CÁC BÀI SUY NIỆM
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
Lời
Chúa: G 7,1-4.6-7; 1Cr 9,16-19.22-23; Mc 1,29-39
MỤC LỤC
4. Đi gieo Tin Mừng –
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Giải phóng đau
khổ - ViKiNi
6. Ơn Chữa Lành – Lm.
Vũ Đình Tường.
7. Đời sống thường
nhật – An Phong, OP.
9. Suy niệm của Lm.
Nguyễn Văn Hiền
13. Sống hết mình vì
mọi người
14. "Xin
cho con một tấm lòng như Chúa"
17. Được chữa lành
và phục vụ.
18. Suy niệm của Lm.
Nguyễn Văn Phan, CSsR.
19. Suy niệm của Lm.
Gioan Nguyễn Văn Ty.
22. Sống tình liên
đới Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
23. “Đức Giêsu,
Thầy thuốc của tâm hồn”
24. Một ngày sống –
Lm. Phêrô Trịnh.
25. Người còn rao
giảng ở nơi khác
27. Cái tình của Chúa
Giêsu - Lm. Thu Băng
28. Động lực của việc
tông đồ – Radio Veritas Asia.
29. Bà phục vụ các
ngài - Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu.
30. Làm việc cho
Vương quốc Nước Trời
31. Niềm vui vì được
chữa lành – Thiên Phúc
34. Tránh nhưng
không trốn sự đau khổ.
35. “Chúa Giêsu
chữa lành và rao giảng”
36. Chiều và sáng. Lm
Nguyễn Cao Siêu
39. Cái tình của Chúa
Giêsu - Lm. Thu Băng
40. Ngôn ngữ của con
tim – Jean Ralté.
41. Không có nghỉ
ngơi cho việc tốt
43. Chúa Giêsu,
người Công Giáo đầu tiên.
50. Nghỉ ngơi và yên
tĩnh – Lm. Mark Link
51. Chúa Giêsu,
niềm hy vọng của loài người.
53.
"Người đến gần cầm tay nâng bà dậy."
57. Con đã viếng thăm
Ta - Athur Tonne
Hãy siêng năng làm việc theo. Lm
Carolo Hồ Bạc Xái
Tiếp xúc với Cha trên trời Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Tôi còn rao giảng tin mừng ở...Lm.
Phêrô Lê văn Chính
Lao động và cầu nguyện Lm.
Gio.M. Nguyễn Thiên Khải,CMC
Người đến gần cầm tay... Noel
Quesson
Ngay giữa lúc thi hành sứ vụ Fiches
Dominicales
Sức mạnh của việc cầu nguyện
Lm Giuse Đinh tất Quý
Ngày làm việc của Chúa Lm
Giuse Đinh tất Quý
Cứu vớt con người Sưu tầm
1. Ma quỷ
Nghĩ
tới ma quỷ, chúng ta thường mường tượng ra một thằng người, vừa đen đủi lại vừa
xấu xa, vừa có sừng lại vừa có đuôi. Nhưng đó chỉ là một hình ảnh ấu trĩ mà
thôi. Trong bức thư gởi tín hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã vẽ về nó bằng một đường
nét khác, ngài gọi nó là quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
Đúng
thế, nhìn vào thế giới hôm nay, chúng ta thấy nó đang mở rộng ảnh hưởng, đang
bành trướng thế lực trong mọi lãnh vực. Từ khoa học kỹ thuật, cho đến sách báo
phim ảnh. Chúng ta hãy nghĩ đến sách báo phim ảnh khiêu dâm, trình bày những
tình cảm bệnh hoạn cùng với những vụ giết chóc dã man. Chúng ta hãy nghĩ tới
những cuộc chạy đua vũ trang. Chỉ nguyên chương trình phòng thủ không gian của
Mỹ, cũng đã tốn tới hằng tỉ mỹ kim, trong khi đó trên thế giới biết bao nhiêu
người túng đói, chén cơm không có mà ăn, manh áo không có mà mặc. Chúng ta làm
được những gì để ngăn chặn làn sóng tội ác, hay là chúng ta để mặc cho quyền
lực của đêm tối cứ mỗi ngày một lan rộng.
Tội
ác đã có từ lâu, nhưng ngày hôm nay, nó được tăng lên với một vận tốc kinh
khủng, khiến cho con người như không còn ý thức về nó nữa. Người ta huỷ bỏ án
tử hình vì cho đó là một hình phạt quá nặng nề. Thế nhưng khi được hỏi về những
vụ phá thai, thì họ lại bảo đó là chuyện khác. Rồi khi được hỏi về những vụ
ngoại tình, và ly dị, thì họ lại bảo con người có quyền được sống hạnh phúc.
Dường như là cái nền văn minh vật chất, chỉ đem lại cho chúng ta một cái bộ mặt
bên ngoài hào nhoáng, nhưng lại đánh mấy cái ý nghĩa, cái nền tảng bên trong.
Vậy thì phải chăng quyền lực của đêm tối cứ tiếp tục trải dài. Và ai sẽ chiến
thắng được nó?
Tôi
xin thưa, người duy nhất đã chiến thắng được nó là Đức Kitô. Còn chúng ta, muốn
chia sẻ phần chiến thắng, thì chúng ta phải mang lấy vũ khí của Ngài. Vũ khí ấy
là gì? Tôi xin thưa đó là đức tin. Không phải chỉ là một đức tin được thực hành
ở trong nhà thờ, nhưng là một đức tin mạnh mẽ và sống động, một đức tin vô điều
kiện có nghĩa là ở mọi nơi và trong mọi lúc, gặp bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn
chấp nhận Thiên Chúa là Chủ tể tuyệt đối, đồng thời cố gắng biểu lộ đức tin ấy
bằng những việc làm cụ thể.
Ma
quỷ không thể tác động trên chúng ta nếu như chúng ta đã không giao nộp cho nó
tâm hồn và thể xác. Đồng thời niềm tin vào Đức Kitô sẽ là sức mạnh duy nhất làm
cho ma quỷ phải khiếp sợ và bỏ chạy. Nhờ đó mà chúng ta được giải thoát khỏi
quyền lực của đêm tối, quyền lực của tội ác.
2. Xoa dịu nỗi đau khổ
Qua
đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi nhận thấy cuộc đời của Chúa Giêsu là một sự dung
hoà tốt đẹp giữa đạo và đời. Thực vậy Ngài không phải chỉ hăng say rao giảng
Phúc Âm, cứu rỗi phần hồn của chúng ta mà hơn thế nữa, bằng những hành động bác
ái yêu thương, Ngài còn xoa dịu những nỗi đớn đau và thống khổ của chúng ta.
Ngài đã đẩy lui cơn sốt cho bà mẹ vợ của Phêrô, Ngài đã chữa lành mọi bệnh hoạn
tật nguyền và dân chúng tuốn đến với Ngài thật đông đảo. Phải chăng đây cũng là
điều chúng ta cần noi gương bắt chước và thực hiện trong cuộc sống của chúng
ta, để nhờ đó bản thân chúng ta trở nên những chứng nhân sống động của Chúa và
mọi người cũng nhờ đó mà nhận biết tình thương của Ngài.
Tại
một trung tâm y tế thuộc mạn đông nam bang Carolina bên Hoa Kỳ, hình ảnh đầu
tiên mà các bệnh nhân ghi nhận được, đó là nụ cười của cụ bà Florence. Từ 6 giờ
sáng, bà cụ lái xe khoảng 10 cây số đến bệnh viện và ở lại đó 8 giờ trong một
ngày và 7 ngày trong một tuần. Bà cụ có mặt bên cách bệnh nhân để chăm sóc họ
và an ủi những thân nhân của họ. Còn những lúc rảnh rỗi, bà cụ lại cặm cụi đan
những đôi vớ cho các bệnh nhân. Năm vừa qua, bà cụ đã đan được 395 đôi. Bà cụ
không phải là một người có trình độ văn hoá cao, bởi vì lúc còn nhỏ, thân phụ
bà cụ không muốn cho các con gái của mình được học hỏi nhiều. Lập gia đình, bà
cụ có 7 người con và làm việc trong một tiệm thuốc tây. Tháng 4 năm 1983, sau
một cuộc giải phẫu, bà cụ bắt đầu xuất hiện trong bệnh viện với chiếc nạng gỗ
nhưng vẫn vui vẻ giúp đỡ mọi bệnh nhân. Trong năm 1988, với 365 ngày bà đã có
mặt tại bệnh viện 2920 giờ. Bà nói: Năm nay tôi đã 92 tuổi, nếu được khoẻ mạnh
thì tôi vẫn còn đến đây với nụ cười trên môi.
Từ
câu chuyện trên chúng ta thấy nỗi đau khổ của bản thân sẽ được vơi nhẹ nếu
chúng ta cố gắng xoa dịu nỗi khổ của người khác. Đúng thế, đau khổ không được
chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, mà còn bằng những nghĩa cử chúng ta làm cho
người khác. Bà cụ trong câu chuyện hẳn không phải là người không đau khổ. Tuổi
già, bệnh tật, cô đơn, có ai mà lại thoát khỏi phần số đâu. Thế nhưng với nụ
cười trên môi, với đôi chân khập khiễng bà cụ đã ra khỏi chính mình để đến với
người khác. Ra khỏi chính mình đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt nỗi
khổ đau riêng tư. Có ai sống mà lại không có khổ đau, không có thập giá, thế
nhưng sức nặng của thập giá sẽ vơi nhẹ nếu như chúng ta biết ra khỏi chính mình
để đến với tha nhân, giúp đỡ và xoa dịu nỗi khổ đau của người khác. Không ai
quá nghèo để không thể cho đi. Một nụ cười cảm thông, một ánh mắt khích lệ, một
bàn tay nâng đỡ, một chén cơm nhỏ bé được chia sẻ với tất cả tấm lòng yêu
thương, phải chăng đó là những cái chúng ta có thể cho đi, phải chăng đó là
những cái mà nhiều người đang mong đợi nơi chúng ta. Chính trong lúc cho đi như
thế chúng ta cảm nghiệm được một niềm vui trong lành, vì cho đi thì vui sướng
hơn là lãnh nhận và lời kinh hoà bình của thánh Phanxicô còn vang vọng như một
câu kết luận: Vì chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình
là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc
chết đi là khi vui sống muôn đời.
3. Cứu vớt con người
Quang
cảnh náo nhiệt ngày hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giêsu muốn đi vào cuộc sống
con người biết mấy. Thực vậy, Ngài vừa mới rao giảng ở hội đường xong, liền đi
về nhà của Phêrô và Andrê. Không một hoàn cảnh đau thương nào mà không gởi lên
nơi cõi lòng Ngài một nỗi cảm thông chia sẻ. Vì thế, Ngài đã tiến lại gần, cầm
tay và chữa lành cho bà mẹ vợ của Phêrô đang lên cơn suốt. Rồi từ đó, mọi người
trong thành đã tuốn đến với Ngài, xin Ngài cứu chữa đủ mọi chứng bệnh phần xác.
Thế
nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở những ốm đau phần xác, mà hơn thế
nữa, Ngài còn muốn cứu chữa những tật bệnh phần hồn. Đây mới là điểm quan trọng
trong sứ mạng của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã phán với các môn đệ: Chúng ta
hãy đi tới những nơi khác để Thầy còn rao giảng Tin Mừng ở đó nữa.
Trải
qua dòng thời gian Giáo Hội đã noi gương bắt chước Chúa Giêsu, đẩy mạnh hai cố
gắng, hai hoạt động, đó là xoa dịu những đớn đau cho những người bất hạnh và
dẫn đưa họ trở về cùng Chúa. Để xoa dịu những đớn đau phần xác Giáo Hội đã lập
nên biết bao nhiêu nhà thương; biết bao nhiêu viện dưỡng lão, biết bao viện cô
nhi. Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng ý thức bổn phận chính yếu của mình là đem
Chúa đến cho mọi dân tộc. Vì thế, từ xa xưa cho đến ngày hôm nay, Giáo Hội
không ngừng gởi các môn đệ, các thừa sai, các tông đồ của mình tới những vùng
đất xa lạ để rao giảng Tin Mừng cho tất cả những ai chưa nhận biết Chúa. Chữa
lành những tật bệnh phần xác đã là điều tốt, huống nữa là chữa lành những tật
bệnh phần hồn, bởi vì chính linh hồn mới là một kho tàng quý giá, chúng ta có
bổn phận phải gìn giữ, phải bảo toàn, phải cứu độ như lời Chúa Giêsu đã nói:
Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi gì?
Ringhoff
là một thuỷ thủ người Đức. Trong dịp mừng thượng thọ 80 tuổi người ta tới tấp
đến thăm viếng và gởi lời chúc mừng. Trong số những người gởi lời chúc mừng có
Bộ trưởng Công Chánh. Trong bức thư, ông Bộ trưởng hết lời khen ngợi ông thuỷ
thủ già, bởi vì trong suốt thời gian hành nghề, ông thuỷ thủ già đã vớt được
tất cả 126 người khỏi chết đuối.
Câu
chuyện này hẳn phải làm cho chúng ta suy nghĩ. Đúng thế, cứu vớt người khỏi
chết về phần xác là một hành động cao cả và tốt đẹp. Vậy thì cứu vớt người khỏi
chết về phần hồn lại càng cao cả và tốt đẹp hơn biết chừng nào? Và trong ngày
sau hết chính Chúa sẽ gởi lời chúc mừng đến cho bản thân họ. Còn chúng ta thì
sao? Chúng ta làm được những gì để xoa dịu những đớn đau của người khác và hơn
thế nữa, chúng ta đã làm được những gì để góp phần vào công việc truyền bá Phúc
Âm, dẫn đưa người khác trở về cùng Chúa.
4. Đi gieo Tin Mừng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
Đoạn
Tin Mừng hôm nay tóm tắt một ngày làm việc của Chúa Giêsu. Qua những hoạt động
của một ngày làm việc, Chúa Giêsu đưa ra những chỉ dẫn khuôn mẫu cho người đi
gieo Tin Mừng.
Chỉ
dẫn thứ nhất: Tin Mừng phải được rao giảng. Ngày Sabbát, Chúa Giêsu vào Hội
đường, đọc Sách Thánh và giải nghĩa. Việc đọc và diễn giải Lời Chúa là một phần
quan trọng của đời sống người môn đệ. Vì Tin Mừng phải được rao giảng. Lời Chúa
phải được công bố. Người môn đệ phải say mê rao truyền để cho Lời Chúa trở
thành ánh sáng soi đường cho con người, hướng dẫn tư tưởng, lời nói, hoạt động
của con người. Chính Lời Chúa hướng dẫn con người đi trên đường Sự Thật để đạt
được Sự Sống.
Chỉ
dẫn thứ hai: Tin Mừng phải chứng tỏ bằng yêu thương. Lời nói đi đôi với việc
làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục. Chúa Giêsu đã làm
chứng về điều đó. Ra khỏi Hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon. Bà nhạc của
ông đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà để chữa bà khỏi bệnh.
Thực ra Chúa có quyền năng chỉ cần đứng ngoài cửa phán một lời cũng có thể chữa
bệnh cho bà nhạc ông Simon. Hơn nữa ở vào thời phong kiến với quan niệm nam nữ
thọ thọ bất thân, việc cầm tay phụ nữ có gây nên dị nghị. Nhưng Chúa Giêsu đã
đến tận giường cầm tay bà. Điều này nói lên lòng yêu thương kính trọng. Chúa
không chỉ chữa bệnh mà còn muốn bày tỏ tình người, sự quan tâm âu yếm đối với
người bệnh và cả sự kính trọng đối với phụ nữ nữa.
Chỉ
dẫn thứ ba: Tin Mừng phải đem đến tự do. Mà quỉ luôn muốn giam cầm con người
trong vòng nô lệ. Bị ma quỉ trói buộc con người mất hết ý chí, không còn làm
được việc lành, chỉ có thể làm theo mệnh lệnh ma quỉ. Tin Mừng của Chúa có sức
giải phóng con người. Giải phóng khỏi sự trói buộc của ma quỉ. Giải phóng khỏi
những mặc cảm. Giải phóng khỏi những thói tục hủ lậu, những mê tín cấm ky. Nhờ
đó con người có thể vươn lên, sống xứng đáng với phẩm giá và có thể làm việc
lành phục vụ Nước Chúa. Bà nhạc của Simon là một thí dụ điển hình. Khi được
khỏi bệnh, bà liền đi đứng và làm việc phục vụ Chúa.
Chỉ
dẫn thứ tư: Tin Mừng phải được kín múc từ cội nguồn Thiên Chúa. Sáng sớm, Chúa
Giêsu đến nơi vắng vẻ cầu nguyện. Suốt ngày bận rộn với con người, Chúa Giêsu
phải dành buổi sáng sớm để cầu ngyện. Điều đó cho thấy, đối với Chúa, việc cầu
nguyện là quan trọng biết bao. Chúa Giêsu cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được
kết hiệp với Chúa Cha. Chúa Giêsu cầu nguyện để tìm thánh ý Chúa Cha, tìm sự
hướng dẫn sáng suốt cho cuộc đời. Vì thế trước khi bắt tay vào làm việc, Chúa
cầu nguyện với Đức Chúa Cha để múc lấy nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền
giáo.
Người
môn đệ muốn dẫn thân rao giảng Tin mừng, mở rộng Nước Chúa không thể đi ra
ngoài những chỉ dẫn khuôn mẫu của Thày Chí Thánh. Phải biết múc lấy nguồn sức
mạnh ở nơi Chúa Cha qua việc cầu nguyện. Coi việc cầu nguyện như cội nguồn của
hoạt động, như điểm mấu chốt để đi đến thành công. Chuyên tâm học, đọc, suy gẫm
Lời Chúa để có thể thấu hiểu và trình bày cho người khác. Nhất là phải làm
chứng cho lời rao giảng bằng chính đời sống yêu thương bác ái. Sự yêu thương
kính trọng sẽ đưa con người tới tự do, có thể lam những việc tốt đẹp, góp phần
vào việc phục vụ Tin Mừng.
Lạy
Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống, xin hưỡng dẫn chúng con đi trên đường
của Chúa Amen.
CÂU
HỎI GỢI Ý
1-
Bạn hãy thử tóm tắt những việc Chúa Giêsu làm trong một ngày.
2-
Bạn tha thiết với việc rao giảng Tin Mừng, bạn sẽ làm gì để cho việc rao giảng
Tin Mừng có kết quả tốt đẹp?
3-
Lời nói phải đi đôi với việc làm. Bạn áp dụng câu nói này thế nào trong đời
sống đạo của bạn.
5. Giải phóng đau khổ - ViKiNi
(Trích
trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)
1.
Ông Gióp kêu rên thảm thiết: “Cuộc sống con người là một khổ dịch... Là chuỗi
ngày làm thuê... Số phận tôi là những đêm đau khổ... ngay từ chiều tối, tôi
trằn trọc đến hừng đông."
Lời
than thở đó diễn tả đủ loại đau khổ chồng chất trên đời người: Đau khổ thể chất
thì ít, đau khổ tinh thần thì quá nhiều.
Cuộc sống thể chất là “một khổ dịch." Khổ
dịch vì bao nhiêu công việc nặng nhọc. Con người sống như nô lệ, không còn thời
giờ hóng mát. Mệt mỏi về làm lụng, mệt mỏi về ăn uống, mệt mỏi về chơi bời giải
trí! Còn biết bao nhiêu khổ dịch của bệnh tật, già cỗi, nghèo đói, loạn lạc,
chiến tranh, thiên tai luôn vùi dập con người.
Đau khổ thể chất còn đổ lỗi cho trời đất.
Những đau khổ tinh thần ghê sợ gấp bội, lại do chính con người gây ra. Đó là
những đau khổ tâm lý, đau khổ đạo đức, đau khổ siêu hình (siêu nhiên).
Đau khổ tâm lý là những mặc cảm về “cuộc sống
chỉ là chuỗi ngày làm thuê”, mặc cảm về thân phận hèn hạ tôi đòi, ở đậu. Không
đâu là nhà, luôn luôn bị trôi dạt, bị chao đảo, bị o ép, nên dễ bất mãn, chống
đối người khác, chống đối xã hội, chống đối Thiên Chúa, cuộc sống đầy những tâm
trạng nổi loạn, ghen ghét, hận thù, phản bội, chứng tỏ một tâm lý ấu trĩ, tự ti
mặc cảm, thiếu tự tin, tự chủ, cái đau khổ của Ađam Evà thân phận bùn đất nhưng
lại muốn bằng Thiên Chúa, thân phận là con ếch dưới đáy giếng lại đòi bằng con
bò để căng da phình bụng nổ tan bành mà chết, như trong ngụ ngôn của
Lafontaine. Chừng nào ta thấy được vinh phúc Thiên Chúa đã ban cho mình từ bùn
đất nên con người và từ con người nên con Thiên Chúa, ta mới được hạnh phúc
thật.
Đau khổ đạo đức: “Ngay từ chiều tối, tôi trằn
trọc đến hừng đông." Con người bối rối âu lo, bị ray rứt về những dục vọng
đen tối. Những đam mê sai trái, những dằn vặt ấy đã làm thánh Phaolô phải kêu
lên: “Điều tôi không muốn, tôi lại làm!" Bao nhiêu thiếu sót, bê trễ bổn
phận cũng là những tác nhân gây ra đau khổ: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao
giảng Tin mừng." “Nỗi ray rứt hàng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất
cả các Hội thánh” (2Cr. 11, 28). Sau cùng, thứ đau khổ cùng cực nhất của con
người là thấy “số phận của tôi là những đêm tối đau khổ”, đêm tối là số phận
tôi, không ánh sáng, không tương lai, không hy vọng. Tất cả gia tài, sự nghiệp
ky cóp, bon chen, giành giựt, chèn ép, chạy chọt như con thoi, đều tan ra như
mây khói: “Đời con chỉ là một hơi thở”, một cái thở hắt ra là chấm dứt cuộc
đời, con người câm lặng nhắm mắt lìa đời. Thật ghê sợ, rợn rùng “Mắt con sẽ
không được thấy hạnh phúc bao giờ." Đó là thứ đau khổ siêu hình, thứ đau
khổ về hư vô. Thứ đau khổ mất niềm tin vào Thiên Chúa hằng sống, mất hy vọng
vào Đấng Cứu Độ đời đời.
2.
Ai ai có thể cứu chữa tôi thoát khỏi những thứ đau khổ này? Tất cả nhân loại
đều bó tay, chỉ còn có Đức Giêsu thôi. Chính vì để giải phóng đau khổ này, Đức
Giêsu đã đến trần gian. Người đến để chữa lành đau khổ thể xác và tinh thần. Cụ
thể, hôm nay, Đức Giêsu đến nhà hai ông Simon và Anrê. Họ liền nói cho Người
biết bà nhạc mẫu của ông Simon đang đau liệt. Đức Giêsu đến gần, cầm tay nâng
bà dậy. Bà liền hết sốt. Một cử chỉ thân tình xoa dịu mọi lo âu thống khổ của
gia đình. Người đến làm cho cảnh gia đình sầu khổ được sống lại hân hoan.
Cơm chiều đã dọn sẵn, chỉ vài món ăn thanh
đạm, nhưng vị thượng khách chẳng kể chi. Cùng ngồi quây quần với mọi người,
Người thanh thoát niềm nở kể chuyện. Câu chuyện trong sáng, giản dị. Mọi người
đón nghe Tin mừng chan chứa niềm vui và hy vọng vào tương lai vinh phúc bất
diệt của con người. Mọi xao xuyến, sầu khổ biến tan. Những nụ cười tươi nở,
những ánh mắt sáng lên. Họ nhìn Người xiết bao trìu mến và đầy tin tưởng. Hoàng
hôn buông xuống, chấm dứt ngày nghỉ lễ Sabbat, cả thành ùn ùn kéo đến nhà ông
Simon. Ông mở rộng cửa, dọn dẹp sân vườn đón tiếp bà con xa gần. Simon mở cửa
nhà càng rộng, Đức Giêsu càng giang rộng đôi cánh tay âu yếm, thương mến đón
tiếp mọi hạng người: nghèo hèn, sang giàu, đau khổ, bệnh tật, đủ loại quỷ ám và
tội lỗi. Nhà Simon thành đại gia đình tình thương của Chúa. Suốt tối hôm đó,
Người chữa lành mọi vết thương tâm hồn và thể xác. Người luôn tay chúc phúc cho
tất cả toàn dân. Trời về đêm cũng không cản nổi giòng thác người sầu khổ tuôn
đến với Người. Người không biết mệt, tay vẫn giơ lên chạm đến từng người, miệng
luôn đọc lời chúc lành bình an. Trái tim Người rung động cảm thương dân chúng
vô biên, không gì có thể làm tê liệt được, như lời tiên tri Isaia đã loan báo:
“Người coi bệnh hoạn của chúng ta như của riêng Người. Người mang hết mọi tai
ương của chúng ta” (53, 4).
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã gánh lấy mọi khổ dịch của loài người và đưa Tin mừng nước
Trời cho khắp mọi nơi, từ thánh đường đến gia đình, từ thành phố đến mọi nẻo
đường xã ấp. Xin cho muôn dân mau mau đến xum họp chung quanh Chúa đoàn tụ
thành đại gia đình tình thương vinh phúc của Chúa. Amen.
6. Ơn Chữa Lành – Lm. Vũ Đình Tường
Đức
Kitô mang lại nhiều an ủi, hy vọng và tình thương lại cho những ai may mắn đón
nhận lời Ngài mời gọi trong cuộc sống. Phúc Âm thánh Marcô thuật lại rất nhiều
trường hợp Ngài gặp gỡ, an ủi và chữa lành họ. Một người trong số đó là bà nhạc
gia của ông Phêrô mắc bệnh sốt rét, nằm trên giường.
Người
lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài c.31
Tiếng
đồn lan nhanh, ngay tối hôm đó người ta kéo đến đông đảo xin Người chữa bệnh.
Đức
Kitô chữa nhiều kẻ ốm đau, mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỉ, nhưng không
cho quỉ nói, vì chúng biết Người là ai c.34
Đức
Kitô chữa lành không phải chỉ khỏi bệnh mà còn ban cho họ ơn đặc biệt, biết
mình không những được bình phục và còn khoẻ hơn trước, tự tin hơn trước. Chương
thứ hai Phúc Âm thánh Marcô ghi lại câu chuyện một người bị liệt giường nhiều
năm, không thể di chuyển được phải nhờ bốn người bạn thương khiêng cả giường
đến cho Đức Kitô chữa bệnh. Đến nơi người ta ngồi đông không thể chen vào được.
Bốn người bàn nhau dỡ mái nhà thả chiếc giường có người bại liệt nằm trên đó.
Đức Kitô chữa lành người bại liệt bằng cách ra lệnh cho anh đứng dậy vác chõng
mà về. Ngay sau câu nói của Đức Kitô anh không cần thời gian hồi phục, lập tức
đứng ngay dậy vác chõng ra về trước mặt mọi người chứng kiến. Anh không những
được khỏi bệnh mà còn sạch tội trước mặt Chúa. Anh cảm thấy một sức mạnh nội
tâm vươn lên như suối nguồn vô tận đến từ trong tâm hồn.
Không
cần thời gian hồi phục đó cũng là kinh nhgiệm của bà nhạc gia ông Phêrô. Bà yếu
liệt do sốt rét hành hạ, ngay sau khi được chữa khỏi bà đứng dậy phục vụ các
ông, thực hành nhân đức bác ái. Bà là người phụ nữ đầu tiên trong Phúc Âm thánh
Marcô thực hành nhiệm vụ tông đồ - phục vụ người khác. Có nhiều thứ bệnh không
phải chỉ làm cho con người suy nhược mà có khi nguy hiểm đến tính mạng, làm mất
tự tin, bế tắc sinh hoạt bình thường trong cuộc sống, tự mình không thể tiếp
tực công việc kiếm sống, không tự lo cho mình mà phải nhờ đến người khác giúp
đỡ. Bệnh tật cắt đứt mọi sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong cộng đoàn. Đức
Kitô chữa không những cho họ khỏi bệnh mà còn giúp họ nối kết lại với những gì
trước đây bị gián đoạn, ngăn trở. Tiếp tục lại công việc, tự mình lo cho mình
và lo cho tha nhân, nối lại sinh hoạt với cộng đoàn đức tin mà có thời họ tích
cực sinh hoạt.
Đức
Kitô có thói quen tốt lành là sau một ngày làm việc mệt mỏi sáng sớm hôm sau
Ngài luôn tìm nơi vắng vẻ cầu nguyện. Ngài bắt đầu một ngày mới bằng việc cầu
nguyện, liên kết với Chúa Cha, hội í với Chúa Cha về chương trình cứu độ nhân
loại. Nhớ lại trước khi bắt đầu rao giảng công khai Đức Kitô cũng đã ở trong
hoang địa một thời gian lâu. Thời gian trong hoang địa là thời gian cầu nguyện.
Thời gian trong hoang địa để nhìn lại mối liên kết với Chúa Cha, nhìn lại bước
đường đã qua và hoạch định cho bước đường kế tiếp, là thời gian chuẩn bị cho
chương trình chữa lành và quan trọng hơn là chương trình cứu độ.
Khác
với các thế lực trần thế, họ dựa vào sức mạnh của vũ khí, vũ khí càng tân tiến,
sức công phá càng mạnh họ càng có lợi thế trong cuộc chiến. Đức Kitô không nhờ
vào sức mạnh của vũ khí chiến tranh. Vũ khí của Ngài chính là tình yêu, cải hoá
con tim người ta bằng tâm tình yêu mến, và thực thi bác ái với tha nhân. Ngài
thắng con tim người ta và ban cho con tim đó một sức sống mới, sức sống phát
xuất tự tâm, thay đổi lối suy nghĩ và tìm nguồn vui trong phục vụ.
7. Đời sống thường nhật – An Phong, OP
Thánh
Máccô trình bày một ngày làm việc của Chúa Giêsu, một ngày bận rộn với công
việc chữa bệnh, rao giảng Tin mừng, nhưng vẫn dành thì giờ cho việc cầu nguyện;
một ngày lo chuyện "gia đình" của những người thân thuộc, nhưng không
quên ra đi "đến các làng xã chung quanh." Một bản văn tóm tắt như thế
cho ta thấy những khía cạnh chính yếu của cuộc đời Đức Giêsu. Cuộc đời phong
phú của Chúa Giêsu bao hàm nhiều khía cạnh: chiêm niệm và hoạt động, việc nhà
và việc nước, với Chúa Cha và với con người... Đời sống đó trở nên nguồn mạch
mẫu mực cho nhiều lối sống khác nhau, những ơn gọi khác nhau.
Ngày
nay, trong Hội thánh, chúng ta thấy có nhiều ơn gọi khác nhau: ơn gọi gia đình,
đơn gọi tu trì, ơn gọi giáo sĩ; chúng ta cũng thấy có nhiều linh đạo khác nhau,
linh đạo chiêm niệm, linh đạo hoạt động, linh đạo bác ái, linh đạo rao giảng
Tin mừng.... Tất cả những bậc sống và những linh đạo ấy đều bắt nguồn từ chính
đời sống của Chúa Giêsu và đều phải lầy Chúa Giêsu làm mẫu mực cho mình. Như
thế, nếu ta có nhận ra một ơn gọi, một tác vụ nào được Chúa kêu gọi và trao phó
cho mình, thì đồng thời ta cũng phải hiểu rằng còn có nhiều ơn gọi và linh đạo
khác trong Hội thánh của Chúa. Nhất là ta phải hiểu rằng những bậc sống ấy gắn
bó chặt chẽ với nhau, những tác vụ khác nhau ấy tương tác lẫn nhau cách mật
thiết. Do vậy, những con đường khác nhau ấy cần tìm thấy mối liên đới hữu ích
và sung mãn trong sự hiệp thông của Hội thánh Chúa.
Hội
thánh là Nhiệm Thể của Đức Kitô, chính Thánh Thần của Đức Kitô là nguyên lý
sống của Hội thánh và Thánh Thần làm cho Nhiệm Thể cũng được liên kết, thống
nhất với Đầu là Chúa Kitô, trong cách thức hiện hữu cũng như trong hoạt động.
Như thế, có thể nói được rằng một bậc sống nào mà muốn loại trừ hoặc khinh
thường bậc sống khác là không có Thánh Thần của Chúa; một linh đạo nào không
thể chấp nhận hoặc không liên kết với một linh đạo khác thì chẳng thể xuất phát
từ Thánh Thần của Chúa Kitô được.
Trong
"một ngày sống" của Chúa Giêsu Kitô, có tất cả đời sống và hoạt động
của Hội thánh Chúa; có tất cả mọi hoạt động và linh đạo của mỗi người và mỗi
đoàn thể của Hội thánh hôm nay.
Lạy
Chúa Giêsu,
Chúa
đã sống một cuộc đời phong phú
và
hữu ích cho con người biết bao.
Ngày
hôm nay, Chúa ngự vào lòng con,
Chúa
ở với con và làm việc trong con,
xin
cho con được cùng với Chúa
để
sống, sống phong phú
và
hữu ích cho anh chị em của con
như
Chúa đã từng sống.
8. Sống hết mình vì mọi người
(Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa
Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha
và vì nhân loại.
Chúa
Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
"Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa" nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi
nhân loại, Người đã "hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô
lệ" (Pl 2, 6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại
lầm than.
Người
hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng
Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
"Máu
các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian,
Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân
thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa:
Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài." (Dt 10, 4-7)
Sở
thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực
hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
"Ta
từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta"
(Ga 6, 38)
Người
coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người.
Người nói với các môn đệ: "Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta
và chu toàn công việc của Người" (Ga 4, 34)
Người
quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy
sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài
đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ
hôi máu:
"Abba,
lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một
theo ý Cha mà thôi." (Mt 26, 39)
Chúa
Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không
chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình
vì nhân loại là anh em của Người.
Tin
Mừng Máccô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những
lầm than khốn khổ của kiếp người:
"Vừa
ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê.
Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang
lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài.
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ
thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là
ai."
Và
khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời
gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
"Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó."
Cầu
nguyện chưa được bao lâu, "Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp
Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!"
Chúa
Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn
vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu
số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế
nên "Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã
chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc
đó." Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của
họ, và trừ quỷ."
* * *
Người
đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt
động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái
lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới;
chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người
làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết
sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng
sống mình.
* * *
Là
một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân,
không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử#cũng không sống cho
mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để
phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể
con người đều như thế cả.
Nếu
một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi# không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ
quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi
chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân
loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình,
phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin
cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm
hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ,
vì hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc
cho nhiều người.
9. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Hiền
Chúa Giêsu Kitô, "trọn một ngày đời" vì mọi người và cho
mọi người.
"Hôm ấy", (chúng ta có thể khẳng định đó là ngày
sabbat), các tín đồ Do Thái giáo tập trung đến hội đường để nghe giảng sách
Luật. Đó là dịp để Chúa Giêsu thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho mọi người.
Chúa Giêsu cũng đến hội đường để chu toàn bổn phận Do Thái giáo, và hơn thế
nữa, để chính Thiên Chúa trực tiếp nói với loài người, Thiên Chúa trực tiếp
giảng dạy loài người, dựa theo những gì Chúa đã nói trong Kinh Thánh. Như vậy
từ sáng đến trưa, Chúa ở trong hội đường để giảng dạy kinh thánh, để giúp mọi
người hiểu biết Kinh Thánh.
Chúa nhật, "hôm ấy" của Kitô giáo, mọi tín hữu đến nhà
thờ tham dự thánh lễ, nghe giảng Lời Chúa. Xin cho chúng ta hiểu Lời Chúa, thực
hành Lời Chúa và giúp anh chị em mình sống Lời Chúa.
Sứ vụ của Chúa Giêsu còn là cứu chuộc nhân loại: "Người lại
gần, cầm tay bà mà đỡ dậy." Con người bị mất cuộc sống an nhàn, đời sống
yêu thương và phục vụ (Bà mẹ vợ ông Phêrô lên cơn sốt, phải nằm giường). Chúa
Giêsu đến gần ngay bên, cầm tay nâng đỡ dậy: Chúa có quyền năng khôi phục lại
những gì thiện hảo mà loài người đã đánh mất. Chúa Giêsu có quyền năng Cứu
chuộc. Bà lành bệnh và tiếp tục phục vụ anh chị em. Bà sống lại cuộc sống an
nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa cứu chuộc không chỉ một người, mà nhiều người và mọi người ở
mọi thời. Thật vậy, "Chiều đến, khi trời đã lặn", người ta mới đem
mọi kẻ đau ốm, mắc đủ thứ bệnh tật, kể cả bị quỷ ám... Chúa chữa lành tất cả.
Ước gì tất cả mọi người đã được Chúa Giêsu cứu chuộc, những người
đến vào buổi chiều, tất cả chúng ta nữa, sau khi lành bệnh, sau khi được cứu
chuộc, cũng biết sống lại cuộc sống an nhàn, yêu thương và phục vụ.
Chúa Giêsu đi đến nơi hoang vắng và cầu nguyện.
Chúa Giêsu rất quan tâm đến giờ cầu nguyện, ví như không thể thiếu
trong đời sống của Chúa. Trước khi đi rao giảng: Chúa dùng 40 đêm ngày để cầu
nguyện; trước khi chọn 12 Tông đồ: Chúa cầu nguyện thâu đêm; và ở đây, trước
khi đi nơi khác: Chúa cũng cầu nguyện suốt đêm. Giờ cầu nguyện của Chúa, ví như
việc tiếp thêm nhiều nhiên liệu cho chiếc xe khi phải đi xa, càng xa càng nhiều
xăng dầu...
Xin cho chúng ta siêng năng và sốt sắng cầu nguyện: Trước sự việc
càng khó, càng cầu nguyện nhiều; càng đương đầu với những tấn công của ma quỷ,
chúng ta càng cầu nguyện nhiều hơn. Và trong đời thường cũng biết dành thời
gian cầu nguyện: cầu nguyện như nguồn sức sống của chúng ta.
"Mọi người đang tìm Thầy!"
Các môn đệ bày tỏ cái nhu cầu của nhân loại: "Mọi người đang
tìm Thầy." Nghe lời giảng dạy của Chúa, chứng kiến việc làm của Chúa, cùng
sống chung với Chúa, các môn đệ nhận định: chỉ mình Chúa Giêsu, duy nhất chỉ có
Thầy đây mới là Đấng Cứu chuộc nhân loại, không thể là ai khác. Và nếu mất
Thầy, thiếu vắng Thầy, người ta không thể làm gì được.
Chúng ta cũng phải khám phá ra trong đời mình: Không thể thiếu
vắng Chúa Giêsu. Xin cho mọi người đi tìm gặp Chúa Cứu Thế.
Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác"
Chúa Giêsu ý thức sứ vụ của mình "vì mọi người và cho mọi
người." Chúa Cứu thế không phải chỉ cho những người môn đệ Chúa, ở
Capharnaum,... Chúa còn phải đi đến những nơi khác, khắp nơi trên thế giới, ở
mọi thời đại nữa. Chúa đi và dẫn các môn đệ cùng đi: "Chúng ta hãy đi nơi
khác."
Chúng ta là Kitô-hữu, là môn đệ của Chúa, chính chúng ta phải là
hiện thân của Chúa, phải nói những lời Chúa nói, phải làm những việc Chúa làm
cho những người đang sống ở đây và trong ngày hôm nay.
10. Tình
thương cứu chữa
(Suy niệm của Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
Chúa Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm
phép lạ, Ngài mới bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai,
cho nên, trước con người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài
vào hạng người nào: Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? là
một ngôn sứ, là Ê-li-a hay là một Mê-si-a, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong
khi đó Chúa Giêsu giữ thái độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan
niệm sai lầm về Ngài, cho nên Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần
sứ mệnh của Ngài, một trong những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng:
Ngài làm phép lạ chữa bệnh sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phê-rô và tất cả
những bệnh nhân đến với Ngài đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những
việc Chúa làm đó cho chúng ta hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu
trên các bệnh nhân.
Thiên Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và
linh hồn con người, có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài
có thể chữa lành mọi thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một
cái máy, chắc chắn ông là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất
cứ ai. Chúa Giêsu cũng biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ
dàng sửa chữa những trục trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi
con người.
Riêng phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phê-rô khỏi bệnh sốt rét có
ý nghĩa gì? Chúng ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu
rằng mỗi phép lạ Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế,
Chúa muốn tăng cường lòng tin của gia tộc Phê-rô và nhất là đối với Phê-rô.
Đàng khác, nếu xét về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là
hình phạt của Thiên Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm
phép lạ này để minh chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ
I-sai-a đã loan báo, là Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi
tội lụy, bởi điều dữ. Như vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần
dữ làm kiệt quệ đến sống dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được.
Hơn nữa, phép lạ này cũng diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào
của Chúa cũng là tình yêu, nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến
rao giảng thì ở đó những con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và
được cứu chữa. Đây cũng là bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần đông chúng ta không thể mang lại sức khỏe thể xác cũng như sự
thuyên giảm đau đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá,
nhưng chúng ta có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em
ấy, đó là khi tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng,
cống hiến cho họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại
cho họ sự an ủi chân thật.
Chẳng hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục
Sam-sông và linh mục này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như
sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi
cả, ngoại trừ một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm
kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quì gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị
quì làm gì thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông." Chỉ mấy tiếng đó
thôi đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi
thấy Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần,
nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y
tá ấy, tôi đã gặp Chúa."
Một thí dụ khác, bác sĩ Long-ghê là một người Pháp đã từng phục vụ
ở Việt Nam cách đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đu-lây, người
Mỹ, đã phục vụ ở Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất
kể giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao
ông yêu thương bệnh nhân như vậy? vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân,
xem bệnh nhân là trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người
bệnh." Mỗi sáng khi đi dự lễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được
ông cho đi xe của ông, mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi,
tham quan nơi này nơi nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì
là người Pháp, về tiếng Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh
đủ để lần hạt. Ít lâu sau, Long-ghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục
và tình nguyện sang phục vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng
tiếc thay, sau khi chịu chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong
ước.
Nếu chúng ta không bắt chước được bác sĩ Long-ghê, thì chúng ta có
thể bắt chước được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên,
cụ thể hơn, nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những
bệnh nhân. Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh
thường lo lắng, buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin…chúng ta hãy cảm
thông, đối xử tử tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng
không hề bệnh tật gì, đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân
đến với Chúa, Chúa không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau
khổ, nhưng Chúa đã an ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với
các bệnh nhân, họ rất cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho
họ.
11.
Cầu Nguyện và Đi Gieo
(Suy
niệm của Alphonse Marie Trần Bình An)
Bài
Tin Mừng hôm nay tuy vắn gọn, nhưng rất rành mạch và súc tích, để mô tả khái
quát một ngày tất bật và vất vả trong sứ vụ của Chúa Giêsu. Những ai tình
nguyện đi theo Người, thì không thể không tuân thủ theo thời khóa biểu khít
khao và tận tụy đến như thế.
Việc
đầu tiên: Cầu nguyện.
Ngay
sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi thanh vắng và cầu
nguyện ở đó. (Mc 1, 35) Khởi đầu cho môt ngày rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu
lặng lẽ cầu nguyện, để kết hợp mật thiết với Chúa Cha., để tìm hiểu và đón nhận
Thánh Ý nhiệm mầu, để bổ sung nguồn lực yêu thương, để bù đắp thêm sức mạnh
Thánh Thần.
Khi
siêng năng chạy đến cùng Chúa Cha mỗi sáng sớm tinh mơ, Người muốn nhắn nhủ và
dạy bảo các môn đệ, giờ phút cầu nguyện quan trọng biết dường nào trong sứ vụ
Đi Gieo. Không cầu nguyện thì tựa như đánh mất mối giao hảo thánh thiêng với
Thiên Chúa, các môn đệ sẽ dần xa cách Chúa, sẽ dần xa rời nguồn lực nuôi dưỡng
và bổ sung quan trọng cho Ơn Gọi.
Việc
thứ nhì: Đi Gieo
Sau
khi đã thỉnh Thánh Ý, gia tăng thần lực, Chúa Giêsu mới đến với con người, tận
tâm rao giảng Tin Mừng. Người không chỉ dùng lời nói xuông, mà còn cả thái độ
khiêm tốn và hành vi ân cần, để gần gũi chăm sóc đoàn chiên. Khi được biết bà
mẹ vợ ông Simon đang lên cơn sốt, nằm trên giường, Người lại gần, cầm lấy tay
bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. (Mc 1, 31)
Như
thế, Đi Gieo còn có ý nghĩa là tri hành hợp nhất. Dùng ngay hành động để minh
chứng cho lời nói. mới phù hợp với nhu cầu cấp bách hiện đại. Thời nay, người
ta cần những chứng nhân hơn thầy dạy, hoặc nếu cần thầy dạy thì trước tiên
người ấy phải là chứng nhân. (Đức Phao-lô đệ lục)
Việc
thứ ba: Phục vụ
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, chẳng kịp nghỉ ngơi Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau,
mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ. (Mc 1, 34) Chúa Giêsu luôn quên cả bản
thân, luôn lắng nghe, luôn đáp ứng và phục vụ những nhu cầu của mọi người, để
giúp đỡ, an ủi, chữa lành những vết thương thể xác lẫn tinh thần. Noi gương
Người, thánh Phaolô sau này, đã chia sẻ với tín hữu Cô rin tô: Phải, tôi là
người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ cho mọi người,
hầu chinh phục thêm được nhiều người. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu,
để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi
cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để được
thông chia phần phúc của Tin Mừng. (1Cr 9, 19, 22-23)
Lạy
Chúa Giêsu giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn gần gũi với Chúa hằng ngày
bằng lời cầu nguyện, để con được thêm sinh lực theo đuổi Ơn Gọi mà Chúa trao
phó.
Lạy
Mẹ chí ái, xin đốt lửa mến trong lòng con, để con siêng năng tâm tình với Chúa,
cũng như ban cho con thêm đức ái, để luôn sẵn sàng phục vụ tha nhân. Amen.
12. Sống vì mọi người
(Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Nhìn
vào xã hội loài người, chúng ta nhận thấy có hai hạng người mang hai tính cách
khác nhau rõ rệt: một là hạng người vị kỷ, hai là hạng người vị tha.
Người
vị kỷ
Người
vị kỷ là hạng người chỉ biết sống vì mình, đặt bản thân mình làm trung tâm cho
cuộc sống. Tất cả mọi hoạt động của họ đều quy về bản thân, nhằm mưu cầu hạnh
phúc cho riêng mình mà không hề quan tâm giúp đỡ người khác, thậm chí còn làm
hại người khác để kiếm lợi cho mình.
Người
vị tha
Người
vị tha là người quên mình để quan tâm chăm lo, phục vụ người khác. Chúa Giêsu
là tiêu biểu cho hạng người nầy. Ngài chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu
của Ngài hướng tới; chọn mọi người làm đối tượng cho sự phục vụ tận tuỵ của
Ngài và Ngài làm tất cả những gì có thể, để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại.
Ngài chỉ biết sống vì người khác, sống để cứu độ người khác đến độ hiến trao cả
mạng sống mình.
Tin
Mừng Mác-cô (1, 29-39) hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu, một người hoàn
toàn vị tha, luôn cúi xuống trên những mảnh đời lầm than khốn khổ để giúp đỡ
cứu vớt họ.
Hôm
ấy, “Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê. Có ông Gia-cô-bê và ông
Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang lên cơn sốt, nằm trên
giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy
tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Ngài. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ
bệnh tật và trừ nhiều quỷ.”
Sáng
hôm sau, “lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu
nguyện ở đó.”
Cầu
nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Ngài,
các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa
Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Ngài trong phạm vi nhỏ hẹp. Ngài muốn vươn
đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Ngài cho một thiểu số,
nhưng ban phát cho hết mọi người. Thế nên “Ngài bảo các ông: “Chúng ta hãy đi
nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy
ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Ngài đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các
hội đường của họ và trừ quỷ.”
Nói
tóm lại, không một người đau khổ nào đến với Chúa Giêsu mà không được Chúa quan
tâm chăm sóc. Không một kẻ bất hạnh nào gặp Chúa mà chẳng được Chúa dủ lòng
thương. Chúa đến trần gian để sống cho mọi người, yêu thương hết mọi người và
hiến thân phục vụ tất cả không trừ ai.
Sống
vị tha theo gương Chúa Giêsu
Mỗi
người là một tế bào, là một bộ phận trong một Thân Thể lớn lao là nhân loại.
Mỗi cá nhân được tồn tại và tăng trưởng là nhờ xã hội và xã hội được phát triển
cũng là nhờ vào từng cá nhân.
Vì
thế, mỗi người không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải cống hiến đời
mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Một
cây cam được xem là đáng quý khi nó cống hiến nhiều quả ngon trái ngọt cho chủ
vườn. Cũng thế, người nào có nhiều cống hiến tốt đẹp cho đời sẽ làm cho bản
thân mình trở nên cao quý hơn.
Lạy
Chúa Giêsu,
Chúa
luôn vị tha và đã sống hết mình vì mọi người.
Xin
cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng ích kỷ chỉ biết quy về mình, chỉ biết
mưu tìm hạnh phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc
cho người khác.
Nếu
hôm nay chúng con chỉ biết chăm lo phục vụ bản thân mình mà không dấn thân phục
vụ người khác, thì vào lúc từ giã đời này, chúng con sẽ cùng chịu án phạt đời
đời với lão phú hộ không biết thương xót La-da-rô khốn khổ (Lu-ca 16, 19-31),
hoặc như những người bị Chúa lên án trong dụ ngôn “Phán xét cuối cùng” vì đã
không yêu thương phục vụ tha nhân chung quanh mình. (Mt 25, 31-46).
13. Sống hết mình vì mọi người
(Suy
niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chúa
Giêsu không sống vì mình hoặc sống cho mình, nhưng luôn luôn sống vì Chúa Cha
và vì nhân loại.
Chúa
Giêsu sống hết mình vì Chúa Cha
“Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa” nhưng vì yêu mến Chúa Cha và để cứu rỗi nhân
loại, Người đã “hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ” (Philip 2,
6-7) sẵn sàng hoá thân làm người hèn mọn sống giữa nhân loại lầm than.
Người
hiến thân trở thành một hiến lễ mới thay cho dê và bò, một hiến lễ rất đẹp lòng
Chúa Cha để đền tội thay cho muôn người. Thư Do-Thái khẳng định điều đó:
“Máu
các con bò, con dê không thể nào xoá được tội lỗi. Vì vậy, khi vào trần gian,
Đức Kitô nói: Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân
thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa:
Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài.” (Do-Thái 10, 4-7)
Sở
thích riêng, ước muốn riêng của mình, Chúa Giêsu sẵn sàng vứt bỏ, cốt để thực
hiện ý Chúa Cha, sao cho đẹp lòng Chúa Cha:
“Ta
từ trời xuống, không phải để làm theo ý Ta, mà là ý của Đấng đã sai Ta” ( Ga 6,
38)
Người
coi việc thi hành ý Chúa Cha quan trọng và cần thiết như lương thực của Người.
Người nói với các môn đệ: “Lương thực của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta và
chu toàn công việc của Người” (Ga 4, 34)
Người
quý trọng ý muốn của Chúa Cha hơn cả mạng sống mình. Vì thế, Người chấp nhận hy
sinh mạng sống mình để ý muốn của Chúa Cha được thực hiện. Trong vườn Dầu, Ngài
đã cầu xin cùng Chúa Cha trong van lơn và nước mắt, trong khổ đau đến toát mồ
hôi máu :
“Abba,
lạy Cha, nếu có thể được, xin cất chén nầy xa con. Nhưng đừng theo ý con, một
theo ý Cha mà thôi.” (Mt 26, 39)
Chúa
Giêsu sống hết mình vì mọi người
Không
chỉ sống hết mình vì Thiên Chúa là Cha của Người, Chúa Giêsu còn sống hết mình
vì nhân loại là anh em của Người.
Tin
Mừng Mác cô hôm nay phác hoạ lại chân dung Đức Giêsu luôn cúi xuống trên những
lầm than khốn khổ của kiếp người:
“Vừa
ra khỏi hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Si-môn và An-rê.
Có ông Gia-cô-bê và ông Gio-an cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Si-môn đang
lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà.
Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các
ngài.
Chiều
đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến
cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ
thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là
ai.”
Và
khi trời chưa kịp sáng, khi chưa có ai đến quầy rầy, Chúa Giêsu tranh thủ thời
gian tĩnh lặng để gặp gỡ Chúa Cha.
“Sáng
sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện
ở đó.”
Cầu
nguyện chưa được bao lâu, “Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp
Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”
Chúa
Giêsu không khoanh vùng phục vụ của Người trong phạm vi nhỏ hẹp. Người muốn
vươn đến nhiều nơi. Chúa Giêsu không giới hạn tình yêu của Người cho một thiểu
số, nhưng ban phát cho hết mọi người.
Thế
nên “Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh,
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi
khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.”
***
Người
đời thường đặt bản thân mình làm trung tâm cho cuộc sống và tất cả mọi hoạt
động của người ta đều quy về mình, nhằm mưu cầu hạnh phúc cho riêng mình. Trái
lại, Chúa Giêsu chọn tha nhân làm trung tâm cho tình yêu của Người hướng tới;
chọn mọi người làm đối tượng cho cuộc đời phục vụ tận tuỵ của Người và Người
làm tất cả những gì có thể để mưu cầu hạnh phúc cho nhân loại. Người chỉ biết
sống vì người khác, sống cho phần rỗi của người khác đến độ hiến trao cả mạng
sống mình.
***
Là
một bộ phận trong cơ thể, quả tim không sống cho mình nhưng sống cho toàn thân,
không ngừng bơm máu nuôi sống toàn thân. Phổi, gan, bao tử…cũng không sống cho
mình, vì mình, nhưng là sống cho toàn thân, làm tròn chức năng được trao phó để
phục vụ và nuôi sống toàn thể thân mình. Lẽ sống của mọi bộ phận trong cơ thể
con người đều như thế cả.
Nếu
một ngày nào đó, tim, gan, thận, phổi… không phục vụ cho toàn thân nữa mà chỉ
quy hướng về mình, chỉ lo phục vụ riêng mình thì đó là ngày tận cùng của chúng.
Mỗi
chúng ta cũng là những tế bào, những bộ phận của một Thân Thể lớn lao là nhân
loại. Chúng ta không thể bo bo chăm lo cho riêng mình nhưng phải sống hết mình,
phải cống hiến đời mình phục vụ tha nhân theo gương Chúa Giêsu.
Lạy
Chúa Giêsu, Chúa đã sống hết mình vì Chúa Cha và vì mọi người.
Xin
cho chúng con biết noi gương Chúa, đừng chỉ biết quy về mình, chỉ biết mưu tìm hạnh
phúc cho mình, nhưng biết hướng về tha nhân để mưu tìm hạnh phúc cho họ, vì
hạnh phúc chỉ thật sự đến với chúng con khi chúng con biết đem lại hạnh phúc
cho nhiều người.
14. "Xin cho con một tấm lòng như
Chúa"
(Suy
niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Văn
hoá Việt Nam với bốn ngàn năm văn hiến, vẫn đề cao tình làng nghĩa xóm:
"tối lửa tắt đèn có nhau." Sự liên đới yêu thương đùm bọc lẫn nhau
tha thiết đến độ: "Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ." Sự liên đới đó
không chỉ dừng lại ở thôn xóm, dòng tộc mà bao quát cả dân tộc trong tình thương
giữa người với người như câu ca dao ngày nào vẫn phảng phất du dương: "Bầu
ơi thương lấy bí cùng - Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn." Thế
nhưng, truyền thống đó đang mất dần trong thế giới hôm nay. Một thế giới ích kỷ
và hưởng thụ. Một thế giới theo chủ trương "Mackeno" đang làm tan rã
tỉnh người. Người ta lo cho bản thân. Người ta sẵn sàng vì quyền lợi của mình
mà chà đạp lên người khác, mà chồng chất nỗi đau lên tha nhân. Con người hôm
nay chỉ nghĩ đến mình nên nhẫn tâm bỏ rơi đồng loại trong khổ đau và tuyệt
vọng. Sống bên nhau, nhưng thương nhau thì ít mà đầy đoạ nhau thì nhiều. Sống
với nhau nâng đỡ nhau thì ít mà loại trừ nhau thì nhiều. Đỉnh cao của sự tàn
nhân, vô tâm trước khổ đau của đồng loại chính là thái độ thiếu trách nhiệm với
nỗi khỗ của anh em.
Có
một tai nạn xảy ra trên quốc lộ 1 A, một chiếc xe vận tải chở gỗ tràm đi theo
hướng từ Bắc vào Nam, đã đâm trực diện một chiếc xe vận tải chở trái cây, chạy
theo hướng từ Nam ra Bắc. Vụ tai nạn này đã khiến buồng lái của chiếc xe Bắc vào
Nam bị bẹp dúm, còn chiếc xe từ Nam ra Bắc thì bị lật ngang, trái cây đổ tung
tóe trên đường. Đáng lưu ý là trong khi cả hai tài xế và hai phụ xe của hai
chiếc xe cùng bị trọng thương, cần cấp cứu thì dân chúng quanh đó lại đổ đến
để... cướp trái cây. Mặc người bị nạn. Điều người ta quan tâm chính là hôi của,
là ăn cắp hội đồng.
Xem
ra cuộc sống hôm nay quá vô tâm! Có phải vì đói, vì thèm khát một quả trái cây
mà hành động như vậy chăng? Chắc chắn là không. Chắc chắn là không ai nghèo đói
đến độ không có một quả trái cây mà ăn. Có chăng là vì họ thiếu vắng tình
người, sự liên đới và trách nhiệm với tha nhân! Không ai nghĩ rằng mình phải có
trách nhiệm trước sự sống còn của tha nhân. Không ai bận tâm trước những rủi ro
bất hạnh của anh em. Tình người xem như đang mất dần trong xã hội đề cao vật
chất và hưởng thụ hôm nay.
Phải
chăng cách hành xử thiếu tình người đó đang là vấn đề cần phải cải thiện của xã
hội hôm nay? Phải chăng khi người ta đề cao vật chất thì tình người lại bị coi
thường và chà đạp? Dường như là vậy. Nhiều người quá đau khổ vì không tìm được
sự nâng đỡ cùa anh em trong những lúc gian nan. Nhiều người quá tuyệt vọng vì
sự lạnh lùng, thờ ơ và bỏ rơi của gia đình và bạn bè.
Lời
Chúa hôm nay mô tả một ngày làm việc thật bận rộn của Chúa Giêsu. Ngài giảng
dạy trong Hội đường. Ngài cứu chữa một người bị quỷ ám. Ngài đến tận nhà nhạc
mẫu Phê-rô để chữa lành cho bà. Ngài còn dành thời giờ đón tiếp rất đông khách
thập phương đến để cầu cứu Ngài. Ngài đã đặt tay và chữa lành bệnh tật cho họ.
Cả ngày dường như Ngài chẳng nghỉ ngơi. Ngài đã dùng cả thời giờ của một ngày
để phục vụ cho lợi ích tha nhân.
Vâng,
nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng vị tha như Chúa, thì dòng đời sẽ không
còn những cái khổ triền miên như ông Gióp. Nếu cuộc đời ai cũng biết có trách
nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng như ông
Gióp. Ông Gióp khi đối diện với nghịch cảnh của dòng đời đã không tìm được sự
nâng đỡ từ bạn bè và người thân, ông còn bị người đời chế giễu và vợ con bỏ
rơi. Nỗi khổ đau và sự cô đơn đã khiến ông kêu lên trong u buồn, sầu thảm:
"Số phận của tôi phải chăng là những đêm đau khổ ê chề?"
Vâng,
số phận của ông Gióp và số phận của hàng vạn người quanh ta vẫn đang cô đơn và
tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Vẫn còn đó
những người chồng, người vợ đang tuyệt vọng vì đời sống thiếu trách nhiệm của
người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi,
thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược
đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó
tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng
loại bỏ rơi.
Ước
gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót
những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng
như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi
người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau
khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen.
15. Hối lộ quan toà
Đối với Chúa Giêsu, sáng hôm đó quả thật là một ngày thật vất vả.
Ngài đã giảng dậy trong hội đường với một quyền bính làm cho mọi người phải
kinh ngạc. Trong khi Ngài giảng dậy thì bị gián đoạn bởi tiếng kêu cầu do một
người bị quỷ ám. Chúa Giêsu đã làm cho dân chúng kinh ngạc khi Ngài chữa lành
cho người đàn ông bị quỷ ám đó. Khi Ngài rời khỏi hội đường đến nhà ông Simon
và Anrê. Ở đó Chúa Giêsu chữa lành cho mẹ vợ của ông Simon khỏi bịnh. Khi trời
tối, dân chúng trong làng tuôn đến với Ngài để xin chữa bệnh về tâm thần cũng
như thể lý. Mọi người đều nhìn xem và kêu lên rằng: "Ngài đã chữa lành
nhiều người mắc bịnh nan giải và trừ được nhiều người bị quỷ ám."
Trong bài Phúc Âm hôm nay, khi trời vừa hừng đông, Chúa Gisêu đã
thức dậy thật sớm, tìm một nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Ngài biết rằng trong ngày
hôm nay Ngài sẽ vất vả vì nhiều sự đòi hỏi của dân chúng nơi ngài như đám đông
dân chúng sẽ chen lấn Ngài khi Ngài vào trong làng. Ngài cũng biết cho dù Ngài
ở đâu đi nữa, dân chúng sẽ kêu tên Ngài và xin cứu chữa cho họ. Và chắc chắn
trong đó sẽ có những người Luật Sĩ và Pharisiêu sẽ thách thức về quyền giảng
dậy của Ngài, đặt những câu hỏi và tìm mọi cách để làm cho danh tiếng của Ngài
bị ô danh. Dĩ nhiên Ngài cũng biết rằng các môn đệ sẽ hiểu lầm về Ngài và muốn
Ngài làm vài điều theo ý của họ. Chính vì những sự đó nên Chúa Giêsu cần có
những giây phút để cầu nguyện.
Một nhà thơ ẩn danh đã làm một bài thơ như sau:
Tôi thức thật sớm và chạy ngay đến chỗ ẩu đả.
Với quá nhiều việc cần phải làm, tôi không có giờ để cầu nguyện.
Những khó khăn vây quanh tôi và tôi thấy thật nặng nề trong mọi
công việc.
Tôi tự hỏi Chúa ở đâu sao không giúp con? Chúa trả lời, "Con
không kêu cầu Ta."
Tôi cố tìm lối thoát nhưng tất cả đều đen tối.
Tôi hỏi Chúa tại sao, Ngài trả lời, "Con không tìm kiếm nơi
Ta."
"Xin thì sẽ được, tìm thì sẽ gặp," đó chính là lời Chúa
Giêsu đã tuyên bố trong bài giảng trên núi (Mt 7:7). Nhưng chúng ta có thể sai
lầm khi tưởng tượng rằng Chúa Giêsu đã tán dương những lời cầu nguyện thầm thĩ
của chúng ta. Ngay khi vào đầu bài giảng, Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta cảm
thấy mâu thuẫn: Thầy bảo các con biết chớ áy náy lo lắng cho mạng sống mình lấy
gì mà ăn, hay lo cho thân xác mình lấy gì mà mặc. Hãy nhìn xem chim trời, chúng
không gieo, không gặt, không thu lẫm. Ngay cả Salômôn trong tất cả vinh quang
của ông, cũng không trang phục được bằng chúng. Nếu hoa cỏ đồng nội, nay còn
mai mất mà còn được Chúa gần gủi huống chi con người, Ngài còn yêu thương chúng
ta biết mấy. Hỡi những kẻ kém lòng tin, đừng lo lắng quá, hãy tìm Nước Chúa
trước còn những điều khác Chúa sẽ ban cho các ngươi (Mt 6:25,28-31,33).
Hãy tìm Nước Chúa trước! Hãy tìm ý muốn của Chúa trước! Cầu nguyện
không phải là để kéo Chúa tới những cảnh huống khó khăn của chúng ta, vì Chúa
biết mọi sự sẽ xẩy đến cho chúng ta. Cầu nguyện cũng không phải là việc chúng
ta nói với Chúa về những điều chúng ta muốn cho chúng ta, vì Ngài đã biết chúng
ta cần những gì. Cầu nguyện chính là chúng ta vui lòng để cho Chúa thực hiện
điều Chúa muốn nơi chúng ta như trong Thánh Vịnh đã viết: "Hãy bình thản
và biết rằng Ta là Chúa" (Tv 46:10). Cầu nguyện là việc chúng ta lắng nghe
tiếng Chúa nói trong thẩm cung lòng của chúng ta. Đừng xin những gì Chúa có thể
làm cho chúng ta. Hãy xin, những gì chúng ta có thể làm cho Chúa. Đừng xin
những gì Chúa có thể ban cho chúng ta, nhưng hãy xin cho chúng ta có thể cho
Chúa được gì.
Nhà khoa học nổi tiếng Isaac Newton là một con người cầu nguyện.
Ông ta nói rằng: Tôi có thể dùng kính thiên văn để nhìn không gian xa hằng
triệu triệu cây số được. Và tôi cũng có thể bỏ nó vào một góc nhà để tôi quỳ
xuống và cầu nguyện với Thiên Chúa, Đấng gần gũi tôi hơn những vật chất trần
gian.
Là con người, chúng ta thường hay cầu nguyện khi chúng ta gặp phải
những gian nan khốn khó xảy đến như: chiến tranh, tranh chấp trong đời sống hôn
nhân. Và những lời cầu đó thường là xin cho được hoà bình, xin cho được sống
thân mật với vợ con. Nhưng chúng ta không để ý đến điều chúng ta cần phải làm
gì để cho chóng chấm dứt chiến tranh, hay làm cách nào để có thể thương vợ
thương con.
Một người đàn ông bị đưa ra toà để xét xử về tội giết người. Ông
ta đến vị thẩm phán và nói rằng: nếu ông có thể xét cho tôi vô tội, tôi sẽ đưa
cho ông một số tiền thật lớn; và ông ta trao cho vị quan toà một gói tiền. Khi
vụ xử án xong, vị quan toà đã kết tội bị can là kẻ giết người. Sau đó, ở ngoài
phòng tòa, bị can đã hỏi vị phẩm phán rằng: "Ông có thấy khó khăn trong
việc đó không?" Ông ta trả lời: "Có! vì khi bắt đầu ai cũng cho là vô
tội."
Khi cầu nguyện, chúng ta thường hay hối lộ với Chúa, "Lạy
Chúa, nếu Chúa ban cho con điều con xin, con sẽ làm điều gì Chúa muốn. Cho dù
có điều gì xảy ra, cũng đừng thay đổi, nhưng hãy làm theo ý con muốn."
Nhưng thật ra Chúa không bao giờ nhận sự hối lộ của chúng ta, vì mục đích của
Chúa không bao giờ bị chúng ta đánh đổ.
Nếu chúng ta cảm nghiệm được rằng chúng ta đang thăng tiến trong
cuộc lữ hành trần gian để về quê trời, thì chắc chắn rằng cuộc sống Kitô hữu
của chúng ta phải được nuôi sống bằng chính việc cầu nguyện. Khi chúng ta nhận
thấy sự cầu nguyện ăn sâu vào trong tâm hồn chúng ta, lúc đó chúng ta mới biết
được Chúa là Thiên Chúa. Chúng ta sẽ luôn vững tâm và nghe được tiếng nói của
Ngài trong tâm hồn chúng ta. Chúa thường đến với chúng ta cách bất ngờ và chúng
ta sẵn sàng đáp lại tiếng Chúa trong tin tưởng, yêu thương và đầy hy vọng.
"Hãy thi hành ý muốn Chúa muốn nơi chúng con. Không theo ý chúng ta, nhưng
theo ý Ngài."
16. Phục vụ
tha nhân
Chúa Giêsu vừa mới từ Hội Đường Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự
Chúa bằng cầu nguyện và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa
lành người bị quỷ ám. Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ
của thầy đội (Mt 8, 5-13). Khi Chúa Giêsu ở Caphácnaum, Ngài không có nhà riêng,
trụ sở Ngài đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có 3 loại sốt thường thấy ở Palestine. Một loại được gọi là Malta
có đặc điểm làm suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một
loại khác là sốt cách nhật giống như sốt rét định kỳ. Nhưng nặng nhất là sốt
rét da vàng. Nơi gần sông Gio-đan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi
trường lý tưởng cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là địa
bàn hoạt động cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chúng này thường kèm theo bủng
da và nóng lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ
ông Phêrô mắc phải.
Chúa Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa
bệnh, chắc cũng muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin
được giúp đỡ, và Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép lạ này nói cho chúng ta vài điều về 3 hạng người:
1. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ CHÚA GIÊSU:
Ngài không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng,
Ngài sẵn sàng chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng
như giữa đám đông trong Hội Đường. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu
giúp, nhu cầu của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài.
nhưng trên hết, tại đây cũng như trong Hội Đường. Chúng ta thấy các phương pháp
có một không hai của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy
trừ quỷ, họ hành nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình
thức bùa chú, những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong Hội Đường,
Chúa Giêsu chỉ phán một câu đầy uy quyền và chữa bệnh được hoàn tất ngay.
Ở đây cũng có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô
đang đau chứng bệng mà Kinh Talmud của người Do-thái gọi là "một cơn sốt
thiêu đốt." Kinh Talmud cũng chỉ ra phương pháp chữa trị chứng bệnh này.
ngưới ta lấy một con dao bằng sắt đem cột vào một bụi gai bằng một lọn tóc.
Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất Hành 3, trước nhất là câu 2,
3 rồi đến câu 4, 5. Rồi có một công thức ma thuật được đọc lên, như thế người
ta xem phần chữa trị đã xong.
Chúa Giêsu hoàn toàn bất chấp những câu thần chú ma thuật thông
thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã
chữa lành cho bà cụ. Bác sĩ Paul Tournier có viết: "Bệnh nhân của tôi
thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi ông lắng nghe mọi điều
tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm."
Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín,
giúp người không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự
nguyện, tự nhiên, vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu
giúp của Ngài.
2. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VỀ MÔN ĐỆ CỦA NGÀI:
Họ chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ
ngắn ngủi này, họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho
Ngài. Bà nhạc gia của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài
trình mọi việc cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất
trong đời ông như thế nào. Ông thường đến thăm một vị Mục Sư lão thành và ông
cụ chẳng bao giờ để ông ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức
kinh ngạc vì cách cầu nguyện đơn sơ của vị Mục Sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp
tục câu chuyện thân mật mà vị tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa
Giêsu.
Bác sĩ Tournier viết tiếp: "Về đến nhà tôi sẽ kể cho vợ tôi
nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được
thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như cụ Mục Sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành
trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui
lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm về việc đó. Ngài là người bạn thân
tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những
niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi
một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người ấy nói còn rõ hơn chính tôi được
nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi vẫn còn có thể trò chuyện với
Ngài về người ấy."
Mấy lời trên đây bao gồm yếu tính sinh hoạt của người Kitô hữu.
Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều trở thành thói quen cho cả đời
sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ
mình.
3. NÓ CHO CHÚNG TA BIẾT VÀI ĐIỀU VỀ BÀ NHẠC GIA CỦA PHÊRÔ:
Ngay sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ
đã dùng phần sức khỏe hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã sử
dụng ơn Chúa ban như thế nào?
Nhà văn Oscar Wilde viết tuyển tập "Chuyện Hay Nhất Thế
Giới" trong đó, ông kể:
"Đấng Cứu Thế đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành
phố muôn phân sặc sỡ. Khi đi qua một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phía
trên đầu, nhìn lên thấy một thanh niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi:
"Sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong say sưa?" Hắn đáp: "Thưa
Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì
khác hơn"? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên đang lẽo đẽo
theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: "Tai sao ngươi bỏ phí cuộc đời của
ngươi trong trác táng?" Chàng đáp: "Thưa Chúa, tôi là người mù được
Chúa chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn?" Cuối cùng ở giữa
thành phố, Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được
Chúa hỏi, ông đáp: "Lạy Chúa, tôi là người chết được Chúa cho sống lại,
bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn là khóc?"
Đó là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn,
vô tâm khi sử dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô
đã dùng sức khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách
chúng ta sử dụng mọi Hồng Ân Chúa ban.
Không ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như
thế nào, để sau này, với tư cách là lãnh tụ Giáo Hội, Phêrô đã viết thư khuyên
giáo dân: "Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà
phục vụ kẻ khác. Như vậy anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn
trạng của Thiên Chúa. Ai có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ
bằng sức mạnh Thiên Chúa ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên
Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô" (1Pr 4, 10-11).
17.
Được chữa lành và phục vụ
Để
hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Giêsu chữa cơn bệnh sốt của bà mẹ vợ ông Simon,
ta cần phải biết rằng vào thời đó, bệnh sốt được coi như là một trong những
hình phạt đối với những người mắc tội bất trung: "Nếu các ngươi gạt bỏ các
quy tắc của Ta và chán ghét các quyết định của Ta, mà không đem ra thực hành
các mệnh lệnh của Ta, lại huỷ bỏ giao ước của Ta, thì Ta cũng vậy, Ta sẽ làm
cho các ngươi như thế này: Ta sẽ trút xuống các người nỗi kinh hoàng, sự suy
mòn, cơn nóng sốt, khiến mắt các ngươi mờ đi và các ngươi mờ đi và các ngươi
phải kiệt sức" (Lv 26,15-16a). Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy tay bà mà
đỡ dậy", người bệnh lập tức được chữa lành, sức khoẻ được hồi phục hoàn
toàn và bà đi phục vụ Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài. Dưới ánh sáng
Phục Sinh, cử chỉ này mang một ý nghĩa biểu tượng: loài người đã từng bị nằm
liệt do cơn sốt là tội lỗi. Nhờ Phép Rửa tội, Chúa Giêsu "lại gần, cầm lấy
tay mà đỡ dậy" có nghĩa là Ngài đến giải thoát con người khỏi tội lỗi,
chữa lành họ, giúp họ trở thành những kẻ phục vụ Chúa và Giáo Hội. Chính Chúa
Giêsu đã làm cho việc được chữa lành và phục vụ đi đôi với nhau.
Chúng
ta là những người đã được Chúa Giêsu chữa lành, nhưng để biết được mình lành
mạnh ra sao là nhờ vào những việc phục vụ mà mình đang làm. Tuy nhiên, những
công việc phục vụ hữu hiệu luôn đòi hỏi sự quan tâm, biết chia sẻ thời giờ,
tiền bạc và của cải, lại là những việc mà chúng ta hay nghi ngại và không thích
làm. Nhưng nếu chúng ta ích kỷ, chỉ biết sống cho bản thân mình, đóng khung
trong gia đình mình hay nơi một vài người mà mình thương mến, mà thiếu tinh
thần phục vụ Chúa, phục vụ Họ Đạo, phục vụ Giáo Hội, phục vụ tha nhân, thì linh
hồn mình vẫn còn bệnh hoạn, tâm hồn mình còn đang suy yếu. Khi chúng ta sống
đúng tinh thần phục vụ vô vị lợi của Chúa, của Giáo Hội, thì ngay lúc đó, tâm
hồn chúng ta mới thực sự được chữa lành và đến ngày sau hết, chúng ta mới được
"đỡ dậy", được Phục Sinh với Chúa Kitô.
18. Suy niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan, CSsR.
Hằng
ngày chúng ta đối diện trước những hình ảnh tàn khốc trên TV, nào là chiến
tranh, nạn đói, nào là trẻ em đang hấp hối. Đứng trước những nỗi đau khổ khôn
cùng như thế của nhân loại không lạ gì nhiều người đã đi đến chỗ kết luận rằng
một là do hình phạt của Thiên Chúa, hai là không có Thiên Chúa nào hết. Không
sao hiểu nổi những con người ăn ngay ở lành lại phải chịu đựng nhiều nỗi khổ
đau và vác những thập giá nặng nề đến thế! Không gì đe dọa niềm tin cậy chúng
ta vào một Thiên Chúa yêu thương quan phòng hơn là phải chứng kiến những cảnh
khổ đau trên đời này.
Sách
Gióp là một nỗ lực tiếp cận trực diện vơí vấn đề đau khổ của con người. Ông
Gióp, một người đạo hạnh ăn ngay ở lành, bị Thiên Chúa đem ra thử thách. Ông bị
mất tất cả vợ con và tất cả mọi tài sản, rồi sau cùng bị ngã quỵ vì đủ thứ bệnh
tật. Ông bị buông xuôi bỏ cuộc đến nỗi cảm thấy rằng ngoài cái nỗi khốn cùng
này ông không còn gì đáng sống nữa. Nghĩ tới nghĩ lui tại sao ông phải chịu đau
khổ, hay tại sao Thiên Chúa giáng xuống quá nặng tay, ông Gióp không tìm thấy
một câu trả lời thuyết phục nào có thể đem lại ý nghĩa cho nỗi tuyệt vọng hiện
thời của ông. Sự thật là không dễ gì có ngay câu trả lời. Gióp không phải là
người đầu tiên cũng chẳng phải là người cuối cùng bị dày vò và bế tắc trước vấn
nạn đau khổ con người. Bệnh tật và cái chết có thể là những thời khắc quan
trọng nhất và đòi nhiều nỗ lực nhất trong cuộc đời.
Chúng
ta thường quên lãng hay chối từ Thiên Chúa cho tới khi chúng ta bị một cơn
khủng hoảng nào đó đánh gục và ngã quỵ tới chỗ cảm thấy bất lực. Khi chúng ta
chỗi dậy thoát khỏi cơn tuyệt vọng ấy, chúng ta tất tả tìm đến Ngài tìm ơn sủng
chữa lành. Chúng ta được đưa đẩy đến chỗ hoàn toàn tín nhiệm vào Thiên Chúa, vì
không có cách nào khác để đối diện với đau khổ hơn là nhận thức rằng đau khổ là
một phần của chương trình Thiên Chúa. Bệnh tật có thể giúp thúc đẩy chúng ta
gạt sang một bên những hoạt động sôi nổi cuồng nhiệt của cuộc sống thường nhật
để thay vào đó tập trung tâm tư vào ngôi nhà vĩnh cửu mà Thiên Chúa Cha đã dọn
sẵn cho chúng ta trên trời. Đây là những cơ hội đặc biệt đúng lúc để chúng ta
giáp mặt với hy vọng và thất vọng của cuộc sống. Không cần gì mà nghĩ ngợi rằng
chúng ta sẽ làm gì nếu hoàn cảnh của chúng ta có thay đổi khác đi.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, Đức Chúa Giêsu đến với bà nhạc của ông Simon, giơ tay ra
chữa lành cho bà ấy. Đức Kitô không trao cho chúng ta câu trả lời về vấn đề đau
khổ cũng không giải thích tại sao con người phải chịu đau khổ nhưng Ngài cho
chúng ta thấy tầm quan trọng của việc biến đau khổ thành niềm vui. Bằng cách
đồng hóa mình với bệnh nhân hay người hấp hối Đức Chúa Giêsu khi hấp hối trên
Thập Giá đã mặc khải cho chúng ta thấy rõ ràng đau khổ là một phần trong chương
trình của Thiên Chúa. Tất cả đều tùy thuộc cách chúng ta vác thập giá của mình
bởi lẽ một khi kết hợp những gian nan thử thách của chúng ta với những gian nan
thử thách của Đức Kitô, chúng ta có thể vui hưởng chiến thắng của Ngài. Cho dù
bất cứ điều gì xảy ra, đối với những ai yêu mến Thiên Chúa và sẵn sàng chung
phần thương khó với Chúa Giêsu, tất cả mọi việc đều có ý nghĩa. Tin Mừng không
bảo đảm cho chúng ta thoát khỏi những nỗi khổ đau nhưng đoan chắc với chúng ta
rằng Thiên Chúa luôn ở với chúng ta cho dù những nỗi khổ đau của chúng ta có
lớn đến đâu đi chăng nữa.
19. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
RAO
GIẢNG VÀ CHỮA LÀNH
Mới
đọc đoạn Tin Mừng này tôi có ấn tượng Đức Giêsu coi việc chữa lành các người
bệnh tật ốm đau chỉ là công tác phụ, trong khi sứ mệnh chính của Người là rao
giảng. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao
giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Lý thuyết là như thế, nhưng
đứng về phía đám quần chúng bình dân thì rõ ràng, phần đa họ tìm đến với Người
trước hết để được chữa lành khỏi bệnh hoạn tật nguyền. “Mọi người đang tìm Thầy
đấy!” Và cũng chính vì được chứng kiến các việc chữa lành mà dân chúng tin vào
lời Người giảng dạy; ‘Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền’ (c.22).
Hình
như hơn ai hết chính Đức Giêsu đã ý thức rất rõ điều này: không lời giảng dạy
nào về một Thiên Chúa nhân ái từ bi đối với một nhân loại đau khổ lại hữu hiệu
và hùng hồn cho bằng khi nhân danh Người mà rộng tay chữa lành các thương đau
phần xác cũng như phần hồn của con người cùng khốn. Ngay cả đối với các môn đệ
mới chiêu mộ, Đức Giêsu cũng đã hoàn toàn chủ động trong việc này; do đó Người
đã chữa bà mẹ vợ ông Si-mon khỏi cơn sốt, cho dù không ai yêu cầu. Phải chăng
đó chính là để ‘các môn đệ tin vào Người’, theo cách nói của Gio-an sau phép lạ
nước hóa thành rượu tại tiệc cưới Ca-na (Ga 1:8)? Khi dài dòng thuật lại rất
nhiều phép lạ Đức Giêsu đã thực hiện, chắc hẳn tác giả Mác-cô muốn tô đậm nơi
Người nét ông thầy thuốc tốt lành tới chữa lành bệnh nhân tật nguyền; Người
‘chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật’; và hình như đó cũng chính là hình
ảnh mà Người sẽ dùng để tự giới thiệu mình: “Người khỏe mạnh không cần đến thầy
thuốc, người đau ốm mới cần” (Mc 2:17).
Như
vậy đối với Đức Giêsu, rao giảng và chữa bệnh không phải là hai công việc tách
rời nhau. Bởi nếu nội dung cốt lõi của sứ điệp Tin Mừng chính là ‘Thiên Chúa
nhân ái quan tâm đến số phận của con người yếu hèn trong cả lãnh vực thể lý lẫn
tinh thần’ thì chắc chắn lời rao giảng hùng hồn và sắc bén nhất sẽ phải là
‘chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền’ và ‘sua trừ ma quỉ’. Đức Giêsu hẳn có ý nói
điều này khi bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung
quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” Mác-cô còn ghi nhận thêm: ‘Người đi
khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỉ’ (nên lưu
ý là người Do Thái thời Đức Giêsu cho rằng mọi bệnh tật đều do ma quỉ mà ra).
Qua các việc chữa lành này Người chỉ muốn cho mọi người được biết: Thiên Chúa
từ nhân đã đến với họ, đang thật sự ở giữa họ, đang đồng hành với họ, cảm thông
nỗi thống khổ yếu đuối của họ, và tích cực can thiệp theo cách thức của riêng
Người.
Suy
niệm trên xem ra chẳng có gì là quan trọng cho lắm, tuy nhiên nó sẽ giúp ta
tránh được điều mà nhiều tín hữu thường mắc phải khi cho rằng Tin Mừng hệ tại ở
việc lãnh hội các tín điều cao siêu (điển hình các công thức tuyên tín phức tạp
chứa đựng trong Kinh Tin Kính Ni-cê chẳng hạn…); và cho rằng làm bác ái chỉ là
việc phụ, tiểu tiết tùy nghi theo khả năng mỗi người, có mục đích duy nhất làm
gia tăng công nghiệp trước mặt Chúa hầu đảm bảo phần rỗi linh hồn; rồi khi đọc
Phúc Âm sẽ cho rằng việc Đức Giêsu làm các phép lạ chẳng qua là để chứng tỏ
quyền phép vượt trội hầu thúc ép dân chúng tin lời Người giảng dạy…; rằng những
học thuyết cao siêu gồm các qui định luân lý và giới luật tân kỳ mới thật là
điều Người xuống thế để dạy dỗ. Suy niệm trên hơn bao giờ hết giúp tôi nhận ra
Lời Tin Mừng thật nhất quán, chặt chẽ và đầy thuyết phục: ‘Đức Giêsu - Lời’ đến
trần gian để tuyên bố sứ điệp tình yêu của ‘Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…’
và tình yêu đó cũng thật cụ thể: ‘Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu
độ’ (Ga 3:16.17). Thế đấy, toàn bộ cuộc đời Đức Giêsu chỉ là một ‘Lời tình yêu cứu
độ’, Lời trong sứ điệp, Lời trong hành động, Lời trong các phép lạ, thậm chí
Lời trong cái chết tự hiến trên thập giá và Lời trong sự Phục Sinh chứa chan
niềm hy vọng. Tóm lại tôi nhận ra rất rõ nội dung duy nhất của sứ vụ Đức Giêsu
trên trần gian chính là để quảng bá và thể hiện mọi nơi mọi chốn một ‘Thiên
Chúa yêu mến thế gian’ bằng trọn cả con người Ngài.
Vì
là một tu sĩ Sa-lê-diêng, tôi nhiều lần đã áp dụng cho Đức Giêsu câu nói mà
chúng tôi vẫn thường dùng để nói về Don Bosco: “Người không đi một bước, không
nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì, mà không phải vì…phần rỗi giới
trẻ!” Ở đây phải là, trong Tin Mừng ‘Đức Giêsu đã không hề đi một bước, không
nói một lời, không bắt tay vào bất cứ việc gì mà không phải vì… muốn chứng tỏ
và thể hiện rằng Thiên Chúa yêu mến trần gian cách tuyệt đối tới độ…!’
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho con được chia sẻ khát vọng Chúa muốn cho Tin Mừng tình yêu
nhân ái được thể hiện và nhận biết ‘ở các nơi khác… các làng xã chung quanh
nữa’. Con, một linh mục của Chúa, ước mong rằng: mình sẽ không chỉ giảng dạy sứ
điệp Tin Mừng này bằng lời nói suông, nhưng phải bằng cả thái độ sống và hành
động. Xin cho con biết rao giảng Lời Chúa qua các dấn thận phục vụ quảng đại,
mọi nơi và cho hết thảy mọi người. Amen.
20. Một đời thương cảm
(Suy niệm của G. Nguyễn Cao Luật, OP)
Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã
có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc
đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão. Đã có lúc khoẻ mạnh sung
sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như
thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc
phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.
Tiếng kêu thương
Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn
văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con
người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình,
bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt...
Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải
đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ
phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự
gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải
gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão
lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra... tất cả vẫn đang tiếp tục
nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể
lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp
dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được
niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.
Vị Thượng Tế biết thương cảm
Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con
Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan
báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo
sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác
giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu
cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô
là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra
khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người
chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở
mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.
Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa
bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi
đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến
con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy
các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã
phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục... (Dt 5,8).
Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên
thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận
một đau khổ nhục nhã nhất như thế?
Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương
"Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là
để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc 10,45).
Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng
là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng
sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ
Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả
năng phục vụ theo gương Người.
Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan
báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương
cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo
Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội
tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một
người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta
không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu
đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một
người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được
sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là
ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng
thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết
cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như
Thiên Chúa muốn.
Lời nguyện của người được sai đi
Lạy Chúa,
Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước
của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh... điều đó cũng dễ
quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung
của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.
Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ
lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý
Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này
cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con
đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.
Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ
giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được
Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều
làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua
đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù
sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu
độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng
nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của
cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những
khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ....
Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài,
của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự
hơn....
Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên
chất dầu của cuộc đời con....
Lạy Chúa,
Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được
lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư
cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết
ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận
con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner)
21.
Huyền nhiệm đau khổ
(Suy
niệm của Phanxicô Xaviê)
Mỗi
người mỗi cảnh, đi tìm kế sinh nhai cách khác nhau, nhiều khi họ phải bán rẻ cả
nhân phẩm của mình. Nhưng dù sao tất cả họ, vẫn là những người biết kiếm tiền
dựa trên chính sức lao động của mình, không như một nhóm người bán nước cầu
vinh, chỉ biết lợi dụng lòng nhân ái của người khác để kiếm tiền thông qua tham
nhũng, ăn hối lộ, bớt xén của công hay buôn lậu....và làm nhục quốc thể như vụ
một nhân viên ngoại giao buôn lậu sừng tê giác bị bắt quả tang, hay vụ công ty
tư vấn Thái Bình Dương (PCI) hối lộ quan chức cộng sản, dẫn tới Nhật quyết định
ngừng cung cấp viện trợ phát triển ODA cho Việt Nam. Cũng theo BBC, cho hay các
cựu quan chức PCI nhận đã chuyển 820.000 đôla cho ông Huỳnh Ngọc Sỹ, nguyên phó
giám đốc Sở Giao thông Công chính thành phố Hồ Chí Minh, để giành thầu trong
các dự án hạ tầng có sử dụng vốn vay ODA tại đây. Phe công tố thì nói số tiền
lên tới hai triệu đôla. (nguồn BBC)
Đường
phố Sài gòn có vẻ tấp nập hơn vào những ngày cuối năm. Người qua kẻ lại, hối hả
đi về mong cho kịp giờ đón giao thừa trong mái ấm gia đình, bên những người
thân yêu. Nhưng khi bước qua những ngày đầu của năm mới, thì đường phố trở nên
vắng vẻ lạ thường. Chỉ còn đây đó xuất hiện những con người lam lũ sống bằng
nghề bán hàng rong hay bán vé số dạo, đa phần họ là những người nhập cư. Hỏi ra
mới biết vì không có đủ tiền mua vé tàu xe về quê ăn tết, nên đành phải đón tết
xa quê. Cũng trong số họ, có người vốn là dân thành phố, giàu có một thời,
nhưng chỉ sau lần "đánh tư sản mại bản" của chế độ cộng sản vào những
năm đầu mới giải phóng, đã trở thành một người vô gia cư. Đó là trường hợp của
bà Ba bán vé số. Họ nhìn ngắm những gian hàng bánh mứt được trang trí cho đẹp
mắt, mà chẳng dám mơ tưởng. Bởi cuộc sống của họ vốn đã eo hẹp, thì nay càng
khó khăn hơn vào những ngày giáp tết Kỷ Sửu.
Cũng
có ông lão nọ, tuổi đã ngoài bảy mươi, chẳng mấy bận tâm đến cái vẻ nhộn nhịp,
hào nhoáng bên ngoài khi ngày tết đang đến gần. Ông dửng dưng trước cái tết,
không phải là ông không biết ăn ngon mặc đẹp, nhưng vì "cái khó nó bó cái
khôn", cái nghèo đã không cho phép ông nghĩ đến những chuyện xa xôi hơn
cái việc kiếm cho mình một bữa cơm sống qua ngày. Ông chẳng hề quan tâm đến bộ
quần áo cũ đang mặc, mà có lẽ đã lâu không được giặt. Thấy tội nghiệp, ngưòi ta
cho tiền, nhưng ông từ chối, bởi vì ông sống bằng nghề bán vé số dạo. Mỗi khi
bán cho ai được tờ vé số nào, ông đều dặn người ta: nếu có trúng giải đặc biệt,
thì hãy giúp cho ông một chiếc xe đạp để ông làm phương tiện đi lại, vì tuổi
cao, phải đi bộ nhiều nay ông đã mỏi chân. Trong khi đó, ngày càng có nhiều
người tìm đến cái nghề mất ít vốn nhưng lại dễ kiếm tiền, nên ông muốn có chiếc
xe đạp để đi bán ở những nơi khác xa hơn, lắm lúc bị người ta xua đi như đuổi
tà, vì họ nghĩ người bán vé số dạo thường là những người nghèo kiết xác, nên họ
khinh rẻ, dù đó là một người lớn tuổi.
Khi
ánh đèn đường đã sáng rõ, cũng là lúc bắt đầu buổi làm việc của một nhóm nghề
khác: buôn phấn bán hương. Họ là những cô gái trẻ, chỉ khoảng mười tám đôi
mươi, ăn mặc sang trọng, mang dáng vẻ như những tiểu thư đài các. Từng nhóm hai
ba người, có khi lên đến bốn hay năm người, chạy trên những chiếc xe tay ga đời
mới, nghe nói họ thuê lại của một "má mì ", chạy từ hướng cầu Thị
Nghè về phía mũi tàu, đến trước cổng Trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm
II của hiệp hội người khuyết tật thành phố, thì quay đầu lại. Cứ như vậy, họ
chạy đi chạy lại từ lúc 20h - 21h mỗi buổi tối, mong tìm được khách làng chơi.
Có hôm họ còn chủ động chạy xe kè theo những người đi xe trên đường, trong số
đó có không ít người đáng tuổi cha chú của họ. Và đương nhiên họ chỉ nhận được
những cái lắc đầu bỏ đi.
Đau
khổ vốn là một trong những vấn nạn nhân sinh, một huyền nhiệm không dễ gì giải
thích thấu đáo. Tại sao con người phải chịu nhiều đau khổ? Sinh ra đã là khổ,
khi mới sinh đứa bé nào mà chẳng phải khóc thét lên vì cái tát của bà mụ. Lớn
lên càng khổ hơn vì phải đổ mồ hôi và nước mắt mới có được miếng ăn mong sống
qua những ngày tháng dài tưởng chừng như vô vọng. Rồi còn phải chịu đựng ốm
đau, bệnh tật, già yếu và cuối cùng phải chết. Thế nên, theo quan niệm của nhà
Phật, thì đời là bể khổ. Và muốn thoát khỏi đau khổ, con người phải tự diệt
duc, tức diệt lòng ham muốn nơi mình. Kinh Thánh chỉ rõ hơn: con người đau khổ
là do hậu quả của tội lỗi, của sự ác và của ác thần. (x. St 3, 1-7; 3, 17-19)
Dưới
ánh sáng của Tin Mừng, vấn đề càng được khai tỏ. Vì trước mọi đau khổ của cuộc
đời, người Kitô hữu luôn được mời gọi hãy ứng xử theo gương Chúa Giêsu, là Đấng
Thiên Sai mà tiên tri Isaia đã loan báo, Người đến để giải thoát con người khỏi
đau khổ (Is 29, 18-19). Theo gương Chúa: không thất vọng, nhưng đón nhận và
hoàn toàn phó thác trong bàn tay nhân từ của Chúa Cha.
Tin
Mừng Mc 1, 29-39 ghi lại một ngày sống vất vả của Chúa Giêsu ở Caphacnaum.
Người giảng dạy, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ cho mọi người từ sáng đến
tối, nhưng vẫn dành thời gian sống với Chúa Cha bằng cầu nguyện. Một ngày làm
việc của Chúa Giêsu với biết bao nhọc nhằn vì lòng thương người, muốn giải
thoát con người khỏi đau khổ của bệnh tật, của ma quỷ. Chính vì vậy, chỉ có
niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng giải thoát đau khổ mới có thể giúp con người
nhận ra ý nghĩa đích thực của đau khổ và có sức mạnh để đón nhận nó. Chúa Giêsu
đến không phải để tiêu diệt hết mọi đau khổ, nhưng Người đến để giúp con người
chịu đụng đau khổ cách có ích.
Chúa
Giêsu trong đoạn Tin Mừng của Chúa nhật V mùa thường niên này được mô tả là một
người hết lòng vì người khác, tận tâm phục vụ hết thảy mọi người. Một ngày sống
của Người trôi qua cách hữu ích cho tha nhân. Từ sáng đến tối lúc nào cũng tấp
nập người bệnh, người bị quỷ ám đến xin cứu chữa. Người đã sử dụng thời gian
thật hợp lý để gắn bó với Chúa Cha và để phục vụ tha nhân. Chính nhờ cầu nguyện
với Chúa Cha mà Người đã luôn thực hiện đúng thánh ý Chúa Cha.
Hạnh
phúc thật chỉ có nơi Thiên Chúa, bí quyết của hạnh phúc là khám phá và thực thi
thánh ý Ngài. Lạy Chúa Giêsu, xin cho mỗi người chúng con luôn biết noi theo
gương Chúa, mà sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua
việc gắn bó với Chúa bằng cầu nguyện, và sử dụng thời gian cách hữu ích cho tha
nhân qua việc sống yêu thương, phục vụ và chu toàn bổn phận trần thế của mình.
22. Sống tình liên đới
(Suy
niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc
sống cần sự liên đới. Vạn vật cũng liên đới với nhau để tồn tại. Con người cũng
phải liên đới với nhau để phát triển và đem lại hạnh phúc cho nhau. Đó là chân
lý, là lẽ sống của muôn loài.
Đó
cũng là điều mà nhà thơ Hữu Thỉnh đã nói:
Tôi
hỏi đất:
–
Đất sống với đất như thế nào?
–
Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi
hỏi nước:
–
Nước sống với nước như thế nào?
–
Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi
hỏi cỏ:
–
Cỏ sống với cỏ như thế nào?
–
Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi
hỏi người:
–
Người sống với người như thế nào?
Thật
khó để trả lời cho chân lý sống của con người. Con người dường như chẳng đi
theo một quy luật nào. Đất sống với nhau luôn bồi đắp cho nhau để tạo thành
những đồi núi trùng điệp thơ mộng. Những con nước luôn liên kết với nhau mới
tạo thành những dòng chảy quanh xóm làng thanh bình. Từng nhánh cỏ đan xen với
nhau mới làm nên một thảm cỏ xanh tươi bát ngát. Nhưng con người lại ích lỷ,
thích sống cho bản thân hơn là liên đới tồn tại.
Dẫu
biết rằng cuộc đời sẽ đẹp biết bao khi con người biết sống bồi đắp cho nhau,
biết sống làm đầy cho nhau những nghĩa cử yêu thương, và biết sống liên kết với
nhau tạo nên một thế giới màu xanh của yêu thương và hòa bình. Cuộc đời sẽ bất
hạnh nếu con người sống chia rẽ, hiềm khích và tranh giành nhau. Nhưng đáng
tiếc con người sống với nhau chỉ toan tính lợi lộc cho bản thân hơn là chia sẻ
nhường nhịn lẫn nhau. Vì thế, câu trả lời con người sống với nhau thế nào thật
đa dạng.
-
Người buôn bán thì bảo phải cạnh tranh để tồn tại, để kiếm lợi nhuận.
-
Người làm chính trị thì bảo phải khôn ngoan để chiến thắng, để đẩy lui đối thủ.
-
Những ca sĩ, những bác sĩ thì thích chê nhau nhiều hơn là khen nhau, thích loại
trừ nhau nhiều hơn là liên đới với nhau.
Xem
ra con người vẫn chưa liên đới đủ để tạo nên một sức sống hùng vĩ như đất đã
tạo nên những dãy núi trùng điệp. Xem ra con người vẫn chưa xan xẻ với nhau đủ
để tạo thành một dòng chảy tình yêu cho mát rượi lòng nhau. Xem ra con người
vẫn con xa cách nhau khiến không thể gần nhau để cùng chung xây thế giới an
bình thịnh vượng.
Thế
giới sẽ đẹp biết bao nếu con người biết liên đới với nhau. Sự liên đới sẽ làm
giầu có cho nhau. Sự liên đới sẽ mang lại no ấm cho nhau. Sẽ không còn tiếng
khóc lẻ loi trong cô đơn tuyệt vọng. Sẽ không còn những tranh chấp thị phi nếu
con người biết tôn cao nhau và cùng dìu nhau đi tới.
Chúa
Giê-su đã sống một cuộc sống yêu thương như thế. Ngài rất bận rộn. Cái bận rộn
không phải của công việc cho bản thân mà là bận rộn làm việc cho tha nhân. Ngài
sống liên đới với mọi người. Ngài liên đới với tội nhân để thay họ dâng hy lễ
đền tội với Chúa Cha. Ngài liên đới với những mảnh đời lao động vất vả khi
chính Ngài đã sống ẩn dật tại mái nhà Nagiaret. Nơi đó, Ngài sống như người
nghèo khi kiếm sống bằng đôi bàn tay lao động. Ngài liên đới với mọi cảnh cơ
hàn của con người khi Ngài dùng đôi tay để xoa dịu mọi nỗi đau của con người.
Đôi chân trần của Ngài đã đến với mọi hạng người để nâng đỡ và ủi an họ.
Hôm
nay, Chúa vẫn mời gọi chúng ta hãy sống tình liên đới với nhau. Hãy ra khỏi cái
tôi ích kỷ của mình để đến với tha nhân. Con người sống là sống với ai đó để
tồn tại thì hãy sống liên đới, xan xẻ và yêu thương nhau. Có như vậy chúng ta
mới làm lên những kỳ công cho cuộc đời khi không còn những kẻ cơ hàn, đói rách
bên cạnh chúng ta.
Xin
Chúa giúp chúng ta biết sống yêu thương như Chúa. Xin cho đôi chân của chúng ta
luôn mau lẹ đến với tha nhân, và đôi tay luôn quảng để nâng đỡ, ủi an những ai
đang mang gánh nặng nề vì cuộc sống lầm than. Amen.
23. “Đức Giêsu, Thầy thuốc của tâm hồn”
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Quốc Phong SDB)
Đoạn
Tin Mừng theo Thánh Marcô giới thiệu cho chúng ta chân dung một vị Thầy thuốc
tài ba và tốt lành. Chúa Giêsu chữa tất cả những người bệnh đến với Ngài. Chúng
ta biết rằng, theo văn hóa của người Do Thái, bệnh tật được gắn liền với tội
lỗi, nghĩa là người Do Thái quan niệm và tin rằng bệnh tật là một hình phạt từ
Thiên Chúa dành cho những người tội lỗi. Những người bệnh tật bị cộng đồng loại
trừ và bị nhìn với con mắt khinh bỉ, miệt thị. Chính vì vậy, mỗi khi Chúa Giêsu
chữa bệnh, Ngài hay nói với họ rằng “Tội của con đã được tha” hay “Đức tin của
con đã cứu con." Chúa Giêsu không chỉ là bác sĩ thể lý, mà quan trọng hơn,
Ngài là một bác sĩ của tâm hồn, chữa hết những vết thương tâm hồn, đưa họ trở
lại với nhân phẩm của con người, đưa họ trở lại với vai trò làm con của Thiên
Chúa, và ban cho họ niềm vui - bình an - hi vọng để họ sống và sống dồi dào.
Người được Chúa Giêsu chữa lành, có khả năng hoán cải, và trở thành nhân chứng
cho Ngài.
Những
ai mắc bệnh về thể lý, họ tìm đến bệnh viện để chữa bệnh với những cách thức và
phương thuốc thích hợp và họ có cơ hội được chữa lành là rất lớn, vì y học hiện
nay rất phát triển và hiện đại. Nhưng trong thời đại ngày nay, có những căn
bệnh rất nguy hiểm, đó là bệnh về lương tâm đạo đức, bệnh về ý thức hệ, … là
hậu quả của các chủ nghĩa sai lạc, của các lối sống thiên về hưởng thụ, ích kỷ,
cá nhân … đang ảnh hưởng cách rộng rãi và sâu xa tới chúng ta, nhất là giới
trẻ.
Ở
đây, xin trưng dẫn một căn bệnh của giới trẻ, đó là tình trạng tự tử của giới
trẻ trên thế giới. Theo ước tính của Tổ chức y tế thế giới (WHO), trên toàn thế
giới mỗi giây có một người tự tử, mỗi năm con số này là 1 triệu người, số người
có ý định tự tử nhiều gấp 10-20 lần. Mỗi năm tại Trung Quốc có tới 250.000
người tự tử + 2 triệu người có ý định tự tử; tại Nhật mỗi năm có khoảng trên
30.000 người tự tử, …
Một
căn bệnh khác của giới trẻ đó là “sống không lý tưởng” hay lý tưởng sống quá
thực dụng thiên về vật chất. Căn bệnh này kéo theo hàng loạt các căn bệnh khác,
gây ra những cơn bão đánh sập hệ thống luân thường đạo lý của người việt, làm
sản sinh ra các thế hệ giới trẻ sống thực dụng và ích kỷ, lấy vật chất làm nền
tảng cho suy nghĩ và hành động.
Đây
là những căn bệnh không đơn giản tí nào, không dễ gì để tìm ra thuốc ngừa và
thuốc chữa…Trong tình trạng dường như bế tắc này của thế giới, Chúa Giêsu mời
gọi tất cả chúng ta hãy chạy đến với Ngài để tìm ra phương cách chữa chị và
phòng ngừa. Ngài chữa bệnh cho chúng ta không cần điều kiện, với cung cách của
một người cha yêu thương: “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy, cơn sốt dứt
ngay… ” (Mc 8,31). Ngài cũng đang chữa bệnh cho tất cả chúng ta, là những người
ý thức mình đang mang bệnh, với ước muốn được sống và sống dồi dào.
Chúa
Giêsu đã từng nói: “Ta đến thế gian để kêu gọi những người tội lỗi […] chỉ
người bệnh mới cần thầy thuốc." Mỗi người chúng ta cũng nên tự hỏi rằng:
“Chúa Giêsu đến để kêu gọi và chữa bệnh cho tôi chăng?” hay “Tôi là một giáo lý
viên gương mẫu và nhiệt tình, tôi là một tu sinh tốt lành, hay tôi là một linh
mục mẫu mực, được nhiều người cảm mến và ngưỡng mộ” … rằng “Tôi rất là ok, cuộc
sống của tôi rất bình an và hạnh phúc” có lẽ tôi chẳng có bệnh gì!!!
Chúa
Giêsu thích “đến gần, cầm tay, nâng dậy” những ai ý thức mình tội lỗi, bị bệnh
và cần đến Ngài. Và đây chính là cơ hội thúc đẩy chúng ta đến “gặp gỡ” Ngài.
Ngược lại, những ai cảm thấy mình “tất cả đều ok”, thì cuộc gặp gỡ với Chúa
Giêsu trở nên rất khó khăn: “Lạy Chúa con cảm ơn Chúa vì con là người công
chính … không như cái thằng thu thuế bên kia."
Chúng
ta vui sướng cảm tạ Chúa mỗi ngày không phải vì chúng ta là những người thánh
thiện, đáng được hưởng hồng ân bình an và ân sủng của Thiên Chúa, nhưng chúng
ta vui sướng hân hoan vì chúng ta là “những tội nhân được tha thứ” một cách vô
điều kiện. Chúng ta được thừa hưởng một cách “miễn phí” kho tàng Bình An - Hi
Vọng, kho tàng Sự Sống – Ơn Cứu Độ từ Thiên Chúa, vì thế chúng ta cũng phải ra
đi rao giảng kho tàng đó cho mọi người cách “miễn phí”, như thánh Phaolo đã nói
trong bài đọc II: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16),
bởi vì “Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở” (Gp 7,7),
con cần có Chúa, con ao ước được gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong các Bí Tích và
trong anh chị em con, vì Ngài là Bác Sỹ cho tâm hồn con, vì “Lạy Chúa, Chúa đã
dựng nên con cho Chúa và tâm hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được yên nghỉ
trong Chúa” (Augustino, Tự thuật I, 1, 1).
24. Một ngày sống – Lm. Phêrô Trịnh
Nếp
sống đơn điệu thường ngày với những bon chen cơm, áo, gạo, tiền, dễ làm cho con
người rơi vào mệt mỏi, chán nản và không ít người đã đánh mất ý nghĩa của cuộc
sống. Nhưng đối với người Kitô hữu, mỗi ngày sống lại là một quà tặng mà Thiên
Chúa ban. Để nhận ra ân ban này và sống với tất cả niềm hạnh phúc, ta được mời
gọi nhìn ngắm và noi theo một ngày sống của Chúa Giêsu.
1.
Chúa Giêsu cầu nguyện
Khởi
đầu ngày sống mới, Chúa Giêsu ưu tiên cho việc cầu nguyện. Tin mừng Marcô cho
thấy Chúa Giêsu luôn cầu nguyện khi rao giảng, khi chữa lành các bệnh nhân, khi
gặp gỡ đối thoại, khi bị chống đối... Cầu nguyện là một nhu cầu thật sự của
Chúa Giêsu. Đó là phương thế hữu hiệu để Ngài kết hiệp mật thiết với Cha và tìm
ý Cha. Chúa Giêsu cần thời gian thinh lặng để sống riêng tư bên Cha, tâm sự với
Cha về gánh nặng của sứ vụ, về những khổ đau của con người, về những cuộc chiến
chống lại sự dữ. Mang trong mình bản tính nhân oại, chắc hẳn Chúa Giêsu cũng
cần được Cha nâng đỡ, cảm thông và sẻ chia. Cầu nguyện sẽ đưa Chúa Giêsu đến
với con người để đồng cảm, chữa lành những khổ đau và hoạt động với con người
lại đưa Chúa Giêsu đến gần Cha Người hơn.
2.
Chúa Giêsu làm việc lành
Rời
hội đường ở Capharnaum, Chúa Giêsu đến nhà Simon và Anrê. Nhạc mẫu của ông
Simon đang bị cơn sốt hành hạ và nằm trên giường. Sốt không phải là loại bệnh
nan y, khó chữa trị. Nhưng người Do Thái lại xem cảm sốt như là một hình phạt
của Thiên Chúa, đi theo với chứng kiệt sức (Đnl 28, 22; Lv 26, 16) khiến người
bệnh chỉ có thể nằm. Người ta gán cho căn bệnh này là do ma quỷ. Vậy mà cách
Chúa Giêsu chữa lành cơn sốt cho bà mẹ vợ ông Simon thật đơn giản: Ngài cầm lấy
tay bà và nâng bà dậy, lập tức cơn sốt biến mất và bà có thể đi lại để phục vụ
mọi người. Chúa Giêsu đã nâng một con người dậy bằng quyền năng nào? Sức sống
mãnh liệt nào đã truyền qua cử chỉ cầm tay này? Chắc hẳn đó là từ chính Thiên
Chúa. Ngày nay, nhân loại cũng cần biết bao được Chúa nắm lấy tay và nâng dậy
khi bị sức nặng của những khổ đau, những mải mê trần thế đang ghì kéo con người
xuống.
Rồi
chiều đến, người ta đem đến cho Đức Giêsu biết bao kẻ đau ốm và bị quỷ ám. Ngài
đã chữa lành tất cả. Mọi bệnh tật đều do ma quỷ gây nên. Chữa lành là dấu chỉ
chiến thắng ma quỷ. Chúa Giêsu đến cứu chữa và giải thoát con người khỏi sự
thống trị của ma quỷ. Ngài mạc khải cách tiệm tiến cho dân chúng bằng cách cho
họ thấy dấu chỉ chứng tỏ quyền lực của Ngài trên tội lỗi, ma quỷ và trên sự
sống, để từ đó dẫn họ tới đức tin. Đức tin vào Chúa Giêsu chỉ thật sự có giá
trị khi hiểu biết đầy đủ về sứ mạng và công việc của Chúa Giêsu, đặc biệt hiểu
Ngài phải chết và sống lại để hoàn tất chương trình cứu độ.
Như
vậy, Chúa Giêsu đến nhà Simon không chỉ để dùng bữa, nhưng điều quan trọng là để
phục hồi sức sống nơi những con người đau khổ, bệnh tật. Chứng tỏ Ngài đến trần
gian để tìm kiếm con người chứ không phải của cải của con người và Ngài muốn
ban cho con người của cải cao quý từ trời cao là lòng thương xót và sự sống của
Thiên Chúa. Và Chúa Giêsu muốn những ân ban này được trao tặng cho mọi người.
3.
Chúa Giêsu tiếp tục lên đường
Sau
một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, c hữa lành bệnh tật và
xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh ngạc của dân thành.
Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. “Mọi người đều đi tìm Thầy”, chứng tỏ
mọi người ở đây vẫn cần đến Đức Giêsu. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp
tục sứ vụ theo ý Cha Ngài. “Hãy đi đến những làng, những thành lân cận”, Chúa
Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của
Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở
rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do
đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ mạng đem
Chúa đến cho mọi người.
Đó
là một ngày sống của Chúa Giêsu, đầy ắp những hoạt động vì con người, nhưng
cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên cha. Hoạt động và cầu nguyện là
những nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc sống sung mãn của Chúa
Giêsu nơi trần gian. Một ngày làm việc của Ngài với bao vất vả, nhọc nhằn nhưng
lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều người. Theo gương Chúa
Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử dụng thời gian sống của
mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu
nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy ta dùng thời gian có ích cho tha
nhân bằng việc sống yêu thương và phục vụ.
25. Người còn rao giảng ở nơi khác
(Suy
niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Cùng
văn mạch với tin mừng tuần trước, đoạn 1,29-39 kể tiếp những công việc khác của
Chúa Giêsu: chữa bệnh cho bà gia của Simôn (1,29-31), chữa các thứ bệnh người
ta mang đến trước nhà Simôn vào ban chiều (1,32-34), và hôm sau, Người đi cầu
nguyện và đi rao giảng ở các vùng khác của Galilê (1,35-39).
Một
khía cạnh khác trong những hoạt động của Chúa Giêsu là chữa bệnh. Trong lần đầu
tiên nầy, Người chữa lành một phụ nữ, trong khung cảnh và tương quan của một
gia đình. Người còn chữa thêm những lần khác nữa, theo sự khẩn nài của cha mẹ
xin cho con cái (5:21-43; 7:24-30; 9,14-27). Ở đây, con rể xin Chúa chữa cho bà
gia. Trong mọi trường hợp, Chúa đều chữa lành hoàn toàn, đến nỗi người phụ nữ
nầy có thể tiếp đãi Chúa Giêsu và các môn đệ tức thì.
Tiếng
tăm của Chúa Giêsu lan ra rất nhanh, đến nỗi cả thành Capharnaum đều biết. Họ
đã mang đến cho Người đủ mọi thứ bệnh nhân ngay chiều hôm đó (1,32-34). Dân
chúng đặt hy vọng vào Người và Người đã giúp họ bằng quyền năng của Người. Tuy
nhiên, Người không phải là bác sĩ chuyên nghiệp, mà là sứ giả của Thiên Chúa,
đến để loan báo Nước Thiên Chúa đang đến (1,15). Vì thế, việc chữa bệnh là dấu
hiệu quyền năng của Nước Thiên Chúa đang biểu hiện giữa con người. Quyền năng
ấy sẽ biệu hiện cách viên mãn trong việc đánh bại sự chết - nguồn gốc mọi đau
khổ, và trong việc phục sinh Chúa Giêsu. Hoán cải và tin vào Chúa Giêsu (1,15),
thì sẽ được tham dự vào sự sống hoàn hảo của Người.
Sáng
sớm, Chúa Giêsu bỏ thành Capharnaum ra đi cách âm thầm, để cầu nguyện và để đi
nơi khác (1,35-38). Người là Con được yêu mến của Chúa Cha (1,10-11.24), nên
luôn gắn bó mật thiết với Cha của Người. Người tìm mọi dịp để cầu nguyện trong
thanh tịnh với Cha của Người (6,46), nhất là khi Người sắp làm một thay đổi
lớn: khởi đầu, lúc mở rộng hoạt động (1,38), cuối cùng, lúc sắp sửa nộp mình
chịu chết (14,32-42).
Chúa
Giêsu nói rõ lý do tại sao Người ra đi nơi khác: “Vì điều nầy mà Thầy đã đi ra”
(1,38). Không có một bổ ngữ nào để xác định Chúa Giêsu đã đi ra từ đâu. Tuy
nhiên, có thể hiểu là Người đã đi ra từ Chúa Cha. Nói cách khác, “Vì điều nầy
mà Cha đã sai Thầy đến." Sứ mạng của Chúa Giêsu là đến và đi rao giảng
Nước Thiên Chúa. Không bị giới hạn một nơi nào cả. Người đến để tiêu diệt quyền
lực ma quỉ và bệnh tật (1,24), đến để kêu gọi người tội lỗi (2,17), và đển để
phục vụ và hiến mạng sống để cứu chuộc mọi người (10,45).
Chúa
Giêsu đã thiết lập cách hành động của Người: Sứ mạng rao giảng mà Thiên Chúa
giao phó quyết định hành trình của Người.
26. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Cả 3 bài đọc hôm nay đều nói đến việc lao động. Con người sinh ra
trong trần gian này và chấp nhận qui luật của nó. Đó là phải lao động. Cuộc
sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, làm cực
khổ hết ngày này sang ngày khác, làm quần quật hết tháng nọ sang tháng kia để
kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao động trí
óc, nhưng tất cả mọi người đều phải lao động vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để
có sức mà làm. Làm - ăn, ăn - làm như một cái vòng lẫn quẫn trói buộc con
người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc con
người sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một ngày làm việc vất vả của Chúa
Giêsu: Người vừa giảng dạy trong Hội đường Do Thái và cứu chữa một người bị quỉ
ám xong, Người vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêrô đang sốt nặng.
Lập tức, Người liền đến nhà bà ấy và chữa lành cho bà. Rồi cũng liền sau đó có
cả đám đông đang tụ họp trước cửa nhà, trong đó có nhiều người đau bệnh, cần
tới Chúa Giêsu chữa trị. Mãi cho đến chiều tối Người mới có thời giờ nghỉ ngơi.
Chúng ta đã thấy đó, Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải
làm việc vất vả từ sáng đến chiều tối. Người không phải làm việc để có lợi cho
bản thân mình, nhưng Người làm việc để giúp đỡ cho người khác. Người không
những chữa lành, là lo cho họ phần xác mà còn lo về phần thiêng liêng, là rao
giảng, dạy dỗ cho họ, cứu giúp linh hồn người ta. Qua công việc đó, Đức Giêsu
muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của công việc lao động: lao động là
cần thiết, lao động là bổn phận của mọi người, lao động chẳng những giúp ích
cho bản thân mà còn giúp đỡ cho tha nhân, lao động sinh ích lợi cho cả phần xác
lẫn phần hồn nữa.
Từ các bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch ra cho chúng
ta thấy phương hướng sống:
Trước các công việc làm, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những
công việc lao động của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta làm. Khi
làm việc chúng ta ý thức mình làm vì sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha
nhân
Xin Chúa cho chúng ta có sức khỏe thể xác và tinh thần để ta hoàn
thành công việc cách tốt đẹp
Xin Chúa cho chúng ta biết sống hết mình và làm việc hết mình vì
lòng mến Chúa, để góp phần cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ. Và xin
Chúa nâng đỡ những công lao vất vả của chúng ta. Amen.
CÂU CHUYỆN MINH HỌA VỀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp tên
Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm trọng.
Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ ở
Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách
sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi cử chỉ của
người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh nhận ra
ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về
đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà
bác học lên tiếng hỏi:
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải
không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm.
nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp
anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín
hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh
ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời
danh: " con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện."
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với Chúa.
Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người.
Sự cầu nguyện làm cho con người nhìn thấy những giá trị của chính mình, thấy
những yếu đuối, bất toàn trong đời sống của mình. Biết mình bởi đâu mà có, biết
mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu và biết mình phải sống làm sao cho
tốt đẹp!
27.
Cái tình của Chúa Giêsu - Lm. Thu Băng
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại những việc Chúa Giêsu đã làm cho người
ta: như chữa cho bà mẹ vợ của ông Phêrô được khỏi cơn sốt. NgàI lại chữa lành
nhiều bệnh nhân nào là kẻ què, kẻ mù, người điếc, người câm, kẻ xấu nết, và
người chết được sống lại....
Tại sao người ta thích đến với Chúa Giêsu? Tại vì Chúa Giêsu người
ta thấy có "cái tình", có niềm thương cảm đối với những người xấu số,
sầu khổ. Có bài ca rằng: "Đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế
giới, đem tình thương (2) Chúa trời, đem niềm vui cứu đời cho mọi người và mọi
nơi."
Trong con người Chúa Giêsu chất chứa đầy cái tình người. Ngài
không ngồi yên được, mà phải đi đến với người ta để thi ân, để giúp đỡ. Ngài
cũng còn truyền cho các môn đệ đi từng hai người một đến với họ để thi hành
việc bác ái.
Ngày nay loài người còn cần đến tình thương không? Ai là người ban
cái tình đó cho nhân loại? Phải chăng chỉ có các Linh Mục, Giám mục, Đức Thánh
Cha? Phải chăng sứ mạng tông đồ rao truyền "cái tình của Chúa Giêsu"
chỉ có giới tu sỹ? Các ngài đã và đang làm rồi.
Số báo Dân Chúa tháng 2 năm 1985, có đăng tin Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô đệ Nhị đã thể hiện tình thương của Chúa qua các cuộc viếng thăm có vụ:
Ngày 5 tháng 12 năm 1984 ngài tiếp ông Antôn Magalhaes Martin 72 tuổi, người Ba
Tây bị cùi lở loét suốt 52 năm, từ khi ông được 25 tuổi. Và cha Mario Gerlin
Tuyên úy người cùi 10 năm. Ông cảm động vì lời khuyên của Ngài. Ông nhân danh
người cùi thế giới cám ơn Đức Thánh Cha. Cha Gerlin tuyên bố: "Việc Đức
Thánh Cha tiếp ông Martin là một phấn khích lờ lao cho 350.000 người cùi Ba
Tây, và 20 triệu người cùi thế giới. Nghĩa cử đó xoá bỏ thành kiến sợ người cùi
của nhiều người."
Cha Vincent làng thượng đi thăm một gia đình nghèo: Bà khóc lóc kể
lể sự cơ cực xơ xác, rách rưới của gia đình. Bà xin giúp đỡ. Bà nói luôn miệng,
thỉnh thoảng cha mới xen vào được một câu an ủi. Cuối cùng bà nói: "Con
cám ơn cha đã giúp con." Cha ngạc nhiên vì chưa giúp bà được cái gì. Nhưng
bà nói ngay: "Con cám ơn cha nhiều nhất vì cha thông cảm được sự đau khổ
của gia đình con. Đã an ủi con chịu khó theo Chúa, nên con thấy vui khi nghèo."
Sứ mệnh của chúng ta ra sao? Chúng ta không đủ khả năng để chữa
bệnh phần xác nhưng chữa bệnh tâm hồn, bằng lời cầu nghuyện, bằng tâm tình
quảng đại hướng về người nghèo khổ. Thăm nom là phần thưởng lớn đối với người
nghèo khổ. Khích lệ bệnh nhân, một lời an ủi tại nhà, tại bệnh viện. Nhiều khi
chỉ nghe người ta bày tỏ cũng là đủ an ủi rồi. Hoặc gọi điện thoại khích lệ
cũng là một lời thăm hỏi rất tốt.
Câu chuyện cảm động về "Nụ cười khích lệ" tôi muốn kể
cho anh chị em nghe:
Trong vùng có một quân nhân xấu ai thấy cũng chế diễu, bửu môi,
đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống đời cô đơn uồn tủi. Khi anh
chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh:"Xin trao số tiền 10,000
đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của tôi không nhận được nụ cười
nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi
học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô
đơn."
Cũng một câu chuyện nữa về một "Lời nói thân tình."
Tại một góc hè phố, người hành khất bại tay, nằm co quắp mở miệng
xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông. Người thì cho cách khinh bỉ. Một
người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi chẳng tìm được gì, ông nói:
"Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất ngờ tôi không có đồng xu
nào trong túi mình cả." Người ăn xin trả lời: "Cám ơn ông, ông đã cho
tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng "Bác" thành thật
chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng một người sang
trọng bố thí cho tôi."
Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái tình"
của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống. Xin Chúa Giêsu cho
chúng ta hiểu được niềm thương cảm khổ đau và ân tình của Chúa, để chúng con
biết "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem
an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm."
28.
Động lực của việc tông đồ – Radio Veritas Asia
Tin
Mừng rất nhiều lần nhắc đến Chúa Giêsu cầu nguyện với Cha Ngài, đó là những
giây phút gặp gỡ thân tình với Chúa Cha mà Ngài không bao giờ bỏ. Về phương
diện thiên tính, Chúa Giêsu là Chúa Con, đồng bản tính với Chúa Cha, cho nên
Ngài luôn kết hiệp với Chúa Cha. Nhưng như một con người, Chúa Giêsu đã nêu bật
thái độ sống của Ngài, đó là sống mối tương quan thân tình với Chúa Cha qua lời
cầu nguyện.
Trong
Tin Mừng hôm nay, thánh Marcô ghi nhận: "Sáng sớm, lúc trời còn tối, Chúa
Giêsu đã chỗi dậy, đi đến một nơi vắng vẻ để cầu nguyện." Mặc dù bận rộn
với rất nhiều công việc trong ngày, Chúa Giêsu vẫn không quên cầu nguyện. Nhưng
đây không phải là lần duy nhất, Tin Mừng còn cho thấy rất nhiều lần Chúa Giêsu
cầu nguyện với Chúa Cha, và chính Ngài đã dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh
Lạy Cha. Ngài lấy hình ảnh cây nho và cành nho để nói lên tầm quan trọng của
cầu nguyện: "Thầy là cây nho, các con là cành nho; ai lưu lại trong Thầy
và Thầy trong người ấy, thì người ấy sẽ sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy,
các con không thể làm được gì."
Chúng
ta hãy noi gương Chúa, dành thời giờ để tiếp xúc, đối thoại, chiêm ngưỡng Thiên
Chúa, như Ngài đang hiện diện trước mặt chúng ta. Muốn đạt tới việc cầu nguyện
như thế, chúng ta cần phải có đức tin mạnh mẽ và lòng yêu mến Thiên Chúa như
người con đối với người cha. Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói: "Cầu nguyện là
việc tiếp xúc với Thiên Chúa. Hãy bắt đầu và kết thúc mỗi ngày bằng cầu nguyện.
Hãy đến với Chúa như đứa con đến với cha mình."
Chúng
ta hãy cảm tạ Chúa đã cho chúng ta có những giờ phút thuận lợi để bắt đầu một
ngày sống tốt đẹp hơn. Xin cho chúng ta biết sống kết hiệp mật thiết với Chúa
trong cầu nguyện, nhờ đó chúng ta có thể chu toàn thánh ý Chúa và phục vụ tha
nhân một cách hữu hiệu hơn.
29. Bà phục vụ các ngài - Lm Antôn Nguyễn
Cao Siêu
Suy
niệm:
Sau
khi chữa người bị quỷ ám tại hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu trở về một căn nhà
của một gia đình quen biết, gia đình của hai anh Simon và Anrê, những người mới
bỏ nhà để theo ngài. Không may bà mẹ vợ của Simon lại đang lên cơn sốt. Đức
Giêsu đã lại gần giường bà nằm, cầm lấy tay bà và nâng bà dậy. Lập tức cơn sốt
lui khỏi bà và bà phục vụ các ngài.
Đây
là phép lạ chữa bệnh đầu tiên của Đức Giêsu cho một phụ nữ, tại một ngôi nhà.
Sốt
chẳng phải là một bệnh quá nặng và nguy hiểm, nhưng cũng đủ để làm người bệnh
không hoạt động được, gây cản trở những sinh hoạt bình thường trong gia đình.
Đức
Giêsu đến đem lại sự chữa lành, niềm vui và sức sống.
Khi
người phụ nữ được khỏi bệnh, mọi sự như sống lại. Bếp lại có lửa, bàn lại có
thức ăn, và người ta ngồi quanh cười nói rôm rả.
Hạnh
phúc gia đình có khi chỉ tùy thuộc vào những điều be bé. Hạnh phúc bị sứt mẻ
lắm khi chỉ vì những chuyện không đâu.
Hãy
nhìn cách Đức Giêsu chữa bệnh cho người phụ nữ này. Thật gần gũi và thân tình,
ngài chẳng nói lời nào để đuổi cơn sốt.
Khi
nắm tay người bệnh nặng, ngài chấp nhận nguy cơ bị nhiễm nhơ uế. Nhưng Đức
Giêsu chẳng hề bị nhiễm gì, trái lại ngài đem đến bình an. Ngài đã nâng bà dậy
(êgeiren), có nghĩa là ngài làm bà phục sinh.
Sau
khi được phục sinh thì bà đi phục vụ các vị khách. Phục vụ hiểu theo nghĩa đơn
sơ nhất là đi chuẩn bị bữa ăn.
Các
thiên thần cũng đã phục vụ Đức Giê su sau khi ngài thắng các cơn cám dỗ (Mc 1,
13).
Tuy
nhiên có thể hiểu phục vụ theo nghĩa rộng hơn nhiều.
Sau
khi Đức Giêsu chết trên thập giá, chỉ còn các phụ nữ ở lại đến cùng.
“Họ
đã đi theo ngài và phục vụ ngài từ hồi ngài còn ở Galilê và họ đã cùng ngài lên
Giêrusalem” (Mc 15, 40-41).
Như
vậy không phải chỉ các ông môn đệ mới là người phục vụ (Mc 10, 43).
Các
bà cũng đã trung tín phục vụ đến cùng, phục vụ như Thầy Giêsu, Đấng đã đến để
phục vụ” (Mc 10, 45).
Xin
cho mọi người biết nhìn nhận vai trò quý báu của người vợ, người mẹ trong nhà,
và vai trò của người phụ nữ trong giáo xứ cũng như ngoài xã hội.
Cầu
nguyện:
Giữa
một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận,
xin
dạy con biết phục vụ âm thầm.
Giữa
một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt,
xin
dạy con biết yêu thương tự hiến.
Giữa
một thế giới đầy phe phái chia rẽ,
xin
dạy con biết cộng tác và đồng trách nhiệm.
Giữa
một thế giới đầy hàng rào kỳ thị,
xin
dạy con biết coi mọi người như anh em.
Lạy
Chúa Ba Ngôi,
Ngài
là mẫu mực của tình yêu tinh ròng,
xin
cho các Kitô hữu chúng con
trở
thành tình yêu
cho
trái tim khô cằn của thế giới.
Xin
dạy chúng con biết yêu như Ngài,
biết
sống nhờ và sống cho tha nhân,
biết
quảng đại cho đi
và
khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy
Ba Ngôi chí thánh,
xin
cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa
ở
sâu thẳm lòng chúng con,
và
trong lòng từng con người bé nhỏ.
30. Làm việc cho Vương quốc Nước Trời
(Suy
niệm của John. W. Martens – Lm. GB. Văn Hào chuyển ngữ)
“Chúng
ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó
nữa” (Mc1,38)
Có
nhiều thái độ khác nhau khi chúng ta thẩm định về những công việc thường ngày.
Một người không có công ăn việc làm, cuộc sống sẽ bấp bênh, đời sống kinh tế sẽ
không được bảo đảm. Rơi vào tình trạng thất nghiệp, người ta dễ chán nản và mất
tự tin. Ngược lại, những ai có việc làm ổn định, sẽ an tâm khi về hưu trí. Cho
dù, đôi lúc công việc làm ăn là cả một gánh nặng với bao vất vả, nhưng nó rất
cần thiết để đảm bảo nhu cầu vật chất cho cuộc sống mỗi người. Giữa hai trạng
huống, một đàng cần có việc làm, đàng khác, lại ước muốn thoát khỏi gánh nặng
đó, là một thực tại vẫn luôn giằng co căng thẳng, ẩn sâu nơi cuộc sống hiện
sinh của chúng ta ngày hôm nay.
Tác
giả John Hughes đã viết “ Trải dài theo truyền thống Kitô giáo, người ta vẫn
nhìn vào công việc với nhiều ý nghĩa khác nhau. Đôi khi người ta xem việc lao
động như là một hình thái gắn kết chặt chẽ với bản tính nhân loại trong chính
thiện ích của nó ngay từ thưở nguyên sơ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân định
rằng đã có lúc, thân phận người lao động cùng khổ cũng gắn liền với kiếp nô lệ,
và họ phải luôn đấu tranh mong thoát khỏi để sinh tồn (trích trong sách The end
of Work)”
Gióp
đã phản hồi với Chúa, khi ông gợi nhắc đến những công việc vất vả trong cuộc
sống thường ngày của kiếp người “ Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải
là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày làm lụng vất vả có khác gì đời kẻ làm
thuê?” (Gióp 7,1). Gióp đã than vãn cách bi quan khi nhìn vào những vất vả lao
động như một gánh nặng, cho dù nhìn ở góc cạnh khác, công việc thường ngày của
kiếp nhân sinh vẫn hàm ngậm một chiều kích tích cực hơn. Ngày Sabbat mà Kinh
thánh nói tới, là ngày nghỉ ngơi, cho thấy công việc hằng ngày vẫn chỉ mang
tính tương đối. Sự nghỉ ngơi đó, theo tác giả Hughes, hướng chúng ta đến một
thực tại cao cả hơn, đó là sự an nghỉ cuối cùng trong Chúa. Cùng đích của cuộc
nhân sinh chính là sự nghỉ ngơi an bình trong bàn tay của Thiên Chúa, nhưng
cuộc sống con người trên trần gian ngày hôm nay vẫn đòi hỏi phải có công ăn
việc làm để mưu sinh.
Chúng
ta cần phân định giữa những công việc thường ngày để sinh nhai với công việc
phục vụ Vương quốc Nước trời mà Tân ước hay nói đến. Tuy nhiên, không phải vì
thế mà chúng ta nói rằng những công việc lao động trong thực tại trần thế này
không quan trọng. Những công việc đời thường chúng ta làm, vẫn luôn hàm ngậm
những sự tốt lành và thiện ích một cách nội tại. Nhưng chúng ta cần phải tránh
hai thái cực: Một là, xem công việc như một thần tượng mà chúng ta cần phải tôn
thờ, phải đeo bám bằng bất cứ giá nào, hai là chúng ta lại cố né tránh mọi việc
làm để ở không một cách lười biếng.
Có
lẽ, chúng ta sẽ nhận ra những thiện hảo nơi công việc chúng ta thực hiện hằng
ngày, khi đọc lại các bản văn trong kinh thánh. Thánh Phaolô cũng đã từng làm
việc để mưu sinh với nghề dệt lều (Cv 18,13). Nhưng công việc phục vụ cho Tin
mừng vẫn ý nghĩa hơn, và quan trọng hơn đối với Ngài.
Dầu
sao, Thánh Phaolô luôn từ chối mọi thù lao khi Ngài thực hiện sứ mạng tông đồ.
Ngài viết “Đối với tôi, rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó
là sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng
Tin mừng. Tôi mà tự ý làm việc ấy, thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công. Còn nếu
không tự ý, thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa trao phó. Vậy đâu là phần thưởng
của tôi? Đó là khi rao giảng Tin mừng, tôi rao giảng không công chẳng hưởng
quyền lợi Tin mừng dành cho tôi (1 Cor 16-18). Công việc của Thánh Phaolô để
phục vụ Vương quốc Nước Trời là một việc làm mang chiều kích linh thánh, và
những ai thực thi sứ vụ này sẽ được vào hưởng sự nghỉ ngơi vĩnh hằng trong tay
Chúa.
Chính
Đức Giêsu cũng nhận thức được những thiện ích và sự cần thiết của công việc,
cùng với sự nghỉ ngơi đi kèm theo. Đó không phải chỉ là sự nghỉ ngơi để chiêm
ngưỡng Thiên Chúa, như mục đích tối hậu của cuộc sống con người mà chúng ta
vươn hướng tới. Đức Giêsu muốn đề cập đến sự nghỉ ngơi sau những lao nhọc vất
vả của cuộc sống nhân sinh. Ngài đến trần gian để thực hiện sứ mạng xây dựng
Nước Trời, và chúng ta cũng thấy Ngài thực hiện sứ mạng đó, rất quân bình giữa
công việc và sự ngơi nghỉ. Sau khi Đức Giêsu chữa lành cho nhạc mẫu của Thánh
Phêrô, như Tin mừng Marcô thuật lại, bà trỗi dậy ngay sau đó và phục vụ các
ngài. Cũng vậy, sau khi Đức Giêsu vất vả chữa lành các bệnh nhân với nhiều
chứng bệnh khác nhau, và trừ nhiều quỷ, Ngài cũng kiếm tìm một nơi thanh vắng
để nghỉ ngơi, và Ngài cầu nguyện ở đó. Đức Giêsu cũng cần những phút giây tĩnh
lặng để thư giãn sau những mệt nhọc vất vả với bao công việc bề bộn thường ngày.
Tuy
nhiên, như Marcô trình thuật lại, Phêrô và các bạn đi tìm kiếm Đức Giêsu, lúc
Ngài ẩn tránh, lui vào một nơi thanh vắng và ở đó một mình. Ngài không khiển
trách các tông đồ cho dù có vẻ như họ đang quấy rầy, xen vào sự tĩnh dưỡng của
Ngài. Đức Giêsu nói với họ “ Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung
quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt là để làm công việc
này.” Đức Giêsu có những công việc cần phải làm và điều căn bản ở đây, là Ngài
đã chu toàn những công việc ấy rất tốt đẹp để phục vụ cho Vương quốc Nước Trời.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có làm việc hay không? chúng ta đã và đang làm
những công việc gì, làm cho ai, và làm như thế nào?
31. Niềm vui vì được chữa lành – Thiên Phúc
(Trích
trong “Như Thầy Đã Yêu”)
Đầu
năm 1996, cả thế giới xôn xao theo dõi một loại bệnh có tên thật ngộ nghĩnh:
bệnh bò điên (Mad-Cow discease). Những người mắc bệnh này vì họ ăn nhằm những
con bò điên. Khi mắc phải, bộ não người bệnh sẽ bị hư hoại dần dần, tay chân
run rẩy và đi dần đến cái chết.
Lúc
đầu, người ta phát hiện có mười người mắc phải bệnh này ở Anh quốc, tám người
trong số đó đã chết. Ngày 21 tháng 3 năm 1996, Bộ trưởng Y tế của Anh là ông
Stephen Dorell đã phải tuyên bố: “Có thể có sự liên quan giữa bệnh bò điên và
bệnh Creutzfeldt – Jacob nơi con người."
Sau
đó, Pháp là nước đầu tiên tuyên bố ngưng nhập cảng thịt bò của Anh Quốc. Các
nước Âu Châu lần lượt làm theo nước Pháp. Cộng đồng Âu Châu còn khuyến cáo Anh
Quốc phải triệt hạ tất cả mọi con bò mắc bệnh. Việc này đã khiến Anh Quốc thiệt
hại hàng tỉ đô la.
***
Bệnh
tật theo đuổi con người như hình với bóng. Người ta xóa sổ được bệnh này thì
bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và dường như
là bất trị. Có những bệnh tật tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở
về với con người.
Hôm
nay Đức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon – Phêrô. Bà đang bị cảm sốt
liệt giường. Đức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp
đãi các Ngài.
Người
Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch
(x.Ds 5,3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn
đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc lành bệnh tật được xem
như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Đức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc
gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi,
nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức
Giêsu đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỉ đến đó. Người mang đến
cho họ niềm vui và nụ cười. Người tín hữu Kitô cũng hãy đem niềm vui, niềm hạnh
phúc đến cho tha nhân trong môi trường mình sinh sống. E. Lamy khẳng định:
“chính khi chiếu tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh
hồn. Bởi vì niềm vui tự nó là một lời rao giảng."
Sau
khi được chữa lành, bà nhạc ông Simon đã đứng dậy đi phục vụ mọi người. Qua Bí
tích Rửa tội, chúng tôi được xua ma quỷ, được chữa lành bệnh tật linh hồn, và
được trở nên con cái Chúa, chúng ta cũng hãy ra đi phục vụ anh em đồng loại,
nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoan tật nguyền. V. Ghika có
viết: “Thiên Chúa cho kẻ biết cho, hiến thân cho kẻ hiến thân. Nếu bạn biết
gánh lấy niềm đau của kẻ khác, thì Thiên Chúa sẽ gánh lấy nỗi khổ của bạn và
biến nó thành của Người."
Dường
như gánh lấy nỗi đau của kẻ khác, chúng ta cảm thấy ý nghĩa ngọt ngào của hy
sinh. Dường như hy sinh cho tha nhân bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc.
Dường như sống yêu thương sẽ thấy lòng thanh thản, cuộc đời nhẹ thênh thang.
***
Lạy
Chúa, thế giới ngày nay vẫn còn các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình
dục, của tiếng tăm; vẫn còn các bệnh tật lan tràn: bệnh trong lối nghĩ, lối
nhìn và lối sống. Xin chúa thương chữa lành cho tất cả chúng con. Nhất là xin
cho các tín hữu chúng con cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết
thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh. Amen.
32. Sống tâm tình biết ơn
Chúa
Giêsu vừa mới từ nhà hội Caphácnaum, nơi Ngài đã phụng sự Chúa bằng cầu nguyện
và rao gảng lời Ngài, lại phục vụ nhân loại qua việc chữa lành người bị quỷ ám.
Và trên đường về nhà Phêrô Ngài đã chữa lành người đầy tớ của thầy đội (Mt
8,5-13). Khi Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um, Ngài không có nhà riêng, trụ sở Ngài
đặt là nhà của Phêrô, nơi đây mẹ vợ của Phêrô đang bị sốt.
Có
ba loại sốt thường thấy ở Paléttin. Một loại được gọi là malta có đặc điểm làm
suy nhược, mất máu, thường kéo dài nhiều tháng và chết. Một loại khác là sốt
cách nhật giống như sốt rét định kì. Nhưng nặng nhất là sốt rét da vàng. Nơi
gần sông Giođan đổ vào biển hồ có nhiều vùng sình lầy là môi trường lý tưởng
cho giống muỗi sinh sôi nảy nở. Cả Caphácnaum và Tibêria là điạ bàn hoạt động
cho giống muỗi gây bệnh sốt rét. Chứng này thường kèm theo bủng da và nóng
lạnh, gây khốn khổ cho bệnh nhân, chắc chắn đây là chứng mà mẹ vợ ông Phêrô mắc
phải.
Chúa
Giêsu vừa từ nơi công cộng về, mệt mỏi vì giảng dạy và chữa bệnh, chắc cũng
muốn nghỉ ngơi. Tuy vậy, vừa vào đến nhà đã lại có lời cầu xin được giúp đỡ, và
Ngài lại dấn thân vì người khác.
Phép
lạ này nói cho chúng ta vài điều về ba hạng người:
1.
Cho chúng ta biết về Chúa Giêsu.
Ngài
không cần phải có một cử tọa đông đảo mới thi thố quyền năng, Ngài sẵn sàng
chữa bệnh giữa một số rất ít người trong một ngôi nhà tranh cũng như giữa đám
đông trong nhà hội. Ngài chẳng bao giờ quá mệt mỏi để không cứu giúp, nhu cầu
của người khác được đặt trước ý muốn nghỉ ngơi của chính Ngài. Nhưng trên hết,
tại đây cũng như trong nhà hội. Chúng ta thấy các phương pháp có một không hai
của Chúa Giêsu. Vào thời của Chúa Giêsu có nhiều người thầy trừ quỷ, họ hành
nghề bằng những nghi lễ cầu đảo, khấn vái công phu, những hình thức bùa chú,
những tiếng kêu la, hò hét với nhiều đồ nghề ma thuật. Trong nhà hội Chúa Giêsu
chỉ phán một câu đầy uy quyền và việc chữa bệnh được hoàn tất ngay. Ở đây cũng
có một sự việc như thế xảy ra. Bà nhạc gia của Phêrô đang đau chứng bệnh mà
kinh Talmud gọi là “một cơn sốt thiêu đốt." Kinh Talmud cũng chỉ ra phương
pháp chữa trị chứng bệnh này. Người ta lấy một con dao bằng sắt đen cột vào một
bụi gai bằng một lọn tóc. Suốt nhiều ngày liên tiếp, người ta đọc sách Xuất
Hành 3, trước nhất là câu 2,3 rồi đến câu 4,5. Rồi có một công thức ma thuật
được đọc lên, như thế họ xem phần chữa trị đã xong. Chúa Giêsu hoàn toàn bất
chấp những câu thần chú ma thuật thông thường, chỉ bằng một dáng điệu và một tiếng
duy nhất đầy quyền năng, Ngài đã chữa lành cho bà cụ. Bác sỹ Paul Tournier có
viết: “bệnh nhân của tôi thường bảo tôi: tôi khâm phục sự kiên nhẫn của ông khi
ông lắng nghe mọi điều tôi kể. Đó chẳng phải là sự kiên nhẫn, mà là sự quan tâm."
Với Chúa Giêsu, việc chữa bệnh không nhằm làm tăng thêm uy tín, giúp người
không phải là nhiệm vụ khó nhọc, Ngài chỉ giúp người một cách tự động, tự nhiên
vì Ngài luôn quan tâm đến tất cả mọi người cần đến sự cứu giúp của Ngài.
2.
Cho chúng ta biết về môn đệ của Ngài.
Họ
chưa biết nhiều về Chúa Giêsu, nhưng ngay trong giờ phút gặp gỡ ngắn ngủi này,
họ đã bắt đầu đem tất cả những điều rắc rối của mình đến cho Ngài. Bà nhạc gia
của Phêrô ngã bệnh, cả nhà đang bối rối, việc các môn đệ Ngài trình mọi việc
cho Chúa Giêsu nghe là điều tự nhiên nhất trên đời.
Paul
Tournier kể lại một trong những khám phá quan trọng nhất trong đời ông như thế
nào. Ông thường đến thăm một vị mục sư lão thành và ông cụ chẳng bao giờ để ông
ra về mà không cùng cầu nguyện với nhau. Ông hết sức kinh ngạc vì cách cầu
nguyện đơn sơ của vị mục sư nọ. Nó giống hệt phần tiếp tục câu chuyện thân mật
mà vị thánh tông đồ lão thành ấy luôn trò chuyện với Chúa Giêsu. Bác sỹ
Tournier “về đến nhà, tôi sẽ kể cho vợ tôi nghe chuyện ấy và chúng tôi cùng cầu
xin Thiên Chúa cho chúng tôi cũng được thông hiệp mật thiết với Chúa Giêsu như
cụ mục sư nọ vậy. Từ đó, Ngài trở thành trung tâm của giờ phút tĩnh tâm và là
người bạn đồng hành của tôi. Ngài vui lòng về mọi việc tôi làm và cũng quan tâm
về việc đó. Ngài là người bạn thân tôi có thể đem mọi sự xảy đến cho đời tôi ra
thảo luận. Ngài sẽ chia sẻ những niềm vui nỗi khổ, những hy vọng cùng mọi nỗi
sợ hãi với tôi. Ngài có mặt khi một bệnh nhân tâm sự với tôi. Ngài nghe người
ấy nói còn rõ hơn chính tôi được nghe nữa. Và khi bệnh nhân của tôi đi rồi, tôi
vẫn còn có thể trò chuyện với Ngài về người ấy." Mấy lời trên đây bao gồm
yếu tính sinh hoạt của Kitô hữu. Thế là các môn đệ nguyên thủy đã học được điều
trở thành thói quen cho cả đời sống: đem hết mọi chuyện rắc rối của mình cho
Chúa Giêsu và xin Ngài giúp đỡ mình.
3.
Cho chúng ta biết vài điều về bà nhạc gia của Phêrô.
Ngay
sau khi được chữa lành bà cụ liền bắt tay vào phục vụ. Bà cụ đã dùng phần sức
khoẻ hồi phục của mình để phục vụ một cách mới mẻ. Ta đã xử dụng ơn Chúa ban
như thế nào?
Nhà
văn Oscar Wilde viết “chuyện hay nhất Thế Giới” trong đó ông kể: “Đấng Cứu Thế
đi từ miền thôn quê tầm thường lên một thành phố muôn phần sặc sỡ. Khi đi qua
một phố đầu tiên Ngài nghe có tiếng nói phiá trên đầu, nhìn lên thấy một thanh
niên nằm vắt ngang thành cửa sổ. Chúa hỏi sao ngươi lại bỏ phí linh hồn trong
say sưa? Hắn đáp: thưa Chúa, tôi là người phong đã được Chúa chữa lành, bây giờ
tôi còn biết làm gì khác hơn? Đi xa hơi một chút nữa, Ngài thấy một thanh niên
đang lẽo đẽo theo sau một cô gái mại dâm, Ngài bảo: Tại sao ngươi bỏ phí cuộc
đời của ngươi trong trác táng? Chàng đáp: Thưa Chúa, tôi là người mù được Chúa
chữa lành, bây giờ tôi còn biết làm gì khác hơn? Cuối cùng ở giữa thành phố,
Ngài thấy một người già nằm co dúm trên đất khóc lóc, và khi được Chúa hỏi ông
đáp: Lạy Chúa tôi là người chết được Chúa cho sống lại, bây giờ tôi còn biết
làm gì khác hơn là khóc?
Đó
là những ví dụ kinh khủng nói lên cách con người đã tàn nhẫn, vô tâm khi sử
dụng ơn phúc và lòng thương xót của Chúa. Bà mẹ vợ của ông Phêrô đã dùng sức
khoẻ phục hồi của mình để phục vụ Chúa và tha nhân. Đó là cách chúng ta sử dụng
mọi hồng ân Chúa ban.
Không
ai rõ thái độ phục vụ của bà có tác động đến chàng rể như thế nào, để sau này,
với tư cách là lãnh tụ Giáo hội, Phêrô đã viết thư khuyên giáo dân: “Ơn riêng
Thiên Chúa đã ban, mỗi người trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy
anh em mới là người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa. Ai
có nói thì nói lời Thiên Chúa; ai phục vụ, thì phục vụ bằng sức mạnh Thiên Chúa
ban. Như thế, trong mọi việc chúng tôi tôn vinh Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu
Kitô”(1Pr 4,10-11).
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa, Chúa đã đụng chạm đến đời sống chúng con, mỗi người mỗi cách. Mỗi lần
Chúa chạm đến đời con là mỗi lần con được đổi mới, được chữa lành. Xin Chúa
tiếp tục chữa lành không chỉ thể xác con mà cả tinh thần của con, để con luôn
biết diễn tả tâm tình biết ơn: Biết ơn Chúa và biết ơn mọi người qua đời sống
hy sinh phục vụ như Chúa. Amen.
33. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Chúa
Giêsu đến trần gian đem tình thương cho nhân loại. Ngài chữa bệnh và giúp chúng
ta thấy được ý nghĩa của đau khổ và bệnh tật.
Sống
trong thế trần, con người phải trải qua nguyên lý là "sinh, lão, bệnh, tử."
Nguyên lý ấy chi phối mạnh mẽ đến nỗi không ai có thể thoát khỏi nó. Một trong
những đau khổ đeo bám con người là bệnh tật. Bệnh tật làm cho con người
"đau" về thể xác và hơn thế nữa nó còn làm cho họ "khổ" về
tinh thần. Hơn nữa vào thời Chúa Giêsu, người Do Thái cho rằng bệnh tật của con
người là do tội lỗi của họ, bệnh tật là do bị Thiên Chúa phạt. Do đó, những
người mắc bệnh thường bị cách ly, họ bị cộng đoàn tránh xa và ruồng bỏ. Họ đau
về thể xác rồi nhưng còn phải khổ hơn về tinh thần vì phải đối diện với quan
niệm này.
Sứ
mạng của Chúa Giêsu đến trần gian nhằm mang đến hạnh phúc cho con người. Bên
cạnh việc rao giảng Tin mừng, Ngài còn chữa bệnh và cứu sống cho con người.
Ngài đã phá tan những bệnh tật ngăn cách con người với Thiên Chúa và với nhau
giúp cho con người sống hạnh phúc. Hôm nay Phúc âm ghi lại việc Ngài trả lại
sức khoẻ cho bà mẹ vợ ông Simon. Ngài đem lại hạnh phúc cho bà và cho những
người chứng kiến. Bởi vì Ngài có quyền năng trên bệnh tật và sự chết. Ngài
chính là nguồn vui, là niềm hạnh phúc của nhân loại. Thông qua việc chữa lành
Ngài còn hướng chúng ta đến cái chết và sự phục sinh của Ngài. Chính nhờ mầu
nhiệm Vượt qua này mà đau khổ của con người có được ý nghĩa tích cực: đau khổ
không phải là hình phạt. Ngài khai sáng cho người ta con đường mới: trong đau
khổ người ta có thể kết hợp mật thiết với Chúa, gia tăng lòng tin và trông chờ
vào Đấng có quyền năng giải thoát. Như thế, Chúa Giêsu còn hơn vị lương y. Ngài
chính là vị cứu tinh của nhân loại. Bởi Ngài không những chữa lành những bệnh
tật, đau khổ nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và quyền lực của tội
lỗi đang tác động trên đau khổ, để đem đến cho con người một sự giải thoát toàn
diện, đưa họ vào sự sống đời đời, một niềm hạnh phúc bất tận. Nhờ đó, đau khổ
sẽ là một sự hiện diện của tình yêu. Mặc dù đau khổ vẫn còn là một mầu nhiệm
khôn dò, một vấn nạn chưa được giải quyết thoả đáng nhưng đã có tình yêu của
Thiên Chúa, mầu nhiệm ấy trở nên ý nghĩa hơn.
Hôm
nay chúng ta nhận ra ân huệ Chúa Giêsu đem đến cho con người. Ngài rao giảng
Tin mừng và chữa lành. Ngài giúp chúng ta xác tín rằng dù con người có phải vất
vả đối điện với đau khổ và bệnh tật nhưng con người vẫn có Thiên Chúa hằng quan
tâm chăm sóc và chữa lành. Con người vẫn luôn có Thiên Chúa ở ngay bên để thông
cảm, chia sẻ và nâng đỡ. Con người sẽ được khoẻ mạnh và sống bình an. Nhờ đó
con người có thể sống vui tươi hơn, hạnh phúc hơn.
Nếu
Chúa Giêsu là vị Bác sĩ tài giỏi và nhân từ thì chúng ta hãy chính là những
người y tá bác ái, sẵn sàng cộng tác với Chúa Giêsu trong việc chữa lành bệnh
nhân. Chúng ta hãy là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu, có thể giúp đỡ tha
nhân, chúng ta có thể xoa dịu phần nào nỗi khổ đau của nhân loại mang lại niềm
vui cho mọi người. Ngoài ra, đứng trước nỗi đau khổ của kẻ khác, có khi chúng
ta cảm thấy bất lực, không biết làm cách nào để giúp đỡ họ. Những lúc đó, có
thể người ta cần chúng ta cảm thông, chia sẻ với họ bằng thái độ thinh lặng,
lắng nghe họ tâm sự, ánh mắt cảm thông. Ngay cả khi chúng ta không thực hiện
được điều đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Cùng tất cả tấm lòng yêu
thương chân thành của chúng ta, chúng ta hãy hiện diện với họ cả con tim và đức
tin của mình.
Lạy
Chúa Giêsu, Ngài đã đến trần gian loan báo Tin mừng và chữa bệnh cho con người.
Ngài cho chúng con thấy tình thương của Thiên Chúa và giúp chúng con thấy được
mặc dù chúng con gặp đau khổ và bệnh tật, Thiên Chúa vẫn ở bên chúng con và
đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn tin yêu và phó
thác vào Thiên Chúa tình thương và xin cho mỗi người Công giáo chúng con cũng
biết đem niềm vui và hạnh phúc cho những ai mà chúng con gặp gỡ trong môi
trường mình đang sống. Amen.
34. Tránh nhưng không trốn sự đau khổ
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Ông
Gióp than thở: "Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch
sao?..Gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau
khổ ê chề." (G 7,1-3). Vấn nạn đau khổ là vấn nạn muôn thuở của kiếp
người. Không riêng gì các trang của sách Gióp, kho tàng văn chương của nhân
loại từ cổ chí kim vẫn đầy dẫy các hình thái khổ đau của con người được trình
bày, mô tả. Nói đến chuyện đau khổ, bàn đến chuyện đau khổ qua các trang sách
hay phim ảnh thì như rất dễ thu hút lòng người. Có nhiều nguyên cớ nhưng cần
chân nhận lý do chung này: người ta thấy có chút đồng cảm nào đó, vì chính họ
cũng khổ đau. Đồng bệnh thì tương liên, chuyện đời là vậy.
Bài
Tin Mừng Hội thánh cho trích đọc trong Chúa Nhật V TN B này tường thuật một
ngày làm việc của Chúa Giêsu là chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật
về tinh thần lẫn thể xác. Sau khi chữa cho bà mẹ vợ ông Phêrô khỏi cơn sốt nặng
thì "chiều đến, khi mặt trời đã lặn, ngưòi ta đem mọi kẻ ốm đau và những
ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Chúa Giêsu chữa nhiều
kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ." (Mc 1,32-34). Khó có thể
chối cãi sự thật này là Chúa Giêsu tìm mọi cách xoa dịu khổ đau của con người.
Thế nhưng tại sao khi người ta kéo nhau đến cùng Người thì Người lại đi nơi
khác? Phải chăng Chúa Giêsu muốn "nhổ cỏ tận gốc", tức là tìm cách
diệt trừ căn nguyên của sự đau khổ?
Vì
sao có đau khổ? Một câu hỏi rất khó tìm được câu trả lời cách rõ ràng và có
tính thuyết phục. Anh em Phật tử thì chủ trương rằng đau khổ có căn nguyên nơi
cái "dục" của con người. Vì ước muốn mà không được toại nguyện nên
phải chịu đau khổ. Chính vì thế con đường thoát khỏi khổ đau được đề ra là
" diệt dục." Nếu nhìn cuộc đời con người với vòng đời "sinh -
lão - bệnh - tử là bể khổ thì làm sao giải thích được việc một người được sinh
ra là khổ, cho dù " thoặt sinh ra thì đà khóc choé." Người ta có thể
muốn trẻ mãi không già, muốn mạnh khoẻ, không bệnh tật, muốn trường sinh bất
tử, nhưng không một ai trên trần gian có thể tự mình "muốn" được hay
không đựơc hoài thai trong dạ mẹ cũng như tự mình muốn được hay không được chào
đời làm người.
Lão
tử thì quan niệm đau khổ có ra là vì con người sống không hợp với Đạo, vói lẽ
trời, với sự vận hành của giới tự nhiên. Khi con người không làm chủ ước vọng
của mình, để cho tham muốn của mình đi thái quá cũng gây ra khổ đau. Chính vì
thế để diệt khổ đau không gì hơn là tiết chế tham muốn của mình theo kiểu cách
của thi nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Tri
túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Tri
nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn.
Và
sống thuận theo lẽ trời tự nhiên như:
Thu
ăn măng trúc, đông ăn giá.
Xưân
tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Các
triết gia, các nhà đạo đức học phân biệt đau đớn với đau khổ. Các loài vật vì
không có lý trí và ý chí tự do nên chỉ có đau đớn mà không có đau khổ. Đau khổ
là một phạm trù thuộc lý trí. Biết được chuyện chẳng may, chẳng lành mà không
tránh được thì mới có khổ đau. Người ta thường dí dỏm rằng người điên không hề
có khổ đau, vì không biết. Tuy nhiên, ngoại trừ một vài nguyên nhân khách quan
như thiên tai, dịch bệnh...thì người ta đều chân nhận rằng chính tội lỗi con
người là nguyên nhân lớn gây ra đau khổ cho đồng loại. Và Kitô giáo ủng hộ lập
trường này, mặc dù vẫn quan niệm đau khổ là một huyền nhiệm.
Để
có cái nhìn tương đối khách quan về đau khổ, thiết tưởng chúng ta cần xem xét
bản chất đau khổ là gì? Đau khổ là tâm trạng khó chịu khi gặp phải sự dữ hay
khi thiếu một điều thiện hảo nào đó. Rất khó và dường như không thể xem xét đau
khổ như là hiện tượng độc lập, tự thân nó. Đã nói đến đau khổ là nói đến một ai
đó đau khổ. Như thế sự đau khổ luôn gắn liền với nhận thức và ước muốn của con
người. Con người cảm thấy đau khổ khi các hiện tượng khách quan lẫn chủ quan
như cưỡng lại ý muốn của mình.
Đến
thế gian, Chúa Kitô không giải thích cặn kẻ về khổ đau cũng như các nguyên nhân
của nó. Tuy nhiên qua các hành vi, lời nói và chính cuộc sống của Người, Người
dẫn chúng ta đi trên con đường kinh qua đau khổ để sống yêu thương. Dù rằng vẫn
cố gắng đến quên ăn, quên ngủ để làm dịu cơn khổ đau của nhân loại, nhưng Người
đã biết rõ cuộc đời con người khó có thể thoát được mọi nổi khổ đau, cả về thể
lý lẫn tinh thần. Người đã tự nguyện chọn con đường đối diện với với đau khổ
bằng một tình yêu vị tha bao la. Không phải diệt dục là hết khổ đau, vì chính
hành vi diệt dục cũng là một cách muốn, cho dù các bậc minh triết trong Phật
giáo diệt dục bằng sự "tri kiến." Không phải cứ thuận theo lẽ tự
nhiên là khổ đau biến mất vì sự vận hành của giới tự nhiên lắm khi quá nghiệt
ngã. Biết dừng cái ham muốn của mình trong sự trung dung, vừa đủ thì hết khổ
chăng? Cũng thật cam go vì biết thế nào là đủ, là vừa.
Trong
niềm tin, với lời mạc khải, đặc biệt là qua con đường Chúa Kitô đã đi, chúng ta
có thể quả quyết rằng chính khi hướng cái dục là lòng muốn đến tha nhân với các
mục tiêu tốt đẹp kiểu "hãy thực hiện cho tha nhân những gì ta muốn tha
nhân làm cho mình", thì sẽ có cơ may vượt qua đau khổ. Thánh Âugustinô đã
từng chỉ dạy: Hãy yêu đi thì bạn sẽ vơi hết khổ đau. Nếu có đau khổ thì cái đau
khổ ấy cũng đã được yêu rồi."
Cần
phải diệt trừ tội lỗi là một nguyên nhân lớn gây ra đau khổ, đồng thời cần phải
tránh các khổ đau cho bản thân cũng như cho tha nhân và tích cực xoa dịu khổ
đau cho đồng loại hết khả năng có thể, vì đó là điều chính đáng và phải đạo.
Tuy nhiên, nếu gặp phải sự đau khổ không như ý hay chẳng đặng đừng thì hãy can
đảm đón nhận nó để sống yêu thương. Tình yêu vị tha mà kinh qua đau khổ là tình
yêu thật đáng giá và đượm đầy tính vô cầu. Như thế không phải là tìm cách diệt
dục hay hạn chế sự dục mà là hướng cái dục của chúng ta theo thánh ý Cha trên
trời, Đấng tốt lành và nhân hậu. Là Kitô hữu, chúng ta tránh khổ đau, nhưng
không lẫn trốn đau khổ.
35. “Chúa Giêsu chữa lành và rao giảng”
(Suy
niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nam)
Tin
mừng Chúa nhật 5 Thường niên ghi lại những hoạt động chữa lành và rao giảng của
Đức Giêsu để nói lên sứ mạng Thiên Sai của Ngài như lời ngôn sứ Isaia đã loan
báo:
“Thần
Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin
Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ
được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp
bức, công bố một năm hồng ân của Chúa” (Lc 4, 18-19).
Sứ
mạng Thiên Sai của Chúa Giêsu được trình bày qua 3 điểm chính trong bài tin
mừng hôm nay:
-
Chúa chữa bệnh cho bà nhạc gia của Simon và mọi bệnh tật khác nhau, trừ quỷ, để
nói lên sứ mạng của Chúa là đến để cứu chuộc con người khỏi ách thống trị của
tội lỗi. ma quỷ.
-
Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện biểu lộ sứ mạng Thiên Sai phát xuất từ
Thiên Chúa Cha, Ngài được Chúa Cha sai đến.
-
Chúa Giêsu đi rao giảng ở các thành lân cận, loan báo Tin mừng cho mọi người.
Điều này nói lên sứ mạng Thiên sai có tính phổ quát cho hết mọi người. Thiên
Chúa muốn con người được cứu độ.
Thiên
Chúa mà Đức Giêsu mạc khải là Thiên Chúa của tình yêu, Người là Đấng giải phóng
chúng ta khỏi mọi sự dữ. Phép lạ chữa lành của Chúa Giêsu là những dấu chỉ nói
lên tình yêu đầy quyền năng của Thiên Chúa, dẫn chúng ta đến sứ điệp của Đức
Kitô, hướng chúng ta về với Thiên Chúa và làm cho chúng ta hiểu rằng căn bệnh
nặng nề nhất của con người hôm nay là sự thiếu vắng Thiên Chúa, thiếu vắng
nguồn suối chân lý và tình yêu. Duy chỉ có sự hòa giải với Thiên Chúa mới có
thể mang lại cho chúng ta sự chữa lành thật sự, sự sống thật sự, bởi vì một
cuộc sống mà không có tình yêu và chân lý thì chẳng phải là cuộc sống… Do đó sự
rao giảng và chữa lành bệnh tật của Đức Giêsu luôn liên hệ mật thiết với nhau,
tạo nên một sứ điệp duy nhất về niềm hy vọng và ơn cứu độ (Trích bài giảng của
ĐGH Benêđictô).
Tóm
lại, bài Tin mừng hôm nay ghi lại một ngày làm việc bận rộn của Đức Giêsu: rao
giảng, chữa bệnh, trừ quỷ, cầu nguyện. Việc rao giảng và chữa lành đã chiếm hầu
hết thời gian của Chúa Giêsu:
“Đức
Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỷ… Ngài đi khắp
miền Galilê, rao giảng trong khắp hội đường."
Chúng
ta thấy những người đau khổ cả thể xác lẫn tinh thần bao quanh Đức Giêsu, Ngài
hòa mình với họ, xả thân để cứu chữa họ. Ngài ra tay hành động cứu người bệnh
tật, xua trừ ma quỷ… Bệnh tật theo đuổi con người như hình với bóng. Theo quan
điểm của người Do Thái, bệnh tật bắt nguồn từ ma quỷ, mọi sự dữ trên đời là do
tội lỗi mà ra. Việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng ma quỷ,
tội lỗi. Vì thế, việc chữa lành của Chúa Giêsu biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu
chuộc con người khỏi tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.
Đức
Giêsu đi tới đâu, Ngài rao giảng Tin mừng cứu độ cho mọi người. Đó là sức mạnh
chính yếu của Đức Giêsu mà Ngài đã xác định: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các
làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm
việc đó."
Loan
báo Tin mừng cũng là sứ mạng của lọi người Kitô hữu hôm nay.
Thần
học gia Maurice Zundel quả quyết: “Chúng ta không phải là Kitô hữu cho riêng
mình, mà là cho Đức Kitô, cũng như chúng ta thuộc về Giáo hội và Đức Kitô, hầu
mở đường cho tính công giáo của tình yêu Ngài được lan rộng và cho ơn cứu chuộc
của Ngài trải ra trên khắp hoàn cầu. Đức Kitô còn dở dang và chưa thành toàn
bao lâu toàn thể nhân loại chưa tháp nhập vào Ngài” (À L’éoute de Silence).
Đức
Giêsu đi đến đâu thì chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ đến đó. Người mang
niềm vui, nụ cười đến cho những người đau khổ, xoa dịu những vết thương đau của
con người. Noi gương Đức Giêsu, người Kitô hữu cũng phải đem niềm vui, hạnh
phúc cho tha nhân trong môi trường mình sống, đặc biệt cho những anh chị em đau
yếu, bệnh tật, nghèo khổ bằng sự an ủi, giúp đỡ, thăm viếng, chia sẻ vật chất
cho anh em đang cần sự tiếp tay của chúng ta. E. Lamy đã nói: “Chính khi chiếu
tỏa quanh ta niềm hoan lạc, mà ta sẽ cứu vớt được nhiều linh hồn. Bởi vì niềm
vui tự nó là một lời rao giảng."
36. Chiều và sáng
(Trích
trong ‘Manna’ – Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy
Niệm
Sốt
không phải là một bệnh nan y. Nhưng người bị sốt cao không dậy nổi, chỉ nằm
thôi. Khi Đức Giêsu và các môn đệ đến thăm nhà ông Simon thì bà mẹ vợ ông đang
sốt, nằm trên giường. Đức Giêsu đem niềm vui đến cho gia đình ông. Ngài lại
gần, nhẹ nhàng cầm lấy tay bà và nâng dậy. Cơn sốt lui ngay khiến bà có thể đi
lại phục vụ.
Một
cơn bệnh đơn giản, một cách chữa bệnh đơn giản.
Đức
Giêsu chẳng nói một lời, chỉ làm một cử chĩ thân ái. Ngài cầm lấy tay bà và
nâng dậy, như sau này Ngài cầm tay đứa con ông trưởng hội đường, một cô bé mười
hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (x. Mc 5,41), như sau này Ngài cầm tay cậu
bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (x. Mc 9,27).
Cầm
tay, nâng dậy, để một người nằm có thể đứng lên.
Sức
sống nào truyền qua cử chỉ cầm tay ấy? Quyền năng nào nâng con người chỗi dậy?
Chúng
ta cũng cần được Chúa cầm tay khi không dậy nổi, cần được Chúa đưa tay ra nắm
lấy khi gần chìm như Phêrô.
Khi
mặt trời lặn là lúc kết thúc ngày sabát. Người ta đem đến cho Đức Giêsu bao
người yếu đau đủ loại. Căn nhà ông Simon hẹp quá khiến nhiều người phải đứng
ngoài. Không rõ bao nhiêu người được chữa lành chiều tối hôm đó. Nhiều người đã
có thể tự về nhà một mình...
Đức
Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Ngài không mong múc cạn, chỉ mong
làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.
Thế
giới hôm nay vẫn phải đối đầu với bệnh tật. Những bệnh nan y như ung thư, tim
mạch, sida (aids), siêu vi... Cần có những người làm vơi nhẹ nỗi đau như Đức
Giêsu.
Sau
một ngày bận bịu và mệt mỏi, Đức Giêsu đã thức dậy sớm, khi các môn đệ còn ngủ
say. Ngài tìm được một chỗ cầu nguyện khá kín đáo.
Cầu
nguyện là nhu cầu thật sự của Đức Giêsu.
Ngài
cần có thời gian rút lui, sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha, tâm sự
về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống
Satan.
Đức
Giêsu thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để
làm tròn sứ mạng. Ngài cần gặp Cha vì Ngài là Con, và vì Ngài được Cha sai.
Ngài
sống hết mình cho con người, cho đám đông, nhưng Ngài cũng say sưa cầu nguyện
và hoạt động.
Cầu
nguyện đưa Ngài đến với con người, hoạt động đưa Ngài đến với Cha.
Thành
công ở Caphácnaum không làm Ngài dừng chân.
"Mọi
người đang tìm Thầy", mọi người vẫn cần Thầy.
Nhưng
Ngài biết còn nhiều chỗ khác cũng đang rất cần.
"Hãy
đi nơi khác", Tin Mừng cần được gieo vãi ở mọi nơi. Giữ được tính tự do và
cơ động, Đức Giêsu lại lên đường.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Theo
ý bạn, thế nào là một đời sống quân bình? Cần hội đủ những yếu tố nào để được
coi là một đời sống Kitô hữu quân bình?
Mẹ
Têrêxa Calcutta đã trở nên khuôn mặt rạng ngời của lòng bác ái, nhờ khả năng
nhìn thấy Chúa Kitô nơi người nghèo khổ. Bạn thường làm gì để giúp đỡ những
người cùng khốn ở gần nhà bạn?
Cầu
Nguyện
Lạy
Thiên Chúa, Đấng ưa thích sự thinh lặng,
xin
dạy chúng con thinh lặng để ở một mình với Ngài,
trò
chuyện, lắng nghe và thấm nhuần Lời Hằng Sống.
Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi con mắt,
biết
nhắm lại trước những vấp váp của tha nhân,
biết
quay đi truớc những dịp tội gây xao xuyến.
Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi đôi tai,
để
nghe được tiếng kêu của người nghèo đói,
để
khép lại trước những mời mọc của ma quỷ.
Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi miệng lưỡi,
để
biết ca tụng Chúa và đem lại an vui cho muôn người,
tránh
mọi lời nói gây đớn đau, đổ vỡ.
Xin
dạy chúng con thinh lặng nơi trí khôn,
để
mở ra trước sự thật và khép lại trước dối trá.
Cuối
cùng xin dạy chúng con thinh lặng nơi quả tim,
để
tránh xa mọi ích kỷ, thù hằn, ghen ghét,
để
yêu mến và ước ao Thiên Chúa trên mọi sự. Amen.
(theo
Mẹ Têrêxa Calcutta)
37. Sống là chiến đấu
Trong
chuyện ngụ ngôn của Lafontaine có kể một câu chuyện như thế này: có một tiều
phu vác củi từ trong rừng về nhà. Củi thì nặng mà sức thì yếu cho nên ông ta cứ
than thở hoài. Sau hết vì quá chán nản, ông đã kêu thần chết đến đem mạng sống
mình đi phứt cho rồi. Vừa kêu dứt tiếng thì thần chết bỗng hiện ra, mặt mày khủng
khiếp, tay cầm sẵn lưỡi hái. Thần chết hỏi: "Mi gọi ta đến để làm
gì?" Ông tiều phu mặc dù vừa mới đòi chết nhưng khi thấy thần chết thì
hoảng sợ và không muốn chết nữa, bèn nói trớ: "Xin ông làm ơn đặt bó củi
này lên vai hộ tôi." Thần chết bỏ lưỡi hái xuống và đem bó củi chất lên
vai người tiều phu. Ông này vội vàng cám ơn và nhanh chân rảo bước, không còn
thấy nặng nhọc gì nữa.
Câu
chuyện ngụ ngôn trên có thể giúp ta hiểu được phần nào Lời Chúa mà chúng ta vừa
nghe. Tất cả 3 bài đọc trong Thánh Lễ hôm nay đều bàn đến những việc lao động
nhọc nhằn trong cuộc sống chúng ta nơi trần gian này. Cuộc sống này quả là vất
vả: ai nấy phải làm lụng từ sáng tới chiều, quần quật hết ngày này sang ngày
khác, hết tháng nọ sang tháng kia để kiếm lấy miếng cơm manh áo. Kẻ thì lao
động chân tay, người thì lao động trí óc, nhưng tất cả mọi người đều phải làm
việc vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để có sức mà làm. Làm-ăn, ăn-làm như một
cái vòng lẩn quẩn trói buộc con người, cho tới khi con người làm không nỗi, ăn
không vô thì cũng là lúc sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Trước
cảnh sống cơ cực đó, những kẻ bi quan thì than thở như trong bài đọc thứ nhất
của sách ông Gióp: "Lao động nhọc nhằn là kiếp sống của tôi. Ngày của tôi
giống như ngày của một kẻ làm công, như một người nô lệ. Tôi phải buồn sầu mãi
cho đến tối và mắt tôi sẽ không nhìn thấy hạnh phúc." Thái độ đó cũng
giống như người tiều phu trong chuyện ngụ ngôn Lafontaine, làm việc cực nhọc
quá nên bác tiều phu cứ đòi chết cho rồi. Khi người ta làm việc cực nhọc mà
không hiểu được ý nghĩa và giá trị của việc mình làm thì người ta dễ có thái độ
bi quan như thế.
Bài
Tin mừng hôm nay mô tả một ngày làm việc của Chúa: Chúa vừa giảng dạy trong Hội
đường và cứu chữa một người bị quỷ ám xong, vừa mới đi ra thì hay tin bà Nhạc
mẫu của Phêrô đang bị sốt nặng. Người liền đến nơi cầm tay nâng bà dậy, bà liền
khỏi sốt. Liền sau đó có cả một đám đông tụ họp trước cửa nhà, đó là những
người đau đớn vì đủ thứ bệnh tật, Chúa lại phải cứu giúp họ. Mãi tới chiều tối
Chúa mới có chút ít giờ nghỉ ngơi. Người tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện.
Vừa tảng sáng hôm sau thì các môn đệ lại đi tìm Người và cho hay dân chúng lại
tấp nập tuôn đến xin Người cứu chữa.
Chính
Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải làm việc vất vả từ sáng tới tối, hết
ngày này sang ngày khác, không chỉ làm việc để lo cho bản thân Người mà làm
việc để cứu giúp người khác, không phải chỉ lo phần xác người ta mà còn lo rao
giảng để cứu giúp linh hồn người ta nữa. Qua tấm gương đó, Đức Giêsu muốn cho
chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của việc lao động: lao động là bổn phận của
mọi người, lao động giúp ích cho bản thân và cho người khác, lao động sinh ích
lợi cả phần xác lẫn phần hồn. Những bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay
vạch cho ta thấy phương hướng sống trước những công việc bề bộn cực nhọc.
.
Trước tiên chúng ta hãy dâng lên cho Chúa tất cả những công việc lao động của
chúng ta.
.
Chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ thể xác và tinh thần để có thể
đảm nhận những công việc ấy.
.
Chúng ta hãy xin Ngài chúc lành cho việc làm của chúng ta sinh ra những kết quả
tốt đẹp.
.
Xin Chúa giúp chúng ta làm việc không phải chỉ cầu lợi ích cho bản thân mình,
mà còn để giúp ích cho những người khác.
.
Và đặc biệt xin Chúa giúp chúng ta biết để ra một phần thời giờ, một phần sức
lực để làm việc mở mang Nước Chúa nơi trần gian...
Xin
Chúa ban cho tất cả chúng con một khối óc biết sáng tạo, một đôi tay biết làm
nên những bát cơm đầy để xoa dịu những cơn đau do đói khát đem lại, một đôi tay
biết xây dựng một mái ấm gia đình nên tươi đẹp. Xin Chúa nâng đỡ những lao công
vất vã của chúng con, và xin Chúa ban cho chúng con những ơn lành hồn xác.
Amen.
38. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Cả 3 bài đọc hôm nay đều nói đến việc lao động. Con người sinh ra
trong trần gian này và chấp nhận qui luật của nó. Đó là phải lao động. Cuộc
sống này quả là vất vả: ai nấy phải làm việc quần quật từ sáng đến tối, làm cực
khổ hết ngày này sang ngày khác, làm quần quật hết tháng nọ sang tháng kia để
kiếm lấy miếng cơm manh áo. Người thì lao động chân tay, người thì lao động trí
óc, nhưng tất cả mọi người đều phải lao động vất vả. Làm để có cái mà ăn, ăn để
có sức mà làm. Làm - ăn, ăn - làm như một cái vòng lẫn quẫn trói buộc con
người, cho tới khi con người làm không nổi, ăn không vô thì cũng là lúc con
người sắp xuôi tay chấm dứt một kiếp sống làm người.
Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy một ngày làm việc vất vả của Chúa
Giêsu: Người vừa giảng dạy trong Hội đường Do Thái và cứu chữa một người bị quỉ
ám xong, Người vừa mới đi ra thì hay tin bà nhạc mẫu của Phêrô đang sốt nặng.
Lập tức, Người liền đến nhà bà ấy và chữa lành cho bà. Rồi cũng liền sau đó có
cả đám đông đang tụ họp trước cửa nhà, trong đó có nhiều người đau bệnh, cần
tới Chúa Giêsu chữa trị. Mãi cho đến chiều tối Người mới có thời giờ nghỉ ngơi.
Chúng ta đã thấy đó, Chính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa mà còn phải
làm việc vất vả từ sáng đến chiều tối. Người không phải làm việc để có lợi cho
bản thân mình, nhưng Người làm việc để giúp đỡ cho người khác. Người không
những chữa lành, là lo cho họ phần xác mà còn lo về phần thiêng liêng, là rao
giảng, dạy dỗ cho họ, cứu giúp linh hồn người ta. Qua công việc đó, Đức Giêsu
muốn cho chúng ta thấy ý nghĩa và giá trị của công việc lao động: lao động là
cần thiết, lao động là bổn phận của mọi người, lao động chẳng những giúp ích
cho bản thân mà còn giúp đỡ cho tha nhân, lao động sinh ích lợi cho cả phần xác
lẫn phần hồn nữa.
Từ các bài đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ hôm nay vạch ra cho chúng
ta thấy phương hướng sống:
Trước các công việc làm, chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả những
công việc lao động của chúng ta.
Chúng ta hãy xin Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta làm. Khi
làm việc chúng ta ý thức mình làm vì sáng danh Chúa và mưu ích cho phần rỗi tha
nhân
Xin Chúa cho chúng ta có sức khỏe thể xác và tinh thần để ta hoàn
thành công việc cách tốt đẹp
Xin Chúa cho chúng ta biết sống hết mình và làm việc hết mình vì
lòng mến Chúa, để góp phần cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ. Và xin
Chúa nâng đỡ những công lao vất vả của chúng ta. Amen.
CÂU CHUYỆN MINH HỌA VỀ VIỆC CẦU NGUYỆN
Vào cuối thế kỷ 19, nhà hoạt động nổi tiếng người pháp tên
Frédéric Ozanam, đã trải qua một cơn khủng hoảng đức tin rất là nghiêm trọng.
Một hôm,để tìm chút thanh thản cho tâm hồn, anh bước vào một ngôi nhà thờ ở
Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng đen đang quỳ cầu nguyện một cách
sốt sắng ở hàng ghế đầu. Anh đứng lặng lẽ trong góc Nhà Thờ theo dõi cử chỉ của
người này. Và khi người này vừa đứng lên để ra khỏi Nhà Thờ, thì anh nhận ra
ngay đó chính là nhà bác học Pascal. Lòng đầy thắc mắc, anh theo nhà bác học về
đến phòng làm việc của ông. Thấy anh đứng trước cửa phòng với vẻ rụt rè, nhà
bác học lên tiếng hỏi:
Bạn đang cần gì? Tôi có thể giúp bạn giải một bài toán vật lý phải
không? Chàng ta đáp: Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn, tôi dốt khoa học lắm.
nhưng xin ông cho tôi hỏi một vấn đề đến đức tin.
Nhà Bác học trả lời:Đức tin là môn tôi yếu nhất. Nhưng nếu giúp
anh được việc gì tôi sẳn sàng. Thưa ông có thể vừa là bác học vĩ đại vừa là tín
hữu nhiệt thành cầu nguyện không?
Nhà Bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của anh. Ông ta trả lời: Anh
ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi.
Nhà bác học kiêm triết gia nổi tiếng Pascal nói một câu rất thời danh:
" con người chỉ vĩ đại khi họ cầu nguyện."
Vậy cầu nguyện tức là thiết lập mối tương quan mật thiết với Chúa.
Sự cầu nguyện làm cho con người vĩ đại vì nó thể hiện đúng đắn đạo làm người.
Sự cầu nguyện làm cho con người nhìn thấy những giá trị của chính mình, thấy
những yếu đuối, bất toàn trong đời sống của mình. Biết mình bởi đâu mà có, biết
mình sống để làm gì, biết mình sẽ đi về đâu và biết mình phải sống làm sao cho
tốt đẹp!
39. Cái tình
của Chúa Giêsu - Lm. Thu Băng
Bài Tin Mừng hôm nay kể lại những việc Chúa Giêsu đã làm cho người
ta: như chữa cho bà mẹ vợ của ông Phêrô được khỏi cơn sốt. NgàI lại chữa lành
nhiều bệnh nhân nào là kẻ què, kẻ mù, người điếc, người câm, kẻ xấu nết, và
người chết được sống lại....
Tại sao người ta thích đến với Chúa Giêsu? Tại vì Chúa Giêsu người
ta thấy có "cái tình", có niềm thương cảm đối với những người xấu số,
sầu khổ. Có bài ca rằng: "Đẹp thay những bước chân tiến vào giữa lòng thế
giới, đem tình thương (2) Chúa trời, đem niềm vui cứu đời cho mọi người và mọi
nơi."
Trong con người Chúa Giêsu chất chứa đầy cái tình người. Ngài
không ngồi yên được, mà phải đi đến với người ta để thi ân, để giúp đỡ. Ngài
cũng còn truyền cho các môn đệ đi từng hai người một đến với họ để thi hành
việc bác ái.
Ngày nay loài người còn cần đến tình thương không? Ai là người ban
cái tình đó cho nhân loại? Phải chăng chỉ có các Linh Mục, Giám mục, Đức Thánh
Cha? Phải chăng sứ mạng tông đồ rao truyền "cái tình của Chúa Giêsu"
chỉ có giới tu sỹ? Các ngài đã và đang làm rồi.
Số báo Dân Chúa tháng 2 năm 1985, có đăng tin Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô đệ Nhị đã thể hiện tình thương của Chúa qua các cuộc viếng thăm có vụ:
Ngày 5 tháng 12 năm 1984 ngài tiếp ông Antôn Magalhaes Martin 72 tuổi, người Ba
Tây bị cùi lở loét suốt 52 năm, từ khi ông được 25 tuổi. Và cha Mario Gerlin
Tuyên úy người cùi 10 năm. Ông cảm động vì lời khuyên của Ngài. Ông nhân danh
người cùi thế giới cám ơn Đức Thánh Cha. Cha Gerlin tuyên bố: "Việc Đức
Thánh Cha tiếp ông Martin là một phấn khích lờ lao cho 350.000 người cùi Ba Tây,
và 20 triệu người cùi thế giới. Nghĩa cử đó xoá bỏ thành kiến sợ người cùi của
nhiều người."
Cha Vincent làng thượng đi thăm một gia đình nghèo: Bà khóc lóc kể
lể sự cơ cực xơ xác, rách rưới của gia đình. Bà xin giúp đỡ. Bà nói luôn miệng,
thỉnh thoảng cha mới xen vào được một câu an ủi. Cuối cùng bà nói: "Con
cám ơn cha đã giúp con." Cha ngạc nhiên vì chưa giúp bà được cái gì. Nhưng
bà nói ngay: "Con cám ơn cha nhiều nhất vì cha thông cảm được sự đau khổ
của gia đình con. Đã an ủi con chịu khó theo Chúa, nên con thấy vui khi nghèo."
Sứ mệnh của chúng ta ra sao? Chúng ta không đủ khả năng để chữa
bệnh phần xác nhưng chữa bệnh tâm hồn, bằng lời cầu nghuyện, bằng tâm tình
quảng đại hướng về người nghèo khổ. Thăm nom là phần thưởng lớn đối với người
nghèo khổ. Khích lệ bệnh nhân, một lời an ủi tại nhà, tại bệnh viện. Nhiều khi
chỉ nghe người ta bày tỏ cũng là đủ an ủi rồi. Hoặc gọi điện thoại khích lệ
cũng là một lời thăm hỏi rất tốt.
Câu chuyện cảm động về "Nụ cười khích lệ" tôi muốn kể
cho anh chị em nghe:
Trong vùng có một quân nhân xấu ai thấy cũng chế diễu, bửu môi,
đánh đập, không ai làm bạn với anh cả. Anh sống đời cô đơn uồn tủi. Khi anh
chết, người ta thấy một tờ di chúc trong tay anh:"Xin trao số tiền 10,000
đồng của tôi cho cô bé Kitty, vì suốt cuộc sống của tôi không nhận được nụ cười
nào của bất cứ ai, ngoại trừ nụ cười của bé Kitty trong một lần tôi gặp cô đi
học về. Đó là niềm an ủi nhất đời tôi, khiến tôi can đảm sống trọn cuộc đời cô
đơn."
Cũng một câu chuyện nữa về một "Lời nói thân tình."
Tại một góc hè phố, người hành khất bại tay, nằm co quắp mở miệng
xin ăn. Người thì ném tiền vào nón của ông. Người thì cho cách khinh bỉ. Một
người sang trọng đi qua, ông xỏ tay vào túi rồi chẳng tìm được gì, ông nói:
"Này bác, rất tiếc tôi muốn giúp bác nhưng bất ngờ tôi không có đồng xu
nào trong túi mình cả." Người ăn xin trả lời: "Cám ơn ông, ông đã cho
tôi nhiều hơn cả mọi của bố thí. Ông đã gọi tôi bằng "Bác" thành thật
chưa bao giờ trong đời tôi nhận được danh xưng đó trên môi miệng một người sang
trọng bố thí cho tôi."
Thời đại nào, thế kỷ nào, ai ai cũng cần đến "Cái tình"
của con người, cần đến sự nâng đỡ, khích lệ trong cuộc sống. Xin Chúa Giêsu cho
chúng ta hiểu được niềm thương cảm khổ đau và ân tình của Chúa, để chúng con
biết "Đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem
an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm."
40.
Ngôn ngữ của con tim – Jean Ralté
Từ
cuộc sống
Thật
dễ nhận ra rằng càng ngày người ta càng đi tìm kiếm một cái gì đó, một lời gần
gũi mình trong cuộc sống. Không ai còn thích nghe những diễn từ bóng bẩy, những
lời hay ý đẹp cao siêu, như những đám mây. Chúng ta hết thảy đều tìm kiếm một
lời nhanh chóng đưa đến hành động. Thế giới chúng ta khao khát những gì cụ thể.
Đây là một thế giới đòi hỏi có những người biết làm chứng bằng chính cuộc đời
mình trước khi làm chứng bằng lời nói.
Ngôn
ngữ của con tim.
Cuộc
sống của Chúa Giêsu đáp ứng sự mong chờ của loài người. Ngài không nói ngôn ngữ
của những triết gia nay của những nhà thần học hoặc của các tư tế và ký lục ở
thời đại của Ngài. Người con trai bác thợ mộc nói ngôn ngữ của con tim. Khi
Ngài đến với con người, Ngài gặp họ trong toàn bộ con người của họ, thân xác và
tinh thần. Ngài không tách rời giữa lời nói và hành động. Trước khi đến hội
đường Caphanaum, Chúa Giêsu đã đến nhà ông Simon và Anrê. Ngài vừa mới đến thì
người ta nói với Ngài về một người bệnh. Nhạc mẫu của ông Simon lên cơn sốt. Có
lẽ nếu Chúa Giêsu chấp nhận nói chuyện với bà thì điều này sẽ an ủi bà chăng?
Nhưng Chúa Giêsu còn làm nhiều hơn thế nữa: Ngài nói với bà bằng ngôn ngữ của
con tim. Không một lời, Ngài đến bên cạnh bà, nắm tay và làm cho bà chỗi dậy.
Ngài không cần lời nói. Cử chỉ của Ngài nói đủ rồi. Ngài chữa lành bà cả hồn
lẫn xác.
Được
khỏi sự dữ đã giam hãm bà, nhạc mẫu của ông Simon liền phục vụ những người
khách của ông. Cử chỉ của bà làm chứng cho niềm tri ân đối với việc loan báo
Tin Mừng vừa được thể hiện. Đến lượt bà, bà cũng nói ngôn ngữ của Chúa Giêsu,
ngôn ngữ của con tim.
Như
một vệt thuốc súng.
Và
này đây, tin đồn lan khắp cả thành phố. Có một người đáp ứng được sự mong chờ
của những con tim bị bệnh tật, bị tan vỡ, bị giam cầm. Lời của Thiên Chúa đã
trở nên hành động trước mắt loài người. Vậy nên dân chúng tuôn đến, mỗi người
tìm đến một luồng khí mới cho cuộc đời của mình. Và này đây, trong những phong
trào của chúng ta, người ta khám phá ra hành động của Thiên Chúa và của Lời
Ngài. Một nhóm được hình thành, rồi một nhóm khác nữa… Chúa hiện diện ở giữa
chúng ta. Ngài hành động vì chúng ta. Sứ điệp loan đi như một vệt thuốc súng.
Chúa ở nơi chúng ta, trong phong trào Thánh Linh, Chúa ở trong nhóm trẻ của
chúng ta, v.v… Nhưng chúng ta lại nghĩ rằng để nhìn thấy Ngài, phải thuộc về
nhóm chúng ta, thuộc về “thành phố” nơi Chúa đã tỏ mình ra.
Vì
chúng ta hay vì thế giới?
Hôm
nay, Chúa cũng tỏ mình ra giữa chúng ta. Nhưng chúng ta làm gì trước sự kiện
này? Đôi khi chúng ta giống những người trong thành phố. Chúng ta tìm cách lợi
dụng tối đa sự hiện diện của Chúa mà quên để cho Ngài được tự do hành động.
Chúng ta nghĩ rằng Ngài chỉ là Chúa của chúng ta, Vua của chúng ta, Ngài thuộc
về chúng ta. Còn những kẻ không thuộc về nhóm chúng ta không thể gặp Ngài.
Chúng ta cũng tìm cách làm cho Ngài thành Vua của chúng ta, tìm cách giam hãm
Ngài trong những cơ cấu của chúng ta, làm cho Ngài trở thành nô lệ của chúng
ta, thành đồ vật của chúng ta. Nhưng không phải Chúa chỉ đến cho chúng ta mà
thôi đâu.
Vì
thế chúng ta cũng có thể hành động như nhạc mẫu ông Simon. Nếu Chúa tỏ hiện ở
giữa chúng ta là để chúng ta giúp Ngài loan truyền sứ điệp của Ngài cho thế
giới, bên ngoài thành phố của chúng ta. Lúc đó, Chúa không còn đến chỉ phục vụ
chúng ta nữa. Chính chúng ta trở thành đầy tớ của Ngài. Lúc đó, các nhóm của
chúng ta không còn là những nhóm khép kín, nhưng là những điểm chiếu tỏa, từ đó
phát xuất đời sống đức tin để mang Tin Mừng đến những làng mạc lân cận.
Đối
với chúng ta là những Kitô hữu, những tín hữu. Thiên Chúa giao cho nhiệm vụ
loan báo cho loài người Tin Mừng mà Ngài đã để lại cho chúng ta. Ngài mời gọi
chúng ta làm việc này theo cách của Ngài, bằng lời nói và bằng hành động, nói
ngôn ngữ của con tim chứ không phải ngôn ngữ của sự khôn ngoan con người. Chính
với những anh em đang đau khổ của chúng ta mà Ngài sai chúng ta đến để nhân
danh Ngài chúng ta cầm tay họ, giúp họ đứng lên. Bây giờ phận sự của chúng ta
là trở thành tôi tớ mọi người để cứu được nhiều người. Amen.
41. Không có nghỉ ngơi cho việc tốt
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Mẹ
vợ là đối tượng của nhiều chuyện vui cười, nhiều chuyện diễu cợt và một số châm
biếm suốt một thời gian dài. Một nhà phê bình đã quan sát và nhận xét rằng:
“Đằng sau mỗi người đàn ông thành công có một bà mẹ vợ đang ngạc nhiên”, có lẽ
mẹ vợ của thánh Phêrô ngạc nhiên về sự chọn lựa của Chúa Giêsu khi chọn Phêrô
làm đầu tông đồ, chúng ta thì không biết điều đó. Bà đã được chú ý chỉ một lần
duy nhất trong toàn bộ Phúc Âm, nhưng điều đã được chú ý đó thì rất quan trọng
đối với chúng ta. Và thánh Phêrô lúc đó vẫn còn được gọi là Simon, đã lo lắng
cho người mẹ vợ của mình. Bà đã ngã bệnh bởi cơn sốt. Khi Simon nói với Chúa
Giêsu về bà, Chúa Giêsu cầm tay bà thì cơn sốt liền rời khỏi bà. Hành động này
của Chúa Giêsu không có gì phải ngạc nhiên. Nhưng sau đó thì và hoàn toàn ngạc
nhiên, ngay lập tức bà ta dọn bữa phục vụ Chúa Giêsu và các môn đồ của Ngài.
Các bạn nghĩ rằng đúng ra bà phải dành một ít thời gian để nghỉ ngơi, nhưng
điều đó đã không phải là cách làm của người đàn bà này.
Một
số những nhà hoài nghi đã vẽ bức tranh châm biếm người đàn bà được tiền định
này, “phụ nữ trong vị trí xã hội thời bấy giờ” là để phục vụ người đàn ông. Sự
thật bà đã là tấm gương của chính Chúa Giêsu. Bà đã suy nghĩ về sự quảng đại,
về tinh thần bỏ mình trong sứ vụ của Chúa Giêsu.
Sau
bữa ăn tối tại nhà của Phêrô, Chúa Giêsu không nghi ngờ gì là đã kiệt sức sau
một ngày lao động vất vả, Người vẫn gây nên bất ngờ là chừa lành cho tất cả
những người bệnh trong thành phố, những người đau bệnh và những người bị quỷ
ám. Ngài đã đáp trả theo đặc tính riêng của Ngài. Sáng hôm sau, mặc dù rất mệt
mỏi nhưng Ngài đã dậy rất sớm như mẹ vợ của ông Phêrô đã dậy sớm sau cơn ốm của
mình. Chúa Giêsu tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, nhưng đó không phải là
tránh làm công việc tốt. Simon và những người khác đã tìm thấy Người, các ông
biết rằng những khoảnh khắc an bình đó của Ngài không phải là tận cùng của một
ngày sống. Sứ vụ của Ngài đang vẫy gọi Ngài và Ngài nhận biết rằng Cha đang kêu
gọi Ngài, đưa những người cùng khổ thoát khỏi cảnh khổ của mình, điều mà ông
Gióp đã cảm thấy khi ông tuyên bố: “Tôi sẽ không còn nhìn thấy hạnh phúc nữa."
Chúa Giêsu đã đi đến những làng mạc để tuyên bố và rao giảng Tin Mừng.
Thánh
Phaolô đã làm viên mãn những ý thức quen thuộc của sự phục vụ. Để xác định sự
dâng hiến của ngài trong việc rao giảng Phúc Âm mà ngài đã được kêu gọi, ngài
viết: “Tôi đã bị thúc đẩy và không có một chọn lựa nào khác." Đó là sự
nhiệt tình để diễn tả tâm tình bổn phận sâu xa của ngài. Ngài không do dự làm
nổi bật sự quảng đại khi ngài nhắc nhở Corintô: “Tôi hiến tặng Phúc Âm một cách
nhưng không." Trong sự so sánh ơn kêu gọi đáng khen ngợi của thánh Phaolô
thì việc phục vụ đơn giản được dâng bởi mẹ vợ của thánh Phêrô cũng được xem
không phải là vô nghĩa. Tuy nhiên, quan điểm của hai người phản ánh sự quảng
đại tinh thần vô vị lợi trong việc phục vụ chính Chúa Giêsu, Phêrô có cách của
ngài và mẹ vợ của Phêrô có cách của bà. Còn chúng ta, con đường của chúng ta là
gì? Chúng ta có thể trở nên giống Chúa Giêsu trong việc chu toàn bổn phận ơn
kêu gọi trong đời sống của chúng ta, những gì mà chúng ta có thể trở thành.
Ngoài mẹ vợ của thánh Phêrô mà thánh Phaolô tông đồ đã trình bày cho chúng ta,
có một sự xếp đặt rộng rãi trong việc phục vụ cho những môn đồ của Chúa Giêsu
đã được kêu gọi. Chúng ta cần phải suy nghĩ về sự quảng đại và tinh thần vô vị
lợi mà chúng ta thực hiện trong cuộc sống của chúng ta như là cha mẹ, vị hôn
phu, thầy dạy, công nhân, những người tự nguyện, một sinh viên, một linh mục,
một tu sĩ, những gì chúng ta được kêu gọi để trở thành.
Có
sự nghỉ ngơi thì xấu khi chúng ta chỉ nghĩ về mình và những tiện nghi cho chính
mình. Không có sự nghỉ ngơi cho công việc tốt, những người theo gương mẫu của
Chúa Giêsu. Họ biết rằng hạnh phúc và sự viên mãn trong cuộc sống sẽ đến bằng
việc bắt chước sự quảng đại và tinh thần vô vị lợi của Chúa Giêsu.
42. Lương y từ mẫu.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Anh
chị em thân mến,
Không
ai trong chúng ta đã không ít là một một lần ngã bệnh hoặc có người thân đau ốm
hay được thấy những bệnh nhân điều trị tại một bệnh viện, để thấy được bệnh tật
quả là một nỗi khổ đau của con người… Mọi người đều phải chạm trán với đau khổ
dưới muôn hình vạn trạng. Các triết gia đã suy nghĩ và bàn giải nhiều về đau
khổ, nhưng không có một giải đáp nào thỏa đáng trước sự đau khổ của người hiền
đức và của trẻ thơ vô tội.
Ông
Gióp, nhân vật chính trong tác phẩm mang tên ông, là một người hiền đức nhưng
gặp phải nhiều nỗi gian truân, đâm ra hoang mang và vô vọng: “Xin Chúa nhớ cho:
đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ không được thấy lại hạnh phúc bao giờ."
Thật
vậy, “đời người là một khổ dịch, như cảnh nô lệ, tựa kiếp làm thuê." Tuy
thế, tuyệt đối ông không bao giờ coi đau khổ như là dấu chỉ hay hình phạt của
tội lỗi. Bản thân ông Gióp không tài nào hiểu được: Tại sao người hiền đức lại
phải đau khổ? Đối với ông, đau khổ thật là một huyền nhiệm khôn dò. Tốt hơn hết
là tin chắc vào Chúa, hướng về Ngài và xin Ngài giải đáp cho.
Vậy
thời Đức Giêsu nghĩ thế nào về đau khổ của con người?
Trước
hết, Đức Giêsu không thuyết giảng về đau khổ nhưng Ngài quan tâm, lo lắng cho
những người đau khổ, cảm thông và chữa lành kẻ ốm đau, tật nguyền, hoặc bị quỷ
ám. Được biết bà mẹ vợ ông Simon đang bị sốt nằm trên giường. “Đức Giêsu lại
gần, cầm lấy tay bà và đỡ dậy…." Với triết gia, đau khổ là một vấn đề. Còn
với Đức Giêsu, cần chiến đấu và chiến thắng đau khổ: Trước người mù từ thuở mới
sinh, mọi người tìm cách giải thích để kết án kẻ khác và chạy tội, để đổ trách
nhiệm cho kẻ khác và phủi trách nhiệm cho mình. Nhưng theo Đức Giêsu, làm như
thế có lợi gì, người đau khổ vẫn đau khổ. Tốt hơn là làm một cái gì đó, làm
“cái phải làm” để biểu lộ công trình yêu thương của Chúa Cha.
Kế
đến, khi cầm lấy tay bà mẹ vợ ông Simon đang nằm trên giường vì sốt mà cho bà
“chỗi dậy”, Đức Giêsu như hướng chúng ta đến cái chết và sự Phục Sinh của Ngài.
Chính nhờ mầu nhiệm Vượt Qua này mà đau khổ của con người có được một ý nghĩa
tích cực: Đau khổ dứt khoát không phải là một hình phạt mà là một thay đổi, một
nổ tung nảy sinh một sự sống mới, tương tự như hạt lúa phải thối đi để có mùa
gặt, quả trứng phải nứt ra để có chú gà con, và con sâu phải lột xác để thành
cánh bướm bay vào cõi trời bao la.
Như
vậy, Đức Giêsu đến trong trần gian không phải để xóa đi mọi đau khổ nhưng để
đem lại cho đau khổ một ý nghĩa cứu độ, cho người đau khổ một niềm vui giải
thoát. Ngài đã giải thoát họ khỏi những chán chường thất vọng và đưa họ vào lại
trong sự hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa cũng như với mọi người trong xã
hội. Phải đợi đến sau khi Đức Giêsu Phục Sinh, người ta mới nhận ra rằng: còn
hơn một Thầy Thuốc, Đức Giêsu là Vị Cứu Tinh của cả nhân loại. Bởi vì Ngài đã
không chữa lành những nỗi đau nơi thân xác mà còn chiến thắng cả cái chết và
quyền lực của tội lỗi đang tác động trong đau khổ, để đem đến cho con người một
sự giải thoát toàn diện, đưa họ vào trong vinh quang và sự sống. Đây mới thật
là mối bận tâm sâu xa của Đức Giêsu: bận tâm rao giảng Tin Mừng hay mạc khải
tình thương cứu độ của Thiên Chúa cho mọi người. Nhờ đó, đau khổ thay vì là sự
vắng mặt của Thiên Chúa, sẽ là sự hiện diện của một tình yêu. Dù đau khổ vẫn
còn là một mầu nhiệm khôn dò, một vấn đề chưa có giải đáp trọn vẹn, nhưng đã có
tình yêu, một mầu nhiệm vĩ đại hơn.
Thưa
anh chị em,
Đức
Giêsu đem Tin Mừng đến cho loài người bằng những thái độ cụ thể, rõ ràng: Ngài
ra tay cứu chữa những ai đau ốm bệnh tật, cho họ được lành mạnh, thuyên giảm,
hầu làm chứng một cách thỏa đáng tin rằng, quả thật Thiên Chúa yêu thương người
ta, dùng con người cứu chữa con người, để ốm đau không thành đau khổ, tật
nguyền không phải tất nhiên đau khổ. Khi con người được yêu thương chăm sóc thì
dầu có mang bệnh tật cũng có thể cảm thấy vui tươi, hạnh phúc, nghĩa là không
đau khổ, như một em bé mù –Trường Hy Vọng –Nguyễn Đình Chiểu, vẫn có thể đàn
hát về cảnh bình minh của đời mình, vẫn sáng tác những vần thơ trong sáng, vì
em được yêu thương, được chăm sóc tận tình.
Đức
Giáo Hoàng Phaolô II trong Tông thư về “Ý Nghĩa Đau Khổ Của Con Người, theo
Kitô giáo” (1984) đã nói: “Con người bước đi cách này hay cách khác, trên con
đường đau khổ”, và tất cả chúng ta được đưa tới gặp gỡ con người trên con đường
đó. Ngài trích dẫn dụ ngôn người Samari nhân hậu để cho thấy rằng mỗi người
chúng ta phải có mối liên đới như thế nào đối với người đồng loại đang đau khổ.
Chúng ta không được “dửng dưng” bỏ qua, nhưng phải “dừng lại” bên kẻ đau khổ.
Người Samari nhân hậu là tất cả những ai dừng lại bên bất cứ đau khổ nào của
người khác. Dừng lại không phải vì tò mò mà là để sẵn sàng giúp đỡ. Thái độ này
là sự sẵn sàng nội tâm biết mở lòng và xót thương, thúc đẩy chúng ta ra tay
hành động và trợ giúp những người đau khổ, dù thuộc loại nào” (x. số 28).
Trong
suốt dòng lịch sử, Giáo Hội đã luôn quan tâm chăm sóc và cứu chữa các bệnh
nhân, nhất là những người mắc bệnh hiểm nghèo và khó chữa, những kẻ tàn tật. Sự
tận tụy của các tu sĩ, các đội ngũ bác sĩ, y tá Công giáo tại các trại phong
cùi, các bệnh viện luôn được xã hội ghi nhận và đã là nguồn an ủi không nhỏ đối
với những con người đau khổ. Nhiều giáo dân tại các họ đạo, các đoàn thể, có
thói quen thăm viếng, chăm sóc những người già cả tại gia đình, tại các viện dưỡng
lão… Như vậy, sự quan tâm của Chúa Giêsu đối với những con người đau khổ vì
bệnh tật được tiếp tục trong xã hội hôm nay của chúng ta.
Anh
chị em thân mến,
Nhân
ngày Thế Giới Bệnh Nhân sắp đến, ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/2), nơi các bệnh
nhân đã được Đức Mẹ chữa lành một cách lạ lùng, nhờ lòng tin tưởng, cậy trông
và yêu mến Đức Mẹ.
Trước
nỗi đau khổ của kẻ khác, nhiều khi chúng ta cảm thấy bất lực, không biết phải
nói gì, không biết phải làm gì. Những lúc đó, trong giới hạn của mình và đầy
tình thương, chúng ta vẫn có thể làm một cái gì đó để xoa dịu tinh thần cũng
như trợ lực cho thể xác của họ. Rất có thể người ấy chỉ cần chúng ta im lặng và
cảm thông với nỗi đau của họ, hoặc lắng nghe họ tâm sự. Cũng có thể họ chờ đợi
được nghe một tin vui, chờ đón một nụ cười… Ngay cả khi không thể thực hiện các
việc đó, chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ. Bằng tất cả những việc yêu
thương nhỏ bé của đời thường đó, chúng ta nói với họ về Chúa Giêsu của chúng
ta. Đó cũng là cuốn Tin Mừng sống động viết bằng chính cuộc đời chúng ta vậy.
43. Chúa Giêsu, người Công Giáo đầu tiên.
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest.)
Thánh
sử Marcô trình bày cùng chúng ta Chúa Giêsu đang thi hành chức vụ như: loan báo
Nước Trời, chữa kẻ bệnh tật, trừ ma quỷ, cầu nguyện. Cảnh tượng được mô tả hôm
nay nhấn mạnh cho ta thấy Chúa Giêsu lo lắng dấn thân vào cuộc đời bình thường
của con người đến thế nào. Người mới giảng dạy ở Nhà Hội là nơi thường để hội
họp xong Người lại mau mắn theo Phêrô và Anrê về nhà họ. Phêrô biết có chuyện
không hay trong nhà mình, song điều đó cũng không ngăn cản Chúa cứ đến.Chúa
chữa lành cho nhạc mẫu Phêrô. Chúa dùng bữa mà chính tay bà đã dọn. Vào buổi
chiều, hẳn là vào lúc mà ngày Sa-ba chấm dứt, Người chữa lành cho nhiều bệnh
nhân được mang tới. Người biểu dương quyền năng Người trên sự dữ bằng cách đẩy
lui bệnh tật và xua đuổi tà thần. Người lưu lại nhà Phêrô và Anrê để qua đêm,
nhưng sau khi đã chia sẻ những thực tế tầm thường ấy của đời sống nhân loại,
Chúa đã thức dậy trước bình minh để hoàn toàn chìm đắm vào sự thân mật của Chúa
Cha. Người trở về nguồn. Người không giây phút nào mất liên lạc với Cha Người.
Người trở lại cùng với loài người, với những tư tưởng và ý muốn của Chúa Cha.
Người không để bị lôi cuốn đến chỗ sa lầy, vào những kêu gọi tức thời và ích kỷ
của những người ở Caphanaum. Người không hề rời khỏi tầm mắt những kích thước
của sứ mạng mình. Ngoài Caphanaum, Người rảo qua khắp hết miền Galilê, trong
lúc đợi chờ sai môn đệ đi khắp cùng thế giới. Chúng ta hãy lưu tâm đến hai câu
nhỏ, song gợi ý trong bài này.
1)
Tiến lại gần, Người cầm lấy tay bà. Thánh sử Marcô ghi rõ chi tiết này, khi nói
đến việc Chúa Giêsu chữa lành nhạc mẫu của Phêrô. Qua cung cách xử sự ấy của
Chúa Giêsu, người ta có thể nhận ra nỗi quan tâm của Chúa, muốn gần gũi với con
người. Tự biết mình là Con Thiên Chúa, Người rất có thể, tự đàng xa, chữa mọi
bệnh tật, tiêu diệt tội lỗi, thanh tẩy con người sạch mọi sự dữ. Vậy mà, Chúa
đã làm gì? Chúa cầm lấy tay loài người. Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô, không
chỉ để cho các nguyên nhân siêu việt thi hành vai trò mà Người đã trang bị từ
đầu. Cư xử với con người, con người trong nhân cách riêng và như phần tử của
cộng đoàn nhân loại rộng lớn, Thiên Chúa đã nắm lấy tay con người; Chúa Giêsu
là Con Người tuyệt hảo, là Con Người của Thiên Chúa Con nhập thể, đã đến để cứu
chữa nhân loại bằng cách “cầm lấy tay” từng người, bất luận họ ở trình độ lương
tâm và kiến thức nào. Không một con người nào, dầu là sơ khai đến mấy, mà không
được chính Đức Kitô chú ý riêng. Con Thiên Chúa tự mặc lấy nhân tính để chiếm
đoạt được nhân loại, Người tự cho mình đôi tay để cầm lấy từng người. Trong
giây phút chúng ta đang lâm cơn bị cám dỗ, phạm tội, buồn phiền, thất vọng,
chúng ta có nghĩ tới bàn tay nào đó, đang giơ ra để nâng đỡ không?
2)
Chúng ta hãy đi đến khắp mọi nơi để Ta cũng rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì
mục đích đó mà Ta được sinh ra. Chúa Giêsu, từ Thiên Chúa mà ra, không để cho
mình bị giam hãm trong thực thể này hay thực thể nọ. Chức vụ Người thi hành tại
Caphanaum đã đem đến cho Người nhiều cảm tình nồng nhiệt. Người ta bao vây
Người, người ta muốn chiếm đoạt Người. Nhưng Chúa Giêsu đã tự tháo gỡ. Tại sao
vậy? Tại vì con người của Chúa bị hai chiều kích vô biên lôi cuốn. Trước hết là
kích thước vô biên của Chúa Cha, sau là chiều kích vô biên sâu thẳm của nhân
loại. Người kitô hữu đừng quá sở noi gương ấy của Chúa Giêsu một cách nghiêm
túc. Chính đó là nguồn gốc tinh thần công giáo. Chúng ta là công giáo trong tư
tưởng của mình, khi mà chúng ta từ chối không để cho trí óc của mình bị giam
hãm trong một hệ thống tư tưởng nào, dầu cho đó là một nền thần học thật hấp
dẫn. Vì trí óc con người thật hữu hạn, nó bị bó buộc suy tư trong lòng một hệ
thống này hay hệ thống nọ, nhưng tinh thần công giáo ngăn cản nó khỏi bị giam
cầm trong đó. Người ta được phổ quát trong hành động, khi nào người ta lo giữ
mình luôn được tự do, nghĩa là luôn luôn sẵn sàng cho Thiên Chúa, ngay cả bên
trong những cam kết của mình. Chúng ta là công giáo trong việc tông đồ này hay
việc tông đồ nọ, khi người ta biết lo liên kết nó với “nơi khác”, tức là đời
sống của toàn Giáo Hội. Nguồn gốc tinh thần công giáo là sự hướng lòng mình,
vừa lên với Thiên Chúa vô tận lại vừa về với nhân loại vô biên, chính là đức ái
thần linh vậy.
44. Đau khổ
Cho
đến ngày hôm nay, đau khổ vẫn mãi mãi là một vấn đề nan giải trong số kiếp của
con người. Thực vậy, tại sao chúng ta lại đau khổ? Phải chăng đau khổ là một
hình phạt do tội lỗi của chúng ta… Nếu vậy thì tại sao những người công chính
cũng gặp phải nhiều khổ đau? Hay là Thiên Chúa đã bất công khi cư xử với chúng
ta?
Từ
câu chuyện của ông Gióp, chúng ta rút ra được một bài học đức tin, đó là trong
những giờ phút khổ đau, chúng ta đừng vội kêu trách Thiên Chúa, bởi vì Ngài là
nguồn sự sống, không bao giờ muốn cho con người phải khổ, phải đau. Rất nhiều
khi khổ đau là do con người gây ra cho nhau, vì thiếu yêu thương, thiếu cảm
thông, thiếu giúp đỡ.
Cùng
với ông Gióp, là người tín hữu, chúng ta phải có thái độ đúng đắn đối với Thiên
Chúa trong những giờ phút đen tối, cũng như phải sống Tin Mừng thế nào trong
mối liên hệ với những người đau khổ.
Đau
khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người, nhưng đồng thời lại là cơ
hội để con người đến với nhau một cách đặc biệt hơn, bằng sự cảm thông, an ủi
và giúp đỡ, bởi vì chúng ta tin rằng Chúa yêu thương mọi người, cho nên không
thể nghĩ rằng đau khổ và bệnh tật là hình phạt của tội lỗi.
Một
quan niệm sai lạc và méo mó về Chúa sẽ dẫn chúng ta tới một lối sống đạo đức
một cách thụ động, bởi vì Chúa để cho những khổ đau xảy ra, cho nên chúng ta
hãy kiên nhẫn đón nhận để đền tội và lập công. Cách thức suy nghĩ như thế sẽ
khiến chúng ta coi nhẹ mối quan tâm cứu chữa những kẻ bất hạnh. Mọi thái độ cam
chịu ở đời này để được Chúa thưởng ở đời sau.
Chúa
Giêsu đem Tin Mừng đến cho nhân loại bằng một thái độ tôn giáo hoàn toàn trái
ngược lại với sự cam phận. Thực vậy, thấy bà mẹ vợ của Phêrô lên cơn sốt, Ngài
liền giúp cho bà được khỏi bệnh. Và dân chúng đưa những kẻ đau yếu đến với Ngài
và Ngài đã chữa lành cho họ. Thái độ của Ngài thật là cụ thể, rõ ràng và đó là
thái độ tôn giáo.
Vì
tin vào Chúa của tình thương mà phải ra tay cứu chữa những kẻ đau yếu tật
nguyền, cho họ được khỏe mạnh, hầu làm chứng một cách đáng tin rằng quả thật
Chúa yêu thương con người và Ngài đã dùng con người để cứu chữa con người. Bởi
vì khi con người được yêu thương và giúp đỡ, thì dù có bệnh tật và khổ đau, thì
vẫn có thể cảm thấy được hạnh phúc.
Trước
những khổ đau bất hạnh của người khác, chúng ta đã có thái độ như thế nào? Cảm
thông và giúp đỡ hay đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ, cháy nhà hàng xóm bình chân
như vại.
45. Cách đáp ứng
Vấn
nạn về nỗi đau khổ của nhân loại, đặc biệt là nỗi đau khổ của người công chính,
là một vấn nạn lớn trong Kinh Thánh qua các thời kỳ. Đây là một vấn nạn mà Gióp
đã bị day dứt. Gióp là một người tốt, tuy nhiên, ông vẫn phải chịu đựng những
thảm cảnh khủng khiếp. Hậu quả là ông có một cái nhìn ảm đạm về cuộc sống.
Nỗi
đau khổ vẫn còn là một vấn nạn lớn. Ngày nay rất nhiều người có thể có cùng một
quan điểm với Gióp. Bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đau khổ vì cảnh nghèo
nàn, đói khát, đau yếu, bất công, áp bức, thảm cảnh… Trong thời Cựu Ước, đau
khổ bị coi như là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa, vì tội lỗi của con
người.
Câu
trả lời của Đức Giêsu đối với vấn nạn về nỗi đau khổ là gì? Người không chấp
nhận quan điểm rằng đau khổ là một sự trừng phạt đến từ Thiên Chúa. Thiên Chúa
không làm điều ác. Thiên Chúa luôn muốn sự tốt lành. Trong Tin Mừng, chúng ta
nhận thấy khi Đức Giêsu phản ứng trước nỗi đau khổ thực sự, điều đó chẳng khác
gì một câu trả lời đối với câu hỏi “tại sao có đau khổ?"
Phản
ứng đó rất thực tiễn – như chúng ta nhận thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở
đây, chúng ta nhận thấy đám đông những người bị đau yếu về thể xác hoặc tâm trí
đến vây quanh Đức Giêsu. Và Đức Giêsu đã tự hiến thân mình cho mỗi người, chữa
lành cho từng người một. Người không tự cô lập khỏi đau khổ của nhân loại.
Người đã tự mình trở nên hoàn toàn nhạy cảm, trước những người bị thương tích
và đau yếu.
Nỗi
đau khổ là một tình trạng cô độc. Đức Giêsu đã không ủy mị trước nỗi đau khổ.
Người cũng không giảng dạy sự cam chịu như chúng ta thường làm. Người không
thích nhìn thấy con người đau khổ. Đau khổ là một trong những sự dữ mà Người
đến để kháng cự lại. Người có lòng thương xót đối với những kẻ đau khổ, và mang
lại điều tốt lành cho họ. Người xua đuổi những sự dữ do tội lỗi, sợ hãi, xấu
hổ, thất vọng… đã ràng buộc con người.
Vấn
nạn đau khổ đã trở nên một cơ hội cho Đức Giêsu – một cơ hội để chứng tỏ về
Thiên Chúa. Bằng cách tự hiến thân cho kẻ bị đau yếu, Người mặc khải cho chúng
ta về lòng thương xót của Thiên Chúa, trước nỗi đau khổ của nhân loại.
Nỗi
đau khổ của những người khác cũng là một cơ hội cho chúng ta nữa. Chúng ta
không có khả năng chữa lành, nhưng chúng ta luôn có khả năng chăm sóc người
khác. Và chăm sóc chính là một công việc có tác dụng chữa lành. Chỉ cần hiện
diện bên cạnh người đau khổ, tự thân điều đó rất có giá trị rồi. Nhưng đây
không phải là một việc dễ dàng, bởi vì điều đó có nghĩa thay vì giải tỏa được
nỗi đau đớn của người đó, chúng ta phải chuẩn bị chia sẻ nỗi đau đó.
Chúng
ta đến với những người đau khổ với đôi bàn tay trống rỗng. Chúng ta có thể làm
được gì cho họ? Chúng ta có thể sử dụng đôi bàn tay trống rỗng đó, để an ủi họ.
Những người đau khổ mong mỏi rằng chúng ta không bỏ rơi họ, rằng chúng ta giữ
vững lập trường đứng dưới chân thánh giá, giống như Đức Maria đã làm tại Canvê.
Đơn giản chỉ cần có mặt ở đó mà thôi – mà trong một số chừng mực nào đó, đã là
gay go lắm rồi. Điều duy nhất mà người đau khổ khát khao, chính là thông truyền
cho họ sức mạnh của sự ấm áp tình người. Một người vẫn có thể được lành mạnh,
mặc dù không hề được chữa lành.
Còn
đối với nỗi đau khổ của riêng chúng ta thì sao? Đau khổ là một yếu tố không
tránh khỏi của tình trạng nhân loại, mặc dù con đường đau khổ là một con đường
chật hẹp và tối tăm. Thật ra một niềm an ủi lớn lao cho chúng ta, khi biết rằng
chính Đức Giêsu cũng đã đi trên con đường này, và Người đã đi cho đến tận cùng.
Từ khi Đức Giêsu đi qua con đường đau khổ, thì nó không còn giống như trước
nữa. Một ánh sáng rạng rỡ đã chiếu tỏa trên đó. Người chứng tỏ cho chúng ta
rằng mặc dù con đường này dẫn tới đồi Canvê, nhưng nó không kết thúc ở đó, mà
kết thúc ở sự Phục sinh. Do đó, đối với người Kitô hữu, nỗi đau khổ trở thành
một cơ hội để chia sẻ cuộc thương khó của Đức Kitô, trong niềm hy vọng được
chia sẻ trong vinh quang Phục sinh của Người.
46. Dành thì giờ
Lần
kia, có một người đàn ông đang cưỡi một con ngựa. Khi con ngựa và người cưỡi
ngựa ầm ầm phóng qua, một người nông dân già đang đứng ở cổng cất tiếng hỏi:
“Anh đang đi đâu đấy?”
Người
đàn ông la lớn trong khi phóng vụt qua “Đừng hỏi tôi, hãy hỏi con ngựa ấy."
Người
đàn ông cưỡi ngựa tiêu biểu cho người có cuộc sống với cách sinh hoạt hối hả
không ngừng. Người đó không hề có tự do; anh bị nô lệ cho công việc của mình.
Nhưng vấn đề của anh ta còn sâu xa hơn. Anh ta không kiểm soát được cuộc sống
của mình. Dường như có một sức mạnh nào đó đã nhập vào anh ta, đang dẫn dắt anh
đi. Đây không phải là một lối sống hay ho gì.
Người
ta có thể quá muộn để bắt kịp công việc, đến nỗi họ không dành ra được lấy một
phút nào cho bản thân mình. Hoạt động có thể trở thành một thứ bệnh tật. Đây là
một tình trạng nguy hiểm. Có thể người ta phải chịu đựng sự hủy hoại và suy
sụp. So với những kẻ ích kỷ, thì những người quảng đại dễ gặp rủi ro này hơn.
Chúng ta phải biết chăm sóc bản thân mình. Đây không thể là cung cấp, và cũng
không phải là thu nạp vào tất cả. Chỉ bằng cách chú tâm cẩn thận đến những nhu
cầu thể lý, tình cảm, tâm trí, và tinh thần của bản thân, thì chúng ta vẫn có
thể tiếp tục luôn là những người vui vẻ cống hiến.
Như
chúng ta nhận thấy trong đoạn Tin Mừng hôm nay, ngay cả Đức Giêsu cũng cần dành
thì giờ cho bản thân mình. Những kẻ đau yếu về thể xác và tâm trí luôn vây
quanh Người. Tất cả mọi người đều đang kêu la với Đức Giêsu. Người đang có nguy
cơ bị hao mòn. Tuy nhiên, giữa bối cảnh cuồng nhiệt đó, chúng ta vẫn đọc được
rằng “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã thức dậy, đi ra một nơi hoang
vắng, và cầu nguyện ở đó." Đức Giêsu cầu nguyện không chỉ vì bổn phận, mà
còn vì nhu cầu nữa.
Nơi
hoang vắng làm được gì cho Người? Nơi đó tạo cho Người khả năng để phục hồi
năng lực đã bị mất đi, giúp cho Người tiếp tục tập trung. Nhưng nhất là trong
suốt những giây phút cô tịch này, Người duy trì và củng cố được một điều quan
trọng nhất trong cuộc đời của Người – mối tương quan với Chúa Cha. Đây là bí
quyết cho sự thành công trong sứ vụ của Người.
Lời
cầu nguyện hữu ích nhất, chính là có được sự hiện diện của Thiên Chúa mà không
cần phải nói hoặc làm bất cứ việc gì. Chỉ khi được ngồi với sự hiện diện của
Thiên Chúa, là người ta có thể được ngồi bên cạnh lò lửa nồng ấm. Điều này nghe
có vẻ dễ dàng, nhưng trong thực hành, quả thật rất khó khăn. Bởi vì ngay khi
dừng chân lại, thì chúng ta liền cảm thấy trống rỗng, thậm chí có lẽ còn cho
rằng đó là giây phút vô dụng nữa. Hầu hết người ta đều cho rằng bản thân mình
có giá trị qua công việc. Họ cho rằng giá trị của con người tùy thuộc vào ích
lợi của người đó. Họ không biết cách đương đầu với sự nhàn rỗi và tĩnh mịch. hậu
quả là cuộc sống của họ có thể bị nông cạn và hời hợt. Mặt khác, khi nhận chìm
mình vào sự thinh lặng và tĩnh mịch với sự hiện diện của Thiên Chúa, thì những
kế hoạch của chúng ta mất đi sức mạnh nơi bản thân mình, và chúng ta cảm nhận
được giá trị đích thực của mình, không hệ tại ở sự làm việc, mà ở sự hiện diện.
Cách
thế quan trọng nhất để yêu mến Thiên Chúa, chỉ đơn giản là sống với sự hiện
diện của Người, để chỉ quan tâm đến Thiên Chúa mà thôi. Rất nhiều người có
khuynh hướng cho là lòng yêu mến Thiên Chúa ngang hàng với công tác xã hội. Tất
nhiên, lời cầu nguyện có thể trở thành một điều ích kỷ, tránh né và trốn tránh.
Nhưng lời cầu nguyện cũng có thể có tác dụng. Công việc có thể là một cách
tránh né khỏi phải cầu nguyện, khỏi phải tìm kiếm Thiên Chúa. Và nếu không có
lời cầu nguyện, thì người ta có thể dễ dàng trở thành người hoàn toàn qui hướng
về bản thân mình, tự mình hành động, hơn là trông cậy vào Thiên Chúa.
Chúng
ta có thể đánh mất chính mình trong khi làm việc. Nhưng chúng ta cũng có thể tìm
thấy chính mình trong công việc. Đây là lý do tại sao trong cuộc sống, chúng ta
cần có một nơi yên tĩnh. Chúng ta cần phải học hỏi từ gương mẫu của Đức Giêsu,
về cách kết hợp giữa hoạt động và chiêm niệm. Ra đi cầu nguyện không phải là
cách thế trốn thoát, nhưng điều này đưa đến sự tái cam kết. Cần có thời gian để
cống hiến, và cần có thời gian để tiếp nhận. Để có được một cuộc sống lành
mạnh, chúng ta cần phải quan tâm đến cả hai lối sống trên.
47. Chúa Nhật 5 Thường Niên
Anh
chị em thân mến.
Nhìn
những công nhân trong ngành xây dựng: họ chịu khó, cực nhọc, đổ rất nhiều công
sức vào các công trình. Họ làm nên những ngôi nhà thật đẹp. Họ dùng hết khả
năng mình có để tạo nên những nét thẩm mỹ cho đời. Khi kết thúc một công trình,
họ không ở lại đó để nhận những lời khen thưởng, họ cũng không lưu luyến nơi
mình làm việc mà không thể rời xa được. Cũng không có người nào đòi ở lại hay
muốn làm chủ công trình mà mình đã khó nhọc làm nên. Nhưng mọi người đều vui vẻ
ra đi khi kết thúc công việc, để đi đến nơi khác và tiếp tục công việc của mình
và cũng kết thúc rồi lại ra đi, tìm công việc mới. Đó là nghề của họ, công việc
họ phải làm như thế. Họ không bao giờ đòi làm chủ công trình mà họ làm nên, vì
họ biết mình chỉ là người thợ, công việc của họ chỉ là công việc của người thợ,
họ chỉ có trách nhiệm là hoàn thành công việc của mình thật tốt.
Chúa
Giêsu là một người thợ, không chỉ để xây dựng những ngôi nhà bình thường, nhưng
để xây dựng những ngôi nhà tâm hồn cho Thiên Chúa. Ngài làm việc cả ngày lẫn
đêm, Ngài đem niềm vui, đem sức mạnh đến cho nhiều người. Những ngôi nhà tâm
hồn đã bị hư hoại, Ngài đến làm cho nó tốt hơn. Những ngôi nhà không đứng vững
được, Ngài nâng đở dậy và làm cho nó hoạt động. Những ngôi nhà tưởng chừng như
bỏ đi, có bàn tay của Ngài, nó trở nên hữu dụng. Những ngôi nhà mọi người đều
muốn tránh xa vì sợ nguy hiểm, nhưng bàn tay của Ngài chạm tới, nó trở nên mỹ
miều và đạt được mức độ nghệ thuật cần thiết. Khi mọi người tìm đến để ca tụng,
yêu cầu Ngài ở lại thì Ngài lại ra đi. Ra đi để tiếp tục xây dựng, để làm đẹp
cho đời. Ngài không chiếm hữu cũng không đòi hỏi một sự đáp trả nào. Ngài ra đi
để tiếp tục công việc mình phải làm. "Ta phải ra đi và đến nơi khác để rao
giảng, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó."
Một
công việc hết sức bình thường của một người thợ, không có gì khác thường, công
việc mà biết bao người của mọi thời đại đều làm như thế. Nhưng công việc bình
thường như thế lại có những người không làm như thế. Chúng ta những người được
mời gọi theo chân Chúa Giêsu, được mời gọi để làm người thợ như Ngài.
Những
người thợ của thời đại mới có khi không rành nghề cho bằng thợ của ngày xưa,
nhưng lại đòi hỏi yêu sách nhiều hơn: nào là phải có điều kiện thuận tiện, phải
được phục vụ chu đáo theo ý riêng, phải được đáp ứng những nhu cầu cần thiết và
phải làm sao cho mọi người biết đến nữa chứ. Nếu cứ âm thầm lặng lẻ mà làm việc
thì những người thợ của ngày hôm nay không thể chấp nhận được.
Nhu
cầu được đáp ứng, nhưng người thợ không thể hoàn thành được công việc của mình,
mà làm cho mọi người phải thất vọng vì tay nghề quá kém mà lại thiếu chữ tín.
May
thay cũng còn có những người thợ hoàn thành tốt công việc của mình. Nhưng khi
mọi người vui mừng tán thưởng, vây quanh chúc tụng, thế là anh ta chiếm ngay
công trình mà mình vừa hoàn thành làm của riêng, không muốn rời xa nó. Càng
không muốn ra đi để tiếp tục công việc mà nghề nghiệp đòi buộc. Người thợ đã bỏ
nghề nghiệp của mình, giờ đây anh chỉ còn biết sống trong mơ, xa rời thực tế,
một ngày nào đó anh phải trả giá cho giấc mơ của mình.
Cũng
có được những người thợ của Chúa Kitô trong thời đại mới nầy. Họ noi gương Ngài
thật chính đáng, nhìn thấy công việc mình phải làm, chu toàn thật tốt, đem niềm
vui cho người và cho đời. Nhưng điều quan trọng là họ biết ra đi, biết tiếp tục
công việc cần thiết mà nhiều người đang chờ đợi họ.
Chúng
ta là những người thợ của ngày hôm nay, hiện tại chúng ta đang làm việc như thế
nào? Là những người khó khăn hay thắc mắc không chấp nhận được hoàn cảnh hiện
tại, hay chúng ta đang sống trong giấc mơ của những thành công và không muốn từ
bỏ những gì mình đang có. Nếu như thế chúng ta không phải là người thợ chân
chính.
Nếu
trong đời sống hằng ngày mà biết chu toàn trách nhiệm, chấp nhận hoàn cảnh
sống, biết tìm mọi cách để đem niềm vui cho đời và cho người với tất cả những
gì có thể làm được. Đó là chúng ta đang bước chân theo Chúa Giêsu, biết ra đi
rao giảng Tin Mừng.
Chúng
ta cùng nhau cầu xin Chúa ban ơn can đảm, để mỗi người nhìn thấy được những
việc cần phải làm và thi hành trọn vẹn.
48. Nơi hoang vắng
Một
người đàn ông kia có thói quen tự mình ra đi, vào một khu rừng hẻo lánh. Ngày
kia, vì tò mò muốn biết anh ta đi đâu, nên có người bạn đã đi theo anh vào
rừng. Khi đuổi kịp anh ta, người bạn đó thấy anh đang ngồi yên lặng trên một
khúc gỗ.
Người
bạn đó hỏi: “Anh đang làm gì thế?”
Anh
trả lời “Tôi đang cầu nguyện."
“Nhưng
tại sao anh phải đi đến nơi xa xôi này để cầu nguyện?”
“Bởi
vì tôi cảm thấy là Thiên Chúa hiện diện ở đây."
“Nhưng
phải chăng chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa ở tất cả mọi nơi, và phải chăng
ở bất cứ nơi đâu cũng chỉ có một Thiên Chúa đó sao?"
“Thiên
Chúa vẫn thế, nhưng tôi thì không."
Mặc
dù chúng ta có thể tìm thấy Thiên Chúa, và cầu nguyện với Người ở bất cứ nơi
nào và tất cả mọi nơi – trong nhà bếp, ngoài đường phố, trên xe hơi, tại nông
trại, ở nơi làm việc – tuy nhiên, thật là một ý tưởng hay, khi có một nơi đặc
biệt – bờ biển công viên, núi non, nhà thờ, hoặc ở bất cứ nơi đâu – mà tại đó,
đôi khi chúng ta có thể rút lui khỏi những bận rộn của cuộc sống. Tại những nơi
này, chúng ta cảm thấy rằng dường như Thiên Chúa gần gũi hơn và thân thiện hơn.
Toàn thể bầu khí ở đó dường như tràn ngập sự hiện diện thần thánh của Người.
Thiên Chúa nói với chúng ta qua làn gió thổi, qua âm thanh của giòng suối, qua
tiếng chim hót, nơi nét đẹp của một bông hoa dại, trong chính sự thinh lặng.
Tại
những nơi này, chúng ta cũng trở nên khác hẳn. Chúng ta trở nên trầm tĩnh hơn,
yên lặng hơn, và do đó, chúng ta cởi mở hơn với những gì mà Thiên Chúa ban cho
chúng ta, trong tất cả mọi lúc và tất cả mọi nơi.
Quả
thật là rất tốt, nếu chúng ta có được một nơi đặc biệt, một nhà nguyện nhỏ bé,
một không gian của riêng mình, tách biệt khỏi tất cả mọi chuyện khác. Một nơi
như vậy đặc biệt hữu ích trong việc yên lặng suy niệm, và nói chuyện với Thiên
Chúa từ tận thẳm sâu tâm hồn mình, trong một tương quan giữa cá nhân với cá
nhân. Ngay cả khi chỉ được ngồi trong một căn phòng đặc biệt cũng là một điều
tốt đẹp. Tại nơi thần thánh này, bạn không chỉ tìm thấy Thiên Chúa, mà còn tìm
thấy chính mình nữa. Khi quá bận rộn, quan hệ của chúng ta với bản thân mình
trở nên lỏng lẻo. Người ta không thể nhìn thấy khuôn mặt của mình, khi soi mình
xuống những giòng nước bị khuấy động.
Mặc
dù người ta có nhận ra điều đó hay không, thì tất cả mọi người vẫn đều cần đến
một không gian như vậy. Nếu muốn có một cuộc sống nội tâm, chúng ta tuyệt đối
cần đến khoảng không gian đó. Khi càng đi vào nơi cô tịch, chúng ta càng được
bình an, dù với bất cứ điều gì xảy ra. Điều tốt nhất chính là nơi đó giúp cho
chúng ta tìm thấy, hoặc tạo ra được một không gian thánh thiêng, ngay bên trong
con người của mình. Ngay cả trong khi duy trì tương quan với thế giới bên
ngoài, thì chúng ta vẫn có thể sống từ trung tâm đó.
Để
được thư giãn, chúng ta cần có một không gian – một không gian của riêng mình,
một nơi cô tịch mà tại đó, chúng ta có thể thực sự có quan hệ với con người sâu
xa nhất của mình. Nếu chúng ta không có được điều đó, nếu không gian của chúng
ta bị tước đoạt hoặc xâm phạm, nếu chúng ta chịu sức ép, hoặc có quá nhiều việc
phải làm, thì chúng ta có nguy cơ bị rơi vào sự hỗn loạn. Đây là điều mà Đức
Giêsu đang làm, khi Người thức dậy sớm, và đi đến một nơi hoang vắng để cầu
nguyện.
49. Thăm viếng
Kinh
nghiệm của những lần đi thăm viếng bệnh nhân tại nhà thương hồi còn ở Đàlạt cho
tôi thấy: Nhiều lúc, mình chỉ cần ngồi thinh lặng, lắng nghe họ kể những tâm sự
buồn, từ chuyện gia đình đến chuyện con cái, từ chuyện buôn bán đến chuyện đau
ốm. Giải tỏa được những tâm sự buồn ấy, họ cảm thấy nhẹ nhõm và tìm lại được
niềm vui sống. Thì ra điều họ cần thiết đó là sự chia sẻ và cảm thông.
Từ
kinh nghiệm kể trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay: Chúa Giêsu
chữa lành nhiều bệnh nhân, với những chứng bệnh khác nhau. Sở dĩ Ngài làm được
điều ấy vì Ngài chính là Thiên Chúa quyền năng. Còn với chúng ta thì sao?
Dĩ
nhiên chúng ta không thể làm phép lạ, không thể cứu chữa họ. Tuy nhiên chúng ta
có thể dự phần vào việc chữa lành của Chúa Giêsu, cũng như vào việc xoa dịu
phần nào nỗi đớn đau của họ, bằng cách thăm viếng an ủi họ. Đây cũng là điều
Chúa Giêsu hằng mong mỏi chúng ta thực hiện. Và nếu chúng ta thực hiện được,
hẳn Ngài sẽ chúc phúc cho chúng ta.
Chúng
ta còn nhớ, trong hoạt cảnh về ngày phán xét, Ngài phán với những người bên
hữu:
-
Hãy vào lãnh nhận phần thưởng đã được sắm sẵn cho các ngươi từ thuở đời đời, vì
khi Ta đói các ngươi đã cho ăn, khi Ta khát các ngươi đã cho uống, khi Ta mình
trần các ngươi đã cho mặc, khi ta đau yếu và bị cầm tù các ngươi đã viếng thăm.
Vì khi các ngươi làm những việc ấy cho một trong những kẻ hèn mọn nhất, thì đó
là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.
Trong
Cựu Ước chúng ta cũng thấy như thế:
-
Đừng chậm trễ trong việc thăm viếng người bệnh, vì nhờ đó mà con được quý mến.
Tại
gia đình hay tại bệnh viện, chúng ta đều có thể xoa dịu những đớn đau tinh
thần, cũng như thể xác của họ. Vậy thì chúng ta làm phải những gì cho các bệnh
nhân? Tôi xin thưa:
-
Hãy lắng nghe họ tỏ lộ tâm sự với một thái độ chia sẻ và thông cảm.
Đây
quả là một nghệ thuật, bởi vì nó đòi hỏi chúng ta phải kiên trì và chịu đựng,
nhất là trước những câu chuyện chúng ta đã nghe đi nghe lại nhiều lần. Ngoài
ra, chúng ta còn có thể đem đến cho họ một tin vui, một câu chuyện lượm lặt,
một nụ cười cảm thông, một thái độ ân cần và chăm sóc.
Tuy
nhiên, chúng ta phải chuẩn bị trước để biết mình sẽ nói những gì và sẽ nói như
thế nào? Ngoài ra chúng ta còn có thể mang theo những quà tặng như trái cây và
các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân phần nào trong việc bình phục. Tuy nhiên khi
chọn quà tặng, chúng ta cũng cần phải tế nhị, chọn quà tặng nào phù hợp với sở
thích hay nhu cầu của bệnh nhân. Những món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường
là những món quà quý giá. Ngoài ra, một cú điện thoại, một bức thư thăm hỏi
cũng sẽ giúp cho bệnh nhân rất nhiều.
Trong
phạm vi và khả năng của mình, hãy quan tâm giúp đỡ những người đau yếu như ngày
xưa Chúa Giêsu đã làm.
50. Nghỉ ngơi và yên tĩnh – Lm. Mark Link
Chủ đề: "Giữa những bận rộn của cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm
thời gian nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế"
Tạp chí Thế Giới Bên Ngoài (Outdoor World) có đăng một bài rất hay
của Barry Lopez.
Vào một buổi sáng mưa phùn, Barry thức dậy một mình đi dạo trong
rừng trước buổi điểm tâm. Vừa rảo bước giữa những dãy thông và bá hương. Barry
vừa nhớ lại một buối sáng y hệt sáng hôm nay, khi còn là chú bé con, chàng đã
được nhìn thấy ông nội một mình bước ra khỏi nhà đi dạo ngang qua chính những
hàng cây này. Khi ông nội trở về chú bé Barry hỏi thăm nội đã đi đâu và đã làm
gì. Ông nội mỉm cười, ôm choàng Barry rồi nói:
"Nào chúng ta hãy cùng đi dùng điểm tâm, cháu nhé!"
Tiếp tục bước đi dưới cơn mưa phùn, Barry gặp một quãng rừng
trống. Chàng liền quỳ xuống và đặt đôi tay lên mặt đất ẩm ướt. Điều này gây cho
chàng cảm giác rằng chàng đang hiệp nhất với toàn thể vũ trụ. Barry nhớ lại lời
ông nội đã từng dạy bảo chàng: Khi nào cảm thấy cô đơn thì nên đi bách bộ vào
rừng tìm yên tĩnh, đoạn làm bất cứ điều gì đang được thôi thúc trong lòng,
chẳng hạn như quì gối xuống đặt tay lên mặt đất.
Nửa giờ sau, khi Barry trở về nhà, ông cảm thấy như được đổi mới,
được hồi phục sức lực. Bấy giờ ông mới hiểu được lý do ông nội thường hay đi
dạo trong rừng vào buổi sớm mai. Bà của Barry có lần nói cho ông hay đấy chính
là cách thức ông nội cầu nguyện. Ông ấy luôn luôn đi sang tận mé rừng bên kia, đứng
trên bờ biển, tay thọc vào túi, lắng nghe đại dương reo.
Bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy Đức Giêsu cũng thường một mình đi
đến nơi vắng vẻ để cầu nguyện như vậy. Lý do khiến Đức Giêsu làm điều này cũng
chính là lý do Barry thường làm điều ấy, là tự đổi mới chính mình, tự hồi phục
lại năng lực cho chính mình.
Phúc Âm thánh Maccô thuật lại Đức Giêsu đã chữa bệnh cho dân chúng
suốt ngày hôm trước khiến Ngài như kiệt lực về mặt tâm linh. Về sau trong Phúc
Âm của mình, thánh Maccô giúp cho chúng ta có một cái nhìn về giá trị tâm linh
mà Đức Giêsu phải trả để có thể chữa bệnh cho dân chúng. Một phụ nữ bệnh đã 12
năm xô lấn đám đông để chạm cho được Chúa Giêsu. Ngay khi đụng được vào Ngài,
bà ta lập tức được chữa lành, tức thì, theo lời kể của thánh Maccô Chúa Giêsu
biết được năng lực ấy đã xuất ra khỏi mình (Mc 5: 30)
Việc chữa lành bệnh đã làm cạn đi năng lực của Chúa Giêsu. Tương
tự như thế, khi làm việc cho tha nhân, chúng ta cũng bị hao tổn sinh lực, thế
nên chúng ta cần phải làm như Chúa Giêsu, tức là cần phải biết hồi phục sức lực
cho mình về mặt tâm linh. Có thể chúng ta không thể làm được vịêc này bằng cách
đi một mình vào rừng. Có thể chúng ta cũng thể kiếm được chỗ yên tĩnh để ở một
mình ngay trong nhà chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn có thể làm một điều gì đó; ít
là thỉnh thoảng chúng ta dừng lại nghỉ ngơi khỏi dòng công việc để hồi tâm và
lắng nghe tiếng Chúa trong tâm hồn chúng ta. Tôi xin chứng minh điều này quan
trọng như thế nào.
Một con tàu của hải quân Anh bị tai nạn. Trong khi bị nạn, con tàu
vang lên một tín hiệu được gọi là tín hiệu "Lặng Yên." Tín hiệu này
có nghĩa là: "Hãy ngưng tất cả những gì bạn đang làm. Hãy nghỉ ngơi và xem
xét lại tình hình của mình, và chuẩn bị làm những gì thật khôn ngoan."
Trước khi tín hiệu vang lên, ít có thuỷ thủ nào biết được điều nào
là điều khôn ngoan để mà làm đây. Nhưng trong thời gian nghỉ ngơi, họ đã biết
được điều gì cần làm. Tín hiệu "Lặng Yên" đã cứu được hàng ngàn mạng
sống quân Anh và hàng triệu bảng Anh.
Trong đời sống thường nhật chúng ta thường bị rơi vào tình trạng
khẩn cấp và chúng ta cũng chả biết làm gì ngay lúc đó. Thế rồi chúng ta la
toáng lên; "chúng ta có thể làm gì đây?" Thực sự, điều tốt nhất chúng
ta có thể làm là nghỉ ngơi và yên lặng. Sự nghỉ ngơi thường tạo nên điều kiện
để ta thành công và tránh cho ta những thất bại.
Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta tự vấn lương tâm xem chúng ta
có biết noi theo những gương Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta khi Ngài còn ở
dương trần không? Chúng ta có biết thỉnh thoảng nghỉ ngơi để hồi tâm xét mình
lại không? Thỉnh thoảng chúng ta có biết dừng lại để lắng nghe tiếng Chúa trong
lòng chúng ta không?
Một hôm, nhạc sĩ André Kostelanetz đến thăm nghệ sĩ Pháp Henri
Matisse. Khi Kostelanetz đến nhà Matisse, thần kinh ông bị suy nhược và ông gần
như kiệt sức. Matisse nhận ra tình trạng sức khoẻ người bạn, ông vừa đùa vừa
nói; "Này ông bạn, ông phải tìm ra những cây Áctisô cho đời sống của
ông." Nói xong, ông ta nắm tay dẫn Kostelanetz ra khu vườn nhà ông. Khi cả
hai đến gần một đám cây Áctisô, Matisse dừng lại. Ông nói với Kostelantz là mỗi
buổi sáng sau khi làm việc một lúc ông thường đến với đám Astisô này để nghỉ
ngơi yên tĩnh. Ông chỉ đứng đó ngắm nhìn đám Acstisô. Đoạn Matisse nói thêm:
"Dầu tôi đã vẽ được trên 200 bức tranh tôi cũng vẫn luôn luôn nghiên cứu
tổng hợp những màu sắc mới cũng như tìm những bức mẫu tân kỳ. Không ai được
phép quấy rầy tôi khi tôi lặng yên đứng ngắm… điều này mang lại cho tôi nguồn
hứng mới, một sự xả hơi cần thiết cũng như một triển vọng mới cho công việc của
tôi."
Mỗi người chúng ta nên ghi vào lòng lời Matisse khuyên nhủ André
Kostelanetz. Chúng ta phải tìm những đám Actisô cho đời chúng ta, hoặc nói cách
khác chúng ta phải làm giống như Barry Lopez đã làm. Chúng ta cũng phải thỉnh
thoảng một mình đi dạo vào rừng buổi sáng. Chúng ta nên làm điều các thủy thủ
Anh Quốc đã làm trong những tình trạng khẩn cấp, nghĩa là phải nghỉ ngơi và yên
lặng. Chúng ta nên làm điều Đức Giêsu đã thường làm. Thỉnh thoảng chúng ta phải
dậy sớm dùng lời cầu nguyện để tăng cường sức mạnh cho mình.
Đó là sứ điệp của bài Phúc Âm hôm nay. Sứ điệp này thực là quan
trọng. Chúng ta có thể tóm tắt như sau;
Dù bận rộn rất nhiều trong cuộc sống, Chúa Giêsu vẫn tìm thời giờ
nghỉ ngơi và cầu nguyện. Chúng ta cũng nên làm như thế.
Chúng ta hãy kết thúc với lời khẩn nguyện:
Lạy Chúa,
Xin dừng bước chân con, Xin dừng bước chân con; Xin cho trái tim
con trĩu nặng được thư thái, Tâm trí xôn xao được lặng yên. thần kinh rã rời
được dịu lại gân cốt mệt nhoài được giãn ra.
Xin dạy cho con nghệ thuật Dùng những lúc nghỉ ngơi đôi ba phút, trở
lại tiếp xúc với lòng mình, lắng nghe tiếng Chúa và từ đó rút ra nguồn sáng
mới, sức mạnh mới và lòng dũng cảm mới.
lạy Chúa, xin hãy dừng bước chân con, xin hãy dừng bước chân con.
51.
Chúa Giêsu, niềm hy vọng của loài người.
Ở
một phòng thí nghiệm, người ta thử 10 con chuột cho lội trong hồ kiếng không
chỗ bám. Lúc đầu cho năm con vào, khoảng 8 giờ sau thì chúng chìm. Họ cho một
đợt 5 con kế tiếp vào, khoảng 7 giờ thì vớt ra cho nghỉ. Sau đó lại cho vào hồ
tiếp. Ngạc nhiên thay, chúng lội suốt 20 giờ mới bắt đầu chìm. Lý do nào mà
chúng có sức lội hơn gấp đôi đồng bạn? Các nhà khoa học nghiệm ra rằng: sở dĩ
chúng lội được như vậy là vì chúng có niềm hy vọng nhờ vào kinh nghiệm được cứu
thoát lần trước. Cuộc sống của chúng ta cũng vậy. Sở dĩ chúng ta vượt qua được
những khó khăn trong cuộc sống là nhờ biết hy vọng. Ai không có hy vọng thì sẽ
bị đau khổ và thử thách của cuộc sống nhấn chìm.
Người
kitô hữu của chúng ta có niềm hy vọng rất lớn lao: niềm hy vọng này không phải
hảo huyền, tạm bợ, không phải hy vọng nơi vật chất mau qua chóng tàn nhưng là
hy vọng vào Thiên Chúa, Đấng rất yêu thương chúng ta và đã hy sinh mạng sống vì
chúng ta. Cuộc sống trần thế này luôn có những khó nhọc, cam go theo từng giai
đoạn, theo từng hoàn cảnh của con người. Chẳng hạn: trẻ phải tập đi vất vả,
phải đến trường, lo học hành, lớn phải lao động cực khổ để có miếng cơm manh áo
để lo cho gia đình và xã hội. Đó là chưa nói đến những khó khăn đột xuất khác.
Trong
bài đọc I, chính thánh Gióp cũng phải chịu nhiều đau khổ, cuộc sống con người
cũng chẳng phải là là thời khổ dịch sao, số phận ê chề, ngày đời thấm thoát như
thoi đưa, cuộc đời con người chỉ là hơi thở chẳng thấy hạnh phúc. Niềm hạnh
phúc thánh Gióp trông chờ chỉ có được nơi Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đem lại
niềm hy vọng cho dân Israel. Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa hứa ban để cứu
nhân loại. Cụ thể trong bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đi đến đâu là đem tin mừng và
cứu chữa tới đó. Vừa mới giảng dạy và trừ quỷ ở hội đường Caphanaum, Chúa Giêsu
đến nhà Phêrô để chữa cho bà mẹ vợ của ông đang lên cơn sốt. Ngày hôm đó, vì là
ngày Sabat nên ngườI Do thái nghỉ ngơi theo luật định. Nhưng khi vừa hết ngày
Sabat ngườI ta lạI tuôn đến với chúa giêsu, đem theo mọi kẻ ốm đau bệnh tật và
những kẻ bị quỷ ám để Chúa Giêsu chữa lành và giải thoát họ.
Sáng
sớm hôm sau, khi Đức Giêsu còn đang cầu nguyện thì người ta đã kéo đến tìm,
nhưng Chúa Giêsu biết nhiệm vụ của mình là đem Tin mừng, đem niềm hy vọng, niềm
hạnh phúc đến cho mọi người nên Ngài không ở lại một chỗ đó mà tiếp tục đi đến
những hội đường khác ở những miền khác nữa.
Trong
bài đọc II thánh Phaolô rao giảng Tin mừng, đem niềm hy vọng và sự sống cho thế
giới. Niềm hy vọng và sự sống đó phát xuất từ Đức Kitô. Ngài không chỉ đem hạnh
phúc cho con người ở đời này mà còn cho cả đời sau nữa. Vì Tin mừng đó mà thánh
Phaolô sẵn sàng hy sinh tất cả để ngườI ngườI được hạnh phúc.
Chúng
ta là người kitô hữu, chúng ta có đặt hết niềm hy vọng đời mình vào Chúa Giêsu
hay chưa, hay chúng ta đặt hy vọng nơi của cải, danh vọng địa vị. Nếu chúng ta
đặt hy vọng nơi Chúa rồi, chúng ta hãy tiến thêm bước nữa là hàng ngày xét mình
xem chúng ta đã sống với niềm hy vọng đó như thế nào, có sống vì Chúa Giêsu như
thánh Phaolô chưa, có luôn nhớ tới Chúa, sống cho Chúa và nói về Chúa cho những
người mình gặp gỡ hay chỉ giữ luật cho khỏi bị phạt thôi! Mỗi người chúng ta
hãy quyết tâm đi lễ thường xuyên và đối xử tốt với những người xung quanh để họ
nhận ra niềm hy vọng và hạnh phúc thật mà người kitô hữu đang theo đuổi để họ
cũng được niềm hy vọng ấy và cùng chúng ta thờ phượng một Thiên Chúa tình yêu.
Lạy
Chúa Giêsu là hy vọng của đời con, là niềm trông cậy, là nguồn hạnh phúc cuộc
đời con. Xin Chúa ban ơn giúp con sống niềm hy vọng thật trọn hảo để mai sau
được về cùng Chúa hưởng phước Thiên đàng. Amen.
52. Tình thương
Chúa
Giêsu khởi đầu công cuộc cứu chuộc bằng việc giảng dạy và làm phép lạ, Ngài mới
bắt đầu nói và làm nhưng chưa mạc khải rõ ràng Ngài là ai, cho nên, trước con
người của Ngài, nhiều người ngỡ ngàng, không biết xếp Ngài vào hạng người nào:
Ngài có phải là một nhà chuyên môn làm phép lạ không? Là một ngôn sứ, là Elia
hay là một Mêsia, cứu tinh của dân tộc Do Thái? Trong khi đó Chúa Giêsu giữ thái
độ im lặng, vì Ngài biết người Do Thái đang quan niệm sai lầm về Ngài, cho nên
Ngài tế nhị dùng việc làm để minh chứng dần dần sứ mệnh của Ngài, một trong
những việc làm đó được kể lại trong bài Tin Mừng: Ngài làm phép lạ chữa bệnh
sốt rét cho bà nhạc mẫu của ông Phêrô và tất cả những bệnh nhân đến với Ngài
đều được Ngài cứu chữa cho khỏi hết. Với những việc Chúa làm đó cho chúng ta
hiểu thêm về uy quyền Thiên Chúa của Chúa Giêsu trên các bệnh nhân.
Thiên
Chúa tạo dựng con người và Ngài có quyền trên thân xác và linh hồn con người,
có quyền trên thân xác tức là có quyền trên bệnh tật, Ngài có thể chữa lành mọi
thứ bệnh tật dễ dàng, giống như một kỹ sư chế tạo ra một cái máy, chắc chắn ông
là người hiểu biết và sửa chữa chiếc máy ấy rành hơn bất cứ ai. Chúa Giêsu cũng
biết chúng ta như vậy, Ngài là Thiên Chúa, nên Ngài dễ dàng sửa chữa những trục
trặc nơi con người, tức là chữa lành mọi bệnh tật nơi con người.
Riêng
phép lạ chữa cho bà nhạc mẫu của Phêrô khỏi bệnh sốt rét có ý nghĩa gì? Chúng
ta khó hiểu được ý Chúa muốn gì khi làm phép lạ này. Nếu hiểu rằng mỗi phép lạ
Chúa làm thường là để tăng cường lòng tin, thì ở đây cũng thế, Chúa muốn tăng
cường lòng tin của gia tộc Phêrô và nhất là đối với Phêrô. Đàng khác, nếu xét
về quan niệm của người Do Thái, họ vẫn coi bệnh sốt rét là hình phạt của Thiên
Chúa, và bệnh sốt rét là do ma quỷ làm, thì Chúa Giêsu làm phép lạ này để minh
chứng cho mọi người biết Ngài chính là Đấng mà ngôn sứ Isaia đã loan báo, là
Đấng đến để cứu gỡ con người khỏi sa lầy đau khổ bởi tội lụy, bởi điều dữ. Như
vậy, cơn sốt rét tượng trưng cho nhân loại đã bị thần dữ làm kiệt quệ đến sống
dở chết dở mà chỉ có Chúa mới có thể chữa lành được. Hơn nữa, phép lạ này cũng
diễn tả tình yêu Thiên Chúa. Dĩ nhiên hành động nào của Chúa cũng là tình yêu,
nhưng ở đây thể hiện rõ hơn: nơi đâu Chúa Giêsu đến rao giảng thì ở đó những
con người khổ đau đều ngỡ ngàng, tìm thấy tin yêu và được cứu chữa. Đây cũng là
bài học nhắc nhở chúng ta.
Phần
đông chúng ta không thể mang lại sức khoẻ thể xác cũng như sự thuyên giảm đau
đớn cho những anh em bệnh tật, điều đó đã có các bác sĩ, y tá, nhưng chúng ta
có một cái gì sâu xa hơn, quý giá hơn để mến tặng những anh em ấy, đó là khi
tiếp xúc, thăm viếng, chúng ta đem lại cho họ một niềm hy vọng, cống hiến cho
họ một chân lý khả dĩ trả lời cho mầu nhiệm đau khổ, và mang lại cho họ sự an
ủi chân thật.
Chẳng
hạn như lời tự thuật của một người kia đã kể cho linh mục Samsông và linh mục
này đã kể lại trong một bài giảng ở nhà thờ Đức Bà Paris như sau: “Tôi đau rất
nặng, người ta đem tôi vào bệnh viện, không ai săn sóc tôi cả, ngoại trừ một
chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và hết tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất
khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì
thế?”, chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông." Chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi
đủ làm cho tôi bấy lâu nay không biết Chúa, bây giờ tôi biết Chúa, tôi thấy
Chúa nơi con người chị y tá ấy, giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự
săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy,
tôi đã gặp Chúa."
Một
thí dụ khác, bác sĩ Longghê là một người Pháp đã từng phục vụ ở Việt nam cách
đây mấy mươi năm và cũng nổi tiếng như bác sĩ Tôm Đulây, người Mỹ, đã phục vụ ở
Đông Nam Á. Ông tận tụy săn sóc, yêu thương các bệnh nhân, bất kể giai cấp, tôn
giáo, chủng tộc, ngày cũng như đêm. Khi có người hỏi vì sao ông yêu thương bệnh
nhân như vậy? Vì sao ông có thể bỏ ăn bỏ ngủ vì bệnh nhân, xem bệnh nhân là
trên hết? Ông trả lời: “Vì thấy Chúa Giêsu trong mỗi người bệnh." Mỗi sáng
khi đi dưlễ, bệnh nhân lương giáo, ai muốn đi đều được ông cho đi xe của ông,
mỗi chiều Chúa nhật, ông lại đưa các bệnh nhân đi chơi, tham quan nơi này nơi
nọ, và mỗi tối, ông lần hạt chung với các bệnh nhân, vì là người Pháp, về tiếng
Việt ông chỉ thuộc kinh Lạy Cha, Kính Mừng, Sáng Danh đủ để lần hạt. Ít lâu
sau, Longghê trở về Pháp, vào chủng viện, làm linh mục và tình nguyện sang phục
vụ những người nghèo khổ ở giáo phận Cần Thơ. Nhưng tiếc thay, sau khi chịu
chức, ông bị bệnh và qua đời trước khi tới nơi mong ước.
Nếu
chúng ta không bắt chước được bác sĩ Longghê, thì chúng ta có thể bắt chước
được chị y tá trên đây, cầu nguyện cho các bệnh nhân. Tuy nhiên, cụ thể hơn,
nếu chúng ta có điều kiện, chúng ta hãy đi thăm hỏi, an ủi những bệnh nhân.
Trong lúc đau bệnh, nhất là bệnh lâu ngày lâu tháng, người bệnh thường lo lắng,
buồn phiền, chán nản và giảm sút lòng tin... chúng ta hãy cảm thông, đối xử tử
tế và giúp đỡ họ. Chúng ta hãy noi gương Chúa Giêsu, Đấng không hề bệnh tật gì,
đã mang lấy bệnh tật của mọi người, bao nhiêu bệnh nhân đến với Chúa, Chúa
không bao giờ xua đuổi hay làm cho họ phải thất vọng, đau khổ, nhưng Chúa đã an
ủi, thương yêu cứu chữa họ, vì thế, chúng ta hãy đến với các bệnh nhân, họ rất
cần đến tình thương, chúng ta hãy đem tình thương đến cho họ.
53. "Người đến gần cầm tay nâng bà
dậy."
(Suy niệm của Noel Quesson)
Bác sĩ Tissot người Thuỵ sĩ rất nổi tiếng. Ông theo đạo Tin Lành
nhưng luôn tôn trọng nếp sống của người Công Giáo. Một hôm ông tới chữa bệnh
cho một bà ngoại quốc, bà đang sốt nặng và tỏ ra hoảng hốt cáu kỉnh. Là người
Công giáo, bà đòi gặp một linh mục trước rồi mới chịu để bác sĩ chích thuốc
chữa bệnh. Sau khi được giải tội và xức dầu, bác sĩ Tissot thấy bệnh nhân bình
tĩnh dịu dàng khác thường. Sáng hôm sau, bác sĩ Tissot trở lại, thấy bà giảm
sốt và bắt đầu bình phục bác sĩ Tissot thường nói chân thành: "Nhiều bệnh
nhân Công giáo đã lành bệnh nhờ bí tích xức dầu."
Tin Mừng hôm nay cho ta thấy Chúa đến giường bà mẹ vợ ông Simon
đang sốt nặng, cầm tay đỡ bà dậy. Được khỏi ngay, bà chỗi dậy lo việc phục vụ
Chúa và các môn đệ. Chúng ta có thể nghĩ tới Chúa Giêsu đã thực hiện bí tích
xức dầu cho bà. Mọi bí tích đều do Chúa thiết lập và cử hành trước. Cử hành bí
tích là làm lại cử chỉ của Chúa Giêsu. Kèm theo một lời của Chúa hay lời cầu
nguyện của Giáo hội. Hai yếu tố ấy làm thành bí tích, đem lại ơn ích cho người
lãnh nhận. Riêng bí tích xức dầu chủ yếu giúp người tín hữu trong cơn đau yếu,
để họ trung thành với niềm tin không nao núng trong thử thách cả và thể xác lẫn
tinh thần, vì xác hồn liên hệ mật thiết với nhau.
Khi thiết lập bí tích này, Chúa để ý tới những bệnh nhân, Chúa cảm
thông nỗi đau buồn của họ. Chúa muốn chữa lành tâm hồn tội tình con người
"bệnh" bằng bí tích Hoà giải, chữa lành và tăng sức con người đau yếu
bằng bí tích xức dầu. Chỉ khi nào con người trải qua cái chết, đi vào vinh
quang phục sinh, lúc đó mới hết những khuyết tật nơi thân xác và tinh thần.
Chúa đã đến với những người đau khổ để nhắc cho họ nhớ chuyện đó.
Bà mẹ ông Simon được chữa lành bệnh. Bà chỗi dậy và phục vụ mọi
người. Hậu quả của căn bệnh phần xác là nằm liệt, không làm việc được, không
phục vụ được ai. Thế mà Chúa lại luôn đòi chúng ta phải phục vụ anh em, làm đầy
tớ, hy sinh vì người khác. Để giúp chúng ta có lại khả năng phục vụ, Chúa đã
ban cho ta bí tích Xức Dầu. Có những lúc thân xác ta không mang bệnh nạn, nhưng
mất khả năng phục vụ, chính là lúc chúng ta thiếu tinh thần phục vụ, thiếu tinh
thần bác ái, ta phải mau mắn chạy đến cầu xin Chúa chữa trị.
Tương đương với bệnh tật là những ám ảnh do tà thần được phép
Chúa, thử thách lòng trung kiên của chúng ta với Chúa.
Lạy Chúa, xin Chúa xức dầu Thánh Thần cho chúng con, chữa lành tâm
hồn và thân xác chúng con, cho chúng con luôn luôn có đủ khả năng và lòng nhiệt
thành phục vụ anh chị em chúng con.
54. Đến
đem sự giải thoát
Một
trong những sứ mạng quan trọng của Chúa Giêsu khi đến trần gian này là loan báo
Tin mừng cho con người. Người không loan báo bằng lời nói suông nhưng bằng
những việc làm đem lại sự giải thoát cho con người. Người giải thoát con người
khỏi những bệnh hoạn tật nguyền phần xác. Hơn thế nữa, Người đem đến cho con
người sự giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết.
Trong
quá trình đi rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu không dừng lại ở bất cứ nơi nào. Vì
Người luôn muốn cho tất cả mọi người đều được hưởng nhờ sự giải thoát ấy. Cho
nên, sau khi đã đem sự giải thoát ấy cho những người ở thành Capharnaum mặc dù
được các Tông đồ báo: "Mọi người đang tìm Thầy đấy" (Mc 1, 37) Chúa
Giêsu đã trả lời với họ: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung
quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó"
(Mc 1, 38)
Đoạn
Tin mừng tuần trước chúng ta thấy dân chúng đã quá đỗi kinh ngạc về những lời
giảng dạy của Chúa Giêsu. Bởi lẽ, Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư (Mc 1, 22).Thẩm quyền của Chúa Giêsu không phải để
cai trị hay để đàn áp con người nhưng hoàn toàn để phục vụ và hiến mạng sống vì
và cho con người.
Cảm
nhận được điều ấy nên Thánh Phaolô trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô đã
viết: "Thật vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự
hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi
không rao giảng Tin Mừng" (2Cr 1, 16). Sau khi trở lại thánh nhân đã thấy
rằng chính Chúa Giêsu đã giải thoát ông khỏi những điều không đúng. Do đó, suốt
cả đời còn lại thánh nhân không ngại khó miễn sao cho Tin mừng của Chúa Giêsu
được càng nhiều người biết đến càng tốt.
Mỗi
người chúng ta không nhiều thì ít cũng đã và đang được đón nhận sự giải thoát
cao quý của Chúa Giêsu. Ước gì qua cách sống đạo của chúng ta mỗi ngày được
tiến bộ hơn. Sự tiến bộ nhờ biết gắn bó nhiều với Chúa Giêsu qua việc trung
thành tham dự Thánh lễ Chúa nhật và các giờ Kinh sáng tối. Được như vậy là
chúng ta đang cùng với Chúa Giêsu loan báo Tin mừng cho nhiều anh chị em xung
quanh.
55. Đổi mới bản thân
Một
triết gia bên Ấn độ, ngồi kiểm điểm lại cuộc đời, đã ghi lại như sau:
Thoạt
tiên ở tuổi thanh xuân đầy nhiệt huyết, tôi đã sốt sắng kêu xin thượng đế cho
tôi có đủ nghị lực và cơ hội để thay đổi cả thế giới.
Đến
tuổi trung niên, tôi bỗng nhận ra nửa đời trôi qua, mà chẳng thay đổi được một
ai, tôi liền điều chỉnh lời cầu của tôi với thượng đế.
Khi
ấy tôi chỉ xin Ngài cho tôi đủ khả năng hoán cải những người tôi gặp thường
ngày, khởi đi từ những người thân yêu trong gia đình cũng như những người bạn
tôi hằng tiếp xúc.
Thế
rồi đến nay, tôi thấy mình đầu tóc bạc phơ và mộng đẹp không còn nữa. Tôi chỉ
xin với thượng đế:
-
Lạy Chúa, ít nữa xin ban cho con ơn biến đổi chính mình con.
Tiếc
rằng tôi đã không xin với thượng đế điều đó ngay từ tuổi thanh xuân, khiến tôi
bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội để đạt được sự hoàn thiện nơi chính bản thân mình.
Từ
câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy:
Chúa Giêsu là một nhân vật hết sức đặc biệt.
Trước
hết trong phong cách giảng dạy.
Phúc
âm đã ghi lại Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền, chính vì thế mà Ngài đã lôi
cuốn hấp dẫn được đông đảo quần chúng đến nghe Ngài.
Tiếp
đến là những phép lạ Ngài làm.
Đoạn
Phúc âm hôm nay cho hay: Bà mẹ vợ Phêrô đang sốt nặng, thế mà Ngài chỉ cần động
tới là bà liền được khỏi, trỗi dậy tiếp đãi Ngài. Hơn thế nữa,Ngài còn chữa
lành mọi thứ bệnh hoạn tật nguyền, cũng như xua trừ ma quỉ.
Tất
cả những phép lạ đều nói lên rằng: nơi Ngài có một uy quyền tuyệt đối và uy
quyền tuyệt đối này thuộc về Thiên Chúa. Hay nói cách khác: Ngài chính là Thiên
Chúa quyền năng.
Thế
nhưng, nếu suy nghĩ một chút, chúng ta còn nhận thấy: Ngài không phải chỉ là
một vị Thiên Chúa quyền năng mà còn là một người như chúng ta, một người như
mọi người.
Trước
hết, Ngài cũng đã gặp phải những cám dỗ, những thử thách.
Chẳng
hạn tại hoang địa, sau khi đã ăn chay 40 đêm ngày, ma quỉ đã cám dỗ Ngài biến
những hòn đá trở nên bánh để ăn, rồi Ngài còn bị cám dỗ thử thách Thiên Chúa,
cũng như chiếm hữu những vinh quang phù phiếm. Thế nhưng Ngài đã chiến thắng
tất cả để làm gương cho chúng ta.
Tiếp
đến, Ngài còn là một người khiêm nhường.
Chính
Ngài, mặc dù không hề vướng mắc một chút bùn nhơ tội lỗi nào cả, nhưng Ngài
cũng đã đến để xin Gioan làm phép rửa để biểu lộ tâm tình sám hối.
Nhưng
quan trọng hơn cả, Ngài còn có một trái tim biết rung động, một tấm lòng nhân
hậu bao dung.
Chính
vì thế, Ngài đã thực hiện những phép lạ để xoa dịu những đớn đau của những
người mà Ngài có dịp tiếp xúc với. Cũng như đã mở rộng vòng tay đón nhận và tha
thứ cho những kẻ tội lỗi.
Hãy
cố gắng sửa đổi bản thân, để nhờ đó chúng ta trở thành những chứng nhân sống
động cho tin mừng, đồng thời nhờ đó, lôi cuốn người khác trở về cùng Chúa.
56. Yêu bệnh nhân
Trong
một giai thoại về Đức Thích Ca, người ta kể lại rằng: một hôm, ngài rơi vào tay
một tên cướp khét tiếng. Sau khi hành hung ngài, tên cướp dọa sẽ giết ngài.
Trước khi chết, ngài xin tên cướp một ân huệ. Hắn đồng ý. Ngài bảo hắn: “Ngươi
hãy chém đứt một cành cây." Thoáng một cái, tên cướp vung kiếm chém đứt
một cành cây. Đức Thích Ca liền nói: “Nào, ngươi hãy tháp cành cây cho liền vào
thân cây." Tên cướp nói: “Ngươi quả là tên khùng nên mới nghĩ rằng ta có
thể làm được điều đó." Đức Thích Ca liền dạy cho tên cướp một bài học:
“Ngươi mới là tên khùng khi ngươi nghĩ rằng sức mạnh của con người là gây
thương tích và phá hủy. Người có sức mạnh thật sự là người chỉ biết sáng tạo và
chữa lành."
Lời
nói trên đây của Đức Thích Ca quả thực đã ứng dụng cho chính Chúa Giêsu. Ngài
đến trần gian để phục hồi lại những gì đã hư mất. Các sách Tin Mừng đã ghi lại
rất nhiều phép lạ của Ngài. Thường thấy hơn cả là những phép lạ chữa lành bệnh
tật. Chẳng hạn như bài Tin Mừng hôm nay. Nhưng những phép lạ chữa lành bệnh tật
Ngài thực hiện không chỉ nhằm chữa trị những đau thương nơi thân xác con người
mà còn nói lên một thực tại cao siêu hơn. Đó là bày tỏ tình yêu thương của
Thiên Chúa và mời gọi con người đón nhận và trao ban tình yêu thương ấy.
Quả
thực, tất cả đều do lòng nhân từ thương yêu của Chúa. Chúa làm phép lạ không
phải để tạo cho mình một uy thế trong xã hội, cũng không hẳn là để tỏ uy quyền
Thiên Chúa của Ngài, nhưng là để chứng tỏ tình yêu thương của Ngài. Nói rõ hơn,
với tư cách là Đấng Cứu Thế, Chúa đến trần gian để giải thoát con người khỏi
mọi khốn khổ phần hồn cũng như phần xác. Vì thế, Chúa cảm thông với những đau
yếu tật bệnh của con người. Thấy họ, Chúa không xa tránh nhưng đến gần họ và
chữa cho họ.
Hơn
nữa, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành bệnh tật, Ngài còn chữa trị tâm hồn con
người. Ngài muốn biến tâm hồn ích kỷ của con người thành tâm hồn quảng đại biết
yêu thương. Đó là ý nghĩa sâu xa của những phép lạ Chúa Giêsu làm. Trong suốt
thời gian Chúa rao giảng, các bệnh nhân và những kẻ tật nguyền luôn thu hút
được sự chú ý và tình thương của Ngài. Khi làm những phép lạ để chữa lành họ,
Chúa luôn có những cử chỉ, những lời nói an ủi, khuyến khích để gợi lên hay
củng cố niềm tin của họ. Bài học “Hãy trao tặng những người bệnh tật và những
kẻ xấu số những cử chỉ và những lời nói yêu thương chân tình” chúng ta có thể
học nơi Chúa Giêsu.
Tại
một trung tâm y tế ở miền nam tiểu bang Ca-rô-lai-na, Hoa Kỳ, hình ảnh đầu tiên
mà các bệnh nhân có thể thấy được trong ngày, đó là nụ cười của cụ bà
Phờ-lo-ren Hớt (Florence Hert). Từ 6 giờ sáng, cụ đến bệnh viện thăm hỏi các
bệnh nhân và an ủi thân nhân của họ. Ngày nào cũng thế trong suốt nhiều năm
trời. Cụ thường nói với các bệnh nhân: “Năm nay tôi đã 90 tuổi, nếu tôi còn có
thể đến đây mỗi ngày với nụ cười trên môi, thì các bạn cũng thế, các bạn cũng
có thể cười như tôi. Nào, các bạn hãy thử đi."
Một
trong những cách thế hữu hiệu nhất để xoa dịu nỗi đau khổ của chính mình, đó là
ra khỏi chính mình để tìm cách làm cho người khác bớt đau khổ. Đau khổ được
chữa trị bằng sự chấp nhận đã đành, nhưng còn được xoa dịu bởi những nghĩa cử
mà chúng ta làm cho người khác. Cụ bà trong câu truyện trên, hẳn không phải là
một người không đau khổ. Tuổi già, bệnh tật, cô đơn, đau khổ… có ai thoát khỏi
phần số đâu. Thế nhưng với nụ cười luôn nở trên môi, với đôi chân dù phải bước
đi khập khiễng, với tấm lòng chia sẻ chân thành… cụ đã biến ra khỏi chính mình
để đến với tha nhân…
Ra
khỏi chính mình, đó là bước đầu tiên giúp chúng ta thắng vượt được nỗi khổ đau
riêng tư của mình. Có ai trong chúng ta thoát khỏi những dằn vặt, bất an của
khổ đau? Mỗi người là một nỗi khổ. Mỗi ngày qua đi là một cơn đau. Ai trong
chúng ta cũng có một thập giá để vác. Sức nặng của thập giá ấy sẽ vơi đi, sẽ nhẹ
bớt đi, nếu chúng ta biết ra khỏi chính mình để đến với tha nhân, xoa dịu nỗi
khổ đau của họ. Một cụ già 90 tuổi, chân đi khập khiễng, vẫn có thể ngày ngày
mang nụ cười và niềm an ủi lại cho người khác. Anh chị em và tôi, chúng ta có
thể hé mở, dù chỉ một nụ cười hay không?
Thế
giới của chúng ta, xã hội của chúng ta, có lẽ đang cần đến những cái mỉm cười
ấy hơn bất cứ một cuộc truyện trò tào lao nào. Sự giúp đỡ nhân đạo có thể sẽ
không bao giờ đến với những người đang cần đến, hoặc nếu có đến cũng chỉ đến như
một quà tặng vô danh. Điều thiết thực nhất đang ở trong tầm tay mỗi người chúng
ta, và mọi người đều chờ đợi, có lẽ chỉ là một nụ cười, một lời an ủi, một mẩu
bánh nhỏ… nhưng được trao ban với tất cả lòng yêu mến. Đó là những điều tất cả
chúng ta ai cũng có thể làm được.
Giữa
biết bao nhiêu con người đau khổ, xin cho sự hiện diện của người Kitô trở thành
dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa đối với con người. Xin cho mỗi người Kitô
trở thành bàn tay đưa ra nối kết con người với tình thương Thiên Chúa.
57. Con đã viếng thăm Ta - Athur Tonne
Vị
linh mục dừng lại nghé thăm một gia đình nghèo ở vùng núi Kentucky. Vừa khi
linh mục chào bà mẹ. Bà ứa nước mắt kêu lên: "Ôi thưa cha, con vừa được
biết cha đến thăm hôm nay. Con tin cha có thể giúp con." Bà dốc bầu tâm
sự; bao lo âu, bao rắc rối. thỉnh thoảng vị linh mục chêm vào một vài lời khích
lệ; nhưng ngài cảm thấy hoàn toàn bất lực trước khổ tâm của bà. Kể xong, bà
ngừng một lát rồi kêu lên: "Ôi thưa cha, cha giúp con nhiều quá. Cha đã
giải quyết cho con mọi vấn đề." Vị linh mục bối rối, ngài chẳng giải quyết
vấn đề nào cả. Rồi ngài bắt đầu hiểu ra: Bà chỉ cần và mong được thông cảm.
Bài
Tin Mừng hôm nay kể rằng; Chúa Giêsu chữa nhiều bệnh nhân, những chứng bệnh
khác nhau. Người làm được vì Người là Thiên Chúa. Làm sao chúng ta có thể làm
đuợc như Chúa? Chúng ta không thể làm phép lạ, không thể chữa bệnh đụng tới
bệnh nhân, bằng lời nói hay bằng cử chỉ. Tuy nhiên, chúng ta có thể dự phần vào
việc chữa bệnh của Đức Kitô.
Chúng
ta có thể thăm người bệnh, như vị linh mục trong câu chuyện, chúng ta cảm thấy
bất lực, đến ngớ ngẩn trước sự đau đớn, khổ tâm, thiếu thốn mà chúng ta không
thể làm thuyên giảm hay chữa bệnh.
Đức
Giêsu hứa Thiên đàng cho những ai viếng thăm người bệnh. "Ta đau các con
đã viếng thăm… Hãy đến. " Ngay Cựu ước cũng thúc dục chúng ta: "Đừng
chậm trễ thăm người bệnh vì nhờ thế con được quí mến." Thăm viếng người
bệnh một cách thân tình, vui vẻ tại nhà hay trong bệnh viện; có thể xoa dịu
tinh thần, trợ lực thể xác. Chúng ta có thể làm gì cho người bệnh; lắng nghe
khi họ cần biểu lộ tâm sự. Thông cảm khi lắng nghe là một nghệ thuật cần trau
dồi, phát triển, một người đến thăm biết thông cảm khi họ đem nổi đau của nạn
nhân vào lòng mình. Họ biết chia sẻ niềm đau xót dẫu rằng họ đã nghe câu chuyện
cả ngàn lần.
Chúng
ta có thể đem đến một tin vui một sự kiện xây dựng hoặc nụ cười, một câu chuyện
trên Tivi hay báo chí. Cắt một bài vắn trong báo hay tạp chí và đọc cho bệnh
nhân nghe. Nhưng nhớ, bạn phải chuẩn bị trước, bạn sẽ nói gì và nói làm sao.
Bông,
trái cây, các loại đồ ăn cũng giúp bệnh nhân mạnh tinh thần. Khi chọn quà bạn
cần dùng óc tưởng tượng cố gắng để món quà thích hợp với tư cách, khung cảnh,
nghề nghiệp và sở thích của bệnh nhân. Món quà đơn giản, không xa xỉ lại thường
là quí giá.
Bạn
đừng nói suông: "Tôi sẽ cầu nguyện cho." Tốt hơn nên nói; "Tôi
sẽ cầu nguyện cho anh (chị) trong Thánh lễ hôm nay… "Sáng mai tôi sẽ cầu
nguyện cho anh (chị)." Đừng nói dài dòng. Hãy giữ giờ thăm, nội qui của
bệnh nhân. Hãy tế nhị, hãy biết quan tâm lo lắng cùng Chúa Kitô trong giới hạn
của bạn, nhưng đầy tình thương.
Xin
Chúa chúc lành cho bạn.