đông.
Một
Chúa Nhật kia, vua cũng đi dâng thánh lễ, nhưng hôm nay rất lạ vì có rất ít người
tham dự. Nhà vua ngạc nhiên và hỏi Đức Giám mục chủ tế thánh lễ, lý do tại sao
mà giáo dân hôm nay tham dự thánh lễ ít thế. Đức Giám mục trả lời là vì chính
ngài đã tung tin ra: Hôm nay nhà vua không đi dự thánh lễ được. Bây giờ nhà vua
mới hiểu ra được là người ta đi tham dự thánh lễ vì ai: Nhà vua hay Thiên Chúa…
Tìm
đến với Chúa ngày Chúa Nhật, ngày của Chúa, thế nhưng lại chỉ mong được gặp
vua, ngắm vua…
Thánh
giám mục Gio-an Kim Khẩu nói rằng con người như bị ‘đóng đinh’ vào những sự vật
của đời này. Thử quan sát quanh mình và thấy ngài nói có lý! Nhà doanh nghiệp đầu
tư thời giờ, tiền bạc để có thêm lợi nhuận; viên chức tìm mọi cách để được
thăng quan tiến chức, kể cả bằng cách ‘chạy’ cửa hậu; nông dân đêm ngày trông
mong thời tiết thuận hoà để được vụ mùa bội thu; công nhân đấu tranh, đình công
để được tăng lương; kẻ ‘no cơm rửng mỡ’ chỉ mong vui chơi trác táng sa đoạ; nghệ
sĩ miệt mài đêm ngày để có những tác phẩm để đời…
Hối
hả hay chậm rãi, say mê hay bất đắc dĩ, siêng năng ‘cày’ hay lao động sơ sơ ‘trớt
quớt’, tất cả tâm trí, tay chân chúng mình như bị ‘đóng đinh’, bị dán chặt vào
các giá trị của cuộc sống này, không còn chỗ cho những giá trị vĩnh cửu của Nước
Trời.
Đáp
lại lời Đức Giê-su, mời bạn hãy ra công làm việc không phải chỉ nhằm có của ăn
của để, mua sắm đồ đạc tiện nghi, vui chơi giải trí, hay chỉ để tồn tại qua
ngày, nhưng còn vì những giá trị đem lại sự sống đời đời như “Tám Mối Phúc Thật”
(khó nghèo, khiết tịnh, hiền lành, công chính…), xây dựng nền văn minh tình
thương…
3. Như một giấc mơ
Nhà
đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ được vào lúc 2 giờ sáng, sau khi
đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng ngủ được một tiếng đồng hồ, anh bỗng giật
mình thức giấc vì nằm mơ thấy mình bị mất chức vô địch. Bởi vì không sao ngủ được,
anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại bài tường thuật trận đấu hầu
trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey đã ghi lại cảm tưởng thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành
công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ ước trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn
còn cảm thấy trống rỗng."
Có
bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh Demsey không? Chúng ta dồn tất cả tài
năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống
rỗng, vô nghĩa, bởi vì nó không giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc thật.
Đó
là kinh nghiệm của J. Demsey: cứ tưởng chức vô địch sẽ đem cho anh sự nghỉ
ngơi, thư thái, nào ngờ anh vẫn cảm thấy trống rỗng, lo sợ bị mất chức vô địch
trong những lần đấu kế tiếp
4. Bé cái lầm
Người
Ấn Độ có kể câu chuyện ngụ ngôn sau đây:
Một
gia đình khỉ nọ sống giữa một khu rừng rậm. Mùa đông đến, cả gia đình khỉ rét
run vì lạnh. Ban đêm khỉ nhìn thấy con đom đóm bay lượn, chúng tưởng là cục
than hồng. Thế là cả nhà khỉ bắt lấy con đom đóm mang về, cẩn thận cho thêm củi
và rơm vào rồi ngồi quanh mà sưởi. Có con còn kề miệng sát vào con đom đóm để
thổi với hy vọng lửa bốc cháy.
Một
con chim bay qua thấy cảnh tượng ấy bèn dừng lại nói với bầy khỉ: “Các bạn ơi, đây không phải là lửa mà chỉ là
con đom đóm." Nhưng bầy khỉ không đếm xỉa gì đến nhận xét của con
chim, chúng lại chúi đầu vào con đom đóm mà thổi.
Một
lẫn nữa con chim trở lại bình tĩnh nói đó chỉ là một con đom đóm. Tức giận vì lời
dạy khôn của con chim, bầy khỉ túm lấy nó và giết đi. Rồi chúng tiếp tục thổi
hơi mạnh hơn vào con đom đóm. Sáng hôm sau, người ta thấy cả gia đình khỉ chết
cóng vì lạnh bên cạnh đống củi và con đom đóm.
5. Luôn thuộc về Chúa
Một
nhà truyền giáo kia kể lại câu chuyện sau đây:
Một
hôm, có một người bản xứ vội vã chạy đến tìm gặp tôi. Anh la lớn: “Thưa Cha! cách đây 25 cây số có một người
đang hấp hối. Cha hãy đến mau!”
Vài
phút sau, tôi ra khỏi thành phố, hướng về phía Nam. Trong nhiều giờ, chúng tôi
cuốc bộ dưới ánh nắng chói chang và qua những con đường đầy bụi bặm. Những lời
nói của người dẫn đường làm cho tôi có cảm giác như có một cái gì đó bất thường
sắp xảy ra. Anh ta nói với tôi về một người bệnh, một người bệnh trong một ngôi
chùa. Cuối cùng, thì tôi cũng đã hiểu ra: Đó là một người Kitô hữu già làm nghề
gác chùa từ rất lâu! Ông ta giữ nhiệm vụ canh chùa, rung chuông đánh trống mỗi
khi có các buổi lễ. Bây giờ, ông ta sắp chết vì thế ông nhờ người đi tìm Linh mục.
Buổi
chiều, chúng tôi đến nơi, trong một góc chùa, trên một chiếc chiếu, tôi nhận thấy
một cụ già rất gầy và hầu như đang hấp hối. Ông nhìn tôi cười và nói một cách
khó nhọc:
- Thưa Cha, cha đã đến. Cha đã không quản ngại đường
sá xa xôi. Con cám ơn Cha.
- Nhưng... tại sao cụ lại ở đây! Tôi được biết là cụ
đã ở đây giữ chùa, phục vụ các ngẫu thần và bỏ rơi Thiên Chúa duy nhất chân thật
mà cụ đã tuyên xưng khi chịu phép rửa!
- Thưa Cha - Ông
cụ rên rỉ - xin Cha hãy cúi xuống một tí
để nghe con nói và hiểu giùm con. Đúng là con giữ chùa, con rung chuông, đánh
trống. Nhưng chỉ vì cái này (ông phác một cử chỉ ăn uống), nhưng bên trong con
nói: “Chúa ơi, xin đừng giận con, Chúa biết rằng, chỉ vì cái ăn, nhưng cái này
(ông đưa tay chỉ ngực) luôn thuộc về Chúa!”
Sau
lời thú nhận này, đôi mắt ông rực sáng. Tôi quỳ xuống gần bên chỗ nằm đáng
thương của ông, nghe ông xưng tội và ban của ăn đàng cho ông. Ông ta tỏ vẻ sung
sướng biết là ngần nào. Tôi thấy là ông chẳng còn sống được bao lâu nữa, những
cơn đau kinh khủng đang dày xé thân xác gầy mòn của ông. Tôi tìm cách an ủi,
nhưng con người đang hấp hối này nói với tôi bằng một giọng vui vẻ:
- Điều đó không có gì quan trọng cả, thưa Cha, con
muốn chịu đựng tất cả, vì chẳng bao lâu nữa, con sẽ được vào Nước Trời, ở đó mọi
sự đều rất tốt đẹp!
Vài
ngày sau, tôi nhận được tin cụ già đã qua đời một cách bình an trong ngôi chùa
của cụ...
Vâng!
“Hãy ra công làm việc không phải vì của
ăn mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh”
(Ga 6,27).
6. Henry Dunant và Alfred Nobel
Ông
Henry Dunant,người sáng lập Hội Chữ Thập Đỏ: Ngày 24/6/1859 ông đến Thụy Sỹ gặp
vua Napoléon III nước Pháp, xin cấp Giấy Phép lập nhà máy xay lúa tại Algerie -
là thuộc địa của Pháp. Trong quán trọ ông ngồi nhìn về phía cánh đồng
Solpherino: cuộc chiến ác liệt đang xảy ra. Trong trận chiến ấy có trên 300
ngàn binh sĩ hai phía bị thương kêu la! Ông Dunant chán ghét chiến tranh, ông
cho chuyển các binh sĩ bị thương vào làng để chăm sóc. Sau đó ông viết tác phẩm
hồi ký về cuộc chiến tại Solhpherino gởi cho các thủ lãnh trên thế giới ký vào
bản dự án lập Hội Chữ Thập Đỏ để chăm sóc binh sĩ bị nạn không phân biệt thù
hay bạn.
Ngày
26/10/1863 có 16 quốc gia họp tại Genève ủng họ sáng kiến ông và họ lấy hình chữ
thập làm dấu chỉ trên các bệnh viện hay các xe cứu thương. Năm 1901 ông Dunant
được giải thưởng Nobel.
Tại
sao gọi là Giải Thưởng Nobel? Ta biết ông Alfred Nobel cũng là mẫu người lao
công vào việc của Thiên Chúa, vì trước đó ông phát minh ra chất nổ, sản xuất
hàng loạt vũ khí giết người, ông đã thu được rất nhiều tiền, sở hữu một tài sản
kếch xù! Nhưng khi ông đọc báo biết vô số người đã chết vì chất nổ ông phát
minh. Ông rất hối hận về việc tìm ra vũ khí giết người, ông liền bán hết gia
tài, lấy tiền hiến cho Liên Hiệp Quốc để làm giải thưởng cho bất cứ ai đóng góp
vào nền hòa bình của thế giới.
Vào
cuối đời, lúc ông Dunant lâm bệnh, ông xin vào một bệnh viện dành cho hành khất
bên Thụy Sĩ, để lại di chúc: “Hoặc tôi là
môn đệ Chúa Giêsu hay ít là giống các tín hữu thuở ban đầu, hoặc tôi không là
gì cả.”
Một điền chủ muốn thưởng công xứng đáng cho nông dân
đã chăm chỉ cầy sâu cuốc bẫm, chăm sóc ruộng đất cho chủ trong suốt một thời
gian dài. Vào một buổi sáng nọ, ông chủ cho gọi người nông dân đến và nói:
-
Nhờ anh mà tôi được giàu có thêm. Hôm nay, tôi quyết định cho anh một phần thưởng.
Anh biết rõ ruộng đất của tôi rộng thẳng cánh cò bay. Vậy vào lúc mặt trời mọc
sáng ngày mai, tôi cho anh chạy trên đất của tôi nhanh chậm tùy ý. Anh phải
tính thế nào để đúng lúc mặt trời lặn, anh phải trở về điểm khởi hành. Vòng
tròn thửa đất có vết chân của anh đã chạy sẽ là ranh giới tài sản mà tôi cho
anh.
Anh nông dân hết sức mừng rỡ. Vì khỏe mạnh nên anh
chạy nhanh như gió. Càng về chiều, anh càng chạy nhanh hơn. Nhìn lại thửa đất
mênh mông mà anh đã chạy vòng qua, anh càng hăng hái và ráng chạy, chạy nhanh,
thật nhanh. Lúc mặt trời vừa lặn thì cũng là lúc anh vừa trở về lại điểm khởi
hành. Thế nhưng, vừa về đến nơi thì anh cảm thấy choáng váng trong người. Mặt
tái mét, mắt hoa lên, rồi anh ngã xuống đất và rồi tim anh ngừng đập. Anh đã tắt
thở trước mặt mọi người! Thế là hết! Lúc đó, anh chỉ còn cần có 3 tấc đất người
ta gửi tấm thân anh vào đó.
8. Những vị cứu tinh
Đã
có một thời bộ phim miền Viễn Tây (phim cao bồi) rất được ưa chuộng trên truyền
hình. Những chương trình này cho thấy nhiều anh hùng, nhiều vị cứu tinh khiến
chúng ta cảm thấy thoải mái dễ chịu. Họ phi ngựa vào các làng mạc, cứu mọi người
thoát tay kẻ ác, rồi phi ngựa mất hút vào bóng đêm. Thế rồi những vị cứu tinh
anh hùng mới đến thay thế họ đúng lúc, đó là cảnh sát, thám tử, người làm công
tác xã hội. Những người này cũng cứu người ta khỏi tay kẻ ác và ra đi mà không
hề hấn gì.
Những
vị cứu tinh anh hùng trên phim ảnh khác với những vị cứu tinh thực sự, như Chúa
Giêsu, Gioan Tẩy giả, Stẹfanô. Những vị này nói về cuộc chiến đấu chống lại tội
lỗi, khổ đau và ngay cả cái chết.
Tôi
đã chịu được nổi khổ đau nào vì Chúa Kitô trong cuộc chiến chống lại tội lỗi?
Những
ai quên mình vì Chúa Kitô sẽ được hưởng ân phúc trong Ngài (John Mason).
9. Thành đạt trống rỗng
Võ
sĩ quyền anh Jack Demsey đi ngủ vào khoảng hai giờ sáng sau khi đoạt chức vô địch
thế giới hạng nặng. Một giờ sau, anh chợt thức giấc. Anh vừa mơ thấy mình mất
chức vô địch mới đoạt. Không thể ngủ lại, anh đi ra ngoài và mua vài tờ báo để
xem người ta bình luận gì về trận đấu. Về sau anh nói: “Đọc qua vài bài, tôi bắt
đầu nhận ra rằng thành công không như tôi vẫn tưởng. Đọng lại trong tôi là cảm
giác kỳ lạ về sự trống vắng.”
Kinh
nghiệm của Demsey mời gọi tôi tự hỏi: Đã bao giờ tôi kinh nghiệm “một cảm giác
trống vắng kỳ lạ” về cuộc đời mình chưa?
[Chúa
Giêsu cảnh giác:] “Kẻ nào thu tích của cải cho mình mà không lo làm giàu trước
mặt Thiên Chúa, thì số phận cũng như thế” (Lc 12,21).
THỨ BA - Bánh trường sinh
Lời
Chúa: Ga 6, 30-35
Khi
ấy, đám đông thưa Chúa Giêsu: "Ngài sẽ làm dấu lạ gì để chúng tôi thấy mà
tin Ngài? Ngài làm được việc gì? Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc,
như đã chép rằng: "Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời.”
Chúa
Giêsu đáp: "Thật Ta bảo thật các ngươi, không phải Môsê đã ban cho các
ngươi bánh bởi trời, mà chính Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích
thực. Vì bánh của Thiên Chúa phải là vật tự trời xuống, và ban sự sống cho thế
gian.”
Họ
liền thưa với Ngài rằng: "Thưa Ngài, xin cho chúng tôi bánh đó luôn mãi.”
Chúa
Giêsu nói: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói;
ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ.”
TRUYỆN KỂ
1. Thế giới hôm nay đang nghèo đi
Trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, mức tiêu thụ đã
gia tăng nhanh chóng và xâm nhập vào hầu hết mọi chiều kích của cuộc sống con
người, đến độ chúng ta gọi nền văn minh hiện nay là văn minh tiêu thụ. Từ năm
1975 đến năm 2000, mức tiêu thụ của thế giới đã gia tăng gấp đôi. Tổng cộng mức
tiêu thụ của thế giới trong hai mươi lăm năm qua đã lên đến hai mươi bốn ngàn tỉ
Mỹ kim. Ðây là một hiện tượng tích cực hay tiêu cực?
Theo
bản báo cáo của chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc, hiện nay một gia
đình trung lưu tại Phi Châu tiêu thụ hai mươi phần trăm ít hơn cách đây hai
mươi lăm năm. Hai mươi phần trăm dân số thế giới vẫn còn đứng bên lề sự gia
tăng mức tiêu thụ của thế giới. Trong bốn tỉ bốn những người đang sống trong
các quốc gia đang phát triển, gần ba phần năm vẫn chưa có được những hạ tầng cơ
sở về vệ sinh. Một phần ba thiếu nước uống. Một phần tư không có được cái bếp
ăn chốn ở cho đàng hoàng. Một phần năm không biết thế nào là các phương tiện
chăm sóc sức khỏe hiện đại. Một phần năm trẻ em không được cắp sách đến trường
cho hết bậc tiểu học và một phần năm khác không có đủ chất đạm và một chế độ ăn
uống đầy đủ.
Trong
số hai tỉ người thiếu máu trên khắp thế giới chỉ có năm mươi lăm triệu sống tại
các nước tiên tiến. Chênh lệch giữa các nước giàu và các nước nghèo, chênh lệch
ngay trong cùng một nước. Ðây là hiện tượng không thể chối cãi được trong nền
văn minh tiêu thụ ngày nay.
Khoảng
cách giữa các nước giàu và những nước nghèo càng xa; khoảng cách giữa người
giàu và người nghèo trong cùng một nước lại càng xa hơn. Nguyên nhân của sự
chênh lệch ấy chắc chắn chỉ có thể là sự ích kỷ của con người mà thôi, càng có
con người càng muốn có thêm và chỉ muốn chiếm giữ cho riêng mình. Sự giàu có về
của cải vật chất do đó cũng không đương nhiên làm cho con người được phong phú
hơn.
Ðây
là chân lý mà Giáo Hội không ngừng nhắc nhở cho con cái mình.
2. Lương thực trường sinh
Năm
1923, tám nhà kinh doanh thành công nhất của Hoa Kỳ đã gặp gỡ nhau trong một
khách sạn tại miền Viễn Tây. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh
doanh và làm giàu, hình như muốn khẳng định câu châm ngôn thường tình của con
người ở khắp mọi nơi là: “Có tiền mua tiên cũng được.”
Thế
nhưng, 25 năm sau những gì đã xảy đến cho tám nhà kinh doanh giàu có này?
Charles
Schwab, Giám đốc của một trong những công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị
phá sản. Trong năm cuối cùng, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay mượn của người
khác. Samuel Insull, Giám đốc của một công ty chuyên sản xuất các vật dụng cần
thiết trong nhà, phải bỏ nước ra đi và chết tha phương không một đồng xu dính
túi. Howard Hopson, Giám đốc của một hãng gas lớn trở nên điên loạn. Arthur
Cutten, Chuyên xuất nhập cảng lúa mì, cũng chết ở nước ngoài không một đồng xu
dính túi. Richard Whitney, Giám đốc một phòng hối đoái lớn tại New York, vừa
bình phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Albert Pall,
một nhân vật cấp cao trong chính phủ, vừa ra tù vì dính líu vào một vụ tham
nhũng. Người cuối cùng trong danh sách tám nhà kinh doanh thành công nhất của
Hoa Kỳ khoảng thập niên 20 cũng tự kết liễu cuộc sống của mình… (Theo đài
Veritas)
Thật
thế, con người chỉ lo tìm kiếm tiền bạc vật chất, chính nó lôi kéo dẫn người
tìm kiếm nó vào con đường “đầy sương mù”, và dẫn tới mất phương hướng khi vào
đường cụt của cuộc đời.
3. Niềm vui của Chúa
Người
ta kể lại rằng, có lần thánh nữ Gertruđê đang Suy Niệm về bí tích Thánh Thể và
tự hỏi không biết làm sao mà Chúa lại có thể tự hạ mình xuống thấp như thế, để
hiện diện trên bàn thờ dưới hình bánh, thì chính Chúa Giêsu đã hiện ra và cắt
nghĩa cho bà. Người cắt nghĩa bằng một câu chuyện sau. Người nói:
Một
hoàng tử nhỏ ở trong một lâu đài rộng lớn với đủ loại đồ chơi, ngày kia nhìn
qua cửa sổ và thấy các đứa bé nghèo chơi trên đường. Thấy hoàng tử nhìn qua cửa
sổ như thế, người giám hộ liền hỏi:
-
Hôm nay, hoàng tử muốn ở chơi trong lâu đài hay muốn ra ngoài chơi với các đứa
bé trên đường phố ?
-
Tôi muốn ra ngoài chơi với chúng.
Được
phép, hoàng tử khoác vào người bộ đồ cũ nhất và cả ngày chơi với các trẻ nghèo.
Đây là một trong những ngày hạnh phúc nhất của cậu bé chốn cung đình.
Rồi
Chúa nói với thánh Gertruđê:
-
Ta giống như vị hoàng tử nhỏ kia. Ta muốn ở với con người, đàn ông cũng như đàn
bà. Bất cứ ai không đến với Mình Thánh hoặc ngăn cản kẻ khác đến rước lễ, kẻ ấy
lấy mất đi của Ta một niềm vui lớn.
Chúng
ta hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để luôn có được niềm vui.
4. Cuộc sống đâu chỉ là cơm bánh
Bà
Marthe Robin một trong những người được in năm dấu thánh. Bà đã qua đời cách
đây không lâu.
Hơn
30 năm trời bà không ăn uống gì, chỉ sống bằng Mình Thánh Chúa. Tôi xin nhắc lại:
hơn 30 năm. Vâng, 30 năm trời như vậy, mỗi ngày có một linh mục đem Mình Thánh
Chúa đến cho bà. Và mỗi khi linh mục đem Mình Thánh Chúa đến thì ngài có cảm tưởng
y như Mình Thánh bay từ tay mình vào thẳng nơi miệng bà thật sự. Bà âm thầm sống
trong một căn nhà nho nhỏ, có cha linh hướng săn sóc, đi đâu cha cũng khóa cửa
lại, vì bà chẳng cần ăn uống gì hết.
Tuy mắt đã mù, không đọc sách báo cũng chẳng
nghe được đài phát thanh, nhưng mỗi lần có ai xin bà việc gì, thì bà trả lời
như thể bà đang nghe thấy tất cả những tin tức cuối cùng và mới mẻ nhất về nơi
chỗ diễn tiến của sự việc vừa xảy ra. Làm sao cắt nghĩa được sự kiện lạ lùng
này nếu không tin vào quyền năng của Thiên Chúa!
5. Tình yêu là lẽ sống
Một
buổi sáng kia, khi kiểm điểm các tù nhân, viên cai tù phát giác thiếu một người!
Thế là tất cả các tù nhân hôm ấy phải đứng hàng giờ phơi nắng ngoài sân! Mãi đến
chiều, người sĩ quan Đức có trách nhiệm nhà tù xuất hiện với bộ dạng giận dữ,
tay chắp sau lưng, bước chân chậm rãi trên đôi giày bốt-đờ-xô nghiến trên nền
đá nghe “cộp, cộp!” Mắt ông trừng trừng nhìn thẳng vào mặt từng người tù, thỉnh
thoảng ông dừng lại chỉ vào một người phải thế mạng và buông lời cộc lốc:
“Mày!” Cứ như thế ông đã chỉ đến người thứ 9, khi ông dừng lại người tù xấu số
thứ 10, thì anh bật khóc nức nở! Trong số các tù nhân đang đứng tại đó có Linh
mục Maximiliano Kolbe liền giơ tay xin phát biểu:
- Xin
ông cho tôi được chết thay cho người này!
Viên
sĩ quan quát:
- Con
heo Ba Lan kia, mày có điên không?
Cha
Maximiliano Kolbe ôn tồn đáp:
- Thưa
không, tôi là Linh mục chỉ có một mình, anh này còn vợ con, cần được sống.
Trước
sức mạnh của tình thương, viên sĩ quan đứng lặng người trong giây lát, rồi
buông lời:
- Thuận.
Thế
là cả 10 người “được chọn” bị đẩy vào hầm cho chết đói! Trong hầm, cha
Maximiliano Kolbe luôn ca hát và cầu nguyện, cha đã cảm hóa được 9 người kia
xin theo Đạo. Sau một tháng người ta mở cửa ngục ra xem, thấy cha Maximiliano
Kolbe vẫn sống bình an, và vui vẻ. Thấy vậy viên cai ngục chích cho ngài mũi
thuốc kết thúc cuộc đời…!
Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã phong thánh cho ngài ngày 14-10-1982. Hôm đó có
gia đình anh tù được chết thay cũng có mặt.
6. Nhu cầu thiết yếu để làm người
Một
quan chức – miễn nêu tên – trong một chuyến công cán nước ngoài tuyên bố rằng
dân ta chỉ cần ăn no cái bụng, còn những giá trị tinh thần thì không cần thiết,
nếu không nói là đồ xa xỉ. Nói thế có nghĩa là phải xây cái “hạ tầng cơ sở” là
những nhu cầu vật chất, thể lý cho vững chắc đã, rồi mới “leo” dần lên những bậc
thang giá trị cao hơn.
Thế
nhưng theo bà Natulla, một nhà nghiên cứu xã hội học, thì người ta có thể “đạt
tới những nhu cầu cấp cao hơn” ngay cả khi những nhu cầu cấp thấp chưa được đáp
ứng đầy đủ. Nhận định đó mở đường cho chúng ta đón nhận lời Chúa. Theo tính tự
nhiên, người ta phải thoả mãn nhu cầu cơm bánh: muốn có một thứ lương thực ăn
vào sẽ không phải đói, không phải khát nữa.
Chúa
Giêsu cho biết tìm kiếm lương thục trường sinh là nhu cầu tối thượng, vượt trên
cả nhu cầu về cơm bánh. Và Ngài là thứ bánh trường sinh đó.
Cha
ông chúng ta có nói: “Đói cho sạch, rách cho thơm.” Phải dám khước từ cả tiền lẫn
quyền để giữ cho được cái “sạch,” cái “thơm” xứng đáng với phẩm giá con người.
Cũng thế phải dám hy sinh những nhu cầu cấp thấp nếu chúng cản trở không cho
chúng ta đạt được nhu cầu tối thượng là sự sống đời đời.
7. Tình yêu trổ sinh sự sống
Cuộc
tử đạo của thánh Stêfanô đã tác động đến Saolô một cách sâu sắc. Ông đã trở
thành Phaolô, một nhà truyền giáo lỗi lạc nhất của Kitô giáo. Khi chúng ta lưu
ý đến lời cầu nguyện của Stêfanô và những gì Phaolô thấy, trong tâm trí ta nảy
ra hai ý nghĩ. Thánh Augustinô đã diễn tả ý nghĩ thứ nhất như sau: “Nhờ lời cầu
nguyện của Stêfanô, Giaó hội có được Saolô.” Còn Tertulianô, một nhà văn Công
giáo thời xưa đã diễn tả ý nghĩ thứ hai như sau: “Máu các thánh tử đạo là hạt
giống của Giaó hội.”
Tôi
hiểu câu nói của Augustinô và của Tertulianô như thế nào?
Đó
không phải là nỗi khổ đau, mà là nguyên nhân làm nên những vị tử đạo (Ngạn ngữ
Anh).
8. Nhân loại đói những gì?
Cuộc
tử đạo của thánh Stêfanô đã tác động đến Saolô một cách sâu sắc. Ông đã trở
thành Phaolô, một nhà truyền giáo lỗi lạc nhất của Kitô giáo. Khi chúng ta lưu
ý đến lời cầu nguyện của Stêfanô và những gì Phaolô thấy, trong tâm trí ta nảy
ra hai ý nghĩ. Thánh Augustinô đã diễn tả ý nghĩ thứ nhất như sau: “Nhờ lời cầu
nguyện của Stêfanô, Giaó hội có được Saolô.” Còn Tertulianô, một nhà văn Công
giáo thời xưa đã diễn tả ý nghĩ thứ hai như sau: “Máu các thánh tử đạo là hạt
giống của Giaó hội.”
Tôi
hiểu câu nói của Augustinô và của Tertulianô như thế nào?
Đó
không phải là nỗi khổ đau, mà là nguyên nhân làm nên những vị tử đạo (Ngạn ngữ
Anh).
9. Vẫn đói bên cạnh kho lương thực
Vào
thập niên 1800, một gia đình di dân tiêu xài gần hết số tiền của mình để mua vé
tàu sang Mỹ. Để tiết kiệm số tiền ít ỏi còn lại, họ ở lại trong buồng, ăn bánh
khô và uống nước lã, chứ không đến phòng ăn trên tàu với thức uống mắc hơn. Khi
cập biến Nữu Ước, họ mới biết các bữa ăn trên tàu không tốn tiền, nó bao gồm
trong tiền vé.
Nhiều
người cũng trải qua cuộc đời bằng cung cách như thế. Họ nhìn đói về mặt thiêng
liêng hơn là ăn “Bánh sự sống.” Bánh được biếu không nơi bàn tiệc Thánh Thể (Bữa
tối của Chúa).
Đâu
là kinh nghiệm của tôi về Bữa tối của Chúa trong thời điểm hiện tại của tôi?
Tôi có thể làm gì để đào sâu và làm cho kinh nghiệm đó phong phú hơn?
Hiệu
quả của việc chia sẻ Mình Máu Chúa Kitô là biến đổi chúng ta thành chính cái
chúng ta lãnh nhận (Đức Giaó Hoàng Lêô Cả).
10. Chúa chịu chết để làm gì?
“Lúc
đó tôi biết thế nào tôi cũng chết, nhưng tôi muốn con tôi được sống.” Đó là lời
của Suzana sau khi được cứu trong trận động đất ở Armenia vào tháng 12/1987.
Con gái 4 tuổi khát nước. Mẹ rạch ngón tay mình cho con bú. Hành động cảm động
đó càng làm nổi rõ hành động tự hiến của Đức Giêsu lấy thịt máu mình làm của ăn
nuôi dưỡng linh hồn chúng ta.
Thật
vậy, đó không chỉ là hành động ‘anh hùng’ để cứu một người con, mà là để cứu
muôn muôn người. Đó không chỉ là hành động của con người mà là của Thiên Chúa.
Đó không chỉ để làm của ăn của uống mà còn là để ký kết giao ước vĩnh cửu.
Tin
vào Chúa Giêsu có nghĩa là đến với Ngài để thông dự vào sự sống thần linh của
Ngài. Niềm tin đó ắt phải dẫn bạn đến việc lãnh nhận Mình Máu Chúa, để sự sống
thần linh đó lớn lên trong bạn.
THỨ TƯ - Ý nghĩa của
cuộc sống
Lời Chúa: Ga 6, 35-40
Khi ấy, Chúa Giêsu phán với đám
đông rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói;
ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ. Nhưng Ta đã bảo các ngươi rằng: Các
ngươi đã thấy Ta, nhưng các ngươi không chịu tin. Những ai Cha đã ban cho Ta sẽ
đến với Ta. Và ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài.
Bởi vì Ta từ trời xuống không phải
để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta. Vậy ý của Cha, Đấng đã
sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết,
Ta sẽ cho nó sống lại. Quả vậy, ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người
thì có sự sống đời đời."
TRUYỆN KỂ
1. Sống
là chính Đức Kitô
Một mục sư nọ kể câu chuyện sau:
Hai người bộ đội vào một giáo đường
để trốn các cuộc truy lùng. Khi bước vào giáo đường, họ đe dọa: Ai không bỏ đạo
sẽ bị bắn ngay tại chỗ, ai bỏ đạo đứng sang bên phải. Có một số người đứng sang
bên phải và được thả về nhà ngay, những người còn lại vẫn hiên ngang chờ đợi
cái chết. Khi những kẻ nhát đảm ra khỏi nhà thờ, hai người lính mới hạ súng xuống
và ôn tồn nói: “Chúng tôi cũng là Kitô hữu,
sở dĩ chúng tôi làm thế, vì chúng tôi muốn biết ai là người thực sự sẵn sàng chết
cho đức tin của mình, chỉ những người đó mới đáng tin cậy."
Sống đức tin có nghĩa là sống
cho Đức Kitô và vì Đức Kitô. Đó là đức tin mà Giáo Hội mời gọi chúng ta củng cố
khi cho chúng ta lắng nghe đoạn Tin Mừng hôm nay.
2. Chu
toàn ý Cha
Vào những ngày cuối tháng 6 năm
1848. Cuộc nội chiến xảy ra ác liệt trên những đường phố của kinh thành Paris.
Tiếng la hét om sòm vang lên khắp nơi. Nằm trên giường bệnh, nhà văn
Chateaubriand nghe rõ mồm một. Ông cầm lấy cây thánh giá và cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, chỉ có Chúa mới cứu
vãn được xã hội hiện tại này."
Rồi dán chặt đôi mắt một cách
trìu mến vào tượng Chúa Giêsu chịu chết trên cây thánh giá, nhà văn thốt ra những
lời cuối cùng đầy xúc động: “Đây chính là
Chúa của con. Đây chính là Vua của con!"
Ðức Giêsu đến không làm theo ý
mình, nhưng là để chu toàn ý Cha: “Ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào
Người thì có sự sống đời đời."
3. Cửa
không khóa
Buổi sáng bà lão ra ngoài. Buổi
chiều bà trở về, bà không tìm thấy chìa khóa.
Không biết làm thế nào ?! Bà chạy
sang hàng xóm, mượn chìa khóa của họ mở thử, chẳng có cái nào hợp.
Cuối cùng một người góp ý: cứ mở
then cài ra xem sao! Bà mở then và cánh cửa mở toang. Thì ra khi đi ra bà không
khóa cửa.
Câu chuyện trên mô tả phần nào
thái độ của chúng ta trước Chúa. Ta đứng ngoài, lòng đầy băn khoăn lo sợ. Ta
nghĩ phải làm việc này việc nọ mới đáng đến với Chúa. Trong khi đó, cánh cửa
nhà Chúa luôn mở rộng và ưu ái đón ta vào. (Góp nhặt)
4. Vị thầy
duy nhất
Cha Matthêô, vị tông đồ của
Phong trào tôn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu trong các gia đình, thuật lại một câu
chuyện đã xảy ra trong cuộc đời của mình:
Tôi ở Lộ Đức, khi vừa giảng xong
tôi bước xuống khỏi hang đá, khá mệt. Một nông dân tiến lại gần, cầm tay tôi và
nói:
-
Có phải cha là người vừa giảng ở Vương Cung Thánh đường không ?
-
Vâng!
- Ồ
quí hóa quá. Từ nhiều năm nay con vẫn dâng việc rước lễ hàng ngày và giờ thờ lạy
Mình Thánh Chúa mỗi tuần của con, để xin Trái Tim Chúa ngự trị trong mọi gia
đình, và cha vừa giảng với mục đích ấy.
Tôi nói với ông:
-
Hãy đến khách sạn với tôi. Chúng ta sẽ nói chuyện lâu dài với nhau.
- Đến
khách sạn với cha ư ? Thưa cha không thể được, vì con còn có xe bò. Con không
thể để xe và các con bò ở đây để đến với cha ngay được.
- Vậy
tối nay, 8 giờ đến nhé.
- Tối
nay, 8 giờ. Dạ, được.
Ông ta đến và chúng tôi ngồi nói
chuyện với nhau đến nửa đêm. Người nông dân nói chuyện như một nhà thần học có
tầm cỡ. Cuối cùng, tôi nói với ông:
-
Ông muốn trở thành bạn của tôi không ?
-
Thưa cha, muốn lắm chớ.
- Vậy
các người bạn thường viết thư cho nhau, ông nhớ viết thư cho tôi nhé.
Bác nông dân lắc đầu lia lịa:
-Thưa
cha, con không biết đọc và biết viết.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Vậy
ông học ở đâu được tất cả những gì ông vừa nói với tôi thế ?
Đến lượt ông ngạc nhiên:
- Ở
đâu ư ? Cha hỏi con học ở đâu khi mỗi ngày cha đều dâng lễ. Ở bên Người, bên
Chúa, chính Người là vị thầy duy nhất của con.
5. Chúa
là Đấng Cứu độ
Và đây là trang nhật ký của một
Linh mục:
“…Đức
Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì thật khô cứng, sự
khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một
tình yêu thiết tha tung cánh…Rồi chẳng biết từ đâu, Triết Đông và Phật Giáo len
lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng nó lại có sức giật tung những gì
mòn mỏi trong lòng tôi. Tôi nằng nặc đòi nhà dòng cho tôi được ra ở một mình
trên núi, sống với nắng, với gió mưa, với đói khát, và với cả sợ hãi nữa. Nhưng
mỗi lần tôi để tâm suy, trí niệm thì vấn đề Đức Giêsu lại vang lên, đeo bám
mãi. Sau một năm, tôi hết phép. Với thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, lại mò về
nhà dòng hoàn toàn tay trắng! Nhưng Chúa Giêsu cứ đeo bám tôi mãi. Một năm trời
nổi loạn, thất bại đã trôi qua và kể như trắng tay, tôi được bề trên gọi làm
…Linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi bất động
trong nhà nguyện trầm lặng nhưng lòng như bị đay nghiến, như một mất mát đòi
tôi phải đền bù.
Một
đêm trước khi làm Linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát nhà chầu. Có cái
gì đó hơn là một cảm giác, hơn là một sự rung động, phủ chụp lấy toàn bộ cuộc đời
và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi hiểu rằng, cho dù có là hòn đá, hòn sỏi,
dù tôi có là con người bê bết lấm bùn, thân tàn ma dại, dù đã làm hỏng cả cuộc
đời, thì Đức Giêsu vẫn gọi và chọn tôi. Việc đó làm cho tâm hồn tôi bừng sáng
lên huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa cuộc đời của tôi…
Lạy
Chúa, chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn
được Ngài yêu thương và Ngài khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata).
6. Chúa
là lương thực
Ngày 21-07-1969, hai phi hành
gia người Mỹ đã đổ bộ xuống mặt trăng.
Anh Amstrong đạo Tin Lành, gởi
ngay một bức điện về trái đất: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa,
không trung loan báo việc tay Người làm.” (Tv 19/18, 2).
Còn Adryan, người Công Giáo, anh
vội mở hộp đựng Mình Thánh Chúa và rước Lễ.
Như thế lần đầu tiên hai phi
hành gia đã đưa hai Lương Thực chính của bàn tiệc Thánh Lễ lên mặt trăng:
- Một anh viết Lời Chúa: Tv
19/18, 2 trên tấm bảng mica và cắm trên mặt trăng.
- Một anh rước Mình Thánh Chúa,
bảo đảm cho anh được sống đời đời, khi anh bước ra khỏi trái đất sang một hành
tinh khác.
7. Tôi
thuộc nhóm nào?
Trong cuốn sách “Cuộc tan vỡ lớn”,
nhà thần học người Anh C.S.Lewis chia thế giới thành hai nhóm người: những người
nói với Thiên Chúa: “Xin cho ý Chúa được
thể hiện”, và những người Thiên Chúa nói với họ: “Thôi, tùy ý con.”
Lời Chúa Giêsu trong bài đọc hôm
nay và hai nhóm người trên đây mời gọi tôi tự hỏi tôi thường thấy mình thuộc
nhóm người nào? Tại sao?
Thế gian đang qua đi cùng với dục
vọng của nó. Còn ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, thì tồn tại mãi mãi (1Ga
2,27).
8. Chết
không phải là hết
Hơn bất cứ một nhà khoa học nào
khác, Wernher von Braun chịu trách nhiệm về việc đưa người Mỹ lên mặt trăng.
Trước khi chết, ông đã đưa ra chứng cớ liên hệ đến đời sống sau cái chết: “Tôi nghĩ rằng khoa học gây ngạc nhiên thực
sự đối với những ai hoài nghi… Không có gì trong thiên nhiên, ngay cả những
phân tử nhỏ nhất có thể biến mất mà không để lại dấu vết. Thiên nhiên không biết
đến sự hủy diệt. Tất cả điều nó biết là sự biến đổi. Mọi điều khoa học dạy và
tiếp tục dạy tôi khiến tôi thêm vững tin rằng đời sống tinh thần vẫn tồn tại
sau cái chết.”
Tại sao tôi không sống phù hợp
hơn với niềm tin rằng cuộc sống này chỉ là bước khai mở vào đời sống vĩnh cửu?
Nếu tôi khám phá nơi mình một
khát vọng mà không kinh nghiệm nào trong cuộc đời này chỉ có thể thỏa mãn, thì
cách giải thích thỏa đáng nhất là tôi được tạo dựng cho một thế giới khác
(C.S.Lewis).
THỨ NĂM - cử hành
Thánh Thể
Lời
Chúa: Ga 6, 44-51
Khi
ấy, Chúa Giêsu phán với dân chúng rằng: "Không ai đến được với Ta, nếu
Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong
ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: "Mọi người sẽ được
Thiên Chúa dạy bảo." Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một
ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha.
Thật,
Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự
sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời
xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai
ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế
gian được sống."
TRUYỆN KỂ
1. Thịt Máu Chúa Giêsu
Ở cổng
nhà Dòng nọ có cậu bé bị bỏ rơi, một Thày dòng đã đem về nhà dòng nuôi. Với thời
gian, cậu bé lớn lên, khôn ngoan và tinh nghịch. Vốn tính nghịch ngợm, cậu bé bị
cấm không được leo lên kho trên gác. Nhưng vì tò mò, ngày nọ Marxellino đã leo
lên gác. Cậu sửng sốt khi thấy có một người khổng lồ bị treo trên Thánh giá.
Nghĩ
rằng người này đang đói, nên ngay đêm đó, Marxellino đã lẻn vào bếp ăn cắp bánh
và rượu đem lên cho người bị treo trên Thánh Giá. Từ đò, ngày ngày cậu bé cứ âm
thầm tiếp tế lương thực cho con người khốn khổ ấy. Thế rồi, một ngày người khổng
lồ ấy xuống khỏi Thánh Giá, đến bên cạnh cậu bé và hỏi: “Con thích điều gì nhất." Cậu bé đáp: “Con muốn được thấy mẹ con." Người khổng lồ liền nói: “Con hãy nhắm mắt lại và ngủ say."
Ngày hôm sau, các tu sĩ trong nhà không thấy Marxellino nữa, họ đi tìm và này cậu
bé đã chết trong vòng tay của Chúa Giêsu trên Thánh giá.
Đối
với Marxellino trong câu chuyện trên, bánh và rượu là ngôn ngữ cậu bé dùng để
nói với Chúa Giêsu: “Con yêu mến Chúa”,
“Con muốn được chăm sóc Chúa."
Còn
đối với Chúa Giêsu, bánh và rượu Ngài ban qua Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ của
tình yêu hiến thân để trở thành lương thực nuôi sống chúng ta, và Ngài muốn
chúng ta mở rộng tâm hồn để đón nhận.
2. Bánh trường sinh là Đức Giêsu
Có
một câu chuyện kể rằng: hai người yêu nhau tha thiết, nhưng chàng trai có lệnh
lên đường đi nhập ngũ trong thời chiến. Bạn gái rất đau khổ, vì không biết đi
như vậy, liệu có sống sót trở về không? Vì thế, nàng khóc lóc thảm thiết! Tuy
nhiên, lệnh đã được ban, chàng không có cách nào khác, đành lòng rời xa nàng để
đi thi hành nhiệm vụ. Trước khi chia tay, chàng tặng nàng một chiếc khăn mùi
xoa với hoa văn thêu rất đẹp. Nàng trân trọng đón nhận và lưu giữ kỷ vật ấy như
là vật thiêng thánh, và thi thoảng bỏ ra xem.
Mỗi
lần nhìn thấy khăn đó, nàng có linh cảm như chàng đang ở trước mặt mình. Vì thế,
nàng có thể cười hay khóc rất tự nhiên, khiến nhiều người không khỏi thắc mắc!
Như
vậy, qua câu chuyện trên, chúng ta thấy cô gái có một niềm tin mãnh liệt rằng:
chiếc khăn ấy chính là hiện thân của người yêu mà mình hết mực thương mến.
Tin
Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng mời gọi dân chúng tin vào mình. Chỉ khi tin vào
Ngài thì những lời Ngài dạy, mọi việc Ngài làm mới thực sự có giá trị đối với họ.
Vì “ai tin thì được sự sống đời đời."
3. Mầu nhiệm đức tin
Phương
Tây vào thế kỷ XVI sau khi Christophe Colomb khám phá châu Mỹ ít lâu, người ta
đồn rằng ở Tân Thế Giới này có một ngọn suối trường sinh.
Nhà
thám hiểm người Tây Ban Nha tên là Ponce de Léon… liền sắm thuyền vượt biển
sang Nam Mỹ đi tìm con suối huyền thoại thần tiên đó, nhưng đó cũng chỉ là giấc
mộng hão huyền…
Đức
tin mà Đức Giêsu rao giảng là một hồng ân của Chúa Cha, như Chúa Giêsu đã tuyên
bố: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha là
Đấng sai Ta, không lôi kéo người ấy” (Ga 6,44).
Trong
đức tin, nếu chúng ta sống kết hiệp với Thiên Chúa qua bí tích Thánh Thể, cuộc
đời chúng ta sẽ trở nên tràn ngập hồng ân. Chính lúc đó, chúng ta mới cảm nghiệm
được sâu sắc lời của thánh Augustinô: “Có
đức tin là tin những gì chúng ta không thấy và phần thưởng của đức tin là thấy
những gì chúng ta tin."
4. Bí quyết trường sinh bất tử?
Tần
Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông
là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài 2000 dặm. Đó là kiến trúc duy nhất
trên trái đất, mà phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian.
Theo
tạp chí National Geographic, Tần Thủy hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường
sinh bất tử, nên ông tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng.
Một
ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển
Đông, dân cư ở đây đã khám phá ra bí quyết trường sinh. Tần Thủy Hoàng liền
phái nhiều tầu thuyền chất đầy châu báu ngọc ngà quí hiếm để đi tìm, với hy vọng
đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường
sinh của họ.
Thế
rồi ông lo xây mồ như cung điện nguy nga, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy
tinh làm sông ngân hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ
trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ
làm vua được hơn chục năm và sống trên 50 tuổi thì chết.
5. Để tình thương của Chúa lôi kéo
Một
buổi chiều rảnh rỗi, văn hào Paul Claudel thong thả dạo bước nhàn du. Khi đi
ngang một nhà thờ, tiếng thánh ca tứ đó vọng ra đã lôi kéo bước chân ông đi vào
nhà thờ. Ở đó ông đã gặp Thiên Chúa, gặp niềm tin. Đó là một cách lôi kéo của
Thiên Chúa.
Thiên
Chúa cũng dùng biết bao cách khác để lôi kéo chúng ta. Chỉ cần ta đừng cố chấp
nhưng ngoan ngoãn bước theo, thì ta sẽ “đến” được với Ngài. Hãy nhớ lại xem đã
bao nhiêu lần và những lần đó thế nào, tôi đã lỡ mất đã không ngoan ngoãn bước
theo sự lôi kéo của Thiên Chúa.
6. Được Chúa hơn mọi điều được
Bà
J. Scaggs, một giáo sĩ thuộc một giáo phái Tin lành ở Nigéria, châu Phi, đã kể
lại câu chuyện cảm động sau đây:
Một
ngày kia bà được mời đến dự lễ Giáng Sinh được tổ chức tại Grace Camp, một
trung tâm điều trị bệnh cùi. Lần đầu tiên bà chứng kiến một số người cùi đông
như vậy. Buổi lễ được tổ chức ngoài trời. Nhìn chỗ nào bà cũng thấy những người
ngồi dự lễ. Gốc cây, ụ đất, bãi cỏ... chỗ nào cũng đông nghẹt người. Bà thấy họ
thật đáng thương, bệnh tật gậm nhấm dần và hủy hoại thân thể họ, nhưng khuôn mặt
người nào cũng bày tỏ niềm vui, mắt họ sáng ngời khi họ hát những bài thánh ca
Giáng Sinh.
Đến
phần công bố Lời Chúa, mục sư mời một người bị bệnh cùi ăn mất hết mấy ngón tay
lên đọc sách Thánh, ông phải lật các trang sách bằng một cái que buộc vào cổ
tay. Sau bài giảng, mục sư mời người đó chia sẻ về những ân phúc Chúa đã ban
cho mình, người bệnh cùi ấy giơ bàn tay không còn ngón và đứng lên, ông nhỏ nhẹ
nói:
- Tôi muốn cảm ơn Đức Chúa Trời
vì Ngài đã cho tôi bị cùi.
Bà
Scaggs lấy làm lạ, nói với người thông dịch rằng, anh ta dịch sai. Không ai lại
có thể cám ơn Chúa vì “được cùi” bao giờ. Người thông dịch tiếp tục dịch lại lời
người bệnh đang giải thích nguyên do:
- Nếu tôi không bị cùi, có thể
tôi đã không bao giờ biết Chúa, không bao giờ cảm nghiệm được tình yêu của Chúa
dành cho tôi sâu xa đến thế. Còn thực tế là bây giờ tôi đang bị bệnh cùi, có thể
tôi sẽ không bao giờ được chữa lành, nhưng tôi lại cảm nghiệm được tình yêu của
Chúa luôn đổ tràn trên tôi, qua biết bao người đang săn sóc trợ giúp tôi!
7. Bánh hằng sống
Trong
một cuộc họp mặt đông đảo của những người Kitô hữu, tại một nhà thờ ở Tây Đức,
để tiếp đón mẹ Têrêsa Calcutta, người ta dâng lên cho mẹ một bó hoa tuyệt đẹp.
Bỡ
ngỡ trước lòng quí mến và trọng kính mà cử tọa dành cho mình, mới đầu mẹ Têrêsa
tỏ ra hơi lúng túng. Nhưng sau đó vài giây, với thái độ đơn sơ quen thuộc, mẹ
đã ôm bó hoa, đi thẳng lên trên cung thánh, quì gối trước bàn thờ, rồi đặt bó
hoa mà mẹ vừa được trao tặng, trước nhà tạm.
Cử
chỉ này của mẹ Têrêsa cho thấy, Thánh Thể chính là nguồn tình yêu và nghị lực
mà từ đó mẹ đã kín múc lấy cho cuộc sống dấn thân và phục vụ cách vô vị lợi của
mẹ.
“Tôi là bánh hằng sống từ trời
xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh Tôi sẽ ban tặng, chính là
thịt Tôi đây, để cho thế gian được sống."
(Ga 6,51)
Thánh
Gioan Tông đồ đã quả quyết: “Thiên Chúa
yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một yêu dấu của Ngài cho thế gian”
(Ga 3,16).
8. Ai có tai thì nghe
Trong
suốt thời kỳ khủng hoảng, một văn phòng đầy những người đến xin việc làm người
đánh điện báo. Những tiếng gõ đều đều của mật mã… Cánh cửa mở ra, một người
khác nữa đến xin việc bước vào. Anh đứng đó một lúc, rồi bước đến phòng có đề bảng
“phòng riêng” và gõ cửa. Một người mở cửa và nói với những người khác: “Các anh có thể đi, chúng tôi đã tuyển được
người.”
Những
người kia giận dữ và đòi được giải thích. Người mở cửa nói: “Hãy lắng nghe.” Họ đã lắng nghe tiếng mật
mã cứ lặp đi lặp lại: “Nếu các anh nghe
được tiếng này, hãy bước vào, công việc đó thuộc về các anh.”
Câu
truyện nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa thường xuyên nói với chúng ta, nhưng
chúng ta không lắng nghe.
Chúa
Giêsu kết luận: “Ai có tai nghe thì nghe” (Lc 8,8).
9. Ai thấy Thầy là thấy Cha
Một
nữ sinh trung học nói trong một cuộc hội thảo: “Tôi không thể tin vào Thiên Chúa nữa.” Giáo sư của cô đáp lại: “Có lẽ Thầy phải chúc mừng em.”
Cô
hỏi: “Ý Thầy muốn nói gì ạ?” Giáo sư
trả lời: “Có lẽ ý tưởng về Chúa mà em chối
bỏ.”
Ở
đây có một điểm rất quan trọng. Thông thường, Thiên Chúa mà người ta chối bỏ
không phải là Thiên Chúa thật, mà chỉ là ý niệm sai lầm về Thiên Chúa vốn chỉ
hiện hữu trong tâm trí họ mà thôi. Hình ảnh rõ nét nhất của Thiên Chúa được tìm
thấy nơi Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy” (Ga 14,9).
Điều
gì nơi Chúa Giêsu nói với tôi cách hùng hồn nhất về Cha?
"Như bản in của con dấu
trên sáp là hình ảnh rõ ràng của con dấu đó. Cũng vậy, Chúa Kitô là hình ảnh rõ
nét nhất, biểu lộ hoàn hảo nhất của Thiên Chúa"
(Thánh Ambrôsiô).
“Tôi muốn con tôi sống." Đó là ước nguyện của bà Suzanna khi bà và đứa con
gái 4 tuổi bị lấp vùi dưới đống gạch vụn trong cuộc động đất ở Liên Xô năm
1987.
Nghe tiếng kêu than của đứa bé “Mẹ ơi con khát quá!” bà đau lòng lắm
nhưng biết lấy đâu ra nuớc! Tình mẫu tử đã gợi cho bà ý tuởng táo bạo, lấy máu
của mình cho con uống. Bà cắt lần lượt đầu ngón tay của mình và đút vào miệng bảo
con nút. Sau khi được cứu sống bà nói: “Lúc
đó tôi biết thế nào tôi cũng chết nhưng tôi muốn con tôi được sống."
Câu chuyện cảm động trên gợi lên
cho ta Tình Yêu Cao Cả của Chúa Giêsu đối với nhân loại. Vì yêu, Ngài đã hy
sinh chính mạng sống của mình, chịu chết trên thập giá, đổ ra đến giọt máu cuối
cùng. Hơn thế nữa, Ngài còn ban tặng chính thịt máu mình làm của ăn của uống
trường sinh cho ta qua Bí Tích Thánh Thể.
Ước mong của Ngài là chỉ muốn
cho con người được sống và sống trong tình yêu.
THỨ SÁU - Con đường
hiến thân
Lời Chúa: Ga 6, 53-60
Khi ấy, những người Do-thái
tranh luận với nhau rằng: "Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho
chúng ta ăn được?"
Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ:
"Thật, Ta bảo thật các ngươi: Nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống
máu Ngài, các ngươi sẽ không có sự sống trong các ngươi. Ai ăn thịt Ta và uống
máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết. Vì
thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật là của uống. Ai ăn thịt Ta và uống máu
Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Đấng hằng sống đã sai
Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta. Đây là
bánh bởi trời xuống, không phải như cha ông các ngươi đã ăn manna và đã chết.
Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời."
Người giảng dạy những điều này tại
Hội đường Capharnaum.
TRUYỆN KỂ
1. Con
đường hiến thân
Bất chấp sự phản đối của Hoa Kỳ,
Nga đã đưa du khách đầu tiên vào không gian. Vị du khách này là một triệu phú
người Mỹ, tên là Dennis Titô. Ông Titô đã rời căn cứ phi thuyền không gian vào
tối thứ Bảy tháng 4 năm 2001 và được đưa lên trạm không gian quốc tế.
Sở dĩ cơ quan không gian Hoa Kỳ
là NASA phản đối chuyến đi này là vì cho rằng ông Titô có thể gây ra nguy hiểm
cho các phi hành gia trên trạm không gian quốc tế. Tuy nhiên, cơ quan không
gian của Nga cam đoan rằng sứ mạng của ông Titô sẽ được bảo đảm trong suốt chuyến
du hành vào không gian. Ðược biết, vé du lịch không gian của ông Titô là hai
mươi triệu mỹ kim.
Phải bỏ ra một số tiền kếch xù
như thế để ra khỏi trái đất tìm một chút cảm giác thoát tục để trở thành một
con người nổi tiếng quả là điều không cân xứng. Trong khi con người muốn bay
lên trời cao bằng những phương thế và xác thịt riêng của mình, thì Ðấng từ trời
cao đã xuống trần gian, để chỉ cho con người cách thế đúng đắn nhất để lên trời
cao.
2. Sống
bằng sự sống của Thiên Chúa
Triết gia Nietzsche của Đức đã
cho rằng: "Kitô giáo là vong thân.
Con người càng tin tưởng nơi thần linh, con người càng đánh mất chính mình. Như
vậy để cho con người đừng thẳng lên như một con người, cần phải loại trừ Thiên
Chúa ra khỏi con người."
Thật ra, con người không thể loại
bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống, vì làm như thế con người sẽ chuốc lấy chết
chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy của cái chết, loại bỏ Thiên Chúa là tự hủy
diệt. Con người không thể sống mà không cần Thiên Chúa, đó là bản chất Thiên
Chúa đã phú bẩm cho con người, đi ngược với bản chất ấy là đi vào cõi chết.
3. Hiệu
quả của Thánh Thể
Daniel Connell, người đã giải
phóng dân tộc Ái Nhĩ Lan, là một tín hữu can đảm và nhiệt thành. Khi có một số
bạn bè theo đạo Tin Lành chế nhạo ông vì họ không hiểu rõ và cũng không tin Đức
Giêsu hiện diện trong bí tích Thánh Thể.
Bấy giờ Daniel đã trả lời như
sau: “Sao các ông lại hỏi tôi? Lẽ ra các
ông phải hỏi Đức Giêsu mới đúng. Phần tôi, tôi chỉ tin vào Lời Chúa nói. Nếu Lời
Chúa khẳng định rằng: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của uống” mà thực
sự không đúng, thì người nói là Đức Giêsu mới đáng trách chứ không phải là tôi!
Nhưng tôi luôn tin rằng: Lời Chúa là sự thật, là Lời hằng sống và sẽ tồn tại đến
muôn đời."
Câu trả lời của Daniel Connell
cho ta thấy: Niềm tin vào bí tích Thánh Thể cũng như toàn bộ niềm tin của chúng
ta đã được xây dựng trên nền tảng vững chắc là Lời Chúa trong Thánh Kinh. Lời
Chúa là ánh sáng chỉ đường, là sức sống của ta, là căn bản đức tin của ta, là
lương thực nuôi dưỡng linh hồn chúng ta. Do đó, ta cần phải có thái độ tôn trọng
Lời Chúa, yêu mến và thực hành Lời Chúa, là điều kiện để ta được ơn cứu độ
4. Mình
Máu theo nghĩa đen
Hôm nay Đức Giêsu nhắc lại chủ đề
mấy ngày hôm trước và đưa ra thêm yếu tố mới. Ngài nói: “Bánh Ta sẽ ban là thịt máu Ta... Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật
là của uống”, nghĩa là trong phần trước, Chúa chỉ nói Ngài là bánh bởi trời
đích thật, trong phần này, Chúa nói rõ hơn bánh đó chính là thịt máu Ngài: “Thịt Ta thật là của ăn, máu Ta thật là của
uống."
Nghe Chúa nói như vậy, phản ứng
của người Do thái có vẻ mạnh hơn trước, họ xô xát nhau: “Làm sao ông này có thể lấy thịt ông ta mà cho chúng ta ăn được?” Họ
đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen và cũng chính là ý nghĩa mà Chúa muốn nói. Cho
nên, dù dân chúng có phản đối, các môn đệ có bỏ đi, Chúa chẳng những không rút
lời, nhưng lại giải thích rõ hơn và nhấn mạnh hơn: “Quả thật, thịt Ta là của ăn, máu Ta là của uống, ai ăn thịt Ta và uống
máu Ta thì được sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại trong ngày sau hết."
5. Mình
Thánh Chúa tôi đang cất giấu.
Thời cách mạng Pháp 1789, Giáo hội
tại đây bị bách hại dữ dội. Cha xứ Breta cải trang đến dâng lễ tại một gia đình
đạo đức trong xứ, là gia đình của cậu bé Benjamin. Cậu bé rất sung sướng, vì
đây là lần đầu tiên cậu được giúp lễ. Đến đó, cậu theo cha xứ đi đưa Mình Thánh
Chúa cho kẻ liệt. Bỗng có tiếng xì xào, một toán lính đang tiến lại. Cha xứ vội
trao Mình Thánh Chúa cho cậu bé rước, dầu cậu bé chưa được rước lễ vỡ lòng. Cha
cũng trao cho cậu giữ luôn cả mặt nhật, rồi cả hai chia tay nhau, mỗi người chạy
một ngã. Vì còn nhỏ, chạy chậm, Benjamin bị toán lính bắt kịp. Một lát sau, cha
xứ cũng bị bắt. Chúng tra hỏi cha: “Mày cất
giấu Mình Thánh Chúa ở đâu?” Cha một mực im tiếng. Tức giận, chúng bắn cha
chết tại chỗ. Lục soát một hồi cũng không thấy Mình Thánh Chúa ở đâu, chúng liền
quay sang Benjamin: “Chắc chắn mày đang
giữ Mình Thánh Chúa, đưa ngay kẻo thiệt mạng." Benjamin vừa can đảm vừa
ngây thơ trả lời: “Trong bụng tôi, các
ông mổ ra mà lấy." Điên tiết, bọn lính cũng giết Benjamin tại chỗ, bên
một cây sồi già.
Mấy năm sau, Giáo hội Pháp được
bình yên trở lại. Một cơn bão làm đổ cây sồi già, dưới gốc cây bị trốc rễ lên,
người ta thấy hai xác, trên xác cậu bé, mặt nhật còn đó, sáng ngời.
6. Nguồn
sống
Khi mẹ Têrêsa Calcutta sang Liên
Xô xin gia nhập chi nhánh của Dòng bà, bà đã xin cho bằng được có một Linh mục
để mỗi ngày dâng Thánh lễ cho các nữ tu. Bà giải thích lý do: sở dĩ các nữ tu
có đủ tinh thần nghị lực để mỗi ngày đem đến cho những người nghèo khổ sự an ủi,
phục vụ và yêu thương, đó là nhờ Mình Máu Chúa mà họ rước mỗi ngày: “Vì thịt Ta thật là của ăn, và máu Ta thật
là của uống."
7. Thánh
Thể - tình yêu hiến mình
Bên Trung hoa vào đời Xuân Thu,
công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, gặp lúc lương thực
không có, công tử lại không ăn được rau cỏ dại trong rừng, thấy vậy Giới Tử
Thôi đã lén cắt thịt đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Khi lập phép Bí tích Thánh Thể,
Chúa đã muốn hiến chính thịt máu ngài làm của ăn của uống nuôi linh hồn chúng
ta hằng ngày.
8. Dấu
chỉ của tình yêu
Vào thời gian đạo Công giáo bị cấm
đoán, một thương gia Công giáo người Đức đã đi lên miền Bắc cực. Vì công việc
làm ăn, ông phải lưu lại đó suốt mùa Giáng Sinh.
Biết ông là người Công giáo, một
gia đình ở đó đã mời ông đến nhà để cầu nguyện cùng với họ vào đêm Giáng Sinh.
Trong đêm tối lạnh buốt, họ quây quần quanh chiếc bàn nhỏ. Đúng nửa đêm họ cùng
nhau cầu nguyện.
Sau lời chào chúc bình an, lời
nguyện và bài Kinh Thánh, ông lão kéo ngăn bàn và lấy ra một hộp nhỏ. Trong hộp
có một khăn thánh đã úa vàng theo thời gian.
Vừa nâng chiếc khăn lên, ông già
vừa run run cất giọng nói:
-
Cách đây 50 năm, thánh lễ Giáng Sinh cuối cùng trên mảnh đất chúng ta đang sống
đã được dâng trên khăn thánh này. Lúc ấy tôi là một thanh niên giúp lễ. Đây là
vật duy nhất còn lại. Mình Thánh và Máu Thánh Chúa Giêsu đã ngự trên khăn này.
Sau khi nghe những lời ấy, mọi
người quì gối và ông bố dâng lời cầu nguyện:
- Lạy
Chúa, xin cho chúng con được tự do. Xin gửi các linh mục đến để chúng con được
phúc mừng lễ Giáng Sinh, để chúng con lại được dự phần vào Mình và Máu Chúa.
Người thương gia Đức bồi hồi cảm
động. Ông khao khát lãnh nhận Thánh Thể, một sự khao khát mà trước đây ông chưa
hề có, cho dù ông vẫn đến nhà thờ dự lễ hàng ngày.
Có bao giờ chúng ta cảm thấy
khao khát bàn tiệc thánh như những người trong câu chuyện trên?
9. Chúa
mời dự tiệc
Emilie Griffin là một chuyên
viên quảng cáo đã được huấn luyện để trở thành một kitô hữu và nhà khoa học.
Nhưng khi đến tuổi trưởng thành, cô đã trải qua một cuộc đấu tranh về đức tin.
Điều đó được mô tả trong cuốn sách của cô với tựa đề “Trở về.” Điểm chính trong
thử thách của cô là lời Chúa Giêsu xác quyết rằng Thịt Máu Ngài là của ăn và của
uống đích thực, một xác quyết làm cho kẻ thù Ngài giận dữ và nhiều môn đệ rời bỏ
Ngài (x.Ga 6,32.66). Cuối cùng, niềm tin vào sự hiện diện thực sự của Chúa
Giêsu trong Thánh Thể đã đưa cô đến chỗ đón nhận Giaó hội.
Niềm tin của Emile vào bí tích
Thánh Thể mời gọi tôi nhìn lại niềm tin và sự mộ mến của tôi đối với bí tích
Thánh Thể.
Chúa Giêsu Nazareth hân hạnh mời
bạn đến dự bữa tiệc Ngài ban tặng.
THỨ BẢY - Biết chọn lựa
Lời
Chúa: Ga 6, 60-69
Khi
ấy, có nhiều môn đệ của Chúa Giêsu nói rằng: "Lời này chói tai quá! Ai
nghe được!" Tự biết rằng các môn đệ đang lẩm bẩm về chuyện ấy, Chúa Giêsu
nói với họ: "Điều đó làm các ngươi khó chịu ư? Vậy nếu các ngươi thấy Con
Người lên nơi đã ở trước thì sao? Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt
nào có ích gì? Nhưng lời Ta nói với các ngươi là thần trí và là sự sống.
Nhưng
trong các ngươi có một số không tin.” Vì từ đầu Chúa Giêsu đã biết ai là những
kẻ không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. Và Người nói: "Bởi đó, Ta bảo các
ngươi rằng: Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho.” Từ bấy
giờ có nhiều môn đệ rút lui không còn theo Người nữa.
Chúa
Giêsu liền nói với nhóm Mười Hai rằng: "Cả các con, các con có muốn bỏ đi
không?" Simon Phêrô thưa Người: "Lạy Thầy, chúng con sẽ đi theo ai?
Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con tin và
chúng con biết rằng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa.”
TRUYỆN KỂ
1. Biết chọn lựa
Trong
những ngày vừa qua, nhiều người Mỹ đã tưởng niệm các nạn nhân của cuộc thảm sát
tại trường trung học Litaton, bang Colorado vào năm 1999. Cuộc thảm sát không
những làm cho người Mỹ mà cả thế giới đều bàng hoàng, sửng sốt. Bàng hoàng, sửng
sốt bởi vì đây không phải là cuộc thảm sát đầu tiên xảy ra như thế tại một trường
học ở Mỹ, mà nằm trong một dây chuyền bạo động diễn ra hầu như theo một chu kỳ
khó hiểu. Trong những năm gần đây, cứ vài ba năm lại xảy ra một vụ bắn giết như
thế. Nạn bắn giết như thế cũng đã lan tràn sang Úc và một số nước khác.
Trong
thư mục vụ công bố vào tháng 11/1994, các Ðức Giám Mục Hoa Kỳ đã lên tiếng báo
động điều mà các ngài gọi là một nền văn hóa bạo động, được nuôi dưỡng bằng
truyền thông, âm nhạc và không biết bao nhiêu trào lưu chối bỏ sự sống khác.
Nhưng bạo động từ đâu mà đến, bởi đâu mà con người có thể trở thành bạo động để
hãm hại và loại trừ người khác. Hai cậu học sinh tại trường trung học Litaton
đã có thể tính toán chi li cuộc sát hại và đã có thể cười cợt trên chết chóc,
có lẽ cũng chẳng khác bao nhiêu so với một Milosevich và vô số người Serbi đứng
đằng sau ông với chủ trương tàn sát và diệt chủng đối với người gốc Albani tại
Kosovo.
Bạo
động, sự dữ, tội ác vốn là một bí ẩn của loài người. Mùa Phục Sinh, chúng ta cử
hành cuộc chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và sự chết, đồng thời suy nghĩ
về cuộc song đấu giữa thiện và ác, giữa sự sống và sự chết, giữa hòa bình và bạo
động, giữa ân sủng và tội lỗi. Một cuộc song đấu như thế đang diễn ra trong cuộc
sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Mỗi một giây phút của cuộc sống là một
chọn lựa giữa thiện và ác, giữa ân sủng và tội lỗi, giữa sự sống và sự chết, giữa
hòa bình và bạo động, giữa Chúa Kitô và ác thần. Tin Mừng hôm nay nhắc nhớ
chúng ta về chọn lựa ấy. Sự chọn lựa ấy lại được xây dựng trên chính sự chọn lựa
của Chúa Giêsu.
2. Lý
lẽ của đức tin
Có
một người vô thần, bị rơi từ đỉnh núi cao xuống vực thẳm. May thay là giữa chừng
có một lùm cây cản anh lại. Hai tay giữ chặt lùm cây, nhìn lên chẳng có ai,
nhìn xuống là vực thẳm, anh mới cất tiếng kêu cứu: “Nếu quả thật có Thiên Chúa
quyền năng vô biên, xin Ngài hãy ra tay cứu tôi, tôi xin tin.” Một giọng nói
đáp lại: “Nếu anh thật lòng tin, anh hãy buông tay ra.” Người vô thần thầm
nghĩ: Làm sao mà buông được, trèo lên chẳng được, buông tay thì rơi xuống vực
thẳm, làm sao giữ được mạng sống, và anh hỏi lại: “Thật sự có Ngài ở đó không?”
Nhưng không một lời đáp trả, chỉ còn có tiếng của anh vang vọng giữa núi rừng,
cơ hội cho anh có đức tin đã qua.
Đức
tin đòi con người vượt trên mọi lý luận để xả thân chấp nhận như một liều lĩnh.
3. “Chúng con có muốn bỏ Thầy mà đi không?”
Nói
về sự can trường của các vị tử đạo, người ta có kể đến câu chuyện của Giáo phụ
Policarpo: khi đám lính đã bắt được ngài, họ điệu ngài ra tòa xét xử và buộc
ngài phải từ bỏ Đức Giêsu, chối bỏ niềm tin của ngài vào Thiên Chúa. Tuy nhiên,
cụ già gần 90 tuổi đã tuyên bố cách dứt khoát: “86 năm tôi theo Đức Giêsu, Ngài
không bao giờ phụ bạc tôi, làm sao các ông lại bảo tôi phản bội Ngài...?”
4. Bỏ Thầy con biết theo ai?
M.
Toliver, một nhà truyền giáo ở miền Tây Trung Hoa, có lần gặp hai viên chức cao
cấp đồng thời cũng là những Kitô hữu nhiệt thành.
Một
trong hai người kể rằng: trong một cuộc oanh kích, ông ta, bà vợ và đứa con gái
nhỏ 6 tuổi không tìm được nơi trú ẩn, nên phải nấp dưới gầm bàn ăn. Bom nổ ngay
bên, nên họ chỉ còn biết cúi đầu cầu nguyện.
Khi
qua cơn nguy biến, đức bé nhìn lên thấy ảnh Chúa Giêsu, em nói: “Ba ơi, Chúa
Giêsu là nơi trú ẩn an toàn nhất, phải không ba?”
5. Quyết theo chân Chúa.
Odette,
một cô gái đẹp sinh ra trong một gia đình quí tộc nước Bỉ, năm 17 tuổi cô quyết
định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ đến bắt cô trở về.
Từ lâu, ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.
Vốn
biết cô con gái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã âm thầm chuẩn bị
hôn lễ, các thiệp mời được kín đáo gửi đi và sự chuẩn bị đều giữ bí mật cho đến
giờ chót.
Một
buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vén màn nhìn
qua cửa sổ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước
lâu đài. Hỏi ra, cô mới biết ngưới ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các
người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Xong, họ đưa cô xuống nhà
nguyện tư của lâu đài. Giám mục của vùng và linh mục tuyên úy lâu đài đã nghiêm
chỉnh chờ sẵn.
Nghi
lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có ưng nhận Simon làm chồng theo luật
Giáo hội không? Cô dõng dạc tuyên bố:
-
Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng bởi vì tình
yêu của con đã hiến dâng cho Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu
nào có thể tách rời con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời
con.
Sáng
hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào
phòng. Và kìa, Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu
ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt
chiếc mũi xinh đẹp. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô
thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không còn ai cấm con đi tu nữa.”
Thật
vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu
làm tu viện trưởng mới 23 tuổi.
6. Chọn Chúa
Đức
hồng y Carlo Martini, nguyên là tổng giám mục Milano bên Italia, đã ghi lại
trong quyển chú giải Tin Mừng thánh Gioan, câu chuyện sau đây: Vào thế kỷ thứ
ba, trong Giáo Hội có vấn đề các tu sĩ ào ạt rời bỏ đời sống tu trì... Để giải thích
cho hiện tượng này, một thầy dòng nọ đã mượn câu chuyện chó đi săn thỏ để giải
thích.
Một
chú chó trong đàn bất chợt phát hiện ra một con thỏ. Thế là chú nhanh nhẩu rời
đàn, vừa chạy theo con thỏ vừa sủa inh ỏi. Chẳng mấy chốc, mấy chú chó khác
cũng rời hàng ngũ để chạy theo. Và cứ thế cả đàn chó đã chạy ùa theo.
Tất
cả mọi con chó đều chạy, nhưng kỳ thực chỉ có một con chó đã phát hiện nhìn thấy
con thỏ, còn những con khác thì không. Sau một hồi săn đuổi, chú chó nào cũng mệt
lả, cho nên từ từ bỏ cuộc, bởi vì chúng không nhìn thấy con thỏ đâu. Duy chỉ có
chú chó đầu tiên đã phát hiện ra con thỏ thì vẫn tiếp tục đeo đuổi cuộc săn bắt.
Rồi
vị tu sĩ trên đã đưa ra kết luận như sau:
Đã
có rất nhiều tu sỹ đi theo Chúa, nhưng chỉ có một ít thực sự nhìn thấy Chúa và
họ biết họ đang theo đuổi điều gì. Số khác đã chạy theo, hoặc vì bị lôi cuốn bởi
đám đông, hoặc vì họ nghĩ rằng, họ đang làm một điều tốt, nhưng rồi thời gian
đã làm họ thay đổi và bởi vì họ chưa bao giờ thấy rõ Chúa là lý tưởng, nên khi
gặp khó khăn, thử thách là họ bắt đầu chán nản và bỏ cuộc.
7. Hạnh phúc thật
Có
một thanh niên rất bảnh trai, sau khi chết được đưa đến một nơi có đủ mọi thú
vui để hưởng thụ, một nơi cả đời anh hằng ao ước. Ở đó, anh lấy làm sung sướng
vì được thoả chí toại lòng.
Thế
nhưng cũng đến một ngày anh thấy chán ngán, cảm thấy cần phải làm một việc gì
đó thay vì cứ ở không mà vui chơi hưởng thụ mãi. Anh yêu cầu với người gác cửa,
và được nghe giải thích: “Xin lỗi bạn, ở đây bạn có thể thụ hưởng tất cả nhưng
không phải làm gì hết, mà cũng chẳng có việc gì để làm, để phục vụ người khác
đâu.”
Anh
thanh niên tỏ ra bực bội: “Nếu vậy thì thà cho tôi xuống địa ngục còn hơn!”
Nghe thế, người giữ cửa khoái trá bật cười ha hả: “Ôi chàng trai ngốc nghếch,
thế bạn nghĩ bạn đang ở đâu nhỉ? Bạn tưởng bạn đang ở thiên đàng đấy à?”
Anh
chàng giật mình tỉnh dậy, người đầm đìa mồ hôi…
Thật
may! Đó chỉ là một giấc mơ.
8. Ai muốn theo Ta phải bỏ mình
ĐHY
Cardjin, vị sáng lập phong trào Thanh lao công, đã kể rằng ngài sinh ra và lớn
lên trong một gia đình rất nghèo. Năm 13 tuổi, vào một buổi tối, ngài rón rén
xin cha cho ngài được tiếp tục đi học trong năm học tới. Người cha im lặng hồi
lâu rồi trả lời: “Con ơi, ở tuổi con, ba đã phải đi làm rồi, nay thì ba đã già,
sức đã cạn rồi, có lẽ con phải…”
Hiểu
ý cha, nhưng ngài vẫn tiếp tục nài nỉ: “Ba ơi, con nghĩ là Chúa đã gọi con, con
muốn trở thành linh mục!”
Vừa
nghe biết ý định cậu con trai muốn đi tu, nước mắt người cha từ từ lăn dài trên
đôi má gầy còm. Phải một lúc lâu sau đó, ông mới nghẹn ngào nói được: “Ba má đã
hy sinh quá nhiều, nhưng để được một người con hiến dâng cho Chúa thì ba má sẽ
lại tiếp tục hy sinh.”
9. Con có biết Ta không?
Tại
một hội Ái Hữu của các vận động viên Kitô trong bữa điểm tâm ở bang New
Orleans, nhà bình luận thể thao Gary đã đưa ra năm điều mà Chúa Giêsu có thể
nói với bạn và tôi, nếu như hôm nay Ngài hiện ra với chúng ta:
1- Ta yêu con.
2- Ta biết con.
3- Ta hiểu con.
4- Ta tha thứ cho con.
5- Con có biết Ta không?
Những
lời nói của Gary mời gọi tôi tự hỏi: tôi biết rõ Chúa Giêsu như thế nào? Làm
sao tôi có thể hiểu Ngài rõ hơn?
Không
biết Kinh thánh là không biết Chúa Kitô (Thánh Jerom).
10. Tình yêu đòi hỏi tình yêu
Thánh
nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu khi viết về lần đầu mình được Rước lễ đã diễn tả cảm
nghiệm của mình như được đón nhận cái hôn của Chúa Giê-su trên môi con. Bạn và
tôi đã nhiều lần lãnh nhận Mình Thánh Chúa; có lẽ chúng ta không bị sốc như một
số môn đệ ngày xưa, nhưng xác tín hoàn toàn vào mầu nhiệm Tình Yêu này thì có lẽ
chưa. Mời bạn năng lãnh nhận và suy niệm Bí tích Tình Yêu này để thêm xác tín
và để sống cảm nghiệm ngọt ngào như thánh nữ Têrêxa.
Hãy
thường xuyên rước lễ thiêng liêng và dành thời gian trong ngày để trò chuyện
thân tình với Chúa Giêsu Thánh Thể.
Lễ kính thánh Marcô
- Sư Tử Có Ðôi Cánh
Lời Chúa: Mc 16, 15-20
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với
mười một môn đệ và phán: "Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng
cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ
bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy,
họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất
độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ
được lành mạnh."
Vậy sau khi nói với các môn đệ,
Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng
khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng
những phép lạ kèm theo.
TRUYỆN KỂ
1. Thánh
Mác-cô--Lm Giuse Đinh Tất Quý
Thánh Marcô có thể thuộc dòng tộc
Arong, sinh tại Galilê. Là một trong 72 môn đệ của Chúa Giêsu. Trong công cuộc
truyền giáo, ngài là đệ tử trung kiên của thánh Phêrô. Chính nhờ sự giúp đỡ và
lời yêu cầu nguyện của vị thủ lãnh các tông đồ mà thánh nhân đã viết cuốn Tin Mừng
thứ hai, gọi là Tin Mừng theo thánh Marcô.
Tin Mừng của ngài vắn gọn. Lời
văn không chải chuốt như thánh Matthêo hoặc Luca, nhưng rất chân thành và thực
tế. Ngài không giấu diếm sự chậm hiểu, kém tin của các tông đồ: “Các ông không hiểu ý nghĩa phép lạ bánh hóa
nhiều: lòng trí các ông còn ngu muội” (Mc 5, 52 ); ngài cũng chẳng che đậy
tham vọng của các ông: “Khi đi đường, các
ông đã cãi nhau xem ai là người lớn hơn cả “ (Mc 9. 34 ).
Theo nhiều nguồn tài liệu, mẹ
ngài là bà Maria, một bà góa giàu có ở Giêrusalem, có nhà rộng rãi, có thể làm
nơi hội họp của các tín hữu được và thánh Phêrô cũng thường trú ngụ ở nơi này.
Thánh nhân theo người bà con là
Barnabê và tông đồ Phaolô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất. Nhưng
khi đến Pergê thì ngài trở về Giêrusalem, có lẽ vì lý do sức khỏe. Sau đó, ngài
đã tháp tùng theo thánh Phêrô giảng đạo ở Rôma. Ngài đã chứng kiến “khoảng ba
ngàn người theo đạo “ nhờ bài giảng của thánh Phêrô; ngài thấy tận mắt thánh
Phêrô chữa lành người què từ khi lọt lòng mẹ” tại cửa Đền thờ; ngài cũng bị
“các tư tế viên lãnh binh Đền thờ và các người thuộc nhóm Sađốc” bắt giam...
Chính thánh Phêrô đã trao cho
ngài sứ mạng phúc âm hoá Alexandia. Ngài đã thành lập giáo đoàn này, và hướng dẫn
mọi người sống hoàn thiện đạo đức không kém giáo đoàn Giêrusalem. Toàn thể giáo
đoàn đều hiệp nhất trong một niềm tin, cậy, mến, chuyên cần phụng sự Chúa và phục
vụ nhau.
Chính vì thế mà ma quỷ ganh tị.
Chúng xúi dục những người ngoại giáo quá khích chống đối bách hại thánh nhân. Họ
bắt ngài; cột cổ kéo lôi trên sỏi đá làm cho da thịt ngài bị xé rách nát ra.
Máu chảy đầm đìa. Rồi đem bỏ vào ngục. Sáng hôm sau, họ lại dắt ngài ra và hành
hạ y như hôm trước. Đau đớn quá, ngài kiệt sức dần và tắt thở..
2. Truyền
giáo đơn sơ
June là một cô bé 5 tuổi xinh đẹp
và lanh lợi. Cha là một mục sư. Mỗi khi đi đâu, Mẹ thường cho em theo.
Ngày nọ, khi hai mẹ con vào bưu
điện, một ông lão thấy em liền hỏi:
-
Này bé, ai cho bé mái tóc đẹp thế?
-
Chúa cho cháu đó!
Nói xong bé nhìn thẳng vào ông hỏi:
-
Thế ông có được Chúa cho gì không? Có được Chúa cứu không?
Ông già kinh ngạc và xúc động
trước câu hỏi đơn sơ đó. Ông thẫn thờ đáp:
-
Không, bé ạ!
-
Thế thì ông phải đến với Chúa ngay đi. Rồi Chúa sẽ cho ông thành một người thật
đẹp đẽ!
Nói xong, bé vội chạy theo mẹ.
Ít tuần sau, ông tìm đến nhà thờ
và theo đạo. Ông cho biết lời của em bé luôn ám ảnh trong đầu và ông quyết định
theo Chúa. (Góp nhặt)
Một cách truyền giáo đơn sơ
nhưng kết quả thật không ai ngờ!
3. Truyền
giáo là chia sẻ hồng ân đức tin
Fritz Kreisler (18751962) là một
nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng khắp thế giới. Ông đã tạo được một cơ nghiệp đồ sộ nhờ
các buổi hòa nhạc và soạn nhạc, nhưng lại hào phóng cho đi gần hết của cải. Do
đó, trong một chuyến lưu diễn, ông tìm được một cây vĩ cầm thanh tú nhưng không
đủ tiền mua.
Đến khi ông kiếm đủ tiền và trở
lại, thì cây đàn đã được bán cho một nhà sưu tầm nhạc cụ. Kreisler tìm đến chủ
mới của cây vĩ cầm để xin mua lại. Nhà sưu tầm không muốn bán vì theo ông, nó
là một bảo vật quí giá. Kreisler buồn bã và sắp sửa ra về, bỗng nảy ra một ý:
-Xin đàn một lần trước khi nó bị
ký thác cho sự câm lặng.
Chủ nhân chấp thuận. Vị nhạc sĩ
tài ba đã làm cho nhà sưu tầm thực sự xúc động vì tiếng đàn du dương của mình,
đến nỗi ông ấy phải kêu lên:
- Kreisler ơi! Tôi, tôi không có
quyền giữ chiếc đàn này. Nó thuộc về ông. Ông hãy đem nó đi khắp thế giới để
thiên hạ được thưởng thức âm thanh của nó.
Chúng ta cũng thế, chúng ta
không có quyền giữ cho mình tất cả hồng ân Chúa đã ban tặng cho ta. Tất cả đã
được đón nhận thì tất cả cũng phải được sẻ chia.
4. Thánh
Mác-cô--Nhóm Châu Kiên Long
Chúng ta không biết nhiều về
quãng đời niên thiếu của thánh nhân. Chỉ biết rằng ngài là một trong bốn vị
thánh sử đã ghi chép Phúc Âm.
Người ta quen vẽ hình ngài là một
con sư tử, một trong bốn con vật được tiên tri Ezekiel xem thấy trong thị kiến.
Thánh nhân là người Do Thái, thuộc
dòng họ Lêvi. Sau khi Chúa Giêsu về trời, ngài theo thánh Phêrô sang truyền
giáo tại La Mã. Ngài đã được vị Giáo Hoàng tiên khởi yêu quý cách đặc biệt do
lòng hăng say rao truyền đạo Chúa. Số người trở lại càng ngày càng tăng mà
không có tài liệu nào để họ học hỏi. Ðồng thời họ cũng ao ước được một bản chép
đầy đủ về cuộc đời Chúa Cứu Thế. Vì những lý do đó, thánh Máccô đã ghi chép mạch
lạc thành những chương mục về cuộc sống của Chúa Giêsu, dựa theo những lời giảng
dạy của thánh Phêrô. Chính thánh Phêrô đã duyệt và cho phép dùng trong giáo
đoàn.
Sau đó, ngài được ủy phái đi
truyền giáo ở Ai Cập. Với cuốn Phúc Âm, ngài đã đưa nhiều người trở về với
Chúa. Ngài là vị sáng lập và là Giám Mục đầu tiên giáo đoàn Alexandria. Nhờ tài
lợi khẩu, trí thông minh và sự thánh thiện, ngài đã dẫn đưa được nhiều người về
cùng Chúa.
Bóng tối không bao giờ thích ánh
sáng. Những lương dân đã quyết tâm tìm cách ám hại ngài. Họ đã bắt ngài điệu
qua các phố với mục đích bêu xấu ngài, và lôi kéo ngài trên đường đá gồ ghề cho
tới khi tắt thở. Hôm đó là ngày 25/4/67.
Ngài mất đi để lại một sự nghiệp
vô giá. Phúc Âm do ngài biên chép vẫn còn mãi. Danh ngài sẽ luôn được nhắc đến
trong Giáo Hội, nhưng quan trọng hơn hết là phần thưởng bội hậu mà Thiên Chúa
đã ban cho ngài trên Thiên Quốc.
5. Thánh
Mác-cô, thánh sử
Thánh Marcô, mặc dù mang tên
Roma, nhưng lại là người Do Thái, và còn được gọi theo tên Do Thái là Gioan.
Tuy không thuộc nhóm Mười Hai Tông Đồ, nhưng rất có thể ngài đã quen biết Chúa
Giêsu. Nhiều văn gia Giáo Hội phát hiện ra chữ ký kín ẩn của thánh Marcô trong
Phúc Âm của ngài, trong trình thuật người thanh niên bỏ chạy với một mảnh vải
trên người, khi Chúa Giêsu bị bắt trong vườn Cây Dầu: ý nghĩa ở đây là chỉ có
mình thánh Marcô đề cập đến chi tiết ấy. Điều này còn trùng hợp với một chi tiết
khác: Marcô là con trai bà Maria, một góa phụ giàu có, sở hữu ngôi nhà, nơi các
tín hữu Jerusalem tiên khởi thường tụ họp. Theo một truyền thống cổ xưa, ngôi
nhà này chính là ngôi nhà có phòng Tiệc Ly, nơi Chúa Giêsu đã ăn bữa Tiệc Ly và
thiết lập bí tích Thánh Thể.
Marcô có bà con với thánh
Barnabas; ngài đã đồng hành với thánh Phaolô trong cuộc truyền giáo lần thứ nhất,
và ở bên cạnh vị Tông Đồ dân ngoại trong những ngày cuối đời của ngài. Tại
Roma, Marcô còn làm môn đệ của thánh Phêrô. Trong Phúc Âm của ngài, với ơn linh
hứng Chúa Thánh Thần, thánh Marcô đã trung thành trình bày giáo huấn của vị
Tông Đồ trưởng. Theo một truyền thống cổ xưa được thánh Jerome kể lại, sau khi
hai thánh Phêrô và Phaolô chịu tử đạo, thánh Marcô đã sang Alexandria, giảng đạo,
thành lập giáo đoàn và trở thành giám mục tiên khởi ở đó. Vào năm 825, thánh
tích của ngài được dời từ Alexandria về Venice, thành phố hiện nay nhận ngài
làm quan thầy.