Lời Chúa tuần 1 mùa thường niên - gia vị cho bài giảng


LỜI CHÚA TUẦN 1 THƯỜNG NIÊN
GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

CHÚA NHẬT 1 THƯỜNG NIÊN - Năm A - Năm B - Năm C –

NGÀY THƯỜNG – Thứ Hai - Thứ Ba - Thứ Tư - Thứ Năm - Thứ Sáu - Thứ Bảy –

NGOẠI LỊCH – LỄ

CNTN 1A -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

CNTN 1B - CON YÊU DẤU CỦA CHA

Lời Chúa: Mc 1, 6b-11

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Gioan rao giảng rằng: "Có Ðấng đến sau tôi, nhưng quyền lực hơn tôi, tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Người. Phần tôi, tôi đã rửa anh em trong nước, nhưng Người, Người sẽ rửa anh em trong Thánh Thần."

Và đã xảy ra là trong những ngày đó, Chúa Giêsu từ Nadarét xứ Galilêa đến và chịu phép rửa bởi Gioan ở sông Giođan. Khi vừa lên khỏi nước, Người liền thấy trời mở ra, thấy Thánh Thần như chim bồ câu ngự xuống trên mình. Và có tiếng từ trời phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Con đẹp lòng Cha."

TRUYỆN KỂ

1. Khúc dạo đầu tình yêu

Cha Anthony de Mello có kể một câu chuyện sau đây:

Cả cộng đoàn đều thắc mắc khi thấy vị kinh sư của mình tuần nào cũng biến đâu mất vào hôm trước ngày Sabat. Họ nghĩ rằng ông bí mật đi gặp Đấng Tối Cao. Vì thế, họ cử một người theo dõi ông.

Và đây là điều người ấy chứng kiến. Vị kinh sư hóa trang bằng cách ăn mặc như một dân quê, đến phục vụ một bà già thuộc dân ngoại trong căn lều tồi tàn của bà. Ông quét dọn và nấu ăn cho bà trong ngày Sabat.

Khi thám tử trở về, cộng đoàn hỏi:

- Kinh sư đi đâu? Ngài lên trời phải không?

Người kia đáp:

- Không, ngài còn lên cao hơn cả trời nữa.

Có ai ngờ vị kinh sư lại âm thầm đến với người đàn bà ngoại đạo, nghèo hèn để chăm sóc bà trong ngày Sabat? Có ai tin được Đức Giêsu, Đấng thánh thiện cao cả, lại xin Gioan làm phép Rửa cho?

Khi chiêm ngắm Đức Giêsu xếp hàng chung với tội nhân, chúng ta hiểu được thế nào là tình yêu.

Chỉ có Tình yêu mới giúp chúng ta hiểu được mầu nhiệm nơi dòng sông Giođan.

2. Hòa đồng với những người khốn khổ

Mahatma Gandhi không phải là một kitô hữu, nhưng ngài là một trong những người đã sống giống Đức Kitô nhất trong thế kỷ của ngài.

Gandhi kiên quyết chống lại hệ thống phân biệt giai cấp ở Ấn độ. Ngài gọi đó là "một vết nhơ trong linh hồn nước Ấn độ." Ngài đặc biệt ghê tởm cách người ta đối xử với những người "không nên đụng tới", tức là những người không được xếp vào giai cấp nào cả trong xã hội: họ không được vào các đền thờ; nếu sống ở thành thị, họ bị buộc phải ở trong những khu ổ chuột; nếu sống ở thôn quê, họ bị cấm không cho sử dụng những giếng nước công cộng; về việc làm, họ chỉ được làm những việc thấp hèn với đồng lương rất thấp.

Vì là một nhân vật nổi tiếng khắp Ấn độ nên Gandhi đi đến đâu cũng được mọi người tiếp rước nồng hậu. Khi ngài vào một làng nào thì ông trưởng làng mời ngài đến trọ tại nhà ông ta với đầy đủ thức ăn thức uống và mọi tiện nghi dễ chịu. Nhưng Gandhi luôn từ chối một cách lịch sự. Ngài hỏi: "Những người 'không nên đụng tới' ở đâu vậy? Tôi muốn trọ tại nhà họ." Và quả thực ngài đã đến với những người ấy, ở với họ, ăn uống với họ, chơi đùa với con cái họ. Có lần ngài còn nói: "Tôi không thể được sinh ra lần nữa. Nhưng nếu có thể thì tôi muốn sinh ra giữa những người 'không được đụng tới', vì nhớ đó tôi mới có thể giải phóng họ và chính bản thân tôi khỏi cuộc sống khốn khổ." Tóm lại Gandhi đã quên thân phận mình để hòa đồng với những người khốn khổ hầu có thể giải phóng họ.

3. Bác sĩ Alexis Carrel.

Năm 1947, cô Marie Ferrand bị bệnh lao ruột, cả Hội đồng bác sĩ ở Paris khám bệnh đều chắc chắn cô sắp chết. Nhưng cô đã xin được đến tắm suối Lộ Đức. Bác sĩ Carrel đã đi theo để xem xét cô cẩn thận và khuyên không nên cho cô tắm suối vì sẽ chết khi chưa xuống tới suối. Tuy nhiên, để làm vui lòng bệnh nhân, người ta đưa cô xuống tắm nước suối. Thật lạ lùng, cô Marie đã khỏi.

Bác sĩ Carrel lấy bút ghi ngay vào tay áo: “2g40 thật bất ngờ, một phép lạ mới xảy ra." Nước suối với lòng tin mạnh mẽ của cô, cô được khỏi bệnh đã làm cho nhà khoa học vô thần Carrel trở lại, chịu phép Rửa tội Công giáo.

4. Thời điểm quyết định trong đời

Nhiều người đã thay đổi hẳn cuộc đời vì một thời điểm quyết định. Thời điểm đó giống như lúc ta đi đến một ngã tư và phải chọn một trong 4 hướng để tiến tới.

Đó là thời điểm mà tâm trí ta được soi sáng đặc biệt. Nếu ta đáp lại thì đời ta sẽ vươn lên, đồng thời kéo theo nhiều người khác cũng vươn lên. Nhưng nếu ta bỏ qua thì cơ may có thể không bao giờ trở lại.

Thời điểm ấy có thể đến một cách đột ngột. Như trường hợp của Matt Talbot, một người nghiện rượu, ngày nào cũng say bí tỉ. Một hôm anh đứng trước quán rượu chìa tay xin tiền những người qua lại mà anh nghĩ là bạn bè thân thuộc. Nhưng mọi người đều đi qua, chẳng ai cho anh một xu. Trong giây phút ấy, giống như những vảy cá trong mắt anh bỗng rơi xuống, anh chợt nhận thức rằng mình đang phá hỏng đời mình. Thế là anh quyết định bỏ rượu và cố gắng nhờ ơn Chúa để trở thành một vị thánh.

Thời điểm ấy cũng có thể đến từ từ. Như trường hợp của Mẹ Têrêxa. Mẹ đang làm việc trong một trường nội trú của những nữ sinh con nhà khá giả ở Calcutta. Nhưng lòng mẹ luôn ray rứt vì thường nhìn thấy những người nghèo nắm vất vưỡng trên những hè phố. Thế là một hôm, Mẹ quyết định đi phục vụ những người nghèo ấy. Từ đó trở đi, tên "Mẹ Têrêxa Calcutta" trở thành điển hình cho việc hiến thân phục vụ những kẻ bị bỏ rơi.

Bài Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại thời điểm quyết định của cuộc đời Đức Giêsu, đó là khi Ngài lãnh nhận phép Thanh tẩy. Trước đó Ngài sống một cuộc sống tương đối bình lặng của một người thợ mộc làng Nadarét. Nhưng khi nhận phép rửa, Ngài đã nghe một tiếng nói từ trời cao, gọi Ngài làm một việc khác quan trọng hơn. Từ đó trở đi Ngài giã từ nếp sống cũ, bắt đầu cuộc sống mới chuyên lo rao giảng Tin Mừng và cứu chữa mọi người.

5. Tôi mới có 2 tuổi.

Một ông cụ mãi đến năm 80 tuổi mới có điều kiện tin theo Chúa và được lãnh bí tích rửa tội để được tái sinh làm con Thiên Chúa.

Từ ngày theo đạo, ông cụ đã thay đổi hẳn trở thành một người mới, ông đã bỏ được sở thích uống rượu say xỉn và không còn chơi bài bạc. Ông đi dự lễ nhà thờ hằng ngày và có lối ứng xử khiêm tốn và bác ái với mọi người chung quanh. Hai năm sau cụ lâm trọng bệnh và bị thày thuốc khám bệnh cho biết cụ sắp chết.

Nhiều bạn bè đến thăm và có người thắc mắc hỏi cụ được bao nhiêu tuổi. Ông cụ trả lời: "Tôi mới được hai tuổi. Tám mươi năm trước tôi có sống cũng như chết. Chỉ từ ngày theo đạo tôi mới trở nên một người mới và đến nay mới được hai tuổi."

6. Thay đổi chính mình.

Linh mục Anthony de Mello kể lại tâm sự của một nhà hiền triết như sau:

Nhìn lại cuộc sống đã qua, nhà hiền triết thú nhận: Lúc thiếu thời tôi là một kẻ hiếu động. Trong sự hăng hái của tuổi trẻ tôi thường xin Chúa cho tôi sức mạnh biến đổi trái đất này trở nên tốt hơn.

Khi được nửa đời người, tôi ý thức là mình chưa làm được gì cả, chưa thay đổi được bất cứ người nào. Tôi lại đổi lời cầu nguyện cho thiết thực hơn: "Lạy Chúa, giờ đây con chỉ xin Chúa cho con khả năng thay đổi cuộc sống của những người con tiếp xúc hằng ngày thôi."

Nhưng rồi khi tuổi đời sắp hết, tôi thấy rằng mình quá cao vọng và ảo tưởng, tôi lại thay đổi lời cầu nguyện như sau: "Lạy Chúa, xin ban cho con ơn thay đổi chính bản thân con."

Nếu từ tuổi thanh xuân tôi đã cầu nguyện như thế, thì có lẽ tôi không phải hối tiếc vì đã sống một đời sống vô ích.

7. Vừa thì đứng

Một hôm Khổng Tử tới thăm miếu vua Hoàn Công nước Lỗ, thấy một chiếc lọ đứng nghiêng nghiêng, ngài hỏi, thì người giữ miếu cho biết:

- Cái lọ này là một bảo vật, thuở trước nhà vua hằng để bên ngai vàng hầu làm gương.

Ngài nói:

- Ta vốn nghe đồn nhà vua có một bảo vật, bỏ không thì nghiêng, đổ nước vào vừa phải thì đứng thẳng, mà đổ đầy thì lại ngã. Có lẽ là vật này chăng?

Rồi ngài bảo học trò múc nước thí nghiệm thì quả nhiên đúng như thế.

Bấy giờ ngài mới trịnh trọng giảng giải:

- Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu muội. Có công to trong thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung. Sức khỏe hơn người nên giữ bằng cách nhút nhát. Giầu có bốn biển nên giữ bằng cách bố thí và thái độ nhún nhường. Đó là lối san sẻ bớt đi để khỏi đầy tràn mà sụp đổ vậy."

8. Tên con là Phliliphê.

Một hôm, người ta đem đến trình vua Philiphê một thanh niên bị bắt quả tang ăn trộm. Vua nhìn thẳng vào mặt hắn và hỏi:

- Tên mày là gì?

Anh ta rụt rè thưa:

- Thưa tên con là Philiphê ạ.

Vua trợn mắt nói tiếp:

- Mày là Philiphê trùng với tên tao mà mày lại đi ăn trộm à? Mày làm ô danh tao. Vậy mày phải làm một trong hai việc: một là phải đổi tên đi, hai là phải thay đổi cách sống...

Chúng ta đã lãnh nhận bí tích rửa tội và đã được trở thành con Thiên Chúa. Được làm con Thiên Chúa là một tước hiệu vô cùng cao quí, một hồng ân lớn lao Chúa ban cho con người. Nhưng chúng ta đã sống thế nào với hồng ân cao qúi ấy? Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không?

Khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Chúa Cha đã phán: "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." Vậy Cha trên trời có hài lòng với chúng ta không? Chúng ta đã trở thành con Chúa và được mang danh hiệu là Kitô hữu, vì vậy, nỗ lực của cúng ta là phải luôn cố gắng sống xứng đáng với danh hiệu ấy để được Chúa hài lòng với chúng ta.

9. Giá trị của sự khiêm hạ giữa đời thường:

Một tài xế xe tải kia không dám cho xe tải chạy qua cầu, vì theo anh nghĩ chiếc xe tải có mui xe cao hơn thành cầu tới 10 phân. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan, không biết nên giải quyết thế nào, thì có người đề nghị: Hãy xì bớt hơi cho các bánh xe xẹp xuống. Anh tài xế liền làm theo lời khuyên này và cuối cùng chiếc xe của anh đã có thể an toàn đi qua cầu.

Xì hơi cho bánh xe xẹp bớt cũng giống như thái độ khiêm nhường. Trong giao tiếp với tha nhân, nếu “biết mình biết người, thì trăm trận trăm thắng!" Cũng nhờ biết ứng xử khiêm tốn nhún nhường với tha nhân mà chúng ta sẽ dễ dàng thành công trong mọi việc.

10. Tin là yêu mến

“Phàm ai tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, kẻ ấy đã được Thiên Chúa sinh ra. Và ai yêu mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra.

Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được mình yêu thương con cái Thiên Chúa: đó là chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thi hành các điều răn của Người.

Quả thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người. Mà các điều răn của Người có nặng nề gì đâu, vì mọi kẻ đã được Thiên Chúa sinh ra đều thắng được thế gian. Và điều làm cho chúng ta thắng được thế gian, đó là lòng tin của chúng ta." (1 Ga 5, 1-4)

Thánh Gioan nói rất rõ ràng chứ không mập mờ, không hai ý. Ngài nói rõ ràng: Tin là yêu mến! Đơn giản có thế thôi!

Thật ra mà nói, không đơn giản và không dễ chút nào cả.

Như người tu sĩ, linh mục cũng thế, thuở ban đầu quá tin nên quá yêu mến! Đơn giản quá sức nhưng dần dà, thời gian trôi theo năm tháng có còn tin, có còn yêu mến như ngày đầu như đã nói không mới là chuyện quan trọng.

Như hai vợ chồng, ban đầu cũng tin, cũng yêu mến nhưng thời gian dần trôi có còn tin, có còn yêu mến hay không mới là chuyện cần bàn.

11. Người phải được nâng lên

Công Chúa Louise con vua Louis thứ 14, nước Pháp đã lơ là với cuộc sống đạo và tôn kính Chúa, khi bị các nữ tỳ phục vụ trách móc, không cầm được sự kiên nhẫn, đã trả lời:

- Các người không biết rằng tôi là con gái của Đức Vua, vua của các người sao?

Đám nữ tỳ đáp lại:

- Nhưng chúng tôi không phải là con cái của Thiên Chúa, của Đức Vua và của Công Chúa sao?

Công Chúa hiểu ngay là mình đã không tôn kính Thiên Chúa cho xứng đáng và sau này Công Chúa đã thành một nữ tu Dòng Kín. Công Chúa hay nghĩ tới câu trả lời đanh thép đó.

Trong một bữa tiệc thịnh soạn của Hoàng Hậu Elizabeth nước Pháp với đầy đủ bộ mặt quan quyền văn võ, mọi người nâng ly rượu lên uống rất vui vẻ. Bỗng có tiếng gõ vào bàn làm mọi người im lặng. Tiếng Hoàng Tử vọng lên:

- Các người quên Chúa rồi sao, chẳng có ai làm dấu để tuyên tôn Danh Chúa cả?

12. Người con đích thực

Ông chủ giầu có kia, có được một người con trai ruột thịt. Cậu đi du học ở nơi xa với chúng bạn. Ông chủ thương cả bọn, nên tháng tháng ông cung cấp cho họ mọi sự khiến các người đều tôn nhận ông là cha.

Không may gặp cơn bạo bệnh, ông chết tốt, người con trai cùng các bạn hữu đều trở về đưa xác ông và thương khóc ông như thương khóc cha ruột vậy. Mấy người bạn muốn cướp gia tài của ông nên cứ nhận mình là con ruột.

Quan Tòa cũng không biết biết xử cách nào và ai là con thừa kế. Họ quyết định một phen thử sức, nếu ai cầm súng bắn đúng tim cha mình thì đó là con thừa kế. Các con hăng hái chấp thuận. Lần lượt các con thi nhau bắn vào tim cha. Đến người cuối cùng cầm súng nhắm vào tim cha rồi anh buông súng xuống. Ba bốn lần nhằm bắn để đoạt gia tài nhưng cuối cùng chàng khóc, ném súng đi và tuyên bố:Thà rằng tôi không được gia tài còn hơn tôi ác tâm bắn cha mình.

Quan tòa thẳng thắn công bố:Phiên tòa chấm dứt tại đây, vì đã tìm ra người thừa kế gia tài. Đó là chính người không chịu giết cha.

Nếu là người con đích thực của Chúa, chúng ta có bắn Chúa không? Nhưng nhiều khi muốn đoạt gia tài trần gian, chúng ta lại bắn Chúa. Nếu nói rõ ra thì chúng ta không bắn, nhưng trong u tối chúng ta lại sẵn sàng bắn.

Hãy chứng tỏ mình là chứng nhân của Chúa bằng việc làm, bằng việc sống đạo. Chúa phải được nâng lên còn tôi phải hy sinh cho Người.

13. Sống theo ơn thánh tẩy

Cha Petro Arrupê, là một nhân vật quan trọng thuộc Dòng Tên, ảnh hưởng lớn lao của ngài khắp nơi đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên thán phục.

Từ thời niên thiếu, giấc mơ của ngài là sẽ trở thành một bác sĩ, nhưng những năm theo học tại đại học, ngài đã có cơ hội được tiếp xúc với giới nghèo nàn cùng khổ, ngài động lòng thương họ và từ đó ngài đã chuyển hướng cuộc đời như ngài viết: "Cảnh khốn cùng đã vén tấm màn ngu dốt nơi mắt tôi. Từ đó, tôi xác tín rằng: Ngoài tôi ra, trong thế giới còn biết bao công việc phải làm."

Thế là, năm 20 tuổi ngài xin vào tập viện Dòng Tên (1927). Sau 18 năm, ngài làm Giám Đốc tập viện tại một tỉnh nhỏ gần thành phố Hirosina Nhật Bản. Quả bom nguyên tử ném xuống, ngài đã đưa tất cả mọi người bị nạn về tập viện, tập viện của ngài lúc đó đã trở thành một bệnh viện cấp cứu cho dân chúng.

Cũng như Cha Petro Arrupê, các Thánh và những linh hồn thành tâm theo sát gương Chúa Kitô, các ngài đã ý thức sứ mạng cộng tác với Chúa trong Sứ Mạng Cứu Thế, nên các ngài quảng đại xả thân phục vụ các linh hồn, sẵn sàng liều cả mạng sống vì phần rỗi các linh hồn, xứng đáng với ơn Nhiệm Tích Thánh Tẩy các ngài đã lãnh nhận.

Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy phải là ngày trọng đại nhất trong cuộc đời. Ngày Chúa trào đổ muôn hồng ân xuống trong tâm hồn, ban sức mạnh thiêng liêng cho chúng ta để rao giảng Mầu Nhiệm Nước Trời, mang Ơn Cứu Độ đến cho các linh hồn. Ngày đó phải được mừng long trọng như một kỷ niệm đáng ghi nhớ muôn đời.

Đức Thánh Cha Piô XI đã nếm hưởng những giây phút hạnh phúc của ngày thụ phong Linh Mục, ngài cũng đã trải qua những giờ phút rực rỡ của ngày tấn phong Giám Mục, đã hưởng cảnh uy nghi của ngày đăng quang Giáo Hoàng; nhưng ngài vẫn quí trọng và mừng kỷ niệm ngày ngài lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy hơn hết. Ngày mồng 1.6.1930, dịp lễ giáp năm lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy, ngài sung sướng nói với giới trẻ tại Rôma: "Ngày lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy là ngày cao quí nhất đời Cha; cũng thế, ngày chúng con lãnh Nhiệm Tích Thánh Tẩy cũng phải là ngày cao quí nhất đời chúng con."

14. Biết mình

Câu chuyện về người nước Áo có một truyền thống lạ lùng khi an táng các vị Hoàng Đế và Hoàng Hậu thuộc hoàng tộc Anturs. Các vị Vua Chúa của hoàng tộc này được an táng trong nhà thờ hầm do các cha dòng Capucine coi sóc, tại thủ đô Vienne.

Năm 1916 khi Hoàng Đế Francois Joseph của nước Áo qua đời, sau lễ cầu hồn tại nhà thờ chánh tòa Thánh Stêphanô ở Vienne, linh cửu của ông được chở đến hầm mộ nhà thờ trên một chiếc xe tang do tám con ngựa đen tuyền kéo. Đến nơi cửa hầm mộ vẫn còn đóng kín. Người đánh xe ngựa bước xuống và gõ cửa. Từ bên trong có tiếng của một cha dòng hỏi vọng ra: "Ai đó?" Người đánh xe ngựa trả lời:

- Đại Hoàng Đế Francois Joseph đang chờ ở ngoài đây, xin mở cửa mau!

- Tôi không biết người đó là ai. Tiếng nói bên trong đáp lại.

Một lát, người đánh xe lại gõ cửa và tiếng nói quen thuộc ở bên trong lại vọng ra hỏi: "Ai đó?" Người đánh xe trả lời:

- Đại Hoàng Đế nước Áo, Quốc Vương tông truyền của nước Hungari đang chờ ở ngoài. Xin mở cửa mau!

- Tôi không biết ông ta là ai.

Lần thứ III cũng màn gõ cửa và cũng câu hỏi đấy: "Ai đó?" Nhưng lần này người đánh xe dịu giọng lại, đáp:

- Đó là một người tội lỗi, một người anh em chúng ta là Francois Joseph.

Bấy giờ cửa hầm mộ mới được mở ra và linh cửu của Hoàng Đế nước Áo mới được đưa vào bên trong để an nghỉ bên cạnh các tiên vương.

15. Trèo cao thì ngã đau

Truyện thần thoại hy lạp có kể về hai cha con Idam, Ika và những cánh tay của họ. Idam là một kiến trúc sư kiêm điêu khắc. Ông đã xây (bát quái trận đồ để nhốt con quái vật đầu người mình thú. Về sau, chính vua Minos đã bắt giam hai cha con Idam và Ika vào đó.

Nhưng họ đã chế được những chiếc cánh làm bằng lông và sáp giúp họ bay ra khỏi bát quái trận đồ. Thích thú với cuộc du hành vũ trụ bất ngờ, Ika cứ muốn bay mãi lên cao, mặc cho người cha ngăn cản. Ika càng lúc càng bay đến mặt trời cho nến sáp bắt đầu chảy.

Cuối cùng, khi sáp không còn nữa, đôi cánh mềm lại, những chiếc lông rời ra, Ika rớt xuống biển sâu và thiệt mạng.

16. Tại sao Đấng thánh lại chịu phép rửa?

Thánh giám mục Maximô thành Turinô (?-khoảng 420) đã giảng trong Lễ Hiển Linh như sau: “Hôm nay, Chúa Giêsu đã đến nhận phép rửa. Người đã muốn rửa mình trong dòng nước Giođan. Có lẽ có người sẽ nói: ‘Người là Đấng Thánh, tại sao Người lại muốn được ban phép rửa?’ Vậy xin nghe đây. Đức Kitô được ban phép rửa không phải để được nước thánh hóa, nhưng để chính Người thánh hóa nước và thanh tẩy bằng hành động cá nhân các dòng nứơc Người chạm tới. Vậy ở đây là việc thánh hiến nước hơn là thánh hiến Đức Kitô. Bởi vì, kể từ khi Đấng Cứu Thế được rửa, tất cả các dòng nước trở thành trong sạch nhằm phép rửa của chúng ta; nguồn được thanh tẩy là để cho ân sủng được ban cho các dân tộc sẽ đến sau đó. Vậy Đức Kitô là người đầu tiên bước đến phép rửa để cho các dân Kitô hữu không ngần ngại bước đi theo Người.

Và ở đây tôi hé thấy một mầu nhiệm. Cột lửa lại đã không đi trước qua Biển Đỏ để khuyến khích con cái Israel bước theo sau đó sao? Cột lửa ấy đã đi qua nước trước tiên để vạch ra con đường cho những người theo sau. Theo chứng từ của thánh tông đồ Phaolô, biến cố này đã là một biểu tượng của phép rửa tội (1 Cr 10,1t). Hầu chắc đây là một thứ phép rửa trong đó người ta được bao phủ bởi các đám mây và được nâng đỡ bởi các làn nước. Và tất cả những điều đó đã được hoàn tất bởi cũng một Đức Kitô, Chúa chúng ta, Đấng bây giờ đi trước các dân tộc Kitô hữu trong cái cột là thân thể Người, như Người đã đi trước con cái Isreal qua biển trong cột lửa. Cũng cái cột ấy, xưa kia đã ban ánh áng cho mắt những người bước đi, nay ban ánh sáng cho con tim các tín hữu. Khi xưa, cột ấy đã vạch ra trong các sóng nước một con đường vững chắc, bây giờ cột ấy đang củng cố các bước chân đức tin trong cuộc thanh tẩy này."

17. Thấy thần linh trong những đều nhỏ mọn

Tại một xứ cùng quê nước Pháp, có một người đàn ông khoảng 50 tuổi tên là Alix. Ông bị bại liệt. Mỗi buổi sáng bà vợ đặt ông vào một ghế bành ngoài hiên nhà rồi đi làm. Ông bà không con, không cháu.

Ông Alix không phải là người công giáo, nhưng thỉnh thoảng cha sở vẫn tới thăm, cha còn khuyên giáo dân tới giúp đỡ ông. Các em nhỏ tới chơi quanh ông, đem sách cho ông đọc và giúp ông mở sách. Mỗi tuần có một bác sĩ tình nguyện tới chăm sóc ông.

Giáng sinh năm đó, ông Alix đột ngột thưa cha sở:

- Thưa cha, xin cha cho con rước lễ.

Cha sở ngạc nhiên vì ông chưa là tín hữu. Nhưng ông thưa:

- Trước đây con không tin gì vào Thiên Chúa, nhưng ít lâu nay cha và anh em giáo hữu quá tốt với con nên con thấy hạnh phúc như mình được gặp Chúa vậy. Chỉ có Chúa mới làm cho cha, bác sĩ và anh chị em bỏ công sức giúp đỡ một người xa lạ như thế này.

Có lẽ chúng ta cũng nhận ra cha sở và các anh chị em giáo hữu Pháp đó, không phải đã làm một việc truyền giáo vĩ đại, nhưng họ chỉ thi hành những bổn phận mà Chúa đòi buộc mọi môn đệ Chúa, khi đã tự nguyện sống theo giáo lý của Ngài. Ngược lại nếu không thi hành những nghĩa vụ nhỏ bé đó thì họ không thể là môn đệ Chúa được.

18. Người con yêu quý

Vào thế kỷ thứ IV, Ario truyền bá một lạc thuyết vô cùng nguy hại. Ario chủ trương rằng Đức Kitô không thực sự là Con Thiên Chúa. Hoàng đế Theôđôsiô đỡ đầu cho lạc thuyết này.

Cũng vào lúc ấy hoàng đế phong cho hoàng tử mới 16 tuổi của ông được cùng trị vì trên ngai vàng với ông. Trong những khách được mời đến dự buổi lễ phong vương, có Đức Giám mục Amphilôcô. Đức Giám mục chỉ nói vài lời chúc mừng rồi chuẩn bị ra về.

Hoàng đế giận dữ hỏi: Ngài không quan tâm đến hoàng tử sao? Ngài không biết rằng ta phong cho hoàng tử cùng trị vì với ta hay sao? Vị Giám mục bình tĩnh trả lời: Tâu hoàng thượng, hoàng thượng phật ý trước sự giả bộ thờ ơ của tôi đối với hoàng tử, vì tôi đã tỏ ra không tôn kính hoàng tử như bệ hạ mong muốn. Vậy Thiên Chúa sẽ nghĩ sao về hoàng thượng, khi hoàng thượng giáng cấp Người Con ngang hàng và cùng hiện hữu với Ngài dưới danh hiệu Con Thiên Chúa.

Từ câu chuyện trên chúng ta thấy: Ngày nay có nhiều người, kể cả một số người mệnh danh là Kitô hữu, đã chối bỏ hoặc nghi ngờ thiên tính của Đức Kitô. Thiết tưởng những người ấy hãy lắng nghe lời Chúa Cha tuyên phong trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Con là Con yêu quý của Cha, Cha hài lòng về Con.

19. Giá trị của phép rửa

Có hai anh bạn đi mua đồ phế thải. Sau khi xem xét một hồi, anh thứ nhất nói:

- Toàn là đồ “năm vố” không à.

Còn anh kia thì nhặt lên một cây thánh giá cũ kỹ đã han dỉ và nói:

- Thật là khó mà tin được, tôi đã tìm thấy một món đồ quý. Cây thánh giá này được làm bằng chất bạc ngày xưa.

Anh ta mang cây thánh giá về nhà, lau chùi, rồi đưa cho đứa con mới đi học giáo lý về. Nó kính cẩn cầm trong tay, ngắm nghía một hồi rồi bật khóc. Thấy vậy anh liền hỏi:

- Tại sao con khóc.

Nó trả lời:

- Con không thể cầm lòng được khi nhìn vào Chúa Giêsu bị treo trên thập giá.

Và như thế, cả ba người đều nhìn vào cây thập giá, thế mà người thứ nhất chỉ thấy đó là đồ ve chai mủ bể, người thứ hai thì thấy đó là một đồ vật có giá trị. Còn người thứ ba thì nhận ra Chúa Giêsu trên đó. Cách nhìn cây thập giá trên cũng tương tự như cách chúng ta nhìn Phúc âm.

20. Không bỏ cuộc Marathon:

Tháng 7 năm 1996, những cuộc tranh tài thể thao Olympic được tổ chức tại Atlanta, tiểu bang Georgia, Hoa Kỳ. Khi nghe tiếng súng khởi sự, 25 vận động viên chạy đua marathon bắt đầu khởi động cho cuộc chạy thi 10 ngàn mét. Mười ngàn mét là 10 cây số, tức 6 dặm. Trước khi nói về vận động viên Stefano Baldini, tôi xin nói về một chi tiết đáng lưu ý của cuộc thi này như sau. Trong số 25 vận động viên chạy thi lần này, có 7 người chưa bao giờ hoàn tất được cuộc thi, nghĩa là chưa bao giờ chạy về đến đích cho dù mất bao nhiêu thời gian. Họ bỏ cuộc vì chuột rút bắp vế, vì đau chân, kiệt sức… nên họ có tên là DNF – Did Not Finish – Đã Không Hoàn Tất.

Stefano Baldini trong cuộc thi này đã cố chạy về tới đích điểm, cho dù hết người này tới người khác vượt qua mặt anh. Họ vượt qua mặt anh không những một vòng chạy mà tới những hai vòng chạy! Một người Ethiopy đã về tới đích trước, đoạt hạng nhất. Rồi người khác về nhì, người về ba. Dần dần tất cả thứ hạng nhất nhì ba đã được công bố, họ đang nghỉ mệt, chúc mừng và sẵn sàng leo lên bệ đài lãnh huy chương. Nhưng anh Stefano Baldini vẫn còn đang chạy. Anh không bỏ cuộc, cứ tiếp tục chạy.

Khi anh về đến đích, xướng ngôn viên của ban tổ chức loan báo cho tất cả hội trường biết rằng anh chỉ về sau người hạng nhất có 2 phút, và tốc độ chạy ở dặm cuối cùng nhanh hơn thời gian anh chạy ở dặm thứ nhất. Khi anh về tới đích thì toàn thể hội trường đều đứng lên vỗ tay chúc mừng và hoan hô anh. Anh đã không chỉ hoàn tất cuộc chạy đua cách can trường mà còn kết thúc nó một cách xứng đáng.

21. Người thắp đèn

John Ruskin, một văn sĩ người Anh sống vào thế kỷ thứ 18, đã kể lại câu chuyện sau đây. Khi về già, ông thường đến thăm nhà của một người bạn rất thân, và đứng ở cửa sổ phía trước nhà nhìn xuống mặt đường. Vào mỗi buổi chiều tối, người thắp đèn đường phải đi đốt đèn dọc theo hai bên đường. Từ cửa sổ của một ngôi nhà, một người chỉ có thể nhìn thấy những ánh đèn đã được đốt lên rồi, và ngọn lửa mà người thắp đèn đang mang đi đốt từ cột đèn này tới cột đèn khác. Chính người thắp đèn cũng không thể được ai nhìn thấy.

Nhà văn Ruskin đã lưu ý rằng người thắp đèn là một hình ảnh rất đúng của người Kitô hữu chân chính. Con đường của người Kitô hữu bước đi rực sáng ánh đèn mà chính người đó đã thắp lên với ngọn lửa đang cháy sáng trong tay để đốt lên các ngọn đèn khác, mặc dù chính người đó có thể không được ai biết đến hay được ai trông thấy.

22. Sáng danh Chúa hay danh mình?

Một Kitô hữu đến thăm một vị thiền sư và nói: “Xin thầy cho phép tôi đọc thầy nghe Bài Giảng Trên Núi." Thiền sư đáp: “Tôi rất thích nghe." Người Kitô hữu đọc một câu rồi ngước mắt lên nhìn. Thiền sư mỉm cười nói: “Đấng đã phán những lời đó chắc chắn phải là một vị Giác Ngộ." Kitô hữu cảm thấy khoái trá. Ông tiếp tục đọc. Thiền sư ngưng lại rồi nói: “Những lời đó phải phát xuất từ Đấng Cứu Thế của nhân loại." Người Kitô hữu cảm thấy thích thú. Ông tiếp tục đọc cho đến hết. Lúc bấy giờ thiền sư tuyên bố: “Người đã rao giảng như thế phải là Thiên Chúa."

Nỗi vui mừng của người Kitô hữu thật vô bờ bến. Ông ra về, cương quyết sẽ trở lại một ngày khác để thuyết phục thiền sư trở thành Kitô hữu.

Trên đường về nhà, ông gặp Chúa Giêsu đứng bên vệ đường. Ông đã thưa với Chúa một cách khoái trá: “Lạy Chúa, con đã làm cho người đó xưng ra Chúa là Thiên Chúa!” Chúa Giêsu mỉm cười và nói: “Con đã làm gì hay đâu, ngoại trừ việc con thổi phồng cái tôi Kitô hữu của con mà thôi?”

23. Con Thiên Chúa

Ngày kia, có một ông vua đi săn trong rừng, bỗng dưng ông nghe thấy tiếng khóc của trẻ thơ. Ông đi tới và thầm nghĩ:

- Chắc hẳn em nhỏ bất hạnh này bị cha mẹ bỏ rơi.

Ông ẵm đứa nhỏ lên, đem về hoàng cung, tắm rửa và mặc cho những bộ quần áo đẹp.

Khi em bé lớn lên, ông đã nói với em:

- Kể từ nay, ta sẽ gọi ngươi là con của ta và ngươi sẽ gọi ta là ba của con.

Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về lòng thương xót của ông vua, nhưng nếu suy nghĩ về bí tích Rửa tội, chúng ta còn phải ngạc nhiên hơn nữa.

24. Ơn gọi đặc biệt

Có một cậu bé hoàng tử chẳng may bị bọn cướp bắt cóc. Sau khi đã lấy hết những thứ quí giá trên mình, chúng trói câu vào một gốc cây. Nhưng may thay có một bác tiều phi đi ngang qua, đã cởi trói và đem cậu về nhà nuôi.

Nhiều năm sau, nhân một cuộc đi săn, vua cha đã dừng chân trước căn nhà nhỏ bé của bác tiều phu. Bác tiều vui rất lấy làm vinh dự được dẫn những đứa con của mình ra trình diện nhà vua. Khi đến cậu hoàng tử, bỗng nhà vua xúc động mạnh. Ông thầm nghỉ:

- Phải chăng đây chính là hoàng tử, con ta đã bị bắt cóc.

Ông hỏi bác tiều phu về gốc gác cậu bé và nói:

- Nếu ở bên vai phải có dấu ấn ta đã ghi, thì đúng là hoàng tử.

Với bàn tay run run, ông vạch chiếc áo và mừng rỡ kêu lên:

- Trời ơi, con ta.

Và cậu bé cũng kêu lên:

- Ba ơi.

Làm sao chúng ta có thể hiểu được sự đổi thay trong lòng cậu bé.

Từ trước đến giờ, cậu cứ tưởng mình là con bác tiều phu nghèo nàn với quần áo rách rưới và nhà cửa xiêu vẹo. Bỗng chốc cậu nhận ra mình là hoàng tử, được sinh ra tại hoàng cung và thuộc hoàng tộc.

Kể từ nay, dù ở bất cứ nơi nào và làm bất cứ việc gì, cậu đều ý thức mình là một hoàng tử, là con của đức vua, nhờ đó cậu luôn có được những lời nói và những cử chỉ xứng hợp.

Với chúng ta cũng vậy. Nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thế nhưng chúng ta có ý thức được địa vị cao cả ấy không?

25. Xuống thế làm người

Ngày kia, một vị quan lớn mở tiệc và mời nhiều người đến dự tiệc. Tất cả những người được mời đến dự tiệc điều ăn mặc sang trọng và dùng những phương tiện tốt nhất để đi đến buổi tiệc hôm ấy. Trong số những khách mời hôm ấy, có một người cụ già. Rủi thay, vì già yếu nên cụ này khi xuống xe đã trượt chân té xuống bùn gần đó. Khách đến dự tiệc được một phen cười no bụng. Cụ già cảm thấy xấu hổ và cảm thấy mình không xứng đáng vào phòng tiệc, nên ông quyết định quay về. Gia nhân nài nỉ cách mấy ông cũng không chịu ở lại dự tiệc.

Khi ấy, vị quan chủ tiệc bước ra sân, đi đến chỗ vũng bùn đó, rồi cố tình té ngã vào vũng nước. Thế là áo quần của ông cũng dơ như cụ già kia. Thấy sự việc như vậy, mọi người chung quanh không dám cười nhạo nữa. Sau đó, vị quan cầm tay ông cụ đưa vào phòng tiệc và ông cụ không còn lý do nào để chối từ.

Hành vi cố tình té vào vũng bùn của ông quan chủ tiệc xem ra rất khó hiểu. Nhưng nhờ hành động cố tình té ngã đó, ông quan mới có thể đưa ông cụ già vào phòng tiệc. Phải chăng đó cũng là cách ứng xử mà Chúa Giêsu đã từng thực hiện đối với mỗi người chúng ta.

26. Có ngàn cách hãm mình

Thánh Giêrađô, là người Ý, tu sĩ của Dòng Chúa Cứu thế (1726-1755). Thánh nhân được coi là một tấm gương thánh thiện, vâng lời tuyệt hảo.

Một hôm cha bề trên có việc sai thầy Giêrađô sang thành lân cận. Vì đường xa, nên cha bề trên bảo thầy: “nhớ dắt lừa theo mà đi”, có ý cho thầy đở mệt nhọc, lại vừa đi mau về mau nữa. Thầy đã ra đi, nhưng mấy hôm sau mới về tới nhà.

Cha bề trên liền hỏi: “Bộ thầy không đi bằng lừa sao?” Giêrađô trả lời: “Dạ có.” “Thế sao thầy về trể vậy?” “Dạ vì cha bề trên bảo con dắt lừa theo, nên con dắt mà không có cỡi, nên đi hơi lâu.”

Cha bề trên cười xòa, nhưng cũng hiểu ra thầy muốn làm một việc hãm mình, để dâng cho Chúa.

27. Tình bạn

Nói đến tình bạn tri kỷ thắm thiết, người Việt Nam chúng ta không bao giờ quên được đôi bạn tri kỷ Lưu Bình, Dương Lễ. Họ đã yêu thương nhau thật sự, không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng những việc làm trong suốt cả cuộc đời.

Trong những ngày đầu mới gặp nhau; Lưu Bình là một công tử nhà giàu, phong lưu, tốt bụng. Nhưng vì của cải, tài sản quá nhiều, anh ta chỉ biết lo hưởng thụ mà không nghĩ đến tương lai. Còn Dương Lễ là một sĩ tử nghèo lại hiếu học. Đôi bạn tri kỷ gặp nhau, mặc dù tài sản bên ngoài chênh lệch, nhưng họ có được điểm chung đó là lòng nhân. Lưu Bình lo cho Dương Lễ thành tài, còn chính mình thì không biết lo cho bản thân. Dương Lễ rất đau xót nhưng đành chịu.

Thời cơ đã đến. Lưu Bình sa cơ thất thế, tài sản khánh kiệt, chạy tìm đến người bạn nghèo năm xưa mà mình đã giúp đỡ. Nhưng anh ta đã thất vọng và bị đuổi ra khỏi nhà. Cô đơn, chán nãn vì thế thái nhân tình. Anh gặp được một người con gái xa lạ giúp đỡ. Anh quyết lập nên công danh để trả thù người bạn bạt ơn đã đuổi anh ra khỏi nhà.

Có chí thì nên. Lưu Bình đã công thành danh toại. Anh trở về tạ ơn người đã giúp đỡ mình, nhưng tìm hoài chẳng thấy. Anh đến nhà người bạn để đòi lại sự công bằng. Nhưng anh không thể nào đòi được, vì anh nhận thấy tình thương quá lớn lao, so với khổ nhục kế mà người bạn đã xử dụng để biểu lộ tình thương đối với anh. Vì yêu thương mà người bạn đã hy sinh người vợ yêu quí của mình, cho đến để giúp đở, cứu vớt, bằng cách: cùng chịu gian khổ, chia sẻ những vất vả, và đem anh về con đường ngay chính. Tình yêu đã làm cho người bạn sáng mắt, và tình yêu đã làm cho tình yêu của họ càng thêm vững bền.

“Không có tình yêu nào cao quí hơn tình yêu của người dám chết vì người mình yêu."

28. Nước Chúa trị đến

Jacques Loew, trước kia là một người vô thần, sau đó đã quay về với Chúa và trở nên một linh mục thuộc dòng Đa minh. Ngài có một đam mê về Đức Kitô, ngài sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để đem Tin Mừng đến cho những anh em nghèo túng và bất hạnh. Ngày kia, ngài đi dạo tại thành phố Marseille, vừa đi vừa suy nghĩ, phải làm thế nào để thực hiện cái ước vọng tông đồ của mình?

Như được Chúa soi sáng và kêu mời, ngài bỗng dưng đi tới quyết định: Để chống lại sự đau khổ và nghèo túng, thì chỉ có một phương thế, đó là hãy sống đau khổ và nghèo túng.

Đây không còn là những giây phút để ngồi nghiên cứu sách vở, thế là đi xuống chợ ngài mua một cái mũ và một bộ quần áo lao động như mọi người, rồi sau đó đi làm việc cực nhọc và sống với những người nghèo túng.

Và cứ thế tiếp diễn hơn 20 năm cuộc đời của ngài, để rồi cuối cùng ngài đã tìm thấy ngôn ngữ và phương cách truyền bá Tin Mừng cho người nghèo, để họ cũng nhận ra rằng: Nước Thiên Chúa đã trị đến.

Nỗi đam mê của các vị tông đồ nhiệt thành là như thế. Còn chúng ta thì thế nào? Chẳng lẽ chúng ta đành bó tay hay sao?

29. Sự giàu có bên trong

Có vị sư nọ gặp ở giữa đường một viên ngọc quí. Vì nghĩ rằng mình là người tu hành không cần chi thứ đó, nên ông đem giấu viên ngọc này ở một gốc cây.

Ngày nọ có người hành khất đến ăn xin. Ông không có gì cho anh. Bỗng nhớ lại viên ngọc, nhà sư chỉ cho anh chỗ giấu. Người ăn xin đến gốc cây và tìm thấy viên ngọc. Cầm ngọc quí trong tay, người ăn xin rất đỗi vui mừng, nhưng anh ta suy nghĩ: Tại sao vị sư lại chấp nhận sống nghèo khó trong khi có một viên ngọc quí giá thế này? Sau một thời gian suy nghĩ, anh cầm ngọc quí trả lại cho nhà sư và nói:

“Bạch thày, con thấy trong lòng thày có một sự giàu có to lớn, đến nỗi thày không thiết đến viên ngọc này. Vậy con chỉ xin thày cho con sự giàu có trong lòng thày mà thôi."

Câu chuyện tới đây là kết thúc, nên chúng ta không biết nhà sư có chỉ cho người ăn xin “sự giàu có bên trong” của ông không, nhưng Tin Mừng hôm nay đã trả lời cho chúng ta câu hỏi ấy.

Giữa dòng người chen lấn nhau xuống sông Giorđan để xin Gioan làm phép rửa cho, tại sao chẳng một ai nhận ra Đức Giêsu, duy chỉ mình Gioan nói: “Chính tôi mới cần Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Phải chăng Gioan đã nhận ra “sự giàu có bên trong” của một con người rất đỗi bình thường ấy?

CNTN 1C -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ HAI -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.

THỨ BA - CÔNG VIỆC CỦA CHÚA GIÊSU

Lời Chúa: Mc 1, 21-28

 (Ðến thành Capharnaum), ngày nghỉ lễ, Chúa Giêsu vào giảng dạy trong hội đường. Người ta kinh ngạc về giáo lý của Người, vì Người giảng dạy người ta như Ðấng có uy quyền, chứ không như các luật sĩ.

Ðang lúc đó, trong hội đường có một người bị thần ô uế ám, nên thét lên rằng: "Hỡi Giêsu Nadarét, có chuyện gì giữa chúng tôi và ông? Ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao? Tôi biết ông là ai: là Ðấng Thánh của Thiên Chúa." Chúa Giêsu quát bảo nó rằng: "Hãy im đi, và ra khỏi người này!" Thần ô uế liền dằn vật người ấy, thét lên một tiếng lớn, rồi xuất khỏi người ấy.

Mọi người kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Cái chi vậy? Ðây là một giáo lý mới ư? Người dùng uy quyền mà truyền lệnh cho cả các thần ô uế, và chúng vâng lệnh Người."

Danh tiếng Người liền đồn ra khắp mọi nơi, và lan tràn khắp vùng lân cận xứ Galilêa.

TRUYỆN KỂ

1. Thách thức ma quỷ

Một vị linh mục nổi tiếng và thánh thiện đã chia sẻ một câu chuyện có thật mà chính Ngài đã gặp và trực tiếp giải quyết sự việc: một anh thanh niên khoảng 30 tuổi, anh hãnh diện mình là cháu một đức cha, và tự hào bản thân có nhiều khả năng đặc biệt hơn người. Nhân dịp về Bến Tre, anh ra nghĩa trang thách thức ma quỷ nhập vào mình. Ngay từ đêm ấy anh trở thành một người lạ lùng, bị điên loạn, phá phách, gia đình phải đưa vào nhà thương tâm thần Biên Hoà chữa trị nhưng chữa mãi vẫn không hết. Gia đình đem anh về nhà, ban ngày anh uống thuốc an thần liều cao nên ngủ li bì, nhưng ban đêm dù uống thuốc thế nào anh vẫn tỉnh như sáo, phá phách mọi người…

Một hôm gia đình đưa anh lên gặp cha – vị linh mục đang chia sẻ câu chuyện trên. Ngài đề nghị anh xưng tội rồi đặt tay cầu nguyện cho anh. Khi cha đặt tay trên đầu anh để cầu nguyện, anh la hét lớn đến nỗi nhiều người ở dưới đường không biết có chuyện gì khủng khiếp xảy ra. Ngay sau đó tâm trí anh được ổn định… Điều này nhắc nhở ta đừng bao giờ thách thức quỷ ma. Đây chỉ là một sự việc trong các sự việc về quỷ ám và chữa lành những người bị quỷ ám của vị linh mục khả kính…

Ma quỷ luôn có mặt trong thế giới con người, cuộc chiến với ma quỷ, con người trong thân phận mỏng giòn không phải là địch thủ ngang tài đồng sức, nên thường thua cuộc nếu không có trợ giúp.

2. Chúa có quyền trên quỉ.

Một bé trai hỏi bố:

- Quỉ lớn hơn con không?

- Lớn hơn.

- Quỉ lớn hơn bố không?

- Lớn hơn.

- Quỉ lớn hơn Chúa Giêsu không?

- Không con ạ. Chúa Giêsu lớn hơn quỉ.

Chú bé thinh lặng, rồi mỉm cười:

- Vậy con không sợ quỉ (Góp nhặt).

3. Phụng sự ai?

Trong kho tàng truyền thuyết của Giáo hội, chúng ta cũng có thấy một câu truyện dụ ngôn về một anh chàng khổng lồ muốn đi tìm một người mạnh mẽ nhất để phục vụ.

Truyện kể rằng: có một người không lồ sống tại đất Canaan chán cuộc sống đơn điệu buồn tẻ, chàng muốn phiêu lưu và quyết tìm cho được một người nào mạnh nhất để phục vụ.

Thoạt đầu chàng nghĩ chẳng ai mạnh bằng tướng cướp, nên xin đi theo hộ vệ cho tướng cướp. Nhưng mỗi lần sắp đi cướp, viên tướng cướp này phải nhờ đến thầy phù thủy làm phép xuất quân, thế là chàng rời bỏ tướng cướp mà đi theo thầy phù thủy.

Một hôm, thầy phù thủy đang đi bỗng gặp một cây Thánh giá thì sợ hãi dừng lại không dám đi tiếp. Thế là chàng khổng lồ bỏ rơi thầy phù thủy đến đứng bên cạnh Thánh giá, để chờ chủ nhân đó đến mà xin đi theo. Chàng cứ đứng đó chờ mãi mà chẳng thấy chủ nhân cây Thánh giá.

Tình cờ anh nghe thấy có tiếng gọi thật nhẹ nhàng. Anh quay lại bắt gặp một cậu bé với đôi má phúng phính và mái tóc óng ánh. Cậu bé nhờ anh chàng này đưa cậu qua khúc sông gần đó. Nhận lời, nhắc cậu bé lên vai, người khổng lồ lội xuống dòng sông đang chảy siết. Nhưng kỳ lạ nước mỗi lúc một dâng cao và chảy mạnh. Cậu bé mỗi lúc một đè nặng trên vai, chống chọi với sông nước để cuối cùng đem cậu bé lên bờ bên kia. Người khổng lồ mới thốt lên:

- Này cậu bé, cậu nặng đến độ tôi tưởng chừng mang cả vũ trụ trên vai.

Cậu bé mỉm cười đáp:

- Ngươi mang Đấng còn hơn cả vũ trụ nữa. Bởi vì chính tôi đã tạo nên cả trời và đất.

Cậu bé còn cho biết thêm mình chính là chủ nhân của cây Thánh giá.

Thế là chàng khổng lồ kia xin phò tá Vị Chúa Tể trời đất. Chúa dạy rằng: muốn phụng sự Ta, ngươi cứ đứng ở khúc sông này, mỗi lần có ai muốn sang sông thì ngươi hãy cõng người ấy sang.

Chàng khồng lồ tuân theo. Từ đó trở đi, người ta gọi tên chàng là Christophe, nghĩa là người mang Chúa Kitô trên vai.

Chúng ta đã chọn Đức Kitô là thủ lãnh của đời ta, chúng ta hãy tin theo và phục vụ Ngài. Nếu chúng ta muốn phụng sự Đức Kitô, chúng ta hãy theo gương thánh Christophe, bởi vì trên đời này không còn ai xứng đáng hơn ngoài Đức Kitô để cho ta đi theo phụng sự.

4. Tin đến đâu?

Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhưng may thay ông bám được một cành cây nằm chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp.

Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa." Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa, người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa."

Sau một hồi thinh lặng, bỗng người vô thần nghe một tiếng vang dậy cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế." “Không, lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con đã bắt đầu tin từ khi nghe tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất." Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy nếu ngươi tin thì hãy buông tay ra."

Người vô thần thất vọng thốt lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao!”

5. Dạy điều mình sống

Mahatma Gandhi là một vị lãnh tụ chính trị chủ trương bất bạo động, do vậy ông được mọi người dân Ấn Độ tin cậy quí mến trong mọi việc lớn nhỏ. Một hôm, có một bà mẹ dắt một bé gái đến, khẩn nài Gandhi thuyết phục con bà chừa bỏ tật xấu ăn quá nhiều kẹo. Gandhi trầm ngâm hồi lâu rồi bảo:

- Thế này nhé, tôi xin hẹn ba tuần nữa bà đưa cháu bé trở lại đây, tôi sẽ nói chuyện với cháu.

Ba tuần sau, người mẹ đưa con trở lại. Lần này Gandhi gọi bé gái đến bên cạnh và ôn tồn giải thích cho em nghe về những tai hại của thói quen ăn quá nhiều chất ngọt như kẹo bánh. Em bé gật đầu hiểu ra và hứa sẽ chừa bỏ. Bà mẹ mừng rỡ, rối rít cám ơn Gandhi, nhưng bà cũng không quên thắc mắc:

- Thưa ngài sao ngài không bảo ngay cho cháu cũng những lời khuyên quí báu ấy cách đây ba tuần?

Gandhi khiêm tốn thú nhận:

- Cách đây 3 tuần, lúc ấy chính tôi cũng còn đang mắc phải tật xấu ăn quá nhiều đồ ngọt.

6. Uy quyền của Chúa

Ngày xưa, ở Nam Mỹ có nhiều sắc tộc chưa được nghe Tin Lành cứu rỗi của Chúa Giêsu. Ông bà Whittington, đã tự nguyện đến Martha Grosso, xứ Brasil để truyền bá danh Chúa cho họ. Hai ông bà đã lập được nhiều cộng đoàn ở đây. Cuộc sống đã được cải thiện cách rõ rệt. Rồi khi nghe còn có một sắc tộc khác nữa chưa biết đến Chúa. Không những chưa biết Chúa mà trái lại họ còn tin theo phù phép, đồng bóng. Hai ông bà quyết định dọn nhà đi đến đó ở.

Ông bà tự túc xây lấy nhà ở của mình và vì cả sắc tộc đều theo đồng bóng nên rất ghét ông bà. Hai ông bà phải tự túc trồng trọt và săn bắn mới đủ mà ăn.

Rồi thình lình một hôm kia, người ta thấy ông lý trưởng và ông trưởng ban pháp sư của sắc tộc cùng với một số người kéo đến nhà của hai ông bà. Họ khẩn khoản:

- Xin ông bà nói cho chúng tôi biết về Chúa của ông bà. Chúng tôi muốn biết rõ để cả làng chúng tôi tôn thờ Ngài.

Ông Whittington lấy làm lạ, vì trước đây họ coi mình như kẻ thù muốn trừ diệt, không biết vì lý do gì mà hôm nay họ mau đổi thái độ như vậy. Ông liền trình bày tình yêu và ơn cứu rỗi bởi Chúa Giêsu cho họ nghe. Nghe xong, tất cả đều quì mọp xuống xin giáo sĩ cầu nguyện cho họ tin Chúa.

Trong mấy tuần lễ tiếp theo, họ hăng hái đốn cây dựng ngay một nhà thờ để làm nơi thờ phượng Chúa.

Một lần kia, ông Whittington hỏi người trước là trưởng ban pháp sư nay đã tin Chúa:

- Tại sao các ông thình lình kéo đến để xin tin Chúa vậy?

Ông chủ bọn đồng bóng trả lời:

- Thưa ông bà, từ đời tổ phụ chúng tôi đến bây giờ. Tất cả chúng tôi đều làm pháp sư, đồng bóng và tà thuật. Chúng tôi nghe ma quỉ cho biết ông bà đến đây trừ diệt chúng nó. Chúng nó tức giận lắm và sai chúng tôi làm ma thuật để giết ông bà. Mỗi lần ma quỉ sai chúng tôi đi như vậy thì không ai thoát chết. Buổi tối nào chúng cũng sai tà thần đến giết ông bà, nhưng lần nào chúng cũng trở về và nói rằng, không làm sao vào nhà được, có hàng rào bọc kín chung quanh vườn, chỉ đi loanh quanh mãi rồi đành trở về.

Lúc đó chúng tôi biết rằng, thần của ông bà lớn hơn các quỉ của chúng tôi nên chúng tôi quyết định bỏ tà thuật mà tin theo Đấng Chí Cao.

7. Uy quyền để làm gì?

Ông Ferdinand Marcos, đã hành quyền tổng thống Philippines trong suốt 20 năm. Năm 1986, sau khi ông rời bỏ quyền lực, người ta mới khám phá rằng: ông tổng thống đã sở hữu một gia tài kếch xù, với tài sản khắp nơi trên thế giới trị giá khoảng 10 tỷ Mỹ kim, gấp 3 lần ngân sách quốc gia Philippines. Còn vợ ông, trong một lâu đài sang trọng, với biết bao đồ vật quý giá: người ta đếm được 3.000 đôi giày đủ màu đủ kiểu còn mới tinh, 100 chiếc ví da hạng sang đắt tiền, hóa đơn một chiếc áo dạ vũ ghi số tiền là 107.000 Mỹ kim v.v…

Những nhà lãnh đạo trần thế thường dùng quyền để phục vụ cho chính bản thân mình. Quyền hành càng cao thì càng có nhiều phương tiện để hưởng lợi. Thời gian nắm quyền càng lâu thì càng tích góp được nhiều lợi lộc.

Chúa Giêsu dùng uy quyền để phục vụ con người, phục vụ bằng việc giảng dạy và chữa lành.

8. Phục vụ tạo nên uy quyền

Vào năm 1979, trước khi nhận giải thưởng Nobel hòa bình, mẹ Têrêxa Calcutta đã được ông Tổng Thư ký Liên hiệp quốc giới thiệu với các đại biểu các nước trên thế giới rằng: “Đây là con người quyền lực nhất trần gian.” Mẹ là người quyền lực nhất – vì Mẹ có sức mạnh loại bỏ được mọi rào cản vững chắc của ý thức hệ, – vì Mẹ vượt qua được mọi ngăn cách của các tôn giáo, – vì Mẹ phá đổ được bức tường kiên cố của các chủng tộc.

Mẹ đã đặt chân đến và được hoạt động tại những quốc gia đầy gian khó như Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba. Mẹ là người quyền lực nhất vì đã cảm hóa được những nhà lãnh đạo tại những nơi vốn bị coi là vùng đất cấm. Mẹ thực hiện được những điều ấy với vũ khí duy nhất là phục vụ bằng tình yêu cao độ.

Muốn phục vụ cách triệt để cần phải có tâm hồn đầy sức mạnh của tình yêu. Tình yêu sẽ loại trừ mọi nghi kỵ chống đối, vượt qua mọi rào cản khó khăn và sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh thiệt thòi.

Phục vụ cách chân thành với tình yêu sẽ tạo nên sức mạnh phi thường, giúp chiến thắng mọi nghịch cảnh, và có thể đi thẳng đến trái tim con người.

9. Sức mạnh của lời cầu nguyện

Một buổi sáng nọ trong cuộc thế chiến thứ hai, ở Stuttgart, Đức, Irngard Wood và mẹ cô trông thấy một chiếc phi cơ Mỹ bốc cháy và rơi xuống. Một cách bản năng, họ cầu nguyện cho viên phi công, mặc dù anh ta là một người Mỹ. Nhiều năm sau đó, họ di cư đến Mỹ, Mẹ của Irngard xin việc làm cho một bệnh viện ở California.

Ngày nọ, một bệnh nhân nghe giọng nói của bà liền hỏi: “Bà sống ở vùng nào bên Đức?” Bà trả lời: “Stuttgart” Bệnh nhân nói: “Tôi suýt chết ở Stuttgart trong thế chiến thứ hai. Vào một buổi sáng, máy bay của tôi bốc cháy và rơi xuống. Chắc hẳn có ai đó đã cầu nguyện cho tôi”

Niềm tin của tôi vào lời cầu nguyện mạnh như thế nào? Tôi có thường cầu nguyện cho kẻ thù của tôi không?

Thực tế của lời cầu nguyện chỉ có thể được chứng minh bằng việc cầu nguyện (Sherwood Eddy)

10. Ý nghĩa của phép lạ

Từ quen thuộc để chỉ “phép lạ” trong tiếng Hy Lạp là semion có nghĩa là “dấu chỉ” (các tác giả tiếng Anh viết bằng tiếng Hy Lạp). Từ này cho thấy phép lạ của Chúa Giêsu giống như một ngọn đèn đỏ lóa sáng. Điều quan trọng không phải là ánh sáng lóa lên, mà là ý nghĩa của nó. Nói khác đi, Chúa Giêsu muốn nói điều gì đó qua một phép lạ. Chẳng hạn, khi Chúa Giêsu trừ quỷ, Ngài có ý nói rằng nước của Satan sắp phải nhường chổ cho Nước Thiên Chúa.

Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã khởi sự giống như hạt giống được gieo trồng. Chúa Giêsu đã gieo hạt. Bổn phận của chúng ta là phải vun trồng nếu muốn cho hạt giống trổ sinh hoa trái. Tôi đã làm gì để có thể giúp vun trồng hạt giống ấy?

Mỗi người đều có sứ mạng riêng để hoàn thành, đó là sứ mạng của tình yêu (Mẹ Têrêsa).

11. Kẻ thù dấu mặt

Một hoàng tử kia rất đạo đức, ngày nào ông cũng thức dậy lúc 5 giờ sáng để đọc kinh thờ phượng Chúa. Xảy ra là có một hôm ông ngủ quên, thấy vậy, tướng quỷ Satan đến đánh thức ông. Khi biết kẻ đánh thức mình là Satan, hoàng tử tỏ dấu thắc mắc, ma quỷ nói với ông: “Tôi là ai, điều đó không quan trọng, việc tôi đánh thức ngài là một điều tốt, ngài thấy không, ai làm việc lành cũng là người tốt cả." Hoàng tử đáp: “Không bao giờ ma quỷ lại làm điều lành, vậy nhân danh Thiên Chúa, mi phải nói rõ vì lý do nào mi đánh thức ta?” Bấy giờ ma quỷ buộc lòng phải nói thật: “Nếu ngài ngủ quên không đọc kinh sáng khi thức dậy ngài sẽ hối hận, khiêm tốn và sửa chữa để sống đạo tốt hơn, còn ngày nào cũng ra vẻ sốt sắng, ngài sẽ tự mãn, sẽ kiêu ngạo, cho là mình đạo đức đủ rồi." Nói xong nó biến mất, ma quỷ thật tinh khôn và hiểm độc.

Ma quỷ không bao giờ làm điều lành, vì bản chất của nó là gian dối, xảo quyệt, ngay từ đầu nó đã lừa đảo và xúi giục ông bà nguyên tổ phạm tội chống lại Thiên Chúa, nó vẫn tiếp tục làm như thế để lôi kéo người ta ra khỏi tình yêu Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới yêu thương cứu vớt chúng ta. Thiên Chúa hiện thân nơi Đức Kitô, Ngài đã đến trần gian để yêu thương cứu chuộc loài người, Ngài là Đấng quyền năng chiến thắng ma quỷ để giải thoát con người khỏi ách thống trị của sự dữ.

Bài Tin Mừng cho biết: thoạt nhìn thấy Chúa Giêsu, thần ô uế đã thét lên: “Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Tôi biết ông là ai rồi: Ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa." Tại sao ma quỷ lại phải thét lên? Vì không thể có sự tương hợp giữa ô uế và thanh sạch, giữa tội lỗi và thánh thiện, những điều đó quá quen thuộc để nói về ma quỷ và Thiên Chúa. Cho nên, khi Chúa Giêsu đến, một kỷ nguyên mới đươc mở ra cho nhân loại, chấm dứt sự thống trị của thần dữ và đồng thời giải thoát con người khỏi mọi xiềng xích nô lệ.

12. Hãy tin vào Chúa

Bộ phim “The Exorcit” được dựa trên một câu truyện có thật về một cậu bé đến từ vùng núi Rainier, Maryland. Tạp chí Newsweek viết về câu truyện thế này: “Sau khi được đưa vào bệnh viện trường học Georgetown, cậu bé bắt đầu thốt ra những lời nguyền rủa bằng những ngôn ngữ cổ về cùng một vấn đề, trong khi bị cột trên giường, cơ thể đầy những vết xay xát.” Cậu bé đã được cứu sống và hiện đang sống tại Washington.

Câu truyện này nhắc lại Chúa Giêsu đã trừ quỷ như thế nào, một dấu hiệu cho thấy Nước Chúa đang thay thế nước Satan. Nó cũng nhắc nhở chúng ta phải hoàn thành công việc mà Chúa Giêsu đã bắt đầu.

Làm thế nào tôi có thể tiếp tục hoàn tất cuộc chiến chống lại sự dữ mà Chúa Giêsu đã khởi sự?

Hãy kiên vững trong đức tin mà chống lại ma quỷ (1Pr 5,9).

13. Ma quỷ ẩn núp trong ta

Một nông dân giàu có nhất trong huyện và rất keo kiệt. Ông đã hối cải, khi ông ý thức rằng. Ông chỉ là một người quản lý đất đai và một người giữ tiền. Không lâu sau đó, một người lối xóm nghèo bị chấy hết cửa nhà, đến gõ cửa xin đồ ăn. Nông dân giàu có này định cho người ngheo một đùi heo trong bếp. Trên đường xuống bếp. Ma quỷ nói thầm bên tai ông: “Cho hắn cái đùi heo nhỏ nhất."

Người giàu có này chiến đấu với tính keo kiệt cố hữu của ông. Cuối cùng lòng quảng đại đã thắng. Ông lấy cái đùi heo lớn nhất. Ma quỷ cười nhạo ông: “Mày khùng quá." Nhưng người nông dân bịt miệng y: “Nếu mày không đứng im, tao cho hết mọi đùi heo tao có."

Chúng ta vừa nghe Đức Giêsu đuổi ma quỷ ra khỏi người bị ám.

Thời đại chúng ta có nhiều chuyện liên quan đến ma quỷ, không những do những cuốn sách, những phim ảnh; gọi là “người trừ quỷ”, nghĩa là một người có thể xua đuổi ma quỷ, mà còn do những nhóm người kỳ dị, họ thờ cúng Satan.

Thật là một lầm lẫn lớn thường thấy ngày nay khi nghĩ rằng ma quỷ ở đâu xa, một nơi nào đó. Nó ở trong một người nào khác chứ không có trong tôi. Thực sự, ma quỷ có mặt nơi mỗi người chúng ta.

14. Tìm Chúa hay tìm mình

Một tác phẩm nổi tiếng của Leonardo da Vinci là bức tranh Bữa Tiệc ly, họa lại cảnh Chúa Giêsu thân mật ngồi giữa các tông đồ.

Khi đem bức tranh ra triển lãm, ông kín đáo đứng ở một góc phòng quan sát người ta đến ngắm bức tranh. Ông ngạc nhiên thấy điểm thu hút sự chú ý không phải là Chúa Giêsu mà là một bông hoa nhỏ nằm ở góc bức tranh theo thói quen của thời đại.

Khi quan khách ra về, ông dùng cọ xoá ngay cánh hoa đó đi.

Hôm sau, ông sung sướng và thoả mãn khi thấy con mắt của mọi người đều hướng về khuôn mặt của Đấng Cứu thế.

THỨ TƯ - TIẾP TỤC RAO GIẢNG

Lời Chúa: Mc 1, 29-39

Khi ấy Chúa Giêsu ra khỏi hội đường. Người cùng với Giacôbê và Gioan đến nhà Simon và Anrê. Lúc ấy bà nhạc gia của Simon cảm sốt nằm trên giường, lập tức người ta nói cho Người biết bệnh tình của bà. Tiến lại gần, Người cầm tay bà, và nâng đỡ dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi tiếp đãi các Ngài. Chiều đến, lúc mặt trời đã lặn, người ta dẫn đến Người tất cả những bệnh nhân, tất cả những người bị quỷ ám; và cả thành tụ họp trước cửa nhà. Người chữa nhiều người đau ốm những chứng bệnh khác nhau, xua trừ nhiều quỷ, và không cho chúng nói, vì chúng biết Người.

Sáng sớm tinh sương, Người chỗi dậy, ra khỏi nhà, đi đến một nơi thanh vắng và cầu nguyện tại đó. Simon và các bạn chạy đi tìm Người. Khi tìm được Người, các ông nói cùng Người rằng: "Mọi người đều đi tìm Thầy." Nhưng Người đáp: "Chúng ta hãy đi đến những làng, những thành lân cận, để Ta cũng rao giảng ở đó nữa." Và Người đi rao giảng trong các hội đường, trong khắp xứ Galilêa và xua trừ ma quỷ.

TRUYỆN KỂ

1. Ðộng lực của việc tông đồ

Tin Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời cầu nguyện.

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện." Mặc dù bận rộn với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện.

2. Con người Đức Giêsu.

Một con người hoạt động

Thánh Maccô cho ta thấy Chúa Giêsu mang hình ảnh khá giống với những con người nam nữ thời nay: họ bận bịu với trăm công nghìn việc, lúc nào cũng tất bật và đa đoan đủ chuyện.

Một con người biết dừng lại

Thế nhưng, dù phải đảm đang công kia việc nọ, vậy mà Chúa Giêsu vẫn có thời giờ dừng lại để làm những công chuyện quan trọng như đáp lại tình nghĩa bạn bè và cầu nguyện.

Khoảng thời giờ giữa hai lần giảng dạy cho dân chúng, Người dành cho việc đi thăm tình nghĩa và bao lâu kẻ tiếp đón còn cần đến Người thì Người không vội ra đi.

Chúa Giêsu cũng không cắt xén những thời giờ quý báu dành cho việc cầu nguyện của Người. Người thà cắt bớt giờ ngủ và có lẽ cả giờ nghỉ ngơi giải trí nữa: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy…."

Một con người thấy rõ việc phải làm

Đây là nét tính nổi bật nơi con người Đức Giêsu mà ta thường gặp thấy trong sách Phúc âm. Người biết rõ việc Người phải làm. Nếu đã tổ chức chuyến đi truyền giáo lần đầu tiên ở Galilê rồi thì Người lại trở về miền Samari. Nếu đã kết nạp xong mấy môn đệ, thì Người vẫn không quên “những con chiên lạc." Người không nghỉ ngơi sau một vài thành công. Người biết rõ mình còn phải làm gì và lần lượt tới viếng thăm và giảng dạy ở các hội đường theo một lịch trình rõ rệt.

Còn một ngày của chúng ta thì sao?

Khi phác họa một ngày làm việc của ta, ngày ấy có sẽ đầy đủ công việc như ngày làm việc của Chúa Giêsu không?

3. Bí tích xức dầu bệnh nhân

Bác sĩ Tissot là một bác sĩ rất nổi tiếng người Thuỵ Sĩ. Tissot theo đạo Tin Lành nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công giáo.

Một hôm ông tới chữa bệnh cho phụ nữ ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người Công giáo, bà đòi gặp một Lm trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình tĩnh dịu dàng khác thường.

Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm sốt và bắt đầu bình phục. Bác sĩ Tissot thường nói chân thành như là một chứng nhân cho bí tích bệnh nhân: “Nhiều bệnh nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."

Trong Đức tin Công giáo, bí tích xức dầu trợ giúp người tín hữu trong cơn đau yếu, giúp họ không nao núng trước thử thách bệnh tật cả về thể xác lẫn tinh thần.

4. Nhu cầu giãi bầy tâm sự

Vị linh mục dừng lại ghé thăm một gia đình nghèo ở Kentucky. Vừa khi linh mục chào bà mẹ, bà ứa nước mắt kêu lên: “Ôi thưa cha, con vừa được biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con." Bà dốc hết bầu tâm sự, bao lo âu, bao rắc rối.

Thỉnh thoảng vị linh mục chen vào một vài lời khích lệ, nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước nỗi khổ tâm của bà. Kể xong, bà ngưng một lát rồi kêu lên: “Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã giải quyết cho con mọi vấn đề."

Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết được vần đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: bà chỉ cần mong được thông cảm.

5. Cầu nguyện và làm việc.

Một ông cụ già dẫn một thanh niên xuống thuyền của mình. Thuyền này có hai mái chèo đề chữ “cầu nguyện”, một chiếc khác có đề hai chữ “làm việc."

Người thanh niên nói kháy cụ già:

- Ông cụ ơi, chèo thế này chậm lắm. Người đã làm việc thì không cần cầu nguyện nữa (có ý nói: chỉ cần chèo một chiếc chèo có chữ “làm việc” thôi).

Ông cụ không nói gì, chỉ buông chiếc chèo có hai chữ “cầu nguyện” ra thôi, rồi cứ chèo chèo một chiếc có hai chữ “làm việc” kia.

Ông cụ cứ cố sức chèo nhưng thuyền không đi được bước nào, chỉ quay tròn đi thôi.

Thấy thế người thanh niên kia mới hiểu rằng, ngoài chiếc chèo làm việc ra, còn cần phải có chiếc chèo cầu nguyện nữa, thuyền mới đi được.

6. Cầu nguyện để nâng cao tâm hồn

Hôm ấy chàng sinh viên Ozanam, bước vào một nhà thờ cổ ở thủ đô Paris để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn. Đứng ở cuối nhà thờ nhìn lên, anh thấy một bóng đen đang quì cầu nguyên nơi hàng ghế đầu.

Đến gần, Ozanam mới nhận ra đó chính là nhà bác học André Marie Ampère (1775-1836). Chàng sinh viên không ngừng theo dõi cử chỉ cầu nguyện của vị giáo sư vật lý và hóa học nói trên. Khi ông đứng dậy ra về, chàng liền đi theo cho tới phòng làm việc của ông. Thấy chàng thanh niên đứng trước cửa phòng dáng vẻ rụt rè, giáo sư Ampère liền cất tiếng hỏi

- Này, người bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải bài toàn vật lý nào không?

Chàng sinh viên nhỏ nhẹ trả lời:

- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin giáo sư cho phép con được hỏi một chút về vấn đề đức tin mà thôi.

Giáo sư Ampère khiêm tốn đáp lại:

- Đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh về điều gì, tôi sẽ lấy làm hân hạnh.

Chàng sinh viên lại hỏi:

- Thưa giáo sư, người ta có thể vừa là nhà bác học vĩ đại vừa là một tín hữu cầu nguyên bình thường được chăng?

Giáo sư Ampère ngỡ ngàng trước câu hỏi vừa nêu. Với cặp môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

- Chúng ta chỉ vĩ đại khi cầu nguyện mà thôi!

7. Tại sao phải cầu nguyện

Một linh mục kia muốn làm một cuộc thống kê về tình hình của xứ đạo, ngài hỏi gia đình kia một câu hỏi thường lệ:

- Các con có thường cầu nguyện chung cả gia đình không?

Ông gia trưởng trả lời:

- Thưa cha, chúng con không có thời giờ.

- Giả như con biết một đứa con sẽ bị bệnh nếu không cầu nguyện, gia đình con có cầu nguyện không?

- Ồ con đoán chúng con sẽ cầu nguyện.

- Giả sử con biết ngày nào đó khi gia đình lơ là việc cầu nguyện, một đứa con sẽ gặp tai nạn. Con có cùng cầu nguyện không?

- Tất nhiên chúng con sẽ cầu nguyện.

- Giả sử mỗi ngày con quên cầu nguyện, giáo luật phạt 5 đô la. Con có dám sao lãng việc cầu nguyện không?

- Chắc chúng con sẽ cầu nguyện. Nhưng cha hỏi như thế để làm gì?

- Vấn đề của con là không có thời giờ. Con có thể tìm được thời giờ. Con không nghĩ cầu nguyện chung gia đình là quan trọng như nộp phạt hay giữ sức khỏe cho con. Ơn Chúa ban qua lời cầu nguyện quan trọng hơn bất cứ những gì con có thể nghĩ tới.

Bao nhiêu tấm gương của biết bao nhiêu người vẫn còn đó. Bỏ đạo, bỏ Chúa! Người ta nại ra đủ mọi thứ lý do để lý giải cho những hành vi xuống dốc về đời sống tâm linh đạo đức của mình. Nào là bận công ăn việc làm, nào là không có giờ v.v và v.v. Thế nhưng, thử hỏi, kết cục cuộc đời rồi sẽ đi về đâu?

8. Tôi đã thắng ưu phiền cách nào?

Cuốn sách “Quẳng gánh lo đi mà vui sống” được coi là cuốn sách bán chạy nhất thế giới vào những năm 1948-1950. Tác giả cuốn sách này, Dale Carnegic, đã thu tập tài liệu trong 7 năm. Đặc biệt, để cuốn sách có giá trị, tác giả đã đặt giải thưởng 200 mỹ kim cho ai viết được câu truyện có thực về bản thân: “Tôi đã thắng được ưu phiền cách nào?” Kết quả cuộc thi, ban giám khảo đã chọn được hai truyện hay nhất, hay ngang nhau, do đó giải thưởng phải chia đôi. Sau đây là một trong hai truyện đó:

Trong cuộc kinh tế khủng hoảng, lương trung bình nhà tôi là 18 mỹ kim mỗi tuần. Nhiều khi không được số đó nữa, vì hễ đau thì bị trừ lương, mà nhà tôi thường lại đau vặt. Chúng tôi nợ tiệm tạp hoá 50 mỹ kim và phải nuôi năm đứa con, tôi phải giặt ủi thuê cho hàng xóm và phải mua quần áo cũ về sửa lại cho cháu bận, rồi âu sầu quá, tôi hoá đau.

Một hôm người chủ tiệm tạp hoá kia lại mách tôi rằng đứa con trai bảy tuổi của tôi ăn cắp hai cây viết chì. Tôi hỏi cháu, cháu khóc. Tôi biết rằng cháu ngay thẳng dễ cảm động và người ta đã làm nhục cháu ở trước đám đông. Từ đó tôi phát đau lung. Tôi nghĩ tới tất cả những nỗi đau khổ đã chịu đựng và không thấy chút hy vọng gì về tương lai hết.

Ưu tư quá đến nỗi suýt nữa tôi hoá điên. Tôi khoá máy giặt lại, gọi đứa cháu gái năm tuổi vào phòng ngủ, đóng kín cửa sổ, lấy giấy và giẻ bịt hết các lỗ hở trong phòng, cháu hỏi tôi: “Má làm gì đó?” Tôi đáp: “Cho gió khỏi lọt.” Rồi tôi mở vòi hơi đốt (ta biết hơi đốt rất độc, nếu không đốt, ngửi vào một lúc sẽ chết). Hai mẹ con nằm cạnh nhau trên giường.

Cháu hỏi: “Má, sao kỳ vậy má? Mới dậy lúc nãy, sao bây giờ đã buồn ngủ?” Tôi đáp: “Không hại, má con mình ngủ thêm chút nữa.” Rồi tôi nhắm mắt nghe hơi phì từ vòi ra. Chao ôi! Không bao giờ tôi quên mùi hôi ấy…! Đột nhiên tôi vẳng tai nghe tiếng âm nhạc, tôi lắng tai. Thì ra tôi đã quên tắt máy thâu thanh trong bếp. Mặc kệ. Nhưng bài nhạc tiếp tục. Kế đó có ai lên tiếng ca một điệu cổ:

Tâm hồn bình tĩnh mất đi,
Đớn đau vô ích rước chi vào mình
Chỉ vì dại chẳng nguyện kinh,
Mọi điều cầu Chúa thênh thênh trong lòng

Nghe đoạn tôi nhận thấy đã lầm lẫn một cách thê thảm, khi một mình tranh đấu ghê gớm với đời mà chẳng biết trông cậy vào sức mạnh của Chúa. Thế là tôi nhảy phắt dậy, khoá vòi hơi và mở cửa ra. Tôi vừa khóc lóc vừa cầu xin. Không những tôi cầu Chúa giúp tôi, mà tôi còn đem cả tấm lòng thành kính cảm tạ Ngài: nhờ Ngài phù hộ mà tôi có năm đứa con khoẻ mạnh, xinh xắn, thông minh, ngoan ngoãn. Tôi hứa với Ngài không bao giám quên ơn Ngài nữa. Và tôi đã giữ được lời hứa ấy.

Tình thế của tôi từ ngày đó mỗi ngày mỗi khả quan. Nghĩ lại cái ngày ghê gớm mà tôi tự tử, tôi cảm ơn Chúa ngàn lần đã thức tỉnh tôi, nếu tôi mê muội, sau này tôi mất bao nỗi vui, bao nhiêu năm đẹp đã lạ lùng! Bây giờ mỗi lần nghe ai có ý định tự tử tôi muốn la lớn: Đừng! Đừng! Những ngày đen tối nhất trong đời ta sẽ qua đi, tương lai rực rỡ sẽ tới… HÃY CẦU NGUYỆN.

Mỗi lần ta nhắc lòng trí lên, nghĩ tưởng tới Chúa, là ta cầu nguyện. Hoặc đúng hơn, cầu nguyện là khi ta ngợi khen Chúa, hoặc cảm tạ Chúa, hoặc thống hối tội lỗi, hoặc xin một ơn gì. Như vậy, không phải chỉ đến nhà thờ mới cầu nguyện được, mà khi đi chợ, khi nấu ăn, khi làm bất cứ việc gì, ta dành ra vài giây nhắc lòng ta lên với Chúa, cảm tạ Chúa, xin Chúa tha tội lỗi, xin Chúa giúp đỡ ta, xin Chúa ban phần rỗi cho ta: Chính là ta đã cầu nguyện.

9. Mọi người đi tìm Thầy

Một người ngoại giáo mắc bệnh Siđa sắp chết lên tiếng răn đời: “Phải chi mọi người biết được giây phút kết thúc đời mình, chắc thế giới này sẽ sống trong tình huynh đệ thắm thiết… Nếu ai nói Siđa là chiếc roi Thiên Chúa dùng để phạt kẻ hư đốn, họ đã lầm. Kiểu nói như thế chỉ đánh lừa những ai kém lòng tin nơi Chúa. Xin hãy rao giảng về một Đức Giêsu, Đấng an ủi vỗ về… Không phải vì sợ chết mà tôi tiến gần đến Chúa. Tôi không biết Ngài có chữa lành bệnh cho tôi hay không, tôi không xin điều đó. Tôi chỉ xin Ngài hãy cứ làm cho tôi biết cảm nhận những ngày sống đơn thường như hôm nay, và xin Ngài đồng hành với tôi trong nỗi khổ đau, cho tôi nhận ra sự hiện diện của Ngài …!” (trích báo CGDT số Xuân 792 – năm 1991- trang 21)

Như vậy chính anh ngoại giáo đau khổ này đã trở nên như thủ lãnh Phêrô, dẫn một đoàn người đi tìm Chúa và thưa Ngài: “Mọi người đi tìm Thầy” (x Mc 1, 36-37). Vì chỉ có Thầy Giêsu mới đáp ứng nhu cầu sự sống loài người, nên “hãy ca ngợi Chúa đi, Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ” (Tv 146, 3a: Đáp ca). Bởi lẽ “Đức Kitô đã mang lấy các tật nguyền của chúng ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8, 17: Tung Hô Tin Mừng).

10. Tựa nương vào Chúa mà thôi

Có một gia đình sống giữa cánh đồng. Đang đêm khuya thì căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái chạy ra sân đứng nhìn một cách bất lực ngọn lửa đang hừng hực thiêu huỷ căn nhà theo từng luồng gió.

Bỗng người mẹ thấy thiếu mất cậu con út. Khi nghe kêu cháy, cậu cũng chạy xuống thang, nhưng thấy lửa cháy dữ quá cậu lại chạy ngược lên lầu. Đang lúc cả nhà hốt hoảng không biết làm cách nào cứu cậu ra thì cánh cửa trên lầu mở toang, cậu bé kêu la trong hoảng sợ trong khung cửa. Người cha gọi tên con và kêu lớn với cậu: “Con cứ nhảy xuống đi, ba sẽ đỡ con.”

Nghe tiếng cha, nhưng nhìn xuống bên dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, cậu bé hét lên: “Con không thấy ba ở đâu hết!”

Người cha trả lời, giọng cương quyết: “Cứ nhảy đi, ba thấy rõ con.”

Lửa cháy sát sau lưng buộc cậu bé leo lên cửa sổ, nhảy liều xuống và an toàn rơi vào vòng tay vạm vỡ đầy tình yêu thương của người cha.

Chính khi đi tìm hạnh phúc là lúc người ta thấy rõ tình trạng bất lực, không điểm tựa của mình: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” Giữa cuộc đời nhiều thay đổi, người ta mới nhận ra Thiên Chúa là chỗ nương tựa vững vàng cuối cùng mà họ phải chạy đến giữa cảnh đời bấp bênh: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7,1.6.7).

11. Phút giây tĩnh lặng

Ngày nọ, có một người bạn đến thăm Henry Matisse, một họa sĩ người Pháp. Để ý thấy người bạn xem ra rất căng thẳng, Matisse nói: “Anrê, anh nên tìm thấy những cây Atisô trong đời anh” Rồi ông dẫn bạn đến đám Atisô trong vườn và nói: “Mỗi sáng, sau khi làm việc một lát, tôi đến đây để tìm thinh lặng và suy gẫm. Việc làm đơn giản này giúp tôi thêm hưng phấn và đem lại sự hài hòa mới trong công việc của tôi.”

Những giây phút thinh lặng suy gẫm có tác dụng làm cho tôi thoải mái và đem lại hài hòa cho công việc của tôi tới mức độ nào?

Vào một ngày mát mẻ,
Tôi cùng sánh bước bên Chúa.
Trong bóng mát dịu dàng,
Tôi nghe thấy tiếng Ngài giữa những khóm cây.

Và tôi không còn sợ hãi nữa.

12. Chúa chọn

Tony de Mello, một linh mục Ấn độ, thực hiện một chương trình truyền hình qua vệ tinh được phát sóng tới 76 trường đại học ở Mỹ và Canada và gồm 3.000 sinh viên trong cuộc đối thoại. Tony lớn lên gần Bombay, Ấn độ. Một ngày nọ, ở trường trung học về, Tony hỏi cha là anh có thể đi tu làm linh mục được không. Người cha nói: “Không được, con là con trai một, cha muốn con duy trì dòng họ.” Thế rồi, sau 14 năm không có thêm con, mẹ của Tony bỗng có thai. Khi bà được cấp tốc đưa đến bệnh viện để sinh, Tony chạy bộ bốn dặm. Đến nơi anh hổn hển hỏi cha: “Trai hay gái vậy cha?” Cha anh trả lời: “Con có em trai” Tony nói: “Tuyệt, giờ đây con có thể trở thành linh mục được”

Tôi có hăng say theo Chúa không? Lòng nhiệt thành của tôi phát xuất từ đâu?

Lòng nhiệt thành dẫn đến những nghĩa cử anh hùng (S.M. Dubnov).

13. Nhu cầu cầu nguyện

Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”

Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy.”

Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình. Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi. Đây không phải là một lối sống hay ho gì.

Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là một tình trạng nguy hiểm. Có thể người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy sụp. So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn. Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình. Đây không thể là cung cấp, và cũng không phải là thu nạp vào tất cả. Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.

Như chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành thì giờ cho bản thân mình. Những kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây quanh Người. Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu. Người đang có nguy cơ bị hao mòn. Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được rằng “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang vắng, và cầu nguyện ở đó.” Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà còn vì nhu cầu nữa.

14. Phương thuốc cầu nguyện

Cuộc hội thảo của Hiệp Hội Các Y Sĩ Bác Sĩ Công Giáo tại Mi-Lan, I-ta-li-a, ngày 18 tháng 11 năm 2006 đã đúc kết: “Cầu nguyện là một phương thuốc thần diệu cho tâm linh và thể xác của con người." Trong bài phát biểu bế mạc cuộc hội thảo, các y bác sĩ Công Giáo đã được ca ngợi “là những người nhiệt tình phục vụ, và đã biết nhìn sâu vào nhu cầu cần thiết của sức khoẻ tâm linh cũng như toàn thể sinh hoạt của con người để tìm ra phương dược hữu hiệu nhất giúp trị liệu các bệnh nhân." Họ chính là hình ảnh của Đức Giê-su, vị y sĩ siêu phàm, biết tìm thánh ý Thiên Chúa trong việc chữa bệnh nhân, cũng như biết lấy sự cầu nguyện làm khởi điểm và động lực cho mọi hoạt động.

Hãy chiêm ngắm Chúa Giê-su sau một ngày tất bật, “từ sáng sớm, đã ra nơi hoang vắng, cầu nguyện tại đó.” Và mời bạn học kinh nghiệm của Mẹ thánh Têrêsa Calcutta: “Cầu nguyện là việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện. Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình.”

15. Tình yêu quên mình

Năm 1846 đã xảy ra cuộc chiến tranh Mexicô, Henry Thoreau, một văn sĩ kiêm triết gia, đã cực lực phản đối cuộc chiến, vì ông cho rằng đó là biện pháp để mở rộng lãnh thổ vả chiếm giữ nô lệ. Ông cương quyết không chịu đóng thuế, cho rằng số tiền ấy, sẽ được sử dụng vào cuộc chiến phi nghĩa. Sau cùng, ông thà chịu giam vào tù, còn hơn là chấp nhận đóng thuế.

Waldo Emerson, cũng là một văn sĩ kiêm triết gia, bạn thân của Thoreau và cũng là một nguoời kịch liệt chống đối cuộc chiến tranh và chế độ nô lệ, đã đến nhà tù để thăm ông.

Emerson hỏi Thoreau, "Này ông Henry, tại sao ông phải ở tù thế này?" Thoreau nhìn thẳng vào mắt của Emerson và hỏi: "Waldo, còn ông tại sao không ở trong này?"

Trước giờ tử nạn, Chúa công bố rõ ràng về chọn lựa của Chúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

Tình yêu đến quên mình là chọn lựa của Chúa. Chọn lựa đó là và phải là chọn lựa của những ai muốn theo Chúa: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”

16. Luther bỏ cầu nguyện.

Tại bảo tàng viện ở Wittenberg (Đức) người ta còn lưu giữ một lá thư của một tu sĩ dòng Augustinô rất thời danh, mới 35 tuổi, đã làm tới chức Giám tỉnh. Bức thư như sau:”Tôi quá bận rộn, phải đi dạy học, giảng thuyết, viết sách, tôi làm quản lý, bắt cá ở hồ... nên không có giờ đọc kinh, không có giờ nguyện gẫm, không có giờ dọn mình dâng Thánh lễ, có lúc phải bỏ luôn cả lễ...” Vị cựu tu sĩ thời danh ấy là ai? Là Luther, người đã khởi xướng lên chủ thuyết Tin lành, ly khai khỏi Giáo hội, ra khỏi dòng, lập gia đình, lôi kéo nhiều người theo, đi vào con đường ly khai.

17. Ích lợi của sự cầu nguyện.

Cầu nguyện đem lại cho con người rất nhiều lợi ích cho linh hồn. Điều đó chúng ta đã nói nhiều ở trên. Cầu nguyện cũng còn lợi ích nhiều cho đời sống tâm lý và thể lý nữa. Chính những nghiên cứu của các nhà khoa học thời danh đã chứng minh điều đó.

 Môt hôm, một bệnh nhân trạc tuổi 40, đến gõ cửa phòng mạch bác sĩ. Người bệnh nói:

 - Đã lâu rồi tôi mắc bệnh mất ngủ. Tôi đã uống nhiều loại thuốc an thần, thuốc ngủ. Ban đầu uống một viên, sau đó uống hai viên. Hiện giờ tôi uống những ba viên mà cũng chẳng tài nào ngủ được. Hết muốn sống.

 Bác sĩ là một người Công giáo, liền cho một toa thuốc an thần, thật bất ngờ, lại không mất tiền mua:

 - Từ nay ông đừng uống thuốc ngủ nữa. Thế vào đó, trước khi lên giường, ông hãy đọc một câu kinh sốt sắng, và dâng phú những lo lắng của ông vào lòng Thượng Đế.

 Đã lâu lắm, bệnh nhân chẳng hề đọc kinh chiều. Tối hôm ấy, chàng áp dụng toa thuốc của bác sĩ đã cho một cách nghiêm chỉnh.

 Một tuần lễ sau, thần kinh bớt căng thẳng, chàng được lành mạnh, ăn ngon ngủ ngon và làm việc như thường lệ.

 Bác sĩ Carl Jung cho biết:”Trong 30 năm trời gần đây, có nhiều người từ các nước văn minh tới phòng mạch của tôi. Tôi nhận thấy rằng những bệnh nhân trên 35 tuổi, rút cuộc người nào cũng phải tìm một giải pháp tôn giáo mới hết bệnh. Họ đau vì mất quân bình, mất tin tưởng."

 Giải pháp ông nói đây rõ ràng là CẦU NGUYỆN.

18. Tận dụng lòng quảng đại của Chúa

Người ta kể lại rằng, sau khi vẽ xong bản họa đồ kiến trúc cho ngôi thánh đường nổi tiếng tại Roma - Đại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, Kiến trúc sư Bramante dắt đứa con nhỏ của ông cùng đi vào để yết kiến Đức Thánh Chúa và trình lên cho Ngài xem. Lúc đó là Đức Thánh Chúa Juilio II. Đức Thánh Cha xem xong Ngài rất vui. Bản họa dồ kiến trúc đã thể hiện được đúng ý muốn của Ngài. Để tưởng thưởng cho những công lao vất vả của Kiến trúc sư Bramante, Ngài tế nhị dẫn đứa con nhỏ của ông đến chỗ ngài để tiền rồi bảo cậu bé:

- Con bốc đi. Bốc đầy hai bàn tay của con. Phần thưởng cho con đó.

Cậu bé do dự mãi không bốc. Đức Thánh Chúa chờ mãi... Sau đó Ngài thò tay vào bốc và bảo cậu bé đưa vạt áo ra. Ngài bốc bỏ đầy vạt áo của cậu.

Lúc ra về ông bố hỏi cậu con

- Sao Đức Thánh Chúa bảo con đưa tay mà bốc mà con không bốc?

- Ồ, bố không biết là tay con nhỏ còn tay Đức Thánh Cha lớn hơn sao?

Chúa cũng đối xứ với những ai biết hy sinh cho Chúa như thế.

19. Chúa ở bên ta

Tại một trung tâm chuyên trị về tim, một người đàn ông đang chuẩn bị lên bàn giải phẫu. Một ngày trước khi thực hiện cuộc giải phẫu, một nữ y tá đến bên cạnh ông, đưa tay ra về phía ông và nói:

“Ông hãy cầm lấy tay tôi”, rồi cô giải thích: “Ngày mai, trong suốt cuộc giải phẫu, trái tim của ông sẽ hoàn tòan bị cô lập khỏi ông. Ông tiếp tục sống là nhờ một số máy móc. Cuối cùng, trái tim của ông được bình phục, và cuộc giải phẫu chấm dứt. Có lẽ ông sẽ tỉnh lại trong một phòng hồi sức, nhưng trong 6 giờ đồng hồ liền, ông sẽ hoàn toàn bất động, ông sẽ không cử động được, không nói được mà có lẽ cũng không mở mắt nổi. Dù vậy ông sẽ tỉnh táo hoàn toàn để nghe được và biết được mọi sự đang xảy ra chung quanh mình. Trong 6 tiếng đồng hồ ấy, tôi sẽ thường xuyên ở bên cạnh ông. Tôi sẽ nắm tay ông như tôi đang làm đây. Tôi ở bên ông cho đến khi ông hoàn toàn bình phục. Cho dù ông cảm thấy hoàn tòan bất lực, nhưng ông vẫn cảm nhận được bàn tay của tôi, ông hãy tin rằng tôi sẽ không bao giờ bỏ ông."

Mọi sự đã diễn ra như cô y tá tiên liệu. Người đàn ông đã tỉnh lại sau cuộc giải phẫu, nhưng ông không thể làm được gì. Dù vậy ông vẫn cảm nhận được bàn tay của cô y tá đang nắm chặt tay ông hằng giờ, và đó chính là sự khác biệt.

Chúa Giêsu Chúa của chúng ta còn hơn thế. Ngài đang nắm chặt cuộc đời của chúng ta cho dẫu nhiều khi chúng ta bất lực không nhận ra được sự hiện diện của Ngài. Hãy tin tưởng vào Ngài chúng ta sẽ được an vui.

20. Cầu nguyện để trở nên vĩ đại

Frédéric Ozanam, một nhà hoạt dộng Xã hội nổi tiếng của Giáo hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.

Một hôm để tìm một chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi Thánh đường ở Paris. Đứng cuối nhà thờ nhìn lên anh thấy một bóng đen đang qùy cầu nguyện cách sốt sắng ở hàng ghế đầu. Tò mò đến gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không là ai khác hơn là nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc và theo dõi từng cử chỉ của nhà bác học. Rồi khi nhà bác học cầu nguyện xong, vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, anh cũng theo gót ông về cho đến phòng làm việc của ông.

Thấy chàng thanh niên đang đứng trước cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:

- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?

Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:

- Thưa giáo sư, con là một sinh viên khoa văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép giáo sư cho con được hỏi một vấn đề có liên quan đến đức tin!

Nhà bác học mỉm cười một cách khiêm tốn:

- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất của tôi. Nhưng nếu được giúp ích cho anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm!

Chúng sinh viên liền hỏi:

- Thưa giáo sư, có thể vừa là một nhà bác học vĩ đại lại vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?

Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của Người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy cảm xúc, ông trả lời:

- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi.

21. Cha tôi và tôi làm việc luôn

Để thử xem ai là người chịu khó làm việc, một ông chủ kia giao cho bảy người thợ cưa, mỗi người phải cưa một khúc cây.

Người thứ nhất nói: khúc cây của tôi còn tươi quá, chắc lưỡi cưa sẽ mắc trong đó. Tôi chờ cho đến khi khúc cây đó khô rồi tôi sẽ cưa. Thế là anh ta nghỉ.

Người thứ hai: lưỡi cưa của tôi cùn quá, tôi chờ ông chủ đổi cho tôi lưỡi cưa khác bén hơn rồi tôi mới cưa. Rồi anh ta cũng nghỉ.

Người thứ ba: khúc cây này cong bên này cong bên kia. Tôi chờ ông chủ đổi cho tôi khúc cây khác thẳng hơn. Anh cũng đi nghỉ.

Người thứ bốn: khúc cây của tôi quá cứng, cứng gấp hai lần khúc cây bình thường. Tôi chờ có khúc khác mềm hơn. Và anh ta cũng nghỉ.

Người thứ năm: hôn nay trời nóng quá, đợi ngày nào mát trời tôi sẽ cưa. Anh ta cũng nghỉ.

Người thứ sáu: hôm nay tôi nhức đầu đợi tới khi nào khỏi, tôi sẽ cưa. Và anh ta cũng nghỉ.

Người thứ bảy nhận một khúc cây còn tươi, nó cũng cong bên này cong bên kia, thịt nó cũng rất cứng, lưỡi cưa của anh cũng cùn, trời hôm đó cũng nóng và anh đang nhức đầu. Nhưng anh đi mài lưỡi cưa và bắy tay vào việc. Nhờ lưỡi cưa đã được mài, khúc cây đã được cưa xong, do trời nóng và do làm việc, anh ta đổ mồ hôi ra và hết nhức đầu. Anh sung sướng vì hoàn thành công các được giao.

Hôm sau anh xin ông chủ cho anh một khúc cây khác để cưa. (A.R Wells)

22. Cầu nguyện vì Chúa thương tôi

Đức Cha Tihamer Toth kể:

Một triết gia kia buồn vì người học trò xuất sắc của mình ngày càng ham suy tư nhiều cho nên việc cầu nguyện càng ngày càng ít đi. Khi hỏi lý do thì người học trò đáp:

 - Thứ nhất, Chúa biết hết mọi sự, không cần chúng ta nói. Thứ hai, Chúa tốt lành vô cùng, Ngài sẽ cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần. Thứ ba, Ngài là Đấng Vĩnh Cửu, lời cầu nguyện của chúng ta chẳng thay đổi được Ngài.

Triết gia không nói gì. Ông đến ngồi dưới bóng cây, mặt buồn bã. Người học trò hỏi:

- Tại sao thầy buồn thế?

- Người bạn của thầy có một thửa ruộng rất tốt, hằng năm sản xuất rất nhiều hoa màu. Nhưng bây giờ ông ta bỏ mặc không chăm sóc gì cho nó nữa.

- Bộ ông ta khùng ư ?

- Không đâu. Ông còn khôn nữa là đành khác. Ông nói: Chúa yêu thương vô cùng. Ngài sẽ lo cho tôi mọi thứ tôi cần, thế nên chẳng cần làm ruộng nữa. Chúa quyền phép vô cùng, dù tôi không cày xới, Ngài vẫn thừa sức cho nó sinh sản hoa màu.

- Như thế nghĩa là thử thách Chúa rồi còn gì nữa?

- Thì con cũng thế thôi.

23. Nhà không có mái che

Một thanh niên người Scotland làm mướn cho gia đình khá giả. Nhưng hai tuần sau, anh xin nghỉ. Một người bạn hỏi:

- Có phải công việc quá nặng không?

- Không.

- Hay lương thấp?

- Không, lương cao.

- Có lẽ thức ăn không hợp với anh?

- Thức ăn rất ngon.

- Thế sao anh nghỉ việc?

- Tôi nói để anh biết. "Nhà không có mái che ."

Ở Scotland, thành ngữ này ám chỉ một gia đình không có sự cầu nguyện.

24. Đón nhận cũng phải biết trao tặng

Nhà văn Oscar Wilde viết tuyển tập “Chuyện Hay Nhất Thế Giới” trong đó, ông kể:

“Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phân sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi: “Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa?” Hắn đáp: “Thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn”?

Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: “Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của ngươi trong trác táng?” Chàng đáp: “Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?”

Cuối cùng ở giữa thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi, ông đáp: “Lạy Chúa, tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?”

Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng mọi Hồng Ân Chúa ban.

25. Tín thác vào Chúa

Có một gia đình sống giữa cánh đồng. Đang đêm khuya thì căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái chạy ra sân đứng nhìn một cách bất lực ngọn lửa đang hừng hực thiêu huỷ căn nhà theo từng luồng gió.

Bỗng người mẹ thấy thiếu mất cậu con út. Khi nghe kêu cháy, cậu cũng chạy xuống thang, nhưng thấy lửa cháy dữ quá cậu lại chạy ngược lên lầu. Đang lúc cả nhà hốt hoảng không biết làm cách nào cứu cậu ra thì cánh cửa trên lầu mở toang, cậu bé kêu la trong hoảng sợ trong khung cửa. Người cha gọi tên con và kêu lớn với cậu: “Con cứ nhảy xuống đi, ba sẽ đỡ con.”

Nghe tiếng cha, nhưng nhìn xuống bên dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, cậu bé hét lên: “Con không thấy ba ở đâu hết!”

Người cha trả lời, giọng cương quyết: “Cứ nhảy đi, ba thấy rõ con.”

Lửa cháy sát sau lưng buộc cậu bé leo lên cửa sổ, nhảy liều xuống và an toàn rơi vào vòng tay vạm vỡ đầy tình yêu thương của người cha.

Chính khi đi tìm hạnh phúc là lúc người ta thấy rõ tình trạng bất lực, không điểm tựa của mình: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê?” Giữa cuộc đời nhiều thay đổi, người ta mới nhận ra Thiên Chúa là chỗ nương tựa vững vàng cuối cùng mà họ phải chạy đến giữa cảnh đời bấp bênh: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7,1.6.7).

26. Chúa yêu tôi

Một buổi chiều nọ, tiến sĩ Karl Barth, một thần học gia nổi tiếng, vui vẻ quây quần với những người bạn thân. Tò mò muốn biết nhiều hơn về suy tư của một nhà thần học lớn của thời đại, một người bạn đã hỏi ngài: “Tư tưởng thâm sâu nhất mà ngài đã từng nghĩ đến là gì?”

Sau một phút suy nghĩ, tiến sĩ Barth trả lời một cách đơn giản: “Tư tưởng thâm sâu nhất tôi đã từng biết là chân lý đơn giản này: Đức Giêsu yêu tôi, tôi biết điều này vì Thánh Kinh nói với tôi như thế.”

Sự hiện diện của Chúa là Tin Mừng cho mọi người. Sự hiện diện đó che phủ mọi nỗi lo âu, và gieo rắc bình an. Đức Kitô đi khắp miền Galilê rao giảng Tin Mừng, sự hiện diện của Chúa cũng không để ai ngồi yên: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16).

27. Chọn lựa cho đến cùng

Năm 1846 đã xảy ra cuộc chiến tranh Mexicô, Henry Thoreau, một văn sĩ kiêm triết gia, đã cực lực phản đối cuộc chiến, vì ông cho rằng đó là biện pháp để mở rộng lãnh thổ vả chiếm giữ nô lệ. Ông cương quyết không chịu đóng thuế, cho rằng số tiền ấy, sẽ được sử dụng vào cuộc chiến phi nghĩa. Sau cùng, ông thà chịu giam vào tù, còn hơn là chấp nhận đóng thuế.

Waldo Emerson, cũng là một văn sĩ kiêm triết gia, bạn thân của Thoreau và cũng là một nguoời kịch liệt chống đối cuộc chiến tranh và chế độ nô lệ, đã đến nhà tù để thăm ông.

Emerson hỏi Thoreau, "Này ông Henry, tại sao ông phải ở tù thế này?" Thoreau nhìn thẳng vào mắt của Emerson và hỏi: "Waldo, còn ông tại sao không ở trong này?"

Trước giờ tử nạn, Chúa công bố rõ ràng về chọn lựa của Chúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

Tình yêu đến quên mình là chọn lựa của Chúa. Chọn lựa đó là và phải là chọn lựa của những ai muốn theo Chúa: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”

28. Đấng yêu thích sự thinh lặng

Lạy Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng, xin dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài, trò chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt, biết nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân, biết quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai, để nghe được tiếng kêu của người nghèo đói, để khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi, để biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người, tránh mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.

Xin dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn, để mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.

Cuối cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim, để tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét, để yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen. (theo Mẹ Têrêxa Calcutta)

29. Sống trong niềm vui

Tại một trung tâm y tế thuộc mạn đông nam bang Carolina bên Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên mà các bệnh nhân ghi nhận được, đó là nụ cười của cụ bà Florence.

Từ 6 giờ sáng, bà cụ lái xe khoảng 10 cây số đến bệnh viện và ở lại đó 8 giờ trong một ngày và 7 ngày trong một tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh nhân để chăm sóc họ và an ủi những thân nhân của họ.

Còn những lúc rảnh rỗi, bà cụ lại cặm cụi đan những đôi vớ cho các bệnh nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan được 395 đôi.

Bà cụ không phải là một người có trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc còn nhỏ, thân phụ bà cụ không muốn cho các con gái của mình được học hỏi nhiều. Lập gia đình, bà cụ có 7 người con và làm việc trong một tiệm thuốc tây.

Tháng 4 năm 1983, sau một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt đầu xuất hiện trong bệnh viện với chiếc nạng gỗ nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365 ngày bà đã có mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu được khoẻ mạnh thì tôi vẫn còn đến đây với nụ cười trên môi.

Từ câu chuyện trên chúng ta thấy nỗi đau khổ của bản thân sẽ được vơi nhẹ nếu chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác.

30. Nô lệ cho công việc

Lần kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi: “Anh đang đi đâu đấy?”

Người đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy."

Người đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình. Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống của mình. Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh đi. Đây không phải là một lối sống hay ho gì.

Người ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật.

THỨ NĂM - CHỮA NGƯỜI PHONG CÙI

Lời Chúa: Mc 1, 40-45

Khi ấy, có một người bệnh cùi đến van xin Chúa Giêsu và quỳ xuống thưa Người rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể khiến tôi nên sạch."

Ðộng lòng thương, Chúa Giêsu giơ tay đặt trên người ấy và nói: "Ta muốn, anh hãy khỏi bệnh." Tức thì bệnh cùi biến mất và người ấy được sạch. Nhưng Người nghiêm nghị bảo anh đi ngay và dặn rằng: "Anh hãy ý tứ đừng nói gì cho ai biết, một hãy đi trình diện cùng trưởng tế và dâng của lễ theo luật Môsê, để minh chứng mình đã được khỏi bệnh."

Nhưng đi khỏi, người ấy liền cao rao và loan truyền tin đó, nên Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được. Người dừng lại ở ngoài thành, trong những nơi vắng vẻ, và người ta từ khắp nơi tuôn đến cùng Người.

TRUYỆN KỂ

1. Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng

Raoul Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của ông như sau: Ðến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ, trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.

Tôi đến bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:

- Hôm nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?

Người đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa; đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản nói:

- Ông không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn người anh em.

Tôi nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin được là có thật.

2. Không có chỗ cho thất vọng trong tình yêu Chúa

Tôi còn nhớ hồi nhỏ, ở ngôi chợ nhỏ gần nhà tôi, thường có một ông bị bệnh phong cùi lê lết xin ăn mỗi sáng. Mỗi lần theo mẹ ra chợ, tôi lại thấy ông với cái lon sữa bò cũ, miệng kêu gào lòng thương xót của mọi người.

Chẳng bao giờ tôi dám lại gần mà chỉ đứng xa xa nhìn lại với lòng thương xót xen lẫn ghê tởm. Con người ông không chỉ dơ bẩn, mà còn toát lên một cái gì đó gớm ghiếc với những miếng vải dính đầy máu và mủ trên bàn tay, bàn chân đã cụt hết ngón. Một vài người đi chợ ngang qua, thả vội những đồng bạc cắc rồi đi như chạy. Có lẽ họ cũng như tôi, dù xót thương cho thân ông ăn mày, nhưng cũng không dám lại gần vì sợ lây bệnh (Theo Vũ Ðình Trọng).

Ý thức được tình trạng cùi hủi của mình do bởi tội lỗi, chúng ta tin tưởng vào Đấng chữa lành là Giêsu như thánh Paschase Radbert đã suy niệm hình ảnh người phong cùi được Ngài chữa lành: “Thiên Chúa chữa lành mỗi ngày tâm hồn của người kêu cầu đến Ngài, tôn thờ Ngài với tâm hồn thánh thiện và tuyên xưng niềm tin dù mang thân phận lầm lỗi: “Lạy Chúa, nếu Ngài muốn, xin cho con được sạch."

3. Người chạnh lòng thương xót

Đọc những vần thơ của thi sĩ Hàn Mặc Tử, người thi sĩ thời danh mắc bệnh cùi cách đây không lâu lắm ở trại cùi Qui Hòa (Bình định), biểu lộ những rung cảm trong cảnh sầu khổ, ta mới hiểu được nỗi đau khổ trong cảnh cô đơn thất vọng của người bị bệnh cùi như thế nào.

Đọc truyện cha Damien, vị tông đồ người hủi, ta mới thấy xúc động và cảm phục. Khi Đức Giám mục ở Hawai giới thiệu cha Damien với dân cùi ở đảo Molokai là cha tình nguyện đến phục vụ họ. Cha Damien rởn tóc gáy khi nhìn thấy họ đến sờ vào thân mình cha. Đức Cha giải thích cho cha Damien là họ không thể hiểu nổi một người ở phương xa, không bà con huyết thống gì với họ, lại còn trẻ, đẹp trai, lại có thể đến phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này. Họ không tin mắt nhìn của họ nên mới đến sờ thử vào con người của cha, xem có thực sự mắc bệnh cùi không. Rồi họ nói với nhau: “Không." Dần dần cha Damien hòa đồng được với họ, và không còn cảm thấy như ngày đầu. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh cùi.

4. Còn bệnh phong hủi thiêng liêng nữa.

Điều đáng nói là chúng ta phải nhìn đến thứ bệnh cùi thiêng liêng như là một thực tế của mọi thời đại. Các nhà tu đức học và dẫn đàng thiêng liêng thường coi tội lỗi là một thứ bệnh cùi thiêng liêng. Nếu bệnh cùi thể xác khiến người ta bị cô lập hóa về phương diện thể lý, nghĩa là phải sống tách biệt khỏi gia đình và xã hội, thì bệnh cùi thiêng liêng là tội lỗi cũng khiến người ta bị cô lập hóa về đời sống thiêng liêng.

Tội làm sứt mẻ tình bạn với Thiên Chúa và người khác. Có những tội khiến ta không còn dám đến nhà thờ và lên rước lễ. Tội còn làm sứt mẻ tình bạn, tình cộng đồng. Khi phạm tội, người ta thường muốn tránh người khác vì mắc cỡ, và người khác cũng không muốn gặp gỡ họ vì đã là nạn nhân hay không muốn trở thành nạn nhân.

Ngày hôm nay trong cuộc sống có các thứ bệnh cùi của tinh thần, của tâm hồn con người: thái độ sống bất công, gian ác, điêu ngoa, dối trá… Chính những hình thức cùi này làm con người vong thân, biến dạng tâm hồn. Không chỉ cuộc sống tinh thần của cá nhân mà cả một xã hội cùi đang được hình thành, bởi những vi rút cùi gian trá điêu ngoa, thiếu thành thật đang hoành hành trong xã hội.

5. Phải biết cảm ơn Chúa

Trong cuốn truyện thuộc loại Tự Thuật của một người Cha nọ có ghi những ý nghĩ như sau:

Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi bảo: ”Bố ơi, con sẽ đếm thử xem trên trời có mấy ngôi sao nhé”!

Sau đó tôi nghe giọng êm đềm dễ mến của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4.... rồi tôi lại chú tâm vào chuyện đọc báo, không còn để ý đến tiếng con tôi nữa. Đến lúc tôi đọc xong, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng đứa con gái tôi vẫn tiếp tục đếm 223,224,225.... Đến đây, nó bỗng dừng lại, rồi quay sang nói với tôi: ”Bố ơi, con không ngờ trên trời có nhiều sao đến thế."

Nghe con gái bình luận thế! Tôi chợt nhớ thỉnh thoảng tôi cũng đã thầm nói với Chúa: “Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã lãnh nhận bao nhiêu ơn lành của Chúa." Và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu, mà vì quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng đã thường phải thốt lên như con gái tôi: ”Lạy Chúa, con không ngờ đời con đã lãnh nhận nhiều ơn lành của Chúa đến thế”!

6. Món quà lớn

Nạn đói xảy ra trong vùng. Một người ăn xin bên góc đường bước đến bên đại văn hào Nga, Tolstoy, đang đi ngang qua đó. Tolstoy dừng lại, lấy tiền cho nhưng không tìm được đồng nào. Ông nói với sự nuối tiếc: " Này người anh em, đừng giận tôi. Tôi chẳng đem theo gì."

Mặt người ăn xin sáng lên và nói: "Ông gọi tôi là anh em, đó đã là món quà rất lớn rồi!"

Chúa Giêsu không chỉ chữa bệnh cho người bị phong cùi, mà còn đưa tay đụng anh, chứng tỏ Ngài không ghê tởm anh; Ngài còn dạy anh đi trình diện với tư tế để được công nhận hết bệnh và nhờ đó được hội nhập vào xã hội. Như thế, người phong cùi này vừa được chữa bệnh, vừa được phục hồi nhân phẩm. Nói cách khác, Chúa Giêsu vừa chữa anh khỏi bệnh tật phần xác vừa chữa anh khỏi bệnh tật tâm hồn.

Trong chương trình phóng sự về việc giúp đỡ đồng bào lũ lụt của Đài Truyền hình Thành phố, có một em bé đã gởi một cái quần kèm theo 5000 đồng trong túi để giúp người bị nạn. Cô bé đã nói: "Món quà này con tặng cho bạn nào bằng con để đi học." Chắc rằng hình ảnh của những con người bất hạnh đã tạo cho cô bé một lòng thương cảm sâu sắc, và hành vi quảng đại ấy đã phần nào làm vơi bớt nỗi khổ của người bạn chẳng may.

Chúa Giêsu cũng chạnh lòng thương xót. Nhưng Ngài không chỉ làm vơi đi hoặc xóa đi bất hạnh của người bệnh bằng cách chữa lành cho anh, nhưng còn cất đi nỗi bất hạnh lớn lao của cả nhân loại là tội lỗi và cái chết, bằng cái chết trên Thập giá và sự phục sinh của Ngài.

Lạy Chúa, xin Ngài đập vỡ quả tim chai đá trong con và đặt trong con quả tim biết yêu thương.

7. Bệnh phong tâm hồn

Ông Raoul Folereau, vị đại ân nhân của người phong cùi trên thế giới có kể lại mẩu chuyện thương tâm như sau:

“Trong một thị trấn nhỏ nọ, một người đàn ông lâm bệnh nặng. Sau khi khám nghiệm, các bác sĩ nghi ngờ anh ta đã mắc bệnh phong hủi. Tuy chưa phải là một phán quyết dứt khoát, nhưng kể từ đó người ta không còn thấy anh ra khỏi nhà nữa. Gia đình anh mỗi lúc mỗi xác tín hơn về bệnh tình của anh. Thế là để che dấu con người mà họ coi như là một sự xấu hổ chung, những người thân của anh đã giam anh trong một cái mùng lớn. Người đàn ông đáng thương chỉ còn sống vất vưởng nhờ lương thực tiếp tế mỗi ngày. Ngậm đắng nuối cay từng giờ từng phút, người đàn ông chỉ còn nuôi một hy vọng: đó là bỏ trốn khỏi nhà giam của anh... Ngày nọ, anh đã làm như anh nghĩ nhưng chẳng may, anh đã bị bắt lại.

"Thế là mọi hy vọng đã hết. Và anh nghĩ chỉ có cái chết mới giải phóng được anh. Nghĩ là làm. Anh đã mua thuốc ngủ và tự vận. Cái chết của anh đã gây chấn động trong dư luận. Người ta yêu cầu cho khám nghiệm tử thi.

Kết quả đã làm cho mọi người sửng sốt: anh đã không bao giờ mắc bệnh phong cùi.

8. Bài học về niềm tin

Một bà già kia đã có tuổi đi từ Buffalo đến thăm con gái tại Cleveland trên một chiếc tàu chở khách.

Khi tàu đang chạy giữa biển thì bão tố xảy đến. Ai nấy đều hốt hoảng, lo sợ. Chỉ duy có bà vẫn tỏ ra rất bình tĩnh. Bà vẫn ngồi, cúi đầu cầu nguyện.

Lúc trận bão qua rồi, nhiều người đến hỏi vì sao bà giữ được sự bình tĩnh trong cơn nguy biến như vậy. Bà đáp:

- Tôi có hai người con gái. Một đứa đã qua đời đang ở với Chúa trên Thiên Đàng, còn một đứa ở Cleveland. Trong cơn bão tố, tôi không biết mình sắp gặp đứa nào, nếu phải qua đời, tôi sẽ gặp đứa ở thiên thượng, còn nếu bình yên vô sự, tôi sẽ gặp đứa đang ở đó. Cả hai đều là con yêu dấu của tôi, dù gặp con nào tôi cũng vui mừng sung sướng cả. Vì vậy, trong cơn nguy biến, tôi chỉ chờ đợi mà không lo sợ chút nào.

9. Bài học về lòng biết ơn

Hôm đó, trên chuyến bay từ Ý về Mỹ, mang theo một số Giám Mục mới đi dự Công đồng Vaticanô II về, có mộ nữ chiêu đãi viên rất xinh đẹp. Suốt chuyến bay, cô rất bực mình vì một đôi mắt cứ nhìn chòng chọc vào cô, và đôi mắt đó không phải của ai khác hơn là Đức Cha Fulton Sheen, vị tông đồ lừng danh nước Mỹ. Khi phi cơ hạ cánh, và đợi cho hành khách xuống hết, vị Giám mục mới tiến đến trước mặt cô, nói nửa nghiêm trang nửa bông đùa:

- Cô đẹp lắm! Cô hãy cám ơn Chúa vì đã cho cô đẹp.

Câu chuyện tưởng như vậy là xong. Có ai dè đâu là mấy hôm sau, có tiếng gõ cửa văn phòng làm việc của Đức Cha Fulton Sheen. Cô chiêu đãi viên hôm nọ xuất hiện một cách đầy tự tin. Cô vào thẳng đề tài:

- Câu nói của Đức Cha mấy bữa trước làm cho con suy nghĩ mãi. Con phải cám ơn Chúa thế nào đây?

- Cô biết trại phong cùi Di linh ở Việt Nam chứ?

- Vâng, con đọc báo có nghe nói đến!

- Chúa đã lấy hết sắc đẹp của những người ở đó mà ban cho cô. Cô hãy qua bên đó an ủi họ.

Vâng! Chỉ từng ấy! Cô chiêu đãi viên trút bỏ cả tương lai huy hoàng, khoác bộ áo nữ tu và sau một thời gian tập sự học hỏi, đã tình nguyện sang Việt Nam phục vụ những người cùi ở Di Linh, để cảm ơn Chúa đã ban cho mình sắc đẹp.

10. Không một ai bị loại trừ trong tình yêu

Năm 1974, ông Jacques Lebreton được 78 tuổi,mới được Đức Giám mục địa phận Beauvais nước Pháp truyền chức Phó tế cho.

Người ta thắc mắc: Trước đây ông là một đảng viên Cộng sản vô thần, vì một tai nạn xe hơi, ông đã bị cụt hai tay, và mù cả hai mắt! Chức Phó tế cần phải đọc sách mới có khả năng giảng. Mắt đâu? Cần rửa tội cho người ta. Tay đâu? Thế thì truyền chức Phó tế cho ông để làm gì?!

Đức Giám mục trả lời: Jacques Lebreton còn trái tim.

Quả thực, sau khi lãnh chức Phó-tế, thầy Jacques Lebreton đã giảng mỗi năm khoảng 200 bài Thánh Kinh trong các trường Đại học, được rất nhiều sinh viên ca tụng.

Rõ ràng thày đã nhiệt tình giảng Lời hơn cả người bị phong hủi trong Tin Mừng hôm nay.

Chúng ta còn được Chúa ban đầy đủ tứ chi, tại sao ta lại thua người bất toại? Thánh Phanxico nói: “Ông kia bà nọ nên Thánh được, tại sao tôi không?”

Vậy ngày hôm nay ta hãy sám hối tội và nhiệt tình loan báo Tin Mừng, để nối dài và mở rộng công việc của “Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”

11. Ngôn ngữ của tình yêu

Helen Keller là một cô gái nổi tiếng ở nước Mỹ. Cô nổi tiếng vì cuộc đời cô hết sức bất hạnh: vừa được 19 tháng tuổi, sau một cơn đau màng óc, cô hoàn toàn bị câm điếc và mù lòa. Thế nhưng cô đã vượt qua nỗi bất hạnh để học xong đại học, lấy được bằng tiến sĩ và trở thành một văn sĩ.

Làm thế nào để truyền thụ kiến thức cho một người đã câm điếc lại mù lòa như thế? Mọi người cảm thấy bất lực! Nhưng có một cô giáo tên Anna Sullivan đã không bỏ cuộc. Cô truyền thụ kiến thức qua bàn tay của cô gái bất hạnh. Cô giáo cho cô bé câm điếc và mù lòa ấy chạm tay vào một vật, rồi viết tên của vật ấy vào lòng bàn tay của cô bé để cô bé nhận biết được sự vật ấy.

Dạy về những vật cụ thể như cái bàn, cái ghế thì rất dễ, nhưng làm thế nào để diễn tả được những ý niệm trừu tượng như “tình yêu” chẳng hạn?

Ngày kia, cô giáo Anna Sullivan viết lên tay của Helen Keller hai chữ “tình yêu” rồi ôm chầm lấy cô bé vào lòng với tất cả sự âu yếm, trìu mến. Lần đầu tiên trong đời, cô gái câm điếc và mù lòa bỗng cảm thấy xúc động và hiểu được thế nào là tình yêu thương.

Ngôn ngữ của tình yêu là những hành động cụ thể.

12. Chạm đến người cùi

Tại Việt Nam, cũng như trên toàn thế giới, người ta nghe nói nhiều đến trại phong Quy Hòa, ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn, nhưng thử hỏi mấy ai biết đến vị sáng lập trại phong ấy! Đó là cha Paul Maheu, một linh mục người Pháp đã từ bỏ quê hương thân yêu với cuộc sống tiện nghi, để chôn vùi đời mình giữa đám người xa lạ, mắc phải thứ bệnh thật khủng khiếp.

Cha Paul Maheu đã sống giữa những người cùi, coi họ như những người con ruột thịt. Ngài sống trong một ngôi nhà nhỏ bé ngay giữa làng cùi để đêm ngày săn sóc cho họ về vật chất cũng như tinh thần.

Ít năm sau, cha Paul Maheu đã bị lây nhiễm bệnh phong cùi và chết như một người cùi thật sự. Xác ngài được chôn cất ngay giữa làng cùi, bên cạnh những người con thân yêu nhất.

Vị linh mục đã tiếp nối sứ mạng yêu thương của Chúa Giêsu. Không những ngài đã chạm tay đến nỗi đau cùng cực của thân phận con người, mà chính ngài còn hòa tan vào nỗi đau ấy, vì tình yêu Đức Kitô. Tại sao chúng ta không là cánh tay nối dài của Chúa, luôn biết giơ ra để nâng dậy những người anh chị em đang sống khốn khổ chung quanh chúng ta? Tại sao chúng ta không mang lấy đôi tay tình yêu của Chúa để xoa dịu những đau thương của mọi người?

Chúng ta hãy thực hiện lời kêu gọi của Mẹ Têrêxa Calcutta được ghi trên những thùng quyên tiền giúp cho những cùi ở Calcutta: “Hãy chạm đến người phong cùi bằng lòng trắc ẩn của bạn.”

13. Chiếc vĩ cầm hay hơn trước

Năm 1981, nhạc sĩ vĩ cầm người Anh, Peter Cropper được mời đến Phần Lan trình diễn một buổi hòa nhạc đặc biệt. Vì ngưỡng mộ biệt tài của Peter, Viện Hàn Lâm âm nhạc hoàng gia đã biếu ông chiếc vĩ cầm vô giá tên là Stradivarius được chế tạo cách đó 285 năm, để ông sử dụng trong các buổi hoà nhạc. Chiếc nhạc cụ quí hiếm này mang tên nhà chế tạo vĩ cầm người Ý Antonio Stradivari. Nó được cấu tạo bằng 80 phiến gỗ đặc biệt với 30 lớp sơn bóng cũng đặc biệt. Âm thanh phát ra hết sức rõ ràng, du dương.

Nhưng khi Peter Cropper đến Phần Lan, một cơn ác mộng kinh khiếp không thể tin được đã xảy ra. Vì khi bước lên sân khấu trình diễn, Peter bỗng trợt chân ngã xuống, làm chiếc vĩ cầm bị vỡ tan thành từng mảnh! Thế là Peter trở về Luân Đôn tâm trí khủng hoảng cực độ. Một người chuyên sửa đàn dày dạn kinh nghiệm tên là Charler Beare tình nguyện cố gắng hết sức phục hồi chiếc đàn cho Peter. Charler miệt mài làm việc ngày đêm với chiếc đàn vỡ. Thế rồi cuối cùng ông đã lắp ráp được toàn bộ các mảnh vỡ lại để làm thành chiếc đàn nguyên vẹn như trước.

Và giây phút thử nghiệm hồi hộp đã đến, mọi người đều nín thở chờ xem âm thanh tiếng đàn phát ra. Beare trao chiếc vĩ cầm cho Peter Người nhạc sĩ vĩ cầm vô cùng hồi hộp cầm chiếc đàn lên bắt đầu chơi nhạc… Tất cả mọi người có mặt ở đấy không dám tin vào tai mình, bởi vì chẳng những âm thanh của chiếc vĩ cầm vẫn tuyệt hảo như xưa mà xem ra hiện giờ còn xuất sắc hơn trước khi nó bị vỡ nữa!

Những tháng sau đó, Cropper đã mang chiếc vĩ cầm đi trình diễn vòng quanh thế giới. Và hằng đêm, chiếc vĩ cầm mà mọi người nghĩ rằng sẽ vĩnh viễn bị hư phế đó đã mang lại cho Crroper biết bao lời hoan hô nồng nhiệt từ thính giả.

14. Không bao giờ tuyệt vọng

Cách đây nhiều năm một vụ nổ đã làm một chú bé bảy tuổi bị phỏng nặng ở chân đến nỗi các bác sĩ nghĩ rằng cần phải cưa chân đi. Một người bạn nói với mẹ cậu bé: "Chị nên chuẩn bị đón nhận điều này, thằng Glenn của chị sắp sửa thành kẻ tàn phế suốt đời đấy!" Thế mà hai năm sau, cậu bé đã rời bỏ cặp nạng, chẳng những Glenn đi bộ được, cậu ta còn chạy được nữa, dù chạy không nhanh lắm, những dầu sao cậu ta vẫn chạy được, cuối cùng, Glenn vào được đại học. Hoạt động ngoại khóa của cậu là môn chạy đua, giờ đây cậu chạy không phải để chứng tỏ cho thấy thiên hạ đã lầm, mà vì cậu có năng khiếu về môn này. Các kỷ lục liên đại học chẳng bao lâu bị đôi chân thoăn thoắt của cậu phá vỡ. Thế rồi kỳ Đại hội Ôlympic Berlin đã đến. Glenn chẳng những được đánh giá là vận động viên xuất sắc môn chạy 1500 mét mà cậu còn phá kỷ lục Olympic về môn này. Năm sau, Glenn Cunningham lại phá vỡ kỷ lục môn chạy dưới vòm có mái che.

Cậu bé mà người ta từng cho là sẽ trở thành một phế nhân, nay đã trở thành vận động viên chạy nhanh nhất thế giới. Cậu bé mà cuộc đời tan vỡ vì vụ nổ kinh khiếp đã trở nên mạnh mẽ hơn cả khi biến cố bi đát ấy chưa xảy ra.

Thánh Phaolô tóm tắt sứ điệp chứa đựng trong các bài đọc hôm nay qua những lời thơ gởi tín hữu Corintô như sau: "Chúng tôi, thường bị âu sầu nhưng không bị đè bẹp, thỉnh thoảng bị rơi vào ngờ vực nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Và dầu nhiều lần bị ngược đãi, nhưng chúng tôi vẫn không bị tiêu diệt… vì lý do này, chúng tôi chẳng bao giờ ngã lòng" (2 Cr 4: 8-9, 16).

15. Tất cả đều hữu ích trong tình yêu

Một lời cầu nguyện được tìm thấy trong túi một chiến binh tử trận.

"Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh để làm nên những vịêc vĩ đại, thế mà Ngài lại bắt tôi yếu đuối để tôi có thể làm những điều tốt đẹp hơn. Tôi cầu xin được giàu có để sống hạnh phúc, thế mà ngài lại để tôi nghèo khổ hầu tôi được khôn ngoan hơn… Tôi cầu xin nắm được quyền cao chức trọng để được mọi người tán dương, thế mà tôi vẫn phải chịu cảnh thấp hèn để tôi cảm thấy cần đến Chúa…

Tôi chẳng nhận được điều gì tôi cầu xin, nhưng tôi lại nhận được mọi điều tôi hy vọng. Mọi lời cầu xin không thốt ra lời lại được đáp trả hầu như ngoài dự tính của tôi. Và như thế tôi được liệt vào số những người được Chúa chúc phúc nhiều nhất…”

Chúa thường dùng nghịch cảnh để biến đổi chúng ta trở nên tốt đẹp và có giá trị hơn trước.

16. Lẽ phải của tình yêu

“Tôi luôn nhận ra rằng lòng nhân từ sinh hoa trái phong phú hơn là sự công bằng tuyệt đối” (Tổng thống Mỹ A. Lincoln). Lẽ ra người phong cùi này phải đứng cách Đức Giêsu hai mét như luật định. Lẽ ra Ngài không được phép đụng vào anh như lề luật chỉ rõ. Thế nhưng, đối với Đức Giêsu, trong cuộc sống chỉ có luật duy nhất là luật yêu thương, cần và phải bày tỏ lòng thương xót với người thân cận. Bàn tay thanh sạch của Ngài đụng đến anh, một kẻ không được đụng đến. Điều kỳ diệu đã xảy ra: chứng phong biến mất, anh được thanh sạch.

Nét độc đáo của Kitô giáo là đụng đến người không ai muốn đụng đến, yêu người không ai muốn yêu, và tha thứ cho kẻ không ai muốn tha thứ, vì Chúa của mình đã làm như vậy.

“Không ai hư mất trong mắt Thiên Chúa, ngay cả khi xã hội đã kết án người ấy” (Hồng y J. Lustiger). Bạn hãy nhìn ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, rồi thực hiện lòng thương xót ấy với những người đau khổ chung quanh bạn: đau khổ thể xác, đau khổ tinh thần. Bạn cũng không loại trừ ai ra khỏi thế giới bạn, vì không ai bị hư mất trong cái nhìn của Chúa.

17. Mang mùi chiên

Những người phong, cư dân trên đảo Molokai, xôn xao khi thấy cha Đamiêng đến chung sống với mình. Họ càng cảm động hơn khi biết vị linh mục trẻ này hoàn toàn lành lặn, chỉ vì yêu thương họ quá, nên tình nguyện đến chia sẻ và phục vụ họ ngay trên mảnh đất khốn khổ này. Ngài đã phá đổ hàng rào vô hình ngăn cách giữa người lành/người phong, da trắng/da mầu, Kitô hữu/ngoại đạo.

Qua cử chỉ giơ tay đụng vào người phong, Đức Giêsu cũng xóa tan hố sâu ngăn cách xã hội thời đó đặt ra. Thật vậy, ngoài những đau đớn khủng khiếp nơi thân xác, người phong thời ấy còn phải chịu nỗi đau buồn cùng cực trong tinh thần khi bị cộng đồng ruồng bỏ. Đức Giêsu đã đụng đến người phong không chỉ bằng bàn tay, nhưng còn bằng lòng thương xót trước nỗi khổ của con người.

Nhìn ngắm mẫu gương của Đức Giêsu khi Ngài kết hợp tài tình giữa trái tim chạnh lòng thương và bàn tay giơ ra, đụng đến chữa lành, cũng như giữa lòng thương xót và quyền năng. Bạn được mời gọi vận dụng mọi nguồn lực để bày tỏ lòng thương xót.

18. Tình yêu biến đổi

Một người tân tòng mới trở lại cùng Chúa, ngày kia có anh bạn láng giềng tới chơi và hỏi: Anh biết được những gì về Đức Kitô? Người tân tòng trả lời: Có, tôi biết nhiều lắm. Người bạn hỏi: Vậy Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu và chết lúc bao nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi này, người tân tòng tỏ ra bối rối vì kiến thức của anh về Đức Kitô còn non yếu.

Cuối cùng người tân tòng bèn thú nhận: Phải, về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm, nhưng có điều này chắc chắn: Trước đây tôi nằm đường nằm chợ, tôi say sưa be bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ. Trước đây, vợ tôi ít khi mỉm cười với tôi. Thấy bóng tôi là sợ hãi.

Nhưng hôm nay, tôi là một người đàn ông tiết độ, hết nợ và còn dư tiền để tậu một căn nhà mới. Hôm nay, vợ tôi thường tươi cười với tôi. Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy. Đó là niềm tin tưởng và xác tín của tôi.

Tình cảnh của người tân tòng này cũng phần nào giống với người phong cùi của đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng anh tin chắc Ngài đã chữa lành cho anh và anh ra đi loan truyền cho mọi người biết điều đó…

19. Căn bệnh phong của người hiện đại

Một câu truyện của tạp chí Time (10.5.1993) nói về bà Hillary Rodham Clinton. Nó mô tả bài phát biểu của Đệ nhất phu nhân tại đại học Texas vài ngày trước khi cha bà chết. Giọng bà đứt quãng khi trích dẫn lời Lee Atwater (người phụ trách chiến dịch Bush, đã chết ở tuổi 40 vì chứng bướu não). Ông có được tiền của và sự kính trọng, nhưng lại cảm thấy trống rỗng sâu xa trong tâm hồn.

Ông nói: “Căn bệnh của tôi giúp tôi nhận ra rằng điều xã hội đang đánh mất cũng là điều tôi đánh mất, đó là một trái tim nhỏ bé nhưng giàu tình thương” Và ông kết luận: “Chúng ta phải nói đến sự trống vắng tinh thần này giữa lòng xã hội Mỹ”

Tôi có thể đồng ý với nhận xét của Lee Atwater không? Chỉ có một cá nhân có thể làm được gì trước sự trống vắng tinh thần trong xã hội chúng ta?

Kẻ đánh mất của cải đã mất đi nhiều. Những kẻ đánh mất tinh thần là mất đi tất cả. (Elbert Hubbard)

20. Cúi xuống với bệnh nhân

Mở đầu Sứ điệp ngày Thế Giới các bệnh nhân 2012, Đức Thánh Cha Bênêđictô đã viết những lời thật cảm động:

“Anh chị em thân mến.

Nhân dịp Ngày Thế giới các bệnh nhân, mà chúng ta sẽ cử hành ngày 11-2-2012, lễ kính Đức Mẹ Lộ Đức, tôi muốn tái biểu lộ sự gần gũi tinh thần với tất cả các bệnh nhân đang ở nơi điều trị hoặc được chăm sóc trong gia đình, bày tỏ với mỗi người mối quan tâm và lòng quí mến của toàn thể Giáo Hội. Khi quảng đại và yêu thương đón nhận mỗi sinh mạng con người, nhất là những người yếu đuối và bệnh tật, tín hữu Kitô biểu lộ khía cạnh quan trọng trong chứng tá Tin Mừng của mình, theo gương Chúa Kitô, Đấng đã cúi mình trên những đau khổ thể lý và tinh thần của con người để chữa lành họ."

Ngài nhắn gởi các bệnh nhân hãy tin tưởng vào Chúa: “Tôi muốn khuyến khích các bệnh nhân và những người đau khổ luôn tìm thấy một chiếc neo chắc chắn trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng sự lắng nghe Lời Chúa, bằng kinh nguyện bản thân và các bí tích” (số 5).

Chủ đề sứ điệp là: “Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu con!”, cũng liên hệ tới Năm Đức Tin sắp tới, sẽ bắt đầu từ ngày 11-10-2012, là dịp thuận tiện và quý giá để tái khám phá sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin, để đào sâu nội dung đức tin cũng như để làm chứng đức tin trong đời sống thường nhật” (số 5). Tin vào Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ đã cúi xuống và chữa lành các bệnh nhân.

21. Noi gương Chúa yêu thương

Ở Việt Nam có hai trại cùi lớn: trại Di Linh trên đường lên Đà Lạt và trại Quy Hoà ở ngoại ô thị xã Quy Nhơn. Đức Cha Jean Cassaigne đã gắn bó với anh em dân tộc K’Hor ở Di Linh bị phong cùi một thời gian dài, rồi sau 15 năm làm Tổng Giám Mục Sài gòn, đã lại xin tình nguyện quay trở về sống giữa những người bệnh cùi ở Di Linh. Ngài sống với họ thêm 18 năm rồi lây bệnh và qua đời năm 1973. Trái tim của người Việt Nam và cả thế giới đều rung cảm, ai cũng cảm phục tấm gương chứng nhân của ngài.

Cha Paul Maheu, một Linh Mục người Pháp đã từ giã quê hương với cuộc sống tiện nghi đến sống giữa những người cùi ở Quy Hoà cho đến chết. Xác ngài được chôn cất ngay giữa làng cùi bên cạnh những người ngài thương yêu nhất.

Ngày nay các Giáo Xứ khắp nơi gần xa thường tổ chức hành hương đến Di Linh, Quy Hoà để viếng mộ Đức Cha Cassaigne và Cha Mahu, thăm viếng và tặng quà cho các bệnh nhân.

Các Nữ Tu của các Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn và Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ đã đến sống phục vụ giữa những người bị xã hội xa lánh loại trừ. Chính tình yêu Chúa Kitô đã thúc đẩy các môn đệ đến sống với họ, yêu mến họ, chăm sóc phục vụ họ.

Chúa Giêsu đã cúi xuống, sờ đến người cùi và họ liền được lành sạch. Các môn đệ của Chúa cũng sờ vào người cùi, sống với người cùi đem lại cho họ tình thương, bình an và niềm vui.

22. Niềm tin mang lại sức mạnh

Năm 23 tuổi, Têrêxa bị thổ huyết lần đầu vào Thứ Sáu Tuần Thánh, sau đó sức khoẻ chị dần dần phục hồi. Nhưng năm sau, bệnh lao phổi tái phát nặng nề vào Mùa Chay. Trong những ngày sau hết, khi sức cùng lực kiệt, chị lại được tin thân phụ vừa phải đưa vào điều trị chung với những người điên, chịu người đời khinh miệt.

Cuối cùng, ngày 30.9.1897, chị đã qua đời trong cơn khát nước và ngạt thở do bệnh lao phổi và loét ruột. Giờ hấp hối, chị đã thốt lên trong nhọc mệt: “Chúa ơi, Chúa ơi, sao Chúa nỡ bỏ con?”

Tiếng kêu của nỗi đau! Kêu than nhưng vẫn cậy trông, bám víu vào Chúa, như chị nói: “Sự điên khùng của tôi chính là hy vọng.”

Chị tự nhận mình là hy vọng một cách điên khùng vì thấy mình chỉ bám víu vào Chúa, một điều không thể hiểu được nếu không có niềm tin. Nhưng nếu không có niềm hy vọng đó thì chị đã phát điên lên trước bao nghịch cảnh của cuộc đời, như chị đã viết trong nhật ký: “Nếu không có đức tin thì tôi đã tự sát, không do dự một phút nào!”

23. Ánh sáng trong đêm tối

Trong suốt năm thứ hai cùng với đội Cleveland Indians, Herb Score, 23 tuổi, đã thắng 20 ván và đã đưa cả đội đến những trận đấu quyết liệt. Nhưng rồi đêm 7-5-1958, trong trận đấu với đội Yankees, anh bị trái banh đánh ngang mặt. Herb té mạnh xuống đất, máu từ mắt phải chảy ra. Sau đó, anh nói: “Tôi sợ mình bị mù và tôi đã cần xin Thiên Chúa” Thực sự thì Herb đã nhìn thấy lại được, nhưng đêm đó cũng là đêm kết thúc sự nghiệp của anh. Nhưng đổi lại, anh đã trở thành nhà bình luận thể thao.

Tôi tìm được sức mạnh ở đâu để hồi phục và bắt đầu lại?

Khi mọi thứ đều đi ngược với bạn, đến nỗi dường như bạn không thể chịu đựng thêm một giây phút nào nữa, bạn đừng bao giờ bỏ cuộc, vì đó là lúc là nơi con nước đổi dòng (Harriet Beecher Stowe).

24. Bẩy căn bệnh của xã hội

Mahatma Gandhi thường được gọi là “người cha già của Ấn độ” Ông đã liệt kê bảy điều xấu có sức tác hại không những đối với cá nhân, mà còn cả với các quốc gia:

Chính trị không có nguyên tắc.
Niềm vui không lương tâm.
Giàu có mà không làm việc.
Kiến thức mà không có tư cách.
Kinh doanh mà thiếu đạo đức.
Khoa học mà không có tính nhân đạo.
Thờ phượng mà không có hy sinh.

Trong những điều xấu kể trên, đâu là nguy cơ tiềm tàng nhất đối với tôi và đối với đất nước tôi?

Tội lỗi vô hại, vì nó đã được ngăn cấm. Nhưng sở dĩ nó bị ngăn cấm, bởi vì nó tác hại (Benjamin Flanklin).

25. Tình yêu chữa lành

Những nghiên cứu của trường đại học Nữu ước cho thấy rằng cho thấy các y tá đặt tay lên bệnh nhân với ý định chữa lành cho họ, thì sự phục hồi của họ nhanh hơn. Điều này khiến cho một số bác sĩ tin rằng “có một năng lực tự nhiên nơi những người có lòng yêu thương. Năng lực ấy được thông truyền một cách đặc biệt qua xúc giác, và bệnh nhân có thể hấp thụ được sức sống mãnh liệt ấy, đến nỗi thân xác bệnh họan có thể hồi phục sức mạnh xây dựng sự sống của mình” (Francis McNutt).

Tôi biểu lộ tình yêu của tôi, đặc biệt đối với những người trong gia đình, cách cụ thể gần gũi đến mức nào?

Lạy Chúa, xin giúp con nhận ra rằng một vòng tay nồng ấm hay một cái siết tay đầy yêu thương có thể chữa lành thương tích cách hiệu quả hơn cả một thang thuốc.

26. Không muốn ai biết

“Là một nghệ sĩ, những gì đối với tôi xem ra quan trọng khi còn sống thì nay, chúng không là gì nữa. Điều quan trọng duy nhất của tôi bây giờ là Chúa Kitô. Tôi không cần, cũng không muốn ai biết đến nữa!” - Đọc được trên mộ của John Bacon, điêu khắc gia vĩ đại. 

Không chỉ John Bacon, nhưng cả Thiên Chúa cũng vậy! Một đôi khi, Ngài cũng ‘không muốn ai biết’ việc Ngài làm. Lời Chúa hôm nay chứng tỏ điều đó. Thời Cựu Ước, với Hòm Bia giữa dân, Israel vẫn bị Philitinh đánh tả tơi; thời Tân Ước, sau khi chữa lành một người phong, Chúa Giêsu bảo, “Đừng nói gì với ai!"

“Đừng nói gì với ai!”; “Điều quan trọng duy nhất của tôi bây giờ là Chúa Kitô. Tôi không cần, cũng không muốn ai biết đến nữa!" Đó cũng là tinh thần của Phaolô, “Tôi coi tất cả mọi sự như thua thiệt, so với mối lợi tuyệt vời, là biết Đức Kitô. Vì Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như rác!" Cảm nghiệm Chúa tốt lành, với Phaolô, Bacon, mọi sự cao sang đời này chỉ là phân bón. Cũng thế, bạn và tôi hãy làm mọi việc để duy chỉ một mình Chúa biết; phần thưởng của bạn, Ngài cầm sẵn trên tay. Đừng sợ thất bại, cũng đừng tự phụ khi thành công. Muốn được vậy, noi gương Chúa Giêsu, hãy chọn cho mình một nơi thanh vắng giữa đời thường, trái tim mình; ở đó, Chúa Giêsu là trên hết, trước hết và là tất cả.

THỨ SÁU - BỆNH TẬT TÂM HỒN VÀ BỆNH TẬT THỂ XÁC

Lời Chúa: Mc 2, 1-12

Sau ít ngày, Chúa Giêsu lại trở về Capharnaum; nghe tin Người đang ở trong nhà, nhiều người tuôn đến đông đảo, đến nỗi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng, và Người giảng dạy họ.

Người ta mang đến cho Người một kẻ bất toại do bốn người khiêng. Vì dân chúng quá đông, không thể khiêng đến gần Người được, nên họ dỡ mái nhà trên chỗ Người ngồi một lỗ to, rồi thòng chiếc chõng với người bất toại xuống. Thấy lòng tin của họ, Chúa Giêsu nói với người bất toại rằng: "Hỡi con, tội lỗi con được tha."

Lúc ấy, có một ít luật sĩ ngồi đó, họ thầm nghĩ rằng: "Sao ông này lại nói thế? Ông nói phạm thượng. Ai có quyền tha tội, nếu không phải là một mình Thiên Chúa." Chúa Giêsu biết tâm trí họ nghĩ như vậy, liền nói với họ: "Tại sao các ông nghĩ như thế? Nói với người bất toại này: "Tội lỗi con được tha" hay nói: "Hãy chỗi dậy vác chõng mà đi", đàng nào dễ hơn? Nhưng (nói thế là) để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất." - Người nói với kẻ bất toại: "Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà."

Lập tức người ấy đứng dậy, vác chõng ra đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy sửng sốt và ngợi khen Thiên Chúa rằng: "Chúng tôi chưa từng thấy như thế bao giờ."

TRUYỆN KỂ

1. Chữa người bất toại

Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói ngay: "Ta chữa lành cho con", nhưng Ngài nói với người bất toại: "Con đã được tha tội rồi."

Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng." Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?" Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: "Trong hai điều: một là bảo người bất toại: "Con đã được tha tội", hai là bảo: "Ðứng dậy, vác chõng mà đi", điều nào dễ hơn." Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: "Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà", lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.

2. Các thứ bại liệt của tâm hồn

Cuộc đời của chúng ta nhiều khi không bị đau bệnh phần xác như người bại liệt trong bài Tin Mừng hôm nay, nhưng chắc chắn trong tâm hồn, nhiều khi chúng ta cũng mắc phải những căn bệnh bại liệt:

Bại liệt khi chúng ta khinh thường và rẻ rúng những người nghèo, bệnh tật, ốm đau;

Bại liệt khi chúng ta có những ánh mắt phân biệt, ghen tỵ với anh chị em mình;

Bại liệt khi chúng ta thiếu sự liên đới, tình huynh đệ và vô trách nhiệm;

Bại liệt khi chúng ta thờ ơ với Chúa, nguội lạnh với đời sống đạo...

Những lúc như thế, chúng ta hãy xin Chúa đến với mình, xin Ngài đụng chạm và chữa lành, để chúng ta được lành sạch.

Lạy Chúa Giêsu, chúng con là kẻ có tội, xin cho chúng con năng đến với Chúa nơi Bí tích Hòa Giải để chúng con được Chúa chữa lành. Amen.

3. Tìm Đấng Messia

Ngày 6/11/1997, sáng nay các dì kể chuyện. Có một người đàn bà sinh con ngay trong đêm bão. Nhà sập rồi, đành ra bụi trúc mà sinh.

Ông cố biết ai đó không? Mẹ con Mẹt, học trò của mình đấy.

Vậy thì nên đặt tên cho bé là Linda, hoặc Số Năm. Dù bão số 5, dù hồng thủy cũng không tiêu diệt được sự sinh tồn của loài người (Trích Nhật ký truyền giáo của cha Piô Ngô Phúc Hậu).

Cơn bão Linda hay còn gọi là bão số 5 đã vào vùng đất cực Nam của quê mẹ - đất Việt vào tháng 11 năm 1997 đã gây nên bao cái chết của đồng bào, phá hủy của cải, nhà cửa và mùa màng. Nhưng dù cho bão tố nổi lên như thế, vẫn không cản được bước chân tìm kiếm sự sinh tồn cho con mình của một người mẹ, biểu tượng cho sự tìm kiếm sinh tồn của nhân loại.

Hình ảnh những bước đi tìm được sinh tồn cho con của người mẹ gợi nhớ cho chúng ta hình ảnh người bị bại liệt trong Tin Mừng, trước bão tố bệnh tật, anh trở nên bại liệt, nằm bất động không thể làm gì được…

Người bại liệt nằm bất động không thể làm gì được, nhưng từ trong đáy sâu thẳm niềm tin vào Đấng Mêssia, anh làm mọi cách, qua sự giúp đỡ của những người bạn đi tìm sự sống cho chính mình. Anh tin vào Đấng Mêssia, người có thể chữa lành anh, trả lại cho anh sự sống. Chính trong niềm tin đó, qua sự giúp đỡ của anh em bạn bè mang anh trên băng ca, cất bước tìm kiếm gặp Ngài. Anh và họ như chung niềm tin nơi quyền năng của Đấng nhân danh Chúa đến và cùng nhau bước đi tìm Ngài.

4. Niềm tin cứu sống

Căn nhà bỗng nhiên bốc cháy. Ông bố nghe tin liền chạy về. Về đến nơi, ông thấy đám cháy đã bốc cao và nghe có tiếng kêu thất thanh “Ba ơi cứu con với."

Khi thấy bóng đứa con út trên tầng cao, ông đã nhờ đội cứu hỏa giăng lưới bảo hộ để cho cậu nhảy xuống. Nhưng cậu vẫn do dự và sợ hãi. Lúc ấy ông la lên: “Ba đây, đừng sợ, nhảy xuống đi." Nhận ra tiếng của cha và thấy bóng ông qua khói lửa, cậu đã thu hết can đảm nhảy xuống.

Mở mắt ra, cậu đã nằm trong vòng tay của cha. Niềm tin đã cứu sống cậu.

5. Nhà biên kịch Henri Ghéon.

Henri Ghéon là một nhà biên kịch nổi tiếng của Pháp, cũng là một người tội lỗi trong đệ nhị thế chiến, ông ở trong một tâm trạng bất an, đã quay trở lại với Chúa.

Ông đến xin lãnh bí tích Giải tội và ông đã kể lại tâm trạng của mình lúc xưng tội như sau: “Hai tay tôi ôm đầu, miệng bập bẹ run run, tôi đổ dòng tội tuôn ra như thác... Tôi cảm thấy một thứ cặn đắng, từng ngụm, từng ngụm trào ra khỏi các thớ thịt con tim tôi với tất cả khối nặng đó, với tất cả chất độc đó đã đè nén tôi suốt hai mươi năm nay. Tôi cố cựa quậy đổ dốc nó ra cho linh mục giải tội. Và Thiên Chúa đã nghe lời tôi: “Hãy về bình an. Thánh Thần đã ngự trong con”!  Tôi trẻ lại hai mươi tuổi; hai mươi năm tội lỗi. Một niềm vui sướng mới lạ tràn ngập tâm hồn tôi. Tôi chạy, tôi nhảy, tôi bay, tôi không còn cảm thấy xác thịt nặng nề của tôi nữa."..

6. Ta truyền cho con hãy chỗi dậy, vác chõng mà về nhà

Ngày kia thánh Phanxicô Salêsiô cho một người xưng tội. Người này xưng rất thành thật, khiêm nhượng và hết lòng ăn năn. Thánh nhân cảm động lắm. Sau khi xưng tội xong, người ấy hỏi:

- Bây giờ cha biết tất cả những sự xấu xa của con rồi. Cha nghĩ thế nào về con?

- Bây giờ cha nhìn con như một đấng thánh.

- Chắc cha phải nói ngược lại mới được.

- Không. Cha nói theo lương tâm của cha. Con bây giờ hoàn toàn khác trước rồi.

- Nhưng tội lỗi con đã phạm thì luôn luôn ở với con mà.

- Không phải thế đâu con ạ. Khi bà Mađalêna đã ăn năn trở lại, Chúa xem bà như một đấng thánh. Chỉ có bọn Pharisêu giả hình cứ coi bà là kẻ tội lỗi.

- Nhưng đối với cha, con muốn biết cha nghĩ thế nào về quá khứ của con?

- Cha không nghĩ thế nào cả. Điều gì không có trước mặt Chúa thì cha không nghĩ đến. Cha chỉ biết ngợi khen Chúa và vui mừng vì con đã trở lại với Chúa. Cha muốn cùng các thánh trên trời vui mừng với con.

Nói xong, thánh nhân khóc. Người kia bỡ ngỡ hỏi:

- Cha khóc à? Chắc cha khóc vì thấy con phạm nhiều tội quá?

- Cha khóc vì thấy con đã sống lại với Chúa.

Thánh nhân biết rõ phép Giải tội không phải là che dấu tội ta đã phạm, nhưng là rửa sạch hết mọi tội ta đã khiêm nhường xưng ra.

7. Đức tin là sức mạnh của tôi

Isaiah Thomas thuộc đội Detroit Pistons đã làm cho đội ngôi sao NBA All giữ được thứ hạng trong vòng 10 năm. Trong cuộc phỏng vấn dành cho tạp chí You, anh đã nói về đức tin của mình như sau: “Đức tin của mẹ tôi đã ảnh hưởng rõ nét đến đức tin của tôi. Cứ mỗi lần tôi thất vọng… tôi lại nhớ đến câu mà mẹ tôi hay nói: “Con chỉ cần tiến một bước thì Thiên Chúa sẽ tiến hai bước. Ngài sẽ làm những điều kỳ diệu cho con." Câu nói này luôn giúp tôi đứng dậy và dấn bước."

Trong đời tôi, đức tin của ai đã ảnh hưởng đến đức tin của tôi? Khi tôi ngã quỵ, cái gì đã giúp tôi đứng dậy và tiến bước?

Khi ta cố gắng làm những gì có thể, Thiên Chúa sẽ làm điều ta không thể (E.C.McKenzie).

8. Ơn tha thứ

Có một chàng thanh niên mua được một chú khỉ. Thế nhưng cứ mỗi lần anh ta đụng vào thắt lưng, chú khỉ lại tỏ ra đau đớn và khó chịu. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, anh ta khám phá ra một vệt sưng vòng quanh hông chú khỉ. Thì ra khi còn nhỏ, chú khỉ đã bị ngưới ta dùng một sợi dây thép cột quanh hông và cho tới nay vẫn chưa được tháo ra. Chú khỉ càng lớn, sợi dây càng lặn sâu vào da thịt.

Chiều hôm đó, anh ta cẩn thận cắt sợi dây thép và kéo ra khỏi da thịt chú khỉ. Chú khỉ mừng quá, nhảy tới nhảy lui rồi ôm chặt vai anh ta. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không còn bực bội, khó chịu và đau đớn như trước nữa.

Câu chuyện trên khiến chúng ta nhớ tới lời Chúa Giêsu nói với chàng thanh niên bại liệt được chữa lành: Tội con đã được tha. Chắc hẳn chàng cũng vui mừng như thế, bởi vì chàng không còn bị sợi dây đau đớn ràng buộc nữa. Chàng được tha tội và được chữa lành bệnh bại liệt, chẳng khác nào chú khỉ được giải thoát khỏi sợi dây thép. Vì thế, chàng hết sức vui mừng và dâng lời ngợi khen Thiên Chúa.

Hình như ai trong chúng ta cũng đã từng có kinh nghiệm nhờ bí tích Hòa giải, chúng ta được giải thoát khỏi một ràng buộc nào đó, đã từng làm cho chúng ta đau đớn.

Tuy nhiên muốn được giải thoát thì điều kiện đầu tiên là phải khiêm nhường chấp nhận tội lỗi mình và xưng chúng ra với linh mục giải tội, bằng tất cả tâm tình sám hối ăn năn.

9. Căn bệnh không thể chữa trị

Biển Thước, một thầy thuốc có tiếng đời Xuân Thu, đến yết kiến Hoàn Hầu nước Tề. Ngắm nhìn nhà vua một lát, Biển Thước tâu rằng: “Vua có bệnh trong bì phu, không chữa sợ đau nặng."

“Ta vô bệnh”, Hoàn Hầu trả lời. Biển Thước đi ra, Hoàn Hầu nói: “Thầy này lý tài lắm, muốn chữa người khoẻ để lấy công."

Mười hôm sau Biển Thước vào yết kiến Hoàn Hầu và nói: “Vua có bệnh ở gan ruột, không chữa ngay thì sau khó lòng mà chữa." Hoàn Hầu không trả lời, còn lấy làm không bằng lòng.

Cách mười hôm sau, Biển Thước lại vào yết kiến, vừa trông thấy Hoàn Hầu ông đã lùi chạy ra ngay. Hoàn Hầu cho người gọi lại hỏi vì cớ gì mà ông chạy ngay như vậy. Biển Thước tâu: “Bệnh ở bì phu còn châm trích được, bệnh ở gan ruột còn thuốc thang được, bệnh đã vào xương tủy thì không tài nào chữa khỏi được nữa. Bây giờ bệnh của vua đã vào tận xương tủy nên tôi không dám nói mà phải ra ngay."

Năm ngày sau, khi phát bệnh, Hoàn Hầu cho tìm Biển Thước thì ông đã sang nước Tần rồi. Bệnh của Hoàn Hầu rồi không ai chữa được, Hoàn Hầu phải ra đi trong hối tiếc.

Thấy người bại liệt, Đức Kitô không chữa ngay bệnh tật thể xác của anh, mà lại tha tội, cứu chữa căn bệnh của tâm hồn trước.

10. Gương sám hối của thánh Augustino

Thánh Augustinô là một trong những giám mục rất thánh thiện của Giáo hội thuở sơ khai. Nhưng khi giờ chết đến gần, ngài không muốn một ai lạ mặt nào vào phòng để ngài dễ dàng thống hối.

Ngài cho gắn vào tường bảy thánh vịnh sám hối để có thể liên lỉ đọc đi đọc lại cách dễ dàng, nhất là thánh vịnh ‘Miserere’, thánh vịnh 51. Ngài dùng các thánh vịnh đó để khóc than những tội lỗi thời niên thiếu, và đã ra đi trong an bình.

Phận người yếu đuối với nhiều tội lỗi đến đâu cũng không đáng sợ bằng sự tê liệt trong tâm hồn, một thứ vô thần thực dụng làm cho tôi không thấy được nhu cầu chạy đến với Chúa để được cứu chữa.

Khốn khổ vì bao nhiêu tội lỗi đã trót phạm, nhưng mỗi khi đến với bí tích giao hoà, tôi lại nghe lời Chúa bảo tôi hãy đứng dậy, vác chõng mà đi!

Dù tội lỗi tôi có lớn đến đâu, vẫn còn đó một niềm hy vọng lớn lao mà Trái Tim Vô Cùng Lân Tuất của Chúa lúc nào cũng sẵn lòng trao tặng cho tôi:

"Chẳng ai trông cậy Chúa mà lại phải nhục nhằn tủi hổ, chỉ người nào tự dưng phản phúc, mới nhục nhằn tủi hổ mà thôi." (Tv 25,3).

11. Đem kẻ bại liệt đến với Chúa

Một ca sĩ nổi tiếng đã nói: “Tôi mắc nợ vợ tôi trong toàn bộ sự nghiệp của tôi. Cô ấy đã tin tưởng vào tôi, ngay cả khi tôi không còn tin vào chính mình” Người bị bại liệt xem ra cũng giống như anh ca sĩ trên đây. Anh ta mắc nợ niềm tin của bạn hữu. Họ là những người tin rằng Chúa Giêsu có thể và sẽ chữa lành cho anh ta.

Tôi cũng đã được hỗ trợ bởi niềm tin của người khác. Ngoại trừ cha mẹ, ai đã từng là người giúp đỡ tôi cách đặc biệt trong hành trình đức tin của tôi?

Bạn vẫn còn cho đi quá ít khi cho đi của cải mình. Chỉ khi cho đi chính mình, bạn mới cho đi thực sự. (Kahlil Gibran)

12. Lời nguyện của kẻ đem kẻ bại liệt đến với Chúa

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh sáng đức tin để nhận ra Chúa hôm nay và hằng ngày, nơi khuôn mặt khốn khổ của tất cả những người bị thử thách:

những kẻ đói không chỉ vì thiếu của ăn, nhưng vì thiếu Lời Chúa;

những kẻ khát, không chỉ vì thiếu nước, nhưng còn vì thiếu sự bình an, sự thật,

công bằng và tình thương; những kẻ vô gia cư, không chỉ tìm kiếm một mái nhà,

nhưng còn tìm trái tim hiểu biết, yêu thương; những kẻ bệnh hoạn và hấp hối, không chỉ trong thân xác, nhưng cả trong tinh thần, bằng cách thực thi lời hy vọng này:

“Điều các con làm cho người bé mọn nhất trong anh em là các con làm cho chính Ta." (Mẹ Têrêsa)

THỨ BẢY -

Lời Chúa

TRUYỆN KỂ

1.