CÁC BÀI
SUY NIỆM
CHỦ NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN - A
CHỦ NHẬT 19 THƯỜNG NIÊN - A
Lời
Chúa: 1V. 19, 9a.11-13a; Rm. 9, 1-5; Mt. 14, 22-33
MỤC LỤC
1. Trên sóng biển
2. Con thuyền Giáo Hội
3. Biển đời.
4. Một điểm tựa duy nhất trên cõi đời Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
5. Đừng sợ
6. Kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu
7. Uy quyền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
8. Lạy Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con
9. Giá của một ly sữa
10. Dìu nhau tiến bước – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
11. Khi hành trình đức tin có sóng gió
12. Chúa Giêsu đi trên mặt biển
13. Những cơn sóng
14. Hãy an tâm vì luôn có Chúa Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
15. Thầy đây, đừng sợ
16. Yêu mến và tín thác vào Chúa Giêsu
17. Xin cứu con
18. Đã tin và chưa tin - Lm Phêrô Nguyễn Hương
19. Con tưởng! – Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
20. Con đường của Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
21. Xin cho con đi trên mặt nước.
22. An toàn trên biển cả.
23. Nơi ẩn náu duy nhất – Achille Degeest.
24. Phép lạ.
25. Thầy đây mà! Đừng sợ!
26. Có dừng chân nhưng không dừng lại
27. Hãy lưu lại trên thuyền – Charles E. Miller.
28. Xin cứu tôi.
29. Gió trở nên yên lặng.
30. Lạy Chúa, ngài là nơi con nương ẩn
31. Chúa ở đâu khi chúng ta đau khổ?
32. Chúa đi trên biển – R. Veritas.
33. Đi trên mặt biển.
34. Đức tin trưởng thành – Lm Vũ Đình Tường
35. Lội nước – Lm Vũ Đình Tường
36. Xin cứu tôi.
37. Quyền phép.
38. Cam kết cho đến chết.
39. Hành trình đức tin – Thiên Phúc
40. Lạy Thầy, xin cứu con.
41. Đức Giêsu đi trên mặt biển Hồ
42. Sức mạnh của đức tin
43. Chúa cần lòng tin
44. Chú giải của Noel Quesson.
45. Kiên vững trong đức tin và cầu nguyện
46. Chúa đi trên biển
47. Tôi tin
48. Lạy Thầy! xin cứu con – R. Veritas
49. Xin cứu con – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
50. Đừng sợ
51. Chúa Giêsu quyền phép
Cứ yêm tâm! Thầy đây đừng sợ Lm Đinh Tất Qúy
Thiếu nhi chúng con yêu quí Lm Đinh Tất Qúy
Đức Kitô, Đấng Ban Bình An Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Trước sự hiện diện uy quyền ... Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Hãy tìm gặp Thiên Chúa Lm Giuse Đinh lập Liễm
Khi hành trình đức tin có sóng gió Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Chúa Giêsu đi trên mặt biển Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Sóng đời Trầm Thiên Thu
Đừng sợ, Thầy đây mà Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Trên biển đời Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Kém tin hay hoài nghi JM. Lam Thy ĐVD
Thầy đây, đừng sợ P. Trần Đình Phan Tiến
Hãy vứng tin vào Chúa Jos. Vinc. Ngọc Biển
Cùng phiều lưu theo Chúa AM Trần Bình An
Đức tin Sưu tầm
Lạy Thầy xin cứu con Sưu tầm
Chúa Giêsu đi trên mặt biển hồ Sưu tầm
Chúa Giêsu đi trên...Học Viện Đà Lạt
Chính Thầy đây, đừng sợ Lm. Phêrô Lê văn Chính
Tin tưởng Thiên Chúa toàn năng catholic.org.tw
1. Trên sóng biển
2. Con thuyền Giáo Hội
3. Biển đời.
4. Một điểm tựa duy nhất trên cõi đời Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
5. Đừng sợ
6. Kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu
7. Uy quyền – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
8. Lạy Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con
9. Giá của một ly sữa
10. Dìu nhau tiến bước – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
11. Khi hành trình đức tin có sóng gió
12. Chúa Giêsu đi trên mặt biển
13. Những cơn sóng
14. Hãy an tâm vì luôn có Chúa Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
15. Thầy đây, đừng sợ
16. Yêu mến và tín thác vào Chúa Giêsu
17. Xin cứu con
18. Đã tin và chưa tin - Lm Phêrô Nguyễn Hương
19. Con tưởng! – Lm. Gioan B. Phan Kế Sự
20. Con đường của Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
21. Xin cho con đi trên mặt nước.
22. An toàn trên biển cả.
23. Nơi ẩn náu duy nhất – Achille Degeest.
24. Phép lạ.
25. Thầy đây mà! Đừng sợ!
26. Có dừng chân nhưng không dừng lại
27. Hãy lưu lại trên thuyền – Charles E. Miller.
28. Xin cứu tôi.
29. Gió trở nên yên lặng.
30. Lạy Chúa, ngài là nơi con nương ẩn
31. Chúa ở đâu khi chúng ta đau khổ?
32. Chúa đi trên biển – R. Veritas.
33. Đi trên mặt biển.
34. Đức tin trưởng thành – Lm Vũ Đình Tường
35. Lội nước – Lm Vũ Đình Tường
36. Xin cứu tôi.
37. Quyền phép.
38. Cam kết cho đến chết.
39. Hành trình đức tin – Thiên Phúc
40. Lạy Thầy, xin cứu con.
41. Đức Giêsu đi trên mặt biển Hồ
42. Sức mạnh của đức tin
43. Chúa cần lòng tin
44. Chú giải của Noel Quesson.
45. Kiên vững trong đức tin và cầu nguyện
46. Chúa đi trên biển
47. Tôi tin
48. Lạy Thầy! xin cứu con – R. Veritas
49. Xin cứu con – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
50. Đừng sợ
51. Chúa Giêsu quyền phép
Cứ yêm tâm! Thầy đây đừng sợ Lm Đinh Tất Qúy
Thiếu nhi chúng con yêu quí Lm Đinh Tất Qúy
Đức Kitô, Đấng Ban Bình An Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Trước sự hiện diện uy quyền ... Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Hãy tìm gặp Thiên Chúa Lm Giuse Đinh lập Liễm
Khi hành trình đức tin có sóng gió Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Chúa Giêsu đi trên mặt biển Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Sóng đời Trầm Thiên Thu
Đừng sợ, Thầy đây mà Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
Trên biển đời Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Kém tin hay hoài nghi JM. Lam Thy ĐVD
Thầy đây, đừng sợ P. Trần Đình Phan Tiến
Hãy vứng tin vào Chúa Jos. Vinc. Ngọc Biển
Cùng phiều lưu theo Chúa AM Trần Bình An
Đức tin Sưu tầm
Lạy Thầy xin cứu con Sưu tầm
Chúa Giêsu đi trên mặt biển hồ Sưu tầm
Chúa Giêsu đi trên...Học Viện Đà Lạt
Chính Thầy đây, đừng sợ Lm. Phêrô Lê văn Chính
Tin tưởng Thiên Chúa toàn năng catholic.org.tw
Sau khi làm phép lạ hoá bánh ra nhiều, Chúa Giêsu đã bảo các môn
đệ rời bỏ đám đông để qua bờ bên kia, còn Ngài thì lo việc giải tán dân chúng.
So sánh hai đoạn Tin Mừng ấy chúng ta ghi nhận được một chi tiết
thú vị. Đó là giữa lúc các môn đệ muốn giải tán dân chúng thì Chúa Giêsu lại
yêu cầu các ông giữ họ lại và lo cho họ ăn. Còn bây giờ khi các ông muốn ở lại
với họ thì Ngài lại buộc các ông phải rời bỏ họ mà đi nơi khác. Chúa Giêsu xem
ra muốn chất dứt niềm hứng khởi của các ông giữa một đám đông vừa mới được
thưởng thức phép lạ Ngài làm. Qua đó Chúa Giêsu như muốn dạy các ông một bài
học về tinh thần phục vụ đích thực: Hãy phục vụ người khác nhưng đừng tìm cách
hưởng thụ hay khai thác những kết quả do việc phục vụ đem lại. Hãy giúp đỡ vì
tình trạng cần giúp đỡ của người khác chứ không thể dựa vào lòng biết ơn của họ
để tạo thêm uy tín, thanh danh hay ảnh hưởng của riêng mình.
Người môn đệ của Chúa phải luôn ở trong tư thế sẵn sàng từ bỏ nơi
của phép lạ hoá bánh ra nhiều, nơi của sự thành công, nơi của những cơ sở đã
được gầy dựng, nơi của một chỗ đứng đã được bảo đảm, để đến một nơi xa lạ, một
nơi khởi sự làm quen với những bất trắc và những khó khăn có thể gặp phải. Cũng
như trên đỉnh Taborê, giữa lúc Phêrô đang tính chuyện dựng lều thì Ngài lại
giục các ông phải xuống núi và tiếp tục con đường lên Giêrusalem, là nơi bản án
tử hình của Ngài đang được chuẩn bị.
Công cuộc rao giảng Tin Mừng của các môn đệ không phải là không có
những bất trắc, những xáo trộn và những hiểm nguy, như xưa trên mặt biển, các
ông đã gặp phải phong ba bão táp. Nhưng nếu chỉ nhìn vào những bất trắc, thì
người ta dễ thất vọng và thối lui. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn có đó trong đêm tối
của phong ba bão táp. Ngài có đó để nói với chúng ta rằng: Hãy yên tâm, Thầy
đây, đừng sợ.
Vấn đề là trong những lúc bất trắc xảy đến, chúng ta phải biết
nhận ra sự hiện diện của Ngài để can đảm và vững tâm bước tới. Giữa những âm
thanh của biển gầm sóng vỗ, chúng ta phải biết nhận ra tiếng nói của Ngài. Và
như thế niềm tin của chúng ta phải là một niềm tin, không xuất phát từ lý luận,
từ sách vở, nhưng xuất phát từ việc nhận biết Chúa và tiếng gọi yêu thương của
Ngài giữa những sự kiện xảy đến trong cuộc sống của chúng ta.
Phải chăng đoạn Tin Mừng sáng hôm nay phản ảnh cho một kinh nghiệm
sống đức tin của Giáo Hội thời sơ khai? Thực vậy, như một con thuyền tròng
trành giữa biển khơi dậy sóng, Giáo Hội chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé và yếu đuối
giữa một thế gian đối nghịch và không ngừng áp đảo...
Trong cuốn chuyện Quo vadis, tác giả Sienkievich đã đặt Phêrô,
người chài lưới già nua và dốt nát trong thế đối diện với Néron, một hoàng đế
hùng mạnh, chủ tể của trần gian. Phêrô đã run rẩy, ngẩng mái đầu bạc trắng của
mình lên trời cao mà thầm thĩ kêu xin: Lạy Chúa, con biết làm gì với thành phố
mà Chúa sai con tới. Của y nào là biển cả và đất liền. Của y nào là muông thú
trên mặt đất cũng như thuỷ tộc dưới lòng đại dương. Của y nào là những vương
quốc, thành quách và 30 chiến đoàn đang canh giữ. Còn con, lạy Chúa, con chỉ là
một tên ngư phủ, sống quanh quẩn trên các mặt sông hồ. Con biết làm gì đây. Làm
sao con thắng được sự dữ mà y đã gieo rắc.
Quả là mong manh, bé bỏng và yếu đuối, thế nhưng Giáo Hội vẫn
không ngừng đi tới vì tin rằng Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện như lời Ngài xác
quyết: Thầy đây, đừng sợ. Cho dẫu đó chỉ là một sự hiện diện vô hình, tưởng
chừng như ảo ảnh. Thế nhưng cộng đoàn nhỏ bé ấy đã làm đảo lộn cả lịch sử.
Néron đã biến đi như một cơn mộng dữ đẫm máu. Còn Phêrô, người chài lưới già
nua và dốt nát vẫn còn đấy, đã chiếm lĩnh đến muôn thuở cả trần gian.
Cũng chính vì thế mà câu chuyện của 2.000 năm về trước luôn là
nguồn suy tư và sức mạnh cho Giáo Hội, đặc biệt trong những giai đoạn phải đối
diện với những khó khăn và thử thách, với những phong ba và bão táp, để ở đó,
Giáo Hội hâm nóng lại niềm tin của mình và can đảm tiến bước.
Trong chuyến viếng thăm mục vụ tại Pháp vào năm 1989, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II cũng đã lấy đoạn Tin Mừng hôm nay làm chủ đề để khai triển
suy tư và tăng cường sức mạnh cho một Giáo Hội đã từng có thời kỳ vàng son đáng
nhớ, nhưng hôm nay đang phải đối đầu với những vấn đề được xem là bi quan và
nan giải.
Đồng thời, nếu hình ảnh Phêrô đi trên sóng biển được nhìn với tư
cách người lãnh đạo Giáo Hội, thì Phêrô ấy cũng còn là hình ảnh tượng trưng cho
từng người Kitô hữu đang sống trong lòng cuộc đời. Với niềm tin bên cạnh những
giây phút nghi nan và ngờ vực. Với những niềm vui mừng xen lẫn những âu lo và
sợ hãi. Với quyết tâm giữa những ngả nghiêng và chao đảo. Chính nơi con người
Phêrô ấy mà mỗi người chúng ta sẽ nhận ra thân phận mỏng manh và yếu đuối của
bản thân. Và nhất là nơi con người Phêrô ấy, chúng ta cần hun nóng lại niềm cậy
trông và kêu cầu:Lạy Chúa, xin cứu vớt con.
Có một cậu bé xin đi biển để học nghề làm thuỷ thủ. Ngày nọ trời
dông bão, người ta bảo cậu leo lên cột buồn. Leo được nửa phần đầu thì dễ dàng
vì cậu cứ đưa mắt ngước lên trời. Nhưng đến lưng chừng, cậu phạm phải một sai
lầm, đó là cậu nhìn xuống mặt biển dậy sóng. Thế là cậu bị chóng mặt như muốn
ngã xuống. Thấy vậy, một thuỷ thủ già bèn la lên: Này cậu bé, hãy nhìn lên
trời. Nghe theo lời chỉ dẫn trên, cuối cùng cậu bé đã leo tới đỉnh cột buồm một
cách an toàn.
Lỗi lầm của cậu bé giống hệt lỗi lầm của Phêrô qua đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay. Cậu bé đã rời mắt khỏi bầu trời và đã nhìn xuống mặt biển dông
bão như Phêrô đã rời mắt khỏi Chúa và nhìn xuống những ngọn sóng.
Điều này cũng thường xảy đến với mỗi người chúng ta. Thực vậy, có
những lúc trong cuộc đời, chúng ta cảm nghiệm được sự hiện diện đầy quyền năng
và yêu thương của Chúa, nhất là những lúc chúng ta được may mắn và những thành
công như mỉm cười với chúng ta. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng sóng yên
biển lặng. Trái lại cuộc đời của chúng ta cũng có những ngày phong ba và bão
táp. Chính trong những giờ phút đen tối này, chúng ta dễ dàng rời xa Chúa,
chúng ta dễ dàng từ bỏ Ngài để đi tìm những sự vật khác, để rồi bản thân chúng
ta bị chao đảo, mất thăng bằng và chìm xuống.
Đoạm Tin Mừng sáng hôm nay mời gọi chúng ta hãy thẳng thắn kiểm
điểm lại đời sống của mình. Nếu lúc này, chúng ta không cảm nhận được sự bình
an, niềm vui mừng và hy vọng thì chắc chắn đó là vì chúng ta đã lìa xa Chúa.
Nếu như lúc này chúng ta đang chao đảo và như muốn chìm xuống đáy nước, thì
chắc hẳn đó là vì chúng ta đã không còn tin tưởng, cậy trông và phó thác vào
Chúa. Hãy quay trở về cùng Chúa và hãy kêu lên như thánh Phêrô: Lạy Chúa, xin
cứu vớt con. Chắc chắn Ngài sẽ ra tay phù trợ, bởi vì Ngài không phải chỉ là
một Thiên Chúa quyền năng, có thể làm được những sự chúng ta kêu van, mà hơn
thế nữa, Ngài còn là một người cha đầy lòng thương xót, luôn sẵn sàng cứu vớt
và nâng đỡ chúng ta ở mọi nơi và trong mọi lúc. Có Chúa cùng đi với chúng ta
trên vạn nẻo đường đời, chúng ta sẽ không còn sợ hãi trước những phong ba và
bão táp, chúng ta sẽ không còn lo lắng trước những gian nan và thử thách như
lời thánh vịnh đã viết: Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng
công, thành trì Chúa chẳng giữ trông, hùng binh kiện tước cũng không ra gì.
Và để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau đây của
một câu danh ngôn: Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ
trở nên tường thành. Trái lại, nếu không có Chúa, thì tường thành cũng chỉ là
màng nhện mà thôi.
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Đang chèo thuyền giữa khơi trong bóng đêm dày đặc, các môn đệ bỗng
phát hiện một bóng ma chập chờn trên sóng nước. Mọi người hốt hoảng la lên. Nào
ngờ đó lại là Chúa Giêsu. Ngài trấn an họ: "Chính Thầy đây! Đừng
sợ!". Biết vậy, Phêrô hăm hở đòi đi trên nước như Thầy: "Thưa Ngài,
nếu quả là Ngài thì xin truyền cho con đi trên mặt nước và đến cùng Ngài".
Được Chúa chấp thuận, Phêrô bước ra khỏi thuyền, bước chân chao
đảo trên sóng nước như người say. Thế rồi một cơn gió mạnh thổi đến, nước xô ập
vào người làm Phêrô chới với. Ông hoảng hốt la lên: "Lạy Thầy, xin mau cứu
con!".
Lập tức, Chúa Giêsu nắm lấy tay Phêrô, kéo ông lên rồi đưa ông vào
thuyền bình an vô sự.
Sống trên đời nầy, chúng ta cũng như Phêrô đi trên mặt biển. Mọi
sự chung quanh đều chao đảo, bấp bênh, hỗn độn. Mới đây còn đang vui đùa, nhảy
múa reo cười đùng một cái, bỗng hoá ra người thiên cổ! Mạng người quá đỗi mong
manh. Kiếp người như ngọn đèn lung linh trước gió, như một giấc chiêm bao!
Cuộc đời đầy dẫy tai ương
Những thiên tai xảy ra dồn dập khắp nơi trên thế giới: bão tố, lũ
lụt, động đất, sóng thần, lốc xoáy... đã gây ra tổn thất khủng khiếp về nhân
mạng cũng như về tài sản.
Bên cạnh đó, những tai hoạ do con người gây ra cũng khủng khiếp và
tàn bạo không kém: chiến tranh, bạo lực, khủng bố, đàn áp, bóc lột, bệnh tật,
đói nghèo...
Trước những tai ương hoạn nạn đó, con người biết tìm đâu nơi nương
tựa vững bền? Biết bám víu vào ai để bảo toàn mạng sống? Biết dựa vào sức mạnh
nào để đương đầu?
Chẳng có chi vững bền
Trên cõi đời nầy, tìm đâu ra một điểm tựa vững bền?
Tựa vào tiền của ư? Tiền của không mua được sức khoẻ và sự sống.
Những tỷ phú giàu nhất thế giới cũng không thoát khỏi bệnh tật và chết chóc.
Tựa vào địa vị, chức quyền ư? Những tổng thống, vua chúa quyền lực
nhất thế gian cũng chỉ được ngồi trên ngai trong thời hạn ngắn rồi bị truất phế
và tất cả không trừ ai đã vùi thây dưới mộ.
Chẳng có gì kiên cố
Toà tháp đôi ở Newyork cao đến 110 tầng (417- 425 mét) đứng uy
nghi sừng sững giữa trời, vượt hẳn lên các công trình kiến trúc hoành tráng
chung quanh, ngạo nghễ thách thức với cả những cơn địa chấn mạnh nhất, nằm ở
trung tâm một đất nước phồn vinh và hùng mạnh nhất thế giới, nhưng có ai ngờ:
nó đã bị tấn công, bị bốc cháy ngùn ngụt và sụp đổ tan tành trước sự kinh hoàng
của hàng tỉ người trên thế giới, chôn vùi ngót năm ngàn nạn nhân dưới khối bê
tông khổng lồ của nó trong một biến cố gây chấn động thế giới vào ngày 11 tháng
9 năm 2001.
Mọi thứ đều bấp bênh
Hành trình của con người trên dương gian không khác chi hành trình
của Phêrô trên mặt nước; nhìn trước, nhìn sau, nhìn lui, nhìn tới, mọi thứ đều
chao đảo, tất cả đều bấp bênh, chẳng có gì vững bền.
"Ôi nhân sinh là thế: như bóng đèn, như mây nổi, như gió
thổi, như chiêm bao" (Khuyết danh)
Biết nương tựa vào đâu
Con người không thể dựa vào người khác vì tất cả những người khác
cũng đang ở trong tư thế bấp bênh, chao đảo như mình. Một chiếc tàu sắp đắm
không thể cứu vớt chiếc tàu khác cũng đang chìm đắm như mình.
Cần phải có một "quyền lực" nào đó ở bên trên, ở một bờ
bến vững vàng, mới có thể cứu vớt những ai đang chìm đắm trong biển đời chao
đảo.
Hãy nắm lấy bàn tay Chúa Giêsu
Duy chỉ có bàn tay Chúa Giêsu mới có đủ quyền năng cứu vớt mọi
người trên dương thế và bàn tay ấy luôn đưa tay ra để nâng đỡ, dìu dắt, cứu vớt
bao người.
Bàn tay Chúa Giêsu đã đẩy lùi bệnh tật ra khỏi kiếp người: chạm
đến những người phong hủi khiến những người nầy được sạch (Mt 8,3); đặt lên
"những người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn và họ được chữa lành" (Lc
4, 40)
Bàn tay Chúa Giêsu trả lại ánh sáng cho người mù tối: chạm đến mắt
người mù khiến y được sáng. (Mt 9,29. 20, 34)
Bàn tay Chúa Giêsu đã lôi kéo con người ra khỏi cõi chết: nắm lấy
bàn tay bé gái đã chết và trả lại sự sống cho em. (Mt 9,24)
Và cũng chính bàn tay ấy đã đưa ra nắm lấy tay Phêrô đang chới với
giữa sóng gió hãi hùng, kéo ông khỏi bị chìm đắm và đưa ông vào trong thuyền
bình an vô sự. (Mt 14, 31).
Lạy Chúa Giêsu,
Chỉ có Chúa và duy chỉ có một mình Chúa mới là điểm tựa duy nhất
cho nhân loại đang chơi vơi, chao đảo giữa biển đời tăm tối hãi hùng.
Bàn tay Chúa vẫn đưa ra và sẵn sàng nắm lấy bàn tay yếu đuối của
con người đắm chìm giữa biển đời tối đen đầy sóng gió, nhưng tiếc thay, người
đời không chịu để cho Chúa nắm lấy tay mình.
Chúa yêu mến con người và sẵn sàng cứu vớt họ, nhưng đồng thời
Chúa cũng luôn tôn trọng tự do của họ.
Xin soi sáng cho nhân loại hôm nay khám phá ra bàn tay đầy quyền
năng của Thiên Chúa Tình Yêu đang luôn vươn ra để che chở và cứu vớt mọi người.
Xin cho chúng con được trở thành bàn tay nối dài của Chúa, sẵn
sàng đưa ra nắm lấy những bàn tay khác đang gặp sóng gió gian nan.
(John.W. Martens - Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
“Hãy can đảm lên. Thầy đây, đừng sợ” (Mt
14,27)
Chỉ đảo qua những bản dịch Kinh Thánh cổ xưa chuyển sang Anh Ngữ,
ví dụ bản dịch của Douay-Rheims hay của King James, chúng ta sẽ thấy hạn từ ma
(ghost) xuất hiện hơn cả một trăm lần ở mỗi bản dịch. Các bản dịch này chuyển
ngữ từ hạn từ Hy Lạp hagios pneuma thành thuật ngữ “Holy ghost” (ma thánh).
Trong các bản dịch hiện hành, các dịch giả thường sử dụng từ “Holy Spirit”
(thần khí). Từ ngữ “ghost” (ma) trong các văn bản hiện nay chỉ dùng để chuyển
ngữ từ tiếng Hy Lạp Phantasma và hạn từ này chỉ xuất hiện trong trình thuật kể
lại việc Chúa Giêsu đi trên mặt nước, như được thuật lại trong Mt 14,26. Tuy
nhiên, từ ngữ ghost trong bản dịch của Douay-Rheims và King James không ám chỉ
ý niệm ma quái, mà nói về một cuộc thần hiện (apparition) hoặc về
sự xuất hiện của thần khí (spirit), thì có lẽ chính xác hơn.
Điều này lý giải lý do tại sao ý niệm của từ ngữ này dần dần được
chuyển đổi. Ngày nay, người ta dang dần dần loại bỏ những hình ảnh ma quái
trong các phim hoạt hình, trong các câu chuyện cho trẻ em, hay trong các hóa
trang ngày lễ Halloween (trước lễ các Thánh). Vì thế, thuật ngữ holy ghost (ma
thánh thiêng) không còn biểu thị cho 2 khía cạnh “thánh thiện và thiêng liêng”
nữa. Ám ảnh sợ hãi không nhất thiết phải gắn liền với hình ảnh ghost (ma). Dẫu
sao, khi người ta dùng từ ngữ phantasma với ý niệm về ma quái, hoặc về
thần hiện, hoặc nói về thần khí, rõ ràng từ ngữ này không nhắm đến một con
người bằng xương bằng thịt bình thường xuất hiện trước mặt các môn đệ. Cho nên,
sự liên tưởng khi nhìn thấy một phantasma (có vẻ giống như ma quái) đang đi
trên mặt nước khiến các ông khiếp sợ. Họ la toáng lên “ma kìa” và rất kinh
khiếp.
Khi có một người lạ hay một người chúng ta không hề quen biết xuất
hiện, thường chúng ta sợ. Đây là phản ứng tự nhiên của chúng ta cũng như
của các tông đồ. Tuy nhiên, trong lần gặp gỡ này, Đức Giêsu muốn vén mở đôi
điều về thần tính của Ngài cho các học trò mình. Thoạt đầu, Chúa đi trên
mặt nước cách lạ thường không phải nhằm khải thị thần tính của Ngài, cho dù sự
kiện đó rõ ràng biểu hiện năng quyền của Ngài có thể thống trị thiên nhiên.
Điều sâu xa Chúa Giêsu muốn truyền đạt cho các môn đệ , giữa lúc các ông đang
khiếp hãi, là lời trấn an “Hãy can đảm lên, Thầy đây, đừng sợ”. “Thầy đây” là
thuật ngữ dịch từ tiếng Hy Lạp “egô eimi” có nghĩa “Ta là”. Đây cũng là lời bày
tỏ căn tính của Đức Chúa Giavê trong cựu ước, được sách xuất hành 3,14 thuật
lại. Chúa nói với Môisen: “Ta là (Đấng) Ta Là” – Ego sum qui sum . Đức Giêsu
muốn phá tan nỗi khiếp sợ của các môn đệ bằng cách khẳng định sự hiện diện của
Ngài giữa cơn giông bão, và sâu xa hơn, đó chính là sự hiện diện của Thiên Chúa
nơi hữu thể của Đức Giêsu. Thiên Chúa đang hiển hiện nơi thân xác của chính Đức
Giêsu.
Phêrô xuất hiện, và ông đã đáp trả lời trấn an của Thầy mình. Ông
tin rằng đây không phải là một bóng ma, một phantasma, nhưng là chính Đức Giêsu
Đấng đang gọi mời ông và các môn đệ. Phêrô bắt đầu bước xuống biển và đi trên
mặt nước. Nhưng một lần nữa, ông lại sợ khi sóng to gió lớn nổi lên. Quyết tâm
của ông bị chao đảo. Ông từ từ lún chìm trong dòng nước. Cho dù Đức Giêsu có
nói hay không nói với Phêrô “ Sao kém tin thế”, thì Phêrô cũng đã gào lên với
Chúa “Thưa Thầy, xin cứu con”. Đây là một động thái tổng hợp cả hai mặt: vừa
nghi ngờ khiến ông bị chìm, vừa bày tỏ lòng tin như một phương sách cuối cùng.
Lòng tin đó khởi dẫn ông tìm đến ơn cứu độ giữa lúc bị chìm dưới biển. Không
phải chỉ Phêrô, nhưng tất cả những ai lúc đó đang ở trên thuyền, chứng kiến
những sự kiện nói lên sự trọng thị đối với Đức Giêsu - chính xác hơn là sự tôn
phục Ngài, chúng ta cũng như các tông đồ sẽ phải thốt lên “ Đúng Ngài là con
Thiên Chúa”. Đức Giêsu đã mặc khải uy quyền của Ngài vượt trên sức mạnh
thiên nhiên và khuất phục cả những mãnh lực làm chúng ta chảo đảo sợ hãi. Nhưng
quan trọng hơn hết, Ngài khải thị cho chúng ta chính thần tính của Ngài và biểu
tỏ sức mạnh có thể cứu lấy những gì đã hư mất.
Đa phần chúng ta chưa từng có kinh nghiệm về sự hiện diện linh
thánh của Thiên Chúa sâu xa như các môn đệ, và trải nghiệm đức tin giống như
các ngài đã kinh qua khi thắng vượt được sự nghi ngờ và nỗi sợ hãi. Các ngài e
rằng, mình có thể rơi vào những ảo giác bên ngoài nhằm đánh lừa , và cái
họ thấy trước mắt chỉ là một bóng ma đầy kinh khiếp. Vì thế, đây là mấu chốt
khiến câu chuyện ma trong trình thuật Tin Mừng hôm nay trở nên khá thú vị.
Không phải lúc nào Thiên Chúa cũng đến với chúng ta trong hình hài thân xác,
hoặc giữa cơn bão tố, hay trong lúc chúng ta chao đảo đức tin. Thiên Chúa tỏ
mình ra cho chúng ta trong muôn vàn cách thái khác nhau. Ngôn sứ Elia đã đến
một cái hang trên núi Horeb, ngọn núi của Chúa, để gặp Chúa. Nhưng Chúa không
hiện diện trong cơn giông bão. Ngài không có mặt trong cơn động đất, trong núi
lửa, nhưng Chúa đến trong “tiếng gió hiu hiu nhè nhẹ”. Sau khi Elia nghe những
âm thanh nhẹ nhàng này, ông tiến ra đứng trước cửa hang để đón gặp Chúa. Trong
sự thanh vắng sau cơn bão tố, Chúa đã xuất hiện , hoàn toàn tĩnh lặng giữa núi
rừng. Thần khí của Chúa đã đến với Elia dưới một một dạng thức thiêng
liêng. Người ta có thể sánh ví , Ngài đến giống hệt như một bóng ma vậy.
Thánh Phêrô đã kêu lên: "Lạy Ngài, xin cứu giúp con".
Lời kêu xin thật ngắn gọn, và khẩn thiết để giúp Phêrô thoát khỏi sóng to gió
lớn. Lời kêu cầu đó, Phêrô nhắm vào chính Chúa Giêsu. Vì thế, chúng ta hãy noi
gương Phêrô mà kêu cầu Chúa Giêsu, để Ngài ban ơn giúp ta đứng vững trước mọi
khó khăn ở đời này và hưởng hạnh phúc ở đời sau.
"Lạy Ngài, xin cứu giúp con". Lời của Phêrô đã thốt lên trong sợ hãi, để xin Chúa Giêsu cứu
giúp. Trong hoàn cảnh "ngàn cân treo sợi tóc" Phêrô lo sợ, khi thấy
mình nguy hiểm đến tính mạng. Nhưng! ngay lúc đó Phêrô ý thức Chúa Giêsu đang
hiện diện trước mặt ông và sẵn sàng cứu giúp ông. Cho nên, Phêrô đã kêu cầu
Danh Thánh Chúa Giêsu một cách dứt khoát và trông cậy vào Ngài. Nhờ đó, Phêrô
được Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy và đưa lên ông thuyền bình an. Cho dù, đức tin
Phêrô còn yếu kém, như Chúa Giêsu đã khiển trách ông: "Người đâu mà kém
tin vậy! Sao lại hoài nghi".
Trong xã hội Do Thái thời bấy giờ, Danh Thánh Chúa Giêsu luôn vang
lên mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh qua môi miệng của mọi hạng người khi
gặp Ngài. Lời kêu cầu của họ thật ngắn gọn: như các thánh Tông đồ đã kêu cầu
ngài cứu giúp khi thấy thuyền sắp chìm: "Lạy Ngài, xin cứu chúng con,
chúng con chết mất". Hay người mù ăn xin nài nỉ: "Lạy Ngài, xin cho
tôi được thấy". Ngay khi Chúa Giêsu bị treo trên Thánh giá, danh Thánh của
Ngài cũng vang lên qua anh trộm lành: "Lạy Ngài, khi vào Nước của Ngài,
xin nhớ đến tôi". Những lời kêu cầu đó, đôi khi chỉ vì sợ sệt hay muốn
Ngài chữa lành bệnh mà thôi. Nhưng, tất cả đều tin rằng ChúaGiêsu sẽ giúp đỡ
họ. Đối với Chúa Giêsu thì không từ chối một ai, sẵn sàng đón nhận và giúp họ
nhận ra giá trị đích thực của cuộc sống tại thế cũng như đời sống mai sau.
Chính Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã cảm nhận đều này. Thánh nữ
luôn kêu cầu danh Thánh Chúa Giêsu mọi nơi, mọi lúc, trong mọi hoàn cảnh: khi
gặp gian nan thử thách, đau khổ bệnh tật hay an vui hạnh phúc. Đặc biệt, khi
đối diện với cái chết thánh nữ thân thưa: "Lạy Chúa Giêsu, con yêu mến
Chúa". Những lời kêu cầu đó như là một sức mạnh giúp ngài chấp nhận tất
những gì xảy ra trong cuộc đời của thánh nữ. Cho nên, sau khi từ giã thế gian,
nụ cười vẫn rạng rỡ trên môi ngài như lúc còn sống.
Có thể nói, Danh Thánh Chúa Giêsu nằm ở trung tâm kinh nguyện Kitô
giáo. Tất cả những lời nguyện trong phụng vụ đều kết thúc bằng công thức:
"nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con". Cũng như, tột đỉnh của Kinh Kính
Mừng Maria là câu "và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ". Đối với chúng
ta, nhiều khi chưa nhận ra giá trị của việc kêu cầu Danh Thánh Chúa Giêsu. Thực
tế cho thấy nhiều người khi gặp thất bại, đau khổ, đã kêu Danh Thánh Ngài để
trách móc: "Lạy Chúa Giêsu, tại sao để cho con đau khổ, bệnh tật" hay
có người đã thốt lên: "Giêsu ơi! Tao đã thua mày". Đây là dịp chúng
ta hãy xác tín rằng. Chúa Giêsu luôn hiện diện bên cạnh ta và sẵn sàng giúp đỡ
ta trong mọi lúc mọi nơi, nếu chúng ta kêu cầu danh Thánh Ngài, cho dù đức tin
của chúng ta con yếu kém: như Ngài đã phán: " Ta sẽ ở cùng các con mọi
ngày cho đến tận thế". Vì vậy, khi gặp gian nan thử thách, đau khổ, bệnh
tật. Chúng ta hãy bày tỏ: "Lạy Chúa Giêsu, xin cứu giúp con. Xin chữa lành
con". Chắc hẳn Ngài sẽ cứu chúng ta như đã từng đưa tay nắm lấy Phêrô;
Ngài sẽ chữa lành cho chúng ta như từng chữa lành cho người cùi được sạch,
người mù được sáng mắt. Đối Chúa Giêsu, Ngài luôn mở rộng bàn tay đón nhận
những người tội lỗi biết ăn năn thống hối trở về, như đón nhận Giakêu hay hứa ban
cho anh trộm lành được ở với Ngài. Như thế, khi chúng ta tội lỗi, xúc phạm đến
Ngài hãy nói với cả con tim mình: "Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót
con". Cụ thể hơn, một chút nữa, trước khi rước lễ ta hãy ý thức những lời
ta sẽ kêu cầu: "Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin
Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh". Hơn nữa, khi ta làm
việc, khi ăn uống, hay khi nghỉ ngơi...Chúng ta hãy thân thưa: "Lạy Chúa,
xin làm việc cùng con,..."
Lời kêu cầu vào Danh Thánh Chúa Giêsu là con đường đơn giản nhất
của việc cầu nguyện. Nếu chúng ta thường xuyên lặp đi lặp lại danh Thánh Ngài
mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoàn cảnh với một tâm hồn khiêm tốn, tin tưởng, phó
thác vào Chúa Giêsu, thì lời kêu cầu này không biến thành những lời lãi nhãi,
những giúp chúng ta nắm giữ được Lời Chúa và nhờ lòng kiên nhẫn mà sinh hoa kết
quả. Vì, Chúng ta đã ý thức Ngài đang hiện diện và sẵn sàng giúp đỡ ta. Tôi tin
chắc rằng Ngài sẽ giúp ta luôn đứng vững trước sống to gió lớn của cuộc đời. Và
khi nhắm mắt lìa đời, chúng ta sẽ rạng rỡ môi cười như Thánh nữ Têsêsa: một nụ
cười mãn nguyện. Đồng thời, Chúa Giêsu sẽ nói với mỗi người chúng ta như nói
với anh trộm lành: "Ngày hôm nay con sẽ ở trên Thiên đàng với Ta".
Amen.
Tiên tri Êlia xuất hiện và làm nhiều việc phi thường tại miền Bắc
Kinh Thành nước Israel dưới thời vua Ahab, vào thế kỷ thứ 9, trước Công Nguyên.
Theo sách Các Vua, Êlia đã bảo vệ việc tôn thờ Thiên Chúa Yavê chống lại thần
Baal thuộc xứ Canaan. Êlia đã thực hiện một số việc lạ lùng như cho kẻ chết
sống lại, cho lửa từ trời xuống và được cất nhắc lên trời trong xe lửa. Trong
sách Malachi, nói về sự trở lại của Êlia trước ngày Chúa quang lâm. Trong Tân
Ước, có nhắc đến tên Êlia, khi người ta so sánh tiên tri Êlia với Chúa Giêsu và
Gioan Tẩy Giả. Ông Êlia xuất hiện cùng với Môisen trong sự kiện Chúa Giêsu biến
hình trên núi Taborê.
Chúng ta không biết nhiều về tiểu sử đời tư của tiên tri Êlia. Tên
Êlia có nghĩa là Chúa của tôi là Yavê. Tại Israel, khi vua Ahab và hoàng hậu
Jezebel tôn thờ các thần dân ngoại và xây dựng đền thờ kính thần Baal. Baal là
thần xứ Canaan, họ tin rằng thần này chịu trách nhiệm về việc làm sấm chớp, mưa
bão và sương sa. Jezebel nhập cư các thầy tư tế và các tiên tri của thần Baal
vào đất Canaan. Êlia cảnh cáo và thách thức vua Ahab và các đồ đệ của thần Baal
là sẽ có hạn hán trong ba năm. Êlia cũng đã thách đố quyền lực của thần Baal
trên của lễ toàn thiêu. Kết qủa thần Baal chỉ là hư danh. Êlia đã toàn thắng
trước mặt chư dân, nhưng vì ghen tương, bà hoàng hậu Jezebel tìm cách trả thù,
nên ông phải trốn chạy lên núi. Chúa đã nâng đỡ an ủi ông trong cơn khốn cùng:
Chúa phán cùng ông Êlia rằng: Hãy ra đứng trên núi trước tôn nhan Chúa. Bỗng Chúa
đi qua; có một cơn gió mạnh xẻ núi non và nghiền nát đá trước mặt Chúa. Nhưng
Chúa không ở trong gió bão. Sau trận gió bão thì đất động; Chúa cũng không ở
trong cơn động đất (1Vua 19, 11).
Bài phúc âm hôm nay, sau khi Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều để nuôi dân,
Chúa ở lại trong hoang địa để cầu nguyện. Thánh Matthêô viết: Canh tư đêm tối,
Người đi trên mặt biển mà đến với các ông (Mt 14, 25). Chúa Giêsu đi trên mặt
nước. Một sự kiện lạ lùng. Con người bình thường với sức nặng khi bước xuống
nước sẽ bị chìm xuống. Ở miền Nam Do-thái, vùng Giuđêa có Biển Chết, nước rất
mặn. Khi xuống nước tắm, chúng ta có thể nằm ngửa và thân xác sẽ nổi trên mặt
nước và không cần phải cựa quậy chân tay. Khi đứng thì nhẹ nhàng nhưng nằm thì
thân xác có thể nổi. Không ai có thể đi trên mặt nước. Trong một vài cảnh lạ
quảng cáo trên truyền hình, đôi khi chúng ta cũng thấy có người đi trên mặt
nước, nhưng phải cẩn thận quan sát vì có sự dàn dựng phía sau để che mắt thiên
hạ. Cũng giống như tất cả các nhà ảo thuật, họ đều có kỹ năng chuyên môn để qua
mắt bà con. Chúng ta có thể tìm hiểu về nguồn ngọn của các sự việc cách cụ thể
trên sách vở báo chí.
Chúa Giêsu đi trên mặt nước và đến với các tông đồ vào ban đêm:
Chúa Giêsu nói với các ông rằng: Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ (Mt 14, 27).
Các tông đồ là những người chài lưới rất quen thuộc với khung cảnh sóng biển.
Khi thấy sự kiện lạ, các ông hoảng sợ. Đúng thế, ai mà không sợ chứ! Một phản
ứng rất tự nhiên của con người. Các sự kiện lạ vượt ra ngoài qui luật của không
gian và thời gian. Chúa Giêsu củng cố đức tin của các ông bằng các dấu lạ, để
các ông nhận ra uy quyền của Thiên Chúa. Chúng ta thấy các tông đồ được chứng
kiến nhiều phép lạ mà Chúa đã thực hiện, nhưng tới lúc nguy nan và khó khăn,
đức tin của các tông đồ cũng vẫn bị lung lay và sợ hãi.
