LỜI CHÚA TUẦN 3 MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNMC 3A
Lời Chúa: Ga 4, 5-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ
Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp.
Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ
thứ sáu. Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà
cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người
đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống
với tôi là người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với
người Samaria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa
ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc
bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống.” Người đàn bà nói:
"Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra
nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi
giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn
súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn
khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta
cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời.” Người
đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi
phải đến đây xách nước nữa.” Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi
trở lại đây.” Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng.” Chúa Giêsu nói tiếp:
"Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi,
và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã
nói đúng đó.” Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên
tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải
thờ ở Giêrusalem.”
Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ
người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem.
Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết,
vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những
kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là
những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn
thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý.” Người đàn bà thưa:
"Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ
loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là
người đang nói với bà đây.”
Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài
nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta
điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?"
Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi
người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã
làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và
đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời Thầy ăn.”
Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết.” Môn đệ hỏi nhau:
"Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?"
Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã
sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến
mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng
đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy
kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt.
Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã
khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ.”
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời
người đàn bà làm chứng rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm.”
Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ.
Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người
giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ
đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã
được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế.”
TRUYỆN KỂ
1. Tìm kiếm
Theo một truyền thuyết, thánh Tôma Aquinô kể về một người
đàn ông khi nghe nói về một con ngựa rất đặc biệt đã quyết tâm sở hữu nó cho riêng
mình. Ông đã đi du lịch khắp nơi trên thế giới. Ông đã tiêu toàn bộ tài sản của
mình. Ông đã dành cả cuộc đời mình để tìm kiếm con ngựa này.
Cuối cùng, ngay trước khi chết, ông nhận ra rằng mình đang
cưỡi trên con ngựa rất đặc biệt đó suốt thời gian qua! — Có lẽ bạn đang tìm kiếm
hạnh phúc? Đừng tìm đâu xa. Không nhìn xa hơn trái tim của chính bạn. Hãy mở rộng
tấm lòng của bạn với Chúa qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Người sẽ ban cho
bạn nước hằng sống mà Người đã hứa với người đàn bà bên giếng. Bạn không bao giờ
còn phải khát nữa.
2. Hóa giải cơn khát
“Linh hồn tôi Khát khao Thiên Chúa, Thiên Chúa hằng sống!”
Cách đây ít năm, người ta quan sát thấy một con tàu đi trên bờ biển phía bắc của
lục địa Nam Mỹ phát ra tín hiệu cấp cứu.
Khi được một tàu khác tiếp cận, các thủy thủ báo cáo là: “Chết khát!” Và câu trả lời là: “Vậy thì
đào nước lên. Bạn đang ở cửa sông Amazon.” Xung quanh họ đều có nước ngọt, và họ
không cần phải làm gì khác ngoài đào nước ở tầng dưới cát, thế mà họ vẫn chết
khát vì nghĩ rằng mình bị nước biển bao quanh. —
Người ta thường không biết Chúa và không biết Lời Ngài. Thật
đáng buồn khi họ phải chết vì thiếu hiểu biết! Trong Mùa Chay này, chúng ta được
mời gọi đến giếng nước và gặp gỡ Chúa Giêsu. Người sẽ ban cho chúng ta nước hằng
sống, là nước không bao giờ cạn vì nó phát xuất từ Chúa, và nó làm dịu cơn khát
sâu xa nhất của chúng ta – cơn khát Thiên Chúa.”Linh hồn tôi khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống!” Và đây
là Tin Mừng của ngày hôm nay. (Cha Lakra).
3. Nước là sự sống
Mohandas Gandhi, nhà khoa học lớn của Ấn Độ, đã chứng minh
cho cả thế giới thấy rằng một người có thể nhịn ăn trong một thời gian dài –
hàng tuần – nhưng thiếu nước thì sẽ chết.
Tôi không biết ai đó có thể sống thiếu nước được bao lâu,
nhưng chắc chắn không lâu lắm. Một em bé không uống nước sẽ bị mất nước và chết
chỉ sau vài ngày. Còn người lớn chỉ tồn tại lâu hơn một chút. Chất duy trì sự sống
duy nhất mà chúng ta cần thường xuyên hơn nước là không khí. Vậy nước là điều cần
thiết cho sự sống. Theo một nghĩa nào đó, nước là sự sống. Ở đâu không có nước,
ở đó không có sự sống.
Cây xương rồng, lạc đà, cây cỏ trong sa mạc có thể thích
nghi với điều kiện thiếu nước, nhưng không có bất kỳ sinh vật sống nào trên
trái đất này có thể sống mà không có nước. – “Nước là sự sống.” Thiếu nước là chết. Khát là đối diện với cái chết.
* Không
có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu dùng nước và cơn khát để giáo huấn về đời sống
thiêng liêng.
4. Trở thành ngón tay
Nhà thần học rất được kính trọng Karl Barth treo một bức
tranh về cảnh Chúa chịu đóng đinh trên tường phòng làm việc của ông do họa sĩ
Matthias Grunewald vẽ.
Trong bức tranh có hình ảnh của ông Gioan Tẩy Giả. Họa sĩ
vẽ chân dung Gioan Tẩy Giả chỉ tay vào cây thánh giá của Chúa Giêsu ở chính giữa
bức tranh. Người ta nói rằng khi Barth nói chuyện với một vị khách nào đó về
công việc của mình, ông thường hướng họ đến Gioan Tẩy Giả trong bức tranh và
nói: “Tôi muốn trở thành ngón tay đó.”
Barth muốn hướng mọi người đến với Chúa Kitô.
* Hướng
người ta đến với Chúa Kitô là nhiệm vụ quan trọng của chúng ta với tư cách là
dân của Ngài. Tin Mừng hôm nay nói về một trong những nhà truyền giáo hiệu quả
nhất đã từng sống, một phụ nữ.
5. Mong muốn
Có một bộ phim hoạt hình mà tôi đã xem trước đây, trong đó
có một cậu bé quỳ bên giường đọc những lời cầu nguyện trước khi đi ngủ. Cậu cầu
nguyện: “Lạy Chúa, như Ngài biết, thứ hai
là ngày đầu tiên con đi học. Con hy vọng Ngài sẽ không mất dấu con trong đám
đông. Amen.” Sau đó, cậu leo lên giường. Nhưng suy nghĩ trong một phút, cậu
lại bò ra ngoài và thêm vào lời cầu nguyện của mình: “Ôi, nhân tiện, Chúa ơi, con sẽ là người mặc quần soóc đỏ và áo phông đồng
phục.”
* Giống như cậu bé này, người phụ nữ trong câu chuyện hôm
nay cũng cần người nào đó nhìn nhận mình. Chị đã đánh mất cuộc sống của chính
mình và mong muốn Chúa Giêsu đón nhận chị.
6. Dám khác biệt
Hãy dám khác biệt trong mọi lĩnh vực của cuộc đời bạn. Dám
đứng một mình. Dám đứng lên bảo vệ niềm tin của mình, ngay cả khi đám đông xung
quanh bạn có thể đi theo hướng khác. Dám làm một kẻ dại dột vì Chúa Kitô.
Với Lời Chúa và quyền năng của Thánh Thần, hãy dám trở
thành một chiến sĩ cho Chúa Kitô. Hãy dám bước theo dấu chân của Chúa chúng ta,
Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và Con Người. Hãy dám vác thập tự giá và đi
theo Chúa Giêsu bất cứ nơi nào Người dẫn dắt bạn. Dám là một Kitô hữu thực sự với
một xác tín mạnh mẽ. Dám nói “không” với những thú vui nhất thời mà thế gian
mang lại. Dám nói với người khác về Cha trên trời của bạn. Dám đứng lên vì sự
thánh thiện, thuần khiết và toàn hảo như một chú chim bồ câu, bất kể điều gì xảy
ra (Judy Sara Mathew).
7. Làm điều không thể
Một câu chuyện đáng kinh ngạc về quyết tâm và thành công
được thuật lại về Musa Alami, một quý ông người Ả Rập tốt nghiệp tại Đại học
Cambridge. Ông đã làm cho sa mạc Giuđê nở hoa như đóa hồng.
Ông đã vượt qua sông Giôđan đến rìa thành Giêricô, rồi đến
sa mạc rộng lớn, hoang vắng và khô cằn của thung lũng Giôđan. Ngoại trừ một vài
ốc đảo, không có gì được trồng trọt ở vùng đất nóng và cằn cỗi này. Mọi người đều
nói rằng không thể trồng trọt gì được vì không thể mang nước đến nơi này. Musa
hỏi: “Còn việc khai thác nước ngầm thì
sao?”
Mọi người cười to và nói: “Có ai nghe nói về một điều như vậy trong sa mạc này không?” Không
có nước dưới sa mạc nóng bỏng đó, và trong nhiều thời đại nó được bao phủ bởi
nước Biển Chết; và bây giờ cát đầy muối, càng làm tăng thêm sự khô cằn của nó.
Musa Alami quyết định rằng ông có thể tìm thấy nước ở đó. Một vài người tị nạn
nghèo khó từ Trại tị nạn Giêricô gần đó đã giúp ông trong việc đào bới. Họ đào,
không phải bằng thiết bị máy khoan nào, mà bằng cuốc và xẻng.
Ngày qua ngày, tháng qua tháng họ đào. Họ đào trong sáu
tháng, rồi một ngày nọ, họ thấy cát bên dưới ẩm ướt, và cuối cùng nước ngọt
phun ra.
* Những
người Ả Rập tụ tập ở đó, không cổ vũ mà khóc lên vui mừng. Nước đã được tìm thấy
trong sa mạc cổ đại! (John Rose trong John’s Sunday Homilies; do cha Botelho
trích dẫn).
8. Tìm kiếm
Một lần nọ, có một người phụ nữ phải đi mỗi ngày một dặm để
lấy nước từ một cái giếng công cộng. Trải qua năm tháng, chị trở nên mệt mỏi với
việc đi lấy nước. Bất kể chị ta mang bao nhiêu nước về nhà, kết cục vẫn là một
thùng rỗng.
Rồi một ngày nọ, chị đang làm một số công việc trong khu
vườn ở nhà thì ở một góc xa, chị bắt gặp một phiến đá lớn nằm trên mặt đất. Tấm
đá bị rêu bao phủ hoàn toàn. Sự tò mò của chị bùng lên. Chị dọn sạch rêu sau đó
dỡ phiến đá lên và phát hiện ra một cái giếng xinh xắn. Chị ấy đã rất vui mừng
và xúc động.
* Chị sẽ
không bao giờ phải thực hiện hành trình mệt mỏi để đi lấy nước ngoài giếng nữa.
Bây giờ chị đã có một nguồn nước vô tận của riêng mình. (Flor McCarthy in New
Sunday và Holyday Liturgies).
9. Phá bỏ rào cản
Một số bạn có thể đã đọc cuốn sách Trại súc vật của George
Orwell. Câu chuyện hơi giống một chuyện cổ tích nhưng nó thực sự là một phê
phán về một chế độ chính trị nào đó. Cuốn sách kể câu chuyện về cách những con
vật trong một trang trại đuổi người nông chủ tên Jones và gia đình ông ta và tiếp
quản trang trại.
Đàn vật muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn và bắt đầu có
cái nhìn cách mạng rằng tất cả các loài động vật đều bình đẳng và tất cả tài sản
đều phải được chia sẻ. Chẳng mấy chốc, những con lợn nắm quyền kiểm soát và một
trong số chúng, Napoléon, trở thành thủ lĩnh của tất cả các loài động vật.
Nhưng rồi hắn ta trở thành bạo chúa. Bình đẳng giữa các loài động vật bị loại bỏ,
và những con lợn lợi dụng và lạm dụng những con vật còn lại trong trang trại.
Những con lợn lợi dụng những con vật khác cho mục đích
riêng của chúng và loại bỏ chúng nếu chúng không còn hữu ích. — Đôi khi chúng
ta đều biết cảm giác bị người khác lợi dụng và lạm dụng là như thế nào. Một thực
tế ai cũng biết là khi người ta cảm thấy mình bị lạm dụng và bản chất tốt của họ
bị bóc lột, họ trở nên nghi ngờ, cay đắng và thận trọng vì sợ bị tổn thương lần
nữa. Rào cản được dựng lên, các mối quan hệ bị xa lánh, bởi vì họ không bao giờ
muốn bị lợi dụng và lạm dụng nữa.
* Tin Mừng
hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã dỡ bỏ hàng rào định kiến như thế nào để
cứu một phụ nữ tội lỗi.
10. Tình yêu là gì
Trong câu chuyện về cuộc đời tôi, Helen Keller đã viết về
cách mà giáo viên của cô, Annie Sullivan, đã dẫn dắt cô khi cô còn là một đứa
trẻ thoát khỏi thế giới tăm tối mà chứng mù và điếc đã giam cầm cô.
“Tôi buổi
sáng lần đầu tiên tôi hỏi ý nghĩa của từ Tình yêu. Đây là thời điểm trước khi
tôi biết nhiều từ… Cô giáo của tôi đã cố gắng hôn tôi nhưng lúc đó tôi không muốn
ai hôn mình ngoại trừ mẹ tôi. Cô Sullivan vòng tay nhẹ nhàng quanh tôi và đánh
vần vào tay tôi, CÔ YÊU Helen. Tôi hỏi: “Tình yêu là gì?” Cô ấy kéo tôi lại gần
cô hơn và nói: “Nó ở đây,” chỉ vào trái tim tôi, lần đầu tiên tôi cảm nhận được
nhịp đập của nó…‘
Bạn không
thể chạm vào tình yêu, nhưng bạn cảm nhận được sự ngọt ngào mà nó tràn ngập
trong mọi thứ. Nếu không có tình yêu, bạn sẽ không hạnh phúc. ’…” (J. Maurus in Source Book of Inspiration; do cha Botelho trích dẫn).
11. Nhịp cầu thiêng
liêng
Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền
Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời
sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối
liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên Chúa.
Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức
Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của
Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người
chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.
12. Đại bàng không biết
mình
Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng.
Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con.
Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà
như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng
khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những
đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: "con gì mà khủng khiếp quá nhỉ.””
“Đó là đại
bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là
gà.” Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho
đến chết.
Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng
kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn
còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm
ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn
dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức,
giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không
bao giờ gặp được Chúa.
13. Cái khát của tâm
hồn
Một người sắp chết khát trong sa mạc nhưng vẫn cố lết về
phía trước, mong tìm thấy được một giọt nước. Mắt anh sáng lên khi thấy từ đằng
xa có một cái túi da. Một túi nước chăng? Ở sa mạc, nước là sự sống. Hai tay
run rẩy, anh chụp lấy cái túi, mở ra… và thấy một nắm vàng bạc, châu báu. Hoàn
toàn thất vọng, anh ngã gục xuống, buông xuôi. Trong sa mạc anh mới thấy được
là một giọt nước còn quí hơn vàng bạc.
Trước khi đưa Dân Chúa vào Đất Hứa, Chúa để cho họ đi qua
sa mạc. Trong sa mạc, họ chịu lột sạch mọi ảo tưởng để trở về với con người thật
của mình, và phải đứng trước một chọn lựa mang tính sống còn của đời người: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để
làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng
tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3).
Cái khát của thân xác cho thấy phần nào cái đói từ đáy sâu
tâm hồn
14. Được thỏa lòng
Thầy Léon là một tu sĩ dòng Phanxicô được bề trên phân
công may áo cho các tu sĩ, và thầy tận tụy với công việc đến hơi thở cuối cùng.
Khi sắp lìa trần, thầy nói với anh em đang đứng xung
quanh: “Xin anh em đem cho tôi chiếc chìa
khoá mở cửa thiên đàng.” Nghe thế, anh em đem đến cho thầy cuốn sách “Chìa khoá mở cửa thiên đàng.” Nhưng thầy
lắc đầu. Thế rồi anh em thay nhau đưa đến các vật dụng đạo đức, các sách tu đức,
v.v… thầy vẫn lắc đầu. Cuối cùng, có một tu sĩ hiểu được ý của Léon nên chạy đi
tìm cây kim khâu thầy vẫn dùng từ nhiều năm qua.
Mắt Léon sáng lên, thầy nở một nụ cười khi trông thấy cây
kim và nói: “Đây chính là chìa khóa mở cửa
thiên càng của tôi”, rồi thầy tắt thở.
Thầy Léon được no thoả ngay từ cuộc sống thường ngày, khi
âm thầm chu toàn mọi bổn phận của mình. Lương thực thầy dùng là lương thực của
Đức Kitô, “là thi hành ý muốn của Đấng đã
sai Thầy” (Ga 4,34).
15. Cái vòng luẩn quẩn
Một linh sư Ấn độ phái nhiệm nhặt rất hài lòng với sự tiến
bộ của một đệ tử. Nghĩ rằng anh không còn cần đến sự dìu dắt của mình nữa, thầy
lặng lẽ bỏ đi để lại cho người đệ tử một túp lều tranh xiêu vẹo và một chiếc áo
rách. Sáng nào, người đệ tử này cũng ra sông Hằng để thanh tẩy theo đúng nghi
thức, và giặt chiếc áo rách - tài sản duy nhất của anh.
Một hôm, thấy chiếc áo rách bị chuột cắn nát, anh phải vào
làng xin một chiếc áo cũ khác để mặc. Nhưng số phận chiếc áo đó cũng vậy. Thế
là anh xin một con mèo về nuôi để trị chuột. Nhưng các vấn đề bắt đầu theo nhau
nảy sinh: Con mèo không quen với những món ăn nhiệm nhặt của anh nên anh phải
xin thêm cơm và bánh tương đối ngon hơn; xin hoài cũng bất tiện, anh xin hẳn một
con bê để nuôi lớn thành bò mà lấy sữa nuôi mèo; nuôi bò mất nhiều công cắt cỏ,
kín nước, làm mất giờ cầu nguyện nên anh thuê một chú bé để chỉ chăm lo cho con
bò.
Bò mẹ sinh bò con, phải thuê thêm người, nên anh nuôi thêm
nhiều bò cho khỏi phí nhân công. Chẳng bao lâu sau anh đã làm chủ một nông trại
giàu có, lại thấy cần một người để chia sẻ ưu tư và gánh nặng cai quản cái sản
nghiệp đồ sộ ấy, anh quyết định cưới vợ, và sinh con …
Mười năm sau, vị linh sư trở lại nhưng không thể nào tìm
được túp lều xiêu vẹo ngày xưa. Khi gặp người học trò cũ, ông hỏi: “Sao lại thế này?”, anh đệ tử kể lại câu
chuyện, bắt đầu từ chiếc áo rách!
Chiếc áo rách đó là cái vòng đói khát luẩn quẩn trong đời
người đi tìm một hạnh phúc không có Thiên Chúa.
16.”Có Chúa ở trong
tôi không?”
Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một
người vô thần như sau:
- Anh đã
theo đạo Công giáo rồi sao?
- Vâng,
nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.
- Vậy xin
hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào?
- Rất tiếc
là tôi quên mất chi tiết này.
- Thế khi
chết ông ta được bao nhiêu tuổi?
- Tôi
cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.
- Vậy ông
ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?
- Tôi
không biết.
- Quả thật
anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.
- Anh nói
đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều
mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng
say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu
của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ
con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.
Thế mà
bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã
tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi
sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã
làm cho tôi, và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.
“Có Chúa ở
trong tôi không?”
17. Chạy theo ảo tưởng
Triết gia người Đức, ông Schopennauer khám phá: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con
người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm
nay, rồi ngày mai lại đói.”
Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát
chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi
cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao… cứ tiếp diễn mãi
không cùng”… lại càng ngày càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu
dày vò, thiêu đốt vì sự ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt
nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát
của ngài, mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người
mẹ thánh thiện là Mônica, Augustinô mới tìm được Thiên Chúa là Đấng đem lại cho
ngài niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan hỉ, Augustinô thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì
thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong tay Ngài.”
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ
Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống
nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người
ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4,13-14)
18. Cơn khát đam mê
Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên
thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:
– Ở trần
gian con làm nghề gì?
– Anh ta
thưa: Con làm nghề đào vàng.
– Thánh
Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
–Thưa
ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo
loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.
Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên
đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng
đang ở thiên đàng.
Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ
vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào
vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn
quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên.
Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem
sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả
ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi!
Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn
đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng
thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn
xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục.
Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả
hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.
19. Món quà vô giá
Có một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc
trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất
cả tấm lòng biết ơn ông ta uốn từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả.
Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ
cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính
bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong
ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng
đại.
Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước
kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối…
Chờ cho người Ả Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ
của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng nếu
tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Ả
Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.
Người Ả Rập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món
quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho anh món quà vô
giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người.
20. Cho thì có phúc
hơn là nhận
Ngày nọ có một người ăn xin đi khắp làng, nhưng anh chẳng
xin được gì vì nhà nào cũng đóng cửa. Anh bèn tìm cách đi ra khỏi ngôi làng vào
giữa lúc ban trưa nắng đổ. Mồ hôi nhễ nhãi, mệt mỏi vì đói, chán nản vì bị từ
chối, anh ngồi xuống bên vệ đường. Bên cạnh anh là một cái túi chứa một nắm hạt
bắp. Anh dự định chiều tối về nhà sẽ đem ra xay thành bột, làm một cái bánh ăn
cứu đói.
Thình lình mắt anh sáng lên khi nhìn thấy chiếc xe của vua
từ đằng xa đang tiến lại gần. “Nhà vua nổi tiếng là một người tử tế”, anh tự
nghĩ. “Ngài sẽ không lỡ đi qua mà chẳng cho mình cái gì.” Rồi anh chuẩn bị đứng
lên, chờ đợi hồi hộp. Anh thật khoái chí khi thấy chiếc xe của vua từ từ chậm lại.
Quả vậy, nó đã ngừng lại ngay chỗ anh đứng với đôi bàn tay giang rộng chờ đợi
xin xỏ.
Cửa xe mở ra và nhà vua xuất hiện. Người ăn xin cúi gập
người xuống dự tính nói: “May phước thay,
thưa hoàng đế. Xin ngài bố thí cho tôi tớ hèn mọn này một ít tiền.” Nhưng
nhà vua đã chìa tay ra trước và nói: “Xin bạn dành cho vua một hạt bắp nhỏ được
không?” Người ăn xin hoàn toàn ngỡ ngàng trước biến cố lạ lùng này. Lấy lại
bình tĩnh, anh nói: “ Thưa hoàng đế, xin
vâng lệnh.” Rồi mở chiếc bị ra, liếc nhanh vào trong, anh nhặt lấy một hạt
bắp nhỏ nhất, và đưa cho vua với lời xin lỗi rằng đây là tất cả lương thực anh
có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khỏi, để lại cho người ăn xin một cảm
giác trống rỗng và thất vọng ê chề.
Suốt ngày ngồi ăn xin bên bên vệ đường mà chẳng được gì,
khi hoàng hôn xuống anh trở về nhà buồn bã, mệt mỏi và đói bụng. Ngay khi về đến
nhà anh bắt đầu làm bếp, đổ hết số hạt bắp trong bị ra. Khi kiểm tra lại những
hạt bắp, anh giật mình khám phá thấy rằng hạt bắp nhỏ nhất đã được thay thế bằng
một hạt vàng ròng cùng cỡ. Trong nuối tiếc, anh ngồi than thở rằng nếu biết được
món quà nhà vua muốn cho, anh đã cho vua tất cả số bắp đang có trong bị. Nếu
làm như thế, bây giờ anh đã trở thành một người giàu có và không bao giờ phải
đi ăn xin nữa!
21. Thiên Chúa là nguồn
sự sống
Ông Tổng thống Mitterand là nhà lãnh đạo của nước Pháp
trong 14 năm và được dân Pháp quý mến, xem ông như một thần tượng. Trong những
năm tháng cuối đời, ông có dịp nhìn lại cuộc đời đã qua và viết lại những dòng
nhật ký đáng để chúng ta suy nghĩ. Trang nhật ký có tựa đề ‘Tôi đang chuẩn bị cái chết’. Ông viết: “Lúc nhỏ, tôi được dạy phải đọc kinh, nhưng thay vì đọc kinh tôi lại
thích thinh lặng và suy niệm. Tôi suy niệm về tôi, về Thiên Chúa, và về ý nghĩa
cuộc đời. Lắm khi tôi tự hỏi không biết tôi có tin Thiên Chúa hay không, nhưng
từ trong thâm tâm, tôi luôn bị thúc đẩy phải tin Ngài. Nếu không tin, cuộc sống
của tôi sẽ trở nên vô nghĩa và hoàn toàn trống rỗng.”
Ông viết tiếp: “Ai
mà không cảm thấy khao khát muốn vươn tới hạnh phúc và muốn được sống mãi. Một
lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy lẻ loi và bị mất hút trong thế giới vĩnh hằng.
“Pascal
đã nói chính xác rằng sẽ đến lúc thân xác mong manh của bạn bị ngã đổ. Bạn sẽ
chết, sẽ không còn hiện hữu nơi trần thế này nữa. Nhưng từ trong thâm sâu, bạn
vẫn có ước muốn được trường tồn, được sống và được sống mãi. Niềm khao khát đó,
không một thứ gì ở trần gian này có thể lấp đầy.”
22. Hạnh phúc trong
tay ta
Ngày xưa, có một đạo sĩ dạy cho các môn sinh bí quyết để
tìm tới hạnh phúc. Ông giảng dạy rất uyên bác. Một thanh niên bặm trợn đến gặp
ông và thách đố: “Thưa Thầy, Thầy giảng dạy
rất thâm thúy, nhưng tôi chỉ xin hỏi Thầy một câu thôi. Trong tay tôi là một
con chim, đố thầy biết đó là con chim sống hay con chim chết?”
Câu hỏi ma mãnh của chàng trai nhằm gài bẫy vị đạo sỹ vì
trong tay anh ta, con chim đang còn sống sẽ bị anh ta bóp chết, nếu vị đạo sỹ
trả lời rằng đó là con chim sống. Nhìn nét mặt quỷ quyệt của người thanh niên
trẻ, vị đạo sĩ nói thẳng vào mặt anh ta: “Con
chim này sống hay chết là do anh.”
Ông nói tiếp: “Cũng
vậy, hạnh phúc có đến được với chúng ta hay không còn tùy thuộc vào sự lựa chọn
tự do của mỗi người.”
Trong mùa chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối để trở với
Chúa và với nhau. Chúng ta hãy hướng về Thập giá Đức Giêsu, kín múc cho mình nguồn
nước sự sống để tâm hồn chúng ta luôn được an bình và vươn đạt tới hạnh phúc
trường cửu.
23. Khát vọng vô biên
của con người
Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc
phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con của một người
theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…
Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong
lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh
Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng
nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối,
ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý.”
Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển
sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu,
tôi đã gặp Ngài.” Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm
bán chạy nhất (best-seller)…
24. Những Sinh Vật của
Thói Quen
Có hai vợ chồng bác nông dân kia cảm thấy cần phải sửa chữa
cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì dột, một vài tấm ván ghép tường bị mục,
còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên bị đọng nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi
chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị phá hủy trước khi mùa đông đến.
Sáng hôm sau, trước khi đi phố mua thêm đồ dùng, bác cho
gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở phòng hờ nhỡ khi thời tiết đổi xấu. Mà
thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ. Nhiệt độ xuống thấp dần, mưa bắt đầu rơi
và nước mưa chuyển thành băng. Bác nông dân cảm thấy rất vui khi nghĩ mấy con vật
giờ đang được ấm áp trong căn chuồng mới. Khi bác về tới nhà liền đi thẳng ra
chuồng thú vật, nhưng căn chuồng trống rỗng chẳng có con vật nào cả. Bác vội chạy
ra ngoài tìm kiếm và thấy một cảnh thật lạ lùng. Đó là mấy con vật trông thật tội
nghiệp, chúng nép vào với nhau và trên lưng chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng
thời chúng lại đứng trên cái nền chuồng cũ, cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của
Thói Quen.
