LỜI CHÚA TUẦN 3 MÙA CHAY
CÂU TRUYỆN MINH HỌA
CNMC 3C - CÂY
VẢ KHÔNG SINH TRÁI
THỨ NĂM - NHẬN
RA BÀY TAY CHÚA
CNMC 3A
Lời Chúa: Ga 4, 5-42
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria, gần phần đất Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng của Giacóp. Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu. Một người đàn bà xứ Samaria đến xách nước, Chúa Giêsu bảo: "Xin bà cho tôi uống nước" (lúc ấy, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn). Người đàn bà Samaria thưa lại: "Sao thế! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?" (Vì người Do-thái không giao thiệp gì với người Samaria).
Chúa Giêsu đáp: "Nếu bà nhận biết ơn của Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà: "Xin cho tôi uống nước", thì chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống.” Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, Ngài không có gì để múc, mà giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra nước? Phải chăng Ngài trọng hơn tổ phụ Giacóp chúng tôi, người đã cho chúng tôi giếng này và chính người đã uống nước giếng này cũng như các con cái và đoàn súc vật của người?"
Chúa Giêsu trả lời: "Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời.” Người đàn bà thưa: "Thưa Ngài, xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa.” Chúa Giêsu bảo: "Bà hãy đi gọi chồng bà rồi trở lại đây.” Người đàn bà đáp: "Tôi không có chồng.” Chúa Giêsu nói tiếp: "Bà nói "tôi không có chồng" là phải, vì bà có năm đời chồng rồi, và người đàn ông đang chung sống với bà bây giờ không phải là chồng bà, bà đã nói đúng đó.” Người đàn bà nói: "Thưa Ngài, tôi thấy rõ Ngài là một tiên tri. Cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này, còn các ông, các ông lại bảo: phải thờ ở Giêrusalem.”
Chúa Giêsu đáp: "Hỡi bà, hãy tin Ta, vì đã đến giờ người ta sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải ở trên núi này hay ở Giêrusalem. Các người thờ Ðấng mà các người không biết, còn chúng tôi thờ Ðấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ từ dân Do-thái mà đến. Nhưng đã đến giờ, và chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý, đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn. Thiên Chúa là tinh thần, và những kẻ tôn thờ Người, phải tôn thờ trong tinh thần và trong chân lý.” Người đàn bà thưa: "Tôi biết Ðấng Messia mà người ta gọi là Kitô sẽ đến, và khi đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Chúa Giêsu bảo: "Ðấng ấy chính là Ta, là người đang nói với bà đây.”
Vừa lúc đó các môn đệ về tới. Các ông ngạc nhiên thấy Ngài nói truyện với một người đàn bà. Nhưng không ai dám hỏi: "Thầy hỏi bà ta điều gì, hoặc: tại sao Thầy nói truyện với người đó?"
Bấy giờ người đàn bà để vò xuống, chạy về thành bảo mọi người rằng: "Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?" Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành và đến cùng Ngài, trong khi các môn đệ giục Ngài mà rằng: "Xin mời Thầy ăn.” Nhưng Ngài đáp: "Thầy có của ăn mà các con không biết.” Môn đệ hỏi nhau: "Ai đã mang đến cho Thầy ăn rồi chăng?"
Chúa Giêsu nói: "Của Thầy ăn là làm theo ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc Ngài. Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt. Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc, còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ.”
Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm chứng rằng: "Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm.” Khi gặp Người, họ xin Người ở lại với họ.
Và Người đã ở lại đó hai ngày, và vì nghe chính lời Người giảng dạy, số những kẻ tin ở Người thêm đông hẳn, họ bảo người đàn bà: "Giờ đây, không phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế.”
TRUYỆN KỂ
1. Tìm kiếm
Theo một truyền thuyết, thánh Tôma Aquinô kể về một người đàn ông khi nghe nói về một con ngựa rất đặc biệt đã quyết tâm sở hữu nó cho riêng mình. Ông đã đi du lịch khắp nơi trên thế giới. Ông đã tiêu toàn bộ tài sản của mình. Ông đã dành cả cuộc đời mình để tìm kiếm con ngựa này.
Cuối cùng, ngay trước khi chết, ông nhận ra rằng mình đang cưỡi trên con ngựa rất đặc biệt đó suốt thời gian qua! — Có lẽ bạn đang tìm kiếm hạnh phúc? Đừng tìm đâu xa. Không nhìn xa hơn trái tim của chính bạn. Hãy mở rộng tấm lòng của bạn với Chúa qua Con của Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Người sẽ ban cho bạn nước hằng sống mà Người đã hứa với người đàn bà bên giếng. Bạn không bao giờ còn phải khát nữa.
2. Hóa giải cơn khát
“Linh hồn tôi Khát khao Thiên Chúa, Thiên Chúa hằng sống!” Cách đây ít năm, người ta quan sát thấy một con tàu đi trên bờ biển phía bắc của lục địa Nam Mỹ phát ra tín hiệu cấp cứu.
Khi được một tàu khác tiếp cận, các thủy thủ báo cáo là: “Chết khát!” Và câu trả lời là: “Vậy thì đào nước lên. Bạn đang ở cửa sông Amazon.” Xung quanh họ đều có nước ngọt, và họ không cần phải làm gì khác ngoài đào nước ở tầng dưới cát, thế mà họ vẫn chết khát vì nghĩ rằng mình bị nước biển bao quanh. —
Người ta thường không biết Chúa và không biết Lời Ngài. Thật đáng buồn khi họ phải chết vì thiếu hiểu biết! Trong Mùa Chay này, chúng ta được mời gọi đến giếng nước và gặp gỡ Chúa Giêsu. Người sẽ ban cho chúng ta nước hằng sống, là nước không bao giờ cạn vì nó phát xuất từ Chúa, và nó làm dịu cơn khát sâu xa nhất của chúng ta – cơn khát Thiên Chúa.”Linh hồn tôi khao khát Chúa Trời, là Chúa Trời hằng sống!” Và đây là Tin Mừng của ngày hôm nay. (Cha Lakra).
3. Nước là sự sống
Mohandas Gandhi, nhà khoa học lớn của Ấn Độ, đã chứng minh cho cả thế giới thấy rằng một người có thể nhịn ăn trong một thời gian dài – hàng tuần – nhưng thiếu nước thì sẽ chết.
Tôi không biết ai đó có thể sống thiếu nước được bao lâu, nhưng chắc chắn không lâu lắm. Một em bé không uống nước sẽ bị mất nước và chết chỉ sau vài ngày. Còn người lớn chỉ tồn tại lâu hơn một chút. Chất duy trì sự sống duy nhất mà chúng ta cần thường xuyên hơn nước là không khí. Vậy nước là điều cần thiết cho sự sống. Theo một nghĩa nào đó, nước là sự sống. Ở đâu không có nước, ở đó không có sự sống.
Cây xương rồng, lạc đà, cây cỏ trong sa mạc có thể thích nghi với điều kiện thiếu nước, nhưng không có bất kỳ sinh vật sống nào trên trái đất này có thể sống mà không có nước. – “Nước là sự sống.” Thiếu nước là chết. Khát là đối diện với cái chết.
* Không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu dùng nước và cơn khát để giáo huấn về đời sống thiêng liêng.
4. Trở thành ngón tay
Nhà thần học rất được kính trọng Karl Barth treo một bức tranh về cảnh Chúa chịu đóng đinh trên tường phòng làm việc của ông do họa sĩ Matthias Grunewald vẽ.
Trong bức tranh có hình ảnh của ông Gioan Tẩy Giả. Họa sĩ vẽ chân dung Gioan Tẩy Giả chỉ tay vào cây thánh giá của Chúa Giêsu ở chính giữa bức tranh. Người ta nói rằng khi Barth nói chuyện với một vị khách nào đó về công việc của mình, ông thường hướng họ đến Gioan Tẩy Giả trong bức tranh và nói: “Tôi muốn trở thành ngón tay đó.”
Barth muốn hướng mọi người đến với Chúa Kitô.
* Hướng người ta đến với Chúa Kitô là nhiệm vụ quan trọng của chúng ta với tư cách là dân của Ngài. Tin Mừng hôm nay nói về một trong những nhà truyền giáo hiệu quả nhất đã từng sống, một phụ nữ.
5. Mong muốn
Có một bộ phim hoạt hình mà tôi đã xem trước đây, trong đó có một cậu bé quỳ bên giường đọc những lời cầu nguyện trước khi đi ngủ. Cậu cầu nguyện: “Lạy Chúa, như Ngài biết, thứ hai là ngày đầu tiên con đi học. Con hy vọng Ngài sẽ không mất dấu con trong đám đông. Amen.” Sau đó, cậu leo lên giường. Nhưng suy nghĩ trong một phút, cậu lại bò ra ngoài và thêm vào lời cầu nguyện của mình: “Ôi, nhân tiện, Chúa ơi, con sẽ là người mặc quần soóc đỏ và áo phông đồng phục.”
* Giống như cậu bé này, người phụ nữ trong câu chuyện hôm nay cũng cần người nào đó nhìn nhận mình. Chị đã đánh mất cuộc sống của chính mình và mong muốn Chúa Giêsu đón nhận chị.
6. Dám khác biệt
Hãy dám khác biệt trong mọi lĩnh vực của cuộc đời bạn. Dám đứng một mình. Dám đứng lên bảo vệ niềm tin của mình, ngay cả khi đám đông xung quanh bạn có thể đi theo hướng khác. Dám làm một kẻ dại dột vì Chúa Kitô.
Với Lời Chúa và quyền năng của Thánh Thần, hãy dám trở thành một chiến sĩ cho Chúa Kitô. Hãy dám bước theo dấu chân của Chúa chúng ta, Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa và Con
Người. Hãy dám vác thập tự giá và đi theo Chúa Giêsu bất cứ nơi nào Người dẫn dắt bạn. Dám là một Kitô hữu thực sự với một xác tín mạnh mẽ. Dám nói “không” với những thú vui nhất thời mà thế gian mang lại. Dám nói với người khác về Cha trên trời của bạn. Dám đứng lên vì sự thánh thiện, thuần khiết và toàn hảo như một chú chim bồ câu, bất kể điều gì xảy ra (Judy Sara Mathew).
7. Làm điều không thể
Một câu chuyện đáng kinh ngạc về quyết tâm và thành công được thuật lại về Musa Alami, một quý ông người Ả Rập tốt nghiệp tại Đại học Cambridge. Ông đã làm cho sa mạc Giuđê nở hoa như đóa hồng.
Ông đã vượt qua sông Giôđan đến rìa thành Giêricô, rồi đến sa mạc rộng lớn, hoang vắng và khô cằn của thung lũng Giôđan. Ngoại trừ một vài ốc đảo, không có gì được trồng trọt ở vùng đất nóng và cằn cỗi này. Mọi người đều nói rằng không thể trồng trọt gì được vì không thể mang nước đến nơi này. Musa hỏi: “Còn việc khai thác nước ngầm thì sao?”
Mọi người cười to và nói: “Có ai nghe nói về một điều như vậy trong sa mạc này không?” Không có nước dưới sa mạc nóng bỏng đó, và trong nhiều thời đại nó được bao phủ bởi nước Biển Chết; và bây giờ cát đầy muối, càng làm tăng thêm sự khô cằn của nó. Musa Alami quyết định rằng ông có thể tìm thấy nước ở đó. Một vài người tị nạn nghèo khó từ Trại tị nạn Giêricô gần đó đã giúp ông trong việc đào bới. Họ đào, không phải bằng thiết bị máy khoan nào, mà bằng cuốc và xẻng.
Ngày qua ngày, tháng qua tháng họ đào. Họ đào trong sáu tháng, rồi một ngày nọ, họ thấy cát bên dưới ẩm ướt, và cuối cùng nước ngọt phun ra.
* Những người Ả Rập tụ tập ở đó, không cổ vũ mà khóc lên vui mừng. Nước đã được tìm thấy trong sa mạc cổ đại! (John Rose trong John’s Sunday Homilies; do cha Botelho
trích dẫn).
8. Tìm kiếm
Một lần nọ, có một người phụ nữ phải đi mỗi ngày một dặm để lấy nước từ một cái giếng công cộng. Trải qua năm tháng, chị trở nên mệt mỏi với việc đi lấy nước. Bất kể chị ta mang bao nhiêu nước về nhà, kết cục vẫn là một thùng rỗng.
Rồi một ngày nọ, chị đang làm một số công việc trong khu vườn ở nhà thì ở một góc xa, chị bắt gặp một phiến đá lớn nằm trên mặt đất. Tấm đá bị rêu bao phủ hoàn toàn. Sự tò mò của chị bùng lên. Chị dọn sạch rêu sau đó dỡ phiến đá lên và phát hiện ra một cái giếng xinh xắn. Chị ấy đã rất vui mừng và xúc động.
* Chị sẽ không bao giờ phải thực hiện hành trình mệt mỏi để đi lấy nước ngoài giếng nữa. Bây giờ chị đã có một nguồn nước vô tận của riêng mình. (Flor McCarthy in New Sunday và Holyday
Liturgies).
9. Phá bỏ rào cản
Một số bạn có thể đã đọc cuốn sách Trại súc vật của George Orwell. Câu chuyện hơi giống một chuyện cổ tích nhưng nó thực sự là một phê phán về một chế độ chính trị nào đó. Cuốn sách kể câu chuyện về cách những con vật trong một trang trại đuổi người nông chủ tên Jones và gia đình ông ta và tiếp quản trang trại.
Đàn vật muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn và bắt đầu có cái nhìn cách mạng rằng tất cả các loài động vật đều bình đẳng và tất cả tài sản đều phải được chia sẻ. Chẳng mấy chốc, những con lợn nắm quyền kiểm soát và một trong số chúng, Napoléon, trở thành thủ lĩnh của tất cả các loài động vật. Nhưng rồi hắn ta trở thành bạo chúa. Bình đẳng giữa các loài động vật bị loại bỏ, và những con lợn lợi dụng và lạm dụng những con vật còn lại trong trang trại.
Những con lợn lợi dụng những con vật khác cho mục đích riêng của chúng và loại bỏ chúng nếu chúng không còn hữu ích. — Đôi khi chúng ta đều biết cảm giác bị người khác lợi dụng và lạm dụng là như thế nào. Một thực tế ai cũng biết là khi người ta cảm thấy mình bị lạm dụng và bản chất tốt của họ bị bóc lột, họ trở nên nghi ngờ, cay đắng và thận trọng vì sợ bị tổn thương lần nữa. Rào cản được dựng lên, các mối quan hệ bị xa lánh, bởi vì họ không bao giờ muốn bị lợi dụng và lạm dụng nữa.
* Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết Chúa Giêsu đã dỡ bỏ hàng rào định kiến như thế nào để cứu một phụ nữ tội lỗi.
10. Tình yêu là gì
Trong câu chuyện về cuộc đời tôi, Helen Keller đã viết về cách mà giáo viên của cô, Annie Sullivan, đã dẫn dắt cô khi cô còn là một đứa trẻ thoát khỏi thế giới tăm tối mà chứng mù và điếc đã giam cầm cô.
“Tôi buổi sáng lần đầu tiên tôi hỏi ý nghĩa của từ Tình yêu. Đây là thời điểm trước khi tôi biết nhiều từ… Cô giáo của tôi đã cố gắng hôn tôi nhưng lúc đó tôi không muốn ai hôn mình ngoại trừ mẹ tôi. Cô Sullivan vòng tay nhẹ nhàng quanh tôi và đánh vần vào tay tôi, CÔ YÊU Helen. Tôi hỏi: “Tình yêu là gì?” Cô ấy kéo tôi lại gần cô hơn và nói: “Nó ở đây,” chỉ vào trái tim tôi, lần đầu tiên tôi cảm nhận được nhịp đập của nó…‘
Bạn không thể chạm vào tình yêu, nhưng bạn cảm nhận được sự ngọt ngào mà nó tràn ngập trong mọi thứ. Nếu không có tình yêu, bạn sẽ không hạnh phúc. ’…” (J. Maurus in Source Book of Inspiration;
do cha Botelho trích dẫn).
11. Nhịp cầu thiêng liêng
Từ khi cầu Mỹ Thuận được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con người đi về gặp gỡ Thiên Chúa.
Hôm nay, khi mở đầu câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống thần linh.
12. Đại bàng không biết mình
Một người nông dân vào rừng, lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta kinh khiếp hỏi bác gà trống: "con gì mà khủng khiếp quá nhỉ.””
“Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp. Chúng ta chỉ là gà.” Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.
Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.
13. Cái khát của tâm hồn
Một người sắp chết khát trong sa mạc nhưng vẫn cố lết về phía trước, mong tìm thấy được một giọt nước. Mắt anh sáng lên khi thấy từ đằng xa có một cái túi da. Một túi nước chăng? Ở sa mạc, nước là sự sống. Hai tay run rẩy, anh chụp lấy cái túi, mở ra… và thấy một nắm vàng bạc, châu báu. Hoàn toàn thất vọng, anh ngã gục xuống, buông xuôi. Trong sa mạc anh mới thấy được là một giọt nước còn quí hơn vàng bạc.
Trước khi đưa Dân Chúa vào Đất Hứa, Chúa để cho họ đi qua sa mạc. Trong sa mạc, họ chịu lột sạch mọi ảo tưởng để trở về với con người thật của mình, và phải đứng trước một chọn lựa mang tính sống còn của đời người: "Ông đưa chúng tôi ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17,3).
Cái khát của thân xác cho thấy phần nào cái đói từ đáy sâu tâm hồn
14. Được thỏa lòng
Thầy Léon là một tu sĩ dòng Phanxicô được bề trên phân công may áo cho các tu sĩ, và thầy tận tụy với công việc đến hơi thở cuối cùng.
Khi sắp lìa trần, thầy nói với anh em đang đứng xung quanh: “Xin anh em đem cho tôi chiếc chìa khoá mở cửa thiên đàng.” Nghe thế, anh em đem đến cho thầy cuốn sách “Chìa khoá mở cửa thiên đàng.” Nhưng thầy lắc đầu. Thế rồi anh em thay nhau đưa đến các vật dụng đạo đức, các sách tu đức, v.v… thầy vẫn lắc đầu. Cuối cùng, có một tu sĩ hiểu được ý của Léon nên chạy đi tìm cây kim khâu thầy vẫn dùng từ nhiều năm qua.
Mắt Léon sáng lên, thầy nở một nụ cười khi trông thấy cây kim và nói: “Đây chính là chìa khóa mở cửa thiên càng của tôi”, rồi thầy tắt thở.
Thầy Léon được no thoả ngay từ cuộc sống thường ngày, khi âm thầm chu toàn mọi bổn phận của mình. Lương thực thầy dùng là lương thực của Đức Kitô, “là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy” (Ga 4,34).
15. Cái vòng luẩn quẩn
Một linh sư Ấn độ phái nhiệm nhặt rất hài lòng với sự tiến bộ của một đệ tử. Nghĩ rằng anh không còn cần đến sự dìu dắt của mình nữa, thầy lặng lẽ bỏ đi để lại cho người đệ tử một túp lều tranh xiêu vẹo và một chiếc áo rách. Sáng nào, người đệ tử này cũng ra sông Hằng để thanh tẩy theo đúng nghi thức, và giặt chiếc áo rách - tài sản duy nhất của anh.
Một hôm, thấy chiếc áo rách bị chuột cắn nát, anh phải vào làng xin một chiếc áo cũ khác để mặc. Nhưng số phận chiếc áo đó cũng vậy. Thế là anh xin một con mèo về nuôi để trị chuột. Nhưng các vấn đề bắt đầu theo nhau nảy sinh: Con mèo không quen với những món ăn nhiệm nhặt của anh nên anh phải xin thêm cơm và bánh tương đối ngon hơn; xin hoài cũng bất tiện, anh xin hẳn một con bê để nuôi lớn thành bò mà lấy sữa nuôi mèo; nuôi bò mất nhiều công cắt cỏ, kín nước, làm mất giờ cầu nguyện nên anh thuê một chú bé để chỉ chăm lo cho con bò.
Bò mẹ sinh bò con, phải thuê thêm người, nên anh nuôi thêm nhiều bò cho khỏi phí nhân công. Chẳng bao lâu sau anh đã làm chủ một nông trại giàu có, lại thấy cần một người để chia sẻ ưu tư và gánh nặng cai quản cái sản nghiệp đồ sộ ấy, anh quyết định cưới vợ, và sinh con …
Mười năm sau, vị linh sư trở lại nhưng không thể nào tìm được túp lều xiêu vẹo ngày xưa. Khi gặp người học trò cũ, ông hỏi: “Sao lại thế này?”, anh đệ tử kể lại câu chuyện, bắt đầu từ chiếc áo rách!
Chiếc áo rách đó là cái vòng đói khát luẩn quẩn trong đời người đi tìm một hạnh phúc không có Thiên Chúa.
16.”Có Chúa ở trong tôi không?”
Có một cuộc đối thoại độc đáo giữa một người tân tòng và một người vô thần như sau:
- Anh đã theo đạo Công giáo rồi sao?
- Vâng, nói đúng hơn là tôi theo Đức Kitô.
- Vậy xin hỏi anh, Ông Giêsu sinh ra ở quốc gia nào?
- Rất tiếc là tôi quên mất chi tiết này.
- Thế khi chết ông ta được bao nhiêu tuổi?
- Tôi cũng nhớ không rõ nên chẳng dám nói.
- Vậy ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài?
- Tôi không biết.
- Quả thật anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh đã theo đạo.
- Anh nói đúng một phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Kitô. Thế nhưng điều mà tôi biết rất rõ là thế này: Ba năm trước tôi là một người nghiện rượu sáng say chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ, gia đình tôi xuống dốc trầm trọng, bao nhiêu của cải tôi đều nướng vào các cuộc men say tuý luý. Mỗi tối, khi trở về nhà, vợ con tôi đều tức giận, buồn tủi và xấu hổ.
Thế mà bây giờ tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ, gia đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc. Vợ tôi, các con tôi ngóng trông và vui mừng đón đợi tôi sau khi tôi đi làm về. Những điều này, không ai khác hơn chính là Đức Kitô đã làm cho tôi, và đó là tất cả những gì tôi biết về Người.
“Có Chúa ở trong tôi không?”
17. Chạy theo ảo tưởng
Triết gia người Đức, ông Schopennauer khám phá: “Những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm nay, rồi ngày mai lại đói.”
Cha Anthony de Mello cũng nhận định tương tự: “Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái vòng lẩn quẩn: khát khao – thoả mãn, thoả mãn – khát khao… cứ tiếp diễn mãi không cùng”… lại càng ngày càng tăng “đô” hơn. Và cứ thế, người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì sự ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
Augustinô là người mải mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài, mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mônica, Augustinô mới tìm được Thiên Chúa là Đấng đem lại cho ngài niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ lòng đầy hoan hỉ, Augustinô thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên trong tay Ngài.”
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối mang lại hạnh phúc: “Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4,13-14)
18. Cơn khát đam mê
Người ta kể rằng: có một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:
– Ở trần gian con làm nghề gì?
– Anh ta thưa: Con làm nghề đào vàng.
– Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
–Thưa ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.
Nhờ dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng.
Anh ta liền rỉ tai rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi!
Nhưng anh ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục.
Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.
19. Món quà vô giá
Có một người Ả Rập nghèo nọ phải băng qua giữa sa mạc trong cơn đói khát và mệt lả. Tình cờ, người đó bắt gặp một dòng suối. Với tất cả tấm lòng biết ơn ông ta uốn từng ngụm nước và cảm thấy ngọt ngào khôn tả. Ông múc nước đổ vào bầu da cho đầy và tiếp tục cuộc hành trình.
Sau nhiều ngày vất vả, ông đã đến thủ đô Baghdad. Tìm đủ cách để được tiếp kiến quan đầu tỉnh, ông dâng kính cho quan tặng vật là chính bầu nước. Quan đầu tỉnh đón nhận món quà một cách vui vẻ. Cho nước vào trong ly, ông uống cạn và cám ơn người Ả Rập, đồng thời tưởng thưởng ông một cách quảng đại.
Những người hầu cận cứ nghĩ thầm rằng đây là một thứ nước kỳ diệu nên ai cũng mong được nếm thử. Nhưng quan đầu tỉnh nhất mực từ chối…
Chờ cho người Ả Rập đi khuất, quan mới giải thích về cử chỉ của mình. Nước để lâu trong bầu da đã trở nên bẩn và hôi thối. Quan nghĩ rằng nếu tất cả mọi người đều uống nước đó và đều tỏ thái độ khó chịu trước mặt người Ả Rập, ông ta hẳn sẽ bị tổn thương.
Người Ả Rập cứ tưởng mình trao tặng cho quan đầu tỉnh món quà diệu kỳ. Hóa ra là chính quan đầu tỉnh mới là người tặng cho anh món quà vô giá, với một phong cách trao ban hết sức tế nhị và thấm đậm tình người.
20. Cho thì có phúc hơn là nhận
Ngày nọ có một người ăn xin đi khắp làng, nhưng anh chẳng xin được gì vì nhà nào cũng đóng cửa. Anh bèn tìm cách đi ra khỏi ngôi làng vào giữa lúc ban trưa nắng đổ. Mồ hôi nhễ nhãi, mệt mỏi vì đói, chán nản vì bị từ chối, anh ngồi xuống bên vệ đường. Bên cạnh anh là một cái túi chứa một nắm hạt bắp. Anh dự định chiều tối về nhà sẽ đem ra xay thành bột, làm một cái bánh ăn cứu đói.
Thình lình mắt anh sáng lên khi nhìn thấy chiếc xe của vua từ đằng xa đang tiến lại gần. “Nhà vua nổi tiếng là một người tử tế”, anh tự nghĩ. “Ngài sẽ không lỡ đi qua mà chẳng cho mình cái gì.” Rồi anh chuẩn bị đứng lên, chờ đợi hồi hộp. Anh thật khoái chí khi thấy chiếc xe của vua từ từ chậm lại. Quả vậy, nó đã ngừng lại ngay chỗ anh đứng với đôi bàn tay giang rộng chờ đợi xin xỏ.
Cửa xe mở ra và nhà vua xuất hiện. Người ăn xin cúi gập người xuống dự tính nói: “May phước thay, thưa hoàng đế. Xin ngài bố thí cho tôi tớ hèn mọn này một ít tiền.” Nhưng nhà vua đã chìa tay ra trước và nói: “Xin bạn dành cho vua một hạt bắp nhỏ được không?” Người ăn xin hoàn toàn ngỡ ngàng trước biến cố lạ lùng này. Lấy lại bình tĩnh, anh nói: “ Thưa hoàng đế, xin vâng lệnh.” Rồi mở chiếc bị ra, liếc nhanh vào trong, anh nhặt lấy một hạt bắp nhỏ nhất, và đưa cho vua với lời xin lỗi rằng đây là tất cả lương thực anh có. Nhà vua cám ơn anh, bước lên xe đi khỏi, để lại cho người ăn xin một cảm giác trống rỗng và thất vọng ê chề.
Suốt ngày ngồi ăn xin bên bên vệ đường mà chẳng được gì, khi hoàng hôn xuống anh trở về nhà buồn bã, mệt mỏi và đói bụng. Ngay khi về đến nhà anh bắt đầu làm bếp, đổ hết số hạt bắp trong bị ra. Khi kiểm tra lại những hạt bắp, anh giật mình khám phá thấy rằng hạt bắp nhỏ nhất đã được thay thế bằng một hạt vàng ròng cùng cỡ. Trong nuối tiếc, anh ngồi than thở rằng nếu biết được món quà nhà vua muốn cho, anh đã cho vua tất cả số bắp đang có trong bị. Nếu làm như thế, bây giờ anh đã trở thành một người giàu có và không bao giờ phải đi ăn xin nữa!
21. Thiên Chúa là nguồn sự sống
Ông Tổng thống Mitterand là nhà lãnh đạo của nước Pháp trong 14 năm và được dân Pháp quý mến, xem ông như một thần tượng. Trong những năm tháng cuối đời, ông có dịp nhìn lại cuộc đời đã qua và viết lại những dòng nhật ký đáng để chúng ta suy nghĩ. Trang nhật ký có tựa đề ‘Tôi đang chuẩn bị cái chết’. Ông viết: “Lúc nhỏ, tôi được dạy phải đọc kinh, nhưng thay vì đọc kinh tôi lại thích thinh lặng và suy niệm. Tôi suy niệm về tôi, về Thiên Chúa, và về ý nghĩa cuộc đời. Lắm khi tôi tự hỏi không biết tôi có tin Thiên Chúa hay không, nhưng từ trong thâm tâm, tôi luôn bị thúc đẩy phải tin Ngài. Nếu không tin, cuộc sống của tôi sẽ trở nên vô nghĩa và hoàn toàn trống rỗng.”
Ông viết tiếp: “Ai mà không cảm thấy khao khát muốn vươn tới hạnh phúc và muốn được sống mãi. Một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy lẻ loi và bị mất hút trong thế giới vĩnh hằng.
“Pascal đã nói chính xác rằng sẽ đến lúc thân xác mong manh của bạn bị ngã đổ. Bạn sẽ chết, sẽ không còn hiện hữu nơi trần thế này nữa. Nhưng từ trong thâm sâu, bạn vẫn có ước muốn được trường tồn, được sống và được sống mãi. Niềm khao khát đó, không một thứ gì ở trần gian này có thể lấp đầy.”
22. Hạnh phúc trong tay ta
Ngày xưa, có một đạo sĩ dạy cho các môn sinh bí quyết để tìm tới hạnh phúc. Ông giảng dạy rất uyên bác. Một thanh niên bặm trợn đến gặp ông và thách đố: “Thưa Thầy, Thầy giảng dạy rất thâm thúy, nhưng tôi chỉ xin hỏi Thầy một câu thôi. Trong tay tôi là một con chim, đố thầy biết đó là con chim sống hay con chim chết?”
Câu hỏi ma mãnh của chàng trai nhằm gài bẫy vị đạo sỹ vì trong tay anh ta, con chim đang còn sống sẽ bị anh ta bóp chết, nếu vị đạo sỹ trả lời rằng đó là con chim sống. Nhìn nét mặt quỷ quyệt của người thanh niên trẻ, vị đạo sĩ nói thẳng vào mặt anh ta: “Con chim này sống hay chết là do anh.”
Ông nói tiếp: “Cũng vậy, hạnh phúc có đến được với chúng ta hay không còn tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của mỗi người.”
Trong mùa chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối để trở với Chúa và với nhau. Chúng ta hãy hướng về Thập giá Đức Giêsu, kín múc cho mình nguồn nước sự sống để tâm hồn chúng ta luôn được an bình và vươn đạt tới hạnh phúc trường cửu.
23. Khát vọng vô biên của con người
Andre Frossard, một ký giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II cách đây vài năm, là con
của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng là một người cộng sản đầy xác tín…
Ngày nọ, ông phải đưa một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý.”
Ông đã ghi lại kinh nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu, tôi đã gặp Ngài.” Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán chạy nhất (best-seller)…
24. Những Sinh Vật của Thói Quen
Có hai vợ chồng bác nông dân kia cảm thấy cần phải sửa chữa cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì dột, một vài tấm ván ghép tường bị mục, còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên bị đọng nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị phá hủy trước khi mùa đông đến.
Sáng hôm sau, trước khi đi phố mua thêm đồ dùng, bác cho gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở phòng hờ nhỡ khi thời tiết đổi xấu. Mà thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ. Nhiệt độ xuống thấp dần, mưa bắt đầu rơi và nước mưa chuyển thành băng. Bác nông dân cảm thấy rất vui khi nghĩ mấy con vật giờ đang được ấm áp trong căn chuồng mới. Khi bác về tới nhà liền đi thẳng ra chuồng thú vật, nhưng căn chuồng trống rỗng chẳng có con vật nào cả. Bác vội chạy ra ngoài tìm kiếm và thấy một cảnh thật lạ lùng. Đó là mấy con vật trông thật tội nghiệp, chúng nép vào với nhau và trên lưng chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng thời chúng lại đứng trên cái nền chuồng cũ, cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của Thói Quen.
Chúng ta thờ Chúa không phải chỉ làm những việc theo thói quen như đi nhà thờ hay đọc kinh nhưng phải thờ Chúa trong cả đời sống chúng ta.
CNMC 3B
Lời Chúa:
TRUYỆN KỂ
1.
CNMC 3C - CÂY VẢ KHÔNG SINH TRÁI
Lời Chúa: Lc 13, 1-9
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có những kẻ thuật lại cho Chúa Giêsu về việc quan Philatô giết mấy người Galilê, làm cho máu họ hoà lẫn với máu các vật họ tế sinh.
Ngài lên tiếng bảo: "Các ngươi tưởng rằng mấy người xứ Galilê bị ngược đãi như vậy là những người tội lỗi hơn tất cả những người khác ở xứ Galilê ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nhưng nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.
Cũng như mười tám người bị tháp Silôe đổ xuống đè chết, các ngươi tưởng họ tội lỗi hơn những người khác ở Giêrusalem ư? Ta bảo các ngươi: không phải thế. Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì tất cả các ngươi cũng sẽ bị huỷ diệt như vậy.”
Ngài nói với họ dụ ngôn này: "Có người trồng một cây vả trong vườn nho mình. Ông đến tìm quả ở cây đó mà không thấy, ông liền bảo người làm vườn rằng: "Kìa, ba năm nay ta đến tìm quả cây vả này mà không thấy có. Anh hãy chặt nó đi, còn để nó choán đất làm gì!"
Nhưng anh ta đáp rằng: "Thưa ông, xin để cho nó một năm nay nữa, tôi sẽ đào đất chung quanh và bón phân; may ra nó có quả chăng, bằng không năm tới ông sẽ chặt nó đi.”
TRUYỆN KỂ
1. Hãy trở nên người tốt
Có lần, một sinh viên nói với nhà khoa học và triết học Blaise Pascal: “Nếu em được tài giỏi như thày, em sẽ trở thành một người tốt hơn.” Pascal trả lời: “Điều đầu tiên là em hãy trở thành một người tốt hơn, rồi em sẽ được tài giỏi như thày.”
Theo ông Pascal, điều đầu tiên cần phải làm là hãy là một người tốt, rồi sau đó mới có hy vọng và khả năng trở thành người tài giỏi. Cậu học trò trong câu chuyện trên lại có quan điểm ngược lại, chờ khi nào mình tài giỏi thì mới trở thành người tốt. Như thế, điều kiện đặt ra phải là người giỏi, xem ra rất xa vời và ảo tưởng. Con đường đạt tới thành công xem ra chỉ là những mơ ước hão huyền.
2. Cơ hội thứ hai
Có một câu chuyện về một cây vĩ cầm như sau:
Cây vĩ cầm bị rạn nứt, người ta dán lại và đem ra bán đấu giá. Người bán đấu giá nghĩ rằng chẳng nên phí thời giờ chăm chút nó làm gì. Nhưng ông vẫn tươi cười cầm nó lên và rao bán:
- Thưa quí vị ai sẽ bắt đầu trả giá đầu tiên đây?
Một đồng, rồi hai đồng. Chỉ có hai đồng thôi sao? Ai sẽ trả nó ba đồng đây. Vâng, một người trả ba đồng. Không ai trả hơn sao?
Bỗng từ cuối phòng, một người đàn ông tóc hoa râm bước lên cầm lấy cây đàn, ông lau sạch bụi chiếc đàn cũ kỹ, rồi lên dây lại. Sau đó, ông tấu lên một bản nhạc êm dịu, ngọt ngào, du dương như bài ca của các thiên thần. Tiếng nhạc dừng lại, người bán đấu giá chậm rãi, hỏi:
- Tôi sẽ ra giá bao nhiêu cho chiếc vĩ cầm này đây?
Đoạn ông vừa cầm đàn lên vừa nói:
- Một ngàn đồng, và ai sẽ tăng lên hai ngàn? Hai ngàn rồi, có ai chịu tăng lên ba ngàn không? Một người chịu giá ba ngàn, còn nữa không?
Đám đông hồ hởi reo vui, nhưng có vài người trong họ la lên:
- Chúng tôi hoàn toàn chẳng hiểu cái gì đã làm thay đổi giá trị cây vĩ cầm đó?
Lập tức có tiếng đáp lại:
- Chính nhờ đôi tay người nghệ sĩ chạm vào đấy!
3. Không biết tội của mình
Một ngày kia có hai người phụ nữ tìm đến một vị ẩn sĩ
già để xin ông chỉ đạo cho mình.
Một người thấy mình là người có rất nhiều tội nặng nề...Bà
tỏ ra rất đau buồn về những lỗi làm của bà.
Còn bà thứ hai thì vẫn thấy mình sống theo luật Chúa,
không phạm tội, chẳng thấy mình có điều gì đáng trách nên rất hài lòng về những
gì mình đang sống.
Sau khi nghe hai người bảy tỏ tâm hồn của mình, vị ẩn
sĩ nói với người phụ nữ thứ nhất:
- Hỡi nữ tỳ của Thiên Chúa, con hãy đi ra ngoài hàng
rào kia tìm một tảng đá thật to rồi cố mang về đây cho ta.
Sau đó Ngài quay sang phía người đàn bà thứ hai và bảo:
- Phần con, con không phạm tội gì nặng, nhưng con cũng
hãy đi ra ngoài và kiếm cho ta một bao đầy đá sỏi nhỏ .... rồi cũng mang về đây
cho ta.
Hai người vâng lời ra đi. Được một lúc sau thì họ trở
về. Một bà vác một tảng đá rất to - một bà mang một bao đầy những hòn sỏi nhỏ.
Sau đó vị ẩn sĩ lại bảo người đàn bà tội lỗi:
- Con hãy đem tảng đá này đặt lại vào đúng vị trí của
nó lúc nãy …..rồi hãy trở lại đây báo tin lại cho ta.
Ngài cũng bảo người đàn bà thứ hai y như vậy.
Rồi cả hai người lại quay ra. Người đàn bà có tội nặng
rất dễ dàng đặt lại tảng đá lại vào đúng vị trí cũ của nó, còn người đàn bà thánh
thiện thì không có cách nào làm được việc đó bởi vì bà không thể nhớ hết được những
vị trí những viên sỏi nhỏ mà bà đã lượm lên khi nãy. Bà đành quay trở lại với bao
sỏi trên vai. Bấy giờ vị ẩn sĩ mới cắt nghia cho họ nghe.
- Con thấy không, con đã đặt đúng tảng đá vào đúng vị
trí của nó vì con biết rõ nó nằm ở chỗ nào.
Rồi ngài quay sang phía người phụ nữ thứ hai và nói:
- Phần con, con không thể đặt những viên sỏi này vào
vị trí cũ trước đây của chúng vì con không biết đã nhặt chúng ở đâu.
4. Thay đổi chính mình là bước đầu tiên
Lời tâm sự của một nhà hiền triết khi nhìn về cuộc sống
đã qua của mình.
Ông tâm sự như sau: "Lúc thiếu thời tôi là một kẻ
hiếu động. Trong sự hăng say của tuổi trẻ, tôi thường nguyện xin Thiên Chúa ban
cho được sức mạnh biến đổi thế giới này trở nên tốt hơn. Đến lúc tôi được nửa đời
làm người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người
nào. Tôi đổi lại lời cầu nguyện cho được thiết thực hơn:
- Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con được sức
mạnh để đổi thay cuộc sống của những người con được dịp tiếp xúc hàng ngày, những
người thân trong gia đình, những bạn bè quen thuộc. Nếu được như vậy thì con cũng
thỏa mãn bằng lòng rồi.
Nhưng rồi giờ đây, khi tuổi đời sắp chấm dứt, tôi sắp
từ giã trần gian để về với Đấng đã ban cho tôi sự sống, tôi ý thức sự ngông cuồng
điên rồ của mình, tôi thay đổi lời cầu nguyện lại:
- Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời sống
con.
Nếu ngay từ thời thanh xuân tôi đã cầu nguyện như vậy,
thì có lẽ, tôi sẽ không hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.
Vâng! - Lạy Chúa, xin ban ơn cho con thay đổi chính đời
sống con. Nếu ngay từ hôm nay con biết sống như thế thì có lẽ sau này, con sẽ không
hối tiếc là mình đã sống một cuộc đời vô ích.
5. Sửa mình từ chuyện nhỏ
Ngày kia một giáo sư già đi chơi qua khu rừng, bên cạnh
có cậu học trò cùng đi. Thình lình ông dừng chân chỉ vào bốn cây gần đó. Cây thứ
nhất mới ló lên khỏi mặt đất, cây thứ hai khá hơn, cây thứ ba lớn hơn và cây thứ
bốn đã khá to rồi. Thầy nói: Trò hãy nhổ cây thứ nhất. Chỉ với hai ngón tay, cậu
đã nhổ dễ dàng.
Thầy tiếp: Bây giờ con hãy nhổ cây thứ hai. Cậu phải
dùng cả hai tay. Nhổ tiếp cây thứ ba, cậu phải dùng hết sức lực hai cánh tay mãi
mới nhổ được. Thầy nói: Bây giờ hãy cố gắng nhổ cây thứ tư. Hai cánh tay ôm lấy
thân cây, cậu cố sức lay nhưng lá nó cũng chẳng rung rinh.
Thầy nhẹ nhàng bảo: Đó con thấy không. Về các tính hư
và tật xấu của ta cũng vậy. Khi mới nhiễm thì dễ khử trừ, nhưng nếu để chúng đâm
rễ sâu trong tâm khảm và trong thân xác, con sẽ khó mà trừ khử.
Chúng ta biết các thói hư tật xấu giống cỏ dại, nơi đâu
cũng có thể mọc lên mà không cần vun tưới. Cỏ dại nơi lòng người cũng cứ tự nhiên
phát triển. Điều tốt mình muốn nhưng lại không làm. Bản năng con người có cảm tình
với các tật xấu, tội lỗi và hướng chiều về sự dữ. Tội lỗi có một ma lực kéo lôi
và quyến rũ. Nếu chúng ta không cẩn thận ngăn ngừa và cắt bứng ngay. Khi hạt giống
sự dữ được gieo vào lòng thì lớn lên nhanh. Thói quen xấu lâu ngày trở thành tật
bệnh. Sự sám hối là nhận biết chính mình để phục hồi sự tốt lành thánh thiện.
6. Hãy sám hối
Người Hồi giáo thường kể rằng: Ngày kia Đức Ala truyền
cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời.
Sứ thần đáp ngay xuống một chiến trường máu của các vị
anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng
xem ra Đức Ala không hài lòng mấy.
Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một điều
qúi giá, nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài
gặp đám tang của một người giầu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo
sau quan tài, vừa đi vừa khóc lóc vừa xông hương để biểu lộ lòng biết ơn của họ
đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm và mang về trời. Lần này
Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng.
Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều tốt đẹp và hiếm có dưới
trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa, sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều
ngày tìm kiếm khắp bốn phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường Ngài bỗng
thấy một người đàn ông đang khóc sướt mướt. Trước câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ
thần, người đàn ông giải thích: “Tôi đã chiều theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây
nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi.”
Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng
hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm
cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật, dưới trần gian không
có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối. Bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời.
Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành
mùa xuân ấm áp của tình yêu.”
Dưới trần gian không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng
lòng sám hối, đây cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng hôm nay.
7. Đổi mới cách nhìn
Có một nhà thiên văn vừa mới hoàn chỉnh được chiếc viễn
vọng kính của mình. Ông đặt chiếc viễn vọng kính ấy lên sân thượng, và đêm đêm,
ông nhìn các vì tinh tú trên bầu trời.
Một buổi tối kia, ông bỗng khám phá ra một con rồng xanh
trên mặt trăng. Ông báo cho bè bạn hay, thế là người ta ùn ùn kéo đến để được nhìn
thấy con vật lạ. Ai cũng tấm tắc khen ngợi nhà thiên văn. Thế nhưng, có một nhà
bác học già cũng đến để được nhìn xem con rồng. Sau khi đã xem qua, ông lắc đầu
và tiếp tục quan sát thật kỹ ống kính. Cuối cùng, ông khám phá ra một sợi chỉ xanh
vướng vào đầu ống kính, ông liền nói với nhà thiên văn:
- Này anh bạn, trước khi quan sát các vì tinh tú, anh
hãy coi lại cái ống kính của mình, xem có trục trặc chi không?
8. Thinh lặng để lục soát lương tâm
Một đạo sỹ nọ quy tụ những học trò của ông trong một
cái sân rộng trước nhà để chỉ giáo. Giữa sân ông để một thau nước. Ông khuấy cho
thau nước sóng sánh và nói các đệ tử hãy nhìn vào. Từng đứa học trò ngoan ngoãn
làm theo. Sau đó, ông hỏi xem họ đã nhìn thấy gì. Các học trò đáp: “Thưa thầy, chúng
con chỉ thấy lờ mờ gương mặt của chúng con.”
Mười lăm phút sau, khi thau nước trở nên phẳng lặng,
ông nói họ hãy nhìn lại một lần nữa và cũng hỏi lại câu hỏi trên. Các học trò trả
lời: “Bây giờ chúng con đã thấy thật rõ khuôn mặt của chính chúng con.” Bấy giờ
vị đạo sỹ mới giải thích rằng, chỉ khi nào biết trở về trong tĩnh lặng nội tâm,
chúng con mới có thể nhìn rõ con người mình.
Đúng vậy, Giáo hội vẫn thường tổ chức những cuộc tĩnh
tâm để giúp chúng ta đi vào sự thinh lặng, đặt mình trước mặt Chúa hầu có thể nhìn
lại bản thân.
9. Sám hối và canh tân
Có một câu chuyện dí dỏm đăng trên một tuần báo. Một
anh chàng thanh niên kia rất bặm trợn, lảng vảng đến khu vực nhà xứ để phá phách.
Cha xứ gặp anh ta và cũng chào hỏi thân tình. Chàng thanh niên chỉ chuyên đi nghịch
ngợm, còn việc đạo đức thì khá lơ là, mỗi tuần chỉ vác xác đến nhà thờ một lần cho
có lệ. Anh chàng chào Cha xứ và nói: “Thưa Cha, đêm hôm qua con có một giấc mơ tuyệt
vời, vì con thấy cả con và Cha cùng được đưa về Thiên đàng.” Cha xứ kiên nhẫn và
lắng tai nghe tiếp xem anh ta muốn nói gì.
Anh nói tiếp:“Thưa Cha, đúng như vậy, cả Cha và con mỗi
người trèo lên một cái thang bắc tới trời. Trên cái thang đó, các thiên thần ghi
lại những tội đã phạm, thang của Cha ghi tội của Cha, thang của con ghi tội của
con. Thiên thần phát cho mỗi người một hộp phấn, dùng để xóa đi những vết tích tội
lỗi ghi trên 2 chiếc thang. Con đã trèo lên khá cao, sau khi đã lấy phấn bôi xóa
gần hết những tội của con. Một lát sau, Cha vẫn còn lẹt đẹt tít phía dưới và gọi
với lên: “Con còn phấn không, cho Cha xin đỡ mấy cục, hộp phấn của Cha hết sạch
rồi.”
Kể xong câu chuyện, chàng thanh niên chuồn thẳng, còn
Cha xứ đứng đó tủm tỉm cười.
Tất cả mọi người chúng ta đều là tội nhân, từ các anh
em linh mục, tu sĩ hay giáo dân. Có nhiều linh mục đã sống rất thánh thiện và gương
mẫu, nhưng hỏa ngục không phải là nơi vắng bóng các Cha đâu.
Sống hoàn thiện ơn gọi nên thánh của tất cả mọi người
chúng ta luôn khởi đầu với việc ý thức sâu xa thân phận tội lỗi nơi mình.
10. Trổ sinh hoa trái thiêng liêng
Sáng hôm ấy, Thầy giáo cho các em học sinh một trò chơi.
Thầy chia học sinh trong lớp thành hai nhóm. Mỗi nhóm phải lần lượt đưa ra đáp án
cho câu hỏi của thầy. Nhóm nào thắng sẽ được một gói quà, nhóm nào thua phải quét
lớp.
Câu hỏi được ghi lên bảng như sau: Em hãy cho biết công
dụng của viên gạch.
Hai nhóm lần lượt đưa ra các câu đáp như sau: Gạch được
dùng để xây nhà – lót đường đi, lót sân – kê chân bàn, chân tủ – chặn cửa – chận
bánh xe – chặn giấy - kê thành bếp nấu ăn (khi đi trại) – làm gối kê đầu khi dã
ngoại - giã lương thực (giã gạo) thay cho chày – dùng thay búa để đập – tự vệ trước
đối thủ - tấn công đối thủ, ném chó – làm thớt – vân vân…
Không ngờ viên gạch xem ra quá đỗi tầm thường mà có thể
mang lại nhiều công dụng như thế.
Tiếp đến, Thầy giáo đề nghị nêu lên công dụng của cây
xương rồng bà, loại cây nầy có nhiều gai tua tủa trên hai mặt lá, thân cao từ một
đến hai mét, mọc dày trên những đồi núi khô cằn.
Hai nhóm lại lần lượt nêu lên những công dụng sau: trồng
làm hàng rào bảo vệ nương rẫy - thức ăn cho dê cừu (sau khi dùng rơm rạ đốt cho
cháy xém) - che chắn gió - phủ xanh đồi trọc - chống xói mòn - cung cấp trái cho
chim chóc - ủ làm phân xanh, vân vân…
Cũng không ai ngờ cái thứ xương rồng đầy gai góc, tưởng
là vô tích sự đáng chặt bỏ kia lại cống hiến cho đời nhiều công dụng tốt lành như
thế.
Sau cùng, Thầy giáo nêu lên câu hỏi thứ ba: Em hãy cho
biết ở nhà, ở trường và ở trong xóm làng, em đã tự nguyện làm được những việc gì?
Đến đây, nhiều khuôn mặt hồn nhiên trở nên đăm chiêu
tư lự, một số em vò đầu, nhiều em cắn bút suy nghĩ hồi lâu mà chỉ ghi được một vài
công việc phải làm vì bắt buộc.
Qua Tin Mừng Luca (13, 6-9), Chúa Giêsu đề cập đến một
cây vả vô tích sự. Nhưng người làm vườn đáp: “Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay
nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái,
nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.” (Lc 13, 6-9)
11. Cứ từ từ
Một dụ ngôn kể lại việc ba quỷ con đến chào tướng quỷ
là Satan trước khi lên trần gian tập sự. Chúng trình bày cho Satan những mưu đồ
của mình trong việc phá huỷ hạnh phúc con người.
Quỷ con thứ nhất đến trình rằng: “Em sẽ bảo với người
ta là không có Thiên Chúa đâu. Thế nên đừng lo phải đi nhà thờ nhà thánh gì cả.”
Satan trả lời: “Như thế thì chẳng lừa được mấy người đâu, vì họ dư biết là có một
Thượng đế, Đấng Tối cao trên muôn loài muôn vật.”
Quỷ con thứ hai vội tiến lên trình bày sách lược của
mình: “Em sẽ rỉ tai người ta là không có hoả ngục đâu. Thiên Chúa là Đấng yêu thương
nên làm gì có chuyện Ngài dựng nên hoả ngục để hành hạ con người.” Nghe thế Satan
trầm tư một chút rồi nói: “Nhưng cách này cũng chỉ lừa được một ít người thôi, vì
người ta cũng dư biết Thiên Chúa là Đấng Công minh. Ngài sẽ thưởng phạt theo công
phúc của họ. Thế nên mấy ai lại không hiểu là phải có hoả ngục để làm nơi chứa tội.”
Quỷ con thứ ba lại gần và tâu với thủ lãnh: “Em sẽ nói
với loài người rằng không có gì phải vội vã cả, còn lâu Chúa mới trở lại.” Satan
suy nghĩ, đoạn gật gù và nói: “Hay lắm, bằng cách đó ngươi sẽ tiêu diệt được hàng
vạn linh hồn.”
Thế ra, không có sự lừa dối nào tai hại cho người ta
bằng ý tưởng “thời gian còn nhiều”, để rồi cứ mãi đắm chìm trong đam mê tội lỗi,
rối vợ rối chồng, hững hờ niềm tin, tôn thờ vật chất, sa lầy hưởng thụ. Và cuối
cùng, như cây vả không sinh trái, bị chặt xuống và quăng vào lửa đời đời.
Thánh Anphongsô từng viết: “Ai cũng biết rằng mình sẽ
chết, nhưng khốn thay! Nhiều người nghĩ rằng sự chết còn rất xa. Họ cho rằng những
người già cả, ốm yếu mà còn sống được ba bốn năm nữa, huống chi là mình. Nhưng con
hãy biết, đã có biết bao nhiêu người chết một cách bất ưng, khi họ đang ngồi, đang
đi, đang ngủ… Có ai trong họ nghĩ rằng mình sẽ chết” (xem sách Chân Lý Đời Đời của
Thánh Anphongsô).
12. Phải sinh hoa kết trái
Câu chuyện vào một đêm bão tuyết rơi lạnh lẽo, bỗng dưng
có tiếng gõ cửa. Ông chủ khó chịu vì bị quấy rầy giữa đên khuya. Khi cánh cửa vừa
mở, một người thanh niên dáng bụi đời đang run rẫy với một bàn tay xoè ra van xin,
một bàn tay đỡ cây gậy trên vai treo ít đồ đạc cá nhân. Thấy đáng thương, ông chủ
đưa tay với lấy ít bánh mì, vài đồng bạc lẽ trao cho hành khách. Nhận được của bố
thí xong, người thanh niên quay gót.
Khi đó chợt một ý tưởng đến trong đầu là có nên mời người
đó vào nghỉ đỡ một đêm, nhà vẫn còn phòng khách trống. Tuy nhiên ông lại nghĩ nếu
người này ở lại thì căn nhà sạch sẽ của mình sẽ bị dơ bẩn. Thế rồi ông vội vàng
đóng kín cửa.
Hai ngày sau, có người thợ đem đến một cây gậy làm bằng
gỗ quý. Khi đã thương lượng giá cả, người bán gậy cho biết, anh là người thợ chuyên
đào mộ ở nghĩa trang. Anh vừa chôn một người thanh niên vô gia cư mới qua đời. Tài
sản anh ta chỉ là cây gậy, người thanh niên chết vì bị lạnh cóng, máu đông lại khi
ngũ trên tuyết. Nghe đến đây, ông chủ tiệm cảm thấy xấu hổ. Ông hối hận vì điều
tốt ông có thể làm cho người thanh niên nhưng ông đã không làm khiến cho anh phải
chết rét. Ông chủ tiệm kết thúc câu chuyện với nổi thao thức: điều tôi ao ước là
những sự dữ chúng ta làm có lẽ Thiên Chúa sẽ tha thứ. Nhưng những gì tốt chúng ta
đã không làm, sẽ mãi mãi không được tha thứ.
Sống đạo không phải chỉ lo tránh tội, mà còn thực thi
cái tốt, điều thiện. Kitô giáo không phải là một tôn giáo chỉ cấm những điều xấu
không được làm, mà Giáo lý Hội thánh Công Giáo còn đòi buộc cả những điều tích cực
“Điều gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì hãy làm cho người ta.”
Chúng ta được thôi thúc phải hoán cải ngay lúc này, khi
đang còn thời giờ mới kịp. Mùa Chay là mùa thuận tiện nhất để thay đổi đời sống
chúng ta, để trở về với Chúa và xin Ngài tha thứ. Đừng để mùa Chay năm nay trôi
qua vô ích.
13. Hoán cải tâm hồn--‘Suy Niệm Lời Chúa’--Radio Veritas
Asia
Người ta kể lại rằng vào thế kỷ đầu của Kitô giáo, trong
thành phố Alexandria, có một vị ẩn sĩ rất nổi danh tên là Hôrôniô. Ông đã bỏ cuộc
sống xa hoa của kinh hoàng tráng lệ để vào ẩn tu trong sa mạc. Các nhân đức thánh
thiện của ông được dân chúng đất nước Ai Cập biết đến, cũng như người ta biết đến
cuộc sống trác táng của cô công chúa nổi tiếng thành Alexandria. Tức giận vì thấy
ai cũng nhắc đến Hôrôniô, nàng công chúa nhất quyết vào tận sa mạc để cám dỗ ông
phạm tội. Thế là nàng sửa soạn và ăn mặc rất khiêu gợi, lộng lẫy, đến vùng vị ẩn
tu đang sống.
Vừa thấy bóng nàng, ông Hôrôniô đã lớn tiếng giảng: Hãy
ăn năn hoán cải tâm lòng để khỏi phải chết đời đời. Hãy cải thiện nếp sống để có
hạnh phúc đích thật. Các thú vui đời này như hoa kia sớm nở tối tàn, phù du và mau
qua như giấc mộng. Hãy từ bỏ tội lỗi và tiến bước theo Chúa để được niềm vui vĩnh
cửu.
Nàng công chúa vừa uốn éo, cười giỡn và nhìn sâu vào
đôi mắt của vị ẩn sĩ như con rắn thôi miên con mồi. Trong khi đó Hôrôniô không ngừng
giảng thuyết về cuộc đời hoán cải và gặp gỡ thân tình với Thiên Chúa. Những lời
ông nói như gươm đâm thấu lòng nàng. Và sau cùng, công chúa quyết tâm hoán cải.
Nàng từ bỏ kinh tnành Alexandria tráng lệ, các tình nhân, tình yêu, cả cuộc đời
trác táng, và vào ẩn tu trong sa mạc để kiếm tìm Thiên Chúa, nguồn hạnh phúc thật.
Trái lại, ẩn sĩ Hôrôniô miệng lo giảng giải, mà tấm lòng
ông bị mê hoặc bởi sắc đẹp, mùi hương thơm xuất ra từ thân mình kiều diễm khiêu
gợi của công chúa. Ông tự nhủ trong lòng: Tôi sẽ từ bỏ hang tối lạnh lẽo buồn bã
này để thử nếm các vui thú của trần gian. Thế là sau bao năm tu luyện, ẩn sĩ trở
lại kinh thành tráng lệ để lao đầu vào cuộc sống ăn chơi hưởng thụ và chết trong
cảnh thân tàn ma dại. Còn nàng công chúa, sau những năm trác táng mệt nhọc đã hoán
cải tâm lòng, tiến vào sa mạc, sống cuộc đời chay tịnh cầu nguyện và chết vì hao
mòn khổ hạnh bên Chúa Giêsu tình yêu là kho tàng duy nhất của nàng.
14. Thấy được việc phải làm
Abraham gặp vấn đề không có đồng cỏ cho đàn gia súc ngày
một sanh sôi, và ngược lại không có con để nối dòng.
Môisê chạm trán với vấn đề bất công, bóc lột và đàn áp
mà dân Do Thái phải gánh chịu trong cảnh sống ăn nhờ ở trên đất Ai Cập.
Đối với mục sư Martin, bụi gai cháy với một giọt nước
cuối cùng đã nhỏ giọt trên cái ly đầy nước, làm phát động phong trào đấu tranh cho
sự bình đẳng của người da đen trong xã hội Mỹ, là cảnh một phụ nữ da đen bị bắt
giam khi trên một chuyến xe bus vì tự trọng, bà đã không đứng dậy để nhường chỗ
cho một hành khách da trắng.
Còn Đức Gioan XXIII thấy Giáo Hội này có bổn phận dẫn
dắt, cần phải được canh tân, một đàng để trở về nguồn Phúc Âm và đàng khác để đáp
ứng với những vấn đề và những hoàn cảnh của cuộc sống tiên tiến của những thập niên
của thế kỷ XX.
Trong khi đó thì Mẹ Têrêxa Calcutta khi đã thấy, Mẹ cảm
nghiệm được tiếng gọi Mẹ phải làm một cái gì đó cho những người nghèo đói, bệnh
tật kiệt sức đến đổi chỉ còn biết nằm chờ chết ở các vỉa hè của thành phố Calcutta,
những người mà Mẹ Têrêxa thông cảm sâu xa, vì trong suốt cuộc đời họ chưa bao giờ
kinh nghiệm được một nụ cười yêu thương, hay một tia hy vọng.
Tất cả những nhân vật kể trên và nhiều người khác nữa
không chạy trốn khỏi những kẻ thương tâm, những vấn đề nóng bỏng. Ngược lại họ đã
nhìn thẳng vào những vấn đề ấy, cố gắng tìm những biện pháp để giải quyết.
Abraham đã bỏ quê cha đất tổ để lên đường đi tìm một
quê hương Thiên Chúa sẽ chỉ cho ông. Môisê đã tìm Pharaôn để tranh đấu cho cuộc
xuất hành khỏi ách nô lệ lầm than của dân Do Thái. Martin đã đi phát động phong
trào giải phóng người da màu ở Hoa Kỳ. Đức Gioan XXIII triệu tập Công đồng chung
Vatican II và nữ tu Têrêxa đã trở thành bà Mẹ của những người nghèo.
"Hãy thay đổi bộ mặt thế giới, nhưng hãy bắt đầu
bằng cuộc sống thay đổi chính mình.”
15. Bánh xe dự trù
Có một lần đang đi trên một chiếc xe, bỗng nhiên chiếc
xe từ từ chậm lại rồi dừng hẳn. Mọi người đều ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì xảy
ra. Tài xế xuống xe, anh tìm chiếc bánh xe dự trù, nhưng anh đành thất vọng, vì
nó không còn chút hơi nào trong đó. Anh đành xin lỗi mọi người và xin chờ đợi để
anh tìm cách đem chiếc bánh xe đi vá lại, đem về ráp vào thì chiếc xe mới hoạt động
tiếp tục được. Anh còn nói thêm: đã nhiều năm nay, chiếc xe nầy chạy rất tốt, không
bao giờ bị như thế nầy. Tôi cũng xuống xe chờ đợi và nhìn thấy: những bánh xe, nó
đã tới thời kỳ phải được xem lại, nếu không thì nó cũng sẽ lập lại tình trạng như
thế nầy nữa.
Nếu các ngươi không ăn năn hối cải, thì các ngươi sẽ
như thế.
16. Sống tinh thần sám hối.
Một hôm, đi học về. Tuyền chạy ngay vào bếp rồi nũng
nịu với mẹ rằng:
- Mẹ ơi, con đói bụng quá.
Mẹ ôn tồn:
- Chờ mẹ một chút, có cơm ăn liền. Hôm nay mẹ đi làm
về trễ…
- Tuyền vùng vằng khó chịu rồi bỏ đi lên nhà. Cho đến
khi mẹ lên gọi ăn cơm Tuyền mới chịu xuống.
An cơm xong mẹ mới ôn tồn bảo Tuyền:
- Con lớn rồi. Đi học về, thấy mẹ làm cơm chưa xong thì
phải biết phụ mẹ lặt rau, hay dọn chén đũa chứ. Con không nên có thái độ như vậy.
Tuyền nhận ra mình đã làm cho mẹ buồn, tỏ ra hối hận
và thưa mẹ rằng:
- Thưa mẹ, con xin lỗi mẹ. Từ nay con sẽ cố gắng không
làm mẹ buồn nữa. Thế là mẹ ôm Tuyền vào lòng và nói: con rất ngoan, mẹ không buồn
con nữa đâu.
Câu chuyện cho chúng ta thấy, bạn Tuyền là người biết
sám hối, biết nhận ra lỗi của mình và mau mắn xin lỗi.
Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta cũng làm cho ông bà,
cha mẹ, thầy cô,… buồn lòng về những tật xấu của ta như: không vâng lời, hay đánh
nhau, chửi thề, nói dối…
Chúng ta hãy học nơi bạn Tuyền can đảm nhận ra lỗi của
mình, rồi mau mắn xin lỗi ông bà, cha mẹ, thầy cô… Và quyết tâm sửa đổi những tính
hư tật xấu.
Cũng vậy, để được Chúa tha thứ và để được sống với Chúa.
Chúng ta hãy sám hối tội lỗi của mình và quyết tâm từ bỏ những tính hư tật xấu để
trở về với Chúa bằng cách: mỗi ngày xét mình, ăn năn dốc lòng chừa và năng lãnh
nhận bí tích Giải tội.
17. Vui vì khi được tha thứ
Trong hồi ký của mình, Mahatma Gandhi, người cha tinh
thần của dân tộc Ấn Độ, khiêm tốn và thẳng thắn thừa nhận rằng, khi mới mười lăm
tuổi, ông đã lấy trộm một cục vàng nhỏ của anh trai mình. Vài ngày sau, anh cảm
thấy rất tội lỗi và quyết định tẩy sạch tâm hồn bằng cách thú nhận với cha mình.
Vì vậy, anh đã lấy một tờ giấy, viết ra lỗi của mình, thành khẩn xin cha tha thứ
và hứa sẽ không bao giờ tái phạm.
Mang bức thư đó đến phòng ngủ của cha mình, Gandhi trẻ
thấy ông ốm trên giường. Anh ta rất rụt rè đưa tờ giấy nhỏ cho cha mình mà không
nói lời nào. Cha anh ngồi dậy trên giường và bắt đầu đọc mẩu giấy. Khi đọc nó, Gandhi
cha đã vô cùng xúc động trước sự trung thực, chân thành và dũng cảm của cậu con
trai mình đến nỗi nước mắt ông bắt đầu trào ra.
Điều này khiến người con trai cảm động đến nỗi anh cũng
bật khóc. Một cách bản năng, cả hai cha con vòng tay qua nhau và không nói lời nào
cùng nhau chia sẻ sự cảm kích và niềm vui của họ. Trải nghiệm đáng chú ý này đã
tác động đến Gandhi đến nỗi nhiều năm sau đó, anh sẽ nói: “Chỉ người đã trải qua
tình yêu tha thứ này mới có thể biết nó là gì.”
18. Thêm một năm nữa
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy về cách ân sủng
hoạt động, diễn ra chậm nhưng chắc chắn. Chúa giảng một dụ ngôn về cây vả tưởng
chừng như không sinh quả, nhưng được tạo thêm sự chăm sóc và một cơ hội khác để
sinh hoa kết trái. Câu chuyện dụ ngôn là hư cấu. Tuy nhiên, việc cha Turquetil biến
đổi người Eskimô không phải là hư cấu, mà là sự thật và là một minh họa tuyệt vời
hơn nữa về hoạt động của ân sủng.
Cha Arsene Turquetil sinh năm 1876 gần Lisieux, Pháp.
Ngài gia nhập Dòng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, một dòng truyền giáo; và được thụ
phong linh mục vào năm 1899. Sau đó ngài được phái đến vùng cực đông bắc của Canada
để làm việc giữa những người bản xứ. Sau mười hai năm sống với người da đỏ, ngài
được cử đi tiên phong trong một sứ mệnh sống giữa những người Eskimô quanh Chesterfield
Inlet, ngoài khơi phía trên Vịnh Hudson.
Cha Arsene đã nỗ lực suốt 5 năm dài để thu phục những
người ngoại đạo này đến với đức tin. Tuy nhiên, họ tụ tập lại chỉ để cười nhạo sứ
điệp của ngài và chế nhạo Thánh lễ ngài cử hành. Bất chấp những thất bại liên tục,
cha Turquetil không nỡ bỏ cuộc. Ngài xin với bề trên: “Cho con thêm một năm nữa.”
Vị giám mục nói: “Được rồi, nếu cha kiên trì, thì một năm nữa cũng được.”
Đó là vào khoảng năm 1917. Khoảng thời gian đó, nhà truyền
giáo nhận được một lá thư từ một người bạn ở quê nhà kể về việc Sơ Têrêsa Hài Đồng
Giêsu, một tu sĩ Lisieux, từ khi qua đời vào năm 1897, đã làm nhiều phép lạ như
thế nào. Cha Arsene quyết định nhờ sơ giúp đỡ người Eskimô.
Bạn của cha ta đã gửi cho cha một gói bụi từ ngôi mộ
của Sơ Têrêsa. Vì vậy, lần đó khi những người Eskimô tụ tập để nghe ngài, ngài đã
bảo những người anh em giáo dân của mình bí mật đi vòng quanh phía sau những người
bản địa và thả một chút bụi lên đầu mỗi người trong họ. Nó đã tác động. Vị linh
mục đã có thể rửa tội cho một em bé ngay sau đó. Tiếp theo, vị tộc trưởng người
Eskimô đột nhiên đến và nói: “Tôi muốn trở thành một Kitô hữu.” Rồi những người
còn lại đã noi gương người lãnh đạo của họ.
Đó là một phép lạ thực sự của ân sủng, và nó cũng giúp
đạt được việc phong thánh cho thánh Têrêsa thành Lisieux vào năm 1925. Khi cha Turquetil
được phong làm giám mục người Eskimô của mình vào năm 1931, và nghỉ hưu vào năm
1943, chỉ còn có hai người ngoại đạo trong số những người Eskimô của Chesterfield
Inlet! (Cha Robert F. McNamara).
19. Tôi có tội
Có một câu chuyện kể về việc vua Frederick II, một vị
vua của nước Phổ ở thế kỷ thứ mười tám, đã đến thăm một nhà tù ở Berlin. Ông gặp
hết tù nhân này sang tù nhân khác, và mỗi người trong số họ đều cố gắng chứng minh
rằng họ đã bị giam cầm một cách bất công như thế nào. Tất cả đều tuyên bố mình vô
tội, chỉ trừ một người.
Tù nhân này đang ngồi yên lặng trong một góc, trong khi
tất cả những người còn lại phản đối sự kết tội dành cho họ. Thấy anh ta ngồi đó
mà không để ý đến mọi chuyện khác đang diễn ra, vua bước đến gần anh ta và nói:
“Con trai, tại sao con lại ở đây?” Anh ta nói: “Cướp có vũ trang, thưa ngài.” Nhà
vua hỏi: “Anh có tội phải không?” Anh ấy nói: “Thưa đức vua, tôi có tội, và tôi
xứng đáng có mặt ở đây.” Sau đó, nhà vua ra lệnh cho cai ngục và nói: “Hãy thả người
tội lỗi này ra, ta không muốn anh ta thay đổi tất cả những người vô tội!”
20. Sám hối
The Mission (Truyền giáo) là một bộ phim năm 1986 kể
về câu chuyện của một linh mục Dòng Tên người Tây Ban Nha đã đi vào rừng rậm Nam
Mỹ để cải đạo những người bản địa làm nô lệ, những người đã phải chịu sự tàn ác
của thực dân Bồ Đào Nha. Một trong những cảnh đáng chú ý nhất trong bộ phim này,
đó là khi thuyền trưởng Mendoza, người đã giết anh mình trong cơn nóng giận, được
nhìn thấy đang leo núi với chiếc ba lô nặng trĩu trên vai, như một hành động đền
tội cho tội lỗi quá khứ của mình.
Chiếc ba lô, nơi chứa tất cả vũ khí của cuộc sống trước
đây là một người buôn bán nô lệ, nặng đến mức anh ta không thể leo cao hơn trừ khi
anh ta từ bỏ nó. Anh cảm thấy nhẹ nhõm khi một trong những người bản địa, người
mà trước đây anh ta đã bắt làm nô lệ, đến bên cạnh anh ta. Người này đã tha thứ
cho thuyền trưởng bằng cách cắt dây ba lô của ông với một con dao sắc, và như vậy,
anh ta đã cứu mạng Mendoza thay vì coi đó là cơ hội báo thù của mình.
21. Một lời khuyên
“Hãy về nhà và
yêu thương vợ/chồng và các con của bạn.” Mẹ Têrêsa đã từng được một phóng viên hỏi
xem mọi người có thể làm gì để xây dựng Hòa bình Thế giới và cải thiện điều kiện
sống của thế giới chúng ta.
Không chút do dự, bà nói: “Hãy về nhà và yêu thương vợ/chồng
và các con của bạn.”
22. Tội lỗi và tai họa
Các mục tử đôi khi gặp phải những người phải chịu bi
kịch mà họ nghĩ là do tình trạng tội lỗi của chính họ gây ra. Ở đây chúng ta giữ
cân bằng hai ý kiến trái ngược nhau:
Một mặt, bi kịch đôi khi xảy ra một cách ngẫu nhiên,
như trường hợp của những người Galilê và mười tám người Giêrusalem. Trong những
trường hợp như vậy, nó không liên quan gì đến tình trạng tội lỗi. Ví dụ, cơn lốc
xoáy phá hủy một hộp đêm cũng phá hủy một nhà thờ: nó giết chết người say rượu và
cả giáo lý viên. Tuy nhiên, sự sám hối giúp chúng ta luôn sẵn sàng khi gặp phải
tai họa không thể tránh khỏi. Nó giúp chúng ta sống một cách mạnh mẽ khi đối mặt
với bi kịch, và nó cũng chuẩn bị cho chúng ta trước cái chết.
Mặt khác, tội lỗi đôi khi dẫn đến tai nạn. Ví dụ, người
lái xe say rượu giết người vô tội. Người chồng bạo hành gây thương tích cho vợ,
con của họ. Không phải tất cả bi kịch đều là kết quả của tội lỗi, nhưng một số là
như vậy. Có lẽ cách tốt nhất để hình dung điều này là một vòng tròn nhỏ bên trong
một vòng tròn lớn. Vòng tròn lớn là những bi kịch bất ngờ. Vòng tròn nhỏ là bi kịch
do tội lỗi của chúng ta gây ra.
23. Cảm nhận ơn tha thứ
Câu chuyện kể về một giám đốc trẻ điều hành một công
ty, tên là Thanh, người đã trượt ngã trước sự cám dỗ và bị phát hiện là phạm tội
tham ô. Anh ta được gọi vào văn phòng của chủ tịch công ty. Anh sợ điều tồi tệ nhất
xảy ra. Ông Dũng hỏi: “Thanh, bạn đã làm điều đó?” Thanh cúi đầu xấu hổ và lẩm bẩm:
“Vâng, thưa ông.”
Ông Dũng tiếp tục: “Bạn đã thực hiện một quyết định tồi.
Tôi biết rằng bạn nhận ra điều đó. Bạn là người thứ hai trong phòng này đã lựa chọn
sai. Ba mươi năm trước, tôi đã làm điều tương tự như bạn đã làm, và một người đàn
ông rất tốt bụng đã cho tôi một cơ hội khác. Tôi sẽ trao cho bạn sự cảm thông và
cơ hội mà tôi đã nhận được vào ngày hôm đó. Bây giờ bắt đầu làm việc!”
Nghe đến đây, Thanh choáng váng. Lặng lẽ, anh rời văn
phòng với lòng biết ơn và cảm giác nhẹ nhõm khó quên.
24. Mình hại mình
Có hai anh học trò cùng làng đi thi, một người đậu khôi
nguyên, một người rớt. Dân làng lập bia ghi nhớ vị khôi nguyên đem lại vẻ vang cho
dân làng. Anh học trò thi rớt sinh lòng ganh ghét nên đợi lúc nửa đêm đến chỗ người
ta lập bia đá, đào bới để phá sập bia đá đó.
Cuối cùng, cái bia đá cũng đổ xuống như ý nguyện, nhưng
cũng vừa khéo đè ập trên thân anh ta, khiến anh ta chết tại chỗ. Vì ghen tức mà
anh đã làm điều ác để hại người, nhưng hoá ra chính mình lại tự hại mình, chứ không
ai hại anh ta cả. Thiên Chúa là tình yêu, là Cha rất nhân từ, làm sao lại muốn con
cái bị đoán phạt được! Nhưng những ai không sám hối thì tự mình đày đoạ mình xa
lìa không được hưởng nhan thánh Chúa trên nơi vĩnh phúc.
25. Lòng thương xót
Một bà mẹ đến gặp Napoléon I để xin ân xá cho con trai
mình. Nhà vua trả lời: “Ta không thể tha cho con trai bà, vì anh ta đã phạm tội
lần thứ hai, và lẽ công bằng đòi hỏi ta phải xử tử nó.”
Thưa ngài, tôi không dám đòi theo lẽ công bằng, tôi chỉ
van xin lòng thương xót của ngài”, bà mẹ khẩn khoản.
“Nhưng nó không xứng đáng được thương xót”, nhà vua nói
thẳng.
“Thưa ngài, nếu con tôi xứng đáng, thì đâu còn gọi là
lòng thương xót nữa. Vâng, chính vì con tôi bất xứng nên tôi mới phải cầu đến lòng
thương xót của ngài”, bà mẹ nài nỉ… và cậu con trai đã được ân xá!
Tình yêu, cũng như lòng thương xót, là một điều gì đó
thật bình thường, nhưng cũng rất huyền diệu! Khoa học giải đáp được rất nhiều câu
hỏi trong cuộc sống con người, nhưng vẫn không sao có được một giải thích sau cùng
về những qui luật của tình yêu. Tình yêu có những qui luật riêng của nó mà không
ai giải thích được!
26. Hãy hối cải vì Chúa rất nhân từ
Mẹ Têrêxa Calcutta kể:
Tôi có cho một gia đình thượng lưu rất giầu có một đứa
trẻ bị bỏ rơi mà chúng tôi đã nuôi ở nhà trẻ Shishu Bhavan. Mấy tháng sau, tôi nghe
tin đứa trẻ rất ốm yếu và bị bại liệt hoàn toàn. Tôi đến gia đình đó và nói: ‘Xin
trả đứa trẻ ấy lại cho tôi và tôi sẽ trao cho ông một đứa trẻ khoẻ mạnh’.
Người cha nhìn tôi và nói: ‘Hãy lấy mạng tôi trước đã
rồi hãy đem đứa trẻ đi’. Ông đã yêu thương đứa trẻ bằng cả tâm hồn mình!”
Thật là một tình yêu tuyệt đẹp! Không đẹp sao được khi
người cha đó trao cả tâm hồn cho đứa bé ngay khi nó là một đứa xấu xí, què quặt!
Còn vô vàn đẹp hơn thế là tình yêu Chúa! Dù là Chúa Tể
trời đất, Ngài không hổ thẹn gọi tôi là con mà còn chuộc mạng tôi “khỏi chỗ vong
thân” bằng giá máu Con Một Ngài!
Trước một tình yêu “như trời xanh cao vượt trên trái
đất”, một tình yêu luôn mong đợi điều tốt đẹp nơi tôi: “may ra nó có quả chăng”,
tôi còn tính toán thiệt hơn gì mà không đáp lại ngay với câu trả lời đẹp nhất.
Vâng! Hãy hối cải vì Chúa rất nhân từ.
27. Biết lắng nghe
Một tên trộm lấy cắp một máy thu băng trong một thánh
đường ở Florida. Sau đó, khi mang về nhà, anh ta phát hiện trong máy đó có một cuốn
băng. Vì tò mò, anh ấn nút máy và lắng nghe. Thì ra đó là bài giảng của một vị linh
mục mời gọi người nghe lưu tâm đến những lời này của Chúa Giêsu: “Hãy thống hối
tội lỗi.” Những gì đã nghe khiến tên trộm xúc động đến độ anh ta đem trả lại chiếc
máy và cải thiện lối sống.
Nếu lúc này Chúa Giêsu xuất hiện trước mặt tôi và âu
yếm hỏi: Đâu là khuynh hướng xấu mà tôi muốn sửa chữa, thì tôi sẽ nói gì?
Hờ hững với cái xấu thì tồi tệ hơn cái xấu (Joseph Fletcher).
THỨ HAI
Lời Chúa: Lc 4, 24-30
(Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): “Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria.”
Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
TRUYỆN KỂ
1. Đời sống đức tin bị che khuất bởi lòng vị kỷ
Trong cuốn phim Mỹ do tài tử Marcel Marso thủ diễn có kể câu chuyện sau:
Một thanh niên đang lim dim đôi mắt tận hưởng ánh nắng tuyệt vời vào một ngày đẹp trời. Nhưng bỗng nhiên niềm vui của anh bị quấy rầy do tiếng ồn ào của đám trẻ, tiếng chó sủa, tiếng chim hót, tiếng người qua lại. Mỗi tiếng động đều có nguyên do và niềm vui riêng của nó, nhưng đối với chàng, tất cả đều trở thành cực hình.
Để chống lại sự phiền nhiễu ấy, anh xây quanh mình một bức tường ngăn cách âm thanh. Mỗi tiếng động vọng tới là mỗi lần anh gắng sức xây. Cứ như thế bức tường lớn cao dần, cho đến lúc ngăn cản được hết mọi tiếng động, thì bức tường cũng che mất ánh nắng tuyệt vời, bức tường trở thành chiếc mộ khổng lồ giam hãm anh trong đó.
Dân Do Thái cũng đã được tắm gội ánh sáng. Đó là niềm tin được trao ban từ Tổ phụ Abraham. Tuy nhiên, vì tự mãn, ích kỷ, họ đã hành động chẳng khác gì chàng thanh niên trên. Không chịu mở lòng đón nhận khiến niềm tin của họ trở nên khô cằn mất sức sống. Xây lên bức tường để bảo vệ mình hoá ra lại tự hại chính mình.
2. Vượt thắng định kiến, để sống yêu thương
Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố đạo của chúng tôi là sai lạc.”
Và một người Á đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin.”
Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn.
3. Sư huynh hỗn xược.
Ở Canađa, trong tỉnh Québec, một sư huynh dòng Thiện giáo (Frères de l’Enseignement chrétien) giáo viên
trường trung học Alma, vừa xuất bản một cuốn sách bàn về đường lối giáo dục, nhan đề “Những sự hỗn xược của một sư huynh” (Les Insolences du Frère Un Tel). Tác giả đã khéo áp dụng một lối văn châm biếm, trào phúng nhí nhảnh, làm cho quyển sách được đệ nhất ăn khách trong năm. Chỉ trong vòng một tháng trời thôi, sách đã bán ra được một số kỷ lục là 30.000 cuốn.
Một hôm trường đại học Công giáo Montréal bỗng nhộn nhịp hẳn lên như đàn ong vỡ tổ: Sư huynh Pierre Jérome, tác giả cuốn sách “Những sự hỗn xược” nói trên, sắp đến viếng trường. Toàn thể nhà trường náo động lên. Từ viện trưởng, các giáo sư, các sinh viên, cho đến anh gác cổng, đều hăng say phấn khởi tổ chức cuộc tiếp rước.
Vị thượng khách đã từ từ tiến vào khung cảnh văn vật của trường đại học, giữa một cuộc khải hoàn trọng thể vĩ đại. Sau đó, Sư huynh đã lộng lẫy ung dung bước lên diễn đàn ngỏ lời cùng 650 giáo sư và sinh viên.
Diễn giả đã thao thao bất tuyệt một thôi, lả lướt như rồng bay phượng múa, như hoa nở suối reo. Những tràng pháo tay nổ vang lên liên tiếp, liên tiếp, chứng tỏ các thính giả được kích thích đến tột độ. Cả trường đại học Montréal hôm đó như rượu nếp lên men. Trong lịch sử trường đã bao giờ có sự phấn khởi nô nức như lần này chưa? Tác giả “Những sự hỗn xược” sao mà huy hoàng trác tuyệt đến thế?
. Nhưng sáng ngày hôm sau, họ đã phải một phen hú vía, tưởng chừng hồn lìa khỏi xác. Có người đến tiết lộ rằng sư huynh Pierre Jérome hôm qua chỉ là một sư huynh. thứ giả! Chàng là một sinh viên quèn của trường Kịch nghệ, cải trang trong bộ áo dòng và cổ trắng của các Sư huynh. để thực tập một phen!
Cả trường uất lên, tưởng ai nấy hộc máu chết tươi tại chỗ trước “sự hỗn xược của một Sư huynh” chưa từng thấy này.
Thế mới hay sức ám thị của những người có tên tuổi mãnh liệt đến chừng nào!
4. Ông thợ đóng giày
Abraham Lincoln là một tổng thống vĩ đại của nước Mỹ, thế nhưng ông lại xuất thân trong một gia đình thợ giày. Xã hội Mỹ lúc đó rất coi trọng thành phần xuất thân trong gia đình quyền quý. Đại bộ phận nghị sĩ thượng nghị viện Mỹ đều xuất thân trong gia đình thế gia vọng tộc. Là người của xã hội thượng lưu Mỹ, họ thấy khó chấp nhận một vị Tổng thống là con trai của một thợ giày tầm thường.
Ngày đầu tiên làm tổng thống, ngay khi Lincoln lên phát biểu trong lễ nhậm chức Tổng thống, một nghị sĩ đã chen vào giữa bài phát biểu của ông. Ông ta nói: “Thưa ngài Lincoln, đừng quên rằng cha ngài thường đóng giày cho gia đình tôi.” Tất cả các nghị sĩ đều cười ầm lên. Họ nghĩ rằng họ đã khiến Lincoln trở thành trò hề.
Tuy nhiên, khi tiếng cười vừa chấm dứt, Tổng thống Lincoln không cao ngạo, cũng không tự ti mà chân thành nói: “Thưa ngài, tôi biết rằng cha tôi đã đóng giày cho gia đình ngài, cũng như nhiều gia đình các nghị sĩ khác… bởi vì không người thợ nào có thể làm được như ông. Ông là một người sáng tạo. Giày của ông không chỉ là giày, ông đã đổ cả tâm hồn vào nó. Tôi muốn hỏi các ngài rằng, các ngài đã từng phàn nàn về giày của ông chưa? Bản thân tôi cũng biết cách đóng giày; nếu các ngài có phàn nàn gì, thì tôi có thể đóng cho các ngài một đôi giày khác. Nhưng theo tôi thấy thì, chưa ai từng phàn nàn về những đôi giày mà cha tôi đóng. Ông là một thiên tài, một nhà sáng tạo, và tôi tự hào vì cha tôi!”
Các nghị sĩ nghe xong đều im bặt. Họ thực sự cảm thấy một dư vị nào đó. Họ đã công kích Lincoln bằng những thứ lời lẽ dè bỉu cay nghiệt nhất. Nhưng câu trả lời của Lincoln cho thấy tầm nhìn của họ không lớn hơn cái giày, một vật nằm ở dưới gót chân con người, trong khi Lincoln và cha ông thấy được và tìm kiếm điều cao nhất ngay trong những việc tầm thường nhất.
THỨ BA
Lời Chúa: Mt 18, 21-35
Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần? Có phải đến bảy lần không?”
Chúa Giêsu đáp: “Ta không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này, thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ.
Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả cho ngài tất cả.” Người chủ động lòng thương, trả tự do và tha nợ cho y.
Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: “Hãy trả nợ cho ta.” Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng: “Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh.” Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục, cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu truyện.
Bấy giờ chủ đòi y đến và bảo rằng: “Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?” Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ.
Vậy Cha Ta trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình.”
TRUYỆN KỂ
1. Hết lòng tha thứ
“Tôi viết cho anh, người bạn vào giây phút cuối của đời tôi… Vâng, tôi cũng xin nói với bạn tiếng Cám ơn và lời Vĩnh biệt này…
Ước gì chúng ta, những người trộm lành hạnh phúc, được thấy nhau trên Thiên đàng, nếu Thiên Chúa muốn, Người là Cha của hai chúng ta.”
Đây là những câu cuối trong di chúc của cha Christian de Chergé, tu viện trưởng của một đan viện khổ tu ở Tibhirine, nước Algérie, châu Phi.
Cha viết những câu này vào cuối năm 1993 cho một người nào đó sẽ giết mình.
Ngày 21-5-1996, cha đã bị nhóm Hồi giáo vũ trang chặt đầu cùng với sáu tu sĩ khác trong đan viện.
Cha Christian gọi kẻ sẽ giết mình là bạn, chứ không phải là kẻ thù hay sát nhân. Cha coi mình cũng là tên trộm lành chẳng khác gì anh ta, cũng cần được tha thứ. Cha chỉ mong gặp lại anh ta trên Thiên đàng, vì cả hai đều là con, cùng được tha vì được yêu bởi Thiên Chúa.
2. Tha thứ
Tác giả tập sách Đường Hy Vọng đã chia sẻ như sau:
“Tính phê bình chỉ trích là một trở ngại lớn cho đời sống siêu nhiên. Chỉ tiêu cực phàn nàn kẻ khác, con quấy rầy họ, và muôn đắng cay trong lòng con.
“Va chạm người khác là sự thường. Sống trong một xã hội không va chạm nhau chỉ có thể là Thiên đàng. Một hòn đá nhờ va chạm mà bóng láng hơn, sạch đẹp hơn.
“Phàn nàn là bệnh dịch hay lây, triệu chứng là bi quan, mất bình an, nghi ngờ, mất nhuệ khí kết hiệp với Chúa.
“Bác ái không chỉ có yêu thương và tha thứ. Bác ái là cả một hành động để tạo bầu khí mới giữa cộng đồng xã hội, quốc gia và quốc tế, biến thế giới của thú vật nên thế giới của con người, biến thế giới của con người nên thế giới của con Chúa.
“Chỉ giây phút hiện tại là quan trọng. Đừng nhớ ngày hôm qua của anh em để chỉ trích. Đừng nhớ ngày hôm nay của con để khóc lóc, nó đã vào dĩ vãng. Đừng nhìn ngày mai của con để bi quan, nó còn trong tương lai. Giao quá khứ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa, giao tương lai cho sự quan phòng của Ngài và giao tất cả cho tình yêu Chúa.”
Xin Chúa hướng dẫn chúng ta trên con đường canh tân cuộc sống đức tin và đức ái. Xin Chúa ban cho chúng ta mỗi ngày được nên giống Chúa hơn để xây dựng hoà bình và hoà hợp trong môi trường chúng ta sống.
3. Hãy biết “yêu” như Chúa
Có một anh bạn hỏi một người Công Giáo rằng: “Nếu để nói một câu ngắn gọn nhất nhằm tóm gọn toàn bộ giáo lý về đạo Công Giáo thì bạn sẽ nói câu nào?”; bạn trẻ Công Giáo trả lời, đó là chữ: “Yêu.”
Thật vậy, chữ “yêu” là chữ cốt lõi của đạo Công Giáo. Vì yêu, Thiên Chúa dựng nên trời đất và con người. Vì yêu, Ngài đã cứu thoát họ khỏi Ai Cập, đưa về Đất Hứa. Vì yêu Thiên Chúa đã gửi các ngôn sứ đến để dạy dỗ dân. Vì yêu, Thiên Chúa đã ban Con Một của mình đến để cứu chuộc nhân loại. Đấng ấy là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã dạy dỗ, yêu thương, tha thứ cho kẻ thù và cuối cùng, vì yêu nên Đức Giêsu đã chết cho người mình yêu.
4. Tha đến đến bảy mươi lần bảy
Văn hào Ernest Hemingway đã kể câu chuyện về một người cha và cậu con trai đang ở lứa tuổi thiếu niên. Mối quan hệ cha con của họ không được tốt đẹp và luôn căng thẳng. Cuối cùng, sau một trận cãi vã kịch liệt, cậu bé đùng đùng bỏ nhà ra đi.
Tuy giận dữ và đau lòng, nhưng người cha biết rằng con mình rất cần sự uốn nắn và dạy dỗ để trưởng thành. Vậy nên, ông đã bôn ba khắp nơi để tìm kiếm đứa con nổi loạn. Cuối cùng, khi tới Madrid, trong nỗ lực cuối cùng của mình, ông cho đăng một thông cáo trên báo: “Paco thương yêu, hãy đến gặp cha chiều mai trước cửa tòa soạn. Mọi tội lỗi đều được tha thứ. Cha yêu con. Cha của con.”
Chiều hôm đó, người cha đến tòa soạn thật sớm vì ông không muốn trễ giây phút nào để gặp đứa con thân yêu của mình. Và điều bất ngờ là, tới đó, ông đã gặp… 800 cậu bé tên Paco. Cả 800 cậu bé này đều đã bỏ nhà ra đi và đều đang mong đợi sẽ gặp được người cha rộng lượng của mình ở đó với vòng tay dang rộng yêu thương.
5. Bà Coritanbun tha thứ.
Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa nhật nọ, sau khi kêu gọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ Bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi.” Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây Bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng im lặng, tay không thể nào bắt tay người đến xin Bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách “Nơi ẩn trốn”, Bà đã cho biết “Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa.” Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thư cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa.
6. Chứng từ của một tù nhân Đức Quốc Xã trong thời Đệ
Nhị Thế Chiến.
Tác giả của câu chuyện tên là bà Anne Furish, người Tiệp Khắc. Vì bà đã lén lút săn sóc các thương binh, nên đã bị quân Đức Quốc Xã bắt giữ. Đây là chứng từ bà kể lại:
“Mỗi ngày, những người lính canh chỉ cho chúng tôi một mẩu bánh mì nhỏ có dính cả mạt cưa, cho nên nhiều người trong chúng tôi ăn vào đã mắc bệnh. Những khi nhận được bánh mì đã khô cứng không còn ăn được, thì chúng tôi vò lại để làm thành những hạt chuỗi.
“Ở đó, có một tên quản giáo đặc biệt hung ác. Nếu mỗi tuần hắn không giết được hai tù nhân thì hắn ta không ăn ngủ được. Tôi đã bị hắn đánh đập nhiều lần. Nhưng tôi vẫn hằng cầu xin Chúa cho tôi biết tha thứ cho hắn, bởi vì tôi biết rằng, nếu tôi không tha thứ, thì thù oán có thể đục khoét và trở thành độc dược phá hủy tâm hồn tôi.
“Tôi cầu xin Chúa cho tôi có thể nói với hắn thế này: “Tôi tha thứ cho anh và tôi thương yêu anh, bởi vì Đức Kitô đã chết cho tôi và anh trên cây Thập Giá.” Lần cuối cùng, khi hắn đánh đập tôi, tôi tưởng mình chết đến nơi, thế nhưng, Chúa đã dùng trận đòn ấy để nhận lời tôi.
Sau trận đòn, tên quản giáo đưa tôi về trại giam. Và lạ lùng thay, từ đó, hắn đến thăm tôi mỗi ngày. Hắn còn mang cả sữa tới và nhờ các tù binh khác dùng muỗng đút cho tôi uống nữa. Tôi bị hôn mê nhiều ngày và khi tỉnh dậy, tôi đã ngạc nhiên hết sức khi thấy tên quản giáo đang ngồi bên cạnh tôi. Lính tráng như họ vì sợ lây bệnh cho nên ít có khi nào họ đến trại giam. Hắn nói với tôi:
- Cô hãy nói cho tôi biết ai là bạn trai của cô?
Tôi hỏi lại hắn:
- Ông muốn nói gì?
Hắn giải thích:
- Người bạn trai tên là Giêsu của cô đó! Tôi muốn được nghe cô nói cho tôi biết về người đó!
Tôi hiểu rằng, Chúa đã cho tâm hồn sắt đá này trở nên dịu dàng. Tôi bắt đầu khóc vì sung sướng. Và từ lúc đó, tên quản giáo không bao giờ đánh đập tôi nữa. Mỗi ngày hắn đến thăm tôi và nghe tôi nói về Đức Giêsu, từ lúc Ngài sinh ra cho đến khi Ngài chết trên cây Thập Giá.
Một ngày nọ, tên quản giáo lại hỏi tôi:
- Cô có nghĩ rằng, Chúa của cô cũng yêu thương cả tôi nữa không? Cô có nghĩ rằng, Chúa đã tha thứ cho những gì tôi đã làm không?
Tôi nói với hắn ta:
- Dĩ nhiên Chúa yêu thương anh, cũng như chính Ngài đã ban ơn để anh đến hỏi tôi về điều đó.
Năm 1946, vào một đêm kia, người quản giáo ấy đến đánh thức tôi dậy. Ông ra hiệu cho tôi thinh lặng và đưa tôi lên một chiếc xe tải đậu gần đấy. Sau này tôi mới được biết là đúng lý ra, một người đàn bà khác đã được chọn để di chuyển trong chuyến xe đó, nhưng rồi bà ta lại qua đời trong chính đêm ấy, nên người quản giáo đã tráo tên tôi vào tên của người quá cố. Tôi đã được cứu sống trên chuyến đi này. Và cũng kể từ đó, tôi đã không gặp lại người quản giáo ấy nữa. Qua sự tha thứ, tôi cảm thấy mình được tự do để yêu mến người khác. Thêm vào đó, tôi còn cảm thấy mình dễ dàng thông cảm với thân phận con người hơn! Phải, nhờ sự tha thứ mà tôi đã trưởng thành hơn nhiều!
7. Tha thứ là nguồn sự sống
Cha Christian de Chergé muốn sống tinh thần trẻ nhỏ, nên ngài viết chúc thư cho một người Hồi giáo nào đó đang tìm giết ngài: “Thưa bạn của giây phút cuối cùng, bạn không hiểu điều bạn làm, cầu xin cho chúng ta là những người trộm lành được gặp lại nhau trên thiên quốc, vì Chúa là Cha chung của chúng ta!”
Ông Salman Rushdie là tác giả cuốn “Vần Thơ Ác Quỷ”, có tính chất bài Hồi giáo, ông đã bị giáo chủ đạo Hồi là Khomenei ra lệnh trao giải thưởng cho ai thủ tiêu được nhà văn này! Nghe thế, ông đã phải lẩn trốn sang nước khác, và phải nhờ đến dao kéo giải phẫu khuôn mặt mới thoát chết! Báo thù như Khomenei, vị lãnh đạo Hồi giáo thờ Chúa theo Luật Cựu Ước, thì không thể có ơn cứu độ!
Ngược lại, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô đã bị Ali Agca – người Thổ Nhĩ Kỳ - ám sát, suýt chết vào ngày 13/05/1981! Hắn đã bị bắt giam tại nhà tù Rchibbia. Sau khi Đức Gioan Phaolô bình phục, công việc đầu tiên là đến thăm Ali ngay tại nhà giam và còn kèm theo một gói quà lớn! Thế mà hắn còn hỏi Đức Giáo hoàng: “Tại sao tôi bắn ba phát vào tim ông mà ông không chết?” Như vậy, vị Giáo chủ Công giáo mới thờ Chúa thời Tân Ước, bảo đảm ơn cứu độ!
Một người hành khất đến ông nhà giàu xin bố thí, không may trưa hôm đó ông nhà giàu mới thua bạc về, ông không cho gì người hành khất, lại văng tục chửi thề, còn nhổ vào mặt người khất một bãi nước bọt, rồi đuổi đi!
Người hành khất quá tức giận, anh lượm một cục đá bỏ sẵn trong túi, chờ cơ hội thuận tiện sẽ ném vào mặt ông nhà giàu để trả thù. Thế nhưng ngày qua tháng tới trôi đi đã hơn 20 năm mà người hành khất vẫn không tìm được cơ hội nào để ra tay, làm lúc nào ông cũng cảm thấy bực tức bất an. Ngày kia, được nghe Lời Thánh Kinh dạy: “Hãy liệng đi quả tạ mọi thứ tội lỗi bịn rịn” (Dt 12, 1). Và hãy yêu thương thì phải “tha thứ tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 7), khiến ông nghĩ ngay: tại sao mình cứ phải đeo mãi cục đá này cho nặng? Quẳng đi cho rồi, từ đó trở đi ông sống thanh thản và bình an!
8. Nếu Tôi Biết Tha thứ
Trong những năm 1944-1945 dân Roma khiếp sợ mỗi khi nghe nhắc đến tên Peter Koch, một sĩ quan mật vụ Đức quốc xã đã từng giết hại không biết bao nhiêu mạng người. Sau chiến tranh, anh ta bị bắt và bị kết án tử hình. Anh viết thư cho Đức Giáo Hoàng Piô 12 để xưng thú các tội ác mình đã phạm Thong hoi ăn năn và đặc biệt xin Ngài tha thứ cho anh tội đã tấn công vào Vương Cung thánh đường Thánh Phaolô ngoại thành.
Đức thánh cha đã sai một linh mục đến nhà tù để gặp anh ta và chuyển đến anh sự tha thứ của Ngài, đồng thời trao cho anh ta một tràng hạt mân côi. Đến nhà giam, sau khi đã làm theo lời căn dặn của Đức Giáo Hoàng, vị linh mục đã nghe người tử tội thốt lên như sau: "Tổ quốc con nguyền rủa con, đó là điều hợp lý. Tòa án đã kết án con, điều này cũng rất công bình. Đức Giáo Hoàng đã tha thứ cho con và đã cho con một bài học cao qúy. Giả như con đã luôn nghĩ đến việc tha thứ, thì giờ này có lẽ con không phải ra pháp trường như thế này.” Nói rồi anh bật khóc: "Con không dám động đến tràng hạt của Đức Giáo Hoàng bằng đôi tay vấy máu của con. Xin cha đeo tràng hạt vào cổ cho con.” Ít phút sau, Peter Koch ngã gục dưới loạt đạn, miệng anh vẫn còn cầu khẩn Mẹ Maria...
Xin được tha thứ, đó là một trong những hành động vĩ đại nhất của con người... Quỷ Satan đã có lần trách móc Thiên Chúa như sau: "Ngài không công bình. Có biết bao nhiêu tội nhân đã làm điều ác. Họ chỉ trở lại một đôi lần, nhưng lần nào Ngài cũng niềm nở tiếp đón họ. Tôi chỉ có làm một điều bậy, tôi chỉ có phạm tội một lần, thế mà Ngài đã tuyên phạt tôi đời đời.” Nghe thế, Thiên Chúa mới hỏi vặn lại Satan: "Thế ngươi có bao giờ mở miệng xin tha thứ và ăn năn sám hối chưa?”
Mở miệng kêu xin tha thứ là bước lần đến ngưỡng cửa Thiên Đàng. Nhưng xin tha thứ cho chính mình thôi, chưa đủ, con người cần phải tha thứ cho người khác. Cánh cửa Thiên Đàng sẽ mở ra mỗi khi con người thành thực thứ lỗi cho người khác.
Nhận ra lầm lỗi của mình, kêu cầu sự tha thứ và tha thứ cho người khác: đó là đôi cánh Thiên Thần giúp con người bay lên tới Chúa.
THỨ TƯ - CHU
TOÀN LỀ LUẬT
Lời Chúa: Mt 5, 17-19
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Các con
đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng
để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một
phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành.
Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn
nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái
lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong
Nước Trời.”
TRUYỆN KỂ
1. Giữ luật hình thức.
Vào ngày thứ sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ
đi ăn quán. Anh biết quán có món cá, nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là
anh ta gọi những món cá mà anh ta biết chắc chắn chủ quán sẽ trả lời là không có.
Rồi anh tự nhủ: “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm
hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có, thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn
trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy.”
Cầu nguyện xong, anh thi hành liền. Anh đã tự tạo ra
những lý do, những hoàn cảnh để có thể khỏi bị lỗi luật Chúa.
2. Luật cứu sống
Nhưng một người từng phục vụ nhiều năm trong hải quân
cho rằng, kỷ luật là một biện pháp tối cần thiết, vì mục đích của kỷ luật là khiến
con người tự động vâng lệnh không thắc mắc và sự sống tùy thuộc vào sự vâng lệnh
này.
Ông kể lại một kinh nghiệm riêng, trong một hải vụ, tàu
của ông phải cẩu một chiếc tàu rất nặng đang khi biển động. Chiếc tàu hư được cột
vào chiếc tàu ông bằng một sợi cáp. Thình lình, giữa cơn gió bão có lệnh của thuyền
trưởng: “Xuống!”, tức khắc toàn thể thủy thủ phóng xuống hầm tàu. Ngay lúc đó, sợi
dây cáp cột tàu bị đứt, quất xuống như một con rắn thép điên cuồng, trúng người
nào thì người đó chắc chết ngay tại chỗ. Nhưng vì thủy thủ đoàn đã tuân lệnh, nên
tất cả đều được thoát hiểm và an toàn. Nếu có ai dừng lại để tranh luận hay hỏi
lý do, chắc người ấy đã chết. Sự vâng lời cứu mạng người. (WB).
Chúa Giêsu không hề chủ trương vô kỷ cương. Ngài đã từng
tuyên bố: “Ta đến không phải để huỷ bỏ lề luật và các lời tiên tri, nhưng Ta đến
để kiện toàn lề luật” (Mt 5,17). Ngài tuân giữ lề luật của Do Thái giáo. Nhưng,
trong khi các luật sĩ, Pharisêu chỉ biết bám vào hình thức, thì Chúa Giêsu mặc cho
lề luật một tinh thần mới. Ngài giữ chay và kêu gọi con người xé lòng chứ đừng xé
áo. Ngài giữ ngày hưu lễ và kêu gọi con người thực thi bác ái. Ngài cảnh cáo những
Pharisêu và luật sĩ khi họ cố tình bóp nghẹt tinh thần của lề luật. Ngài không ngần
ngại lên án thái độ giả hình bên ngoài của họ bằng những lời rất nặng. Ngài ví họ
như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì bóng bẩy nhưng bên trong thì thối tha.
3. Gương giữ đạo
Chúng ta hãy nhìn lại một ít bài học trong Đạo để thấy
rằng, có những con người rất can đảm. Họ thà chết còn hơn là lỗi luật Chúa.
* Xưa kia, Giuse con Giacob “thà chết” còn hơn là nghe
theo lời đường mật, rồi sau đó là những lời đe dọa mà ngả vào vòng tay của người
đàn bà xấu nết, là vợ quan Putipha.
* Bà Suzanna, cũng thà chết còn hơn là phạm luật Chúa
trước những lời hăm dọa của hai lão mê dâm.
* Ông lão Aliazarô thà bỏ mạng sống còn hơn là nghe theo
lệnh truyền của hoàng đế Antiocô mà ăn thịt trái luật Chúa.
* Ba thánh trẻ kia, sẵn sàng chịu thiêu trong đống củi
chứ không chịu sấp mình trước tượng Nabucodonosor.
* Đaniel cũng thà chết còn hơn là bỏ việc thờ phượng
Chúa dù việc đó làm cho Đaniel bị bỏ vào hang sư tử.
* Bảy anh em tử vì đạo đời Antiôcô cũng vì sợ mất lòng
Chúa nên thà chết chẳng thà bỏ đạo.
* Tại Việt Nam ta ngày trước, nhiều tín hữu bị nhốt vào
tù. Quan dạy đi ra hai cửa: sinh môn và tử môn. Ai qua “sinh môn” thì phải đạp ảnh.
Những người bị giam đều qua “tử môn” có quân lính trực sẵn, hễ ai bước qua thì chém
đầu.
* Trên đồi Dã Viên, đời cấm đạo, giáo hữu phải giam trong
cũi, nhịn khát mấy ngày bên bờ sông Hương. Ai đạp ảnh mới được uống nước. Các đấng
thà chết khát...
Người Công giáo thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng
Chúa, bỏ nghĩa vụ.
4. Giữ đạo để gia đình được hạnh phúc
Tin đài Chân Lý Á Châu loan đi khắp thế giới sáng ngày
16-08-2000:
“Văn phòng Nghiên Cứu Hiện Tượng của Hoa Kỳ về Đời Sống
Hôn Nhân, kết quả được Hội Đồng Tòa Thánh Đặc Trách về Gia Đình trích dẫn trong
tài liệu có tựa đề “Bí tích Hôn Phối” xuất bản năm 1989 như sau:
- Trong 100 gia đình không có Đạo, thì 50 % gia đình
ly dị.
- Trong 100 gia đình Công Giáo, chỉ đi dự Lễ Chúa nhật,
ly dị xuống thấp chỉ còn 10%.
- Trong 100 gia đình Công Giáo, đi dự Lễ hằng ngày, và
có giờ cầu nguyện riêng, chỉ còn 1% ly dị.
Vậy gia đình hoặc bất cứ cộng đoàn nào muốn có bình an
hạnh phúc, phải năng dự Lễ và có giờ cầu nguyện chung với nhau.
5. Công cụ của Chúa
Một số nhà sử học Mỹ nói rằng cuốn truyện “Túp lều của
chú Tom” góp phần vào việc chấm dứt chế độ nô lệ ở Mỹ nhiều hơn bất cứ một sức mạnh
đơn lẻ nào. Nhưng Harret Beecher Stowe, tác giả cuốn sách, từ chối xác nhận ảnh
hưởng của cuốn sách và nói: “Thiên Chúa đã viết và tôi chỉ là công cụ nhỏ nhất của
bàn tay Ngài.”
Thánh Phaolô cũng nói một cách tương tự về sứ vụ tông
đồ của ngài trong bài đọc hôm nay.
Tôi đã xác nhận ảnh hưởng của ơn Chúa đối với tài năng
và sự thành đạt của tôi ra sao?
Chính từ nơi sâu thẳm của con người, mà định mệnh của
chúng ta xem ra cao quý nhất. Hãy để tôi thực sự cảm thấy rằng tôi chẳng là gì,
thì lập tức Thiên Chúa sẽ đi vào qua cửa ngỏ linh hồn và sẽ là mọi sự trong tôi
(W. Mountfort).
6. Cầu nguyện với lòng tin
Lucille Campbell vừa dọn giường ngủ cho Donna, cô con
gái nhỏ của bà. Sau khi cả hai đọc kinh tối như thường lệ, Lucille nói: “Chúng ta
hãy thêm một lời cầu xin cho trời mưa, để vụ mùa có đủ nước cần thiết.” Donna xem
ra miễn cưỡng. Lucille nói: “Có chuyện gì thế?” Donna trả lời: “Con để quên mấy
con búp bê ngoài hang cát và con không muốn chúng bị ướt.”
Tôi giải thích thế nào về việc Richard Treacher cho rằng
cầu nguyện không phải là “bắt buộc Chúa cho ta những điều Ngài không muốn” nhưng
là để “biết được thánh ý Ngài?”
Nếu không tin tưởng cầu nguyện, làm sao tôi hy vọng nhận
được những gì tôi cầu xin.
7. Gương sáng đức tin
Một nữ sinh trung học kể câu truyện sau đây: Một buổi
sáng nọ, cha cô chuẩn bị đi làm nhưng sớm hơn thường lệ nửa tiếng. Cô hỏi: “Ba,
sao ba không nghỉ ngơi ở nhà, còn nửa tiếng nữa, đi làm quá sớm vậy?”… Cha cô trả
lời: “Ba không đi làm ngay, ba thường dự thánh lễ lúc 8 giờ tại nhà thờ Chúa Ba
Ngôi.” Sau này, cô nói với một người bạn: “Tôi thực sự bị tác động, bởi vì điều
đó khiến tôi có một thái độ mới đối với Thánh lễ và một cái nhìn mới về ba tôi.”
Tôi có thực sự tin rằng gương sáng có sức thuyết phục
hơn lời nói suông không? Tôi có thể cho người khác dẫn chứng gì về niềm tin của
tôi?
Những con người thánh thiện phục vụ thế giới bằng việc
phản chiếu ánh sáng vào người khác. (John W. Donohue)
8. Nhớ đến bàn tay Chúa
Tập truyện vui của Lewis Carroll “Cuộc phiêu lưu của
Alice đến sứ sở thần tiên” có rất nhiều yếu tố hài hước. Chẳng hạn, vị vua nói với
nữ hoàng: “Ta sẽ không bao giờ quên được giây phút đáng sợ đó.” “Không bao giờ!”
Nữ hoàng đáp: “Bệ hạ sẽ quên thôi, nếu Ngài không muốn nhớ nó.”
Môsê cũng đưa ra một ý tưởng tương tự đối với dân Israel
trong bài đọc hôm nay.
Lời Môsê nói với dân Israel và lời Nữ hoàng nói với nhà
vua mời gọi tôi tự hỏi: Điều gì Thiên Chúa đã làm cho tôi mà hầu như tôi đã quên?
Người ta thường muốn được nhắc nhở hơn là được thông
báo. (Samuel Johnson)
9. Chúa kiện toàn lề luật
Buổi tụ họp tại hội đường bắt đầu bằng việc rước sách
luật xung quanh cộng đoàn. Đây là một thí dụ nhỏ về sự kính trọng của người Do Thái
đối với Luật Môsê. Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật. Trong tân ước, từ Hy Lạp
“exousia” được dịch là uy lực, nghĩa là sức mạnh thêm hay bớt một điều gì đó. Đó
chính là sức mạnh Chúa Giêsu đòi hỏi và thể hiện trong bài giảng trên núi. Chúa
Giêsu hoặc là một người điên hoặc là Con Thiên Chúa để làm điều Ngài đã làm. Ngài
đã luôn mâu thuẫn với các nhà lãnh đạo tôn giáo, và Ngài phải rất can đảm để thi
hành sứ mệnh Chúa Cha trao phó.
Tôi cần can đảm thế nào để thi hành sứ mệnh người kitô
hữu của tôi?
Nhờ ơn Chúa trong tôi và sức mạnh của Ngài sau tôi, tôi
có thể vượt qua bất cứ chướng ngại nào trước mắt.
10. Luật nhỏ không được bỏ
Lời
của Chúa Giêsu và ví dụ của Clara mời gọi tôi tự hỏi: có điều xấu xa nào tôi nên
nỗ lực để chống lại ngay không? Tôi có thể làm gì?
Ai chấp
nhận điều xấu mà không chống lại, thì đã thực sự cộng tác với nó. (Martin Luther
King)
11. Đức tin cần được hội nhập văn hóa
Những giá trị mạc khải trong Cựu Ước là để chuẩn bị Dân
Chúa đón nhận mạc khải Tân Ước. Đức Kitô dạy chúng ta loan Tin Mừng cho mọi dân
tộc, Ngài cũng muốn kiện toàn những giá trị tốt đẹp bàng bạc không những trong Cựu
Ước mà cả trong từng nền văn hoá của từng dân tộc. Thư chung của HĐGMVN năm 1980
kêu gọi chúng ta thực hiện lời dạy này của Đức Kitô “sống Phúc Âm giữa lòng dân
tộc”, điều mà lắm khi chúng ta quên. Cha Lôrenxô Phạm Hân Quynh chia sẻ: “Biết bao
giá trị Việt Nam chúng ta có thể tiếp thu và nâng cao thánh hoá được: chữ Tín của
cô Tấm, chữ Chung Thuỷ của Cúc Hoa, chữ Nghĩa của Thạch Sanh, chữ Liêm của Chu Văn
An, chữ Hoà của Trần Hưng Đạo… Và nếu những giá trị ấy được đưa vào trong Giáo Hội…,
bà con vào trong Giáo Hội sẽ thấy như vào “Nhà Mình”, rất thân thương nhận ra Thiên
Chúa là gốc của gia tài ấy…” (Bài giảng tĩnh tâm cho các linh mục giáo phận Đà Nẵng
2005).
Có thể bạn chưa đọc các giáo huấn của Giáo Hội như Hiến
Chế “Ánh Sáng Muôn Dân”, tông huấn “Giáo Hội tại Á Châu”? Nếu chưa, bạn cần tìm
đọc cho bằng được. Ít là trong lúc này, bạn ý thức yêu cầu cấp bách đang đặt ra
cho bạn là sống Tin Mừng thế nào để những giá trị tốt đẹp trong văn hoá của dân
tộc mình được kiện toàn.
12. Giữ luật theo chữ
Nhà thần học William Barclay kể lại câu chuyện một Rabbi
(tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối
thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị Rabbi ấy ngày càng
yếu dần.
Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến khám. Y
sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước. Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ quan cai
ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì
khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi
tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát "Ông già" ấy một cách kỹ lưỡng
hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy.
Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy
đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện
và ăn. Như thế đương nhiên ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
13. Đừng quên điều cốt yếu
Một người đàn bà bồng con trên tay đi ngang qua một cái
hang. Bỗng có tiếng từ trong vọng ra “Con hãy vào và lấy tất cả những gì con muốn,
nhưng đừng quên rằng con được tự do chọn lựa mà không được quên mất điều cốt yếu.”
Tiếng vọng lại nhắc thêm một chi tiết: “Con hãy nhớ một điều nữa: Sau khi con ra
khỏi cái hang, cánh cửa sẽ tự động đóng lại vĩnh viễn. Song hãy tận dụng cơ hội
mà đừng quên mất điều cốt yếu.”
Người đàn bà tò mò bước vào và thấy chung quanh mình
toàn là vàng bạc, châu báu và những món trang sức lấp lánh hấp dẫn. Bà vội đặt đứa
con xuống và bắt đầu chọn những gì bà ưa thích nhất. Tiếng nói lúc nãy lại vang
lên: “Con chỉ có 8 phút thôi, đừng chậm trễ!”
Tám phút mau mắn trôi qua, người đàn bà ôm đầy vàng bạc
và đủ thứ trang sức quý giá chạy vội ra khỏi hang và cửa hang đóng lại. Bấy giờ
bà ta mới sực nhớ rằng mình đã bỏ quên đứa con lại trong hang. Bà quăng tất cả mọi
thứ đã chọn xuống đất, than khóc kêu la như điên như dại trong tuyệt vọng…
Người đàn bà khốn khổ này đã có được đủ thứ nhưng lại
quên mất điều cốt yếu nhất đối với bà.
14. Gia đình “hạnh phúc”
Sau bài “Lạnh và trống rỗng” đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày
3 tháng 4 vừa qua, một người đã chia sẻ: “Nhìn vào nhà tôi ai cũng bảo là hạnh phúc
ấm êm: chồng làm giám đốc một doanh nghiệp nhỏ, vợ là giáo viên mầm non, con trai
đang học năm nhất đại học. Chúng tôi chưa bao giờ cãi nhau, chồng tôi rất ít nói,
cái tính ít nói ngày xưa hấp dẫn tôi thế nào thì bây giờ là nguyên nhân của cái
tổ lạnh này. Anh có thể huyên thuyên với bạn bè, với đồng nghiệp, với hàng xóm…
nhưng bước vào nhà anh ít nói một cách đáng sợ. Hỏi gì anh chỉ trả lời cụt lủn:
ừ, vậy à, có, không…
“Dần dần chúng tôi cũng ít trao đổi công việc với nhau,
dù ngày xưa là bạn học cùng ngành, cùng lớp. Sáng, ăn sáng, uống cà phê, mỗi người
một tờ báo im lặng đọc. Chiều, anh không la cà nhậu nhẹt mà về rất đúng giờ, cùng
ăn cơm với vợ con, xem tivi, lên mạng hoặc đi chơi thể thao…
“Thú thật lòng tôi đã đóng băng rồi tôi không còn thấy
khó chịu… Tôi tìm vui trong công việc hằng ngày. Ngày nào anh ấy đi công tác vắng
nhà, tôi lại thấy dễ chịu, hai mẹ con nói chuyện, cười giỡn suốt ngày. Mấy từ “gia
đình hạnh phúc” sao nghe xa lạ quá!” (TT, 8-5-2010, tr 9).
THỨ NĂM - NHẬN RA BÀY TAY CHÚA
Lời Chúa: Lc 11, 14-23
Khi ấy, Chúa Giêsu trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi,
người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ
nói rằng: “Ông ta nhờ tướng quỷ Bêelgiêbút mà trừ quỷ.” Mấy kẻ khác muốn thử Người,
nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán:
“Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp
đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Satan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng
vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bêelgiêbút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bêelgiêbút
mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi
sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước
Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi.
“Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà
mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh
bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã
tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là
phân tán.”
TRUYỆN KỂ
1. Nhận ra công việc của Chúa
Một nhà truyền giáo nọ kể lại sự kiện sau: một hôm tôi
đang giảng dạy cho một nhóm người tại Nagasaki. Sau bài giảng một người đứng lên
hỏi tôi ba điều: “Tôi có tin Đức Mẹ đồng trinh không? Tôi có vâng lời và hiệp thông
với Đức thánh cha không? Tôi có giữ mình trinh khiết và sống độc thân không?” -
Tôi xác nhận cả ba điều trên và hỏi lại: “Tại sao ông lại đặt ra ba câu hỏi vừa
rồi?”
Người đó trả lời: “Vì ông bà chúng con trước khi chết
có nhắn nhủ chúng con rằng sau này có ai đến giảng đạo, chúng con phải lấy ba tiêu
chuẩn ấy để đánh giá xem đó có phải là vị thừa sai chân chính không. Nay chúng con
vui mừng vì cha đích thực là người được Hội thánh sai đến, chúng con sẽ nghe lời
cha và giữ vững đức tin tổ tiên chúng con truyền lại.”
Những giáo dân Nhật Bản đã dùng ba tiêu chuẩn để thẩm
định đâu là nhà truyền giáo đích thực.
2. Đừng “chụp mũ” nhau như thế
Có một tu sĩ đảm trách công việc mục vụ bệnh nhân Sida.
Tuy nhiên, do sơ xuất, ngài đã bị nhiễm căn bệnh thế kỷ này qua người bệnh trong
khi chăm sóc họ. Nhưng thật trớ trêu, thay vì được mọi người nâng nỡ, khích lệ,
thì họ lại bàn tán, gán ghép những chuyện không mấy tốt đẹp cho vị tu sĩ nhiệt tình
vì sứ vụ này!
Đây cũng chính là căn bệnh truyền kiếp ở mọi thời, đó
là, người ta không thích ai, hay ai đó uy tín hơn mình, thì họ sẵn sàng dùng đến
biện pháp nói hành, hay chụp mũ để hạ gục đối phương!
Hôm nay, Đức Giêsu cũng rơi vào tình trạng trên khi bị
dân chúng chụp cho Ngài thứ mũ hết sức đê hèn: Ngài trừ được quỷ là do liên minh
với quỷ khi nhân danh tướng quỷ để trừ quỷ!
3. “Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta.”
Đứng trước Đức Giêsu, con người phải có thái độ hoặc
tin nhận hoặc từ chối. Đó cũng là thái độ mà người Kitô hữu chúng ta phải có đối
với Đức Giêsu.
Đây là một sự lựa chọn dứt khoát cho chúng ta, là Kitô
hữu, chúng ta không thể cứ sống cách nửa vời. Việc sống đức tin là có hoặc không?
Chọn Chúa hay theo Satan; sống theo giáo lý và lề luật đạo, hay thỏa hiệp với thế
gian xác thịt..? Chứ không thể bắt cá hai tay, đạo nào cũng muốn mà đời cũng muốn.
- Không thiếu những người, đạo cũng muốn giữ mà cứ để
mình sống trong tình trạng hôn nhân bất hợp pháp.
- Làm người tu cũng muốn mà tình lứa đôi cũng không dứt
bỏ dứt khát, khấn nghèo khó mà lại sống trưởng giả.
- Có những người đạo cũng muốn giữ mà vẫn thề thốt để
được “kết nạp” và giữ được những cái nọ cái kia...
4. Mưu mô ma quỉ
Ngày xưa có một con qủi hiện về báo cho người đàn ông
biết là gã sắp chết. Nhưng nó lại bảo gã rằng nó có thể cứu gã nếu gã chịu làm một
trong ba điều sau: một là giết tên đầy tớ của gã, hai là gã đánh đập vợ, ba là gã
hãy uống rượu.
Gã kia nghĩ: Ta không thể giết tên đầy tớ trung thành,
đánh vợ thì vô lý quá, vậy ta uống rượu. Rồi gã lấy rượu uống. Đến chừng say quá,
gã đánh vợ, tên đầy tớ nhào vô can bị gã cho một dao chết tươi.
5. Để khỏi bị hiểu lầm
Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí
khả nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể đi bất cứ đâu.”
Bạn cô đáp: “Tất nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một
chuyện: lần đó, tôi và một số người đến thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng
đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn: - Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không? - Được,
không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại,
áo cô không còn trắng nữa.
6. Tội ngoan cố rất nặng
Thánh Macariô tu hành ở Ai-Cập, lần kia gặp một chiếc
đầu lâu của người chết, ngài mới hỏi:
- Cái sọ này của ai ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, cái sọ này là của một ngoại
giáo.
Thánh Macariô hỏi thêm: - Linh hồn mày hiện giờ ở đâu
?
Cái sọ trả lời:
- Thưa cha, linh hồn tôi ở dưới hỏa ngục, vì khi còn
sống, thấy giữ đạo phải hy sinh nhiều quá, nên tôi không chịu trở lại.
Thánh Macariô lại hỏi:
- Hỏa ngục có sâu lắm không ?
Cái sọ trả lời: - Thưa cha, hỏa ngục sâu lắm, sâu bằng
khoảng cách giữa trời và đất.
Thánh Macariô hỏi tiếp:
- Dưới hỏa ngục, có ai khổ hơn mày nữa không ?
Cái sọ trả lời: - Có các người Do Thái, đã cố chấp không
chịu tin Chúa mặc dầu đã xem thấy bao nhiêu phép lạ Chúa làm.
Thánh Macariô lại hỏi thêm:
- Dưới hỏa ngục, còn ai khổ hơn người Do Thái không ?
Cái sọ trả lời:
- Có những người Công giáo xấu, đã giày đạp lên lòng
thương xót Chúa đã đổ máu ra cứu chuộc họ. Rồi cái sọ nói thêm: “Còn phần cha, cha
hãy lợi dụng lòng thương xót Chúa nghĩa là hãy sử dụng ơn Chúa cũng như hãy lợi
dụng thời giờ Chúa ban mà lập công phúc, để khỏi phải khổ cực dưới hỏa ngục, nhưng
được vinh hiển trên Trời”
Vâng, chúng ta hãy biết lợi dụng lòng thương xót của
Chúa để lập thêm công phước, phải lợi dụng lòng thương xót của Chúa để xin ơn tha
thứ như vậy.
7. Con đường theo Chúa
Mirjana, cô gái được chính Đức Mẹ hiện ra dạy bảo tại
Mễ Du. Khi người ta hỏi cô:
- Bằng cách nào chúng ta chọn Chúa Giêsu ?
Cô trả lời:
- Đức Mẹ nói rằng: muốn chọn Chúa Giêsu, ta phải nên
giống Chúa. Nhiều người cho mình là tín hữu nhưng lại sống như người ngoại đạo.
Kitô hữu chân chính phải là người được Kitô-hóa. Một người Kitô-hữu đích thực phải
giống Chúa Giêsu.
Và khi được hỏi:
- Nên giống Chúa Giêsu như thế nào ?
Cô nhắc lại lời Đức Mẹ dạy:
- Chúa Giêsu là đường đi, là sự thật và là ánh sáng cho
cuộc sống chúng ta. Đường đi thì đã được vạch rõ trong Kinh Thánh. Còn sự thật thì
nằm ở cả trong Kinh Thánh và trong Giáo Hội. Ánh sáng thì từ Thiên Chúa mà đến cho
những ai trung tín.
Mẹ luôn xin các con cái của Mẹ hãy đọc Sách Thánh, có
như vậy ta mới biết về Thiên Chúa. Vì thế, Đức Mẹ xin những ai nói mình là tín hữu
hãy sống cuộc sống của Chúa Giêsu như khi Chúa sống ở trần gian. Chúa Giêsu chỉ
cho chúng ta con đường về Thiên Đàng. Cuộc đời của Ngài là mẫu mực cho các tín hữu
noi theo. Nếu tín hữu sống theo mẫu mực đó, họ sẽ là những môn đệ trung thành của
Tin Mừng. Đời sống của họ sẽ nêu gương cho thấy có một vị Thiên Chúa yêu thương
chúng ta và chăm sóc dưỡng nuôi ta, đỡ nâng ta trong hết mọi sự. Nhưng Mẹ cũng không
quên nhắc: “ngày nay, có nhiều người đã quên, nhiều người đã chọn lựa những điều
phù phiếm mau qua, nhiều kẻ không hề quan tâm tới chân lý, chỉ biết say mê những
lạc thú trần gian, trí khôn đâm mù tối và sống co rút lại trong ích kỷ.”
Cha Gioan Maria Vianney nói: “Chẳng có gì làm cho chúng
ta nên giống Chúa bằng cách vác lấy Thánh Giá của Người. Đẹp thay bao linh hồn biết
kết hiệp mật thiết với Chúa Giêsu qua việc yêu mến Thánh Giá của Ngài! Cha thật
không tài nào hiểu được một Kitô-hữu mà không yêu mến và chạy trốn Thánh Giá! Như
vậy, chẳng phải chúng ta đang chạy trốn Chúa Giêsu, Đấng đã hạ mình xuống ôm chặt
lấy Thánh Giá, và chịu chết cho chúng ta sao ?
8. Bệnh điếc tâm linh
Nhà bình luận Ann Landers in một lời cầu nguyện dài đọc
cho những người điếc bằng máy trợ thính. Ít lâu sau, một phụ nữ viết thư xin bà
in lời cầu nguyện khác cho những người cùng sống với những người điếc. Bà ta giải
thích rằng mẹ của bà không chịu mang thiết bị trợ giúp người điếc, vì nó làm cho
bà trông già đi, nhưng bà lại than phiền vì không nghe được những cuộc trò chuyện.
Nhiều người trong chúng ta cũng giống như bà mẹ trên
đây. Chúng ta được ban cho lương tâm như thiết bị trợ giúp để nghe tiếng Chúa, nhưng
chúng ta đã không để ý tới. Chính vì thế, chúng ta trở nên tồi tệ thay vì nên tốt
hơn.
Điều gì ngăn cản tôi không nghe được tiếng Chúa?
Thiên Chúa lo giữ liên lạc với ta hơn ta lắng nghe Ngài.
(Morton Kelsey)
9. Yêu thương không xét đoán
Một đôi vợ chồng về hưu, họ tương đối khỏe mạnh và không
phải khó khăn về tài chánh. Sở thích của họ là nuôi gà, trồng rau. Bất cứ ai đến
mua trứng và rau, họ luôn đòi giá cao hơn so với giá chợ. Họ không giảm xu nào ngay
cả với bạn bè, hàng xóm. Điều này khiến một số người cho họ là tham lam. Nhưng về
sau người ta khám phá ra rằng đôi vợ chồng này đã đem tất cả thu nhập từ trứng và
rau giúp đỡ cho hai gia đình nghèo sống gần nhà họ.
Tôi có xu hướng xét đoán hành động của người khác, nhất
là xét đoán tiêu cực như thế nào? Tôi có thể làm gì để sửa chữa trong lãnh vực này?
Nếu bạn xét đoán người khác, bạn sẽ không có thời giờ
để yêu thương họ. (Mẹ Têrêsa)
10. Kiên nhẫn là sức mạnh đến từ lòng tin
Vở nhạc kịch Broadway năm 1776 liên quan đến những ngày
tháng làm nên lịch sử khi tổ tiên chúng ta chuẩn bị tuyên bố độc lập khỏi nước Anh.
Một đêm nọ, John Adams, vị lãnh tụ trong việc đấu tranh giành độc lập cảm thấy rất
lo lắng: những công dân có ý tốt, nhưng bị xúi giục phản đối tuyên ngôn. Đứng một
mình trong tòa nhà Độc Lập, John Adams đầy thất vọng hét lên: “Có ai ngoài đó không?
Có ai chú ý không? Có ai thấy điều tôi thấy không?”
Tôi phản ứng ra sao khi một người có thiện ý nhưng vì
lầm lạc mà phản đối những gì tôi cho là đúng? Điều gì giúp tôi tiếp tục đi tới khi
những điều như vậy xảy ra?
Kiên nhẫn là sức mạnh. Với thời gian và kiên nhẫn, lá
đâu biến thành tơ lụa. (Ngạn ngữ Trung Quốc)
THỨ SÁU
Lời Chúa:
TRUYỆN KỂ
1.
THỨ BẢY
Lời Chúa:
TRUYỆN KỂ
1.
LỄ KÍNH THÁNH GIUSE
Lời Chúa: Mt 1, 16. 18-21. 24a
Giacóp sinh Giuse là bạn của Maria,
mẹ của Chúa Giêsu gọi là Ðức Kitô. Chúa Kitô giáng sinh trong hoàn cảnh sau đây:
Mẹ Người là Maria đính hôn với Giuse,
trước khi về chung sống với nhau, đã thụ thai bởi phép Chúa Thánh Thần. Giuse bạn
của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín
đáo.
Nhưng đang khi định tâm như vậy,
thì Thiên thần hiện đến cùng ông trong giấc mơ và bảo: "Hỡi Giuse con vua Ðavít,
đừng ngại nhận Maria về nhà làm bạn mình, vì Maria mang thai là bởi phép Chúa Thánh
Thần; bà sẽ sinh hạ một con trai mà ông đặt tên là Giêsu: vì chính Người sẽ cứu
dân mình khỏi tội.”
Khi tỉnh dậy, Giuse đã thực hiện
như lời Thiên thần Chúa truyền.
TRUYỆN KỂ
1. Thánh Giuse, Người Cha Tuyệt Vời
Tác giả người Nga tên Mikhain Vanolov
viết một truyện ngắn tựa đề “Người Cha” như sau: Trong gia đình chỉ có hai cha con.
Người cha và cô con gái. Người cha rất thương yêu cô con gái của mình. Ông chăm
sóc cô thật chu đáo. Nhưng cô lại rất khó chịu về sự chăm sóc quá tỉ mỉ của người
cha già. Cô thường gọi cha mình là “ông già lẩm cẩm” khi ông nhắc nhở: ra đường
nhớ đội mũ nón; đi đường mắc mưa thì về phải uống thuốc kẻo bệnh v.v…
Vì làm văn phòng cho một trường
trung học nên cô gái thường về muộn. Dù mọi người đã ra về hết, nhưng cô gái vẫn
phải ở lại để sắp xếp giấy tờ cho ổn định rồi mới ra về.
Hôm ấy, khi cô khóa cửa văn phòng
để về thì trời bắt đầu tối. Khu trường học vắng tanh không một bóng người. Bỗng
nhiên, trước mặt cô xuất hiện ba người đàn ông với bộ mặt hung dữ từ từ bước tới
phía cô.
Cô gái sợ hãi hét lên cầu cứu và
bỏ chạy ra phía chiếc xe hơi của cô đậu ở sân trường. Ba người đàn ông lập tức đuổi
theo. Cô gái vừa chạy vừa đưa tay vào túi lấy chìa khóa. Nhưng vì quá run rẩy nên
cô làm rớt chìa khóa xuống đất. Cô cúi xuống tìm kiếm. Nhưng mắt cô hoa lên không
nhìn thấy gì cả. Đang khi đó, ba người đàn ông tiếp tục chạy về phía cô. Cô đành
bỏ, không tìm chìa khóa nữa, chạy tiếp đến chiếc xe. Đến nơi, cô không biết làm
gì hơn là đưa tay vào chiếc ví để tìm kiếm một cái gì đó có thể cứu cô trong lúc
nguy hiểm này.
Thật kỳ lạ! trong một ngăn nhỏ của
chiếc ví, tay cô chạm vào một vật bằng kim loại. Cô cầm lấy nó. Ồ! Chiếc chìa khóa!
Không kịp suy nghĩ, cô cầm chìa khóa tra vào lỗ khóa. Cửa xe bật mở, cô lao vào
xe và chiếc xe phóng đi. Ngay lúc ấy ba gã đàn ông phóng tới, nhưng không kịp. Thế
là cô thoát nạn!
Về sau, cô gái mới biết: người “cha
già lẩm cẩm” của cô đã đặt làm một chìa khóa khác và âm thầm bỏ vào ví cô, dự phòng
lúc cô cần đến. Chiếc chìa khoá ấy đã cứu cô.
Câu chuyện trên gợi lên hình ảnh
của một người cha hết lòng yêu thương chăm sóc con cái từ những việc nhỏ nhặt đến
những việc lớn lao. Hình ảnh người cha ấy, cũng gợi lên hình ảnh người cha nuôi
của Chúa Giêsu, thánh Giuse.
2. Người thợ tuyệt diệu cho mái ấm tình yêu
Để chăm sóc và dưỡng nuôi Chúa Giêsu
và Mẹ Maria, thánh Giuse đã cần mẫn siêng năng trong âm thầm lặng lẽ nơi xưởng mộc.
Người đã trở thành người thợ tuyệt diệu xây dựng “ngôi nhà của Chúa” và cũng là
Mái Ấm Tình Yêu.
Trong tháng 3 năm 2004, Đài Truyền
Hình Bình Dương hoàn tất bộ phim độc đáo mang tên: “Mùa Xuân Chim Bay Qua và Cất
Tiếng Hát.” Bộ phim này hoàn toàn không có lời thoại vì diễn tả thế giới của người
câm điếc. Vai chính là cô gái tên Ngọc Nhị ở Trung Tâm Giáo Dục trẻ khuyết tật Thuận
An.
Trong phim có cảnh cô chụm hai bàn
tay lại thành mái nhà đặt ngay trước mặt, diễn tả ước mơ mình có một mái ấm gia
đình.
Bộ phim đã làm nhiều người xúc động.
Không phải chỉ bằng đôi tay, mà
bằng cả trái tim, cả một đời cần lao vất vả trong thầm lặng, thánh Giuse đã tạo
dựng một mái ấm gia đình đầy tình yêu thương. Người cùng với Mẹ Maria tạo thành
“mái nhà” đầm ấm yên vui, nêu gương mẫu cho các gia đình chúng ta.
3. Cha tôi
Anh Vũ Đức Nghĩa đã viết một câu
chuyện thật cảm động, có tựa đề: Cha tôi.
“Anh con trai đi làm được vài tháng,
có dịp ghé thăm nhà. Bữa cơm chiều, anh cứ nhìn chăm chăm vào chiếc đồng hồ của
cha. Người cha thầm nghĩ: ‘Chắc là con nó cần’.
Ăn cơm xong, người cha gọi con trai
ra bàn uống nước, ông bảo: ‘Con mới đi làm, cũng cần biết giờ giấc’. Rồi ông tháo
đồng hồ đưa cho con. Người con trai cầm đồng hồ, bấm lại hai nấc rồi đeo vào tay
cha. Rơm rớm nước mắt, anh nghẹn ngào: ‘Dạo này ba gầy quá, dây đồng hồ tuột cả
xuống bàn tay!’”
Người con đã có được tình thương
đối với cha mình vì người cha luôn thể hiện được tình thương đối với con mình một
cách hết sức nhạy bén. Và đấy là gia tài to lớn nhất mà người cha để lại cho con
cái: Không phải là tiền bạc, mà chính là tình yêu thương và lòng đạo đức mới là
quý giá nhất.
4. Những nụ hôn yêu thương
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng
cũng nỗ lực trở nên người cha Yêu Thương. Muốn vậy, cần phải hiểu con, bằng không,
yêu con mà kết quả lại làm hại con, như câu chuyện dưới đây:
“Có một người cha nghèo đã quở phạt
đứa con gái 3 tuổi của mình vì tội lãng phí cả một cuộn giấy gói quà mầu vàng. Tiền
bạc eo hẹp, người cha nổi giận khi đứa bé cắt cuộn giấy quý ra thành từng mảnh nhỏ
trang trí một cái hộp.
“Sáng sớm hôm sau, đứa con gái nhỏ
mang cái hộp đến nói với cha: ‘Hôm nay là sinh nhật của bố, con không có tiền mua
quà cho bố nên con xin tặng bố chiếc hộp này!’. Người cha cảm thấy hối hận vì cơn
giận dữ vô lý của mình tối hôm qua. Nhưng khi mở cái hộp ra, thấy bên trong trống
rỗng, thì cơn giận của ông lại bùng lên.
“Ông mắng đứa con gái xối xả vì
đã tặng ông chiếc hộp rỗng… Đứa con gái nhỏ ngước nhìn cha, nước mắt rưng rưng,
nhỏ nhẹ thưa: ‘Bố ơi, đó đâu phải là cái hộp rỗng, con đã thổi đầy những nụ hôn
vào trong hộp để tặng bố mà!’.
Người cha giật thót tim. Ông đã
quá hồ đồ, xét đoán lầm đứa con hiếu thảo. Vòng tay ôm lấy đứa con gái nhỏ, ông
cầu xin con tha thứ!
Sau đó không lâu, thiên thần nhỏ
của ông đã qua đời trong một vụ tai nạn. Nhiều năm sau, người cha vẫn giữ khư khư
chiếc hộp bên mình. Mỗi khi gặp khó khăn, buồn bực, ông lại lấy ra một ‘nụ hôn tưởng
tượng’ và nghĩ đến tình yêu nồng ấm mà đứa con gái bé bỏng của ông đã thổi vào chiếc
hộp.”
Trong cuộc sống, có biết bao người
cha đã nhận được những chiếc hộp quý giá chứa đầy những nụ hôn chan chứa yêu thương
từ con cái. Trên đời này, không có tài sản nào quý giá hơn những chiếc hộp chứa
đầy tình yêu chân thành như thế!
5. Con còn tiền lẻ không?
Noi gương Thánh Giuse, gia trưởng
cũng nỗ lực trở nên người cha Nhân Hậu. Xin kể một câu chuyện về tình cha đến rơi
nước mắt: “Con còn tiền lẻ không?”
“Học lớp 12, tôi không có thời gian
về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba, rồi ba đích thân
lên đưa tiền lên cho tôi. Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo, không
có xe gắn máy, nên ba phải đi xe đạp. Chiếc xe cũng gầy gò giống như ba!!!
Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học,
tôi lại nhắn ba đưa tiền lên. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:
‘Con còn tiền lẻ không?’. Tôi đáp: ‘Con còn bốn ngàn, ba ạ’. Ba nói: ‘Con cho ba
hai ngàn, để lát về, nếu xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa’. Ba về, tôi
đứng trông theo, không cầm được nước mắt, khóc òa lên!… ”
Thật vậy, người cha Nhân Hậu thì
nhạy bén, nắm bắt nhu cầu của con cái và cảm thông, chia sẻ với con, như tấm gương
của Chúa Giêsu: “Tôi hy sinh mạng sống vì đàn chiên.”