Ông Phêrô tính tình rất thật thà và nhiệt thành. Ông đã xin Chúa
cho đi trên mặt nước, Chúa chấp nhận, nhưng: Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và
sấp mình xuống nên la lên rằng: Lạy Thầy, xin cứu con (Mt 14, 30). Phêrô là dân
chài lưới. Ông sống trên sông nước và tắm lội hằng ngày, vậy mà khi gió thổi
mạnh, ông chìm xuống và vội la lên, xin Chúa cứu. Đứng trước Đấng có quyền phép
vô cùng, Phêrô cảm thấy mình quá nhỏ bé và yếu đuối. Ông cậy dựa vào tình
thương của Chúa để xin cứu vớt. Có Chúa, con còn sợ chi ai. Tính tình của ông
Phêrô rất bộc trực nhưng chân thành. Chúa Giêsu đã yêu thương và trao cho ông
quyền trên các tông đồ. Chúa còn trao quyền cho ông cai quản Giáo Hội mà Chúa
thiết lập. Chúa hỏi ông và ba lần ông đã tuyên xưng: Lạy Thầy, con mến yêu
Thầy.
Cuộc đời của mỗi người chúng ta cũng đối diện với năm chìm bảy
nổi. Nhưng các khó khăn và thất bại trong cuộc sống là những bài học giúp chúng
ta sống trưởng thành hơn. Mới đây, trong một cuộc họp hàng tháng, chúng tôi đã
chia sẻ về các vấn đề gây sự ưu tư trong cuộc sống đạo. Một linh mục chia sẻ
rằng: Mỗi ngày cha đều dâng lễ và rước Mình Máu Thánh Chúa, vậy mà sau ba mươi
năm linh mục, cũng chẳng thay đổi được bao nhiêu. Tính nào vẫn tật đó. Các tính
xấu cứ lập đi lập lại. Lời chia sẻ rất chân tình. Hầu như ai trong chúng ta
cũng thế. Tội đó đã xưng mười năm trước, nay vẫn còn tái phạm. Đôi khi chúng ta
muốn sửa đổi và chừa tội, nhưng chỉ thay đổi và chừa cải được chút chút. Sau
vài suy nghĩ, tôi tự an ủi rằng: Dù sao chúng ta cũng còn tiếp tục ở lại trong
ơn nghĩa Chúa cho tới ngày hôm nay. Cũng giống như thức ăn thức uống giúp nuôi
dưỡng chúng ta qua tháng ngày, nhờ từng bữa ăn bổ sức mà chúng ta còn sống khỏe
tới ngày hôm nay. Tạ ơn Chúa.
Mỗi ngày sống là một ngày mới hoàn toàn. Chúng ta cùng dâng lời tạ
ơn Chúa. Sống ngày hôm nay cho trọn vẹn. Ngày hôm qua có bị ngã, bị chìm thì sự
việc cũng đã qua. Chúng ta không thể làm gì được với quá khứ. Bình sành đã bể
là đã bể. Hàn gắn lại là việc của ngày hôm nay. Chúng ta không nên ngồi đó để
phiền trách về quá khứ đã qua. Cái đã qua giúp chúng ta học hỏi nhiều kinh
nghiệm để tiến thân và sống tốt hơn. Đừng chìm đắm trong qúa khứ, nhưng hãy vui
sống giây phút hiện tại mà chúng ta đang có đây. Phêrô đã chìm xuống nước và
vội la lên, xin Thầy cứu con. Nếu có khi nào chúng ta bị rơi chìm, thất bại và
chán nản, hãy nhớ rằng chúng ta có Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng có uy quyền
trên hết mọi tạo vật. Hãy thân thưa với Chúa: Lạy Chúa, xin cứu con!.
Phần thưởng của cuộc sống là sự an vui và hạnh phúc. Khi con người
nhận rõ vai trò, sứ vụ và cùng đích của cuộc đời, thì không còn phải lắng lo
nhiều. Niềm tin sẽ dẫn dắt chúng ta hoàn thành sứ mệnh của con người trong cuộc
lữ hành. Hãy tránh dần sự tranh chấp vô thưởng vô phạt để duy trì tình thân ái.
Bỏ bớt cái tôi cao ngạo và dễ ghét, để cùng hòa đồng xây dựng sự hài hòa trong
an bình. Tất cả mọi sinh hoạt đều qui hướng tạo niềm an vui hôm nay và ngày
mai. Niềm vui lớn lao nhất của chúng ta là được làm nghĩa tử của Thiên Chúa.
Trong niềm tin sống đạo và ân sủng của các Bí tích trong Giáo Hội, chúng ta
được tháp nhập vào nhiệm thể của Chúa Kitô, để đồng thừa hưởng gia nghiệp đã
hứa ban. Không riêng gì dân Do-thái mà tất cả mọi người tin vào Chúa Kitô: Họ
đều là người Israel, họ được quyền làm nghĩa tử, được vinh quang, giao ước, lề
luật, việc phụng tự và lời hứa (Rm 9, 4). Chúng ta sẽ được thừa kế gia sản ơn
cứu độ mà Thiên Chúa dành sẵn cho loài người qua Con Chúa Nhập Thể và cứu
chuộc.
Lạy Chúa, Chúa là chủ của muôn loài muôn vật. Chúa có quyền sáng
tạo, biến hóa và tái tạo. Xin Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở thành những
mảnh đất phì nhiêu sinh hoa kết trái nhân đức tốt lành trong cuộc sống. Xin cho
chúng con can đảm tin tưởng và dõi theo lối bước của Chúa. Hãy lắng nghe lời
của Thầy Chí Thánh: Thầy đây, các con yên tâm, đừng sợ!
(Suy niệm của Lm. Anmai)
Liệu người ta có sống được không khi không có lòng tin? Câu trả
lời dường như quá dễ dàng, người ta chết vì thiếu cơm thiếu gạo, thiếu chất
dinh dưỡng hay thuốc men chứ có ai chết vì thiếu lòng tin!
Nhưng cứ thử hình dung, một đứa trẻ nếu không có lòng tin vào tình
thương, vào trách nhiệm của cha mẹ mình thì dù có ăn ngon mặc đẹp, được hưởng
thụ mọi tiện nghi, thậm chí được học hành thì đứa trẻ ấy cũng chẳng bao giờ
được sung sướng. Nếu sống như vậy nó chỉ là một đứa trẻ vất vưởng mồ côi, có lẽ
trong số những trẻ bỏ nhà đi bụi đời nhiều em đã mang theo cõi lòng tan hoang
như thế. Bình thường, ra khỏi cái thế giới của gia đình, một thiếu niên có thêm
lòng tin mới, tin vào thầy cô bạn bè, nhà trường. Chúng đau khổ khi bị bạn bè
chơi xấu, và đâu đó nhà trường đã biến thành thị trường, người dạy không vì
chúng mà vì túi tiền của cha mẹ chúng nên chúng đã hỗn láo, hư hỏng hoặc lớn
lên ra trường đi làm, chúng tìm mọi cách để tận thu lại với đời.
Vợ chồng mà không tin nhau thì dù nhà cao cửa rộng, chăn êm nệm ấm
thì cũng chỉ là một sự "liên hiệp", và những cuộc hành lạc hợp pháp.
Không niềm tin thì không thể có tình yêu, còn hạnh phúc càng là chuyện hoang
tưởng.
Một cuộc sống thiếu lòng tin thì đó không phải là cuộc sống...
Chẳng hiểu làm sao mà ngày hôm nay con người sống trong một thế
giới thiếu vắng lòng tin để rồi từ thiếu vắng lòng tin nó đã gây ra cho con
người biết bao nhiêu là xáo trộn, biết bao nhiêu à bất an. Ngày hôm nay người
ta phải đối diện với quá nhiều sự giả trá, sự gian tà để rồi không còn tin vào
nhau như xưa nữa.
Nhan nhản, sách báo, tivi, các chương trình truyền thông đại chúng
cho chúng ta thấy một cuộc đời thật ê chề, thật chán chường. Tất cả chỉ là
những lời hứa hão huyền, những lời hứa cuội. Mới đây thôi, tuần qua, một sự
kiện đáng nhớ của người dân Sài Gòn: cơn mưa chiều ngày 1 tháng 8 đã biến Sài
Gòn thành một dòng sông. Do đâu? Do người ta hứa hẹn, người ta thiếu trách
nhiệm để ma lo cho dân. Ngân sách rót ra cho chuyện sửa chữa cầu cống, ngập lụt
đổ ra bạc tỷ, tiền ấy gom góp từ mồ hôi nước mắt của dân, vậy mà sau những trận
mưa thì người dân hoàn toàn chịu trận. Chịu riết rồi chẳng còn ai tin vào lời
hứa là sẽ lo cho dân, sẽ phục vụ dân nữa. Một lần, hai lần, ba lần người ta còn
cố gắng chờ đợi để mà tin nhưng nhiều lần quá chẳng ai còn can đảm để mà tin.
Ngoài đường là như vậy, còn trong nhà thì sao? Trong nhà hình như
cũng nhuốm một cái màu đen tối của sự mất niềm tin vào nhau. Ai cũng sợ sống sự
thật, đối diện với sự thật để rồi người ta không còn đến với nhau thật lòng
nữa. Chắc có lẽ từ cái lối sống "làm láo báo cáo hay" nó nhen nhúm
vào trong con người ta khi nào mà người ta không hay để rồi ai cũng báo cáo,
cũng "nổ" cũng tô son trát phấn về mình. Vì sao? Vì sợ người đối diện
biết cái bộ mặt thật của mình nên người ta phải làm như vậy. Và khi làm như vậy
đến một lúc nào đó cũng xuất đầu lộ diện thì thử hỏi còn ai dám tin vào nhau
nữa?
Cay đắng, bi đát ở chỗ là con người, ai ai cũng thấy và cần sống
với những người có niềm tin vào nhau nhưng rồi người ta cư xử với nhau làm sao
đấy. Cứ thật thật giả giả lẫn lộn để rồi đi tìm một lòng tin nguyên vẹn hơi bị
hiếm.
Đứng trước vấn nạn của lòng tin, chúng ta có lòng tin như thế nào
với người xung quanh và người xung quanh chúng ta có tin chúng ta hay không?
Cách riêng, người kitô hữu, người có Chúa thì sống lòng tin như thế nào?
Bài tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ về lòng tin. Phêrô, là
người đã từng theo Thầy mình đi rao giảng nhưng đụng chuyện Phêrô cũng chưa tin
vào Chúa, vẫn ngờ vực Chúa. Qua thái độ ngờ vực của Phêrô, Chúa Giêsu đã thẳng
thắn trách móc ông. Chúng ta nhìn lại đời mình, chúng ta theo Chúa nhiều năm
lắm, có người hai chục, có người ba chục, có người bốn chục... được Chúa yêu
thương nhiều, được Chúa ủ ấp nhiều nhưng hình như chúng ta vẫn mang trong mình
thái độ ngờ vực như Phêrô thì phải. Thế nhưng chuyện hay nơi Phêrô là sau bao
nhiêu lần ngã lên vấp xuống nhưng cuối cùng Phêrô đã tin và sống chết với Thầy.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ sống sao với Thầy của chúng ta?
Ngày hôm nay, cơ hội để chúng ta đặt lại niềm tin của chúng ta vào
Chúa. Chúng ta đã theo Chúa nhiều năm nhưng hiện giờ lòng tin của chúng ta vào
Chúa như thế nào? Chúng ta tin vào người đời hay tin vào Thiên Chúa.
Chúa vẫn nhắc nhở chúng ta trong các thánh vịnh:
Ẩn thân bên cạnh Chúa Trời
Thì hơn tin cậy ở người trần gian
Tin vào thần thế vua quan
chẳng bằng ẩn náu ở bên Chúa Trời (Tv 117, 8.9)
Cuộc đời mỗi người chúng ta vẫn bị giằng co, vẫn đứng giữa cái ngã
ba đường là dựa vào Chúa hay dựa vào thần thế vua quan, tin vào Chúa hay tin
vào của cải vật chất? Đây không phải là chuyện đơn giản mà là chuyện chúng ta
phải đối diện mỗi ngày trong cuộc sống thường nhật.
Nhìn lại cuộc đời mỗi người chúng ta, nhìn lại tất cả các biến cố
lớn bé từ khi cất tiếng khóc chào đời đến ngày hôm nay chúng ta thử hỏi xem ai
đã quan phòng cho cuộc đời chúng ta? Ai yêu thương chúng ta? Ai là thành luỹ
đời chúng ta? Ai là cùng đích đời chúng ta? Vậy mà chúng ta đã không dựa vào
tình yêu, vào đấng quan phòng, vào thành luỹ, vào Chúa của đời chúng ta mà
chúng ta cứ quanh quẩn mãi trong cái thế giới vật chất, trong cái thế giới mau
qua chóng tàn này.
Tuần trước, khi đang giúp cho một đôi hôn phối do một cha trong
Dòng nhờ bỗng dưng cô bé nói với tôi rằng: "Mẹ bạn trai con đi coi thầy
rồi, phải là trong tháng 10 này phải cưới vì tuổi của con và tuổi của anh ấy
chỉ cưới trong tháng 10. Nếu không thì chúng con phải đợi đến 3, 4 năm nữa mới
cưới được!".
Tôi nghe xong tôi ngạc nhiên vì tôi biết rằng hai bên đều là đạo
gốc, được học hành giáo lý nghiêm túc ở một giáo xứ lớn hẳn hoi mà nói với tôi
như thế! Hoá ra là mẹ của chú rễ dù là người có đạo nhưng hình như chẳng còn
tin vào Chúa mà tin vào ông thầy bói. Tôi bèn nói với hai bạn trẻ rằng tôi cảm
ơn mẹ của chú rễ. Và, nếu được xin kính mời bà mẹ của chú rễ đến đây, dẫn tôi
đến với ông thầy bói nào đó đã coi cho hai bạn. Tôi nói rằng:
Thứ nhất: tại sao ông thầy bói coi cho hai bạn được mà
sao không coi tương lai cho ông như thế nào? Tại sao ông phải đi lượm bạc cắc
từ những người nhẹ dạ và thiếu lòng tin vào Chúa? Nếu giỏi, sao ông không coi
chiều nay xổ số ra số mấy để ông mua nguyên tập vé số để có nhà lầu xe hơi mà
phải đi coi bói thế này?
Thứ hai: nếu được nhờ ông coi xem tương lai tôi có
làm giám mục hay không? Nếu tôi làm giám mục tôi mời ông về ở trong
"Toà" với tôi? Làm gì mà ông coi được? Ngay cái bản thân của ông ông
không biết ông sống ngày nào, chết ngày nào sao mà coi được cho ai?
Và còn nữa về chuyện thiếu lòng tin vào nhau, thiếu lòng tin vào
Chúa nên đến với bói toán. Nhất là các cô các chị. Đôi khi chồng mình mệt mỏi
hay có vấn đề gì không chịu hỏi, chạy tới hỏi ông thầy bói và khi mở bài lên
con đầm bích. Ông phán ngay cho một câu là chồng chị có một người nước da ngăm
ngăm theo đuổi! Thế là về nhà mặt nặng mày nề với ông chồng mà không chịu hỏi
thực hư!
Thời buổi ngày hôm nay người ta thường nói đùa với nhau là
"lên cung trăng" rồi mà người ta còn tin vào bói toán. Thật ra số
người tin vào bói toán ngày nay còn nhiều chứ không phải là ít, cách riêng là
nữ giới. Vì nhẹ dạ, vì thiếu lòng tin và nhất là thiếu lòng tin vào Thiên Chúa
nên họ dựa vào bói toán là điều dễ hiểu. Lẽ ra trong những cơn gian nan thử
thách của cuộc đời họ tìm đến Chúa, họ cậy vào Chúa nhưng không, họ đã tìm đến
những con người tầm thường của thế gian.
Và như đã nói ở trên, cuối đời Phêrô hối hận về tất cả những gì
mình làm buồn phiền Thầy mình nên Ngài đã làm lại tất cả những gì có thể được
để minh chứng cho tình yêu của Ngài đối với Thầy Chí Thánh. Và với lời nguyện
xin quen thuộc của Ngài khi Chúa Giêsu hiện ra sau khi Phục Sinh với mẻ cá lạ,
mỗi người chúng ta trong từng phút từng giây của cuộc đời cũng biết thưa như
Phêrô: "Lạy Ngài ơi thương đến! Xin củng cố giúp con! Này lòng tin con đây
còn mỏng dòn non yếu! "Lạy Ngài ơi thương đến! Xin củng cố giúp con! Này
lòng tin con đây hầu đã vỡ tan rồi" (bài Con tin thưa Thầy - linh mục
Thành Tâm)
Khi và chỉ khi ta đặt niềm tin của ta vào Chúa như Phêrô thì cuộc
đời ta mới bình an giữa muôn sóng sóng gió của cuộc đời này được.
Nguyện xin Chúa là nguồn mạch của sự sống, nguồn mạch tình yêu,
nguồn mạch của lòng tin đến và ở lại trên cuộc đời của mỗi người chúng ta để
chúng ta luôn trao phó cuộc đời của chúng ta vào trong bàn tay của Chúa trong
bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào mà chúng ta đang sống.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hình ảnh Chúa Giêsu đi trên mặt nước cho chúng ta thấy tình thương
của Chúa dành cho các môn đệ thật cao sâu. Dù đêm tối. Dù giông bão. Điều đó
không cản bước để Ngài tiến đến với các môn đệ. Ngài đã đến thật đúng lúc, thật
kịp thời. Ngài đến để phá tan giông bão. Ngài đến trả lại sự bình yên cho biển
cả và cho cả các tông đồ đang hú hồn bạc vía!
Cuộc sống là bước đi trên biển đời. Có sóng gió. Có giông tố. Có
những khó khăn khiến biết bao người chao đảo. Họ đang cần chúng ta làm điều gì
đó để cứu giúp họ. Hằng ngày có biết bao bàn tay đang xòe ra cầu cứu chúng ta.
Liệu rằng chúng ta có dám thoát ra khỏi sự bình yên của mình để đến với anh em
và giúp họ vượt qua khó khăn hay không?
Có thể chúng ta nghĩ mình sẽ chẳng làm được những chuyện phi
thường như Chúa Giêsu, điều này cũng chẳng sai, nhưng chúng ta lại có thể làm
những chuyện bình thường với trái tim phi thường hết mình vì tha nhân. Những
chuyện bình thường thật dễ làm nhưng lại đòi hỏi phải có tình yêu mới có thể
tìm được hạnh phúc trong từng điều nhỏ nhặt bình thường.
Người ta kể rằng: Trưa hôm đó, có một cậu bé nghèo bán hàng rong ở
các khu nhà để kiếm tiền đi học. Bụng đói cồn cào mà lục túi chỉ còn mấy đồng
tiền ít ỏi, cậu liều xin một bữa ăn tại một căn nhà gần đó. Nhưng cậu giật mình
xấu hổ khi thấy một cô bé ra mở cửa. Và thay vì xin gì đó để ăn, cậu đành xin
một ly nước uống. Cô bé trông cậu có vẻ đang đói nên bưng ra một ly sữa lớn.
Cậu bé uống xong, hỏi "Tôi nợ bạn bao nhiêu?".
"Bạn không nợ tôi bao nhiêu cả. Mẹ dạy rằng chúng tôi không
bao giờ nhận tiền khi làm một điều tốt."
Cậu bé cám ơn và đi khỏi. Lúc này, Howard Kelly thấy tự tin hơn
nhiều, mạnh mẽ hơn nhiều.
Nhiều năm sau, cô gái đó bị căn bệnh hiểm nghèo. Các bác sĩ trong
vùng bó tay và chuyển cô lên bệnh viện trung tâm thành phố để các chuyên gia
chữa trị. Tiến sĩ Howard Kelly được mời khám. Khi nghe tên địa chỉ của bệnh
nhân, một tia sáng loé lên trong mắt ông. Ông đứng bật dậy và đi đến phòng bệnh
nhân và nhận ra cô bé ngày nào ngay lập tức. Ông đã gắng sức cứu được cô gái
này. Sau thời gian dài, căn bệnh của cô gái cũng qua khỏi. Trước khi tờ hoá đơn
thanh toán viện phí được chuyển đến cô gái, ông đã viết gì đó lên bên cạnh.
Cô gái lo sợ không dám mở ra, bởi vì cô chắc chắn rằng cho đến hết
đời thì cô cũng khó mà thanh toán hết số tiền này.
Cuối cùng cô can đảm nhìn, và chú ý đến dòng chữ bên cạnh tờ hoá
đơn....
"Đã thanh toán đủ bằng một ly sữa."
Ký tên
Tiến sĩ Howard Kelly.Nước mắt vui mừng cứ thế dâng trào và lời từ
trái tim cô gái thốt lên trong nước mắt: "Cảm ơn ông!."
Đây là câu chuyện có thật. Dr. Howard Kelly là một nhà vât lý lỗi
lạc, đã sáng lập ra Khoa Ung thư tại trường Đại học John Hopkins năm 1895.
Cuộc sống luôn mời gọi chúng ta hãy làm điều gì đó có ích cho tha
nhân. Bởi chung quanh chúng ta có biết bao mảnh đời bất hạnh lầm than. Cuộc sống
luôn đưa đến cho chúng ta biết bao bàn tay đang cần chúng ta dìu họ đi qua
những khó khăn, hay giúp họ đứng dạy bước tiếp sau những lần vấp ngã. Việc làm
này tưởng chừng như chỉ là một việc tốt nhỏ bé rồi sẽ trôi qua, nhưng thực ra
nó sẽ được đền bù khi chúng ta gặp khó khăn. Đó là trường hợp của cô gái đã
tặng người bạn nghèo một ly sữa để làm động lực cho câu ta tiến thân và thành
danh mai sau.
Vâng, chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng
chúng ta có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống. Vì
cuộc sống chung quanh chúng ta có quá nhiều những hoàn cảnh đang cần chúng ta
thi ân giúp sức.
Chúng ta có thể không có khả năng hô phong hoán vũ nhưng chúng ta
có thể xoa dịu những đau thương cho anh em bằng sự chia sẻ, bằng cảm thông liên
đới.
Chúng ta có thể không có khả năng ngăn gió chống bão nhưng chúng
ta có thể giúp anh em làm lại cuộc đời sau những thất bại làm ăn.
Vâng, chúng ta không cần phải làm những chuyện cao siêu, chỉ cần
cho một ai đó ly nước với một tấm lòng chân thành là được. Cuộc sống của chúng
ta chỉ cần có tấm lòng như dẫn người già qua đường, nhịn chút quà sáng để cho
các em học sinh khó khăn, biết an ủi động viên người đang đau bệnh hay thất
bại, tủi hờn... Đó là những việc chúng ta đang làm cho cuộc sống này tốt đẹp
hơn.
Cuộc đời ai mà không cần sự nâng đỡ, bao bọc của người khác. Thật
không ngoa khi nói rằng chúng ta đều lớn lên trong tình thương giúp đỡ của
người khác cụ thể là cha mẹ, là thầy cô, bạn bè... Thế nên, hãy sống có ích cho
tha nhân. Hãy làm điều gì đó tốt đẹp cho tha nhân. Hãy đến với tha nhân để xoa
dịu nỗi đau cho họ, để dìu họ đi qua những khổ đau, để giúp họ đứng dậy làm lại
cuộc đời.
Xin Chúa cho chúng ta có đôi chân nhẹ nhàng, thanh thoát để đến
với tha nhân trong tinh thần phục vụ mà không mong đền đáp. Amen.
Khi đối diện với đau khổ chúng ta thường hỏi: Chúa ở đâu? Và khi
đứng trước những nghi nan chúng ta thường đặt điều kiện: "Nếu có Thiên
Chúa xin hãy cứu con?". Thế nhưng, đau khổ vẫn cứ tiếp diễn trên thế gian.
Mỗi ngày trôi qua chúng ta phải chứng kiến biết bao cái chết đau thương, biết
bao những bất hạnh rủi ro đến với con người chúng ta. Nhìn vào cuộc đời khiến
nhiều người bi quan bảo rằng: "Đời là bể khổ", hay 'Cây xanh thiếu lá
nó xanh xanh - Biết mình thế này thà đừng sinh ra". Quả thực, nếu sinh ra
trong cuộc đời để rồi chịu cực, chịu khổ, chịu nhiều đắng cay đoạ đầy là một bất
hạnh cho kiếp người chúng ta. Nhưng thực ra, trong cuộc sống vẫn có những niềm
vui. Niềm vui của tình liên đới, của sự chia sẻ, của lòng bác ái, của tinh thần
hy sinh dấn thân phục vụ vì lý tưởng và vì đồng loại...
Trong giáo xứ Bình Lâm có một em bé 6 tuổi tên là K' Thủ Lĩnh. Em
vừa lọt lòng mẹ đã bị bỏ đi. Điều tệ hại là chính người vứt em đi đã bẻ gãy đôi
chân của em thành tàn phế rồi mới bỏ em bên vệ đường. Em đã được một gia đình
người dân tộc Châu Mạ đón về nuôi. Mỗi ngày em đi học phải có người bồng ẵm đi,
nếu đi một mình phải đi bằng khuỷ chân thật tội nghiệp! Thấy cảnh thương tâm,
giáo xứ đã quyết định đưa em đi bệnh viện để chữa trị đôi chân. Tại trung tâm
chấn thương chỉnh hình ơn Chúa đã đến với em và giáo xứ. Vì đã có nhà tài trợ
sẵn lòng trả toàn bộ chi phí cho ca mổ và suốt thời gian điều trị cho em. Đây
là một món quà quá bất ngờ đối với gia đình mẹ nuôi của em và với giáo xứ.
Chúng ta cùng tạ ơn Chúa vì trên thế gian này vẫn còn đó những tấm lòng quảng
đại được trao ban một cách quảng đại và vô vị lợi.
Thực vậy, nếu không có tấm lòng nhân ái được trao ban thì những
bất hạnh rủi ro đến với nhân loại sẽ mãi mãi không bao giờ nguôi ngoai, nhưng
nếu có nhiều tấm lòng nhân ái, biết chia sẻ cho nhau, thì những đau thương mất
mát sẽ sớm được hàn gắn và chữa lành. Vì có ai đó đã nói rằng:
"Có một đường đi, đi chung Đường sẽ vui hơn,
Có một quặn đau, đau cùng sẽ sớm nguôi ngoai".
Trở lại với bài phúc âm của Chúa nhật 18 thường niên, thánh
Matthêu đã nhấn mạnh với chúng ta một điều: nếu không có lòng nhân ái của em bé
dâng cho Chúa 5 chiếc bánh và hai con cái, có lẽ đã không có phép lạ hoá bánh
ra nhiều để chia sẻ với hơn 5 ngàn người đang đói vào buổi chiều hôm đó. Bài
phúc âm hôm nay, Chúa còn khẳng định với chúng ta: sự dữ luôn có mặt ở quanh
ta. Cuộc đời không thiếu những sóng gió nghi nan. Nhưng, Chúa có thể làm những
điều tốt hơn từ trong những bất hạnh này. Em K' Thủ Lĩnh từ trong bất hạnh
nhưng hôm nay em đã học được bài học về nhân ái khi đôi chân của em đang được
chữa trị. Và Chúa Giêsu Ngài đã làm phép lạ từ lòng tốt của người dâng cho Chúa
bánh và cá. Phải chăng, Chúa muốn dạy chúng ta bài học, khi đứng trước khổ đau
của anh em mình, chúng ta phải tự hỏi: chúng ta đang ở đâu khi khổ đau ập xuống
anh em? Chúng ta đã làm gì cho anh em mình khi chứng kiến những cảnh tang
thương và bất hạnh của anh em? Sự dữ vẫn đang hoành hành. Quyền lực của ác thần
vẫn làm cho con người sợ hãi, đôi khi đánh mất niềm tin. Nhưng Chúa vẫn đang
mời gọi chúng ta: Anh em đừng sợ, vì Thầy đã thắng thế gian. Thầy đã thắng thế
gian, đó cũng là tiếng mời gọi các môn đệ của Chúa là chúng ta, hãy cũng với
Chúa để chiến thắng sự dữ, để đẩy lùi cái ác ra khỏi thế gian, để xoa dịu những
đau thương mất mát trong cuộc đời. Đồng thời Ngài cũng mời gọi chúng ta hãy đưa
tay cho Ngài dìu chúng ta bước qua những khó khăn của dòng đời. Thánh Phê-rô đã
có thể đi trên mặt nước, đi qua hiểm nguy khi ông nhận ra Chúa đang đến với
ông. Cuộc đời chúng ta cũng chỉ bình an trước gian nan khi chúng ta tin tưởng
rằng: Chúa vẫn đang đồng hành với chúng ta. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta hãy
trao vào tay Chúa những khó khăn của cuộc đời để Chúa sẽ giải thoát chúng ta
khỏi mọi hiểm nguy.
Và hôm nay với biết bao khổ đau của tha nhân, Chúa cũng muốn chúng
ta hãy là chứng nhân cho tình thương và lòng nhân ái của Chúa, khi chúng ta
cùng cầm tay nhau vượt qua những thăng trầm của cuộc đời. Khi chúng ta biết
chạnh lòng thương xót trước những bất hạnh của tha nhân. Khi chúng ta không
phủi tay trốn tránh trách nhiệm trước những nhu cầu của thời đại. Vâng cuộc đời
sẽ ấm áp hơn nếu mỗi người biết liên đới và chia sẻ cho nhau để làm vơi đi
những khổ dau, những lắng lo trong cuộc sống.
Chúng ta có thể không có khả năng làm phép lạ hoá bánh ra nhiều,
nhưng chúng ta có khả năng trao vào tay Chúa một chút lương thực ít ỏi, để Chúa
có thể nhân rộng cho hàng ngàn người hưởng dùng.
Chúng ta có thể không có khả năng đi trên mặt nước, nhưng chúng ta
có thể nâng đỡ, dìu dắt anh em qua những khó khăn của cuộc sống.
Chúng ta có thể không khiến cho sóng gió ba đào im lặng, nhưng
chúng ta có thể góp phần đầy lùi sự dữ và xoa dịu những đau thương bằng lòng
quảng đại và nhân ái của chúng ta.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta lòng mến nồng nàn để chúng ta trở
nên khí cụ mang tình yêu và lòng nhân ái đến cho anh chị em chung quanh. Nguyện
xin Chúa ban thêm đức tin và đức cậy để chúng ta luôn biết cậy dựa vào ơn trợ
giúp của Chúa và an bình sống trong sự quan phòng của Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)
Vào khoảng năm 860 trước công nguyên, vương quốc Israel bị ảnh
hưởng bởi tà giáo. Vua Ahab và hoàng hậu Izabel nuôi dưỡng hàng ngàn tiên tri
Baal. Nhiều đền thờ thần thoại được xây lên. Dân chúng cũng hùa theo việc cúng
bái Baal. Nhưng tiên tri của Giavê Thiên Chúa là Êlia vẫn can đảm đương đầu với
đám đông phản trắc để bênh vực chính giáo.
Một mình ông dám thách thức 450 tiên tri Baal hãy chứng minh cho
toàn dân biết đâu là Chúa thật. Êlia bảo người ta bắt hai bò tơ để đôi bên cùng
xẻ thịt, đặt lên củi, và khẩn cầu. Thần linh nào đáp lời nguyện xin, cho lửa
xuống thiêu cháy đống củi cùng của lễ, thì đó chính là Đấng mọi người phải tôn
thờ.
Sau khi giết bò và chất lên bàn thờ, 450 tiên tri và tư tế Baal
bắt đầu kêu khấn: “Lạy thần Baal, xin đáp lời chúng tôi.” Nhưng không một tiếng
trả lời! Họ bắt đầu nhảy nhót như kiểu lên đồng. Nhưng cũng chẳng thấy ai đáp
lại! Êlia mới chế nhạo: “Các ngươi phải kêu lớn lên nữa. Không chừng thần linh
đang suy tính hay bận rộn chuyện gì; cũng có thể ngài đi vắng hoặc đang ngủ.
Đánh thức ngài dậy đi!” Các môn đệ thần Baal ra sức kêu gào, lại còn rạch mình
cho máu chảy lai láng như kích động lòng trắc ẩn của thần linh. Nhưng vẫn không
thấy gì.
Lúc này Êlia mới giơ tay cầu nguyện: “Lạy Giavê Thiên Chúa của
Abraham, Isaac và Israel, ước gì hôm nay người ta nhận biết chính Người… xin
nhậm lời tôi” (1 V 18,36-37), và lập tức Giavê cho lửa từ trời thiêu cháy hết
mọi của lễ của Êlia. Thấy vậy, toàn dân tung hô Thiên Chúa. Thế rồi, khi được
lệnh của Êlia, họ đem các tiên tri và tư tế Baal xuống núi giết sạch.
Chuyện sảy ra quá bất ngờ khiến hoàng hậu Izabel bàng hoàng căm
tức. Bà thề sẽ lấy mạng Êlia bằng mọi giá. Khi biết thế, vị tiên tri tức tốc
lên đường lánh nạn. Sau một ngày trốn chạy vất vả trong vùng sa mạc khô khan,
ông cảm thấy mệt mỏi chán chường. Con người can đảm và nhiệt thành hôm nào bây
giờ lại rơi vào tình trạng hoang mang cực độ đến nỗi muốn chết cho yên. Ông
thốt lên: “Nay đã đủ rồi, lạy Giavê, xin cất mạng tôi đi, tôi cũng không hơn gì
các bậc tổ tiên”.
Người hùng của Thiên Chúa mà cũng có lúc đảo điên như thế thì
huống chi là tôi! Thế nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó. Kinh thánh kể
tiếp:
Chính trong giây phút giao động và chán nản đó của người hùng, sứ
thần Thiên Chúa đã đến nâng đỡ ông bằng bánh và nước. Êlia đã ăn và uống. Sau
đó tiếp tục hành trình 40 ngày đêm đến núi Sinai. Tại đây ông đi vào cuộc gặp
gỡ và đối thoại với Thiên Chúa. Cuộc gặp gỡ sảy ra không phải trong bão tố, đất
động hay lửa chớp, nhưng trong làn gió thoảng đưa.
Từ trong làn gió thoảng ấy, Thiên Chúa cất lời nâng đỡ và chỉ dẫn
Êlia. Cuộc gặp gỡ thân tình với Giavê đã kéo ông khỏi hố sâu của lao đao thất
vọng. Kết quả, Êlia tìm lại được bình an và sức mạnh nội tâm, tiếp tục ra đi
chu toàn sứ mạng làm chứng cho Thiên Chúa.
Thiết tưởng hành trình đức tin của người Kitô hữu cũng có những
lúc khốn khó lao đao như Êlia vậy. Dù là người nhiệt tâm và can đảm cách mấy
cũng không tránh khỏi tình trạng bị thế gian săn đuổi, đe doạ, và bao chước cám
dỗ tấn công. Lắm lúc tưởng như sắp chìm sâu trong bão tố của hận thù, ích kỷ,
đam mê. Ngay như thánh Phêrô, vị tông đồ năng nổ và xông xáo nhất trong hàng
ngũ các tông đồ, cũng đã từng bị sóng gió làm đảo điên đến nỗi “sắp chìm xuống”
(Mt 14,30). Nhưng khi ông thốt lên lời kêu van, “Lạy Thầy, xin cứu con”, thì
bàn tay đỡ nâng của Thiên Chúa đã giải thoát và đem lại bình an ngọt ngào.
Cho đến hôm nay, những người theo Đức Kitô vẫn chưa hết bị sóng
gió trần gian bủa vây, không chỉ là những truân chuyên trong cuộc sống, nhưng
còn là những cám dỗ tinh vi của quỉ ma. Nhưng liệu trước các phong ba dữ dằn
đó, tôi có nghe được tiếng nói đỡ nâng và nhắc nhở của Thiên Chúa chăng? Lắm
khi tiếng nói của Ngài rất nhẹ nhàng như “gió hiu hiu thổi” chứ không phải như
tiếng đất động, bão tố hay hoả hào.
Thử hỏi: nếu là một thanh niên hay thiếu nữ đang tuổi lớn lên,
trước những lời réo gọi của đam mê xác thịt, liệu tôi có nghe được tiếng nhắc
nhở “phúc cho ai có lòng trong sạch” nơi lương tâm để vượt thoát cạm bẫy dục
tình và tiến lên núi cao với Chúa không?
Nếu vì nhẹ dạ mà sa ngã hay mang thai, trước những sóng gió của từ
khước khinh bỉ, hay giòng xoáy phá thai của thời đại muốn nhận chìm sự sống,
liệu tôi có nghe được tiếng bảo thì thầm trong lương tâm rằng “phá thai là giết
người”, và rồi hướng nhìn lên Chúa, kêu nài một sự đỡ nâng an ủi không?
Nếu là người mẹ có đứa con hư dại hay người vợ có ông chồng hủ
bại, liệu tôi có nghe được lời nhắc nhở “hãy vững tin” của Đức Giêsu để tiếp
tục hành trình làm nhân chứng cho đạo Chúa không?
Nếu là người cha phải lao đao vì trách nhiệm gia đình, bị giong tố
của xã hội tấn công, bị chèn ép, hiểu lầm, khích bác…, liệu tôi có nghe được
tiếng nói “Đừng sợ, có Ta đây”, và rồi đưa tay cho Đức Giêsu để Ngài kéo lên
không?
Cuộc đời người Kitô hữu được ví như hành trình tiến lên núi Thánh
giữa sa mạc nắng cháy, hay như chiếc thuyền đang tìm về bến bờ giữa bao sóng
gió to và gió ngược. Không có ơn Chúa đỡ nâng, chắc chắn con người sẽ ngã gục.
Cũng như nếu không có những chiếc bánh và ấm nước Thiên Chúa trao cho, Êlia đã
bỏ cuộc giữa đường; hay nếu không có bàn tay Đức Giêsu giơ ra kéo lên, Phêrô đã
chìm sâu trong sợ hãi và hoang mang.
Song khi có Chúa, bình an và sức mạnh sẽ đến. Dù giông tố và thách
đố trần gian cứ sảy ra, con thuyền đời tôi vẫn thẳng tiến, vì có Thiên Chúa
đồng hành.
Nhưng để được như thế, có lẽ tôi phải không ngừng kêu lên: “Lạy
Chúa, xin cứu con” (Mt 14,30).
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 14,22-33) là một trình thuật được viết
theo thể văn “thần hiện”, trong đó, các yếu tố văn chương được sắp xếp để làm
nổi bật một cuộc tỏ hiện lạ thường và bất ngờ của một hữu thể thần linh, dành
cho một số đối tượng đặc biệt, nhằm mục tiêu mặc khải một phẩm chất hay một
hành động thần linh.
Hôm ấy, sau khi dân chúng ăn no nê bởi phép lạ hóa bánh ra nhiều
(14,13-21), “Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia trước,
trong lúc Người giải tán dân chúng” (c.22). Đức Giêsu thúc giục, thậm chí là ép
buộc, các đồ đệ xuống thuyền. Người muốn các ông mau chóng rời xa khung cảnh
“huy hoàng” của một phép lạ cả thể, và rời xa đám đông đang phấn khích vì phép
lạ đó. Chính Người đảm nhận việc giải tán đám đông dân chúng này.
“Giải tán xong, Người lên núi riêng một mình mà cầu nguyện. Tối
đến, Người vẫn ở đó một mình” (c.23). Đây là lần đầu tiên Mt nói về việc Đức
Giêsu cầu nguyện, cho dù, như Lc cho thấy, đây là một việc làm rất thường xuyên
của Người. Lần thứ hai và cũng là lần cuối cùng Mt kể về việc Đức Giêsu cầu
nguyện sẽ là trong câu chuyện ở vườn Ghếtsêmani (26,36tt). Điều này kín đáo cho
chúng ta hiểu nội dung lời cầu nguyện của Đức Giêsu tối nay trên núi, khi Người
ở riêng một mình, còn các môn đệ thì đang ở trong thuyền lênh đênh trên biển.
Quả thực, sự kiện Người vội vã bắt buộc các môn đệ rời xa đám đông sau phép lạ
hóa bánh ra nhiều, và sự song song của cảnh tượng cầu nguyện này với trình
thuật Ghếtsêmani, cho phép chúng ta nghĩ rằng lời cầu nguyện của Đức Giêsu ở
đây có liên quan đến cám dỗ về lý tưởng Mêsia hiển thắng mà các môn đệ của
Người (và Hội Thánh mọi thời) phải đối diện. Nói cách khác, sự kiện Đức Giêsu
buộc các môn đệ xuống thuyền khi Người giải tán đám đông, đề nghị một cách hiểu
Đức Giêsu cầu nguyện suốt đêm cho các môn đệ, để họ không bị sa vào chước cám
dỗ về một Đấng Mêsia quyền năng, hiển hách, “hoành tráng”.
Khi Đức Giêsu đang cầu nguyện một mình trên núi, thì chiếc thuyền
của các môn đệ “đã ra xa bờ cả mấy cây số, bị sóng đánh vì ngược gió” (c.24).
Trong Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23-27). Các môn đệ đang
ở trong con thuyền ấy, còn con thuyền thì đang lênh đênh giữa biển.
Trong tư duy Thánh Kinh (x. Is 27,1; 51,9t; Đn 7; G 7,12…), biển
là nơi cư ngụ của các mãnh lực tà thần. Khi con thuyền đã ra xa bờ “cả mấy cây
số” (dịch sát: nhiều stađiôs; mỗi stađiôs = 185m), tức là con thuyền đang ở
giữa vùng cư ngụ và hoạt động của các mãnh lực đó. Cộng đoàn các môn đệ, như
thế, đang ở trong tình trạng bị đe dọa bởi các mãnh lực của bóng tối và quyền
lực tà thần.
Con thuyền của các môn đệ đang bị sóng đánh vì ngược gió. Trước
đây, ở 8,24, tác giả Mt đã từng dùng một lối nói đặc biệt hơn nhiều để mô tả
hoàn cảnh của cộng đoàn Hội Thánh: con thuyền bị tra tấn (basanizô) bởi các cơn
sóng. Khi viết về tình trạng con thuyền ở 8,24 cũng như ở 14,24, có lẽ tác giả
Mt liên tưởng đến những hoàn cảnh đau khổ mà Hội Thánh phải trải qua khi thi
hành sứ mạng. Nhưng có sự khác biệt giữa hai hoàn cảnh. Một bên là những cơn
sóng “tra tấn” con thuyền, như thể có “động đất” (seismos) trên biển (x. 8,24),
tức là những khó khăn đến từ xã hội bên ngoài, từ những hoàn cảnh biển đời nổi
sóng “hành hạ/tra tấn” con thuyền Hội Thánh. Còn bên kia, trong 14,24, là một
nguyên nhân bên trong: trạng thái tâm linh và tinh thần không đúng đắn của các
môn đệ. Đức Giêsu sai các môn đệ xuống thuyền để “sang bờ bên kia” (c.22), là
nơi mà các ông đã từng đến với Người (x. 8,28), tức là trong một vùng dân
ngoại. Ngọn gió thổi ngược (c.24) ngăn cản các môn đệ thi hành lệnh truyền của
Đức Giêsu, có lẽ chính là phản ứng của các ông khi phải rời bỏ nơi chỗ vừa diễn
ra một biến cố hoành tráng cả thể, rời bỏ nơi chỗ trong đó vừa bùng lên niềm hy
vọng về một sự chiến thắng hiển hách, tức là niềm hy vọng rằng Đức Giêsu sẽ trở
thành một thủ lãnh huy hoàng của đám đông dân chúng đang phấn khích vì được ăn
no nê sau một phép lạ cả thể. Chính trạng thái tâm hồn không muốn rời xa niềm
hy vọng đó đã làm cho con thuyền của các môn đệ tròng trành: con thuyền bị
ngược gió.
“Vào khoảng canh tư, Đức Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn
đệ” (c.25). Trong sách Gióp, Thiên Chúa “đi trên mặt nước” (G 9,8: “Duy mình
Người trải rộng các tầng trời, đạp lên trên ba đào biển cả”; x. 38,16). Bằng
cách lướt đi trên mặt biển, Đức Giêsu cho thấy Người là Đấng được Thiên Chúa
ban cho quyền lực thần linh tuyệt đối.
Nhưng phản ứng của các môn đệ lúc này là phản ứng của sự không tin
vào quyền năng và phẩm giá thần linh đó. Trong cái trạng thái tâm linh không
thích hợp như đã nói trên kia (“ngược gió”), khi được nhìn thấy sự thể hiện
phẩm tính và quyền lực thần linh của Đức Giêsu qua việc Người đi trên mặt biển
mà đến với họ, các môn đệ đã không có lòng tin vào quyền năng và phẩm giá thần
linh đó. “Thấy Người đi trên mặt biển, các môn đệ hoảng hốt bảo nhau: ‘Ma đấy!’
và sợ hãi la lên” (c.26). Họ không nhận ra nơi Đức Giêsu vị “Thiên Chúa ở cùng
chúng ta” (x. 1,23). Và vì thế, họ từ khước chấp nhận mọi tính cách hiện thực
trong sự hiện diện của Người bên cạnh họ. Họ nghĩ đó là ma! Họ từ chối thực tại
Người – Chúa nơi Ngài.
“Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng
sợ!” (c.27). Đối diện với phản ứng tiêu cực và sợ hãi của các môn đệ, Đức Giêsu
tự giới thiệu mình. Mệnh đề “cứ yên tâm” nhằm trấn an các môn đệ khỏi nỗi sợ mà
các ông đang trải qua vì thiếu lòng tin. Ứng với lời kêu gọi đó là một khẳng
định quan trọng “chính Thầy đây!”. Lời khẳng định này trước hết nhằm mục tiêu
điều chỉnh: chính là Thầy đây chứ không phải là ma như anh em lầm tưởng. Nhưng
đồng thời, lời khẳng định này lại trùng khít với biểu thức mà Thiên Chúa đã
dùng để tự mặc khải về chính mình trong Cựu Ước (x. Xh 3,14; Is 43, 1.3.10t).
“Ông Phêrô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì
xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài” (c.28). Ông Phêrô có vẻ
tin vào Đức Giêsu. Nhưng đó là lòng tin vào quyền năng làm những sự lạ lùng của
Đức Giêsu chứ không phải là lòng tin vào tình yêu của Người. Ông muốn được “đi
trên mặt nước” tức là muốn được tham dự vào cái điều kiện và thân phận thần
linh của Đức Giêsu. “Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!” (c.29a). Chúa không từ chối
ông Phêrô, trái lại, còn mời ông thực hiện ước muốn của ông. Vấn đề không phải
là Người sẵn sàng thỏa mãn tham vọng của ông Phêrô. Thực ra, mọi kẻ đi theo
Người đều được mời gọi đón nhận và sống trong tư cách và thân phận của người
con Thiên Chúa (x. 5,9). Vì thế, Đức Giêsu không ngần ngại bảo ông Phêrô đi trên
mặt nước mà đến với Người. Vậy “ông Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt
nước, và đến với Đức Giêsu” (c.29b).
“Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ” (c.30a). Ông mong được hưởng
một điều kiện thần thiêng không có bất cứ chướng ngại vật nào. Ông vẫn mang tâm
tính của một người mong phép lạ. Ông vẫn ước mong một cuộc “đến với Thầy” theo
một cách thức lạ thường, huy hoàng và không khó khăn. Ông đã quên mất rằng
người ta trở nên con Thiên Chúa là giữa những chống đối, bách hại và khó khăn
mà thế gian gây ra, như chính Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay ai bị bách hại vì
sống công chính, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị
người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa” (5,10-11).
“Khi bắt đầu chìm, ông Phêrô la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với!”
(c.30b). Nỗi sợ hãi của ông Phêrô ở đây cũng giống như nỗi sợ hãi của các môn
đệ trước đây trong câu chuyện con thuyền của các ông bị “tra tấn” bởi các con
sóng lớn trên biển (x. 8,23tt). Trong câu chuyện đó, cũng như trong câu chuyện
hôm nay, các môn đệ hoặc ông Phêrô đều kêu cầu với Đức Giêsu, xin Người can
thiệp trong những hoàn cảnh khó khăn. Thái độ và cách hành xử này, xét theo một
khía cạnh, là thái độ đáng khen. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng lời
xin của ông Phêrô ở Mt 14,30 phảng phất thái độ và quan niệm được diễn tả trong
Tv 18,5-18 và Tv 144,5-7, theo đó, người cầu xin mong chờ một sự can thiệp
ngoại thường của Thiên Chúa từ trời cao để giải quyết tình trạng bi đát và
tuyệt vọng của con người.
“Đức Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: “Người đâu mà kém tin
vậy! Sao lại hoài nghi?” (c.31). Tất nhiên Đức Giêsu sẵn sàng can thiệp trong
những hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên, điều cốt yếu không phải là những can thiệp
ngoại thường, mà là sự ở với của Người. Khi có Người ở với, người ta có thể làm
được mọi sự (x.19,26) và chắc chắn sẽ được cứu.
“Khi thầy trò đã lên thuyền, thì gió lặng” (c.32). Sự đối nghịch
và thậm chí là phản kháng của các môn đệ đối với lệnh truyền phải rời xa tham
vọng về một vương quốc Mêsia huy hoàng chiến thắng, bây giờ chấm dứt: “Gió
lặng”. Cơn gió thổi ngược ấy vốn là sự kiếm tìm sự vẻ vang phàm trần.
Bấy giờ, “những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói: “Quả thật
Ngài là Con Thiên Chúa!” (c.33). “Những kẻ ở trong thuyền” tức là cộng đoàn
Kitô hữu ở trong Hội Thánh. Cộng đoàn ấy bây giờ tin thật Đức Giêsu là Con
Thiên Chúa và tuyên xưng lòng tin ấy.
Lời tuyên xưng này được đặt ở cuối trình thuật, tức là sau khi Đức
Giêsu đã lướt đi trên mặt biển đồng thời tự mặc khải về mình bằng cách sử dụng
chính biểu thức mà Thiên Chúa tự nói về Người trong Cựu Ước (“Ta là”), và sau
khi Đức Giêsu đã can thiệp để cứu ông Phêrô khỏi tình trạng bị chìm xuống biển.
Vì thế tước hiệu “Con Thiên Chúa” được áp dụng cho Chúa Giêsu ở đây vừa mang
giá trị Kitô học, vừa mang ý nghĩa cứu độ học. Đồng một trật, Đức Giêsu chứng
tỏ Người có quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học) và quyền lực
ấy được thi thố để cứu các môn đệ (phương diện cứu độ học).
Đó chính là xác tín đức tin vĩ đại mà Hội Thánh muốn công bố với
chúng ta hôm nay, và đồng thời cũng là xác tín đức tin làm nền tảng cho cuộc
sống của mỗi tín hữu và của tất cả Hội Thánh trong hiện tại.
Gợi ý suy niệm và chia sẻ
1. Hơn một lần Đức Giêsu mời gọi các môn đệ rời xa lý tưởng Do
Thái về một vương quốc Mêsia đắc thắng kiểu thế gian. Trong bài Tin mỪng hôm
nay, Người bắt các ông xuống thuyền sang bờ bên kia trước, tránh xa cám dỗ tận
dụng phép lạ hóa bánh ra nhiều để mơ tưởng về một phong trào Mêsia hoành tráng…
Ngày nay, hình như Người vẫn thường phải yêu cầu chúng ta xuống thuyền ngay và
sang bờ bên kia như vậy, thay vì mơ tưởng về một Hội Thánh bách chiến bách
thắng bề ngoài với hàng loạt lễ hội không có thực chất Tin Mừng.
2. Sẽ có gió ngược làm cho con thuyền Hội Thánh tròng trành, và
gió ngược đó trước hết là ngược với hướng mà Chúa Giêsu yêu cầu các mộ đệ nhắm
tới. Chính những mơ tưởng về một Hội Thánh đắc thắng ngược với lý tưởng của Đức
Giêsu sẽ là một trong những ngọn gió ngược đó. Rồi biết bao toan tính, biết bao
chương trình, biết bao tham vọng ngược với bản chất và sứ mạng đích thật của
Hội Thánh…
3. Lướt đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ trong đêm, sử dụng
chính biểu thức “Ta là” của mặc khải Cựu Ước về Thiên Chúa để tự trình bày về
chính mình, Đức Giêsu cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa và nắm trong tay quyền
lực thần linh tuyệt đối. Và Ngài đến với con thuyền Hội Thánh trong tư cách Con
Thiên Chúa có quyền linh tuyệt đối đó. Đó không chỉ là chuyện xưa, mà còn là
chuyện của ngày hôm nay nữa. Chúng ta có tin thế không? Chúng ta có cảm nghiệm
về thực tại đó không?
4. Chấp nhận cho ông Phêrô tham gia vào thân phận Con Thiên Chúa
(= đi trên mặt nước) của mình, cứu ông khi ông chìm xuống biển vì thiếu lòng
tin, cùng ông lên thuyền và khiến gió ngược phải yên lặng, Đức Giêsu cho thấy
chính Người, trong tư cách là Con Thiên Chúa có quyền lực thần linh tuyệt đối,
là Đấng cứu độ nhân loại. Chúng ta trải nghiệm quyền năng cứu độ đó như thế
nào?
Thiên Chúa tạo dựng con người. Ngài ban cho họ tự do. Ngài luôn
tôn trọng tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch
sử, Ngài thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu,
Con Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta thấy
trong bài phúc âm hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no nê (Mt 14, 13 - 21) Chúa Giêsu buộc
các môn đệ lên thuyền sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu để
các môn đệ lên thuyền rời khỏi đó; còn phần mình, Ngài lên núi cầu nguyện một
mình. Chúa Giêsu phải thúc giục các môn đệ xuống thuyền sang bờ bên kia. Chúa
Giêsu muốn dạy họ rằng: tránh quan niệm sai lầm của dân chúng muốn tôn Người
lên làm vua theo kiểu trần thế. Đàng khác, Người muốn dạy các môn đệ bài học:
"phục vụ không phải để được danh vọng, quyền uy".
Vâng lời Thầy nên các môn đệ ra đi, nhưng có lẽ các ông không được
hài lòng, các ông không vui vì họ ít ra đã đóng góp trong phần thành công của
bữa tiệc no nê hôm nay mà chỉ vỏn vẹn có "năm chiếc bánh và hai con
cá" (Mt 14, 17). Phép lạ hoá bánh ra nhiều này là một chiến tích lẫy lừng.
Một chiến tích mang lại cho họ những thành công mà họ đang mong mỏi đợi chờ.
Một thành công làm cho họ phấn khích. Một thành công xứng với niềm mong mỏi mà
các ông đã bỏ công đi theo Thầy Giêsu. Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi
ngày Chúa Giêsu làm Vua, cơ hội đó hôm nay đã đến nhưng Chúa lại từ chối. Không
những bỏ lỡ cơ hội mà Chúa còn ra lệnh cho các ông lập tức rời bỏ nơi đó, bỏ
lại những thành công trước mắt mà không phải hối tiếc. Bỏ lại tất cả để đi vào
sứ vụ mới. Đó là ý Chúa Giêsu muốn. Đứng trước lời mời gọi này, các ông hết sức
ngỡ ngàng, nuối tiếc; nuối tiếc đã dẫn các ông đến chỗ bất mãn, chán nản. Chán
nãn, bất mãn gây cho các ông mệt nhọc. Mệt nhọc làm cho các ông ngã lòng. Các
ông đã bước đi nhưng bàn chân rã rời. Chân bước đi nhưng lòng mình còn bị níu
kéo. Từng bước đi đang nặng trĩu cõi lòng. Nhịp đập con tim vẫn mãi dan díu.
Ánh mắt con người ngoái lại đắng sau.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết rất rõ tâm trạng của học trò mình.
Không những Ngài biết họ bằng ánh mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện
trên triền núi. Bởi vì Ngài là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn mà! Các môn đệ
chèo chống vất vả bởi lẽ thuyền các ông đi ngược với sóng gió và hơn nữa chính
các ông còn gặp trở ngại lớn hơn là gặp ngược lại với cả ý muốn. Ý muốn của
Chúa Giêsu lại ngược lại với ý muốn, ngược lại với sở thích của mình. Tư tưởng,
ước muốn làm cho các ông cứ ở mãi trong vòng lẫn quẫn. Con thuyền đang gặp phải
sóng gió chòng chành. Sóng trên biển cả. Sóng trong cõi lòng. Sóng dâng trong
ước muốn. Sóng cứ mãi vỗ về. Sóng cứ mãi nhấp nhô. Từng đợt sóng cứ di chuyển.
Sóng sau xô sóng trước. Sóng sau cao hơn sóng trước. Sóng đánh mất phương
hướng. Sóng làm cho lòng người thêm rối rắm. Sóng vỗ tan vỡ tình người. Sóng vỗ
tan tình hiệp thông. Sóng làm lạc xa niềm tin. Sóng làm cho lòng người nôn nao.
Sóng càng da diết thì càng làm cho lòng người càng nuối tiếc! Sóng vô hình và
hữu hình đang sánh đôi. Sóng vô tình ly tán. Ôi con sóng xôn xao!
Chính lúc đó, Ngài đi trên mặt biển để đến với các ông. Ngài vẫn
hiện diện. Ngài đến gần hơn. Ngài làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài có
quyền năng trên các tạo vật, Ngài có quyền trên bánh ăn no nê, Ngài có quyền
trên cơn sóng, Ngài có quyền năng trên biển cả. Ngài có quyền năng chế
ngự thiên nhiên. Ngài có quyền năng và thấu suốt từng cơn sóng trong cuộc đời
mỗi người. Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực hiện chương trình ấy.
Đi trên sóng nước, Chúa Giêsu cũng để chuẩn bị cho các môn đệ tin vào thiên
tính của Người. Vì chỉ có mình Thiên Chúa mới có được quyền năng như thế. Điều
này mời gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương và quyền năng cứu sống của Chúa
khi chúng ta phải đương đầu với những sự dữ do thiên nhiên hay những sự dữ bởi
ma quỷ.
Nếu trong Cựu Ước, Môisen dẫn dân Do Thái đi qua Biển đỏ một cách
an toàn thì trong Tân Ước, Thánh sử Matthêu cho chúng ta thấy Chuá Giêsu là Môi
sen mới. Đấng nuôi dưỡng dân chúng nơi hoang địa cũng chính là vị Thiên Chúa
giải phóng dân Do Thái khỏi ách Aicập: "Con đường Người nằm trên sóng
biển" (Tv 77, 20). Và sự chiến thắng trên sóng nước tử thần này
thuộc về Chúa Phục Sinh, vì Chúa chế ngự sóng biển là cách diễn tả Chúa tỏ uy
quyền trên thiên nhiên, trên sự dữ và như vậy Người cũng là Đấng chiến thắng sự
chết. Ngài đầy quyền năng, có khả năng đem dân Chúa qua biển cuộc đời còn an
toàn hơn nhiều và an toàn đến Thiên đàng vĩnh cửu.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả tin tưởng vào quyền
năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng
không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không
được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng
ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa. Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp
chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn
chúng ta sẽ được bình an.
Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con tin tưởng mạnh mẽ vào Chúa để
Chúa làm nên cuộc đời chúng con như ý Ngài muốn. Xin dẹp tan những con sóng xô
vô tình đang làm xon xao cõi lòng chúng con. Xin cho chúng con một niềm tín
thác vào Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ
Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến
hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên
mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).
Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng
kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không
hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hui hui, Êlia phải học
phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x.
1V 19, 9a. 11-13a).
Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các
môn đệ được Chúa Giêsu "giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước"
(14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào
đó, họ là "những người ở bên này". Việc các môn đệ phải "sang bờ
bên kia", nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời
của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ
bên kia trước Chúa Giêsu; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ
không thể tới bến bình an.
Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền? Phải
chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn? Chắc chắn có một
cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép
lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua!
Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao!
"Người lên núi cầu nguyện một mình" (Mt 14, 23). Người
cầu nguyện cho ai? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn
bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở
giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ.
Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không
bị chìm vì sóng to gió lớn.
Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông
xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông
quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết; Chúa
Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người
trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến
thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt
của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp
lại lời gọi của Chúa Giêsu, "xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt
nước" (Mt 14,29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông
nghi ngờ.
Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt
nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi
trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy.
Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi
đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không
tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị
chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Với lời kêu cứu của Phêrô: "Lạy Thầy, xin cứu con!" (Mt
14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và
trách: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" (Mt 14, 31) Khi gió thổi
mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con
người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy
trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy.
Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ.
"Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong
thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14,
32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình
dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: "Thầy đây, đừng
sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây", cũng là lời Chúa nói với các
ông sau khi Chúa phục sinh " Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi
ngờ… chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây". Hai khung cảnh khác nhau
về thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ,
cả hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định "chính Thầy đây mà" (x. Lc 24;
Mt 14).
Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi
sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại
trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người
yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền
Giáo hội để sang bờ bên kia.
Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các
cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống
thuyền; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng
ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của
chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn
chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi
trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi
chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa,
xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn
giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời
trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" (Mt
14,27). Amen.
Sau phục sinh, Chúa Giêsu hứa ở lại với các môn đệ cho đến ngày
tận thế. Ngài đã thực hiện lời hứa đó trong Hội thánh, trong Bí tích Thánh thể
để ở với từng người chúng ta cách đặc biệt và luôn nâng đỡ chở che cho chúng ta
mọi nơi mọi lúc trong cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Trong đức tin, chúng ta được gặp gỡ Chúa và nhận được sự trợ giúp
của Ngài. Xưa kia thánh Phêrô và các Tông đồ trong đêm tối chống chọi với sóng
gió, họ sợ hãi vì không cảm thấy Chúa đang ở với mình. Ngay khi Chúa xuất hiện
và tiến đến gần, họ cũng không nhận ra vì lòng còn bối rối. Thế nhưng, Chúa
Giêsu không muốn các Tông đồ phải sợ hãi quá nhiều. Ngài đã lên tiếng xoá tan
nỗi hoảng hốt của các ông: "Hãy yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ!"
Phêrô là người đầu tiên đáp lại lời Thầy nói, ông tỏ niềm tin vào Đức Giêsu và
không còn sợ hãi những cơn sóng to gió lớn còn đang bạt vào thuyền: "Thưa
Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với
Ngài" (Mt 14,28). Trước niềm tin và sự hăng hái của Phêrô, Đức Giêsu đã
ban cho ông đặc ân đi trên mặt biển. Tuy nhiên, khi đối diện với thực tế vượt
quá sức phàm nhân, Phêrô bắt đầu sợ hãi, không ý thức vững vàng vào sự trợ giúp
của Thầy. Chính lúc đó, thân phận phàm nhân của ông đã theo quy luật tự nhiên
bắt đầu chìm xuống nước. Nhưng Phêrô đã biết kịp thời nài xin Chúa cứu giúp cho
lòng tin còn non kém của ông. Lòng tin đó chỉ vững vàng sau ngày Chúa Phục
sinh. Tuy nhiên, sau sự kiện đó, lòng tin của các môn đệ dần dần tiến triển và
hiểu rằng Đức Giêsu là Mêssia Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại.
Ngày nay, nhiều lúc chúng ta cũng gặp những trường hợp giống như
Phêrô, có những lúc cuộc đời gặp gian nan sóng gió, chúng ta hay quên rằng Chúa
vẫn yêu thương và sẵn sàng trợ sức cho chúng ta, chúng ta dễ lo lắng, không
nhận ra Chúa đang tiến lại gần chúng ta, không nhận ra Chúa đang nhắn nhủ hay
nhắc nhở chúng ta. Thường khi, lúc gặp hoạn nạn chúng ta hay phiền trách người
xung quanh không giúp đỡ, nhưng khi Chúa cho cuộc sống khá lên, chúng ta lại
quên giúp đỡ những anh em kém may mắn hơn mình về vật chất và tinh thần. Thật
ra, nhiều lúc Chúa cũng để cho chúng ta gặp khó khăn để thanh luyện chúng ta.
Xưa kia, Chúa Cha cũng để cho Con mình gặp khó khăn vất vả đến chết vì muốn cứu
độ chúng ta, Ngài đã vui lòng đón nhận những hình phạt mà loài người chịu trên
Thánh giá. Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Ngài là Mêssia đau khổ đến cứu
loài người khỏi nô lệ tội lỗi chứ không phải một vị vua trần thế đem lại lợi
lộc vật chất theo ý loài người! Nếu chúng ta thật lòng yêu mến Chúa thì chúng
sẽ đón nhận tất cả những gì Chúa gởi đến, dù là thánh giá hay hoa hồng, miễn là
trong đó có dấu hiệu tình yêu của Chúa đối với chúng ta.
Chúa đến để nâng cao đời sống tinh thần, cho chúng con thoát khỏi
sự lệ thuộc vật chất chóng qua chóng tàn này và hướng về sự thật vững bền. Đời
này là đời tạm. Chúng ta không bỏ những bổn phận đời này nhưng biết hoàn thành
bổn phận cho thật tốt: bổn phận kính Chúa và phục vụ anh em trong tình bác ái
để xứng đáng nhận phần thưởng của Chúa trao, được kết hợp với Chúa và nên con
Chúa đời đời trên Thiên đàng hạnh phúc.
Chúng ta hãy mạnh dạn xin Chúa cho mình vượt qua những khó khăn
sóng gió cuộc đời như thánh Phêrô hôm nay. Những lúc gặp khó khăn như Phêrô
đang bước đi trên mặt biển là lúc chúng ta kiểm chứng được niềm tin của mình:
Chúng ta còn hoài nghi tình yêu của Chúa hay đã vững tin, chúng ta có thật là
chứng nhân của Chúa chưa hay hoài nghi khi gặp thử thách gian nan? Chúng ta có
mạnh dạn chèo thuyền để vượt qua những khó khăn hay buông xuôi và đổ thừa Chúa
không giúp sức!
Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến trợ giúp niềm tin yếu kém của chúng
con. Xin cho chúng con ngày một trưởng thành trong đời sống đức tin, ý thức
nhiệm vụ và bổn phận cải thiện cuộc đời mình, gia đình mình, xã hội mình đang
sống theo sự hướng dẫn của Chúa trong Kinh thánh, qua Giáo huấn của Giáo hội,
theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần trong lương tâm của mình.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Trong cuộc xuất hành của dân Do thái từ Ai Cập về Đất Hứa, có một
phép lạ lớn lao trên biển. Đó là phép lạ vượt qua Biển đỏ. Khi dân Do Thái rời
bỏ Ai Cập đến Biển Đỏ thì quân Ai Cập đuổi theo sát phía sau lưng. Được lệnh
Thiên Chúa, ông Môsê giơ tay trên biển làm cuồng phong nổi lên, nước biển liền
rẽ ra làm hai để lộ đất khô ráo, dân Do thái đi vào lòng biển khô cạn, quân Ai
cập đuổi theo. Đến sáng, khi người Do thái cuối cùng đi sang bờ bên kia. Thiên
Chúa ra lệnh cho Môsê giơ tay trên biển, nước trở lại như cũ. Quân Ai Cập bị
nhấn chìm trong biển, chết không còn một ai sống sót. Ngày đó, Thiên Chúa đã
cứu dân Do thái thoát khỏi dân Ai Cập. Đó là một phép lạ lớn lao Thiên Chúa đã
làm trên biển. Phúc Âm hôm nay kể một phép lạ Chúa Giêsu làm trên biển. Đó là
biển hồ Galilê. Trong dịp hành hương Đất Thánh vào Mùa Chay vừa rồi, tôi có đi
thuyền ngắm trời mây sông nước trên Biển hồ Galilê.
Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là
hồ “Giênêzarét” (Lc5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển “Kinnerét” (Ds 34,11;
Gs 12,13) hay còn gọi là “biển Tibêria” (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành
phố sầm uất ở Galilê, nằm trên bờ tây nam biển hồ. Nằm về hướng bắc Giêrusalem
100Km, biển hồ Galilê là nơi mà dòng sông Jordan đổ vào trước khi chảy qua biển
Chết. Thung lũng và sông Jordan mang một sắc thái địa lý rất đặc biệt, duy nhất
trên thế giới vì thấp hơn mực nước biển:208 mét tại biển hồ Galilê và 300 mét
tại biển Chết. Thực vật ở đây thuộc dạng nhiệt đới, chung quanh biển hồ núi non
bao phủ, lẫn vào con sông Jordan, thời tiết bất thường ở miền đất từ miền nam
đến biển Chết, đó là những yếu tố hình thành những vùng gió giật và giông bão
xảy ra bất ngờ trên biển hồ (Mt 8,23-27; 14,22-23).
Đối với Tân ước, biển hồ Galilê được nói đến nhiều vì là một trong
những trung tâm hoạt động của Chúa Giêsu. Rất nhiều biến cố đã xảy ra tại đây:
Bão tố ngừng lại (Mt 8,24-26), Mẻ lưới kỳ diệu (Lc 5,4-14), Đức Giêsu rảo trên
thuyền (Mc 4,1), đi trên biển (Ga 6,16-21). Những thành ven bờ hồ như Khôrazin,
Bếtsaiba, Caphanaum, Magđala là những nơi Chúa Giêsu thường lui tới, qua nhiều
thế kỷ, biển hồ Galilê được gọi dưới nhiều tên: Hồ Kinnêzét, hồ Giênêsarét, và
biển hồ Tibêria.
Biển hồ và những vùng lân cận, có rất nhiều di tích liên hệ đến
cuộc đời của Chúa và các môn đệ Ngài. Galilê là vùng có núi đồi khô cằn, nhưng
các thung lũng phì nhiêu trải dài từ biển Địa trung Hải cho đến biển hồ Galilê.
Chính trong các thung lũng này đã hình thành nhiều đồn điền trái cây nổi tiếng
đem lại nguồn lợi xuất khẩu. Vào năm 1960, biển hồ là điểm xuất phát cho ngày
quốc gia tưới tiêu, chính quyền Israel cho đào một con kênh lớn dẫn nước từ tận
biển hồ đến sa mạc Negew. Công trình thuỷ lợi mang lại nguồn lợi kinh tế to lớn
cho một nước mà địa dư, khí hậu đa phần được xem là không mấy thuận lợi. Nhiều
nước trên thế giới đã gởi người tới học tập.
Trở lại bài Phúc âm, Thánh Matthêu kể chuyện: trên Biển hồ Galilê,
khi có trận cuồng phong từ thung lũng Baka thổi vào thì tất cả các ngư phủ vốn
quá quen đi thuyền ngang dọc trên biển hồ cũng phải sợ hãi. Các ngài là những
ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã quen thuộc với những cơn
sóng to gió lớn. Vậy mà đêm hôm đó họ đã trải qua một phen hải hùng, sóng to
nổi lên, gió lớn thổi ngược, phải chống chèo rất vất vả các ông mới giữ vững
được con thuyền. Và rồi đã xảy ra một sự kiện bất ngờ. Chúa Giêsu đi trên mặt
nước đến với các môn đệ. Vốn đã khiếp đảm vì biển động sóng gió, các môn đệ nay
hoảng sợ la lên vì họ tưởng là gặp ma. Thế nhưng khi nghe tiếng nói quen thuộc
trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”, các ông mới nhận ra Chúa, lập
tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra
khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo
sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông
và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao lại hoài nghi?”. Khi Chúa và Phêrô
đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi người tuyên xưng: “Quả thật Thầy
là Con Thiên Chúa”.
Tuần vừa rồi, tôi đi thăm các gia đình giáo dân trong giáo xứ. Tôi
đi với hai ông trong hội đồng mục vụ. Đến cổng một gia đình, có con chó to sủa
lớn xông ra như muốn vồ lấy. Chúng tôi hoảng sợ đứng im. Bé Hoa 6 tuổi từ trong
nhà chạy ra, bé nạt con chó: lu lu, đi vô mau. Con chó to hung dữ bỗng ve vẫy
đuôi, trở lại hiền lành chạy vào nhà. Con chó to vậy mà nghe lời cô gái nhỏ vì
bé Hoa là chủ của nó. Còn tôi và mấy ông tuy to con nhưng không phải chủ nó nên
nó chẳng sợ mà còn định nhảy vào cắn. Hôm đó tôi miên man nghĩ về câu chuyện Phúc
âm Chúa nhật này. Các môn đệ sợ hãi trước sóng to gió lớn bão tố sấm sét. Chúa
Giêsu ra lệnh: hãy im đi, tức thì sóng yên biển lặng. Chúa Giêsu có quyền trên
mọi sức mạnh thiên nhiên vì Người là Thiên Chúa sáng tạo, là chủ muôn loài.
Cả hai phép lạ: vượt qua Biển đỏ, Chúa Giêsu đi trên biển có một
điểm giống nhau, đó là quyền năng Thiên Chúa trên mọi sức mạnh thiên nhiên. Tin
vào Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo dựng vũ trụ và muôn loài là chúng ta sống
bình an trước mọi giông bão cuộc đời.
Lời Chúa gởi đến hai sứ điệp, yêu mến và tín thác nơi Chúa Giêsu.
1. Sự hiện diện của Chúa Giêsu, nguồn bình an: Sau khi Chúa Giêsu lên
thuyền, gió bỗng yên lặng. Sự hiện diện của Người đủ sức mang lại yên tĩnh và
chế ngự phong ba bão táp. Biển theo nghĩa Kinh thánh tượng trưng cho quyền lực
của sự ác. Đi trên biển chứng tỏ quyền năng và sự chiến thắng của Chúa Giêsu
trên sự dữ, nguồn gốc của bất an, chia rẽ, đau khổ. Nơi đâu có Chúa Giêsu, ở đó
có bình an. Cuộc đời người Kitô hữu không thể tránh khỏi những phong ba giông bảo
của cuộc sống. Cần phải đến với Chúa Giêsu. Nếu biết đặt Người ở trung tâm đời
mình thì sẽ tìm kiếm được an bình nội tâm, cho dù có gặp biết bao gian truân
thử thách. Chúa Giêsu hiện diện ngay trong cuộc sống của Kitô hữu nếu mọi người
biết đến với Người qua việc nghe, thực thi lời Người, đón nhận Mình Máu Thánh
Người và siêng năng cầu nguyện với Người.
2. Tín thác cuộc đời trong tay Chúa Giêsu: Các môn đệ vì sợ hãi sóng gió
bủa vây nên không nhận ra Chúa Giêsu, ngộ nhận Người là ma. Chúa Giêsu trấn an
họ: “Thầy đây, đừng sợ”. Hơn cả một lời trấn an, đây còn là một mạc khải: sự
hiện diện của Chúa sẽ xua đi mọi nỗi sợ hãi; hãy tín thác cuộc đời trong tay
Người. Khi Người xuất hiện thì gió yên biển lặng; khi Người có mặt thì có sự
bình an. Chính vì thế mà các môn đệ đã thờ lạy Người: Thầy quả thật là Con
Thiên Chúa. Lời tuyên xưng này đồng thời cũng là lời biểu lộ một sự tín thác
nơi Người. Tất cả mọi người trên thuyền cùng tuyên xưng một đức tin, cùng chung
một lòng trông cậy. Trong cuộc sống của mỗi người, niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô
cần được thanh luyện và minh chứng qua thử thách gian nan. Nếu biết yêu mến và
tín thác vào Chúa, thì càng khó khăn vất vả, thì càng vươn lên mạnh mẽ trong
đức tin, luôn có được bình an nội tâm.
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con
cảm thấy sống đức tin
giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy
mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà
bước những bước dài hướng về Chúa. Amen (Mana).
Đời người từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời là một
chuỗi dài của những tiếng kêu: kêu xin, kêu cầu, kêu cứu, kêu gọi... tiếng kêu
ấy được biểu lộ với nhiều hình thức khác nhau: kêu khóc, than thở, nhờ vả, sợ
hãi... điều này muốn nói lên rằng: con người không thể tự lo cho mình, không
thể tự cứu lấy mình. Vì thế, con người cần phải sống liên đới với nhau, nhất là
phải biết hướng lòng mình lên một Đấng siêu vượt trên mình để làm chỗ dựa vững
chắc cho cuộc đời của mình và đảm bảo cho cùng đích của mình.
Trong đời sống tôn giáo, khi con người biết mở miệng kêu xin lên
Đấng mình tôn kính thì có nghĩa là họ đã có đức tin và đã biểu lộ đức tin của
mình. Nhưng bất hạnh thay cho những ai kêu xin với Đấng mà mình không biết và
không yêu mến.
Người Kitô hữu là người có Chúa Kitô trong mình và tin tưởng vào
Chúa Kitô cũng như tin tưởng vào Thiên Chúa mà Đức Kitô đã mạc khải. Chúng ta
cần nhận ra sự thật căn bản này là: Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, là Đấng dựng
nên muôn loài và nuôi sống chúng, trong đó có chúng ta; còn chúng ta là tạo vật
của Ngài. Chúng ta cần đến Ngài để được thương yêu và chăm sóc. Vũ trụ này là
một bản trường ca tình yêu được viết lên nhằm thông truyền rằng: Thiên Chúa là
tình yêu. Ngài yêu thương mọi loài nói chung và yêu thương con người nói riêng.
Hãy kêu cầu Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Đừng ngại mở lời kêu xin
Ngài. Không phải Thiên Chúa không thấy trước những nhu cầu của chúng ta, nhưng
Thiên Chúa muốn chúng ta tự do bày tỏ tấm lòng của mình với Ngài. Nếu Thiên
Chúa chỉ ban cho con người những gì họ kêu xin mà thôi, thì có lẽ rất nhiều
người của chúng ta đã ra tro bụi lâu rồi. Bởi lẽ, những gì là căn cốt làm nên
sự sống cho con người và vũ trụ đã được Thiên Chúa ban cho và gìn giữ liên tục.
Có nhiều điều con người đã không hề thấy để xin nhưng Chúa vẫn ban cho vì chúng
cần cho sự sống của con người. Còn những điều khác, Chúa muốn con người kêu cầu
lên Chúa với mục đích duy nhất là biểu lộ sự gần gũi, thân tình và gắn bó giữa
con người với Thiên Chúa, cũng như biểu lộ sự tín thác trọn vẹn của con người
vào Thiên Chúa. "Ta muốn tình thương chứ không phải hy hy lễ". Quên
kêu cầu Chúa và quên tạ ơn Ngài là thái độ vô tâm, vô ơn nhất của con người.
Khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với mình, các môn đệ
hốt hoảng la lên. Đó là một tiếng kêu trong cơn bối rối và Chúa Giêsu đã đáp
lời họ ngay "cứ yên tâm, Thầy đây, đừng sợ". Rồi khi thấy mình sắp
chìm xuống biển sâu, Phêrô lại kêu la: "Thưa Thầy, xin cứu con", và
Chúa Giêsu đã đáp lời ông. Nếu ngày xưa, Chúa Giêsu đã ở gần các môn đệ thế
nào, thì ngày nay, Ngài cũng ở kề bên chúng ta và cứu giúp chúng ta y như vậy.
Có khác chăng là cách thức Ngài hiện diện với ta mà thôi. Chúng ta đừng dùng
lối suy nghĩ của con người để suy đón về sự hiện diện của Thiên Chúa.
Trong bài đọc 1, tiên tri Êlia cảm thấy hết sức buồn bã và đau khổ
khi ông quyết tâm chống lại việc thờ ngẫu tượng mà bị nữ hoàng Dezebel tìm sát
hại ông. ông đã chạy trốn vào sa mạc và trú ẩn trong một cái hang. Con người
đau khổ ấy đã kêu xin Chúa và cầu mong cho mình được chết đi. Nhưng chính trong
hoàn cảnh đó, ông đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa luôn ở
gần bên ông để giúp sức cho ông và cứu thoát ông. Cũng chính khi đó, ông khám
quá ra rằng: đường lối của Thiên Chúa không giống với đường lối của con người.
Thiên Chúa đến với ông trong một cơn gió nhẹ chứ không đến với ông trong cơn
giông bão hay động đất kinh hoàng như ông nghĩ tưởng. Khi Chúa đến với ông thì
ông tìm được sức mạnh để tiếp tục hành trình của mình.
Cuộc đời của người Kitô hữu chúng ta chắc chắn cũng có những
khoảnh khắc đau buồn và chán nản khi hết lòng sống cho niềm tin mà mình đã lãnh
nhận nhưng lại bị người đời chống đối, bắt bớ và vu khống. Chúng ta hãy vững
tin vào Chúa và không ngừng kêu cầu Ngài. Chính Ngài đang ở kề bên chúng ta và
sẽ giải thoát chúng ta. Vì thế, ta đừng để mình lạc mất lòng tin nhưng hãy
thành tâm kêu cầu Chúa.
Có người đến hỏi vị linh mục:
"Thưa cha, có nhiều lần con cầu nguyện với Chúa, nhưng sao
con cảm thấy chán nản và thất vọng quá. Lời cầu của con không được Chúa đáp
lại. Hơn nữa, những biến cố không may lại cứ dồn dập đến với con. Hầu như con
không thấy Chúa can thiệp vào những sự kiện này cho con. Đôi lúc, con thấy Chúa
ở thật xa. Thậm chí con còn thấy nghi ngờ sự hiện diện của Chúa nữa".
Vị linh mục lắng nghe và nhỏ nhẹ: "Này con, cha hằng cảm nhận
rằng Chúa luôn ở với chúng ta. Nhưng vì con chưa thật sự phó thác vào Chúa,
chưa kiên trì trong việc cầu nguyện và chờ đợi Chúa ban ơn; chưa kiên trì để
khám phá ra ý Chúa trong cuộc sống của con. Vì con chỉ muốn nhìn thấy những
thành quả ấy trước mắt con ngay mà lại không muốn chấp nhận thử thách trong đời
sống của con. Con hãy kiên nhẫn và chờ đợi Chúa".
Rất nhiều người trong chúng ta cũng có những tâm trạng tương tự
như thế trong cuộc sống của mình. Nhưng chúng ta hãy xác tín một điều là Chúa
đang ở bên cạnh ta và không hề bỏ quên một lời kêu xin nào của chúng ta. Những
gì Chúa chưa ban cho ta là vì chúng chưa cần thiết hoặc nguy hại cho đời sống
đức tin của chúng ta mà thôi. Nhưng chắc chắn một điều là "Chúa sẽ kiếp
giải oan cho những ai thành tâm tìm đến với Ngài".
Như có lần chúng ta đã nói: Sống là một hành trình tìm kiếm liên
lĩ, tìm kiếm hạnh phúc và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Có bao nhiên con người thì
có bấy nhiêu cuộc hành trình. Với người kitô hữu, hành trang cuộc đời không gì
khác hơn là Đức Tin. Đức tin là kim chỉ nam, là bảng chỉ đường hướng dẫn chúng
ta đi tới mục đích.
Vậy thì tin có nghĩa là gì? Sách Giáo lý Công Giáo mới có một đĩnh
nghĩa rất vắn gọn: "Tin là lời con người đáp trả lại Thiên Chúa, Đấng tự
mặc khải và hiến mình cho con người, khi ban ánh sáng chứa chan cho con người
đang đi tìm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời mình" (s. 26).
Tin không phải là tin vào một cái gì, vào một học thuyết, một ý
thức hệ, một số lề luật, nhưng tin chính là gắn bó, là gặp gỡ, là bước theo một
Con Người, và để Con Người đó hướng dẫn ta, chỉ cho ta biết đâu là hạnh phúc
đích thực và ý nghĩa tối hậu cuộc đời. Con người đó có tên là Đức Giêsu
Nazareth. Như thế tin là sống với, sống như, sống cho Đức Kitô và cùng với
Người bước đi trong cuộc đời này.
Những sóng gió của Đức tin
Nhưng sống niềm tin vào Đức Kitô đó trong bối cảnh của ngày hôm
nay đang gặp sóng gió mà Lời Chúa hôm nay nói tới với những hình ảnh đầy tính
biểu tưởng.
Nếu "biển" là biểu tượng của cuộc đời này, thì sóng gió
là những thử thách và trở ngại của con thuyền Đức tin.
Tin Mừng cho chúng ta thấy rằng: Các môn đệ và nhất là Phêrô là
những người "đã tin mà vẫn chưa tin", đã tín thác mà vẫn còn hoài
nghi ngờ vực, khi họ phải đối diện với sóng gió cuộc đời. "Thấy Chúa đi
trên biển, họ hoảng hồn mà nói rằng: Ma kìa"! Đúng là những người kém tin,
nên mới "nhìn gà hóa cáo" thôi. Trước những khó khăn, họ không còn
nhận ra sự hiện diện và quyền năng của Chúa nữa!
Nhìn vào các tông đồ để chúng ta cũng soi bóng mình và thấy mình ở
trong đó. Các tông đồ và Phêrô chính mỗi người chúng ta, những người đã tin mà
vẫn còn chưa tin.
Ngày hôm nay chúng ta đang bị thử thách bởi một nền văn hóa vắng
bóng Thiên Chúa (nhiều người thấy Chúa tưởng là ma, thấy ma tưởng là thiên
thần, thấy thiên thần tưởng là quỉ dữ!), một nền văn hóa đề cao tiền bạc, tính
dục, và hưởng thụ cá nhân. Sự hấp dẫn của chúng đã khiến nhiều người bỏ Chúa để
chạy theo những lối sống dễ dãi, thực dụng và vì cái lợi trước mắt mà quên nhân
phẩm và đạo lý của mình.
Cũng như các môn đệ, khi bình an, thành công, thì chúng ta dễ dàng
tin Chúa, đến với Chúa, nhưng những khi hoạn nạn, thất bại thì chúng ta thất
vọng, bỏ Chúa, không cầu nguyện và đến nhà thờ nữa, như bài thơ Dấu Chân Trên
Cát diễn tả: khi bình an yên ổn thì con nhận ra dấu chân Chúa bên cạnh dấu chân
con, lúc con đau buồn lẫn cô đơn. Con chỉ thấy một dấu chân trên cát. Nhưng
Chúa trả lời, chính lúc đó lúc Ta đang ẳm bồng con!
Phải có một Đức Tin mang tính cá vị để khám phá sự hiện diện của
Chúa
Trước những thử thách của cuộc sống, mỗi người chúng ta phải có
một Đức Tin mang tính cá vị vào Đức Kitô. Có nghĩa là Đức Tin đó phải dựa trên
một xác tín, một chọn lựa và dấn thân riêng của tôi để sống gắn bó với Chúa mỗi
ngày. Dù có nhiều lối rẽ, cám dỗ mời mọc hấp dẫn, tôi vẫn xác tín rằng: Chỉ có
Chúa mới mang lại cho tôi ý nghĩa cuộc đời và hạnh phúc bền vững. Dù có bị thử
thách, bị chao đảo, nhưng tôi xin chọn "Chúa là gia nghiệp của riêng
mình" (Tv 32, 12b), tôi vẫn bám lấy Chúa, trung thành với Chúa cho đến cùng.
Đức tin như thế là cuộc gặp gỡ mang tính cá vị với Đức Giêsu, chỉ có đức tin đó
mới giúp chúng ta vững vàng trước sóng gió cuộc đời và chỉ có Đức Tin đó mới
giúp chúng ta khám phá sự hiện diện, dấu chân và cánh tay yêu thương của Chúa
trong cuộc sống của chúng ta.
Lạy Chúa, con thuyền đức tin của Chúng con đang bị sống gió cuộc
đời vùi dập, xin Chúa ban cho chúng con có một Đức tin sống động, mang tính cá
vị và biết tĩnh thức, để dù có phải trải qua những thử thách, chúng con vẫn
trung kiên theo Chúa đến cùng. Xin cho cặp mắt đức tin của chúng con luôn sáng
ngời để nhận ra sự hiện diện của Chúa trong đời chúng con. Amen!
Bài hát “Con tưởng rằng con vững tin…” của Linh Mục nhạc sĩ Nguyễn
Duy quả là suy niệm thật thích hợp cho chủ đề Lời Chúa của tuần 19 thường niên
năm A. Câu chuyện “Chúa đi trên mặt biển” và sự kiện “chìm nghỉm” của Phêrô đã
nói lên thực tại thân phận con người khi phải đối diện với những sức ép của
mãnh lực thiên nhiên,thế lực trần gian và cả chính sự yếu đuối tự thân của mỗi
người. “Con tưởng rằng con vững tin, khi đời sống tòan những hoa hồng”. Nhiều
khi, chúng ta tưởng rằng mình đã đủ lớn,lớn cả thể xác, lớn cả chức vị nhưng
thực ra chúng ta cũng chỉ là một tạo vật thật tầm thường, bé nhỏ và yếu đuối
giữa biển đời mênh mông, đầy bão tố.
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ thiên nhiên. Những đợt sóng dữ, dồn dập vỗ tứ bề, con thuyền thì chòong chành
sắp chìm, bầu trời phủ một màu đen tối, chẳng thấy đâu là bến bờ. Tất cả làm
nên sức mạnh của thiên nhiên khiến cho con người phải hỏang sợ và mất hết
phương hướng, mặc cho những kinh nghiệm từng trải của đời ngư phủ. Sức ép về
tâm lý đã làm cho các môn đệ cảm thấy chới với, mệt mỏi và buông xuôi, hỏang
hốt bảo nhau “Ma đấy!” Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ con người. Những cơn bão tố đến từ quyền lực, trù dập, phe cánh xem ra thời
nào cũng tràn ngập xã hội và cả ngay trong lòng giáo hội, làm mất “lửa tông đồ”
và gây tác hại mất cả niềm tin. Biết đâu là chân lý, còn đâu là tình anh em
huynh đệ hay chỉ là chập chùng thử thách và đêm tối. Chẳng còn ai có nhuệ khí
mà chống chèo, chẳng còn ai nhiệt tâm phục vụ, trước những cơn bão quyền lực,
hay cái tôi nội bộ làm thui chột tính chiến đấu. Hoảng hốt và sợ hãi là tâm
trạng chung của các tông đồ ngày xưa và cả ngày nay trước sức ép ngược gió đến
từ con người! Mất hết niềm tin!
Sức ép của những cơn gió ngược đến từ chính bản thân: Bệnh tật, yếu đuối và cả những cơn “cám dỗ ngọt ngào” của xác
thịt, quyền lực, tình cảm đang làm cho mọi người ngày càng mất hết phương hướng
giữa chợ đời đầy dẫy những cạm bẫy. Giá trị của con người đang bị đảo lộn bởi
những thách thức của nếp sống văn minh hưởng thụ, bởi trào lưu chạy theo thành
tích bề ngoài, “yêu cuồng sống vội, đầy thác loạn”. Con người cứ luôn phải đối
diện với những “cơn sóng ngược” khi sống niềm tin của mình. Mất hết niềm tin!
Không có Chúa trên thuyền cùng đồng hành, các môn đệ một mình
đương đầu với những cơn sóng dữ. Cảm giác bị bỏ rơi và cô độc, lẻ loi sẽ mãi là
những cơ hội làm cho các tông đồ cảm thấy hỏang hốt, sợ hãi và đánh mất hết
phương hướng. Con người đang dần dần tự đánh mất hết niềm tin vào những giá trị
tôn giáo và chỉ cần những thử thách nho nhỏ, những khó khăn hay những đòi hỏi
hy sinh, con người sẽ bị chao đảo, và chìm nghỉm trong vực thẳm của đam mê dục
vọng.
“Sao con lại hoài nghi”. Chúa đang tra hỏi từng người chúng ta về
sự tín thác, tin cậy vào Ngài. Trong mọi nơi mọi lúc, Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn
ở bên cạnh, đồng hành với kiếp người, bởi Ngài hiểu rất rõ thân phận con người
thật mong manh và yếu hèn của chúng ta. Chúa đã từng trấn an Phêrô “cứ yên tâm,
Thầy đây, đừng sợ” nhưng rồi “ông vẫn sợ”
“Sao con lại hoài nghi”. Đó chính là thực tại của con người chúng
ta hôm nay khi mà trước mắt bầy ra biết bao cơn “cám dỗ ngọt ngào” khiến chúng
ta không còn vững tin vào Chúa. Tiền bạc, dục vọng, quyền lực đang ngày càng
làm lu mờ con mắt đức tin của chúng ta.
Lời cầu nguyện:
“Lạy Chúa, xin cứu chúng con kẻo chết mất”. Mang thân phận con
người với sự giới hạn vì “gió ngược”, niềm tin của chúng con dễ tròng trành
giữa biển đời với biết bao thử thách. Xin Chúa hãy là “núi đá” là “điểm tựa” để
chúng con cậy trông và tín thác. “Thưa Thầy, xin cứu con với” …..“Vì lạy Chúa,
Chúa biết con yếu đuối và đổi thay.
Con đang cần đến Chúa từng phút giây, khi an vui cũng như khi sầu
đầy”…. Amen.
20. Con đường của Chúa – ĐTGM.
Ngô Quang Kiệt.
Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, nuôi năm ngàn người ăn uống
no nê, Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ xuống thuyền đi qua bờ bên kia. Rồi
Người một mình lên núi cầu nguyện suốt đêm. Tại sao Chúa có thái độ kỳ lạ như
thế? Tại sao Chúa Giêsu bắt ép các môn đệ ra đi? Tại sao giữa lúc dân chúng
đang phấn khởi tinh thần, giữa lúc uy tín của Người dâng cao như núi, Người lại
bỏ đi? Trong Phúc Âm, thánh Marcô và thánh Matthêu không nói rõ lý do. Nhưng
Phúc Âm thánh Gioan thì nói rõ: “Chúa Giêsu bỏ đi vì Người biết dân chúng muốn
tôn Người lên làm vua” (Ga 6,14-15). Thật là một quyết
định khác thường. Theo thói thường, ta sẽ khuyên Chúa Giêsu lên ngôi làm vua
rồi đi khắp nơi làm phép lạ nuôi người ta ăn uống no nê, mọi người sẽ theo Chúa
và chịu phép rửa tội, cả thế giới sẽ thuộc về Chúa, khỏi mất công truyền giáo
khổ cực.
Không, con đường của Chúa thì khác với con đường của ta.
Con đường của ta là con đường kiêu ngạo trong
khi con đường của Thiên Chúa là con đường khiêm nhường. Ta luôn tìm cách nâng mình
lên, còn Thiên Chúa luôn tìm cách hạ mình xuống. Ta muốn xưng mình là Chúa
trong khi Thiên Chúa lại muốn xuống làm người. Không chỉ làm một người bình
thường, nhưng còn mặc lấy thân phận nghèo hèn, yếu ớt, thậm chí bị coi như một
người tội lỗi nữa. Khi nâng mình lên, ta thường hạ người khác xuống. Còn Thiên
Chúa tự hạ mình xuống để nâng con người lên làm con Thiên Chúa. Con người và
Thiên Chúa đều sử dụng bậc thang, nhưng theo những mục đích khác nhau. Con
người sử dụng bậc thang để leo lên cao. Ai cũng muốn lên cao trong đời sống vật
chất. Ai cũng muốn leo cao trong địa vị xã hội. Ai cũng muốn leo cao trong bậc
thang danh vọng. Còn Thiên Chúa lại sử dụng bậc thang để đi xuống. Từ trời
Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Từ một người bình thường, Chúa còn xuống làm
một người nghèo hèn, một người tội lỗi, một người thất bại.
Con đường ta chọn là con đường rộng rãi, dễ
dãi. Còn con đường của Chúa là con đường chật hẹp khó khăn. Ta luôn tìm sự dễ dãi: làm sao cho đời sống đỡ vất vả, làm sao cho
có những tiện nghi phục vụ đời sống, làm sao cho cuộc đời thành công tốt đẹp.
Còn Thiên Chúa lại chọn con đường chật hẹp, bé nhỏ, khiêm nhường. Trong nghệ
thuật quảng cáo, người ta hứa hẹn cho khách hàng mọi sự tiện nghi thoải mái.
Còn Chúa Giêsu thì hứa với những kẻ muốn theo Người rằng: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta” (Mt 16, 24). Trong các trường đại học người ta quảng cáo: ai học
trường này sẽ thành công, sẽ lên chức, sẽ lên lương. Còn Chúa Giêsu lại dạy các
môn đệ:“Trong anh em, ai lớn nhất thì phải nên như người nhỏ tuổi nhất, và
kẻ làm đầu thì phải nên như người phục vụ” (Lc 22,26).
Chính Chúa Giêsu không đi vào con đường rộng rãi thênh thang,
nhưng đã chọn con đường bé nhỏ, chật hẹp. Người không chọn cứu chuộc con người
bằng những thành công lẫy lừng, những phép lạ kinh thiên động địa. Nhưng Người
đã chọn cứu chuộc nhân loại bằng con đường đau khổ, con đường thập giá, con
đường tử nạn. Chính vì thế, hôm nay, vì sợ đám đông tôn Người lên làm vua, đi
xa con đường khiêm nhường bé nhỏ, Người đã bỏ đám đông mà đi. Người sợ các môn
đệ bị nhiễm thói kheo khoang, phô trương, quyền lực, nên thúc giục các ông
xuống thuyền sang bờ bên kia trước.
Đây không phải lần đầu tiên Chúa gặp cơn cám dỗ loại này. Trong sa
mạc ma quỉ đã xui giục Người bỏ con đường khiêm nhường, đau khổ để đi vào con
đường vinh quang, dễ dãi. Đây cũng chưa phải là cơn cám dỗ cuối cùng. Cám dỗ sẽ
còn trở lại với lời khuyên của Phêrô khi ông ngăn cản Thầy ra đi chịu chết (x.
Mt 16,23). Cơn cám dỗ khốc liết tiếp tục trong vườn Giệt-sê-ma-ni khiến Người
nao núng hầu như muốn tháo lui (x. Mt 26, 39). Cơn cám dỗ không buông tha cả
khi Người đã bị treo trên thánh giá với lời thách thức của mọi người: “Nếu Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi
tin” (x. Mt 27, 42). Nhưng Người đã chiến thắng tất
cả những cám dỗ của ma quỉ, kiên quyết đi vào con đường thánh ý Chúa Cha, con
đường khiêm nhường, vâng lời, hi sinh gian khổ.
Bản thân ta và Hội Thánh, nếu muốn trung thành
với Chúa, không thể có chọn lựa nào khác ngoài con đường của Chúa đã đi.
Quá khứ đã minh chứng: Chính khi giàu sang, quyền thế, thì Hội
Thánh sa sút, khủng hoảng. Trái lại những khi gặp khó khăn, nghèo khổ, bắt bớ,
Hột Thánh lại phát triển mạnh mẽ, vì đang đi vào con đường của Chúa.
Là môn đệ Chúa, ta hãy mạnh dạn bước theo Chúa vào con đường khiêm
nhường bé nhỏ, vào con đường chật hẹp từ bỏ mình, vào con đường thánh giá đau
khổ. Tuy khó khăn, đau đớn, nhưng đó mới là con đường dẫn ta đến với Chúa, ơn
cứu độ của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Chúa bỏ đi, Chúa thúc giục các môn đệ bỏ đi vì sợ người ta tôn
làm vua. Tôi có lựa chọn nào khiến Chúa phải bỏ đi không?
2) Tôi mong muốn Hội Thánh có khuôn mặt nào: uy quyền giàu sang
hay nghèo khó, khiêm nhường?
3) Tôi có sẵn sàng đi vào con đường của Chúa không?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, sau khi đã được no
nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ phải chèo thuyền
qua bờ bên kia.
Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng.
Chỉ còn một mình Đức Giêsu, cầu nguyện. Ngài chìm sâu trong gặp gỡ
Cha, Đấng sai Ngài. Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ. Ngài biết họ đang
vật lộn với sóng gió, một mình. Kinh nghiệm cam go này thật cần cho họ.
Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến. Các môn đệ tưởng
là ma, nên kêu la sợ hãi. Đức Giêsu trấn an họ: "Hãy yên tâm, Thầy đây,
đừng sợ."
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều đề nghị: "Nếu quả là Thầy,
thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy."
Thật là một lời đề nghị làm ta kinh ngạc.
Phêrô có thể chỉ cần nói: Nếu quả là Thầy, thì xin cho sóng gió
yên lặng. Nói như thế dễ hơn nhiều, ít nguy hiểm hơn nhiều. Nhưng Phêrô đã chấp
nhận dấn thân nghiêm túc.
Nếu không phải là Thầy, thì thật là dại dột.
Nhưng nếu đúng là Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt
nước như Thầy.
Đức Giêsu chấp nhận đề nghị của Phêrô: "Cứ đến."
Thế là Phêrô bước ra, đi trên mặt nước, đến với Đức Giêsu.
Thật không thể tưởng tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay
con người có đức tin trở nên nhẹ bổng.
Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên
sau mỗi bước đi: "Đúng là Thầy rồi!"
Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt nước, nhưng phải dám đi trên
mặt nước, thì mới tin trọn vẹn.
Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng
tin mạnh mẽ.
Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao
đi với sóng, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển. Ông chỉ kịp kêu
lên: "Lạy Thầy, xin cứu con". Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy ông và đưa
ông về thuyền.
"Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!"
Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông
xuống.
Chúng ta chỉ bắt đầu hiểu tin là gì khi phải chịu lênh đênh giữa
sóng gió và đêm tối chỉ vì Chúa buộc phải ra đi, khi dám xin đi trên mặt nước
dù Chúa chỉ là cái bóng trước mặt.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua đoạn Tin Mừng trên đây, bạn có thấy Đức Giêsu là một nhà huấn
luyện giỏi để cho các môn đệ trưởng thành hơn trong đức tin không?
Thánh Phêrô đã có kinh nghiệm đi trên mặt nước. Trong đời bạn, bạn
có một kinh nghiệm kinh khủng tương tự như thế không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô, nhưng nhiều khi con
cảm thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy
mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà
bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử hàng hải chắc không bao giờ quên thảm họa đắm tàu Titanic
xảy ra hồi 2 giờ 20 phút sáng ngày 15 tháng 4 năm 1912. đó là con tàu lớn nhất
và sang trọng nhất thời đó. Nó được thiết kế để không thể bị đắm, thế mà đã bị
đắm ngay trong chuyến vượt biển đầu tiên từ Anh sang Mỹ Châu!
Tàu Titanic với bụng tàu chia đôi thành 16 gian bít kín để nước
không vào được. Theo đúng kỹ thuật thì cho dù 4 trong 16 gian bít kín ấy bị
ngập nước, tàu vẫn nổi, nên kể như không thể bị đắm. Nhưng bất ngờ, tàu Titanic
đang chạy thì bị đụng vào một núi băng trôi cách bãi ngầm của phần đất Tân Phần
Lan (New Foundland) 150km, nay thuộc Canađa. Vì đụng mạnh, bên phải tàu bị toạc
ra một vết dài 91 mét khiến 3 gian bít kín ở bụng tàu bị nước tràn vào. Kết quả
là chiếc tàu với khối lượng khổng lồ là 46.000 tấn bị chìm từ từ xuống biển,
mang theo số phận của 1.513 người trên tàu bị chết đuối.
Năm 1913 Hội Nghị quốc tế đầu tiên về an toàn cho sinh mạng trên
biển cả được triệu tập tại Luân Đôn. Hội nghị này đã soạn một số qui định đòi
mọi tàu đi biển phải có đầy đủ phương tiện cứu đắm cho mọi người trên tàu.
Thưa anh chị em,
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng bàn về an toàn cho sự sống con
người trên biển cả. Đối với các môn đệ của Chúa Giêsu cũng như đối với dân Do
Thái nói chung, biển cả tượng trưng cho sức mạnh của sự dữ. Sức mạnh ấy chính
Thiên Chúa đặt dưới quyền năng vô song của Ngài (Tv 88,9-11). Và quyền năng vô
song này cũng được tỏ hiện nơi Đức Giêsu, khi Ngài dẹp yên biển động hay khi
Ngài đi trên biển sóng gió đến với các môn đệ đang hoảng sợ.
Riêng với biến cố Đức Giêsu đi trên mặt biển, điều được nhấn mạnh
là: muốn được an toàn, các môn đệ phải hoàn toàn tin tưởng vào Thầy Giêsu.
Nhưng trong Nhóm 12, người được chú ý hơn cả là Phêrô. Phêrô không những phải
đặt niềm tin hoàn toàn nơi Thầy Giêsu mà còn phải duy trì niềm tin đó, không
nao núng, không nghi ngờ. Thiếu niềm tin mạnh mẽ hơn sóng gió để đối phó với
thử thách, thì cả đến Phêrô là người sốt sắng nhiệt thành đối với Thầy hơn mọi
người trong Nhóm, cũng không thể đứng vững được, mà phải bị đắm chìm. Trái lại,
bao lâu Phêrô vững vàng trong niềm tin, ông được tham dự vào quyền năng siêu
việt của Thầy Giêsu.
Qua biến cố này, chúng ta thấy điểm chủ yếu là lòng tin. Lòng tin
từ tình trạng yếu đuối tiến đến việc tuyên xưng mạnh mẽ, nhờ cảm nghiệm được sự
hiện diện đầy quyền năng của Chúa Giêsu trong chính hoàn cảnh thách đố lòng tin
của các môn đệ. Điều này gợi lên cho chúng ta vài suy nghĩ về lòng tin của
chúng ta và sự dấn thân với lòng tin trong những hoàn cảnh sống khó khăn, thử
thách. Lòng tin của chúng ta là gì, nếu không phải là tin vào Thiên Chúa toàn
năng và ơn cứu độ của Ngài. Đức tin còn phải được những khó khăn, thử thách rèn
luyện mới lớn mạnh trưởng thành. Đức tin nằm yên một chỗ, không phải đương đầu,
đối chọi với sóng gió của cuộc đời, đức tin ấy sẽ luôn yếu mềm, ấu trĩ. Tin là
phải như Phêrô, nhảy vào khoảng trống, phải bước ngay xuống nước để đến với
Chúa. Con người không thể đi trên nước, và niềm tin cũng không tiêu diệt được
sóng gió. Nhưng có Chúa đứng đó, cũng trên mặt nước và sóng gió, nên ông không
ngần ngại nhảy ngay xuống nước để đến với Ngài. Tin là một sự liều lĩnh, nhưng
không phải là sự liều lĩnh tuyệt vọng: nhảy xuống nước để tự tử! Trái lại, tin
là một liều lĩnh tràn đầy hy vọng, vì nắm chắc sẽ gặp được Chúa đang đứng ở bên
kia bờ tuyệt vọng: Ngài là Đấng Cứu Độ, là sự sống.
Nếu giữa gian nguy, thử thách, chúng ta sợ hãi thì càng nguy hiểm
hơn, vì chính nỗi sợ hãi sẽ nhấn chìm chúng ta, khiến chúng ta buông xuôi, thất
vọng. Khi Phêrô chỉ nghĩ đến Chúa, chỉ dựa vào sức mạnh của Chúa, thì ông mạnh,
ông nổi lên mặt nước. Nhưng khi ông nghi ngờ, chỉ nghĩ đến mình, chỉ co rút vào
bản thân, thì ông bị chìm xuống. Khi ông hướng về Chúa, kêu cứu: “Lạy Chúa, xin
cứu con!”Chúa Giêsu liền nắm lấy tay ông. Chúng ta yếu đuối, bất lực trước
những hoàn cảnh khó khăn, thử thách, nhưng nếu chúng ta nghĩ đến Chúa, dựa vào
sức mạnh toàn năng của Ngài và kêu cầu Ngài, thì Ngài sẽ kéo chúng ta lên. Cuộc
sống chúng ta giống như đi trên mặt nước nổi giông bão. Chúng ta hãy kêu đến
Chúa Giêsu. Trước những cơn sóng gió dù khủng khiếp đến mấy cũng đừng quên
hướng về Người có thể cứu chúng ta được, đó là chính Chúa Kitô.
Để tiến đến một lòng tin đích thực, chúng ta phải sống sự hiện
diện của một Thiên Chúa vắng mặt. Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện mà chúng ta
không thấy. Người Kitô hữu sống trong lòng Giáo Hội lắm khi bị chao đảo ghê gớm
vì “con thuyền Giáo Hội”có lúc như sắp bị chìm và biến mất. Còn thân phận người
Kitô hữu thì bị giằng co, giữa nỗi sợ hãi và niềm tin, giữa bất ổn và bình an.
Trong những lúc ấy, người Kitô hữu phải sống kinh nghiệm của một Thiên Chúa
vắng mặt. Vì hoảng hốt và sợ hãi, các môn đệ khó có thể tưởng tượng hay tin
rằng Chúa vẫn hiện diện, nên khi Chúa đến, các ông đã không nhận ra Ngài mà còn
tưởng là bóng ma.
Trong thực tế, đức tin của chúng ta không thể chỉ gói trọn nơi
những lời tuyên xưng, những tham dự lễ nghi phụng tự, những lãnh nhận bí tích,
nhưng đức tin đó phải đi vào cuộc sống thực của chúng ta với mọi hình thức sinh
hoạt của xã hội loài người. Tin Chúa là phải dấn thân vào thực tại, sống chung
đụng với mọi người, chấp nhận đi vào những cực nhọc, vất vả, khó khăn, nguy
hiểm… để cùng với Chúa hoạt động biến đổi bộ mặt thế giới. Đó chính là sứ mạng
của mỗi Kitô hữu đối với thế giới ngày nay mà Công đồng Vaticanô II đã khẳng
định.
Hãy luôn tin rằng Chúa luôn hiện diện và liên đới với chúng ta
trong mọi nỗi gian truân, để từ bên trong, Ngài giúp chúng ta vượt qua mọi sóng
gió bão táp của cuộc hành trình về quê hương vĩnh hằng, mà không phải đắm chìm
như các nạn nhân của con tàu Titanic năm xưa, nhưng được bảo đảm an toàn trên
biển cả như con thuyền của các Tông đồ, vì trong đó có Chúa Giêsu đang hiện
diện.
23. Nơi ẩn náu duy nhất – Achille
Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Phép lạ bước đi trên mặt nước xảy ra sau phép lạ hoá bánh ra
nhiều. Chúng ta con nhớ những gì thánh Gioan tường thuật về các phản ứng của
đám đông: họ muốn tôn Chúa Giêsu làm vua. Có lẽ các môn đệ không phải là không
đồng ý với phản ứng của dân chúng… Vì thế Chúa Giêsu, để kéo họ khỏi sự lôi
cuốn ấy, buộc họ sang bên kia hồ. Về phần Ngài, Ngài lui vào nơi hoang vắng để
cầu nguyện. Tàn đêm, giữa 3 giờ và 6 giờ, Ngài trở lại với các môn đệ trong
những điều kiện lạ lùng, làm nổi bật một trong những ý tưởng chính của đoạn
Phúc Âm này: các môn đệ còn lại một mình với những cơn gian nguy chỉ có một chỗ
ẩn náu: Chúa Giêsu. Chúng ta ghi nhận vài trò nổi bật dành cho Phêrô. Ông nhảy
xuống nước để đi đến Chúa Giêsu, nhưng đức tin của ông chưa được vững chắc như
sau này khi Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho ông. Nó chưa đủ sức để ‘củng cố đức
tin anh em’, nó vẫn còn yếu đuối, nhưng vừa đủ để Đức Kitô đưa tay nắm lấy ông.
Chúng ta hãy để ý các điểm này:
1) Chúa Giêsu bày tỏ trước mắt các môn đệ một
quyền phép dành riêng cho Thiên Chúa. Chỉ mình Thiên Chúa có quyền năng sai khiến thiên nhiên. Kinh
Thánh thường nhắc nhở việc này, từ bài tường thuật việc tạo dựng cho đến nhiều
đoạn Thánh Vịnh qua biến cố vượt Biển Đỏ. Tâm lý của các môn đệ được đào tạo
bởi tinh thần Kinh Thánh, nên tự nhiên sau phép lạ có khuynh hướng nhìn nhận
nơi Chúa Giêsu, Đấng làm chủ thiên nhiên, một vị được nhuần thấm hoàn toàn sự
hiện diện của Thiên Chúa. Thực sự đức tin của họ vào Đức Giêsu – Thiên Chúa chỉ
phát triển hoàn toàn nhờ tác động của Thánh Thần nơi họ. Nhưng ngay từ lúc này
họ phục lạy và thưa: Ngài thực là con Thiên Chúa.
2) Phải lượng định làm sao cách hành động của
các môn đệ và của Phêrô? Trước hết người ta hiểu việc các ông hoảng sợ
khi thấy hiện ra trong ánh sáng nhợt nhạt lúc trời mới rạng đông, điều mà các
ông tưởng là ma. Từ lúc Chúa Giêsu nói với họ và trấn an họ, đức tin của các
ông được khích động. Khi ấy người ta thấy Phêrô lẫn lộn vừa hăng hái vừa tin
tưởng. Lòng hăng hái thúc đẩy ông nhảy xuống nước và lòng tin không giữ vững
ông đủ; vì thế ông chìm xuống. Nhưng, với một phản ứng có tầm quan trọng tối
cao, ông kêu cầu Chúa Giêsu đưa tay nắm lấy ông. Việc này chẳng tiêu biểu cho
một vài lúc trong cuộc sống Kitô hữu chúng ta sao? Bài học cần ghi nhớ: khi
cuộc sống Kitô hữu chúng ta xem ra giống như đi trên mặt nước nổi giông bão,
hãy kêu đến Đức Kitô. Đức tin là một ân sủng, một quà tặng. Vậy phải là điều
chúng ta cầu xin. Bắt chước thánh Phêrô trong một trường hợp khác, chúng ta
phải thưa nhiều lần: ‘Lạy Chúa con tin, nhưng xin
tăng thêm đức tin cho con’ sao?
3) … tại sao lại ngờ vực? Câu Chúa Giêsu hỏi thánh Phêrô đáng cho chúng ta sy nghĩ. Tại sao
có lúc chúng ta ngờ vực? Chúng ta có thể thưa với Chúa mọi khó khăn đang bủa
vây đức tin chúng ta. Đáng lẽ chúng ta phải nói với Ngài sự yếu đuối và các đòi
hỏi của tâm trí chúng ta, các xao động của lòng chúng ta, các nỗi đau khổ đầy ứ
của chúng ta. Nhưng có một cách hỏi không có ý nghĩa, đó là cách hỏi mang ẩn ý
rằng Chúa Kitô xa cách chúng ta hay Ngài không hiện diện. Chúa Giêsu nói với
Phêrô: Tại sao lại ngờ vực, nghĩa là tại sao có giây phút ngươi sinh lòng sợ
hãi làm như thể Ta không có ở đó? Nếu có một nỗi ngờ vực trổi lên trong lòng
chúng ta, chớ gì nó giống như bàn tay chúng ta đưa lên Chúa Kitô và đừng ngờ
vực mà chắc chắn rằng Chúa Kitô có ở đó để nắm lấy.
Sau khi đương đầu và trừng phạt bọn tiên tri Baal tại núi Carmel,
tiên tri Elia bị hoàng hậu Giêxabel đòi mạng. Thất vọng, ông tìm đường trốn lên
núi Horeb miền. Thiên Chúa hiện đến và Ngài đã mạc khải cho ông, như xưa Ngài
đã mạc khải cho Maisen, nhưng không còn là trong bão táp sấm chớp, cũng không
trong tiếng rung chuyển của trái đất, hay trong lửa hồng bừng cháy, nhưng trong
cơn gió nhẹ hiu hiu thổi.
Qua biến cố này chúng ta thấy quyền năng của Thiên Chúa vượt trên
mọi sức mạnh thiên nhiên, nhất là sự hữu hiệu của lời Ngài rất đơn sơ và xem ra
cũng rất nhẹ nhàng. Sự hữu hiệu ấy nói lên lòng thương xót và dịu hiền của Ngài
vượt trên sự công bình và sợ hãi. Và giờ đây, những phép lạ của Đức Kitô, Ngôi
Lời nhập thể, còn kỳ diệu hơn cả thời Elia, đã làm rạng rỡ cho lòng thương xót
và dịu hiền vô bờ của Thiên Chúa.
Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã phán:
- Tư tưởng và đường lối của Thiên Chúa thì khác xa tư tưởng và
đường lối của con người.
Vậy ai dám giới hạn Ngài trong một phạm trù, đặt để Ngài trong một
hệ thống và hạn chế Ngài trong chính hành động của Ngài. Từ chối không chấp
nhận phép lạ chính là từ chối tự do của Thiên Chúa, Đấng quyền năng và nhân
hậu.
Thánh vịnh cũng nói: Mọi vật được tạo dựng nhờ Ngài… Đúng thế,
khắp nơi các nhà bác học khám phá ra những định luật thiên nhiên. Những định
luật này họ không hề sáng chế hay ẩn định, thế mà không lề luật nào mà lại
không có người làm luật.
Vậy ở đây phải chấp nhận một Đấng làm luật toàn năng và vĩnh cửu.
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và làm chủ mọi sự. Nếu có đấng nào ở trên mọi lề
luật, thì đấng ấy chỉ có thể là Ngài. Ngài luôn có thể hành động không cần nhờ
trung gian. Một sự can thiệp trực tiếp được gọi là phép lạ, hành động của Thiên
Chúa.
Qua Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã thực hiện rất nhiều phép
lạ, chúng ta thử đưa ra một vài trường hợp tiêu biểu để khám phá ra ý nghĩa và
mục đích của sự can thiệp này, bởi vì Đức Kitô thường giảng dạy chúng ta qua
những hành động và ngôn từ, qua việc làm và lời nói của Ngài.
Trước hết là tại tiệc cưới Cana. Bữa tiệc đang tiếp diễn thì Mẹ Maria đến nói nhỏ với Chúa: ‘Họ hết
rượu rồi’. Chúa Giêsu sai đổ đầy nước vào các chum rửa tay chân và dạy múc đưa
đến cho chủ nhà. Phép lạ được thực hiện. Chỉ với ý muốn, Chúa Giêsu thực hiện
được một phép lạ, mà chẳng cần đến một phương tiện nào cả. Hành động của Ngài
vượt quá mọi mơ tưởng của các nhà khoa học, không cần gì chất hóa học hay giòng
điện để biến đổi.
Tiếp đến là nơi hoang địa, với năm chiếc bánh và hai con cá, Ngài đã nuôi sống năm ngàn
người, không kể đàn bà và con nít. Và lần khác, với bảy chiếc bánh, Ngài đã cho
bốn ngàn người được ăn no nê. Và hôm nay, Ngài đã vớt Phêrô lên thuyền và làm
cho sóng yên biển lặng.
Trong cuộc sống thường ngày, mọi hành động của Thiên Chúa đều mang
tính cách phép lạ, nhưng vì quá quen thuộc nên chúng ta không nhận ra. Chẳng
khác chi trước sự tận tâm của người mẹ, nào có mấy đứa con cảm nhận sâu xa
được, cho dù thực tế đó là những hành động thật phi thường.
Tuy nhiên, đôi khi Thiên Chúa cũng làm những phép lạ như một
phương tiện thay đổi tùy thời, tùy nơi, tùy nhu cầu và não trạng. Nhưng mục
đích Ngài nhằm tới đó là củng cố niềm tin, giúp chúng ta thay đổi cuộc sống và
con người của mình.
Gặp thời thuận tiện, cũng như không thuận tiện, chúng ta hãy tin
tưởng cậy trông vào Chúa, Ngài sẽ đến cứu giúp và nâng đỡ chúng ta.
25. Thầy đây mà! Đừng sợ!
Anh chị em thân mến,
Đức Piô thứ IX, khi vừa mới lên ngôi Giáo hoàng, có một anh họa sĩ
trẻ mới học nghề, anh ta muốn được nổi tiếng và vừa để kiếm tiền, anh họa hình
Đức Tân Giáo hoàng. Hình họa không giống, không đẹp lắm! Anh đem bức họa vào để
xin Đức Piô 9 ký tên bên dưới. Đức Piô 9, vẫn vui vẻ nhận lời. Bên trên chữ ký,
ngài ghi lại câu Phúc âm này, Matthêu 14, 27: "Cứ bình tĩnh, Cha đây, đừng
sợ." Ý Đức Thánh Cha cũng hơi hài hước. Ngài muốn nói: hình họa vừa xấu
vừa không giống nữa... Nhưng anh chàng họa sĩ xem ra không hiểu, vẫn đem bức
họa in ra và đi bán... Kính mời anh chị em cùng suy niệm câu chuyện Chúa Giêsu
đi trên mặt nước và lời nói của Chúa, chúng ta vừa nêu ở trên...
a/. Nguồn gốc câu chuyện phép lạ Chúa đi trên
mặt biển: Câu chuyện phép lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn 5000 người ăn no
nê, chúng ta nghe trong tuần trước. Câu chuyện này xảy ra, vị trí ở phía bên
kia bờ biển hồ Tibêriađê; tức là phía bên hoang địa; bên này bờ hồ là thành
Capharnaum. Như vậy Chúa giảng dạy rồi hóa bánh ra nhiều cho họ ăn là ở phía bờ
bên hoang địa. Ăn xong trời muốn tối; dân chúng lại muốn tôn Chúa Giêsu lên làm
vua. Người không đồng ý, nên bảo các môn đệ xuống thuyền mau về bên kia bờ là
Capharnaum; còn Chúa, Người lại lên núi một mình. Canh tư đêm đó, lối quá nửa
đêm, Chúa Giêsu đi trên mặt nước, đi đến thuyền của các ông. Khi Chúa đi gần
tới họ tưởng là ma nên la hoảng lên. Chúa Giêsu đã trấn an họ: "Bình tĩnh,
Thầy đây, đừng sợ."
b/. Qua câu chuyện này Chúa muốn
dạy chúng ta điều gì?
Trên đời này, nếu không có niềm tin, con người sợ nhiều thứ lắm:
sợ chết - sợ bệnh tật - sợ bị thua kém - sợ người khác (sợ ma, quỉ)... Con
người sợ những thứ đó, cũng phải thôi, vì trong vũ trụ này, thực ra con người
là một tạo vật xem ra khá bé nhỏ. Bài tin mừng của chúa nhật hôm nay, Chúa
Giêsu lại dạy mỗi người kitô hữu chúng ta: "đừng sợ", đừng sợ những
kẻ chỉ giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn...chỉ sợ Đấng đã giết
rồi, lại còn ném vào hỏa ngục nữa (Lc 12, 4 - 5) - đừng lo cho mạng sống, lấy
gì mà ăn, lấy gì mà mặc (Lc 12, 22) - Tóc trên đầu anh em đã được đếm cả rồi
(Lc 12, 7). Con người lo sợ cũng phải, vì con người thấy mình thua kém, và
không có chổ nương tựa. Ở đây Chúa dạy: "đừng sợ", nhất là "hãy
tin cậy nơi Chúa"
Câu chuyện sau đây, minh chứng cho lòng tin mến vững vàng, không sợ hãi, của
một người cùi, lại mù lòa nữa. Chị Vêrônica, một người Pháp,
vào năm 1979, chị đã ngoài 58 tuổi. 55 năm mắc bịnh cùi, 20 năm bị mù lòa, chị
vẫn làm việc trong một xí nghiệp sản xuất đồ dùng của người cùi tại nước
Cameruon, châu Phi. Trong tập nhật ký của chị có ghi một lời kinh đầy niềm tin,
không sợ hải như sau:
"Lạy Chúa, Chúa đã đến và đã xin con tất cả. Phần con, con
cũng hiến dâng cho Chúa tất cả. Xưa kia, con thích đọc sách, rồi Chúa muốn mượn
đôi mắt của con. T rước đây con thích chạy nhảy trong khu rừng thưa, và Chúa đã
mượn đôi chân của con... Mỗi khi xuân về, con tung tăng hái những cánh hoa
tươi, và Chúa lại xin đôi tay của con...
Con là một phụ nữ, con ưa ngắm nhìn suối tóc óng ả của con, ưa
ngắm nhìn những ngón tay thon nuột xinh xắn của con. Thế mà giờ đây, đầu con
hầu như chẳng còn một sợi tóc nào! Cũng chẳng còn đâu những ngón tay hồng xinh
xinh nữa! Chỉ còn lại vài que củi... khô queo nhám nhúa...!
Chúa ơi, Chúa hãy nhìn xem thân thể kiều diễm của con đã bị hủy
hoại đến độ nào rồi... Thế nhưng con không hề muốn nổi loạn, con lại muốn dâng
lên Chúa lời tạ ơn...Vâng lạy Chúa, muôn đời con sẽ xin thưa hai chữ tạ
ơn...Bởi vì nếu đêm nay, Chúa truyền cho con phải vĩnh biệt cỏi thế, con cũng
sẽ chẳng hối tiếc điều gì. Đời con đã đầy tràn hồng ân kỳ diệu: đó là vì con
được đắm mình trong Tình Yêu vô bờ của Chúa... Lạy Chúa là Cha của con, Cha đã
đối xử tốt với bé gái Vêrônica của Cha... Chiều nay, con xin dâng lên lời
nguyện thiết tha, cho tất cả mọi người cùi trên mặt đất. Xin Cha thương đặc
biệt đến những người cùi tâm hồn, đang đè bẹp hủy hoại họ. Chiều nay, trong âm
thầm con xin tận hiến đời con cho họ, vì họ cũng là anh chị em của con...
Con là bé gái thân thương của Cha. Cha ơi, hãy nắm lấy bàn tay đã
tàn phế của con để dẫn con đi, như người mẹ hiền dắt tay đứa con gái cưng của
mình. Hãy nhận chìm con, sâu xuống tận đáy trái tim Cha, cho con được ở đó với
mọi người thân yêu của con, bây giờ và cho đến mãi muôn đời. Amen..."
Chúng ta vừa nghe một lời kinh tràn đầy niềm tin yêu, không hề sợ
hải, như chính những gì Chúa Giêsu muốn dạy qua bài TM chúa nhật hôm nay. Rõ
ràng đây là một lời kinh nói lên chân lý: Tình yêu mạnh hơn sự chết...
c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Qua bài Tin mừng này, Chúa Giêsu dạy chúng ta: hãy tin vững vàng
nơi Chúa mà không sợ hải. Là người kitô hữu, ta có đủ tin vào lời Chúa không?
Câu chuyện của Chị Vêrônica ta vừa nghe, có đánh động ta không? Ta có muốn cầu
xin Chúa cho ta biết sống niềm tin vững vàng, không sợ hải trước mọi thử thách,
khổ đau trong cuộc sống không?
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
Là Kitô hữu, chúng ta thường nghe cụm từ “hành trình đức tin”. Tin
là một quá trình bước đi không ngừng, tiến mãi về phía trước để gặp Đấng vô
hình. Thỉnh thoảng có dừng chân nhưng không bao giờ đứng lại.
Sau khi hỉ hoan về phép lạ cả thể mà Thầy đã thực thi cho gần vạn
người no nê, các tông đồ lại phải chưng hửng lần nữa vì lệnh của Thầy: Hãy lên
đường! Hãy xuống thuyền mà qua bờ bên kia! Cám dỗ dừng chân đứng lại và nghỉ
ngơi trên thành công, trên chiến thắng vẫn luôn có đó với phận người. Sau khi
khánh thành một công trình hoành tráng, sau khi hoàn thành một cuộc lễ hay một
cuộc tổ chức lớn bé, thì dừng chân, ngồi lại để lượng giá, kiểm thảo để rút
kinh nghiệm là điều cần thiết, nhưng để đứng lại chiêm ngắm vinh quang là một
cám dỗ triền miên và thật khó lường hậu quả. Ròng rã hơn mười mấy năm trong vai
trò thầy giúp xứ cũng như hơn mười mấy năm đời linh mục, bản thân nghiệm thấy
chính mình và các đấng khi xây dựng một công trình nào đó thì chuyện hay đi lui
đi tới ngắm nghía công trình là chuyện như cơm bữa. Ai lại không thích ngắm
nghía vinh quang của mình. Ai lại không nghe người ta trầm trồ về cái gọi là
thành công của mình. Hễ có khách đến thăm thì phải tìm dịp giới thiệu cho được
những gì mình đã “ra tay”.
Các tông đồ năm xưa chẳng hơn gì chúng ta hôm nay. Dù chỉ là những
người giúp phân phát bánh – cá, nhưng các ngài làm như chính tay mình thực thi
kỳ công “phép lạ hóa bánh”. Theo Tin mừng thánh Gioan thì việc người dân muốn
tôn Chúa Giêsu làm vua có thể là do dân chúng tự phát cũng có thể là bởi sự gợi
ý có chủ đích của nhóm mười hai vị rất tham “ngồi bên hữu, bên tả Thầy trong
vinh quang” (x. Mc 10,35-40). Đêm đã về. Dân chúng đã no nê. Chúng mình cũng
đáng được hả hê nghe bao lời chúc tụng chứ. Chuyện bất ngờ đã đến, dù không ai
thích thú chút nào. Thầy ra lệnh tất cả xuống thuyền ngay. Còn Người thì giải
tán dân chúng và lên núi cầu nguyện một mình.
Bỏ vinh quang, bỏ thành công rực rỡ để ra đi là một điều không dễ
chút nào. Cảnh đời phía trước mịt mùng khó tiên liệu và sóng gió ba đào là
chuyện dường như khó tránh. Các tông đồ hôm ấy đã phải đương đầu với hiện thực
ấy. Sóng thì to, gió thì lớn. Thuyền đang chơi vơi nghiêng ngã. Lòng các ngài
cũng ngã nghiêng theo gờ cạnh con thuyền. Tâm trạng của tiên tri Êlia năm nào
cũng không khác gì. Sau chiến tích oanh liệt hạ gục những 450 sư sãi thần Baal,
Êlia đã phải trốn chạy sự truy đuổi, tìm diệt của hoàng hậu Giêdabel. Sau vinh
quang thì tai họa liền kề.
“Ra đi là chết trong lòng một ít”. Chẳng có sự dứt bỏ nào mà chẳng
có xót xa hay đau đớn, nhất là phải từ bỏ những thành công huy hoàng hay những
hạnh phúc êm ả cho dù chúng là hữu hạn của đời thường. Hạnh phúc đích thực vẫn
ở phía trước. Đó là Thiên Chúa, Đấng không chỉ chờ đợi mà đang tiến tới để đón
gặp chúng ta.
Tin là bước đi, là ra đi, tiến về phía trước, về nơi chưa hề biết
như Abraham ngày nào. Bỏ quê hương, xứ sở, bỏ cả gia tộc thân yêu để lên đường.
Xót dạ khi ra đi và bâng khuâng khi tiến về phía trước. Nào là sóng gió cuộc
đời, nào là phong ba tình người, tất thảy như đang chờ đợi để dập vùi, đánh đắm
con thuyền đời ta. Một Phaolô hết lòng hết dạ với người đồng hương Do Thái,
ngài đã khẳng định: “Quả vậy, giả như vì anh em đồng bào của tôi theo huyết
thống, mà tôi có bị nguyền rủa và lìa xa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm
9,3). Hiểu cho đúng thì Phaolô không quay lưng với tôn giáo tổ tiên mà tiến lên
một tầm cao mới trong hành trình đức tin khi đã được diện kiến Đức Kitô phục
sinh, Đấng Thiên Sai mà tổ tiên ông hằng mong đợi, thế mà ngài vẫn mãi bị người
đồng hương xem là phản đạo, bội giáo, bỏ đạo để rồi luôn tìm cách bắt giết. Một
khi đã ra đi, tiến về phía trước thì cái giá cần trả không chỉ là gian nguy,
khốn khó mà cả sự lo âu, phiền muộn. Ngài thú nhận: “Thưa anh em, có Đức Kitô
chứng giám, tôi xin nói sự thật. tôi không nói dối, và lương tâm tôi, được
Thánh Thần hướng dẫn cũng làm chứng cho tôi rằng: lòng tôi rất đổi ưu phiền, và
đau khổ mãi không ngơi” (Rm 9,1-2).
Với Êlia, với Phaolô hay với các tông đồ khi ở trên thuyền chòng
chành giữa biển đầy sóng gió, Thiên Chúa không bao giờ để các ngài cô đơn một
mình. Người hằng ở với họ. Người luôn đồng hành với họ. “Thầy đây, đừng sợ!”
(Mt 14,27). “Ơn Ta đủ cho con” (2Cor 12,9). “Thầy sẽ không để các con mồ côi”
(Gio 14,18). Dù giữa biển khơi hay giữa đêm tối của cuộc đời, Đấng làm người
mãi ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20). Chỉ một điều là hãy
nhắm đích và tiến thẳng trong niềm tin.
Thỉnh thoảng cũng nên biết dừng chân để tự kiểm để định hướng hay
chỉnh hướng, nhưng không được phép đứng lại. Đứng lại là một trong những thái
độ tự hài lòng về thành công của chính mình. Từ chỗ hài lòng đến chỗ tự cao tự
đại là một khoảng cách không mấy xa. Và hậu quả của sự tự kiêu, tự mãn như đã
nhãn tiền. Chưa tính đến chuyện Chúa hạ kẻ tự kiêu và nâng cao người phận nhỏ
(x. Lc 1,52), thì chính kẻ cao ngạo, họ đã tự đặt mình vào vị thế cheo leo và
sẽ ngã không biết lúc nào.
Đứng lại cũng là một hành vi tỏ dấu sự nghi ngờ. Khi thiếu niềm
tin hay khi lòng tin yếu kém thì ta rất dễ bị cám dỗ dừng lại, không can đảm
tiến lên. Những cái sợ như sợ khó, ngại khổ, sợ thất bại… nhiều khi nhấn chìm
chúng ta trong các trở ngại khách quan vốn dĩ không thể tránh của kiếp người.
Không ai là không một lần gặp chông gai, sóng gió. Không ai là
không đã từng nhiều lần ngã quỵ vì gian truân, khốn khó. Chuyện ngã, chuyện té
là chuyện bình thường của phận người. Điều quan trọng là biết chỗi dậy và tiến
lên. Trong niềm tin vào tình yêu của Đấng đã tự nguyện làm bạn đời của ta là
Đức Giêsu, ước gì chúng ta được như thánh tông đồ dân ngoại là “quên đi những
gì phía sau để lao mình về phía trước” (Pl 3,13).
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Nước bao phủ hai phần ba bề mặt trái đất. Chúng ta biết rằng chúng
ta không thể sống nếu không có nước, nhưng đôi khi chúng ta không thể sống với
nước. Nước là một sức mạnh quyền năng và bí nhiệm mà có thể nói là sống hay
chết.
Các tông đồ hiểu nước rất rõ. Họ là những người đánh cá, nên nước
là chính cuộc sống của họ. Đối với họ, nước có nghĩa là sự sống. Nhưng rồi vào
một đêm kia, với những ngọn gió gào thét trên họ và nước gầm rú dưới chiếc
thuyền của họ, họ biết bây giờ nước có nghĩa là chết. Họ kinh ngạc xiết bao khi
thấy Chúa Giêsu hướng về phía họ mà lại đi trên mặt hồ! Khi họ nhận biết rõ đó
chính là Chúa Giêsu chứ không phải là ma, họ mới như trút được nỗi sợ hãi,
nhưng sự bốc đồng của Phêrô chưa thoả mãn. Ông ước ao một điều gì đó hơn là
những gì ông đã thấy nữa kia. Ông trông mong Chúa Giêsu hành động một cách kỳ
lạ hơn nữa kia: “Ông thật sự muốn Chúa Giêsu ban quyền cho ông đi trên mặt
nước”.
Phêrô cầu xin: “Xin cho con đi trên nước để đến với Thầy”. Ngạc
nhiên Chúa Giêsu đáp: “Hãy đến”. Những điều đó không thành công. Phêrô bắt đầu
chìm xuống biển vì thiếu lòng tin. Có lẽ Chúa Giêsu không muốn đáp ứng đòi hỏi
không đúng của Phêrô vì Người muốn dạy cho ông và cho tất cả chúng ta một bài
học, hãy bằng lòng với cách thế mà Chúa đã thực hiện chứ đừng đòi hỏi Người làm
theo cách của ta.
Đó là một bài học ngay với tiên tri cao cả là Êlia cũng phải học.
Êlia đã làm chứng cho quyền năng tuyệt hảo của Thiên Chúa, Đấng đã đáp lời cầu
nguyện của ông, đã mang lửa từ trời xuống thiêu rụi con bò tơ như một của lễ hy
sinh. Điều này đã xảy ra khi những lời cầu nguyện của các tiên tri, các thần
ngoại giáo đã được minh chứng là vô dụng. Nữ hoàng Giêzebel, kẻ thù không đội
trời chung với Êlia, đã giận dữ vì sự thành công của vị tiên tri. Bà đã thề là
bà sẽ giết ông cho kỳ được. Êlia đã chạy trốn để cứu lấy mạng sống. Chúng ta
thấy ông đang trốn trong một cái hang bài đọc hôm nay. Chắc chắn ông đã hy vọng
một sự tỏ hiện kỳ diệu của Thiên Chúa qua một cơn gió lớn mạnh tiếp đó là trong
cơn động đất, rồi là lửa, nhưng Chúa không ngự trị trong những hiện tượng này.
Nhưng Êlia đã thấy Chúa ngự trong ngọn gió nhẹ rì rào. Êlia học biết rằng chúng
ta phải bằng lòng với cách thế mà con Thiên Chúa chọn để hành động.
Chúng ta có thể muốn Thiên Chúa hành động nhân danh chúng ta bằng
những phương cách bất thường, như cho phép chúng ta đi trên nước mà đến với
Người. Nhưng chúng ta vẫn ở lại trên thuyền, thuyền đây biểu trưng là Giáo Hội.
Giáo Hội sẽ không bị chìm cho dù sóng to gió lớn đến mức nào, đó là những gương
mù gương xấu trong Giáo Hội đã làm chúng ta phải bực tức. Giáo Hội sẽ không bị
lật úp bởi những ngọn cuồng phong, đã đe doạ dập tắt đức tin của chúng ta và
làm cho chúng ta phải cực lòng. Dù cho bất cứ điều gì khác có xảy đến, chúng ta
biết rằng ở nơi con thuyền Giáo Hội chúng ta sẽ luôn luôn tìm gặp Thiên Chúa.
Trong Giáo Hội, Thiên Chúa hành động theo cách riêng của Người.
Chúng ta sẽ run sợ và không nghi ngờ gì khi chúng ta thấy Thiên Chúa hiện diện
trong ngọn lửa hồng xuống thiêu rụi lễ vật hy sinh và tiên tri Êlia dâng tiến
nhưng cung cách của Chúa Giêsu đơn giản hơn, giống như ngọn gió thổi hiu hiu.
Người chọn cách nói với chúng ta, không hề ồn ào trong ngọn cuồng phong nhưng
trong âm vang của con người qua những lời trong Thánh Kinh. Người chọn cách đến
với chúng ta không phải trong cơn run rẩy lúc động đất, nhưng dưới những hình
thức đơn giản của bánh và rượu.
Trong mọi trường hợp, qua mọi nhu cầu của cuộc sống, chúng ta sẽ
tìm thấy Thiên Chúa nhưng chúng ta phải ở lại trong con thuyền, để trở nên
những môn đệ trung thành trong Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và
tông truyền.
Bài học của Phêrô bước đi trên biển đến với Chúa, và khi nghi ngờ
sợ hãi ông đã bị chìm xuống cũng là bài học đức tin cho tất cả mọi người Kitô
hữu. Khi nào không tập trung nhìn thẳng vào Chúa Giêsu mà chỉ nhìn vào những
đối tượng khác, chúng ta sẽ bị khủng hoảng.
Một nam tu sĩ trong tu hội của Mẹ Têrêsa Calcutta đã đến than
phiền với mẹ về luật lệ của một vị bề trên đã ban ra, mà ông cảm thấy rằng nó
đã cản trở việc mục vụ của ông. “Ơn gọi của tôi là làm việc cho những người
cùi”, ông nói với Mẹ Têrêsa, “tôi muốn sống cho những người cùi”. Mẹ Têrêsa
nhìn thẳng vào mắt vị tu sĩ một lúc rồi mỉm cười và nhẹ nhàng nói:“Thưa sư
huynh, ơn gọi của sư huynh không phải là làm việc cho những người cùi, nhưng ơn
gọi của sư huynh là thuộc về Chúa Kitô”.
Khi nào chúng ta không nhìn thẳng lên trời, không nhìn vào những
điểm tích cực và lạc quan mà chỉ nhìn xuống, nhìn vào những hoàn cảnh đe dọa
xung quanh, vào điều tiêu cực với lòng bi quan yếm thế, chúng ta sẽ bắt đầu
chìm xuống.
Cha Mark Link đã dùng câu chuyện sau đây để minh họa cho điều này.Một
con tàu đang gối sóng trên đại dương. Những cơn gió mạnh thổi ngược vào những
cánh buồm làm chúng có thể bị rách bươm. Một chàng thủy thủ trẻ được lệnh phải
trèo lên cột những cánh buồm lại. Anh chưa bao giờ trèo lên cột buồm chính vào
thời tiết khắc nghiệt như vậy bao giờ. Anh bắt đầu trèo, và dường như muốn tụt
xuống vì sự gầm thét của gió bão làm cho anh quá sợ hãi khi nhìn xuống. Trong
kinh hoàng, anh tê cóng người lại, không thể leo lên hay tụt xuống được. Hoảng
sợ anh la to:“Tôi sẽ ngã. Tôi sẽ ngã”. Viên chỉ huy hét lên thật lớn trong cơn
gầm thét của bão tố:“Hãy nhìn lên!Hãy nhìn lên sẽ không bị ngã!” “Người đâu mà
kém tin vậy!Sao lại hoài nghi?” (Mt 14,31)
Khi vượt biên đến trại tị nạn Thái Lan, tôi đã học thêm được hai
từ Anh ngữ mới:“boat people and land people”, người đến bằng đường biển đã được
Cao Uy Liên Hiệp Quốc áp dụng chính sách tị nạn cho đi định cư dễ dàng hơn. Sau
khi vượt biên bằng đường bộ sang Campuchia, tôi đã xuống tàu vượt qua Vịnh Thái
Lan. Con tàu chúng tôi sử dụng chỉ là chiếc tàu chở hàng nông sản trên dòng
sông Cửu Long, chứ không phải chiếc tàu đánh cá ngoài biển khơi. Nó nhỏ bé và
mong manh giống như chiếc lá trôi trên mặt đại dương bao la. Vào một đêm giông
bão, trời tối đen như mực, ghé tai vào mạn thuyền có thể nghe tiếng gió kêu rít
bên ngoài. Con thuyền cũ kỹ và bé nhỏ cố gắng trồi lên trên những ngọn sóng cao
rồi lại lao đầu xuống vực thẳm đen tối. Sóng đập vào mạn thuyền kêu răng rắc.
Mọi người trong thuyền chỉ còn nhắm mắt, bịt tai và cầu xin Thiên Chúa cùng Mẹ
Maria cho qua được cơn khủng khiếp này. Bây giờ nghĩ lại kinh nghiệm này, tôi
có cảm nghiệm giống như Phêrô. Ở trên một chiếc thuyền mỏng manh trôi trên biển
cả, có khác nào Phêrô bước đi trên nước. Một kinh nghiệm vô cùng sợ hãi nhưng
cũng tràn đầy ơn phúc!Tôi đã được cứu thoát là nhờ niềm tin và ơn phúc. Nếu bây
giờ lập lại biến cố này, tôi sợ rằng sẽ chìm, vì sợ hãi đã càng ngày càng lớn
và niềm tin lại suy yếu dần. Tôi đã nghi ngờ giống như Phêrô. Và chắc chắn cũng
sẽ chìm giống như Phêrô!Trong lúc các môn đệ cần đến Chúa Giêsu, Ngài đã đến
với họ. Khi có gió ngược và cuộc đời trở nên trắc trở khó khăn, Chúa Giêsu đã ở
đó để giúp đỡ. Ngay khi chúng ta cần đến Ngài, Ngài đã ở ngay đó để giải cứu
chúng ta.
William Barclay chia sẻ như sau:“Trong cuộc đời gió thường thổi
ngược. Có những lần khi chúng ta đi ngược gió, và cuộc đời là một sự phấn đấu
tuyệt vọng với chính mình, với những hoàn cảnh, những nỗi buồn và quyết định
của mình. Những lúc đó, không ai phải phấn đấu một mình, bởi Chúa Giêsu đến với
họ qua những sóng gió cuộc đời, với cánh tay đưa ra để cứu vớt và với giọng
truyền êm ái ra lệnh cho chúng ta phải an tâm, đừng sợ hãi”. Thực ra câu chuyện
Chúa Giêsu đi trên mặt nước không phải là một biến cố tình cờ xảy ra cho các
môn đệ. Đây là dấu hiệu và biểu tượng của tình yêu và quyền năng của Chúa Giêsu
đối với dân Ngài khi gặp bão tố gian nguy. Tất cả chúng ta sẽ cảm nghiệm điều
này nếu chúng ta kêu cầu với Ngài như Phêrô khi xưa: “Lậy Thầy, xin cứu con!”.
Trong Giáo Hội cũng như trong mỗi một cuộc đời người Kitô hữu, tất
cả mọi sự đều diễn ra giữa niềm tin và sự sợ hãi. Đó là Tin Mừng của việc đi
trên mặt nước.
Nỗi sợ hãi. Một chiếc thuyền ở xa bờ và
lênh đênh giữa sóng gió. Đêm tối. Và có một con ma nữa chứ! Một nỗi sợ hãi làm
cho những người mặc dầu ghê gớm cũng phải la lên.
Tin tưởng. Đêm dần tàn và người ta nhận
ra Chúa Giêsu. Ngài bước đi trên biển! Ngài nói: “Thầy đây, các con đừng sợ”.
Và nói với Phêrô: “ Cứ đến đây”.
Đây là ván bài của niềm tin và sự sợ hãi. Phêrô bắt đầu bước đi
trên mặt nước. Nhưng ông sợ và chìm xuống: “Xin Thầy cứu con!” Chúa Giêsu nắm
lấy tay ông và nói: “Tại sao ngươi lại hoài nghi?”. Đây là câu hỏi chính của
bài suy niệm hôm nay. Câu trả lời sẽ là nhiệt tình tin tưởng hoàn toàn mà toàn
bộ bài đọc hướng về đó: “Thầy là Con Thiên Chúa!”
Phép lạ này gây phiền nhiễu. Nó dường như vô ích (các phép lạ khác
là để chữa bệnh) và theo kiểu khổ hạnh, nhưng trái lại phải thấy trong đó một
bài học quan trọng đó là một phép-lạ–mạc-khải. Phép lạ này biểu thị những nỗi
sợ hãi lớn lao của chúng ta và những đỉnh cao của niềm tin tưởng của chúng ta,
khi chúng ta sống đức tin như là một kinh nghiệm“Thầy thật sự là Con Thiên
Chúa!”
Tôi có nói về biểu tượng để ám chỉ rằng phép lạ đã không xảy ra và
phép lạ chỉ là một điều giảng dạy hình tượng về niềm tin hay không? Không,
những người này đã thấy rõ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước. Họ đã thấy gió
lặng yên. Chúa Giêsu đã làm điều đó vì họ, để làm cho niềm tin của họ vững
mạnh: “Thầy đây, các con đừng sợ!”
Giờ đây, được chúng ta đọc lại, cũng chính biến cố này làm cho
chúng ta suy nghĩ về niềm tin của chúng ta vào Chúa Giêsu. Trong cuộc sống yên
ổn, tin vào Chúa Giêsu chính làTin Mừng hy vọng: chúng ta thích điều Ngài nói,
chúng ta muốn làm điều Ngài yêu cầu, nhất là khi Ngài nói về yêu thương.
Bão tố, đêm đen của những đau khổ thể xác, đêm đen của những thất
bại, của phản bội, của tuổi già đang đến. Tin rằng Chúa Giêsu sẽ kéo chúng ta
ra khỏi những làn nước này như thế nào?
Phép lạ xưa kia có thể trở thành phép lạ cho chúng ta. Cũng chính
Chúa Giêsu ở đó và nói: “Đừng sợ”. Và Ngài nói: “Hãy đến đây!”. Nghe và hiểu
được tiếng hãy đến đây chính là cảm thấy trong ta một ngọn lửa tin tưởng giống
như canxi trong các mạch máu của chúng ta. Chúng ta hỏi Ngài chúng ta có thể đi
tới Ngài, đi tới sự vững vàng và an bình, và Ngài nói với chúng ta: “Hãy đến
đây!”. Nếu cuộc chiến chống lại sự sợ hãi rất gay go, chúng ta cảm thấy Ngài nhìn
chúng ta với vẻ nghiêm khắc dịu dàng: “Kém tin thế, tại sao ngươi hoài nghi?”
Ngài nói với chúng ta và với Giáo Hội như thế. Con thuyền tượng
trưng cho Giáo Hội. Giáo Hội bị sóng gió vây bủa, nhưng Ngài hiện diện ở đó.
Khi chúng ta lắng nghe được tiếng nói này “đừng sợ”, sự việc có
thay đổi hay không? Không hẳn, mặc dầu điều này vẫn có thể xảy ra. Nhưng chắc
chắn chúng ta thay đổi, chúng ta mang cái dường như chúng ta không thể mang
được. “Thầy là Con Thiên Chúa. Có Thầy con sẽ tiến bước trên các làn nước sợ
hãi và đau khổ này”.
Tôi không thể đi xa hơn được, duy chỉ kẻ nào đã có kinh nghiệm về
niềm tin mới biết câu “và gió trở nên lặng” có nghĩa là gì.
30. Lạy Chúa, ngài là nơi con nương
ẩn
Anh chị em thân mến.
Anh chị em có dịp nhìn một đứa trẻ nhỏ ung dung bước đi trên
đường, nó bước đi rất nhanh mà không cần nhìn hay quan sát chung quanh. Những
bước chân của nó hết sức tự tin. Dẫu cho con đường có gồ ghề hay đầy những vũng
nước, nó cũng không lo sợ gì hết. Nó vẫn bước đi và vẫn an toàn. Nhìn kỹ lại,
thì ra những bước chân của nó vẫn bước, nhưng còn có đôi tay của người cha luôn
bảo vệ cho nó. Đứa bé đã hoàn toàn tin tưởng nơi cha mình, nên nó không lo sợ
gì trên bước đường nó đi qua vì nó được bảo vệ thật sự. Có những lúc nó không
cần phải bước nữa vì nó đã mệt, những lúc đó nó cũng được an toàn trên đôi tay
của người cha, hơn nữa nó còn được người cha ôm vào lòng. Chính vì biết đặt
trọn niềm tin vào cha mình nên đứa bé không còn lo âu sợ sệt điều gì nữa. Niềm
tin của nó được đền đáp xứng đáng.
"Lạy Thầy xin xứu con".
Lời kêu cứu của Phêrô khi thấy mình sắp bị những cơn sóng biển
nhận chìm. Phêrô đã được cứu và được an toàn, nhưng ông phải nhận lời quở
trách: "Kẻ hèn tin, sao mà nghi ngờ".
Phêrô và các Tông Đồ xuống thuyền vượt biển trong đêm tối. Đối với
các ông đây là những công việc hết sức bình thường, các ông rất thành thạo,
không phải lo sợ gì hết. Các ông tự tin vào tài năng và sức lực của mình. Nhưng
những gì các ông tin tưởng không đem lại bình an thật sự. Các ông phải chống
chọi với gió bão. Màn đêm tăm tối như góp phần làm cho các ông thêm vất vả hơn.
Càng vất vả càng cố gắng, nhưng các ông đã quên mất Chúa Giêsu. Những lúc như
thế Ngài vẫn ở bên cạnh các người mà Ngài yêu thương, nhưng các ông vẫn không
nhận ra, nên mới hốt hoảng. Phêrô nhanh nhẹn nhưng trong lúc nhất thời, ông chỉ
làm theo cảm tính, chưa tin tưởng phó thác, nên ông càng hốt hoảng hơn khi thấy
biết bao sự nguy hiểm chung quanh. Khi đó ông càng nhìn thấy rõ sự bất lực của
con người, chỉ còn biết trông cậy vào Chúa, nên ông la lên: "Lạy Thầy xin
cứu con". Mặc dù bị quở trách là kém tin, nhưng ông đã được bình an khi có
Chúa bên cạnh.
Con người đứng trước những khó khăn thì lo âu sợ sệt, nhất là khi
nhìn thấy được sự bất lực của chính mình. Càng lo sợ hơn khi sự nguy hiểm càng
đến gần mà mình không biết làm sao để thoát khỏi. Đó là tâm trạng của Phêrô
ngày xưa, cũng là tâm trạng chung của con người qua mọi thời đại. Chúng ta,
những con người của thời đại mới cũng không thoát khỏi cái thường tình của con
người như thế.
Những lúc an bình thư thái, những lúc được thành công trong cuộc
sống, những lúc sức khoẻ con người trong tình trạng bình thường không có vấn đề
gì; những lúc đó, Thiên Chúa có hiện diện hay không cũng không cần thiết, vì
chúng ta chưa cần đến. Nhưng khó khăn từ đâu lại tuôn đến, làm cho chúng ta vất
vả, bao nhiêu toan tính giờ đây không thể thực hiện được, những gì đã dự trữ,
giờ đây cũng bay đi mất, thế giới hoàn toàn sụp đổ. Những lúc đó nếu chúng ta
biết la lên như Phêrô: "Lạy Thầy xin cứu con", chắc chắn chúng ta sẽ
được cứu và những lời trách nhẹ nhàng cũng sẽ đến để làm thức tỉnh và làm cho
mìmh nhận ra rằng: Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ không phải chỉ là nhu cầu khi
cần thiết, để giải quyết những khó khăn, rồi sau đó không biết gì đến Ngài nữa.
Phêrô đã nhận ra, nên ông biết tin tưởng phó thác, ông đã được
trao cho trách nhiệm và hoàn thành. Như đứa trẻ hoàn toàn tin tưởng nơi người
cha, nên được bao bọc chở che khi cần thiết.
Chúng ta có dám đặt trọn niềm tin vào Thiên Chúa chúng ta? Hay
Thiên Chúa chỉ là nhu cầu trong những lúc nào cần cho chúng ta sai khiến, ngoài
ra Thiên Chúa không hiện diện trong cuộc sống đời thường của chúng ta. Như thế
thì lời quở trách với Phêrô ngày xưa cũng vẫn là lời cho chúng ta hôm nay: "kẻ
hèn tin, sao mà nghi ngờ". Nhưng Phêrô đã tin và sống trọn niềm tin của
mình. Còn chúng ta, bao giờ chúng ta mới biết quay trở lại như Phêrô, chừng nào
chúng ta mới nhận ra quyền năng Chúa trong đời sống, để biết quỳ gối xuống mà
cảm tạ Hồng Ân.
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết nhận ra Chúa
trong cuộc sống đời thường, để biết tin tưởng và phó thác cho trọn vẹn.
31. Chúa ở đâu khi chúng ta đau
khổ?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Mới mấy tuần trước đây, trong một tai nạn, một người mẹ mất một
lúc ba đứa con, vì bị đuối nước. Trong đám tang ấy, người mẹ vật vã gào lên:
Ông Trời ơi! Ông ở đâu? Sao ông để như thế này? Tôi có tội tình gì mà sao ông
đối xử với tôi như thế?
Thưa quý OBACE, trong lúc người ta đau khổ tột cùng, dù là người
có đạo hay không có đạo, họ vẫn như muốn trách móc Thiên Chúa trách Ông Trời,
và muốn Thiên Chúa trả lời ngay cho những đau khổ của họ, hoặc là muốn Chúa
phải ra tay giải thoát ngay. Trong lúc đau khổ đó người ta thấy dường như Chúa
vẫn im lặng trước những nỗi đau của họ? Phải chăng Chúa làm ngơ trước đau khổ
của con người?
Các bài đọc của chúa nhật XIX hôm nay trả lời cho chúng ta rằng:
Thiên Chúa không im lặng, nhưng Thiên Chúa vẫn đang nói, đang ở kề bên đưa tay
ra để nâng đỡ an ủi chúng ta, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện an ủi
của Ngài, có tin vào quyền năng của Ngài, có đưa tay ra để Ngài kéo ta lên hay
không mà thôi?
Bài đọc một kể lại tâm trạng của Elia, sau khi đương đầu với các
sư sãi của hoàng hậu Giêzabel, đã bị hoàng hậu trả thù, ông phải trốn lên rừng,
chịu đói chịu khát. Trong lúc khốn khổ vì bị lùng bắt như thế, ông cũng cảm
thấy như Thiên Chúa không còn ở với ông, Thiên Chúa bỏ rơi ông, ông nghĩ rằng:
Dù sao ông cũng đã chiến đấu cho Thiên Chúa, đã hết mình bênh vực giới răn lề
luật của Thiên Chúa, tại sao Chúa lại cư xử với ông như thế? Trong lúc ông băn
khoăn oán trách Thiên Chúa như thế, thì Thiên Chúa đã hứa cho ông được gặp
Ngài. Tuy nhiên Isai lại muốn chờ đợi một vị Thiên Chúa oai hùng như sấm sét
giông bão, vì thế ông ra cửa hang để mong gặp Chúa, nhưng Chúa đã không ở trong
sấm sét. Rồi ông lại chờ đợi gặp một Thiên Chúa có sức mạnh làm rung chuyển
trời đất núi lửa, song ông cũng không gặp được ngài. Mãi đến buổi chiều khi làn
gió hiu hiu thổi nhẹ, ông nghe được tiếng Chúa và lấy áo choàng che mặt rồi ra
ngoài cửa hang và ông đã gặp được Chúa. Điều đó cho thấy rằng Thiên Chúa vẫn
hiện diện bên ông một cách nhẹ nhàng, mơn man như cơn gió nhẹ ban chiều. Chúa
vẫn ở bên ông dưới những hình thức rất đỗi bình thường, song ông đã không nhận
ra Ngài. Chỉ khi ông bình tâm, ông mới có thể cảm nhận được sư hiện diện nhẹ
nhàng của Ngài trong cuộc đời ông.
Thánh Phaolô trong bài đọc hai cũng chia sẻ cùng một kinh nghiệm
như tiên tri Isai, khi ông đã miệt mài rao giảng về Chúa Giêsu, song đổi lại,
ông đã phải chịu bao nhiêu đau khổ vì những anh em đồng đạo, vì những kẻ đã thụ
ơn ông gây ra, ông đã tâm sự: Có Thiên Chúa chứng giám: Lòng tôi rất đỗi ưu
phiền và đau khổ mãi khôn nguôi, vì anh em đồng bào đã gây ra cho tôi. Song
Phaolô đã nhận ra rằng: Thiên Chúa là Đấng hiểu lòng ông và Ngài chứng giám cho
sự nhiệt thành của ông và Ngài chính là nguồn an ủi cho ông.
Thánh Mátthew đã kể lại câu chuyện của Phêrô và các tông đồ đương
đầu với sóng gió một mình. Câu chuyện này xảy ra sau khi Chúa Giêsu làm phép lạ
hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người đàn ông ăn no và còn dư. Trong lúc các
tông đồ như đang say mê trong thành công, trong sự nể phục của dân chúng, thì
Chúa Giêsu đã làm các ông mất hứng khi Ngài bắt các ông phải xuống thuyền để
qua bên kia bờ hồ. Lúc đó có lẽ các tông đồ cũng đang ảo tưởng vì nghĩ rằng các
ông đã góp phần vào sự thành công này, thì giờ đây các ông phải xuống thuyền mà
không có Chúa đi cùng.
Chính lúc các ông đang còn như tiếc nuối sự thành công, thì đêm
tối đã bao phủ lấy thuyền của các ông, và sóng gió bắt đầu nổi lên. Tin Mừng
cho thấy, con thuyền và các tông đồ đang chèo chống chính là hình ảnh của Giáo
Hội, bóng đêm là những thế lực của thế gian và ma quỷ, sóng gió là những thử
thách đang muốn nhấn chìm cả con thuyền của Giáo Hội. Qua chi tiết này kinh
Thánh còn cho thấy rằng, một khi không có Chúa Giêsu trong tâm hồn, trong Giáo
Hội, thì chắc chắn bóng tối của sự dữ sẽ xâm chiếm tâm hồn và xâm chiếm cả Giáo
Hội.
Trong lúc các tông đồ đang phải đương đầu với sóng gió như thế,
thì chính Chúa Giêsu đã xuất hiện. Tuy nhiên ngay đến các tông đồ là những
người đã bao năm sống với Chúa, chứng kiến bao phép lạ Chúa làm, vậy mà vào lúc
gặp sóng gió này, họ cũng không nhận ra sự hiện diện của Chúa Giêsu. Khi thấy
Ngài đi trên mặt nước mà đến với các ông, các ông hoảng sợ và nghĩ đó là ma.
Trong lúc thấy học trò của mình hoảng loạn như thế, Chúa Giêsu đã trấn an các
ông: Thầy đây, đừng sợ. Khi sự sợ hãi đi đến tuyệt vọng, thì dường như lời trấn
an của Chúa Giêsu lúc đó đã không được các tông đồ đón nhận cách tin tưởng.
Chính vì chưa hoàn toàn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu, nên
Simon Phêrô mới lên tiếng: Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con
đi trên mặt nước mà đến cùng Ngài. Một lời cầu xin trong hồ nghi! Với lời xin
này, Phêrô như muốn đặt cho Chúa một điều kiện, mà là một điều kiện vượt khỏi
lẽ thông thường, hay nói đúng hơn, Phêrô đang muốn thử thách sự hiện diện của
Chúa, khi ông đòi đi trên mặt nước để đến cùng Chúa Giêsu.
Đòi đi trên mặt nước, là đòi hỏi một phép lạ, đòi được như
Chúa, tức là có thể giẫm đạp trên các sự dữ và thế lực của ma quỷ. Trước
một đòi hỏi như thế, Chúa Giêsu vẫn chiều lòng Phêrô và ra lệnh cho ông bước trên
mặt nước mà đến cùng Ngài. Tuy nhiên, Phêrô vẫn không đủ đức tin để hưởng đặc
ân này, ông hồ nghi và đã để mình bị chìm trong sợ hãi. Nhưng rất may, trong
lúc ông như bị chìm ngập trong sóng to gió lớn của thử thách như thế, ông vẫn
còn tin vào sự hiện diện và lời mời gọi của Chúa Giêsu, vì thế ông đã kêu lên:
Thầy ơi! Xin cứu con với! Thế là Chúa đã đưa tay ra kéo ông lên thuyền và sóng
yên biển lặng. Điều đó cho thấy, dù trong hoàn cảnh dường như tăm tối không lối
thoát, nếu chúng ta tin tường và kêu lên như Phêrô: Chúa ơi xin cứu con, thì
Chúa sẽ đưa tay ra để đỡ chúng ta chỗi dậy.
Thưa quý OBACE, Trong cuộc sống đã nhiều lần chúng ta phải đương
đầu với đau khổ, và cũng nhiều lần, những đau khổ ấy làm cho đức tin của chúng
ta bị chao đảo, có những đau khổ và thử thách liên tục vùi dập khiến chúng ta
có cảm tưởng như Thiên chúa đã không còn hiện diện. Đã nhiều lần chúng ta trách
Thiên Chúa: Tại sao tôi vẫn đi nhà thờ vẫn đi lễ, tại sao tôi vẫn sống tốt, tôi
có gian dối tội lỗi gì đâu mà Chúa lại để cho sự khốn khó xảy ra với gia đình
tôi thế này? Có những lúc dường như ngã lòng, chúng ta còn đặt vấn đề Thiên
Chúa ở đâu? Thiên Chúa có nhìn thấy tôi đau khổ không mà sao Ngài không ra tay
cứu giúp tôi?
Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta, Ngài không bao giờ đứng
ngoài sự đau khổ của chúng ta, và càng không bao giờ muốn chúng ta phải đau khổ
thử thách. Tuy nhiên đau khổ sự dữ vẫn xảy ra là do ma quỷ, do con người đã lạm
dụng tự do Chúa ban để rồi quay lại gây đau khổ cho anh em. Những lúc đau khổ
như thế, Thiên Chúa vẫn đang ở bên ta, nhẹ nhàng như cơn gió chiều để an ủi đỡ
nâng. Ngài hiện diện bên ta qua sự yêu thương của cha mẹ, qua sự nâng đỡ của
người thân và của bạn bè, và nhất là Ngài đã cùng chung vai để chia sẻ gánh
nặng của cuộc sống với chúng ta, và đã dám chấp nhận cái chết để cho chúng ta
được sống và ban ơn trợ lực để chúng ta có thể đương đầu với sóng gió thử thách
của cuộc đời.
Đừng bao giờ để cho cuộc đời chúng ta thiếu vắng Chúa, vì một khi
thiếu vắng Chúa trong cuộc đời, thì sự dữ và ma quỷ sẽ xâm nhập và tấn công
chúng ta. Những khi gặp thử thách đau khổ, đừng bao giờ chúng ta oán trách
Chúa, vì qua những thử thách ấy chúng ta sẽ nhận ra được sự quan phòng kỳ diệu
của Thiên Chúa và nhận ra bàn tay tình yêu của Ngài. Trong mọi thử thách của
cuộc sống, đừng ngại kêu lên như Phêrô: Thầy ơi, cứu con với. Chúa sẽ đưa tay
ra để kéo chúng ta lên và trả lại cho chúng ta sự bình an trong tâm hồn.
Thầy đây, đừng sợ! Đó chính là lời khích lệ an ủi cho chúng ta.
Đừng bao giờ tuyệt vọng khi đối diện với đau khổ, cũng đừng tuyệt vọng về chính
mình, vì cuối đường hầm tăm tối, luôn có một tia sáng hy vọng, giữa nhưng tăm
tối của cuộc đời Thiên Chúa vẫn hiên diện, những lúc chán nản mệt mỏi muốn
buông xuôi, hãy tin tưởng để nói với Chúa Giêsu rằng: Thầy ơi, xin cứu con,
Chúa sẽ trả lời cho mỗi chúng ta: Thầy đây, đừng sợ.
Xin cho mỗi chúng ta dù trong mọi hoàn cảnh sóng gió của cuộc
sống, xin cho chúng ta biết tin tưởng đưa tay ra để cho Chúa nâng chúng ta chỗi
dậy, vì Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Amen.
Đứng bên cạnh con đang chuẩn bị qua cơn giải phẫu nguy hiểm, người
cha không ngừng trấn an con mình với những lý luận dựa trên tài năng nổi tiếng
của nhóm bác sĩ giải phẫu với những phương tiện tối tân, ông còn trấn an con là
sẽ hiện diện bên cạnh để cung ứng mọi nhu cầu cho con.
Nghe xong lời cha khuyên, người con trả lời cho cha:
Xin cha đừng lo lắng nhiều, con không sợ đâu, con tin tưởng phó
thác mọi sự cho Chúa Giêsu, Người hiện diện bên con và giúp con chịu đựng, hy
sinh âm thầm trong tâm trí.
Người cha cảm phục lòng tin của con, vừa hổ thẹn vì mình không có
được thái độ tin Chúa như con mình.
Chúng ta cũng thường hành xử như vậy khi gặp những thử thách xảy
ra cho anh chị em xung quanh, cũng như và nhất là cho chính chúng ta. Phản ứng
tự nhiên trước những thử thách, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phương thế,
những tài năng riêng của con người mà quên đi phần đóng góp tích cực và quan
trọng của Chúa.
Bài Phúc Âm của Chúa Nhật 19 mùa thường niên năm A, trích từ Phúc
Âm Thánh Mátthêu hôm nay trình bày cho chúng ta một toàn cảnh thật ý nghĩa. Ở
đây chúng ta thấy hai khía cạnh: trước hết, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi, xem
ra như Ngài xa cách không còn quan tâm gì đến những nguy hiểm mà các Tông Đồ
đang gặp sóng to gió lớn trên mặt biển hồ Galilêa. Mặt hồ của toàn cảnh là cảnh
tượng các Tông Đồ đang trên thuyền và phải tận lực chiến đấu với những nguy
hiểm. Các ngài là những ngư phủ trên biển hồ Galilêa này, và có thể nói là đã
quen thuộc với những cơn sóng to gió lớn. Hai khía cạnh này xem ra như không có
gì liên hệ với nhau; Thiên Chúa xem ra như hoàn toàn xa lạ, vắng mặt khỏi hoàn
cảnh sống của con người, xa lạ, lạnh lùng với những thử thách của con người
đang gặp phải.
Là môn đệ của Chúa Giêsu, các ngài cũng có thể bị cám dỗ có những
suy nghĩ như vậy. Chúa ở đâu mà tôi không nhìn thấy Ngài đâu cả? Nhưng thật sự
không phải như vậy. Thiên Chúa không vắng mặt, không rời xa con người. Các Tông
Đồ đang gặp sóng to gió lớn là vì tuân lệnh Chúa Giêsu mà chèo thuyền vượt biển
cực khổ giữa ban đêm để qua bên kia bờ. Ban đêm thường có sóng to gió lớn, các
Tông Đồ biết như thế, vì là những ngư phủ trong vùng.
Thông thường các ngài có thể lý luận với Chúa để ở lại với Chúa
chờ qua ngày hôm sau đi lại ít nguy hiểm hơn, và cũng để được nghỉ ngơi sau một
ngày mệt nhọc vì bận rộn lo cho hơn năm ngàn người ăn uống khi nghe Chúa giảng
dạy. Thế nhưng lý do gì mà Chúa ra lệnh cho các Tông Đồ lên thuyền chèo qua bên
kia bờ biển hồ và giữa đêm khuya như vậy?
Các Tông Đồ gặp thử thách nguy hiểm kia là vì tuân lệnh Chúa, và
chúng ta thấy Chúa không để cho những người vâng phục Chúa bị thiệt hại. Phải,
bị thử thách và chịu thử thách nhưng không bị đè bẹp, Chúa để cho các Tông Đồ
phải chiến đấu với thử thách trong một thời gian mãi đến ba giờ sáng rồi Chúa
mới đến với các ngài. Sau biến cố, sau kinh nghiệm và có thể nói được là hai
kinh nghiệm, tập thể các Tông Đồ đi trên thuyền và Phêrô muốn đi trên mặt nước
đang nổi sóng. Sau kinh nghiệm đó, Chúa Giêsu rút ra bài học cho các ông:
"Tại sao các con kém tin thế?", tại sao không tin rằng Chúa hằng hiện
diện bên cạnh, Ngài không xa vắng, Ngài không ngủ quên hay bỏ mặc những kẻ Ngài
đã chọn.
Đó là bài học cho các Tông Đồ sau này khi lãnh nhận sứ mạng chính
thức sau khi Chúa phục sinh: "Thầy đã được mọi quyền năng trên trời dưới
đất, chúng con hãy ra đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân". Đây không phải
là lời hứa suông, mà là một bảo đảm mạnh hơn mọi thứ bảo đảm do con người đặt ra
trong xã hội hôm nay. Những bảo hiểm của con người sẽ vô ích nếu như không có
sự bảo đảm của Thiên Chúa, dù con người không chấp nhận hay không biết đến sự
bảo đảm này, hơn ai hết, sau khi đã trải qua kinh nghiệm trên biển hồ nổi sóng,
các Tông Đồ sẽ xác tín hơn sau này cho sứ mạng làm chứng cho Chúa: "Không
gì có thể tách rời tôi ra khỏi tình yêu Chúa".
Mọi gian nan thử thách đều trở nên tốt đẹp, hữu ích cho những ai
yêu mến Chúa. Chúng ta hãy nhìn lại xem mình đã có kinh nghiệm sống như bài học
của Phúc Âm hôm nay Chúa đã dạy các Tông Đồ chưa? Cùng với các ngài vâng lệnh
Chúa vào thuyền, và sau cơn giông tố chúng ta tuyên xưng: "Thầy là Con
Thiên Chúa", Chúa sống với chúng ta thì chúng ta còn lo sợ chi nữa.
Sự kiện xảy ra qua đoạn Tin Mừng vừa nghe không có chi là khó
hiểu, thế nhưng đâu là mục đích mà Chúa Giêsu định nhắm tới.
Đi trên mặt nước và làm cho sóng gió im lặng, mục đích của Chúa
Giêsu là muốn làm cho các tông đồ vững tin và cậy trông ở Chúa. Thực vậy, sau
phép lạ bánh hóa nhiều Ngài truyền cho các ông lên đường. Lúc bấy giờ trời đã
về chiều mà nước thì lại ngược và gió đã nổi lên, các tông đồ cảm thấy nặng nề
và không mấy hứng khởi. Vượt biển trong tình trạng đó sẽ không thể nào tránh
khỏi vất vả và mệt nhọc. Đang lúc vật lộn với sóng gió, Chúa Giêsu thân hành
hiện đến để an ủi và giúp đỡ. Trông thấy Chúa, lúc đầu các ông tưởng là ma.
Nhưng Chúa đã lên tiếng để trấn an, rồi lại truyền cho sóng gió yên lặng và con
thuyền yên hàn cặp bến.
Trước hết đối với Phêrô, phép lạ này có tính cách quan trọng, ông đã tỏ ra yêu mến và nhiệt
thành đối với Chúa, nhưng việc xin phép lạ vô cớ đã tỏ ra ông là người hấp tấp
thiếu suy xét, nhiệt thành không phải lúc khi xin phép lạ được đi trên mặt
nước. Trong trường hợp này cũng như trong nhiều trường hợp khác, ông đã nói
trước và làm trước các tông đồ. Để đem lại cho ông một bài học, Chúa đã để ông
lảo đảo đến sắp chìm và sau này Chúa còn để ông sa ngã… song nhờ lòng tin mạnh
mẽ, trong lúc nguy cơ ông đã kêu cầu Chúa và Chúa đã giơ tay cho ông nắm lấy,
rồi đưa ông lên thuyền với Ngài. Như thế, Chúa muốn bảo ông hãy tin tưởng vào
Chúa và chỉ nhờ một mình Ngài, ông mới được đứng vững. Ông chỉ được cứu thoát
nếu biết nắm chặt vào bàn tay Chúa.
Tiếp đến là đối với Giáo Hội. Con thuyền của các tông đồ là
một hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội, trong đó Phêrô là người đứng đầu, vì
Chúa đã thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Phêrô… Đúng thế, Giáo Hội không khác
gì một con thuyền của các tông đồ, vượt biển giữa cảnh bão táp. Có những khó
khăn từ bên ngoài, khác nào những trận cuồng phong thổi ngược, đồng thời cũng
có những khó khăn tự bên trong khác nào những ngọn sóng ngầm không kém phần
nguy hiểm. Các tông đồ đã phải cực nhọc chèo chống, mà đôi khi còn có cảm giác
chìm mất, đến nỗi phải thốt lên: “Lạy Thầy, xin hãy cứu chúng con kẻo chúng con
chết mất”.
Tuyệt vọng mà không mất niềm tin, trong lúc không đợi chờ, thì
Chúa Giêsu đã đến, Ngài khiến sóng gió phải yên lặng và đưa con thuyền tới bến
bình an. Bao giờ Chúa cũng bảo vệ Giáo Hội Ngài khỏi đắm chìm cho dù cuồng
phong và sóng gió có thổi mạnh.
Và sau cùng là đối với mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta là một phần tử của Giáo Hội, cũng thường gặp
phải những khó khăn, những giông tố từ bên trong cũng như bên ngoài, làm cho
chúng ta có cảm giác bị bỏ rơi và chìm mất. Tuy nhiên, cũng như Giáo Hội, Chúa
luôn nâng đỡ và cứu giúp, miễn là chúng ta biết tin tưởng chạy đến với Ngài.
Bão táp sẽ qua, cuồng phong sẽ dứt, trời quang mây tạnh sẽ trở lại và chúng ta
sẽ được sống trong tình thương và sự an bình của Chúa. Trong những ngày hạnh
phúc, chúng ta đã dễ dàng lãng quên Chúa và chỉ trong giờ phút đen tối, chúng
ta mới nhớ đến Ngài, đó là dấu chỉ của một đức tin thiếu trưởng thành, mang
nặng tính chất vị kỷ và cầu an. Chính vì thế mà hôm nay chúng ta hãy suy nghĩ
và đặt lại vấn đề niềm tin của chúng ta đối với Chúa hiện giờ như thế nào? Đức
tin chân chính sẽ giúp chúng ta nhận ra dấu chỉ của Chúa trong mọi hoàn cảnh
của cuộc đời, trong sáng cũng như đen tối, vui sướng cũng như đau khổ để rồi
chúng ta sẽ xử sự đúng với tinh thần Phúc Âm.
Bởi vì, trong giây phút này, chúng ta hãy thành tâm kêu lên: “Lạy Chúa, xin hãy thêm đức tin cho chúng con…”
34. Đức tin trưởng thành – Lm Vũ
Đình Tường
Sau khi giải tán đám đông Đức Kitô sai các môn đệ xuống thuyền qua
bên kia còn Ngài ở lại một mình cầu nguyện. Khoảng gần sáng Ngài đi trên mặt
nước đến với các ông. Các tông đồ vất vả chèo chống, đương đầu với sóng to, gió
cả, vất vả đến đứt hơi. Giữa biển sóng chập trùng sao như có bóng người đang đi
trên sóng, vững vàng như đi trên đất bằng. Có mơ không, có mệt quá nhìn cá hoá
sóng, hay phần hồn át phần xác? Xoa mặt, dụi mắt nhìn vẫn thấy hình ảnh đó. Rõ
ràng bóng người đang đi đến, mỗi lúc một gần hơn. Đã sợ còn sợ hơn. Bỗng nhiên
bóng đó lên tiếng trấn an, dù gió lớn nhưng nghe giọng rất quen thuộc. Dẫu thế
lúc hoảng hốt vẫn không nhận rõ giọng của ai: Đừng sợ, Thầy đây. Phêrô, nửa
tin, nửa ngờ, lấy hết can đảm lên tiếng nếu là Thầy xin cho con đến với Thầy.
Phêrô bước ra khỏi thuyền, lạ thay, sóng gió thế mà ông bước trên đầu sóng,
bình yên,đến cùng Thầy . Cái cảm giác lâng lâng đang diễn ra bỗng thấy con sóng
khổng lồ ập đến che khuất Thầy, Phêrô đâm hoảng vội la lớn xin Thầy cứu. Đức
Kitô nắm tay ông dẫn đi trên sóng cả. Cả hai vào thuyền an toàn. Đức Kitô nhẹ
nhàng nhắc Phêrô hãy tin vào sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa. Bão táp,
sóng cả, biển gầm sóng vỗ đều qui phục quyền năngThiên Chúa.
Để được cùng đồng hành với Đức Kitô cần đặt trọn tin tưởng vào
Ngài. Ngài là người bạn đường, luôn sóng vai, kề bên, mặc dù không nhìn thấy,
nhưng Ngài luôn cùng đồng hành với ta khi an vui cũng như khi hoạn nạn. Ta
không thấy Ngài nhưng Ngài thấy ta và cùng đi với ta trên đường đời. Mỗi bước
chân ta bước đều có bước chân Ngài bước theo nhưng ta không thấy, không nhận
biết bởi Ngài luôn theo sát ta như bóng với hình giữa trưa ánh sáng chan hoà.
Bởi không thấy Ngài nên khi gặp hoạn nạn ta hay bối rối quên có Ngài hiện diện.
Bởi quên và bối rối nên ta không tìm nương tựa nơi Ngài nhưng lại tin vào những
gì nhìn thấy, sờ chạm được vì thế nỗi sợ càng tăng, cô đơn càng đặm và thất
vọng chập trùng. Phêrô nơi biển khơi, sóng cả đã có kinh nghiệm đó. May mắn cho
Phêrô ông đã lên tiếng kêu cầu và đã nhìn thấy bàn tay Thầy dơ ra cho ông nắm
lấy. Bao lần trên đời ta cũng kêu cầu, bàn tay Thầy cũng dơ ra cho ta nắm nhưng
ta lại không nhận ra bàn tay thần diệu đó, lại đi nắm bàn tay nhân loại và đặt
hi vọng vào bàn tay giới hạn của con người nên vấn nạn đã không được giải quyết
thấu đáo mà nhiều khi còn gây phức tạp hơn. Cũng là bàn tay nhưng bàn tay Thầy
có thần lực giải quyết mọi khó khăn, trong khi đó bàn tay con người bị tiền tài
giới hạn thường làm hỏng chuyện lớn. Bao lần trong đời Thiên Chúa đã ban cho ta
nhiều ngạc nhiên. Ngạc nhiên đến độ không ngờ và cũng không ai đoán được. Vì
thế khi gặp hoạn nạn, gian nan hãy làm sống lại những ngạc nhiên đó, hãy nhớ
lại những lần Thầy cùng đồng hành với ta để chạy đến với Thầy, nắm chặt tay
Thầy để được kéo lên thuyền an toàn.
Cuộc sống không thể tránh khỏi bão tố trong đời. Khi bão tố đến
đừng tự một mình chống đỡ, đừng đặt trọn niềm tin vào bàn tay thế nhân. Nhờ họ
giúp sức, an ủi nhưng cần đặt trọn niềm tin vào lòng Chúa xót thương bởi Ngài
không bỏ rơi ta bao giờ. Phêrô trong cơn gió bão đã tự tin vào sức mình và đã
bị chìm đắm trong khi bạn ông trên thuyền dù thương tiếc nhưng bất lực. May mắn
cho Phêrô trong lúc nguy nan ông nhớ đến và xin Thầy kéo khỏi hố sâu bão táp.
Thầy không bao giờ ngờ vực ta chỉ có ta ngờ vực Thầy. Thầy luôn đồng hành với
ta và luôn trung tín trong lời Thầy hứa. Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày cho
đến tận thế.
Sóng gió cuộc đời nhiều khi to lớn đến độ che phủ cái nhìn của ta,
làm ta lầm tưởng tin là sóng gió cuộc đời mãnh liệt đến độ không gì ngăn cản được.
Không phải thế, tình yêu và lòng Chúa xót thương lớn hơn sóng to, gió cả, mạnh
hơn bão tố có sức tiêu diệt lửa rừng, thác lũ. Khi cứu Phêrô ra khỏi cơn sóng
Đức Kitô cũng mời gọi chúng ta hãy vượt qua sóng to, bão tố. bước qua lửa đến
với Chúa. Chỉ cần chúng ta dám nhích chân bước tới Thầy sẽ cứu chúng ta khỏi
cơn nguy biến. Nhích chân bước đến với Thầy chính là hành động của lòng tin và
hành động của lòng tin giúp đức tin triển nở, lớn lên trong tình yêu Thầy.
Dân miền quê ai cũng có kinh nghiệm lội nước. Trong thời kì chiến
tranh người ta dùng từ 'xe lội nước' để chỉ xe thiết giáp, đi trên khô cũng
được mà lội nước cũng được. Tôi muốn nói về trường hợp người không bơi lội
trong nước mà đi bằng hai chân hẳn hoi. Lội nước rất gần với đi mà không thấy
đường bởi nước không sâu lắm nhưng nước đục che mất tầm nhìn. Ngay cả trường
hợp nhìn thấy cũng không chính xác vì nước như lớp kiếng dầy, thay đổi nhãn
quang. Đi trong nước là đi trong mò mẫm, dự đoán, phỏng chừng để bước tới. Nếu
có hụt hẫng toàn thân chìm sâu vào nước lúc đó phải tận dụng đến bơi lội. Có
khi bước vào chỗ trũng toàn thân xiêu nghiêng ngả như người say rượu. Lội nước
luôn tiến tới mà không bao giờ đi giật lùi. Lội một mình cần cẩn trọng hơn vì
khi gặp nguy không có ai cứu mà tự mình xoay xở thoát hiểm. Người lội nước
thường phó mặc cho may rủi. Ai biết dưới sâu kia có miểng chai, cành gai, khúc
cây, vỏ tôm, xương cá. Đạp trúng là máu hoà trong nước. Nhiều khi không biết,
tối đến thấy đau mới biết bàn chân bị xẻ lúc nào.
Khi biết được người đi trên mặt biển ban đêm là Thầy. Thánh Phêrô
mừng lắm, xin Thầy Kitô cho lội nước để đến với Thầy vì lòng mến, vì khát khao
được là người trước hết đến với Thầy. Lời yêu cầu được chấp thuận Phêrô nhảy
tòm xuống biển, thế mà người không chìm, ông bắt đầu bước đi, được bao xa không
rõ, thấy cơn sóng lớn ập đến, Phêrô đâm hoảng, cơn sóng dường như lớn mạnh che
phủ, lấn át che khuất tầm nhìn của Phêrô. Trong khoảng khắc ngăn cách ngắn ngủi
không nhìn thấy Thầy. Phêrô hoảng sợ, bối rối hoảng hốt, la lớn,
Lậy Thầy, xin cứu con
Đức Kitô đã giơ tay cứu Phêrô. Ngài mắng yêu,
Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?
Hình ảnh Phêrô bước đi trên sóng nước cũng là hình ảnh của mỗi
người trong chúng ta bước đi trong sóng nước cuộc đời. Phêrô thực sự chìm sâu
trong nước hay con sóng lớn bao bọc che phủ thân hình ông. Điều chắc chắn là
Phêrô chưa sặc nước, ông còn đủ tỉnh táo bám víu lấy Thầy. Cuộc đời mỗi chúng
ta cũng nhiều khi tưởng ngập chìm trong đau khổ nhưng thực ra đau khổ chỉ bao
bọc thân ta, vây quanh như bức tường tù hãm khiến ta cảm thấy mình ngụp lặn
trong khổ đau. Những lúc như thế hãy cố nhớ lại việc làm của Phêrô. Lậy Thầy,
xin cứu con. Cũng hãy nhớ lại lời Chúa nói cùng Phêrô. Người hèn tin, sao mà
nghi ngờ. Quả thế vì yếu tin, vì kém lòng mến cho nên nghi ngờ tình yêu Chúa là
điều không thể tránh. Biến cố xảy đến trong đời cách nào đó giúp chúng ta nhận
biết tình yêu ta dành cho Chúa mạnh yếu, nhiều ít. Biến cố là thước đo đức tin
vào Chúa.
Qua màn đêm, Phêrô nhận ra hình bóng người lướt trên sóng nước.
Ông không nhìn rõ đó là hình bóng nào. Mãi cho đến khi Đức Kitô lên tiếng ông
mới nhận ra đó là Thầy. Bao lần trong đời chúng ta bỏ qua, làm lơ hình bóng
chập chờn, mập mờ trong đầu, nhất là những hình bóng khuyên chúng ta làm việc
lành, ngăn cản chúng ta làm sự dữ. Những hình bóng đó như giấc mộng, giấc chiêm
bao, không rõ nét nhưng khá thật và khá mạnh bạo. Phải chăng đó cũng là hình
ảnh Chúa lúc ẩn, lúc hiện trong cuộc sống mỗi người chúng ta. Đi theo Chúa cũng
phải mò mẫm, cũng dò dẫm từng bước để tiến tới. Điều may mắn nếu có vấp ngã
Chúa không bắt lỗi nhưng sẵn sàng tha thứ và đến nắm tay trợ giúp.
Chúa đến một cách thanh thiên bạch nhật nhưng hình ảnh Ngài lại mờ
ảo. Vì sao? Thưa sóng gió cuộc đời che lấp tầm nhìn. Thưa sóng nước cuộc đời
bủa quanh khiến ta lo sợ trong cô đơn. Thưa vì ý định ta đã quyết, định trước
cho nên ta từ chối tất cả các ý định khác. Tiếng lương tâm rõ ràng, quyết liệt
nhưng không cuỡng bức. Vì sao? Vì Chúa ban cho ta tự do và tôn trọng quyền tự
do cá nhân mỗi người. Ngài không định thay ta hay cưỡng ép ta theo ý Ngài. Ta
hoàn toàn tự do quyết định và chịu trách nhiệm về hậu quả quyết định ta chọn.
Tiên tri Elia diễn tả sự hiện diện của Chúa trong đời bằng hình
ảnh rất dễ thương. Thiên Chúa phán cùng ông hãy đứng trên đỉnh núi đón Chúa đi
ngang. Cơn gió mạnh đi qua, cơn bão táp thổi đến, động đất tiếp theo, lửa cháy
ào ào. Elia chờ đón mãi mới gặp Ngài trong cơn gió hiêu hiêu thổi. Chúa đến
trong đời ta cũng nhẹ nhàng như thế. lời Ngài ban sự sống, đầy sinh động cũng
đến nhẹ nhàng như gió thoảng. Chúng ta cầu xin ơn khôn ngoan biết nhận ra Chúa
trong những hình ảnh, hoàn cảnh khác nhau trong đời.
Nhà văn Mark Twain cùng đi với vợ viếng thăm Đất Thánh. Họ đến
Capharnaum, nơi Chúa Giêsu khởi sự đời sống mục vụ công khai và trải qua nhiều
biến cố quan trọng ở đây. Thị trấn nằm trên bờ biển Galilêa. Vào một đêm trăng,
hai vợ chồng bước đi dọc theo bờ biển và quyết định mướn một chiếc thuyền chèo
ra biển hóng gió. Mark Twain hỏi một người đàn ông đang ngồi trên thuyền phải
trả bao nhiêu tiền để đưa họ ra biển. Mark Twain thường mặc bộ com-plê trắng,
giầy trắng và đội mũ cao bồi rộng vành của người Texas. Với phong cách và kiểu
ăn mặc như vậy, người chủ thuyền nghĩ Mark Twain phải là một người Mỹ giàu sang
nên ra giá 25 đôla cho một chuyến du thuyền. Nghe vậy, Mark Twain đành cám ơn
ông chủ thuyền rồi bỏ đi. Đi được vài bước ông quay sang nói với vợ: “Bây giờ
tôi mới biết tại sao Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước!” Có phải ý ông muốn nói
vì đi thuyền đắt quá, Chúa Giêsu không có tiền, nên phải bước đi trên mặt nước
không?
Mark Twain đã nghĩ ra một cách cắt nghĩa khôi hài về phép lạ Chúa
Giêsu bước đi trên biển trong bài Phúc Âm hôm nay. Một sự hiểu biết đầy đủ về ý
nghĩa của câu chuyện Chúa Giêsu bước đi trên biển, ắt phải nói về con người
Chúa Giêsu là ai, về Giáo Hội và về đời sống đức tin của mỗi người Kitô hữu.
Câu chuyện phép lạ Chúa Giêsu bước đi trên mặt nước biển, kết hợp
với câu chuyện hóa bánh ra nhiều trong bài Phúc Âm tuần trước, chứng tỏ rằng
Chúa Giêsu là Thiên Chúa và Ngài có quyền hành trên tất cả mọi sức mạnh tự
nhiên và siêu nhiên.
Người Do Thái tin tưởng rằng biển cả thuộc lãnh vực của các quyền
lực ma quỉ siêu nhiên, chẳng hạn bọn quỉ nhập vào bầy heo, rồi lao xuống biển
(Mt 8,32). Một trận cuồng phong bão tố ở biển khơi được coi là công việc của
những thần thù nghịch. Bằng việc bước đi trên những ngọn sóng thần hung dữ và
làm yên lặng biển động, Chúa Giêsu chứng tỏ Ngài là Đấng có quyền lực và hoàn
toàn làm chủ trên những sức mạnh thù nghịch này.
Rất nhiều người Kitô hữu thờ lạy Thiên Chúa nhưng vẫn còn lo lắng,
sợ hãi tà thần, ma quỉ, và có khi lại còn tin vào bùa ngải nữa. Phúc Âm hôm nay
mang lại cho chúng ta một niềm tin tưởng rằng những quyền lực của bóng tối
không có gì đáng sợ khi Chúa Giêsu đã hiện diện và hoạt động trong đời sống và
công việc làm của chúng ta.
Con tàu trên đại dương là một trong những biểu tượng của Giáo Hội
mà những người Kitô hữu tiên khởi đã sử dụng để ám chỉ cuộc hành trình đức tin
trên trần gian. Giống như con tàu nghiêng ngả trên sóng nước, Giáo Hội cũng bị
tấn công từ mọi phía bởi những quyền lực trần gian như thánh Augustinô đã nói:
“Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi của Thiên Chúa”. Ở
giữa những khủng hoảng, Chúa Giêsu đến mang lại sự bình an và hòa khí êm dịu
trong Giáo Hội. Thế nhưng, Ngài lại đến dưới một hình thức và cách thế làm
nhiều người Kitô hữu sợ hãi và la lên: “Ma kìa!” Họ muốn Ngài tránh xa khỏi họ.
Nếu biết lắng nghe, trong bão tố chúng ta sẽ nhận ra tiếng Ngài thì thầm trong
gió: “Hãy an tâm. Thầy đây, đừng sợ!” Nếu chúng ta tin tưởng vào lời Ngài hứa,
sự hiện diện của Ngài sẽ làm bão tố êm dịu và khủng hoảng được giải quyết.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài
đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn loài, vì thế Ngài có toàn quyền trên thiên
nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để chúng ta quả quyết
điều trên: Chúa đi trên mặt biển nổi sóng và gió yên lặng ngay khi có lệnh của
Ngài hoặc khi có sự hiện diện của Ngài. Hoàn cảnh của phép lạ: Sau khi làm phép
lạ hóa bánh ra nhiều cho hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn
suy tôn Chúa làm vua, nhưng Chúa thì không đồng tình như vậy, nên Ngài bảo các
môn đệ xuống thuyền ra khơi đi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ, Ngài
giải tán dân chúng rồi một mình lên núi cầu nguyện. Các môn đệ ra đi được
khoảng vài cây số thì gặp sóng to gió lớn. Thánh Luca ghi lại: gió ngược thổi
mạnh dữ dội, thánh Matthêu cho biết: lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào
khoảng ba giờ sáng, như vậy lúc đó các môn đệ đã rất mệt mỏi sau mấy tiếng đồng
hồ chèo chống. Giữa lúc ấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, hình
như Ngài muốn đi ngang qua các ông. Vừa mệt mỏi, vừa đêm tối, các môn đệ thấy
có bóng người đi trên mặt biển, tưởng là ma quái hiện hình, nên hoảng sợ, nhưng
khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”,
các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến gặp Chúa.
Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin của ông
còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa cứu
giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: “Người đâu mà kém tin vậy, sao
lại hoài nghi?”. Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền yên lặng và mọi
người tuyên xưng Chúa: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Qua bài Tin Mừng này, chúng ta ghi nhận được ba bài học: Bài học thứ nhất, việc Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn
đệ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa. Đối với Chúa, việc này không
có gì là khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó hiểu, vì Ngài
là Thiên Chúa, là Đấng tạo dựng vũ trụ, Ngài quyền phép vô cùng. Chính Ngài cầm
quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Ngài đi trên sóng nước không có gì là
phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng quyền năng Thiên Chúa của Ngài.
Các môn đệ hôm ấy được chứng kiến tận mắt và ghi nhận sự kiện tỏ tường Chúa có
quyền trên sóng biển, đi trên sóng, truyền cho chúng yên lặng. Vì thế, lòng tin
của các môn đệ càng gia tăng. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: Chúng ta phải
tin Chúa Giêsu tuyệt đối và thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống theo những lời
Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê nói: đức tin không có việc làm là đức tin
chết.
Bài học thứ hai, đang khi các môn đệ gặp bão
táp, sóng gió thì Chúa xuất hiện để cứu giúp họ. Trong khoảnh khắc mọi sự đều
thay đổi vì có Chúa. Điều này cho chúng ta biết: Ở đâu có Chúa là có bình an.
Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có giông tố bão táp, có thử thách khó khăn, nhưng
chúng ta đừng bao giờ thất vọng nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, Chúa ở xa chúng
ta hay không để ý gì đến chúng ta. Không, Chúa luôn ở với chúng ta, Chúa luôn
đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng
ta. Chúng ta có thể nói: trong những giờ phút khó khăn, nguy hiểm, khổ đau,
chẳng những Chúa đi bên cạnh chúng ta, mà Chúa còn bồng bế chúng ta trên cánh
tay toàn năng của Ngài.
Bài học thứ ba, thánh Phêrô thấy Chúa đi trên
sóng nước ngon lành nên đã phản ứng khá mau lẹ, có thể nói quá vội vàng trước
khi kịp suy nghĩ, là xin Chúa cho ông cũng đi trên sóng nước như Chúa. Chúa bằng lòng ngay, nhưng vì
yếu lòng tin, lo sợ nên Phêrô đã bị chìm xuống. Ông lại vội vàng kêu xin Chúa
và Chúa cũng cứu giúp ngay. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: một quyết định
hay một hành động vội vàng thường dễ sai lầm và gặp khó khăn. Vì thế, cần suy
nghĩ cẩn thận trước khi quyết định một điều gì hay làm một việc gì, cần phải
xác định được nên làm hay không nên làm và làm lúc nào. Đó là hai vấn đề: chúng
ta phải cầu nguyện nhiều trước khi làm, một khi đã làm thì làm cho đến nơi đến
chốn. Nếu chẳng may thất bại thì cố gắng làm lại, đừng chán nản thất vọng.
Thánh Phêrô đã làm như thế: đã tin cậy Chúa, rồi càng yêu mến Chúa hơn trước và
được Chúa tín nhiệm nhiều hơn.
"Đấng Cứu Thế? -- Ai Cần Đấng Cứu
Thế?" chính là tựa đề của một chương trong cuốn
"Những Dụ Ngôn của Peanuts”. Chương bao gồm những mảnh hoạt họa mà trong
đó Linus và Lucy đang theo dõi một em bé đang bò trên sàn nhà. "Mày nghĩ
coi còn bao lâu nữa thì Sally mới biết đi?" Linus hỏi. "Lạy Chúa tôi!"
Lucy nói, "vội vàng làm gì? Cứ để nó bò vòng vòng một thời gian nữa! Đừng
thúc nó làm gì! Nó còn có nhiều ngày giờ mà." Lucy ngừng để suy tư trong
giây lát. Rồi cô nói: "Một khi mà mày đứng dậy, và khởi đầu bước đi, thì
mày đã phải cam kết cho đến chết!"
Hành động trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay khởi đầu liền ngay sau
khi Chúa Giêsu đã nuôi 5 ngàn ăn no nê qua phép lạ hóa mấy chiếc bánh và mấy
con cá ra nhiều. Giờ đây, Chúa Giêsu nói các môn đệ hãy xuống thuyền trước Ngài
sang bên kia bờ hồ Galilê. Thế nhưng sóng gió nổi lên trong khi họ vượt hồ. Rồi
họ thấy một hình bóng đang đi trên mặt nước. Đấy chính là Chúa Giêsu, đang tiến
đến để giúp họ. Các môn đệ thì đang khiếp sợ. Mặc dầu họ mới được chứng kiến
"Phép Lạ của Bánh và Cá" của Chúa Giêsu, đức tin chưa hoàn toàn cam
kết và ngay cả trí óc nhỏ nhen hẹp hòi sẽ không thừa nhận trình trạng có thể
rằng Chúa Giêsu có thể làm được việc này. Đi trên mặt nước? Họ nói: "Ma
đấy!" và họ "hoảng hốt la lên." Ngay cả sau khi Chúa Giêsu trấn
tĩnh sự sợ hãi của họ, thế mà đức tin của Phêrô vẫn còn quá nhỏ nhen. Chúa
Giêsu ra lệnh cho ông đi trên mặt nước. "Ông Phêrô liền từ thuyền bước
xuống đi trên mặt nước mà đến với Chúa Giêsu", Matthêu nói với chúng ta.
Thế nhưng ngay khi ông cảm thấy sóng gió nổi lên, ông đã run sợ và cảm thấy
mình bị chìm xuống. "Thầy ơi, xin hãy cứu con," ông la lên (Mt 14,
30). Ông bị chìm xuống bởi vì ông từ chối tin rằng Chúa Giêsu có quyền tạo dựng
các kinh nghiệm ngoại thường này trong cuộc sống của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô
thôi "bò quanh" với đức tin của ông. Chúa Giêsu muốn Phêrô đứng dậy
trong đức tin, và tập đi. Chúa Giêsu muốn Phêrô hoàn toàn cam kết với Ngài,
trong đức tin, cho đến chết!
Có nhiều lúc khi mà nỗ lực của bạn để làm việc đúng, làm tốt bất
kể việc gì mà bạn được kêu gọi để thi hành, dù khó khăn và thất vọng như là đi
trên mặt nước: cố là người cha hay người mẹ tốt; cố làm cho cha mẹ hiểu mình;
cố không giữ lòng thù hằn; cố loại trừ đi những tập tục xấu; cố không uống
miếng rượu đầu tiên đấy hay hút điếu thuốc đầu tiên đấy; cố tiếp tục kiêng cữ
ăn uống cần thiết; cố chấm dứt sự cô đơn và buồn rầu sau khi mất đi người thân
yêu. Đấy giống như cố đi trên mặt nước vậy. Bạn cảm thấy không có gì vững chắc
dưới chân cả. Bạn có cảm giác khủng khiếp như bị hút vào hố sâu đen tối.
Phêrô đã cảm nghiệm cảm giác này trong khi ông đi trên mặt nước
đến với Chúa Giêsu. Phêrô đã để chính ông bị chìm vào vực sâu bởi vì ông đã mất
lòng tin. Khi mọi sự dường như hợp với ý hướng của ta, và khi gánh nhẹ nhàng,
thì Hành Vi Đức Tin chính là lúc dễ dàng nhất. Thế nhưng khi sự thể bắt đầu đi
ngược ý ta, khi gánh trở nên nặng nề, và chúng ta cảm thấy tinh thần sa sút,
thì Hành Vi Đức Tin đi đến chỗ khó khăn nhất. Các môn đệ đã học biết thực thi
những công tác dường như bất khả mà Thiên Chúa trao cho họ để thực hành, dưới
ánh sáng Đức Tin. Họ phải học biết rằng họ không bao giờ cô đơn lẻ loi, không
bao giờ bị ruồng bỏ, dù tình thế khủng khiếp cảm thấy đến đâu, dù cái chết vì
chính Chúa Giêsu đã chết cho ta.
Có những người nói với ta rằng thật vô ý nghĩa khi nói về cái chết
của Chúa Giêsu. Có phải sự sống của Ngài mới là quan trọng đấy sao? Nó chả có
nghĩa lý gì bao lâu chúng ta nhận thức rằng chính trong sự chết, trong Cuộc
Đóng Đinh, tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta được tỏ rõ nhất, mạnh liệt nhất,
nồng nhiệt nhất, và trực tiếp nhất. Đấy chính là vì sao Thập Giá trở nên trung
tâm cho Đức Tin Kitô Giáo từ ngay lúc khởi đầu. Đấy chính là tột đỉnh của mọi
sự mà Chúa Giêsu đã nói và đã làm để mạc khải tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta.
Có một người đàn ông bị lôi cuốn bởi Phúc Âm Chúa Giêsu và ông đã
đi Nhà Thờ trong vòng vài tháng nay. Khi ông được hỏi là tại sao ông chưa tiến
bước nữa để chịu phép Rửa Tội, ông nói rằng toàn bộ kinh nghiệm đi Nhà Thờ cũng
giống như lên tàu lửa và hỏi ông tài xế: "Bao nhiêu tiền?" Và ông tài
xế trả lời: "Cuộc sống của ông." "Khi tôi nghe thấy điều đó, tôi
cảm thấy run sợ và tôi đã trốn cho đến giờ." Chúa Giêsu kêu mời chúng ta
lên xe và tiến vào sứ mệnh mục vụ của người Kitô hữu đã chịu phép Thánh Tẩy.
Trong đoạn kết bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu và Phêrô lên thuyền
và gió bão liền ngừng. Chúa Giêsu làm lặng biển cả. Các môn đệ phủ phục trước
Ngài, và tuyên xưng, "Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14, 33).
(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Chuyện kể rằng: Một gia đình quý tộc nước Anh đưa con về nghỉ mát
ở miền quê. Trong khi nô đùa, cậu con trai ngã xuống một suối nước sâu.
Nghe tiếng kêu thất thanh, một chú bé lem luốc, con bác nông dân,
đã chạy đến tiếp cứu. Và số phận của cậu bé thượng lưu, không biết bơi kia
tưởng như ngàn cân treo sợi tóc, giờ đã được cứu sống.
Nhà quý tộc vô cùng biết ơn chú bé nhà quê nghèo. Ông hỏi chú có
mơ ước gì không. Chú trả lời: “Cháu muốn được đi học để trở thành bác sĩ cứu
người”.
Sau này, cậu bé ngày xưa không biết bơi đã được cứu sống, nay trở
thành vĩ nhân của thế giới, thủ tướng nước Anh, Winston Churchill. Và chú bé
nhà quê, nhờ sự giúp đỡ của nhà quý tộc, cha của Churchill bây giờ đã là bác sĩ
danh tiếng, và là ân nhân của cả nhân loại, người đã tìm ra thuốc Penicilin.
Tên của ông Fleming.
Có ai ngờ, khi thủ tướng nước Anh lâm trọng bệnh, các bác sĩ nổi
tiếng đều bó tay, thì chính Fleming, lại cứu sống ông một lần nữa.
Fleming đã cứu vớt sinh mạng của Churchill khỏi dòng nước oan
nghiệt, để rồi sau này Churchill trở thành thủ tướng lừng danh, niềm hãnh diện
và tự hào của cả nước Anh. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn
đệ khỏi cơn cuồng phong của biển cả, đã kéo ông Phêrô lên khi ông đang chìm
xuống dòng nước sâu.
Đức Giêsu đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước, và dẹp
yên sóng gió không phải là để làm trò biểu diễn cho vui mắt, nhưng là để bày tỏ
quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng cho thế lực của sự
dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là Phêrô, để sau này
Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Thực vậy, con thuyền Giáo Hội ngay từ đầu, đã không giương cao
cánh buồm đức tin mà lao thẳng về phía trước, nhưng cũng phải vật lộn với phong
ba bão táp, “bị sóng đánh vì ngược gió”.
Các môn đệ, cột trụ của Giáo Hội cũng hốt hoảng, sợ hãi, phải có
Đức Giêsu bên cạnh để trấn an: “Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ”.
Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái, liều lĩnh
xin “đi trên mặt nước mà đến với Thầy”. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và
bắt đầu chìm. Ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu con với”.
Cho dù là đá tảng, Phêrô cũng đã bị Đức Giêsu mắng: “Người đâu mà
kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”.
Đó là hành trình Đức tin của Phêrô, của các môn đệ, và của mỗi
người tín hữu chúng ta. Đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ
của Đức Giêsu “cứ đến”, mà chúng ta bước đi trên vực thẳm, sóng gió. Rồi hoài
nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi làm chúng ta hụt chân. Để cuối cùng, chính
Đấng nắm lấy tay chúng ta kéo lên sẽ củng cố đức tin của chúng ta thêm vững
mạnh.
Có một điều đáng làm mẫu mực cho những kẻ tin, là chính khi lòng
tin bị chao đảo theo sóng gió, thì Phêrô đã cầu nguyện: “Thưa Ngài, xin cứu con
với”.
Có một thước phim mà người xem chớ vội bỏ qua, là “Khi Thầy trò đã
lên thuyền, thì gió lặng ngay”. Chính Đức Giêsu và Phêrô đã cứu con thuyền
trong cơn sóng gió.
Có một lời tuyên xưng mà người tín hữu Kitô không ngừng thốt lên
trong các cơn giông tố của cuộc đời: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa”.
Người tín hữu như chiếc thuyền nan chông chênh giữa cơn lốc cuộc
đời, khó khăn nối tiếp khó khăn. Muốn đưa đời mình về với trùng khơi hãy xác
tín như thánh Phanxicô Salêsiô: “Chúng ta sẽ an toàn vượt qua giông tố, bao lâu
niềm tin của chúng ta còn gắn chặt vào Thiên Chúa”.
***
Lạy Chúa, sóng gió cuộc đời luôn làm chúng con chao đảo, vực thẳm
lòng đời luôn làm chúng con sợ hãi.
Xin cứu lấy chúng con khi chúng con sắp chìm, xin nắm tay chúng
con lúc chúng con hụt chân. Xin cùng lên thuyền với chúng con, vì thuyền đời
chúng con có Chúa là có bình an. Amen.
Khi thấy ai gặp nhiều gian nan khốn khó, người ta nói: “Đời anh
sóng gió nhiều quá” hay nói: “anh phong trần quá” - phong là gió, trần là cát
bụi. Thực ra, cuộc đời con người ở trần gian, không nhiều thì ít, ai cũng gặp
sóng gió bão táp. Những cơn lốc của thiên tai gây sập nhà nát cửa như lụt lội,
hạn hán, giông tố, động đất...
Những cơn lốc của hận thù, tham lam bất công, bóc lột đàn áp con
người còn gây ra những tai họa như chiến tranh, khủng bố ma túy, cờ bạc, đàng
điếm, sida...
Những cơn lốc của chính mình, của lười biếng, kiêu căng, mù quáng,
bệnh tật, cố chấp gây ra cho mình bao nhiêu thảm họa. Đến nỗi Napôlêon đã thắng
hàng vạn quân địch, nhưng lại bị thua chính mình: Ông đã thua tính kiêu căng và
tính mê đắm giai nhân.
Lời Chúa hôm nay nêu rõ ba nguyên nhân đã làm cho con người phải
điêu đứng.
Nguyên nhân thứ nhất là thiên nhiên như sóng gió, lụt lội, động đất, các môn đệ hầu hết là dân chài
lưới, thế mà giữa biển khơi sóng gió đã làm các ông hoảng hồn đến nỗi thấy bóng
Thầy đi trên mặt biển, các ông đã la hét sợ hãi tưởng thủy quái.
Nguyên nhân thứ hai là người khác: Người khác đây là dân tộc Do thái. Họ đã được Thiên Chúa nhận làm
con, được thấy vinh quang Chúa, được ban tặng Lời Chúa là chính Con Một Thiên
Chúa xuống thế làm người là Đức Giêsu Kitô cùng huyết thống nòi giống với họ,
là anh em, là đồng bào của họ (Bài II) thế mà họ không đón Người, không đón
nhận vinh quang Thiên Chúa. Điều đó làm Phaolô vô cùng đau khổ, đau khổ đến nỗi
Phaolô dù phải gian truân, khốn khổ, đói rách, nguy hiểm, bắt bớ, gươm giáo
không thể tách Phaolô ra khỏi tình yêu Đức Giêsu Kitô, nhưng bây giờ Phaolô sẵn
sàng chịu nguyền rủa, xa lìa Đức Kitô để cho anh em đồng bào ông trở về với Đức
Kitô (Rm. 8, 35 và 9, 1-5).
Êlia cũng chịu đau khổ như thế vì đồng bào ông. Ông đã phải liều
mạng đến kéo họ về với Thiên Chúa, giải thoát họ khỏi gông cùm tà thần, dù một
mình phải thách thức với cả ngàn sư sãi thờ thần Baal của hoàng hậu và nhà vua.
Dù thắng cuộc và sư sãi thần Baal bị tiêu diệt, ông vẫn phải trốn thoát tay
hung tàn của hoàng hậu lùng bắt (Bài I).
