Lời Chúa tuần 3 mùa chay - câu truyện minh họa

LỜI CHÚA TUẦN 3 MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA

CNMC 3A

CNMC 3B

CNMC 3C - CÂY VẢ KHÔNG SINH TRÁI

THỨ HAI

THỨ BA

THỨ TƯ - CHU TOÀN LỀ LUẬT

THỨ NĂM - NHẬN RA BÀY TAY CHÚA

THỨ SÁU

THỨ BẢY

LỄ KÍNH THÁNH GIUSE

LỄ TRUYỀN TIN

 

 

CNMC 3A

Li Chúa: Ga 4, 5-42

Tin Mng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi y, Chúa Giêsu ti mt thành gi là Sykar thuc x Samaria, gn phn đt Giacóp đã cho con là Giuse, đó có giếng ca Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mt, nên ngi ngh trên ming giếng, lúc đó vào khong gi th sáu. Mt người đàn bà x Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bo: "Xin bà cho tôi ung nước" (lúc y, các môn đ đã vào thành mua thc ăn). Người đàn bà Samaria thưa li: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà li xin nước ung vi tôi là người x Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thip gì vi người Samaria).

Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhn biết ơn ca Thiên Chúa ban và ai là người đang nói vi bà: "Xin cho tôi ung nước", thì chc bà s xin Người, và Người s cho bà nước hng sng.” Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì đ múc, mà giếng thì sâu, vy Ngài ly đâu ra nước? Phi chăng Ngài trng hơn t ph Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã ung nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vt ca người?"

Chúa Giêsu tr li: "Ai ung nước giếng này s còn khát, nhưng ai ung nước Ta s cho thì không bao gi còn khát na, vì nước Ta cho ai thì nơi người y s tr thành mch nước vt đến s sng đi đi.” Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó đ tôi chng còn khát và khi phi đến đây xách nước na.” Chúa Giêsu bo: "Bà hãy đi gi chng bà ri tr li đây.” Người đàn bà đáp: "Tôi không có chng.” Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà nói "tôi không có chng" là phi, vì bà có năm đi chng ri, và người đàn ông đang chung sng vi bà bây gi không phi là chng bà, bà đã nói đúng đó.” Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thy rõ Ngài là mt tiên tri. Cha ông chúng tôi đã th trên núi này, còn các ông, các ông li bo: phi th Giêrusalem.”

Chúa Giêsu đáp: "Hi bà, hãy tin Ta, vì đã đến gi người ta s th phượng Chúa Cha, không phi trên núi này hay Giêrusalem. Các người th Ðng mà các người không biết, còn chúng tôi th Ðng chúng tôi biết, vì ơn cu đ t dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến gi, và chính là lúc này, nhng k tôn th đích thc, s th Chúa Cha trong tinh thn và chân lý, đó chính là nhng người tôn th mà Chúa Cha mun. Thiên Chúa là tinh thn, và nhng k tôn th Người, phi tôn th trong tinh thn và trong chân lý.” Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðng Messia mà người ta gi là Kitô s đến, và khi đến, Người s loan báo cho chúng tôi mi s.” Chúa Giêsu bo: "Ðng y chính là Ta, là người đang nói vi bà đây.”

Va lúc đó các môn đ v ti. Các ông ngc nhiên thy Ngài nói truyn vi mt người đàn bà. Nhưng không ai dám hi: "Thy hi bà ta điu gì, hoc: ti sao Thy nói truyn vi người đó?"

By gi người đàn bà đ vò xung, chy v thành bo mi người rng: "Mau hãy đến xem mt ông đã nói vi tôi tt c nhng gì tôi đã làm. Phi chăng ông đó là Ðng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đ gic Ngài mà rng: "Xin mi Thy ăn.” Nhưng Ngài đáp: "Thy có ca ăn mà các con không biết.” Môn đ hi nhau: "Ai đã mang đến cho Thy ăn ri chăng?"

Chúa Giêsu nói: "Ca Thy ăn là làm theo ý Ðng đã sai Thy và chu toàn công vic Ngài. Các con chng nói: còn bn tháng na mi đến mùa gt đó ư? Nhưng Thy bo các con hãy đưa mt mà nhìn xem đng lúa chín vàng đã đến lúc gt. Người gt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hng sng, và như vy k gieo người gt đu vui mng. Ðúng như câu tc ng: K này gieo, người kia gt. Thy sai các con đi gt nhng gì các con không vt v làm ra; nhng k khác đã khó nhc, còn các con tha hưởng kết qu công lao ca h.”

Mt s đông người Samaria thành đó đã tin Người vì li người đàn bà làm chng rng: "Ông y đã nói vi tôi mi vic tôi đã làm.” Khi gp Người, h xin Người li vi h.

Và Người đã li đó hai ngày, và vì nghe chính li Người ging dy, s nhng k tin Người thêm đông hn, h bo người đàn bà: "Gi đây, không phi vì nhng li ch k mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe li Người và chúng tôi biết Người tht là Ðng Cu Thế.”

TRUYN K

1. Tìm kiếm

Theo mt truyn thuyết, thánh Tôma Aquinô k v mt người đàn ông khi nghe nói v mt con nga rt đc bit đã quyết tâm s hu nó cho riêng mình. Ông đã đi du lch khp nơi trên thế gii. Ông đã tiêu toàn b tài sn ca mình. Ông đã dành c cuc đi mình đ tìm kiếm con nga này.

Cui cùng, ngay trước khi chết, ông nhn ra rng mình đang cưỡi trên con nga rt đc bit đó sut thi gian qua! — Có l bn đang tìm kiếm hnh phúc? Đng tìm đâu xa. Không nhìn xa hơn trái tim ca chính bn. Hãy m rng tm lòng ca bn vi Chúa qua Con ca Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Người s ban cho bn nước hng sng mà Người đã ha vi người đàn bà bên giếng. Bn không bao gi còn phi khát na.

2. Hóa giải cơn khát

“Linh hn tôi Khát khao Thiên Chúa, Thiên Chúa hng sng!” Cách đây ít năm, người ta quan sát thy mt con tàu đi trên b bin phía bc ca lc đa Nam M phát ra tín hiu cp cu.

Khi được mt tàu khác tiếp cn, các thy th báo cáo là: “Chết khát!” Và câu tr li là: “Vy thì đào nước lên. Bn đang ca sông Amazon.” Xung quanh h đu có nước ngt, và h không cn phi làm gì khác ngoài đào nước tng dưới cát, thế mà h vn chết khát vì nghĩ rng mình b nước bin bao quanh. —

Người ta thường không biết Chúa và không biết Li Ngài. Tht đáng bun khi h phi chết vì thiếu hiu biết! Trong Mùa Chay này, chúng ta được mi gi đến giếng nước và gp g Chúa Giêsu. Người s ban cho chúng ta nước hng sng, là nước không bao gi cn vì nó phát xut t Chúa, và nó làm du cơn khát sâu xa nht ca chúng ta – cơn khát Thiên Chúa.Linh hn tôi khao khát Chúa Tri, là Chúa Tri hng sng!” Và đây là Tin Mng ca ngày hôm nay. (Cha Lakra).

3. Nước là sự sống

Mohandas Gandhi, nhà khoa hc ln ca n Đ, đã chng minh cho c thế gii thy rng mt người có th nhn ăn trong mt thi gian dài – hàng tun – nhưng thiếu nước thì s chết.

Tôi không biết ai đó có th sng thiếu nước được bao lâu, nhưng chc chn không lâu lm. Mt em bé không ung nước s b mt nước và chết ch sau vài ngày. Còn người ln ch tn ti lâu hơn mt chút. Cht duy trì s sng duy nht mà chúng ta cn thường xuyên hơn nước là không khí. Vy nước là điu cn thiết cho s sng. Theo mt nghĩa nào đó, nước là s sng. đâu không có nước, đó không có s sng.

Cây xương rng, lc đà, cây c trong sa mc có th thích nghi vi điu kin thiếu nước, nhưng không có bt kỳ sinh vt sng nào trên trái đt này có th sng mà không có nước. – “Nước là s sng.” Thiếu nước là chết. Khát là đi din vi cái chết.

* Không có gì ngc nhiên khi Chúa Giêsu dùng nước và cơn khát đ giáo hun v đi sng thiêng liêng.

4. Trở thành ngón tay

Nhà thn hc rt được kính trng Karl Barth treo mt bc tranh v cnh Chúa chu đóng đinh trên tường phòng làm vic ca ông do ha sĩ Matthias Grunewald v.

Trong bc tranh có hình nh ca ông Gioan Ty Gi. Ha sĩ v chân dung Gioan Ty Gi ch tay vào cây thánh giá ca Chúa Giêsu chính gia bc tranh. Người ta nói rng khi Barth nói chuyn vi mt v khách nào đó v công vic ca mình, ông thường hướng h đến Gioan Ty Gi trong bc tranh và nói: “Tôi mun tr thành ngón tay đó.”

Barth mun hướng mi người đến vi Chúa Kitô.

* Hướng người ta đến vi Chúa Kitô là nhim v quan trng ca chúng ta vi tư cách là dân ca Ngài. Tin Mng hôm nay nói v mt trong nhng nhà truyn giáo hiu qu nht đã tng sng, mt ph n.

5. Mong muốn

Có mt b phim hot hình mà tôi đã xem trước đây, trong đó có mt cu bé quỳ bên giường đc nhng li cu nguyn trước khi đi ng. Cu cu nguyn: “Ly Chúa, như Ngài biết, th hai là ngày đu tiên con đi hc. Con hy vng Ngài s không mt du con trong đám đông. Amen.” Sau đó, cu leo lên giường. Nhưng suy nghĩ trong mt phút, cu li bò ra ngoài và thêm vào li cu nguyn ca mình: “Ôi, nhân tin, Chúa ơi, con s là người mc qun soóc đ và áo phông đng phc.”

* Ging như cu bé này, người ph n trong câu chuyn hôm nay cũng cn người nào đó nhìn nhn mình. Ch đã đánh mt cuc sng ca chính mình và mong mun Chúa Giêsu đón nhn ch.

6. Dám khác biệt

Hãy dám khác bit trong mi lĩnh vc ca cuc đi bn. Dám đng mt mình. Dám đng lên bo v nim tin ca mình, ngay c khi đám đông xung quanh bn có th đi theo hướng khác. Dám làm mt k di dt vì Chúa Kitô.

Vi Li Chúa và quyn năng ca Thánh Thn, hãy dám tr thành mt chiến sĩ cho Chúa Kitô. Hãy dám bước theo du chân ca Chúa chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và Con Người. Hãy dám vác thp t giá và đi theo Chúa Giêsu bt c nơi nào Người dn dt bn. Dám là mt Kitô hu thc s vi mt xác tín mnh m. Dám nói “không” vi nhng thú vui nht thi mà thế gian mang li. Dám nói vi người khác v Cha trên tri ca bn. Dám đng lên vì s thánh thin, thun khiết và toàn ho như mt chú chim b câu, bt k điu gì xy ra (Judy Sara Mathew).

7. Làm điều không thể

Mt câu chuyn đáng kinh ngc v quyết tâm và thành công được thut li v Musa Alami, mt quý ông người Rp tt nghip ti Đi hc Cambridge. Ông đã làm cho sa mc Giuđê n hoa như đóa hng.

Ông đã vượt qua sông Giôđan đến rìa thành Giêricô, ri đến sa mc rng ln, hoang vng và khô cn ca thung lũng Giôđan. Ngoi tr mt vài c đo, không có gì được trng trt vùng đt nóng và cn ci này. Mi người đu nói rng không th trng trt gì được vì không th mang nước đến nơi này. Musa hi: “Còn vic khai thác nước ngm thì sao?”

Mi người cười to và nói: “Có ai nghe nói v mt điu như vy trong sa mc này không?” Không có nước dưới sa mc nóng bng đó, và trong nhiu thi đi nó được bao ph bi nước Bin Chết; và bây gi cát đy mui, càng làm tăng thêm s khô cn ca nó. Musa Alami quyết đnh rng ông có th tìm thy nước đó. Mt vài người t nn nghèo khó t Tri t nn Giêricô gn đó đã giúp ông trong vic đào bi. H đào, không phi bng thiết b máy khoan nào, mà bng cuc và xng.

Ngày qua ngày, tháng qua tháng h đào. H đào trong sáu tháng, ri mt ngày n, h thy cát bên dưới m ướt, và cui cùng nước ngt phun ra.

* Nhng người Rp t tp đó, không c vũ mà khóc lên vui mng. Nước đã được tìm thy trong sa mc c đi! (John Rose trong John’s Sunday Homilies; do cha Botelho trích dn).

8. Tìm kiếm

Mt ln n, có mt người ph n phi đi mi ngày mt dm đ ly nước t mt cái giếng công cng. Tri qua năm tháng, ch tr nên mt mi vi vic đi ly nước. Bt k ch ta mang bao nhiêu nước v nhà, kết cc vn là mt thùng rng.

Ri mt ngày n, ch đang làm mt s công vic trong khu vườn nhà thì mt góc xa, ch bt gp mt phiến đá ln nm trên mt đt. Tm đá b rêu bao ph hoàn toàn. S tò mò ca ch bùng lên. Ch dn sch rêu sau đó d phiến đá lên và phát hin ra mt cái giếng xinh xn. Ch y đã rt vui mng và xúc đng.

* Ch s không bao gi phi thc hin hành trình mt mi đ đi ly nước ngoài giếng na. Bây gi ch đã có mt ngun nước vô tn ca riêng mình. (Flor McCarthy in New Sunday và Holyday Liturgies).

9. Phá bỏ rào cản

Mt s bn có th đã đc cun sách Tri súc vt ca George Orwell. Câu chuyn hơi ging mt chuyn c tích nhưng nó thc s là mt phê phán v mt chế đ chính tr nào đó. Cun sách k câu chuyn v cách nhng con vt trong mt trang tri đui người nông ch tên Jones và gia đình ông ta và tiếp qun trang tri.

Đàn vt mun có mt cuc sng tt đp hơn và bt đu có cái nhìn cách mng rng tt c các loài đng vt đu bình đng và tt c tài sn đu phi được chia s. Chng my chc, nhng con ln nm quyn kim soát và mt trong s chúng, Napoléon, tr thành th lĩnh ca tt c các loài đng vt. Nhưng ri hn ta tr thành bo chúa. Bình đng gia các loài đng vt b loi b, và nhng con ln li dng và lm dng nhng con vt còn li trong trang tri.

Nhng con ln li dng nhng con vt khác cho mc đích riêng ca chúng và loi b chúng nếu chúng không còn hu ích. — Đôi khi chúng ta đu biết cm giác b người khác li dng và lm dng là như thế nào. Mt thc tế ai cũng biết là khi người ta cm thy mình b lm dng và bn cht tt ca h b bóc lt, h tr nên nghi ng, cay đng và thn trng vì s b tn thương ln na. Rào cn được dng lên, các mi quan h b xa lánh, bi vì h không bao gi mun b li dng và lm dng na.

* Tin Mng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã d b hàng rào đnh kiến như thế nào đ cu mt ph n ti li.

10. Tình yêu là gì

Trong câu chuyn v cuc đi tôi, Helen Keller đã viết v cách mà giáo viên ca cô, Annie Sullivan, đã dn dt cô khi cô còn là mt đa tr thoát khi thế gii tăm ti mà chng mù và điếc đã giam cm cô.

“Tôi bui sáng ln đu tiên tôi hi ý nghĩa ca t Tình yêu. Đây là thi đim trước khi tôi biết nhiu t… Cô giáo ca tôi đã c gng hôn tôi nhưng lúc đó tôi không mun ai hôn mình ngoi tr m tôi. Cô Sullivan vòng tay nh nhàng quanh tôi và đánh vn vào tay tôi, CÔ YÊU Helen. Tôi hi: “Tình yêu là gì?” Cô y kéo tôi li gn cô hơn và nói: đây,” ch vào trái tim tôi, ln đu tiên tôi cm nhn được nhp đp ca nó…‘

Bn không th chm vào tình yêu, nhưng bn cm nhn được s ngt ngào mà nó tràn ngp trong mi th. Nếu không có tình yêu, bn s không hnh phúc. ’…” (J. Maurus in Source Book of Inspiration; do cha Botelho trích dn).

11. Nhịp cầu thiêng liêng

T khi cu M Thun được đưa vào s dng, con đường v min Tây như ngn li, đôi b sông Tin gn gũi nhau hơn. Đi sng thn linh và đi sng phàm trn cũng như hai b sông cách xa vi vi. Cn có nhng nhp cu ni lin dòng sông thiêng liêng giúp con người đi v gp g Thiên Chúa.

Hôm nay, khi m đu câu chuyn vi người ph n Samaria, Đc Giêsu đã bc nhng nhp cu ni lin dòng sông ngăn cách. Thái đ gn gũi ca Người là nhp cu xoá đi biên gii ngăn cách chng tc, tôn giáo. Li Người chính là nhp cu dn vào đi sng thn linh.

12. Đại bàng không biết mình

Mt người nông dân vào rng, lượm được mt trng đi bàng. Anh đem v cho p chung vi trng gà. Ít lâu sau đi bàng n ra cùng lũ gà con. Nó c tưởng mình là gà. Sut ngày theo gà m bi đt m sâu. Nó c sng kiếp gà như thế cho đến lúc già. Mt hôm nó thy trên tri xanh mt con chim ln khng khiếp, cánh giang rng như che kín c bu tri. Con chim bay tht cao và có nhng đường lượn tht là đp đ. Đi bàng ta kinh khiếp hi bác gà trng: "con gì mà khng khiếp quá nh.””

“Đó là đi bàng. Đi bàng thuc v tri cao. Chúng ta thuc v đt thp. Chúng ta ch là gà.” Đi bàng c sng kiếp gà như thế cho đến chết.

Người ph n là cánh đi bàng. Ch đã trút b mi gánh nng kéo trì đôi cánh, nên ch bay vút lên cao. Còn ta vn ch là loài gà. Ta vn còn bên này cu. Nhng gì người ph n b li, ta ôm ly mang v. Ta vn còn ôm p nhng gic mơ trn tc. Ca ci, dc vng vn là nhng tng đá ngăn chn dòng nước đc tin. Nhng ngy tín, nhng o tưởng, nhng th đo đc hình thc, gi hiu vn còn che chn không cho ta nhn biết chính mình. Và vì thế ta không bao gi gp được Chúa.

13. Cái khát của tâm hồn

Mt người sp chết khát trong sa mc nhưng vn c lết v phía trước, mong tìm thy được mt git nước. Mt anh sáng lên khi thy t đng xa có mt cái túi da. Mt túi nước chăng? sa mc, nước là s sng. Hai tay run ry, anh chp ly cái túi, m ra… và thy mt nm vàng bc, châu báu. Hoàn toàn tht vng, anh ngã gc xung, buông xuôi. Trong sa mc anh mi thy được là mt git nước còn quí hơn vàng bc.

Trước khi đưa Dân Chúa vào Đt Ha, Chúa đ cho h đi qua sa mc. Trong sa mc, h chu lt sch mi o tưởng đ tr v vi con người tht ca mình, và phi đng trước mt chn la mang tính sng còn ca đi người: "Ông đưa chúng tôi ra khi Ai-cp đ làm gì? Có phi là đ cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vt ca chúng tôi b chết khát hay không?” (Xh 17,3).

Cái khát ca thân xác cho thy phn nào cái đói t đáy sâu tâm hn

14. Được thỏa lòng

Thy Léon là mt tu sĩ dòng Phanxicô được b trên phân công may áo cho các tu sĩ, và thy tn ty vi công vic đến hơi th cui cùng.

Khi sp lìa trn, thy nói vi anh em đang đng xung quanh: “Xin anh em đem cho tôi chiếc chìa khoá m ca thiên đàng.” Nghe thế, anh em đem đến cho thy cun sách “Chìa khoá m ca thiên đàng.” Nhưng thy lc đu. Thế ri anh em thay nhau đưa đến các vt dng đo đc, các sách tu đc, v.v… thy vn lc đu. Cui cùng, có mt tu sĩ hiu được ý ca Léon nên chy đi tìm cây kim khâu thy vn dùng t nhiu năm qua.

Mt Léon sáng lên, thy n mt n cười khi trông thy cây kim và nói: “Đây chính là chìa khóa m ca thiên càng ca tôi”, ri thy tt th.

Thy Léon được no tho ngay t cuc sng thường ngày, khi âm thm chu toàn mi bn phn ca mình. Lương thc thy dùng là lương thc ca Đc Kitô, “là thi hành ý mun ca Đng đã sai Thy” (Ga 4,34).

15. Cái vòng luẩn quẩn

Mt linh sư n đ phái nhim nht rt hài lòng vi s tiến b ca mt đ t. Nghĩ rng anh không còn cn đến s dìu dt ca mình na, thy lng l b đi đ li cho người đ t mt túp lu tranh xiêu vo và mt chiếc áo rách. Sáng nào, người đ t này cũng ra sông Hng đ thanh ty theo đúng nghi thc, và git chiếc áo rách - tài sn duy nht ca anh.

Mt hôm, thy chiếc áo rách b chut cn nát, anh phi vào làng xin mt chiếc áo cũ khác đ mc. Nhưng s phn chiếc áo đó cũng vy. Thế là anh xin mt con mèo v nuôi đ tr chut. Nhưng các vn đ bt đu theo nhau ny sinh: Con mèo không quen vi nhng món ăn nhim nht ca anh nên anh phi xin thêm cơm và bánh tương đi ngon hơn; xin hoài cũng bt tin, anh xin hn mt con bê đ nuôi ln thành bò mà ly sa nuôi mèo; nuôi bò mt nhiu công ct c, kín nước, làm mt gi cu nguyn nên anh thuê mt chú bé đ ch chăm lo cho con bò.

Bò m sinh bò con, phi thuê thêm người, nên anh nuôi thêm nhiu bò cho khi phí nhân công. Chng bao lâu sau anh đã làm ch mt nông tri giàu có, li thy cn mt người đ chia s ưu tư và gánh nng cai qun cái sn nghip đ s y, anh quyết đnh cưới v, và sinh con …

Mười năm sau, v linh sư tr li nhưng không th nào tìm được túp lu xiêu vo ngày xưa. Khi gp người hc trò cũ, ông hi: “Sao li thế này?”, anh đ t k li câu chuyn, bt đu t chiếc áo rách!

Chiếc áo rách đó là cái vòng đói khát lun qun trong đi người đi tìm mt hnh phúc không có Thiên Chúa.

16.”Có Chúa ở trong tôi không?”

Có mt cuc đi thoi đc đáo gia mt người tân tòng và mt người vô thn như sau:

- Anh đã theo đo Công giáo ri sao?

- Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đc Kitô.

- Vy xin hi anh, Ông Giêsu sinh ra quc gia nào?

- Rt tiếc là tôi quên mt chi tiết này.

- Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tui?

- Tôi cũng nh không rõ nên chng dám nói.

- Vy ông ta đã thuyết ging bao nhiêu bài?

- Tôi không biết.

- Qu tht anh biết quá ít, quá mơ h đ có th qu quyết là anh đã theo đo.

- Anh nói đúng mt phn. Tôi rt h thn vì mình đã biết quá ít v Đc Kitô. Thế nhưng điu mà tôi biết rt rõ là thế này: Ba năm trước tôi là mt người nghin rượu sáng say chiu xn, n lút đu lút c, gia đình tôi xung dc trm trng, bao nhiêu ca ci tôi đu nướng vào các cuc men say tuý luý. Mi ti, khi tr v nhà, v con tôi đu tc gin, bun ti và xu h.

Thế mà bây gi tôi đã dt khoát b rượu và đã c gng tr được hết n, gia đình tôi đã tìm li được hnh phúc. V tôi, các con tôi ngóng trông và vui mng đón đi tôi sau khi tôi đi làm v. Nhng điu này, không ai khác hơn chính là Đc Kitô đã làm cho tôi, và đó là tt c nhng gì tôi biết v Người.

“Có Chúa trong tôi không?”

17. Chạy theo ảo tưởng

Triết gia người Đc, ông Schopennauer khám phá: “Nhng lc thú mà thế gian cng hiến cho con người cũng ch như nm cơm b thí cho người hành kht, ch làm du cơn đói hôm nay, ri ngày mai li đói.”

Cha Anthony de Mello cũng nhn đnh tương t: “Vic tho mãn dc vng không gii thoát chúng ta khi dc vng, nhưng to thêm mt dc vng khác còn mãnh lit hơn đ ri cái vòng ln qun: khát khao – tho mãn, tho mãn – khát khao… c tiếp din mãi không cùng”… li càng ngày càng tăng “đô” hơn. Và c thế, người ta phi chu dày vò, thiêu đt vì s ngn la khao khát trong lòng mình.

Augustinô là người mi mê tìm kiếm lc thú trn gian sut nhiu năm trường nhưng không gì trên thế gian có th lp đy trái tim khao khát ca ngài, mãi đến tui 33, nh ơn soi sáng và li nguyn cu liên l ca người m thánh thin là Mônica, Augustinô mi tìm được Thiên Chúa là Đng đem li cho ngài nim hoan lc vô biên. By gi lòng đy hoan h, Augustinô thưa vi Chúa: “Ly Chúa, Chúa đã dng nên con cho Chúa, vì thế hn con mãi thn thc khôn nguôi, cho đến khi được ngh yên trong tay Ngài.”

Qua Tin Mng hôm nay, Chúa Giêsu ch cho người ph n Samari cũng như cho chúng ta mt Ngun Sui mang li hnh phúc: “Ai ung nước ny s li khát, còn ai ung nước Tôi cho, s không bao gi khát na. Và nước Tôi cho s tr thành nơi người y mt mch nước vt lên, đem li s sng đi đi.” (Ga 4,13-14)

18. Cơn khát đam mê

Người ta k rng: có mt người th đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay cng thiên đàng, thánh Phê rô hi:

trn gian con làm ngh gì?

– Anh ta thưa: Con làm ngh đào vàng.

– Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiu th đào vàng ri.

–Thưa ngài, xin c cho con vô, đ con cai tr bn nó, ko chúng tham lam mà gây náo lon thiên cung, làm sao dp lon.

Nh do ming anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đo mt vòng thiên đàng thì qu tht có rt nhiu tay th đào vàng đang thiên đàng.

Anh ta lin r tai rng: ho ngc va phát hin ra mt m vàng mi. Các anh mau xung đó mà đào. Thế là mt thoáng qua đi, các tay đào vàng đã b thiên đàng, vác cuc, vác xng nhy b xung ho ngc tìm vàng. Nhìn quanh nhìn qun ch còn li mt mình, anh cũng cm thy đng ngi không yên. Anh lin xin phép thánh Phê rô cho anh xung tham quan mt vòng ho ngc xem sao. Thánh Phê rô mi bo anh: đng có mà o tưởng. Chng có m vàng nào ho ngc đâu! Ch có s chết mà thôi!

Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đn đó, nhưng biết đâu đó li có vàng tht thì sao? Vì bn kia đã ra đi mãi mà chng thy đa nào quay tr li. Chc là có vàng tht! Nói xong, anh lin nhy luôn xung ho ngc. Thế là c đng, c chùm dưới ho ngc.

Lòng tham ca con người tht khôn cùng, sn sàng hy sinh c hnh phúc đi đi đ tho mãn cái khát vng thp hèn trn gian mau qua.

19. Món quà vô giá

Có mt người Rp nghèo n phi băng qua gia sa mc trong cơn đói khát và mt l. Tình c, người đó bt gp mt dòng sui. Vi tt c tm lòng biết ơn ông ta un tng ngm nước và cm thy ngt ngào khôn t. Ông múc nước đ vào bu da cho đy và tiếp tc cuc hành trình.

Sau nhiu ngày vt v, ông đã đến th đô Baghdad. Tìm đ cách đ được tiếp kiến quan đu tnh, ông dâng kính cho quan tng vt là chính bu nước. Quan đu tnh đón nhn món quà mt cách vui v. Cho nước vào trong ly, ông ung cn và cám ơn người Rp, đng thi tưởng thưởng ông mt cách qung đi.

Nhng người hu cn c nghĩ thm rng đây là mt th nước kỳ diu nên ai cũng mong được nếm th. Nhưng quan đu tnh nht mc t chi…

Ch cho người Rp đi khut, quan mi gii thích v c ch ca mình. Nước đ lâu trong bu da đã tr nên bn và hôi thi. Quan nghĩ rng nếu tt c mi người đu ung nước đó và đu t thái đ khó chu trước mt người Rp, ông ta hn s b tn thương.

Người Rp c tưởng mình trao tng cho quan đu tnh món quà diu kỳ. Hóa ra là chính quan đu tnh mi là người tng cho anh món quà vô giá, vi mt phong cách trao ban hết sc tế nh và thm đm tình người.

20. Cho thì có phúc hơn là nhận

Ngày n có mt người ăn xin đi khp làng, nhưng anh chng xin được gì vì nhà nào cũng đóng ca. Anh bèn tìm cách đi ra khi ngôi làng vào gia lúc ban trưa nng đ. M hôi nh nhãi, mt mi vì đói, chán nn vì b t chi, anh ngi xung bên v đường. Bên cnh anh là mt cái túi cha mt nm ht bp. Anh d đnh chiu ti v nhà s đem ra xay thành bt, làm mt cái bánh ăn cu đói.

Thình lình mt anh sáng lên khi nhìn thy chiếc xe ca vua t đng xa đang tiến li gn. “Nhà vua ni tiếng là mt người t tế”, anh t nghĩ. “Ngài s không l đi qua mà chng cho mình cái gì.” Ri anh chun b đng lên, ch đi hi hp. Anh tht khoái chí khi thy chiếc xe ca vua t t chm li. Qu vy, nó đã ngng li ngay ch anh đng vi đôi bàn tay giang rng ch đi xin x.

Ca xe m ra và nhà vua xut hin. Người ăn xin cúi gp người xung d tính nói: “May phước thay, thưa hoàng đế. Xin ngài b thí cho tôi t hèn mn này mt ít tin.” Nhưng nhà vua đã chìa tay ra trước và nói: “Xin bn dành cho vua mt ht bp nh được không?” Người ăn xin hoàn toàn ng ngàng trước biến c l lùng này. Ly li bình tĩnh, anh nói: “ Thưa hoàng đế, xin vâng lnh.” Ri m chiếc b ra, liếc nhanh vào trong, anh nht ly mt ht bp nh nht, và đưa cho vua vi li xin li rng đây là tt c lương thc anh có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khi, đ li cho người ăn xin mt cm giác trng rng và tht vng ê ch.

Sut ngày ngi ăn xin bên bên v đường mà chng được gì, khi hoàng hôn xung anh tr v nhà bun bã, mt mi và đói bng. Ngay khi v đến nhà anh bt đu làm bếp, đ hết s ht bp trong b ra. Khi kim tra li nhng ht bp, anh git mình khám phá thy rng ht bp nh nht đã được thay thế bng mt ht vàng ròng cùng c. Trong nui tiếc, anh ngi than th rng nếu biết được món quà nhà vua mun cho, anh đã cho vua tt c s bp đang có trong b. Nếu làm như thế, bây gi anh đã tr thành mt người giàu có và không bao gi phi đi ăn xin na!

21. Thiên Chúa là nguồn sự sống

Ông Tng thng Mitterand là nhà lãnh đo ca nước Pháp trong 14 năm và được dân Pháp quý mến, xem ông như mt thn tượng. Trong nhng năm tháng cui đi, ông có dp nhìn li cuc đi đã qua và viết li nhng dòng nht ký đáng đ chúng ta suy nghĩ. Trang nht ký có ta đ ‘Tôi đang chun b cái chết’. Ông viết: “Lúc nh, tôi được dy phi đc kinh, nhưng thay vì đc kinh tôi li thích thinh lng và suy nim. Tôi suy nim v tôi, v Thiên Chúa, và v ý nghĩa cuc đi. Lm khi tôi t hi không biết tôi có tin Thiên Chúa hay không, nhưng t trong thâm tâm, tôi luôn b thúc đy phi tin Ngài. Nếu không tin, cuc sng ca tôi s tr nên vô nghĩa và hoàn toàn trng rng.”

Ông viết tiếp: “Ai mà không cm thy khao khát mun vươn ti hnh phúc và mun được sng mãi. Mt lúc nào đó, bn s cm thy l loi và b mt hút trong thế gii vĩnh hng.

“Pascal đã nói chính xác rng s đến lúc thân xác mong manh ca bn b ngã đ. Bn s chết, s không còn hin hu nơi trn thế này na. Nhưng t trong thâm sâu, bn vn có ước mun được trường tn, được sng và được sng mãi. Nim khao khát đó, không mt th trn gian này có th lp đy.”

22. Hạnh phúc trong tay ta

Ngày xưa, có mt đo sĩ dy cho các môn sinh bí quyết đ tìm ti hnh phúc. Ông ging dy rt uyên bác. Mt thanh niên bm trn đến gp ông và thách đ: “Thưa Thy, Thy ging dy rt thâm thúy, nhưng tôi ch xin hi Thy mt câu thôi. Trong tay tôi là mt con chim, đ thy biết đó là con chim sng hay con chim chết?”

Câu hi ma mãnh ca chàng trai nhm gài by v đo s vì trong tay anh ta, con chim đang còn sng s b anh ta bóp chết, nếu v đo s tr li rng đó là con chim sng. Nhìn nét mt qu quyt ca người thanh niên tr, v đo sĩ nói thng vào mt anh ta: “Con chim này sng hay chết là do anh.”

Ông nói tiếp: “Cũng vy, hnh phúc có đến được vi chúng ta hay không còn tùy thuc vào s la chn t do ca mi người.”

Trong mùa chay, Giáo hi mi gi chúng ta sám hi đ tr vi Chúa và vi nhau. Chúng ta hãy hướng v Thp giá Đc Giêsu, kín múc cho mình ngun nước s sng đ tâm hn chúng ta luôn được an bình và vươn đt ti hnh phúc trường cu.

23. Khát vọng vô biên của con người

Andre Frossard, mt ký gi người Pháp đã cho xut bn cuc phng vn Đc Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con ca mt người theo ch nghĩa Marxit. Chính ông đã tng là mt người cng sn đy xác tín…

Ngày n, ông phi đưa mt người bn đến mt tu vin. Trong lúc ch đi người bn, ông tò mò bước vào mt nhà nguyn có đt Mình Thánh Chúa. Ông không bao gi nghĩ rng Chúa đang ch đi ông. Trong phút chc, ông bng nhn ra mt ánh sáng thiêng liêng trong tâm hn. Bng dy sau mt cơn mê tăm ti, ông bước ra khi nhà nguyn chy tc tc đến người bn và hô ln: “Thiên Chúa hin hu. Đó là mt chân lý.”

Ông đã ghi li kinh nghim thiêng liêng y trong mt quyn sách vi ta đ: “Thiên Chúa hin hu, tôi đã gp Ngài.” Quyn sách đã được lit kê vào danh sách nhng tác phm bán chy nht (best-seller)…

24. Những Sinh Vật của Thói Quen

Có hai v chng bác nông dân kia cm thy cn phi sa cha cái chung gia súc cũ. Nóc chung thì dt, mt vài tm ván ghép tường b mc, còn sàn chung bng đt li li lõm nên b đng nước mi khi tri mưa. Thế ri chung mi được xây lên và chung cũ b phá hy trước khi mùa đông đến.

Sáng hôm sau, trước khi đi ph mua thêm đ dùng, bác cho gia súc ra đng c và đ ca chung m phòng h nh khi thi tiết đi xu. Mà tht, thi tiết tr nên xu thm t. Nhit đ xung thp dn, mưa bt đu rơi và nước mưa chuyn thành băng. Bác nông dân cm thy rt vui khi nghĩ my con vt gi đang được m áp trong căn chung mi. Khi bác v ti nhà lin đi thng ra chung thú vt, nhưng căn chung trng rng chng có con vt nào c. Bác vi chy ra ngoài tìm kiếm và thy mt cnh tht l lùng. Đó là my con vt trông tht ti nghip, chúng nép vào vi nhau và trên lưng chúng thì ph đy băng tuyết; đng thi chúng li đng trên cái nn chung cũ, cnh y tht là Nhng Sinh Vt ca Thói Quen.

Chúng ta th Chúa không phi ch làm nhng vic theo thói quen như đi nhà th hay đc kinh nhưng phi th Chúa trong c đi sng chúng ta.

CNMC 3B

Li Chúa:

TRUYN K

1.

CNMC 3C - CÂY VẢ KHÔNG SINH TRÁI

Li Chúa: Lc 13, 1-9

Tin Mng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi y, có nhng k thut li cho Chúa Giêsu v vic quan Philatô giết my người Galilê, làm cho máu h hoà ln vi máu các vt h tế sinh.

Ngài lên tiếng bo: "Các ngươi tưởng rng my người x Galilê b ngược đãi như vy là nhng người ti li hơn tt c nhng người khác x Galilê ư? Ta bo các ngươi: không phi thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hi ci, thì tt c các ngươi cũng s b hu dit như vy.

Cũng như mười tám người b tháp Silôe đ xung đè chết, các ngươi tưởng h ti li hơn nhng người khác Giêrusalem ư? Ta bo các ngươi: không phi thế. Nếu các ngươi không ăn năn hi ci, thì tt c các ngươi cũng s b hu dit như vy.”

Ngài nói vi h d ngôn này: "Có người trng mt cây v trong vườn nho mình. Ông đến tìm qu cây đó mà không thy, ông lin bo người làm vườn rng: "Kìa, ba năm nay ta đến tìm qu cây v này mà không thy có. Anh hãy cht nó đi, còn đ nó choán đt làm gì!"

Nhưng anh ta đáp rng: "Thưa ông, xin đ cho nó mt năm nay na, tôi s đào đt chung quanh và bón phân; may ra nó có qu chăng, bng không năm ti ông s cht nó đi.”

TRUYỆN KỂ

1. Hãy trở nên người tốt

Có ln, mt sinh viên nói vi nhà khoa hc và triết hc Blaise Pascal: “Nếu em được tài gii như thày, em s tr thành mt người tt hơn.” Pascal tr li: “Điu đu tiên là em hãy tr thành mt người tt hơn, ri em s được tài gii như thày.”

Theo ông Pascal, điu đu tiên cn phi làm là hãy là mt người tt, ri sau đó mi có hy vng và kh năng tr thành người tài gii. Cu hc trò trong câu chuyn trên li có quan đim ngược li, ch khi nào mình tài gii thì mi tr thành người tt. Như thế, điu kin đt ra phi là người gii, xem ra rt xa vi và o tưởng. Con đường đt ti thành công xem ra ch là nhng mơ ước hão huyn.

2. Cơ hội thứ hai

Có mt câu chuyn v mt cây vĩ cm như sau:

Cây vĩ cm b rn nt, người ta dán li và đem ra bán đu giá. Người bán đu giá nghĩ rng chng nên phí thi gi chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vn tươi cười cm nó lên và rao bán:

- Thưa quí v ai s bt đu tr giá đu tiên đây?

Mt đng, ri hai đng. Ch có hai đng thôi sao? Ai s tr nó ba đng đây. Vâng, mt người tr ba đng. Không ai tr hơn sao?

Bng t cui phòng, mt người đàn ông tóc hoa râm bước lên cm ly cây đàn, ông lau sch bi chiếc đàn cũ k, ri lên dây li. Sau đó, ông tu lên mt bn nhc êm du, ngt ngào, du dương như bài ca ca các thiên thn. Tiếng nhc dng li, người bán đu giá chm rãi, hi:

- Tôi s ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cm này đây?

Đon ông va cm đàn lên va nói:

- Mt ngàn đng, và ai s tăng lên hai ngàn? Hai ngàn ri, có ai chu tăng lên ba ngàn không? Mt người chu giá ba ngàn, còn na không?

Đám đông h hi reo vui, nhưng có vài người trong h la lên:

- Chúng tôi hoàn toàn chng hiu cái gì đã làm thay đi giá tr cây vĩ cm đó?

Lp tc có tiếng đáp li:

- Chính nh đôi tay người ngh sĩ chm vào đy!

3. Không biết tội của mình

Một ngày kia có hai người phụ nữ tìm đến một vị ẩn sĩ già để xin ông chỉ đạo cho mình.

Một người thấy mình là người có rất nhiều tội nặng nề...Bà tỏ ra rất đau buồn về những lỗi làm của bà.

Còn bà thứ hai thì vẫn thấy mình sống theo luật Chúa, không phạm tội, chẳng thấy mình có điều gì đáng trách nên rất hài lòng về những gì mình đang sống.

Sau khi nghe hai người bảy tỏ tâm hồn của mình, vị ẩn sĩ nói với người phụ nữ thứ nhất:

- Hỡi nữ tỳ của Thiên Chúa, con hãy đi ra ngoài hàng rào kia tìm một tảng đá thật to rồi cố mang về đây cho ta.

Sau đó Ngài quay sang phía người đàn bà thứ hai và bảo:

- Phần con, con không phạm tội gì nặng, nhưng con cũng hãy đi ra ngoài và kiếm cho ta một bao đầy đá sỏi nhỏ .... rồi cũng mang về đây cho ta.

Hai người vâng lời ra đi. Được một lúc sau thì họ trở về. Một bà vác một tảng đá rất to - một bà mang một bao đầy những hòn sỏi nhỏ.

Sau đó vị ẩn sĩ lại bảo người đàn bà tội lỗi:

- Con hãy đem tảng đá này đặt lại vào đúng vị trí của nó lúc nãy …..rồi hãy trở lại đây báo tin lại cho ta.

Ngài cũng bảo người đàn bà thứ hai y như vậy.

Rồi cả hai người lại quay ra. Người đàn bà có tội nặng rất dễ dàng đặt lại tảng đá lại vào đúng vị trí cũ của nó, còn người đàn bà thánh thiện thì không có cách nào làm được việc đó bởi vì bà không thể nhớ hết được những vị trí những viên sỏi nhỏ mà bà đã lượm lên khi nãy. Bà đành quay trở lại với bao sỏi trên vai. Bấy giờ vị ẩn sĩ mới cắt nghia cho họ nghe.

- Con thấy không, con đã đặt đúng tảng đá vào đúng vị trí của nó vì con biết rõ nó nằm ở chỗ nào.

Rồi ngài quay sang phía người phụ nữ thứ hai và nói:

- Phần con, con không thể đặt những viên sỏi này vào vị trí cũ trước đây của chúng vì con không biết đã nhặt chúng ở đâu.

4. Thay đổi chính mình là bước đầu tiên

Lời tâm sự của một nhà hiền triết khi nhìn về cuộc sống đã qua của mình.

Ông tâm sự như sau: "Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng say của tuổi trẻ, tôi thường nguyện xin Thiên Chúa ban cho được sức mạnh biến đổi thế giới này trở nên tốt hơn. Đến lúc tôi được nửa đời làm người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi đổi lại lời cầu nguyện cho được thiết thực hơn:

- Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con được sức mạnh để đổi thay cuộc sống của những người con được dịp tiếp xúc hàng ngày, những người thân trong gia đình, những bạn bè quen thuộc. Nếu được như vậy thì con cũng thỏa mãn bằng lòng rồi.

Nhưng rồi giờ đây, khi tuổi đời sắp chấm dứt, tôi sắp từ giã trần gian để về với Đấng đã ban cho tôi sự sống, tôi ý thức sự ngông cuồng điên rồ của mình, tôi thay đổi lời cầu nguyện lại:

- Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời sống con.

Nếu ngay từ thời thanh xuân tôi đã cầu nguyện như vậy, thì có lẽ, tôi sẽ không hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.

Vâng! - Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời sống con. Nếu ngay từ hôm nay con biết sống như thế thì có lẽ sau này, con sẽ không hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.

5. Sửa mình từ chuyện nhỏ

Ngày kia một giáo sư già đi chơi qua khu rừng, bên cạnh có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào bốn cây gần đó. Cây thứ nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn, cây thứ ba lớn hơn và cây thứ bốn đã khá to rồi. Thầy nói: Trò hãy nhổ cây thứ nhất. Chỉ với hai ngón tay, cậu đã nhổ dễ dàng.

Thầy tiếp: Bây giờ con hãy nhổ cây thứ hai. Cậu phải dùng cả hai tay. Nhổ tiếp cây thứ ba, cậu phải dùng hết sức lực hai cánh tay mãi mới nhổ được. Thầy nói: Bây giờ hãy cố gắng nhổ cây thứ tư. Hai cánh tay ôm lấy thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh.

Thầy nhẹ nhàng bảo: Đó con thấy không. Về các tính hư và tật xấu của ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng đâm rễ sâu trong tâm khảm và trong thân xác, con sẽ khó mà trừ khử.

Chúng ta biết các thói hư tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu cũng có thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên phát triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình với các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ. Tội lỗi có một ma lực kéo lôi và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt giống sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở thành tật bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành thánh thiện.

6. Hãy sám hối

Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.

Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.

Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”

Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng. Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”

Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ thần, người đàn ông giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi.”

Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu.”

Dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, đây cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay.

7. Đổi mới cách nhìn

Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh được chiếc viễn vọng kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân thượng, và đêm đêm, ông nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.

Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra một con rồng xanh trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn kéo đến để được nhìn thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn. Thế nhưng, có một nhà bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi đã xem qua, ông lắc đầu và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông khám phá ra một sợi chỉ xanh vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên văn:

- Này anh bạn, trước khi quan sát các vì tinh tú, anh hãy coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?

8. Thinh lặng để lục soát lương tâm

Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một cái sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy, chúng con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con.”

Mười lăm phút sau, khi thau nước trở nên phẳng lặng, ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại câu hỏi trên. Các học trò trả lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt của chính chúng con.” Bấy giờ vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết trở về trong tĩnh lặng nội tâm, chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình.

Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh tâm để giúp chúng ta đi vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn lại bản thân.

9. Sám hối và canh tân

Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một anh chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách. Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi nghịch ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một lần cho có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói: “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một giấc mơ tuyệt vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng.” Cha xứ kiên nhẫn và lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì.

Anh nói tiếp:“Thưa Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi người trèo lên một cái thang bắc tới trời. Trên cái thang đó, các thiên thần ghi lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi tội của Cha, thang của con ghi tội của con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa gần hết những tội của con. Một lát sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi với lên: “Con còn phấn không, cho Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch rồi.”

Kể xong câu chuyện, chàng thanh niên chuồn thẳng, còn Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.

Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh em linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương mẫu, nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.

Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người chúng ta luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.

10. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng

Sáng hôm ấy, Thầy giáo cho các em học sinh một trò chơi. Thầy chia học sinh trong lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm phải lần lượt đưa ra đáp án cho câu hỏi của thầy. Nhóm nào thắng sẽ được một gói quà, nhóm nào thua phải quét lớp.

Câu hỏi được ghi lên bảng như sau: Em hãy cho biết công dụng của viên gạch.

Hai nhóm lần lượt đưa ra các câu đáp như sau: Gạch được dùng để xây nhà – lót đường đi, lót sân – kê chân bàn, chân tủ – chặn cửa – chận bánh xe – chặn giấy - kê thành bếp nấu ăn (khi đi trại) – làm gối kê đầu khi dã ngoại - giã lương thực (giã gạo) thay cho chày – dùng thay búa để đập – tự vệ trước đối thủ - tấn công đối thủ, ném chó – làm thớt – vân vân…

Không ngờ viên gạch xem ra quá đỗi tầm thường mà có thể mang lại nhiều công dụng như thế.

Tiếp đến, Thầy giáo đề nghị nêu lên công dụng của cây xương rồng bà, loại cây nầy có nhiều gai tua tủa trên hai mặt lá, thân cao từ một đến hai mét, mọc dày trên những đồi núi khô cằn.

Hai nhóm lại lần lượt nêu lên những công dụng sau: trồng làm hàng rào bảo vệ nương rẫy - thức ăn cho dê cừu (sau khi dùng rơm rạ đốt cho cháy xém) - che chắn gió - phủ xanh đồi trọc - chống xói mòn - cung cấp trái cho chim chóc - ủ làm phân xanh, vân vân…

Cũng không ai ngờ cái thứ xương rồng đầy gai góc, tưởng là vô tích sự đáng chặt bỏ kia lại cống hiến cho đời nhiều công dụng tốt lành như thế.

Sau cùng, Thầy giáo nêu lên câu hỏi thứ ba: Em hãy cho biết ở nhà, ở trường và ở trong xóm làng, em đã tự nguyện làm được những việc gì?

Đến đây, nhiều khuôn mặt hồn nhiên trở nên đăm chiêu tư lự, một số em vò đầu, nhiều em cắn bút suy nghĩ hồi lâu mà chỉ ghi được một vài công việc phải làm vì bắt buộc.

Qua Tin Mừng Luca (13, 6-9), Chúa Giêsu đề cập đến một cây vả vô tích sự. Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 6-9)

11. Cứ từ từ

Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ là Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ của mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.

Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người ta là không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.” Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”

Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế Satan trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người thôi, vì người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt theo công phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm nơi chứa tội.”

Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói với loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được hàng vạn linh hồn.”

Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta bằng ý tưởng “thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi, rối vợ rối chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối cùng, như cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.

Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ chết, nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng con hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi, đang đi, đang ngủ… Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của Thánh Anphongsô).

12. Phải sinh hoa kết trái

Câu chuyện vào một đêm bão tuyết rơi lạnh lẽo, bỗng dưng có tiếng gõ cửa. Ông chủ khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin, một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy đáng thương, ông chủ đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố thí xong, người thanh niên quay gót.

Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu là có nên mời người đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng đóng kín cửa.

Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh là người thợ chuyên đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên vô gia cư mới qua đời. Tài sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy xấu hổ. Ông hối hận vì điều tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải chết rét. Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.

Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn thực thi cái tốt, điều thiện. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu không được làm, mà Giáo lý Hội thánh Công Giáo còn đòi buộc cả những điều tích cực “Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta.”

Chúng ta được thôi thúc phải hoán cải ngay lúc này, khi đang còn thời giờ mới kịp. Mùa Chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ. Đừng để mùa Chay năm nay trôi qua vô ích.

13. Hoán cải tâm hồn--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas Asia

Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc sống xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong sa mạc. Các nhân đức thánh thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết đến, cũng như người ta biết đến cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng thành Alexandria. Tức giận vì thấy ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ ông phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng vị ẩn tu đang sống.

Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn tiếng giảng: Hãy ăn năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải thiện nếp sống để có hạnh phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm nở tối tàn, phù du và mau qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước theo Chúa để được niềm vui vĩnh cửu.

Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và nhìn sâu vào đôi mắt của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó Hôrôniô không ngừng giảng thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Những lời ông nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công chúa quyết tâm hoán cải. Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình nhân, tình yêu, cả cuộc đời trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật.

Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải, mà tấm lòng ông bị mê hoặc bởi sắc đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình kiều diễm khiêu gợi của công chúa. Ông tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối lạnh lẽo buồn bã này để thử nếm các vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm tu luyện, ẩn sĩ trở lại kinh thành tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ và chết trong cảnh thân tàn ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm trác táng mệt nhọc đã hoán cải tâm lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay tịnh cầu nguyện và chết vì hao mòn khổ hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng duy nhất của nàng.

14. Thấy được việc phải làm

Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày một sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.

Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.

Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một giọt nước cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào đấu tranh cho sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ da đen bị bắt giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy để nhường chỗ cho một hành khách da trắng.

Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn phận dẫn dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng khác để đáp ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của những thập niên của thế kỷ XX.

Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã thấy, Mẹ cảm nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người nghèo đói, bệnh tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của thành phố Calcutta, những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt cuộc đời họ chưa bao giờ kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia hy vọng.

Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người khác nữa không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng. Ngược lại họ đã nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để giải quyết.

Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong trào giải phóng người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung Vatican II và nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những người nghèo.

"Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu bằng cuộc sống thay đổi chính mình.”

15. Bánh xe dự trù

Có một lần đang đi trên một chiếc xe, bỗng nhiên chiếc xe từ từ chậm lại rồi dừng hẳn. Mọi người đều ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì xảy ra. Tài xế xuống xe, anh tìm chiếc bánh xe dự trù, nhưng anh đành thất vọng, vì nó không còn chút hơi nào trong đó. Anh đành xin lỗi mọi người và xin chờ đợi để anh tìm cách đem chiếc bánh xe đi vá lại, đem về ráp vào thì chiếc xe mới hoạt động tiếp tục được. Anh còn nói thêm: đã nhiều năm nay, chiếc xe nầy chạy rất tốt, không bao giờ bị như thế nầy. Tôi cũng xuống xe chờ đợi và nhìn thấy: những bánh xe, nó đã tới thời kỳ phải được xem lại, nếu không thì nó cũng sẽ lập lại tình trạng như thế nầy nữa.

Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì các ngươi sẽ như thế.

16. Sống tinh thần sám hối.

Một hôm, đi học về. Tuyền chạy ngay vào bếp rồi nũng nịu với mẹ rằng:

- Mẹ ơi, con đói bụng quá.

Mẹ ôn tồn:

- Chờ mẹ một chút, có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm về trễ…

- Tuyền vùng vằng khó chịu rồi bỏ đi lên nhà. Cho đến khi mẹ lên gọi ăn cơm Tuyền mới chịu xuống.

An cơm xong mẹ mới ôn tồn bảo Tuyền:

- Con lớn rồi. Đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong thì phải biết phụ mẹ lặt rau, hay dọn chén đũa chứ. Con không nên có thái độ như vậy.

Tuyền nhận ra mình đã làm cho mẹ buồn, tỏ ra hối hận và thưa mẹ rằng:

- Thưa mẹ, con xin lỗi mẹ. Từ nay con sẽ cố gắng không làm mẹ buồn nữa. Thế là mẹ ôm Tuyền vào lòng và nói: con rất ngoan, mẹ không buồn con nữa đâu.

Câu chuyện cho chúng ta thấy, bạn Tuyền là người biết sám hối, biết nhận ra lỗi của mình và mau mắn xin lỗi.

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng làm cho ông bà, cha mẹ, thầy cô,… buồn lòng về những tật xấu của ta như: không vâng lời, hay đánh nhau, chửi thề, nói dối…

Chúng ta hãy học nơi bạn Tuyền can đảm nhận ra lỗi của mình, rồi mau mắn xin lỗi ông bà, cha mẹ, thầy cô… Và quyết tâm sửa đổi những tính hư tật xấu.

Cũng vậy, để được Chúa tha thứ và để được sống với Chúa. Chúng ta hãy sám hối tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ những tính hư tật xấu để trở về với Chúa bằng cách: mỗi ngày xét mình, ăn năn dốc lòng chừa và năng lãnh nhận bí tích Giải tội.

17. Vui vì khi được tha thứ

Trong hồi ký của mình, Mahatma Gandhi, người cha tinh thần của dân tộc Ấn Độ, khiêm tốn và thẳng thắn thừa nhận rằng, khi mới mười lăm tuổi, ông đã lấy trộm một cục vàng nhỏ của anh trai mình. Vài ngày sau, anh cảm thấy rất tội lỗi và quyết định tẩy sạch tâm hồn bằng cách thú nhận với cha mình. Vì vậy, anh đã lấy một tờ giấy, viết ra lỗi của mình, thành khẩn xin cha tha thứ và hứa sẽ không bao giờ tái phạm.

Mang bức thư đó đến phòng ngủ của cha mình, Gandhi trẻ thấy ông ốm trên giường. Anh ta rất rụt rè đưa tờ giấy nhỏ cho cha mình mà không nói lời nào. Cha anh ngồi dậy trên giường và bắt đầu đọc mẩu giấy. Khi đọc nó, Gandhi cha đã vô cùng xúc động trước sự trung thực, chân thành và dũng cảm của cậu con trai mình đến nỗi nước mắt ông bắt đầu trào ra.

Điều này khiến người con trai cảm động đến nỗi anh cũng bật khóc. Một cách bản năng, cả hai cha con vòng tay qua nhau và không nói lời nào cùng nhau chia sẻ sự cảm kích và niềm vui của họ. Trải nghiệm đáng chú ý này đã tác động đến Gandhi đến nỗi nhiều năm sau đó, anh sẽ nói: “Chỉ người đã trải qua tình yêu tha thứ này mới có thể biết nó là gì.”

18. Thêm một năm nữa

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy về cách ân sủng hoạt động, diễn ra chậm nhưng chắc chắn. Chúa giảng một dụ ngôn về cây vả tưởng chừng như không sinh quả, nhưng được tạo thêm sự chăm sóc và một cơ hội khác để sinh hoa kết trái. Câu chuyện dụ ngôn là hư cấu. Tuy nhiên, việc cha Turquetil biến đổi người Eskimô không phải là hư cấu, mà là sự thật và là một minh họa tuyệt vời hơn nữa về hoạt động của ân sủng.

Cha Arsene Turquetil sinh năm 1876 gần Lisieux, Pháp. Ngài gia nhập Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, một dòng truyền giáo; và được thụ phong linh mục vào năm 1899. Sau đó ngài được phái đến vùng cực đông bắc của Canada để làm việc giữa những người bản xứ. Sau mười hai năm sống với người da đỏ, ngài được cử đi tiên phong trong một sứ mệnh sống giữa những người Eskimô quanh Chesterfield Inlet, ngoài khơi phía trên Vịnh Hudson.

Cha Arsene đã nỗ lực suốt 5 năm dài để thu phục những người ngoại đạo này đến với đức tin. Tuy nhiên, họ tụ tập lại chỉ để cười nhạo sứ điệp của ngài và chế nhạo Thánh lễ ngài cử hành. Bất chấp những thất bại liên tục, cha Turquetil không nỡ bỏ cuộc. Ngài xin với bề trên: “Cho con thêm một năm nữa.” Vị giám mục nói: “Được rồi, nếu cha kiên trì, thì một năm nữa cũng được.”

Đó là vào khoảng năm 1917. Khoảng thời gian đó, nhà truyền giáo nhận được một lá thư từ một người bạn ở quê nhà kể về việc Sơ Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một tu sĩ Lisieux, từ khi qua đời vào năm 1897, đã làm nhiều phép lạ như thế nào. Cha Arsene quyết định nhờ sơ giúp đỡ người Eskimô.

Bạn của cha ta đã gửi cho cha một gói bụi từ ngôi mộ của Sơ Têrêsa. Vì vậy, lần đó khi những người Eskimô tụ tập để nghe ngài, ngài đã bảo những người anh em giáo dân của mình bí mật đi vòng quanh phía sau những người bản địa và thả một chút bụi lên đầu mỗi người trong họ. Nó đã tác động. Vị linh mục đã có thể rửa tội cho một em bé ngay sau đó. Tiếp theo, vị tộc trưởng người Eskimô đột nhiên đến và nói: “Tôi muốn trở thành một Kitô hữu.” Rồi những người còn lại đã noi gương người lãnh đạo của họ.

Đó là một phép lạ thực sự của ân sủng, và nó cũng giúp đạt được việc phong thánh cho thánh Têrêsa thành Lisieux vào năm 1925. Khi cha Turquetil được phong làm giám mục người Eskimô của mình vào năm 1931, và nghỉ hưu vào năm 1943, chỉ còn có hai người ngoại đạo trong số những người Eskimô của Chesterfield Inlet! (Cha Robert F. McNamara).

19. Tôi có tội

Có một câu chuyện kể về việc vua Frederick II, một vị vua của nước Phổ ở thế kỷ thứ mười tám, đã đến thăm một nhà tù ở Berlin. Ông gặp hết tù nhân này sang tù nhân khác, và mỗi người trong số họ đều cố gắng chứng minh rằng họ đã bị giam cầm một cách bất công như thế nào. Tất cả đều tuyên bố mình vô tội, chỉ trừ một người.

Tù nhân này đang ngồi yên lặng trong một góc, trong khi tất cả những người còn lại phản đối sự kết tội dành cho họ. Thấy anh ta ngồi đó mà không để ý đến mọi chuyện khác đang diễn ra, vua bước đến gần anh ta và nói: “Con trai, tại sao con lại ở đây?” Anh ta nói: “Cướp có vũ trang, thưa ngài.” Nhà vua hỏi: “Anh có tội phải không?” Anh ấy nói: “Thưa đức vua, tôi có tội, và tôi xứng đáng có mặt ở đây.” Sau đó, nhà vua ra lệnh cho cai ngục và nói: “Hãy thả người tội lỗi này ra, ta không muốn anh ta thay đổi tất cả những người vô tội!”

20. Sám hối

The Mission (Truyền giáo) là một bộ phim năm 1986 kể về câu chuyện của một linh mục Dòng Tên người Tây Ban Nha đã đi vào rừng rậm Nam Mỹ để cải đạo những người bản địa làm nô lệ, những người đã phải chịu sự tàn ác của thực dân Bồ Đào Nha. Một trong những cảnh đáng chú ý nhất trong bộ phim này, đó là khi thuyền trưởng Mendoza, người đã giết anh mình trong cơn nóng giận, được nhìn thấy đang leo núi với chiếc ba lô nặng trĩu trên vai, như một hành động đền tội cho tội lỗi quá khứ của mình.

Chiếc ba lô, nơi chứa tất cả vũ khí của cuộc sống trước đây là một người buôn bán nô lệ, nặng đến mức anh ta không thể leo cao hơn trừ khi anh ta từ bỏ nó. Anh cảm thấy nhẹ nhõm khi một trong những người bản địa, người mà trước đây anh ta đã bắt làm nô lệ, đến bên cạnh anh ta. Người này đã tha thứ cho thuyền trưởng bằng cách cắt dây ba lô của ông với một con dao sắc, và như vậy, anh ta đã cứu mạng Mendoza thay vì coi đó là cơ hội báo thù của mình.

21. Một lời khuyên

 “Hãy về nhà và yêu thương vợ/chồng và các con của bạn.” Mẹ Têrêsa đã từng được một phóng viên hỏi xem mọi người có thể làm gì để xây dựng Hòa bình Thế giới và cải thiện điều kiện sống của thế giới chúng ta.

Không chút do dự, bà nói: “Hãy về nhà và yêu thương vợ/chồng và các con của bạn.”

22. Tội lỗi và tai họa

Các mục tử đôi khi gặp phải những người phải chịu bi kịch mà họ nghĩ là do tình trạng tội lỗi của chính họ gây ra. Ở đây chúng ta giữ cân bằng hai ý kiến ​​trái ngược nhau:

Một mặt, bi kịch đôi khi xảy ra một cách ngẫu nhiên, như trường hợp của những người Galilê và mười tám người Giêrusalem. Trong những trường hợp như vậy, nó không liên quan gì đến tình trạng tội lỗi. Ví dụ, cơn lốc xoáy phá hủy một hộp đêm cũng phá hủy một nhà thờ: nó giết chết người say rượu và cả giáo lý viên. Tuy nhiên, sự sám hối giúp chúng ta luôn sẵn sàng khi gặp phải tai họa không thể tránh khỏi. Nó giúp chúng ta sống một cách mạnh mẽ khi đối mặt với bi kịch, và nó cũng chuẩn bị cho chúng ta trước cái chết.

Mặt khác, tội lỗi đôi khi dẫn đến tai nạn. Ví dụ, người lái xe say rượu giết người vô tội. Người chồng bạo hành gây thương tích cho vợ, con của họ. Không phải tất cả bi kịch đều là kết quả của tội lỗi, nhưng một số là như vậy. Có lẽ cách tốt nhất để hình dung điều này là một vòng tròn nhỏ bên trong một vòng tròn lớn. Vòng tròn lớn là những bi kịch bất ngờ. Vòng tròn nhỏ là bi kịch do tội lỗi của chúng ta gây ra.

23. Cảm nhận ơn tha thứ

Câu chuyện kể về một giám đốc trẻ điều hành một công ty, tên là Thanh, người đã trượt ngã trước sự cám dỗ và bị phát hiện là phạm tội tham ô. Anh ta được gọi vào văn phòng của chủ tịch công ty. Anh sợ điều tồi tệ nhất xảy ra. Ông Dũng hỏi: “Thanh, bạn đã làm điều đó?” Thanh cúi đầu xấu hổ và lẩm bẩm: “Vâng, thưa ông.”

Ông Dũng tiếp tục: “Bạn đã thực hiện một quyết định tồi. Tôi biết rằng bạn nhận ra điều đó. Bạn là người thứ hai trong phòng này đã lựa chọn sai. Ba mươi năm trước, tôi đã làm điều tương tự như bạn đã làm, và một người đàn ông rất tốt bụng đã cho tôi một cơ hội khác. Tôi sẽ trao cho bạn sự cảm thông và cơ hội mà tôi đã nhận được vào ngày hôm đó. Bây giờ bắt đầu làm việc!”

Nghe đến đây, Thanh choáng váng. Lặng lẽ, anh rời văn phòng với lòng biết ơn và cảm giác nhẹ nhõm khó quên.

24. Mình hại mình

Có hai anh học trò cùng làng đi thi, một người đậu khôi nguyên, một người rớt. Dân làng lập bia ghi nhớ vị khôi nguyên đem lại vẻ vang cho dân làng. Anh học trò thi rớt sinh lòng ganh ghét nên đợi lúc nửa đêm đến chỗ người ta lập bia đá, đào bới để phá sập bia đá đó.

Cuối cùng, cái bia đá cũng đổ xuống như ý nguyện, nhưng cũng vừa khéo đè ập trên thân anh ta, khiến anh ta chết tại chỗ. Vì ghen tức mà anh đã làm điều ác để hại người, nhưng hoá ra chính mình lại tự hại mình, chứ không ai hại anh ta cả. Thiên Chúa là tình yêu, là Cha rất nhân từ, làm sao lại muốn con cái bị đoán phạt được! Nhưng những ai không sám hối thì tự mình đày đoạ mình xa lìa không được hưởng nhan thánh Chúa trên nơi vĩnh phúc.

25. Lòng thương xót

Một bà mẹ đến gặp Napoléon I để xin ân xá cho con trai mình. Nhà vua trả lời: “Ta không thể tha cho con trai bà, vì anh ta đã phạm tội lần thứ hai, và lẽ công bằng đòi hỏi ta phải xử tử nó.”

Thưa ngài, tôi không dám đòi theo lẽ công bằng, tôi chỉ van xin lòng thương xót của ngài”, bà mẹ khẩn khoản.

“Nhưng nó không xứng đáng được thương xót”, nhà vua nói thẳng.

“Thưa ngài, nếu con tôi xứng đáng, thì đâu còn gọi là lòng thương xót nữa. Vâng, chính vì con tôi bất xứng nên tôi mới phải cầu đến lòng thương xót của ngài”, bà mẹ nài nỉ… và cậu con trai đã được ân xá!

Tình yêu, cũng như lòng thương xót, là một điều gì đó thật bình thường, nhưng cũng rất huyền diệu! Khoa học giải đáp được rất nhiều câu hỏi trong cuộc sống con người, nhưng vẫn không sao có được một giải thích sau cùng về những qui luật của tình yêu. Tình yêu có những qui luật riêng của nó mà không ai giải thích được!

26. Hãy hối cải vì Chúa rất nhân từ

Mẹ Têrêxa Calcutta kể:

Tôi có cho một gia đình thượng lưu rất giầu có một đứa trẻ bị bỏ rơi mà chúng tôi đã nuôi ở nhà trẻ Shishu Bhavan. Mấy tháng sau, tôi nghe tin đứa trẻ rất ốm yếu và bị bại liệt hoàn toàn. Tôi đến gia đình đó và nói: ‘Xin trả đứa trẻ ấy lại cho tôi và tôi sẽ trao cho ông một đứa trẻ khoẻ mạnh’.

Người cha nhìn tôi và nói: ‘Hãy lấy mạng tôi trước đã rồi hãy đem đứa trẻ đi’. Ông đã yêu thương đứa trẻ bằng cả tâm hồn mình!”

Thật là một tình yêu tuyệt đẹp! Không đẹp sao được khi người cha đó trao cả tâm hồn cho đứa bé ngay khi nó là một đứa xấu xí, què quặt!

Còn vô vàn đẹp hơn thế là tình yêu Chúa! Dù là Chúa Tể trời đất, Ngài không hổ thẹn gọi tôi là con mà còn chuộc mạng tôi “khỏi chỗ vong thân” bằng giá máu Con Một Ngài!

Trước một tình yêu “như trời xanh cao vượt trên trái đất”, một tình yêu luôn mong đợi điều tốt đẹp nơi tôi: “may ra nó có quả chăng”, tôi còn tính toán thiệt hơn gì mà không đáp lại ngay với câu trả lời đẹp nhất.

Vâng! Hãy hối cải vì Chúa rất nhân từ.

27. Biết lắng nghe

Một tên trộm lấy cắp một máy thu băng trong một thánh đường ở Florida. Sau đó, khi mang về nhà, anh ta phát hiện trong máy đó có một cuốn băng. Vì tò mò, anh ấn nút máy và lắng nghe. Thì ra đó là bài giảng của một vị linh mục mời gọi người nghe lưu tâm đến những lời này của Chúa Giêsu: “Hãy thống hối tội lỗi.” Những gì đã nghe khiến tên trộm xúc động đến độ anh ta đem trả lại chiếc máy và cải thiện lối sống.

Nếu lúc này Chúa Giêsu xuất hiện trước mặt tôi và âu yếm hỏi: Đâu là khuynh hướng xấu mà tôi muốn sửa chữa, thì tôi sẽ nói gì?

Hờ hững với cái xấu thì tồi tệ hơn cái xấu (Joseph Fletcher).

THỨ HAI

Li Chúa: Lc 4, 24-30

(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói vi dân chúng t hp trong hi đường rng): “Qu tht, Ta bo các ngươi, chng có mt tiên tri nào được tiếp đón t tế quê hương mình. Ta bo các ngươi, chc hn trong thi Elia có nhiu bà goá Israel, khi tri hn hán và mt nn đói ln hoành hành khp nước sut ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến vi mt người nào trong bn h, mà ch được sai đến vi mt bà goá Sarépta x Siđôn thôi. Cũng có nhiu người phong cùi trong Israel thi tiên tri Elisêô, nhưng không mt người nào trong bn h được cha lành, mà ch có Naaman, người Syria.”

Va nghe đến đó, mi người trong hi đường đu đy phn n. H đng dy, đy Người ra khi thành và dn Người đến mt trin đi, nơi h xây thành, đ xô Người xung vc. Nhưng Người tiến qua gia h mà đi.

 TRUYỆN KỂ

1. Đời sống đức tin bị che khuất bởi lòng vị kỷ

Trong cun phim M do tài t Marcel Marso th din có k câu chuyn sau:

Mt thanh niên đang lim dim đôi mt tn hưởng ánh nng tuyt vi vào mt ngày đp tri. Nhưng bng nhiên nim vui ca anh b quy ry do tiếng n ào ca đám tr, tiếng chó sa, tiếng chim hót, tiếng người qua li. Mi tiếng đng đu có nguyên do và nim vui riêng ca nó, nhưng đi vi chàng, tt c đu tr thành cc hình.

Đ chng li s phin nhiu y, anh xây quanh mình mt bc tường ngăn cách âm thanh. Mi tiếng đng vng ti là mi ln anh gng sc xây. C như thế bc tường ln cao dn, cho đến lúc ngăn cn được hết mi tiếng đng, thì bc tường cũng che mt ánh nng tuyt vi, bc tường tr thành chiếc m khng l giam hãm anh trong đó.

Dân Do Thái cũng đã được tm gi ánh sáng. Đó là nim tin được trao ban t T ph Abraham. Tuy nhiên, vì t mãn, ích k, h đã hành đng chng khác gì chàng thanh niên trên. Không chu m lòng đón nhn khiến nim tin ca h tr nên khô cn mt sc sng. Xây lên bc tường đ bo v mình hoá ra li t hi chính mình.

2. Vượt thắng định kiến, để sống yêu thương

Mt du khách mi đi Trung Hoa v báo cáo rng gii trí thc Trung Hoa tuyên b: “Không, vic truyn giáo ca quý v không bám r vào đt nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyn giáo ca quý v mi đến chưa hiu gì đã tuyên b đo ca chúng tôi là sai lc.”

Và mt người Á đông khác cũng nói: “Các ông mun chúng tôi b nhng gì mà chúng tôi tin và chp nhn nhng gì mà các ông tin.”

Đi truyn giáo mà có đnh kiến thì thà nhà còn hơn.

3. Sư huynh hỗn xược.

Canađa, trong tnh Québec, mt sư huynh dòng Thin giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên trường trung hc Alma, va xut bn mt cun sách bàn v đường li giáo dc, nhan đ “Nhng s hn xược ca mt sư huynh (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác gi đã khéo áp dng mt li văn châm biếm, trào phúng nhí nhnh, làm cho quyn sách được đ nht ăn khách trong năm. Ch trong vòng mt tháng tri thôi, sách đã bán ra được mt s k lc là 30.000 cun.

Mt hôm trường đi hc Công giáo Montréal bng nhn nhp hn lên như đàn ong v t: Sư huynh Pierre Jérome, tác gi cun sách “Nhng s hn xược” nói trên, sp đến viếng trường. Toàn th nhà trường náo đng lên. T vin trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cng, đu hăng say phn khi t chc cuc tiếp rước.

V thượng khách đã t t tiến vào khung cnh văn vt ca trường đi hc, gia mt cuc khi hoàn trng th vĩ đi. Sau đó, Sư huynh đã lng ly ung dung bước lên din đàn ng li cùng 650 giáo sư và sinh viên.

Din gi đã thao thao bt tuyt mt thôi, l lướt như rng bay phượng múa, như hoa n sui reo. Nhng tràng pháo tay n vang lên liên tiếp, liên tiếp, chng t các thính gi được kích thích đến tt đ. C trường đi hc Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lch s trường đã bao gi có s phn khi nô nc như ln này chưa? Tác gi “Nhng s hn xược” sao mà huy hoàng trác tuyt đến thế?

. Nhưng sáng ngày hôm sau, h đã phi mt phen hú vía, tưởng chng hn lìa khi xác. Có người đến tiết l rng sư huynh Pierre Jérome hôm qua ch là mt sư huynh. th gi! Chàng là mt sinh viên quèn ca trường Kch ngh, ci trang trong b áo dòng và c trng ca các Sư huynh. đ thc tp mt phen!

C trường ut lên, tưởng ai ny hc máu chết tươi ti ch trước “s hn xược ca mt Sư huynh chưa tng thy này.

Thế mi hay sc ám th ca nhng người có tên tui mãnh lit đến chng nào!

4. Ông thợ đóng giày

Abraham Lincoln là mt tng thng vĩ đi ca nước M, thế nhưng ông li xut thân trong mt gia đình th giày. Xã hi M lúc đó rt coi trng thành phn xut thân trong gia đình quyn quý. Đi b phn ngh sĩ thượng ngh vin M đu xut thân trong gia đình thế gia vng tc. Là người ca xã hi thượng lưu M, h thy khó chp nhn mt v Tng thng là con trai ca mt th giày tm thường.

Ngày đu tiên làm tng thng, ngay khi Lincoln lên phát biu trong l nhm chc Tng thng, mt ngh sĩ đã chen vào gia bài phát biu ca ông. Ông ta nói: “Thưa ngài Lincoln, đng quên rng cha ngài thường đóng giày cho gia đình tôi.” Tt c các ngh sĩ đu cười m lên. H nghĩ rng h đã khiến Lincoln tr thành trò h.

Tuy nhiên, khi tiếng cười va chm dt, Tng thng Lincoln không cao ngo, cũng không t ti mà chân thành nói: “Thưa ngài, tôi biết rng cha tôi đã đóng giày cho gia đình ngài, cũng như nhiu gia đình các ngh sĩ khác… bi vì không người th nào có th làm được như ông. Ông là mt người sáng to. Giày ca ông không ch là giày, ông đã đ c tâm hn vào nó. Tôi mun hi các ngài rng, các ngài đã tng phàn nàn v giày ca ông chưa? Bn thân tôi cũng biết cách đóng giày; nếu các ngài có phàn nàn gì, thì tôi có th đóng cho các ngài mt đôi giày khác. Nhưng theo tôi thy thì, chưa ai tng phàn nàn v nhng đôi giày mà cha tôi đóng. Ông là mt thiên tài, mt nhà sáng to, và tôi t hào vì cha tôi!”

Các ngh sĩ nghe xong đu im bt. H thc s cm thy mt dư v nào đó. H đã công kích Lincoln bng nhng th li l dè bu cay nghit nht. Nhưng câu tr li ca Lincoln cho thy tm nhìn ca h không ln hơn cái giày, mt vt nm dưới gót chân con người, trong khi Lincoln và cha ông thy được và tìm kiếm điu cao nht ngay trong nhng vic tm thường nht.

THỨ BA

Li Chúa: Mt 18, 21-35

Khi y, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rng: “Ly Thy, khi anh em xúc phm đến con, con phi tha th cho h my ln? Có phi đến by ln không?”

Chúa Giêsu đáp: “Ta không bo con phi tha đến by ln, nhưng đến by mươi ln by. V vn đ này, thì Nước Tri cũng ging như ông vua kia mun tính s vi các đy t.

Trước hết, người ta dn đến vua mt người mc n mười ngàn nén bc. Người này không có gì tr, nên ch ra lnh bán y, v con và tt c tài sn ca y đ tr hết n. Người đy t lin sp mình dưới chân ch và van lơn rng: “Xin vui lòng cho tôi kht mt kỳ hn và tôi s tr cho ngài tt c.” Người ch đng lòng thương, tr t do và tha n cho y.

Khi ra v, tên đy t gp mt người bn mc n y mt trăm bc. Y tóm ly, bóp c mà nói rng: “Hãy tr n cho ta.” By gi người bn sp mình dưới chân và van lơn rng: “Xin vui lòng cho tôi kht mt kỳ hn, tôi s tr hết n cho anh.” Y không nghe, bt người bn tng giam vào ngc, cho đến khi tr n xong. Các bn y chng kiến cnh tượng đó, rt kh tâm, h lin đi thut vi ch tt c câu truyn.

By gi ch đòi y đến và bo rng: “Tên đy t đc ác kia, ta đã tha hết n cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chu thương bn ngươi như ta đã thương ngươi? Ch ni gin, trao y cho lý hình hành h, cho đến khi tr hết n.

Vy Cha Ta trên tri cũng x vi các con đúng như thế, nếu mi người trong các con không hết lòng tha th cho anh em mình.”

 TRUYỆN KỂ

1. Hết lòng tha thứ

“Tôi viết cho anh, người bn vào giây phút cui ca đi tôi… Vâng, tôi cũng xin nói vi bn tiếng Cám ơn và li Vĩnh bit này…

Ước gì chúng ta, nhng người trm lành hnh phúc, được thy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa mun, Người là Cha ca hai chúng ta.”

Đây là nhng câu cui trong di chúc ca cha Christian de Chergé, tu vin trưởng ca mt đan vin kh tu Tibhirine, nước Algérie, châu Phi.

Cha viết nhng câu này vào cui năm 1993 cho mt người nào đó s giết mình.

Ngày 21-5-1996, cha đã b nhóm Hi giáo vũ trang cht đu cùng vi sáu tu sĩ khác trong đan vin.

Cha Christian gi k s giết mình là bn, ch không phi là k thù hay sát nhân. Cha coi mình cũng là tên trm lành chng khác gì anh ta, cũng cn được tha th. Cha ch mong gp li anh ta trên Thiên đàng, vì c hai đu là con, cùng được tha vì được yêu bi Thiên Chúa.

2. Tha thứ

Tác gi tp sách Đường Hy Vng đã chia s như sau:

“Tính phê bình ch trích là mt tr ngi ln cho đi sng siêu nhiên. Ch tiêu cc phàn nàn k khác, con quy ry h, và muôn đng cay trong lòng con.

“Va chm người khác là s thường. Sng trong mt xã hi không va chm nhau ch có th là Thiên đàng. Mt hòn đá nh va chm mà bóng láng hơn, sch đp hơn.

“Phàn nàn là bnh dch hay lây, triu chng là bi quan, mt bình an, nghi ng, mt nhu khí kết hip vi Chúa.

“Bác ái không ch có yêu thương và tha th. Bác ái là c mt hành đng đ to bu khí mi gia cng đng xã hi, quc gia và quc tế, biến thế gii ca thú vt nên thế gii ca con người, biến thế gii ca con người nên thế gii ca con Chúa.

“Ch giây phút hin ti là quan trng. Đng nh ngày hôm qua ca anh em đ ch trích. Đng nh ngày hôm nay ca con đ khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đng nhìn ngày mai ca con đ bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá kh cho lòng nhân t ca Thiên Chúa, giao tương lai cho s quan phòng ca Ngài và giao tt c cho tình yêu Chúa.”

Xin Chúa hướng dn chúng ta trên con đường canh tân cuc sng đc tin và đc ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mi ngày được nên ging Chúa hơn đ xây dng hoà bình và hoà hp trong môi trường chúng ta sng.

3. Hãy biết “yêu” như Chúa

Có mt anh bn hi mt người Công Giáo rng: “Nếu đ nói mt câu ngn gn nht nhm tóm gn toàn b giáo lý v đo Công Giáo thì bn s nói câu nào?”; bn tr Công Giáo tr li, đó là ch: “Yêu.”

Tht vy, ch “yêu” là ch ct lõi ca đo Công Giáo. Vì yêu, Thiên Chúa dng nên tri đt và con người. Vì yêu, Ngài đã cu thoát h khi Ai Cp, đưa v Đt Ha. Vì yêu Thiên Chúa đã gi các ngôn s đến đ dy d dân. Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Mt ca mình đến đ cu chuc nhân loi. Đng y là Đc Giêsu. Khi Đc Giêsu đến, Ngài đã dy d, yêu thương, tha th cho k thù và cui cùng, vì yêu nên Đc Giêsu đã chết cho người mình yêu.

4. Tha đến đến bảy mươi lần bảy

Văn hào Ernest Hemingway đã k câu chuyn v mt người cha và cu con trai đang la tui thiếu niên. Mi quan h cha con ca h không được tt đp và luôn căng thng. Cui cùng, sau mt trn cãi vã kch lit, cu bé đùng đùng b nhà ra đi.

Tuy gin d và đau lòng, nhưng người cha biết rng con mình rt cn s un nn và dy d đ trưởng thành. Vy nên, ông đã bôn ba khp nơi đ tìm kiếm đa con ni lon. Cui cùng, khi ti Madrid, trong n lc cui cùng ca mình, ông cho đăng mt thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gp cha chiu mai trước ca tòa son. Mi ti li đu được tha th. Cha yêu con. Cha ca con.”

Chiu hôm đó, người cha đến tòa son tht sm vì ông không mun tr giây phút nào đ gp đa con thân yêu ca mình. Và điu bt ng là, ti đó, ông đã gp… 800 cu bé tên Paco. C 800 cu bé này đu đã b nhà ra đi và đu đang mong đi s gp được người cha rng lượng ca mình đó vi vòng tay dang rng yêu thương.

5. Bà Coritanbun tha thứ.

Lin sau thế chiến II chm dt, Coritanbun vi nhng vết so trên thân th, tàn tích ca nhng kh hình Bà phi chu trong tri tp trung Đc quc xã, đã đi khp Âu châu rao ging s tha th cho nhng k đã làm hi mình.

Thế nhưng vào mt Chúa nht n, sau khi kêu gi người hãy tha th cho nhau trong mt nhà th ca thành ph Munich, bước ra ngoài Bà bt ng đi din vi mt khuôn mt quen thuc. Đó là dung mo ca người lính đã hành h Bà và hàng ngàn n tù nhân khác trong tri tp trung. Nhng tiếng than khóc, nhng cnh tra tn, ri nhng tiếng kêu tr thù ni dy mnh m trong tâm trí Bà.

Lúc đó người đàn ông tiến li khiêm tn đưa tay ra va mun bt tay bà va nói: “Thưa Bà, tôi rt cm ơn nhng li tt đp ca Bà kêu gi s tha th. Xin Bà tha th cho tôi.” Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cu nguyn và quyết tha th tht s, nhưng gi đây đi din vi con người c th đã tra tn mình, bà đng im lng, tay không th nào bt tay người đến xin Bà tha th.

Sau này vào năm 1971 khi k li biến c y trong tp sách “Nơi n trn”, Bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lng đó, tôi đã c gng dâng lên Chúa li nguyn: Ly Chúa, Chúa thy con chưa th tha th cho người đã hành kh con. Xin Chúa hãy ban cho con nhng tâm tình ca Chúa đ con có th tha th như Chúa. Và chính trong lúc đó Bà đã hiu rng con người ch có th tha thư cho nhau khi nhìn nhn tình yêu thương và s tha th ca Chúa.

6. Chứng từ của một tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến.

Tác gi ca câu chuyn tên là bà Anne Furish, người Tip Khc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã b quân Đc Quc Xã bt gi. Đây là chng t bà k li:

“Mi ngày, nhng người lính canh ch cho chúng tôi mt mu bánh mì nh có dính c mt cưa, cho nên nhiu người trong chúng tôi ăn vào đã mc bnh. Nhng khi nhn được bánh mì đã khô cng không còn ăn được, thì chúng tôi vò li đ làm thành nhng ht chui.

đó, có mt tên qun giáo đc bit hung ác. Nếu mi tun hn không giết được hai tù nhân thì hn ta không ăn ng được. Tôi đã b hn đánh đp nhiu ln. Nhưng tôi vn hng cu xin Chúa cho tôi biết tha th cho hn, bi vì tôi biết rng, nếu tôi không tha th, thì thù oán có th đc khoét và tr thành đc dược phá hy tâm hn tôi.

“Tôi cu xin Chúa cho tôi có th nói vi hn thế này: “Tôi tha th cho anh và tôi thương yêu anh, bi vì Đc Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thp Giá.” Ln cui cùng, khi hn đánh đp tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã dùng trn đòn y đ nhn li tôi.

Sau trn đòn, tên qun giáo đưa tôi v tri giam. Và l lùng thay, t đó, hn đến thăm tôi mi ngày. Hn còn mang c sa ti và nh các tù binh khác dùng mung đút cho tôi ung na. Tôi b hôn mê nhiu ngày và khi tnh dy, tôi đã ngc nhiên hết sc khi thy tên qun giáo đang ngi bên cnh tôi. Lính tráng như h vì s lây bnh cho nên ít có khi nào h đến tri giam. Hn nói vi tôi:

- Cô hãy nói cho tôi biết ai là bn trai ca cô?

Tôi hi li hn:

- Ông mun nói gì?

Hn gii thích:

- Người bn trai tên là Giêsu ca cô đó! Tôi mun được nghe cô nói cho tôi biết v người đó!

Tôi hiu rng, Chúa đã cho tâm hn st đá này tr nên du dàng. Tôi bt đu khóc vì sung sướng. Và t lúc đó, tên qun giáo không bao gi đánh đp tôi na. Mi ngày hn đến thăm tôi và nghe tôi nói v Đc Giêsu, t lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thp Giá.

Mt ngày n, tên qun giáo li hi tôi:

- Cô có nghĩ rng, Chúa ca cô cũng yêu thương c tôi na không? Cô có nghĩ rng, Chúa đã tha th cho nhng gì tôi đã làm không?

Tôi nói vi hn ta:

- Dĩ nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn đ anh đến hi tôi v điu đó.

Năm 1946, vào mt đêm kia, người qun giáo y đến đánh thc tôi dy. Ông ra hiu cho tôi thinh lng và đưa tôi lên mt chiếc xe ti đu gn đy. Sau này tôi mi được biết là đúng lý ra, mt người đàn bà khác đã được chn đ di chuyn trong chuyến xe đó, nhưng ri bà ta li qua đi trong chính đêm y, nên người qun giáo đã tráo tên tôi vào tên ca người quá c. Tôi đã được cu sng trên chuyến đi này. Và cũng k t đó, tôi đã không gp li người qun giáo y na. Qua s tha th, tôi cm thy mình được t do đ yêu mến người khác. Thêm vào đó, tôi còn cm thy mình d dàng thông cm vi thân phn con người hơn! Phi, nh s tha th mà tôi đã trưởng thành hơn nhiu!

7. Tha thứ là nguồn sự sống

Cha Christian de Chergé mun sng tinh thn tr nh, nên ngài viết chúc thư cho mt người Hi giáo nào đó đang tìm giết ngài: “Thưa bn ca giây phút cui cùng, bn không hiu điu bn làm, cu xin cho chúng ta là nhng người trm lành được gp li nhau trên thiên quc, vì Chúa là Cha chung ca chúng ta!”

Ông Salman Rushdie là tác gi cun “Vn Thơ Ác Qu”, có tính cht bài Hi giáo, ông đã b giáo ch đo Hi là Khomenei ra lnh trao gii thưởng cho ai th tiêu được nhà văn này! Nghe thế, ông đã phi ln trn sang nước khác, và phi nh đến dao kéo gii phu khuôn mt mi thoát chết! Báo thù như Khomenei, v lãnh đo Hi giáo th Chúa theo Lut Cu Ước, thì không thơn cu đ!

Ngược li, Đc Giáo hoàng Gioan Phaolô đã b Ali Agca – người Th Nhĩ Kỳ - ám sát, suýt chết vào ngày 13/05/1981! Hn đã b bt giam ti nhà tù Rchibbia. Sau khi Đc Gioan Phaolô bình phc, công vic đu tiên là đến thăm Ali ngay ti nhà giam và còn kèm theo mt gói quà ln! Thế mà hn còn hi Đc Giáo hoàng: “Ti sao tôi bn ba phát vào tim ông mà ông không chết?” Như vy, v Giáo ch Công giáo mi th Chúa thi Tân Ước, bo đm ơn cu đ!

Mt người hành kht đến ông nhà giàu xin b thí, không may trưa hôm đó ông nhà giàu mi thua bc v, ông không cho gì người hành kht, li văng tc chi th, còn nh vào mt người kht mt bãi nước bt, ri đui đi!

Người hành kht quá tc gin, anh lượm mt cc đá b sn trong túi, ch cơ hi thun tin s ném vào mt ông nhà giàu đ tr thù. Thế nhưng ngày qua tháng ti trôi đi đã hơn 20 năm mà người hành kht vn không tìm được cơ hi nào đ ra tay, làm lúc nào ông cũng cm thy bc tc bt an. Ngày kia, được nghe Li Thánh Kinh dy: “Hãy ling đi qu t mi th ti li bn rn” (Dt 12, 1). Và hãy yêu thương thì phi “tha th tt c, chu đng tt c” (1Cr 13, 7), khiến ông nghĩ ngay: ti sao mình c phi đeo mãi cc đá này cho nng? Qung đi cho ri, t đó tr đi ông sng thanh thn và bình an!

8. Nếu Tôi Biết Tha thứ

Trong nhng năm 1944-1945 dân Roma khiếp s mi khi nghe nhc đến tên Peter Koch, mt sĩ quan mt v Đc quc xã đã tng giết hi không biết bao nhiêu mng người. Sau chiến tranh, anh ta b bt và b kết án t hình. Anh viết thư cho Đc Giáo Hoàng Piô 12 đ xưng thú các ti ác mình đã phm Thong hoi ăn năn và đc bit xin Ngài tha th cho anh ti đã tn công vào Vương Cung thánh đường Thánh Phaolô ngoi thành.

Đc thánh cha đã sai mt linh mc đến nhà tù đ gp anh ta và chuyn đến anh s tha th ca Ngài, đng thi trao cho anh ta mt tràng ht mân côi. Đến nhà giam, sau khi đã làm theo li căn dn ca Đc Giáo Hoàng, v linh mc đã nghe người t ti tht lên như sau: "T quc con nguyn ra con, đó là điu hp lý. Tòa án đã kết án con, điu này cũng rt công bình. Đc Giáo Hoàng đã tha th cho con và đã cho con mt bài hc cao qúy. Gi như con đã luôn nghĩ đến vic tha th, thì gi này có l con không phi ra pháp trường như thế này.” Nói ri anh bt khóc: "Con không dám đng đến tràng ht ca Đc Giáo Hoàng bng đôi tay vy máu ca con. Xin cha đeo tràng ht vào c cho con.” Ít phút sau, Peter Koch ngã gc dưới lot đn, ming anh vn còn cu khn M Maria...

Xin được tha th, đó là mt trong nhng hành đng vĩ đi nht ca con người... Qu Satan đã có ln trách móc Thiên Chúa như sau: "Ngài không công bình. Có biết bao nhiêu ti nhân đã làm điu ác. H ch tr li mt đôi ln, nhưng ln nào Ngài cũng nim n tiếp đón h. Tôi ch có làm mt điu by, tôi ch có phm ti mt ln, thế mà Ngài đã tuyên pht tôi đi đi.” Nghe thế, Thiên Chúa mi hi vn li Satan: "Thế ngươi có bao gi m ming xin tha th và ăn năn sám hi chưa?

M ming kêu xin tha th là bước ln đến ngưỡng ca Thiên Đàng. Nhưng xin tha th cho chính mình thôi, chưa đ, con người cn phi tha th cho người khác. Cánh ca Thiên Đàng s m ra mi khi con người thành thc th li cho người khác.

Nhn ra lm li ca mình, kêu cu s tha th và tha th cho người khác: đó là đôi cánh Thiên Thn giúp con người bay lên ti Chúa.

THỨ TƯ - CHU TOÀN LỀ LUẬT

Li Chúa: Mt 5, 17-19

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.

Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời.”

TRUYỆN KỂ

1. Giữ luật hình thức.

Vào ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh ta gọi những món cá mà anh ta biết chắc chắn chủ quán sẽ trả lời là không có.

Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy.”

Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi bị lỗi luật Chúa.

2. Luật cứu sống

Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong hải quân cho rằng, kỷ luật là một biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến con người tự động vâng lệnh không thắc mắc và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh này.

Ông kể lại một kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu của ông phải cẩu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cột vào chiếc tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình, giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền trưởng: “Xuống!”, tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người nào thì người đó chắc chết ngay tại chỗ. Nhưng vì thủy thủ đoàn đã tuân lệnh, nên tất cả đều được thoát hiểm và an toàn. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi lý do, chắc người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người. (WB).

Chúa Giêsu không hề chủ trương vô kỷ cương. Ngài đã từng tuyên bố: “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật và các lời tiên tri, nhưng Ta đến để kiện toàn lề luật” (Mt 5,17). Ngài tuân giữ lề luật của Do Thái giáo. Nhưng, trong khi các luật sĩ, Pharisêu chỉ biết bám vào hình thức, thì Chúa Giêsu mặc cho lề luật một tinh thần mới. Ngài giữ chay và kêu gọi con người xé lòng chứ đừng xé áo. Ngài giữ ngày hưu lễ và kêu gọi con người thực thi bác ái. Ngài cảnh cáo những Pharisêu và luật sĩ khi họ cố tình bóp nghẹt tinh thần của lề luật. Ngài không ngần ngại lên án thái độ giả hình bên ngoài của họ bằng những lời rất nặng. Ngài ví họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng bẩy nhưng bên trong thì thối tha.

3. Gương giữ đạo

Chúng ta hãy nhìn lại một ít bài học trong Đạo để thấy rằng, có những con người rất can đảm. Họ thà chết còn hơn là lỗi luật Chúa.

* Xưa kia, Giuse con Giacob “thà chết” còn hơn là nghe theo lời đường mật, rồi sau đó là những lời đe dọa mà ngả vào vòng tay của người đàn bà xấu nết, là vợ quan Putipha.

* Bà Suzanna, cũng thà chết còn hơn là phạm luật Chúa trước những lời hăm dọa của hai lão mê dâm.

* Ông lão Aliazarô thà bỏ mạng sống còn hơn là nghe theo lệnh truyền của hoàng đế Antiocô mà ăn thịt trái luật Chúa.

* Ba thánh trẻ kia, sẵn sàng chịu thiêu trong đống củi chứ không chịu sấp mình trước tượng Nabucodonosor.

* Đaniel cũng thà chết còn hơn là bỏ việc thờ phượng Chúa dù việc đó làm cho Đaniel bị bỏ vào hang sư tử.

* Bảy anh em tử vì đạo đời Antiôcô cũng vì sợ mất lòng Chúa nên thà chết chẳng thà bỏ đạo.

* Tại Việt Nam ta ngày trước, nhiều tín hữu bị nhốt vào tù. Quan dạy đi ra hai cửa: sinh môn và tử môn. Ai qua “sinh môn” thì phải đạp ảnh. Những người bị giam đều qua “tử môn” có quân lính trực sẵn, hễ ai bước qua thì chém đầu.

* Trên đồi Dã Viên, đời cấm đạo, giáo hữu phải giam trong cũi, nhịn khát mấy ngày bên bờ sông Hương. Ai đạp ảnh mới được uống nước. Các đấng thà chết khát...

Người Công giáo thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa, bỏ nghĩa vụ.

4. Giữ đạo để gia đình được hạnh phúc

Tin đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới sáng ngày 16-08-2000:

“Văn phòng Nghiên Cứu Hiện Tượng của Hoa Kỳ về Đời Sống Hôn Nhân, kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách về Gia Đình trích dẫn trong tài liệu có tựa đề “Bí tích Hôn Phối” xuất bản năm 1989 như sau:

- Trong 100 gia đình không có Đạo, thì 50 % gia đình ly dị.

- Trong 100 gia đình Công Giáo, chỉ đi dự Lễ Chúa nhật, ly dị xuống thấp chỉ còn 10%.

- Trong 100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ hằng ngày, và có giờ cầu nguyện riêng, chỉ còn 1% ly dị.

Vậy gia đình hoặc bất cứ cộng đoàn nào muốn có bình an hạnh phúc, phải năng dự Lễ và có giờ cầu nguyện chung với nhau.

5. Công cụ của Chúa

Một số nhà sử học Mỹ nói rằng cuốn truyện “Túp lều của chú Tom” góp phần vào việc chấm dứt chế độ nô lệ ở Mỹ nhiều hơn bất cứ một sức mạnh đơn lẻ nào. Nhưng Harret Beecher Stowe, tác giả cuốn sách, từ chối xác nhận ảnh hưởng của cuốn sách và nói: “Thiên Chúa đã viết và tôi chỉ là công cụ nhỏ nhất của bàn tay Ngài.”

Thánh Phaolô cũng nói một cách tương tự về sứ vụ tông đồ của ngài trong bài đọc hôm nay.

Tôi đã xác nhận ảnh hưởng của ơn Chúa đối với tài năng và sự thành đạt của tôi ra sao?

Chính từ nơi sâu thẳm của con người, mà định mệnh của chúng ta xem ra cao quý nhất. Hãy để tôi thực sự cảm thấy rằng tôi chẳng là gì, thì lập tức Thiên Chúa sẽ đi vào qua cửa ngỏ linh hồn và sẽ là mọi sự trong tôi (W. Mountfort).

6. Cầu nguyện với lòng tin

Lucille Campbell vừa dọn giường ngủ cho Donna, cô con gái nhỏ của bà. Sau khi cả hai đọc kinh tối như thường lệ, Lucille nói: “Chúng ta hãy thêm một lời cầu xin cho trời mưa, để vụ mùa có đủ nước cần thiết.” Donna xem ra miễn cưỡng. Lucille nói: “Có chuyện gì thế?” Donna trả lời: “Con để quên mấy con búp bê ngoài hang cát và con không muốn chúng bị ướt.”

Tôi giải thích thế nào về việc Richard Treacher cho rằng cầu nguyện không phải là “bắt buộc Chúa cho ta những điều Ngài không muốn” nhưng là để “biết được thánh ý Ngài?”

Nếu không tin tưởng cầu nguyện, làm sao tôi hy vọng nhận được những gì tôi cầu xin.

7. Gương sáng đức tin

Một nữ sinh trung học kể câu truyện sau đây: Một buổi sáng nọ, cha cô chuẩn bị đi làm nhưng sớm hơn thường lệ nửa tiếng. Cô hỏi: “Ba, sao ba không nghỉ ngơi ở nhà, còn nửa tiếng nữa, đi làm quá sớm vậy?”… Cha cô trả lời: “Ba không đi làm ngay, ba thường dự thánh lễ lúc 8 giờ tại nhà thờ Chúa Ba Ngôi.” Sau này, cô nói với một người bạn: “Tôi thực sự bị tác động, bởi vì điều đó khiến tôi có một thái độ mới đối với Thánh lễ và một cái nhìn mới về ba tôi.”

Tôi có thực sự tin rằng gương sáng có sức thuyết phục hơn lời nói suông không? Tôi có thể cho người khác dẫn chứng gì về niềm tin của tôi?

Những con người thánh thiện phục vụ thế giới bằng việc phản chiếu ánh sáng vào người khác. (John W. Donohue)

8. Nhớ đến bàn tay Chúa

Tập truyện vui của Lewis Carroll “Cuộc phiêu lưu của Alice đến sứ sở thần tiên” có rất nhiều yếu tố hài hước. Chẳng hạn, vị vua nói với nữ hoàng: “Ta sẽ không bao giờ quên được giây phút đáng sợ đó.” “Không bao giờ!” Nữ hoàng đáp: “Bệ hạ sẽ quên thôi, nếu Ngài không muốn nhớ nó.”

Môsê cũng đưa ra một ý tưởng tương tự đối với dân Israel trong bài đọc hôm nay.

Lời Môsê nói với dân Israel và lời Nữ hoàng nói với nhà vua mời gọi tôi tự hỏi: Điều gì Thiên Chúa đã làm cho tôi mà hầu như tôi đã quên?

Người ta thường muốn được nhắc nhở hơn là được thông báo. (Samuel Johnson)

9. Chúa kiện toàn lề luật

Buổi tụ họp tại hội đường bắt đầu bằng việc rước sách luật xung quanh cộng đoàn. Đây là một thí dụ nhỏ về sự kính trọng của người Do Thái đối với Luật Môsê. Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật. Trong tân ước, từ Hy Lạp “exousia” được dịch là uy lực, nghĩa là sức mạnh thêm hay bớt một điều gì đó. Đó chính là sức mạnh Chúa Giêsu đòi hỏi và thể hiện trong bài giảng trên núi. Chúa Giêsu hoặc là một người điên hoặc là Con Thiên Chúa để làm điều Ngài đã làm. Ngài đã luôn mâu thuẫn với các nhà lãnh đạo tôn giáo, và Ngài phải rất can đảm để thi hành sứ mệnh Chúa Cha trao phó.

Tôi cần can đảm thế nào để thi hành sứ mệnh người kitô hữu của tôi?

Nhờ ơn Chúa trong tôi và sức mạnh của Ngài sau tôi, tôi có thể vượt qua bất cứ chướng ngại nào trước mắt.

10. Luật nhỏ không được bỏ

Clara Feldman sống sót sau cuộc sát tế của Đức Quốc Xã trong thế chiến thứ hai. Hiện nay bà đi đến các trường học để dạy trực tiếp cho các học sinh về điều đó. Bà nỗ lực áp dụng bài học của nó vào thế giới hiện đại. Bà khuyên các học sinh: “Chúng ta không thể thờ ơ trước sự ác. Chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ như thể không thấy gì cả.”

Lời của Chúa Giêsu và ví dụ của Clara mời gọi tôi tự hỏi: có điều xấu xa nào tôi nên nỗ lực để chống lại ngay không? Tôi có thể làm gì?

Ai chấp nhận điều xấu mà không chống lại, thì đã thực sự cộng tác với nó. (Martin Luther King)

11. Đức tin cần được hội nhập văn hóa

Những giá trị mạc khải trong Cựu Ước là để chuẩn bị Dân Chúa đón nhận mạc khải Tân Ước. Đức Kitô dạy chúng ta loan Tin Mừng cho mọi dân tộc, Ngài cũng muốn kiện toàn những giá trị tốt đẹp bàng bạc không những trong Cựu Ước mà cả trong từng nền văn hoá của từng dân tộc. Thư chung của HĐGMVN năm 1980 kêu gọi chúng ta thực hiện lời dạy này của Đức Kitô “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”, điều mà lắm khi chúng ta quên. Cha Lôrenxô Phạm Hân Quynh chia sẻ: “Biết bao giá trị Việt Nam chúng ta có thể tiếp thu và nâng cao thánh hoá được: chữ Tín của cô Tấm, chữ Chung Thuỷ của Cúc Hoa, chữ Nghĩa của Thạch Sanh, chữ Liêm của Chu Văn An, chữ Hoà của Trần Hưng Đạo… Và nếu những giá trị ấy được đưa vào trong Giáo Hội…, bà con vào trong Giáo Hội sẽ thấy như vào “Nhà Mình”, rất thân thương nhận ra Thiên Chúa là gốc của gia tài ấy…” (Bài giảng tĩnh tâm cho các linh mục giáo phận Đà Nẵng 2005).

Có thể bạn chưa đọc các giáo huấn của Giáo Hội như Hiến Chế “Ánh Sáng Muôn Dân”, tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”? Nếu chưa, bạn cần tìm đọc cho bằng được. Ít là trong lúc này, bạn ý thức yêu cầu cấp bách đang đặt ra cho bạn là sống Tin Mừng thế nào để những giá trị tốt đẹp trong văn hoá của dân tộc mình được kiện toàn.

12. Giữ luật theo chữ

Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần.

Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước. Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát "Ông già" ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy.

Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.

13. Đừng quên điều cốt yếu

Một người đàn bà bồng con trên tay đi ngang qua một cái hang. Bỗng có tiếng từ trong vọng ra “Con hãy vào và lấy tất cả những gì con muốn, nhưng đừng quên rằng con được tự do chọn lựa mà không được quên mất điều cốt yếu.” Tiếng vọng lại nhắc thêm một chi tiết: “Con hãy nhớ một điều nữa: Sau khi con ra khỏi cái hang, cánh cửa sẽ tự động đóng lại vĩnh viễn. Song hãy tận dụng cơ hội mà đừng quên mất điều cốt yếu.”

Người đàn bà tò mò bước vào và thấy chung quanh mình toàn là vàng bạc, châu báu và những món trang sức lấp lánh hấp dẫn. Bà vội đặt đứa con xuống và bắt đầu chọn những gì bà ưa thích nhất. Tiếng nói lúc nãy lại vang lên: “Con chỉ có 8 phút thôi, đừng chậm trễ!”

Tám phút mau mắn trôi qua, người đàn bà ôm đầy vàng bạc và đủ thứ trang sức quý giá chạy vội ra khỏi hang và cửa hang đóng lại. Bấy giờ bà ta mới sực nhớ rằng mình đã bỏ quên đứa con lại trong hang. Bà quăng tất cả mọi thứ đã chọn xuống đất, than khóc kêu la như điên như dại trong tuyệt vọng…

Người đàn bà khốn khổ này đã có được đủ thứ nhưng lại quên mất điều cốt yếu nhất đối với bà.

14. Gia đình “hạnh phúc”

Sau bài “Lạnh và trống rỗng” đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 3 tháng 4 vừa qua, một người đã chia sẻ: “Nhìn vào nhà tôi ai cũng bảo là hạnh phúc ấm êm: chồng làm giám đốc một doanh nghiệp nhỏ, vợ là giáo viên mầm non, con trai đang học năm nhất đại học. Chúng tôi chưa bao giờ cãi nhau, chồng tôi rất ít nói, cái tính ít nói ngày xưa hấp dẫn tôi thế nào thì bây giờ là nguyên nhân của cái tổ lạnh này. Anh có thể huyên thuyên với bạn bè, với đồng nghiệp, với hàng xóm… nhưng bước vào nhà anh ít nói một cách đáng sợ. Hỏi gì anh chỉ trả lời cụt lủn: ừ, vậy à, có, không…

“Dần dần chúng tôi cũng ít trao đổi công việc với nhau, dù ngày xưa là bạn học cùng ngành, cùng lớp. Sáng, ăn sáng, uống cà phê, mỗi người một tờ báo im lặng đọc. Chiều, anh không la cà nhậu nhẹt mà về rất đúng giờ, cùng ăn cơm với vợ con, xem tivi, lên mạng hoặc đi chơi thể thao…

“Thú thật lòng tôi đã đóng băng rồi tôi không còn thấy khó chịu… Tôi tìm vui trong công việc hằng ngày. Ngày nào anh ấy đi công tác vắng nhà, tôi lại thấy dễ chịu, hai mẹ con nói chuyện, cười giỡn suốt ngày. Mấy từ “gia đình hạnh phúc” sao nghe xa lạ quá!” (TT, 8-5-2010, tr 9).

THỨ NĂM - NHẬN RA BÀY TAY CHÚA

Li Chúa: Lc 11, 14-23

Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ.” Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:

“Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.

“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán.”

TRUYỆN KỂ

1. Nhận ra công việc của Chúa

Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: một hôm tôi đang giảng dạy cho một nhóm người tại Nagasaki. Sau bài giảng một người đứng lên hỏi tôi ba điều: “Tôi có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Tôi có vâng lời và hiệp thông với Đức thánh cha không? Tôi có giữ mình trinh khiết và sống độc thân không?” - Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: “Tại sao ông lại đặt ra ba câu hỏi vừa rồi?”

Người đó trả lời: “Vì ông bà chúng con trước khi chết có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải lấy ba tiêu chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa sai chân chính không. Nay chúng con vui mừng vì cha đích thực là người được Hội thánh sai đến, chúng con sẽ nghe lời cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con truyền lại.”

Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm định đâu là nhà truyền giáo đích thực.

2. Đừng “chụp mũ” nhau như thế

Có một tu sĩ đảm trách công việc mục vụ bệnh nhân Sida. Tuy nhiên, do sơ xuất, ngài đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này qua người bệnh trong khi chăm sóc họ. Nhưng thật trớ trêu, thay vì được mọi người nâng nỡ, khích lệ, thì họ lại bàn tán, gán ghép những chuyện không mấy tốt đẹp cho vị tu sĩ nhiệt tình vì sứ vụ này!

Đây cũng chính là căn bệnh truyền kiếp ở mọi thời, đó là, người ta không thích ai, hay ai đó uy tín hơn mình, thì họ sẵn sàng dùng đến biện pháp nói hành, hay chụp mũ để hạ gục đối phương!

Hôm nay, Đức Giêsu cũng rơi vào tình trạng trên khi bị dân chúng chụp cho Ngài thứ mũ hết sức đê hèn: Ngài trừ được quỷ là do liên minh với quỷ khi nhân danh tướng quỷ để trừ quỷ!

3. “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta.”

Đứng trước Đức Giêsu, con người phải có thái độ hoặc tin nhận hoặc từ chối. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối với Đức Giêsu.

Đây là một sự lựa chọn dứt khoát cho chúng ta, là Kitô hữu, chúng ta không thể cứ sống cách nửa vời. Việc sống đức tin là có hoặc không? Chọn Chúa hay theo Satan; sống theo giáo lý và lề luật đạo, hay thỏa hiệp với thế gian xác thịt..? Chứ không thể bắt cá hai tay, đạo nào cũng muốn mà đời cũng muốn.

- Không thiếu những người, đạo cũng muốn giữ mà cứ để mình sống trong tình trạng hôn nhân bất hợp pháp.

- Làm người tu cũng muốn mà tình lứa đôi cũng không dứt bỏ dứt khát, khấn nghèo khó mà lại sống trưởng giả.

- Có những người đạo cũng muốn giữ mà vẫn thề thốt để được “kết nạp” và giữ được những cái nọ cái kia...

4. Mưu mô ma quỉ

Ngày xưa có một con qủi hiện về báo cho người đàn ông biết là gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó có thể cứu gã nếu gã chịu làm một trong ba điều sau: một là giết tên đầy tớ của gã, hai là gã đánh đập vợ, ba là gã hãy uống rượu.

Gã kia nghĩ: Ta không thể giết tên đầy tớ trung thành, đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi gã lấy rượu uống. Đến chừng say quá, gã đánh vợ, tên đầy tớ nhào vô can bị gã cho một dao chết tươi.

5. Để khỏi bị hiểu lầm

Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí khả nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể đi bất cứ đâu.”

Bạn cô đáp: “Tất nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một chuyện: lần đó, tôi và một số người đến thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn: - Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không? - Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa.

6. Tội ngoan cố rất nặng

Thánh Macariô tu hành ở Ai-Cập, lần kia gặp một chiếc đầu lâu của người chết, ngài mới hỏi:

- Cái sọ này của ai ?

Cái sọ trả lời: - Thưa cha, cái sọ này là của một ngoại giáo.

Thánh Macariô hỏi thêm: - Linh hồn mày hiện giờ ở đâu ?

Cái sọ trả lời:

- Thưa cha, linh hồn tôi ở dưới hỏa ngục, vì khi còn sống, thấy giữ đạo phải hy sinh nhiều quá, nên tôi không chịu trở lại.

Thánh Macariô lại hỏi:

- Hỏa ngục có sâu lắm không ?

Cái sọ trả lời: - Thưa cha, hỏa ngục sâu lắm, sâu bằng khoảng cách giữa trời và đất.

Thánh Macariô hỏi tiếp:

- Dưới hỏa ngục, có ai khổ hơn mày nữa không ?

Cái sọ trả lời: - Có các người Do Thái, đã cố chấp không chịu tin Chúa mặc dầu đã xem thấy bao nhiêu phép lạ Chúa làm.

Thánh Macariô lại hỏi thêm:

- Dưới hỏa ngục, còn ai khổ hơn người Do Thái không ?

Cái sọ trả lời:

- Có những người Công giáo xấu, đã giày đạp lên lòng thương xót Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc họ. Rồi cái sọ nói thêm: “Còn phần cha, cha hãy lợi dụng lòng thương xót Chúa nghĩa là hãy sử dụng ơn Chúa cũng như hãy lợi dụng thời giờ Chúa ban mà lập công phúc, để khỏi phải khổ cực dưới hỏa ngục, nhưng được vinh hiển trên Trời”

Vâng, chúng ta hãy biết lợi dụng lòng thương xót của Chúa để lập thêm công phước, phải lợi dụng lòng thương xót của Chúa để xin ơn tha thứ như vậy.

7. Con đường theo Chúa

Mirjana, cô gái được chính Đức Mẹ hiện ra dạy bảo tại Mễ Du. Khi người ta hỏi cô:

- Bằng cách nào chúng ta chọn Chúa Giêsu ?

Cô trả lời:

- Đức Mẹ nói rằng: muốn chọn Chúa Giêsu, ta phải nên giống Chúa. Nhiều người cho mình là tín hữu nhưng lại sống như người ngoại đạo. Kitô hữu chân chính phải là người được Kitô-hóa. Một người Kitô-hữu đích thực phải giống Chúa Giêsu.

Và khi được hỏi:

- Nên giống Chúa Giêsu như thế nào ?

Cô nhắc lại lời Đức Mẹ dạy:

- Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật và là ánh sáng cho cuộc sống chúng ta. Đường đi thì đã được vạch rõ trong Kinh Thánh. Còn sự thật thì nằm ở cả trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội. Ánh sáng thì từ Thiên Chúa mà đến cho những ai trung tín.

Mẹ luôn xin các con cái của Mẹ hãy đọc Sách Thánh, có như vậy ta mới biết về Thiên Chúa. Vì thế, Đức Mẹ xin những ai nói mình là tín hữu hãy sống cuộc sống của Chúa Giêsu như khi Chúa sống ở trần gian. Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta con đường về Thiên Đàng. Cuộc đời của Ngài là mẫu mực cho các tín hữu noi theo. Nếu tín hữu sống theo mẫu mực đó, họ sẽ là những môn đệ trung thành của Tin Mừng. Đời sống của họ sẽ nêu gương cho thấy có một vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta và chăm sóc dưỡng nuôi ta, đỡ nâng ta trong hết mọi sự. Nhưng Mẹ cũng không quên nhắc: “ngày nay, có nhiều người đã quên, nhiều người đã chọn lựa những điều phù phiếm mau qua, nhiều kẻ không hề quan tâm tới chân lý, chỉ biết say mê những lạc thú trần gian, trí khôn đâm mù tối và sống co rút lại trong ích kỷ.”

Cha Gioan Maria Vianney nói: “Chẳng có gì làm cho chúng ta nên giống Chúa bằng cách vác lấy Thánh Giá của Người. Đẹp thay bao linh hồn biết kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua việc yêu mến Thánh Giá của Ngài! Cha thật không tài nào hiểu được một Kitô-hữu mà không yêu mến và chạy trốn Thánh Giá! Như vậy, chẳng phải chúng ta đang chạy trốn Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống ôm chặt lấy Thánh Giá, và chịu chết cho chúng ta sao ?

8. Bệnh điếc tâm linh

Nhà bình luận Ann Landers in một lời cầu nguyện dài đọc cho những người điếc bằng máy trợ thính. Ít lâu sau, một phụ nữ viết thư xin bà in lời cầu nguyện khác cho những người cùng sống với những người điếc. Bà ta giải thích rằng mẹ của bà không chịu mang thiết bị trợ giúp người điếc, vì nó làm cho bà trông già đi, nhưng bà lại than phiền vì không nghe được những cuộc trò chuyện.

Nhiều người trong chúng ta cũng giống như bà mẹ trên đây. Chúng ta được ban cho lương tâm như thiết bị trợ giúp để nghe tiếng Chúa, nhưng chúng ta đã không để ý tới. Chính vì thế, chúng ta trở nên tồi tệ thay vì nên tốt hơn.

Điều gì ngăn cản tôi không nghe được tiếng Chúa?

Thiên Chúa lo giữ liên lạc với ta hơn ta lắng nghe Ngài. (Morton Kelsey)

9. Yêu thương không xét đoán

Một đôi vợ chồng về hưu, họ tương đối khỏe mạnh và không phải khó khăn về tài chánh. Sở thích của họ là nuôi gà, trồng rau. Bất cứ ai đến mua trứng và rau, họ luôn đòi giá cao hơn so với giá chợ. Họ không giảm xu nào ngay cả với bạn bè, hàng xóm. Điều này khiến một số người cho họ là tham lam. Nhưng về sau người ta khám phá ra rằng đôi vợ chồng này đã đem tất cả thu nhập từ trứng và rau giúp đỡ cho hai gia đình nghèo sống gần nhà họ.

Tôi có xu hướng xét đoán hành động của người khác, nhất là xét đoán tiêu cực như thế nào? Tôi có thể làm gì để sửa chữa trong lãnh vực này?

Nếu bạn xét đoán người khác, bạn sẽ không có thời giờ để yêu thương họ. (Mẹ Têrêsa)

10. Kiên nhẫn là sức mạnh đến từ lòng tin

Vở nhạc kịch Broadway năm 1776 liên quan đến những ngày tháng làm nên lịch sử khi tổ tiên chúng ta chuẩn bị tuyên bố độc lập khỏi nước Anh. Một đêm nọ, John Adams, vị lãnh tụ trong việc đấu tranh giành độc lập cảm thấy rất lo lắng: những công dân có ý tốt, nhưng bị xúi giục phản đối tuyên ngôn. Đứng một mình trong tòa nhà Độc Lập, John Adams đầy thất vọng hét lên: “Có ai ngoài đó không? Có ai chú ý không? Có ai thấy điều tôi thấy không?”

Tôi phản ứng ra sao khi một người có thiện ý nhưng vì lầm lạc mà phản đối những gì tôi cho là đúng? Điều gì giúp tôi tiếp tục đi tới khi những điều như vậy xảy ra?

Kiên nhẫn là sức mạnh. Với thời gian và kiên nhẫn, lá đâu biến thành tơ lụa. (Ngạn ngữ Trung Quốc)

THỨ SÁU

Li Chúa:

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ BẢY

Li Chúa:

TRUYỆN KỂ

1.

LỄ KÍNH THÁNH GIUSE

Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a

Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria, mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:

Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse, trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo.

Nhưng đang khi định tâm như vậy, thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít, đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”

Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện như lời Thiên thần Chúa truyền.

TRUYỆN KỂ

1. Thánh Giuse, Người Cha Tuyệt Vời

Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau: Trong gia đình chỉ có hai cha con. Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh v.v…

Vì làm văn phòng cho một trường trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.

Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới phía cô.

Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc nguy hiểm này.

Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa! Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế là cô thoát nạn!

Về sau, cô gái mới biết: người “cha già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.

Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi của Chúa Giêsu, thánh Giuse.

2. Người thợ tuyệt diệu cho mái ấm tình yêu

Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu và Mẹ Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc. Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là Mái Ấm Tình Yêu.

Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền Hình Bình Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất Tiếng Hát.” Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận An.

Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn tay lại thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia đình.

Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.

Không phải chỉ bằng đôi tay, mà bằng cả trái tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo dựng một mái ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành “mái nhà” đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.

3. Cha tôi

Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.

“Anh con trai đi làm được vài tháng, có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’.

Ăn cơm xong, người cha gọi con trai ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả xuống bàn tay!’”

Người con đã có được tình thương đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là quý giá nhất.

4. Những nụ hôn yêu thương

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không, yêu con mà kết quả lại làm hại con, như câu chuyện dưới đây:

“Có một người cha nghèo đã quở phạt đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ trang trí một cái hộp.

“Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.

“Ông mắng đứa con gái xối xả vì đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng, nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn vào trong hộp để tặng bố mà!’.

Người cha giật thót tim. Ông đã quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông cầu xin con tha thứ!

Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc hộp.”

Trong cuộc sống, có biết bao người cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa đầy tình yêu chân thành như thế!

5. Con còn tiền lẻ không?

Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi: ‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!… ”

Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì nhạy bén, nắm bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên.”

6. Thánh Giuse, Người Chồng Tốt, Người Cha Hiền

Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ về sự trợ giúp của thánh Cả Giuse như sau:

Tại một giáo xứ miền quê, vào một đêm kia, có ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh nhân là một người đàn ông trong làng.

Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục nhanh chóng đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì không có ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn lo cho người bệnh đang hấp hối.

Không kịp tìm hiểu, vị linh mục ban những bí tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người đàn ông ra đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.

Khi xong xuôi mọi việc, vị linh mục đi tìm ông cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp nơi cũng không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ ra một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy khốn. Con tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con trong cơn nguy tử.”

Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình và nhớ lại: ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!

Câu chuyện trên là một lời minh chứng hùng hồn cho thấy: Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho những ai chạy đến với Người. Tất cả những ai đến với thánh Giuse, đều được Người ra tay cứu vớt, phù hộ.

7. Thánh Giuse là con người nhỏ bé được Chúa chọn

Ogilvy and Mather là một công ty quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc mỗi nhỏ dần.

Trong tấm hình người bé nhất ông dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người trong chúng ta chọn những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”

Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.

8. Chúa yêu thích sự công chính đạo đức.

Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ đại mà không cần có sự đạo đức”

rồi như dằn từng tiếng ông khẳng định “Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng thời lại không thật sự đạo đức.”

Đây là lời của sách Khôn ngoan: “Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang hơn đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).

Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.

9. Sống đời công chính

Thánh Augustinô nói: “Sống công chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình”… “Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ), không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình), luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công Giáo 1,25,46).

Một cô kia cuộc đời thật là bất hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.

Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.

Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết, cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được việc gì cho Chúa.

Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.

Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng.

10. Thánh Giuse, quan thầy giáo hội hoàn vũ, giáo hội Việt Nam

Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15, và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…

Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam, Ngày lễ Thánh Giuse 19.3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền giáo: vào chính ngày nầy, 19.3.1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.

12. Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh

Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh.” Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.

Có một người làm công, ngày ngày đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 $ một tháng.

Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.

Ngay giữa thành phố có một cái hồ rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường, rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…

Và ngay hôm đó họ tái dụng người phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa.

”Này ông Giuse là con cháu Đavít, đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần” (Mt 1,20)

13. Mối tình của Dolores và Donald

Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood, tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012. Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger Elvis). Năm nay (2023) mẹ Dolores đã 87 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.

Vào năm 1957, minh tinh Dolores ở tuổi 21, đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời ký hợp đồng đóng phim lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald John Robinson đã hết lòng yêu Dolores.

Ông Donald là một trong những người thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phới một cách dễ dàng không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu!

Ông Donald đã không thể tin ở tai của mình, vì thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi 21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý. Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu, là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!

Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di chúc hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà phục vụ công ích.

Ai cũng phải khâm phục mối tình của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất cho Chúa: một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.

LỄ TRUYỀN TIN

Lời Chúa: Lc 1, 26-38

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: “Maria đừng sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận.”

Nhưng Maria thưa với thiên thần: “Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”

Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”

Maria liền thưa: “Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo biệt Bà.

TRUYỆN KỂ

1. Khiêm nhường đón nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu.

Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta.” Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già. Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn.

Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.” Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế.

Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng bé này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông.

Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

2. Ơn Chúa cần được cộng tác

Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.

Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:

- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.

- Nó vô dụng là vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.

Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.

3. Khiêm nhường là sống theo sự thật

Khác hẳn với Eva thuở xưa trong vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn không kém…

- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những gì mình có được đều là do Thiên Chúa.

"Người đã đoái thương nhìn tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)

"Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)

"Thiên Chúa đã hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).

Phải có một lòng khiêm nhường thật thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình. Thật là kiêu ngạo.

4. Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich

Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.

Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng 3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng, hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.

Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.

Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền.”

5. Tờ giấy và cây viết

Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây viết.

Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau: "Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”

Nhưng cây viết trả lời: “Không, anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống mãi để trợ giúp con người.”

Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết, thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng trí khôn của con người.

Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.

6. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được

Cha Giuse Lê Quang Uy kể: Có một thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: “Tôi không hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giêsu muốn tôi được chia nỗi đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi… Từ nay, tôi xin được làm Tông Đồ của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ… ”

Và quả thật, cô gái đã trở thành một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ…

Cho đến khi bị liệt cả hai tay, cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác…

Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…

Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp đã làm.

Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75, phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các bạn có thể sẽ là những “sứ giả”, những “thiên thần” được Thiên Chúa gửi đến cho Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta…

Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền Tin” của Thiên Chúa thông qua một “sứ giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã kính chào đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”

7. Câu Thánh Kinh đẹp nhất

Có một bà mẹ đã hỏi đứa con nhỏ của mình như sau:

-Theo ý con, câu nào trong Kinh thánh đã làm cho con thích thú hơncả?

Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình cờ lật phải ngay trang nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt long lanh, đứa bé đã nói với mẹ:

-Thưa má, hai tiếng xin vâng của Đức Maria là hai tiếng đã làm cho con thích thú hơn cả.

Đúng thế, không gì đẹp bằng hai chữ xin vâng trên cặp môi của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng thời, cũng không gì đẹp bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi người chúng ta cho thánh ý Thiên Chúa được chu toàn.

8. Người mẹ được chọn

Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:

Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.

Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.

Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.

Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.

Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”

Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như qua những lời giáo huấn của Hội Thánh.

9. Món quà tình yêu người mẹ

Có một người con gọi về cho mẹ:

– Alô, Mẹ đó ạ?

– Ừ, con đó hả?

– Dạ…

– Có chuyện gì không con?

– … Dạ, không Mẹ… hôm nay sinh nhật con…

– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.

– Không sao đâu Mẹ ạ. Con… con chỉ muốn nói với Mẹ rằng… hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con. Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.

Hóa ra món quà quý nhất cho ngày sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ.

10. Mẹ thưa xin vâng để trở nên người mẹ

Trên đường đời nhiều sóng gió hôm nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.

Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.

Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy ra bên lề của xã hội.

Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.

Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.

Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế.

11. Đức tin bé nhỏ đặt vào Thiên Chúa lớn lao

Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?” ”Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.”

Câu hỏi của người phụ nữ giống như lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).

12. Được Thiên Chúa tuyển chọn

Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:

• Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.

• Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.

• Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.

• Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.

Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”

Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc mà thôi. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ân huệ nhưng không của Chúa, và cũng bởi Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Nhờ lòng khiêm nhường nên Đức Mẹ đựơc quyền năng Thiên Chúa bao phủ.

Sứ thần nói với Đức Mẹ: “Quyền năng của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên” hay “bao phủ lên.” Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu (Xh 40,34) nói rằng bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.”

13. Vâng Phục và Bình An

Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên là Roncalli, ngài đã lấy khẩu hiệu: “Vâng Phục và Bình An.”

Ngài kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng thấy Hồng Y Daronius già cả đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị hồng y ấy đều lấy một ít tiền tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó, ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và Bình An.” Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về.

Hình ảnh cao đẹp và lời nói đanh thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài đã chọn câu ấy làm tâm niệm và đã thực hiện trong suốt cuộc đời.

Khi chọn”Vâng Phục và Bình An”là tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo hoàng, các ngài đã noi theo lời tâm niệm”xin vâng”của Mẹ và hơn thế nữa, là con đường sống của Mẹ Maria. Lời”Xin vâng”là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ Thiên Chúa. Lời”xin vâng”đã làm thay đổi tất cả cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định của chương trình cứu độ.

14. Xin vâng

Ngày 08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:

– Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận không?

Sau giây phút yên lặng với giòng nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả lời:

– Ước gì con không phải uống chén này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.

Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài đã trả lời:

– Con xin nhận như một thánh giá Chúa trao phó.

Qua lời”xin vâng”đầy nước mắt ấy, Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh Phêrô và đã trở thành một vị thánh Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự đổi mới, canh tân.

Mỗi ngày, khi đọc kinh Truyền Tin, chúng ta lặp lại lời”xin vâng”của Mẹ Maria. Chính lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng ta cũng hãy noi theo Mẹ Maria để luôn vâng theo ý Chúa trong mọi trạng huống cuộc đời. Con đường”xin vâng”là con đường ngắn nhất giúp ta đạt tới sự trọn lành và nhờ vậy, đạt được hạnh phúc Nước Trời mai sau.

14. Đức Mẹ bầu cử cho con cái

Một hôm có hai mẹ con được vào diện kiến nhà Vua. Nhà Vua đã bảo người hầu đưa ra rất nhiều kẹo. Rồi nhà vua bảo đứa bé ngửa bàn tay ra và nói: “Bây giờ trẫm chỉ cho con vừa đủ trong hai bàn tay thôi.” Khi đó, đứa bé rất khôn ngoan đã nói rằng: “Thưa Đức Vua, vậy thì con sẽ nhờ mẹ của con lấy dùm, vì bàn tay của mẹ to hơn.” Nhà vua đã khen đứa bé khôn ngoan và đã thưởng cho nhiều kẹo và những phần thưởng có giá trị khác.

Trong cuộc sống đức tin của chúng ta hôm nay cũng thế, nếu chúng ta biết tin tưởng, sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt, thì Đức Mẹ sẽ che chở, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, và chúng ta sẽ nhận được rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa. Chúng ta có rất nhiều hy vọng vì Đức Mẹ rất thương yêu và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Thánh Bênađô đã nói: “Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.” Với niềm hy vọng đó, những khi gặp khó khăn thử thách, đau khổ, chúng ta hãy đến với mẹ và cùng với Đức Mẹ hát lên bài ca xin vâng: Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó, xin Mẹ dạy con hai tiếng “Xin Vâng.”

15. Mẹ đã thắng con rồi

Giovanni Tomasi là một người vô thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ nơi mấy người đồng hương nước Ý.

Khi biết mình bị ung thư nan y, anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người bạn thân rủ anh qua Lộ đức hành hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi dù chẳng tin một chút nào.

Anh trở về chẳng hề thuyên giảm, càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh hãy thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ khác. Sau nhiều lần uống nước ở chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.

Ngày 14.11.1987, anh mua một khẩu súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang Lộ đức, hét to lên một lời thách thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư của tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng này để tự sát ngay tại đây, để cho cả thế giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì, rằng đây chỉ là một trò bịp.”

Thinh lặng… căng thẳng, ai cũng thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.

Anh đưa súng vào màng tang và bóp cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy mọi sự bình thường. Sao lại không nổ vậy?

Rồi anh lại lên đạn và đưa súng lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn vẫn không nổ. Lúc đó anh không còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay buông rơi khẩu súng. Anh ngước nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã thắng con rồi!”

Tomasi mang căn bệnh trở về nhà nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi khắp nơi để diễn thuyết, viết thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như mình để khích lệ, ủi an và mời gọi họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria.

16. IQ Nước Trời

Có một dạo các hãng sữa đua nhau quảng cáo rằng sữa của họ sản xuất có thể làm tăng trí thông minh của con trẻ rồi còn tổ chức ‘đo’ IQ miễn phí nữa. Thế là các bà mẹ hớn hở bồng con đến đo IQ và tiếp theo đó là mua sữa! Bà mẹ nào lại không muốn con mình thông minh sáng dạ, học hành giỏi giang. Con cái sau này thành đạt, mẹ cha cũng được nở mày nở mặt. Thế mà Đức Maria không hề mong ước làm mẹ siêu nhân, lại càng không mơ làm mẹ Đấng Cứu Thế như nhiều thiếu nữ Do thái thời ấy mong đợi.

Qua lời Mẹ thưa với sứ thần, có thể biết điều Mẹ đang quan tâm tìm kiếm chính là “xin vâng” theo ý Chúa: Mẹ đón nhận lời sứ thần truyền tin chỉ vì đó là điều Chúa muốn.

Mời Bạn: Thời đại ngày nay người ta hay ‘dị ứng’ với việc vâng lời, bởi vì vâng lời bị coi là đồng nghĩa với trẻ con, ấu trĩ. Thái độ của Đức Maria cho thấy phải có một nhân cách thực sự trưởng thành mới có thể nói lên lời “xin vâng” với ý thức nhận định thánh ý Chúa, với tinh thần trách nhiệm về sứ mạng sắp lãnh nhận và với tình yêu mến phó thác như vậy được. Thế nhé, bạn cũng hãy học theo mẫu gương của Mẹ để nói lời “xin vâng” với Chúa như vậy nhé!

17. Tin như Mẹ tin

Sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình, và người dẫn chương trình đã hỏi cô ta: Tại sao Thiên Chúa là Đấng đầy lòng yêu thương lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?

Cô ta trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Nhưng từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi gia đình, khỏi xã hội và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là “ quân tử ” nên đã lẳng lặng rút lui.

Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta, khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc chúng ta một mình. Về những biến cố mới xảy ra, như tấn công, khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh… tôi nghĩ mọi sự đã bắt đầu với Madelein Murray O’Hare, khi bà ấy phàn nàn và không muốn cho đọc kinh trong trường học nữa, và chúng ta đã đồng ý. Rồi một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học. Chính quyển Kinh Thánh mà trong đó dạy chúng ta: “Chớ giết người, chớ trộm cắp… dạy chúng ta yêu người như chính bản thân v.v…” và chúng ta cũng đã đồng ý.”

Như Đức Maria, Mẹ đã trọn cuộc đời “xin vâng” để cho chương trình cứu độ được thực hiện. Hãy học nơi Đức Maria lòng tin tưởng tuyệt đối để trong bất cứ hoàn cảnh nào, và nhất là lúc không còn biết nương tựa vào ai, thì còn lại Chúa là điểm tựa duy nhất để niềm tin được sống và cuộc đời của mỗi người được hòa nhập vào dòng chảy của ơn cứu độ, để chúng ta được giải thoát và luôn sống hạnh phúc với Chúa Giêsu cho đến muôn đời.

18. Đức Mẹ trong đời tôi

Một em bé đánh giầy đang làm việc ở nhà ga trung tâm Nữu Uớc. Trong khi dùng miếng vải đánh đi đánh lại đôi giầy của một ông khách, chiếc mề đay bằng bạc đong đưa nơi cổ em. Ông khách tò mò hỏi: “Sonny, cháu đeo miếng kim loại gì ở cổ thế?” Cậu bé đáp: “Đó là ảnh Mẹ Chúa Giêsu.” Ông khách hỏi tiếp: “Tại sao lại là ảnh Bà ấy? Bà ấy không khác mẹ em sao?” Cậu bé trả lời: “Có thể như vậy, nhưng có một khác biệt lớn thực sự giữa con trai bà ấy và cháu.”

Lòng sùng kính của cậu bé đối với Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, mời gọi tôi tự hỏi: Đức Maria giữ vai trò gì trong cuộc đời tôi? Làm thế nào để Người đóng vai trò lớn hơn?

Kính chào Mẹ Maria, người phụ nữ dịu dàng, sứ giả hòa bình. Xin dạy chúng con biết khôn ngoan và biết yêu thương. (Carrol Landry).

19. Xin vâng

Lời đáp trả của Đức Maria đối với thánh ý Thiên Chúa như sứ thần đã mặc khải được tóm tắt trong hai tiếng “Xin Vâng.” Đây là lời đáp trả đẹp nhất mà con người có thể thể hiện trước thánh ý Thiên Chúa. Đây là lời mà Đức Maria đã dậy Chúa Giêsu, con của mẹ thực hiện. Đây là lời đáp trả Chúa Giêsu dậy chúng ta trong Kinh Lạy Cha. Đây cũng là lời đáp trả của chính Chúa Giêsu trong cơn hấp hối ở vườn cây dầu: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha” (Lc 22,42)

Lời đáp trả của Chúa Giêsu và Đức Maria đối với thánh ý Thiên Chúa mời gọi tôi đánh giá lời đáp trả của chính mình. Tôi đã sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa như thế nào?

Điều chúng ta thường cầu nguyện với Chúa không phải là thánh ý Ngài được thực hiện, mà là Ngài chấp nhận ý muốn của chúng ta (Helga Bergold Gross).

20. Được Chúa ở cùng

Một thanh niên xem cụ già hàng xóm 80 tuổi đang trồng một cây đào nhỏ. Anh hỏi: “Ở tuổi cụ, trồng đào thì bao giờ mới được ăn?”

Cụ chống xẻng, trả lời: “Ở tuổi tôi trồng cây nào nghĩ đến ăn, nhưng cả đời tôi thưởng thức không biết bao nhiêu trái đào do người khác trồng tỉa. Làm sao tôi có đào ăn nếu không có ai làm công việc tôi đang làm đây, tôi chỉ trồng đào để trả ơn những người đã trồng đào cho tôi ăn.”

Lúc đã thảnh thơi mọi bề, không còn thù địch nữa, Đa-vít nghĩ đến xây một đền thờ cho Chúa, thì tiên tri Nathan đến nói cho ông biết tình yêu bao la của Chúa: Chúa không màng chi đến việc được Đa-vít phụng sự: “Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?”

Vâng, từ lâu trước khi ông nghĩ đến làm một điều gì cho Chúa thì Ngài đã chăm sóc ông như một người con: “Chính Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo dân Ta là Ít-ra-en. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi” (2Sm 7,8-9).

Một sứ điệp Chúa sai Na-than gửi cho Đa-vít để nói về tình yêu và những việc Chúa đã thực hiện cho ông và cho Ít-ra-en; một sứ điệp khác Chúa sai sứ thần Gabriel gửi đến Đức Maria để bày tỏ tình yêu và những điều Chúa sẽ thực hiện cho Mẹ và cho Dân Chúa.

Hai sứ điệp khác nhau, nhưng có một điểm chung được nhấn mạnh: cội rễ và nền tảng của hạnh phúc con người là được Chúa ở cùng. Với Đa-vít: “Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi”, còn với Đức Maria: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà!”

Sự hiện diện của Chúa là nền tảng vững chắc cho mọi an vui: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4).

Lời Chúa Tuần 3 Mùa Chay
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch

 

 

 EDIT