Chúng ta thờ Chúa không phải chỉ làm những việc theo thói
quen như đi nhà thờ hay đọc kinh nhưng phải thờ Chúa trong cả đời sống chúng
ta.
CNMC 3B
Lời Chúa: Ga 2, 13-25
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Lễ Vượt Qua của dân Do-thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem.
Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những
người ngồi đổi tiền bạc, Người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn
cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ.
Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của
họ và bảo những người bán chim câu rằng: "Hãy đem những thứ này đi khỏi
đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán." Môn đệ liền nhớ lại câu
Kinh Thánh: "Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi."
Bấy giờ người Do-thái bảo Người rằng: "Ông hãy tỏ cho chúng
tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy."
Chúa Giêsu trả lời: "Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội
trong ba ngày Ta sẽ dựng lại." Người Do-thái đáp lại: "Phải bốn mươi
sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày
ư?" Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người.
Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ
lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói. Trong thời gian Người ở
lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những
phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất
cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều
trong lòng người ta.
TRUYỆN KỂ
1. Tìm kiếm một giá trị không thay đổi
Trong một buổi diễn thuyết, một giáo sư mở đầu bài thuyết trình
bằng cách giơ lên một tờ 100 đôla và hỏi: "Nếu tôi tặng tờ 100 đôla này
cho một trong số các bạn, có ai muốn nhận không?" Rất nhiều cánh tay giơ
lên trong hội trường.
Giáo sư nói tiếp: "Tôi sẽ tặng cho một người nhưng đợi sau
khi tôi làm đieu này đã nhé."
Ông vò nhàu tờ đôla rồi hỏi: "Còn ai muốn lấy nó
không?"
Nhiều cánh tay vẫn giơ lên. Ông lại ném tờ tiền giấy xuống chân
mình, chà đạp một cách không thương tiếc. Rồi ông nhặt tờ tiền nay đã trở nên
nhàu nát và dơ bẩn hỏi tiếp: "Còn ai muốn lấy tờ 100 đôla này không?"
Nhiều cánh tay vẫn giơ lên. Lúc này ông mới cất giọng ôn tồn:
"Các bạn đã nghiệm ra bài học giá trị này chưa? Dù đồng tiền có bị giày
xéo hay vò nát, các bạn vẫn muốn có nó bởi vì giá trị của nó không thay đổi hay
giảm đi. Nó vẫn là tờ 100 đôla"
------------------
🌀 Dù cuộc sống có quăng bạn xuống đất, vò nhát bạn, khiến
bạn trở nên yếu đuối và sợ hãi cũng đừng bao giờ tự đánh mất giá trị của bản
thân. Cuộc đời này không hề hoàn hảo và chúng ta cũng vậy. Quan trọng là hãy
học cách tha thứ cho bản thân và đứng dậy sau vấp ngã
🌀 Không ai và không điều gì có thể thay đổi giá trị của
chúng ta. Chúng ta hoàn toàn có thể chọn lựa cách chúng ta cảm nhận.
2. Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy Đức Giêsu nổi giận. Ngài
bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng lẽ trước những lời cáo
gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học hiền lành và khiêm
nhượng.
Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi để đuổi những người
buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những người đổi bạc!
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà
Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi Thánh này trở thành cái chợ.
Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm.
Chính tình yêu đã khiến Đức Giêsu nổi giận. Có những đền thờ thánh
thiêng đã trở nên phàm tục. Đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra khỏi đây!" Chúa Giêsu hôm nay cũng
giận dữ như thế khi thấy con người của chúng ta bị vấy bẩn, đền thờ của Ba Ngôi
bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta cũng là những đền thờ. Có nhiều đền thờ bị
xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ... Mùa chay là mùa tu sửa các đền thờ, để mọi
đền thờ đều dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
3. Nhà của Cha Tôi
Người mẹ có 4 người con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi,
nhất là vào lúc cha của chúng đi làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ
chơi ngổn ngang như thể cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ, bà tìm ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia
đình của các con bà: Bà chỉ nói đơn giản: “Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn
nhà sạch sẽ để đón cha chúng con về." Không đầy năm phút mọi đồ chơi được
cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách thực hành ít nhất một ý tưởng
được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu nói về “Nhà Cha Tôi."
4. Bài học khôn ngoan
Một thiếu niên đi xem đấu bóng với cha sở, nói với cha rằng anh
không thích vâng phục. Anh nói: "Thưa cha, con rất ghét ai bảo phải thế
này, thế nọ. Không có tự do trong việc này."
Cha sở không nói một lời. Liền sau đó, họ gặp một biển chỉ đường
chỉ hướng đi tới sân chơi. Cha sở làm như không thấy. Cậu bé la lên:
"Chúng ta đi sai đường! Thưa cha, cha không thấy dấu đằng kia à!"
Cha sở bình tĩnh trả lời: "Cha thấy chứ, nhưng cha nghĩ
đường này xem ra tốt hơn, và cha ghét bị chỉ bảo đi đường này đường kia bởi một
biển chỉ đường cũ kỹ. Nó không cho cha tự do hành động."
Cậu bé nhận ra bài học, và họ vòng trở lại đi vào hướng sân
chơi.
5. Tuân giữ lề luật
Một người Do Thái nọ muốn sống thánh thiện nên đến tham khảo ý
kiến của một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi:
- Từ trước tới nay anh sống thế nào?
- Rất tốt, thưa ngài.
- Anh nói "rất tốt" nghĩa là sao?
- Nghĩa là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên
Chúa vô cớ, tôi không tục hóa ngày sabát, tôi không bất kính với cha mẹ, tôi
không giết người, tôi không bất trung với vợ tôi, tôi không trộm cắp, tôi không
làm chứng dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người khác.
Vị Rabbi nói:
- Tôi hiểu. Anh đã không vị phạm giới luật nào cả.
- Ðúng vậy, thưa ngài.
Nhưng vị Rabbi hỏi tiếp:
- Nhưng anh có tuân giữ các giới luật không?
- Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ?
- Nghĩa là: anh có tôn kính tên Chúa không? Anh có thánh hóa
ngày sabát không? Anh có hiếu kính cha mẹ không? Anh có tôn trọng và bảo vệ
mạng sống của người khác không? Lần gần đây nhất anh nói với vợ rằng anh yêu
nàng là khi nào? Anh có chia sẻ của cải cho người nghèo không? Anh có bảo vệ
danh dự và tiếng tốt cho ai chưa? Anh có thường giúp đỡ người khác không?
Người Do Thái ra đi và suy nghĩ miên man. Từ trước tới nay anh
chỉ nhìn các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố gắng của anh chỉ là
làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng nay vị Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới
hẳn: không chỉ cố tránh vi phạm luật, mà còn phải làm những việc tốt mà luật
chỉ dạy.
6. Xua đuổi người hay xua đuổi Chúa ra khỏi đền thờ?
Mahatma Gandhi, vị thánh của dân tộc Ấn Ðộ, trong nhật ký tự
thuật của mình, ông kể rằng khi còn theo học ở Nam Phi, ông rất thích đọc Kinh
Thánh, đặc biệt là "Bài giảng trên núi." Ông xác tín rằng Kitô giáo
chính là giải đáp cho hệ thống đẳng cấp đã gây thương tổn cho đất nước Ấn Ðộ
của ông từ bao thế kỷ. Ông thực sự nuôi ý định trở thành Kitô hữu.
Ngày kia, ông vào một nhà thờ để dự lễ và nghe giảng. Người ta
chặn ông lại ở cửa nhà thờ và nhẹ nhàng cho ông hay rằng nếu ông muốn dự lễ,
xin mời ông đến một nhà thờ dành riêng cho người da đen.
Ông ra đi và không bao giờ trở lại.
7. Để đền thờ là đền thờ
Lời nguyện sau đây được viết trên cửa một nhà thờ nọ:
Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ rộng để có thể đón tiếp
mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em nhưng cũng đủ hẹp để có
thể ngăn chận mọi kiêu căng, ganh tị, bất hoà.
Xin làm cho ngưỡng cửa này đủ phẳng để buớc chân của trẻ thơ và
những người lầm đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã.
Xin làm cho nhà này là nhà cầu nguyện và là cổng dẫn vào Nước
Chúa.
8. Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
"Tiếng chim hót trong bụi mận gai" là một tiểu thuyết
được đóng thành phim mà tác gỉa là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin Lành.
Khi viết cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quang điểm của đạo Tin Lành để
phê phán luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này
cũng là cơ hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào
trong cuộc sống cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội.
Câu chuyện về một linh mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là một linh
mục trẻ nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có khá nhiều
ưu điểm, có sức cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng
muốn được nổi danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ Cha Ráp, có một
bà già quí phái giàu có. Bà quí mến Cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại,
nên tình yêu đã biến thành thù hận.
Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn bà này có
sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết, bà đã
làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo Hội Công Giáo,
với điều kiện duy nhất là Giáo Hội phải cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản đó.
Cách trả thù của bà quí phái giàu có đã thành công: Cha Ráp dần dần được cất
nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo Hội.
Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà Cha quản lý đã làm cho đời
sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối cùng Cha đã sa ngã vào các
đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện "sống độc thân vì Nước Trời"
mà Cha đã khấn hứa.
9. Tiền vào nhà, Chúa đi ra:
Ở bên Pháp, có đôi vợ chồng bác nông dân kia làm tá điền cho một
ông bá tước giàu có. Đội vợ chồng này tuy nghèo nhưng lại có lòng đạo đức. Mỗi
buổi sáng, khi vừa nghe tiếng chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã lập tức thức
dậy và mau mắn đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng. Sau lễ, họ trở
về nhà, vội ăn sáng rồi vác cuốc ra đồng làm việc và mãi đến chiều tối mới trở
về nhà. Ngày nào hai vợ chồng cũng đều đọc kinh tối chung với nhau trước khi
ngủ. Họ luôn sống vui vẻ hòa thuận và chưa hề nghe họ cãi vã to tiếng với nhau
bao giờ. Họ được mọi người trong làng khen ngợi bình chọn là một gia đình đạo
đức tiêu biểu và họ trở thành gương sáng cho các đôi vợ chồng khác học tập noi
theo.
Ông chủ đất này muốn thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá
điền kia có thật hay không. Một hôm, ông sai gia nhân mang một túi đựng 100
đồng tiền vàng đến bí mật để ngay trước cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền.
Sáng hôm ấy, khi mở cửa đi lễ như thường lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng
được ai đó để trước cửa nhà. Thế là đôi vợ chồng thôi không đi lễ nữa và vội
đóng cửa lại để đếm tiền. Đếm đi đếm lại mãi, đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn
uống và không ra đồng làm việc. Sau khi đã nắm vững số tiền đang giữ, hai vợ
chồng bàn định tìm chỗ để cất giấu cho an toàn.
Mỗi người một ý không ai chịu ai cả, và lần đầu tiên họ đã cãi
vã nhau. Cuối cùng họ nhất trí sẽ để túi tiền ngay dưới gối và nằm đè lên cho
chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn khống yên tâm, nên cả hai đều không dám rời xa chiếc
giường. Thực đúng như lời Chúa đã phán: "Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng
ngươi cũng ở đó" (Mt 6,21).
Lúc nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số tiền kia đến dộo ăn uống ngủ
nghĩ thất thường. Cũng từ hôm ấy, hai vợ chồng chẳng còn tha thiết cùng đi dâng
lễ mỗi sáng và đọc kinh tối chung với nhau nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ
có ngày chủ nhân túi tiền đến đòi lại số tiền ấy.
Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều suy nhược và bị cảm
ho đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng của đôi vợ chồng này,
một hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói chuyện, ông đã ôn tồn giải
thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh của họ. Ông cũng tường
thuật cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để chứng minh lời Đức Giêsu
nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ!..Anh em không thể vừa làm tôi Thiên
Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và lời thánh Phaolô: "Lòng
yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ" (1 Tm 6,10).
Ông bá tước đã thuyết phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng
trả lại túi vàng cho ông không thiếu đồng nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá
điền đã tìm lại được sự bình an trong tâm hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm
đọc kinh dự lễ để thờ phượng Chúa, phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan
Phòng, và thực thi giới răn yêu thương như Đức Giêsu đã dạy.
10. Buôn thần bán thánh
Trên tờ tuổi trẻ Online Thứ Năm, 12/3/2020, có bài viết của tác
giả Trần Thị Thanh với nhan đề: "Rãi tiền lẻ khắp đền chùa!" Trong đó
có đoạn viết: "Cứ mỗi dịp gần tết kéo dài đến tháng ba (âm lịch) hằng năm,
cổng chùa lại léo xéo cảnh đổi tiền lẻ vào lễ chùa. Những tờ tiền 200, 500 đồng
được đổi thành từng cục như viên gạch mộc, cứ "10 ăn 8 hoặc 10 ăn 7."
Tức 100.000 đồng tiền chẵn thì đổi được 70.000 hoặc 80.000 đồng loại chuyên
dùng để "sắp lễ" (200, 500 đồng). Không biết bao nhiêu triệu đồng
tiền "bé" được quay vòng cả năm không chán: người đi lễ đổi tiền,
tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào chân tay, nách, đùi của các pho tượng đẹp
nổi tiếng của quốc gia; rồi nhà chùa xách túi hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem
ra đổi ngoài cổng chùa. Và vòng quay lại bắt đầu.
Chỉ xót thương cho văn hóa đi chùa và xót thương cho "viên
ngọc điêu khắc và kiến trúc" chùa Mía đã bị những đồng tiền của người
"đồng cốt quàng xiên" làm mất vẻ trang nghiêm, thanh tịnh. Du khách,
người có liêm sỉ đều thấy xao xác cái cảm giác thần linh bị báng bổ. Ông ngọc
hoàng, ngài thiên lôi, bà Liễu Hạnh, rồi đến ông Quan Công, bà bồ tát, 18 vị la
hán, tất tật đều bị ép ngồi ôm (hoặc trông nom)... tiền lẻ.
Đáng sợ, đã thành 'đại dịch' kinh niên, ở Bắc Ninh có đền thờ Bà
Chúa Kho, nạn sắp lễ bằng tiền rồi rải khắp di tích đã trở thành công nghệ. Dài
dằng dặc khu vực đường dẫn vào đền là chi chít biển quảng cáo cho dịch vụ đổi
tiền, sắp lễ. Níu kéo, chèn ép, lừa lọc, chửi bới cũng là bởi sắp tiền lẻ....
Cái lệ 'mua thần bán thánh' kiểu này diễn ra ở rất nhiều đền, chùa."
11. Yếu tố con người.
Paganini là một nhạc sĩ vĩ cầm nổi tiếng của Ý vào thế kỷ XIX.
Trong một cuộc trình diễn, ông linh cảm như có một điều gì bất ổn và khi nhìn
kỹ cây đàn, ông khám phá ra đó không phải là cây đàn quen thuộc đã từng đưa ông
lên đài danh vọng. Ông đứng lặng trong giây lát, rồi lên tiếng: Vì lý do kỹ
thuật, xin quý vị vui lòng chờ đợi trong giây lát, vì tôi đã cầm lộn cây đàn.
Nói xong, ông vào hậu trường bước thẳng đến nơi ông vẫn để cây đàn quen thuộc.
Ông bàng hoàng nhận ra có người đã đánh cắp cây đàn quý giá của ông và đã đặt
một cây đàn rẻ tiền thay thế vào đó.
Trong lúc còn bàng hoàng thì bỗng một ý tưởng loé lên trong đầu,
khiến ông mạnh dạn cầm lại cây đàn rẻ tiền kia mà bước ra sân khấu. Ông nói vơi
khán giả: Kính thưa quý vị, ai đó đã đánh cắp cây đàn quý giá của tôi, nhưng
trong buổi trình diễn này tôi muốn chứng minh cùng quý vị là vẻ đẹp và nét tinh
tuý của âm nhạc không nằm trong nhạc khí, nhưng hàm ẩn nơi chính con người của
nhạc sĩ. Phải yếu tố con người mới là quan trọng.
12. Tâm hồn trống rỗng
Người ta kể rằng: một người kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình
đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy người nhạc
sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn
hát nhưng không nghe có âm thanh nào cả. Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng,
môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả.
Người ấy rất đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ, thì thiên sứ nói:
"Ông không nghe thấy gì, vì không có gì để nghe cả. Những người trong nhà
thờ không tham dự vào buổi thờ phượng, mà chỉ dự phần vào hình thức thờ phượng
mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ
chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là
những loại người thờ Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá lâu
rồi.
13. Thánh Đường, điểm hẹn
Một giáo xứ miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có
một ngôi nhà thờ xây cất hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng
sát cạnh nhau. Khát vọng duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng
hoàng. Với sự hăng say bộc phát của những người nông dân, mọi người đã quảng
đại đáp lại lời kêu gọi của cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng
vấn đề cơ bản vẫn là: đâu là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ
mới. Người ở làng bên này thì muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình.
Người ở làng bên kia thì lại muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế
là hai bên cứ tranh luận, không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có
sẵn, vật liệu cũng không thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở
đâu.
Giữa lúc vấn đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán
trầm trọng đang đe doạ dân chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn
nghĩ đến việc chống hạn hán hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai
làng đều phải chịu cảnh đói khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách,
dân làng hai bên mới nghĩ đến nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân
chia lúa thóc rồi mang qua cứu trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng biên
kia cũng có một ý nghĩ tương tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên
này. Giữa đêm tối, không hẹn mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một
ý nghĩ và hành động. Không cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi,
họ đã hiểu nhau: Họ đặt những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau… Điểm gặp
gỡ của tình tương thân tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân
gọi là “đất thánh” và họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu
tiên xây cất ngôi nhà thờ mới của giáo xứ.
14. Người quản lý
Có những lần tôi đi chợ, len lỏi và đôi khi phải chen lấn để
vượt lên phía trước, vậy mà cũng có những lúc phải dừng lại. Quan sát kỹ, thì
không phải những người đi chợ làm cho sự lưu thông bị tắc nghẽn. Nhưng chính
những người ngồi mới làm cản trở lưu thông. Họ ngồi với một chướng ngại vật
phía trước, chiếm một khoảng không gian rộng cùng với những vật dụng trên đó.
Họ kêu mời những người đi ngang qua, ghé mắt vào những món hàng mà họ bày bán.
Nhưng bổng nhiên, có một sự náo động và lưu thông được dể dàng trở lại. Thì ra
xuất hiện bóng dáng một người, mặc bộ đồ đặc biệt, với chiếc băng vấn trên tay
áo. Đây là người trong ban quản lý chợ, anh ta đi để lập lại trật tự cho nơi
buôn bán.
Công việc đó cứ diễn ra mỗi ngày: Cứ có những người bán rong, và
cũng vẫn phải có người lập lại trật tự. Vì người ta chỉ biết tìm lợi ích riêng
tư mà không nhìn thấy những ích lợi chung, nên ban quản lý chợ cứ phải làm
việc, phải đi, phải dẹp, để lập lại trật tự.
Chúa Giêsu là người quản lý đền thờ, còn hơn thế nữa, Ngài còn
là chủ đền thờ. Ngài không thể chịu được khi nhìn thấy đền thờ là nơi cầu
nguyện, mà giờ đây trở thành nơi trao đỗi và gian lận. Đền thờ là nơi dành
riêng cho Thiên Chúa, nơi để con người gặp gỡ Thiên Chúa, mà giờ đây con người
đã biến thành nơi của riêng mình để biếng thành nơi phục vụ cho lợi ích riêng
tư.
Ngài mới lập lại trật tự trong đền thờ.
15. Giữ các giới răn
Lần kia, có một người đàn ông rất thành thật ước ao sống một
cuộc sống thánh thiện. Vì thế, anh ta đến gặp vị thầy của mình, để xin được
khuyên bảo. Vị thầy này khen ngợi anh ta về ước vọng của anh, rồi hỏi “Tình
hình của con tiến triển đến đâu rồi?"
Người đàn ông đó trả lời “Con nghĩ rằng khá tốt."
Vị thầy hỏi “Khi con nói rằng tốt, thì ý con muốn nói gì?”
Người đàn ông trả lời “Con không hề vi phạm bất cứ giới răn nào.
Con đã không kêu tên Chúa vô cớ. Con không hề xâm phạm vào ngày Sabát. Con
không bất kính đối với cha hoặc mẹ con. Con không hề giết bất cứ người nào. Con
không thiếu lòng trung thành đối với vợ con. Con không hề ăn cắp. Con không làm
chứng dối chống lại bất cứ ai. Và con đã không muốn chiếm đoạt vợ của người
khác hoặc tài sản của họ."
Vị thầy nói “Thầy biết. Như vậy, con không hề lỗi phạm bất cứ
giới răn nào."
Người đàn ông trả lời một cách tự hào “Dạ đúng ạ."
Vị thầy hỏi “Nhưng con đã giữ các giới răn chưa?"
Người đàn ông nói “Ý thầy muốn nói gì ạ?"
“Thầy muốn nói rằng con đã tôn kính thánh danh của Thiên Chúa
chưa? Con có giữ ngày Sabát không? Con có yêu thương và kính trọng cha mẹ con
không? Con có tìm kiếm cách bảo vệ gìn giữ cuộc sống của con không? Lần cuối
cùng con nói với vợ con rằng con yêu thương cô ấy là vào lúc nào? Con có biết
chia sẻ tài sản của con cho người nghèo không? Con có biết bảo vệ danh tiếng
cho người khác không? Lần cuối cùng con từ chối không giúp đỡ người đồng loại
là lúc nào?"
16. Người bị kết án tử hình
Linh Mục Frank Roof, cựu tuyên úy của nhà cải huấn thuộc tiểu
bang Kentucky, kể lại một chuyện cảm động về một tù nhân tên là Paul
Kordenbrock.
Paul lớn lên trong một môi trường dễ dãi của thập niên 1960. Triết
lý phổ thông thời đó là "Hãy làm, nếu cảm thấy thích"
Chính triết lý này đã lôi cuốn cậu Paul trẻ tuổi này lâm vào hết
tình trạng tệ hại này đến tệ hại khác. Cho đến một ngày nọ Paul đã bị hoảng hồn
khi nhận được tin là mình sẽ bị xử tử.
Bây giờ, cậu đang bị giam giữ trong nhà tù và chiếc ghế điện
đang chờ cho sự công lý phân xử cậu.
Vào năm 1982, Paul xin cha Roof ban phép giải tội, và xin được
rước Thánh Thể. Cuộc gặp gỡ này đã đưa đến nhiều cuộc gặp gỡ khác. Dần dà, Paul
được giới thiệu đến các tử tội Công Giáo khác. Paul đã viết đơn xin phép ban
quản trị nhà tù để cho cha Roof cử hành Thánh Lễ cho đám tù tội Công Giáo nhỏ
bé đang từ từ chờ đón án tử của mình. Nhà tù đã cho phép điều đó, và như thế
cha Roof đã cử hành Thánh Lễ hằng tuần trong một cái phòng tù bằng thép cho các
tử nhân.
Tất cả sự kiện này không phải xảy ra một cách bất ngờ. Cha Roof
đã tìm hiểu và biết rằng Paul còn theo học các khóa giáo lý hàm thụ: lớp Cựu
Ước, Tân Ước, lịch sử Giáo Hội, giáo huấn Giáo Hội, luân lý Công Giáo.
Paul còn đã trở thành một giáo lý viên có bằng cấp thuộc một
giáo phận và đã thi hành chương trình RCIA - chương trình dài một năm để khai
tâm cho những người lớn- cho các tử tội nhận đức tin Công Giáo. Mỗi năm, Paul
đã đưa ít là một người tử tội về với Đức Kitô.
CNMC 3C
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
TRUYỆN KỂ
1. Giữ luật hình thức.
THỨ HAI
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng
tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên
tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong
thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành
hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người
nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi.
Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một
người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria.”
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ.
Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây
thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
TRUYỆN KỂ
1. Đời sống đức tin bị
che khuất bởi long vị kỷ
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể
câu chuyện sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt
vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng
ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng
động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều
trở thành cực hình.
Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức
tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây.
Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động,
thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng
lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin
được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động
chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin
của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại
tự hại chính mình.
2. Vượt thẳng định kiến,
để sống yêu thương
Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức
Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền
giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền
giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc.”
Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những
gì mà các ông tin.”
Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.
3. Sư huynh hỗn xược.
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo
(Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung học Alma, vừa xuất bản
một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư
huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn
châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong
năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là
30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn
lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn
xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện
trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi
tổ chức cuộc tiếp rước.
Vị thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của
trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng
lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng
bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp,
liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học
Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn
khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác
tuyệt đến thế?
. Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng
chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm
qua chỉ là một sư huynh. thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch
nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh. để thực tập một
phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ
trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt
đến chừng nào!
4. Ông thợ đóng giày
Abraham Lincoln là một tổng thống vĩ đại của nước Mỹ, thế
nhưng ông lại xuất thân trong một gia đình thợ giày. Xã hội Mỹ lúc đó rất coi
trọng thành phần xuất thân trong gia đình quyền quý. Đại bộ phận nghị sĩ thượng
nghị viện Mỹ đều xuất thân trong gia đình thế gia vọng tộc. Là người của xã hội
thượng lưu Mỹ, họ thấy khó chấp nhận một vị Tổng thống là con trai của một thợ
giày tầm thường.
Ngày đầu tiên làm tổng thống, ngay khi Lincoln lên phát biểu
trong lễ nhậm chức Tổng thống, một nghị sĩ đã chen vào giữa bài phát biểu của
ông. Ông ta nói: “Thưa ngài Lincoln, đừng
quên rằng cha ngài thường đóng giày cho gia đình tôi.” Tất cả các nghị sĩ đều
cười ầm lên. Họ nghĩ rằng họ đã khiến Lincoln trở thành trò hề.
Tuy nhiên, khi tiếng cười vừa chấm dứt, Tổng thống Lincoln
không cao ngạo, cũng không tự ti mà chân thành nói: “Thưa ngài, tôi biết rằng cha tôi đã đóng giày cho gia đình ngài, cũng
như nhiều gia đình các nghị sĩ khác… bởi vì không người thợ nào có thể làm được
như ông. Ông là một người sáng tạo. Giày của ông không chỉ là giày, ông đã đổ cả
tâm hồn vào nó. Tôi muốn hỏi các ngài rằng, các ngài đã từng phàn nàn về giày của
ông chưa? Bản thân tôi cũng biết cách đóng giày; nếu các ngài có phàn nàn gì,
thì tôi có thể đóng cho các ngài một đôi giày khác. Nhưng theo tôi thấy thì,
chưa ai từng phàn nàn về những đôi giày mà cha tôi đóng. Ông là một thiên tài,
một nhà sáng tạo, và tôi tự hào vì cha tôi!”
Các nghị sĩ nghe xong đều im bặt. Họ thực sự cảm thấy một
dư vị nào đó. Họ đã công kích Lincoln bằng những thứ lời lẽ dè bỉu cay nghiệt
nhất. Nhưng câu trả lời của Lincoln cho thấy tầm nhìn của họ không lớn hơn cái
giày, một vật nằm ở dưới gót chân con người, trong khi Lincoln và cha ông thấy
được và tìm kiếm điều cao nhất ngay trong những việc tầm thường nhất.
THỨ BA
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy,
khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần
không?”
Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần,
nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua
kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn
nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài
sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng:
“Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả.” Người chủ
động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm
bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta.” Bấy giờ người bạn sấp
mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ
trả hết nợ cho anh.” Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến
khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi
thuật với chủ tất cả câu truyện.
Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia,
ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không
chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình
hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu
mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
TRUYỆN KỂ
1. Hết lòng tha thứ
“Tôi viết
cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi… Vâng, tôi cũng xin nói với bạn
tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…
Ước gì
chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc, được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu
Thiên Chúa muốn, Người là Cha của hai chúng ta.”
Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de
Chergé, tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu
Phi.
Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào
đó sẽ giết mình.
Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu
cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.
Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải
là kẻ thù hay sát nhân. Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh
ta, cũng cần được tha thứ. Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng, vì cả
hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.
2. Tha thứ
Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:
“Tính phê
bình chỉ trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn
nàn kẻ khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con.
“Va chạm
người khác là sự thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là
Thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn.
“Phàn nàn
là bệnh dịch hay lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ
khí kết hiệp với Chúa.
“Bác ái
không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo bầu khí mới
giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của thú vật nên thế
giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa.
“Chỉ giây
phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh em để chỉ trích. Đừng
nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của
con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ của Thiên
Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao tất cả cho tình yêu
Chúa.”
Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống
đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để
xây dựng hoà bình và hoà hợp trong môi trường chúng ta sống.
3. Hãy biết “yêu” như
Chúa
Có một anh bạn hỏi một người Công Giáo rằng: “Nếu để nói một câu ngắn gọn nhất nhằm tóm gọn
toàn bộ giáo lý về đạo Công Giáo thì bạn sẽ nói câu nào?”; bạn trẻ Công
Giáo trả lời, đó là chữ: “Yêu.”
Thật vậy, chữ “yêu” là chữ cốt lõi của đạo Công Giáo. Vì
yêu, Thiên Chúa dựng nên trời đất và con người. Vì yêu, Ngài đã cứu thoát họ khỏi
Ai Cập, đưa về Đất Hứa. Vì yêu Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ đến để dạy dỗ dân.
Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Đấng ấy
là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã dạy dỗ, yêu thương, tha thứ cho kẻ thù
và cuối cùng, vì yêu nên Đức Giêsu đã chết cho người mình yêu.
4. Tha đến đến bảy
mươi lần bảy
Văn hào Ernest Hemingway đã kể câu chuyện về một người cha
và cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu niên. Mối quan hệ cha con của họ không được
tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé
đùng đùng bỏ nhà ra đi.
Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con
mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên, ông đã bôn ba khắp
nơi để tìm kiếm đứa con nổi loạn. Cuối cùng, khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối
cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội
lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con.”
Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không
muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới
đó, ông đã gặp… 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều
đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang
rộng yêu thương.
5. Bà Coritanbun tha
thứ.
Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo
trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức
quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa nhật nọ, sau khi kêu gọi người hãy
tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất
ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã
hành hạ Bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than
khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm
trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn
bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm
ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi.” Bà
Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ
thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng
im lặng, tay không thể nào bắt tay người đến xin Bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách
“Nơi ẩn trốn”, Bà đã cho biết “Trong giây
phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy
con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những
tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa.” Và chính trong lúc đó Bà
đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thư cho nhau khi nhìn nhận tình yêu
thương và sự tha thứ của Chúa.
6. Chứng từ của một
tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Tác giả của câu chuyện tên là bà Anne Furish, người Tiệp
Khắc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã bị quân Đức Quốc Xã bắt
giữ. Đây là chứng từ bà kể lại:
“Mỗi
ngày, những người lính canh chỉ cho chúng tôi một mẩu bánh mì nhỏ có dính cả mạt
cưa, cho nên nhiều người trong chúng tôi ăn vào đã mắc bệnh. Những khi nhận được
bánh mì đã khô cứng không còn ăn được, thì chúng tôi vò lại để làm thành những
hạt chuỗi.
“Ở đó, có
một tên quản giáo đặc biệt hung ác. Nếu mỗi tuần hắn không giết được hai tù
nhân thì hắn ta không ăn ngủ được. Tôi đã bị hắn đánh đập nhiều lần. Nhưng tôi
vẫn hằng cầu xin Chúa cho tôi biết tha thứ cho hắn, bởi vì tôi biết rằng, nếu
tôi không tha thứ, thì thù oán có thể đục khoét và trở thành độc dược phá hủy
tâm hồn tôi.
“Tôi cầu
xin Chúa cho tôi có thể nói với hắn thế này: “Tôi tha thứ cho anh và tôi thương
yêu anh, bởi vì Đức Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thập Giá.” Lần cuối
cùng, khi hắn đánh đập tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã
dùng trận đòn ấy để nhận lời tôi.
Sau trận đòn, tên quản giáo đưa tôi về trại giam. Và lạ
lùng thay, từ đó, hắn đến thăm tôi mỗi ngày. Hắn còn mang cả sữa tới và nhờ các
tù binh khác dùng muỗng đút cho tôi uống nữa. Tôi bị hôn mê nhiều ngày và khi tỉnh
dậy, tôi đã ngạc nhiên hết sức khi thấy tên quản giáo đang ngồi bên cạnh tôi.
Lính tráng như họ vì sợ lây bệnh cho nên ít có khi nào họ đến trại giam. Hắn
nói với tôi:
- Cô hãy
nói cho tôi biết ai là bạn trai của cô?
Tôi hỏi lại hắn:
- Ông muốn
nói gì?
Hắn giải thích:
- Người bạn
trai tên là Giêsu của cô đó! Tôi muốn được nghe cô nói cho tôi biết về người
đó!
Tôi hiểu rằng, Chúa đã cho tâm hồn sắt đá này trở nên dịu
dàng. Tôi bắt đầu khóc vì sung sướng. Và từ lúc đó, tên quản giáo không bao giờ
đánh đập tôi nữa. Mỗi ngày hắn đến thăm tôi và nghe tôi nói về Đức Giêsu, từ
lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thập Giá.
Một ngày nọ, tên quản giáo lại hỏi tôi:
- Cô có
nghĩ rằng, Chúa của cô cũng yêu thương cả tôi nữa không? Cô có nghĩ rằng, Chúa
đã tha thứ cho những gì tôi đã làm không?
Tôi nói với hắn ta:
- Dĩ
nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn để anh đến hỏi tôi về
điều đó.
Năm 1946, vào một đêm kia, người quản giáo ấy đến đánh thức
tôi dậy. Ông ra hiệu cho tôi thinh lặng và đưa tôi lên một chiếc xe tải đậu gần
đấy. Sau này tôi mới được biết là đúng lý ra, một người đàn bà khác đã được chọn
để di chuyển trong chuyến xe đó, nhưng rồi bà ta lại qua đời trong chính đêm ấy,
nên người quản giáo đã tráo tên tôi vào tên của người quá cố. Tôi đã được cứu sống
trên chuyến đi này. Và cũng kể từ đó, tôi đã không gặp lại người quản giáo ấy nữa.
Qua sự tha thứ, tôi cảm thấy mình được tự do để yêu mến người khác. Thêm vào
đó, tôi còn cảm thấy mình dễ dàng thông cảm với thân phận con người hơn! Phải,
nhờ sự tha thứ mà tôi đã trưởng thành hơn nhiều!
7. Tha thứ là nguồn sự
sống
Cha Christian de Chergé muốn sống tinh thần trẻ
nhỏ, nên ngài viết chúc thư cho một người Hồi giáo nào đó đang tìm giết ngài: “Thưa bạn của
giây phút cuối cùng, bạn không hiểu điều bạn làm, cầu xin cho chúng ta là những
người trộm lành được gặp lại nhau trên thiên quốc, vì Chúa là Cha chung của
chúng ta!”
Ông Salman Rushdie là tác giả cuốn “Vần Thơ Ác Quỷ”,
có tính chất bài Hồi giáo, ông đã bị giáo chủ đạo Hồi là Khomenei ra lệnh trao
giải thưởng cho ai thủ tiêu được nhà văn này! Nghe thế, ông đã phải lẩn trốn sang
nước khác, và phải nhờ đến dao kéo giải phẫu khuôn mặt mới thoát chết! Báo thù
như Khomenei, vị lãnh đạo Hồi giáo thờ Chúa theo Luật Cựu Ước, thì không thể có
ơn cứu độ!
Ngược lại, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đã bị Ali
Agca – người Thổ Nhĩ Kỳ - ám sát, suýt chết vào ngày 13/05/1981! Hắn đã bị bắt
giam tại nhà tù Rchibbia. Sau khi Đức Gioan Phaolô bình phục, công việc đầu
tiên là đến thăm Ali ngay tại nhà giam và còn kèm theo một gói quà lớn! Thế mà
hắn còn hỏi Đức Giáo hoàng: “Tại sao tôi bắn ba phát vào tim ông mà ông không chết?”
Như vậy, vị Giáo chủ Công giáo mới thờ Chúa thời Tân Ước, bảo đảm ơn cứu độ!
Một người hành khất đến ông nhà giàu xin bố thí,
không may trưa hôm đó ông nhà giàu mới thua bạc về, ông không cho gì người hành
khất, lại văng tục chửi thề, còn nhổ vào mặt người khất một bãi nước bọt, rồi
đuổi đi!
Người hành khất quá tức giận, anh lượm một cục đá
bỏ sẵn trong túi, chờ cơ hội thuận tiện sẽ ném vào mặt ông nhà giàu để trả thù.
Thế nhưng ngày qua tháng tới trôi đi đã hơn 20 năm mà người hành khất vẫn không
tìm được cơ hội nào để ra tay, làm lúc nào ông cũng cảm thấy bực tức bất an.
Ngày kia, được nghe Lời Thánh Kinh dạy: “Hãy liệng đi quả tạ mọi thứ tội lỗi bịn rịn”
(Dt 12, 1). Và hãy yêu thương thì phải “tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr
13, 7), khiến ông nghĩ ngay: tại sao mình cứ phải đeo mãi cục đá này cho nặng?
Quẳng đi cho rồi, từ đó trở đi ông sống thanh thản và bình an!
8. Nếu Tôi Biết Tha
thứ
Trong những năm 1944-1945 dân Roma khiếp sợ mỗi
khi nghe nhắc đến tên Peter Koch, một sĩ quan mật vụ Đức quốc xã đã từng giết hại
không biết bao nhiêu mạng người. Sau chiến tranh, anh ta bị bắt và bị kết án tử
hình. Anh viết thư cho Đức Giáo Hoàng Piô 12 để xưng thú các tội ác mình đã phạm
Thong hoi ăn năn và đặc biệt xin Ngài tha thứ cho anh tội đã tấn công vào Vương
Cung thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành.
Đức thánh cha đã sai một linh mục đến nhà tù để gặp
anh ta và chuyển đến anh sự tha thứ của Ngài, đồng thời trao cho anh ta một
tràng hạt mân côi. Đến nhà giam, sau khi đã làm theo lời căn dặn của Đức Giáo
Hoàng, vị linh mục đã nghe người tử tội thốt lên như sau: "Tổ quốc con nguyền rủa con, đó là điều hợp lý. Tòa án đã kết án
con, điều này cũng rất công bình. Đức Giáo Hoàng đã tha thứ cho con và đã cho
con một bài học cao qúy. Giả như con đã luôn nghĩ đến việc tha thứ, thì giờ này
có lẽ con không phải ra pháp trường như thế này.” Nói rồi anh bật khóc: "Con không dám động đến tràng hạt của Đức
Giáo Hoàng bằng đôi tay vấy máu của con. Xin cha đeo tràng hạt vào cổ cho con.”
Ít phút sau, Peter Koch ngã gục dưới loạt đạn, miệng anh vẫn còn cầu khẩn Mẹ
Maria...
Xin được tha thứ, đó là một trong những hành động
vĩ đại nhất của con người... Quỷ Satan đã có lần trách móc Thiên Chúa như sau: "Ngài không công bình. Có biết bao
nhiêu tội nhân đã làm điều ác. Họ chỉ trở lại một đôi lần, nhưng lần nào Ngài
cũng niềm nở tiếp đón họ. Tôi chỉ có làm một điều bậy, tôi chỉ có phạm tội một
lần, thế mà Ngài đã tuyên phạt tôi đời đời.” Nghe thế, Thiên Chúa mới hỏi vặn
lại Satan: "Thế ngươi có bao giờ mở
miệng xin tha thứ và ăn năn sám hối chưa?”
Mở miệng kêu xin tha thứ là bước lần đến ngưỡng cửa
Thiên Đàng. Nhưng xin tha thứ cho chính mình thôi, chưa đủ, con người cần phải
tha thứ cho người khác. Cánh cửa Thiên Đàng sẽ mở ra mỗi khi con người thành thực
thứ lỗi cho người khác.
Nhận ra lầm lỗi của mình, kêu cầu sự tha thứ và
tha thứ cho người khác: đó là đôi cánh Thiên Thần giúp con người bay lên tới
Chúa.
THỨ TƯ
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng
tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng
để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm,
một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.
Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất,
và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại,
ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước
Trời.”
TRUYỆN KỂ
1. Giữ luật hình thức.
Vào ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi
ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là
anh ta gọi những món cá mà anh ta biết chắc chắn chủ quán sẽ trả lời là không
có.
Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết
cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn
trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy.”
Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những
lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi bị lỗi luật Chúa.
2. Kiện toàn lề luật
Cách đây ít lâu, có một báo cáo về một trường hợp một thủy
thủ thuộc hải quân hoàng gia Anh, bị phạt rất nặng vì vi phạm kỷ luật. Hình phạt
nặng đến độ dư luận bên ngành dân chính cho rằng, quá khắt khe.
Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong hải quân đã
trả lời rằng, theo quan điểm ông ta, đó không phải là hình phạt quá nặng. Ông
cho rằng, kỷ luật là một biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là
khiến con người tự động vâng lệnh không thắc mắc và sự sống tùy thuộc vào sự
vâng lệnh này.
Ông kể lại một kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu của
ông phải cẩu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cột
vào chiếc tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình, giữa cơn gió bão có lệnh của
thuyền trưởng: “Xuống!”, tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay
lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng,
trúng người nào thì người đó chắc chết ngay tại chỗ. Nhưng vì thủy thủ đoàn đã
tuân lệnh, nên tất cả đều được thoát hiểm và an toàn. Nếu có ai dừng lại để
tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người.
(WB).
Chúa Giêsu không hề chủ trương vô kỷ cương. Ngài đã từng
tuyên bố: “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật và các lời tiên tri, nhưng Ta đến
để kiện toàn lề luật” (Mt 5,17).
3. Họ thà chết còn
hơn là lỗi luật Chúa.
* Xưa kia, Giuse con Giacob “thà chết” còn hơn là nghe
theo lời đường mật, rồi sau đó là những lời đe dọa mà ngả vào vòng tay của người
đàn bà xấu nết, là vợ quan Putipha.
* Bà Suzanna, cũng thà chết còn hơn là phạm luật Chúa trước
những lời hăm dọa của hai lão mê dâm.
* Ông lão Aliazarô thà bỏ mạng sống còn hơn là nghe theo lệnh
truyền của hoàng đế Antiocô mà ăn thịt trái luật Chúa.
* Ba thánh trẻ kia, sẵn sàng chịu thiêu trong đống củi chứ
không chịu sấp mình trước tượng Nabucodonosor.
* Đaniel cũng thà chết còn hơn là bỏ việc thờ phượng Chúa
dù việc đó làm cho Đaniel bị bỏ vào hang sư tử.
* Bảy anh em tử vì đạo đời Antiôcô cũng vì sợ mất lòng
Chúa nên thà chết chẳng thà bỏ đạo.
* Tại Việt Nam ta ngày trước, nhiều tín hữu bị nhốt vào
tù. Quan dạy đi ra hai cửa: sinh môn và tử môn. Ai qua “sinh môn” thì phải đạp ảnh.
Những người bị giam đều qua “tử môn” có quân lính trực sẵn, hễ ai bước qua thì
chém đầu.
* Trên đồi Dã Viên, đời cấm đạo, giáo hữu phải giam trong
cũi, nhịn khát mấy ngày bên bờ sông Hương. Ai đạp ảnh mới được uống nước. Các đấng
thà chết khát.
Người Công giáo thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa,
bỏ nghĩa vụ.
4. Cầu nguyện và hạnh
phúc gia đình
“Văn phòng Nghiên Cứu Hiện Tượng của Hoa Kỳ về Đời Sống
Hôn Nhân, kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách về Gia Đình trích dẫn trong
tài liệu có tựa đề “Bí tích Hôn Phối” xuất bản năm 1989 như sau:
- Trong 100 gia đình không có Đạo, thì 50 % gia đình ly dị.
- Trong 100 gia đình Công Giáo, chỉ đi dự Lễ Chúa nhật, ly
dị xuống thấp chỉ còn 10%.
- Trong 100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ hằng ngày, và có
giờ cầu nguyện riêng, chỉ còn 1% ly dị.
Vậy gia đình hoặc bất cứ cộng đoàn nào muốn có bình an hạnh
phúc, phải năng dự Lễ và có giờ cầu nguyện chung với nhau.
5. Bãi bỏ điều nhỏ nhất
Clara Feldman sống sót sau cuộc sát tế của Đức Quốc Xã
trong thế chiến thứ hai. Hiện nay bà đi đến các trường học để dạy trực tiếp cho
các học sinh về điều đó. Bà nỗ lực áp dụng bài học của nó vào thế giới hiện đại.
Bà khuyên các học sinh: “Chúng ta không thể thờ ơ trước sự ác. Chúng ta không
thể nhắm mắt làm ngơ như thể không thấy gì cả.”
Lời của Chúa Giêsu và ví dụ của Clara mời gọi tôi tự hỏi:
có điều xấu xa nào tôi nên nỗ lực để chống lại ngay không? Tôi có thể làm gì?
Ai chấp nhận điều xấu mà không chống lại, thì đã thực sự cộng
tác với nó. (Martin Luther King)
THỨ NĂM
Lời Chúa: Lc 11, 14-23
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người
câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói
rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ.” Mấy kẻ khác muốn thử Người,
nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
“Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ
chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững
được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút
mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các
ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt
là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà
mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến
đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những
gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với
Ta là phân tán.”
TRUYỆN KỂ
1. Nghe và nói
(TGM Giuse Ngô Quang Kiệt)
Con người là một sinh vật xã hội. Không thể sống một mình.
Xã hội tính phát triển nhờ thông giao. Thông giao biểu hiện bằng nghe và nói.
Nghe để tiếp nhận. Nói để thông tri. Nghe để hiều về người khác. Nói để người
khác hiểu về mình. Nghe để cảm thông chia sẻ. Nói cũng để cảm thông chia sẻ.
Như thế thông giao làm phong phú con người. Vì thế câm điếc là khuyết tật. Mất
khả năng thông giao khiến con người không phát triển. Thông thường câm là do điếc.
Vì không nghe nên không nói được.
2. Dấu hiệu cho sự hiện
diện và tác động của Chúa
Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: một hôm tôi
đang giảng dạy cho một nhóm người tại Nagasaki. Sau bài giảng một người đứng
lên hỏi tôi ba điều: “Tôi có tin Đức Mẹ đồng
trinh không? Tôi có vâng lời và hiệp thông với Đức thánh cha không? Tôi có giữ mình
trinh khiết và sống độc thân không?”
Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: “Tại sao ông lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?”
Người đó trả lời: “Vì
ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng
đạo, chúng con phải lấy ba tiêu chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa
sai chân chính không. Nay chúng con vui mừng vì cha đích thực là người được Hội
thánh sai đến, chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con
truyền lại.”
Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm định
đâu là nhà truyền giáo đích thực.
3. Vu khống và nói
hành
Có một tu sĩ đảm trách công việc mục vụ bệnh nhân Sida.
Tuy nhiên, do sơ xuất, ngài đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này qua người bệnh
trong khi chăm sóc họ. Nhưng thật trớ trêu, thay vì được mọi người nâng nỡ,
khích lệ, thì họ lại bàn tán, gán ghép những chuyện không mấy tốt đẹp cho vị tu
sĩ nhiệt tình vì sứ vụ này!
Đây cũng chính là căn bệnh truyền kiếp ở mọi thời, đó là,
người ta không thích ai, hay ai đó uy tín hơn mình, thì họ sẵn sàng dùng đến biện
pháp nói hành, hay chụp mũ để hạ gục đối phương!
4. Mưu mô ma quỉ.
Ngày xưa có một con qủi hiện về báo cho người đàn ông biết
là gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó có thể cứu gã nếu gã chịu làm một
trong ba điều sau: một là giết tên đầy tớ của gã, hai là gã đánh đập vợ, ba là
gã hãy uống rượu.
Gã kia nghĩ: Ta không thể giết tên đầy tớ trung thành,
đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi gã lấy rượu uống. Đến chừng say
quá, gã đánh vợ, tên đầy tớ nhào vô can bị gã cho một dao chết tươi.
5. Ngụy biện
Nguỵ biện là thấy rõ sự thật nhưng cố ý giải thích sai đi
cho hợp với sở thích. Người nguỵ biện tưởng rằng nhờ ngụy biện mình sẽ được sống
thoải mái, nhưng thực ra họ tự hại chính mình. Chúa Giêsu đã nói “Sự thật mới giải
thoát.”
Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí khả
nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể
đi bất cứ đâu.”
Bạn cô đáp: “Tất
nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một chuyện: lần đó, tôi và một số người đến
thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn: - Tôi
có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không? - Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo
trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa.”
6. Đi với Chúa
Đi với Chúa là chọn Chúa, là đứng về phía của Chúa. Nhưng
làm cách nào biết rằng, chúng ta đã thực sự chọn Chúa và đứng về phía Chúa.
Chúng ta hãy nghe lời giải thích của Mirjana, cô gái được
chính Đức Mẹ hiện ra dạy bảo tại Mễ Du. Khi người ta hỏi cô:
- Bằng
cách nào chúng ta chọn Chúa Giêsu?
Cô trả lời:
- Đức Mẹ
nói rằng: muốn chọn Chúa Giêsu, ta phải nên giống Chúa. Nhiều người cho mình là
tín hữu nhưng lại sống như người ngoại đạo. Kitô hữu chân chính phải là người
được Kitô-hóa. Một người Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu.
Và khi được hỏi:
- Nên giống
Chúa Giêsu như thế nào?
Cô nhắc lại lời Đức Mẹ dạy:
- Chúa
Giêsu là đường đi, là sự thật và là ánh sáng cho cuộc sống chúng ta. Đường đi
thì đã được vạch rõ trong Kinh Thánh. Còn sự thật thì nằm ở cả trong Kinh Thánh
và trong Giáo Hội. Ánh sáng thì từ Thiên Chúa mà đến cho những ai trung tín.
Cha Gioan Maria Vianney nói: “Chẳng có gì làm cho chúng ta nên giống Chúa bằng cách vác lấy Thánh
Giá của Người. Đẹp thay bao linh hồn biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua
việc yêu mến Thánh Giá của Ngài! Cha thật không tài nào hiểu được một Kitô-hữu
mà không yêu mến và chạy trốn Thánh Giá! Như vậy, chẳng phải chúng ta đang chạy
trốn Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống ôm chặt lấy Thánh Giá, và chịu chết cho
chúng ta sao?”
THỨ SÁU
Lời Chúa: Mc 12, 28b-34
Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và
hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là:
"Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và
ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết
sức ngươi.” Còn đây là giới răn thứ hai: "Ngươi hãy yêu mến tha nhân như
chính mình ngươi.” Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó.”
Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải
lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa.
Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình
thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh.”
Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo:
"Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu.” Và không ai dám hỏi Người
thêm điều gì nữa.
TRUYỆN KỂ
1. Giới Răn Trọng Nhất
Sau thế chiến thứ nhất 1914-1918 và thế chiến thứ hai
1939-1945, nhân loại đã rất lo sợ chiến tranh, và mong ước có một thế giới hoà
bình, yêu thương. Người ta đã lập ra những hội khác nhau, như Hội đồng Bảo an
Liên hiệp quốc, để kiểm soát và ngăn ngừa thế chiến thứ ba, vì nếu thế chiến thứ
ba xảy ra, thì với những vũ khí tối tân, qui mô chắc chắn nhân loại sẽ bị huỷ
diệt.
Người ta kêu gọi hoà bình khắp nơi trên thế giới. Tôn giáo
cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc xây dựng hoà bình. Trong Tin mừng
hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu trong các giới răn, điều nào trọng hơn cả.
2. Mến Chúa – yêu người
Thánh Martinô có lòng mến Chúa và luôn đi đôi với lòng yêu
người. Martinô coi lòng mến Chúa như động lực thúc đẩy ngài thực hiện việc yêu
người. Martinô yêu tất cả mọi người dù già hay trẻ, nam hay nữ, da trắng hay da
màu, quý tộc hay bình dân, bản xứ hay kiều cư, tự do hay nô lệ… Nhưng cách đặc
biệt ngài dành tình yêu nhiều hơn cho những người xấu số phải sống trong những
hoàn cảnh hẩm hiu về cả vật chất lẫn tinh thần, nhất là đối với những người
nghèo khó.
Martinô hằng đem lòng bác ái rất đặc biệt mà đối xử với
anh em; lòng bác ái đó phát xuất từ một đức tin toàn vẹn và một tâm hồn khiêm
nhu.
Trong bài giảng của lễ phong thánh cho chân phúc Martinô
Porres, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã nhận định: “Qua gương sáng đời sống của mình, thầy Martinô cho thấy: Chúng ta có
thể được cứu độ nhờ và nên thánh bằng con đường Đức Giêsu Kitô đã vạch ra,
nghĩa là nếu trước hết chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết
trí khôn chúng ta, rồi sau đó nếu chúng ta yêu người thân cận như chính mình.”
3. Caritas
Tình yêu mà Phụng vụ đề cập đến hôm nay là một tình yêu
hoàn hảo, tinh luyện, cao thượng, phổ quát và phong phú nhất. Tình yêu trong phụng
vụ chính là “Bác ái Công giáo” (Caritas). Bác ái là yêu thương một cách rộng
rãi như thánh Augustinô đã nói: “Giới hạn
tình yêu là không có giới hạn nào.” Đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối
với tha nhân.
Hai tình yêu này khác nhau chăng? Thưa không. Chẳng những
hai tình yêu này không tách rời nhau mà còn quyện lấy nhau: chỉ có một. Chính tình
yêu này giúp chúng ta yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân.
Theo Đức cha Arthur Tonne thì yêu mến Chúa là “ao ước làm
vui lòng Chúa” và yêu tha nhân là “làm điều thiện hảo cho họ.” Tình yêu đối với
Chúa cũng như đối vói tha nhân luôn phải kèm theo những đặc tính là hy sinh, phục
vụ và dâng hiến. Bất cứ làm việc gì cũng phải được thực hiện trong tình yêu thì
mới có giá trị: “Ama et fac quod vis”
(Thánh Augustinô): yêu mến đi rồi làm gì thì làm.
4. Chị nữ tu phục vụ.
Mẹ Têrêsa Calcutta kể: “Hôm
ấy, một người lạ mặt đến nhà dòng, ông thấy một Sơ vừa đem về một người hấp hối,
nằm bên ống cống, mình mẩy giòi bọ rất hôi thối. Thế mà, Sơ rất nương nhẹ nhặt
từng con bọ với vẻ mắt vui tươi, thanh thản đầy thương mến.
“Rồi người
lạ đến gặp tôi và nói: “Thưa mẹ, khi con đến đây với đầy lòng căm hờn của một
người vô tín ngưỡng. Nhưng bây giờ con ra về với một tâm hồn hoàn toàn đổi mới.
Con bắt đầu tin Chúa, bởi vì con đã chứng kiến tình yêu của Chúa được diễn tả một
cách cụ thể qua hành động và qua cách Sơ ấy đối xử với người hấp hối bẩn thỉu
kia. Bây giờ con tin thật Chúa là tình yêu. Không có tình yêu Chúa trong tâm hồn,
không khi nào có được nghị lực để yêu tha nhân được.”
5. Đạo
yêu Chúa yêu người
Có lần một người mới gia nhập Do Thái giáo yêu cầu thầy
Hillel hãy dạy cho ông ta toàn thể luật pháp trong thời gian ông ta có thể đứng
trên một chân. Câu trả lời của Hillel là:
- Điều gì
ngươi ghét thì đừng làm cho người khác. Đó là trọn vẹn luật pháp, phần còn lại
là nhằm giải thích.
Thầy Akiba đã nói:
- Hãy
thương yêu người lân cận như chính bản thân mình, đó là nguyên tắc tổng quát và
quan trọng nhất.
Thầy Simon, biệt danh là người công chính, có nói:
- Thế giới
này đứng trên ba điều: luật pháp, sự thờ phụng và hành động yêu thương.
Còn Chúa Giêsu khi trả lời câu hỏi người ta đặt ra cho
Ngài, Ngài đã nhập chung hai điều quan trọng lại với nhau.
Đây là điều mới lạ. Trước đó, chưa hề có một Rabbit nào
làm vậy. Như vậy, đạo đối với Chúa là yêu Chúa yêu người và Chúa cũng ngụ ý dạy
rằng, phương pháp duy nhất để người ta chứng minh được mình yêu mến Chúa là yêu
thương người khác.
6. Cọng hành
Một hôm, có một người đàn bà khó tính qua đời. Bà ta nổi
tiếng là keo kiệt, cằn cỗi, cả đời không làm điều gì tốt, cũng chẳng yêu thương
ai. Những người hàng xóm biết rất rõ về tính hận thù và hay ghen ghét của bà.
Khi thấy bà hấp hối lũ quỷ cảm thấy vô cùng sung sướng. Chẳng cần phải đợi kết
quả của sự phán xét ra sao, chúng đã hung hăng kéo luôn bà xuống hồ lửa đang
cháy hừng hực bởi vì chúng tin rằng, một cuộc sống chẳng có một chút tình
thương nào như thế thì chẳng cần phải phán xét cũng biết được kết quả như thế
nào rồi.
Ma quỉ thì như thế, nhưng vị thiên thần bản mệnh của bà
thì không chịu như vậy. Thiên thần nhất định không chịu thua. Ngài lăng xăng chạy
ngược chạy xuôi để tìm kiếm từ trong dĩ vãng của bà xem có thể có một chứng cứ
nào có thể cứu bà khỏi hình phạt khổ hình được không. Tìm tới tìm lui, loay
hoay sổ này sổ nọ mà vẫn không thấy. Không thất vọng, thiên thần còn đi vào cả
dĩ vãng của cha mẹ bà để xem có phải vì hoàn cảnh nào đó mà bà trở nên một con
người như vậy chăng!
Nhưng rồi cuộc tìm kiếm chỉ để lại thất vọng. Rất may,
đúng phút đó, thì thiên thần nhớ lại được một cử chỉ bác ái rất nhỏ của bà: Có
một lần bà đã cho người nghèo kia một cọng hành. Thế là thiên thần vội vàng đến
trình diện trước tòa Chúa. Thiên thần đưa ra chứng cớ, xin Chúa cứu xét trường
hợp của bà. Chúa nhân lành ưng ngay, và ra lệnh cho thiên thần hãy kiểm tra lại
cái cọng hành kia. Vâng! Quả là may mắn cho bà. Cộng hành vẫn còn được lưu giữ
trong kho công nghiệp.
Sau khi được phép, thiên thần dùng cọng hành biến thành
dây, để kéo người đàn bà đó ra khỏi hồ lửa. Vớ được cọng hành, bà nắm thật chặt
và được từ từ kéo lên.
Thiên thần kéo cọng hành một cách hết sức thận trọng. Mọi
sự diễn tiến rất tốt đẹp. Người đàn bà kia hớn hở mừng rỡ, tin rằng, giờ cứu
thoát đã gần đến.
Thế nhưng, trước khi được hoàn toàn giải thoát, đang lâng
lâng lướt nhẹ, thì bà chợt cảm thấy như bị níu kéo lại bởi nhiều bàn tay. Bà cảm
thấy mình bị đụng chạm từ nhiều chỗ: nào là gấu áo, nào là chân, nào là tay và
cả lưng áo nữa. Bà vội nhìn xuống lại thì thấy nhiều linh hồn khác đang
“canh-me” bám vào bà với hy vọng mình cũng được cứu.
Dĩ nhiên là bà không bằng lòng chút nào. Rồi với quyết tâm
không cho những con người đó bám vào mình, bà lấy hết sức mình hất tất cả những
bàn tay ấy ra. Rủi thay, chính hành động đó đã làm cộng hành bị đứt ra làm hai.
Thế là bà và những người khác, tất cả lại rơi thẳng xuống đáy lò lửa.
Vâng, sống yêu thương thật khó. Mọi người chúng ta đều có
kinh nghiệm về vấn đề này. Nhưng khó không có nghĩa là không thể. Nếu biết cậy
dựa vào ơn của Chúa. Vì đối với Thiên Chúa thì không có gì là không thể làm được.
(Lc 1,37).
7. Luật yêu Chúa
trong đạo Do Thái
Xưa Thiên Chúa chỉ trao cho ông Môsê Mười Điều răn ghi trên
hai bia đá (Đệ Nhất luật. ) Nhưng từ Mười Điều răn ấy đã được cắt nghĩa ra 613
Luật (Đệ Nhị luật) gồm có:
* 365 điều xấu cấm làm. Ngụ ý nói: ngày nào trong năm cũng
phải tránh xa điều xấu.
* 248 điều tốt cần làm. Người Do Thái thời ấy cho đó là tổng
số xương trong cơ thể con người, ám chỉ muốn sống đúng nghĩa người ta phải làm
điều tốt.
Nhưng điều Luật nào là giềng mối, là cốt lõi, là trụ, là
trung tâm, là đích điểm của 613 Luật?
Trong tâm tình tôn giáo của người Do Thái, dĩ nhiên phải
nhắm đến Luật yêu Chúa đặt đứng hàng đầu và được diễn tả cụ thể: “Yêu Chúa hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết sức lực.” (Dnl 6, 5). Luật này trở thành lời kinh chính thức, người
Do Thái gọi là kinh “Shema” trong kinh nhật tụng, từ trẻ nhỏ đến người già mỗi
ngày đọc kinh “Shema” hai lần (giống Kinh Lạy Cha nay ta đọc ba lần trong
kinh Phụng Vụ mỗi ngày: Thánh lễ, kinh Sáng, kinh Chiều)
THỨ BẢY
Lời Chúa: Lc 18, 9-14
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay
tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác:
"Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt
phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: "Lạy
Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại
tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần
mười tất cả các hoa lợi của tôi.”
Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm
ngực mà nguyện rằng: "Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.”
Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người
kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ
mình xuống, sẽ được nâng lên.”
TRUYỆN KỂ
1. Chìa Khoá Của Tự
Do
Người Hồi giáo nói về sự cầu nguyện bằng câu chuyện sau:
Có một người thợ kim hoàn nghèo nhưng thanh liêm bị giam
tù vì một tội ông không bao giờ phạm. Vài tháng sau khi người chồng bị giam giữ,
người vợ đến gặp ban giám đốc và xin cho chồng một ân huệ. Bà nói chồng bà là một
tín hữu trung thành với các buổi cầu nguyện, bà xin được gửi cho chồng một tấm
thảm nhỏ để quì cầu nguyện năm lần một ngày theo qui định của Hồi giáo. Lời thỉnh
cầu được chấp nhận dễ dàng…
Ngày nọ, người thợ kim hoàn đến trình bày với các quản
giáo: “Tôi là thợ kim hoàn, nếu các người
cho tôi một ít kim loại, tôi có thể vừa qua được thời giờ nhàn rỗi, vừa làm được
cho các người những nữ trang có thể dùng được.” Các quản giáo không thấy trở
ngại nào về điều đó. Một ngày nọ, các canh tù bỗng phát giác ra cánh cửa nhà tù
bị mở toang và người thợ kim hoàn đã tẩu thoát. Cùng lúc đó người ta cũng bắt
giữ được thủ phạm đích thực mà họ đã qui lầm cho người thợ kim hoàn. Bấy giờ
người thợ kim hoàn mới ra mặt và tiết lộ việc trốn thoát cuả ông.
Sau khi ông bị bắt oan, vợ ông liên lạc với kiến trúc sư đã
vẽ hoạ đồ nhà tù. Ông này cho phép bà in nguyên hoạ đồ chi tiết cuả nhà tù lên
tấm thảm. Mỗi ngày năm lần dù phủ phục trên tấm thảm để cầu nguyện, người thợ
đã thuộc lòng đường ra lối vào của nhà tù, thêm vào đó nhờ những mảnh kim loại
các quản giáo cung cấp, người thợ đã có thể mài dũa những chìa khoá để mở các
cánh cửa nhà tù, đó là bí quyết đã giúp ông trốn được khỏi nhà tù.
Cầu nguyện là chìa khoá của tự do. Một tâm hồn khao khát tự
do đích thực là một tâm hồn biết cầu nguyện.
2. Khiêm tốn thật thì
mới được tha thứ
Có một câu chuyện kể rằng: một ông giáo dân nọ nổi tiếng
là đạo đức với những câu chuyện về lòng quảng đại, giúp đỡ của ông cho người
nghèo. Ông được nhiều người ca tụng là người tốt lành, thánh thiện, nhất là
khiêm tốn khi quảng đại giúp đỡ người cùng khốn mà không cần đến danh vọng.
Chính bản thân ông cũng nghĩ mình như thế! Tuy nhiên, đến
lúc về già, ông đến gặp cha xứ và tâm tình với ngài rằng: “Cả cuộc đời con đã hy sinh cho Chúa, Giáo Hội và mọi người, con không
hề tính toán thiệt hơn, bởi xác tín rằng: mọi sự con có là bởi Chúa.”
Nhưng ngay sau đó, ông xin cha xứ một đặc ân, đó là: khi ông chết,
cho ông được chôn ở gầm bàn thờ!
Câu chuyện mang tính ngụ ngôn, nhưng thực tế, trong cuộc sống
hôm nay, vẫn còn đó rất nhiều người có tư tưởng khiêm tốn như ông lão trong câu
chuyện trên. Thiết nghĩ, một lần khiêm tốn kiểu đó phải chăng bằng bốn lần kiêu
ngạo! Nó thật giống với người Pharisêu trong bài Tin Mừng hôm nay.
3. “Phàm ai tôn mình
lên sẽ bị hạ xuống.”
Sinh vào đời ai cũng có một cái tôi thật đơn sơ và dễ
thương. Thế nhưng nó dễ bị biến tướng trở thành cái tôi đáng ghét như Blaise
Pascal đã nói: “Le moi est haissable”: cái tôi đáng ghét.
Cha Lê Quang Uy đã “đánh vần” cái tôi biến tướng đó thành
một bài hát dí dỏm và thật ý nghĩa:
Khi kiêu
căng tôi sắc sảo, tôi thành tôi sắc tối.
Huênh
hoang tôi huyền hoặc, tôi thành tôi huyền tồi.
Tự ái tôi
nặng nề, tôi thành tôi nặng tội.
Khiêm tốn
tôi thật thà, Tôi thành tơ-ôi-tôi.
Cũng vậy, ông biệt phái đã huênh hoang, tự cao tự đại,
“khoe” thành tích cái tôi của ông với Chúa. Do đó, những việc ông làm – dù rằng
rất tốt – thay vì trở nên công phúc thì lại biến thành bọt bèo cái tôi tồi tệ
và tội lỗi của ông. Ngược lại, với lòng khiêm hạ, người thu thuế nhìn thấy sự yếu
đuối của mình và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chính vì vậy, ông hoán cải
và được Chúa kể là người công chính.
4. Quỉ không khiêm
nhường sám hối.
Một hôm có một tên quỉ kia chạy đến trước mặt Thiên Chúa
mà thưa rằng:
- Tôi thấy
Chúa xử không công minh chút nào!
Chúa liền hỏi nó rằng:
- Tại sao
ngươi dám bảo Ta đối xử không công bằng?
Bấy giờ tên quỉ mới đáp:
- Chúa thấy
đó, loài người phạm rất nhiều tội to lớn, và mỗi tội chúng đều phạm đi phạm lại
nhiều lần. Thế mà lần nào Chúa cũng tha thứ cho chúng và còn ban hạnh phúc
Thiên đàng đời đời cho chúng nữa. Còn chúng tôi chỉ phạm tội có một lần duy
nhât, thế mà Chúa không khi nào tha thứ, mà còn phạt chúng tôi phải xuống hỏa
ngục muôn đời. Như vậy chẳng phải là Chúa đối xử thiên vị và bất công lắm hay
sao?
Bấy giờ Chúa mới ôn tồn nói:
- Loài
người có phạm tội với Ta thật, và vì yếu đuối mà chúng đã phạm đi phạm lại nhiều
lần thật. Nhưng sau mỗi lần phạm tội, chúng đều biết hồi tâm sám hối và xin Ta
tha tội. Còn các ngươi, có sám hối và xin Ta tha tội cho chưa?
Nghe thấy sám hối và xin tha tội, tên quỉ liền thét lên rằng:
- Ma quỉ
chúng tôi không đời nào chấp nhận thái độ hèn hạ là sám hối và xin ai tha tội
cho cả.
Nói thế rồi quỉ liền cong đuôi chạy mất.
5. Món quà Chúa thích
Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ
để Suy Niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa
Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
-
Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy
Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm,
nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy
Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn
điều gì khác nữa không?
- Con có
điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này
Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy
Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con
được?
- Được chứ!
Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều
Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng.
6. Điều tốt đẹp nhất
Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm
xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến
trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít
máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều
quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp
đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo
sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại
ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười
đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những
điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt
đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều
ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng
thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ
thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu
theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi.”
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về
trời.
Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười
nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm
vụ. Quả thật dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối,
bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi
mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu.”
7. Liên lỉ sửa mình
Trong cuốn “Tâm Hồn Nhật Ký”, Đức Gioan XXIII đã ghi lại tất
cả cuộc sống thiêng liêng của ngài, trong đó phần quan trọng nhất là phần ghi lại
những lần tĩnh tâm từ lúc còn ở chủng viện (1898) cho đến những năm trên ngôi
Giáo Hoàng (1963).
Đối với ngài, mỗi lần tĩnh tâm là mỗi lần kiểm điểm lại cuộc
đời và có quyết định mới. Đặc biệt là lúc đã ngoài 80 tuổi, gần từ giã dương thế,
mặc dù ở trên ngôi Giáo Hoàng bận rộn muôn vàn công việc đại sự, ngài vẫn thường
xuyên tự kiểm điểm. Ngài luôn quyết tâm sống xứng đáng là một tâm hồn cao cả,
muốn sửa đổi mình liên lỉ để sống đẹp lòng Chúa cho đến giây phút cuối cùng, sống
thế nào đó cho được giống như Người.
Như vậy, tất cả là tùy ở chỗ chúng ta so sánh mình với đối
tượng nào. Khi chúng ta đặt đời sống mình bên cạnh đời sống kỳ diệu của Chúa
Giêsu, bên cạnh sự thánh thiện của Thiên Chúa, thì chúng ta chỉ có thể nói “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi
khốn nạn.”
8. Sám hối có lợi
Việc sám hối không những bảo đảm được Chúa cứu độ, mà cả
lúc xem ra ta biết sám hối với người đời, thì ta cũng được lời lãi ngay từ đời
này, đan cử:
- Vợ Tổng thống Mỹ Bill Clinton, năm 1994 cho xuất bản cuốn
hồi ký của bà: bao nhiêu sóng gió người chồng gây ra, bởi ông đã dan díu với
nhiều phụ nữ khi còn tại chức. Cuốn sách ấy bà thu về được 8.000.000 USD.
- Thấy vợ Tổng thống Mỹ kiếm lời dễ quá, cô Monica Luinki,
người tình bất chính của ông Bill Clinton, cũng cho xuất bản cuốn hồi ký của cô
và thu được 6.000.000 Mỹ kim.
- Năm 2001, ông Bill Clinton sau khi chấm dứt hai nhiệm kỳ
làm Tổng thống gây nhiều xì-căng-đan, cũng cho ra đời cuốn hồi ký. Nhờ cuốn
sách ấy ông đã thu về được 12.000.000 USD!
(Trích từ đài Chân Lý Á Châu ngày 08/08/2001)
9. Làm theo hay không
theo ý Chúa
Vào năm 1912, người ta hạ thủy con tàu Titanic, được xem
là lớn nhất vào thời ấy: có trọng tải 60. 000 tấn, dài 270m. Các kỹ sư tính
toán rất kỹ, không để một sai sót nào, dù có gặp phong ba bão tố cũng không cản
trở cuộc hành trình. Vì thế họ đã đề hàng chữ bên hông tàu rằng: “Cả đến Thiên
Chúa cũng không nhận chìm được!”
Con tàu nhổ neo đi từ Luân Đôn đến Nữu Ước, vào đêm
14-04-1912, lúc trời yên biển lặng, trong khi mọi người đang ăn uống, vui chơi
thỏa thích. Thình lình con tàu bị va chạm mạnh vào một tảng băng ngầm làm xẻ
đôi con tầu, cắt đứt hàng chữ “kiêu ngạo” bên hông, và tàu từ từ chìm xuống đáy
đại dương, chôn sống 1.513 hành khách!!
Ôi bao nhiêu chất xám của rất nhiều kỹ sư nổi tiếng đổ vào
con tầu khổng lồ, tối tân chưa từng có cũng chìm lỉm dưới lòng đại dương! Rõ
ràng con tàu vĩ đại ấy chưa gặp một trận cuồng phong nào mà đã bị xé đôi như thế!?
Thua xa tầu của ông Noe làm theo Lời Chúa chỉ dẫn, ông chỉ
là “tay ngang” đóng tầu, con tầu thiếu cả bánh lái, thế mà ông Noe đã điều khiển
con tàu đi suốt 40 ngày đêm lênh đênh trên biển cả mà không hề hấn gì! (x St 6,
13t) Thật chí lý khi nhắc lại Lời Chúa Giêsu đã khẳng định: “Ngoài Ta ra các ngươi không thể làm gì được!”
(Ga 15, 5c).
LỄ KÍNH THÁNH GIUSE
Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi
là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống
với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công
chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến
cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận
Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ
sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi
tội.”
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa
truyền.
TRUYỆN KỂ
1. Thánh Giuse, Người
Cha Tuyệt Vời
Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn
tựa đề “Người Cha” như sau: Trong gia đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô
con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu
đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô
thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ
nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh v.v…
Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên cô gái thường
về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy
tờ cho ổn định rồi mới ra về.
Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối.
Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện
ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía cô.
Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe
hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy
vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa
khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì
cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không
tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là
đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm
này.
Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm
vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không kịp suy
nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và chiếc
xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là cô
thoát nạn!
Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã
đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến.
Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.
Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người cha hết
lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao.
Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa Giêsu,
thánh Giuse.
2. Người thợ tuyệt diệu
cho mái ấm tình yêu
Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh
Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc. Người đã trở
thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là Mái Ấm Tình
Yêu.
Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền Hình Bình Dương hoàn tất
bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất Tiếng Hát.” Bộ phim này
hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người câm điếc. Vai chính
là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận An.
Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn tay lại thành mái nhà đặt
ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia đình.
Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.
Không phải chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái tim, cả một đời
cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo dựng một mái ấm gia đình đầy
tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành “mái nhà” đầm ấm yên vui,
nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.
3. Cha tôi
Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật cảm động, có
tựa đề: Cha tôi.
“Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà.
Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm
nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’.
Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông
bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho
con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm
nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn
tay!’”
Người con đã có được tình thương đối với cha mình vì người
cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết sức nhạy bén.
Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái: Không phải là tiền
bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý giá nhất.
4. Những nụ hôn yêu
thương
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người
cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không, yêu con mà kết quả lại
làm hại con, như câu chuyện dưới đây:
“Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của
mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người
cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một
cái hộp.
“Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với
cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua quà cho bố nên con xin
tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của
mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn
giận của ông lại bùng lên.
“Ông mắng đứa con gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng…
Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó
đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố
mà!’.
Người cha giật thót tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa
con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!
Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong
một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi
khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến
tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.”
Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận được những
chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời
này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân
thành như thế!
5. Con còn tiền lẻ
không?
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người
cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền
lẻ không?”
“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như
2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho
tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy,
nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền
lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ
không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để
lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông
theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!… ”
Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm bắt nhu cầu
của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương của Chúa Giêsu: “Tôi
hy sinh mạng sống vì đàn chiên.”
6. Thánh Giuse, Người
Chồng Tốt, Người Cha Hiền
Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ về sự trợ giúp của thánh
Cả Giuse như sau:
Tại một giáo xứ miền quê, vào một đêm kia, có ông già lạ mặt
đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh nhân là một người đàn ông
trong làng.
Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục nhanh chóng đến nhà bệnh
nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì không có ai trong nhà
đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn lo cho người bệnh
đang hấp hối.
Không kịp tìm hiểu, vị linh mục ban những bí tích cuối
cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người đàn ông ra đi bình an,
kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.
Khi xong xuôi mọi việc, vị linh mục đi tìm ông cụ già lạ mặt
để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy ông cụ
già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ ra một điều gì đó,
thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng yêu mến thánh
Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy khốn. Con
tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con trong
cơn nguy tử.”
Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình và nhớ lại: ông cụ già
kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!
Câu chuyện trên là một lời minh chứng hùng hồn cho thấy:
Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho những ai chạy đến với Người. Tất cả những
ai đến với thánh Giuse, đều được Người ra tay cứu vớt, phù hộ.
7. Thánh Giuse là con
người nhỏ bé được Chúa chọn
Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập
ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David
Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã
cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê
Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần.
Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ
có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn
mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta
chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở
thành một công ty của những người khổng lồ”
Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những
công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.
8. Chúa yêu thích sự
công chính đạo đức.
Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã
nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn
chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở
nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều.
Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại
mà không cần có sự đạo đức”
rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định “Và tôi khẳng định rằng
không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo
đức.”
Đây là lời của sách Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu
sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan?”
(Kn 8,5).
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các
hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.
9. Sống đời công
chính
Thánh Augustinô nói: “Sống công chính tốt lành không gì
khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”…
“Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển
nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức
để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống
đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công Giáo
1,25,46).
Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc
6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy
đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết
không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy
cháu ạ.
Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu
không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì
cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo
nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho
Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và
nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi,
cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì
có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng.
10. Thánh Giuse, quan
thầy giáo hội hoàn vũ, giáo hội Việt Nam
Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được
mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh
Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi
tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…
Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse
19.3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền giáo: vào chính
ngày nầy, 19.3.1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở
Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội
Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.
12. Đấng giữ gìn các
kẻ đồng trinh
Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng
trinh.” Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người
tận hiến đời mình cho Chúa.
Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống,
gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người
quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng
Thành phố đã thuê với số lương 7000 $ một tháng.
Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm
đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc
quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của
phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không
thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong
xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên
ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người
quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng
người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn
tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để
tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét
lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường,
rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương
còn cao hơn xưa.
”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ
ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)
13. Mối tình của
Dolores và Donald
Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày
07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood, tiến bước trên thảm
đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn
phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm
nay (2023) mẹ Dolores đã 87 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở
Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.
Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21, đã đóng nhiều
phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì
Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim
lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ
hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã
hết lòng yêu Dolores.
Ông Donald là một trong những người thắc mắc nhất trong số
những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng
đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phới một cách dễ dàng không vương vấn,
không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể
lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa
làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu!
Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì thấy
Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi
dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp
điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể lại là nghe
Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại
đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều
này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến
nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là
những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều
kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho
nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!
Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy
không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể thay thế được
Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần
vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm
2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di chúc hiến tất cả
tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ
công ích.
Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và Donald đã
hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa: một người
thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một người thì
chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.
LỄ TRUYỀN TIN
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ
Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là
Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ
và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc
phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý
nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với
Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên
cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu
Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người
sẽ vô tận.”
Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào
được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền
Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi
là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc
tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ;
vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như
lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo biệt Bà.
TRUYỆN KỂ
1. Khiêm nhường đón
nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong
những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ
sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu.
Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy
Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta.” Trương Lương
vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không
một lời cám ơn.
Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần
nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.”
Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế.
Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây.”
Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền
dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song
toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng
phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông.
Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức
Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận.
Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ
có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
2. Ơn Chúa cần được cộng
tác
Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ
gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh
mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.
Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở
làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh
đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia
đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không
xử dụng đến.
3. Khiêm nhường là sống
theo sự thật
Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là
con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được
Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng
Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…
- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do
Thiên Chúa.
"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn”
(Lc 1,48)
"Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả”
(Lc 1,49)
"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao
những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người
giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể
thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva
thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong
công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm
chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu
ngạo.
4. Thị kiến của thánh
Catarina Emmerrich
Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy
quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.
Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ
ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp
trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh
sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy
Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng
chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.
Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về
phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía
tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra
từng dòng chữ lửa.
Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé
khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn
nơi tôi điều sứ thần truyền.”
5. Tờ giấy và cây viết
Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến
những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải
trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu
truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.
Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn
khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu
cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà
nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại
làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu,
anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”
Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi,
tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ
nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh
trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi,
và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con
người.”
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một
bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở
thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ
tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy
làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của
con người.
Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của
Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một
dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của
Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.
6. Đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được
Cha Giuse Lê Quang Uy kể: Có một thiếu nữ người Pháp mà
tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de
Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị
liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để
xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái
không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: “Tôi không hề
được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giêsu muốn tôi được chia nỗi
đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã
chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi… Từ nay, tôi xin được làm
Tông Đồ của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ… ”
Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường
bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh.
Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những
người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá
thai, của những người khuyết tật khốn khổ…
Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi
không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu
hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép
và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác…
Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay
cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh
Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học
khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu
nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…
Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm
của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để
một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc
Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.
Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên
hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận
Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ
là những “sứ giả”, những “thiên thần” được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho
biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh
khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta…
Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời
chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền Tin” của Thiên Chúa thông qua một “sứ
giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi
chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu
nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần
khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: “Đối
với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc,
xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a:
“Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”
7. Câu Thánh Kinh đẹp
nhất
Có một bà mẹ đã hỏi đứa con nhỏ của mình như sau:
-Theo ý con, câu nào trong Kinh thánh đã làm cho con thích
thú hơncả?
Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình cờ lật phải ngay trang
nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt long lanh, đứa bé đã nói với mẹ:
-Thưa má, hai tiếng xin vâng của Đức Maria là hai tiếng đã
làm cho con thích thú hơn cả.
Đúng thế, không gì đẹp bằng hai chữ xin vâng trên cặp môi
của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng thời, cũng không gì đẹp
bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi người chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa
được chu toàn.
8. Người mẹ được chọn
Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ
ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:
Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.
Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.
Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.
Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức
và nhân hậu.
Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra
mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ
được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức
Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong
công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài
(x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”
Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười
giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như qua những lời giáo huấn của Hội Thánh.
9. Món quà tình yêu người
mẹ
Có một người con gọi về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, con đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì không con?
– … Dạ, không Mẹ… hôm nay sinh nhật con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh
của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ. Con… con chỉ muốn nói với Mẹ rằng…
hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý
giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là
tình yêu của mẹ.
10. Mẹ thưa xin vâng
để trở nên người mẹ
Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm
tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu
hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là
gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI
ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì
ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh
thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự
chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối
vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.
Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin
vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống
và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế.