Lời Chúa tuần 2 phục sinh - câu truyện minh họa

 

 

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH

THỨ HAI - Cửa ngõ vào Nước Thiên Chúa.

THỨ BA - Ðược Sống Muôn Ðời

THỨ TƯ - Đi rao giảng Tin Mừng.

THỨ NĂM – Tình yêu thương

THỨ SÁU

THỨ BẢY

LỄ TRUYỀN TIN

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH

Lời Chúa: Ga 20, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con.” Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con.” Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.”

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Lòng thương xót trong hành động

Tạp chí TIME năm 1984 đã in hình một trang bìa rất đáng chú ý: trong một phòng giam có hai người đàn ông ngồi trên hai chiếc ghế xếp bằng kim loại. Chàng trai trẻ mặc một chiếc áo len cổ lọ màu xanh, quần jeans xanh và giày màu trắng. Người đàn ông lớn tuổi mặc một chiếc áo choàng trắng đội một chiếc mũ sọ màu trắng trên đầu. Họ ngồi đối mặt với nhau, cận cảnh và rất riêng tư. Họ nói nhỏ để người khác không nghe thấy cuộc trò chuyện.

Người thanh niên đó tên là Mehmet Ali Agca, kẻ ám sát Giáo hoàng (hắn đã bắn và làm ngài bị thương vào ngày 13 tháng 5 năm 1981); người đàn ông kia là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, nạn nhân chủ mưu của tên ám sát. Đức Giáo hoàng nắm lấy bàn tay đã cầm khẩu súng mà viên đạn của nó đã găm vào cơ thể của ngài. Đây là một biểu tượng sống động của lòng thương xót.

Sự tha thứ của Đức Gioan Phaolô II mang đậm dấu ấn tình yêu Kitô giáo. Hành động của ngài với Ali Agca đã nói thay cho hàng nghìn lời diễn đạt. Ngài ôm lấy kẻ thù của mình và xin ân xá cho anh ta. Vào cuối cuộc gặp mặt kéo dài 20 phút của họ, Ali Agca đã cầm tay Đức Giáo hoàng và đặt lên trán của mình như một biểu hiệu của sự tôn kính. Đức Giáo hoàng dịu dàng bắt tay anh. Khi rời phòng giam, Đức Giáo hoàng nói: “Những gì chúng tôi đã nói với nhau phải được giữ bí mật. Tôi đã nói chuyện với anh ấy như một người anh em mà tôi đã tha thứ và anh là người đã hoàn toàn tin tưởng tôi."

* Đây là một mẫu gương thể hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó chính là Lòng Thương Xót mà thánh Faustina đã cảm nghiệm và chia sẻ với chúng ta.

2. “Vậy thì tôi sẽ thương xót”

Hoàng đế Napoléon đã tỏ ra rất xúc động trước lời cầu xin ân xá của người mẹ cho đứa con trai là quân nhân của bà. Tuy nhiên, Hoàng đế nói rằng vì đây là lần phạm tội nặng thứ hai của người lính, nên công lý đòi hỏi anh ta phải chết. Bà mẹ van nài: “Tôi không yêu cầu công lý, tôi xin lòng thương xót.”

Nhưng hoàng đế nói: “Nó không đáng được thương xót!” Bà mẹ kêu lên: “Thưa ngài, sẽ không cần lòng thương xót vì nó đáng bị như vậy, nhưng lòng thương xót là tất cả những gì tôi cầu xin với ngài.” Vẻ đau khổ và cách biện luận rạch ròi của người mẹ đã thúc đẩy Napoléon trả lời: “Vậy thì, tôi sẽ thương xót.”

* Chúa Nhật Thứ Hai của Mùa Phục Sinh mời gọi chúng ta suy ngẫm về tình yêu thương và lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, như được trình bày trong Kinh Thánh và như Chúa Giêsu đã sống, giảng dạy, cũng như thực hành qua sứ vụ của Người.

3. Thưa ông đó là điều tôi sợ

Có một câu chuyện về một người lính nọ được đưa đến trước mặt đại tướng Robert E. Lee. Anh bị buộc tội đã hành động vi phạm quân luật, người lính run rẩy sợ sệt. Vị tướng nói với anh ta: “Anh đừng sợ. Ở đây bạn sẽ được công lý soi tỏ."

Người lính nhìn viên tướng và nói: “Thưa ngài, đó chính là điều tôi sợ.” Giống như người lính đó, ông Phêrô có lý do để run sợ. Ông đã khoe khoang về lòng dũng cảm của mình, rằng ông sẽ luôn sát cánh và bảo vệ Chúa Giêsu. Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu cần ông nhất, thì ông đã bỏ rơi Chúa. Có lẽ người ta có thể tha thứ cho ông vì ông đã bị cơn thèm ngủ đè nặng. Nhưng sau đó với tất cả ý thức, ông đã chối bỏ Chúa Giêsu ba lần, với cùng một lời khẳng định: “Tôi không biết người ấy.

Một tảng đá mà như thế! Theo công lý nghiêm minh, Phêrô lẽ ra phải bị trừng phạt, ít nhất, bị tước bỏ tư cách người đứng đầu Giáo hội. Tuy nhiên, qua cuộc khổ nạn, Chúa Kitô đã mở ra một công lý sâu xa hơn, vượt qua những khuôn khổ cố hữu của con người. Đó là những gì chúng ta sẽ khám phá và trải nghiệm về Lòng Chúa Thương Xót này.

4. Nâng cao tinh thần cho nhau

Bạn đã bao giờ nhìn thấy đàn ngỗng bay theo hình chữ V chưa? Đó là một điều tuyệt vời khi người ta tìm hiểu để biết rằng cấu hình đó là điều hết sức cần thiết để những con ngỗng có thể sống còn.

Nếu chú ý lắng nghe, chúng ta có thể nhận thấy tiếng đập cánh của chúng đồng loạt bật lên tiếng rít mạnh trong không khí. Và đó chính là bí mật về sức mạnh của chúng: ngỗng đầu đàn cắt ngang sức cản của không khí, tạo ra lực đẩy giúp cho những con chim phía sau nó mất ít năng lượng hơn.

Đổi lại, việc đồng loạt vỗ cánh giúp những con chim phía sau bay dễ dàng hơn, v.v. Mỗi con chim sẽ lần lượt làm đầu đàn. Những con bị mệt thì dạt ra rìa của chữ V để nghỉ, và những con còn lại lao về phía điểm đầu của chữ V để dồn thúc bầy ngỗng bay tiếp.

Nếu một con ngỗng trở nên quá kiệt sức hoặc bị bệnh và phải bỏ ra khỏi đàn, nó không bao giờ bị bỏ rơi. Một thành viên mạnh hơn trong bầy sẽ theo con yếu hơn đến chỗ nó nghỉ và đợi cho đến khi con chim đủ khỏe để bay trở lại. Cùng nhau hợp tác thành đàn, ngỗng có thể bay ở cự ly xa hơn 71%, với công việc ít hơn tới 60% năng lượng.

5. Chữa bệnh cho nỗi buồn

Có một câu chuyện cổ của Trung Quốc về một người phụ nữ có đứa con trai duy nhất đã chết. Trong nỗi đau buồn tột độ, bà đến gặp một vị đạo sư và nói: “Lời cầu nguyện nào, câu thần chú huyền diệu nào có thể làm cho con trai tôi sống lại được?”

Thay vì đuổi bà ấy đi hoặc cố gắng giải thích cho bà ấy, đạo sĩ nói: “Bà hãy đi tìm cho tôi một hạt cải từ một ngôi nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Tôi sẽ dùng để xua đuổi nỗi buồn của bà ra khỏi cuộc sống."

Người phụ nữ tất tả đi ngay để tìm hạt mù tạt kỳ diệu đó. Trước tiên, bà ấy đến một ngôi biệt thự lộng lẫy, gõ cửa và nói: “Tôi đang tìm một ngôi nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Đây có phải là một nơi như vậy không? Điều này rất quan trọng đối với tôi."

Họ nói với bà ấy: “Chắc bà đã đến nhầm chỗ rồi!” Và họ bắt đầu mô tả tất cả những điều bi thảm gần đây đã xảy ra với gia đình họ. Người phụ nữ tự nhủ: “Ai có thể giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh này hơn tôi, những người cũng gặp bất hạnh như tôi?”

Bà ta ở lại một thời gian để an ủi họ, rồi lại tiếp tục đi tìm một căn nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Nhưng ở bất cứ nơi nào bà ấy đến, từ những căn nhà nhỏ tồi tàn đến những nơi nơi sang trọng khác, bà ấy đều nghe thấy hết những chuyện bất hạnh này đến nỗi buồn khác. Mỗi lần như vậy bà lại tìm cách lan tỏa những năng lượng tích cực để xua tan nỗi đau của người khác, đến nỗi cuối cùng bà ấy đã quên đi cuộc tìm kiếm hạt cải kỳ diệu, và cũng quên luôn nỗi buồn trong việc mất đứa con yêu dấu.

6. Dục tốc bất đạt

Một người đàn ông nhìn thấy một tổ kén của một con bướm. Một lát sau, anh ta thấy có một lỗ nhỏ xuất hiện. Anh ngồi và quan sát con bướm trong nhiều giờ và thấy nó cố gắng ép cơ thể mình chui qua cái lỗ nhỏ đó. Nhưng dường như không tiến thêm được chút nào, như thể nó đã bò xa nhất có thể rồi.

Vì vậy, người đàn ông quyết định giúp nó, anh lấy một cái kéo và cắt bỏ phần còn lại của tổ kén. Con bướm sau đó nhô ra khỏi tổ một cách dễ dàng. Nhưng nó có một cơ thể sưng tấy và đôi cánh nhỏ, teo tóp. Người đàn ông tiếp tục quan sát con bướm vì anh ta mong đợi rằng, bất cứ lúc nào, đôi cánh sẽ dang rộng và nở ra để có thể nâng cơ thể của nó lên. Nhưng cả hai điều đều không xảy ra!

Thật sự, con bướm đã phải dành phần đời còn lại của mình để bò xung quanh với cơ thể sưng tấy và đôi cánh teo tóp. Chứ không bao giờ có thể bay được. Điều mà người đàn ông, với lòng tốt và sự vội vàng của mình, đã không hiểu là cái tổ kén gò bó đó và sự nỗ lực chui ra là cần thiết đối với con bướm. Chui qua lỗ nhỏ là cách mà quy luật tự nhiên đã sắp đặt để ép một chất lỏng từ cơ thể nó vào đôi cánh, tạo cho nó có thể sẵn sàng cho chuyến bay khi nó thoát ra khỏi kén.

* Đôi khi những nỗ lực và phấn đấu chính là thứ chúng ta cần trong cuộc sống. Nếu Chúa cho chúng ta đi qua cuộc đời mình mà không gặp bất kỳ trở ngại nào, điều đó có thể khiến chúng ta tê liệt. Chúng ta sẽ không thể mạnh mẽ như chúng ta có thể; chúng ta không bao giờ có thể bay! Vì vậy, những thử thách trong cuộc sống có thể là một dấu chỉ của lòng Chúa thương chúng ta.

7. Mọi sự làm của chung

Theo sách Công vụ Tông đồ những Kitô hữu đầu tiên đều “một lòng một ý." Họ chia sẻ tài sản của mình cho nhau, để không ai thiếu thốn. Một số thậm chí đã bán đồ đạc của họ và gom vào quỹ chung để chu cấp cho mọi người trong cộng đoàn.

Tinh thần bác ái cao quý này không tồn tại lâu lắm, bởi vì trong những năm sau đó, những đấng lập ra các dòng tu đã phải khôi phục lại tình trạng sở hữu chung như một phần của luật dòng của họ. Vì vậy, khi thánh Bênêđictô (Biển Đức) viết điều luật cho các tu sĩ của mình vào thế kỷ thứ sáu, ngài đã ra lệnh: “Hãy để mọi sự làm của chung cho tất cả mọi người.”

Con người vốn mang bản tính sở hữu. Do đó không phải tất cả các tu sĩ Bênêđictô đều sống theo lý tưởng nghèo khó cá nhân. Một lần kia một tu sĩ đã đi giảng tĩnh tâm cho một tu viện nữ gần đó. Để bày tỏ lòng cảm ơn, các nữ tu đã trao cho thầy dòng vài chiếc khăn tay. Mặc dù tu luật ghi rằng không một tu sĩ nào được nhận bất cứ thứ gì mà không qua tu viện trưởng, nhưng thầy dòng này quyết định giữ món quà nhỏ lại cho riêng mình mà không thông qua bề trên. Anh chỉ đơn giản là nhét chiếc khăn tay vào trong tu phục của mình. Nhưng việc này không bị bỏ qua.

Khi anh trở lại tu viện, bề trên Bênêđictô đã mắng anh: “Làm sao mà ma quỷ lại tìm được đường đi vào tâm hồn anh như thế?” Thầy dòng này vô cùng bối rối, vì anh ta đã quên chiếc khăn tay mình đã giữ lại. Nhưng lỗi của anh đã bị tiết lộ cho tu viện trưởng Bênêđictô. Ngài nói mạnh: “Có phải vì tôi không có mặt, nên anh mới nhận những chiếc khăn tay đó phải không?” Ngay lập tức vị tu sĩ nhận biết mình có lỗi, anh quỳ xuống trước vị thánh, xin ngài tha thứ và trao món quà lại cho bề trên.

* Khi nói về cộng đoàn tín hữu đầu tiên đây là một nét son của họ, nhưng chắc chắn mỗi thành viên phải phấn đấu rất nhiều mới có thể duy trì được lí tưởng ấy. Tham vọng của cộng sản nguyên thủy: “các tận sở năng, các mãn sở nhu” (làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu) đã hoàn toàn thất bại, và bị coi là hão huyền!

8. Vững một niềm tin

(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của Thiên Phúc)

Hoa bạch chỉ là loại hoa nổi tiếng quý giá. Có một người dân thành thị về chốn thôn dã tìm hái hoa này. Anh ta nghĩ hoa quý, ắt phải nở trên đỉnh núi cao, bèn cố sức trèo lên đỉnh núi tìm hoa. Lên đến đỉnh núi, anh ta lục lạo suốt buổi mà chẳng thấy bông hoa nào, đành thất vọng xuống núi, ra về tay không.

Hôm sau, anh ta lại tìm theo lối cũ lên núi lục lạo thêm một phen nữa, vẫn không kiếm ra. Ngày thứ ba, anh vẫn chưa nản chí, tiếp tục leo lên đỉnh núi tìm hoa bạch chỉ. Anh tự nhủ:

– Giống hoa quý này chỉ có trên đỉnh núi cao, ta không tin là sẽ không kiếm ra nó trên đỉnh núi cao!

Nhưng cuối cùng, anh ta vẫn không kiếm ra loại hoa quý này. Trong lúc chán nản thất thểu xuống núi, anh ta chợt thấy trong đám cỏ mọc dướii chân núi có hoa bạch chỉ. Đáng tiếc là nó đã bị chính anh giẫm nát mất rồi.