Nguyên nhân thứ ba là chính mình gây nên khốn
khó cho mình.Phêrô được Chúa cho đi trên mặt biển đến với Ngài, khi đang được
hưởng ơn lạ như thế;ông lại hoài nghi, đâm lo sợ, thế là ông bị biển cả nhận
chìm ông. May mắn ông đã vội vã kêu lên: Lạy Thầy, xin cứu con.
“Lạy Thầy, xin cứu con”. Chính con nhiều lần cũng bị nhận chìm
trong biển trần gian do nhiều hoàn cảnh éo le của cuộc đời và do chính con đã
gây ra...
Lời cầu nguyện: “Lạy Thầy, xin cứu con” phải là lời cầu nguyện
liên tục của con hàng ngày, từng giây từng phút trong đời con. Xin cho con biết
luôn luôn kêu lên: “Lạy Thầy, xin cứu con” vì từng giây từng phút không có Thầy
cứu giúp, không có ơn Thầy gìn giữ, không có ơn Thầy soi sáng, không có ơn Thầy
cứu độ, chắc chắn con bị nhận chìm dưới đáy vực thẳm tội lỗi, dưới đáy địa ngục
tử thần. “Lạy Thầy, xin cứu con”.
(Suy niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chúng ta nên đặt đoạn văn này vào trong ngữ cảnh của nó là toàn
khối từ cuối chương 13 đến chương 17 của Tin Mừng Matthêu. Đọc khối này, chúng
ta nhận ra những ý tưởng quan trọng:
1) Chương 13 cho hiểu rằng Nước Trời đang tăng trưởng và bất cứ
người nào hiểu rằng mình được kêu gọi đi vào đấy, thì phải lựa chọn dứt khoát.
Kể từ nay, chúng ta thấy cộng đoàn của Đức Giêsu xuất hiện rõ nét dần, được
củng cố dần, mở ra dần với đức tin (x. 14,33; 16,16), đào sâu dần mầu nhiệm Đức
Giêsu. Chính là nơi cộng đoàn này mà người ta nhận ra Nước Thiên Chúa đang hiện
diện và ngày càng rõ nét. Chúng ta có thể đặt tên cho toàn khối ch. 13-17 này:
"Tiến tới việc loan báo Giáo Hội"hoặc "Giáo Hội, hoa quả đầu mùa
của Nước Trời" hoặc "Hành trình đức tin trong Giáo hội", bởi vì
qua các chương này, tác giả Mt đề cập đến việc đào tạo tiệm tiến cộng đoàn Giáo
Hội.
2) Khối này mở ra với việc dân Nadarét từ khước Đức Giêsu
(13,53-58) và kết thúc với câu chuyện cho thấy Phêrô được Đức Giêsu cho gắn bó
với Người (17,24-27). Xuất hiện gương mặt đe dọa của vua Hêrôđê, người đã giết
Gioan Tẩy Giả (14,13). Nhóm Pharisêu ngày càng tỏ rõ thái độ hiềm thù đối với
Đức Giêsu (15,1tt.12; 16,1.4). Những thái độ đe dọa thù nghịch khiến Đức Giêsu
lo sợ, Người rút lui về những nơi an toàn hơn hoặc tách biệt hơn (14,13;
15,21).
3) Toàn khối này được xây dựng quanh hai điểm: đức tin và hiểu
biết:
- Tác giả nói đến những người kém tin trong câu truyện Phêrô đi
trên mặt nước (14,31) và câu truyện các môn đệ bàn tán về việc quên bánh
(16,8). Trong câu truyện Đức Giêsu chữa đứa trẻ bị kinh phong, có một lời than:
"Ôi thế hệ cứng lòng không chịu tin..." (17,17). Mt là tác giả duy
nhất xác định rằng các môn đệ không chữa lành được em bé vì họ kém tin. Người
cũng là người duy nhất ghi nhận đức tin mạnh của bà Canaan (15,28).
- Ngài đã sử dụng động từ hiểu 9 lần trong các chương này. Ở
15,10, các đám đông được mời gọi nghe và hiểu. Ở 15,16, các môn đệ bị gọi là
ngu tối (= không hiểu). Và cũng chỉ một mình Mt đã ghi nhận rằng các môn đệ khi
ấy mới hiểu ra (16,12; 17,13) những gì cho tới nay họ vẫn không hiểu.
Các ghi nhận này cho thấy, dọc theo các chương này, tác giả Mt đặc
biệt quan tâm đến đức tin, nhất là đức tin của các môn đệ, nhìn như một hành
trình và như một nỗ lực đào sâu và củng cố đức tin.
Về thể văn, truyện Đức Giêsu đi trên mặt biển thường được gọi là
thể văn "hiển linh" (épiphanie. Xem truyện Dẹp sóng gió, Mt 8,23-27).
Thể văn này được định nghĩa là: Một cách bố trí các yếu tố văn chương để tường
thuật một cuộc tỏ mình bất ngờ và lạ thường của một hữu thể thần linh hoặc
thiên quốc, được một số người chọn lọc trải nghiệm, trong đó, hữu thể thần linh
mạc khải một phẩm tính, một hành động hoặc một mạc khải thần linh. Đặc điểm của
thể "hiển linh" là nó cho thấy một vài phương diện của hoạt động Thiên
Chúa nhằm cứu độ dân Ngài.
Ở bên trong tác phẩm Mt, truyện Đi trên mặt biển (14,22-33) đóng
các vai trò sau đây: (1) Trả lời cho câu hỏi về chân tính và tính cách của Đức
Giêsu đã được truyện Dẹp sóng gió (8,23-27) gây ra và được ngữ cảnh gần trước
đó ở 13,53–14,21 tiếp nối; (2) Cung cấp một lời tuyên xưng mào đầu của các môn
đệ, chuẩn bị cho lời tuyên xưng cao đỉnh của Phêrô ở 16,13-20; (3) Góp phần với
TM I để minh họa bản tính và ý nghĩa của quyền lực thần linh của Đức Giêsu
trong tư cách là Con Thiên Chúa.
2- Bố cục
Bản văn này có thể chia làm bốn phần, theo cấu trúc chuyển hoán:
A - Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (14,22-24):
a) (22)
b) (23a)
b') (23b)
a') (24)
B - Đức Giêsu đi trên mặt biển (14,25-27):
a) (25)
b) (26)
a') (27)
B'- Phêrô đi trên mặt biển (14,28-31):
a) (28-29a)
b) (29b)
b') (30)
a') (31)
A'- Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (14,32-33):
a) (32)
b) (33)
3.- Vài điểm chú giải
- cây số (24): Từ ngữ Hy Lạp gốc là
stadion, "dặm" (NTT) = 192 m. Hồ Ghennêsarét có chu vi khoảng 53 km
(33 miles), dài khoảng 21 km (13 miles), và rộng khoảng 13 km (8 miles). Diện
tích khoảng 166 km2 (64 sq mi), và sâu tối đa khoảng 43 m (141 feet). Hồ thấp
hơn mặt biển 214 m (702 ft).
- Chiếc thuyền bị sóng đánh vì ngược gió (24): Trong Tin Mừng Matthêu, "con thuyền" là biểu tượng
của Hội Thánh (x. 8,23-27). Biểu tượng này càng được xác nhận khi tác giả viết
rằng con thuyền bị "tra tấn (hành hạ)" (basanizô) bởi các con sóng
(chứ không nói như Mc 6,48: "các ông phải vất vả chèo chống"). Kiểu
nói này cũng lạ thường như khi tác giả bảo có "động đất" (seismos)
trên biển (8,24). Trong cả hai trường hợp, có thể cho rằng tác giả đang nghĩ
đến các đau khổ Hội Thánh sẽ phải trải qua khi thi hành sứ mạng.
Theo ngôn ngữ Kinh Thánh, "biển" là nơi có các sức mạnh
tà thần cư ngụ và hoạt động (x. G 7,12; Is 27,1; 51,9t; Đn 7...). Nói rằng
"đang ở trên mặt biển" có nghĩa là đang ở trong tình trạng bị các sức
mạnh của bóng tối đe dọa. Vậy "biển" ở đây là một trở ngại ngăn cách
các môn đệ với Đức Giêsu.
- canh tư (25): Canh (phylakê) tư ở vào
khoảng từ 3g đến 6g sáng.
- đi trên mặt biển (25): Cụm từ epi tên thalaasan
có thể có nghĩa là "về phía biển". Do đó, có những tác giả cho rằng
Đức Giêsu đứng trên bờ mà làm yên sóng gió (Paulus; Jeremias; J. Duncan
Derrett). Tuy nhiên, theo ngữ cảnh, phải hiểu là "trên biển".
- hoảng hốt (26): Đây là phản ứng của con
người khi tiếp cận với thần linh (x. Xh 19,16; Ed một,4...).
- Chính Thầy đây (27): Trước tiên, egô eimi là
một lời để điều chỉnh, với nghĩa là: chính là Thầy, chứ không phải là ma như
anh em tưởng. Nhưng công thức này cũng là tên mà Thiên Chúa dùng dể tự giới
thiệu với Môsê (Yhwh: x. Xh 3,13-15). Mt kín đáo gợi ý là có một sự song đối
giữa Đức Giêsu và Yhwh.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hoàn cảnh của các môn đệ trước sóng gió (22-24)
Vừa cho đám đông ăn no xong, Đức Giêsu bắt các môn đệ xuống
thuyền. Chúng ta nhớ đến 8,23; nhưng lần này Đức Giêsu không đi với các ông.
Tác giả Mt không nói là các môn đệ đi Bếtxaiđa như Mc (6,45), vì biết rằng
Bếtxaiđa không gần Ghennêsarét. Ngài sửa một sai lầm của Mc mà không quan tâm
đến địa lý. Đức Giêsu lên núi một mình để cầu nguyện. Cũng như ở 17,1-8,
"núi" là nơi đặc biệt gần kề Thiên Chúa. Lúc này, trời đã tối.
Thuyền của các môn đệ đã xa bờ nhiều stadia và đang bị sóng
"tra tấn" (basanizomenon). Hẳn là tác giả chủ ý dùng từ thuộc thế
giới con người cho con thuyền. Nước, bão, và đêm là những biểu tượng của tình
trạng cùng quẫn, sợ hãi và chết chóc, rất quen thuộc với Hội Thánh, được rút ra
từ các Thánh vịnh (nước: Tv 18,16-17; 32,6; 69,2-3.15; đêm: Tv 91,5; 107,10-12;
bão: Tv 107,23-32; Gn 1–2).
* Đức Giêsu đi trên mặt biển (25-27)
Canh tư, từ 3g đến 6g sáng, cũng là giờ mà theo Kinh Thánh, Thiên
Chúa can thiệp để cứu trợ Dân Ngài (x. Xh 14,24; Tv 46,6; Is 17,14), và theo
truyền thống Kitô giáo, là giờ Đức Giêsu sống lại (x. 28, 1). Vào giờ này, Đức
Giêsu băng qua hồ, bước trên mặt nước, mà đến với các môn đệ (c. 25). Thấy một
dáng người di chuyển trên mặt biển, dễ hiểu vì sao các môn đệ nghĩ đây là một
hữu thể siêu nhiên, một bóng ma, và các ông hốt hoảng.
Nhân vật thần linh bắt đầu lên tiếng: egô eimi không kèm theo một
túc từ nào cả. Đức Giêsu không nói rằng Người là cái này hay cái kia, nhưng chỉ
nói: "Là Thầy". Ở bề mặt, đây là cách người nói quy về chính mình.
Vậy Đức Giêsu đã đánh đổ "bóng ma" bằng cách chỉ vào chính bản thân Người,
và các môn đệ thì biết Người. Tuy nhiên, ở bề sâu, công thức egô eimi (Híp-ri:
'aný hu') nhắc lại lời Đức Chúa (Yhwh) tự giới thiệu mình trong Kinh Thánh (x.
Đnl 32,39; Is 41,4; 43,10; 45,18-19; 48,12; 51,12). Đức Giêsu bảo: "Chính
Thầy đây, đừng sợ!". Ở trong Kinh Thánh, Thiên Chúa ngỏ lời với các tổ phụ
và Israel bằng câu: "Đừng sợ, Ta là..." (St 15,1; 26,14; 28,13; 46,3;
Is 41,13. x. c. 10; 43,1.3). Vậy lời nói của Đức Giêsu là một bản văn đa chiều
kích: Với câu "Là Thầy", ở bề mặt, các môn đệ được quy hướng về con
người Giêsu mà họ biết. Còn bên trong, họ trải nghiệm một điều thuộc vị Thiên
Chúa của Kinh Thánh.
* Phêrô đi trên mặt biển (28-31)
Đức Giêsu chưa làm yên sóng gió. Thay vào đó, Phêrô trả lời Người.
Ông thưa với Đức Giêsu bằng công thức của người môn đệ, "Thưa Ngài
(kyrie)", và xin vị Chúa này truyền lệnh cho ông đến với Người. Thế là
thay vì vị "thần", Giêsu, thì lại là con người, Phêrô, muốn bước đi
trên mặt nước. Ai cũng biết rằng việc này không thể làm được, cũng như không
thể xê dịch núi non (x. 17,20). Lời thỉnh cầu này nhắm đến một điều không thể
được cho thấy đức tin của Phêrô, nghĩa là niềm tin tưởng ông đặt vào con người
có mọi quyền trên trời dưới đất (Mt 28,18). Tuy nhiên, câu nói "nếu quả là
Ngài" lại báo trước sự hoài nghi sẽ xuất hiện trong nỗi sợ hãi của ông khi
bước đi trên mặt nước. Đức Giêsu ban lệnh truyền như Phêrô xin ("Cứ
đến"). Đây là nền tảng trên đó ông có thể hành động. Lệnh truyền của Đức
Giêsu là nền tảng để con người có thể hoạt động. Vậy, nếu có đi được trên mặt
nước, Phêrô cũng chẳng phải là một thầy phù thủy hay một siêu nhân; ông chỉ
vâng lời Chúa của ông thôi.
Nhưng ông đâm sợ. Không phải là nỗi sợ hãi do gặp một nhân vật
thiên giới, nhưng là sợ bão, sợ bị đe dọa, sợ không được an toàn. Tác giả Mt
dùng các từ của Tv 69,2-3 (x. cc. 15-16): Khi bước đi trên mặt
"nước", "nhìn vào gió" (blepôn ton anemon) thay vì nhìn vào
Chúa của ông, ông bắt đầu "chìm" (c. 30), ông liền "kêu"
lên: Thưa Ngài, "xin cứu con" (các từ trong ngoặc đều trích từ Tv
69).
Đức Giêsu đưa tay ra nắm lấy Phêrô và nói với ông. Ở bề mặt, cử
chỉ này của Người là cần thiết để cho Phêrô khỏi bị chìm. Nhưng ở một chiều sâu
khác, hẳn là tác giả Mt nghĩ đến Tv 143,7: Đức Giêsu cung cấp sự che chở của
Thiên Chúa. Đối với tác giả, điều quan trọng là sự hiện diện cứu độ này của
Thiên Chúa không có nghĩa là không còn bão tố, nhưng là ta trải nghiệm được sự
hiện diện này ngay trong gió bão. Những ai dám vâng lời và di chuyển ra bên
ngoài sự an toàn của mình sẽ trải nghiệm được sự hiện diện này. Một lần nữa,
Phêrô vẫn chỉ là "người có đức tin nhỏ bé" (= người kém tin,
oligopistos), và đức tin là một sự pha trộn giữa can đảm và sợ hãi, vâng nghe
Chúa và nhìn vào gió, tin tưởng và hoài nghi, và đây là đặc tính căn bản của
đời Kitô hữu (x. 28,17).
* Hoàn cảnh của các môn đệ sau sóng gió (32-33)
Câu chuyện kết thúc rất nhanh. Đức Giêsu và Phêrô cùng lên thuyền
với nhau và gió lặng ngay (c. 32). Một lần nữa, phép lạ Đức Giêsu làm xảy ra
sau khi đức tin đã được chấn chỉnh.
Các môn đệ quỳ xuống (= thờ lạy): Cung cách này dễ hình dung hơn nếu ở trên "con
thuyền Hội Thánh", chứ không phải trên một con thuyền trên hồ vừa ra khỏi
sóng gió. Họ tuyên xưng: "Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa". Đây là
danh hiệu Kitô học quan trọng nhất đối với tác giả Mt, đồng thời hầu chắc cũng
là lời tuyên xưng trung tâm nhất của Hội Thánh. Cách nào đó, ngược lại với Mc,
tác giả Mt muốn phác vẽ ra các môn đệ như là những con người có lòng tin và
hiểu biết, dù có lúc họ đã tỏ ra thất vọng và dù vẫn cần học hỏi thêm nữa.
+ Nhận
định & Kết luận
Có thể nói bài tường thuật chuyến vượt "biển" (cũng như
truyện Dẹp sóng gió) là một dụ ngôn với cái nền lịch sử, nhằm nêu bật một
phương diện mới và có một không hai trong ý nghĩa của bản thân Đức Giêsu: Đức
Giêsu là Con Thiên Chúa theo nghĩa là Đấng được Thiên Chúa trang bị cho quyền
lực thần linh tuyệt đối để cứu độ dân Người. Sự kiện Đức Giêsu với quyền lực
của Người, không những cứu các môn đệ khỏi bị sóng hành hạ trên biển, mà còn
cứu cả Phêrô khỏi chìm xuống biển (14,28-31), chuẩn bị cho chúng ta đón lấy lời
tuyên xưng của Phêrô nói rằng Đức Giêsu là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng
sống" (16,16). Đàng khác, việc biểu lộ quyền năng thần linh tuyệt đối của
Đức Giêsu khi cứu các môn đệ và Phêrô bằng cách đi trên mặt biển cũng giúp nhận
mạc khải nói rằng Đức Giêsu là Đấng có thể xây dựng và che chở Hội Thánh Người
trên "tảng đá" là Phêrô (16,18-19).
Chiều kích cứu độ học của bài tường thuật quả là hiển nhiên, được
diễn tả qua việc đi trên biển. Khi đi trên biển, Đức Giêsu không những tỏ ra
mình là Thiên Chúa chế ngự biển mà còn đi qua biển, và cứu các môn đệ bằng cách
làm cho họ cũng có thể đi qua biển. Như thế, cùng một trật, Đức Giêsu chứng tỏ
Người sở hữu quyền lực thần linh tuyệt đối (phương diện Kitô học), và quyền lực
ấy là để cứu vớt các môn đệ (phương diện Cứu độ học).
Tuy nhiên, phương diện Cứu độ học phải được cứu xét trong tương
quan hữu cơ với chiều kích Kitô học. Cho dù các môn đệ được cứu, mối bận tậm
không phải chỉ là việc cứu hộ, nhưng là điều mà cuộc cứu hộ lạ lùng này nói về
bản thân Đức Giêsu. Điều này nổi rõ lên trong câu nói của các môn đệ: "Quả
thật Ngài là Con Thiên Chúa!" (14,33; x. 8,27). Như thế, chiều kích Kitô
học vượt quá truyện cứu hộ, và tập trung vào quyền lực và bản thân của Đấng cứu
hộ. Khi cứu các môn đệ bằng cách vận dụng quyền năng thần linh tuyệt đối để mà
bước đi trên biển, Đức Giêsu đã cho thấy không những Người có thể cứu khỏi bất
cứ trận giông bão nào trên biển, mà còn có thể cứu dân Người khỏi mọi tình cảnh
khốn quẫn. Nói cách khác, nếu Đức Giêsu có thể cứu các môn đệ Người bằng cách
siêu vời là đi trên biển nổi sóng, thì Người cũng có đầy đủ quyền năng cần
thiết mà thực hiện ý muốn của Thiên Chúa là cứu độ dân Người.
Phương diện Giáo hội học được diễn tả qua các vai trò của các môn
đệ và Phêrô. Nhờ nhớ lại các kinh nghiệm đã trải qua khi sống các hoàn cảnh
túng cực, các độc giả có thể hiểu được hoàn cảnh của các môn đệ và của Phêrô.
Các môn đệ và Phêrô, do đã trải nghiệm quyền năng phi thường của Đức Giêsu và
do đã tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì nhắc các độc giả nhớ rằng
không những họ phải tin vào Đức Giêsu như Đấng có thể cứu hộ họ khỏi các hoàn
cảnh đen tối nhất, nhưng còn phải hiểu rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa theo
nghĩa Người là Đấng duy nhất có quyền năng Thiên Chúa để cứu được cộng đồng
những kẻ tin vào Người. Cử tọa Mt tin tưởng rằng Hội Thánh gồm những ai tin và
đi theo Đức Giêsu thì được che chở bởi chính quyền lực của Thiên Chúa.
Có thể nói hoạt cảnh cuối cùng (cc. 32-33) giới thiệu Hội Thánh
mới của Đức Kitô, đã vượt thắng thử thách, nay vây quanh Đức Kitô là Chúa tể
của họ. Hoạt cảnh này báo trước cuộc quy tụ các Kitô hữu để cử hành mầu nhiệm
Đức Kitô, trong đó nhắc lại sự hiệp nhất và hiệp thông đặc biệt của Người với
Thiên Chúa, nay được bày tỏ ra qua các hành vi quyền lực và cũng đầy nhân ái.
Tác giả Matthêu trình bày một cuộc thần hiển cho "những người
đang ở trong thuyền", nghĩa là Hội Thánh của Đấng Phục Sinh: trong và qua
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa hằng sống, chính Thiên Chúa cứu độ của cuộc Xuất Hành
tiếp tục giải thoát Israel mới khỏi những làn nước đang đe dọa nuốt trửng họ
(x. Xh 14 và 15). Sự hiện diện của Đức Giêsu giữa lòng bão tố là nền tảng cho
đức tin của các tín hữu.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Khác với Lc, Mt hiếm khi cho thấy Đức Giêsu cầu nguyện (c. 23).
Đây là một đòi hỏi thông thường của tinh thần Người, một nhu cầu có thực là
được hiệp thông với Chúa Cha và tìm sự trợ giúp, sự an toàn và nâng đỡ. Nhất là
vào lúc này, thời gian quyết liệt, hành trình đã trở nên cam go hơn và các đòi
hỏi làm sáng tỏ đã trở nên cấp bách hơn. Đây là lần đầu tiên, Mt nhấn mạnh rằng
Người ở một mình; một sự cô độc không chỉ về thể lý, mà dường như là một báo
trước sự cô độc ở Ghếtxêmani. Đức Giêsu cầu nguyện cho mình, cho các nhu cầu
của cá nhân mình. Rồi Người cũng mau chóng đi cứu giúp các môn đệ, nhưng sức
mạnh và sự an toàn Người cung cấp phát xuất từ tương quan với Chúa Cha. Người
là Đấng cứu độ họ, nhưng cũng là điển hình cho họ về đời sống đức tin.
2. Đối với tác giả Mt, con thuyền là biểu tượng của Hội Thánh (x.
8,24). Các môn đệ đang ở trên đó, và có thể Phêrô là người cầm lái (x. c. 28).
Không có mặt Thầy, tinh thần của các ông hẳn không cao mấy; đã thế, hoàn cảnh
lại thêm gay go vì gió ngược (c. 24). Con thuyền bị "tra tấn" vì cơn
giông trên biển. Lúc này là "đêm tối" (c. 25), là giờ của thử thách,
của "quyền lực bóng tối" (x. Lc 22,53). Tuy nhiên, Đức Giêsu vẫn
không vắng mặt, dù là Người còn ở cách xa họ. Nếu có đức tin, hẳn là họ phải
cảm thấy Người vẫn có mặt, vẫn ở gần. Quả thật, các khoảng cách không thể ngăn
cản Đức Giêsu hiệp thông với các môn đệ Người (x. 18,20). Người đến với họ cách
bất ngờ, từ trên cao, vào những lúc không ngờ.
3. Đáng tiếc là các môn đệ lại thường quên mất Người. Phản ứng
kinh hoàng của các ông khi thấy Thầy đi trên biển cho ta hiểu như thế (c. 26).
Đây là một hình ảnh báo trước cuộc Hiển Dung và các cuộc hiện ra sau Phục Sinh.
Đức Giêsu tiến đi ngay giữa lòng đêm tôi chính là lời loan báo về Đức Kitô Phục
Sinh.
4. Phêrô là cái nhiệt kế đo đức tin của Hội Thánh. Ông phản ứng
nhân danh mình và tất cả các môn đệ khác. Đòi hỏi các dấu lạ, các bằng cớ chứng
tỏ lòng tốt cũng như sự toàn năng của Thiên Chúa là một đòi hỏi không thể bỏ
qua của loài người. Các nhân vật Kinh Thánh đều cần những dấu chỉ, để có thể
dấn thân đi theo nẻo đường Thiên Chúa đề nghị. Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh
đang hiện diện trong lòng Hội Thánh, cũng cần có những bằng cớ mới, nhưng ta
không có bằng cớ nào chắc chắn hơn lời của Đức Giêsu: "Chính Thầy
đây" (= Ta là), "Cứ đến!" (cc. 27-29).
5. Bước đi vững vàng trên mặt nước có nghĩa là chấp nhận một chiều
kích hiện sinh khác với chiều kích lịch sử, hoặc chiều kích thể lý, là mở tâm
hồn ra với thế giới của thực tại vô hình, của thực tại siêu nhiên. Đây là vượt
lên trên những luật lệ của cuộc hiện sinh này. Muốn thế, cần tin vượt quá cái
hữu hình và cái đụng chạm đến được; cần phải chấp nhận "hỏng chân".
Khi Tôma tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh: "Lạy Chúa của con,
lạy Thiên Chúa của con!" (Ga 20,28), ông cũng phải chấp nhận bỏ mọi điểm
tựa vững chắc kiểu loài người.
6. Các độc giả Tin Mừng, rất quen với Tv 69, cùng cầu nguyện với
Phêrô. Họ nhận ra mình nơi Phêrô và thấy nước chính là tất cả những mối đe dọa
trong đời họ: cái chết, tình trạng thiếu an toàn, sự thù nghịch, bệnh tật, tội
lỗi... Họ biết rằng nếu chỉ "nhìn vào" gió chứ không nhìn vào Chúa,
họ sẽ không đứng vững được.
Vào cuối năm 2007, một tại nạn chìm đò đã lấy đi sáu mạng người
trong đó có một người vợ ông lái đò và năm học sinh. Câu chuyện xảy ra vào một
buổi trưa như thường lệ, ông lái đò và vợ ông vẫn ngày ngày chở các em học sinh
qua sông để đưa đi học và đi về. Nhưng hôm nay ông lại chở khẩm hơn mọi hôm và
tại nạn đã xảy ra; chiếc thuyền bất ngờ bị lật úp tất cả những người đi trên
thuyền mà phần lớn là các em học sinh đều bị té nhào, nhưng trong đó có một số
em không biết bơi nên đã bị chết đuối, các em chết vì không có người đưa cánh
tay ra cứu. Hôm nay, Đức Giêsu cũng đã cứu thoát các môn đệ khỏi cơn cuồng
phong của biển cả, Ngài đã đưa cánh tay cứu ông Phêrô lên khi ông đang chìm
xuống dòng nước sâu.
Chắc chắn những người thân của các em cũng rất muốn có một ông
Giêsu như ngày hôm nay để cứu vớt các em như Ngài đã từng cứu Phêrô. Cho nên
việc Đức Đức Giêsu làm phép lạ đi trên mặt biển, kéo Phêrô lên khỏi mặt nước,
và làm cho biển yên gió lặng không phải là để làm trò tiêu khiển cho vui mắt,
nhưng là để bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa trên biển cả, bão tố, tượng trưng
cho thế lực của sự dữ. Đồng thời, để củng cố niềm tin của các môn đệ, nhất là
Phêrô, để sau này Người sẽ trao cho ông làm thủ lãnh con thuyền Giáo Hội.
Từ thời Giáo Hội sơ khai, không ít lần các tông đồ phải sợ hãi lo
lắng, có lúc chao đảo như muốn chìm đi giữa phong ba bão táp. Khi mà con người
ta không còn gì để bám víu, thì lúc đó Đức Giêsu lại ở bên cạnh để trấn an:
"Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ".
Hôm nay, Phêrô thủ lãnh số một của Giáo Hội, năng nổ, hăng hái,
liều lĩnh xin "đi trên mặt nước mà đến với Thầy". Nhưng thấy gió thổi
thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm. Ông la lên: "Thưa Ngài, xin cứu con
với". Và cùng là ông bị Đức Giêsu mắng cho là kẻ yếu lòng tin. Bị Thầy mình
mắng thật sự không oan tí nào, trên đường đến với Thầy mà ông còn nghi ngờ. Tuy
bên ngoài thì mạnh dạn, năng nổ, nhưng đó chỉ là hành động tức thời chứ chưa
phải là tin, nhưng hành trình Đức tin của Phêrô có điểm hay là ông đã để cho nó
lớn lên rất nhanh. Để đượclớn nhanh như vậy thì sức người không thể nào làm
được nhưng phải nỗ lực bản thân cộng thêm với ơn Chúa. Tiêu biểu như Phêrô, ban
đầu đức tin ban đầu nhỏ bé, kém cõi, nhưng nhờ lời khích lệ của Đức Giêsu
"cứ đến", mà ông đã bước đi được trên mặt biển. Trong cuộc sống mỗi
người cũng vậy, khi niềm tin vững mạnh sẽ giúp ta vượt qua được mọi giông bão
của cuộc đời. Ngược lại, khi hoài nghi làm chúng ta chao đảo, sợ hãi, hụt chân.
Nhưng khi đã đặt được niềm ti vững mạnh nơi Chúa thì cho dù chúng ta hụt chân
vẫn không sợ hãi vì có Chúa đang đưa cánh tay nâng mình lên.
Con thuyền Giáo Hội vượt qua bai chông gai thử thách, qua biết bao
thăng trầm nhưng với niềm tin vững mạnh vẫn băng băng tiến về đích. Con thuyền
Giáo Hội chính là con thuyền mẹ gồm nhiều con thuyền tính hữu hợp lại. Do đó,
con thuyền Mẹ chỉ có thể tiến nhanh về đích khi các con thuyền của mỗi người
chúng ta có một đưc tin vững mạnh, đức tin của mỗi người chúng ta chính là động
lực để thúc đẩy con thuyền Giáo Hội càng tiến nhanh hơn.
Lạy Chúa, trong cuộc hành trình về quê trời chắc chắn đời con còn
gặp rất nhiều phong ba bão táp, xin cho con biết luôn phó thác tin tưởng vào
Chúa vì chỉ có đức tin mới có thể cứu vớt chúng con về bến bình an. Amen.
Một trong những yếu tố quan trọng để gìn giữ hạnh phúc gia đình là
những thành viên trong gia đình cần tin tưởng nhau. Mỗi người phải luôn biết
tạo niềm tin cho nhau. Nhất là những người lớn, là người trước hết tạo cần tạo
niềm tin cho con cái, cho những người nhỏ hơn.
Cũng thế, vì muốn cho các cho các Tông đồ được sống hạnh phúc nên
Chúa Giêsu luôn luôn làm mọi cách để tạo niềm tin và củng cố niềm tin cho họ.
Dầu vậy, dù đi theo và sống gần gũi với Chúa Giêsu nhưng các ông vẫn còn chưa
thật sự tin vào Người. Cụ thể, hôm nay khi thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến
với mình thì các ông đã hoảng sợ la lên: "Ma đấy". Chúa Giêsu bảo các
ông: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng sợ! " (Mt 14, 27).
Như thế, ta có thể thấy được là với phép lạ hoá bánh ra nhiều nuôi
hơn năm ngàn người ăn no nê chưa là yếu tố để cho các Tông đồ tin vào Chúa
Giêsu. Nhưng đó chỉ là để củng cố lòng tin của các ông vào Người. Nếu như lần
giở những trang Tin mừng chúng ta cũng sẽ thấy hầu hết trước khi chữa lành cho
ai Chúa Giêsu đều nói "lòng tin của con đã cứu chữa con" hay
"con tin thế nào thì được như vậy"...
Đặt niềm tin của mình vào Chúa là điều cần thiết cho đời sống đức
tin của người kitô hữu. Tin tưởng vào Chúa ta mới dám phó thác tất cả đời sống
cho Người. Tin tưởng vào Chúa ta mới dám can đảm sống theo lời dạy của Người.
Ngày 4. 8 vừa qua, Giáo hội cho chúng ta mừng lễ thánh Gioan Maria
Vianney. Đây là một trong những mẫu gương cho ta về đời sống tin tưởng vào
Chúa. Mặc dù bị những người hướng dẫn đánh giá là "ngu như lừa" nhưng
ngài vẫn tin tưởng vào Chúa. Quả thật, với sự tin tưởng ấy Thiên Chúa đã làm
nên công trình vĩ đại nơi ngài. Sự tin tưởng ấy được thể hiện nơi cách sống đơn
sơ, khiêm tốn và tinh thần phó thác qua việc siêng năng cầu nguyện. Nhờ đó qua
ngài rất nhiều anh chị em được trở về với Chúa.
Hãy xin Chúa Giêsu tiếp tục gia tăng lòng tin của mỗi người chúng
ta vào Người. Đó là điều mà Chúa Giêsu đang cần nơi mỗi người chúng ta.
Đức Giêsu liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua
bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán đám đông.
Tại sao Đức Giêsu bắt buộc các môn đệ xuống thuyền? đi trước? Tại
sao Đức Giêsu giờ đây giải tán đám đông sau khi đã nói rằng đám đông không cần
đi đâu cả (tức vào các làng mạc mua thúc ăn)? Những chi tiết này không phải là
không quan trọng. Chúng có một ý nghĩa và được Matthêu và Máccô thuật lại,
nhưng chỉ có Gioan đem lại cho chúng ta một lời giải thích: Việc ban bánh trong
sa mạc có một ý nghĩa chỉ về Đấng Mêsia đã làm cho nhiệt tình của đám đông bốc
cao lên, họ hoàn toàn cuồng nhiệt bởi sự xuất hiện rất nhiều vị thiên sai ở
thời kỳ lịch sử này của Israel.
Các đám đông, với những cảm nghĩ mơ hồ thường thấy và những động
tác không kiềm chế lúc đó đã muốn kéo Đức Giêsu trong một cuộc phiêu lưu chính
trị tôn giáo như đã có nhiều trong những quốc gia bị La Mã đô hộ và sau cùng
tất cả đều kết thúc trong sự đàn áp đẫm máu. "Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp
đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên người lại lánh mặt, đi lên núi một
mình” (Ga 6,15). Đức Giêsu cũng biết rất rõ các môn đệ của Người, còn gắn bó
với quan điểm về một Đấng Mêsia trần thế ". Họ dễ dàng buông mình theo sự
say sưa muốn biểu dương ấy Đức Giêsu buộc họ phải xuống thuyền đi trước.
Vâng Đức Giêsu đôi lúc thấy mình phải đương đầu với những kiểu vấn
đề như thế. Một mình người đối phó với mọi người.
Sau khi giải tán đám đông, Người đi riêng lên
núi mà cầu nguyện.
Người ta có thể thử tưởng tượng Đức Giêsu tranh luận tay đôi với
những kẻ ngoan cố nhất và cuồng nhiệt nhất không muốn giải tán: không tôi không
đến để làm chính trị: nước tôi không thuộc về thế gian này… tôi đâu có trách
nhiệm cho các ông ăn mỗi ngày… các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương
thực mau hư nát nhưng để có lương thực thường tồn" (Ga 6,27).
Mệt mỏi vì những cuộc tranh luận ấy, khi còn lại một mình, Đức
Giêsu cảm thấy nhu cầu cần phải cầu nguyện. Và chúng ta tưởng tượng Người giờ
đây trong màn đêm buông xuống, bước theo con đường sỏi đá để lên núi. Bài đọc
đầu tiên của Chúa nhật này nhắc nhở chúng ta nhớ rằng “núi” trong Kinh Thánh là
nơi ưu việt để "gặp gỡ Thiên Chúa" (1V 19,9) Đó là một chủ đề mà
Matthêu ưa thích một cách đặc biệt: núi của các mối Phúc Thật (5,1)… núi của sự
cám dỗ (4,8)... núi của sự biến hình (17,1)... núi của Đấng sống lại (28,16)...
Trong những tháng hè này, một số người đi nghỉ hè ở trên núi. Khi chúng ta có
cơ hội lên núi, chúng ta có biết tranh thủ để cầu nguyện trong cô tịch và sự im
lặng hay không?
Chiều đến, Người vẫn ở đó một mình...
Phải để cho hình ảnh ấy thâm nhập vào tâm hồn chúng ta thật lâu:
Đức Giêsu trên đỉnh núi trong bóng đêm, trong sự im lặng từ trái tim đến trái
tim đơn độc, trong sự hiệp nhất với Chúa Cha.
Người ta dễ dàng đoán ra Người đọc kinh nào, đêm hôm đó. Người ta
đã thử lái Người ra khỏi sứ mạng chủ yếu. Nhưng như một bản năng Người trở lại
sứ mạng của mình: Vai trò của Người thuộc về tinh thần dù vai trò ấy có những
hậu quả quan trọng trong lãnh vực vật chất. Một lần nữa, Đức Giêsu phải chiến
đấu chống lại ma quỷ của thứ chủ nghĩa Mêsia quốc gia đã "hứa hẹn cho
Người tất cả các nước thế gian" (Mt 4,8-10). Một sự cám dỗ khủng khiếp, ám
ảnh gần gũi; và lặp lại mãi. Sự quyến rũ của sự thành công tức thời mà Đức
Giêsu can đảm đẩy lui bởi sự cầu nguyện. Không, người sẽ không là vị
"vua" vinh quang và được tôn vinh. Người sẽ là Đấng Mêsia nghèo khó,
sống tróng bóng tối, bị đau khổ và cái chết đánh gục. Chiến thắng của Đức Giêsu
sống lại từ cái chết chỉ dành cho những ai tin.
Đức Giêsu cũng cầu nguyện nhiều cho các "môn đệ" Người
vừa sai đi trước. Người phải nghĩ về Giáo Hội mà người thành lập, và cơn cám dỗ
thường xuyên muốn đưa những phương tiện của con người lên hàng đầu. Phần tôi,
tôi có tin vào giá trị cầu nguyện không? Nếu xét về bề ngoài và theo tính chất
của con người, thời gian mất đi ấy lại vô cùng quan trọng về mặt tâm linh.
Thỉng thoảng tôi có cầu nguyện một mình không?
Còn chiếc thuyền thì đã ra xa bờ nhiêu dặm, bị
sóng đánh vì ngược gió.
Trong động tác bất ngờ của máy quay phim, cũng như trong một phân
cảnh tài tình của phim ảnh. Matthêu đi từ hình ảnh Đức Giêsu trên núi qua hình
ảnh chiếc thuyền trên mặt biển. Đạo diễn trước tiên tập trung chú ý trên “chiếc
thuyền” bằng việc sử dụng bút pháp dị thường: trong lúc Máccô nói các môn đệ
phải vất vả chèo chống (Mc 6,48)... thì Mátthêu cũng bằng những chữ ấy nói rằng
chiếc thuyền bị sóng đánh vật vã. Tất cả những nhà chú giải từ những giáo phụ
đầu tiên của Giáo Hội đã nhìn thấy trong chiếc thuyền ấy là biểu tượng của Giáo
Hội. Vào thời thánh Mátthêu, các cộng đoàn Kitô hữu trong thực tế chỉ là những
chiếc thuyền mong manh chèo chống khó khăn trên mặt biển đầy sóng gió của ngoại
giáo và đi ngược gió!
Vào khoảng canh tư Người đi trên mặt biển mà
đến với các môn đệ.
Cảnh trước đó (Đức Giêsu cầu nguyện trên núi… chiếc thuyền bị sóng
đánh) như thế đã kéo dài suốt đêm!
Đối với nhiều người, cảnh Đức Giêsu đi trên mặt biển có thể chỉ có
vẻ như một câu chuyện thần tiên, một giai thoại tuyệt vời chỉ tốt cho trẻ em và
những kẻ ngây thơ. Khác với các phép lạ chữa bệnh mà chúng ta tưởng lập tức
hiểu hết ý nghĩa bởi vì những phép lạ ấy "có ích", chúng ta ngạc
nhiên về những cử chỉ bề ngoài xem ra vô ích: tại sao Đức Giêsu lại không gặp
trực tiếp các bạn hữu của mình? vì chúng ta rất hay quên rằng các phép lạ của
Đức Giêsu trước hết là những "dấu chỉ": Đó là những cử chỉ nói được,
hoặc có một điều gì nói với chúng ta. Tính chất tượng trưng của chúng đứng hàng
đầu, không vì thế mà chối bỏ giá trị sự kiện lịch sử của chúng. Các tác giả Tin
Mừng rõ ràng đã đọc lại các biến cố, từ ba yếu tố dùng để giát thích: 1. Sự
sống lại của Đức Giêsu… 2. Truyền thống của Cựu Ước... 3. Những nhu cầu của các
cộng đoàn mà họ kể lại.
Trong toàn bộ Kinh Thánh, biển là hiện thân của sức mạnh thù địch
với con người. Những người Do thái, như nhiều dân tộc sống trong đất liền đặt
vào biển mọi nỗi sợ hãi lâu đời dưới hình thức những quái vật huyền thoại như:
Lêviathan; Raháp (Tv 104,5-9-26; 106, 9 - 74,13-14; Is 51,9-10). Bão tố, trong
mọi ngôn ngữ không chỉ được xem như một hiện tướng tự nhiên như một biểu tượng
của những sức mạng xấu nhưng mạnh hơn con người. Còn Thiên Chúa được giới thiệu
như Đấng “thống trị biển cả", Đấng "đi trên mặt biển" (Ga 9,8;
Tv 77,20; Kb 3,15). Như thế Đức Giêsu đi trên mặt biển chứng tỏ Đức Giêsu làm
được điều mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm: đó là một "biểu hiện của
Thiên Chúa", một sự thần hiện, hình ảnh của sự sống lại…
Những cộng đoàn Kitô hữu HÔM NAY và nói riêng mỗi người chúng ta
cần chiêm ngắm Đức Giêsu thống trị sự ác với tất cả quyền Chủ Tể của Người.
Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt
bảo nhau: "Ma đấy!" và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông:
"Cứ yên tâm, chính Thầy đây đừng sợ!”.
Khẳng định: "Đừng sợ!" đối chiếu cảnh này lúc Người đi
trên những vực thẳm của sự chết với cảnh trong lễ Vượt Qua lúc: Người biến hình
(Mt 17,7) và sống lại (Mt 28,5-10)...
Mỗi lần một người đến gần Thiên Chúa, trong Kinh Thánh, có một cử
chỉ điển hình gồm hai khía cạnh: "sự sợ hãi" chiếm lấy con người...
"lời mời gọi đừng sợ" mà Thiên Chúa luôn lặp lại..' (St 21,17; Is
7,4; Dn 10,19; Lc 1,13; Cv 18,9; Kh 1,17). Than ôi, trong cả một đời người
không thiếu bão tố. Biết bao lần chúng ta lại không cảm thấy mình như bị buồn
nôn khủng khiếp vì say sóng tưởng trút linh hồn (Tv 107,25-27). Chúng ta không
chọn lựa cho mình biển hồ và thời tiết xấu... cũng không chọn bão tố, bóng
đêm... cũng không chọn những cơn cám dỗ, những cơn thử thách. Và nỗi sợ hãi
chiếm lấy chúng ta!
Giờ đây như các môn đệ của biển hồ Galilê, chúng ta được mời gọi
cảm nhận sự "hiện diện của Đấng Vắng Mặt". Lạy Chúa, Chúa ở đây với
chúng con trong cơn bão tố này và Chúa lại nói với chúng con: "Chính Thầy
đây, hãy cậy trông! Đừng sợ!".
Ông Phêrô liền thưa với Người: "Thưa
Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với
Ngài". Đức Giêsu bảo ông: "Cứ đến!". Ông Phêrô từ thuyền bước
xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu.
Trong Tin Mừng của Thánh Matthêu, Phêrô được giới thiệu như người
đứng đầu các tông đồ, "người phát ngôn" của họ (Mt 10,2; 15,15;
16,16-17; 17,24-27; 18, 21).
Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt
đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài xin cứu! con với!". Đức Giêsu liền đưa
tay nắm lấy ông và nói: Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi?”
"Người đâu mà kém tin vậy!” Chủ đề “đức tin nhỏ bé” là một
trong những chủ đề mà Matthêu không ngừng nhấn mạnh (6,30; 8,26; 14,31; 16,8;
17,20). "Người có đức tin quá nhỏ bé... bước đầu của đức tin... đức tin
không hoàn hảo..." chúng ta nhận thấy mình trong cách diễn tả đức tin
không phải là một đồ vật làm sẵn, có được một lần là xong. Đúng hơn đó là một
"sự sống" đang tăng trưởng hoặc đang suy thoái. Đó là một "lịch
sử" đang vận hành và vì là quan hệ giữa hai người nên không ngừng biến
đổi.
Đức Giêsu chấp nhận sự yếu đuối đức tin của chúng ta nhưng nmời
gọi chúng ta tiến bộ. Và chính trong thử thách, trong bão tố mà “đức tin nhỏ
bé, kém cỏi" của chúng ta được thẩm định và thực hành.
Ở đây đức tin được trình bày trong một bối cảnh bi đát như một
cuộc chiến đấu chống lại sự hồ nghi và sợ hãi. Phêrô người tín hữu đầu tiên
không được đặt lên hàng đầu vì những phẩm chất cá nhân. Chúng ta thấy ông đã
hụt chân, như buổi tối mà ông đã chối Chúa ba lần sau khi hung hăng lớn tiến
tuyên bố lòng trung tín (Mt 26,35.69.75)
Tuy nhiên giữa lúc hoài nghi, ông cầu nguyện: "Thưa Ngài, xin
cứu con với! Kyrie eleison!”.
Vậy sơ đồ của đức tin chúng ta là gì: một lời kêu gọi của Đức
Giêsu bảo chúng ta "Hãy đến.!" một cuộc hành trình trên những vực
thẳmcủa sự phi lý bề ngoài của đức tin..sự hoài nghi làm chao đảo... sự chỉnh
đốn hoàn toàn của Đấng cầm tay chúng ta.
Khi Thầy trò lên thuyền, thì gió yên lặng
ngay.
Một nhận xét đơn giản bề ngoài không quan trọng đối với người đọc
quá nhanh.
Một lần nữa, đây là một chi tiết tượng trưng mà hình ảnh đã lên
tiếng: "Thầy trò” cả hai đã lên thuyền, và gió lặng. Đức Giêsu và Phêrô
cứu chiếc thuyền này trong cơn tai biến.
Những kẻ ở trong thuyền bái lạy Người và nói:
"Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa!"
Trong sách Tin Mừng Matthêu, đây là sự tuyên xưng đức tin đầu
tiên. Chúng ta phải giữ lại trang Tin Mừng này cho cơn bão tố sắp tới của chúng
ta. Phêrô suốt đời sẽ nhớ lại điều này, khi ông sẽ bước vào những cơn giông tố
khác trầm trọng hơn ở Rôma vào thời của Vua Nêrôn.
Phêrô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Chúa
Giêsu. Nhưng thấy gió thổi thì ông đâm sợ và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy
Thầy, xin cứu con! Chúa Giêsu liền đưa tay nắm lấy ông và nói: người đâu mà kém
tin vậy? Tại sao con nghi ngờ, hỡi kẻ kém lòng tin? (Mt 15,29-31)
Chúng ta vừa đọc lại đoạn trích từ phúc âm theo thánh Mathêu,
chương 15, câu 29-31, nói về phép lạ Chúa Giêsu đi trên mặt nước biển hồ
Galilêa và cho phép Phêrô chia sẻ quyền năng đi trên mặt nước đến với Ngài.
Biến cố nầy xảy ra trong thời điểm khoảng một năm, sau khi Phêrô và các bạn, đã
từ bỏ mọi sự mà theo Chúa. Phêrô và các bạn đã lắng nghe những Lời Chúa giảng,
đã chứng kiến những phép lạ Chúa thực hiện và đã được chiêm ngưỡng vinh quang
Chúa và được Chúa giải thích đặc biệt hơn về Mầu Nhiệm Nước Trời. Hơn nữa,
Phêrô và các bạn vừa mới được Chúa chọn riêng ra kết thành nhóm 12, và Phêrô đã
được Chúa đặt đứng đầu nhóm. Tóm lại, vào thời điểm nầy, Chúa Giêsu đã mạc
khải, tuy chưa trọn vẹn tất cả, cho Phêrô và các bạn biết thực thể thần linh
của Chúa và ý định của Ngài về cuộc đời,và về tương lai của Phêrô. Hơn nữa,
biến cố "đi trên mặt nước" xảy ra liền sau một phép lạ cả thể khác
nữa, mà Phêrô và các tông đồ không những được chứng kiến, mà còn được tham dự
vào nữa, đó là biến cố Chúa làm phép lạ cho bánh hóa ra nhiều và trao cho các
tông đồ phân phát cho hàng ngàn người ăn no.
Sau phép lạ nầy, dân chúng hồ hởi muốn tôn vinh Chúa lên làm Vua.
Nhưng Chúa Giêsu không chiều theo như vậy. Ngài ra lệnh cho các tông đồ xuống
thuyền đi sang bên kia bờ hồ, còn Ngài thì ở lại giải tán dân chúng rồi lên núi
cầu nguyện. Thuyền các tông đồ bị sóng to gió lớn cản trở. "Vào khoảng
canh tư, tức khoảng 3 giờ sáng, Chúa Giêsu đi trên mặt biển mà đến với các môn
đệ. Thấy Nguời đi trên mặt biển, các ông hoảng hốt bảo nhau: Ma đấy, và sợ hải
la lên. Chúa Giêsu liền bảo các ông: Hãy yên tâm. Thầy đây. Đừng sợ! Phêrô liền
thưa với Nguời: thưa Thầy, nếu quả là Thầy thì xin truyền cho con đi trên mặt
nước mà đến với Thầy. Chúa Giêsu bảo ông: Cứ đến! Phêrô từ thuyền bước xuống,
đi trên mặt nước, và đến với Chúa Giêsu. Nhưng thấy gió thổi, thì ông đâm ra
sợ, và khi bắt đầu chìm, ông la lên: Lạy Thầy, xin cứu con! Chúa Giêsu liền đưa
tay nắm lấy ông và nói: nguời đâu mà kém tin vậy? Sao lại hoài nghi?
Lạy Thầy, nếu là Thầy, thì xin cho con được đến với Thầy. Vài nhà
chú giải cho đây là một lời nói đầy tự phụ của Phêrô muốn kiểm chứng, thử thách
quyền năng Chúa. Nhưng, một số khác thì giải thích theo hướng tích cực hơn, cho
rằng đây là mong ước tự nhiên của Phêrô, đang phải chiến đấu với cảnh sóng to
gió lớn, đang phải đương đầu với những nguy hiểm. Sau nghi nghe được chính
giọng nói trấn an của Chúa, và đã biết là Chúa rồi chớ không phải là "bóng
ma", thì ao ước tự nhiên của Phêrô là được đến với Chúa, không phải để thử
Chúa, mà để được mau ở gần bên Chúa, thoát ra khỏi cảnh nguy hiểm. Phêrô được
thôi thúc bởi tình yêu đối với Chúa, và không nghĩ là mình vừa lên tiếng xin
Chúa một điều nghịch lại với định luật vật lý tự nhiên: là được đi trên mặt
nước. Chúa đáp lại tình yêu nồng nhiệt của Phêrô. Nhưng sau đó, ta có thể nói
là Phêrô không còn kiên vững trong Niềm Tin và Tình Yêu đối với Chúa nữa. Vì
thế Ông bị nguy, và phải kêu lên: Lạy Thầy xin cứu con.
Đây là điều có thể xả#y ra cho mỗi người đồ đệ của Chúa. Chúa
Giêsu đã thực hiện những dấu lạ trong cuộc đời chúng ta. Hay nói cách khác,
Chúa cho phép chúng ta được tham dự vào quyền năng thần linh của Ngài, làm chủ
trên mọi biến cố thiên nhiên. Nhưng những nguy hiểm, thử thách được Chúa cho
phép xảy ra, làm cho chúng ta lung lay trong niềm Tin và Tình Yêu, như Phêrô
ngày xưa. Chúa không trách Phêrô dám to gan xin Chúa dấu lạ, nhưng trách, hay
đúng hơn, chỉ cho Phêrô nhìn thấy nguyên nhân của nguy hiểm đang tấn công, làm
cho ông bị chìm xuống nước, đó là: thiếu tin tưởng vào Chúa. Sao kém tin thế?
Tại sao con do dự, hỡi kẻ kém tin? Đức Tin và Tình Yêu kiên vững sẽ cung cấp
cho chúng ta sức mạnh để vượt qua được những thử thách nguy hiểm. Nhưng, là con
người, có những lúc chúng ta bị lung lay, bị cám dỗ ngã lòng. Đó là những lúc
chúng ta cần mau kêu cầu Chúa, như Phêrô: Lạy Thầy, xin cứu con. Đây là lời cầu
nguyện đầy ý nghĩa trong cơn thử thách. Chúng ta đừng quên cầu nguyện trong lúc
thử thách. Đừng quên Chúa hằng hiện diện bên cạnh và lúc nào cũng sẵn sàng giúp
ta khỏi bị chìm. Nơi thơ do thái chương 12, câu 1-2, thánh Phaolô khuyên:
"Chúng ta hãy nhìn về Chúa Giêsu. Và hãy chạy tới. Hãy kiên trì trong cuộc
đua sức chúng ta đã bước vào". Đời chúng ta là một cuộc đua giữa hai lực
tốt và xấu đang tranh nhau chiếm lấy con người chúng ta. Hãy nhìn lên Chúa. Hãy
kiên vững trong Đức Tin và Tình Yêu. Hãy cầu nguyện chân thành luôn, lời cầu
của Phêrô, của kẻ khiêm tốn chỉ biết đặt niềm tin vào Chúa mà thôi: Lạy Thầy,
xin cứu con.
Lạy Chúa, Chúa đã ra lệnh cho con làm công việc của Chúa. Xin đừng
để con phải một mình giữa hiểm nguy. Lạy Thầy xin cứu con. Xin đừng để con sa
chước cám dỗ. Nhưng xin hãy cứu con khỏi mọi sự dữ. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thiên Chúa tỏ ra là một nhà giáo dục đại tài: Ngài luôn tôn trọng
tư tưởng, dự định của con người, nhưng với thời gian và qua dòng lịch sử, Ngài
thanh lọc, kiện toàn những gì không phù hợp với Nước Trời. Chúa Giêsu, Con
Thiên Chúa nhập thể làm người cũng đi theo đường lối đó, như chúng ta có thể
thấy trong bài Tin Mừng hôm nay.
Sau khi cho dân chúng ăn no, Chúa Giêsu buộc các môn đệ lên đò
sang bờ bên kia. Giải tán dân chúng xong, Chúa Giêsu lên núi cầu nguyện một
mình. Các môn đệ vâng lời Thầy ra đi, nhưng có lẽ các ông không được hài lòng.
Các ông đã hết sức kiên nhẫn chờ đợi ngày Chúa Giêsu làm vua, cơ hội đó hôm nay
đã đến, nhưng Chúa lại từ chối. Không những bỏ lỡ cơ hội, Chúa còn ra lệnh cho
các ông lập tức rời bỏ hiện trường. Bất mãn, chán nản và mệt nhọc làm cho các
ông ngã lòng. Chúa Giêsu biết rõ tâm trạng của các ông, không những bằng ánh
mắt và bằng cả cõi lòng khi Ngài cầu nguyện trên triền núi. Ngài thấy các ông
chèo chống ngược với sóng gió và ngược với cả ý muốn. Chính lúc đó, Ngài đi
trên mặt biển để đến với các ông. Ngài đã làm như thế để các ông hiểu rằng Ngài
có quyền năng trên các tạo vật, Ngài có chương trình của Ngài và Ngài sẽ thực
hiện chương trình ấy khi giờ của Ngài đến.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta đặt tất cả niềm tin vào quyền
năng của Chúa. Ngài có chương trình cho mỗi người chúng ta. Điều quan trọng
không phải là chúng ta bắt Thiên Chúa làm theo ý chúng ta, để rồi khi không
được như ý nguyện, chúng ta tỏ ra buồn phiền, than trách Chúa. Trái lại, chúng
ta hãy đặt hết tin tưởng vào Chúa, Ngài vẫn hiện diện để sẵn sàng cứu giúp
chúng ta. Hãy phó thác vào quyền năng yêu thương của Ngài và như thế tâm hồn
chúng ta sẽ được bình an.
(Suy niệm của JM)
Thấy Người đi trên mặt biển các ông hoảng hốt bảo nhau: “Ma đấy!”,
và sợ hãi la lên. Đức Giêsu liền bảo các ông: “Cứ yên tâm chính Thầy đây đừng
sợ!” Ông Phê-rô liền thưa với Người: “Thưa Ngài, nếu quả là Ngài, thì xin
truyền cho con đi trên mặt nước mà đến với Ngài.” Đức Giêsu bảo ông: “Cứ đến!”
Ông Phê-rô từ thuyền bước xuống, đi trên mặt nước, và đến với Đức Giêsu. Nhưng
thấy gió thổi thì ông đâm sợ, và bắt đầu chìm, ông la lên: “Thưa Ngài, xin cứu
con với!” (Mt. 14, 26-30)
Phêrô
Mọi chú ý đổ dồn vào một nhân vật: Phêrô. Ông là tông đồ thứ nhất.
Ông nói, làm nhân danh các bạn khác. Hơn nữa, ông là người thứ nhất trong các
kẻ tin. Ông tỏ vẻ rất linh hoạt và diễn xuất niềm tin xuất sắc. Ông mạnh mẽ và
hiên ngang tuyên bố những lời kêu gọi và lôi cuốn con người. Đó là khát vọng
sâu xa hướng về mình, ở bên mình, ở với mình. Đó là bước đường dẫn tới hố sâu
vì được người ta tin cậy và yêu mến. Thế rồi, khi lòng tin cậy yếu đuối, lập
tức kéo theo sự mất sức căn bản và những nguy khốn tứ bề ập tới làm mình run sợ
mất lòng trông cậy. Lúc đó mình là mồi ngon cho các thế lực đe dọa, nếu mình
không tìm ngay đến bàn tay của Thầy đến cứu vớt. Có lòng trông cậy, có lòng
tin, nhưng quá hèn mọn, quá yếu ớt thì đừng bo bo cậy mình. Chỉ có đức tin vô điều
kiện mới mong dẫn dắt các bạn một cách chân chính mà thôi. Điều xảy ra với tông
đồ thứ nhất là Phêrô, luôn là gương mẫu cho tất cả những kẻ tin tưởng.
Giáo Hội
Giáo hội toàn thể luôn luôn ở trước tôn nhan Đức Giêsu. Giáo hội
đã được bảo đảm thắng vượt mọi gian nan thử thách, có đủ khả năng thoát khỏi
mọi nguy biến. Giáo hội biết mình được bảo đảm không bao giờ bị đắm chìm tan
biến theo chiều dài của lịch sử ở điều kiện nắm vững đức tin.
Một đức tin đơn sơ
Những câu cuối cùng của đoạn Tin mừng này nhắc nhở chúng ta bài
học về Phêrô bước đi trên mặt biển: một bài học về đức tin đơn sơ, không giải
thích. Một đức tin biểu lộ bằng cử chỉ, bằng chỉ cần động đến gấu áo Chúa,
nhưng đã diễn tả mọi rung động của con tim. “Nếu anh không trở nên trẻ nhỏ…”.
Nếu đức tin không như thế, chúng ta phức tạp hóa đức tin của chúng ta, đức tin
sẽ mất sức mạnh, mất sức sống! Ước chi chúng ta hãy hết lòng nói với Chúa: “Lạy
Chúa, con tin”.
Giữa lúc dân chúng định tôn Đức Giêsu làm Vua, và sau khi mọi
người đã được no nê bánh và cá, thì Ngài lại giải tán họ, và buộc các môn đệ
phải chèo thuyền qua bờ bên kia. Yên lặng trở lại với nơi hoang vắng. Chỉ còn
lại một mình Đức Giêsu, Ngài chìm sâu trong cầu nguyện. Ngài gặp gỡ trong thân
mật với Thiên Chúa Cha. Nhưng Đức Giêsu không quên các môn đệ. Ngài biết họ một
mình đang vật lộn với sóng gió. Mãi gần sáng, Ngài mới đi trên mặt nước mà đến
với họ. Các môn đệ tưởng Ngài là ma, nên kêu la sợ hãi. Đức Giêsu trấn an họ:
"Hãy yên tâm, Thầy đây, đừng sợ."
Tuy còn ngờ vực, Phêrô đã dám liều lĩnh đề nghị: "Nếu quả là
Thầy, thì xin cho con được đi trên mặt nước mà đến với Thầy." (Mt 14,28).
Thật là một lời đề nghị làm ta ngạc nhiên. Thật là một đề nghị đầy nguy hiểm.
Nhưng Phêrô đã chấp nhận nguy hiểm, đã dấn thân nghiêm túc để được gần Thầy
mình. Nếu đó không phải là Thầy mình, thì thật là dại dột. Nhưng nếu đúng là
Thầy, thì ông tin mình cũng đi được trên mặt nước như Thầy.
Đức Giêsu nói với Phêrô: "Cứ đến". Thế là Phêrô bước ra
khỏi thuyền, ông đi trên mặt nước mà đến với Đức Giêsu. Thật không thể tưởng
tượng nổi, mặt nước trở nên cứng như đá, hay con người có đức tin trở nên nhẹ
bỗng. Phêrô đi được bao xa, ta không rõ, nhưng lòng ông thì cứ reo lên sau mỗi
bước đi: "Đúng là Thầy rồi!" Phải tin thì mới dám xin đi trên mặt
nước, nhưng phải dám đi trên mặt nước, thì niềm tin mới được trọn vẹn.
Cần ngắm nhìn những bước chân của Phêrô, những bước chân của lòng
tin mạnh mẽ. Nhưng khi gió lồng lên dữ dội, nỗi sợ hãi ùa vào, lòng tin bị chao
đảo với sóng gió, lúc đó Phêrô thấy mình bị hút xuống lòng biển. Ông chỉ kịp
kêu lên: "Lạy Thầy, xin cứu con." Bàn tay Chúa đưa ra nắm lấy bàn tay
của ông và đưa ông về thuyền. "Người kém tin, tại sao lại hoài nghi!"
(Mt 14,31). Hoài nghi và sợ hãi đã làm Phêrô trở nên nặng nề, và nhận chìm ông
xuống. Phêrô hăng say đó, nhưng lại xìu đó và tỏ ra nhát đảm vì thiếu tin tưởng
vào Chúa Giêsu.
Cuộc đời của mỗi người là một cuộc vượt biển đầy cam go, cho dù đi
bằng thuyền hay bằng tàu, không ai có thể nói là tuyệt đối bằng an. Còn bơi
trong sóng nước thì vô phương. Phêrô, một người sành sỏi về bơi bội, sông nước
là nghề nghiệp của ông. Thế mà khi bị thụp xuống, lại cuống cuồng la lên:
"Lạy Thầy! Xin cứu con".
Muốn vượt biển đời bình an, thơ thới, chỉ có một cách là cậy trông
vào Đức Giêsu Kitô, chỉ mình Ngài mới có quyền năng đạp sóng, và làm bão tố tan
biến đi. Đưa tay cho Ngài dắt, chúng ta sẽ đi trên bão tố đường đời như đi trên
thảm cỏ xanh êm dịu tươi mát.
***
Lạy Chúa Giêsu! Sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi
trên mặt nước:
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ muốn hút
con vô vực sâu. Sự nặng nề của thân xác cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt
nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con gần chìm. Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ nhàng mà bước những
bước dài hướng về Chúa. Amen.
Suy niệm:
Bài Tin Mừng hôm nay là một loạt những kinh nghiệm thiêng liêng.
Có thể chúng ta ít nhiều đều đã có những kinh nghiệm này.
Thầy Giêsu là một nhà giáo nhân từ và cương quyết.
Ngài giáo dục các môn đệ bằng cách đưa họ vào những kinh nghiệm.
Kinh nghiệm bị Thầy bắt buộc phải qua bờ bên kia (c. 22),
dù họ rất muốn ở lại bờ bên này để nếm dư vị của thành công vừa
rồi.
Sau phép lạ nhân bánh, người ta định tôn Thầy lên làm vua (Ga 6,
15).
Chỉ cần Thầy gật đầu là trò được chia sẻ tiếng tăm và quyền lực.
Các môn đệ đã bị ép lên thuyền, ngay lập tức, lúc chạng vạng tối.
Kinh nghiệm bị sóng đánh vì ngược gió.
Thuyền đã xa bờ mấy cây số, tiến tới không được, lùi lại cũng
không xong.
Vào lúc khó khăn ấy lại không có Thầy ở trong thuyền.
Hầu như suốt đêm các môn đệ phải vất vả chèo chống với sóng gió.
Họ phải tập chiến đấu trong đêm tối khi không có Thầy ở bên.
Họ có nghĩ quyết định của Thầy là sai lầm, vội vã không?
Kinh nghiệm hốt hoảng, sợ hãi và được trấn an.
Mãi đến lúc gần sáng, Thầy Giêsu mới đi trên biển mà đến với các
môn đệ.
Ngài đến khi họ chưa thấy rõ mặt Ngài.
Ngài đến vào lúc bất ngờ và đến theo cách bất ngờ, khiến họ khiếp
kinh.
Ngài đến đem bình an mà họ tưởng là ma quái đe dọa (c. 26).
Quả thật có những lúc không dễ nhận ra là Chúa đang đến với mình.
Chúa đến làm các môn đệ sợ hãi hơn cả sóng gió.
Nhưng “Cứ yên tâm, chính Thầy đây. Đừng sợ!” (c. 27).
Kinh nghiệm tự đưa mình vào một thách đố của lòng tin.
Một mặt Phêrô vẫn chưa tin trọn vẹn khi nói câu: Nếu quả là
Thầy…(c. 28).
Nhưng mặt khác ông lại rất táo bạo khi dám xin ơn đi trên mặt
nước.
Ông coi đó là cách thức chắc chắn nhất để biết có phải là Thầy
không.
Nếu đúng là Thầy thì Thầy cũng có thể cho mình làm được như Thầy.
Chỉ cần Thầy truyền lệnh là đủ, Phêrô tin như thế.
Kinh nghiệm đi trên mặt nước và kinh nghiệm bị chìm.
Khi được Thầy cho phép, Phêrô đã dám từ thuyền bước xuống biển
động.
Và ông đã đi được một quãng không rõ bao xa (c. 29).
Mặt nước cứng như đá hay người ông trở nên nhẹ bổng?
Bây giờ thì đúng là Thầy rồi, chỉ Thầy mới cho mình làm được như
Thầy.
Phêrô sung sướng tiến về phía Thầy với lòng tin đang lớn lên.
Nhưng khi gặp gió thổi mạnh thì ông lại sợ, lại hoài nghi, yếu
tin.
Ông mất tập trung vào sự hiện diện quyền năng của Thầy và bị chìm.
Người ta có thể bị chìm ngay khi biết Chúa ở trước mặt.
Kinh nghiệm được Thầy nắm tay mà dắt vào thuyền.
Khi Phêrô kêu cứu, Thầy Giêsu đã giữ ông khỏi bị nước nuốt chửng.
Sau đó hẳn hai Thầy trò đã cùng nhau đi trên sóng mà về thuyền.
Khi cả hai lên thuyền thì gió lặng, chẳng cần Thầy phải dẹp yên
sóng gió.
Các kinh nghiệm môn đệ vừa trải qua thật kinh khủng và gần gũi với
ta.
Buồn bực, sợ hãi, căng thẳng, bình an, nghi ngờ, chới với, hạnh
phúc.
Đời Kitô hữu là một chuỗi những kinh nghiệm như thế.
Chúng ta tưởng Chúa bỏ rơi, Chúa vắng mặt, Chúa là ma làm ta sợ
hãi.
Đơn giản Chúa là Thầy biết cách làm ta trưởng thành qua kinh
nghiệm.
Cuối cùng chúng ta sẽ nhìn nhận: “Quả thật Thầy là Con Thiên Chúa”
(c. 33).
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phêrô,
nhưng nhiều khi con cảm thấy
sống đức tin giữa lòng cuộc đời
chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi cuốn.
Có bao cám dỗ muốn hút con vô vực sâu.
Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống.
Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng.
Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
in cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con,
để con trở nên nhẹ tênh
mà bước những bước dài hướng về Chúa. Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Biến cố Chúa đi trên mặt biển cũng được tường thuật nơi Phúc Âm
thánh Maccô chương 6 và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 6, nhưng nơi Phúc Âm
thánh Mátthêu thì có thêm chủ ý hành văn của tác giả và ý định trình bày một
cái nhìn. Các nhà chú giải đồng ý có ba phương diện giúp dễ hiểu đoạn Phúc Âm
này hơn:
- Bình diện thứ nhất là bình diện của biến cố khi được tường
thuật.
- Bình diện thứ hai là bình diện thần học về việc Chúa mạc khải
Thần Khí của Người.
- Bình diện thứ ba là ý nghĩa xã hội học của biến cố.
Trước hết, về bình diện tường thuật biến cố thì câu chuyện được kể
đơn sơ, dễ hiểu: "Sau biến cố bánh hóa nhiều, Chúa Giêsu truyền cho các
tông đồ xuống thuyền sang bờ bên kia. Còn Người thì ở lại giải tán dân chúng,
rồi lên núi cầu nguyện. Đến khuya, Chúa đi trên mặt biển đang bị động để đến
với các tông đồ".
Nhưng nếu nhìn biến cố trong viễn tượng việc Chúa mạc khải chính
mình thì biến cố mang một đặc điểm mới. Chúa Giêsu có quyền trên mọi biến cố
thiên nhiên. Câu nói của Chúa: "Thầy đây, đừng sợ!" nhắc lại công
thức Thiên Chúa mạc khải chính mình bằng lời quả quyết: "Ta là Đấng Ta
là".
Ý nghĩa xã hội học được trình bày qua hình ảnh con thuyền tượng
trưng cho Giáo Hội Chúa. Thuyền gặp bão, Giáo Hội Chúa gặp thử thách. Nhưng
Chúa Giêsu không để cho các tông đồ một mình chống lại với bão táp, không thể
để cho Giáo Hội một mình gặp thử thách: "Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho
đến tận thế". Chúa muốn cho các tông đồ luôn kiên trì trong đức tin, đừng
lo sợ mê man. Chúa đến với các tông đồ, Chúa đến với Giáo Hội trong cơn thử
thách. Chúng ta hãy để cho Chúa đến với chúng ta và hiện diện với chúng ta mãi
mãi.
Lạy Chúa, Đấng đã kêu gọi mọi người "Đừng sợ".
Xin thương củng cố đức tin chúng con trong những lúc gặp gian nan
thử thách.
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
Chúa nhật vừa qua, chúng ta nghe thánh Matthêu thuật lại phép lạ
Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều (x. Mt 14, 13-21), tiếp theo là biến cố Chúa biến
hình trên núi (x. Mt 17, 1-9) và hôm nay chúng ta nghe tiếp Chúa Giêsu đi trên
mặt biển mà đến với các môn đệ (x. Mt 14, 22-33).
Êlia và Phêrô là hai nhân vật nổi bật của tuần này. Êlia chứng
kiến ba sự kiện trên trái đất là gió bão, động đất và lửa, Thiên Chúa đều không
hiện diện ở đó. Giữa sức mạnh của vũ trụ với tiếng gió hiu hiu, Êlia phải học
phân định để nghe thấy lời trong thinh lặng, hay trong chính bản thân mình (x.
1V 19, 9a. 11-13a).
Trước khi đề cập đến Phêrô, chúng ta không thể không nói đến các
môn đệ được Chúa Giêsu "giục xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước"
(14, 22), còn dân chúng, những người Do thái được giải tán, theo một nghĩa nào
đó, họ là "những người ở bên này". Việc các môn đệ phải "sang bờ
bên kia", nghĩa là các ông phải vượt qua những thực tại hữu hình, tạm thời
của thân xác, bước sang sự vĩnh cửu vô hình. Dĩ nhiên, các ông không thể cập bờ
bên kia trước Chúa Giêsu; các ông phải trải qua kinh nghiệm không có Thầy, họ
không thể tới bến bình an.
Có chuyện gì mà Chúa Giêsu buộc các môn đệ phải xuống thuyền? Phải
chăng là để chống lại cơn cám dỗ và các tình huống khó khăn? Chắc chắn có một
cơn giống tố trong lòng các ông và ở biển hồ Galilêa. Vì chưa hiểu dấu chỉ phép
lạ hóa bánh ra nhiều, nên các ông đã theo dân chúng muốn tung hô Chúa làm vua!
Giờ đây họ cảm thấy thế gian sợ hãi và xao xuyến biết bao!
"Người lên núi cầu nguyện một mình" (Mt 14,23). Người
cầu nguyện cho ai? Chắc chắn là cho dân chúng vừa giải tán, sau khi đã được ăn
bánh no nê, họ không biết phải làm gì. Chúa Giêsu cũng cầu cho các môn đệ, ở
giữa biển khơi đang bị kiệt sức bởi sóng đánh vì ngược gió khỏi mọi sự dữ.
Chính nhờ lời cầu nguyện của Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha mà các môn đệ không
bị chìm vì sóng to gió lớn.
Còn Phêrô, được Chúa Giêsu mời gọi bằng kinh nghiệm đức tin. Ông
xin Thầy cho được đi trên mặt nước (x. Mt 14, 28). Chúa Giêsu đã ban cho ông
quyền đi trên biển. Biển, tượng trưng cho mãnh lực của sự dữ và sự chết; Chúa
Giêsu đi trên mặt biển, là đi trên sự chết, thể hiện sự chiến thắng của Người
trên sự dữ và sự chết. Toàn bộ mầu nhiệm Phục sinh là ở chỗ Chúa Giêsu chiến
thắng sự chết và biển cả. Theo quan niệm của người Do thái, biển là sào huyệt
của sự chết. Đi trên biển là liều chết. Chính sự rủi ro này mà khi Phêrô đáp
lại lời gọi của Chúa Giêsu, "xuống khỏi thuyền, bước đi trên mặt
nước" (Mt 14, 29), là ông giẫm chân trên sự chết. Nên không có lạ, khi ông
nghi ngờ.
Chỉ khi Phêrô tin và phó thác vào Thầy, ông mới có thể đi trên mặt
nước. Ông bị chìm xuống lúc ông nghi ngờ. Thấy gió mạnh, ông sợ, sự sợ hãi
trước tai ương của thế gian này lại giúp cho ông tin vào quyền năng của Thầy.
Chính lúc ông thôi tin vào Chúa, ông mất quyền đi trên biển, và chìm xuống. Khi
đi được trên mặt nước chứng tỏ Phêrô tin, lúc chìm xuống cho thấy ông không
tin. Thật là đức tin ngược đời, vì chính lúc ông không cậy dựa vào Chúa, ông bị
chìm, ông lại kêu Chúa cứu.
Với lời kêu cứu của Phêrô: "Lạy Thầy, xin cứu con!" (Mt
14, 30) Chúa Giêsu đáp lại bằng cử chỉ và lời. Người giơ tay nắm lấy ông và
trách: "Người hèn tin, tại sao mà nghi ngờ?" (Mt 14,31) Khi gió thổi
mạnh, nỗi sợ hãi và nghi ngờ về quyền năng của Chúa đột nhập vào Phêrô, một con
người yếu lòng tin. Cứu ông lên khỏi nước, Chúa Giêsu dạy ông rằng, tình thầy
trò không phải là đức tin của người môn đệ, nhưng là lòng trung thành của Thầy.
Cảnh tượng trên phơi bày sự cao cả cũng như thấp hèn của người môn đệ.
"Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong
thuyền đến lạy Người mà rằng: "Thật, Thầy là Con Thiên Chúa" (Mt 14,
32-33). Quả thật, niềm tin vào Con Thiên Chúa chỉ có được sau một hành trình
dài của đau khổ, chết và phục sinh của Đức Giêsu Con Thiên Chúa.
Lời Chúa Giêsu nói với các môn đệ trên biển: "Thầy đây, đừng
sợ. Ma đâu có xương có thịt như Thầy có đây", cũng là lời Chúa nói với các
ông sau khi Chúa phục sinh “Tại sao các con run sợ, tại sao các con nghi ngờ…
chính Thầy đây, hãy xem tay chân Thầy đây". Hai khung cảnh khác nhau về
thời gian nhưng đều có một điểm chung là run sợ, kém lòng tin và nghi ngờ, cả
hai lần Chúa Giêsu đều khẳng định "chính Thầy đây mà" (x. Lc 24; Mt
14).
Ở cuối trình thuật, các môn đệ được mô tả là những người tin khi
sấp mình xuống thờ lạy Chúa. Còn Phêrô, mỏng giòn, yếu đuối, Chúa Giêsu lại
trao Giáo hội cho ông. Chúa Giêsu sẽ đồng hành cùng Giáo hội. Như Phêrô, người
yếu tin, chúng ta cần có bàn tay của Chúa kéo chúng ta lên, bước vào con thuyền
Giáo hội để sang bờ bên kia.
Phần chúng ta, nếu một ngày nào đó chúng ta phải đương đầu với các
cơn cám dỗ không thể tránh được, hãy nhớ rằng Chúa Giêsu buộc chúng ta xuống
thuyền; từ bờ bên này sang bờ bên kia không thể không có sóng gió. Và khi chúng
ta thấy những khó khăn, vất vả, mệt nhọc giữa đời vây quanh ta, thuyền của
chúng ta đang ở giữa đại dương mênh mông, với những cơn sóng đang tìm cách nhấn
chìm đức tin của chúng ta. Chúng ta hãy vững tin rằng, Con Thiên Chúa sẽ đi
trên mặt nước đến gần chúng ta, giơ tay kéo chúng ta lên; Chúa chỉ mong đợi
chúng ta tin tưởng tuyệt đối vào Chúa.
Lạy Mẹ Maria, gương mẫu về lòng tín thác trọn vẹn nơi Thiên Chúa,
xin giúp chúng con vững tin vào Chúa, để giữa bao bận tâm, lo lắng, khó khăn
giữa biển cả cuộc đời đang làm chúng con giao động, chúng con vẫn nghe thấy lời
trấn an của Chúa Giêsu, Con Mẹ: "Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ!" (Mt
14,27) Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, như vậy chính Ngài
đã tạo dựng vũ trụ, vạn vật, muôn loài, vì thế Ngài có toàn quyền trên thiên
nhiên. Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những bằng chứng để chúng ta quả quyết
điều trên: Chúa đi trên biển nổi sóng và sóng gió yên lặng ngay khi có lệnh của
Ngài hoặc khi có sự hiện diện của Ngài.
Hoàn cảnh của phép lạ: Sau khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều cho
hàng ngàn người ăn no, dân chúng phấn khởi quá muốn suy tôn Chúa làm vua, nhưng
Chúa thì không đồng tình như vậy, nên Ngài bảo các môn đệ xuống thuyền ra khơi
đi trước và đợi Ngài ở phía bên kia Biển Hồ, Ngài giải tán dân chúng rồi một
mình lên núi cầu nguyện. Các môn đệ ra đi được khoảng vài cây số thì gặp sóng
to gió lớn. Thánh Luca ghi lại: gió ngược thổi mạnh dữ dội, thánh Mát-thêu cho
biết: lúc ấy vào khoảng canh tư, nghĩa là vào khoảng ba giờ sáng, như vậy lúc
đó các môn đệ đã rất mệt mỏi sau mấy tiếng đồng hồ chèo chống.
Giữa lúc ấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển đến với các môn đệ, hình
như Ngài muốn đi ngang qua các ông. Vừa mệt mỏi, vừa đêm tối, các môn đệ thấy
có bóng người đi trên mặt biển, tưởng là ma quái hiện hình, nên hoảng sợ, nhưng
khi nghe tiếng nói quen thuộc trấn an: "Cứ yên tâm, chính Thầy đây, đừng
sợ", các ông mới nhận ra Chúa, lập tức Phêrô xin phép đi trên mặt nước đến
gặp Chúa. Chúa bằng lòng. Phêrô bước ra khỏi thuyền đến với Chúa, nhưng đức tin
của ông còn yếu kém, ông hồ nghi và lo sợ nên bị chìm dần xuống và kêu xin Chúa
cứu giúp. Chúa đưa tay cầm lấy tay ông và trách nhẹ: "Người đâu mà kém tin
vậy, sao lại hoài nghi?". Khi Chúa và Phêrô đã lên thuyền, sóng gió liền
yên lặng và mọi người tuyên xưng Chúa: "Quả thật Ngài là Con Thiên
Chúa".
Qua bài Tin Mừng này, chúng ta ghi nhận được ba bài học:
Bài học thứ nhất, việc Chúa Giêsu đi trên mặt
biển đến với các môn đệ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa. Đối với Chúa,
việc này không có gì là khó khăn, và đối với chúng ta, cũng chẳng có gì là khó
hiểu, vì Ngài là Thiên Chúa, là đứng tạo dựng vũ trụ, Ngài quyền phép vô cùng.
Chính Ngài cầm quyền trên mọi định luật vật lý, nên việc Ngài đi trên sóng nước
không có gì phản khoa học hay vô lý, nhưng lại minh chứng quyền năng Thiên Chúa
của Ngài. Các môn đệ hôm ấy được chứng kiến tận mắt và ghi nhận sự kiện tỏ
tường Chúa có quyền trên sóng biển, đi trên sóng, truyền cho chúng yên lặng. Vì
thế, lòng tin của các môn đệ càng gia tăng. Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta:
Chúng ta phải tin Chúa Giêsu tuyệt đối và thể hiện niềm tin ấy bằng cách sống
theo những lời Chúa dạy, bởi vì như thánh Giacôbê nói: đức tin không có việc
làm là đức tin chết.
Bài học thứ hai, đang khi các môn đệ gặp bão táp, sóng gió thì Chúa xuất hiện để
cứu giúp họ. Trong khoảnh khắc mọi sự đều thay đổi vì có Chúa. Điều này cho
chúng ta biết: ở đâu có Chúa là có bình an. Cuộc đời chúng ta cũng vậy, có
giông tố bão táp, có thử thách khó khăn, nhưng chúng ta đừng bao giờ thất vọng
nghĩ rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, Chúa ở xa chúng ta hay không để ý gì đến chúng
ta. Không, Chúa luôn ở với chúng ta, Chúa luôn đồng hành với chúng ta trên mọi
nẻo đường, Chúa luôn sẵn sàng trợ giúp chúng ta. Chúng ta có thể nói: trong
những giờ phút khó khăn, nguy hiểm, khổ đau, chẳng những Chúa đi bên cạnh chúng
ta, mà Chúa còn bồng bế chúng ta trên cánh tay toàn năng của Ngài.
Bài học thứ ba,Thánh Phêrô thấy Chúa đi trên
sóng nước ngon lành nên đã phản ứng khá mau lẹ, có thể nói quá vội vàng trước
khi kịp suy nghĩ, là xin Chúa cho ông cũng đi trên sóng nước như Chúa. Chúa
bằng lòng ngay, nhưng vì yếu lòng tin, lo sợ nên Phêrô đã bị chìm xuống. Ong
lại vội vàng kêu xin Chúa và Chúa cũng cứu giúp ngay. Đây cũng là điều nhắc nhở
chúng ta: một quyết định hay một hành động vội vàng thường dễ sai lầm và gặp
khó khăn. Vì thế, cần suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định một điều gì hay
làm một việc gì, cần phải xác định được nên làm hay không nên làm và làm lúc
nào. Đó là hai vấn đề: chúng ta phải cầu nguyện nhiều trước khi làm, một khi đã
làm thì làm cho đến nơi đến chốn, nếu chẳng may thất bại thì cố gắng làm lại,
đừng chán nản thất vọng. Thánh Phêrô đã làm như thế đã tin cậy Chúa, rồi càng
yêu mến Chúa hơn trước và được Chúa tín nhiệm nhiều hơn.