THỨ HAI - Cửa ngõ vào Nước Thiên
Chúa.
THỨ TƯ - Đi rao giảng Tin Mừng.
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất
trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái,
Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con.”
Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn
đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình
an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Nói thế rồi, Người
thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con
tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị
cầm lại.” Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng
ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng:
"Chúng tôi đã xem thấy Chúa.” Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng:
"Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay
vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không
tin.”
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp
nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa
Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con.” Đoạn Người nói với
Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay
con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.” Tôma thưa rằng:
"Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông:
"Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không
thấy mà tin.”
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ
khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều
này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên
Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. Đó là lời Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Lòng thương xót trong hành động
Tạp chí TIME năm 1984 đã in hình
một trang bìa rất đáng chú ý: trong một phòng giam có hai người đàn ông ngồi
trên hai chiếc ghế xếp bằng kim loại. Chàng trai trẻ mặc một chiếc áo len cổ lọ
màu xanh, quần jeans xanh và giày màu trắng. Người đàn ông lớn tuổi mặc một chiếc
áo choàng trắng đội một chiếc mũ sọ màu trắng trên đầu. Họ ngồi đối mặt với
nhau, cận cảnh và rất riêng tư. Họ nói nhỏ để người khác không nghe thấy cuộc
trò chuyện.
Người thanh niên đó tên là
Mehmet Ali Agca, kẻ ám sát Giáo hoàng (hắn đã bắn và làm ngài bị thương vào
ngày 13 tháng 5 năm 1981); người đàn ông kia là Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II,
nạn nhân chủ mưu của tên ám sát. Đức Giáo hoàng nắm lấy bàn tay đã cầm khẩu
súng mà viên đạn của nó đã găm vào cơ thể của ngài. Đây là một biểu tượng sống
động của lòng thương xót.
Sự tha thứ của Đức Gioan Phaolô
II mang đậm dấu ấn tình yêu Kitô giáo. Hành động của ngài với Ali Agca đã nói
thay cho hàng nghìn lời diễn đạt. Ngài ôm lấy kẻ thù của mình và xin ân xá cho
anh ta. Vào cuối cuộc gặp mặt kéo dài 20 phút của họ, Ali Agca đã cầm tay Đức
Giáo hoàng và đặt lên trán của mình như một biểu hiệu của sự tôn kính. Đức Giáo
hoàng dịu dàng bắt tay anh. Khi rời phòng giam, Đức Giáo hoàng nói: “Những gì chúng tôi đã nói với nhau phải được
giữ bí mật. Tôi đã nói chuyện với anh ấy như một người anh em mà tôi đã tha thứ
và anh là người đã hoàn toàn tin tưởng tôi."
*
Đây là một mẫu gương thể hiện Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Đó chính là Lòng
Thương Xót mà thánh Faustina đã cảm nghiệm và chia sẻ với chúng ta.
2. “Vậy thì tôi sẽ thương xót”
Hoàng đế Napoléon đã tỏ ra rất
xúc động trước lời cầu xin ân xá của người mẹ cho đứa con trai là quân nhân của
bà. Tuy nhiên, Hoàng đế nói rằng vì đây là lần phạm tội nặng thứ hai của người
lính, nên công lý đòi hỏi anh ta phải chết. Bà mẹ van nài: “Tôi không yêu cầu công lý, tôi xin lòng thương xót.”
Nhưng hoàng đế nói: “Nó không đáng được thương xót!” Bà mẹ
kêu lên: “Thưa ngài, sẽ không cần lòng
thương xót vì nó đáng bị như vậy, nhưng lòng thương xót là tất cả những gì tôi
cầu xin với ngài.” Vẻ đau khổ và cách biện luận rạch ròi của người mẹ đã
thúc đẩy Napoléon trả lời: “Vậy thì, tôi
sẽ thương xót.”
*
Chúa Nhật Thứ Hai của Mùa Phục Sinh mời gọi chúng ta suy ngẫm về tình yêu
thương và lòng thương xót vô hạn của Thiên Chúa dành cho chúng ta, như được
trình bày trong Kinh Thánh và như Chúa Giêsu đã sống, giảng dạy, cũng như thực
hành qua sứ vụ của Người.
3. Thưa ông đó là điều tôi sợ
Có một câu chuyện về một người
lính nọ được đưa đến trước mặt đại tướng Robert E. Lee. Anh bị buộc tội đã hành
động vi phạm quân luật, người lính run rẩy sợ sệt. Vị tướng nói với anh ta: “Anh đừng sợ. Ở đây bạn sẽ được công lý soi
tỏ."
Người lính nhìn viên tướng và
nói: “Thưa ngài, đó chính là điều tôi sợ.”
Giống như người lính đó, ông Phêrô có lý do để run sợ. Ông đã khoe khoang về
lòng dũng cảm của mình, rằng ông sẽ luôn sát cánh và bảo vệ Chúa Giêsu. Tuy
nhiên, khi Chúa Giêsu cần ông nhất, thì ông đã bỏ rơi Chúa. Có lẽ người ta có
thể tha thứ cho ông vì ông đã bị cơn thèm ngủ đè nặng. Nhưng sau đó với tất cả
ý thức, ông đã chối bỏ Chúa Giêsu ba lần, với cùng một lời khẳng định: “Tôi không biết người ấy.
Một tảng đá mà như thế! Theo
công lý nghiêm minh, Phêrô lẽ ra phải bị trừng phạt, ít nhất, bị tước bỏ tư
cách người đứng đầu Giáo hội. Tuy nhiên, qua cuộc khổ nạn, Chúa Kitô đã mở ra một
công lý sâu xa hơn, vượt qua những khuôn khổ cố hữu của con người. Đó là những
gì chúng ta sẽ khám phá và trải nghiệm về Lòng Chúa Thương Xót này.
4. Nâng cao tinh thần cho nhau
Bạn đã bao giờ nhìn thấy đàn ngỗng
bay theo hình chữ V chưa? Đó là một điều tuyệt vời khi người ta tìm hiểu để biết
rằng cấu hình đó là điều hết sức cần thiết để những con ngỗng có thể sống còn.
Nếu chú ý lắng nghe, chúng ta có
thể nhận thấy tiếng đập cánh của chúng đồng loạt bật lên tiếng rít mạnh trong
không khí. Và đó chính là bí mật về sức mạnh của chúng: ngỗng đầu đàn cắt ngang
sức cản của không khí, tạo ra lực đẩy giúp cho những con chim phía sau nó mất
ít năng lượng hơn.
Đổi lại, việc đồng loạt vỗ cánh
giúp những con chim phía sau bay dễ dàng hơn, v.v. Mỗi con chim sẽ lần lượt làm
đầu đàn. Những con bị mệt thì dạt ra rìa của chữ V để nghỉ, và những con còn lại
lao về phía điểm đầu của chữ V để dồn thúc bầy ngỗng bay tiếp.
Nếu một con ngỗng trở nên quá kiệt
sức hoặc bị bệnh và phải bỏ ra khỏi đàn, nó không bao giờ bị bỏ rơi. Một thành
viên mạnh hơn trong bầy sẽ theo con yếu hơn đến chỗ nó nghỉ và đợi cho đến khi
con chim đủ khỏe để bay trở lại. Cùng nhau hợp tác thành đàn, ngỗng có thể bay ở
cự ly xa hơn 71%, với công việc ít hơn tới 60% năng lượng.
5. Chữa bệnh cho nỗi buồn
Có một câu chuyện cổ của Trung
Quốc về một người phụ nữ có đứa con trai duy nhất đã chết. Trong nỗi đau buồn tột
độ, bà đến gặp một vị đạo sư và nói: “Lời
cầu nguyện nào, câu thần chú huyền diệu nào có thể làm cho con trai tôi sống lại
được?”
Thay vì đuổi bà ấy đi hoặc cố gắng
giải thích cho bà ấy, đạo sĩ nói: “Bà hãy
đi tìm cho tôi một hạt cải từ một ngôi nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Tôi
sẽ dùng để xua đuổi nỗi buồn của bà ra khỏi cuộc sống."
Người phụ nữ tất tả đi ngay để
tìm hạt mù tạt kỳ diệu đó. Trước tiên, bà ấy đến một ngôi biệt thự lộng lẫy, gõ
cửa và nói: “Tôi đang tìm một ngôi nhà
chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Đây có phải là một nơi như vậy không? Điều này
rất quan trọng đối với tôi."
Họ nói với bà ấy: “Chắc bà đã đến nhầm chỗ rồi!” Và họ bắt
đầu mô tả tất cả những điều bi thảm gần đây đã xảy ra với gia đình họ. Người phụ
nữ tự nhủ: “Ai có thể giúp đỡ những người
nghèo khổ, bất hạnh này hơn tôi, những người cũng gặp bất hạnh như tôi?”
Bà ta ở lại một thời gian để an ủi
họ, rồi lại tiếp tục đi tìm một căn nhà chưa bao giờ biết đến nỗi buồn. Nhưng ở
bất cứ nơi nào bà ấy đến, từ những căn nhà nhỏ tồi tàn đến những nơi nơi sang
trọng khác, bà ấy đều nghe thấy hết những chuyện bất hạnh này đến nỗi buồn
khác. Mỗi lần như vậy bà lại tìm cách lan tỏa những năng lượng tích cực để xua
tan nỗi đau của người khác, đến nỗi cuối cùng bà ấy đã quên đi cuộc tìm kiếm hạt
cải kỳ diệu, và cũng quên luôn nỗi buồn trong việc mất đứa con yêu dấu.
6. Dục tốc bất đạt
Một người đàn ông nhìn thấy một
tổ kén của một con bướm. Một lát sau, anh ta thấy có một lỗ nhỏ xuất hiện. Anh
ngồi và quan sát con bướm trong nhiều giờ và thấy nó cố gắng ép cơ thể mình
chui qua cái lỗ nhỏ đó. Nhưng dường như không tiến thêm được chút nào, như thể
nó đã bò xa nhất có thể rồi.
Vì vậy, người đàn ông quyết định
giúp nó, anh lấy một cái kéo và cắt bỏ phần còn lại của tổ kén. Con bướm sau đó
nhô ra khỏi tổ một cách dễ dàng. Nhưng nó có một cơ thể sưng tấy và đôi cánh nhỏ,
teo tóp. Người đàn ông tiếp tục quan sát con bướm vì anh ta mong đợi rằng, bất
cứ lúc nào, đôi cánh sẽ dang rộng và nở ra để có thể nâng cơ thể của nó lên.
Nhưng cả hai điều đều không xảy ra!
Thật sự, con bướm đã phải dành
phần đời còn lại của mình để bò xung quanh với cơ thể sưng tấy và đôi cánh teo
tóp. Chứ không bao giờ có thể bay được. Điều mà người đàn ông, với lòng tốt và
sự vội vàng của mình, đã không hiểu là cái tổ kén gò bó đó và sự nỗ lực chui ra
là cần thiết đối với con bướm. Chui qua lỗ nhỏ là cách mà quy luật tự nhiên đã
sắp đặt để ép một chất lỏng từ cơ thể nó vào đôi cánh, tạo cho nó có thể sẵn
sàng cho chuyến bay khi nó thoát ra khỏi kén.
*
Đôi khi những nỗ lực và phấn đấu chính là thứ chúng ta cần trong cuộc sống. Nếu
Chúa cho chúng ta đi qua cuộc đời mình mà không gặp bất kỳ trở ngại nào, điều
đó có thể khiến chúng ta tê liệt. Chúng ta sẽ không thể mạnh mẽ như chúng ta có
thể; chúng ta không bao giờ có thể bay! Vì vậy, những thử thách trong cuộc sống
có thể là một dấu chỉ của lòng Chúa thương chúng ta.
7. Mọi sự làm của chung
Theo sách Công vụ Tông đồ những
Kitô hữu đầu tiên đều “một lòng một ý." Họ chia sẻ tài sản của mình cho
nhau, để không ai thiếu thốn. Một số thậm chí đã bán đồ đạc của họ và gom vào
quỹ chung để chu cấp cho mọi người trong cộng đoàn.
Tinh thần bác ái cao quý này
không tồn tại lâu lắm, bởi vì trong những năm sau đó, những đấng lập ra các
dòng tu đã phải khôi phục lại tình trạng sở hữu chung như một phần của luật
dòng của họ. Vì vậy, khi thánh Bênêđictô (Biển Đức) viết điều luật cho các tu
sĩ của mình vào thế kỷ thứ sáu, ngài đã ra lệnh: “Hãy để mọi sự làm của chung cho tất cả mọi người.”
Con người vốn mang bản tính sở hữu.
Do đó không phải tất cả các tu sĩ Bênêđictô đều sống theo lý tưởng nghèo khó cá
nhân. Một lần kia một tu sĩ đã đi giảng tĩnh tâm cho một tu viện nữ gần đó. Để
bày tỏ lòng cảm ơn, các nữ tu đã trao cho thầy dòng vài chiếc khăn tay. Mặc dù
tu luật ghi rằng không một tu sĩ nào được nhận bất cứ thứ gì mà không qua tu viện
trưởng, nhưng thầy dòng này quyết định giữ món quà nhỏ lại cho riêng mình mà
không thông qua bề trên. Anh chỉ đơn giản là nhét chiếc khăn tay vào trong tu
phục của mình. Nhưng việc này không bị bỏ qua.
Khi anh trở lại tu viện, bề trên
Bênêđictô đã mắng anh: “Làm sao mà ma quỷ
lại tìm được đường đi vào tâm hồn anh như thế?” Thầy dòng này vô cùng bối rối,
vì anh ta đã quên chiếc khăn tay mình đã giữ lại. Nhưng lỗi của anh đã bị tiết
lộ cho tu viện trưởng Bênêđictô. Ngài nói mạnh: “Có phải vì tôi không có mặt, nên anh mới nhận những chiếc khăn tay đó
phải không?” Ngay lập tức vị tu sĩ nhận biết mình có lỗi, anh quỳ xuống trước
vị thánh, xin ngài tha thứ và trao món quà lại cho bề trên.
*
Khi nói về cộng đoàn tín hữu đầu tiên đây là một nét son của họ, nhưng chắc chắn
mỗi thành viên phải phấn đấu rất nhiều mới có thể duy trì được lí tưởng ấy.
Tham vọng của cộng sản nguyên thủy: “các tận sở năng, các mãn sở nhu” (làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu) đã hoàn toàn thất bại, và bị coi là hão huyền!
8. Vững một niềm tin
(Trích “Như Thầy Đã Yêu” của
Thiên Phúc)
Hoa bạch chỉ là loại hoa nổi tiếng
quý giá. Có một người dân thành thị về chốn thôn dã tìm hái hoa này. Anh ta
nghĩ hoa quý, ắt phải nở trên đỉnh núi cao, bèn cố sức trèo lên đỉnh núi tìm
hoa. Lên đến đỉnh núi, anh ta lục lạo suốt buổi mà chẳng thấy bông hoa nào,
đành thất vọng xuống núi, ra về tay không.
Hôm sau, anh ta lại tìm theo lối
cũ lên núi lục lạo thêm một phen nữa, vẫn không kiếm ra. Ngày thứ ba, anh vẫn chưa
nản chí, tiếp tục leo lên đỉnh núi tìm hoa bạch chỉ. Anh tự nhủ:
– Giống hoa quý này chỉ có trên
đỉnh núi cao, ta không tin là sẽ không kiếm ra nó trên đỉnh núi cao!
Nhưng cuối cùng, anh ta vẫn
không kiếm ra loại hoa quý này. Trong lúc chán nản thất thểu xuống núi, anh ta
chợt thấy trong đám cỏ mọc dướii chân núi có hoa bạch chỉ. Đáng tiếc là nó đã bị
chính anh giẫm nát mất rồi.
Những người quá tin vào ý nghĩ
chủ quan của mình thường cố cháp, không lắng nghe ai, để rồi công sức của mình
đều đem ra đổ sông, đổ biển. Tin Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục
Sinh, hiện ra với các tông đồ, vắng mặt Tôma.
Vì thế, khi nghe các môn đệ khác
nói: “Chúng tôi đã được thấy” (Ga 10,25), ông đã không tin.
9. Gặp Chúa
Người ta kể rằng: Có một nhà báo
không tin có Chúa, cho đó là trò mê tín dị đoan. Ông ta tìm đến một Giáo Xứ, hỏi
thăm mọi người để tìm ra một người mới theo Đạo, và đã tìm được một người công
nhân ít học để phỏng vấn, dự định từ đó sẽ viết một bài báo bôi bác Đạo. Cuộc
phỏng vấn diễn ra như sau:- Xin hỏi thăm, có phải anh mới theo Đạo Chúa không?-
Vâng, nói đúng và rõ hơn, tôi đã xin theo Đức Ki-tô.- Thế thì chắc anh biết rất
nhiều về ông ta, vậy anh hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia
nào?- Rất tiếc, tôi là người ít học, lại mau quên, tôi đã có được học những chi
tiết này trong một khóa Giáo Lý, nhưng bây giờ thì tôi lại không nhớ nổi, nghe
đâu như Đức Ki-tô là người Do-thái thì phải!- Thế khi chết, ông ta được bao
nhiêu tuổi?- Tôi không nhớ rõ lắm, hình như cũng vào khoảng tuổi tôi bây giờ, gần
40 hoặc trẻ hơn một chút.- Vậy, anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu
bài, có bao nhiêu tác phẩm ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của
ông ta?- Câu này thì tôi xin chịu thua!- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để
có thể quả quyết là anh đã thật sự đi theo cái ông Ki-tô ấy!- Ông nhà báo nói
thế thì chỉ đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Ki-tô.
Thế nhưng, điều mà tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước, tôi là một tên nghiện
rượu, sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách
kinh khủng. Mỗi tối, khi tôi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn
tủi… Thế mà, bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ
nần, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng đợi chờ
tôi về nhà mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn,
chính Đức Ki-tô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người…Nghe
đến đây thì ông nhà báo không tin Chúa hậm hực đứng lên bỏ ra về, không được một
lời cám ơn. Ông ta không ngờ lại gặp một con người hết lòng xác tín vào Đức
Ki-tô như thế…
10.
Tần số tình yêu – Thiên Phúc
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo
ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi
người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?
Người cha giải thích: – Con ạ!
Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức,
âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.
– Nhưng thưa ba, con có nghe thấy
gì đâu!
– Muốn nghe được những thông tin
và các chương trình bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở
đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau
đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức
Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm
chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh
lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn
xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng
hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20,28).
11. Dấu chân của Thiên Chúa – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhiều năm trước đây có một nhà
bác học vượt qua sa mạc với mấy người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để
ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những
người Ả Rập cùng đi đường đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời
chắp tay cầu nguyện. Nhà bác học hỏi:
– Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời không chút
do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của
chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa
mai:
– Vậy chứ các ông đã thấy Chúa
bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài
khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười
đáp lại:
– Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề
mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
– Các ông thực là những người
điên, các ông mù quáng sấp mình thờ lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc
tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng
không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng,
nhà bác họ đã thức dậy, bước ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
– Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là
tối hôm qua có con lạc đà nào đã đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui
mừng loé lên trong ánh mắt hướng dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những
câu hỏi liên tiếp:
– Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc
đà đi ngang qua đây tối hôm qua chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc
ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
– Không, tối hôm qua tôi ngủ
ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
– Vậy thì ông cũng chẳng khác gì
người điên. Ông quả quyết là lạc đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi
ông lại nói là mắt ông không thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
– Nhưng đây là bằng chứng rõ
ràng: Ông không trông thấy dấu chân lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng
kéo dài những tia sáng rực rỡ trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang
tay trịnh trọng tuyên bố:
– Này ông bạn của tôi ơi! Ông
hãy nhìn xem mặt trời và những tia sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu
chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa mà chúng tôi tôn thờ.
12. Một tôn giáo mới
Có một câu chuyện kể lại rằng, một
nhà thông thái kia muốn sáng lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất
cả sự khôn ngoan của mình ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông
bèn than thở với một người bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người
ta theo anh thì dễ thôi, anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối
cùng, thì thứ sáu anh để người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa
nhật anh sống lại! Chắc chắn người ta sẽ theo anh rất đông?"
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại
càng lý thú hơn, khi tác giả của lời khuyên này chính là Napôlêon!
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở
đây, đều có sức lôi cuốn người ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục
sinh chính là nền tảng và trung tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
13. Mầu nhiệm đức tin
Sau đây là một câu chuyện ngụ
ngôn: có hai người đi đường tự nhận thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng.
Bởi vì chung quanh đó không còn một con đường nào, nên họ không còn chọn lựa
nào khác, ngoài cách phải băng qua cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ,
họ e ngại rằng mình có thể bị lạc lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp
được một người gác rừng, người này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường
mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì
người thứ nhất phát hiện được một con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực
tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy,
anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ, lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự
làm cho mình mất đi cơ hội khám phá được vẻ phong phú của khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng
chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường
mòn chính không chỉ xuyên suốt được khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn
nhiều. Đối với anh, không nhất thiết là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ,
nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này là nhằm cung cấp cho anh những phương
hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối.
Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp
cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới
của chân lý. Tấm bản đồ tiêu biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường
mòn tiêu biểu cho các học thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại
người theo trào lưu chính thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo
một cách thế hẹp hòi, theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những
gì còn lại của cuộc sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để
cung cấp cho anh những phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất
cả cho anh. Chúng giúp anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những
nét phong phú đa dạng và tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa
khóa, để giải mã mầu nhiệm của cuộc sống.
Một
cuộc đối thoại giữa hai người yêu nhau:
- Em có bằng lòng lấy anh không?
- Bằng lòng.
- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe
anh nói thôi chứ chưa có dịp ”kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin
anh thế?
- Vì em yêu anh!
Tình
yêu hỗ trợ cho niềm tin.
15. Sức mạnh của đức
tin
Có
một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà
khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống
bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn
lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
16. Cú nhảy của niềm
tin
“Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và
không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin."
“Xoảng...!“
Cái bình vỡ. “Hư quá! Mẹ đã bảo rồi." Không phải một lần nhưng nhiều lần xảy
ra như thế. Mặc dù đã được me báo trước, nhưng tôi vẫn cứ muốn thử xem sao.
Lớn
lên, tôi hiểu biết nhiều hơn nhưng cũng đa nghi hơn. Cái gì hơi khác thường là
tôi đòi phải có bằng chứng rõ ràng. Với một công thức mới chưa được chứng minh,
tôi không tài nào nhớ được. Và đôi khi, trong những giây phút trao lòng, tôi
cũng đã hỏi: “Không biết có Chúa thật không?"
Cuộc
sống càng phát triển, dường như con người chỉ muốn tin vào những cái có thể
cân, đong, đo, đếm được mà thôi.
Nhưng
thước đo nào đủ cho chiều cao thập tự. Cán cân nào đủ đo tình yêu của Người.
Lạy
Chúa, xin cho con biết vững tin vào tình yêu cứu độ.
17. Thế giới thiếu bình
an.
Có
lần người ta hỏi đại thi hào DANTE của nước Italia rằng: đâu là điều mà ông
mong mỏi và tìm kiếm nhất trong cuộc sống? Bậc vĩ nhân đã trả lời như sau: “Tôi
vẫn luôn đi tìm kiếm điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm: đó là sự bình an."
Đó
là điều mà chúng ta vẫn cầu xin cho người quá cố: trên bia mộ, chúng ta luôn
ghi lời cầu xin: requiescat in pace: xin cho họ được an nghỉ ngàn thu. Phải
chăng trong cuộc sống hiện tại nơi trần thế này, chúng ta sẽ không bao giờ tìm
được hòa bình và an nghỉ? Trong những giây phúc cuối đời, Đức Giêsu đã hứa hẹn
với chúng ta: “Thầy ban bình an cho các con. Thầy ban bình an mà thế gian không
thể ban tặng cho các con."
Trước
Chúa Kitô 600 năm tại Roma, một đền thờ đã được xây lên để kính nhớ thần Janus,
vị thần mà người ta đã lấy tên để đặt cho tháng đầu tiên trong năm. Theo ước
mong của tòan dân trong đế quốc La mã, đền thờ này chỉ được mở cửa trong thời
bình.
Trong
vòng 600 năm ấy, dường như các cửa của đền thờ chỉ được mở trong ba giai đọan
ngắn ngủi. Cánh cửa Hòa bình đóng mãi đối với con người ở mọi thời đại. Thời đại
nào thế giới cũng mong hòa bình, thời đại nào con người cũng đợi hòa bình.
Khát
vọng của Hòa bình ăn rễ sâu trong lòng người, ngay cả những người suốt đời chỉ
gieo rắc chiến tranh và đau thương cho người khác. Chúng ta thích khung cảnh tịch
mịch thư thái, chúng ta ngây ngất trước ánh bình minh tươi sáng, chúng ta vui
thỏa trước buổi chiều tà êm ả, chúng ta thích những cánh hoa tươi mát v.v…
Chúng ta thán phục những con người luôn tỏ ra bình thản trước những hòan cảnh
xáo trộn. Chúng ta đi tìm những tư tưởng bình an, những dòng nhạc êm dịu, những
con người hiền lành (Đ.Ô Nguyễn văn Tài).
Thế
giới của chúng ta dường như chưa bao giờ được hưởng những giây phút thái bình
thực sự. Hòa bình chỉ là những khỏanh khắc tạm bợ đầy những rình rập của chiến
tranh và lo sợ.
18. Chiến tranh và hòa
bình.
Trong
cuốn Le retour de Jésus Christ, tiến sĩ René Pache có cho biết: kể từ năm 1496
trước Thiên Chúa giáng sinh cho đến năm 1861 của thời đại chúng ta, tức trong
khỏang 3400 năm, tính được tất cả 3130 năm chiến tranh, thế giới chỉ được hưởng
268 năm hòa bình. Như thế, trung bình cứ 13 năm chiến tranh thiên hạ mới được
hưởng một năm hòa bình.
Từ
năm 1500 năm trước Thiên Chúa giáng sinh, cho đến năm 1860 đời ta, tính có tới
8000 hiệp ước hòa bình. Tuy mọi hiệp ước đều có giá trị vĩnh viễn, nhưng trên
thực tế, hiệu quả của mỗi hiệp ước trung bình không quá hai năm. Chỉ trong 19
năm, giữa hai thế chiến (1920-1939) tính đã có đến 4568 hiệp ước hòa bình.
Nguyên 11 tháng trước đệ nhị thế chiến, đã có tới 211 hiệp ước rồi.
19. Bức tranh diễn tả
bình an.
Một
vị vua treo giải thưởng cho nghệ sĩ nào vẽ được một bức tranh đẹp nhất về sự
bình an. Nhiều họa sĩ đã cố công thực hiện. Nhà vua ngắm tất cả các bức tranh
nhưng chỉ thích có hai bức và ông phải chọn lấy một.
Một
bức tranh vẽ hồ nước yên ả. Mặt hồ là tấm gương tuyệt mỹ vì có những ngọn núi
cao chót vót bao quanh. Bên trên là bầu trời xanh với những đám mây trắng mịn
màng. Tất cả những ai ngắm bức tranh này đều cho rằng đây là bức tranh bình yên
thật hòan hảo.
Bức
tranh kia cũng có những ngọn núi, nhưng những ngọn núi này trần trụi và lởm chởm
đá. Ở bên trên là bầu trời giận dữ đổ mưa như trút kèm theo sấm chớp. Đổ xuống
bên vách núi là dòng thác nổi bọt trắng xóa. Bức tranh này trông thật chẳng
bình yên chút nào.
Nhưng
khi nhà vua ngắm nhìn, ông thấy đàng sau dòng thác là một bụi cây nhỏ mọc lên từ
khe nứt của một tảng đá. Trong bụi cây, một con chim mẹ đang xây tổ. Ở đó, giữa
dòng thác trút xuống một cách giận dữ, con chim mẹ đang an nhiên đậu trên tổ của
mình… Bình yên thật sự.
“Ta chấm bức
tranh này” – Nhà vua công bố.
Sự
bình yên không có nghĩa là một nơi không có tiếng ồn ào, không khó khăn, không
cực nhọc. Bình yên có nghĩa ngay chính khi đang ở trong phong ba bão táp ta vẫn
cảm thấy sự bình yên trong trái tim. Đó mới chính là ý nghĩa thật sự của sự
bình yên giữa thế giới đang cần nỗ lực giành lấy trong cuộc sống này.
Không
có sự bình yên thật sự khi con người không dấn thân để xây dựng. Xây dựng từ
nơi chính mình bằng đời sống công chính, yêu thương với đức ái đòi hỏi. Không
có sự bình an không có đấu tranh cho sự thiện, không có sự bình an cho những
người ngồi chờ sự an nhàn. Sự bình an mà Đức Giêsu ban tặng là sự bình an cho
những con người chấp nhận những thử thách để vượt qua thử thách bằng sự bình an
của Đức Giêsu.
20. Bình an trong tâm hồn.
Một
tu sĩ rất đau khổ vì tính nhạy cảm của mình. Sau nhiều ngày chịu đựng bản tính
nóng nảy không tự chủ được, từ cử chỉ đến lời nói, tệ hơn nữa, anh ta luôn dành
những phần phải về phía mình.
Một
hôm, anh tự nhủ: “Ta sẽ bình an, nếu ta
vào sống trong sa mạc hoang vắng xa cách mọi người." Nghĩ sao làm vậy,
anh ta đã sống những ngày bình an, nhưng một buổi chiều nọ, anh đặt chiếc bình
sành dùng để đựng nước xuống đất, không biết vì đất nơi ấy lồi lõm hay vì ma quỉ
muốn chọc phá, mà bình nước lật sang một bên đổ vỡ đôi, và làm đổ hết nước ra
ngòai. Người ẩn tu hầm hầm nổi cơn thịnh nộ tưởng chừng như trời long đất lở.
Khi
nguôi cơn giận, anh ta nhìn ngắm chiếc bình đã bể và tự nhủ: “Tôi đã bỏ các anh em trong tu viện, nhưng
khổ nỗi lại mang chính cái tôi vào sa mạc hoang vu này, không phải họ, nhưng là
chính cái nóng nảy của tôi đã làm cho tôi mất bình an." Ngay chiều hôm
ấy, anh ta trở về tu viện, và qua thời gian, với ơn Chúa giúp và những cố gắng
cá nhân, tính nóng nảy đã bớt dần và sự bình an gia tăng trong tâm hồn anh.
Giáo
hội luôn mời gọi chúng ta sống một cách thiết thực và sâu đậm lời của Đức
Giêsu: “Bình an cho các con”, đó là lời
chào luôn có trên môi miệng của Đấng Phục sinh. Thật ra, đây hẳn không phải là
một lời chào thân thuộc của người Do thái, nhưng là ân ban mà Chúa Kitô Phục
sinh đem lại cho con người. Bình an là nghịch lại với tất cả những gì sợ hãi,
thất vọng, chết chóc. Bình an là đồng nghĩa với tin yêu, vui sống và hy vọng.
21. Lời mời gọi của đức
tin
Một
bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang thực tập làm thủy thủ
trên một chiếc tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên
tàu có 40 thủy thủ thì chỉ còn duy nhất cậu bé này tin vào Chúa.
Trong
ngày từ giã trước khi con lên tàu, bà mẹ đạo đức đã khuyên dạy con trai
như sau: “Chúa đặt con trên con tàu
này là để con làm chứng nhân cho Người."
Từ
ngày đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ nhàn rỗi để
uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp
bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để ăn chơi sa đọa, thì
cậu bé đều ra sức ngăn cản. Nhưng không những bọn thủy thủ không nghe, mà
còn hè nhau chế diễu cậu. Chẳng hạn: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện
trước bữa ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn trước mặt giấu đi chỗ khác.
Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát chế
nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người của cậu. Đáp lại,
cậu thiếu niên luôn mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa tha tội cho họ.
Một
lần kia khi đang làm việc trên boong, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu
liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm
lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Khi cậu bơi lại gần tàu thì
họ lại dùng sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu bị yếu
sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối
và hét to: “Các bạn ơi, hãy tin vào
Chúa thì các bạn sẽ được ơn cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi
rằng: tôi sắp chịu chết vì danh Chúa !” Nghe vậy, năm thủy thủ
liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong làm hô hấp nhân tạo. Một hồi
sau tỉnh dậy, thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại
tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa nhưng hãy hồi tâm sám hối quay
về với Chúa. Kết quả là từ ngày đó, toàn thể thủy thủ trên tàu đều
xúc động trước tấm gương trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã
quỳ gối cầu nguyện và thành tâm sám hối trở về với Chúa.
22. Dũng cảm bày tỏ niềm
tin
Thời
đó, Arthur Jones được gọi nhập ngũ phục vụ trong không lực hoàng gia và sống
trong một trại lính cùng với 30 binh sĩ khác. Ngay đêm đầu tiên, anh đã phải
cân nhắc về một quyết định quan trọng: trước đây anh vẫn luôn quỳ gối đọc kinh
trước khi đi ngủ, liệu bây giờ sống chung trong quân ngũ, anh có nên tiếp tục
quỳ đọc kinh không?
Lúc
đầu anh cảm thấy ngượng nhưng rồi anh tự nhủ: “Chẳng lẽ vì sợ những kẻ khác dòm ngó mà mình lại phải thay đổi cách sống
hay sao?”
Nghĩ
thế anh liền quyết định cứ tiếp tục mỗi tối quỳ gối đọc kinh trước khi ngủ. Khi
đọc kinh như thế, anh nhận thấy mọi người trong phòng đều quan sát anh và biết
anh là người Công giáo. Và anh cũng phát hiện ra trong toàn trại lính chỉ có
mình anh là người Công giáo. Rồi mười phút cầu nguyện hằng ngày ấy thường là đề
tài để các bạn bè sau đó tranh cãi nhau hàng giờ.
Vào
ngày cuối cùng của khóa huấn luyện, có người đã đến nói với anh:
– Đến nay anh chính là một người tín hữu tốt nhất mà
tôi từng biết.
Anh
đáp:
– Có lẽ tôi không dám nghĩ mình là người Kitô hữu tốt
nhất, mà chỉ là người dám công khai biểu lộ đức tin của mình mà thôi. Dầu vậy
tôi cũng cảm ơn bạn về điều bạn vừa nói.
23. Dấu đinh chứng tích
của tình yêu
Vào
một ngày hè nóng nực ở Florida, nước Mỹ, một cậu bé đi bơi ở con sông bên cạnh
nhà. Bên khung cửa sổ, ánh mắt người mẹ dõi theo cậu con trai yêu quý đang nô
đùa giữa dòng nước mát. Đột nhiên, người mẹ hoảng hốt khi thấy một con cá sấu
đang từ từ tiến đến gần cậu bé. Hoảng sợ đến tột độ, bà phóng ra bờ sông, vừa
chạy, vừa la hét gọi con trai.
Nghe
tiếng mẹ gọi, cậu bé phát hiện ra con cá sấu và bơi ngược trở lại phía bờ.
Nhưng quá muộn! Đúng vào lúc cậu bơi tới bờ, thì cũng là lúc con cá sấu đớp vào
chân cậu. Từ trên bờ, người mẹ không chậm một giây, chộp lấy cánh tay cậu. Và
thế là bắt đầu một trận kéo co dữ dội. Con cá sấu khỏe hơn người mẹ rất nhiều.
Nhưng người mẹ với sức mạnh của tình mẫu tử cũng không buông tay. Cuối cùng,
nhiều người đã chạy đến kịp thời giải cứu cậu bé. Sau nhiều tháng nằm bệnh viện,
cậu bé đã bình phục với một cái sẹo thật to nơi chân.
Ngày
nọ, một phóng viên đến chụp ảnh cậu bé với vết sẹo và nói với cậu đây sẽ là vết
sẹo khó quên nhất trong đời cậu. Nhưng cậu bé kêu lên: “Thưa bác, đây mới là vết sẹo đáng ghi nhớ!” Nói xong, cậu bé vén
tay áo lên cho thấy một vết sẹo sâu hoắm với những vết cào xước do móng tay người
mẹ bấm sâu vào da thịt đứa con, để giữ cậu lại trước hàm răng cá sấu. Cậu bé
không bao giờ quên vết sẹo của tình thương ấy.
Vết
sẹo của cậu bé chỉ là vết sẹo của người được thương, nhưng trổi vượt hơn nhiều,
Chúa Giêsu đã bày tỏ những “vết sẹo tình thương” là những dấu đinh nơi thân xác
Ngài, để củng cố niềm tin của các tông đồ, nhất là làm cho tông đồ Tôma được vững
tin. Qua đó, Chúa cũng muốn dạy chúng ta bài học của niềm tin.
24. Đức tin
Ai
cũng công nhận Léon Tolstoy là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo.
Lẽ
ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời
mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: “Liệu trong đời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt
đi không?”
Khủng
hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như
câu chuyện sau đây:
Năm
1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình.
Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ “Chiến tranh và Hòa bình”, và “Anna
Kerenina." Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo đảm cho ông một
vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công nhận ông là người
có thiên tài và đầy óc sáng tạo.
Lẽ
ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời
mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: “Liệu trong đời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt
đi không?" Khoảng thời gian ấy thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi
ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức
loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày đêm, giống như người sắp chết đi tìm đường sống.
Nhưng tìm mãi mà ông chẳng gặp gì cả. Thế rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô
giáo.
Thực
ra ông đã được sinh ra và lớn lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ
nó từ lâu, lý do là ông thấy nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống
ngược hẳn với đức tin của họ. Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông
khi ông nhìn những tín hữu sống đức tin ấy. Ông viết: “Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn nào trong đời. Nhưng rồi
tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin Mừng. Tôi đã lóa mắt vì sự
sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu quả thực là một giáo huấn
tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ 2000 năm nay, những lời dạy
cao quí ấy đã tác động lên biết bao người một cách tuyệt vời không thể tìm được
nơi bất cứ ở nơi nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng chiếu trong tôi và quanh
tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi nữa."
THỨ HAI - Cửa ngõ vào Nước Thiên Chúa.
Lời
Chúa: Ga 3, 1-8
Khi
ấy, trong nhóm biệt phái, có người tên là Nicôđêmô, một đầu mục của người
Do-thái. Ông đến thăm Chúa Giêsu ban đêm và thưa rằng: "Lạy Thầy, chúng
tôi nhận biết Thầy là một vị tôn sư Thiên Chúa uỷ phái đến. Vì không ai làm được
những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người đó." Chúa Giêsu
đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi trời, thì chẳng
ai được thấy Nước Chúa." Nicôđêmô thưa Chúa rằng: "Một người đã già,
làm sao có thể tái sinh? Không lẽ người ấy lại vào lòng mẹ mà sinh ra lần nữa
sao?"
Chúa
Giêsu đáp: "Thật, Tôi bảo thật cho ông biết, nếu không tái sinh bởi nước
và Thánh Thần, thì không ai được vào nước Thiên Chúa. Sự gì sinh bởi huyết nhục,
thì là huyết nhục; và sự gì sinh bởi Thần Linh, thì là thần linh. Ông đừng ngạc
nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu
thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ
sinh bởi Thần Linh cũng vậy."
TRUYỆN KỂ
1. Sinh bởi Thần Khí
George
Foreman một cựu vô địch quyền anh hạng nặng đã theo học nhiều lớp Kinh thánh và
tham gia một nhóm cầu nguyện. Nhưng dường như anh không có đời sống thiêng
liêng.
Một
đêm sau trận đấu, khi đang ngồi trong phòng thay đồ, hai tay ôm đầu, anh bỗng
nhận thấy máu từ vết thương ở đầu nhỏ giọt qua bàn tay và rơi xuống đôi chân trần.
Điều ấy đánh động anh. Đó là những vết thương chảy máu của Chúa Giêsu: đầu,
chân, tay. Ý nghĩ bất thường đó là khởi đầu cho cuộc tái sinh thiêng liêng của
anh.
Đâu
là giây phút đặc biệt đáng ghi nhớ trong đời sống thiêng liêng của tôi?
Không
ai bận tâm tới việc tái sinh có nghĩa là đang chết thật rồi (Bob Dylan).
2. Được sinh ra từ trên
Để
bước vào cuộc đời này, cần có một người cha sinh ra mình. Để vào Nước Thiên
Chúa, con người cần được Cha trên trời sinh ra.
Con
người có sự sống đời này khi Chúa còn ban hơi thở tự nhiên. Con người có sự sống
vĩnh cửu khi được Chúa ban Thần Khí.
Đức
Giêsu cho biết phải được sinh ra từ trên (anôthen). Trong tiếng Hy-lạp, anôthen
còn có nghĩa là lại, lần nữa. Có lẽ vì thế mà Nicôđêmô tưởng là Đức Giêsu nói đến
việc sinh lại. Chính vì thế ông nêu lên thắc mắc: “Một người đã già rồi, làm sao người ấy có thể được sinh lại lần nữa.”
Dĩ
nhiên chúng ta không cần phải vào lòng mẹ lần thứ hai. Nhưng kitô hữu thực sự
phải là người đã được sinh ra bởi Thần Khí. Tương tự như gió ở chung quanh ta. Chúng
ta chỉ có thể thấy những hậu quả của gió, nhưng không thấy được gió.
Người
được sinh bởi Thần Khí cũng vậy. Chúng ta cũng không rõ cách thức Thần Khí hoạt
động nơi người ấy, nhưng chúng ta nhìn thấy sự biến đổi sâu xa nơi cuộc đời mỗi
người.
3. Kitô hữu phải được Thần Khí sinh ra
Một
hướng dẫn viên đi trong sa mạc Ả Rập được ca tụng là không bao giờ lạc đường.
Anh luôn ôm theo một con chim bồ câu khôn lanh, dưới chân buộc sợi dây nhỏ.
Mỗi
khi nghi ngờ hướng đi, anh thả chim ra và nó sẽ mau mắn chỉ đường cho anh. Nên
anh được mệnh danh là “người chim." Thánh Linh cũng là một bồ câu thần
thiêng chỉ đường cho ta nếu ta bước theo Ngài.
4. Cần tái sinh từ sớm
Một
nhà đại thần bí Ấn độ nói về chính mình: “Tôi
là một nhà cách mạng khi còn trẻ, và tất cả những gì tôi cầu nguyện với Chúa
là: “Lạy Chúa, xin cho con quyền lực để cải tạo thế giới."
Khi
đến tuổi trung niên, tôi nhận ra rằng nửa cuộc đời qua đi mà không một tâm hồn
nào được thay đổi. Tôi đổi lại lời cầu: “Lạy
Chúa, xin cho con thiện chí để hoán cải tất cả những người tiếp xúc với con."
Bây
giờ tôi đã già và gần kết thúc cuộc đời, tôi cảm thấy mình ngu dại biết bao. Lời
cầu nguyện của tôi bây giờ là: “Lạy Chúa,
xin cho con thiện chí để hoán cải chính con." Nếu tôi xin điều này ngay từ
đầu, tôi đã không lãng phí cuộc đời”
5. Thưa, chính Chúa đấy ạ.
Cha
John Diamond có kể lại câu chuyện này: Hôm đó có một linh hồn vì chán ngấy cuộc
sống ở thế gian cho nên linh hồn lên trước cửa Thiên đàng. Tới nơi linh hồn gõ
cửa. Ở trong có tiếng vọng ra: “Ai đó”?
Linh hồn trả lời: “Con đấy ạ." Cửa
vẫn đóng.
Sau
đó linh hồn lại trở về với đời sống trần thế tìm thầy học đạo. Sau một thời
gian thấy mình đã tiến bộ, linh hồn lại lên gõ cửa Thiên đàng một lần nữa. Lại
một tiếng hỏi từ trong như lần trước và linh hồn trả lời một cách quả quyết
hơn: “Dạ, chính con đây." Cửa vẫn
đóng.
Linh
hồn lại phải trở về trần thế... mở sách Tin Mừng để xem Chúa muốn gì. Quả thực
khi mở Tin Mừng ra linh hồn mới thấy con đường của mình phải đi là con đường
nào. Đó là con đường tự hủy. Chúa nói thật rõ về con đường phải làm chết cái
tôi ích kỷ, hay khoe khoang phô trương, tự mãn, ghen ghét. Phải làm chết đi cái
tôi đầy hận thù, nhiều kiêu ngạo và đầy dẫy những ham muốn bất chính để cho con
người của mình được giống Thiên Chúa hơn.
Sau
một thời gian thấy mình quả thực đã không còn là mình nữa thì linh hồn lại lên
trời... lại gõ cửa... lại có tiếng từ bên trong hỏi vọng ra: “Ai đó." Vừa nghe xong câu hỏi linh
hồn đáp ngay: “Dạ, thưa chính Chúa đấy ạ."
Vừa
trả lời xong thì linh hồn thấy cửa Thiên đàng được mở ra và cả một đạo binh các
thiên thần long trọng đón linh hồn vào Thiên đàng.
6. Bài giảng biết đi
Một
buổi chiều năm 1953, các kí giả và mọi người tập trung ở nhà ga xe lửa ở
Chicago để chào đón người được giải Nobel Hòa Bình 1952. Các nhân vật cao cấp của
thành phố dang rộng tay để chúc mừng vị thượng khách.
Ông
cám ơn mọi người, rồi đưa mắt nhìn quanh sân ga. Bất chợt, ông xin kiếu mọi người
rồi băng qua đám đông, tiến thẳng đến đỡ một cụ già không quen biết với chiếc
vali nặng trên tay bà. Ông mỉm cười dẫn bà lên xe và không quên chúc bà thượng
lộ bình an. Quay lại với đám đông, ông xin lỗi vì bắt họ phải chờ đợi! Người được
giải thưởng đó chính là bác sĩ Albert Schweitzer, nhà truyền giáo nổi tiếng đã
hi sinh cả cuộc đời cho những người nghèo tại Châu Phi. Thấy thế, một người đã
thốt lên: “Lần đầu tiên tôi nghe được một
bài giảng biết đi."
Là
một Kitô hữu tôi phải loan báo Tin Mừng và phải là “những bài giảng sống động
và biết đi” về tình yêu Thiên Chúa.
7. Nên đồng hình đồng dạng với Chúa
Bên
Mỹ có một cuốn phim với tựa đề là: “Người Mưa” được tung ra thị trường phim ảnh
Hoa Kỳ mấy năm trước đây. Mục đích của cuốn phim này là muốn người ta thấy con
người có thể trở nên tốt như thế nào.
Một
gia đình kia có ba người: người cha và hai người con. Hai người con thì một người
tên là Charley và còn người kia tên là Raymond. Tuy là hai anh em nhưng họ
không biết nhau. Người anh tên là Charley là một thương gia giàu có, còn
Raymond, người em thì bị tàn tật từ nhỏ. Charley không hề hay biết mình có người
em tên là Raymond và hơn nữa lại là một người tàn tật mãi cho đến ngày cha của
hai người qua đời.
Cái
chết của người cha đã đánh dấu một khúc rẽ mới trong đời sống của hai anh em.
Trước khi nhắm mắt lìa đời, trong tờ di chúc, người cha đã ký lại cho Raymond,
người con tàn tật một số tiền khổng lồ là 3 triệu mỹ kim, còn Charley thì được
thừa kế một ngôi biệt thự rộng lớn. Charley rất ngạc nhiên trước lời trăn trối
của người cha, và kể từ ngày đó anh tìm đủ mọi mưu kế, học mọi thủ đoạn để chiếm
đoạt số tiền của em. Anh lý luận: dầu sao đi nữa, em mình là một người tàn phế
như thế làm sao có thể tiêu xài hết một số tiền lớn như vậy. Charley nghĩ như
thế là để bào chữa cho lòng tham của mình chứ thực sự thì Charley đâu có quan
tâm gì đến em mình.
Cuốn
phim được tiếp diễn với nhiều thủ đoạn, những mưu mô khôn khéo để chiếm cho bằng
được số tiền đó. Nhưng trớ trêu thay, chính những bận tâm ấy đã làm cho Charley
luôn nghĩ tới người em hơn là bản thân mình. Anh nhận ra rằng, đây là lần đầu
tiên anh biết quan tâm lo lắng cho người khác. Và anh cũng bắt đầu ý thức thêm
rằng, anh đang quên mình đi để nghĩ đến người em, anh đang chết dần cho bản
thân mình và chỉ nghĩ đến người em đáng thương ấy.
Và
thật không ngờ khi anh làm như thế thì anh bắt đầu cảm thấy tình yêu của anh đối
với người em được thay đổi. Lúc đầu thì toàn là những tính toán ích kỷ nhưng dần
dần được thay thế bằng lòng yêu thương thật sự đối với đứa em tàn tật của anh.
Bây giờ thì anh không còn nghĩ đến việc chiếm hữu số tiền do người cha di chúc
để lại cho em mình nữa, mà anh chỉ nghĩ đến việc lo lắng chăm sóc cho đứa em tật
nguyền của mình. Anh đã trở thành một con người mới, một con người trọn vẹn hơn
vì anh đã biết sống với người em của anh như là người em thực sự, con cùng một
cha chứ không phải là đối thủ để anh trục lợi và khai thác.
Vâng, phép Rửa tội cũng làm một việc tương tự như thế, biến chúng ta sẽ trở thành người con của Thiên Chúa và khi đã được trở thành những người con của Thiên Chúa, chúng ta có bổn phận phải sống với nhau như anh em trong cùng một gia đình của Thiên Chúa Cha trên trời.
8. Loan báo Tin Mừng
Trong
cuốn “Nhật ký một tâm hồn” của Đức Giaó Hoàng Gioan XXIII có một đoạn như sau: “Mỗi buổi tối, tôi thấy một đoàn thuyền mười
và cả trăm chiếc thuyền tụ tập ở Bosporus, tạo ra một cảnh đầy ấn tượng về màu
sắc và ánh sáng. Một đêm nọ, khoảng một giờ, trời đổ mưa nặng hạt, nhưng những
ngư dân vẫn ở đó, không chùn bước trước những công việc nặng nhọc. Như những
ngư dân Bosporus, chúng ta cũng phải làm việc ngày đêm (để rao giảng Tin mừng).
Tôi
có thể rao giảng Tin mừng bằng cách nào?
[Chúa
Giêsu nói:] “Nếu các môn đệ của Ta im tiếng,
thì những viên đá sẽ la lên.”
THỨ BA - Ðược Sống Muôn Ðời
Lời
Chúa: Ga 3, 7-15
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng
ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi
đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi
kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy.”
Nicôđêmô
hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp:
"Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi
bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy
thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi.
Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự
trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ
trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi
hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin
vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.”
TRUYỆN KỂ
1. Điều kiện căn bản: "niềm tin"
Một
tờ báo Công giáo địa phương ở Chicago có đăng trong chương trình "sống đạo"
mẩu chuyện như sau: có đôi vợ chồng chung sống với nhau được ba mặt con. Người
chồng cũng là người Công giáo, nhưng chủ trương cuộc đời chỉ có ba lần đến nhà
thờ: "Rửa tội, lễ cưới và sau khi chết.” Ngược lại, người vợ là một tín đồ
ngoan đạo, đêm ngày bà cầu nguyện cho chồng. Lời cầu nguyện của bà hầu như vô vọng
khi người chồng đổi công việc làm ăn ở tiểu bang Texas, miền Nam Hoa Kỳ.
Suốt
ba tháng trời, bà và các con chẳng được tin tức gì của chồng, nếu có chăng nữa
thì cũng chỉ là những tin buồn do người quen kể lại. Họ nói rằng chồng của bà kể
như hư đốn hoàn toàn. Ông ta đã sa vào cảnh cờ bạc, rượu chè, chẳng còn nhớ đến
ai. Mấy tin tức như thế đã làm cho bà thêm lo lắng xao xuyến. Tuy nhiên, không
vì thế mà bà quên cầu nguyện.
Bỗng
một đêm kia, khi gia đình đã hoàn toàn chìm vào giấc ngủ, bà nhận được một cú
điện thoại từ xa gọi về. Bên kia đầu dây là giọng nói thổn thức của người chồng
từ Texas gọi về cho bà. Ông ta đã nói với bà như sau: "Em yêu dấu! Ðây là
lần đầu tiên trong cuộc đời anh đã thành tâm quì gối cầu nguyện. Anh đã quì gối
không phải trong nhà thờ hoặc một nơi thánh nào đó. Nhưng anh đã quì gối ngay tại
chốn ăn chơi. Các bạn anh cười nhạo tưởng anh đã hóa khùng. Có thể đúng. Anh
đang khùng, khùng vì Ðức Kitô, vì anh đã trở về với Ngài.”
2. Chúa Kitô được giương cao
Phi
trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất
trong các sân bay của Hoa Kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng một cây số có một ngôi
thánh đường nằm đúng vào cuối phi đạo. Đây là một trong những phi đạo nhộn nhịp
đón nhiều chuyến bay nhất.
Sợ
tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống đường bay,
toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉnh tháp chuông một
bóng đèn neon lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống đường
bay vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như
thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tàu cập bến an toàn.
Chúa
Kitô được giương cao, đã được loan báo trước bằng hình ảnh của rắn đồng trong
sa mạc, để ai bị rắn lửa cắn mà nhìn lên đó thì được cứu khỏi chết (x. Ds 21,9tt).
3. Câu chuyện hai hạt giống.
Có
hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất mầu mỡ. Hạt giống thứ nhất tâm sự:
“Tôi muốn lớn lên, tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới lòng đất và cho mầm sống
của tôi vượt qua cái lớp vỏ cứng cỏi của mặt đất... Tôi muốn phô trương những
cái nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang tới. Tôi muốn đón nhận
sự ấm áp của mặt trời trên tôi và hứng lấy những lời chúc lành của những giọt
sương mai trên những cành hoa của tôi.”
Thế
là hạt giống đó bắt đầu triển nở.
Hạt
giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nếu rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ phải
gặp những điều gì dưới lòng đất tối tăm kia. Nếu cố gắng trồi lên mặt đất cứng
cỏi kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập... Nếu nụ của tôi nở, có thể ốc
sên sẽ đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể sẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch
nhổ lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an
toàn, tôi mới bắt đầu triển nở.”
Và
hạt giống đó tiếp tục chờ.
Một
chú gà mái đang vô tử bới đất tìm mồi, thấy hạt giống ở gần đấy, nó liền mổ ăn
một cách ngon lành, và thế là hết đời một hạt giống nhát đảm.
David
L. Weatherford đã nói một câu hay: “Khi đối mặt với một thử thách nào đó, hãy
tim cách vượt qua nó chứ đừng tìm lối thoát.” Vì người nào càng trốn tránh thử
thách, thì chính thử thách lớn nhất của con người là sự nhát đảm sẽ đè bẹp họ.
4. Hãy nên giống trẻ nhỏ
Mục
sư Rober Fangum, trong một cuốn sách được sếp vào loại best seller (bán chạy nhất),
đã viết: “những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ.” Ông kể
ra những bài học vỡ lòng quý giá khi còn ở nhà trẻ như sau:
Hãy
chia sẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đứng làm tổn thương người khác, và nếu có
xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
Lấy
đâu thì trả đó, dọp dẹp những gì mình bày ra, nhất là không lấy những gì không
thuộc về mình.
Biết
ngạc nhiên trước màu nhiệm của cuộc sống.
Chính
Chúa Giêsu cũng dạy: “Nếu các con không nên giống như trẻ nhỏ, chúng con không
được vào Nước trời.”
5. Mầm khác.
A.
Ngày xửa ngày xưa có một con búp bê bằng muối. Một hôm, búp bê muốn học hỏi,
khám phá thêm về thế giớ bên ngoài, cô ta quyết định làm một chuyến du lịch. Cô
đi khắp nơi và học hỏi được nhiều điều hữu ích. Ngày kia, búp bê muối lần mò đến
một bờ biển, đứng trước đại dương nhưng không biết đại dương là gì. Tò mò cô ta
liền lên tiếng hỏi:
-
Ngài là ai vậy?
Đại
dương trả lời:
-
Tôi không thể nói cho cô biết tôi là ai.Nhưng nếu muốn biết thì cô hãy bước vào
trong tôi, lập tức cô sẽ biết.
Tuy
hơi sợ nhưng vì tò mò nên búp bê muối từ từ bước vào lòng biển. Càng vào sâu,
thân thể búp bê càng từ từ tan biến. Cho đến khi chỉ còn là một hạt muối bé tí,
cô mới bắt đầu la lên:
-
A! bây giờ tôi mới thực sự biết tôi là ai.
6. Hai hạt giống
Có
hai hạt giống nằm cạnh nhau trong một mảnh đất màu mỡ.
Hạt
giống thứ nhất tâm sự: “Tôi muốn lớn lên. tôi muốn cho rễ của tôi bén sâu dưới
lòng đất và cho mầm sống của tôi vượt qua cái lớp vỏcứng cỏi của mặt đất...Tôi
muốn phô trương những cía nụ của tôi như những biểu ngữ báo hiệu mùa xuân đang
tới. Tôi muốn đón nhận sự ấm áp của mặt trời trên mặt tôi và hứng lấy những lời
chúc lành của những giọt sương mai trên những cánh hoa của tôi”
Thế
là hạt giống đó bắt đầu triển nở.
Hạt
giống thứ hai nói: “Tôi rất lo sợ, nề rễ của tôi đâm sâu, tôi không biết sẽ gặp
phải điều gì dưới lòng đất tối tăn kia. Nếu có gắng trồi lên mặt đất cứng cỏi
kia, sợ rằng mầm non của tôi sẽ bị gẫy dập...nếu nụ của tôi nở, có thể ốc sén sẽ
đến ăn, và nếu tôi nở hoa, có thể dẽ bị bàn tay của một em bé tinh nghịch nhổ
lên khỏi mặt đất. Thôi, tốt hơn hết là tôi chờ cho đến khi nào thật an toàn,
tôi mới bắt đầu triển nở.
Và
hạt giống đó tiếp tục chờ.
Một
chú gà mái đang vô tư bới đất tìm mồi, thấy hạt giống gần đấy, liền mổ một cách
ngon lành.
7. Con đường hẹp
Một
hôm bà chị của thánh Thoma Aquinô hỏi một người:
-
Phải làm gì để hưởng hạnh phúc đời đời?
Người
ấy trả lời:
-
Phải muốn được như thế.
Vâng!
Đúng như vậy, trước hết là chính mình phải muốn, muốn một cách mạnh mẽ.
Khi
thánh Phanxicô đệ Salê nghe tin thánh Phanxicô Xaviê được phong thánh. Ngài
nói:
-
Đó là Phanxicô thứ ba được phong thánh. Tôi sẽ phải là thánh Phanxicô thứ bốn.
Và
người đã giữ lời hứa và ngài đã trở thành thánh Phanxicô thứ 4 của Hội Thánh.
Phải
muốn và đồng thời cũng phải dám hy sinh. Chính Chúa Giêsu cũng đã cho biết con
đường theo Ngài là con đường hẹp!
8. Qua gian khổ mới đến vinh quang
Ông
François Piza người hùng đã chiến thắng đất Pérou trong một cuộc thám hiểm.
Trong khi đi thám hiểm, có lúc phái đoàn của ông đã bị đặt vào một hoàn cảnh vô
cùng khó khăn. Vì không chịu được những gian nan trước mắt, đám thủy thủ đã nổi
dậy đòi ông phải quay trở về, nhưng Piza trả lời:
-
Phía bắc con đường chúng ta đang đi là một cuộc sống dễ dàng và không nguy hiểm.
Đi theo hướng đó chúng ta sẽ thất bại và khổ sở. Trái lại, nếu hướng về phía
nam, chúng ta sẽ phải cắn răng chịu đựng những khó khăn, đương đầu với những
thách đố, cam chịu những thiếu thốn, nhưng thành công, hạnh phúc, giàu sang,
vinh hiển sẽ tiếp đón chúng ta. Vậy, các anh hãy tự chọn con đường đi.
Gần
hết đám thủy thủ đã chọn con đường phía bắc quay trở về. Chỉ có 12 người biết
theo con đường Piza đã vạch. Và 13 người can đảm ấy, sau những ngày gian nan khốn
khó, cay đắng trăm bề, tất nhiên là phải chịu nhiều thiếu thốn, nhưng họ vẫn
không chịu lùi bước trước khó khăn, và cuối cùng họ đã thành công.
Trước
khi phát minh ra bóng đèn tròn, Thomas Edison đã phải tiến hành hơn 2.000 cuộc
thử nghiệm. Một phóng viên trẻ hỏi về cảm giác của ông sau khi thất bại quá nhiều
lần như vậy. Ông nói: “Tôi chưa bao giờ thấy mình thất bại, dù chỉ một lần. Tôi
phát minh ra bóng đèn tròn. Quá trình phát minh này có đến 2.000 bước!”
Con
đường vinh quang trần thế mà đã phải trả giá như vậy, thử hỏi con đường vinh quang
Nước Trời còn phải được trả giá cao hơn như thế nào.
9. Sống vị tha
Ông
John Rockfeller năm 33 tuổi, tài sản ông chỉ có vỏn vẹn 1. 000 dollars cùng với
cây xà-beng đi đào giếng mướn cho người ta, dần dần ông mua được một đàn bò, rồi
nhiều đàn bò, bán bò ông mua nông trại, bán nông trại ông làm chủ một cơ sở lớn
nhất nước Mỹ vào tuổi 43. Nhưng không may đến với ông khi ở tuổi 53: ông bị bệnh
rụng hết tóc đầu! Hội Đồng Bác sĩ bảo ông chỉ sống thêm một năm nữa! Báo chí
đưa hình hói đầu của ông lên trang nhất và chế giễu: “Ông không đủ tiền mua một
sợi tóc!” Tỉnh ngộ ông bắt chước ông Giakêu: đưa tài sản chia sẻ cho các cơ
quan từ thiện, cho những chương trình nghiên cứu Khoa học để phục vụ con người.
Kết qủa ông đã sống thọ đến 98 tuổi (thay vì 54 như bác sĩ chẩn đoán).
Hãng
Thông Tin Công Giáo Thế Giới loan đi ngày 02/03/2007: Ông Fred Nassiri, một nhà
tỷ phú ở nước Mỹ, ông là người gốc Iran theo đạo Hồi. Nhưng khi ông trở lại
Công Giáo, ông dâng tất cả tài sản cho Dòng Phanxico khó khăn và xin gia nhập
Dòng. Người ta phỏng vấn ông tại sao ông làm thế? Ông trả lời: “Càng nhiều của
cải, càng có nhiều nghĩa vụ với người xung quanh.”
Giáo
sư Alfred Adler nói: “Kẻ nào không quan tâm tới người khác, chẳng những nó gặp
nhiều khó khăn trên đời, mà còn là kẻ gây tác hại cho xã hội.”
Vậy
ta hãy noi gương Mẹ Maria đoán ý muốn người khác để phục vụ (x Lc 1, 39t; Ga 2,
3).
Thánh
Phaolô: Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.
Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu
mến tôi và hiến mạng vì tôi. (Gl 2,20).
THỨ TƯ - Đi rao giảng Tin Mừng.
Lời
Chúa: Ga 3, 16-21
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi
đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin ở Con của Người, thì không phải hư
mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người giáng trần để
luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ.
Ai
tin Người Con ấy, thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi,
vì không tin vào danh Con Một Thiên Chúa và đây là án luận phạt: là sự sáng đã
đến thế gian và người đời đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng, vì hành động của họ xấu
xa. Thật vậy, ai hành động xấu xa thì ghét sự sáng, và không đến cùng sự sáng,
sợ những việc làm của mình bị khiển trách, nhưng ai hành động trong sự thật,
thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng tỏ, là họ đã hành động
trong Thiên Chúa.
TRUYỆN KỂ
1. Ánh sáng sự sống
Những
người phái Xa-đốc không tin có sự sống lại. Vì thế họ tìm ngăn cản sự sống và bịt
miệng những người rao giảng sự sống. Nhưng họ luống công vô ích. Cửa sắt kiên cố
không giam giữ được sự sống. Lính canh thường trực không cản được đường đi của
sự sống. Sự chết không làm cho người rao giảng Lời Ban Sự Sống sợ hãi.
Vì
các tông đồ đã được gặp Chúa Ki-tô Phục Sinh, là Sự Sống Lại và là Sự Sống. Nên
chẳng còn sợ chết. Đã cảm nhận được sự ngọt ngào của tình yêu Thiên Chúa. Nên
vượt qua hận thù ghen ghét. Đã nhìn thấy ánh sáng nên tránh xa bóng tối. Đã nếm
cảm hạnh phúc nên chẳng còn bị những ảo ảnh hão huyền mê hoặc.
Chối
từ ánh sáng là tự lên án mình. Từ chối sự sống thật ta chìm vào bóng tối chết
chóc. Từ chối hi vọng thật, ta lâm vào bóng tối tuyệt vọng. Từ chối hạnh phúc
thật, ta rơi vào bóng tối bất hạnh. Tự lên án mình khi ta từ chối vĩnh cửu để gắn
bó với phù vân. Khi ta không nhìn lên Nước Trời mà chỉ gắn bó với mặt đất.
2. Án xử của Thiên Chúa
Cách
đây 2.400 năm, triết gia Hy Lạp là Socrate đã bị mang ra toà và bị kết án phải
uống thuốc độc vì hai tội: làm sa đoạ giới trẻ bằng những lý thuyết viển vông
và tuyên truyền cho các thần minh mới. Bồi thẩm đoàn xét xử Socrate gồm 501 người
được tuyển lựa trong số 6000 công dân Athène. Đây là vụ án nổi tiếng nhất của
thế kỷ 4.
Vụ
án nổi tiếng nhất cuả thế kỷ 20 hẳn phải là vụ án của Hosê Simon, một cầu thủ bầu
dục trở thành tài tử kiêm phóng viên truyền hình về thể thao tại Hoa Kỳ. Simson
là một người da đen bị cáo buộc đã giết vợ và bạn trai của cô ta. Đã có quá nhiều
chứng cớ hiển nhiên, nhưng sau nhiều tháng xét xử, toà vẫn chưa đưa ra được một
phán quyết nào. Nhiều người cho rằng với một bồi thẩm đoàn gồm đa số người da
đen và nhất là với những luật sư nổi tiếng mà Simson đã bỏ tiền ra thuê, rồi ra
anh ta có thể được trắng án. Và quả thực tin giờ chót vừa cho hay toà tuyên bố
Simson vô tội và anh được tha bổng.
Nhà
hiền triết bị kết án, kẻ sát nhân được tha bổng, bao nhiêu người vô tội bị đầy ải
trong các nhà tù. Công lý của con người vốn bất toàn là thế.
3. Tình yêu Thiên Chúa – tình yêu cho đi
Bà
cụ 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một
nhà truyền giáo đến thăm và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16:
“Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con
đó, thì khỏi chết và được sống đời đời.”
Bà
đáp: “Thật là tuyệt vời. Thiên Chúa thật tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ
cả trăm năm không học biết Ngài.”
Cuộc
trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu:
“Sinh 1825. Sinh lại 1925.”
4. Ai tin thì sẽ được sống.
Thánh
Gioan nói: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên
án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ, Ai tin vào
Con của Ngài, thì không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã
không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,20). Tin đối với Gioan là nhìn
nhận Đức Giêsu là Con và là sứ giả của Chúa Cha, là đến với Đức Giêsu và gặp
Ngài, là biết Ngài và cùng với Ngài biết Chúa Cha. Đức tin còn là hồng ân và một
sự lôi cuốn của Chúa Cha.
Người
tin bước vào một cuộc sống mới. Đó là được thông phần sự sống của Thiên Chúa,
là một ân huệ Đấng Messia mang lại. Tin là từ bỏ bóng tối của tội lỗi, của gian
tà, của ma quỉ. Phải, chính trong đêm tối của tối tăm mà con người nhận ra tình
thương của Thiên Chúa, miễn là đùng khép kín lòng lại: “Sự sáng đã đến trong thế
gian, mà người ta đã yêu mến sự tối tăm hơn sự sáng, vì việc làm họ đều xấu xa”
(Ga 3,19). Hãy tin vào Đức Giêsu thì sẽ được tha thứ và được hưởng nhờ ơn cứu độ
(R Veritas).
5. Tượng Thánh giá ban phép lành.
Tại
một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng Thánh giá rất đặc biệt: Chúa Giêsu chịu
đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía
trước trong tư thế đang ban phép lành.
Chuyện
kể rằng: một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân đến xưng tội. Đối với một tội
nhân có quá nhiều tội nặng như anh, vị Linh mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều
điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp
tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối cùng, vị linh mục đành răn đe: “Tôi
không muốn anh vấp lại những tội như thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội
cho anh.” Hối nhân ra khỏi tòa giải tội mà lòng trĩu nặng đau khổ.
Được
vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội, và xưng cũng cùng những tội nặng y như
những lần trước. Vị Linh mục dứt khoát: “Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không
tha.” Thật lạ lùng. Ngay lập tức, vị Linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng
thì thầm phía bên trên. Từ cây Thánh giá, bàn tay phải của Đức Giêsu được rút
ra khỏi lỗ đinh và ban phép lành cho hối nhân. Vị Linh mục nghe được tiếng thì
thầm ấy với chính mình: “Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải
con.”
Kể
từ đó, bàn tay phải của Đức Giêsu không gắn vào Thánh giá nữa, nhưng vẫn giữ tư
thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi: “Hãy trở về với Ta, các ngươi
sẽ được tha thứ.”
6. Ánh sáng không hề tắt
Chú
bé cùng với bố đang đi trên một con đường mòn trong đêm dày đặc, trên tay chỉ
có cây đèn nhỏ, bóng đên trước mặt gây cho chú cảm giác sợ hãi mơ hồ. Chú nói với
bố: “Bố ơi! chiếc đèn này chỉ chiếu sáng chút xíu trên đường, con sợ quá.” Bố
đáp: “Con ạ! Anh sáng này hơi yếu, nhưng nó cũng đủ soi cho con đi đến cuối đường.”
Đời
sống Kitô hữu cũng là một con đường đầy tăm tối, nhưng Chúa luôn ban đủ ánh
sáng cho mỗi bước đi, và ta cũng chỉ cấn bấy nhiêu. Nhưng ta chắc chắn một điều:
ánh sáng đó không bao giờ tắt. Nếu ta lên đường, ánh sánh đó đủ soi cho ta đi đến
cuối đường đời.(Góp nhặt).
7. Từ thiện vị kỷ
Một
chiếu thứ bảy, anh đưa tôi dạo phố. Chúng tôi đang lặng lẽ rảo bước trên bờ hồ
Xuân hương, bỗng nhiên, một giọng nói quen thuộc cất lên: “Con chào Cô!” Như một
phản xạ, tôi quay lại. Trước mặt chúng tôi là một em bé rách rưới, bẩn thỉu, học
trò của tôi ở trung tâm Bảo Trợ Xã hội. Em vui mừng, chạy lại ôm chầm lấy tôi.
Nhưng vì sợ “quê” với anh, tôi đã vờ như không quen biết nó…và để lại sau lưng,
sự hụt hẫng pha lẫn tủi hờn của đứa bé mồ côi đáng thương.
Bây
giờ tôi mới rõ, tôi làm việc từ thiện chỉ vì chính mình!
Lạy
Chúa, xin soi sáng và mở rộng lòng con, để con nhận ra đâu là sự sáng đích thực
của Chúa và can đản theo Ngài.
8. Ánh sáng ban cho ai cần
Tại
Florence thuộc nước Italia, có một ngôi đại giáo đường, được kiến trúc rất đặc
biệt. Ngôi đại giáo đường này có một vòm cầu lớn. Trên vòm cầu này có một lỗ nhỏ
được ghép kính.
Kiến
trúc sư vẽ kiểu ngôi đại giáo đường này, đã khéo léo tính toán thế nào, để cứ đến
ngày 21 tháng 6 hàng năm, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu vào lỗ nhỏ kia, rồi dọi xuống
một miếng bạc, được ghép ở dưới nền giáo đường.
Người
ta chỉ cần nhìn vào ánh sáng chiếu xuống từ mặt trời, qua lỗ nhỏ trên vòm cầu
kia, rồi dọi xuống nền giáo đường là biết được độ nghiêng của ngôi giáo đường để
sửa chữa, vì ngôi đại giáo đường này được xây trên một khu vực mà trước đây là
vùng snh lầy.
Trong
ngày thứ bảy tuần thánh, Chúa Giêsu được Giáo Hội tuyên xưng là ánh sáng thế
gian. Ánh sáng Giêsu đã được Thiên Chúa Cha chiếu vào thế gian để soi đường chỉ
lối cho con người.
9. Nhận ra ánh sáng
Một
nhà thám hiểm Tây Phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống
đã cạn khô. Ông lê từng bước chân mệt mỏi trên cát. Thình lình ông nghe tiếng
suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối
suy nghĩ khoa học của người Phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh,
trong thực tế, giữa chốn sa mạc khô cằn như thế này làm gì có nước và cây cối.”
Nghĩ như vậy, ông tuyệt vọng lê bước. Không bao lâu sau đó, hai người du mục
tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên:
-
Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng
như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này ?
Nhưng
người bạn kia lắc đầu giải thích:
-
Ông ta là một người Phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm,
nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.
Có
nhiều người trong chúng ta cũng như vậy.
Ngạn
ngữ Trung Hoa có câu:”Nhật Nguyệt tuy minh, nan chiếu phúc bồn chi hạ” (Mặt trời
mặt trăng tuy có sáng nhưng khó mà chiếu vào chiếc chậu úp). Ánh sáng của mặt
trời cũng như ánh sáng Giêsu, tuy sáng và có đó, nhưng nếu người ta không chịu
tiếp nhận thì cũng vô ích, nó cũng giống như ánh sáng chiếu vào một chiếc chậu
úp thôi.
11. Âm dương / ngũ hành
Các
dân tộc vùng Á đông chúng ta đều biết đến khái niệm của cụm từ “âm - dương.”
Cũng như học thuyết nhị nguyên của người phương tây, cụm từ âm – dương này nói
lên hai mặt đối lập của một vần đề: tối-sáng, tốt-xấu, đúng-sai, thánh-phàm…
Và
thánh Gioan trong sách Tin Mừng của mình cũng đã sử dụng ý niệm này để diễn tả
điều chân thiện, sự thiêng thánh của Thiên Chúa để đối lập với những điều xấu,
điều tà… của thế gian. Đức Giê-su là ánh sáng, là nguồn gốc của sự chân thiện,
và Ngài đã đến thế gian để xua tan đi bóng tối lầm lạc, chỉ vẻ cho con người biết
điều chân thiện, hướng về Chúa là Đấng Thánh hầu được hưởng phúc đời đời.
Là
môn đệ của Chúa Ki-tô, Đấng tốt lành thánh thiện, chúng ta được mời gọi hãy sống
thánh và biết tránh xa tội lụy, biết nghe theo sự thật để chối từ sự dối trá,
biết sống trong ánh sáng của sự thánh thiện để đẩy lui bóng tối tăm tội lỗi.
12. Romeo và Juliet
Romeo
và Juliet được viết vào khoảng 1594 - 1595, dựa trên một cốt truyện có sẵn kể về
một mối tình oan trái vốn là câu chuyện có thật, từng xảy ra ở Ý thời Trung Cổ.
Câu
chuyện bắt đầu tại thành Verona, hai dòng họ nhà Montague và nhà Capulet có mối
hận thù lâu đời. Romeo, con trai họ Montague và Juliet, con gái họ Capulet đã
yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên tại buổi dạ tiệc tổ chức tại nhà
Capulet, do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể trà trộn vào trong đó.
Đôi trai gái này đã đến nhà thờ nhờ tu sĩ Friar Laurence bí mật làm lễ cưới.
Đột
nhiên xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ của Juliet là Tybalt đã giết chết
người bạn rất thân của Romeo là Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết
Tybalt. Mối thù giữa hai dòng họ càng trở nên sâu nặng. Vì tội giết người nên
Romeo bị trục xuất khỏi Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của
Romeo và Juliet bị tan vỡ khi Romeo đi rồi, Juliet bị cha mẹ ép gả cho Bá tước
Paris. Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của tu sĩ Laurence. Tu sĩ cho nàng uống một liều
thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng trong vòng 42 tiếng.
Tu sĩ sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi thành Verona.
Đám
cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ.
Tu sĩ chưa kịp báo cho Romeo thì từ chỗ bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo
đau đớn trốn về Verona. Trên đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành
cho mình. Tại nghĩa địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống
thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết
hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã chết, Juliet rút
dao tự vẫn.
Cái
chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người,
hai dòng họ đã quên mối thù truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện
tình yêu ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất lớn trong lòng những người biết đến họ.
Bi kịch
đó làm nổi bật vẻ đẹp của tình yêu: những người yêu nhau sẵn sàng làm tất cả để
được sống bên nhau mãi mãi kể cả liều thân chịu chết để nếu không thể cùng sống
thì được cùng chết với nhau.
“Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời.” (Ga 3,16)
13. Sắp dọn nhà
Khi một
người hỏi cụ John Quincy Adams đã 80 tuổi có mạnh khỏe không? Cụ trả lời: “John
rất khỏe, cám ơn. Nhưng ngôi nhà ông ta sống thì đổ nát thảm hại. Nhà lung lay
trên nền, tường thì rạn nứt, còn mái thì rách nát. Ngôi nhà rung chuyển trước mỗi
cơn gió. Tôi nghĩ rằng John Quincy Adams chẳng bao lâu nữa sẽ phải dọn nhà.
Nhưng bản thân anh thì vẫn khỏe mạnh. Cám ơn.”
So với
niềm tin của John Quincy Adams, niềm tin của tôi ra sao? Tôi có thể làm cho niềm
tin ấy vững mạnh hơn bằng cách nào?
Chúng
tôi biết rằng nếu ngôi nhà của chúng ta là chiếc lều thân xác bị phá hủy đi,
thì chúng ta có một ngôi nhà ở trên trời, một nơi ở do Thiên Chúa dựng lên tồn
tại muôn đời (2Cr 5,1).
Nhưng
ai hành động trong sự thật, thì đến cùng sự sáng, để hành động của họ được sáng
tỏ, là họ đã hành động trong Thiên Chúa.
14. Chúa là sự sáng
Trên
đời có nhiều thứ bóng tối còn tối hơn cả.. đêm ba mươi: bóng tối của nghi ngờ,
bóng tối của tuyệt vọng, bóng tối của sự chết... Đức Giêsu là ánh sáng đến trần
gian đưa ta khỏi tình trạng đoán mò về chân tướng của Thiên Chúa.
Ngài
cứu vớt ta khỏi tình trạng bi quan, thất vọng về thân phận tội lỗi. Ngài giải
thoát ta khỏi nỗi sợ về bóng tối sự chết vì từ nay sự chết của Ngài là cửa dẫn
ta đến sự sống vĩnh cửu: “Sự sống lại của Đức Giêsu là một sự tuôn trào của Ánh
Sáng. Cái chết bị chinh phục, cửa mồ bị mở toang. Đấng Phục Sinh chính là Ánh
Sáng, Ánh Sáng của trần gian. Với sự sống lại, ngày của Thiên Chúa bước vào những
đêm tối của lịch sử. Ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa khắp thế gian… Chỉ có
Ánh Sáng này, Chúa Giêsu Kitô, là ánh sáng thật” (Đức Bênêđitô 16).
Nhiều
lúc bạn thích ẩn mình trong bóng tối vì bạn cảm thấy yên hàn khi sống trong
bóng đêm của tội, của những ý nghĩ, dự định đen tối. Lời Chúa hôm nay mời gọi bạn
quy chiếu cuộc sống mình vào Đức Kitô, để nhờ ánh sáng phục sinh của Ngài
“thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga
3,21).
10. Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa
Ngày
21 tháng 7 năm 1969, hai phi hành gia Amstrong và Adrian khi đáp xuống mặt
trăng, ông Amstrong cắm bảng ghi câu Tv 19/18,2: “Trời xanh tường thuật vinh
quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm”, rồi gởi điện về
trái đất, cho biết chuyến bay của các ông bình an; còn ông Adrian thì trân trọng
mở hộp Mình Thánh cung kính rước Chúa vào lòng.
Vậy
tất cả những ai đã được lãnh nhận Bí tích Khai Tâm, khởi đi từ Bí tích Thánh Tẩy,
hãy cất lời ngợi khen Chúa: “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa, câu hát mừng
Người chẳng ngớt trên môi. Linh hồn tôi hãnh diện vì Chúa, xin các bạn nghèo
nghe tôi nói mà vui lên. Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng
danh Người. Tôi đã tìm kiếm Chúa, và Người đáp lại, giải thoát cho khỏi mọi nỗi
kinh hoàng. Ai nhìn lên Chúa sẽ vui tươi hớn hở, không bao giờ bẽ mặt hổ ngươi.
Kẻ nghèo hèn kêu xin và Chúa đã nhận lời, cứu cho khỏi mọi cơn nguy khốn” (Tv
34/33, 2-7: Đáp ca).
THỨ NĂM – Tình yêu thương
Lời
Chúa: Ga 3, 31-36
Khi
ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Đấng từ trên cao mà đến thì vượt
trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về
đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và
nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp
nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân
thật.
Đấng
được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần
linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào
Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự
sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy.”
TRUYỆN KỂ
1. Ốc vít Giêsu
Mike
Moran là một phi công trực thăng trong hải quân. Một ngày nọ, đang khi giải
thích cho cha mẹ về “chiếc trực thăng”, anh nói: “Dù các máy móc đó phức tạp, hệ
thống cánh quạt được giữ chặt một chỗ nhờ một chiếc ốc lục giác.” Rồi quay sang
mẹ, anh hỏi: “Mẹ đoán xem tên gọi chiếc ốc đó là gì?” Bà mẹ nhún vai, anh cười
và nói: “Nó được gọi là “vít ốc Giêsu.”
Chúa
Giêsu nắm giữ cuộc đời tôi như thế nào? Lãnh vực nào trong đời tôi vẫn ngoài
ngoài vùng kiểm soát của Ngài? Tôi có thể đi bước khởi đầu nào để cho Ngài kiểm
soát lĩnh vực này của đời tôi?
Thiên
Chúa đã có mặt trong cuộc sống chúng ta. Công việc của chúng ta là nhận ra điều
ấy (Anthony de Mello).
2. Giữ lấy bản sắc của mình
Ngày
nay, trên thế giới, người Việt Nam của chúng ta gần như có mặt hầu hết nơi các
quốc gia! Để gợi nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đã có nhiều cuộc tọa
đàm, hội thảo về nguồn gốc, văn hóa Việt!
Trong
các buổi hội họp đó, gần như không thể quên, người ta luôn nhắc nhớ nhau hãy giữ
gìn bản sắc, văn hóa, truyền thống của dân tộc Việt, cho dù hiện diện ở bất cứ
nơi đâu, làm bất cứ việc gì!
Tại
sao vậy? Thưa, con người chỉ có thể lớn lên cách quân bình khi người ta còn giữ
được bản chất, văn hóa, truyền thống của dân tộc mình. Nếu không, họ là một người
thiếu trưởng thành!
Là
người Công Giáo, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được trở
thành Kitô hữu, tức là chúng ta mang trong mình hình ảnh Đức Kitô. Nói cách
khác, chúng ta thuộc về Đức Kitô.
3. Đấng đến từ trời – Thiên Chúa làm người
Người
ta kể rằng: Tin Mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật Bản từ hồi thế kỷ XVI do các vị
thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết
hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị
thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ.
Ai
cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật Bản đã bị xóa sổ vì suốt trong ba trăm năm không
còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền
giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ
mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn
thưa: “Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá!”
4. Phải làm người
Maurice
Zundel một nhà tu đức học nổi tiếng có nói: “Chúng ta không sinh ra đã thành
người. Con người có bổn phận phải thành người.” Sách Tin Mừng nói “phải sinh lại’
lần thứ hai để làm con Thiên Chúa: một người con có phẩm cách, có bản lãnh làm
người, có mầm mống của sự trường tồn bất tử. Không có lần sinh này chúng ta
không thể trở thành một con người trọn vẹn” (Trích “Sự hiện diện khiêm hạ).
Một
bà già 104 tuổi sống trong một căn hộ nhỏ tại Croydon. Khi bà được 100 tuổi, một
nhà truyền giáo đến thăm bà và giải thích cho bà nghe đoạn Tin Mừng Gioan 3,16:
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài để ai tin người Con đó,
thì khỏi phải chết và được sống đời đời.”
Bà
đáp:
-
Thật là tuyệt vời, Thiên Chúa tốt lành khi Ngài tha thứ cho tôi đã bỏ cả trăm
năm không học biết Ngài.
Cuộc
trở lại của bà được tạp chí London City Mission thuật lại và kết thúc bằng câu
“Sinh 1825. Sinh lại 1925”
5. Chứng từ của Avares.
Tạp
chi Time số tháng 4, 1995 có ghi lại chứng từ rất cảm động của một cựu tù nhân
Mỹ tại Việt Nam.
Ông
Avares là một phi công hải quân, ông đã bị bắn hạ trong một phi vụ dọc theo duyên
hải Bắc Việt ngày 05/08/1964. Ông đã bị giam tại Cửa Lò trong vòng 8 năm rưỡi.
Vào
năm 1993, một nhà sản xuất phim đã mời ông và một nhóm cựu binh sĩ Mỹ trở lại
Việt Nam để thực hiện một cuốn phim tài liệu về chiến sự thời Mỹ ở Việt nam.
Avares
đã trở lại căn phòng nơi ông bị giam cầm, điều duy nhất trong ký ức ông muốn
nhìn lại là hình Thánh giá trên bức tường đàng sau phòng giam mà ông đã nhìn
lên đó để cầu nguyện mỗi khi thất vọng. Lời cầu nguyện đã nâng đỡ ông trong những
tháng ngày dài thiếu thốn và cô đơn.
Ngày
nay bức tường đã được tô vôi, cây Thánh giá đã bị một lớp sơn vẽ chồng lên, và
ông cho biết có một cái gì đó đã được chôn chặt trong ông, đó không phải là hối
hận hay căm thù, mà là tâm tình tri ân Thiên Chúa đã cho ông trở về với gia
đình và đã ban cho ông biết tha thứ và quên đi.
6. Sao con không mời ta hút thuốc
Một
cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật là nghiện
thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức
khoẻ. Thế nhưng ông ta không chỉ nghe để mà nghe. Hơn nữa có lần ông ta còn cãi
lại:
-
Kinh Thánh không hề cấm hút thuốc.
Thấy
vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.
Nhưng
thật là lạ. Sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá.Tò mò, ngài hỏi tại
sao thì ông trả lời.
-
Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước
vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn
có gói thuốc lá con vừa mới mua.
Chúa
Giêsu hỏi con:
+
Con đang làm gì đó?
- Dạ
con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn.
+
Sao con không mới ta hút thuốc?
Con
vội vã trả lời:
- Dạ
đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!
Chúa
ôn tồn bảo con:
-
Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có
tâm tình và hành động giống tôi Ta. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy tại
sao con lại hút?
Thưa
Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ
con. Bởi đó con đả quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.
7. Giữ cho trắng tấm áo rửa tội
Tại
những khu rừng ở miền Bắc Âu, có một loài chồn rất đẹp. Vào mùa hạ, lông chồn
màu nâu nhạt. Nhưng vào mùa đông, lông chồn bỗng đổi màu và mang sắc trắng như
tuyết, trừ có đầu và đuôi chồn vẫn giữ nguyên màu đen. Có lẽ do một bản năng kỳ
lạ nào đó, những con chồn này giữ gìn bộ lông đẹp đẽ của mình rất cẩn thận.
Chúng không bao giờ để thân thể dính bụi đất dơ bẩn.
Những
người thợ săn Âu châu đã biết được đặc tính kỳ lạ này. Do đó, thay vì đặt bẫy để
bắt chồn, họ đi tìm những khe đá hoặc gốc cây nơi chồn cư ngụ, rồi bôi nhựa đường
lên. Sau đó, họ thả chó ra để bắt đầu cuộc săn đuổi. Những con chồn bị đuổi vội
chạy về chỗ ở. Nhưng khi thấy nơi ở của mình bị hoen ố, chúng không chịu vào ẩn
núp. Chúng đành chịu đương đầu với nguy hiển và ngay cả sự chết, hơn là để thân
thể hóa ra hoen ố…
Đối với
giống chồn đẹp đẽ trên đây, sự trong sạch còn quí hơn cả mạng sống: Chúng sẵn
sàng chiến đấu và chết hơn là để cho thân thể phải ra hoen ố.
Cuộc
sống của người Kitô hữu chúng ta cũng phải như thế. Được tái sinh trong Đức
Kitô Phục Sinh, mỗi người Kitô hữu chúng ta đã được khoác lên mình một chiếc áo
trắng tinh tuyền. Chiếc áo trắng ấy, như lời khuyên của Giáo Hội trong ngày
chúng ta chịu phép rửa, chúng ta phải mang nó tinh tuyền cho đến ngày ra trước
mặt Chúa…
8. Tiếng nói của trái tim
Cha Đinh
Quang Thịnh kể truyện: Chiến trường Việt Nam vào Tết Mậu Thân năm 1968, khi
quân Việt cộng lẻn vào miền Nam nhằm cướp chính quyền, lúc ấy đội quân Mỹ yểm
trợ quân lực Việt Nam Cộng Hòa để đẩy lui Việt cộng.
Cuộc
chiến khá ác liệt, các trường học ở Saigon phải cho học sinh nghỉ. Năm ấy tôi học
lớp 12, Việt cộng chiếm vùng Bà Điểm Hóc Môn làm cứ điểm tấn công vào phi trường
Tân Sơn Nhất, lính Mỹ bao vây khu Bà Điểm. Bạn tôi muốn thực tập tiếng Anh nên
đã tìm đến trại quân Mỹ để trò chuyện. Một anh lính Mỹ hỏi bạn tôi: Người Việt
Nam chào nhau có giống người Mỹ hay không? Vì người Mỹ buổi sáng gặp nhau chào
“good morning”, buổi chiều chào “good afternoon” hoặc “good evening.” Bạn tôi
liền đáp: “Người Việt Nam lúc nào gặp nhau cũng chào “mặt tôi là mặt mèo.”
Thế
là anh lính Mỹ cứ gật gù đọc đi đọc lại cách chào bạn tôi dạy với lòng thích
thú,vì biết chào bằng tiếng Việt. Sáng hôm sau, anh lính Mỹ xách thùng vào nhà
người Việt để xin nước, vừa thấy chủ nhà ra, anh cúi đầu chào “mặt tôi là mặt
mèo.” Bọn trẻ con xúm lại cười rộ, anh Mỹ quay lại đám trẻ vừa cười vừa chào “mặt
tôi là mặt mèo.” Trẻ con vỗ tay cười đến vỡ bụng, anh lính Mỹ tưởng là người ta
khen anh nói tiếng Việt giỏi, anh quay một vòng nói với mọi người “mặt tôi là mặt
mèo.”
Dù
anh lính Mỹ đã không chào đúng cách của người Việt, nhưng anh đã gây được cảm
tình nơi nhiều người. Thế là hôm đó người ta tranh nhau đi lấy nước giúp anh,
và xách đến tận nơi anh đang đóng quân.
9. Công cụ trong tay Chúa
Trong
cuốn sách “Hành trình tới Hy Lạp” Nikos Kazantzakis mô tả ba loại kitô hữu. Loại
thứ nhất nói: “Lạy Chúa, con là chiếc cung trong tay Ngài, xin hãy lôi kéo con
để con khỏi hư mất.” Loại thứ hai nói: “Xin đừng lôi kéo con quá, nếu không con
sẽ gẫy mất.” Loại thứ ba nói: “Xin hãy lôi kéo con thật mạnh và quan tâm đến nếu
con bị gẫy.” Các tông đồ thuộc loại kitô hữu thứ ba.
Tôi
thuộc loại kitô hữu nào?
Hãy
can đảm, và sức mạnh sẽ đến với bạn. (Basil King)
10. Phép lạ của niềm tin
Đa số
những người bật ti vi lên vì không biết nó hoạt động như thế nào, nhưng họ
không phủ nhận là nó đang hoạt động. Tương tự như thế, phần lớn người ta không
biết niềm tin vào Chúa Giêsu thể hiện thế nào, nhưng họ không phủ nhận niềm tin
vẫn luôn sống động. Những thay đổi trong cuộc sống báo cho họ biết điều đó.
Không có niềm tin vào Chúa Giêsu, họ không thể làm những gì họ đang làm.
Bằng
cách nào niềm tin vào Chúa Giêsu gia tăng sức mạnh để tôi làm những điều mà tôi
không thể làm, nếu không có niềm tin?
Hãy để
Ngài cuốn đi những gì không thiêng liêng, không chân thật nơi tâm hồn chúng ta,
để Ngài được hiển ngự ở đó (C.Moel).
11. Công việc của Chúa Giêsu
Mike
Moran là một phi công trực thăng trong hải quân. Một ngày nọ, đang khi giải
thích cho cha mẹ về “chiếc trực thăng”, anh nói: “Dù các máy móc đó phức tạp, hệ
thống cánh quạt được giữ chặt một chỗ nhờ một chiếc ốc lục giác.” Rồi quay sang
mẹ, anh hỏi: “Mẹ đoán xem tên gọi chiếc ốc đó là gì?” Bà mẹ nhún vai, anh cười
và nói: “Nó được gọi là “vít ốc Giêsu.”
Chúa
Giêsu nắm giữ cuộc đời tôi như thế nào? Lãnh vực nào trong đời tôi vẫn ngoài
ngoài vùng kiểm soát của Ngài? Tôi có thể đi bước khởi đầu nào để cho Ngài kiểm
soát lĩnh vực này của đời tôi?
Thiên
Chúa đã có mặt trong cuộc sống chúng ta. Công việc của chúng ta là nhận ra điều
ấy (Anthony de Mello).
12. Sức sống bởi niềm tin
Một nạn
nhân sống sót trong tai nạn sập cầu Cần Thơ là anh Dũng Em. Thế nhưng, anh bị
thương tích rất nặng: gãy đốt sống lưng, liệt hai chân, gãy khung chậu. Chỉ có
một dấu hiệu cho niềm hy vọng: hai chân của anh có thể nhúc nhích chút xíu. Anh
cứ lẩm bẩm: “Còn sống là mừng lắm! Tôi phải nuôi vợ nuôi con.” Trong những tình
huống như thế mới thấy sự sống thật là đáng quý, cho dù chỉ kéo dài trong khoảnh
khắc, vài tháng, vài ngày… Đức Giêsu hứa ban cho ta một sự sống quí giá bội phần:
sự sống đời đời, không còn là thứ sản phẩm trong mơ, mà là sự thật dành cho bất
cứ ai tin vào Ngài. Tin vào Đức Giêsu là tin vào lời Ngài nói, tin vào Đấng đã
chết và sống lại để rồi gắn bó với Ngài, dám sống dám chết hết mình cho những
giá trị Tin Mừng mà Ngài rao giảng.
“Một đức tin nhỏ đưa linh hồn bạn vào thiên
đàng. Một đức tin lớn đưa thiên đàng vào linh hồn bạn” (Spurgeon). Đôi mắt đức
tin giúp bạn nhận dạng được sự sống đời đời ngay trong đời sống hôm nay. Đôi mắt
đức tin ấy giúp bạn nhận ra Thiên Chúa Ba Ngôi đang định cư lâu dài trong tâm hồn.
Nhờ có thiên đàng nhỏ đó trong tâm hồn, bạn sống trong niềm vui, trong hy vọng
và trong tình thương mến.
THỨ SÁU
Lời
Chúa: Ga 6, 1-15
Khi ấy,
Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân
chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật.
Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người
Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến
với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này
ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp
làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một
chút.”
Một
trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng:
"Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy
nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người.” Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người
ta ngồi xuống.” Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm
ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các
kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ
đã no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí
đi.” Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta
đã ăn mà còn dư.
Thấy
phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng
Tiên tri phải đến trong thế gian.” Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt
Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
TRUYỆN KỂ
1. Thật và giả
Ga-ma-li-en
thật là người khôn ngoan. Ông chưa tin Chúa. Nhưng ông có phân định sâu sắc. Đừng
vội kết luận. Vội vã kết luận có thể sai lầm chống lại Thiên Chúa. Đó là lỗi lầm
trầm trọng. “Nếu ý định hay công việc này là do người phàm, tất sẽ bị phá huỷ;
còn nếu quả thật là do Thiên Chúa, thì quý vị không thể nào phá huỷ được; không
khéo quý vị lại thành những kẻ chống Thiên Chúa.” Qua phép lạ bánh hoá nhiều,
ta có thể thấy một vài dấu chỉ của tiên tri thật.
Tiên
tri thật quan tâm đến con người, đặc biệt người nghèo. Tiên tri giả chỉ quan
tâm đến bản thân. Chúa Giê-su quan tâm đến những người đến với Chúa. Biết họ
đói cần được ăn. Không chỉ quan tâm suông. Nhưng cụ thể bằng hành động. Thúc giục
các tông đồ lo cho họ ăn. Tìm bánh. Và làm phép lạ.
Tiên
tri thật làm việc vì nhu cầu. Tiên tri giả làm để phô trương.
2. Sự cộng tác của con người
Kể từ
năm 1891, sau khi Đức Lêô XIII ban hành thông điệp Tân sự, đã có nhiều thông điệp
khác về vấn đề xã hội được công bố nhằm đánh dấu sự phát triển và đào sâu giáo
huấn xã hội của Giáo Hội. Năm 1931 có thông điệp kỷ niệm năm thứ 40 do Đức Piô
XI ban hành; năm 1961 có thông điệp Mẹ và Thầy của Đức Gioan XXIII; năm 1981, Đức
Gioan Phaolô II kỷ niệm 90 năm thông điệp Tân sự bằng Thông điệp về lao động;
năm 1987 ngài ban hành thông điệp “Mối quan tâm về vấn đề xã hội” nhằm kỷ niệm
20 năm thông điệp Phát triển các dân tộc của Đức Phaolô VI; năm 1991 ngài ban
hành thông điệp kỷ niệm năm thứ 100 thông điệp Tân sự.
Tuy với
những hoàn cảnh cụ thể và dưới những góc độ khác nhau, những văn kiện trên của
các Giáo Hoàng đều đề cập đến những vấn đề của thời đại, đó là tương quan giữa
lao động và phát triển. Giáo Hội không đề cao bất cứ một thứ chủ nghĩa chính trị
và kinh tế nào. Giáo Hội không ngừng cổ võ sự phát triển dựa trên công lý và
tình liên đới.
3. Phép lạ do tình thương
Trong
bài hát “để gió cuốn đi” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, ngay ở đầu bản nhạc có
viết: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng.”
Thật
vậy, trong cuộc sống, nếu ai ai cũng có tấm lòng, dù chỉ một chút thôi, thì chắc
con người sẽ sống với nhau trong cảnh hòa bình, ấm no và hạnh phúc! Nhưng tiếc
thay, xã hội ngày càng phát triển, nhiều người giàu có, nhưng cùng lúc, phát
sinh nạn phân biệt giàu nghèo rõ rệt hơn bao giờ hết! Vì vậy, vẫn còn đó chuyện
“nơi ăn không hết, chỗ lần không ra.”
Hôm
nay, Tin Mừng trình thuật việc Đức Giêsu làm phép lạ hóa bánh ra nhiều. Khởi đi
từ lòng thương xót của Ngài: “Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân
chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: ‘Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn
đây?’" (Ga 6, 5).
Tiếp
theo là tấm lòng quảng đại của một em bé: “Có năm chiếc bánh lúa mạch và hai
con cá”, và, Đức Giêsu đã tiếp nhận tấm lòng nhỏ bé nhưng tinh thần lớn lao của
em để kết hợp với lòng thương xót của Ngài, Ngài làm nên chuyện phi thường là
làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân chúng (x. Ga 6, 11).
Ai nấy
đều được no nê nhờ vào tấm lòng của vị Mục Tử Giêsu và sự quảng đại của em nhỏ.
4. Ta đã dựng nên ngươi
Tại
góc đường của một thành phố lớn, có một người đàn bà quần áo rách tả tơi đứng
xa ăn xin với đứa con trai nhỏ gầy ốm xanh xao của bà. Trong số những người đi
qua đường phố, có một người đàn ông triệu phú bước qua, nhìn họ không nói tiếng
nào, cũng chẳng giúp đỡ gì.
Nhưng
khi trở về biệt thự sang trọng của mình rồi, nhìn vào bàn ăn với đủ mọi thứ cao
lương mỹ vị, ông liên tưởng đến thằng bé còm nhom và người mẹ khốn khổ của nó.
Càng nghĩ về họ ông càng tức giận Thiên Chúa.
Rồi
ông nắm tay lại đưa quả đấm lên trời la to với Thiên Chúa: “Làm sao Ngài lại có
thể để cho sự khốn khổ như thế này xảy ra cho được? Tại sao Ngài lại không làm
gì để giúp đỡ những con người bất hạnh đó?” Và từ một nơi nào đó, rất sâu tự
bên trong tâm hồn của ông, có tiếng Thiên Chúa trả lời: “Ta đã làm. Ta đã dựng
nên ngươi”
5. Tặng vật nhỏ bé nhưng giá trị thật lớn
Một
người đàn ông nghèo còn đúng 50 xu. Sáng Chúa nhật đi lễ, người lắc giỏ đi tới,
ông bỏ hết vào giỏ. Tan lễ, ông được tin một xí nghiệp đang tuyển công nhân,
nhưng phải đi xe lửa tới đó mất 1 đô. Không còn tiền, ông đi bộ tới xí nghiệp
khác gần nhà thờ. May thay, ông tìm ngay được việc làm. Cuối tuần, ông lãnh được
số tiền gấp 10 lần mà ông đã cho đi. Người đàn ông đó là chủ một thương hiệu giầy
da nổi tiếng, tên là W.L. Douglas.
Dân
chúng ngày xưa cũng như ngày nay luôn ở trong tình trạng đói khát lương thực, áo
quần, thuốc men và sâu xa hơn nữa, đói khát sự sống đích thực mà chỉ có Thiên
Chúa mới làm no thỏa. Thiên Chúa biết hết mọi điều thầm kín, bí ẩn trong tâm
can con người, cũng như biết rõ những nhu cầu thiết yếu của họ.
Trong
lời giới thiệu cuốn sách “5 chiếc bánh và 2 con cá” của Đức cố Hồng y FX Nguyễn
văn Thuận, Đức Hồng y Bernard Law (nguyên Hồng y giáo chủ giáo phận Boston, Hoa
kỳ) đã viết: “Một cậu bé đã đem đến cho Đức Giêsu 5 chiếc bánh và 2 con cá, một
tặng vật đơn sơ mà Đức Giêsu đã dùng để nuôi
một đoàn dân đông đảo. Chúng ta cũng thế, dù tặng vật của mình nhỏ bé,
chúng ta cũng có thể dâng lên Thiên Chúa, Ngài sẽ dùng chúng để có một hiệu quả
lớn lao trên đường của Ngài” (tr 5).
6. Chúa trong đời thường
Một cậu
bé nghe nói về Chúa, cậu thắc mắc: “Chúa là ai ?”
Một
hôm cậu quyết định một mình đi tìm Chúa. Với cái túi nhỏ đựng ít bánh và nước
ngọt, cậu bé đến một công viên gần nhà. Vừa bước vào công viên cậu đã gặp một
bà cụ đang ngồi trên ghế đá. Cụ bà đang say sưa nhìn mấy con chim bồ câu đến nhặt
thức ăn. Cậu bé liền đến ngồi bên cạnh bà, rồi mở cặp lấy bánh và nước ngọt ra.
Nhận
thấy bà cụ như có vẻ như thiếu ăn, cậu bèn lấy bánh mời bà cụ. Bà cụ vui vẻ đón
nhận và mỉm cười với cậu. Sau đó cậu lấy nước ngọt ra và cũng mời bà như thế. Một
lần nữa bà lại đón nhận và mỉm cười. Chưa bao giờ cậu bé cảm thấy hân hoan như
vậy. Cả buổi chiều hôm đó, bà cháu ngồi bên nhau, chia sẻ từng miếng bánh, từng
hớp nước ngọt, mỉm cười với nhau mà không cần phải nói với nhau lời nào.
Chiều
đã muộn, sợ cha mẹ sốt ruột, cậu bé đứng lên ra về. Vừa đi được một quãng, cậu
lại quay lại bá cổ bà cụ, rồi hôn vào má bà cụ. Cụ bà đáp lại cái hôn ấy bằng một
nụ cười đẹp như chưa bao giờ có. Khi cậu bé vừa mở cửa bước vào nhà, người mẹ
nhận ra ngay trên gương mặt con mình một niềm vui mà bà chưa từng thấy bao giờ.
Bà liền hỏi con:
- Hôm
nay con làm gì mà vui thế ?
Cậu
bé đáp:
- Hôm
nay con ăn uống với Chúa.
Người
mẹ ngỡ ngàng chưa hiểu gì thì cậu bé nói tiếp:
- Mẹ
biết không, con chưa bao giờ thấy ai có nụ cười đẹp bằng nụ cười của Chúa.
Còn
bà cụ, với một niềm vui rộn rã trong tâm hồn, bà thong thả trở về nhà. Vừa bước
chân vào cửa thì người con út đã nhận ra ngay sự bình thản khác thường trên
gương mặt mẹ mình cho nên cậu hỏi ngay:
- Hôm
nay mẹ làm gì mà vui thế.
Bà cụ
trả lời:
- Mẹ
đã ăn bánh với Chúa.
Trước
sự ngỡ ngàng của người con, bà giải thích:
- Con
biết không. Chúa trẻ hơn là mẹ nghĩ rất nhiều.
7. Bí ẩn của sự sống nằm ở đâu?
Khi
Thiên Chúa tạo dựng xong vũ trụ cũng như muôn người muôn vật thì Ngài gọi các sứ
thần lại để hỏi xem nên đặt cái bí ẩn của sự sống - tức là cái quí giá nhất
trong chương trình sáng tạo của Ngài - ở đâu ?
Một sứ
thần góp ý: “Nên chôn vùi nó dưới đất”
Một sứ
thần khác: “Nên đặt nó dưới đáy biển”
Một
vi nữa lại đề nghị: “Đặt nó trên núi cao là thượng sách”
Thế
nhưng Thiên Chúa không đồng ý với những giải pháp kể trên. Ngài nói: “Phải làm
thế nào để cho bất cứ người nào cũng có được cái bí ẩn của sự sống mới được”
Cuối
cùng một sứ thần liền nói: “Nên đặt cái bí ẩn ấy nơi trái tim con người”
Thiên
Chúa nhận thấy đó là điều tốt đẹp, Ngài liền đặt cái bí ẩn của sự sống vào trái
tim con người. Và từ đó con người luôn thấy mình có một sức sống tuyệt vời hơn
hẳn các loài thụ tạo khác.
8. Trao hết 5 chiếc bánh và hai con cá
Một
hôm, Chúa Giêsu gọi Phêrô và Gioan lại bảo hai ông cùng leo núi với Chúa.
Dọc
đường, Chúa bảo hai ông mỗi người hãy mang theo cho Chúa một hòn đá. Phêrô suy
nghĩ một lúc, rồi lặng lẽ nhặt một viên đá nhỏ bỏ vào túi. Gioan do lòng quảng
đại tự nhiên, đã vác cả một tảng đá lớn. Đường dài, vác nặng, Gioan thở hổn hển,
còn Phêrô vừa đi vừa huýt sáo thảnh thơi. Ông nói với Gioan:
- Sao
anh nhọc công vác một tảng đá lớn như thế ?
Chúa
Giêsu nghe tất cả nhưng Ngài vẫn giữ thinh lặng. Khi lên đến đỉnh núi, Chúa muốn
dạy cho Phêrô một bài học về lòng quảng đại. Ngài bảo hai môn đệ ngồi xuống rồi
đọc lời chúc tụng và biến hai viên đá ra thành bánh mì mà ăn.
Phêrô
tiu nghỉu vì viên đá của ông chỉ biến thành một mẩu bánh mì nhỏ không đủ xoa dịu
cơn đói của ông.
Rồi một
lần khác, Chúa Giêsu cũng lại gọi hai môn đệ Phêrô và Gioan leo núi với Ngài. Dọc
đường Ngài cũng bảo hai ông mang đá theo. Với kinh nghiệm của lần trước, Phêrô
liền đi tìm một tảng đá bự cồ để vác. Cố gắng hết sức Phêrô mới vác được tảng
đá lên đến đỉnh núi. Ông chờ đợi Chúa Giêsu sẽ nói như lần trước để thưởng ông.
Thế nhưng, lần này Chúa Giêsu chỉ nói với họ:
- Nào
chúng ta hãy đặt những viên đá chúng ta vừa mang theo xuống đất, ngồi lên mà
nghỉ một chút. Không phải lúc nào ta cũng biến đá thành bánh mì cả đâu!
Phêrô
thấy xấu hổ, ông trách Chúa:
-
Đúng là Thầy đã chơi khăm con!
Nhưng
Chúa Giêsu bảo ông:
-
Lòng quảng đại đích thực không có sự tính toán.
9. Lòng quảng đại làm cho cuộc đời có ý nghĩa
Thánh
Augustinô đã kể lại câu chuyện về tấm lòng quảng đại xảy ra lúc ngài đang sống
tại Milanô, nước Ý như sau:
Ngày
kia, một người nghèo lượm được cái ví trong đó có 200 đồng tiền vàng. Vì là người
ngay thẳng, ông muốn trả cái ví cho người đã đánh rơi, nhưng không biết tìm đâu
ra chủ cái ví tiền. Ông ta liền viết một tấm bảng treo trước cửa nhà, mời ai mất
ví đến nhận lại. Đọc được tấm bảng, người mất ví tìm đến xin nhận lại của đánh
rơi.
Sau
khi tra hỏi kỹ lưỡng, người nghèo kia trả lại cái ví cho chủ nó. Người mất ví
cám ơn rối rít và ngỏ ý tặng cho người nghèo kia 20 đồng vàng, tức 1/10 số tiền
trong ví. Nhưng người nghèo nhất quyết không nhận món tiền ấy. Người mất ví liền
xin ông ta nhận 10 đồng, nhưng ông cũng không nhận. Cuối cùng, người mất ví nài
nỉ ông ta nhận cho 5 đồng, người nghèo kia vẫn một mực từ chối.
Khổ
tâm vì không thể biểu lộ lòng biết ơn của mình, người mất của ném cái ví xuống
đất và nói: “Bởi vì ông không chịu nhận đồng nào, nên tôi tuyên bố: tôi không hề
mất chiếc ví này.”
Nghe
thế, người nghèo kia đành nhận món quà, nhưng ngay lập tức, ông đem số tiền
chia sẻ tất cả cho những người nghèo khổ hơn ông.
Quả
là một câu chuyện thật đẹp về tấm lòng quảng đại! Cả hai nhân vật trong câu
chuyện đều không chịu thua lòng quảng đại của nhau. Lòng quảng đại luôn làm cho
cuộc sống con người có ý nghĩa và đáng sống.
10. Phép lạ hóa bánh ra nhiều
Một
chủng sinh tên là Dalmazzo xin vào tu tại chủng viện Turinô của dòng Cha Don
Boscô, sau một tháng thử thách, chú Dalmazzo thấy buồn chán, không muốn tu nữa,
nên chú đã gửi thư cho gia đình xin mẹ của chú tới chủng viện đưa chú về. Mẹ
chú tới và chú sắp xếp đồ để sáng hôm sau, bỏ tu viện cùng mẹ trở về gia đình.
Sáng hôm sau, chú muốn xưng tội lần sau cùng với Cha Don Boscô. Cha Don Boscô
thường giải tội cho các chủng sinh và cô nhi trước giờ làm lễ: Số chủng sinh và
cô nhi dự lễ có khi lên tới 300 người. Bữa đó, số người xưng tội quá đông, nên
chú phải xưng tội sau thánh lễ.
Lễ
xong các chủng sinh và cô nhi xuống phòng ăn. Khi chú Dalmazzo vào tòa cáo
mình, thì một tu sĩ, tiến lại tòa giải tội nói nhỏ với Cha Don Boscô là sáng
nay nhà hết bánh. Cha Don Boscô nói: “Sao lại thế! Hãy tìm ngay tu sĩ quản lý đến
gặp cha.”
Một
lát sau, tu sĩ quản lý tới, nói với ngài: “Chúng con đã tìm, mà chỉ còn 15 chiếc
bánh.”
Cha
Don Boscô bỡ ngỡ nói: “Vậy phải chạy ngay ra tiệm bánh, bảo họ mang bánh đến!”
Tu sĩ
kia nói: “Thưa cha, vô ích! Nhà còn đang nợ tiệm bánh 12.000 quan: Ông chủ tiệm
bánh chỉ bằng lòng đưa bánh tới, sau khi đã thanh toán cho ông số tiền đó.”
Cha
Don Boscô nói: “Thôi được, để 15 chiếc bánh vào rổ. Thiếu bao nhiêu, Chúa sẽ liệu.
Cha về ngay bây giờ, và sáng nay chính Cha sẽ đứng phát bánh.”
Chú
Dalmazzo nghe lời nói của Cha Don Boscô, và rất tò mò về câu nói sau cùng của
cha.
Khi
xưng tội xong, Cha Don Boscô vừa ra khỏi tòa, chú cũng vội vã theo cha, là vì,
tuy mới sống trong chủng viện một tháng, mà chú đã được nghe bạn bè kể lại nhiều
việc lạ lùng của Cha Don Boscô.
Trong
phòng ăn, chú đứng sát kề sau lưng Cha, và đếm kỹ lưỡng trong rổ chỉ còn 15 chiếc
bánh. Phòng ăn lúc đó, cả cô nhi lẫn chủng sinh có tới 300 người. Chú nghĩ: 300
người mà chỉ có 15 chiếc bánh, phát làm sao cho đủ?
Tất cả
sắp hàng lên lấy bánh. Cha Don Boscô cứ cho tay vào rổ lấy bánh ra, phát cho hết
người này tới người khác, bánh vẫn cứ có hoài, lạ lùng nhất là, sau khi 300 người,
mỗi người đã nhận được tấm bánh, chú đếm số bánh còn lại trong rổ, và thấy
trong rổ còn đúng 15 chiếc bánh. Cảm động về việc lạ lùng này, chú không về gia
đình nữa, quyết chí ở lại tu. Dalmazzo sau đã trở thành linh mục quản nhiệm xứ
Thánh Tâm tại Rôma, và rồi đã giữ chức Giám Đốc chủng viện Catanzanô cho tới chết.
Lúc Giáo Hội mở cuộc điều tra, để phong thánh cho Cha Don Boscô, chính Dalmazzo
đã kể lại sự việc trên, và thề trước mặt Chúa là mình nói sự thực.
11. Hợp tác với đại nhạc sĩ
Một
bà mẹ dẫn cậu con trai nhỏ tuổi đến dự buổi hoà nhạc của Paderewski, mong làm
cho cậu con thêm say mê học đàn. Vừa ngồi xuống ghế, bà thấy một cô bạn trong
đám đông khán thính giả nên đi ra gặp cô ấy. Cậu bé cũng đứng lên, đi về hội
trường nhà hát, và tò mò bước luôn qua cánh cửa ghi hàng chữ ‘Không được vào’.
Khi
ánh đèn tắt đi, buổi hoà nhạc bắt đầu, người mẹ quay lại và sửng sốt không thấy
con trai mình. Ngay lúc đó tấm màn sân khấu được mở ra và bà giật mình khi nhìn
thấy cậu con trai bé bỏng của mình đang ngồi bên cạnh phím đàn piano, ngây thơ
gõ khúc nhạc “Vì sao bé nhỏ lấp lánh, lấp lánh” dưới ánh đèn sân khấu.
Lúc
Paderewski bước vào, thấy cậu bé chơi đàn, ông bước nhanh lại và nói nhỏ với cậu
bé: “Chớ dừng lại, cứ chơi đi”, và hơi ngả mình về phía trước, choàng hai tay
qua vai cậu bé và đệm nhạc cho cậu. Một nghệ sĩ lớn và một cậu bé tập tễnh lại
có khả năng hớp hồn, làm cho mọi người mê say thưởng thức một sáng tạo tuyệt vời.
Bản đại
hoà tấu của cả trời đất này đã được bắt đầu, bản đại hoà tấu của tình yêu cứu độ
có thể làm thoả lòng mọi người! Điều kỳ diệu của bản đại hoà tấu đó là con người,
dù rất nhỏ bé, lại được đồng lao cộng tác với Chúa trong công trình của Ngài.
12. Chúa làm mọi sự qua bàn tay con người
Thời
Pháp thuộc, một vị tổng thanh tra giáo dục đi săn tại Di linh. Di linh lúc đó
là một khu rừng chỉ có người K'Ho sinh sống, với rất nhiều thú rừng. Sau khi nổ
súng, ông chợt thấy một ông tây chạy ra tự giới thiệu là linh mục Jean
Cassaigne (cha Sanh) và nói với ông là không ai được lai vãng đến khu vực này.
Vị thanh tra bỡ ngỡ, ra oai hỏi: “Ông lấy quyền gì mà ngăn cản chúng tôi?” Cha
Sanh chỉ làng cùi và dẫn ông vào coi. Vừa thấy những người cùi, ông sợ hãi bỏ
đi ngay với vẻ bực bội và cho cha Sanh biết là ông có quyền giải tán làng cùi
đó.
Nhưng
mấy tuần sau cha Sanh nhận được một bưu kiện lớn của ông thanh tra với nhiều
thuốc men và dụng cụ y tế, kèm theo một mảnh giấy: “Tôi tặng Cha món quà này để
trả lời cho câu hỏi mà sự hiện diện của những người cùi Di linh luôn gợi ra
trong đầu tôi.”
Bốn
năm sau, Cha Sanh, lúc đó là Giám mục Sài gòn, nhận được một bức điện: “Xin Đức
Cha đến ngay bệnh viện trung ương Nam vang: Một bệnh nhân liệt nặng muốn gặp.
Có xe tới đón.”
Bệnh
nhân đó là ông thanh tra. Ông bỏ đạo từ lâu bởi nhiều ác cảm với đạo. Hình ảnh
Cha Sanh sống giữa những người cùi ở Di linh, chăm sóc băng bó cho họ, thúc đẩy
ông tìm về với Chúa. Ông xin Đức Cha giải tội cho ông trước khi thở hơi cuối
cùng.
Thiên
Chúa làm được mọi sự, nhưng ân sủng chỉ được ban với sự hợp tác của con người.
Tự sức tôi chẳng làm được gì cả, nhưng phép lạ sẽ xảy ra nếu tôi đặt tất cả sự
yếu hèn của tôi vào tay Chúa, như em bé đặt năm chiếc bánh lúa mạch và hai con
cá vào tay Chúa.
13. Đói Chúa
Một
toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng
của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu
tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là
Chúa nhật, nhiều toán khách du lịch đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi
vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề
đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run:
“Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy
năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là
ranh giới giữa sống và chết.”
Trong
các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết
nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc
Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên
người rất cảm thương những người bị đói.
14. Tìm về nguồn sống
Có một
câu truyện cổ về một nông dân Đan Mạch. Trên giường hấp hối, ông yêu cầu đứa
con trai hứa sẽ ngồi một mình mỗi ngày khoảng 20 phút tại căn phòng tốt nhất
trong nhà. Đứa con trai đã giữ lời hứa và khi lớn lên đã trở thành một nhà lãnh
đạo được kính trọng nhất trong làng.
Câu
truyện về đứa con trai của người nông dân và việc Chúa Giêsu lên núi để tập
trung tinh thần mời gọi tôi tự hỏi: cái gì đã giữ tôi tập trung tinh thần khi
những xác tín của tôi bị những áp lực bên ngoài tác động?
Cô tịch
giúp ta nhận ra mình nên là ai, còn xã hội cho ta thấy mình là gì? (Richard
Cecil)
15. Đói
mà không biết mình đói
Có
hai người trên một chuyến xe lửa ở Pháp. Người lớn tuổi hơn có quyển Kinh thánh
mở tới câu truyện bánh và cá. Tò mò, người trẻ hơn hỏi: “Xin lỗi, ông có tin
chuyện đó không hay ông chỉ đọc nó thôi?” Người kia đáp: “Tôi tin, cậu không
tin sao?” Người trẻ nói: “Không. Tôi là một nhà khoa học và câu truyện đó mâu
thuẫn với khoa học.” Thế rồi, chiếc xe lửa chậm lại, người trẻ nói: “Tôi xuống
đây. Rất vui được nói chuyện với ông, ông…?” “Pasteur”, người lớn tuổi nói,
“Louis Pasteur.” Người hành khách trẻ vô cùng sửng sốt, anh vừa nói chuyện với
một trong những nhà khoa học hàng đầu của thế giới.
Tôi
giải quyết những vấn đề đức tin thế nào khi nó xem ra mâu thuẫn với khoa học?
Càng
hiểu ít, càng tin ít; càng hiểu nhiều, càng tin nhiều.
16. Dâng Chúa điều nhỏ bé để nhận phần lớn lao
Tại một
cuộc gặp gỡ giới trẻ ở Scotland. Đức Giaó Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi các
bạn trẻ hãy làm như cậu bé. Ngài mời gọi người trẻ hãy dâng cho Chúa Giêsu cuộc
đời và tài năng của họ (bánh và cá). Ngài nói: “Các con ý thức sự yếu đuối của
mình… Nhưng đây là điều cha nói với các con: hãy đặt cuộc đời mình trong Chúa
Giêsu. Ngài sẽ đón nhận và chúc lành cho các con vượt quá những gì các con mơ ước.”
Tôi sẵn
sàng tin tưởng phó thác cuộc đời và tài năng của tôi trong tay Chúa Giêsu như
thế nào?
Phúc
cho ai phó mình trong tay Chúa Giêsu. Chính Ngài sẽ đặt mình trong tay họ.
17. Tấm lòng mở ra
Ngày
nọ, một gia đình giầu có, quý tộc nước Anh dẫn con về miền quê chơi. Trong khi
nô đùa, tai nạn đã xẩy đến, cậu trai nhỏ của họ sa chân vô vọng dưới vực nước
sâu. Kẻ nghe tiếng kêu và đã đến cứu cậu là một chú bé, con của người làm vườn
nghèo.
Một đứa
bé nhà giàu, có thể bàn tay ấy đã được tán thưởng vì tiếng đàn trên phím ngà,
nhưng lại không biết bơi. Một đứa bé nhà nghèo thôn quê, bàn tay xạm nắng vì cuốc
rẫy nhưng hôm nay đã cứu đời. Cha của cậu bé giàu có kia đã biết ơn cậu bé nhà
nghèo. Nhưng thay vì lời cám ơn, ông ta không muốn nhìn ước mơ tuổi thơ của cậu
bé nằm dưới đáy ly kem. Ông muốn đẩy ước mơ của cậu bé vào bầu trời ở trên cao.
Ông hỏi cậu bé:
- Khi lớn con muốn làm gì?
- Chắc là con tiếp tục nghề làm vườn của cha
con.
- Con không còn ước mơ nào lớn hơn sao?
- Dạ, nhà con nghèo thế này thì con còn ước
mơ gì.
- Nhưng nếu con có mơ ước thì con ước mơ gì?
- Thưa ngài, con muốn đi học, muốn là bác sĩ.
Sau
này, cậu bé được cứu sống vì không biết bơi đã trở thành vĩ nhân của thế giới,
đã giữ vai trò quan trọng trong cục diện thay đổi thế chiến đệ nhị, đã làm cho
nước Anh hãnh diện vì tài ba chính trị. Ðó chính là thủ tướng Winston Churchill.
Nhờ
lòng thương và biết ơn chân tình của cha cậu bé Churchill, cậu bé nhà nghèo đã
không còn đặt mơ ước của đời mình ở những cụm cỏ, bờ đê. Cậu đã trở thành bác
sĩ lừng danh của thế giới và là ân nhân của nhân loại cho đến ngàn đời, vị bác
sĩ này đã tìm ra thuốc trụ sinh Penicillin. Tên của cậu là Fleming!
Rồi cậu bé Churchill là thủ tướng. Rồi Fleming là bác sĩ. Nhưng câu chuyện chưa dừng ở đây. Những áng mây rực sáng, với ánh mặt trời sẽ còn rực sáng nữa. Khi thủ tướng nước Anh lâm bệnh trầm trọng, vương quốc Anh đã đi tìm những danh y lừng lẫy để cứu sống thủ tướng của nước mình. Kẻ danh y ấy chẳng phải ai xa lạ mà lại chính là bác sĩ Fleming, người đã cứu ông năm xưa.
THỨ BẢY
Lời
Chúa: Ga 6, 16-21
Chiều
đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về
hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ.
Bỗng
cuồng phong thổi lên, biển động mạnh.
Khi
chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên
mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính
Thầy đây, đừng sợ.” Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã
đến nơi họ định tới.
TRUYỆN KỂ
1. Tin tưởng vào Chúa
Một vị
tướng nọ quyết định đánh địch quân, dù rằng lúc ấy quân số của ông chỉ bằng
1/10 quân số của quân địch. Nhưng ông vẫn xác quyết với toàn thể binh sĩ của
ông rằng họ sẽ chiến thắng, thế nhưng ai nấy đều lắc đầu thất vọng.
Vào
ngày xuất quân, khi đi ngang qua một nhà nguyện, ông cho đoàn quân dừng lại và
nói: “Tôi và một số sĩ quan vào đây cầu nguyện và gieo thử một quẻ: Nếu đồng tiền
ngửa, chúng ta sẽ thắng, bằng không, chúng ta sẽ thua.”
Một
lúc sau từ nhà nguyện bước ra, ông và các sĩ quan vui mừng loan báo: “Số mệnh
đã chỉ cho chúng ta biết chúng ta sẽ thắng trận này.” Nghe thế, mọi người hân
hoan lên đường và quả nhiên họ đã chiến thắng một cách dễ dàng.
Ngày
hôm sau, một sĩ quan thân cận đã tâm sự với vị tướng: “Quả thật, trận chiến hôm
qua đã chứng tỏ không ai có thể thay đổi được số mệnh.” Vị tướng mỉm cười đáp:
“Có lẽ gần đúng như vậy.” Rồi ông lấy từ trong túi đồng tiền đã gieo quẻ hôm
trước, cả hai mặt đồng tiền đều giống nhau.
Một
trong những yếu tố dẫn đến thất bại, đó là sợ hãi, thiếu tin tưởng. chỉ một thoáng
bối rối hiện trên nét mặt cũng đủ để đối thủ chiếm được ưu thế.
Bài
giảng đầu tiên khi vừa lên ngôi Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô cũng
được mở đầu bằng hai từ “Đừng sợ.”
Vâng,
kính thưa anh chị em. Chúa của chúng ta đã chiến thắng tất cả rồi. Không còn một
lý do nào để chúng ta phải sợ nữa. Hãy can đảm sống và làm chứng cho Ngài.
Amen.
2. Chính Thầy đây, đừng sợ
Nhà
truyền giáo Moody kể: “Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết rằng hễ
ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được
70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung sướng nghĩ rằng mình sẽ sống đến tuổi đó.
Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất
lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Đức Giêsu Kitô, như một
người con của Chúa.”
3. Thầy đây, đừng sợ
Một
ghềnh đá nằm trên một ngọn núi cao được gia đình chim phượng hoàng chọn làm nơi
xây tổ đẻ trứng và ấp con. Từ ghềnh đá này người ta có thể nhìn thấy bao quát cảnh
vật chung quanh.
Thấm
thoát thời gian trôi nhanh, chim phượng hoàng mẹ nhìn con và nói
- Đã
đến lúc các con phải tập bay.
- Bay
như thế nào? Ba chiếc mỏ non nớt cùng cất tiếng hỏi:
Chim
mẹ trả lời:
- Các
con phải đi ra mép ghềnh đá rồi buông mình rơi xuống và vỗ cánh để gió nâng các
con lên.
Ba
chú chim con ngơ ngác nhìn nhau với những ánh mắt đầy lo sợ. Tuy thế chúng cũng
vâng lời mẹ đi ra mép ghềnh đá nhìn xuống vực thẳm, nhưng rồi lại vội vàng quay
trở về chui vào tổ tìm sự an toàn.
Ngày
hôm sau, chim phượng hoàng mẹ cũng lặp lại lời nói hôm qua:
- Đã
đến lúc các con phải tập bay.
Một
chú chim con sợ hãi nói:
- Vực
thẳm sâu quá!
Con
khác tiếp lời:
-
Chúng con sẽ phải rơi xuống tan xác mất thôi.
Và
con thứ ba thú nhận:
-
Chúng con sợ quá, mẹ ơi!
Nhưng
chim phượng hoàng mẹ nói như ra lệnh:
- Hãy
đi ra bờ vực thẳm!
Thấy
đàn con không nhúc nhích, phượng hoàng mẹ nói giọng cương quyết hơn:
- Hãy
đi ra mép ghềnh đá, đừng sợ!
Theo
lệnh mẹ, ba chú chim con chậm rãi bỏ tổ tìm ra mép ghềnh đá. Chim mẹ nhẹ nhàng
dùng mỏ đẩy ba con đi nhanh hơn. Đến nơi, một con can đảm nhảy xuống vực thẳm
và tung cánh. Được gió nâng đỡ, nó vỗ những nhịp cánh đầu tiên và bay trong bầu
trời cao rộng.
*
Chúa Giêsu đã nói với các tông đồ thuở xưa: “Thầy đây đừng sợ.” Hôm nay Chúa
cũng muốn nói với chúng ta như thế.
4. Đến với Chúa qua lời cầu nguyện
Nhìn
vào đời sống Hội Thánh sau hơn 20 thế kỷ, tỷ lệ người Công Giáo bên Âu Châu
không gia tăng, nhưng lại đi xuống cách trầm trọng!
Ngày
5 tháng giêng năm 2010, Đài Chân Lý Á Châu loan tin: “Công Giáo Hòa Lan cách
đây 50 năm là một nước có sức truyền giáo mạnh, nhưng ngày nay 41% tuyên bố vô
thần, 58% không còn biết gì về lễ Giáng Sinh nữa. Nhiều Nhà Thờ thành ký túc
xá, tiệm buôn hoặc biến thành Nhà Thờ Hồi Giáo! Giới trẻ hiếm có người dạy giáo
lý cho, nên chúng không biết hỏi ai về niềm tin. Một số Linh mục Dòng Đaminh và
Dòng Tên chủ trương Thánh Lễ không cần Linh mục, chỉ một số giáo dân quy tụ lại
cầu nguyện để cùng đồng tế với nhau! Công Giáo Hòa Lan có nguy cơ biến mất!”
Những
sự cố đau lòng trên đây chỉ vì nhiều giáo sĩ bỏ bổn phận chính là cầu nguyện và
giảng Lời mà làm việc phụ.
Kìa
ông A-rít-tít, khi còn trong chức Linh mục phục vụ mọi người, toàn dân nước
Haiti ai cũng ca tụng như vị Thánh sống. Vì quá tin tưởng vào khả năng của
mình, cha đã xin Tòa Thánh cho phép ra ứng cử Tổng Thống. Nhưng chỉ sau bốn
tháng đắc cử, toàn dân Haiti quay chống đối ngài kịch liệt, khiến ông A-rít-tít
phải sống lưu vong bên Mỹ.
Bốn
năm sau, Hoa Kỳ tạo điều kiện cho ông A-rít-tít trở về nước để được tái ứng cử
chức Tổng Thống. Dù lần bỏ phiếu này ông A-rít-tít cũng đắc cử, nhưng toàn dân
lại chống đối mãnh liệt hơn, người ta cho là ông vì gian lận mà thắng cử! Thế
là ông A-rít-rít lại một lần nữa phải chuồn ra ngoại quốc trong tủi nhục!
Sự cố
này đã minh chứng: Chúa đã đặt để ông A-rít-tít là Linh mục với bổn phận chính
là cầu nguyện và giảng Lời, thì ông lại bỏ mà tham gia vào chính quyền, cuối
cùng gây sóng gió cho cả nước!
5. Dấu chân của Chúa
Có một
bài thơ mô tả một người nằm mơ thấy mình đang cùng Chúa dạo chơi trên bãi biển.
Bỗng các biến cố đã xảy đến trong cuộc đời anh ta hiện ra trên bầu trời. Nhìn lại
những dấu chân trên cát, anh nhận thấy những khi hạnh phúc, trên cát có hai dấu
chân. Còn những khi buồn khổ, chỉ có một dấu. Anh thưa với Chúa: “Con không hiểu
tại sao những khi con cần đến Chúa, thì Chúa lại bỏ đi?” Chúa trả lời: “Ta
không bao giờ bỏ rơi con trong những lúc gặp đau khổ, thử thách. Khi con nhìn
thấy chỉ có một dấu chân đó là lúc Ta đang cõng con.”
Trong
đời tôi, Chúa đã cõng tôi khi nào?
Ai
chưa bao giờ sống trong đau khổ hoặc trải qua những giờ phút đen tối, đợi chờ
ngày mai mau đến, sẽ không biết Ngài, nguồn sức mạnh chốn trời cao (Von
Goethe).
6. Sống niềm tin
Cô
gái người Mỹ Liz Woodward là nhân viên một cửa hàng thức ăn nhanh phục vụ
24/24h tại New Jersey. Vào 4 giờ sáng mỗi ngày, trong lúc hầu hết mọi người vẫn
còn đang say giấc, thì Liz vẫn phải kìm nén sự buồn ngủ để làm việc.
Một
ngày nọ, khi trời mới tờ mờ sáng, hai nhân viên cứu hộ với gương mặt xám tro tiến
vào cửa hàng nơi Liz đang làm việc, một trong hai người họ xuất hiện với vẻ mặt
mệt mỏi, khàn giọng nói:
- “Cô
gái, cho chúng tôi hai tách cà phê espresso.”
Thì
ra là cả hai vừa mới tham gia vào một vụ chữa cháy. Ngọn lửa trong nhà kho vô
cùng dữ dội, họ không hề chợp mắt suốt đêm và dành 12 giờ để chiến đấu với ngọn
lửa. Tại thời điểm này, họ đang kiệt sức, rất cần một ly cà phê để tỉnh táo lại.
Trong
quá trình pha cà phê, Liz cẩn thận lắng nghe cuộc trò chuyện giữa hai người và
biết rằng hai lính cứu hỏa Tim và Paul đã cứu hỏa thành công. Cô gái lương thiện
này đã trả tiền cho 2 ly cà phê và còn tỉ mỉ chuẩn bị một bữa sáng ngon miệng
cho họ.
Trên
mặt sau của hóa đơn, cô gái viết:
-
“Tôi đã trả tiền cho bữa ăn sáng ngày hôm nay. Cảm ơn sự đóng góp của các anh.
Khi tất cả mọi người đều tìm cách thoát thân, các anh lại không màng tính mạng
lao vào ngọn lửa. Bất kể trách nhiệm là gì, các anh là người dũng cảm, mạnh mẽ
nhất, cũng là tấm gương tốt nhất cho tất cả mọi người, cám ơn vì mọi việc các
anh đã làm, hãy nghỉ ngơi thật tốt. “
Hai
người đàn ông cảm nhận được sự ấm áp qua từng câu từng chữ trên tờ hóa đơn, nó
thực sự đã chạm tới nơi mềm yếu nhất trong trái tim họ, sau khi xem xong, họ bất
giác khóc.
Cảm
giác đau thương sau một vụ hỏa hoạn, chỉ có những người đã từng trải qua mới thấu
hiểu. Liz nhìn họ, hai người họ cũng nhìn Liz, họ dành cho nhau ánh nhìn ấm áp
và nở nụ cười, cuối cùng vẫy tay tạm biệt.
Sau
khi trở về nhà, nhân viên cứu hỏa Tim càng nghĩ càng cảm thấy cảm động, anh đã
đem câu chuyện này kể lại một cách chân thật trên mạng xã hội, đồng thời còn nhắn
gửi tới bạn bè: Hãy tới cửa hàng đầy ấm áp đó, nếu như gặp được cô gái lương
thiện này, hãy trả thêm một ít tiền.
Không
ngờ rằng, lời nhắn nhủ đơn thuần của Tim chỉ trong một đêm đã khiến cư dân mạng
vô cùng ủng hộ, tấm lòng lương thiện của Liz được truyền đi khắp nơi, đâu đâu
cũng ngập tràn lời khen, rất nhiều người đã đích thân tới cửa hàng để thể hiện
sự ngợi khen, ủng hộ với cô gái.
Tuy
nhiên, khi bài viết của Tim được hơn 30.000 người bình luận, anh đã nhìn thấy một
khía cạnh khác của câu chuyện:
Trên
thực tế, gia đình của Liz không giàu có, và thậm chí có thể được mô tả là khá
túng thiếu. Đầu năm 2010, cha cô bị liệt do tổn thương não. Vì cô không đủ khả
năng mua một chiếc xe ô tô có hệ thống đưa xe lăn lên xuống, nên người cha bị ốm
của cô quanh năm phải nằm trên giường. Còn Liz, cô phải cáng đáng toàn bộ gia
đình, để có thể nhanh chóng mua một chiếc xe, cô đã làm 3 công việc bán thời
gian suốt ngày đêm.
Sau
khi biết được hoàn cảnh của cô gái, chàng nhân viên cứu hỏa không thể diễn tả
được tâm trạng của mình, anh đã bàn bạc với một số đồng nghiệp, phải làm việc
gì đó giúp cô gái lương thiện này. Chẳng mấy chốc họ đã tạo ra một trang gây quỹ
cộng đồng để mua một chiếc ô tô cho cha của Liz. Mục tiêu ban đầu của họ là
17.000 đô la Mỹ, không ngờ rằng số lượng người tham gia rất cao, 10.000,
20.000, 50.000, lên đến 86.000 đô la.
Ngay
sau đó, một số nhân viên cứu hỏa đã mang toàn bộ số tiền tới thăm cha của Liz và
trao nó cho cô. Liz đã ôm lấy người lính cứu hỏa Tim và bật khóc. Cảnh tượng
này cũng khiến cho anh chàng cứu hỏa đi cùng rơi nước mắt.
Liz
nói: “Bữa sáng hôm đó tôi mua cho họ chỉ đơn thuần là lòng biết ơn tôi muốn gửi
tới họ, hoàn toàn không hề nghĩ tới kết quả ngày hôm nay, tôi cảm động tới mức
không biết nên nói gì nữa.”
Chỉ
là một hành động nhỏ, không ngờ lại được báo đáp đầy thiện ý to lớn như vậy.
Liz chưa từng nghĩ tới, cũng không dám nghĩ tới.
Lòng
tốt sẽ luôn được báo đáp. Trước khi cha của Liz bị liệt, ông đã làm “nhân viên
khắc phục thảm họa” trong suốt mấy chục năm liền, sau mỗi thảm họa lớn nhỏ, ông
đều không màng tính mạng của bản thân lao vào hiện trường để hoàn thành công việc
khắc phục thảm họa của mình. Lòng tốt của ông ấy đã truyền cho con gái mình, và
rồi lại quay trở về bên cạnh ông ấy.
Lòng
người đổi thay, thói đời bạc bẽo – vậy tại sao chúng ta phải chọn cách sống
lương thiện?
Khi
làm việc thiện, ngay cả khi bạn không nhận được hồi báo trong một khoảng thời
gian ngắn, nhưng nhất định sẽ có một ngày thiện lương cùng sự ấm áp sẽ đến với
bạn.
LỄ TRUYỀN TIN
Lời
Chúa: Lc 1, 26-38
Khi
ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét,
đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ
Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng:
“Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các
người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên
thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai,
sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là
Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người
sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”
Nhưng
Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến
người nam?”
Thiên
thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm
Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và
này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã
mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì
mà Chúa không làm được.”
Maria
liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và
thiên thần cáo biệt Bà.
TRUYỆN KỂ
1. Khiêm nhường đón nhận--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðọc
Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của
Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn
mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu. Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống
sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta.” Trương
Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy.
không một lời cám ơn. Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần
nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.”
Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen:
"Thằng bé này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận
Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương
trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế
vương.
Trương
Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm
nhường phục vụ của ông. Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức
Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận.
Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ
có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
2. Cộng tác với ơn Chúa
Một
thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được.
Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng
hồ báo thức. Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ.
Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt
bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi
về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
-
Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
-
Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao
nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến.
3. Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich
Một
hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền
Tin.
Theo
bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và
mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm
nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức
Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng
toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn
không khí im lặng.
Nghe
tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn
đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí
nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.
Sau
khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả
lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần
truyền.”
Quang
cảnh tới đây hạ màn.
4. Tờ giấy và cây viết của Leonard de Vinci
Có
tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm
tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với
mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả.
Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ
trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi
thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”
Nhưng
cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu,
tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ
giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với
con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con
người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người.”
Tờ
giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ
lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi
và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết
mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở
thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.
Thánh
Irênê nói: “Chính Ngài, nhờ vâng phục, đã trở nên nguyên nhân cứu rỗi cho mình
và cho toàn thể nhân loại.” Và cùng với thánh Irênê còn có rất nhiều thánh Giáo
phụ thời xưa cũng không ngần ngại giảng dạy rằng: “Nút dây đã bị thắt lại do sự
bất tuân của Evà, nay được gỡ ra nhờ sự vâng phục của Đức Maria. Điều mà Evà đã
buộc lại bởi cứng lòng tin, Đức Maria đã tháo ra nhờ lòng tin; và so sánh với
Evà, các ngài gọi Đức Maria là "Mẹ kẻ sống", và thường quả quyết rằng:
“Bởi Evà đã có sự chết, thì nhờ Maria lại được sống” (Lumen gentium, số 56).
5. Thiên Chúa và con người
Jacques
Duquesne là một văn hào hiện đại của nước Pháp có kể rằng: Trong một cuộc tranh
luận ở thư viện ngoại ô Paris, với thành phần tham dự đủ mọi loại người, thuộc
nhiều tầng lớp xã hội và tuổi tác khác nhau, đề tài được bàn đến là Ðức Giê-su.
Ðang khi mọi người tranh luận, một thiếu niên Ả-rập giơ tay nói với Duquesne:
thưa ông, một con người không thể là Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thể là
người.
Quả
thật đây là vấn đề được đặt ra từ lâu. Không chỉ người thiếu niên Hồi Giáo đặt
ra mà suốt hơn 20 thế kỷ qua nhân loại vẫn luôn thao thức. Tin vào một Thiên
Chúa thần linh thì hầu hết các tôn giáo đều làm như vậy. Nhưng tin vào một
Thiên Chúa làm người, chấp nhận thân phận con người, không loại trừ bất cứ điều
gì chỉ trừ tội lỗi là một điều vượt quá lý trí nhân loại. Làm sao một Thiên
Chúa lại có thể làm những chuyện quá tầm thường, thậm chí không xứng đáng với bản
tính thần linh của Ngài như là được cưu mang, được sinh hạ, phải ăn uống ngũ
nghỉ, mệt mỏi, vui buồn?
6. Đối
với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được (cha Lê Quang Uy)
Có
một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện
sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn
bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề
nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất
vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan
tâm sự: "Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa
Giê-su muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin
Vâng như Mẹ... Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của
tâm hồn tôi... Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giê-su, Con yêu dấu của
Mẹ..."
Và
quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người
cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi
đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn
trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những
người khuyết tật khốn khổ...
Cho
đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người
ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và
sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành
hàng vạn lá thư khác...
7. Xin Vâng
Đức
Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên
là Roncalli, ngài đã lấy khẩu hiệu: “Vâng Phục và Bình An.”
Ngài
kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng
thấy Hồng Y Daronius già cả đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị
hồng y ấy đều lấy một ít tiền tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó,
ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân
ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và Bình An.” Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến
quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung
thành với Hội Thánh rồi ra về.
Hình
ảnh cao đẹp và lời nói đanh thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài
đã chọn câu ấy làm tâm niệm và đã thực hiện trong suốt cuộc đời.
Khi
chọn”Vâng Phục và Bình An”là tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo
hoàng, các ngài đã noi theo lời tâm niệm”xin vâng”của Mẹ và hơn thế nữa, là con
đường sống của Mẹ Maria. Lời”Xin vâng”là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất
nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”đã làm thay đổi tất cả
cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định của chương trình cứu độ.
8. Xin vâng
Ngày
08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền
mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng
Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:
–
Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận
không?
Sau
giây phút yên lặng với giòng nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả
lời:
– Ước
gì con không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy
câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài
đã trả lời:
–
Con xin nhận như một thánh giá Chúa trao phó.
Qua
lời”xin vâng”đầy nước mắt ấy, Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh
Phêrô và đã trở thành một vị thánh Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự
đổi mới, canh tân.
9. Mẹ đã thắng con rồi
Giovanni
Tomasi là một người vô thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ
nơi mấy người đồng hương nước Ý.
Khi
biết mình bị ung thư nan y, anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người bạn
thân rủ anh qua Lộ đức hành hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi dù
chẳng tin một chút nào.
Anh
trở về chẳng hề thuyên giảm, càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh
hãy thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ
khác. Sau nhiều lần uống nước ở chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh
nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.
Ngày
14.11.1987, anh mua một khẩu súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang
Lộ đức, hét to lên một lời thách thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn
tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư của
tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng này để tự sát ngay tại đây, để cho cả thế
giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì, rằng đây chỉ là một trò bịp.”
Thinh
lặng… căng thẳng, ai cũng thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.
Anh
đưa súng vào màng tang và bóp cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy
mọi sự bình thường. Sao lại không nổ vậy?
Rồi
anh lại lên đạn và đưa súng lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn
vẫn không nổ. Lúc đó anh không còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay
buông rơi khẩu súng. Anh ngước nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã thắng
con rồi!”
Tomasi
mang căn bệnh trở về nhà nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi khắp
nơi để diễn thuyết, viết thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như mình để
khích lệ, ủi an và mời gọi họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria.
10. Triều đại Người vô cùng vô tận
Trong
trí tưởng tượng, bạn hãy phát họa bức tranh nhân loại trước khi Chúa Giêsu đến.
Nhân loại ở dưới quyền lực và sự kiểm soát của Satan, tội lỗi và sự vô vọng hiện
diện khắp nơi.
Khi
đi vào trong thế giới này, Thiên Chúa đã sai sứ thần đến với một trinh nữ tên
là Maria. Sứ thần nói với bà: “Bà sẽ thụ thai và sinh một con trai, và đặt tên
là Giêsu. Người ta sẽ lên cao cả và được gọi là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ
ban cho người ngai vàng Đavít, tổ tiên người và triều đại người sẽ vô cùng vô tận.”
rồi sứ thần từ biệt bà (Lc 1,31-33.38)
Ý
tưởng gì xâm chiếm tâm trí Maria sau khi sứ thần từ biệt bà?
Hãy
để cho người chưa bao giờ yêu thương biết yêu thương, và người luôn yêu thương
biết yêu thương hơn nữa.
11. Vai trò của Đức Mẹ
Một
em bé đánh giầy đang làm việc ở nhà ga trung tâm Nữu Uớc. Trong khi dùng miếng
vải đánh đi đánh lại đôi giầy của một ông khách, chiếc mề đay bằng bạc đong đưa
nơi cổ em. Ông khách tò mò hỏi: “Sonny, cháu đeo miếng kim loại gì ở cổ thế?” Cậu
bé đáp: “Đó là ảnh Mẹ Chúa Giêsu.” Ông khách hỏi tiếp: “Tại sao lại là ảnh Bà ấy?
Bà ấy không khác mẹ em sao?” Cậu bé trả lời: “Có thể như vậy, nhưng có một khác
biệt lớn thực sự giữa con trai bà ấy và cháu.”
Lòng
sùng kính của cậu bé đối với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, mời gọi tôi tự hỏi: Đức
Maria giữ vai trò gì trong cuộc đời tôi? Làm thế nào để Người đóng vai trò lớn
hơn?
Kính
chào Mẹ Maria, người phụ nữ dịu dàng, sứ giả hòa bình. Xin dạy chúng con biết
khôn ngoan và biết yêu thương. (Carrol Landry).
12. Đức Mẹ dẫn đến Chúa
Một
người đàn ông ăn mặc tồi tàn, lang thang vào một thánh đường trong giờ thánh lễ
dành cho thiếu nhi. Ông ta ngồi xuống và ngủ gật. Cuối lễ, các em hát bài thánh
ca ca tụng Mẹ Maria, bài thánh ca kết thúc với những lời này: “Lạy Mẹ Thiên
Chúa, Ngôi sao biển, xin cầu cho những kẻ lang thang, xin cầu cho con.” Người
đàn ông đột nhiên bắt đầu khóc. Khi có người lại gần, ông nói: “Bài thánh ca đó
tôi chưa từng nghe. Tôi đã bỏ lễ từ nhiều năm. Bài ca về Mẹ Maria đem lại đức
tin cho tôi. Một lần nữa, Mẹ là nguồn ơn phúc.”
Mẹ
Chúa Giêsu đóng vai trò gì trong đời sống thiêng liêng của tôi?
Lạy
Mẹ Thiên Chúa, Ngôi Sao biển, xin cầu cho những kẻ lang thang, xin cầu cho con.
13. Xin vâng
Lời
đáp trả của Đức Maria đối với thánh ý Thiên Chúa như sứ thần đã mặc khải được
tóm tắt trong hai tiếng “Xin Vâng.” Đây là lời đáp trả đẹp nhất mà con người có
thể thể hiện trước thánh ý Thiên Chúa. Đây là lời mà Đức Maria đã dậy Chúa
Giêsu, con của Mẹ thực hiện. Đây là lời đáp trả Chúa Giêsu dậy chúng ta trong
Kinh Lạy Cha. Đây cũng là lời đáp trả của chính Chúa Giêsu trong cơn hấp hối ở
vườn cây dầu: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha” (Lc 22,42).
Lời
đáp trả của Chúa Giêsu và Đức Maria đối với thánh ý Thiên Chúa mời gọi tôi đánh
giá lời đáp trả của chính mình. Tôi đã sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa như
thế nào?
Điều
chúng ta thường cầu nguyện với Chúa không phải là thánh ý Ngài được thực hiện,
mà là Ngài chấp nhận ý muốn của chúng ta. (Helga Bergold Gross).
14. Thiên Chúa chơi trốn tìm
Trong
bài giảng lễ Giáng sinh năm 1998, ĐHY Joseph Ratzinger, nay là Đức Benedicto
XVI, đã kể chuyện cậu bé Jeschiel chạy tất tưởi tới phòng của ông mình, một
Rabbi nổi tiếng, sướt mướt kêu gào:
- Ông
ơi, bạn của con đã bỏ rơi con hết rồi. Nó thật chẳng tốt chút nào và chơi xấu với
con quá!
- Ông
hiểu, con có thể kể thêm một chút nữa không?
- Dạ,
chúng con chơi trốn tìm năm mười với nhau. Con trốn thật là kỹ, đến nỗi bạn con
không tìm được con. Tự nhiên bạn con nghỉ chơi, không tìm con nữa, và nó đi mất
tăm luôn. Chơi thật là xấu, phải không ông?
Và
ông đã an ủi cháu: “Thực là chẳng đẹp chút nào. Nhưng con ơi, mình với Thiên
Chúa cũng vậy đó. Chúa đã chơi với chúng ta trò chơi trốn năm mười, Ngài đã trốn,
còn chúng ta thì lại chẳng chịu đi tìm Ngài gì cả. Con cứ thử nghĩ xem, Thiên
Chúa ẩn mình, còn chúng ta thì chẳng một lần chịu đi kiếm Ngài.”
Kể
chuyện xong, ĐTC tiếp lời: “Thiên Chúa không chỉ cho chúng ta thấy hào quang
sáng chói của Ngài. Ngài muốn rằng giữa Ngài với chúng ta một tình yêu cần được
nảy sinh, và tình yêu này luôn đòi hỏi sự tự do... Và Ngài ước ao chúng ta có
được... kinh nghiệm của sự tự do, của tìm kiếm, của khám phá và của lời Xin
Vâng với tình yêu.”
Lời
Chúa Tuần 2 Phục Sinh
Thường
niên V-GS C-PS Ngoại
lịch