Những người quá tin vào ý nghĩ chủ quan của mình thường cố cháp, không lắng nghe ai, để rồi công sức của mình đều đem ra đổ sông, đổ biển. Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh, hiện ra với các tông đồ, vắng mặt Tôma.

Vì thế, khi nghe các môn đệ khác nói: “Chúng tôi đã được thấy” (Ga 10,25), ông đã không tin.

9. Gặp Chúa

Người ta kể rằng: Có một nhà báo không tin có Chúa, cho đó là trò mê tín dị đoan. Ông ta tìm đến một Giáo Xứ, hỏi thăm mọi người để tìm ra một người mới theo Đạo, và đã tìm được một người công nhân ít học để phỏng vấn, dự định từ đó sẽ viết một bài báo bôi bác Đạo. Cuộc phỏng vấn diễn ra như sau:- Xin hỏi thăm, có phải anh mới theo Đạo Chúa không?- Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Ki-tô.- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?- Rất tiếc, tôi là người ít học, lại mau quên, tôi đã có được học những chi tiết này trong một khóa Giáo Lý, nhưng bây giờ thì tôi lại không nhớ nổi, nghe đâu như Đức Ki-tô là người Do-thái thì phải!- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?- Tôi không nhớ rõ lắm, hình như cũng vào khoảng tuổi tôi bây giờ, gần 40 hoặc trẻ hơn một chút.- Vậy, anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?- Câu này thì tôi xin chịu thua!- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo cái ông Ki-tô ấy!- Ông nhà báo nói thế thì chỉ đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Ki-tô. Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi tối, khi tôi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi… Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng đợi chờ tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức Ki-tô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người…Nghe đến đây thì ông nhà báo không tin Chúa hậm hực đứng lên bỏ ra về, không được một lời cám ơn. Ông ta không ngờ lại gặp một con người hết lòng xác tín vào Đức Ki-tô như thế…

10. Tần số tình yêu – Thiên Phúc

Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?

Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.

– Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!

– Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!

Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).

11. Dấu chân của Thiên Chúa – R. Veritas

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:

– Các ông làm gì vậy?

Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.

Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:

– Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?

Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:

– Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?

Nhà bác học sửng sốt lên giọng:

– Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.

Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.

Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:

– Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.

Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:

– Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?

Nhà bác học thật thà đáp lại:

– Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.

Hướng dẫn viên nói:

– Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.

Nhà bác học cương quyết cãi lại:

– Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?

Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:

– Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.

12. Một tôn giáo mới

Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?"

Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon!

Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.

Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.

13. Mầu nhiệm đức tin

Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.

Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú của khu rừng.

Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.

Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.

Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khóa, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.

14. Đơn giản chỉ là yêu

Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau:

- Em có bằng lòng lấy anh không?

- Bằng lòng.

- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe anh nói thôi chứ chưa có dịp ”kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế?

- Vì em yêu anh!

Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin.

15. Sức mạnh của đức tin

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:

- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?

- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.

16. Cú nhảy của niềm tin

“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."

“Xoảng...!“ Cái bình vỡ. “Hư quá! Mẹ đã bảo rồi." Không phải một lần nhưng nhiều lần xảy ra như thế. Mặc dù đã được me báo trước, nhưng tôi vẫn cứ muốn thử xem sao.

Lớn lên, tôi hiểu biết nhiều hơn nhưng cũng đa nghi hơn. Cái gì hơi khác thường là tôi đòi phải có bằng chứng rõ ràng. Với một công thức mới chưa được chứng minh, tôi không tài nào nhớ được. Và đôi khi, trong những giây phút trao lòng, tôi cũng đã hỏi: “Không biết có Chúa thật không?"

Cuộc sống càng phát triển, dường như con người chỉ muốn tin vào những cái có thể cân, đong, đo, đếm được mà thôi.

Nhưng thước đo nào đủ cho chiều cao thập tự. Cán cân nào đủ đo tình yêu của Người.

Lạy Chúa, xin cho con biết vững tin vào tình yêu cứu độ.

17. Thế giới thiếu bình an.

Có lần người ta hỏi đại thi hào DANTE của nước Italia rằng: đâu là điều mà ông mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống? Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình an."

Đó là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ, chúng ta luôn ghi lời cầu xin: requiescat in pace: xin cho họ được an nghỉ ngàn thu. Phải chăng trong cuộc sống hiện tại nơi trần thế này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm được hòa bình và an nghỉ? Trong những giây phúc cuối đời, Đức Giêsu đã hứa hẹn với chúng ta: “Thầy ban bình an cho các con. Thầy ban bình an mà thế gian không thể ban tặng cho các con."

Trước Chúa Kitô 600 năm tại Roma, một đền thờ đã được xây lên để kính nhớ thần Janus, vị thần mà người ta đã lấy tên để đặt cho tháng đầu tiên trong năm. Theo ước mong của tòan dân trong đế quốc La mã, đền thờ này chỉ được mở cửa trong thời bình.

Trong vòng 600 năm ấy, dường như các cửa của đền thờ chỉ được mở trong ba giai đọan ngắn ngủi. Cánh cửa Hòa bình đóng mãi đối với con người ở mọi thời đại. Thời đại nào thế giới cũng mong hòa bình, thời đại nào con người cũng đợi hòa bình.

Khát vọng của Hòa bình ăn rễ sâu trong lòng người, ngay cả những người suốt đời chỉ gieo rắc chiến tranh và đau thương cho người khác. Chúng ta thích khung cảnh tịch mịch thư thái, chúng ta ngây ngất trước ánh bình minh tươi sáng, chúng ta vui thỏa trước buổi chiều tà êm ả, chúng ta thích những cánh hoa tươi mát v.v… Chúng ta thán phục những con người luôn tỏ ra bình thản trước những hòan cảnh xáo trộn. Chúng ta đi tìm những tư tưởng bình an, những dòng nhạc êm dịu, những con người hiền lành (Đ.Ô Nguyễn văn Tài).

Thế giới của chúng ta dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút thái bình thực sự. Hòa bình chỉ là những khỏanh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến tranh và lo sợ.

18. Chiến tranh và hòa bình.

Trong cuốn Le retour de Jésus Christ, tiến sĩ René Pache có cho biết: kể từ năm 1496 trước Thiên Chúa giáng sinh cho đến năm 1861 của thời đại chúng ta, tức trong khỏang 3400 năm, tính được tất cả 3130 năm chiến tranh, thế giới chỉ được hưởng 268 năm hòa bình. Như thế, trung bình cứ 13 năm chiến tranh thiên hạ mới được hưởng một năm hòa bình.

Từ năm 1500 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, cho đến năm 1860 đời ta, tính có tới 8000 hiệp ước hòa bình. Tuy mọi hiệp ước đều có giá trị vĩnh viễn, nhưng trên thực tế, hiệu quả của mỗi hiệp ước trung bình không quá hai năm. Chỉ trong 19 năm, giữa hai thế chiến (1920-1939) tính đã có đến 4568 hiệp ước hòa bình. Nguyên 11 tháng trước đệ nhị thế chiến, đã có tới 211 hiệp ước rồi.

19. Bức tranh diễn tả bình an.

Một vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công thực hiện. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.

Một bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là bức tranh bình yên thật hòan hảo.

Bức tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng bình yên chút nào.

Nhưng khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của mình… Bình yên thật sự.

 “Ta chấm bức tranh này” – Nhà vua công bố.

Sự bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn cảm thấy sự bình yên trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự bình yên giữa thế giới đang cần nỗ lực giành lấy trong cuộc sống này.

Không có sự bình yên thật sự khi con người không dấn thân để xây dựng. Xây dựng từ nơi chính mình bằng đời sống công chính, yêu thương với đức ái đòi hỏi. Không có sự bình an không có đấu tranh cho sự thiện, không có sự bình an cho những người ngồi chờ sự an nhàn. Sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng là sự bình an cho những con người chấp nhận những thử thách để vượt qua thử thách bằng sự bình an của Đức Giêsu.

20. Bình an trong tâm hồn.

Một tu sĩ rất đau khổ vì tính nhạy cảm của mình. Sau nhiều ngày chịu đựng bản tính nóng nảy không tự chủ được, từ cử chỉ đến lời nói, tệ hơn nữa, anh ta luôn dành những phần phải về phía mình.

Một hôm, anh tự nhủ: “Ta sẽ bình an, nếu ta vào sống trong sa mạc hoang vắng xa cách mọi người." Nghĩ sao làm vậy, anh ta đã sống những ngày bình an, nhưng một buổi chiều nọ, anh đặt chiếc bình sành dùng để đựng nước xuống đất, không biết vì đất nơi ấy lồi lõm hay vì ma quỉ muốn chọc phá, mà bình nước lật sang một bên đổ vỡ đôi, và làm đổ hết nước ra ngòai. Người ẩn tu hầm hầm nổi cơn thịnh nộ tưởng chừng như trời long đất lở.

Khi nguôi cơn giận, anh ta nhìn ngắm chiếc bình đã bể và tự nhủ: “Tôi đã bỏ các anh em trong tu viện, nhưng khổ nỗi lại mang chính cái tôi vào sa mạc hoang vu này, không phải họ, nhưng là chính cái nóng nảy của tôi đã làm cho tôi mất bình an." Ngay chiều hôm ấy, anh ta trở về tu viện, và qua thời gian, với ơn Chúa giúp và những cố gắng cá nhân, tính nóng nảy đã bớt dần và sự bình an gia tăng trong tâm hồn anh.

Giáo hội luôn mời gọi chúng ta sống một cách thiết thực và sâu đậm lời của Đức Giêsu: “Bình an cho các con”, đó là lời chào luôn có trên môi miệng của Đấng Phục sinh. Thật ra, đây hẳn không phải là một lời chào thân thuộc của người Do thái, nhưng là ân ban mà Chúa Kitô Phục sinh đem lại cho con người. Bình an là nghịch lại với tất cả những gì sợ hãi, thất vọng, chết chóc. Bình an là đồng nghĩa với tin yêu, vui sống và hy vọng.

21. Lời mời gọi của đức tin

Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang thực tập làm thủy thủ trên một chiếc tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ còn duy nhất cậu bé này tin vào Chúa.

Trong ngày từ giã trước khi con lên tàu, bà mẹ đạo đức đã khuyên dạy con trai như sau: “Chúa đặt con trên con tàu này là để con làm chứng nhân cho Người."

Từ ngày đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ nhàn rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để ăn chơi sa đọa, thì cậu bé đều ra sức ngăn cản. Nhưng không những bọn thủy thủ không nghe, mà còn hè nhau chế diễu cậu. Chẳng hạn: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện trước bữa ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn trước mặt giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người của cậu. Đáp lại, cậu thiếu niên luôn mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa tha tội cho họ.

Một lần kia khi đang làm việc trên boong, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Khi cậu bơi lại gần tàu thì họ lại dùng sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa thì các bạn sẽ được ơn cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi sắp chịu chết vì danh Chúa !” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau tỉnh dậy, thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa nhưng hãy hồi tâm sám hối quay về với Chúa. Kết quả là từ ngày đó, toàn thể thủy thủ trên tàu đều xúc động trước tấm gương trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối cầu nguyện và thành tâm sám hối trở về với Chúa.

22. Dũng cảm bày tỏ niềm tin

Thời đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh trước khi đi ngủ, liệu bây giờ sống chung trong quân ngũ, anh có nên tiếp tục quỳ đọc kinh không?

Lúc đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại phải thay đổi cách sống hay sao?”

Nghĩ thế anh liền quyết định cứ tiếp tục mỗi tối quỳ gối đọc kinh trước khi ngủ. Khi đọc kinh như thế, anh nhận thấy mọi người trong phòng đều quan sát anh và biết anh là người Công giáo. Và anh cũng phát hiện ra trong toàn trại lính chỉ có mình anh là người Công giáo. Rồi mười phút cầu nguyện hằng ngày ấy thường là đề tài để các bạn bè sau đó tranh cãi nhau hàng giờ.

Vào ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đã đến nói với anh:

– Đến nay anh chính là một người tín hữu tốt nhất mà tôi từng biết.

Anh đáp:

– Có lẽ tôi không dám nghĩ mình là người Kitô hữu tốt nhất, mà chỉ là người dám công khai biểu lộ đức tin của mình mà thôi. Dầu vậy tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói.

23. Dấu đinh chứng tích của tình yêu

Vào một ngày hè nóng nực ở Florida, nước Mỹ, một cậu bé đi bơi ở con sông bên cạnh nhà. Bên khung cửa sổ, ánh mắt người mẹ dõi theo cậu con trai yêu quý đang nô đùa giữa dòng nước mát. Đột nhiên, người mẹ hoảng hốt khi thấy một con cá sấu đang từ từ tiến đến gần cậu bé. Hoảng sợ đến tột độ, bà phóng ra bờ sông, vừa chạy, vừa la hét gọi con trai.

Nghe tiếng mẹ gọi, cậu bé phát hiện ra con cá sấu và bơi ngược trở lại phía bờ. Nhưng quá muộn! Đúng vào lúc cậu bơi tới bờ, thì cũng là lúc con cá sấu đớp vào chân cậu. Từ trên bờ, người mẹ không chậm một giây, chộp lấy cánh tay cậu. Và thế là bắt đầu một trận kéo co dữ dội. Con cá sấu khỏe hơn người mẹ rất nhiều. Nhưng người mẹ với sức mạnh của tình mẫu tử cũng không buông tay. Cuối cùng, nhiều người đã chạy đến kịp thời giải cứu cậu bé. Sau nhiều tháng nằm bệnh viện, cậu bé đã bình phục với một cái sẹo thật to nơi chân.

Ngày nọ, một phóng viên đến chụp ảnh cậu bé với vết sẹo và nói với cậu đây sẽ là vết sẹo khó quên nhất trong đời cậu. Nhưng cậu bé kêu lên: “Thưa bác, đây mới là vết sẹo đáng ghi nhớ!” Nói xong, cậu bé vén tay áo lên cho thấy một vết sẹo sâu hoắm với những vết cào xước do móng tay người mẹ bấm sâu vào da thịt đứa con, để giữ cậu lại trước hàm răng cá sấu. Cậu bé không bao giờ quên vết sẹo của tình thương ấy.

Vết sẹo của cậu bé chỉ là vết sẹo của người được thương, nhưng trổi vượt hơn nhiều, Chúa Giêsu đã bày tỏ những “vết sẹo tình thương” là những dấu đinh nơi thân xác Ngài, để củng cố niềm tin của các tông đồ, nhất là làm cho tông đồ Tôma được vững tin. Qua đó, Chúa cũng muốn dạy chúng ta bài học của niềm tin.

24. Đức tin

Ai cũng công nhận Léon Tolstoy là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo.

Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: “Liệu trong đời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không?”

Khủng hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như câu chuyện sau đây:

Năm 1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình. Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ “Chiến tranh và Hòa bình”, và “Anna Kerenina." Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo đảm cho ông một vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công nhận ông là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo.

Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: “Liệu trong đời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không?" Khoảng thời gian ấy thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày đêm, giống như người sắp chết đi tìm đường sống. Nhưng tìm mãi mà ông chẳng gặp gì cả. Thế rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô giáo.

Thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ nó từ lâu, lý do là ông thấy nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống ngược hẳn với đức tin của họ. Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông khi ông nhìn những tín hữu sống đức tin ấy. Ông viết: “Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn nào trong đời. Nhưng rồi tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin Mừng. Tôi đã lóa mắt vì sự sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu quả thực là một giáo huấn tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ 2000 năm nay, những lời dạy cao quí ấy đã tác động lên biết bao người một cách tuyệt vời không thể tìm được nơi bất cứ ở nơi nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng chiếu trong tôi và quanh tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi nữa."

THỨ HAI - Cửa ngõ vào Nước Thiên Chúa.

Lời Chúa: Ga 3, 1-8

Khi ấy, trong nhóm biệt phái, có người tên là Nicôđêmô, một đầu mục của người Do-thái. Ông đến thăm Chúa Giêsu ban đêm và thưa rằng: "Lạy Thầy, chúng tôi nhận biết Thầy là một vị tôn sư Thiên Chúa uỷ phái đến. Vì không ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người đó." Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng ai được thấy Nước Chúa." Nicôđêmô thưa Chúa rằng: "Một người đã già, làm sao có thể tái sinh? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa sao?"

Chúa Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục, thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy."

TRUYỆN KỂ

1. Sinh bởi Thần Khí

George Foreman một cựu vô địch quyền anh hạng nặng đã theo học nhiều lớp Kinh thánh và tham gia một nhóm cầu nguyện. Nhưng dường như anh không có đời sống thiêng liêng.

Một đêm sau trận đấu, khi đang ngồi trong phòng thay đồ, hai tay ôm đầu, anh bỗng nhận thấy máu từ vết thương ở đầu nhỏ giọt qua bàn tay và rơi xuống đôi chân trần. Điều ấy đánh động anh. Đó là những vết thương chảy máu của Chúa Giêsu: đầu, chân, tay. Ý nghĩ bất thường đó là khởi đầu cho cuộc tái sinh thiêng liêng của anh.

Đâu là giây phút đặc biệt đáng ghi nhớ trong đời sống thiêng liêng của tôi?

Không ai bận tâm tới việc tái sinh có nghĩa là đang chết thật rồi (Bob Dylan).

2. Được sinh ra từ trên

Để bước vào cuộc đời này, cần có một người cha sinh ra mình. Để vào Nước Thiên Chúa, con người cần được Cha trên trời sinh ra.

Con người có sự sống đời này khi Chúa còn ban hơi thở tự nhiên. Con người có sự sống vĩnh cửu khi được Chúa ban Thần Khí.

Đức Giêsu cho biết phải được sinh ra từ trên (anôthen). Trong tiếng Hy-lạp, anôthen còn có nghĩa là lại, lần nữa. Có lẽ vì thế mà Nicôđêmô tưởng là Đức Giêsu nói đến việc sinh lại. Chính vì thế ông nêu lên thắc mắc: “Một người đã già rồi, làm sao người ấy có thể được sinh lại lần nữa.”

Dĩ nhiên chúng ta không cần phải vào lòng mẹ lần thứ hai. Nhưng kitô hữu thực sự phải là người đã được sinh ra bởi Thần Khí. Tương tự như gió ở chung quanh ta. Chúng ta chỉ có thể thấy những hậu quả của gió, nhưng không thấy được gió.

Người được sinh bởi Thần Khí cũng vậy. Chúng ta cũng không rõ cách thức Thần Khí hoạt động nơi người ấy, nhưng chúng ta nhìn thấy sự biến đổi sâu xa nơi cuộc đời mỗi người.

3. Kitô hữu phải được Thần Khí sinh ra

Một hướng dẫn viên đi trong sa mạc Ả Rập được ca tụng là không bao giờ lạc đường. Anh luôn ôm theo một con chim bồ câu khôn lanh, dưới chân buộc sợi dây nhỏ.

Mỗi khi nghi ngờ hướng đi, anh thả chim ra và nó sẽ mau mắn chỉ đường cho anh. Nên anh được mệnh danh là “người chim." Thánh Linh cũng là một bồ câu thần thiêng chỉ đường cho ta nếu ta bước theo Ngài.

4. Cần tái sinh từ sớm

Một nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: “Tôi là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới."

Khi đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con."

Bây giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời, tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời cầu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải chính con." Nếu tôi xin điều này ngay từ đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời”

5. Thưa, chính Chúa đấy ạ.

Cha John Diamond có kể lại câu chuyện này: Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc sống ở thế gian cho nên linh hồn lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ cửa. Ở trong có tiếng vọng ra: “Ai đó”? Linh hồn trả lời: “Con đấy ạ." Cửa vẫn đóng.

Sau đó linh hồn lại trở về với đời sống trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa Thiên đàng một lần nữa. Lại một tiếng hỏi từ trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết hơn: “Dạ, chính con đây." Cửa vẫn đóng.

Linh hồn lại phải trở về trần thế... mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi là con đường nào. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, tự mãn, ghen ghét. Phải làm chết đi cái tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để cho con người của mình được giống Thiên Chúa hơn.

Sau một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên trời... lại gõ cửa... lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó." Vừa nghe xong câu hỏi linh hồn đáp ngay: “Dạ, thưa chính Chúa đấy ạ."

Vừa trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các thiên thần long trọng đón linh hồn vào Thiên đàng.

6. Bài giảng biết đi

Một buổi chiều năm 1953, các kí giả và mọi người tập trung ở nhà ga xe lửa ở Chicago để chào đón người được giải Nobel Hòa Bình 1952. Các nhân vật cao cấp của thành phố dang rộng tay để chúc mừng vị thượng khách.

Ông cám ơn mọi người, rồi đưa mắt nhìn quanh sân ga. Bất chợt, ông xin kiếu mọi người rồi băng qua đám đông, tiến thẳng đến đỡ một cụ già không quen biết với chiếc vali nặng trên tay bà. Ông mỉm cười dẫn bà lên xe và không quên chúc bà thượng lộ bình an. Quay lại với đám đông, ông xin lỗi vì bắt họ phải chờ đợi! Người được giải thưởng đó chính là bác sĩ Albert Schweitzer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã hi sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Châu Phi. Thấy thế, một người đã thốt lên: “Lần đầu tiên tôi nghe được một bài giảng biết đi."

Là một Kitô hữu tôi phải loan báo Tin Mừng và phải là “những bài giảng sống động và biết đi” về tình yêu Thiên Chúa.

7. Nên đồng hình đồng dạng với Chúa

Bên Mỹ có một cuốn phim với tựa đề là: “Người Mưa” được tung ra thị trường phim ảnh Hoa Kỳ mấy năm trước đây. Mục đích của cuốn phim này là muốn người ta thấy con người có thể trở nên tốt như thế nào.

Một gia đình kia có ba người: người cha và hai người con. Hai người con thì một người tên là Charley và còn người kia tên là Raymond. Tuy là hai anh em nhưng họ không biết nhau. Người anh tên là Charley là một thương gia giàu có, còn Raymond, người em thì bị tàn tật từ nhỏ. Charley không hề hay biết mình có người em tên là Raymond và hơn nữa lại là một người tàn tật mãi cho đến ngày cha của hai người qua đời.

Cái chết của người cha đã đánh dấu một khúc rẽ mới trong đời sống của hai anh em. Trước khi nhắm mắt lìa đời, trong tờ di chúc, người cha đã ký lại cho Raymond, người con tàn tật một số tiền khổng lồ là 3 triệu mỹ kim, còn Charley thì được thừa kế một ngôi biệt thự rộng lớn. Charley rất ngạc nhiên trước lời trăn trối của người cha, và kể từ ngày đó anh tìm đủ mọi mưu kế, học mọi thủ đoạn để chiếm đoạt số tiền của em. Anh lý luận: dầu sao đi nữa, em mình là một người tàn phế như thế làm sao có thể tiêu xài hết một số tiền lớn như vậy. Charley nghĩ như thế là để bào chữa cho lòng tham của mình chứ thực sự thì Charley đâu có quan tâm gì đến em mình.

Cuốn phim được tiếp diễn với nhiều thủ đoạn, những mưu mô khôn khéo để chiếm cho bằng được số tiền đó. Nhưng trớ trêu thay, chính những bận tâm ấy đã làm cho Charley luôn nghĩ tới người em hơn là bản thân mình. Anh nhận ra rằng, đây là lần đầu tiên anh biết quan tâm lo lắng cho người khác. Và anh cũng bắt đầu ý thức thêm rằng, anh đang quên mình đi để nghĩ đến người em, anh đang chết dần cho bản thân mình và chỉ nghĩ đến người em đáng thương ấy.

Và thật không ngờ khi anh làm như thế thì anh bắt đầu cảm thấy tình yêu của anh đối với người em được thay đổi. Lúc đầu thì toàn là những tính toán ích kỷ nhưng dần dần được thay thế bằng lòng yêu thương thật sự đối với đứa em tàn tật của anh. Bây giờ thì anh không còn nghĩ đến việc chiếm hữu số tiền do người cha di chúc để lại cho em mình nữa, mà anh chỉ nghĩ đến việc lo lắng chăm sóc cho đứa em tật nguyền của mình. Anh đã trở thành một con người mới, một con người trọn vẹn hơn vì anh đã biết sống với người em của anh như là người em thực sự, con cùng một cha chứ không phải là đối thủ để anh trục lợi và khai thác.

Vâng, phép Rửa tội cũng làm một việc tương tự như thế, biến chúng ta sẽ trở thành người con của Thiên Chúa và khi đã được trở thành những người con của Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải sống với nhau như anh em trong cùng một gia đình của Thiên Chúa Cha trên trời.

8. Loan báo Tin Mừng

Trong cuốn “Nhật ký một tâm hồn” của Đức Giaó Hoàng Gioan XXIII có một đoạn như sau: “Mỗi buổi tối, tôi thấy một đoàn thuyền mười và cả trăm chiếc thuyền tụ tập ở Bosporus, tạo ra một cảnh đầy ấn tượng về màu sắc và ánh sáng. Một đêm nọ, khoảng một giờ, trời đổ mưa nặng hạt, nhưng những ngư dân vẫn ở đó, không chùn bước trước những công việc nặng nhọc. Như những ngư dân Bosporus, chúng ta cũng phải làm việc ngày đêm (để rao giảng Tin mừng).

Tôi có thể rao giảng Tin mừng bằng cách nào?

[Chúa Giêsu nói:] “Nếu các môn đệ của Ta im tiếng, thì những viên đá sẽ la lên.”

THỨ BA - Ðược Sống Muôn Ðời

Lời Chúa: Ga 3, 7-15

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy.”

Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.”

TRUYỆN KỂ

1. Điều kiện căn bản: "niềm tin"

Một tờ báo Công giáo địa phương ở Chicago có đăng trong chương trình "sống đạo" mẩu chuyện như sau: có đôi vợ chồng chung sống với nhau được ba mặt con. Người chồng cũng là người Công giáo, nhưng chủ trương cuộc đời chỉ có ba lần đến nhà thờ: "Rửa tội, lễ cưới và sau khi chết.” Ngược lại, người vợ là một tín đồ ngoan đạo, đêm ngày bà cầu nguyện cho chồng. Lời cầu nguyện của bà hầu như vô vọng khi người chồng đổi công việc làm ăn ở tiểu bang Texas, miền Nam Hoa Kỳ.

Suốt ba tháng trời, bà và các con chẳng được tin tức gì của chồng, nếu có chăng nữa thì cũng chỉ là những tin buồn do người quen kể lại. Họ nói rằng chồng của bà kể như hư đốn hoàn toàn. Ông ta đã sa vào cảnh cờ bạc, rượu chè, chẳng còn nhớ đến ai. Mấy tin tức như thế đã làm cho bà thêm lo lắng xao xuyến. Tuy nhiên, không vì thế mà bà quên cầu nguyện.

Bỗng một đêm kia, khi gia đình đã hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, bà nhận được một cú điện thoại từ xa gọi về. Bên kia đầu dây là giọng nói thổn thức của người chồng từ Texas gọi về cho bà. Ông ta đã nói với bà như sau: "Em yêu dấu! Ðây là lần đầu tiên trong cuộc đời anh đã thành tâm quì gối cầu nguyện. Anh đã quì gối không phải trong nhà thờ hoặc một nơi thánh nào đó. Nhưng anh đã quì gối ngay tại chốn ăn chơi. Các bạn anh cười nhạo tưởng anh đã hóa khùng. Có thể đúng. Anh đang khùng, khùng vì Ðức Kitô, vì anh đã trở về với Ngài.”

2. Chúa Kitô được giương cao

Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa Kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào cuối phi đạo. Đây là một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.

Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống đường bay, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉnh tháp chuông một bóng đèn neon lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống đường bay vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tàu cập bến an toàn.

Chúa Kitô được giương cao, đã được loan báo trước bằng hình ảnh của rắn đồng trong sa mạc, để ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên đó thì được cứu khỏi chết (x. Ds 21,9tt).

3. Câu chuyện hai hạt giống.

Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất mầu mỡ. Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên, tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất... Tôi muốn phô trương những cái nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cành hoa của tôi.”

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ phải gặp những điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu cố gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập... Nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.”

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tử bới đất tìm mồi, thấy hạt giống ở gần đấy, nó liền mổ ăn một cách ngon lành, và thế là hết đời một hạt giống nhát đảm.

David L. Weatherford đã nói một câu hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy tim cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát.” Vì người nào càng trốn tránh thử thách, thì chính thử thách lớn nhất của con người là sự nhát đảm sẽ đè bẹp họ.

4. Hãy nên giống trẻ nhỏ

Mục sư Rober Fangum, trong một cuốn sách được sếp vào loại best seller (bán chạy nhất), đã viết: “những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ.” Ông kể ra những bài học vỡ lòng quý giá khi còn ở nhà trẻ như sau:

Hãy chia sẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đứng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.

Lấy đâu thì trả đó, dọp dẹp những gì mình bày ra, nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.

Biết ngạc nhiên trước màu nhiệm của cuộc sống.

Chính Chúa Giêsu cũng dạy: “Nếu các con không nên giống như trẻ nhỏ, chúng con không được vào Nước trời.”

5. Mầm khác.

A. Ngày xửa ngày xưa có một con búp bê bằng muối. Một hôm, búp bê muốn học hỏi, khám phá thêm về thế giớ bên ngoài, cô ta quyết định làm một chuyến du lịch. Cô đi khắp nơi và học hỏi được nhiều điều hữu ích. Ngày kia, búp bê muối lần mò đến một bờ biển, đứng trước đại dương nhưng không biết đại dương là gì. Tò mò cô ta liền lên tiếng hỏi:

- Ngài là ai vậy?

Đại dương trả lời:

- Tôi không thể nói cho cô biết tôi là ai.Nhưng nếu muốn biết thì cô hãy bước vào trong tôi, lập tức cô sẽ biết.

Tuy hơi sợ nhưng vì tò mò nên búp bê muối từ từ bước vào lòng biển. Càng vào sâu, thân thể búp bê càng từ từ tan biến. Cho đến khi chỉ còn là một hạt muối bé tí, cô mới bắt đầu la lên:

- A! bây giờ tôi mới thực sự biết tôi là ai.

6. Hai hạt giống

Có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.

Hạt giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên. tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏcứng cỏi của mặt đất...Tôi muốn phô trương những cía nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên mặt tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”

Thế là hạt giống đó bắt đầu triển nở.

Hạt giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nề rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp phải điều gì dưới lòng đất tối tăn kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sén sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể dẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.

Và hạt giống đó tiếp tục chờ.

Một chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách ngon lành.

7. Con đường hẹp

Một hôm bà chị của thánh Thoma Aquinô hỏi một người:

- Phải làm gì để hưởng hạnh phúc đời đời?

Người ấy trả lời:

- Phải muốn được như thế.

Vâng! Đúng như vậy, trước hết là chính mình phải muốn, muốn một cách mạnh mẽ.

Khi thánh Phanxicô đệ Salê nghe tin thánh Phanxicô Xaviê được phong thánh. Ngài nói:

- Đó là Phanxicô thứ ba được phong thánh. Tôi sẽ phải là thánh Phanxicô thứ bốn.

Và người đã giữ lời hứa và ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ 4 của Hội Thánh.

Phải muốn và đồng thời cũng phải dám hy sinh. Chính Chúa Giêsu cũng đã cho biết con đường theo Ngài là con đường hẹp!

8. Qua gian khổ mới đến vinh quang

Ông François Piza người hùng đã chiến thắng đất Pérou trong một cuộc thám hiểm. Trong khi đi thám hiểm, có lúc phái đoàn của ông đã bị đặt vào một hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Vì không chịu được những gian nan trước mắt, đám thủy thủ đã nổi dậy đòi ông phải quay trở về, nhưng Piza trả lời:

- Phía bắc con đường chúng ta đang đi là một cuộc sống dễ dàng và không nguy hiểm. Đi theo hướng đó chúng ta sẽ thất bại và khổ sở. Trái lại, nếu hướng về phía nam, chúng ta sẽ phải cắn răng chịu đựng những khó khăn, đương đầu với những thách đố, cam chịu những thiếu thốn, nhưng thành công, hạnh phúc, giàu sang, vinh hiển sẽ tiếp đón chúng ta. Vậy, các anh hãy tự chọn con đường đi.

Gần hết đám thủy thủ đã chọn con đường phía bắc quay trở về. Chỉ có 12 người biết theo con đường Piza đã vạch. Và 13 người can đảm ấy, sau những ngày gian nan khốn khó, cay đắng trăm bề, tất nhiên là phải chịu nhiều thiếu thốn, nhưng họ vẫn không chịu lùi bước trước khó khăn, và cuối cùng họ đã thành công.

Trước khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã phải tiến hành hơn 2.000 cuộc thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!”

Con đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy, thử hỏi con đường vinh quang Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào.

9. Sống vị tha

Ông John Rockfeller năm 33 tuổi, tài sản ông chỉ có vỏn vẹn 1. 000 dollars cùng với cây xà-beng đi đào giếng mướn cho người ta, dần dần ông mua được một đàn bò, rồi nhiều đàn bò, bán bò ông mua nông trại, bán nông trại ông làm chủ một cơ sở lớn nhất nước Mỹ vào tuổi 43. Nhưng không may đến với ông khi ở tuổi 53: ông bị bệnh rụng hết tóc đầu! Hội Đồng Bác sĩ bảo ông chỉ sống thêm một năm nữa! Báo chí đưa hình hói đầu của ông lên trang nhất và chế giễu: “Ông không đủ tiền mua một sợi tóc!” Tỉnh ngộ ông bắt chước ông Giakêu: đưa tài sản chia sẻ cho các cơ quan từ thiện, cho những chương trình nghiên cứu Khoa học để phục vụ con người. Kết qủa ông đã sống thọ đến 98 tuổi (thay vì 54 như bác sĩ chẩn đoán).

Hãng Thông Tin Công Giáo Thế Giới loan đi ngày 02/03/2007: Ông Fred Nassiri, một nhà tỷ phú ở nước Mỹ, ông là người gốc Iran theo đạo Hồi. Nhưng khi ông trở lại Công Giáo, ông dâng tất cả tài sản cho Dòng Phanxico khó khăn và xin gia nhập Dòng. Người ta phỏng vấn ông tại sao ông làm thế? Ông trả lời: “Càng nhiều của cải, càng có nhiều nghĩa vụ với người xung quanh.”

Giáo sư Alfred Adler nói: “Kẻ nào không quan tâm tới người khác, chẳng những nó gặp nhiều khó khăn trên đời, mà còn là kẻ gây tác hại cho xã hội.”

Vậy ta hãy noi gương Mẹ Maria đoán ý muốn người khác để phục vụ (x Lc 1, 39t; Ga 2, 3).

Thánh Phaolô: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi. (Gl 2,20).

THỨ TƯ - Đi rao giảng Tin Mừng.

Lời Chúa: Ga 3, 16-21

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.

Ai tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi, vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng, sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

TRUYỆN KỂ

1. Ánh sáng sự sống

Những người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại. Vì thế họ tìm ngăn cản sự sống và bịt miệng những người rao giảng sự sống. Nhưng họ luống công vô ích. Cửa sắt kiên cố không giam giữ được sự sống. Lính canh thường trực không cản được đường đi của sự sống. Sự chết không làm cho người rao giảng Lời Ban Sự Sống sợ hãi.

Vì các tông đồ đã được gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh, là Sự Sống Lại và là Sự Sống. Nên chẳng còn sợ chết. Đã cảm nhận được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Nên vượt qua hận thù ghen ghét. Đã nhìn thấy ánh sáng nên tránh xa bóng tối. Đã nếm cảm hạnh phúc nên chẳng còn bị những ảo ảnh hão huyền mê hoặc.

Chối từ ánh sáng là tự lên án mình. Từ chối sự sống thật ta chìm vào bóng tối chết chóc. Từ chối hi vọng thật, ta lâm vào bóng tối tuyệt vọng. Từ chối hạnh phúc thật, ta rơi vào bóng tối bất hạnh. Tự lên án mình khi ta từ chối vĩnh cửu để gắn bó với phù vân. Khi ta không nhìn lên Nước Trời mà chỉ gắn bó với mặt đất.

2. Án xử của Thiên Chúa

Cách đây 2.400 năm, triết gia Hy Lạp là Socrate đã bị mang ra toà và bị kết án phải uống thuốc độc vì hai tội: làm sa đoạ giới trẻ bằng những lý thuyết viển vông và tuyên truyền cho các thần minh mới. Bồi thẩm đoàn xét xử Socrate gồm 501 người được tuyển lựa trong số 6000 công dân Athène. Đây là vụ án nổi tiếng nhất của thế kỷ 4.

Vụ án nổi tiếng nhất cuả thế kỷ 20 hẳn phải là vụ án của Hosê Simon, một cầu thủ bầu dục trở thành tài tử kiêm phóng viên truyền hình về thể thao tại Hoa Kỳ. Simson là một người da đen bị cáo buộc đã giết vợ và bạn trai của cô ta. Đã có quá nhiều chứng cớ hiển nhiên, nhưng sau nhiều tháng xét xử, toà vẫn chưa đưa ra được một phán quyết nào. Nhiều người cho rằng với một bồi thẩm đoàn gồm đa số người da đen và nhất là với những luật sư nổi tiếng mà Simson đã bỏ tiền ra thuê, rồi ra anh ta có thể được trắng án. Và quả thực tin giờ chót vừa cho hay toà tuyên bố Simson vô tội và anh được tha bổng.

Nhà hiền triết bị kết án, kẻ sát nhân được tha bổng, bao nhiêu người vô tội bị đầy ải trong các nhà tù. Công lý của con người vốn bất toàn là thế.

3. Tình yêu Thiên Chúa – tình yêu cho đi

Bà cụ 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi chết và được sống đời đời.”

Bà đáp: “Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.”

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu: “Sinh 1825. Sinh lại 1925.”

4. Ai tin thì sẽ được sống.

Thánh Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ, Ai tin vào Con của Ngài, thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,20). Tin đối với Gioan là nhìn nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một sự lôi cuốn của Chúa Cha.

Người tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa, là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình thương của Thiên Chúa, miễn là đùng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế gian, mà người ta đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu xa” (Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ (R Veritas).

5. Tượng Thánh giá ban phép lành.

Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế đang ban phép lành.

Chuyện kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh.” Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng đau khổ.

Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị Linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha.” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị Linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Đức Giêsu được rút ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con.”

Kể từ đó, bàn tay phải của Đức Giêsu không gắn vào Thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ.”

6. Ánh sáng không hề tắt

Chú bé cùng với bố đang đi trên một con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ có cây đèn nhỏ, bóng đên trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với bố: “Bố ơi! chiếc đèn này chỉ chiếu sáng chút xíu trên đường, con sợ quá.” Bố đáp: “Con ạ! Anh sáng này hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi đến cuối đường.”

Đời sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh sáng cho mỗi bước đi, và ta cũng chỉ cấn bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều: ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sánh đó đủ soi cho ta đi đến cuối đường đời.(Góp nhặt).

7. Từ thiện vị kỷ

Một chiếu thứ bảy, anh đưa tôi dạo phố. Chúng tôi đang lặng lẽ rảo bước trên bờ hồ Xuân hương, bỗng nhiên, một giọng nói quen thuộc cất lên: “Con chào Cô!” Như một phản xạ, tôi quay lại. Trước mặt chúng tôi là một em bé rách rưới, bẩn thỉu, học trò của tôi ở trung tâm Bảo Trợ Xã hội. Em vui mừng, chạy lại ôm chầm lấy tôi. Nhưng vì sợ “quê” với anh, tôi đã vờ như không quen biết nó…và để lại sau lưng, sự hụt hẫng pha lẫn tủi hờn của đứa bé mồ côi đáng thương.

Bây giờ tôi mới rõ, tôi làm việc từ thiện chỉ vì chính mình!

Lạy Chúa, xin soi sáng và mở rộng lòng con, để con nhận ra đâu là sự sáng đích thực của Chúa và can đản theo Ngài.

8. Ánh sáng ban cho ai cần

Tại Florence thuộc nước Italia, có một ngôi đại giáo đường, được kiến trúc rất đặc biệt. Ngôi đại giáo đường này có một vòm cầu lớn. Trên vòm cầu này có một lỗ nhỏ được ghép kính.

Kiến trúc sư vẽ kiểu ngôi đại giáo đường này, đã khéo léo tính toán thế nào, để cứ đến ngày 21 tháng 6 hàng năm, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu vào lỗ nhỏ kia, rồi dọi xuống một miếng bạc, được ghép ở dưới nền giáo đường.

Người ta chỉ cần nhìn vào ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời, qua lỗ nhỏ trên vòm cầu kia, rồi dọi xuống nền giáo đường là biết được độ nghiêng của ngôi giáo đường để sửa chữa, vì ngôi đại giáo đường này được xây trên một khu vực mà trước đây là vùng snh lầy.

Trong ngày thứ bảy tuần thánh, Chúa Giêsu được Giáo Hội tuyên xưng là ánh sáng thế gian. Ánh sáng Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chiếu vào thế gian để soi đường chỉ lối cho con người.

9. Nhận ra ánh sáng

Một nhà thám hiểm Tây Phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã cạn khô. Ông lê từng bước chân mệt mỏi trên cát. Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người Phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh, trong thực tế, giữa chốn sa mạc khô cằn như thế này làm gì có nước và cây cối.” Nghĩ như vậy, ông tuyệt vọng lê bước. Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên:

- Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này ?

Nhưng người bạn kia lắc đầu giải thích:

- Ông ta là một người Phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.

Có nhiều người trong chúng ta cũng như vậy.

Ngạn ngữ Trung Hoa có câu:”Nhật Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời mặt trăng tuy có sáng nhưng khó mà chiếu vào chiếc chậu úp). Ánh sáng của mặt trời cũng như ánh sáng Giêsu, tuy sáng và có đó, nhưng nếu người ta không chịu tiếp nhận thì cũng vô ích, nó cũng giống như ánh sáng chiếu vào một chiếc chậu úp thôi.

11. Âm dương / ngũ hành

Các dân tộc vùng Á đông chúng ta đều biết đến khái niệm của cụm từ “âm - dương.” Cũng như học thuyết nhị nguyên của người phương tây, cụm từ âm – dương này nói lên hai mặt đối lập của một vần đề: tối-sáng, tốt-xấu, đúng-sai, thánh-phàm…

Và thánh Gioan trong sách Tin Mừng của mình cũng đã sử dụng ý niệm này để diễn tả điều chân thiện, sự thiêng thánh của Thiên Chúa để đối lập với những điều xấu, điều tà… của thế gian. Đức Giê-su là ánh sáng, là nguồn gốc của sự chân thiện, và Ngài đã đến thế gian để xua tan đi bóng tối lầm lạc, chỉ vẻ cho con người biết điều chân thiện, hướng về Chúa là Đấng Thánh hầu được hưởng phúc đời đời.

Là môn đệ của Chúa Ki-tô, Đấng tốt lành thánh thiện, chúng ta được mời gọi hãy sống thánh và biết tránh xa tội lụy, biết nghe theo sự thật để chối từ sự dối trá, biết sống trong ánh sáng của sự thánh thiện để đẩy lui bóng tối tăm tội lỗi.

12. Romeo và Juliet

Romeo và Juliet được viết vào khoảng 1594 - 1595, dựa trên một cốt truyện có sẵn kể về một mối tình oan trái vốn là câu chuyện có thật, từng xảy ra ở Ý thời Trung Cổ.

Câu chuyện bắt đầu tại thành Verona, hai dòng họ nhà Montague và nhà Capulet có mối hận thù lâu đời. Romeo, con trai họ Montague và Juliet, con gái họ Capulet đã yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên tại buổi dạ tiệc tổ chức tại nhà Capulet, do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể trà trộn vào trong đó. Đôi trai gái này đã đến nhà thờ nhờ tu sĩ Friar Laurence bí mật làm lễ cưới.

Đột nhiên xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ của Juliet là Tybalt đã giết chết người bạn rất thân của Romeo là Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết Tybalt. Mối thù giữa hai dòng họ càng trở nên sâu nặng. Vì tội giết người nên Romeo bị trục xuất khỏi Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của Romeo và Juliet bị tan vỡ khi Romeo đi rồi, Juliet bị cha mẹ ép gả cho Bá tước Paris. Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của tu sĩ Laurence. Tu sĩ cho nàng uống một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng trong vòng 42 tiếng. Tu sĩ sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi thành Verona.

Đám cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ. Tu sĩ chưa kịp báo cho Romeo thì từ chỗ bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Trên đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành cho mình. Tại nghĩa địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã chết, Juliet rút dao tự vẫn.

Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người, hai dòng họ đã quên mối thù truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện tình yêu ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất lớn trong lòng những người biết đến họ.

Bi kịch đó làm nổi bật vẻ đẹp của tình yêu: những người yêu nhau sẵn sàng làm tất cả để được sống bên nhau mãi mãi kể cả liều thân chịu chết để nếu không thể cùng sống thì được cùng chết với nhau.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)

13. Sắp dọn nhà

Khi một người hỏi cụ John Quincy Adams đã 80 tuổi có mạnh khỏe không? Cụ trả lời: “John rất khỏe, cám ơn. Nhưng ngôi nhà ông ta sống thì đổ nát thảm hại. Nhà lung lay trên nền, tường thì rạn nứt, còn mái thì rách nát. Ngôi nhà rung chuyển trước mỗi cơn gió. Tôi nghĩ rằng John Quincy Adams chẳng bao lâu nữa sẽ phải dọn nhà. Nhưng bản thân anh thì vẫn khỏe mạnh. Cám ơn.”

So với niềm tin của John Quincy Adams, niềm tin của tôi ra sao? Tôi có thể làm cho niềm tin ấy vững mạnh hơn bằng cách nào?

Chúng tôi biết rằng nếu ngôi nhà của chúng ta là chiếc lều thân xác bị phá hủy đi, thì chúng ta có một ngôi nhà ở trên trời, một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên tồn tại muôn đời (2Cr 5,1).

Nhưng ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.

14. Chúa là sự sáng

Trên đời có nhiều thứ bóng tối còn tối hơn cả.. đêm ba mươi: bóng tối của nghi ngờ, bóng tối của tuyệt vọng, bóng tối của sự chết... Đức Giêsu là ánh sáng đến trần gian đưa ta khỏi tình trạng đoán mò về chân tướng của Thiên Chúa.

Ngài cứu vớt ta khỏi tình trạng bi quan, thất vọng về thân phận tội lỗi. Ngài giải thoát ta khỏi nỗi sợ về bóng tối sự chết vì từ nay sự chết của Ngài là cửa dẫn ta đến sự sống vĩnh cửu: “Sự sống lại của Đức Giêsu là một sự tuôn trào của Ánh Sáng. Cái chết bị chinh phục, cửa mồ bị mở toang. Đấng Phục Sinh chính là Ánh Sáng, Ánh Sáng của trần gian. Với sự sống lại, ngày của Thiên Chúa bước vào những đêm tối của lịch sử. Ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa khắp thế gian… Chỉ có Ánh Sáng này, Chúa Giêsu Kitô, là ánh sáng thật” (Đức Bênêđitô 16).

Nhiều lúc bạn thích ẩn mình trong bóng tối vì bạn cảm thấy yên hàn khi sống trong bóng đêm của tội, của những ý nghĩ, dự định đen tối. Lời Chúa hôm nay mời gọi bạn quy chiếu cuộc sống mình vào Đức Kitô, để nhờ ánh sáng phục sinh của Ngài “thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3,21).

10. Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa

Ngày 21 tháng 7 năm 1969, hai phi hành gia Amstrong và Adrian khi đáp xuống mặt trăng, ông Amstrong cắm bảng ghi câu Tv 19/18,2: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm”, rồi gởi điện về trái đất, cho biết chuyến bay của các ông bình an; còn ông Adrian thì trân trọng mở hộp Mình Thánh cung kính rước Chúa vào lòng.

Vậy tất cả những ai đã được lãnh nhận Bí tích Khai Tâm, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy, hãy cất lời ngợi khen Chúa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi. Kẻ nghèo hèn kêu xin và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv 34/33, 2-7: Đáp ca).

THỨ NĂM – Tình yêu thương

Lời Chúa: Ga 3, 31-36

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật.

Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy.”

TRUYỆN KỂ

1. Ốc vít Giêsu

Mike Moran là một phi công trực thăng trong hải quân. Một ngày nọ, đang khi giải thích cho cha mẹ về “chiếc trực thăng”, anh nói: “Dù các máy móc đó phức tạp, hệ thống cánh quạt được giữ chặt một chỗ nhờ một chiếc ốc lục giác.” Rồi quay sang mẹ, anh hỏi: “Mẹ đoán xem tên gọi chiếc ốc đó là gì?” Bà mẹ nhún vai, anh cười và nói: “Nó được gọi là “vít ốc Giêsu.”

Chúa Giêsu nắm giữ cuộc đời tôi như thế nào? Lãnh vực nào trong đời tôi vẫn ngoài ngoài vùng kiểm soát của Ngài? Tôi có thể đi bước khởi đầu nào để cho Ngài kiểm soát lĩnh vực này của đời tôi?

Thiên Chúa đã có mặt trong cuộc sống chúng ta. Công việc của chúng ta là nhận ra điều ấy (Anthony de Mello).

2. Giữ lấy bản sắc của mình

Ngày nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta gần như có mặt hầu hết nơi các quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đã có nhiều cuộc tọa đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!

Trong các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì!

Tại sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách quân bình khi người ta còn giữ được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Nếu không, họ là một người thiếu trưởng thành!

Là người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Nói cách khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô.

3. Đấng đến từ trời – Thiên Chúa làm người

Người ta kể rằng: Tin Mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật Bản từ hồi thế kỷ XVI do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ.

Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật Bản đã bị xóa sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa: “Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá!”

4. Phải làm người

Maurice Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành người. Con người có bổn phận phải thành người.” Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại’ lần thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta không thể trở thành một con người trọn vẹn” (Trích “Sự hiện diện khiêm hạ).

Một bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một nhà truyền giáo đến thăm bà và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó, thì khỏi phải chết và được sống đời đời.”

Bà đáp:

- Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm năm không học biết Ngài.

Cuộc trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu “Sinh 1825. Sinh lại 1925”

5. Chứng từ của Avares.

Tạp chi Time số tháng 4, 1995 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân Mỹ tại Việt Nam.

Ông Avares là một phi công hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên hải Bắc Việt ngày 05/08/1964. Ông đã bị giam tại Cửa Lò trong vòng 8 năm rưỡi.

Vào năm 1993, một nhà sản xuất phim đã mời ông và một nhóm cựu binh sĩ Mỹ trở lại Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu về chiến sự thời Mỹ ở Việt nam.

Avares đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam cầm, điều duy nhất trong ký ức ông muốn nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn lên đó để cầu nguyện mỗi khi thất vọng. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn.

Ngày nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông trở về với gia đình và đã ban cho ông biết tha thứ và quên đi.

6. Sao con không mời ta hút thuốc

Một cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật là nghiện thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khoẻ. Thế nhưng ông ta không chỉ nghe để mà nghe. Hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:

- Kinh Thánh không hề cấm hút thuốc.

Thấy vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.

Nhưng thật là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá.Tò mò, ngài hỏi tại sao thì ông trả lời.

- Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn có gói thuốc lá con vừa mới mua.

Chúa Giêsu hỏi con:

+ Con đang làm gì đó?

- Dạ con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.

+ Sao con không mới ta hút thuốc?

Con vội vã trả lời:

- Dạ đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!

Chúa ôn tồn bảo con:

- Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và hành động giống tôi Ta. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại sao con lại hút?

Thưa Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ con. Bởi đó con đả quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.

7. Giữ cho trắng tấm áo rửa tội

Tại những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận. Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.

Những người thợ săn Âu châu đã biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiển và ngay cả sự chết, hơn là để thân thể hóa ra hoen ố…

Đối với giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: Chúng sẵn sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.

Cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô hữu chúng ta đã được khoác lên mình một chiếc áo trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày chúng ta chịu phép rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước mặt Chúa…

8. Tiếng nói của trái tim

Cha Đinh Quang Thịnh kể truyện: Chiến trường Việt Nam vào Tết Mậu Thân năm 1968, khi quân Việt cộng lẻn vào miền Nam nhằm cướp chính quyền, lúc ấy đội quân Mỹ yểm trợ quân lực Việt Nam Cộng Hòa để đẩy lui Việt cộng.

Cuộc chiến khá ác liệt, các trường học ở Saigon phải cho học sinh nghỉ. Năm ấy tôi học lớp 12, Việt cộng chiếm vùng Bà Điểm Hóc Môn làm cứ điểm tấn công vào phi trường Tân Sơn Nhất, lính Mỹ bao vây khu Bà Điểm. Bạn tôi muốn thực tập tiếng Anh nên đã tìm đến trại quân Mỹ để trò chuyện. Một anh lính Mỹ hỏi bạn tôi: Người Việt Nam chào nhau có giống người Mỹ hay không? Vì người Mỹ buổi sáng gặp nhau chào “good morning”, buổi chiều chào “good afternoon” hoặc “good evening.” Bạn tôi liền đáp: “Người Việt Nam lúc nào gặp nhau cũng chào “mặt tôi là mặt mèo.”

Thế là anh lính Mỹ cứ gật gù đọc đi đọc lại cách chào bạn tôi dạy với lòng thích thú,vì biết chào bằng tiếng Việt. Sáng hôm sau, anh lính Mỹ xách thùng vào nhà người Việt để xin nước, vừa thấy chủ nhà ra, anh cúi đầu chào “mặt tôi là mặt mèo.” Bọn trẻ con xúm lại cười rộ, anh Mỹ quay lại đám trẻ vừa cười vừa chào “mặt tôi là mặt mèo.” Trẻ con vỗ tay cười đến vỡ bụng, anh lính Mỹ tưởng là người ta khen anh nói tiếng Việt giỏi, anh quay một vòng nói với mọi người “mặt tôi là mặt mèo.”

Dù anh lính Mỹ đã không chào đúng cách của người Việt, nhưng anh đã gây được cảm tình nơi nhiều người. Thế là hôm đó người ta tranh nhau đi lấy nước giúp anh, và xách đến tận nơi anh đang đóng quân.

9. Công cụ trong tay Chúa

Trong cuốn sách “Hành trình tới Hy Lạp” Nikos Kazantzakis mô tả ba loại kitô hữu. Loại thứ nhất nói: “Lạy Chúa, con là chiếc cung trong tay Ngài, xin hãy lôi kéo con để con khỏi hư mất.” Loại thứ hai nói: “Xin đừng lôi kéo con quá, nếu không con sẽ gẫy mất.” Loại thứ ba nói: “Xin hãy lôi kéo con thật mạnh và quan tâm đến nếu con bị gẫy.” Các tông đồ thuộc loại kitô hữu thứ ba.

Tôi thuộc loại kitô hữu nào?

Hãy can đảm, và sức mạnh sẽ đến với bạn. (Basil King)

10. Phép lạ của niềm tin

Đa số những người bật ti vi lên vì không biết nó hoạt động như thế nào, nhưng họ không phủ nhận là nó đang hoạt động. Tương tự như thế, phần lớn người ta không biết niềm tin vào Chúa Giêsu thể hiện thế nào, nhưng họ không phủ nhận niềm tin vẫn luôn sống động. Những thay đổi trong cuộc sống báo cho họ biết điều đó. Không có niềm tin vào Chúa Giêsu, họ không thể làm những gì họ đang làm.

Bằng cách nào niềm tin vào Chúa Giêsu gia tăng sức mạnh để tôi làm những điều mà tôi không thể làm, nếu không có niềm tin?

Hãy để Ngài cuốn đi những gì không thiêng liêng, không chân thật nơi tâm hồn chúng ta, để Ngài được hiển ngự ở đó (C.Moel).

11. Công việc của Chúa Giêsu

Mike Moran là một phi công trực thăng trong hải quân. Một ngày nọ, đang khi giải thích cho cha mẹ về “chiếc trực thăng”, anh nói: “Dù các máy móc đó phức tạp, hệ thống cánh quạt được giữ chặt một chỗ nhờ một chiếc ốc lục giác.” Rồi quay sang mẹ, anh hỏi: “Mẹ đoán xem tên gọi chiếc ốc đó là gì?” Bà mẹ nhún vai, anh cười và nói: “Nó được gọi là “vít ốc Giêsu.”

Chúa Giêsu nắm giữ cuộc đời tôi như thế nào? Lãnh vực nào trong đời tôi vẫn ngoài ngoài vùng kiểm soát của Ngài? Tôi có thể đi bước khởi đầu nào để cho Ngài kiểm soát lĩnh vực này của đời tôi?

Thiên Chúa đã có mặt trong cuộc sống chúng ta. Công việc của chúng ta là nhận ra điều ấy (Anthony de Mello).

12. Sức sống bởi niềm tin

Một nạn nhân sống sót trong tai nạn sập cầu Cần Thơ là anh Dũng Em. Thế nhưng, anh bị thương tích rất nặng: gãy đốt sống lưng, liệt hai chân, gãy khung chậu. Chỉ có một dấu hiệu cho niềm hy vọng: hai chân của anh có thể nhúc nhích chút xíu. Anh cứ lẩm bẩm: “Còn sống là mừng lắm! Tôi phải nuôi vợ nuôi con.” Trong những tình huống như thế mới thấy sự sống thật là đáng quý, cho dù chỉ kéo dài trong khoảnh khắc, vài tháng, vài ngày… Đức Giêsu hứa ban cho ta một sự sống quí giá bội phần: sự sống đời đời, không còn là thứ sản phẩm trong mơ, mà là sự thật dành cho bất cứ ai tin vào Ngài. Tin vào Đức Giêsu là tin vào lời Ngài nói, tin vào Đấng đã chết và sống lại để rồi gắn bó với Ngài, dám sống dám chết hết mình cho những giá trị Tin Mừng mà Ngài rao giảng.

 “Một đức tin nhỏ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng. Một đức tin lớn đưa thiên đàng vào linh hồn bạn” (Spurgeon). Đôi mắt đức tin giúp bạn nhận dạng được sự sống đời đời ngay trong đời sống hôm nay. Đôi mắt đức tin ấy giúp bạn nhận ra Thiên Chúa Ba Ngôi đang định cư lâu dài trong tâm hồn. Nhờ có thiên đàng nhỏ đó trong tâm hồn, bạn sống trong niềm vui, trong hy vọng và trong tình thương mến.

THỨ SÁU

Lời Chúa: Ga 6, 1-15

Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút.”

Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người.” Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống.” Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi.” Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.

Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian.” Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.

TRUYỆN KỂ

1. Thật và giả

Ga-ma-li-en thật là người khôn ngoan. Ông chưa tin Chúa. Nhưng ông có phân định sâu sắc. Đừng vội kết luận. Vội vã kết luận có thể sai lầm chống lại Thiên Chúa. Đó là lỗi lầm trầm trọng. “Nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ; còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.” Qua phép lạ bánh hoá nhiều, ta có thể thấy một vài dấu chỉ của tiên tri thật.

Tiên tri thật quan tâm đến con người, đặc biệt người nghèo. Tiên tri giả chỉ quan tâm đến bản thân. Chúa Giê-su quan tâm đến những người đến với Chúa. Biết họ đói cần được ăn. Không chỉ quan tâm suông. Nhưng cụ thể bằng hành động. Thúc giục các tông đồ lo cho họ ăn. Tìm bánh. Và làm phép lạ.

Tiên tri thật làm việc vì nhu cầu. Tiên tri giả làm để phô trương.

2. Sự cộng tác của con người

Kể từ năm 1891, sau khi Đức Lêô XIII ban hành thông điệp Tân sự, đã có nhiều thông điệp khác về vấn đề xã hội được công bố nhằm đánh dấu sự phát triển và đào sâu giáo huấn xã hội của Giáo Hội. Năm 1931 có thông điệp kỷ niệm năm thứ 40 do Đức Piô XI ban hành; năm 1961 có thông điệp Mẹ và Thầy của Đức Gioan XXIII; năm 1981, Đức Gioan Phaolô II kỷ niệm 90 năm thông điệp Tân sự bằng Thông điệp về lao động; năm 1987 ngài ban hành thông điệp “Mối quan tâm về vấn đề xã hội” nhằm kỷ niệm 20 năm thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Phaolô VI; năm 1991 ngài ban hành thông điệp kỷ niệm năm thứ 100 thông điệp Tân sự.

Tuy với những hoàn cảnh cụ thể và dưới những góc độ khác nhau, những văn kiện trên của các Giáo Hoàng đều đề cập đến những vấn đề của thời đại, đó là tương quan giữa lao động và phát triển. Giáo Hội không đề cao bất cứ một thứ chủ nghĩa chính trị và kinh tế nào. Giáo Hội không ngừng cổ võ sự phát triển dựa trên công lý và tình liên đới.

3. Phép lạ do tình thương

Trong bài hát “để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng.”

Thật vậy, trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc con người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện “nơi ăn không hết, chỗ lần không ra.”

Hôm nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi từ lòng thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?’" (Ga 6, 5).

Tiếp theo là tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá”, và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của em để kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).

Ai nấy đều được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.

4. Ta đã dựng nên ngươi

Tại góc đường của một thành phố lớn, có một người đàn bà quần áo rách tả tơi đứng xa ăn xin với đứa con trai nhỏ gầy ốm xanh xao của bà. Trong số những người đi qua đường phố, có một người đàn ông triệu phú bước qua, nhìn họ không nói tiếng nào, cũng chẳng giúp đỡ gì.

Nhưng khi trở về biệt thự sang trọng của mình rồi, nhìn vào bàn ăn với đủ mọi thứ cao lương mỹ vị, ông liên tưởng đến thằng bé còm nhom và người mẹ khốn khổ của nó. Càng nghĩ về họ ông càng tức giận Thiên Chúa.

Rồi ông nắm tay lại đưa quả đấm lên trời la to với Thiên Chúa: “Làm sao Ngài lại có thể để cho sự khốn khổ như thế này xảy ra cho được? Tại sao Ngài lại không làm gì để giúp đỡ những con người bất hạnh đó?” Và từ một nơi nào đó, rất sâu tự bên trong tâm hồn của ông, có tiếng Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm. Ta đã dựng nên ngươi”

5. Tặng vật nhỏ bé nhưng giá trị thật lớn

Một người đàn ông nghèo còn đúng 50 xu. Sáng Chúa nhật đi lễ, người lắc giỏ đi tới, ông bỏ hết vào giỏ. Tan lễ, ông được tin một xí nghiệp đang tuyển công nhân, nhưng phải đi xe lửa tới đó mất 1 đô. Không còn tiền, ông đi bộ tới xí nghiệp khác gần nhà thờ. May thay, ông tìm ngay được việc làm. Cuối tuần, ông lãnh được số tiền gấp 10 lần mà ông đã cho đi. Người đàn ông đó là chủ một thương hiệu giầy da nổi tiếng, tên là W.L. Douglas.

Dân chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát lương thực, áo quần, thuốc men và sâu xa hơn nữa, đói khát sự sống đích thực mà chỉ có Thiên Chúa mới làm no thỏa. Thiên Chúa biết hết mọi điều thầm kín, bí ẩn trong tâm can con người, cũng như biết rõ những nhu cầu thiết yếu của họ.

Trong lời giới thiệu cuốn sách “5 chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y FX Nguyễn văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên Hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa kỳ) đã viết: “Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi  một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé, chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa, Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả lớn lao trên đường của Ngài” (tr 5).

6. Chúa trong đời thường

Một cậu bé nghe nói về Chúa, cậu thắc mắc: “Chúa là ai ?”

Một hôm cậu quyết định một mình đi tìm Chúa. Với cái túi nhỏ đựng ít bánh và nước ngọt, cậu bé đến một công viên gần nhà. Vừa bước vào công viên cậu đã gặp một bà cụ đang ngồi trên ghế đá. Cụ bà đang say sưa nhìn mấy con chim bồ câu đến nhặt thức ăn. Cậu bé liền đến ngồi bên cạnh bà, rồi mở cặp lấy bánh và nước ngọt ra.

Nhận thấy bà cụ như có vẻ như thiếu ăn, cậu bèn lấy bánh mời bà cụ. Bà cụ vui vẻ đón nhận và mỉm cười với cậu. Sau đó cậu lấy nước ngọt ra và cũng mời bà như thế. Một lần nữa bà lại đón nhận và mỉm cười. Chưa bao giờ cậu bé cảm thấy hân hoan như vậy. Cả buổi chiều hôm đó, bà cháu ngồi bên nhau, chia sẻ từng miếng bánh, từng hớp nước ngọt, mỉm cười với nhau mà không cần phải nói với nhau lời nào.

Chiều đã muộn, sợ cha mẹ sốt ruột, cậu bé đứng lên ra về. Vừa đi được một quãng, cậu lại quay lại bá cổ bà cụ, rồi hôn vào má bà cụ. Cụ bà đáp lại cái hôn ấy bằng một nụ cười đẹp như chưa bao giờ có. Khi cậu bé vừa mở cửa bước vào nhà, người mẹ nhận ra ngay trên gương mặt con mình một niềm vui mà bà chưa từng thấy bao giờ. Bà liền hỏi con:

- Hôm nay con làm gì mà vui thế ?

Cậu bé đáp:

- Hôm nay con ăn uống với Chúa.

Người mẹ ngỡ ngàng chưa hiểu gì thì cậu bé nói tiếp:

- Mẹ biết không, con chưa bao giờ thấy ai có nụ cười đẹp bằng nụ cười của Chúa.

Còn bà cụ, với một niềm vui rộn rã trong tâm hồn, bà thong thả trở về nhà. Vừa bước chân vào cửa thì người con út đã nhận ra ngay sự bình thản khác thường trên gương mặt mẹ mình cho nên cậu hỏi ngay:

- Hôm nay mẹ làm gì mà vui thế.

Bà cụ trả lời:

- Mẹ đã ăn bánh với Chúa.

Trước sự ngỡ ngàng của người con, bà giải thích:

- Con biết không. Chúa trẻ hơn là mẹ nghĩ rất nhiều.

7. Bí ẩn của sự sống nằm ở đâu?

Khi Thiên Chúa tạo dựng xong vũ trụ cũng như muôn người muôn vật thì Ngài gọi các sứ thần lại để hỏi xem nên đặt cái bí ẩn của sự sống - tức là cái quí giá nhất trong chương trình sáng tạo của Ngài - ở đâu ?

Một sứ thần góp ý: “Nên chôn vùi nó dưới đất”

Một sứ thần khác: “Nên đặt nó dưới đáy biển”

Một vi nữa lại đề nghị: “Đặt nó trên núi cao là thượng sách”

Thế nhưng Thiên Chúa không đồng ý với những giải pháp kể trên. Ngài nói: “Phải làm thế nào để cho bất cứ người nào cũng có được cái bí ẩn của sự sống mới được”

Cuối cùng một sứ thần liền nói: “Nên đặt cái bí ẩn ấy nơi trái tim con người”

Thiên Chúa nhận thấy đó là điều tốt đẹp, Ngài liền đặt cái bí ẩn của sự sống vào trái tim con người. Và từ đó con người luôn thấy mình có một sức sống tuyệt vời hơn hẳn các loài thụ tạo khác.

8. Trao hết 5 chiếc bánh và hai con cá

Một hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Chúa.

Dọc đường, Chúa bảo hai ông mỗi người hãy mang theo cho Chúa một hòn đá. Phêrô suy nghĩ một lúc, rồi lặng lẽ nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng đại tự nhiên, đã vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển, còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:

- Sao anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế ?

Chúa Giêsu nghe tất cả nhưng Ngài vẫn giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Chúa muốn dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì mà ăn.

Phêrô tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành một mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu cơn đói của ông.

Rồi một lần khác, Chúa Giêsu cũng lại gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi Chúa Giêsu sẽ nói như lần trước để thưởng ông. Thế nhưng, lần này Chúa Giêsu chỉ nói với họ:

- Nào chúng ta hãy đặt những viên đá chúng ta vừa mang theo xuống đất, ngồi lên mà nghỉ một chút. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!

Phêrô thấy xấu hổ, ông trách Chúa:

- Đúng là Thầy đã chơi khăm con!

Nhưng Chúa Giêsu bảo ông:

- Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.

9. Lòng quảng đại làm cho cuộc đời có ý nghĩa

Thánh Augustinô đã kể lại câu chuyện về tấm lòng quảng đại xảy ra lúc ngài đang sống tại Milanô, nước Ý như sau:

Ngày kia, một người nghèo lượm được cái ví trong đó có 200 đồng tiền vàng. Vì là người ngay thẳng, ông muốn trả cái ví cho người đã đánh rơi, nhưng không biết tìm đâu ra chủ cái ví tiền. Ông ta liền viết một tấm bảng treo trước cửa nhà, mời ai mất ví đến nhận lại. Đọc được tấm bảng, người mất ví tìm đến xin nhận lại của đánh rơi.

Sau khi tra hỏi kỹ lưỡng, người nghèo kia trả lại cái ví cho chủ nó. Người mất ví cám ơn rối rít và ngỏ ý tặng cho người nghèo kia 20 đồng vàng, tức 1/10 số tiền trong ví. Nhưng người nghèo nhất quyết không nhận món tiền ấy. Người mất ví liền xin ông ta nhận 10 đồng, nhưng ông cũng không nhận. Cuối cùng, người mất ví nài nỉ ông ta nhận cho 5 đồng, người nghèo kia vẫn một mực từ chối.

Khổ tâm vì không thể biểu lộ lòng biết ơn của mình, người mất của ném cái ví xuống đất và nói: “Bởi vì ông không chịu nhận đồng nào, nên tôi tuyên bố: tôi không hề mất chiếc ví này.”

Nghe thế, người nghèo kia đành nhận món quà, nhưng ngay lập tức, ông đem số tiền chia sẻ tất cả cho những người nghèo khổ hơn ông.

Quả là một câu chuyện thật đẹp về tấm lòng quảng đại! Cả hai nhân vật trong câu chuyện đều không chịu thua lòng quảng đại của nhau. Lòng quảng đại luôn làm cho cuộc sống con người có ý nghĩa và đáng sống.

10. Phép lạ hóa bánh ra nhiều

Một chủng sinh tên là Dalmazzo xin vào tu tại chủng viện Turinô của dòng Cha Don Boscô, sau một tháng thử thách, chú Dalmazzo thấy buồn chán, không muốn tu nữa, nên chú đã gửi thư cho gia đình xin mẹ của chú tới chủng viện đưa chú về. Mẹ chú tới và chú sắp xếp đồ để sáng hôm sau, bỏ tu viện cùng mẹ trở về gia đình. Sáng hôm sau, chú muốn xưng tội lần sau cùng với Cha Don Boscô. Cha Don Boscô thường giải tội cho các chủng sinh và cô nhi trước giờ làm lễ: Số chủng sinh và cô nhi dự lễ có khi lên tới 300 người. Bữa đó, số người xưng tội quá đông, nên chú phải xưng tội sau thánh lễ.

Lễ xong các chủng sinh và cô nhi xuống phòng ăn. Khi chú Dalmazzo vào tòa cáo mình, thì một tu sĩ, tiến lại tòa giải tội nói nhỏ với Cha Don Boscô là sáng nay nhà hết bánh. Cha Don Boscô nói: “Sao lại thế! Hãy tìm ngay tu sĩ quản lý đến gặp cha.”

Một lát sau, tu sĩ quản lý tới, nói với ngài: “Chúng con đã tìm, mà chỉ còn 15 chiếc bánh.”

Cha Don Boscô bỡ ngỡ nói: “Vậy phải chạy ngay ra tiệm bánh, bảo họ mang bánh đến!”

Tu sĩ kia nói: “Thưa cha, vô ích! Nhà còn đang nợ tiệm bánh 12.000 quan: Ông chủ tiệm bánh chỉ bằng lòng đưa bánh tới, sau khi đã thanh toán cho ông số tiền đó.”

Cha Don Boscô nói: “Thôi được, để 15 chiếc bánh vào rổ. Thiếu bao nhiêu, Chúa sẽ liệu. Cha về ngay bây giờ, và sáng nay chính Cha sẽ đứng phát bánh.”

Chú Dalmazzo nghe lời nói của Cha Don Boscô, và rất tò mò về câu nói sau cùng của cha.

Khi xưng tội xong, Cha Don Boscô vừa ra khỏi tòa, chú cũng vội vã theo cha, là vì, tuy mới sống trong chủng viện một tháng, mà chú đã được nghe bạn bè kể lại nhiều việc lạ lùng của Cha Don Boscô.

Trong phòng ăn, chú đứng sát kề sau lưng Cha, và đếm kỹ lưỡng trong rổ chỉ còn 15 chiếc bánh. Phòng ăn lúc đó, cả cô nhi lẫn chủng sinh có tới 300 người. Chú nghĩ: 300 người mà chỉ có 15 chiếc bánh, phát làm sao cho đủ?

Tất cả sắp hàng lên lấy bánh. Cha Don Boscô cứ cho tay vào rổ lấy bánh ra, phát cho hết người này tới người khác, bánh vẫn cứ có hoài, lạ lùng nhất là, sau khi 300 người, mỗi người đã nhận được tấm bánh, chú đếm số bánh còn lại trong rổ, và thấy trong rổ còn đúng 15 chiếc bánh. Cảm động về việc lạ lùng này, chú không về gia đình nữa, quyết chí ở lại tu. Dalmazzo sau đã trở thành linh mục quản nhiệm xứ Thánh Tâm tại Rôma, và rồi đã giữ chức Giám Đốc chủng viện Catanzanô cho tới chết. Lúc Giáo Hội mở cuộc điều tra, để phong thánh cho Cha Don Boscô, chính Dalmazzo đã kể lại sự việc trên, và thề trước mặt Chúa là mình nói sự thực.

11. Hợp tác với đại nhạc sĩ

Một bà mẹ dẫn cậu con trai nhỏ tuổi đến dự buổi hoà nhạc của Paderewski, mong làm cho cậu con thêm say mê học đàn. Vừa ngồi xuống ghế, bà thấy một cô bạn trong đám đông khán thính giả nên đi ra gặp cô ấy. Cậu bé cũng đứng lên, đi về hội trường nhà hát, và tò mò bước luôn qua cánh cửa ghi hàng chữ ‘Không được vào’.

Khi ánh đèn tắt đi, buổi hoà nhạc bắt đầu, người mẹ quay lại và sửng sốt không thấy con trai mình. Ngay lúc đó tấm màn sân khấu được mở ra và bà giật mình khi nhìn thấy cậu con trai bé bỏng của mình đang ngồi bên cạnh phím đàn piano, ngây thơ gõ khúc nhạc “Vì sao bé nhỏ lấp lánh, lấp lánh” dưới ánh đèn sân khấu.

Lúc Paderewski bước vào, thấy cậu bé chơi đàn, ông bước nhanh lại và nói nhỏ với cậu bé: “Chớ dừng lại, cứ chơi đi”, và hơi ngả mình về phía trước, choàng hai tay qua vai cậu bé và đệm nhạc cho cậu. Một nghệ sĩ lớn và một cậu bé tập tễnh lại có khả năng hớp hồn, làm cho mọi người mê say thưởng thức một sáng tạo tuyệt vời.

Bản đại hoà tấu của cả trời đất này đã được bắt đầu, bản đại hoà tấu của tình yêu cứu độ có thể làm thoả lòng mọi người! Điều kỳ diệu của bản đại hoà tấu đó là con người, dù rất nhỏ bé, lại được đồng lao cộng tác với Chúa trong công trình của Ngài.

12. Chúa làm mọi sự qua bàn tay con người

Thời Pháp thuộc, một vị tổng thanh tra giáo dục đi săn tại Di linh. Di linh lúc đó là một khu rừng chỉ có người K'Ho sinh sống, với rất nhiều thú rừng. Sau khi nổ súng, ông chợt thấy một ông tây chạy ra tự giới thiệu là linh mục Jean Cassaigne (cha Sanh) và nói với ông là không ai được lai vãng đến khu vực này. Vị thanh tra bỡ ngỡ, ra oai hỏi: “Ông lấy quyền gì mà ngăn cản chúng tôi?” Cha Sanh chỉ làng cùi và dẫn ông vào coi. Vừa thấy những người cùi, ông sợ hãi bỏ đi ngay với vẻ bực bội và cho cha Sanh biết là ông có quyền giải tán làng cùi đó.

Nhưng mấy tuần sau cha Sanh nhận được một bưu kiện lớn của ông thanh tra với nhiều thuốc men và dụng cụ y tế, kèm theo một mảnh giấy: “Tôi tặng Cha món quà này để trả lời cho câu hỏi mà sự hiện diện của những người cùi Di linh luôn gợi ra trong đầu tôi.”

Bốn năm sau, Cha Sanh, lúc đó là Giám mục Sài gòn, nhận được một bức điện: “Xin Đức Cha đến ngay bệnh viện trung ương Nam vang: Một bệnh nhân liệt nặng muốn gặp. Có xe tới đón.”

Bệnh nhân đó là ông thanh tra. Ông bỏ đạo từ lâu bởi nhiều ác cảm với đạo. Hình ảnh Cha Sanh sống giữa những người cùi ở Di linh, chăm sóc băng bó cho họ, thúc đẩy ông tìm về với Chúa. Ông xin Đức Cha giải tội cho ông trước khi thở hơi cuối cùng.

Thiên Chúa làm được mọi sự, nhưng ân sủng chỉ được ban với sự hợp tác của con người. Tự sức tôi chẳng làm được gì cả, nhưng phép lạ sẽ xảy ra nếu tôi đặt tất cả sự yếu hèn của tôi vào tay Chúa, như em bé đặt năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá vào tay Chúa.

13. Đói Chúa

Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết.”

Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói.

14. Tìm về nguồn sống

Có một câu truyện cổ về một nông dân Đan Mạch. Trên giường hấp hối, ông yêu cầu đứa con trai hứa sẽ ngồi một mình mỗi ngày khoảng 20 phút tại căn phòng tốt nhất trong nhà. Đứa con trai đã giữ lời hứa và khi lớn lên đã trở thành một nhà lãnh đạo được kính trọng nhất trong làng.

Câu truyện về đứa con trai của người nông dân và việc Chúa Giêsu lên núi để tập trung tinh thần mời gọi tôi tự hỏi: cái gì đã giữ tôi tập trung tinh thần khi những xác tín của tôi bị những áp lực bên ngoài tác động?

Cô tịch giúp ta nhận ra mình nên là ai, còn xã hội cho ta thấy mình là gì? (Richard Cecil)

15. Đói mà không biết mình đói

Có hai người trên một chuyến xe lửa ở Pháp. Người lớn tuổi hơn có quyển Kinh thánh mở tới câu truyện bánh và cá. Tò mò, người trẻ hơn hỏi: “Xin lỗi, ông có tin chuyện đó không hay ông chỉ đọc nó thôi?” Người kia đáp: “Tôi tin, cậu không tin sao?” Người trẻ nói: “Không. Tôi là một nhà khoa học và câu truyện đó mâu thuẫn với khoa học.” Thế rồi, chiếc xe lửa chậm lại, người trẻ nói: “Tôi xuống đây. Rất vui được nói chuyện với ông, ông…?” “Pasteur”, người lớn tuổi nói, “Louis Pasteur.” Người hành khách trẻ vô cùng sửng sốt, anh vừa nói chuyện với một trong những nhà khoa học hàng đầu của thế giới.

Tôi giải quyết những vấn đề đức tin thế nào khi nó xem ra mâu thuẫn với khoa học?

Càng hiểu ít, càng tin ít; càng hiểu nhiều, càng tin nhiều.

16. Dâng Chúa điều nhỏ bé để nhận phần lớn lao

Tại một cuộc gặp gỡ giới trẻ ở Scotland. Đức Giaó Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi các bạn trẻ hãy làm như cậu bé. Ngài mời gọi người trẻ hãy dâng cho Chúa Giêsu cuộc đời và tài năng của họ (bánh và cá). Ngài nói: “Các con ý thức sự yếu đuối của mình… Nhưng đây là điều cha nói với các con: hãy đặt cuộc đời mình trong Chúa Giêsu. Ngài sẽ đón nhận và chúc lành cho các con vượt quá những gì các con mơ ước.”

Tôi sẵn sàng tin tưởng phó thác cuộc đời và tài năng của tôi trong tay Chúa Giêsu như thế nào?

Phúc cho ai phó mình trong tay Chúa Giêsu. Chính Ngài sẽ đặt mình trong tay họ.

17. Tấm lòng mở ra

Ngày nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi. Trong khi nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước sâu. Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn nghèo.

Một đứa bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà, nhưng lại không biết bơi. Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời. Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà nghèo. Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu bé nằm dưới đáy ly kem. Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao. Ông hỏi cậu bé:

-    Khi lớn con muốn làm gì?

-    Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha con.

-    Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?

-    Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước mơ gì.

-    Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?

-    Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.

Sau này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới, đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị. Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill.

Nhờ lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê. Cậu đã trở thành bác sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicillin. Tên của cậu là Fleming!

Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng. Rồi Fleming là bác sĩ. Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây. Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa. Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình. Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.

THỨ BẢY

Lời Chúa: Ga 6, 16-21

Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ.

Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh.

Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ.” Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.

TRUYỆN KỂ

1. Tin tưởng vào Chúa

Một vị tướng nọ quyết định đánh địch quân, dù rằng lúc ấy quân số của ông chỉ bằng 1/10 quân số của quân địch. Nhưng ông vẫn xác quyết với toàn thể binh sĩ của ông rằng họ sẽ chiến thắng, thế nhưng ai nấy đều lắc đầu thất vọng.

Vào ngày xuất quân, khi đi ngang qua một nhà nguyện, ông cho đoàn quân dừng lại và nói: “Tôi và một số sĩ quan vào đây cầu nguyện và gieo thử một quẻ: Nếu đồng tiền ngửa, chúng ta sẽ thắng, bằng không, chúng ta sẽ thua.”

Một lúc sau từ nhà nguyện bước ra, ông và các sĩ quan vui mừng loan báo: “Số mệnh đã chỉ cho chúng ta biết chúng ta sẽ thắng trận này.” Nghe thế, mọi người hân hoan lên đường và quả nhiên họ đã chiến thắng một cách dễ dàng.

Ngày hôm sau, một sĩ quan thân cận đã tâm sự với vị tướng: “Quả thật, trận chiến hôm qua đã chứng tỏ không ai có thể thay đổi được số mệnh.” Vị tướng mỉm cười đáp: “Có lẽ gần đúng như vậy.” Rồi ông lấy từ trong túi đồng tiền đã gieo quẻ hôm trước, cả hai mặt đồng tiền đều giống nhau.

Một trong những yếu tố dẫn đến thất bại, đó là sợ hãi, thiếu tin tưởng. chỉ một thoáng bối rối hiện trên nét mặt cũng đủ để đối thủ chiếm được ưu thế.

Bài giảng đầu tiên khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô cũng được mở đầu bằng hai từ “Đừng sợ.”

Vâng, kính thưa anh chị em. Chúa của chúng ta đã chiến thắng tất cả rồi. Không còn một lý do nào để chúng ta phải sợ nữa. Hãy can đảm sống và làm chứng cho Ngài. Amen.

2. Chính Thầy đây, đừng sợ

Nhà truyền giáo Moody kể: “Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết rằng hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung sướng nghĩ rằng mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Đức Giêsu Kitô, như một người con của Chúa.”

3. Thầy đây, đừng sợ

Một ghềnh đá nằm trên một ngọn núi cao được gia đình chim phượng hoàng chọn làm nơi xây tổ đẻ trứng và ấp con. Từ ghềnh đá này người ta có thể nhìn thấy bao quát cảnh vật chung quanh.

Thấm thoát thời gian trôi nhanh, chim phượng hoàng mẹ nhìn con và nói

- Đã đến lúc các con phải tập bay.

- Bay như thế nào? Ba chiếc mỏ non nớt cùng cất tiếng hỏi:

Chim mẹ trả lời:

- Các con phải đi ra mép ghềnh đá rồi buông mình rơi xuống và vỗ cánh để gió nâng các con lên.

Ba chú chim con ngơ ngác nhìn nhau với những ánh mắt đầy lo sợ. Tuy thế chúng cũng vâng lời mẹ đi ra mép ghềnh đá nhìn xuống vực thẳm, nhưng rồi lại vội vàng quay trở về chui vào tổ tìm sự an toàn.

Ngày hôm sau, chim phượng hoàng mẹ cũng lặp lại lời nói hôm qua:

- Đã đến lúc các con phải tập bay.

Một chú chim con sợ hãi nói:

- Vực thẳm sâu quá!

Con khác tiếp lời:

- Chúng con sẽ phải rơi xuống tan xác mất thôi.

Và con thứ ba thú nhận:

- Chúng con sợ quá, mẹ ơi!

Nhưng chim phượng hoàng mẹ nói như ra lệnh:

- Hãy đi ra bờ vực thẳm!

Thấy đàn con không nhúc nhích, phượng hoàng mẹ nói giọng cương quyết hơn:

- Hãy đi ra mép ghềnh đá, đừng sợ!

Theo lệnh mẹ, ba chú chim con chậm rãi bỏ tổ tìm ra mép ghềnh đá. Chim mẹ nhẹ nhàng dùng mỏ đẩy ba con đi nhanh hơn. Đến nơi, một con can đảm nhảy xuống vực thẳm và tung cánh. Được gió nâng đỡ, nó vỗ những nhịp cánh đầu tiên và bay trong bầu trời cao rộng.

* Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ thuở xưa: “Thầy đây đừng sợ.” Hôm nay Chúa cũng muốn nói với chúng ta như thế.

4. Đến với Chúa qua lời cầu nguyện

Nhìn vào đời sống Hội Thánh sau hơn 20 thế kỷ, tỷ lệ người Công Giáo bên Âu Châu không gia tăng, nhưng lại đi xuống cách trầm trọng!

Ngày 5 tháng giêng năm 2010, Đài Chân Lý Á Châu loan tin: “Công Giáo Hòa Lan cách đây 50 năm là một nước có sức truyền giáo mạnh, nhưng ngày nay 41% tuyên bố vô thần, 58% không còn biết gì về lễ Giáng Sinh nữa. Nhiều Nhà Thờ thành ký túc xá, tiệm buôn hoặc biến thành Nhà Thờ Hồi Giáo! Giới trẻ hiếm có người dạy giáo lý cho, nên chúng không biết hỏi ai về niềm tin. Một số Linh mục Dòng Đaminh và Dòng Tên chủ trương Thánh Lễ không cần Linh mục, chỉ một số giáo dân quy tụ lại cầu nguyện để cùng đồng tế với nhau! Công Giáo Hòa Lan có nguy cơ biến mất!”

Những sự cố đau lòng trên đây chỉ vì nhiều giáo sĩ bỏ bổn phận chính là cầu nguyện và giảng Lời mà làm việc phụ.

Kìa ông A-rít-tít, khi còn trong chức Linh mục phục vụ mọi người, toàn dân nước Haiti ai cũng ca tụng như vị Thánh sống. Vì quá tin tưởng vào khả năng của mình, cha đã xin Tòa Thánh cho phép ra ứng cử Tổng Thống. Nhưng chỉ sau bốn tháng đắc cử, toàn dân Haiti quay chống đối ngài kịch liệt, khiến ông A-rít-tít phải sống lưu vong bên Mỹ.

Bốn năm sau, Hoa Kỳ tạo điều kiện cho ông A-rít-tít trở về nước để được tái ứng cử chức Tổng Thống. Dù lần bỏ phiếu này ông A-rít-tít cũng đắc cử, nhưng toàn dân lại chống đối mãnh liệt hơn, người ta cho là ông vì gian lận mà thắng cử! Thế là ông A-rít-rít lại một lần nữa phải chuồn ra ngoại quốc trong tủi nhục!

Sự cố này đã minh chứng: Chúa đã đặt để ông A-rít-tít là Linh mục với bổn phận chính là cầu nguyện và giảng Lời, thì ông lại bỏ mà tham gia vào chính quyền, cuối cùng gây sóng gió cho cả nước!

5. Dấu chân của Chúa

Có một bài thơ mô tả một người nằm mơ thấy mình đang cùng Chúa dạo chơi trên bãi biển. Bỗng các biến cố đã xảy đến trong cuộc đời anh ta hiện ra trên bầu trời. Nhìn lại những dấu chân trên cát, anh nhận thấy những khi hạnh phúc, trên cát có hai dấu chân. Còn những khi buồn khổ, chỉ có một dấu. Anh thưa với Chúa: “Con không hiểu tại sao những khi con cần đến Chúa, thì Chúa lại bỏ đi?” Chúa trả lời: “Ta không bao giờ bỏ rơi con trong những lúc gặp đau khổ, thử thách. Khi con nhìn thấy chỉ có một dấu chân đó là lúc Ta đang cõng con.”

Trong đời tôi, Chúa đã cõng tôi khi nào?

Ai chưa bao giờ sống trong đau khổ hoặc trải qua những giờ phút đen tối, đợi chờ ngày mai mau đến, sẽ không biết Ngài, nguồn sức mạnh chốn trời cao (Von Goethe).

6. Sống niềm tin

Cô gái người Mỹ Liz Woodward là nhân viên một cửa hàng thức ăn nhanh phục vụ 24/24h tại New Jersey. Vào 4 giờ sáng mỗi ngày, trong lúc hầu hết mọi người vẫn còn đang say giấc, thì Liz vẫn phải kìm nén sự buồn ngủ để làm việc.

Một ngày nọ, khi trời mới tờ mờ sáng, hai nhân viên cứu hộ với gương mặt xám tro tiến vào cửa hàng nơi Liz đang làm việc, một trong hai người họ xuất hiện với vẻ mặt mệt mỏi, khàn giọng nói:

- “Cô gái, cho chúng tôi hai tách cà phê espresso.”

Thì ra là cả hai vừa mới tham gia vào một vụ chữa cháy. Ngọn lửa trong nhà kho vô cùng dữ dội, họ không hề chợp mắt suốt đêm và dành 12 giờ để chiến đấu với ngọn lửa. Tại thời điểm này, họ đang kiệt sức, rất cần một ly cà phê để tỉnh táo lại.

Trong quá trình pha cà phê, Liz cẩn thận lắng nghe cuộc trò chuyện giữa hai người và biết rằng hai lính cứu hỏa Tim và Paul đã cứu hỏa thành công. Cô gái lương thiện này đã trả tiền cho 2 ly cà phê và còn tỉ mỉ chuẩn bị một bữa sáng ngon miệng cho họ.

Trên mặt sau của hóa đơn, cô gái viết:

- “Tôi đã trả tiền cho bữa ăn sáng ngày hôm nay. Cảm ơn sự đóng góp của các anh. Khi tất cả mọi người đều tìm cách thoát thân, các anh lại không màng tính mạng lao vào ngọn lửa. Bất kể trách nhiệm là gì, các anh là người dũng cảm, mạnh mẽ nhất, cũng là tấm gương tốt nhất cho tất cả mọi người, cám ơn vì mọi việc các anh đã làm, hãy nghỉ ngơi thật tốt. “

Hai người đàn ông cảm nhận được sự ấm áp qua từng câu từng chữ trên tờ hóa đơn, nó thực sự đã chạm tới nơi mềm yếu nhất trong trái tim họ, sau khi xem xong, họ bất giác khóc.

Cảm giác đau thương sau một vụ hỏa hoạn, chỉ có những người đã từng trải qua mới thấu hiểu. Liz nhìn họ, hai người họ cũng nhìn Liz, họ dành cho nhau ánh nhìn ấm áp và nở nụ cười, cuối cùng vẫy tay tạm biệt.

Sau khi trở về nhà, nhân viên cứu hỏa Tim càng nghĩ càng cảm thấy cảm động, anh đã đem câu chuyện này kể lại một cách chân thật trên mạng xã hội, đồng thời còn nhắn gửi tới bạn bè: Hãy tới cửa hàng đầy ấm áp đó, nếu như gặp được cô gái lương thiện này, hãy trả thêm một ít tiền.

Không ngờ rằng, lời nhắn nhủ đơn thuần của Tim chỉ trong một đêm đã khiến cư dân mạng vô cùng ủng hộ, tấm lòng lương thiện của Liz được truyền đi khắp nơi, đâu đâu cũng ngập tràn lời khen, rất nhiều người đã đích thân tới cửa hàng để thể hiện sự ngợi khen, ủng hộ với cô gái.

Tuy nhiên, khi bài viết của Tim được hơn 30.000 người bình luận, anh đã nhìn thấy một khía cạnh khác của câu chuyện:

Trên thực tế, gia đình của Liz không giàu có, và thậm chí có thể được mô tả là khá túng thiếu. Đầu năm 2010, cha cô bị liệt do tổn thương não. Vì cô không đủ khả năng mua một chiếc xe ô tô có hệ thống đưa xe lăn lên xuống, nên người cha bị ốm của cô quanh năm phải nằm trên giường. Còn Liz, cô phải cáng đáng toàn bộ gia đình, để có thể nhanh chóng mua một chiếc xe, cô đã làm 3 công việc bán thời gian suốt ngày đêm.

Sau khi biết được hoàn cảnh của cô gái, chàng nhân viên cứu hỏa không thể diễn tả được tâm trạng của mình, anh đã bàn bạc với một số đồng nghiệp, phải làm việc gì đó giúp cô gái lương thiện này. Chẳng mấy chốc họ đã tạo ra một trang gây quỹ cộng đồng để mua một chiếc ô tô cho cha của Liz. Mục tiêu ban đầu của họ là 17.000 đô la Mỹ, không ngờ rằng số lượng người tham gia rất cao, 10.000, 20.000, 50.000, lên đến 86.000 đô la.

Ngay sau đó, một số nhân viên cứu hỏa đã mang toàn bộ số tiền tới thăm cha của Liz và trao nó cho cô. Liz đã ôm lấy người lính cứu hỏa Tim và bật khóc. Cảnh tượng này cũng khiến cho anh chàng cứu hỏa đi cùng rơi nước mắt.

Liz nói: “Bữa sáng hôm đó tôi mua cho họ chỉ đơn thuần là lòng biết ơn tôi muốn gửi tới họ, hoàn toàn không hề nghĩ tới kết quả ngày hôm nay, tôi cảm động tới mức không biết nên nói gì nữa.”

Chỉ là một hành động nhỏ, không ngờ lại được báo đáp đầy thiện ý to lớn như vậy. Liz chưa từng nghĩ tới, cũng không dám nghĩ tới.

Lòng tốt sẽ luôn được báo đáp. Trước khi cha của Liz bị liệt, ông đã làm “nhân viên khắc phục thảm họa” trong suốt mấy chục năm liền, sau mỗi thảm họa lớn nhỏ, ông đều không màng tính mạng của bản thân lao vào hiện trường để hoàn thành công việc khắc phục thảm họa của mình. Lòng tốt của ông ấy đã truyền cho con gái mình, và rồi lại quay trở về bên cạnh ông ấy.

Lòng người đổi thay, thói đời bạc bẽo – vậy tại sao chúng ta phải chọn cách sống lương thiện?

Khi làm việc thiện, ngay cả khi bạn không nhận được hồi báo trong một khoảng thời gian ngắn, nhưng nhất định sẽ có một ngày thiện lương cùng sự ấm áp sẽ đến với bạn.

LỄ TRUYỀN TIN

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo biệt Bà.

TRUYỆN KỂ

1. Khiêm nhường đón nhận--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta.” Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.” Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

2. Cộng tác với ơn Chúa

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến.

3. Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich

Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.

Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.

Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.

Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền.”

Quang cảnh tới đây hạ màn.

4. Tờ giấy và cây viết của Leonard de Vinci

Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”

Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người.”

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.

Thánh Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình và cho toàn thể nhân loại.” Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với Evà, các ngài gọi Đức Maria là "Mẹ kẻ sống", và thường quả quyết rằng: “Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).

5. Thiên Chúa và con người

Jacques Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Ðức Giê-su. Ðang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne: thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là người.

Quả thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt ra mà suốt hơn 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?

6. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (cha Lê Quang Uy)

Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: "Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giê-su muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ... Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi... Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Mẹ..."

Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ...

Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác...

7. Xin Vâng

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên là Roncalli, ngài đã lấy khẩu hiệu: “Vâng Phục và Bình An.”

Ngài kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng thấy Hồng Y Daronius già cả đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị hồng y ấy đều lấy một ít tiền tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó, ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và Bình An.” Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về.

Hình ảnh cao đẹp và lời nói đanh thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài đã chọn câu ấy làm tâm niệm và đã thực hiện trong suốt cuộc đời.

Khi chọn”Vâng Phục và Bình An”là tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo hoàng, các ngài đã noi theo lời tâm niệm”xin vâng”của Mẹ và hơn thế nữa, là con đường sống của Mẹ Maria. Lời”Xin vâng”là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”đã làm thay đổi tất cả cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định của chương trình cứu độ.

8. Xin vâng

Ngày 08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:

– Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận không?

Sau giây phút yên lặng với giòng nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả lời:

– Ước gì con không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.

Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài đã trả lời:

– Con xin nhận như một thánh giá Chúa trao phó.

Qua lời”xin vâng”đầy nước mắt ấy, Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh Phêrô và đã trở thành một vị thánh Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự đổi mới, canh tân.

9. Mẹ đã thắng con rồi

Giovanni Tomasi là một người vô thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ nơi mấy người đồng hương nước Ý.

Khi biết mình bị ung thư nan y, anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người bạn thân rủ anh qua Lộ đức hành hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi dù chẳng tin một chút nào.

Anh trở về chẳng hề thuyên giảm, càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh hãy thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ khác. Sau nhiều lần uống nước ở chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.

Ngày 14.11.1987, anh mua một khẩu súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang Lộ đức, hét to lên một lời thách thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư của tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng này để tự sát ngay tại đây, để cho cả thế giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì, rằng đây chỉ là một trò bịp.”

Thinh lặng… căng thẳng, ai cũng thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.

Anh đưa súng vào màng tang và bóp cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy mọi sự bình thường. Sao lại không nổ vậy?

Rồi anh lại lên đạn và đưa súng lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn vẫn không nổ. Lúc đó anh không còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay buông rơi khẩu súng. Anh ngước nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã thắng con rồi!”

Tomasi mang căn bệnh trở về nhà nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi khắp nơi để diễn thuyết, viết thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như mình để khích lệ, ủi an và mời gọi họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria.

10. Triều đại Người vô cùng vô tận

Trong trí tưởng tượng, bạn hãy phát họa bức tranh nhân loại trước khi Chúa Giêsu đến. Nhân loại ở dưới quyền lực và sự kiểm soát của Satan, tội lỗi và sự vô vọng hiện diện khắp nơi.

Khi đi vào trong thế giới này, Thiên Chúa đã sai sứ thần đến với một trinh nữ tên là Maria. Sứ thần nói với bà: “Bà sẽ thụ thai và sinh một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người ta sẽ lên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho người ngai vàng Đavít, tổ tiên người và triều đại người sẽ vô cùng vô tận.” rồi sứ thần từ biệt bà (Lc 1,31-33.38)

Ý tưởng gì xâm chiếm tâm trí Maria sau khi sứ thần từ biệt bà?

Hãy để cho người chưa bao giờ yêu thương biết yêu thương, và người luôn yêu thương biết yêu thương hơn nữa.

11. Vai trò của Đức Mẹ

Một em bé đánh giầy đang làm việc ở nhà ga trung tâm Nữu Uớc. Trong khi dùng miếng vải đánh đi đánh lại đôi giầy của một ông khách, chiếc mề đay bằng bạc đong đưa nơi cổ em. Ông khách tò mò hỏi: “Sonny, cháu đeo miếng kim loại gì ở cổ thế?” Cậu bé đáp: “Đó là ảnh Mẹ Chúa Giêsu.” Ông khách hỏi tiếp: “Tại sao lại là ảnh Bà ấy? Bà ấy không khác mẹ em sao?” Cậu bé trả lời: “Có thể như vậy, nhưng có một khác biệt lớn thực sự giữa con trai bà ấy và cháu.”

Lòng sùng kính của cậu bé đối với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, mời gọi tôi tự hỏi: Đức Maria giữ vai trò gì trong cuộc đời tôi? Làm thế nào để Người đóng vai trò lớn hơn?

Kính chào Mẹ Maria, người phụ nữ dịu dàng, sứ giả hòa bình. Xin dạy chúng con biết khôn ngoan và biết yêu thương. (Carrol Landry).

12. Đức Mẹ dẫn đến Chúa

Một người đàn ông ăn mặc tồi tàn, lang thang vào một thánh đường trong giờ thánh lễ dành cho thiếu nhi. Ông ta ngồi xuống và ngủ gật. Cuối lễ, các em hát bài thánh ca ca tụng Mẹ Maria, bài thánh ca kết thúc với những lời này: “Lạy Mẹ Thiên Chúa, Ngôi sao biển, xin cầu cho những kẻ lang thang, xin cầu cho con.” Người đàn ông đột nhiên bắt đầu khóc. Khi có người lại gần, ông nói: “Bài thánh ca đó tôi chưa từng nghe. Tôi đã bỏ lễ từ nhiều năm. Bài ca về Mẹ Maria đem lại đức tin cho tôi. Một lần nữa, Mẹ là nguồn ơn phúc.”

Mẹ Chúa Giêsu đóng vai trò gì trong đời sống thiêng liêng của tôi?

Lạy Mẹ Thiên Chúa, Ngôi Sao biển, xin cầu cho những kẻ lang thang, xin cầu cho con.

13. Xin vâng

Lời đáp trả của Đức Maria đối với thánh ý Thiên Chúa như sứ thần đã mặc khải được tóm tắt trong hai tiếng “Xin Vâng.” Đây là lời đáp trả đẹp nhất mà con người có thể thể hiện trước thánh ý Thiên Chúa. Đây là lời mà Đức Maria đã dậy Chúa Giêsu, con của Mẹ thực hiện. Đây là lời đáp trả Chúa Giêsu dậy chúng ta trong Kinh Lạy Cha. Đây cũng là lời đáp trả của chính Chúa Giêsu trong cơn hấp hối ở vườn cây dầu: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha” (Lc 22,42).

Lời đáp trả của Chúa Giêsu và Đức Maria đối với thánh ý Thiên Chúa mời gọi tôi đánh giá lời đáp trả của chính mình. Tôi đã sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa như thế nào?

Điều chúng ta thường cầu nguyện với Chúa không phải là thánh ý Ngài được thực hiện, mà là Ngài chấp nhận ý muốn của chúng ta. (Helga Bergold Gross).

14. Thiên Chúa chơi trốn tìm

Trong bài giảng lễ Giáng sinh năm 1998, ĐHY Joseph Ratzinger, nay là Đức Benedicto XVI, đã kể chuyện cậu bé Jeschiel chạy tất tưởi tới phòng của ông mình, một Rabbi nổi tiếng, sướt mướt kêu gào:

- Ông ơi, bạn của con đã bỏ rơi con hết rồi. Nó thật chẳng tốt chút nào và chơi xấu với con quá!

- Ông hiểu, con có thể kể thêm một chút nữa không?

- Dạ, chúng con chơi trốn tìm năm mười với nhau. Con trốn thật là kỹ, đến nỗi bạn con không tìm được con. Tự nhiên bạn con nghỉ chơi, không tìm con nữa, và nó đi mất tăm luôn. Chơi thật là xấu, phải không ông?

Và ông đã an ủi cháu: “Thực là chẳng đẹp chút nào. Nhưng con ơi, mình với Thiên Chúa cũng vậy đó. Chúa đã chơi với chúng ta trò chơi trốn năm mười, Ngài đã trốn, còn chúng ta thì lại chẳng chịu đi tìm Ngài gì cả. Con cứ thử nghĩ xem, Thiên Chúa ẩn mình, còn chúng ta thì chẳng một lần chịu đi kiếm Ngài.”

Kể chuyện xong, ĐTC tiếp lời: “Thiên Chúa không chỉ cho chúng ta thấy hào quang sáng chói của Ngài. Ngài muốn rằng giữa Ngài với chúng ta một tình yêu cần được nảy sinh, và tình yêu này luôn đòi hỏi sự tự do... Và Ngài ước ao chúng ta có được... kinh nghiệm của sự tự do, của tìm kiếm, của khám phá và của lời Xin Vâng với tình yêu.”

Lời Chúa Tuần 2 Phục Sinh
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch