Lời Chúa CNTN 2B _ gia vị cho bài giảng

CNTN 2B – MẦU NHIỆM ƠN GỌI

Lời Chúa: Ga 1, 35-42

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Gioan đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông nhìn theo Chúa Giêsu đang đi mà nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa.” Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Chúa Giêsu. Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại, thấy họ đi theo Mình, thì nói với họ: "Các ngươi tìm gì?" Họ thưa với Người: "Rabbi, nghĩa là: thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Người đáp: "Hãy đến mà xem.” Họ đã đến và xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy, lúc đó độ chừng giờ thứ mười.

Anrê, em ông Simon Phêrô, (là) một trong hai người đã nghe Gioan nói và đã đi theo Chúa Giêsu. Ông gặp Simon anh mình trước hết và nói với anh: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô.” Và ông dẫn anh mình tới Chúa Giêsu. Chúa Giêsu nhìn Simon và nói: "Ngươi là Simon, con ông Gioan, ngươi sẽ được gọi là Kêpha, nghĩa là Đá.” Đó là lời Chúa.

GIA VỊ CHO BÀI GIẢNG

1. Hãy đến mà xem

Vào khoảng năm 1965 về trước, thời bấy giờ chưa có vô tuyến truyền hình, nên mỗi lần có trận giao đấu bóng đá giữa hai đội mạnh, thính giả toàn quốc chỉ được nghe tường thuật về trận đấu qua làn sóng của đài phát thanh.

Thật khó hình dung nổi diễn tiến trận đấu với những pha đi bóng gay cấn, những cú sút ngoạn mục khi chỉ được nghe bằng tai.

Hiện nay, chuyện theo dõi trận đấu qua đài phát thanh đã thuộc về quá khứ vì ưu thế vượt trội của kỹ thuật truyền hình. Nhờ đủ dạng sóng truyền hình hiện đại bao trùm trái đất, người hâm mộ bóng đá từ phần nửa bên nầy địa cầu có thể chứng kiến, như thể tận mắt, từng chi tiết, từng pha đi bóng của những cầu thủ trong những trận đấu diễn ra ở nửa bên kia trái đất.

Thế là từ khi có truyền hình, không ai mê bóng đá lại theo dõi trận đấu qua đài phát thanh nữa. Từ kỹ thuật truyền thanh chuyển qua truyền hình là cả một bước tiến vượt bậc.

Tiến trình mặc khải cũng trải qua hai chặng đường như thế.

“Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1,1a).

“Nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử.” (Dt 1,1b)

2. Tiếng Chúa gọi

Olalla Oliveros, người mẫu nổi tiếng đã tham gia chụp nhiều bộ ảnh quyến rũ, diễn viên chính trong nhiều bộ phim, gương mặt của cô xuất hiện trên các tấm biển khắp Tây Ban Nha. Tuy nhiên, nữ người mẫu đã quyết định trở thành một nữ tu, gia nhập Dòng thánh Michael. Mặc dù sự nghiệp vẫn đang phát triển, nhưng Olalla Oliveros không còn cảm thấy hạnh phúc, vui vẻ.

Ở tuổi 36, cô quyết định từ bỏ sự nghiệp và khoác lên mình chiếc áo nữ tu sau khi đến viếng Nhà thờ Đức Mẹ Fatima ở Bồ Đào Nha. Không muốn nói nhiều về quyết định của mình, Oliveros chỉ cho biết cảm giác khi tới nơi này giống như có một trận động đất rung chuyển trong người: “Chúa không bao giờ sai, Ngài hỏi tôi có sẵn sàng theo Ngài và tôi không thể từ chối.”

Trên một trang web, Oliveros chia sẻ rằng cô đã có những cảm giác rất kỳ lạ. Từ sau chuyến thăm nhà thờ, hình ảnh bản thân mặc chiếc áo nữ tu luôn hiển hiện trong tâm trí Oliveros. Vì thế, cô đã quyết định từ bỏ công việc của mình để trở thành một nữ tu và đổi tên thành Olalla del Sí de María. Trên tờ El Tiempo, Oliveros chia sẻ: “Là một người mẫu bạn phải có thân hình chuẩn, là hình mẫu để mọi người noi theo. Tôi cảm thấy áp lực. Tôi cũng mệt với những lời nói dối, hình thức, một xã hội đầy bạo lực, ngoại tình, ma túy, rượu, thù oán và một thế giới đề cao vật chất, hưởng thụ, dâm dục, lừa đảo.” Oliveros cho biết thêm: “Tôi không lấy việc trở thành một nữ tu để lăng xê tên tuổi của bản thân, mà chỉ muốn trở thành một hình mẫu đề cao phẩm giá thực sự của người phụ nữ.”

Oliveros không phải là người mẫu đầu tiên quyết định từ bỏ cuộc sống bận rộn trên sàn catwalk để chọn lấy một cuộc sống bình lặng trong tu viện. Amada Rosa Pérez là một trong những người mẫu hàng đầu của Colombia trước khi trở thành một nữ tu vào năm 2005, vì cảm thấy mệt mỏi với cuộc sống căng thẳng của mình. (Theo Daily Mail)

3. Tìm và gặp Chúa trong Kinh Thánh

Giáo huấn của Công Đồng Vat. II: “Họ phải biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí tích Thánh Thể và Kinh Phụng Vụ” (Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục số 8).

Lần kia, đại tướng Lew Wallace và đại tá Robert Ingersoll, hai người vô thần đang nói chuyện với nhau về những người Công Giáo mê tín, tin vào ông Giêsu nào đó, kẻ bất lực, bị người ta kết án trên thập giá! Và này cuốn lịch sử về hắn mà bọn Công Giáo gọi là Thánh Kinh, nhưng chúng vẫn mù quáng mà đọc!

Lew Wallace thề với Robert Ingersoll là sẽ vạch ra cho những kẻ cuồng tín ấy thấy những điều lếu láo trong Thánh Kinh. Robert chúc cho Lew thành công trong ý định này. Lew bỏ ra 5 năm nghiên cứu Thánh Kinh, kết quả ngược lại: thay vì ông tìm thấy những điều mê tín trong đó để khích bác kẻ có Đạo, thì ông lại nhận thấy ơn cứu độ phát xuất từ thập giá Đức Kitô tuôn xuống, cứu bao kẻ tuyệt vọng. Ông đã viết lên tác phẩm Benhur và sau người ta đóng thành phim rất nổi tiếng.

Lew Wallace nhờ lưu lại trong Lời Chúa, ông đã được Ngài cho trở nên chứng nhân Tin Mừng.

4. Cảm nghiệm gặp gỡ Chúa:

Tiếng Chúa kêu gọi con người bằng nhiều cách thế khác nhau: Chỉ một vài trường hợp đặc biệt, Chúa đã thân hiện đến, kêu gọi đích danh, như trường hợp của cậu Samuel, nhưng hầu hết Chúa đã dùng những cách thế thông thường, như lời khuyên nhủ của các vị đại diện Chúa, lời giảng dạy của một vị giảng thuyết, một ơn soi dẫn trong tâm hồn, một giấc chiêm bao hay một biến cố nào đó của cuộc đời. Trong tất cả mọi hoàn cảnh đó, các Thánh đã mau mắn đáp lại, khi các ngài nhận ra thánh ý Chúa.

Thánh Phanxicô thành Assisi, một chàng trai giầu sang háo danh, cũng chỉ vì nghe lời Chúa phán được trưng lại trong một bài giảng: “Con người được lợi lãi cả thế gian, mà thiệt mất linh hồn mình thì được ích gì." Ngài đã quyết tâm bỏ mọi sự, sống đời khó nghèo và đã chinh phục được biết bao người theo ngài, để hiến thân phụng sự Chúa, xây dựng Giáo Hội và giúp ích cho biết bao linh hồn.

Thánh Ignatiô, một sĩ quan quân đội bị trọng thương, đang thời gian nằm điệu trị tại bệnh viện, bất ngờ đọc cuốn truyện các Thánh, ngài cảm thấy thán phục, nên đã quyết tâm sống theo thánh ý Chúa soi dẫn, lập nên một Hội Dòng lớn với danh hiệu Dòng Chúa Giêsu, đem lại bao lợi ích cho Giáo Hội và thế giới.

Thánh Augustinô, từ một chàng trai trụy lạc tội lỗi được cải hóa và đã trở nên một vị Đại Thánh Tiến Sĩ của Giáo Hội, chinh phục biết bao linh hồn trở về với Chúa, qua những tác phẩm giáo huấn và lời giảng dạy khôn ngoan của ngài… Còn biết bao trường hợp tương tự, ơn Chúa đã thực hiện cách lạ lùng nơi đời sống của các Thánh.

Văn hào Pháp Paul Claudel: một buổi chiều kia rảnh rỗi Paul Claudel rảo bước dạo chơi và tình cờ đi ngang một nhà thờ. Từ trong nhà thờ vang ra tiếng hát thánh ca thanh thoát, siêu phàm. Tiếng Thánh ca ấy đã thu hút ông buớc vào. Ông cảm xúc và ở lại cho đến hết buổi lễ. Và từ chiều hôm đó trở đi, Paul Claudel đã trở thành một tín hữu sốt sắng kiên trì trong Đức Tin. Ông viết nhiều quyển sách truyền bá Đức tin và ca tụng Thiên Chúa, ca tụng Đức Mẹ. Mọi sự bắt đầu vào một buổi chiều đáng nhớ.

Thomas Merton: Thomas Merton mồ côi cha mẹ lúc 16 tuổi, năm 20 tuổi ông trở thành đảng viên cộng sản, ông hoàn toàn không tin gì về những sự siêu nhiên và sống một nếp sống chạy theo vật chất, nhục lạc. Một đêm kia khi đang ở trong một khách sạn, tự dưng ông nhìn lại đời mình, thấy nó quá trống rỗng và cũng quá nhầy nhụa, đến nỗi ông chê chán chính mình. Lúc đó chẳng biết làm gì khác, Thomas Merton quỳ gối xuống và cầu nguyện: “Lạy Chúa, từ trước tới nay tôi chẳng hề tin Chúa và ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết có Chúa hay không. Nhưng nếu thật có Chúa thì xin Ngài hãy giúp kéo tôi ra khỏi vũng bùn nhầy nhụa của đời tôi hiện tại."

Đêm hôm đó lần đầu tiên Thomas Merton cầu nguyện. Ông đã gặp được Chúa và từ đó mãi mãi gắn bó với Chúa. Sau đó ông đi tu dòng Trappe. Mọi sự bắt đầu từ một đêm gặp Chúa.

5. Chúa gọi, con người đứng lên

Tháng 3 năm 1998, Đức Cha Gioan Bta Phạm Minh Mẫn, Giám mục phó giáo phận Mỹ Tho, được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục tổng giáo phận Saigon. Từ Lyon nước Pháp, nữ tu Marie Claude Faure, cựu Tổng quyền Dòng Chúa Quan Phòng Portieux, đã gởi đến ĐC Gioan Bta những lời khích lệ như sau:

Chúa cần một người cha cho dân Ngài Ngài đã chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên…

Ngài cần một người phát ngôn. Ngài đã chọn một kẻ nhút nhát nói năng ngọng nghệu. Thế là Môsê đứng lên…

Ngài cần một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài. Ngài đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu nhất. Thế là Đavít đứng lên…

Ngài cần một tảng đá để đặt nền cho tòa nhà. Ngài đã chọn một người chối thầy. Thế là Phêrô đứng lên…

Ngài cần một gương mặt để nói cho người ta biết tình thương của Ngài. Ngài đã chọn một cô điếm. Đó là Maria Mađalêna.

Ngài cần một nhân chứng để hô to sứ điệp của Ngài. Ngài đã chọn một kẻ bách hại đạo. Đó là Phaolô thành Tarsô…

Ngài cần ai đó để tập họp dân Ngài và để Ngài đến với những kẻ khác. Ngài đã chọn Đức Cha: dù Đức Cha run sợ, Đức Cha sẽ có thể không đứng lên sao?

Thật là một lời khích lệ sâu sắc biết bao! Phải chăng đó cũng là lời khích lệ dành cho chúng ta hôm nay, để chúng ta cũng biết can đảm đứng lên, sẵn sàng đáp lại tiếng gọi của Chúa: lên đường thi hành ý Chúa và chu toàn ơn gọi đời mình.

6. Giới thiệu Chúa cho anh em

Nhiều nhóm binh sĩ có vũ trang từ Syrie xâm chiếm đất Israel. Sau khi bắt dân Israel làm tù binh, chúng tàn phá thành phố và làng mạc. Chúng bắt những tù binh này làm việc như những đầy tớ trên đất Syrie. Trong số những người bị bắt, có một cô gái. Người ta không nói tên của cô ta.

Cô trở thành đầy tớ của viên sĩ quan nổi tiếng người Syrie, tên là Naaman. Vua Syrie rất hài lòng về Naaman, vì ông là một sĩ quan rất gan dạ. Rủi thay ông vừa mắc bệnh phong.

Một ngày kia, cô tớ gái nói với bà chủ: “Giá mà ông chủ Naaman được gặp tiên tri Elisa, đang sống ở Samaria, thì ngài sẽ chữa cho ông chủ tôi khỏi bệnh” Nghe vậy, Naaman xin vua Syrie viết thư giới thiệu cho vua Israel. Ông cũng mang theo vải vóc, vàng bạc làm quà tặng.

Khi vua Israel đọc thư, ông rất lo, vì ông nghĩ vua Syrie muốn gây chiến. Nhưng Elisa nghe biết, ông xin nhà vua để mình chữa bệnh cho Naaman. Elisa không gặp Naaman, nhưng chỉ gởi một lá thư: “Hãy đi tắm trong dòng sông Giodan 7 lần và ông sẽ được khỏi."

Naaman rất tự ái, ông không chịu tắm, nhưng đầy tớ khuyên ông cứ làm như lời nhà Tiên tri. Và quả nhiên, Naaman đã được chữa khỏi, da của ông trở nên mịn màng như da đứa trẻ. Naaman dâng cho Elisa quà tặng, nhưng người của Thiên Chúa không nhận, chỉ chúc cho ông “Hãy về bình an."

Chúng ta đừng bao giờ quên đứa tớ gái nhỏ bé ở đầu câu chuyện, em đã mau mắn giới thiệu tiên tri Elisa cho Naaman. Nếu cô bé giữ im lặng, thì Naaman sẽ không bao giờ được chữa lành.

Hôm nay, Anrê cũng giới thiệu Phêrô em mình cho Đức Giêsu: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41). Rồi dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu.

7. Tìm đời sống toàn hảo

Ở đời ai cũng muốn đi tìm cái hơn. Muốn giàu có hơn, học hành giỏi hơn, có bằng cấp cao hơn. Lấy vợ gả chồng đôi khi cũng nhằm chỗ cao hơn mà tính. Thật không may, người ta chỉ đi tìm cái hơn về vật chất bằng mọi giá, ngay cả bằng những cách bất chính mà không kể gì đến những giá trị đạo đức tinh thần. Gần đây tôi đọc được bài thờ trào phúc “Cha và con và… sự đời” của Nguyễn Văn Thắm trên báo Tuổi Trẻ Cười nói lên cái tâm trạng đó của con người.

Cha:

Con ơi! Lấy vợ xem tông, Lấy chồng chọn giống… mới mong sang giàu
Chồng mà chức trọng quyền cao, Phong bì, quà biếu… cửa sau rộn ràng.
Vợ mà con cái nhà quan, Mình đi xin việc dễ dàng như chơi.

Con gái:

Thôi… con sợ lắm cha ơi! Quan mà tham nhũng người đời dèm pha!

Cha:

Dèm pha mặc kệ dèm pha. Có xe đời mới, có nhà tầng cao.
Còn hơn cơm mắm, canh rau, Nhà tranh, vách lá chui vào… chui ra!

Con trai:

Con quan phung phí xa hoa, Thời trang đủ kiểu, cưới mà làm chi!
Tối ngày kẻ mắt, cắt mi Môi son, má phấn… lấy gì nuôi con?

Cha:

Mày tưởng có bằng là ngon? Thử đi xin việc, cúi lòn… còm lưng!
Quà thì tay xách, tay bưng Tới lui mỏi gối, mòn chân… hết tiền!

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Gioan 1:35 -42 , khi Chúa Giêsu chú ý thấy hai người môn đệ của Gioan đi theo Ngài, Ngài quay lại và hỏi họ, “Các ngươi đi tìm gì?” Họ trả lời: “Thưa thầy, thầy ở đâu?” Họ đang là môn đệ của Gioan, lại muốn bỏ Gioan mà đi theo Chúa Giêsu, để tìm “cái hơn." Giống như chúng ta, họ cũng muốn sống một đời sống đầy đủ hơn. Nhưng khác chúng ta, chúng ta đi tìm kiếm đời sống vật chất cao hơn, còn Anrê và Philip lại đi tìm một đời sống tinh thần cao hơn. Họ muốn có một đời sống đích thực! Và chính Gioan, thầy của họ đã chỉ cho họ thấy khi Chúa đi ngang qua: “Đây là Chiên Thiên Chúa." (1:36).

8. Chúa gọi sống điều tốt hơn

Vào thế kỷ thứ XI, Vua Henry III của vương quốc Bavaria, nay là một tiểu bang thuộc vùng Tây Nam nước Đức, đã chán ngán làm vua và trở nên quá mệt mỏi trong việc điều hành đất nước nên ngài ao ước được sống ẩn dật trong một tu viện. Nhà Vua đi tới một tu viện gần đó để xin ý kiến của vị tu viện trưởng.

Cha tu viện trưởng nhận ra ngài là vua đã quen với việc điều hành và ra những chỉ thị nên nói với vua rằng: “Nếu vào sống trong tu viện như một tu sĩ thì việc trước hết là vua phải vâng lời cha bề trên tu viện trưởng và phải làm theo lệnh truyền của ngài.” Vua Henry III nhận thấy điều đó quá dễ dàng, không thành vấn đề. Vua sẵn lòng vâng lời cha bề trong trong bất cứ chuyện gì.

Cha bề trên mới nói: “Vậy thì tốt lắm, tôi sẽ chỉ cho nhà vua điều phải làm. Nhà vua hãy trở về hoàng cung và phục vụ đất nước trong ngôi vị mà Thiên Chúa đã định đặt cho ngài.”

Theo ý Vua Henry III, “cái hơn” là vào tu viện sống đời cầu nguyện và chiêm niệm như một tu sĩ. Nhưng cha bề trên đã giúp cho ngài nhận ra không phải chỉ là “cái hơn” mà là cái hoàn hảo nhất, sung mãn nhất. Đó là gặp gỡ Đức Kitô ngay trong cuộc sống của mình, rồi giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa đã xếp đặt cho ngài: xây dựng một xã hôi công bằng, an bình, mang lại ích lợi cho toàn dân.

Vua Henry III đã trở về với công việc bổn phận để gặp gỡ Chúa Giêsu và trở nên người môn đệ chân chính của ngài (Mt 7:24).

9. Đáp lời Chúa kêu gọi

Sau 9 năm trường giầm gìa trong vũng bùn lầy trụy lạc tội lỗi, Thiên Chúa đã kêu gọi và thức tỉnh lương tâm Margarita de Cortone, bằng cách cho người cô gái hoang đàng ấy chứng kiến một cảnh ghê rợn. Một thây chết nát rữa thối tha là tình nhân của nàng trước đây, tại một góc rừng lúc bất ngờ nàng đi qua. Trước cảnh hãi hùng đó, khiến nàng rất bàng hoàng xúc động và tự hỏi: “Lạy Chúa, sau đó còn lại cái gì?”

Thế rồi, người con gái tội lỗi đó đã trở về với gia đình, xin lỗi thân phụ. Để tỏ lòng ăn năn sám hối, nàng đã tròng một giây thừng vào cổ và đã đến xin các Cha Dòng Thánh Phanxicô hướng dẫn. Rồi sau 3 năm đầy thử thách, với nhiều đêm ngày khóc lóc, ăn chay, đền tội, Margarita đã khoác trên mình bộ tu phục Dòng Ba Thánh Phanxicô, sống cuộc đời thánh thiện.

Để đáp lại tình Chúa yêu thương và lời kêu gọi của Chúa, Margarita đã biến nhà mình thành một bệnh xá vừa săn sóc bệnh nhân vừa lao động sản xuất để nuôi họ.

Ma quỉ căm hờn, dùng trăm phương ngàn kế để cám dỗ Margarita bỏ đàng nhân đức, trở lại đàng tội lỗi trụy lạc; nhưng Margarita đã toàn thắng và luôn vững tiến trên đàng nhân đức. Ơn Chúa tuôn trào trên tôi tớ trung nghĩa của Ngài, khiến Margarita đã làm cho vô số tội nhân cải tà qui chính, bỏ đàng tội lỗi, ăn năn trở lại với Chúa.

10. Theo Chúa hay theo mình

Người Ấn Độ kể rằng:

Có một thanh niên khao khát được nhìn thấy Chúa. Ngày đêm anh cầu nguyện cho ước mong được thành sự thật. Không bao lâu Chúa hiện đến với anh dưới hình dạng một người đẹp đẽ, uy quyền và dễ mến. Chúa hỏi anh:

– Con có muốn đi với Ta một quãng đường không?

Người thanh niên cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Chúa và anh cùng sánh bước như đôi bạn tri kỷ. Đi được một lúc Chúa hỏi:

– Ta khát nước, con có thể đi tìm cho Ta ít nước không? Người thanh niên hăm hở đi tìm nước. Lòng anh tràn ngập hân hoan. Còn gì sung sướng cho bằng đi tìm nước cho Chúa.

Nhưng anh đi mãi mà không thấy nước đâu. Anh tiếp tục đi và sau cùng anh tới một dòng sông, anh đang chuẩn bị lấy nước mang về cho Chúa thì tình cờ xuất hiện một cô gái xinh đẹp, cô gái đẹp tới độ làm người thanh niên không còn thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng nghĩ đến mang nước về cho Chúa nữa.

Anh lân la đến làm quen với cô gái. Họ thương nhau, lấy nhau và sinh nhiều con cái, không gì hạnh phúc cho bằng… Thế rồi chuyện không may xảy ra, một cơn ôn dịch xảy tới, người thanh niên đưa vợ con đi nơi khác. Khi đi qua một chiếc cầu thình lình mưa gió thổi đến, nước dâng lên,cuốn cả vợ con anh. Còn anh thì may mắn bám được vào một gốc cây. Anh khóc thương cho số phận vợ con cũng như kiếp cô đơn của mình.

Giữa lúc đó Chúa lại xuất hiện trước mặt anh. Ngài ôn tồn hỏi:

– Này con, con có mang nước về cho ta không? Con làm gì để Ta chờ đợi cả tiếng đồng hồ vậy!

11. Sinh ra để thua cuộc

Norman Vincent Peale là tác giả nổi tiếng viết khá nhiều sách trong đó có best-seller “The Power of Positive Thinking." Một ngày kia, đang dạo phố ở Hồng Kông, Peale tình cờ đi ngang qua một tiệm xâm hình. Trên khung cửa kiếng trưng bày đủ loại đủ kiểu xâm nhưng có một hàng chữ đập mạnh vào mắt Peale: “Born to Lose” (sinh ra để thua cuộc). Không nén nỗi tò mò, Peale đẩy cửa buớc vào, chỉ vào hàng chữ trên rồi nói: “That one!”

Người thợ xâm không nói không rằng chỉ lẳng lặng ra hiệu cởi áo ngoài ra thì Peale liền xua tay: “Không! Tôi không có ý xâm đâu nhưng chỉ muốn hỏi là đã có ai vào xâm hàng chữ ‘Born to Lose’ kia chưa?” “Cũng có vài người.” “Ông không đùa đấy chứ?” Peale trố mắt kinh ngạc. Bằng một giọng lơ lớ tiếng Anh, người thợ xâm bình thản trả lời: “Before tattoo on chest, tattoo on mind.” (Truớc khi xâm trên ngực, [họ] đã xâm trong đầu rồi)…

Peale choáng váng mặt mày như không tin vào tai mình nữa. Sao ai lại vào đây và xâm trên da thịt mình những chữ rất tiêu cực kia? Oái ăm thay! Điều gì cũng có thể xảy ra dưới ánh mặt trời này!!!

Thực thế, linh mục tâm lý gia dòng Tên John Powell đã viết là có những người không bao giờ tin tưởng vào khả năng mình. Giả như có ai nhờ điều gì hoặc cậy việc chi, họ điều tìm đủ mọi cách từ chối thoái thác. Có thể một phần vì ngại ngùng, nhưng cũng có thể phần lớn của sự ngại ngùng kia là họ không tin chính vào sức mình.

12. Đức tin đòi được chia sẻ

Cách đây mấy năm, có một ông lão được nhận vào bệnh viện để điều trị bệnh. Sau khi ông cụ được dễ chịu, cô y tá hỏi ông lão vài câu hỏi theo thông lệ, vì cô phải điền vào một trong các giấy tờ thủ tục nhập bệnh viện. Một trong những câu cô hỏi ông lão là: “Tôn giáo ông quí chuộng hơn cả là tôn giáo nào?" Cụ già nhìn cô y tá và nói: “Tôi rất vui sướng được cô hỏi câu ấy, tôi luôn luôn muốn là một người công giáo, nhưng trước đây chưa có ai hỏi tôi như vậy. Chính cô là người đầu tiên hỏi tôi câu ấy."

Câu chuyện có thực trên đặt cho chúng ta một vấn đề gây bối rối: Tại sao trong chúng ta có nhiều người do dự khi phải chia sẻ đức tin của mình với kẻ khác? hoặc chúng ta có thể đặt lại câu hỏi này như sau: Nếu chúng ta tin rằng Phúc Âm thực sự là Tin Mừng, thì tại sao chúng ta lại không chia sẻ nó với kẻ khác? hoặc nếu chúng ta tin Đức Giêsu là kho tàng vĩ đại nhất mà chúng ta có thể chiếm hữu được, thì tại sao chúng ta không chia sẻ với người khác đức tin của mình nơi Đức Kitô?

13. Học cho biết lắng nghe

William Arthur Ward (1921-1994) nhận định: “Trước khi nói, hãy lắng nghe; trước khi viết, hãy suy nghĩ; trước khi chi tiêu, hãy kiếm được; trước khi đầu tư, hãy tìm hiểu; trước khi phê phán, hãy chờ đợi; trước khi cầu nguyện, hãy tha thứ; trước khi bỏ cuộc, hãy thử làm; trước khi nghỉ hưu, hãy tiết kiệm; trước khi chết, hãy cho đi." Thính giác là một trong ngũ quan, nhưng là giác quan quan trọng nhất. Lắng nghe là một nghệ thuật, vì còn phải biết cách nghe.

Có thể nói rằng phải thực sự khiêm nhường mới có thể lắng nghe. Nói là gieo, nghe là gặt. Nghe có lợi hơn nói: Nói ít thì sai ít, nói nhiều thì sai nhiều, không nói thì không sai. Người ta ví von:“Người nói hay không bằng người nghe giỏi."

Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential có một slogan thật thú vị: “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu." Dĩ nhiên lời đó không thể tuyệt đối vì nặng tính “quảng cáo”, có chút gì đó là “nổ” mà thôi, nhưng qua đó, chúng ta biết được rằng việc “lắng nghe” có tầm quan trọng riêng. Lắng nghe là nghe thấy và chú ý, chứ không nghe cho “có lệ”, nghe vì “không điếc." Nghe và hiểu có hệ lụy với nhau.

Tuy nhiên, hai động thái “lắng nghe” và “thấu hiểu” lại có một khoảng cách nhất định, đồng thời còn có những mức độ khác nhau, thậm chí có thể chúng ta vẫn nghe nhưng không hiểu (x. Lc 8:10), và Chúa Giêsu đã phải nhắc nhở nhiều lần: “Ai có tai thì nghe” [ai có tai nghe thì (hãy) nghe] (Mt 11:15; Mt 13:9; Mt 13:43; Mc 4:9; Mc 4:23; Mc 7:16; Lc 8:8; Lc 14:35; Kh 13:9).

14. Dòng suối vọng từ xa.

 Một nhà thám hiểm nọ, lạc mất giữa sa mạc, đi từ đụn cát này sang cồn cát nọ, nhìn hết hướng này sang hướng kia, nơi đâu cũng chỉ thấy toàn là cát với cát. Lê gót trong tuyệt vọng, tình cờ, chân ông vấp phải một cây khô, ông vấp ngã và nằm vùi trên gốc cây, ông không còn đủ sức để đứng lên, ông không còn đủ sức để chiến đấu và ông cũng không còn chút hy vọng sống sót nào.

 Trong tư thế bất động ấy, nhà thám hiểm bỗng ý thức được sự thinh lặng của sa mạc: bốn bề chỉ có thinh lặng. Thình lình, ông ngẩng đầu lên, trong sự thinh lặng tuyệt đối của sa mạc, ông bỗng nghe được như có tiếng thì thào yếu ớt vọng lại bên tai. Dồn tất cả sự chú ý, nhà thám hiểm mới nhận thức: đó là tiếng róc rách chảy của một dòng suối từ xa vọng lại. Như sống lại từ cõi chết, ông định hướng nơi xuất phát của tiếng suối, rồi dùng nguồn năng lực còn sót lại, ông cố gắng lê lết cho đến khi tìm được dòng suối.

 Cuộc sống có quá nhiều bận rộn và ồn ào, khiến chúng ta không nghe được tiếng nói và nhận ra sự hiện diện của Chúa. Có thinh lặng từ cõi lòng chúng ta mới nghe được tiếng mời gọi thì thầm của Chúa trong từng giây phút của cuộc sống.

15. Thánh Phanxicô Borgia.

 Phanxicô Borgia (1510-1572) được cắt cử tháp tùng thi hài của hoàng hậu Isabelle, một mỹ nhân sắc nước hương trời, đến chỗ an táng của hoàng tộc. Trước khi hạ huyệt, quan tài được mở ra để được xác nhận. Cảnh tượng đã làm đảo lộn cuộc đời chàng. Phanxicô từ biệt triều đình, vào dòng Tên, trở nên vị thánh. Tổng quyền thứ ba của dòng. Ngài nói: ”Từ nay mọi danh vọng và lạc thú trần gian chẳng dính dáng gì đến Phanxicô nữa”! Phanxicô Borgia đã nghe một tiếng gọi từ bên trong.

 Ngày hôm nay, trên khắp mọi nẻo đường trần gian, chúng ta vẫn có thể giáp mặt với Đức Giêsu khi Ngài đi ngang qua giữa chúng ta, như xưa Ngài đãõ “đi ngang qua” giữa các môn đệ bên bờ sông Giorđan.

 Đức Giêsu không bao giờ ép uổng, không bao giờ giăng bẫy rình bắt ai. Ngài chẳng hề làm áp lực, cũng không tìm cách mê hoặc dụ dỗ người nào. Nguời ta vẫn có thể đi sát bên Ngài mà không hay biết, vẫn có thể thấy Ngài mà không buồn nhìn theo. Có khi chúng ta phải cần đến cái nhìn hay lời khuyên của một ai khác, của ai đó thì thầm bên tai “Đây là chiên Thiên Chúa." Tuy nhiên chỉ có người nào biết tìm kiếm và khát khao chân lý và tình yêu thật mới có thể nắm bắt, mới có thể lay động và lắng nghe (Fiches dominicales B, tr 66).

16. Lóng bác ái thu hút

Chuyện kể rằng: một hôm, trên đường trở về nhà xứ, một linh mục kia vừa đi vừa cầm trí đọc kinh. Có hai thanh niên cùng về chung đường. Khi đã đi cách linh mục kia một đoạn khá xa, họ gặp một người hành khất ngồi bên lề đường giơ tay xin họ. Một anh cho ông ấy mấy đồng lẻ trong khi anh kia nảy ra một ý tưởng, anh nói với bạn:

 - Ông cha hồi nãy thế nào cũng đi qua đây. Tôi cá với anh là ông ta chẳng bố thí cho người ăn mày này đâu, chúng ta thử rình xem.

 Cả hai trốn vào bụi cây gần đó. Ít phút sau, vị linh mục kia đi tới. Ngài đứng lại nhìn người ăn mày, đưa tay lục hết túi trên túi dưới, rồi nói với người ăn mày:

 - Ông bạn đáng thương ơi, rất tiếc tôi chẳng có đồng nào giúp ông.

 Hai thanh niên nghe thấy thế thì khúc khích cười nói:

 - Anh thấy chưa, tôi nói có sai đâu.

 Lúc ấy người ăn mày lại tiếp tục nài xin. Vị linh mục nhìn người ăn mày rồi bảo ông ta:

 - Ông đợi tôi một chút.

 Ngài nhìn trước nhìn sau, rồi chui vào bụi cây gần đó, loay hoay một hồi rồi bước ra, tay cầm một chiếc quần dài đã cuộn gọn lại. Ngài đưa cho người ăn mày và ân cần nói:

 - Đây, ông bạn cầm đỡ chiếc quần này, tuy nó hơi cũ lại đang mặc dở dang, nhưng có lẽ nó cũng giúp phần nào cho ông bạn. Nhớ đừng kể cho ai nghe đấy. Thôi tôi đi nhé.

 Hôm sau, có hai người khách lạ đến bấm chuông nhà xứ rất sớm và xin xưng tội. Vị Linh mục nhận ngồi toà giải tội ngay. Và tất cả đầu đuôi câu chuyện đã được hai thanh niên thuật lại, lòng hối hận, dạ chân thành ăn năn. Vị Linh mục ngẩn ngơ thốt lên:

 - Ôi Thiên Chúa nhân lành, chỉ với một chiếc quần cũ thôi mà Ngài đã đem về cho con những hai linh hồn. Tạ ơn Chúa.

17. Tìm danh

Có người đã để cả cuộc đời của mình đi tìm danh vọng. Họ sẵn sàng trả mọi giá để có được nó.

Hêrôđê là một thí dụ. Ông đã trả một giá khá cao để có được ngai vàng và để bảo vệ ngai vàng đó ngay từ lúc vừa mới lên ngôi ông đã cho thủ tiêu các thành viên trong Tòa Án Tối Cao của người Do thái. Sau đó ông đã không ngần ngại tàn sát các nhân viên trong tòa án mà không cần suy tính trước. Chưa hết vì sợ cả những người trong gia đình có thể làm nguy hại đến ngai vàng của mình ông đã giết luôn người vợ là bà Mariamne và người mẹ nàng là bà Alexandra. Giết như vậy cũng chưa đủ, ông giết luôn người con trưởng là Antipater, và sau đó là hai người con trai thứ: đó là Alexander và Aristobolus. Giết như vậy ông cũng chưa an tâm, ngay khi còn trị vì ông đã lên kế hoạch để tàn sát hết các nhân sĩ tại thành Giêrusalem khi ông lâm chung.

Và chắc hẳn anh chị em không thể nào quên việc ông đã cho lệnh giết hết các trẻ thơ từ hai tuổi trở xuống tại thành Bêlem và các vùng phụ cận chỉ vì sợ sau này một trong những đứa trẻ ấy sẽ chiếm mất ngai vàng của ông!.

Vâng đó là một thí dụ trong muôn ngàn thí dụ cho chúng ta thấy cái giá phải trả cho một cho một cuộc săn tìm danh vọng. Thế nhưng rồi cuộc đời của ông sẽ đi về đâu? Có sống mãi để ngự trên cái ngai vàng mà ông đã phải trả một giá quá đắt để bảo vệ nó không? Lịch sử cho chúng ta thấy kết cục cuộc đời của ông cũng là chốn lao tù và ông đã phải nhận một cái chết không toàn thây!

18. Tìm tiền.

Có người dành suốt đời để tìm tiền bạc. Để biện minh cho việc tìm kiếm tiền bạc là một điều chính đáng người ta đã mặc cho tiền bạc một giá trị hầu như thần thánh, có một sức mạnh vô song

Tiền là tiên là phật.
Là sức bật của lò so.
là thước đo của lòng người.
Là nụ cười của tuổi trẻ
Là sức khỏe của người già.
Tiền là hy vọng.
Là cái lọng che thân
Là cái cân công lý.
Tiền là hết ý.

Tiền bạc cần thật. Rất cần là đàng khác nhưng nó không phải là thần, là thánh như nhiều người tưởng.

19. Nô lệ cho tiền của

Vua Louis XV thăm thống chế De Saxe trong cơn hấp hối.

- Nhà ngươi muốn xin gì thì cứ xin, ta sẽ ban cho.

- Tâu hoàng thượng xin hoàng thượng cho hạ thần được sống thêm một giờ nữa để thanh toán các việc cho xong.

Vua Louis quyền thế nhưng cũng phải ngậm ngùi rút lui.

Ngày kia, một nhà tỷ phú trên giường chết đã phải tuyên bố:

- Trong 40 năm trời, tôi đã làm việc như người nô lệ để chất đống của cải lên; sau đó tôi lại phải coi giữ như một thám tử và tất cả những của cải đó đã cho tôi cái gì? Thức ăn, nhà ở và quần áo…, chỉ có thế chứ không còn gì hơn nữa.

Tiền bạc cần nhưng chỉ cần như một giá trị trao đổi chứ không cần như là mục đích.

20. Tìm lạc thú.

Có người cả đời đi săn tìm lạc thú

Cha Michel Quoist bảo: "Lạc thú là một cơn đói không bao giờ biết no, một cơn khát không bao giờ thỏa."

Augustinô lúc còn trai trẻ đã nếm đủ hết mọi thứ lạc thứ ở trên đời. Nhưng rồi cũng chính chàng thanh niên đó sau khi đã chán ngán với những thứ mình đã hưởng thụ phải thốt lên: "Hỡi Augustinô! Khi săn đuổi lạc thú ngươi đã tìm thấy cái gì?"

21. Phút đầu gặp gỡ

Mấy vần thơ của Thế Lữ: “Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, ngàn năm hầu dễ mấy ai quên” hẳn cũng diễn tả tâm trạng của hai môn đệ lần đầu gặp gỡ Đức Ki-tô. Khi nghe Gio-an Tẩy giả giới thiệu Chúa Giê-su: “Đây là Chiên Thiên Chúa”, hai ông bị cuốn hút và đi theo Ngài. Giây phút họ gặp Chúa thật ấn tượng đến độ họ nhớ rất rõ: “Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười." Như Mô-sê được Đức Chúa thu hút qua ngọn lửa cháy trong bụi gai, ngôn sứ Giê-rê-mi-a cũng thú nhận: “Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con và con đã để cho Ngài quyến rũ” (Gr 20,7). Đức Ki-tô có sức thu hút diệu kỳ khiến cho các ông “đến và ở lại với Ngài." Và các ông đã ở lại mãi và trở thành môn đệ của Ngài.

ĐTC Phan-xi-cô nói: “Đức Ki-tô Đang Sống, Ngài không bao giờ là lỗi thời, không bao giờ mất sự hấp dẫn, trẻ trung, Ngài là Đấng Cứu độ cho nhân loại” (Tông huấn Đức Ki-tô đang sống). Đó là sức hút của “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1,29), sức hút của thập giá, của hiến thân chịu chết để bạn được “giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền trống rỗng và cô đơn trong tâm hồn” (số 119). Bạn có buông bỏ mình để Chúa “quyến rũ” bạn “vác thập giá” và đi theo Ngài không?

Bạn vác thập giá mình đi theo Chúa bằng cách mỗi ngày bạn làm ít là một việc hy sinh, phục vụ.

22. Hãy đến mà xem

Có hai người bạn thân thiết cùng quyết chí lên đường tìm cho kỳ được điều quý giá nhất trên đời. Mỗi người đi một ngả và hẹn sẽ gặp lại nhau khi đã đạt được ước nguyện.

Người thứ nhất lặn lội đi tìm viên ngọc mà ông cho là quý giá nhất. Ông băng rừng vượt biển, đi đến bất cứ nơi đâu nghe nói có bán đá quý. Cuối cùng, ông đã thỏa mãn vì tìm mua được một viên ngọc tuyệt hảo. Trở lại quê hương, ông có ý chờ đợi người bạn thân, vừa để khoe viên ngọc của mình, vừa tò mò muốn biết điều quý giá của bạn mình là gì.

Nhiều năm trôi qua mà người bạn vẫn bặt vô âm tín. Ông đi khắp nơi để mong thụ giáo với các bậc hiền nhân để hỏi xem: “Muốn tìm gặp được Thiên Chúa thì phải làm gì?” Ông cũng tìm đọc các sách đạo đức, nghiền ngẫm suy tư, nhưng rồi ông vẫn chưa gặp được Thiên Chúa... Một ngày kia, đang thơ thẩn đi dọc theo một con lạch nhỏ, ông bỗng thấy một con vịt mẹ và một đàn vịt con đang bơi lội. Ðàn vịt con cứ muốn tách ra đi riêng để mò tôm tép, vì thế, vịt mẹ cứ phải kiên nhẫn lặn lội tìm hết đứa con này đến đứa con kia, muốn chúng phải quay về với đàn. Ngẫm nghĩ một lúc, ông chợt mỉm cười rạng rỡ và vội vã lên đường trở về quê hương với hai bàn tay trắng.

Vừa gặp lại nhau, người bạn tìm được ngọc quý đã buột miệng hỏi: "Nào, anh hãy cho tôi xem món đồ quý giá nhất mà anh đã tìm được. Tôi nghĩ đó phải là một cái gì tuyệt diệu, bởi vì trông anh thật hạnh phúc mãn nguyện!"

Người bạn trở về với hai bàn tay trắng nhưng tâm hồn thì tràn ngập hân hoan liền cất tiếng trả lời: "Tôi đã đi tìm Thiên Chúa, và cuối cùng tôi mới hiểu ra rằng: chính Thiên Chúa, Người đã đi tìm gặp tôi!"

23. Mầu nhiệm ơn gọi

Trong cuốn “Trên Đường Lữ Hành”, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể câu truyện “Được Gọi để Gọi.” Câu truyện viết về một chị nữ tu tên Céline, giữ nhiệm vụ coi nhà khách và trực khách tại tu viện.

Trong suốt 40 năm trường, chị nữ tu ấy chỉ làm một việc duy nhất: đi gọi người khác để gặp khách. Chị thường nói đùa: “Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ dạo ấy, tôi luôn luôn gọi người khác. Tôi được gọi để gọi.”

Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng. Công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh. Việc làm của chị luôn bị gián đoạn để tạo nên sự liên lạc cho những người khác. Mọi người đều “lấy cắp” thời giờ của chị, nhưng chị vẫn vui tươi trong nhiệm vụ.

Thế rồi, một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người khác, chị Céline đã ngã qụy trên hành lang nhà dòng. Chị bị thổ huyết vì chứng lao phổi, chị thều thào trong hơi thở cuối: “Chúa đến gọi tôi lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng.” Sau đó, chị đã bình an ra đi theo tiếng Chúa gọi.

Chị nữ tu Céline đã đáp lại tiếng Chúa gọi và suốt đời trung thành với Ơn Gọi của mình: “được Chúa gọi để gọi người khác.” Hôm nay, Tin Mừng theo thánh Gioan cũng thuật lại ơn gọi của thánh Gioan, Anrê và Phêrô. Qua lời giới thiệu của thánh Gioan Tẩy Giả: “Đây là Chiên Thiên Chúa”, Gioan và Anrê đã bỏ thầy mình là Gioan Tẩy Giả để đến với Chúa và trở thành môn đệ của Chúa. Sau khi đã gặp gỡ Chúa, Anrê lại trở về gọi anh mình là Simon Phêrô đến gặp gỡ Chúa và đi theo Ngài.

24. Tìm gì thế?

Nước Tống có người được hòn ngọc, đem biếu quan Tư thành là Tử Hãn. Tử Hãn không nhận, người biếu ngọc thưa rằng:

- Ngọc này tôi đã cho thợ ngọc xem, quả là một thứ ngọc rất báu nên mới dám dâng quan lớn. Xin quan lớn nhận cho tôi vui lòng.

- Ngươi cho ngọc là của báu, ta cho tính không tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận thì hai bên cùng mất cả của báu. Âu là ngươi cứ đem về. Ai giữ lấy vật báu của người ấy, như thế vật báu của hai người còn cả. Thế chẳng hơn ư?

Người biếu ngọc cúi đầu thưa:

- Chúng tôi là thường dân mà lại có ngọc quí này, chỉ sợ bị trộm cướp mà có khi hại đến thân.

Tử Hãn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc đến giũa ngọc, bán được tiền rồi, bèn đưa cho người ấy để làm giàu.

Sống niềm tin vào Đức Kitô không nhất thiết là thông hiểu giáo lý, mà cốt yếu ở tại biết mình tìm điều gì, và phải làm gì. Tin theo Đức Kitô, do đó, không chỉ đơn giản là lời tuyên xưng niềm tin ngoài miệng mà đòi phải thay đổi cả cuộc sống. Các môn đệ đầu tiên của Đức Kitô là những kiểu mẫu cho hành trình tin theo Đức Kitô: Khi đến với Gioan Tẩy giả, họ tỏ ra khao khát tìm một lẽ sống; khi Đức Giêsu được giới thiệu với họ, họ “liền đi theo Đức Giêsu.” Điều kiện đầu tiên của đức tin, do đó, là một tâm hồn sẵn sàng, như Sa-mu-en dù đang lúc ngủ say mà nghe Chúa gọi liền thưa: “Dạ, con đây” và chạy ngay để tìm biết Chúa muốn gì.

Thầy Rabbi Samlai thuyết giảng: Sáu trăm mười ba điều luật đã được ban cho Mô-sê (…) Rồi Đa-vít rút gọn lại còn mười một điều. Sau đó đến tiên tri Isaia rút lại còn sáu điều. Rồi đến tiên tri Mica rút lại chỉ còn ba. Một lần nữa tiên tri Isaia lại rút chúng lại thành hai điều, là sống chính trực và công minh, như đã được viết: “Đức Chúa được suy tôn, vì Người ngự trên chốn cao vời. Người làm cho Xi-on được đầy chính trực công minh” (Is 33,5). Và cuối cùng là đến tiên tri Amốt rút lại chỉ còn một điều, là “Hãy tìm Ta thì các ngươi sẽ được sống” (Am 5,4).

Thiên Chúa là điều tôi cần và phải tìm suốt đời. Thành bại đời tôi là ở đó, nhưng có nhiều lúc tôi phải tự hỏi lại mình: “Tôi tìm gì thế?”

Lời Chúa Tuần 2 Thường Niên

Thường niên V-GS C-PS Ngoại lịch