6. Thánh Giuse, Người Chồng Tốt, Người Cha Hiền
Người ta kể một câu chuyện kỳ lạ
về sự trợ giúp của thánh Cả Giuse như sau:
Tại một giáo xứ miền quê, vào một
đêm kia, có ông già lạ mặt đến gõ cửa nhà xứ xin cha xứ đi xức dầu cho một bệnh
nhân là một người đàn ông trong làng.
Được cụ già dẫn đi, vị Linh mục
nhanh chóng đến nhà bệnh nhân. Khi đến nơi, mọi người trong nhà rất ngạc nhiên vì
không có ai trong nhà đi mời vị linh mục đến xức dầu, vì mọi người đang bận rộn
lo cho người bệnh đang hấp hối.
Không kịp tìm hiểu, vị linh mục
ban những bí tích cuối cùng cho bệnh nhân. Thật may mắn, chỉ ít phút sau, người
đàn ông ra đi bình an, kịp thời lãnh nhận các bí tích cuối cùng.
Khi xong xuôi mọi việc, vị linh
mục đi tìm ông cụ già lạ mặt để hỏi cho ra lẽ. Thế nhưng, mọi người tìm kiếm khắp
nơi cũng không thấy ông cụ già bí mật kia đâu. Ngay lúc ấy, vợ người chết chợt nghĩ
ra một điều gì đó, thưa với vị Linh mục: “Thưa cha, con hiểu rồi! Chồng con có lòng
yêu mến thánh Giuse cách đặc biệt, thường cầu khấn thánh Giuse trong những cơn nguy
khốn. Con tin rằng: ông cụ già kia chính là thánh Giuse đến để giúp đỡ chồng con
trong cơn nguy tử.”
Ngay lúc ấy, vị Linh mục giật mình
và nhớ lại: ông cụ già kia có khuôn mặt rất giống thánh Giuse!
Câu chuyện trên là một lời minh
chứng hùng hồn cho thấy: Thánh Giuse là Đấng Bảo Trợ hữu hiệu cho những ai chạy
đến với Người. Tất cả những ai đến với thánh Giuse, đều được Người ra tay cứu vớt,
phù hộ.
7. Thánh Giuse là con người nhỏ bé được Chúa chọn
Ogilvy and Mather là một công ty
quảng cáo lớn. Khi muốn lập ra công ty và muốn cho công ty đó hoạt động mang lại
nhiều lợi nhuận, ông David Ogilvy người sáng lập ra công ty đã nghĩ ra một cách
làm như thế này: Ông đã cho mời các vị lãnh đạo cộng tác với ông lại, tặng cho mỗi
người một con búp bê Nga, bên trong đó có năm tấm hình người theo thứ tự mỗi lúc
mỗi nhỏ dần.
Trong tấm hình người bé nhất ông
dán vào đó một tờ giấy nhỏ có ghi mấy hàng chữ “nếu mỗi người trong chúng ta chọn
những cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn.
Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and
Mather sẽ trở thành một công ty của những người khổng lồ”
Và quả thật, Ogilvy and Mather đã
trở thành một trong những công ty quảng cáo lớn nhất và được kính trọng nhất thế
giới.
8. Chúa yêu thích sự công chính đạo đức.
Vào năm 1729 Ben Franklin một nhà
tư tưởng lớn của Mỹ đã nói những lời như thế này trước một cử tọa đến nghe ông “Nếu
chúng ta vẫn chuyên chăm để trở nên vĩ đại như chuyên chăm trở nên tốt lành thì
ta sẽ trở nên vĩ đại thực sự và con số những người đáng nể phục sẽ tăng lên rất
nhiều. Nhưng sẽ là một sai lầm lớn nếu chúng ta nghĩ rằng mình có thể trở nên vĩ
đại mà không cần có sự đạo đức”
rồi như dằn từng tiếng ông khẳng
định “Và tôi khẳng định rằng không bao giờ có một con người thật sự vĩ đại mà đồng
thời lại không thật sự đạo đức.”
Đây là lời của sách Khôn ngoan:
“Nếu trên đời này, giàu sang là báu vật ai cũng khao khát, thì còn gì giàu sang
hơn đức khôn ngoan?” (Kn 8,5).
Chúng ta hãy xin Chúa giúp chúng
con biết đánh giá các hành động và giá trị của chúng ta theo chuẩn mực của Ngài.
9. Sống đời công chính
Thánh Augustinô nói: “Sống công
chính tốt lành không gì khác hơn là yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và
hết sức lực mình”… “Chúng ta dành cho Người một tình yêu trọn vẹn (nhờ tiết độ),
không gì lay chuyển nổi (nhờ can đảm), chỉ vâng phục một mình Người (nhờ công bình),
luôn tỉnh thức để khỏi sa vào cạm bẩy của mưu mô và gian dối (nhờ khôn ngoan)” Đó
là cách sống đẹp lòng Chúa nhất (T. Augustinô, Những thói quen của Hội Thánh Công
Giáo 1,25,46).
Một cô kia cuộc đời thật là bất
hạnh: bị mồ côi cha từ lúc 6, 7 tuổi, lúc lên 12 tuổi mẹ cô lại qua đời. Từ đó cô
thay mẹ chăm sóc cho mấy đứa em nhỏ của cô. Lúc 16 tuổi cô bị lâm bệnh nặng.
Một bà đến thăm và an ủi cô. Bà
này hỏi: Cháu có sợ chết không? Đừng sợ cháu à! Chết là được về với Chúa, đó là
điều hạnh phúc nhất đấy cháu ạ.
Cô bé trả lời: Thưa bà, cháu không
sợ chết. Nhưng cháu không biết là khi gặp Chúa, cháu sẽ phải nói làm sao vì cháu
chưa làm được gì cho Chúa cả. Cháu muốn phục vụ Chúa, nhưng từ khi mẹ cháu chết,
cháu phải lo nuôi mấy đứa em cháu, vì thế mà cháu chẳng còn thì giờ nào làm được
việc gì cho Chúa.
Người đến thăm cô bé, nắm lấy tay
cô, bàn tay gầy guộc và nói: Khi gặp Chúa, cháu không cần nói gì cả vì Chúa biết
rõ lòng của cháu rồi, cháu đã làm tất cả những gì cháu có thể làm rồi.
Vâng Chúa biết rõ lòng của chúng
ta. Làm tất cả những gì có thể làm, đó chính là điều mà chúng ta phải cố gắng.
10. Thánh Giuse, quan thầy giáo hội hoàn vũ, giáo hội
Việt Nam
Ngày lễ nầy ra đời vào thế kỷ 15,
và kể từ năm 1621 đã được mừng kính trong khắp cả Giáo Hội. Vào năm 1847, ĐGH Piô
IX đã tôn phong Thánh Giuse làm quan thầy của toàn thể Giáo Hội. Đức Giáo Hoàng
Gioan XXIII đã ghi tên Thánh Giuse vào lễ qui Rôma…
Đối với lịch sử Giáo Hội Việt nam,
Ngày lễ Thánh Giuse 19.3 còn là một cột mốc quan trọng trong cuộc hành trình truyền
giáo: vào chính ngày nầy, 19.3.1627, phái đoàn truyền giáo của Cha Đắc Lộ đã cập
bến Cửa Bạng ở Đàng Ngoài để đem Tin Mừng cho dân tộc Việt nam. Đó cũng là một lý
do để Hội Thánh Việt nam chọn Thánh Giuse làm quan thầy.
12. Đấng giữ gìn các kẻ đồng trinh
Giáo Hội coi Thánh Giuse là “Đấng
giữ gìn các kẻ đồng trinh.” Người đã giữ gìn Đức Mẹ Maria. Người cũng sẵn sàng giữ
gìn những người tận hiến đời mình cho Chúa.
Có một người làm công, ngày ngày
đi quét lá rừng rụng xuống, gom lại một nơi rồi hốt đi. Một hôm một đoàn người lên
rừng chơi, thấy người quét lá, họ rất đỗi ngạc nhiên, và họ càng ngẩn ngơ khi biết
rằng chính Hội đồng Thành phố đã thuê với số lương 7000 $ một tháng.
Sau một hồi vãn cảnh, đoàn người
trở về. Một số người tìm đến ông Chủ tịch Hội đồng thành phố đề nghị hủy bỏ phụ
khoản chi tiêu cho việc quét lá rừng vì quá vô ích. Ông Chủ tịch cũng như Hội đồng
chẳng hiểu căn do của phụ khoản kia, vì họ chỉ làm theo truyền thống, nên cuối cùng
quyết định không thuê người quét lá rừng nữa.
Ngay giữa thành phố có một cái hồ
rộng lớn, nước trong xanh, cây to in bóng mát, người qua lại dập dìu. Mọi người
ca tụng nó là viên ngọc trai điểm trang cho thành phố. Nhưng lạ thay, một tháng
sau ngày người quét lá rừng nghỉ việc, nước hồ trở nên đục ngầu bẩn thỉu, không
còn thấy bóng người hóng gió ngoạn cảnh, quán xá bên bờ hồ vắng tanh… Cả thành phố
trở nên buồn tẻ mà không hiểu tại đâu. Hội đồng Thành phố nhóm ngay phiên họp bất
thường để tra xét hiện tượng trên. Và sau cùng họ tìm ra nguyên nhân: do người phu
quét lá rừng nghỉ việc nên lá rừng rụng xuống, gió đùa lá bay tứ tung trên mặt đường,
rồi rơi xuống hồ nước trong xanh, gây nên tình trạng ô nhiễm…
Và ngay hôm đó họ tái dụng người
phu quét lá với số lương còn cao hơn xưa.
”Này ông Giuse là con cháu Đavít,
đừng ngại đón bà Maria vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa
Thánh Thần” (Mt 1,20)
13. Mối tình của Dolores và Donald
Theo tin Đài Chân Lý Á Châu loan
đi khắp thế giới ngày 07-03-2012: Mẹ Dolores là một trong số các ngôi sao Holywood,
tiến bước trên thảm đỏ trong buổi lễ trao giải thưởng Oscar vào ngày 26-02-2012.
Vì mẹ đã đóng cuốn phim tài liệu “Chính Chúa là một Elvis lớn lao hơn” (God is bigger
Elvis). Năm nay (2023) mẹ Dolores đã 87 tuổi, tu Dòng Kính Đan Viện Biển Đức Regina
Laudis ở Bethlehem thuộc tiểu bang Connecticut, nước Mỹ.
Vào năm 1957, minh tinh Dolores
ở tuổi 21, đã đóng nhiều phim nổi tiếng với vua nhạc rock Elvis Presley, đang ở
đỉnh cao danh vọng, vì Dolores là một ngôi sao tài sắc vẹn toàn, cô đã được mời
ký hợp đồng đóng phim lên tới triệu dollars. Thế mà Dolores bỏ lại những hợp đồng
bạc triệu, và từ bỏ hôn ước với một kiến trúc sư giàu có, trẻ tuổi, tên là Donald
John Robinson đã hết lòng yêu Dolores.
Ông Donald là một trong những người
thắc mắc nhất trong số những người ái mộ ngôi sao Dolores, đã theo dõi sự kiện mẹ
Dolores bỏ danh vọng đi tu. Trong độ tuổi thanh xuân phơi phới một cách dễ dàng
không vương vấn, không dấu hiệu báo trước! Ngay cả vị hôn phu của cô là ông Donald
cũng không thể lý giải tại sao đã năm năm Donald và Dolores hẹn hò với nhau. Ngay
sau khi họ vừa làm lễ Đính hôn, cô lại tỏ ý muốn đi tu!
Ông Donald đã không thể tin ở tai
của mình, vì thấy Dolores vẫn tiếp tục đi đóng phim bình thường. Ông không hề ngờ
rằng ơn kêu gọi dành cho Dolores đã bắt đầu từ trước khi cô quen biết ông ở tuổi
21, và sự nghiệp điện ảnh đang ở vào thời kỳ rực rỡ nhất! Một người bạn của Dolores
kể lại là nghe Dolores than thở rằng đóng phim căng thẳng quá, rồi chỉ sau vài tuần
lễ thì lại đường ai nấy đi. Cô phải chia tay với người bạn mới quen mà cô yêu quý.
Điều này để lại nhiều trống rỗng trong lòng cô gái trẻ đẹp, đơn sơ, dễ mến. Cô đi
đến nhà Dòng Biển Đức để tĩnh tâm và học hỏi lối sống và làm việc của các nữ tu,
là những người cô cho là rất ổn định và đáng khâm phục. Hai năm sau Dolores đủ điều
kiện nhập Dòng vào năm 1960, và đến năm 1970 thì được Khấn trọn đời, làm cho nhiều
kẻ xấu miệng loan báo cô đã có bầu với Elvis, bây giờ họ phải đấm ngực!
Ông Donald bị Dolores bỏ rơi, vẫn
vui lòng chấp nhận ở vậy không chịu lập gia đình với ai, vì cho rằng không ai có
thể thay thế được Dolores trong tim ông. Suốt thời gian Dolores tu trì, ông Donald
hằng năm hai lần vào dịp lễ Giáng Sinh và Phục Sinh đến nhà Dòng thăm Dolores. Vào
tháng 11 năm 2011, ông Donald qua đời, trước đó vài tháng ông đã để lại Di chúc
hiến tất cả tài sản của ông cho Đan Viện Biển Đức để nhà Dòng có thêm tài lực mà
phục vụ công ích.
Ai cũng phải khâm phục mối tình
của Dolores và Donald đã hơn nửa thế kỷ, cả hai đã hiến dâng tình yêu cao quý nhất
cho Chúa: một người thì trung thành với lời Khấn độc thân trọn đời trong bậc tu
trì; một người thì chung thủy với lời đính ước trong mối tình vợ chồng.
LỄ TRUYỀN TIN
Lời Chúa: Lc 1, 26-38
Khi ấy, thiên thần Gabriel được
Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính
hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria. Thiên
thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng
Bà, Bà được chúc phúc giữa các người phụ nữ.” Nghe lời đó, Bà bối rối và tự hỏi
lời chào đó có ý nghĩa gì.
Thiên thần liền thưa: “Maria đừng
sợ, vì đã được nghĩa với Chúa. Này Bà sẽ thụ thai, sinh một Con trai và đặt tên
là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ
ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp,
và triều đại Người sẽ vô tận.”
Nhưng Maria thưa với thiên thần:
“Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?”
Thiên thần thưa: “Chúa Thánh Thần
sẽ đến với Bà và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm Bà. Vì thế Ðấng Bà sinh ra, sẽ
là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ Bà cũng đã thụ
thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên
hạ họi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được.”
Maria liền thưa: “Này tôi là tôi
tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền.” Và thiên thần cáo biệt Bà.
TRUYỆN KỂ
1. Khiêm nhường đón nhận—TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ
Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương
đi dạo chơi ngoài bờ sông. Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu.
Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc
dép xuống sông. Thấy Trương Lương, ông sai bảo: "Thằng bé, nhặt chiếc dép cho
ta.” Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già.
Cụ cầm lấy, không một lời cám ơn.
Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh
rơi chiếc dép một lần nữa. Cụ lại quát bảo Trương Lương: "Thằng bé, xuống nhặt
dép cho ta.” Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ. Lần thứ ba cũng thế.
Thấy vậy, ông lão khen: "Thằng
bé này dạy được đây.” Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc. Và cụ nhận Trương Lương
làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông. Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh
tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.
Trương Lương gặp được thầy giỏi
một phần nhờ cơ may. Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông.
Ðọc truyện Trương Lương, tôi lại
nhớ đến Ðức Mẹ. Thời Ðức Mẹ, ai cũng mong chờ Ðấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Ðức Mẹ
được diễm phúc đón nhận. Chúa chọn Ðức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa,
nhưng cũng vì Ðức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
2. Ơn Chúa cần được cộng tác
Một thanh niên kia có thói quen
ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm
ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức.
Ngày đầu tiên anh quên vặn đồng
hồ trước khi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng
sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc.
Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô
dụng đối với con.
- Nó vô dụng là vì con không chịu
dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng
đều vô dụng nếu ta không xử dụng đến.
3. Khiêm nhường là sống theo sự thật
Khác hẳn với Eva thuở xưa trong
vườn địa đàng, tuy chỉ là con người mà cứ tưởng mình ngang tầm với Thiên Chúa. Đức
Mẹ là Eva mới dù được Thiên Chúa đặc biệt ưu ái tuyển chọn lên bậc "quân vương”làm
Mẹ sinh ra Đấng Cứu thế, nhưng Đức Mẹ vẫn chỉ xưng mình là một tôi tớ không hơn
không kém…
- Đức Mẹ nhìn nhận tất cả những
gì mình có được đều là do Thiên Chúa.
"Người đã đoái thương nhìn
tới phận nữ tỳ hèn mọn” (Lc 1,48)
"Đấng toàn năng đã làm cho
tôi biết bao điều cao cả” (Lc 1,49)
"Thiên Chúa đã hạ bệ những
ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhường - Thiên Chúa đã ban đầy dư cho những
kẻ nghèo, còn người giàu có thì Người đuổi về tay không” (Lc 1,48).
Phải có một lòng khiêm nhường thật
thẳm sâu thì mới có thể thấy hết được những sự thật đó. Thái độ của Đức Mẹ khác
hẳn với thái độ của Eva thuở xưa. Eva thuở xưa mới có được một chút quyền hành Thiên
Chúa ban cho trong công việc canh giữ và làm chủ vườn địa đàng đã tưởng mình là
quan trọng, thậm chí có lúc còn tưởng là Thiên Chúa như muốn ghen tương với mình.
Thật là kiêu ngạo.
4. Thị kiến của thánh Catarina Emmerrich
Một hôm, Chúa cho bà thánh Catarina
Emmerrich được xem thấy quang cảnh ngày lễ Truyền Tin.
Theo bà thuật lại: Ngày 23 tháng
3, tôi thấy Đức Mẹ quỳ ngay ở chỗ phòng tôi, đầu và mặt phủ một khăn trắng mỏng,
hai tay búp măng chắp trước ngực, đôi mắt đăm đăm nhìn về phía góc trời, rồi tôi
thấy một luồng ánh sáng đổ xuống bên tay hữu Đức Mẹ; và trong luồng sáng trong tốt
đó, tôi thấy Thiên thần Gabriel, y phục trắng toát, tóc hoe hoe và phất phới. Đoạn
một tiếng chào của Thiên thần làm tan làn không khí im lặng.
Nghe tiếng chào mình, Đức Mẹ có
vẻ sợ sệt, hơi nghiêng về phía tả, song con mắt vẫn đăm đăm nhìn về góc trời, chứ
không quay hẳn về phía tiếng chào, và cầm trí nghe lời thiên thần - mỗi lời thiên
thần nói như nhả ra từng dòng chữ lửa.
Sau khi đã hiểu ý câu truyện, Đức
Mẹ xoay mình lại, mở hé khăn trùm, khiêm tốn trả lời rằng: “Này tôi là nữ tỳ Thiên
Chúa, xin hãy làm trọn nơi tôi điều sứ thần truyền.”
5. Tờ giấy và cây viết
Nhắc đến ông Leonard de Vinci, chúng
ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa tuyệt diệu của
ông. Nhưng để giải trí, ông còn sưu tầm những truyện cổ tích, hay đặt ra những truyện
mới, như câu truyện sau đây về cuộc đối đáp tưởng tượng của tờ giấy trắng và cây
viết.
Có tờ giấy trắng nọ nằm ù lì trên
bàn viết với bao đồng bạn khác từ nhiều năm tháng qua. Nhưng rồi một hôm nó được
chọn đem ra trước bàn chịu cảnh cây viết với mực đen vẽ lên nó không biết bao nhiêu
là những dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Tờ giấy phàn nàn với cây viết như sau:
"Tại sao anh lại làm thế, anh vẽ trên mình tôi những dấu làm tôi mất đi sự
trắng sạch ban đầu, anh làm nhục tôi thế này sao? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.”
Nhưng cây viết trả lời: “Không,
anh giấy hiểu lầm tôi rồi, tôi không làm dơ anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu,
những dòng chữ và kể từ nay, anh không còn là tờ giấy vô dụng nữa, mà mang trên
mình một sứ điệp, anh trở thành kẻ cộng tác với con người lưu giữ những tư tưởng
cao siêu của con ngưởi, và vì thế sẽ được con người nâng niu bảo vệ; anh được sống
mãi để trợ giúp con người.”
Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết,
thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay con người quơ lấy những tờ giấy trắng đồng bạn
của nó mà nay đã trở thành vàng đục, già cỗi và đầy bụi bặm mà quăng vào ngọn lửa
bên cạnh. Bấy giờ tờ giấy trắng đầy chữ viết mới hiểu được hành động vừa rồi của
cây viết và lấy làm sung sương vì được trở thành kẻ cộng tác và lưu giữ kho tàng
trí khôn của con người.
Thật vậy, Đức Maria đã tự nguyện
trở thành tôi tớ của Thiên Chúa để cộng tác vào chương trình cứu chuộc nhân loại.
Ngài đã trở nên một dụng cụ tuyệt vời của Thiên Chúa, hoàn toàn đặt mình dưới quyền
sử dụng của Thiên Chúa như như một tờ giấy trắng trước cây viết.
6. Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được
Cha Giuse Lê Quang Uy kể: Có một
thiếu nữ người Pháp mà tôi đã lỡ quên mất tên sau khi đọc được câu truyện sau đây
trên báo Echo de Lourdes cách đây khoảng 25 năm. Cô ấy bị mắc phải căn bệnh nhũn
tủy làm cho bị liệt đôi chân. Cô đã hy vọng rất nhiều khi người ta đề nghị đưa cô
tới Lộ-đức để xin ơn Mẹ làm phép lạ. Khi ra về, ai cũng lắc đầu thất vọng vì thấy
cô gái không được lành bệnh. Thế nhưng, chính cô thì lại hân hoan tâm sự: “Tôi không
hề được Mẹ chữa lành căn bệnh thể xác, chắc là Chúa Giêsu muốn tôi được chia nỗi
đau đớn thân xác với Ngài, và tôi đã thưa Xin Vâng như Mẹ… Thế nhưng, Mẹ lại đã
chữa lành căn bệnh tuyệt vọng bi quan của tâm hồn tôi… Từ nay, tôi xin được làm
Tông Đồ của Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ… ”
Và quả thật, cô gái đã trở thành
một Tông Đồ nằm trên giường bệnh của những người cũng đang đau khổ bất hạnh như
cô đã từng đau khổ bất hạnh. Cô đã viết thư gửi đi để khích lệ niềm hy vọng của
những em bé mồ côi, của những người già cô đơn trong Viện Dưỡng Lão, của những thiếu
nữ lỡ lầm đang định phá thai, của những người khuyết tật khốn khổ…
Cho đến khi bị liệt cả hai tay,
cô đọc người ta viết. Khi không nói được nữa, người ta soạn các lá thư rồi đọc lên
cho cô nghe và gật đầu hoặc chớp mắt đồng ý. Và sau khi cô chết, người ta lấy những
lá thư đã sao chép và lưu trữ để in thành hàng vạn lá thư khác…
Mới đây, khi tôi được đến giúp Tĩnh
Tâm 3 ngày Mùa Chay cho Giáo Xứ Tử-đình ở Gò-vấp, tôi lại gặp được một bạn trẻ cũng
bị căn bệnh Nhũn Tủy giống như cô gái nói trên. Đó là bạn sinh viên năm thứ hai
Đại Học khoa Tin Học tên là Phạm Ngọc Quỳnh. Tôi đã mời cả gia đình Quỳnh cùng tôi
cầu nguyện ngay bên giường bệnh của bạn ấy…
Và tôi đã nhìn vào đôi mắt bừng
sáng đầy nghị lực quả cảm của bạn ấy. Và tôi đang cầu nguyện thật lòng xin Thánh
Ý Thiên Chúa tỏ bày, để một hôm nào đó tôi sẽ mạnh dạn ngỏ lời đề nghị với bạn Quỳnh
cũng chọn công việc Tông Đồ khiêm tốn mà hiệu quả tuyệt vời như cô gái người Pháp
đã làm.
Nếu được, xin các bạn trẻ, đặc biệt
là các bạn sinh viên hãy đến thăm bạn Quỳnh ở số nhà 2/16 đường Thống Nhất, tổ 75,
phường 15, quận Gò-vấp, hoặc điện thoại số 9.961.554. Tôi hy vọng, cả tôi lẫn các
bạn có thể sẽ là những “sứ giả”, những “thiên thần” được Thiên Chúa gửi đến cho
Quỳnh và cho biết bao nhiêu bạn trẻ khác, cho biết bao nhiêu con người khốn khổ
bất hạnh khác đang sống quanh chúng ta, ngay bên cạnh chúng ta…
Thế đấy, mỗi ngày, mỗi biến cố xảy
đến trong cuộc đời chúng ta đều như văng vẳng một lời “Truyền Tin” của Thiên Chúa
thông qua một “sứ giả”, một “thiên thần” nào đó ngay bên chúng ta. Có thể đó sẽ
là một lời mời gọi chúng ta hãy cộng tác với một chương trình mầu nhiệm hoặc một
kế hoạch kỳ diệu nào đó của Thiên Chúa như đã từng xảy đến cho Đức Ma-ri-a. Chúng
ta chỉ cần khiêm tốn thưa Xin Vâng với Thiên Chúa. Còn mọi sự sau đó, hãy cứ tin
rằng: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”
Được như vậy, thật sự chúng ta sẽ
là những người có phúc, xứng đáng được chào bằng lời chào ngày xưa thiên thần đã
kính chào đức Ma-ri-a: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.”
7. Câu Thánh Kinh đẹp nhất
Có một bà mẹ đã hỏi đứa con nhỏ
của mình như sau:
-Theo ý con, câu nào trong Kinh
thánh đã làm cho con thích thú hơncả?
Đứa bé mở cuốn Kinh thánh và tình
cờ lật phải ngay trang nói về hoạt cảnh Truyền tin. Với ánh mắt long lanh, đứa bé
đã nói với mẹ:
-Thưa má, hai tiếng xin vâng của
Đức Maria là hai tiếng đã làm cho con thích thú hơn cả.
Đúng thế, không gì đẹp bằng hai
chữ xin vâng trên cặp môi của Mẹ Maria cho chương trình cứu độ được thực hiện. Đồng
thời, cũng không gì đẹp bằng hai tiếng xin vâng trên cặp môi mỗi người chúng ta
cho thánh ý Thiên Chúa được chu toàn.
8. Người mẹ được chọn
Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi
các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:
Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất
trên thế giới nầy.
Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ
thật dồi dào.
Em cầu mong cho mẹ em giàu sang,
có thật nhiều tiền bạc.
Em chỉ ước mong cho mẹ em là một
bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân hậu.
Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền
chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh
ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch
sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác
với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự
do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”
Thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng
nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng phúc âm, cũng như qua những lời giáo
huấn của Hội Thánh.
9. Món quà tình yêu người mẹ
Có một người con gọi về cho mẹ:
– Alô, Mẹ đó ạ?
– Ừ, con đó hả?
– Dạ…
– Có chuyện gì không con?
– … Dạ, không Mẹ… hôm nay sinh nhật
con…
– Ờ nhỉ, Mẹ quên mất! Già rồi nên
chẳng nhớ nổi ngày sinh của mấy đứa con.
– Không sao đâu Mẹ ạ. Con… con chỉ
muốn nói với Mẹ rằng… hôm nay sinh nhật con, con muốn cám ơn Mẹ đã sinh ra con.
Món quà sinh nhật quý giá nhất Mẹ đã tặng cho con.
Hóa ra món quà quý nhất cho ngày
sinh nhật của chúng ta là tình yêu của mẹ.
10. Mẹ thưa xin vâng để trở nên người mẹ
Trên đường đời nhiều sóng gió hôm
nay, Mẹ Maria sẽ là điểm tựa vững chắc cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Trải
nghiệm của Mẹ sẽ thấu hiểu những khó khăn mà chúng ta đang đối diện. Niềm cậy trông
của Mẹ sẽ là gương mẫu cho chúng ta trên hành trình đức tin. Mẹ sẽ là điểm tựa cho
mọi NỖI ĐAU của con cái Mẹ nơi trần gian này.
Mẹ sẽ là nguồn an ủi cho những ai
đang đau đớn thân xác vì ốm đau bệnh tật, vì những nặng nề của thể xác dằn vặt.
Mẹ là sẽ nguồn bình an cho những
ai đang đau thương tinh thần vì thử thách chông gai, bị đối xử tệ bạc, hay bị đẩy
ra bên lề của xã hội.
Mẹ sẽ là nguồn cậy trông cho những
ai đang đau buồn vì sự chia ly trong tình yêu, vì những đổ vỡ hạnh phúc gia đình.
Mẹ sẽ là nguồn hy vọng cho những
ai đau khổ vì sự yếu đuối vấp ngã, khó khăn thất bại, hay mất mát trong đời.
Một lòng cậy trông nơi Mẹ sẽ giúp
chúng ta đáp lời xin vâng trước mọi biến cố trong cuộc đời, chiến thắng mọi sợ hãi
trong cuộc sống và can đảm làm chứng cho sự thật, cho tình thương nơi trần thế.
11. Đức tin bé nhỏ đặt vào Thiên Chúa lớn lao
Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân
hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa đó ít dặm, nghe
nói thế thì tìm đến, và hy vọng học được bí quyết để sống bình tâm, hạnh phúc. Bà
hỏi: “Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?” ”Ồ không, tôi không phải là người
có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn
lao.”
Câu hỏi của người phụ nữ giống như
lời của bà Êlisabéth ca tụng Đức Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ
thực hiện những gì Người đã nói với em” (Lc 1,45).
12. Được Thiên Chúa tuyển chọn
Trong một lớp giáo lý, cô giáo hỏi
các em học sinh: Em mơ ước điều gì cho mẹ của các em? Các em đua nhau trả lời:
• Em muốn cho mẹ em là người đẹp nhất trên thế giới nầy.
• Em mơ ước mẹ em có một sức khoẻ thật dồi dào.
• Em cầu mong cho mẹ em giàu sang, có thật nhiều tiền bạc.
• Em chỉ ước mong cho mẹ em là một bà mẹ hiền lành, đạo đức và nhân
hậu.
Chỉ là ước mơ vì không ai có quyền
chọn người mẹ sinh ra mình. Nhưng đối với Thiên Chúa thì khác hẳn. Ngài đã sinh
ra bởi một người nữ được tuyển chọn. Đây là trường hợp độc nhất vô nhị trong lịch
sử loài người. Đức Maria đã được Thiên Chúa chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế để cộng tác
với Ngài trong công trình cứu độ. Ngài chọn Maria vì Ngài muốn chọn, theo sự tự
do của Ngài (x. Rm 9,12.16), và cũng “vì bà đẹp lòng Thiên Chúa.”
Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng
Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc mà thôi. Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do
ân huệ nhưng không của Chúa, và cũng bởi Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.
Nhờ lòng khiêm nhường nên Đức Mẹ
đựơc quyền năng Thiên Chúa bao phủ.
Sứ thần nói với Đức Mẹ: “Quyền năng
của Đấng tối cao sẽ bao trùm lên bà, vì thế Đấng Thánh con của bà sinh ra sẽ được
gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1,35). Tiếng quan trọng ở trong câu đó là “bao trùm lên”
hay “bao phủ lên.” Lều tạm nơi dân Do Thái để hòm Giao Ước. Câu (Xh 40,34) nói rằng
bao lâu đám mây còn bao phủ lều tạm thì “lều tạm có Thiên Chúa hiện diện.”
13. Vâng Phục và Bình An
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII, khi
được tấn phong giám mục, lúc bấy giờ còn mang tên là Roncalli, ngài đã lấy khẩu
hiệu: “Vâng Phục và Bình An.”
Ngài kể lại sở dĩ ngài chọn khẩu
hiệu đó vì khi còn là học sinh, chiều nào ngài cũng thấy Hồng Y Daronius già cả
đi qua công trường thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, vị hồng y ấy đều lấy một ít tiền
tặng cho những người nghèo đang ở đó. Sau đó, ngài vào đền thờ thánh Phêrô, đến
ngay trước tượng thánh Phêrô và hôn chân ngài, rồi đọc lớn tiếng: “Vâng Phục và
Bình An.” Đọc xong, vị Hồng Y khả kính đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô,
tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về.
Hình ảnh cao đẹp và lời nói đanh
thép ấy đã in sâu vào lòng Đức Roncalli, nên ngài đã chọn câu ấy làm tâm niệm và
đã thực hiện trong suốt cuộc đời.
Khi chọn”Vâng Phục và Bình An”là
tâm niệm của cuộc đời một vị giám mục, một vị giáo hoàng, các ngài đã noi theo lời
tâm niệm”xin vâng”của Mẹ và hơn thế nữa, là con đường sống của Mẹ Maria. Lời”Xin
vâng”là một lời quyết định để Mẹ Maria được cất nhắc lên một địa vị cao sang: Mẹ
Thiên Chúa. Lời”xin vâng”đã làm thay đổi tất cả cuộc đời Mẹ và là yếu tố quyết định
của chương trình cứu độ.
14. Xin vâng
Ngày 08/7/1903, Đức Giáo Hoàng Lêô
XIII từ trần. Đức Hồng Y Sartô phải đi vay tiền mua vé xe lửa về Rôma họp mật nghị
bầu Giáo Hoàng. Kết quả cuộc bầu cử: Đức Hồng Y Sartô đắc cử Giáo Hoàng. Đức Hồng
Y niên trưởng đến trước mặt Hồng Y Sartô hỏi:
– Nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi
tiến cử ngài làm Giáo Hoàng, ngài có chấp nhận không?
Sau giây phút yên lặng với giòng
nước mắt tuôn trào, Đức Hồng Y Sartô nghẹn ngào trả lời:
– Ước gì con không phải uống chén
này, nhưng mong sao ý Chúa được nên trọn.
Thấy câu trả lời chưa rõ, Đức Hồng
Y niên trưởng hỏi lại lần nữa. Lúc bấy giờ ngài đã trả lời:
– Con xin nhận như một thánh giá
Chúa trao phó.
Qua lời”xin vâng”đầy nước mắt ấy,
Đức Giáo Hoàng Piô X chính thức nhận sứ vụ Thánh Phêrô và đã trở thành một vị thánh
Giáo Hoàng, đem đến cho Giáo Hội biết bao sự đổi mới, canh tân.
Mỗi ngày, khi đọc kinh Truyền Tin,
chúng ta lặp lại lời”xin vâng”của Mẹ Maria. Chính lời kinh ấy luôn nhắc nhở chúng
ta cũng hãy noi theo Mẹ Maria để luôn vâng theo ý Chúa trong mọi trạng huống cuộc
đời. Con đường”xin vâng”là con đường ngắn nhất giúp ta đạt tới sự trọn lành và nhờ
vậy, đạt được hạnh phúc Nước Trời mai sau.
14. Đức Mẹ bầu cử cho con cái
Một hôm có hai mẹ con được vào diện
kiến nhà Vua. Nhà Vua đã bảo người hầu đưa ra rất nhiều kẹo. Rồi nhà vua bảo đứa
bé ngửa bàn tay ra và nói: “Bây giờ trẫm chỉ cho con vừa đủ trong hai bàn tay thôi.”
Khi đó, đứa bé rất khôn ngoan đã nói rằng: “Thưa Đức Vua, vậy thì con sẽ nhờ mẹ
của con lấy dùm, vì bàn tay của mẹ to hơn.” Nhà vua đã khen đứa bé khôn ngoan và
đã thưởng cho nhiều kẹo và những phần thưởng có giá trị khác.
Trong cuộc sống đức tin của chúng
ta hôm nay cũng thế, nếu chúng ta biết tin tưởng, sùng kính Đức Mẹ cách đặc biệt,
thì Đức Mẹ sẽ che chở, cầu thay nguyện giúp cho chúng ta, và chúng ta sẽ nhận được
rất nhiều ơn lành từ Thiên Chúa. Chúng ta có rất nhiều hy vọng vì Đức Mẹ rất thương
yêu và sẵn sàng nâng đỡ chúng ta. Thánh Bênađô đã nói: “Xưa nay chưa từng nghe có
người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận
lời.” Với niềm hy vọng đó, những khi gặp khó khăn thử thách, đau khổ, chúng ta hãy
đến với mẹ và cùng với Đức Mẹ hát lên bài ca xin vâng: Mẹ ơi, đường đi trăm ngàn
nguy khó, hiểm nguy dâng tràn đây đó, xin Mẹ dạy con hai tiếng “Xin Vâng.”
15. Mẹ đã thắng con rồi
Giovanni Tomasi là một người vô
thần, cực đoan và quá khích với lòng sùng kính Đức Mẹ nơi mấy người đồng hương nước
Ý.
Khi biết mình bị ung thư nan y,
anh rơi vào khủng hoảng đến tuyệt vọng. Một người bạn thân rủ anh qua Lộ đức hành
hương xin ơn Đức Mẹ. Vì nể bạn nên anh cũng đi dù chẳng tin một chút nào.
Anh trở về chẳng hề thuyên giảm,
càng về sau lại càng đau đớn. Người bạn nói anh hãy thành tâm xin ơn Đức Mẹ. Anh
đành nhận lời nhưng lại đến Lộ đức với một ý đồ khác. Sau nhiều lần uống nước ở
chiếc giếng nơi hang đá Đức Mẹ mà chỉ thấy bệnh nặng ra, đau đớn hơn, Tomasi rơi
vào tình trạng phẫn uất bởi tuyệt vọng.
Ngày 14.11.1987, anh mua một khẩu
súng lục mới toanh, lắp đầy ổ đạn, đến trước hang Lộ đức, hét to lên một lời thách
thức để ai cũng phải nghe thấy: “Nếu bà muốn tôi tin vào Thiên Chúa của bà, bà hãy
làm phép lạ chữa lành căn bệnh ung thư của tôi. Bằng không, tôi sẽ dùng khẩu súng
này để tự sát ngay tại đây, để cho cả thế giới đều biết bà chẳng có quyền năng gì,
rằng đây chỉ là một trò bịp.”
Thinh lặng… căng thẳng, ai cũng
thấy sợ và có người cầu nguyện cho anh.
Anh đưa súng vào màng tang và bóp
cò. Đạn không nổ! Anh kinh ngạc tháo ổ đạn ra, thấy mọi sự bình thường. Sao lại
không nổ vậy?
Rồi anh lại lên đạn và đưa súng
lên bóp cò một lần nữa. Một tiếng cạch khô khốc, đạn vẫn không nổ. Lúc đó anh không
còn tự chủ được nữa, hai chân quỵ xuống, bàn tay buông rơi khẩu súng. Anh ngước
nhìn lên Mẹ, thổn thức hét lớn: “Mẹ ơi, Mẹ đã thắng con rồi!”
Tomasi mang căn bệnh trở về nhà
nhưng với một tâm hồn đầy sức sống mới. Rồi anh đi khắp nơi để diễn thuyết, viết
thư cho những người trong cảnh tuyệt vọng như mình để khích lệ, ủi an và mời gọi
họ tin tưởng vào tình yêu Thiên Chúa và Mẹ Maria.
16. IQ Nước Trời
Có một dạo các hãng sữa đua nhau
quảng cáo rằng sữa của họ sản xuất có thể làm tăng trí thông minh của con trẻ rồi
còn tổ chức ‘đo’ IQ miễn phí nữa. Thế là các bà mẹ hớn hở bồng con đến đo IQ và
tiếp theo đó là mua sữa! Bà mẹ nào lại không muốn con mình thông minh sáng dạ, học
hành giỏi giang. Con cái sau này thành đạt, mẹ cha cũng được nở mày nở mặt. Thế
mà Đức Maria không hề mong ước làm mẹ siêu nhân, lại càng không mơ làm mẹ Đấng Cứu
Thế như nhiều thiếu nữ Do thái thời ấy mong đợi.
Qua lời Mẹ thưa với sứ thần, có
thể biết điều Mẹ đang quan tâm tìm kiếm chính là “xin vâng” theo ý Chúa: Mẹ đón
nhận lời sứ thần truyền tin chỉ vì đó là điều Chúa muốn.
Mời Bạn: Thời đại ngày nay người
ta hay ‘dị ứng’ với việc vâng lời, bởi vì vâng lời bị coi là đồng nghĩa với trẻ
con, ấu trĩ. Thái độ của Đức Maria cho thấy phải có một nhân cách thực sự trưởng
thành mới có thể nói lên lời “xin vâng” với ý thức nhận định thánh ý Chúa, với tinh
thần trách nhiệm về sứ mạng sắp lãnh nhận và với tình yêu mến phó thác như vậy được.
Thế nhé, bạn cũng hãy học theo mẫu gương của Mẹ để nói lời “xin vâng” với Chúa như
vậy nhé!
17. Tin như Mẹ tin
Sau biến cố ngày 11 tháng 9 năm
2001 tại Mỹ, con gái của một vị giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn
trên truyền hình, và người dẫn chương trình đã hỏi cô ta: Tại sao Thiên Chúa là
Đấng đầy lòng yêu thương lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?
Cô ta trả lời: “Tôi nghĩ là Thiên
Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Nhưng từ bao
năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi gia đình, khỏi xã
hội và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là “ quân tử ” nên đã lẳng lặng rút lui.
Làm sao chúng ta có thể mong Chúa
ban ơn lành và che chở chúng ta, khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài hãy để mặc
chúng ta một mình. Về những biến cố mới xảy ra, như tấn công, khủng bố, bắn giết
trong trường học, chiến tranh… tôi nghĩ mọi sự đã bắt đầu với Madelein Murray O’Hare,
khi bà ấy phàn nàn và không muốn cho đọc kinh trong trường học nữa, và chúng ta
đã đồng ý. Rồi một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh
nơi trường học. Chính quyển Kinh Thánh mà trong đó dạy chúng ta: “Chớ giết người,
chớ trộm cắp… dạy chúng ta yêu người như chính bản thân v.v…” và chúng ta cũng đã
đồng ý.”
Như Đức Maria, Mẹ đã trọn cuộc đời
“xin vâng” để cho chương trình cứu độ được thực hiện. Hãy học nơi Đức Maria lòng
tin tưởng tuyệt đối để trong bất cứ hoàn cảnh nào, và nhất là lúc không còn biết
nương tựa vào ai, thì còn lại Chúa là điểm tựa duy nhất để niềm tin được sống và
cuộc đời của mỗi người được hòa nhập vào dòng chảy của ơn cứu độ, để chúng ta được
giải thoát và luôn sống hạnh phúc với Chúa Giêsu cho đến muôn đời.
18. Đức Mẹ trong đời tôi
Một em bé đánh giầy đang làm việc
ở nhà ga trung tâm Nữu Uớc. Trong khi dùng miếng vải đánh đi đánh lại đôi giầy của
một ông khách, chiếc mề đay bằng bạc đong đưa nơi cổ em. Ông khách tò mò hỏi: “Sonny,
cháu đeo miếng kim loại gì ở cổ thế?” Cậu bé đáp: “Đó là ảnh Mẹ Chúa Giêsu.” Ông
khách hỏi tiếp: “Tại sao lại là ảnh Bà ấy? Bà ấy không khác mẹ em sao?” Cậu bé trả
lời: “Có thể như vậy, nhưng có một khác biệt lớn thực sự giữa con trai bà ấy và
cháu.”
Lòng sùng kính của cậu bé đối với
Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, mời gọi tôi tự hỏi: Đức Maria giữ vai trò gì trong cuộc
đời tôi? Làm thế nào để Người đóng vai trò lớn hơn?
Kính chào Mẹ Maria, người phụ nữ
dịu dàng, sứ giả hòa bình. Xin dạy chúng con biết khôn ngoan và biết yêu thương.
(Carrol Landry).
19. Xin vâng
Lời đáp trả của Đức Maria đối với
thánh ý Thiên Chúa như sứ thần đã mặc khải được tóm tắt trong hai tiếng “Xin Vâng.”
Đây là lời đáp trả đẹp nhất mà con người có thể thể hiện trước thánh ý Thiên Chúa.
Đây là lời mà Đức Maria đã dậy Chúa Giêsu, con của mẹ thực hiện. Đây là lời đáp
trả Chúa Giêsu dậy chúng ta trong Kinh Lạy Cha. Đây cũng là lời đáp trả của chính
Chúa Giêsu trong cơn hấp hối ở vườn cây dầu: “Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo
ý Cha” (Lc 22,42)
Lời đáp trả của Chúa Giêsu và Đức
Maria đối với thánh ý Thiên Chúa mời gọi tôi đánh giá lời đáp trả của chính mình.
Tôi đã sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa như thế nào?
Điều chúng ta thường cầu nguyện
với Chúa không phải là thánh ý Ngài được thực hiện, mà là Ngài chấp nhận ý muốn
của chúng ta (Helga Bergold Gross).
20. Được Chúa ở cùng
Một thanh niên xem cụ già hàng xóm
80 tuổi đang trồng một cây đào nhỏ. Anh hỏi: “Ở tuổi cụ, trồng đào thì bao giờ mới
được ăn?”
Cụ chống xẻng, trả lời: “Ở tuổi
tôi trồng cây nào nghĩ đến ăn, nhưng cả đời tôi thưởng thức không biết bao nhiêu
trái đào do người khác trồng tỉa. Làm sao tôi có đào ăn nếu không có ai làm công
việc tôi đang làm đây, tôi chỉ trồng đào để trả ơn những người đã trồng đào cho
tôi ăn.”
Lúc đã thảnh thơi mọi bề, không
còn thù địch nữa, Đa-vít nghĩ đến xây một đền thờ cho Chúa, thì tiên tri Nathan
đến nói cho ông biết tình yêu bao la của Chúa: Chúa không màng chi đến việc được
Đa-vít phụng sự: “Ngươi mà xây nhà cho Ta ở sao?”
Vâng, từ lâu trước khi ông nghĩ
đến làm một điều gì cho Chúa thì Ngài đã chăm sóc ông như một người con: “Chính
Ta đã cất nhắc ngươi, từ một kẻ lùa chiên ngoài đồng cỏ, lên làm người lãnh đạo
dân Ta là Ít-ra-en. Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi” (2Sm 7,8-9).
Một sứ điệp Chúa sai Na-than gửi
cho Đa-vít để nói về tình yêu và những việc Chúa đã thực hiện cho ông và cho Ít-ra-en;
một sứ điệp khác Chúa sai sứ thần Gabriel gửi đến Đức Maria để bày tỏ tình yêu và
những điều Chúa sẽ thực hiện cho Mẹ và cho Dân Chúa.
Hai sứ điệp khác nhau, nhưng có
một điểm chung được nhấn mạnh: cội rễ và nền tảng của hạnh phúc con người là được
Chúa ở cùng. Với Đa-vít: “Ngươi đi đâu, Ta cũng đã ở với ngươi”, còn với Đức Maria:
“Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà!”
Sự hiện diện của Chúa là nền tảng
vững chắc cho mọi an vui: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có
Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4).
Lời Chúa Tuần 3 Mùa Chay
Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch