CÁC BÀI
SUY NIỆM LỄ CHÚA BA NGÔI 2017
MỤC LỤC
1. Đoàn kết
2. Chúa Ba Ngôi
3. Mặt trời ban sự sống
4. Lễ Chúa Ba Ngôi – An Mai
5. Con đường yêu thương
6. Thiên Chúa Tình Yêu - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
7. Mầu nhiệm tình yêu - Lm. Jos. Quốc Phong SDB
8. Thiên Chúa tình yêu – Thiên Phúc
9. Lễ Chúa Ba Ngôi - Ngày Lễ Tình Yêu
10. Thiên Chúa yêu thế gian
11. Con đường sống
12. Suối nguồn tình yêu
13. Huyền nhiệm tình yêu – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
14. Thiên Chúa Ba Ngôi: Mầu Nhiệm Tình Yêu
15. Thiên Chúa Ba Ngôi
16. Lễ Chúa Ba Ngôi
17. Thiên Chúa là nguồn yêu thương
18. Tình Yêu Ba Ngôi
19. Chịu trách nhiệm về sự hiện diện của Đức Kitô
20. Con búp bê và biển cả
21. Nguồn tình yêu
22. Một Thiên Chúa của tình yêu
23. Huyền nhiệm tình yêu
24. Chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
25. Ba Ngôi Hiệp Nhất
26. Trao ban tất cả vì yêu thương – Lm. Trần Ngà.
27. Lễ Chúa Ba Ngôi – R. Veritas
28. Chúa Ba Ngôi
29. Thiên Chúa Ba Ngôi: tình yêu tuyệt hảo
30. Trí khôn và ý muốn
31. Dấu Thánh Giá
32. Ba Ngôi
33. Ba Ngôi
34. Tình yêu
35. Dòng sông
36. Sống hoà nhịp
37. Đủ ánh sáng chưa?
38. Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi
39. Ba Ngôi: Tình Yêu Trao Ban - Bm. Minh Trân
40. Mầu nhiệm hiệp thông
41. Chúa Ba Ngôi – Lm. Quang Diệm
42. Kẻ nội thù
43. Một Tình Yêu không thể tin được
44. Đức tin trong Đức Giêsu Noel Quesson
45. Dấu Thánh nhiệm mầu.
46. Dấu Thánh Giá
Thiên Chúa là tình yêu Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Thiên Chúa là nguồn yêu thương Lm Giuse Đinh lập Liễm
Chịu trách nhiệm về ... Achille Degeest
Thiên Chúa yêu thương thế gian... R. Veritas
Mặc khải bất ngờ của phúc âm Fiches Dominicales
Tình yêu : sự sống của con người Học Viện Đà Lạt
Mầu nhiệm Thiên Chúa... Lm. Phêrô Lê văn Chính
Lễ Chúa Ba Ngôi Lm Giuse Đinh tất Quý
Lễ kính Thiên Chúa Ba Ngôi Lm Giuse Đinh tất Quý
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Mầu nhiệm cao cả Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Tình yêu tuyệt hảo Sưu tầm
Trí khôn và ý muốn Sưu tầm
Dấu thánh giá Sưu tầm
Thiên Chúa là Tình Yêu Dẫn lễ
Ai trong chúng ta cũng biết: Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết.
Thế nhưng tâm lý muốn sống riêng, muốn làm riêng, muốn hưởng riêng hình như đã
ăn sâu vào tiềm thức của người Việt Nam. Không hiểu có phải vì 1000 năm nô lệ
giặc Tàu và 100 nô lệ giặc Tây mà phát sinh ra cái tình trạng đó hay không? Quả
thực, kẻ xâm lăng bao giờ cũng dùng chính sách chia để trị, để dân bị áp bức
không thể đoàn kết lại mà lật đổ ách thống trị. Chiến lược tâm lý này đã chia
đất nước chúng ta thành từng miền, từng tỉnh, khiến người dân Bắc Trung Nam trở
nên xa lạ với nhau. Người Kinh coi thường người Thượng. Người giáo khinh miệt
người lương. Tầm mắt chúng ta chỉ biết có làng xóm với lũy tre xanh bao bọc,
đến nỗi phép vua còn thua cả lệ làng. Rồi làng mạc lại chia nhỏ thành từng gia
đình với những căn nhà riêng biệt có rào giậu vây quanh. Mỗi nhà chỉ biết có
mảnh vườn riêng trồng đủ mọi loại cây mình thích, chứ không theo một hướng
chung để phát triển thành những vùng cây công nghieệp. Vì thế mà dân ta cứ
nghèo, cứ khổ mãi. Chỉ khi nào chúng ta thoát ra khỏi cách làm ăn nhỏ nhen
riêng lẻ ấy, thì mới có cơ may làm cho đất nước giàu mạnh hơn.
Xét về trí khôn, cá nhân người Việt Nam thì học hành rất giỏi, làm
việc rất khá, vượt lên trên nhiều người ở các nước khác. Chúng ta đã nhiều lần
đoạt giải nhất, giải nhì trong các cuộc thi quốc tế, nhưng những con người Việt
Nam tài giỏi ấy chẳng thể làm việc chung lâu dài với nhau, nên Việt Nam vẫn là
một trong những nước nghèo nhất thế giới theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc. Vì
thế, hơn lúc nào hết, trong tinh thần đổi mới, chúng ta phải phát huy tinh thần
đoàn kết, biết làm việc chung với nhau.
Và Chúa Ba Ngôi chính là một biểu tượng, một mẫu gương cho sự hợp
nhất của chúng ta. Thực vậy, Thiên Chúa không bao giờ hoạt động riêng lẻ. Bất
cứ công việc nào cũng đều có sự thông dự của cả Ba Ngôi. Trước hết, trong công
trình tạo dựng vũ trụ, Chúa Cha đã dựng nên tất cả bằng Lời khôn ngoan Ngài
phán từ miêng mình và nhờ Thần khí bay là là trên mặt nước như luồng gió huyền
diệu. Tiếp đến trong công trình cứu độ của Chúa Con cũng thế. Chúa Cha luôn
hành động trong Đức Kitô để Ngài rao giảng và làm các phép lạ. Và Chúa Thánh
Thần đã cộng tác ngay từ lúc Mẹ Maria thụ thai cho đến khi Đức Kitô sống lại,
thổi hơi trên các môn đệ để họ nhận lấy thần khí của Ngài. Và sau cùng trong
công trình thánh hoá của Ngôi Ba cũng vậy. Các ơn Chúa Thánh Thần phân phát cho
từng người đều do Chúa Cha ban cho chúng ta qua Đức Kitô. Vì thế mà trong Phúc
Âm Chúa Giêsu đã xác quyết: Mọi sự Chúa Cha đều là của Thầy và Thánh Thần sẽ
lấy những gì của Thầy mà ban cho các con.
Sự hiệp nhất giữa Ba ngôi nhắc cho chúng ta hiểu rằng: Con người
cũng là những nhân vị, có tự do, có ý thức, có tình cảm riêng tư cần được tôn
trọng. Đó không phải là sự gắn bó của những chiếc đũa vật chất, mà ta có thể
dùng sức lực để bó chặt lại, rồi cưa đầu chặt đuổi cho bằng nhau. Muốn tạo sự
hợp nhất thì các ngôi vị phải gặp gỡ, thông cảm và yêu thương nhau.
Để kết luận, chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta có biết
cộng tác với nhau hay chúng ta lại là đầu mối gây bất hoà và chia rẽ.
Trong cuộc đời, có nhiều điều lạ lùng mà trí khôn hạn hẹp của
người không bao giờ có thể hiểu thấu. Để diễn tả những thực tại lạ lùng ấy, cha
ông chúng ta ngày xưa đã thách: Đố ai biết núi mấy cây, biết sông mấy khúc,
biết mây mấy tầng. Đố ai quét sạch lá rừng, để ta khuyên gió, gió đừng rung
cây. Đố ai biết đá mấy hòn, tua rua mấy chiếc, trăng tròn mấy đêm. Đố ai tát bể
Đông khô, tất sông Bồ Đề, nhổ mạ cấy trên.
Trong tất cả mọi thực tại tuyệt diệu khó hiểu của cuộc sống con
người, có lẽ tình yêu là khó hiểu nhất: Đố ai cắt nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu
một buổi chiều…Tình yêu của con người mà còn khó hiểu, thì
tình yêu của Thiên Chúa lại càng khó hiểu hơn gấp ngàn vạn lần. Bởi vì, Thiên
Chúa được gì khi tạo dựng nên chúng? Tại sao Chúa lại phải chịu chết để cứu
chuộc chúng ta? Chỉ có tình yêu đích thực vô biên và vô vị lợi mới trao ban sự
sống và tận hiến tất cả.
Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay cho chúng ta thấy được mầu nhiệm tình yêu
của Thiên Chúa. Và theo sự diễn tả của thánh Gioan, thì từ nguyên thủy đã có
tình yêu và tình yêu qui hướng về Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa chính là tình
yêu. Và tình yêu đã nhập thể, đến sống giữa chúng ta. Chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ
ra cho loài người, như là Con Thiên Chúa. Đồng thời, trong Ngài chúng ta nhận
Thiên Chúa là Cha và Chúa Thánh Thần như là người mẹ trao ban sự sống. Tuy chỉ
là một, nhưng Ngài lại có Ba Ngôi, đó là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Chúa Cha là Đấng hướng dẫn toàn bộ cuộc sống con người và lịch sử
thế giới. Chính Ngài đã trao ban cho Chúa Con sức mạnh dẫn đưa con người và thế
giới trở về với Ngài, theo chương trình tình yêu nguyên thủy của thời tạo dựng.
Khi vâng lời Chúa Cha trong mọi sự, Chúa Con sửa chữa cho nhân
loại khỏi án phạt sự chết và khỏi một cuộc sống xa lìa Thiên Chúa, cũng như nổi
loạn chống lại thánh ý Ngài. Đồng thời, Chúa Cha còn hướng dẫn cuộc sống của
các Kitô hữu và của Giáo Hội, dân riêng mới của Ngài, qua sự hiện diện và hoạt
động của Chúa Thánh Thần, Đấng trợ giúp con người hiểu biết sự thật toàn vẹn.
Nghĩa là hiểu biết và chấp nhận chương trình yêu thương và cứu độ mà Thiên Chúa
đã có đối với con người và thế giới.
Tuy nhiên, ở đây cũng như trong thời tạo dựng, Thiên Chúa hoàn
toàn tôn trọng sự tự do của mỗi người chúng ta. Ngài để cho chúng ta được tự do
quyết định chấp nhận hay khước từ chương trình cứu độ đầy yêu thương ấy. Chính
vì thế, như một câu danh ngôn đã bảo: Hãy tự cứu lấy mình, rồi trời sẽ cứu. Con
người nắm giữ vận mạng trong chính lòng bàn tay của mình. Hay như lời thánh
Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Thiên Chúa không cần hỏi ý kiến
chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với
Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta
lại không muốn.
Một vị linh mục đang chờ máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất, thì
một người đàn ông đến ngồi bên cạnh và bắt đầu đề cập tới vấn đề tôn giáo, ông
nói:
- Tôi không thể nào chấp nhận được những điều tôi không hiểu,
chẳng hạn như vấn đề Chúa Ba Ngôi hay bất cứ vấn đề nào giống như thế. Chẳng ai
có thể cắt nghĩa cho tôi, nên tôi sẽ không bao giờ tin.
Chỉ vào một luồng ánh sáng chiếu qua khung cửa kính, vị linh mục
hỏi:
- Ông có tin mặt trời không nhỉ?
Ông ta trả lời:
- Dĩ nhiên là có.
Vị linh mục nói tiếp:
- Phải, ánh sáng ông thấy qua cửa sổ, xuất phát từ mặt trời cách
đây 150 triệu cây số. Sức nóng chúng ta cảm nhận được cũng xuất phát từ mặt
trời. Đối với Chúa Ba Ngôi, một phần nào cũng tương tự như thế. Mặt trời là
Chúa Cha. Từ mặt trời mà có ánh sáng, cũng như từ Chúa Cha mà có Chúa Con. Rồi
từ Chúa Cha, Chúa Con mà có Chúa Thánh Thần, cũng như từ mặt trời, từ ánh sáng
mà có sức nóng. Ông hiểu thế nào về mặt trời, ánh sáng và sức nóng. Thì một
phần nào tương tự như thế, ông hiểu về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Hôm nay chúng ta tụ hợp nơi đây để chúc tụng và tôn vinh Chúa Ba
Ngôi. Trước hết chúng ta phải chấp nhận, đó là một chân lý, một mầu nhiệm không
ai có thể hiểu thấu. Sở dĩ chúng ta biết được phần nào là do Chúa Giêsu đã nói
với chúng ta, như lời Ngài đã phán trong Tin Mừng: “Các con hãy rửa tội cho họ
nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”.
Mặt trời là nguồn năng lượng vật chất thế nào thì Chúa Ba Ngôi
cũng là nguồn sống thiêng liêng cho chúng ta như vậy. Mặt trời chiếu toả ánh
sáng thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng soi sáng tâm hồn chúng ta như vậy. Mặt trời
đem đến sức nóng để sưởi ấm vạn vật thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng sẽ đem lại
sức nóng thiêng liêng để sưởi ấm, đó là tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với
anh em đồng loại. Mặt trời tiêu diệt vi khuẩn chữa lành bệnh tật thế nào, thì
Chúa Ba Ngôi cũng sẽ khử trừ những thói hư tật xấu và loại trừ tội lỗi ra khỏi
tâm hồn và cuộc đời chúng ta như thế. Mặt trời đem lại cho chúng ta niềm vui
cho chúng ta thế nào, thì Chúa Ba Ngôi cũng đem lại cho chúng ta niềm hạnh phúc
vĩnh cửu như thế.
Tuy nhiên chúng ta cần lưu ý: Chúa Ba Ngôi không phải là một nguồn
năng lượng vô hồn nhưng là những ngôi vị sống động, thông biết và yêu thương.
Với Ngài, chúng ta có thể kêu cầu như chúng ta vốn đã thường làm, mỗi khi chúng
ta làm dấu thánh giá, đọc kinh Sáng Danh, hay như lát nữa đây, chúng ta cùng
nhau hát kinh Tin Kính...
Cùng với lời tuyên xưng chúng ta hãy sống gắn bó mật thiết với các
Ngài, để rồi các Ngài sẽ ra tay nâng đỡ phù trợ cho chúng ta trong mọi hoàn
cảnh của cuộc sống.
Thiên Chúa tỏ cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa duy nhất, ngoài
Ngài ra không có Thiên Chúa nào khác. Thiên Chúa duy nhất đó chính là Đấng đã
dựng nên chúng ta, chính Ngài là hạnh phúc của ta, chính Ngài yêu thương ta và
ta đã chối từ tình thương của Ngài. Ta biết Thiên Chúa hứa ban Con Một Ngài đến
cứu chuộc ta và suốt lịch sử Ngài dọn đường cho Con của Ngài ra đời. Ta biết
Đức Giêsu người Nagiarét chính là Con Thiên Chúa đã làm người, Ngài đồng bản
tính với Đức Chúa Cha và cũng là Thiên Chúa như Chúa Cha, Kinh thánh cho ta
biết về Chúa Thánh Thần mà Cha và Con gởi đến cho ta để ta được thánh hóa.
Chính Chúa Giêsu còn dạy ta rõ hơn nữa: Chúa Thánh Thần cũng là Thiên Chúa như
Cha và Con, Ngài là Ngôi Ba Thiên Chúa, Ngài bởi Cha và Con mà ra.
Trong chương trình cứu độ đã học, ta thấy rõ trong mỗi công việc
của chương trình đó, đều có sự hiện diện của Cha, Con và Thiên Chúa, từ việc
mạc khải và sáng tạo đến việc cứu chuộc và thánh hóa.
Khi công cuộc sáng tạo bị tội lỗi phá vỡ, Thiên Chúa đã khai
trương một cuộc sáng tạo mới trong?ức Kitô, đã khôi phục lại con người theo
hình ảnh Tạo Hóa (Cl 3,10). Để thực hiện cuộc sáng tạo mới này, Thiên Chúa đã
chuẩn bị bằng một lịch sử cứu độ cũng do cả Ba Ngôi điều động. Chính Thánh Thần
thúc đẩy dân Chúa trung thành với giao ước Chúa Cha đã ký kết, dọn tâm hồn đón
đợi Đức Kitô Con Thiên Chúa.
Khi đã đến giờ định, Thiên Chúa sai Con Duy nhất của Ngài xuống
thế làm người. Chúa Con vâng theo ý muốn của Chúa Cha, là vào đời nhập thể và
Thánh Thần làm cho Chúa Con thụ thai trong lòng một trinh nữ như lời thiên sứ
nói với Đức Trinh nữ Maria: “Thánh Thần sẽ đến trên ngươi, và quyền năng của
Đấng Tối Cao sẽ ngợp bóng trên ngươi, bởi thế mà trẻ sắp sinh ra sẽ được gọi là
Thánh, là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35). Như vậy, công việc nhập thể cũng là tác
động của cả Ba Ngôi.
Trong công cuộc cứu chuộc, cả Ba Ngôi cùng kéo chúng ta vào cuộc
sống thần linh: Chính Chúa Cha trao phó Đức Giêsu, Con Một Ngài cho chúng ta.
Chính Đức Giêsu khi được treo lên khỏi đất, Ngài đã kéo chúng ta lại với Ngài,
Ngài chết để qui tụ muôn dân về một mối. Còn Thánh Thần thì giục giã để chúng
ta tin nhận Đức Giêsu Kitô là Chúa, và thốt lên “Abba” để sống tình con thảo
với Chúa Cha.
Sau cùng, cả Ba Ngôi Thiên Chúa đều hiện diện trong những người đã
được cứu chuộc, như lời Chúa Giêsu nói: “Ta sẽ xin Cha và Người sẽ ban cho các
ngươi một Đấng Bầu Chữa khác, để Ngài ở với các ngươi luôn mãi... Ai yêu mến Ta
thì sẽ giữ Lời Ta và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng Ta sẽ đến với nó và đặt chỗ
ở nơi mình nó” (Ga 14,16 và 23).
Nơi tất cả những công trình, ta thấy Ba Ngôi xoắn xuýt với nhau,
nên một với nhau. Ba Ngôi cùng chung một lòng yêu thương ta, chung một ý muốn
và chương trình cứu vớt ta, chung một quyền năng để hành động cho ta. Trong tất
cả, Ba Ngôi là một.
Nơi Thiên Chúa, tình yêu giữa Cha, Con và Thánh Thần không hề có
một giới hạn nào. Ba Ngôi cùng chung một ý muốn, cùng một tình yêu thương, một
vinh quang, một uy quyền. Ba Ngôi cùng một bản tính. Ba Ngôi cùng trao ban và
cùng nhận lãnh. Không có gì là phân chia hoặc riêng rẽ: “Mọi sự của Con đều là
của Cha và sự gì của Cha cũng là của Con” (Ga 17,10).
Và Thánh Thần cũng chia sẻ như vậy: “Mọi sự Cha có hết thảy đều là
của Ta, vì thế mà Ta nói:Ngài (Thánh Thần) sẽ lấy của Ta mà thông báo cho các
ngươi”. Cũng thế, điều Con muốn chính là điều Cha muốn (Ga 4,34), vinh quang
của Con cũng là vinh quang của Cha (Ga 13,31).
Tất cả những điều ấy cho thấy Ba Ngôi kết hợp với nhau thật mầu
nhiệm: Cả Ba Ngôi cùng ở trong nhau. “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha” (Ga
10,38), Thánh Thần ở trong Cha và Con vì Ngài từ Cha và Con mà đến, mà chính
Con cũng lại ở trong Thánh Thần”
Nơi mầu nhiệm Ba Ngôi, một nét rõ nhất như chúng ta thấy ở trên đó
chính là sự hiệp nhất. Ba Ngôi luôn luôn hiệp nhất với nhau. Còn chúng ta, là
những người mang danh Kitô hữu, chúng ta sống thái độ hiệp nhất đó như thế nào
trong đời sống thực tại? Chúng ta có hiệp nhất với anh chị em chúng ta hay
chúng ta cứ cố thủ một mình trong vỏ ốc ích kỷ của chúng ta?
Một câu chuyện mà tôi được nghe từ ngày còn bé:
Ngày xưa, có một người nhà giàu, sinh được năm người con. Vì giàu
có nên những người con của ông có một đời sống sung sướng thừa thãi về vật
chất. Nhưng chuyện đời thường vốn vô cùng. Vì thế, có một, các con ông muốn có
hai và cứ thế tánh đua đòi lâu dần thành thói quen, đến lúc không tự chủ được
thì đã trở thành lòng tham vọng. Càng ngày, lòng tham vọng của con người càng
nhiều và lan ra trên mọi bình diện. Do đó, họ không biết thế nào là đủ nên lúc
nào cũng khổ tâm vì luôn nghĩ đến sự hơn thua và ganh tỵ lẫn nhau. Đến khi khôn
lớn, cả năm người con nhờ tiền của cha mẹ nên đều giàu có. Tuy mỗi người một cơ
ngơi, nhưng vẫn giữ thói ganh ghét tị hiềm cãi cọ nhau về những của cải mà họ
có. Nhìn cảnh các con không hòa thuận, người cha buồn lắm. Ông cố gắng khuyên
bảo nhưng dù ông có cố gắng thế nào, các con ông cũng không bỏ được lòng hiềm
kỵ lẫn nhau làm ông rất đau lòng.
Sau một thời gian ngã bịnh, ông biết rằng mình không còn sống được
bao lâu nữa. Ông cho gọi các con đến bên giường và bảo gia nhân đem đến cho ông
hai bó đũạ Các con ông còn đang nhìn nhau ngơ ngác không hiểu người cha có ý
định gì thì ông lấy một bó đũa, đưa cho mỗi người một chiếc và bảo:
- Các con mỗi đứa lần lượt bẻ chiếc đũa này và cho cha biết kinh
nghiệm về việc các con làm dễ hay là khó.
Ông vừa dứt lời, trong chớp mắt, năm người con bẻ năm chiếc đũa
thật dễ dàng.
Nhìn những chiếc đũa gãy đôi, gãy ba, ông im lặng và các con ông
cũng yên lặng đợi chờ. Một lát sau, ông đưa nguyên bó đũa cho người con cả và
dịu dàng nói:
Tốt. Các con đã thành công trong việc bẻ một chiếc đũa. Bây giờ,
các con lại thay phiên nhau bẻ nguyên cả bó đũa này cho cha xem.
- Người con trưởng cầm bó đũa ra sức bẻ. Anh vận dụng sức mạnh đến
nỗi mặt mũi đỏ gay nhưng không làm cho bó đũa gẫy được dễ dàng. Chờ đến lúc anh
chịu thua, người cha bảo người con thứ hai tiếp tục. Cũng như người con lớn,
người con thứ hai không bẻ được và chịu thua. Ông kiên nhẫn chờ đến khi người
con thứ năm bỏ cuộc mới ôn tồn nói:
- Đó, các con xem, thế nào là sức mạnh của sự đoàn kết. Nếu các
con cứ tiếp tục hiềm tị chia rẽ nhau thì các con cũng lẻ loi và yếu đuối không
khác gì một chiếc đũa và các con sẽ bị kẻ thù bẻ gãy dễ dàng. Nhưng nếu các con
biết thương yêu đoàn kết lại với nhau như bó đũa thì không một sức mạnh nào bẻ
gãy được các con.
Năm người con ông hiểu ý cha và bài học ông vừa dạy. Cảm động và
hối hận vì ăn ở với nhau không phải rồi còn làm cha buồn, các con ông ôm lấy
ông vừa khóc, vừa hứa là từ nay về sau sẽ bỏ thói tị hiềm ích kỷ để yêu thương
đoàn kết với nhau.
Sau đó người cha mất đi. Năm người con vâng lời cha dạy. Họ rất
đoàn kết và thương mến lẫn nhau. Đời sống gia đình họ rất hoà thuận và không
một ai có thể cạnh tranh được với sự giàu mạnh trong việc làm ăn buôn bán của
gia đình họ.
Kinh nghiệm, bài học của người cha trong câu chuyện để lại cho các
con cũng chính là kinh nghiệm cho mỗi người chúng ta. Chúng ta vẫn thường mang
trong mình cái tính tự cao tự đại để rồi chẳng có ai có thể cộng tác với chúng
ta.
Nhiều người lớn từ lâu vẫn đùa chơi với một phép tính như thế này:
ba người Nga thì bằng một người Do Thái, ba người Do Thái thì bằng một người
Việt Nam, nhưng ba người Việt Nam thì... cái phép tính cuối cùng này mỗi người
tính một cách, chỉ có chữ "nhưng" là vẫn giữ nguyên ý nghĩa cho phép
người tiếp nhận dù không thể cân đo vẫn hiểu được thâm ý của phép so sánh. Lại
còn một hình ảnh ví von khác, cũng chẳng biết là từ đâu ra: một người Việt Nam
rớt xuống hồ thì tự leo lên được, nhưng ba người thì không, vì người này lên
thì người kia kéo xuống...
... Những câu chuyện truyền miệng có tính phóng đại, ai cũng biết
thế nhưng giải thích nguyên nhân thì thật khó khăn và thật khó hiểu nổi vì sao.
Cái tính thiếu hiệp nhất và manh mún, nhiều người còn nói nặng lời
là tính đố kỵ nhau, rõ ràng đã là mâu thuẫn với tinh thần hiệp nhất đã gây khổ
cho không biết bao nhiêu người.
Là kitô hữu, đứng trước căn tính hiệp nhất của Ba Ngôi chúng ta
phải làm sao? Chúng ta phải chiêm ngưỡng, bắt chước và sống tình yêu thương với
nhau như Ba Ngôi Thiên Chúa thì chúng ta mới có thể hiệp nhất được.
Phải nhìn nhận thẳng với nhau một điều rằng đời sống cộng đoàn,
đời sống gia đình ngày hôm nay đang phải đối diện với một thách đố lớn giữa một
xã hội phát triển. Ngày hôm nay người ta dường như tôn sùng chủ nghĩa cá nhân
và đã tìm mọi cách sống cái chủ nghĩa cá nhân đấy một cách triệt để nhất.
Gia đình: Ngày hôm nay khó mà tìm được gia đình hiệp nhất. Vì lẽ
chồng, vợ, con cái không nhìn nhận ra đúng vai trò của mình để rồi gây ra không
biết bao nhiêu là rạn nứt cho chính người thân yêu của mình. Ngày hôm nay tình
trạng ly dị quá cao, tình trạng trẻ em bỏ đi bụi đời càng nhiều. Con người ngày
nay đã không khiêm tốn đủ để sống vai trò mà Thiên Chúa mời gọi họ.
Cộng đoàn tu trì: Cộng đoàn tu trì cũng thế thôi. Khó mà tìm ra
được cộng đoàn hiệp nhất. Cũng giống như câu chuyện về người Nga, người Do Thái
và người Việt ở trên. Người Việt chỉ giỏi làm việc độc lập để rồi trong cộng
đoàn, chúng ta thấy được sự khập khiễng rất lớn. Có những người có chút tài và
họ đã phát triển biệt tài mà Thiên Chúa phú ban cho họ. Đáng tiếc là họ đã quên
đi những người nhỏ bé trong cộng đoàn mà họ đang sống. Dẫu là nhỏ bé đi chăng
nữa nhưng rất cần sự nâng đỡ, sự cầu nguyện, sự hợp tác của những người nhỏ bé
trong cộng đoàn.
Lời của thánh Phaolô tông đồ khuyên mỗi người chúng ta rất thiết
thực trong thư thứ 2 của Ngài: “Thưa anh em, anh em hãy vui mừng và gắng nên
hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như
vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và là bình an, sẽ ở cùng anh em”.
Ngài khuyên chúng ta nhất trí nhưng xem lại chúng ta có nhất trí
hay không? Hay là chúng ta chính là nguyên nhân gây chia rẽ, gây rạn nứt trong
cộng đoàn?
Thiên Chúa, trong tin mừng theo Thánh Gioan đã xác tín với chúng
ta rằng qua Nicôđêmô: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời...”
Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa tuôn đổ muôn ơn lành và nhất là ban
thêm niềm tin cho chúng ta để dẫu rằng trải qua thế sự thăng trầm này chúng ta
luôn luôn tín thác cuộc đời của chúng ta trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Nguyện xin Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn mạch của tình yêu thương,
của sự hiệp nhất ban cho chúng ta thêm tình yêu, ban thêm cho chúng ta tình
hiệp nhất để chúng ta xây dựng gia đình, cộng đoàn chúng ta ngày mỗi ngày tốt
hơn theo như lòng Chúa mong muốn.
Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần. Hoạt động của Ba Ngôi tuy khác biệt nhưng luôn thể hiện
trong một tình yêu thương: tình yêu của Chúa Cha đối với Chúa Con, tình yêu của
Chúa Con đối với Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần. Qua bài Phúc Âm chúng ta vừa
nghe, tôi xin chia sẻ về chủ đề: Con đường yêu thương:
1. Con đường yêu thương của Chúa Cha
Với đoạn Thánh Kinh ngắn vừa rồi, chỉ có 3 câu, Thánh Gioan đã cho
chúng ta biết Thiên Chúa đã yêu thế gian như thề nào. Người đã yêu thế gian
bằng một tình yêu cao vời nhất, một tình yêu trọn vẹn nhất, một tình yêu
"hy sinh đến cùng tận" khi Người đã ban chính Con Một của mình để cứu
thế gian và để thế gian nhờ Con Một đó mà được cứu sống. Quả là một tình yêu
cao vời khôn ví mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại!
Mục đích Thiên Chúa đến với nhân loại qua Con Một không phải để
lên án, nhưng để cứu vớt; không phải để xét xử, nhưng để mời gọi con người trở
về trong tình yêu của Thiên Chúa. Con đường trở về đó chính là Đức Giêsu Kitô,
đường dẫn nhân loại đến với Chúa Cha. Sứ mạng đó được Chúa Giêsu thực hiện như
thế nào?
2. Con đường yêu thương của Đức Giêsu trong
Chúa Thánh Thần
Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy điều đó qua thư gửi Philipphê:
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết
duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại
còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.
Vâng, Chúa Giêsu đã đến với nhân loại bằng con đường tự huỷ. Sự tự
huỷ tột cùng nhất. Từ địa vị là Thiên Chúa lại nhập thể làm người, trở nên là
một người như mọi người, sống như bao con người khác ngoại trừ tội lỗi. Đó,
chúng ta thấy con đường của Chúa Giêsu là một con đường chẳng giống ai, đang ở
địa vị cao sang, lại hạ mình xuống thành một người cùng khổ, và chết cách nhục
nhã nhất. Con đường này chỉ có một không hai trong lịch sử nhân loại. Vâng, đó
là con đường mà Chúa đã đến với nhân loại và đã dành trọn cho nhân loại.
Trong một lần tĩnh tâm, cha giảng phòng đã cho chúng tôi một cách
so sánh về sự từ bỏ. Ngài nói:
Người ta thường dùng từ "đồ súc sinh" để lăng mạ nhau,
để sỉ nhục nhau. Đó là điều là một sự xỉ nhục rất nặng phải không. Một con
người có lý trí, có tự do và trách nhiệm, vậy mà lại bị hạ nhục bằng một con
vật. Còn Thiên Chúa, Người là Chúa muôn loài, Người là Đấng tạo thành mọi sự,
Người cao vời khôn ví ấy vậy mà lại hạ mình, mặc lấy thân phận con người là thụ
tạo của mình, trở nên người như mọi người. Như vậy, việc Chúa xuống thế làm
người đó, Người đã hạ mình xuống thấp nhơn một con vật để cứu lấy chúng ta và
để nâng chúng ta lên làm con của Người.
3. Con đường yêu thương của người con Chúa
Con đường yêu thương của Chúa Giêsu là để thực hiện ý của Chúa
Cha, thi hành một kế hoạch cứu độ nhiệm mầu của Thiên Chúa dành cho quý ông bà,
cho quý anh chị, cho tôi, cho mọi người. Vậy chúng ta phải làm gì để đáp lại
tình yêu đó, chúng ta phải làm gì để đáp lại con đường yêu thương mà Thiên Chúa
đã, đang và còn tiếp tục thực hiện cho mỗi người, cho mỗi gia đình và cho giáo
xứ chúng ta?
Đó là cầu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự trả lời.
Qua việc tự huỷ, Thiên Chúa đã tự thực hiện con đường yêu thương
của Người. Vậy đến lượt chúng ta, chúng ta đáp lại tình yêu đó bằng việc hy
sinh, bằng việc từ bỏ những gì là ý riêng của ta để tìm và thực hiện ý Chúa. Ý
riêng của ta là gì? Thưa, đó là cái tôi của con người tôi. Cái tôi ích kỷ-hẹp
hòi, cài tôi tự tôn-tự ti, cái tôi độc đoán-cục bộ... mà mỗi người đã bị chúng
đóng băng mình lại và làm cho mình không có thể đến được với nhau và sống hiệp
thông với nhau.
Nhìn lên Chúa Cha để học lấy tinh thần yêu thương và cho đi. Yêu
thương để xoá bỏ hận thù. Yêu thương để xoá bỏ ngăn cách giữa người với người.
Yêu thương để xây dựng và kiến tạo sự hiệp nhất. Yêu thương để cho đi và đón
nhận. Nhìn lên Chúa Giêsu để học nơi Người việc trút bỏ tất cả những ý riêng để
tìm và thực hiện ý Chúa, trút bỏ những gì đã đóng băng trong con người cũ của
tôi để tôi biết mở lòng ra với mọi người và nhất là để tôi có thể đến với Chúa
là cội nguồn tình yêu.
Tôi thiết nghĩ có như thế, mỗi người chúng ta mới "thiết
kế" được một con đường yêu thương cho riêng mình, cho gia đình mình, cho
cộng đoàn mình và cho giáo xứ chúng ta.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa là cội nguồn yêu thương và là nguồn mạch
của sự hiệp nhất, xin hoạt động trong cuộc sống của mỗi người chúng con và giúp
chúng con sống con đường yêu thương như Thiên Chúa đã sống và còn tiếp tục thực
hiện con đường đó trong cuộc sống của chúng con và trong giáo xứ chúng con.
Amen.
6. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
THIÊN CHÚA TÌNH YÊU
Một bạn trẻ hỏi tôi: “Thưa Cha, tại sao đạo Phật khi xây chùa thì
chọn những nơi rừng núi thâm u, xa hẳn thị thành, còn đạo Công Giáo khi xây nhà
thờ lại chọn những nơi dân cư đông đúc, phồn hoa đô hội?” Tôi trả lời: “Bạn quả
là có con mắt nhận xét. Việc xây cất chùa chiền, nhà thờ như vậy, thực ra, phát
xuất từ quan niệm nền tảng của đạo. Đạo Phật là đạo xuất thế. Đức Phật vì thấy
những cảnh khổ ở đời trong sinh, lão, bệnh, tử nên đã tìm môt con đường mong
giải thoát chính mình và nhân loại khỏi cảnh khổ não ở đời. Vì thế Ngài đã từ
giã cung đình, rũ sạch bụi trần, xa lánh phồn hoa. Trái lại đạo Công Giáo là
đạo nhập thế. Thiên Chúa thấy con người trầm luân khổ ải nên chạnh lòng thương,
đã sai Con Một là Chúa Giêsu xuống trần để cứu độ chúng sinh. Chúa Giêsu xuống
trần không chỉ là nhập thế, mà còn hoá thân một người nghèo sống giữa người
nghèo, người tội lỗi để đưa mọi người về với Chúa, đó là nhập thể. Có thể nói
đạo Công Giáo diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm con người.
Thiên Chúa đi tìm con người vì Thiên Chúa yêu thương con người.
Không yêu thương thì chẳng việc gì phải đi tìm. Đi tìm tức là có quan tâm. Xa
vắng thì nhớ. Thấy khổ vì thương. Vì thương, vì yêu nên phải cất bước đi tìm.
Không phải Thiên Chúa chỉ yêu thương khi con người gặp đau khổ.
Thực ra Thiên Chúa đã yêu thương con người từ trước, từ khi chưa có con người.
Vì Thiên Chúa là tình yêu thương.
Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu thì không thể sống
đơn độc nên phải có Ba Ngôi. Vì yêu thương không chỉ là cho đi nhưng còn là
nhận lãnh. Muốn cho đi, phải có đối tượng để nhận lãnh. Muốn nhận lãnh cũng đòi
phải có người sẵn sàng cho đi. Vì Thiên Chúa là tình yêu, nên Thiên Chúa là Ba
Ngôi để có thể cho đi và nhận lãnh.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt hảo nên sự cho đi và nhận lãnh ở nơi Ba Ngôi Thiên Chúa cũng đạt đến
mức tuyệt hảo. Thiên Chúa Cha trao ban cho Chúa Con tất cả những gì mình có,
nên Chúa Con là hình ảnh hoàn hảo của Chúa Cha, đến nỗi Chúa Giêsu có thể nói: “Ai thấy Thầy là xem thấy Cha Thầy, Thầy và Cha là một”. Vì yêu, Chúa con dâng lại cho Chúa tất cả những gì mình nhận
lãnh. Việc hiến dâng này ta thấy rõ trong thái độ khiêm tốn, tự hạ, vâng phục
vô biên của Chúa Giêsu đối với Chúa Cha. Chúa Giêsu đã vâng lời cho đến chết và
chết trên thập giá. Chúa Giêsu đã quả quyết: “Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh
mạng sống vì bạn hữu”. Và Người đã vì Chúa Cha mà hiến
mạng sống.
Thiên Chúa là tình yêu tuyệt đối. Tình yêu ấy không chỉ đóng kín nơi bản thân mình. Cũng không chỉ
dừng lại ở một đối tượng hạn hẹp. Nhưng vượt mọi ranh giới, lan toả đến mọi góc
biển chân trời. Ba Ngôi Thiên Chúa là một bầu trời tình yêu hạnh phúc. Nhưng
tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa không chỉ thu gọn trong cộng đoàn Ba Ngôi, mà
lan toả đến khắp vũ trụ, ấp ủ cả thế giới, nâng niu cả sinh linh vạn vật. Ba
Ngôi là một lò lửa tình yêu. Lò lửa tinh luyện tình yêu càng ngày càng phong
phú, là nguồn mạch của mọi tình yêu trên đời.
Mầu nhiệm một Chúa Ba Ngôi như thế không xa vời. Trái lại rất gần
gũi, thiết thân với đời sống chúng ta, là nguồn mạch sự sống của ta, là khuôn
mẫu ta phải noi theo, là cùng đích ta phải đạt tới.
Ta ra đời là do tình yêu của Thiên Chúa. Có thể nói nhân loại là
kết tinh của tình yêu Thiên Chúa. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã nói: “Ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh Ta”. Thiên Chúa là tình yêu. Con người giống Thiên Chúa vì có trái tim
biết yêu thương. Cây cỏ không có trái tim biết yêu thương. Cầm thú không có khả
năng yêu thương. Chỉ có con người mới có khả năng yêu thương vì con người giống
Thiên Chúa.
Nhưng tình yêu ở nơi con người chưa hoàn hảo vì còn chen lẫn nhiều
ích kỷ, hận thù, ghen ghét. Vì thế con người còn phải thanh luyện cho tình yêu
ngày càng thêm tinh tuyền, thêm quảng đại, thêm phong phú. Càng yêu thương con
người càng nên giống Thiên Chúa. Càng quảng đại con người càng gần với trái tim
Thiên Chúa. Càng quên mình con người càng tham dự vào sự sống Thiên Chúa.
Được sinh ra trong tình yêu nên con người phải sống bằng tình yêu.
Như thế con người mới sống trọn định mệnh đời mình. Như thế con người mới đạt
được cùng đích đời mình là sống hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Thiên
Chúa Ba Ngôi.
Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa, là nguồn mạch tình yêu, là sự sống sung
mãn, là thiên đàng hạnh phúc, con đã được sinh ra trong tình yêu của Chúa. Xin
cho con biết sống tình yêu hy sinh theo gương Chúa Giêsu Kitô, để con được kết
hợp với Chúa, sống chan hoà hạnh phúc trong tình yêu muôn đời của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Thiên Chúa là tình yêu. Bạn cảm nhận được tình yêu của Thiên
Chúa thế nào?
2) Bạn có là hình ảnh tình yêu của Thiên Chúa chưa?
3) Bạn làm gì để sống mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi?
Lễ Chúa Ba Ngôi bắt đầu đưa chúng ta vào mùa Thường Niên, không
phải vì mùa thường niên là mùa ít quan trọng hơn trong các mùa phụng vụ. Nhưng
chúng ta có thể nói rằng Lễ Chúa Ba Ngôi bao trùm và chiếu sáng trên tất cả
hành trình của con người. Quả thật mọi hành động của Chúa Cha, Chúa Con và của
Chúa Thánh Thần luôn luôn hiện diện từ thời tạo dựng vũ trụ, nghĩa là trong
thời khắc của sự tạo dựng, ta luôn nhìn thấy dấu ấn của sự hiệp thông giữa Chúa
Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúng ta có thể nói rằng, mỗi một thực tại
con người chúng ta luôn được tạo ra bởi sự hiệp thông và cho sự hiệp thông. Sau
khi sáng tạo ra con người, Thiên Chúa phán: “con người ở một mình thì không
tốt”. Đúng vậy, chính Thiên Chúa không bao giờ ở một mình. Thiên Chúa không
phải là một hữu thể cô độc, mà là một “Gia Đình” gồm ba nhân vị. Ba Ngôi yêu
thương và hiệp thông với nhau đến mức trở nên “Một”.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm của “Tình Yêu” không bị
giới hạn chỉ trong Ba Ngôi, không giữ lại cho chính mình, mà đổ tràn xuống trên
con người. Thánh Gioan viết: “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến mức ban Con
Một, để bất cứ ai tin vào Ngài, sẽ không phải chết, nhưng có được sự sống đời
đời” (Gioan 3,16). Chúa Cha không buộc phải ban Con Một, nhưng vì yêu thương
thế gian quá đỗi, nên Ngài đã ban Con Một cho thế gian, để thế gian được sống.
Thiên Chúa Ba Ngôi không có gì khác hơn chính là “Mầu Nhiệm Tình Yêu” tràn đầy
từ trời đổ xuống cho thế gian, vượt qua tất cả mọi rào cản, mọi ranh giới. Tình
yêu ấy như là một nguồn năng lượng đầy tràn không thể hãm lại được đối với
người biết mở lòng mình ra đón nhận.
“Gia Đình” của Thiên Chúa Ba Ngôi, mọi thành viên đã chọn lựa đi
vào lịch sử của loài người để mời gọi tất cả chúng ta, từng người một, trở nên
người nhà của Gia đình đặc biệt này, trở nên một với Ngài. Đó chính là viễn
tượng cuối cùng, là mong muốn duy nhất mà Mầu Nhiệm Chúa Ba Ngôi biểu lộ và mạc
khải cho con người. Và viễn tượng này quả thật trở nên một sự “thách đố” đối
với tất cả những giáo hội tin vào Chúa Kitô, đối với tất cả các tôn giáo và đối
với tất cả loài người. “Sống hòa hợp trong tình yêu” quả thật là một thách đố
lớn lao trong xã hội ngày hôm nay, khi mà con người ngày hôm nay đang tăng
cường và cổ võ cho các chủ nghĩa ích kỷ và cá nhân. Thiên Chúa Ba Ngôi mời gọi
và thúc đẩy chúng ta vượt qua tất cả các rào cản, và Ngài luôn hiện diện và
nâng đỡ chúng ta vì “Ở đâu có tình yêu thương, ở đấy có Thiên Chúa”.
Thánh Augustino diễn tả mầu nhiệm Ba Ngôi bằng một ý niệm rất là
thực tế, đó là ý niệm về một “Cộng Đoàn”. Ba Ngôi Thiên Chúa tạo ra giữa các
Ngài một “Cộng Đoàn cuả Tình Yêu”, trong đó, chính Tình yêu là nền tảng cốt yếu
của sự tương quan và của sự hiện hữu Thiên Chúa. Thiên Chúa chính là Tình Yêu,
và Tình yêu này đã, đang và sẽ mãi mạc khải cho con người. Mối liên hệ tình yêu
luôn luôn đòi hỏi một chủ thể yêu và một đối tượng được yêu và ngược lại. Giữa
hai người, hiện diện tình yêu, và chính “tình yêu này” nối kết họ lại với nhau,
cũng vậy trong Chúa Ba Ngôi, mối liên hệ này đã trở nên nhân vị. Chúa Cha yêu thương
Chúa Con, và ngược lại, Chúa Con được Chúa Cha yêu thương: Tình yêu đã liên kết
Cha – Con chính là Chúa Thánh Thần, và Chúa Thánh Thần được yêu từ Chúa Cha và
Chúa Con.
“Cộng Đoàn Tình Yêu” là Thiên Chúa Ba Ngôi không thể được hiểu và
đón nhận bởi con người chúng ta, nếu con người chúng ta không cảm thấy mình
được yêu mến từ Thiên Chúa. Chính vì vậy, việc cử hành Thánh Lễ Trọng Thiên
Chúa Ba Ngôi hôm nay, không chỉ là để ca ngợi và tán tụng Thiên Chúa Ba Ngôi,
mà điều quan trọng đối với chúng ta đó là “Tình Yêu” của Thiên Chúa đổ trên
chúng ta. Thiên Chúa Ba Ngôi thật sự trở nên “Kiểu Mẫu” cho mọi tương quan tình
yêu của chúng ta trong chính cuộc sống chúng ta. Trong những mối tương quan cảm
xúc, tình yêu đối với tha nhân, nếu như chúng ta không có đủ khả năng để tạo ra
những mối liên hệ ngang bằng: không kỳ thị, không phân cấp trên dưới, chúng ta
có đang làm chứng cho thế giới “sức mạnh” của Tình Yêu Thiên Chúa chăng? Hay
trong phạm vi gia đình nhỏ bé, trong đời sống của vợ chồng, hai người yêu nhau
mà lại hiện diện một sự “cao hơn” ở bên một phía chồng hay vợ, chúng ta có thật
là đang thực thi tình yêu mà Thiên Chúa đã mạc khải cho chúng ta không?
Không hiện hữu một tình yêu đích thật, đối với chúng ta là những
kitô hữu, mà không phải mang hình ảnh và giống với tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi:
một tình yêu không phân biệt, không cấp bậc, một tình yêu bởi sự tôn trọng sâu
thẳm lẫn nhau, và tình yêu luôn rộng mở đến mỗi người và mọi người. Vì thế
Thánh Lễ hôm nay giúp chúng ta nhận biết Thiên Chúa và tình yêu bao la của Ngài
luôn tuôn đổ dồi dào trên chúng ta, và đặc biệt hơn là giúp chúng ta hiểu và
xích lại gần nhau hơn để yêu nhau hơn, trong gia đình, trong giáo xứ, trong sở
làm việc, và trong xã hội, … nhờ vào Tình Yêu mà trong Đức Kitô, qua ơn của
Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa đổ tràn đầy xuống trong trái tim của mỗi người
chúng ta. “Ý nghĩa ở đâu, nếu chúng ta biết Thiên Chúa là ai, mà rồi chúng ta
không biết yêu thương anh chị em mình”?
(Trích “Như Thầy Đã Yêu”)
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé
xén sạch đám cỏ trước nhà.
Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã
được cắt xén gọn gang – ngoại trừ một mảng có tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì
đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô
nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại.
Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn!
Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ
ấy.
***
Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8). Người đã dựng nên con người cao
trọng hơn các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu
thương Thiên Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống
thế để cứu chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên
tạo vật mới, dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm Tình yêu
mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi
cũng là lễ của tình yêu.
Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọng ơn gọi làm con Thiên
Chúa.
Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực
trong Thiên Chúa tình yêu.
Nếu Thiên Chúa đã hiến trao Con Một của Người để người Con ấy phải
chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích kỷ để giữ lại
cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba Ngôi, là không
muốn cho con người phải chết nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng
ta đành khép lại con tim để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình yêu, nên
ơn gọi đích thực của con người chính ta ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người Kitô
hữu chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của người
tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ
lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn
toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa” (1Ga
4,8). Chỉ những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong
Thiên Chúa. Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng
nhân của một Thiên Chúa Tình yêu.
***
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra được sự hiện diện của
Chúa tận thẳm sâu tâm hồn chúng con và của từng nười chứng con gặp gỡ, để chúng
con biết quảng đại trao ban và yêu thương chúng con đời đời. Amen.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi luôn là chân lý vượt quá sự hiểu biết
của con người. Câu chuyện của thánh Augustine với cậu bé bên bờ biển năm nào
khiến không ít người trong chúng ta nghĩ rằng tín điều này sao mà khô khan khó
hiểu, quanh đi quẫn lại cũng chỉ “Một - Ba”, “Ba- Một”. Thế nhưng sự thật lại
không phải như vậy. Tin mừng hôm nay giúp chúng ta cảm nghiệm về một Thiên Chúa
không quá khô khan, không quá khó hiểu và rắc rối như chúng ta vẫn nghĩ.
Thánh sử Gioan trong tác phẩm của mình có nhắc đến một khái niệm
về Thiên Chúa khi ngài định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1, Ga 4, 8). Đây là
một khái niệm rất rõ ràng và được cụ thể hoá trong câu đầu tiên của Tin mừng
hôm nay, diễn tả Thiên Chúa tình yêu trong việc sai Con của Người xuống thế
gian, làm của lễ dâng hiến hầu đem lại sự sống cho con người. “Thiên Chúa yêu
thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời” (x. 1Ga 4, 9).
Chúng ta thấy tình yêu có sức mạnh phi thường mà hiệu quả của nó
chính là việc làm cho con người khỏi phải chết và sống đời đời nếu họ tin vào
Đấng là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương thế gian không bằng những lời nói
suông, nhưng bằng hành động cụ thể. Vì yêu thương con người, muốn cho họ được
hưởng tình yêu cứu độ, Chúa Cha đã không tiếc ngay cả người Con Một dấu yêu của
mình. Tình yêu của Chúa Con đối với Cha cũng vậy. Vì tình yêu đối với Cha cũng
như với thế gian mà Chúa Con đã vâng lời, chấp nhận thân phận con người, hoà
mình trọn vẹn vào thân phận kiếp người để sẻ chia kiếp “sinh- lão- bệnh- tử”
mỏng giòn của họ. Chúa Thánh Thần luôn âm thầm làm công việc hướng dẫn, thánh
hoá con người để họ ngày một nên hoàn thiện trong tình yêu với Thiên Chúa.
Lẽ dĩ nhiên Thiên Chúa không tự mình vẽ hay phác hoạ ra một mô
hình về tình yêu để rồi bắt chúng ta áp dụng, còn Người thì ngồi đó để đúc kết
hay báo cáo thành tích. Chính Thiên Chúa Ba Ngôi đã đi bước trước, nghĩa là các
Ngài đã sống, đã cảm nghiệm, đã chia sẻ cho nhau từ trước muôn đời và giờ đây
các Ngài vì muốn cho con người cũng được chiêm ngưỡng, được sống và chia sẻ
tình yêu ấy nên đã sai Con Một và Chúa Thánh Thần xuống thế để làm mẫu gương
sống động cho con người noi theo.
Thiên Chúa là Tình yêu. Tình yêu đó chân chính và đích thực. Tình
yêu đích thực đòi buộc cần phải có nhiều thành phần. Lý do là bởi vì một con
người cô độc, luôn tự mãn thì không thể nào có tình yêu được, vì anh ta không
có “đối tác” để yêu thương. Tình yêu đích thực cần đuợc đón nhận và trao ban
qua “đối tác”, tức qua tha nhân. Chúng ta còn thấy một tình yêu trao ban thực
sự khi nó loại bỏ được sự chiếm đoạt, tính ích kỷ và mưu đồ. Tình yêu trao ban
đích thực chỉ xảy ra khi và chỉ khi cả hai đều hướng về nhau, cùng lãnh nhận và
trao ban, cùng yêu và được yêu. Tình yêu đó không làm cho bên nào phải nghèo
đi, phải mất mát nhưng nhờ thế cả hai đều thực sự phong phú và có ích cho nhau.
Trong mầu nhiệm Ba Ngôi, chúng ta thấy một bản tính Thiên Chúa và Ba ngôi vị
phân biệt nhau là thực sự cần thiết, bởi nhờ đó, tình yêu đích thực trao ban và
lãnh nhận giữa Ba ngôi thực sự sống động, thực sự hiệu quả và phong phú mà nếu
mất đi một trong ba, chỉ sẽ dẫn đến tình trạng ích kỷ, chiếm hữu và tự mãn mà
thôi.
Lễ Chúa Ba Ngôi là dịp để mỗi người chúng ta chiêm ngưỡng Một
Thiên Chúa tình yêu, đào sâu thêm về tình yêu giữa Ba Ngôi cũng như tình yêu mà
Ba Ngôi đã trao ban cho chúng ta. Đồng thời cũng là dịp để chúng ta tự vấn
lương tâm về các mối quan hệ của chúng ta giữa vợ chồng, bố mẹ con cái, gia
đình, xã hội, Giáo hội cũng như những mối tương quan khác,… để xem đó có thực
sự là mối quan hệ dựa trên tình yêu vô vị lợi mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã yêu
thương cũng như tình yêu mà Chúa Giêsu đã tỏ bày cách cụ thể nhất khi Người
xuống thế, chịu chết và sống lại vì nhân loại.
Ước mong đây là dịp thuận lợi để chúng ta xin Ba Ngôi Thiên Chúa
tiếp tục dạy dỗ và hướng dẫn ngõ hầu mỗi người chúng ta được nên hoàn thiện
trong tình yêu và ân sủng của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Có một điều thường khiến các bạn trẻ băn khoăn, đó là làm sao nhận
ra một tình yêu chân thực, làm sao không bị chóa mắt bởi những ảo ảnh, không bị
lừa dối bởi những ngọt ngào, để rồi vỡ mộng.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho ta một số tiêu chuẩn, khi mời ta nhìn
vào tình yêu của Thiên Chúa.
Tình yêu chân thực là tình yêu hiến trao: "Thiên Chúa đã yêu
thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một của Người..."
Không phải chỉ là trao một quà tặng, hay một cái gì ở ngoài mình,
nhưng là trao đi một điều thiết thân và quý báu.
Điều quý báu nhất của Thiên Chúa Cha là người Con Một của Ngài,
Đức Giêsu Kitô.
Khi trao cho chúng ta Đấng bị treo trên thập giá, Thiên Chúa đã
trao cho ta chính bản thân Ngài.
Ngài chấp nhận Con Ngài phải chết để nhân loại được sống.
Tình yêu chân thực chẳng hề biết giữ lại cho mình.
Tình yêu chân thực là tình yêu chia sẻ, tình yêu mong hạnh phúc
cho người mình yêu: "... để bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải
chết, nhưng được sống muôn đời."
Sự sống muôn đời đã bắt đầu từ đời này.
Được sống là được đưa vào thế giới thần linh, được chia sẻ hạnh
phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Thiên Chúa không muốn cho ai phải trầm luân. Nếu có ai hư mất hay
bị luận phạt thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác, nhưng chỉ vì Ngài tôn
trọng tự do con người.
Con người có thể tin hay từ chối, mở ra hay khép lại trước sự sống
được trao ban.
Thánh Gioan đã dám định nghĩa Thiên Chúa là Tình Yêu.
Một Tình Yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba Ngôi: Cha trao tất cả cho
Con, Con dâng tất cả cho Cha. Thánh Thần là sự thông hiệp giữa Cha và Con.
Một Tình Yêu tràn ngập cả vũ trụ: Thiên Chúa là Tình Yêu sáng tạo
khi Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài; Ngài là Tình Yêu cứu độ khi
Ngài muốn thứ tha cho ta qua Đức Giêsu; Ngài là Tình Yêu thánh hóa khi Ngài
muốn ban cho ta sức sống mới trong Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với
tình yêu.
"Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa" (1Ga 4,8). Ai
không ở lại trong tình yêu thì cũng không ở lại trong Thiên Chúa (x. 1Ga 4,16).
Ước gì đời ta được tưới gội bởi Tình yêu, để mọi việc chúng ta làm
đều bắt nguồn từ Tình yêu và quy hướng về Tình yêu.
Ước gì chúng ta làm chứng cho Thiên Chúa Tình yêu bằng một đời
sống hiến trao và chia sẻ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Tình yêu là hai từ được sử dụng khắp nơi. Điều mà người ta thường
gọi là tình yêu, thực ra chỉ là sự chiếm đoạt của bản năng ích kỷ. Theo bạn,
thế nào là tình yêu thực sự đáng tin? Làm sao nhận ra tình yêu đó?
Có khi nào bạn cầu nguyện với từng Ngôi Cha, Con và Thánh Thần
không? Bạn biết gì về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần?
Cầu Nguyện
Giữa một thế giới đề cao quyền lực và lợi nhuận, xin dạy con biết
phục vụ âm thầm.
Giữa một thế giới say mê thống trị và chiếm đoạt, xin dạy con biết
yêu thương tự hiến.
Giữa một thế giới đầy phe phái chia rẽ, xin dạy con biết cộng tác
và đồng trách nhiệm.
Giữa một thế giới đầy hàng rào kỳ thị, xin dạy con biết coi mọi
người như anh em.
Lạy Chúa Ba Ngôi,
Ngài là mẫu mực của tình yêu tinh ròng.
Xin cho các Kitô hữu chúng con trở thành tình yêu cho trái tim khô
cằn của thế giới.
Xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống nhờ và sống cho tha
nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh.
Lạy Ba Ngôi chí thánh,
Xin cho chúng con tin vào sự hiện diện của Chúa ở sâu thẳm lòng
chúng con và trong lòng từng con người bé nhỏ.
Chính Chúa Giêsu Kitô đã nhiều lần trong dạy chúng ta biết có Một
Chúa Ba Ngôi như khi Ngài nói: “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng
Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,chính Người
đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1,18). Và về Chúa Thánh Thần: “Khi Đấng Bảo Trợ
đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự
thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy” (Ga 15,26).
Mọi giáo huấn về Thiên Chúa đều chứa đựng nơi con người của Đức
Giêsu Kitô, vì thế, tin vào Chúa Kitô cũng có nghĩa là tin vào Chúa Ba Ngôi. Ai
đến với Chúa Kitô thì cũng đến với Chúa Cha, nhờ ơn Chúa Thánh Thần. Thật vậy,
kẻ nào tin vào Đức Giêsu Kitô thì gắn bó cuộc đời mình với Người, là chia sẻ số
phận tử nạn và phục sinh của Người, là bước vào đời sống của Thiên Chúa Ba
Ngôi.
Là Kitô hữu, chúng ta chỉ có một con đường để chọn lựa: tin hoặc
không tin. Tin chính là đáp trả lại lời mời gọi của Thiên Chúa trong yêu
thương. Trong khi mỗi người chúng ta không có khả năng tin Thiên Chúa, nếu Chúa
Cha không lôi kéo chúng ta đến với Đức Giêsu Kitô, qua ơn trợ lực của Chúa
Thánh Thần. Cần luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn giúp sức cho chúng ta,
trong mỗi quyết định được lập đi lập lại hằng ngày trong cuộc đời, vì sự yếu
đuối của chúng ta. Quyết định nào cũng đòi hỏi phải có tự do mà đây chính là
một sự chọn lựa sống còn của mỗi người. Và hệ luận của của sự chọn lựa nầy dẫn
đến hạnh phúc hay án phạt muôn đời. Bởi vì Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào Con của
Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không
tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3,18). Tin vào Chúa Giêsu Kitô, qua
Hội Thánh của Người, đó chính là con đường sống cho mỗi người chúng ta.
Xin Chúa cho mỗi người chúng ta được ngoan ngùy theo ơn Chúa Thánh
Thần soi sáng, để chọn cho mình con đường sống, là tin vào Đức Giêsu Kitô, sống
gắn bó với Người, để được kết hợp bây giờ và mãi mãi với Chúa Ba Ngôi là Tình
Yêu, là Nguồn Sống, là Bình an đích thực cho cuộc đời chúng ta. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có người nói rằng: Nếu có ai nói với tôi “xin hãy cho biết Thiên
Chúa là thế nào?”, tôi sẽ bảo người đó: “Hãy yêu thương anh em nhiều hơn. Tình
yêu sẽ nói cho bạn biết Thiên Chúa là thế nào?”
Thực vậy, Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu của Ngài được tỏ bày
qua Ba Ngôi Vị: Ngôi Cha – Ngôi Con – Và Thánh Thần. Ba Ngôi trong một Thiên
Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy được tuôn chảy đến con người qua tạo dựng – cứu
chuộc và thánh hóa con người. Tình yêu ấy mãi chung thủy với con người dù cho
con người có yếu đuối, phản bội hay quay lưng lại với tình yêu của Ngài. Vì bản
chất của Ngài là tình yêu. Bởi thế ai yêu thương thì có thể biết Thiên Chúa, có
thể sống trong Nước Thiên Chúa và hưởng được hạnh phúc của Thiên Chúa. Càng yêu
thương thì càng giống Thiên Chúa ; ngược lại càng ít yêu thương thì càng khác
với Thiên Chúa.
Câu chuyện về thánh Maximilien Kolbe như là chứng tích cho tình
yêu Thiên Chúa vẫn đang được hiện tại hóa qua các nhân chứng của Ngài.
Cha thánh Maximilien Kolbe thụ phong linh mục năm 1918 Cha bị Đức
Quốc Xã bắt ngày 17.2.1941 và bị giam tại trại tập trung Auschwitz.
Đây là một nhà tù hãi hùng nhất bao gồm mọi hình phạt và kỷ luật
sắt ghê gớm, độc ác dành cho các tù nhân. Mỗi tù nhân không còn được mang tên
mình, thay vào đó là những con số. Cha Maximilien Kolbe mang số tù binh là
16.670. Tại nhà tù này, Đức quốc xã đưa ra một quy định hết sức oan nghiệt: Nếu
có một tù nhân trốn trại, thì mười người khác phải chết thay. Rất nhiều tù nhân
là nạn nhân của thứ luật lệ hãi hùng này. Cha Maximilien Kolbe cũng trở thành
một trong những nạn nhân ấy.
Đó là một buổi chiều tháng 8.1941, một người tù đã vượt ngục thành
công. Thế là mười người khác bị chỉ định chết thay cho anh. Trong số mười người
này có anh lính Gajowniczek. Anh kêu khóc thảm thiết vì anh còn mẹ già, còn vợ,
còn con thơ không ai nuôi dưỡng.
Trước thảm cảnh đó, vì lòng yêu mến Chúa, yêu thương con người,
Cha Maximilien Kolbe đứng ra xin được chết thế cho anh lính tội nghiệp kia.
Được chấp nhận, Cha cùng đoàn tử tù bước vào phòng hơi ngạt số 14.
Hôm sau, người ta mở cửa phòng để lôi xác ra ngoài, nhưng Cha
Maximilien Kolbe còn thoi thóp, người ta chích cho Cha một mũi thuốc ân huệ.
Cha tắt thở đúng vào chiều ngày áp lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời 14.8.1941.
Trong buổi đại lễ, Đức Thánh Cha Phaolô VI tôn phong chân phước
Maximilien Kolbe lên bậc hiển thánh, có một cụ già đáng kính trong đoàn người
dâng lễ vật, được Đấng đại diện Chúa ôm hôn. Đó chính là người tù được cha
thánh chết thay. Trong giây phút trang trọng ấy, toàn thể cộng đoàn sốt sắng
hát vang khúc tình ca: “không có tình yêu nào trọng đại cho bằng chết vì yêu”.
Đây là một chứng tích tình yêu cao vời khiến mọi người hiện diện đều xúc động
và rơi lệ.
Tình yêu sẽ làm nên muôn điều kỳ diệu. Tình yêu sẽ thúc bách con
người thi thố cho nhau những nghĩa cử cao thượng. Nhất là tình yêu trong Thiên
Chúa sẽ giúp con người đi đến cùng của yêu thương. Vì yêu Thiên Chúa mà con
người đón nhận nhau trong tôn trọng và yêu thương. Vì yêu Thiên Chúa mà con
người chẳng quản ngại hy sinh để chia sẻ buồn vui với nhau, để nâng đỡ và cảm
thông với nhau. Vì yêu Thiên Chúa mà con người chấp nhận chung sống hòa bình
với nhau.
Chấp nhận sống trong tình yêu là con người đang họa lại chân dung
tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa cho anh em. Chấp nhận để cho tình yêu Thiên
Chúa dẫn dắt là con người đang sống liên kết với tình yêu của Ba Ngôi Thiên
Chúa như cành liền cây để có thể đơm hoa kết trái.
Xin Chúa giúp chúng ta sau khi đã nhận ra tình yêu cả Ba Ngôi
Thiên Chúa thì cũng biết sống tình yêu ấy cho anh em trong thế giới hôm nay. Amen.
Thiên Chúa là tình yêu. Đó là chân lý, là lời khẳng định của thánh
Gioan Tông đồ được ghi lại trong sách Tin Mừng. Thực vậy, sách Tin mừng được
xem là lá thư mà Thiên Chúa đã tỏ tình với con người qua suốt dọc dài lịch sử
của ơn cứu độ. Tình yêu đó được tỏ bày qua từng biến cố của dòng đời để dần dà
với thời gian con người mới khám phá ra tình yêu của một vì Thiên Chúa nhưng
được thực hiện qua 3 cách thức khác nhau. Ngài đã tỏ mình là một vì Thiên Chúa
là Cha qua công trình sáng tạo vũ trụ vạn vật và Ngài còn tiếp tục thi thố tình
thương đó qua sự quan phòng đầy kỳ diệu của quyền năng Thiên Chúa. Ngài đã tỏ
tình yêu của mình qua Ngôi Hai Thiên Chúa mang lấy thân phận con người để có
thể cùng chia sẻ những thăng trầm nổi trôi của cuộc sống con người. Ngôi Hai
Thiên Chúa đã ghi dấu tình yêu vĩnh cửu của mình qua cái chết thập tự giá để
nói lên một tình yêu vô bờ bến mà Ngài dành cho con người. Vì "không có
tình yêu nào cao quý hơn tình yêu của người dám thí mạng sống vì người mình
yêu". Với Ngôi Ba Thiên Chúa, tình yêu của Ngài luôn đầy tràn trong cuộc
đời các tín hữu để thánh hoá con người làm con cái Thiên Chúa và trở thành đền
thờ cho Ba Ngôi Thiên Chúa ngự trị.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, là dịp để chúng ta tạ ơn tình thương của
Chúa vẫn luôn bao phủ trên cuộc đời chúng ta. Chúa cho chúng ta được sinh ra
làm người và làm con cái Thiên Chúa. Chúa luôn quan phòng gìn giữ chở che cuộc
đời chúng ta "như con ngươi trong mắt Ngài". Chúa biết rõ từng cuộc
đời chúng ta như mục tử biết từng con chiên. Chúa vẫn ngàn đời tín trung với
tình yêu ban đầu, vì cho dầu "như người cha người mẹ có bỏ con cái, còn Ta
cũng không bao giờ bỏ các ngươi". Tình thương đó Chúa muốn mời gọi chúng
ta đón nhận với lòng tri ân và cũng biết trao lại tình yêu đó cho tha nhân.
Vâng, có lẽ, điều Chúa muốn nơi chúng ta chính là hãy hoạ lại chân dung tình
yêu của Chúa cho anh em. Vì con người là "hoạ ảnh của Chúa", nên con
người phải biết sống yêu thương. Yêu thương sẽ làm chúng ta giống Chúa hơn. Yêu
thương sẽ giúp chúng ta sống hoàn thiện con người mình hơn. Chính tình yêu phục
vụ tha nhân sẽ là cách chúng ta đáp đền tình yêu mà Thiên Chúa đã dành cho
chúng ta.
Người ta kể rằng: Ngày kia, tại một ngôi làng nhỏ ở Miền Nam Trung
Quốc, một em bé gái tiều tụy, đói rách và mang bệnh phong hủi bị dân làng dùng
gậy gộc và gạch đá xua đuổi ra khỏi nơi chôn nhau cắt rốn của em.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền giáo xông ra ẵm em bé trên
tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên gạch đá ném bừa bãi vào tấm
thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng mới chịu rút lui, nhưng
miệng vẫn còn gào thét: "Phong hủi! Phong hủi!"
Với những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má, lần này là những
giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt lệ sầu đau, em bé hỏi vị
cứu tinh của mình:
- Tại sao ông lại lo lắng cho con?
Nhà truyền giáo đáp:
- Vì Ông Trời đã tạo dựng nên cả hai chúng ta. Và cũng vì thế em
sẽ là em bé gái của ta và ta sẽ là người anh lớn của em bé.
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
- Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn sự cứu giúp của ông?
Nhà truyền giáo mỉm cười đáp:
- Con hãy trao tặng cho những người khác tình yêu của con, càng
nhiều càng tốt.
Kể từ ngày ấy cho đến ba năm sau, khi em bé gái tắt hơi thở cuối
cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương cho những bệnh nhân khác, ân cần đút
cơm cho họ, nhất là em luôn tỏ ra dễ thương và yêu mến tất cả mọi người trong
trại.
Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới tròn mười một tuổi. Các bệnh
nhân đã từng chung sống với em kháo láo với nhau rằng:
- "Bầu trời nhỏ bé của chúng ta đã về trời!"
Vâng, con hãy trao tặng cho người khác tình yêu của con phải chăng
cũng là sứ điệp mà lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi chúng ta? Hãy sống cho tha nhân. Hãy
trao tặng cho nhau một nụ cười cảm thông. Một cái bắt tay thân mật. Một nghĩa
cử bác ái đầy tình người. Hãy sống cho anh em của mình một cách quảng đại. Hãy
là chứng nhân cho tình yêu của Chúa giữa một thế giới mà con người đang xa dần
nhau vì quyền lợi bản thân, vì bon chen và hưởng thụ. Hãy giới thiệu cho nhân
thế một tình yêu tinh ròng không bị hoen ố bởi những toan tính ích kỷ, tầm
thường. Hãy giới thiệu cho thế giới một tình yêu hy sinh đến quên cả chính mình
cho người mình yêu được hạnh phúc.
Nguyện xin Chúa Ba Ngôi là suối nguồn tình yêu dẫn chúng ta đi sâu
vào huyền nhiệm tình yêu của Chúa để chính chúng ta cũng biết thở ra hơi ấm
tình thương cho anh em của mình. Amen.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
"Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén
giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,6)
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm nền tảng của Kitô giáo.
Có thể nói rằng tất cả các văn kiện trình bày các chủ đề lớn của Đức tin đều
khởi đầu bằng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và kết thúc cũng thường hướng đến
việc tôn vinh Ba Ngôi Thiên Chúa. Những buổi kinh nguyện hay các buổi cử hành
Phụng vụ không đi ra khỏi quỷ đạo này. Khởi đầu và kết thúc bằng Dấu Thánh Giá
là một cách thức tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thế nhưng để trình bày mầu
nhiệm nền tảng này cho đoàn tín hữu thì không mấy dễ dàng, nhất là với não
trạng thiên duy lý của người hôm nay. Với người chưa có niềm tin hay người khác
niềm tin thì vấn đề còn nan giải hơn nhiều.
Một sự thật của kiếp người: hữu hạn, đặc biệt
trong lãnh vực siêu hình.
Làm sao để lý giải rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất mà là Ba
Ngôi Vị riêng biệt và khác biệt là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần? Thật
là ngô nghê khi quá ỷ lại vào những hình ảnh cụ thể để so sánh và diễn tả thực
tại siêu linh. Một ngón tay có ba lóng; ngọn lửa tỏa ánh sáng và sức nóng; một
dòng sông với đôi bờ...tất thảy đều bất cập và có khi làm biến dạng thực tại.
Khôn khéo hơn như Kinh sĩ Vih khi thấy chuyện khó thuyết phục bởi công thức
cộng 1+1+1=1 thì chuyển sang công thức nhân 1x1x1 =1 cũng vẫn hoài công. Câu
chuyện kể vè thánh Augustinô gặp cậu bé muốn tát cạn nước biển bằng cái vỏ sò
năm xưa là một minh họa cho sự bất lực của trí khôn con người trong việc tìm
hiểu lý lẽ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là tại sao một Chúa mà là Ba
Ngôi; tại sao có Ba Ngôi mà chỉ là một Chúa.
Trước mầu nhiệm cao cả khôn dò là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thiết
tưởng không gì hơn thái độ của Môsê qua bài đọc thứ nhất (Xh 34,4b-6.8-9) là
phủ phục tôn thờ và dâng lời ngợi khen. Lời ngợi khen của Kitô hữu chúng ta lại
ắp đầy tình cảm tạ vì Chúa Kitô Giêsu, Đấng làm người đã mạc khải cho chúng ta
huyền nhiệm Chúa Ba Ngôi. Tin vào tình yêu vô bờ của Đấng đã hiến thân vì chúng
ta, tin vào quyền năng của Đấng làm chủ vũ trụ thiên nhiên, làm chủ cả sự sống
lẫn sự chết là Đức Giêsu Kitô, chúng ta đón nhận lời mạc khải của Người về Chúa
Ba Ngôi. Dựa vào lời mạc khải, đặc biệt lời mạc khải của Chúa Giêsu, chúng ta
có thể biết và diễn tả phần nào nội hàm mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và dĩ nhiên là
bằng khái niệm và ngôn ngữ phàm nhân.
Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu năng động -
hướng tha.
Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Tình yêu giả thiết phải có thực
tại ở số nhiều đồng thời bao hàm số một là sự hiệp thông, hiệp nhất nên một.
Tình yêu không đơn thuần là một trạng thái của tình cảm mà là một động thái
liên lỉ hướng về một đối tượng nào đó. Chúa Cha thực sự là Chúa Cha trong tương
quan với Chúa Con. Chúa Cha sinh ra Chúa Con và trao ban mọi sự cho Chúa Con
(x. Ga 5,26). Chúa Con là mình khi không ngừng hướng về Chúa Cha để kín múc
nguồn sống (x.Ga 4,34), để biết cách hành động (x.Ga 5,30; 10,37). Chúa Thánh
Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con. Người luôn hướng về Chúa Cha và
Chúa Con bằng việc làm vinh danh Hai Ngôi cực trọng ấy mãi đến muôn đời (x. Ga
15,26-27;16,12-15).
Tình Yêu năng động - hướng tha là sự sống Ba Ngôi Thiên Chúa đã
tỏa lan cho các loài thọ tạo, cách riêng cho loài người là loài được dựng nên
giống hình ảnh và họa ảnh của Thiên Chúa. Chính vì thế, các loài thọ tạo, đặc
biệt loài người chỉ có thể tồn tại và phát triển khi biết sống và hoạt động
theo nguyên lý năng động - hướng tha của Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa là nguồn
mạch và là cứu cánh của mọi hiện hữu. Thánh Phaolô tông đồ nói với tín hữu
Côrintô: "Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích
nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu
thương và bình an, sẽ ở cùng anh em...Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân
sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của
Thánh Thần" (2Cor 13,11-13).
Thiên Chúa Ba Ngôi là Tình Yêu kiên vững và
tín trung:
Con số ba là con số tượng trưng cho sự tròn đầy và bền vững. Đã ba
mặt một lời là như hiển nhiên và không thể chối cãi hay đổi thay. Tuy nhiên
niềm tin của chúng ta không hệ tại ở việc loại suy từ ý nghĩa các con số. Lời
mạc khải mới là nền tảng của đức tin chúng ta. Giavê đã tỏ bày cho Môsê danh
tính của Người: "Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén
giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,6). Tình yêu của Thiên Chúa
vững bền như đá tảng. Dù cho có người mẹ nào có bỏ con mình đi nữa thì Thiên
Chúa không bao giờ bỏ rơi loài người chúng ta. Dù ta phản bội, dù ta vong tình,
thì Chúa mãi vẫn luôn thành tín.
Chính trên nền tảng kiên vững của tình yêu Thiên Chúa mà mọi sự
mọi loài được tồn tại và phát triển. Thánh Phaolô khẳng định rằng Thiên Chúa
bày tỏ sự công chính của Người bằng việc luôn tín trung với lời đã hứa (x. Rm
3,21-26). Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa của Người bằng nhập thể, nhập thế của
Ngôi Hai để thực thi công trình cứu độ và bằng việc trao ban Thánh Thần để hoàn
thành các kỳ công của Người. Thiên Chúa bày tỏ tình yêu kiên vững và tín trung
của Người cho chúng ta bằng việc sai Con Một của Người đến thế gian chịu chết
vì chúng ta vốn là những tội nhân, đồng thời đổ tràn tình yêu của Người vào
lòng chúng ta nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta (x. Rm 5,5-8).
Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là nguồn lực và là kim
chỉ nam để ta tồn tại và phát triển cách hoàn hảo:
Tìm hiểu mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi như thế nào dưới ánh sáng lời mạc
khải không phải là để thỏa mãn một đặc tính của trí khôn là sự hữu lý, nhưng
trên hết là để ta biết nguồn gốc và căn tính của mình vốn là hình ảnh của Thiên
Chúa. Biết được nguồn gốc của mình thì ta sẽ có thể biết cách thế hiện hữu, nghĩa
là sống và hoạt động cách chính danh và chính hiệu. Kiên vững và tín trung
trong tình yêu, một tình yêu năng động và hướng tha là động thái duy nhất hữu
hiệu để con người tồn tại và phát triển cách hoàn hảo. "Căn cứ vào điều
này, chúng ta biết được tình yêu là gì: Đó là Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta.
Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em... Đây là điều
răn của Thiên Chúa: chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu Kitô, Con của Người và
phải yêu thương nhau, theo điều răn của Người đã ban cho chúng ta. Ai tuân giữ
các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại
trong người ấy. Căn cứ vào điều này, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong
chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Người đã ban cho chúng ta" (1 Ga
3,16.23-24).
Hãy yêu đi rồi ta sẽ hiểu:
"Sự sống đời đời là chúng nhận biết Cha là Thiên Chúa duy
nhất và Đức Giêsu Kitô mà Cha sai đến" (Ga 17,3). Làm sao để nhận biết sự
thật này nếu không được Thánh Thần Ngôi Ba Thiên Chúa tác động. Vì không ai có
thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa nếu không được Thánh Thần thúc đẩy. Chúng ta
đã được nhận làm con trong Đức Giêsu. "Vì là con, nên Thiên Chúa sai Thánh
Thần của Con Ngài ngự vào lòng chúng ta và kêu lên: Abba, Cha ơi!" (Gl
4,6). Thánh Thần chính là nguồn tình yêu. Vì thế chỉ những ai ở trong tình yêu
mới có thể hiểu biết sự thật. Và khi hiểu biết sự thật thì chính sự thật sẽ
giải thoát chúng ta và đưa chúng ta vào sự sống đời đời.
Làm sao ta có thể biết nghĩa phu thê là gì khi ta chưa sống hết
tình với người phối ngẫu? Làm sao ta có thể biết được thế nào là quê hương khi
ta chưa hết lòng hết tâm với vận mệnh quốc gia dân tộc? Làm sao ta có thể biết
được con người trong cõi nhân sinh này khi ta chưa trãi rộng com tim với người
đồng loại, với người anh chị em cận kề, nhất là với những người cô thế cô
thân?...
Hãy yêu đi rồi bạn sẽ biết. Một cái lẽ biết theo nghĩa Thánh Kinh
là không chỉ nhìn thấy thực tại, thấy vấn đề mà còn gắn bó thiết thân, chung
lưng đấu cật, khi sầu buồn lẫn khi hoan lạc, lúc thuận lợi cũng như lúc gặp
phải nghịch cảnh, gian truân.
Ngay trong cuộc sống này, có nhiều điều mà lý trí phải chào thua.
Sự khôn ngoan đích thực không hệ tại ở trí óc, nhưng là ở trái tim. Có thể có
trường hợp người ta đâm ra mù quáng vì yêu. Nhưng đó chỉ là thứ tình yêu vị kỷ,
nghiêng chiều đam mê vụ lợi hoặc bất chính. Khi đã biết yêu với tình yêu trong
sáng, quảng đại quên mình, với một tình yêu bắt nguồn từ tinh yêu Ba Ngôi Thiên
Chúa thì không một ai là không ở trong ánh sáng. Và chính ánh sáng sẽ soi dẫn
chúng ta đến cùng chân lý.
Là kitô hữu, không gì hơn là biết quy chiếu về Tình Yêu Thiên Chúa
Ba Ngôi để rồi biết yêu thương nhau bằng:
1. Một tình yêu thúc đẩy ta không chỉ muốn mà còn biết chủ động,
tích cực làm cho người mình yêu phát triển và nên hoàn thiện.
2. Một tình yêu thúc đẩy ta tìm mọi cách để cho người mình yêu nên
đáng yêu và được nhiều người yêu mến.
3. Một tình yêu thúc đẩy ta nỗ lực hết mình làm cho người mình yêu
có đủ khả năng và sự nhiệt tình để yêu mến kẻ khác.
Hôm nay là lễ Chúa Ba Ngôi. Bài Phúc Âm hôm nay cũng nói cho chúng
ta biết về hoạt động của Chúa Ba Ngôi. Qua đó, chúng ta biết gì về Chúa Ba
Ngôi? Và chúng ta có thể diễn tả về Chúa Ba Ngôi như thế nào?
Trong cùng một đơn vị, một tổ chức hay một cơ chế của con người,
thì chức vị cao cấp nhất như tổng thống, tổng thư ký, quốc vương, chủ tịch
nước… chỉ dành cho một người duy nhất đương nhiệm mà thôi.
Còn xét trong toàn thể vũ trụ, toàn thể sự sống hữu hình và vô
hình, thì Đấng có quyền trên hết, chỉ là một mà thôi. Chúng ta gọi Đấng ấy là
Thiên Chúa. Người Do thái gọi Đấng ấy là Giavê. Người Hồi giáo gọi Đấng ấy là
Alla. Người Trung quốc gọi Đấng ấy là Hoàng Thiên. Người bình dân Việt Nam gọi
Đấng ấy là Ông trời. Và Đấng ấy được hiểu như là một “người”, một đấng, một cá
thể, một ngôi vị đơn độc duy nhất.
Đó là cách hiểu của loài người. Bất kỳ người có trí khôn bình
thường nào cũng có thể hiểu và chấp nhận được. Tuy nhiên, trí khôn con người
chỉ có thể hiểu có bấy nhiêu về một ngôi vị Thiên Chúa mà thôi.
Thế nhưng, chính Thiên Chúa thì lại không muốn chúng ta chỉ biết
có bấy nhiêu về Ngài. Ngài nói cho chúng ta biết, Ngài không phải là Thiên Chúa
một ngôi vị đơn độc. Ngài vẫn là Một Thiên Chúa duy nhất, nhưng Thiên Chúa duy
nhất ấy có tới Ba Ngôi Vị, hiệp nhất với nhau trong một bản tính và không thể
tách rời nhau được.
Nếu chúng ta tiếp cận được với Ngôi Thứ Nhất, thì chúng ta cũng
gặp được Ngôi Thứ Hai và Ngôi Thứ Ba. Nếu chúng ta tiếp cận được với Ngôi Thứ
Hai, thì chúng ta cũng gặp được Ngôi Thứ Nhất và Ngôi Thứ Ba. Nếu chúng ta tiếp
cận được Ngôi Thứ Ba, chì chúng ta cũng gặp được Ngôi Thứ Nhất và Ngôi Thứ Hai.
Ba Ngôi tuy riêng biệt trong tương quan với nhau, nhưng chỉ là một trong bản
tính.
Chúng ta gọi Ngôi Vị Thứ Nhất ấy là Chúa Cha, Ngôi Vị Thứ Hai là
Chúa Con hay Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Vị Thứ Ba là Chúa Thánh Thần.
Chính Ngôi Thứ Hai Chúa Con đã nói cho chúng ta biết rằng Chúa Cha
rất yêu thương chúng ta. Chúa Con nói cho chúng ta biết về tình thương của Chúa
Cha dành cho chúng ta không phải bằng lý thuyết suông, nhưng Ngài đã diễn tả ra
bằng hành động, bằng chính cuộc sống đầy yêu thương của Ngài, đến nỗi phải trả
giá bằng máu, bằng chính mạng sống của Ngài. Ngài diễn tả tình thương của Chúa
Cha bằng chính tình thương của Ngài một cách đầy đủ và sung mãn đến nỗi, nếu
chúng ta biết được Ngài yêu thương chúng ta như thế nào, thì chúng ta cũng biết
được Chúa Cha cũng yêu thương chúng ta như thế ấy.
Nhưng chỉ dựa vào trí khôn và sức lực của riêng mình thì chúng ta
không có khả năng để biết được tình yêu mà Chúa Giêsu và Chúa Cha đã dành cho
chúng ta. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng đã làm cho chúng ta biết được. Cũng
vậy, cái biết mà Chúa Thánh Thần đã giúp chúng ta biết về tình thương của Chúa
Con và Chúa Cha không phải là một cái biết được diễn tả trong lời nói suông,
nhưng là cái biết được diễn tả ra trong hành động, trong cuộc sống của mình. Đó
là khi chúng ta sống theo Lời Chúa dạy, nghĩa là chúng ta sống đạo và hành đạo
trong tinh thần và tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con.
Trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta nên nhớ rằng, Mầu
nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là Mầu nhiệm Tình Yêu.
Vì quá yêu thương chúng ta nên Chúa Cha mới sai Chúa Con đến nói
cho chúng ta biết về Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi bằng chính cuộc sống đầy yêu
thương của Chúa Con. Và chính Chúa Con đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta để
Chúa Thánh Thần giúp chúng ta nhận biết Tình Yêu ấy.
Cái biết về Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con mà Chúa Thánh Thần
đã giúp chúng ta biết, không phải là cái biết suông trên phương diện lý thuyết
mà là cái biết được diễn tả ra trong cuộc sống đầy yêu thương của chúng ta, đặc
biệt là đối với những người đang sống cùng chúng ta.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống yêu thương người khác vì đó
là cách diễn tả hay nhất về Mầu Nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, là Mầu Nhiệm cao cả nhất
trong Đạo của chúng ta.
Hôm nay Hội thánh Công Giáo mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi.
Đây là mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo. Một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba
Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Thánh Thần. Ba ngôi một Thiên Chúa. Thiên Chúa là
tình yêu. Nhờ đó mà ta hưởng được vô vàn ân sủng từ suối nguồn Tình yêu này.
Mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm lớn trong đạo Công Giáo
chúng ta. Mầu nhiệm này rất thiết thực trong đời sống của người Kitô hữu, thiết
thực và gần gũi vì hầu như mỗi ngày chúng ta đều tuyên xưng mầu nhiệm ấy. Mỗi
khi chúng ta dùng công thức làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh, hay
mỗi khi chúng ta sống yêu thương như Chúa muốn thì đó chính là lúc chúng ta
tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ ít khi chúng ta để ý điều
đó.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được
một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ
được. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh
hưởng của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Con sông mang dòng nước phù sa đến cho
các cánh đồng của mình, cho các vườn cây được tươi tốt và sinh hoa thơm trái
ngọt. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Nếu không có
nước để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao? Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của
dòng sông, Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân
sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và
ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các
tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó không có nước; cây cối sẽ
không thể tươi tốt nếu không có nước. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống
được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu
và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở
lòng mình ra để đón lấy nguồn nước tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể
sống và được sống dồi dào. Đón nhận dòng nước là đón nhận Chúa Kitô và tin vào
Người: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình, để
những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời". Mà
tin vào Chúa Kitô thì phải suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử giống như
Người. Sống giống như Chúa Kitô là sống yêu thương. Yêu Chúa và yêu tha nhân.
Yêu Chúa và yêu tha nhân là ta đang sống mầu nhiệm Một Chúa Ba
Ngôi vậy. Thế nên, mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, chúng ta không chỉ mong dùng
lý trí hiểu rõ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, nhưng chúng ta hãy đi đến một thái
độ cụ thể bằng một con tim yêu thương Thiên Chúa và tha nhân hết mình, sống một
thái độ yêu thương chân thành đối với hết mọi người trong bất cứ hoàn cảnh nào
để tất cả mọi việc làm của chúng ta đều thể hiện tình yêu Chúa Kitô như Thánh
Phaolô đã nói: "Dù ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để
tôn vinh Thiên Chúa". Chúng ta thể hiện tình yêu bằng những việc đó là
mình đã sống cho tình Thiên Chúa Ba Ngôi nơi chính mình.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên
Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu thương chúng ta hết mình và chúng ta được mời
gọi để đáp lại tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái
tốt, xứng đáng con yêu quí của Thiên Chúa: "Chúng con hãy nên trọn lành
như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành".
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tình
yêu Thiên Chúa, để chúng con dám sống yêu thương, dám thể hiện mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi yêu thương trong cuộc đời chúng con. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP.
Chúng ta có thể tuyên xưng với người Do thái giáo và Hồi giáo
rằng: Chúng tôi tin một Thiên Chúa duy nhất, Đấng Tạo Hóa, Chủ Tể vũ trụ. Nhưng
là người Kitô hữu, được Chúa Kitô soi sáng, chúng ta còn tin Thiên Chúa duy
nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Đó là mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm nền tảng của đức tin chúng ta.
Không ai biết được Thiên Chúa nếu Ngài không mạc khải cho. Trong
thời Cựu ước, loài người chỉ được biết có sự hiện hữu của một Thiên Chúa Giavê,
Ngài là Đấng hằng hữu, nhưng còn Thiên Chúa Ba Ngôi thì chính Chúa Giêsu mạc
khải cho trong thời Tân ước này. Theo mạc khải đó, chúng ta biết được có sự
hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi là Cha và Con và Thánh Thần. Ngài là nguồn yêu
thương và bình an, là gương mẫu tuyệt hảo của sự hiệp nhất. Chúng ta hân hạnh
được làm con Chúa Ba Ngôi để dám gọi Ngài là Cha: “Cha ơi”. Đáp lại vinh dự đó,
chúng ta phải yêu mến Ngài hết lòng và tuyên xưng danh Ngài cho đến tận cùng
thế giới.
Giáo hội muốn dành riêng một ngày Chúa nhật trong năm Phụng vụ để
đặc biệt tôn kính và tim hiểu mầu nhiệm lớn lao này. Chúng ta sẽ không bao giờ
thấu hiểu được Chúa Ba Ngôi như thánh Augustinô đã làm, nhưng chúng ta biết
Chúa Ba Ngôi là khuôn mẫu của sự yêu thương và hiệp nhất. Trong cuộc sống hằng
ngày Chúa Ba Ngôi vẫn ngự trị và hành động trong chúng ta, do đó, chúng ta phải
tôn kính Ngài, học đòi bắt chước Ngài mà sống yêu thương và phục vụ.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
1. Bài đọc 1: Xh 34, 4-6.8-9.
Qua đoạn sách Xuất hành hôm nay, chúng ta biết, Thiên Chúa là Đấng
giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung. Chính Thiên Chúa đã
giải thoát Israel khỏi ách nô lệ Ai cập, nhưng dân Chúa lại phản bội Ngài, đi
thờ con bò vàng thay Chúa. Tuy thế, qua lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa
đã tha thứ cho họ và vẫn trung thành thi hành giao ước đối với họ.
Ngay từ thời Cựu ước, Thiên Chúa đã mạc khải cho thấy Ngài là một
vì Thiên Chúa của tình yêu. Trong thời Tân ước, việc mạc khải được sáng tỏ hơn
với việc Thiên Chúa sai Con Một của Ngài đến cứu độ trần gian là Đức Giêsu
Kitô.
2. Bài đọc 2: 2Cr 13,11-13.
Thánh Phaolô, dựa vào niềm tin: Thiên Chúa là nguồn tình yêu và
bình an, đã mời gọi các tín hữu Côrintô hãy vui lên vì mọi người đã được cứu
chuộc và được làm con Chúa để mọi người không còn sợ sệt mà dám gọi Thiên Chúa
là Cha:”Cha ơi”.
Vì trong cộng đoàn Côrintô có sự lộn xộn bất hoà với nhau, nên
thánh Phaolô đã viết thư cảnh cáo và khuyên bảo họ hãy sống đoàn kết thương yêu
nhau; đồng thời cũng cầu chúc họ được tràn đầy ân sủng của Chúa Ba Ngôi.
3. Bài Tin mừng: Ga 3,16-18.
Bài Tin mừng hôm nay nhắc lại tư tưởng đã được đề cập trong bài
Cựu ước ở trên: Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng giầu lòng thương xót. Tình yêu
Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong Tân ước: Thiên Chúa tỏ ra là Thiên
Chúa yêu thương đã ban Người Con duy nhất cho trần gian, để ai tin vào Con của
Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Điều đó buộc mọi người phải
tin vào Con Thiên Chúa, ai không tin thì sẽ bị lên án.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Ba Ngôi yêu thương và hiệp nhất.
1. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Đã là mầu nhiệm thì không thể hiểu thấu được, nhất là mầu nhiệâm
Thiên Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn trong Đạo. Câu chuyện của thánh Augustinô
sẽ soi sáng thêm cho chúng ta về vấn đề này: Sau một đời ăn chơi trụy lạc và
chạy theo tà thuyết, Augustinô đãõ tìm về với Kitô giáo. Ngài được xem là điển
hình của một sự khao khát và tìm kiếm không ngừng. Điều đó được thể hiện qua
một giai thoại như sau:
Augustinô thuộc khuynh hướng của những người cho rằng với kiến
thức và nỗ lực tìm kiếm, con người có thể múc cạn chân lý về Thiên Chúa. Một
hôm, đi dọc theo bờ biển, đầu óc miên man nghĩ đến những bí ẩn về Thiên Chúa,
tình cờ Ngài gặp một cậu bé đang ngồi chơi trên cát. Nó dùng một mảnh sò để đào
một lỗ nhỏ trên cát, rồi dùng vỏ sò# ấy múc nước biển đổ vào.
Nhưng dã tràng xe cát Biển đông, nó cứ đổ nước vào cái lỗ mà vẫn
không bao giờ đầy. Ngạc nhiên về cử chỉ của đứa bé, thánh nhân nấn ná gợi
chuyện. Ngài hỏi nó đang làm gì, đứa bé trả lời không chút do dự:
- Thưa ông, cháu đang dùng vỏ sò này để tát cho cạn nước bể đại
dương.
Thánh nhân lắc đầu bảo nó:
- Cháu không thể làm được chuyện đó đâu.
Đứa bé ngước lên và mỉm cười nói:
- Múc cạn nước đại dương để đổ đầy cái lỗ này còn dễ hơn múc cạn
mầu nhiệm về Thiên Chúa.
Thánh Augustinô chợt hiểu được một chân lý: Thiên Chúa là một mầu
nhiệm mà con người không thể nào thấu hiểu được.
(D.Wahrheit, Tìm về cõi phúc, tr 68).
* Thiên Chúa là một mầu nhiệm. Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm
vĩ đại. Khi học giáo lý, ta đã học thuộc lòng về các mầu nhiệm, trong đó có 3
mầu nhiệm lớn nhất trong Đạo:
. Mầu nhiệm Ngôi Hai nhập thể.
. Mầâu nhiệm Ngôi Hai cứu chuộc.
. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
* Ta không thể biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi mà hoàn toàn do Chúa
Giêsu mạc khải cho trước khi Ngài về trời, khi Ngài phán:”Mọi quyền năng trên
trời dưới đất đều được ban cho Thầy. Vậy anh em hãy đi giảng dạy cho muôn dân,
làm phép rửa cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, giảng dạy họ tuân giữ
mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,18-19)
* Đây quả là một mầu nhiệm thẳm sâu, chúng ta không thể nào diễn
tả được mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nhưng trong vũ trụ thiên nhiên chúng ta có thể
lấy được nhiều hình ảnh cụ thể dùng lối loại suy để hiểu về Chúa Ba Ngôi: Khi thuyết giảng tại công viên Hyde Park, Frank Sheed đã dùng mưa
rơi để cố gắng giúp người ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng của Ba Ngôi.
Ông thường nói:”Nước đang rơi đây thực là nuớc nhưng nó có thể hiện hữu dưới ba
dạng: thể hơi, thể rắn và thể lỏng – nghĩa là dạng hơi nước, dạng băng và dạng
nước mưa đang rơi đây”.
Dĩ nhiên tất cả mọi cách loại suy đều không thể nói lên tất cả
thực tại, tuy nhiên chúng ta có thể thấy được chủ ý của Frank muốn nói là không
phải có ba loại nước, mà chỉ có một loại nước nhưng nó hiện hữu trong ba dạng
khác nhau. Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa một cách tương tự như thế.
Một phương pháp khác giúp ta hiểu được sự vừa đơn nhất vừa đa dạng
của Ba Ngôi là ví dụ mà thánh Ignatiô Loyola thường dùng. Có lần trong lúc cầu
nguyện, Ngài bỗng nhận ra Ba Ngôi dưới hình dạng ba nốt nhạc tạo nên một hợp âm
duy nhất.
Và cuối cùng, chúng ta cũng thấy thánh Patrick thường dùng ba lá
của loại xa trục thảo (3 lá ghép thành một) để diễn tả ý niệm Ba Ngôi.
Làm thế nào chúng ta có thể áp dụng tất cả những điều nói trên vào
hành động cụ thể? Chúng ta có thể làm gì để Ba Ngôi sống động hơn trong cuộc
sống riêng tư của chúng ta? Có phương pháp mà một số người cho là hữu ích đó là
cầu nguyện mỗi tối trước khi đi ngủ. Họ dùng ba phút để hồi tâm về một ngày vừa
chấm dứt...
(M. Link. Giảng lễ Chúa nhật, năm A, tr 179-180)
2. Bài học rút ra từ Chúa Ba Ngôi.
Nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì không bao giờ cùng. Các nhà thần
học có nghiên cứu, có tìm hiểu đến đâu, có tranh luận đến khô bọt mép đi nữa
thì cuối cùng cũng chỉ đi đến một kết luận chung: TÔI TIN”, vì đây là một mầu
nhiệm cao cả trong Đạo mà! Ngay trong thế giới tâm linh của con người cũng còn
có biết bao điều bí ẩn lớn lao mà không khám phá ra như người ta vẫn nói:
Dò sông dò biển dễ dò,
Nào ai lấy thước mà đo lòng người. (Ca dao)
Có ai dám tự phụ cho rằng mình hoàn toàn hiểu được chính mình
không? Khi hai người khác phái được kết hợp với nhau trong hôn nhân, tình vợ
chồng dù có thâm sâu đến đâu, cũng không bao giờ con người có thể hiểu được
tường tận người phối ngẫu của mình. Mãi mãi cho đến bên kia cõi chết, mỗi người
vẫn là một mầu nhiệm đối với nhau.
Nếu những bí ẩn của đời sống con người còn chưa hiểu hết được, làm
sao ta có thể hiểu tường tận mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi? Ta chỉ có thể rút ra được
vài bài học từ mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi để áp dụng vào cuộc sống của ta.
a) Bài học về yêu thương.
Thánh Gioan tông đồ đã khẳng định:”Thiên Chúa là Tình thương” (1Ga
4,8). Thánh Grêgôriô Cả nói:”Để giữ vững cương vị thì tình thương phải lan tràn
sang người khác”. Nói khác đi, tình thương phải bắt nguồn nơi mình và phải kết
thúc nơi người khác, chẳng vậy nó chỉ còn là ích kỷ chứ không còn là tình
thương nữa.
Bài Tin mừng hôm nay bắt đầu bằng câu:”Thiên Chúa yêu thương thế
gian đến nỗi đã trao ban Con Một cho thế gian, để những ai tin vào Con Một
Người sẽ không phải chết mà còn được sống đời đời “(Ga 3,16). Yếu tính của tình
thương là CHO ĐI và KẾT HỢP. Yêu tức là CHO tất cả. Thiên Chúa yêu thương loài
người và đã cho loài người tất cả: trời đất, núi non, sông biển cùng với muôn
vàn tạo vật. Thiên Chúa còn cho loài người sự sống – một thứ chỉ có Người mới
cho được. Thiên Chúa cho loài người một linh hồn – một thứ làm cho loài người
nên giống Thiên Chúa (Rm 8,17).
Thiên Chúa đã ban cho loài người tất cả rồi. Còn một điều cao qúi
nhất mà Thiên Chúa cũng ban, đó là ban chính Con Một Người:”Thiên Chúa đã yêu
thương thế gian đến nỗi đã trao ban Con Một Người cho thế gian”.
Chúng ta biết do đức tin: Thiên Chúa là Đấng duy nhất nghĩa là chỉ
có một bản thể, trong bản thể ấy lại có Ba Ngôi – Ba Ngôi đúc lại thành một
Thiên Chúa duy nhất. Thiên Chúa yêu thương thế gian... cho nên đã phó Con Một
Người cho thế gian, nghĩa là đã ban trót mình cho thế gian. Không những ban
Chúa Con là ngôi thứ Hai mà là ban chính mình, trong đó gồm cả bản tính Thiên
Chúa ở trong Ba Ngôi, cho nên ban Con Một Người tức là đã ban tất cả Thiên Chúa
– tất cả mình – và chính mình cho thế gian. Và như vậy là Thiên Chúa đã THƯƠNG
thế gian, và đã giữ đúng nghĩa chữ THƯƠNG là cho TẤT CẢ.
(Lm Nguyễn duy Tôn, Lời Chúa, năm A, t II, tr 9)
Truyện: Tình yêu hiến thân.
Ngày 20.06.1980, chị Brown, một người mẹ trẻ vừa từ trần vì chứng
bệnh ung thư khi mới 25 tuổi. Các bác sĩ đề nghị chữa trị bằng quang tuyến,
nhưng vì chị muốn cho bào thai đang mang trong bụng không bị nhiễm chất phóng
xạ, nên chị từ chối, thà chết còn hơn để cho bác sĩ chữa trị ung thư bằng quang
tuyến.
Cuối cùng, chỉ 5 giờ trước khi chết, chị đã sinh được một cháu
trai mạnh khỏe, kháu khỉnh. Bản tin của hãng AP nói rằng:”Vào mấy ngày cuối
cùng của cuộc đời, chị Brown biết mình bị tử thần đánh bại, nhưng chị vẫn tin
tưởng thế nào chị cũng thành công và sinh được một đứa con không bị nhiễm phóng
xạ”.
Bác sĩ Ronald Lapin gọi cái chết của chị Brown là “Cái chết của
tình mẫu tử, dám hy sinh mạng sống cho đứa con chưa một lần thấy mặt”.
b) Bài học về Hiệp nhất.
Theo Tân ước, chúng ta thấy có một trường hợp hy hữu mà Ba Ngôi
Thiên Chúa cùng hiện diện và cùng hoạt động. Đó là khi Chúa Giêsu xin ông Gioan
làm phép rửa cho mình: lúc Ngài ở dưới sông lên thì trời tự nhiên mở ra, và từ
trên không trung có tiếng phán ra rằng:”Đây là Con Ta yêu dấu”. Cùng một trật
đó, thấy hiện đến và đỗ trên đầu Chúa Con một chim bồ câu. Đó là lần thứ nhất
từ khi có lịch sử loài người, Ba Ngôi hiện diện và hành động trong một lúc:
Trước hết là Ngôi Con chịu phép rửa, rồi Ngôi Cha từ trời phán ra, và sau hết
Ngôi Thánh Thần dưới hình chim bồ câu hiện đến.
Về niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, Hội thánh đã tóm tắt lại trong kinh Tin
kính của thánh Athanasiô đại khái như sau: Có một Đức Chúa Trời mà Người có Ba
Ngôi: Ngôi nhất khác, Ngôi hai khác, Ngôi ba khác... Đức Chuá Cha là Đức Chúa
Trời, Đức Chúa Con là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Thánh Thần là Đức Chúa Trời,
nhưng là một Đức Chúa Trời, chứ không phải là ba Đức Chúa Trời... Đức Chúa Cha
phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời; Đức Chúa Con phép tắc vô cùng và có từ
trước đời đời; Đức Chúa Thánh Thần phép tắc vô cùng và có từ trước đời đời...
Không có Ngôi nào hơn, Ngôi nào kém, Ba Ngôi đều bằng nhau, như nhau về tất cả
mọi phương diện... Đức Chúa Cha không bởi ai sinh ra, Đức Chúa Con bởi Đức Chúa
Cha sinh ra. Đức Chúa Thánh Thần bởi Ngôi Cha và Ngôi Con mà ra.
Đó là tất cả những điều về Chúa Ba Ngôi do Chúa Giêsu dạy, các
tông đồ trối lại và các thánh Giáo phụ để lại cho chúng ta.
Trong các câu mở đầu của kinh cầu, Hội thánh luôn xưng hô và ca
tụng Ba Ngôi Thiên Chúa mà trong kinh cầu chữ (bằng chữ Hán của ông Cử Thiện ở
Bùi chu) được giáo dân đọc trong các ngày giỗ, được dịch là:”Tam vị nhất thể
Thiên Chúa giả”: Ba Ngôi cũng là một Đức Chúa Trời, thương xót chúng con. Câu
dịch rất vắn gọn và đúng ý nghĩa: Ba Ngôi vị chỉ có một bản tính Thiên Chúa và
là Thiên Chúa thật.
Hình ảnh Thiên Chúa Ba Ngôi cùng hoạt động trong Hội thánh và nơi
từng người nói lên sự hiệp nhất bền chặt giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Đây là một mô
hình tuyệt vời về sự hiệp nhất mà Chúa ban cho ta để ta cũng phải củng cố sự
hiệp nhất trong Hội thánh và trong cộng đoàn chúng ta. Sự hiệp nhất sẽ đem lại
cho chúng ta rất nhiều lợi ích trong đời sống tự nhiên và siêu nhiên.
Truyện: Bài học từ loài ngỗng.
Vào mùa thu, khi bạn thấy bầy ngỗng bay về phương Nam để tránh
đông theo hình chữ V, bạn có tự hỏi những lý lẽ khoa học nào có thể rút ra từ
đó. Mỗi khi một con ngỗng vỗ đôi cánh của mình, nó tạo ra một lực đẩy cho con
ngỗng bay ngay sau nó. Bằng cách bay theo hình chữ V, đàn ngỗng tiết kiệm được
71% sức lực so với khi chúng bay từng con một.
Mỗi khi một con ngỗng bay lạc khỏi hình chữ V của đàn, nó nhanh
chóng cảm thấy sức trì kéo và những khó khăn của việc bay một mình. Nó sẽ nhanh
chóng trở lại đàn để bay theo hình chữ V như cũ, và được hưởng những ưu thế của
sức mạnh từ bầy.
Khi con ngỗng đầu đàn mỏi mệt, nó sẽ chuyển sang vị trí bên cạnh
và một con ngỗng khác sẽ dẫn đầu.
Tiếng kêu của bầy ngỗng từ đàng sau sẽ động viên những con đi đầu
giữ được tốc độ của chúng.
Cuối cùng, khi một con ngỗng bị bệnh hay bị thương và rơi xuống,
hai con ngỗng khác sẽ rời khỏi bầy để cùng xuống với con ngỗng bị thương và bảo
vệ nó. Chúng sẽ ở lại cho đến chừng nào con bị thương lại có thể bay hoặc là
chết, và khi đó chúng sẽ nhập vào một đàn khác để tiếp tục bay về phương nam
(Lấy từ internet theo Thùy Trang forward)
c) Một vài thực hành.
* Kinh Sáng danh: Khi đọc kinh Nhật tụng, mỗi
khi đọc kinh Sáng Danh, ta hãy tỏ lòng cung kính, cúi đầu, để ca tụng và tôn
vinh Chúa Ba Ngôi trong đời sống ta. Mỗi chục kinh Mân côi, chúng ta cũng đọc
một kinh Sáng danh và còn nhiều dịp khác chúng ta có thể đọc được kinh đó.
* Dấu Thánh giá: một trong những kinh nguyện mà
người công giáo chúng ta học, là dấu Thánh giá, thật đơn sơ và tốt đẹp. Chúng
ta đưa bàn tay phải lên trán, lên ngực, vai trái và vai phải khi chúng ta cầu
nguyện:”Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần”. Hành động thánh đó nhắc nhở chúng
ta rằng: có Chúa Ba Ngôi trong một Thiên Chúa, và Ngôi Hai đã chết trên thập
gíá vì tất cả chúng ta.
Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu
nĩi của Đức Giêsu: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của
Ngài cho họ". Thì ra sự cơng bằng vơ biên của Cha khơng cho phép Cha làm
một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được
tình Cha yêu thương nhân loại, trong đĩ cĩ con, như thế nào! Xin cho con biết
sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vơ biên ấy bằng
trọn tình yêu của con. Đồng thời cũng cho chúng con được biết thể hiện tình yêu
ấy trong cuộc sống hằng ngày bằng cách yêu thương, phục vụ mọi người và hiệp
nhất với nhau để xây dựng Hội thánh.
Truyện: Tình yêu của Thiên Chúa
Một bà kia không biết đến sự yêu thương của đồng lọai. Bà là một
người không tôn giáo, nghèo khổ bị bỏ quên, bị ngược đãi, bị đối xử bất công
lâu ngày đến nỗi bà thù ghét tất cả mọi người mà mọi người dường như nghịch
cùng bà. Một lần kia, cha sở đến gặp bà để nói về tình yêu thương của Thiên
Chúa, song bà chẳng hiểu tình yêu là gì cả. Bà bảo: - Tôi không hiểu ông nói
gì. Chưa hề có ai yêu thương tôi và đối với tôi, tôi cũng không hiểu yêu thương
là gì cả.
Cha sở về lại nhà xứ mà lòng vẫn canh cánh ray rứt về câu chuyện
với người phụ nữ nọ. Ngài cầu nguyện liền mấy ngày rồi chợt nảy ra một ý, ngài
cho mời nhóm bạn trẻ Tông đồ trong xứ lại và kể cho các bạn ấy nghe đầu đuôi sự
thể. Rồi ngài đề nghị mọi người hãy giúp cho bà ấy biết được tình yêu của Chúa
bằng cách mỗi người trong nhóm sẽ lần lượt từng người đến thăm bà, chân thành
tỏ cho bà biết trên đời này vẫn có người yêu thương, thăm viếng, an ủi và giúp
đỡ bà.
Mấy tháng trôi qua, một ngày kia, khi cha sở lại thăm bà, bà xúc
động đến rướm nước mắt: - Thưa cha, bây giờ thì tôi đã hiểu, đã biết yêu thương
là gì rồi, và bây giờ tôi đã có thể xin cha cho tôi được đón nhận tình yêu của
Thiên Chúa.
Tôi nhớ lại cách đây không lâu, khi học học về mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi, tôi và những người bạn cùng lớp ai cũng ngao ngán khi nghe nói đến từ
“Mầu nhiệm”, vì với sức con người không thể hiểu tận tường mà phải nhờ đến mạc
khải. Vì thế, đã thật sự là mầu nhiệm thì trí khôn loài người hiểu sao được.
Nhưng chính Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm này, để chúng ta hiểu
một phần nào tình thương vô bờ bến của Chúa Ba Ngôi đối với con người:
1. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng.
Hàng ngày chúng ta vẫn tuyên xưng đức tin: “Tôi tin kính Đức Chúa
Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất”, không những thế Ngài còn gìn
giữ, cai trị. Đặc biệt là con người, Ngài đã ban cho ơn làm con Chúa, được nâng
lên đời sống siêu nhiên, được tự do. Nhưng con người vì lạm dụng tự do đã phản
bội, nhưng Ngài không ghét bỏ mà lại yêu thương “đến nỗi đã ban Con Một, để ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Khi Chúa
Cứu Thế đến, đem sự sáng, đem ân sủng đến cho loài người, nhắc nhủ họ nhớ đến
tình thương của Chúa là Cha, thì loài người lại không chịu nhận biết và nghe
lời Người; Một hành động cố chấp được xem như Chúa Thánh Thần sẽ phải lãnh hậu
quả do chính mình chọn lấy là “bị lên án”. Trong cuốc sống với nhiều lo toan dễ
làm cho chúng ta quên hẳn Thiên Chúa là Cha, là Đấng dựng nên và ban cho chúng
ta sự sống, là Đấng lúc nào chúng ta cũng có thể trông cậy.
2. Chúa là Đấng Cứu Chuộc.
Vì tình yêu mà Thiên Chúa là Cha đã “sai Con Ngài đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được
cứu độ”. Chúng ta không thể nào hiểu được tình thương vô cùng của Ngôi Hai,
Ngài đã mặc lấy thân thể loài người, như con người và đã chấp nhận chịu cho con
người được sống. Nhưng khốn thay, con người được Chúa ban cho tự do lại dùng
chính tự do này để từ chối Chúa. Dĩ nhiên sự cứu rỗi của Thiên Chúa trong Đức
Giêsu Kitô không phải như một món quà vật chất nuôi sống con người trong lúc
khốn cùng, hay một cái gì vượt thời gian, nhưng là một công trình tình yêu của
Ba Ngôi, một lời mời gọi, một sự cứu vớt mà chúng ta sẽ được sống qua niềm tin
vào Đức Kitô. Vì “Ai tin vào Con Một của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được
sống muôn đời”.
3. Chúa là Đấng Thánh Hoá.
Có một điều cần lưu ý là đoạn Tin Mừng hôm nay được phụng vụ chọn
vào lễ Chúa Ba Ngôi, lại không trực tiếp nói đến Chúa Thánh Thần, nhưng nhờ
những chỗ khác, ta biết rằng Thiên Chúa Cha và Chúa Giêsu cứu rỗi trần gian
bằng cách ban Thánh Thần cho trần gian. Hơn nữa, đoạn Tin Mừng này nối tiếp câu
chuyện đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô về ơn tái sinh, mà ơn tái sinh này
lại do Chúa Thánh Thần "không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không
sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi
Thần Khí sinh ra là thần khí”.(Ga 3,5-6). Vì thế, qua ý nghĩa của đoạn Tin Mừng
này, chúng ta nhận ra rằng Thiên Chúa sai con một Người đến thế gian để cứu rỗi
thế gian bằng cách thông ban Thánh Thần. Ngài là ngôi Ba đã thánh hoá, soi sáng
mở đường cho chúng ta biết đường ngay nẻo chính, biết làm điều lành tránh điều
dữ. Tuy nhiên trong con người chúng ta vẫn luôn có hai khuynh hướng lối kéo.
Một là Thánh Thần, hai là tà thần. Nhưng thân xác yếu hèn của ta lại dễ bị sự
quyến rũ cám dỗ của tà thần. Vì vậy, chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần soi sáng,
để ta biết chọn Ngài và đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
Lạy Chúa Ba Ngôi, xin biến đổi chúng con để chúng con ngày một sống
xứng đáng hơn với tình yêu mà Thiên Chúa Ba Ngôi đã dành cho chúng con. Amen.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – của Achille Degeest)
Đức tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi đi qua đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.
Mọi giáo huấn về Thiên Chúa chất chứa nơi con người của Chúa. Do đó sự liên kết
đức tin vào Chúa Con đã chứa đựng hành vi tin vào Chúa Cha và Chúa Thánh Thần.
Bởi thế Phúc Âm có thể nói: “Mọi người tin vào Ngài không phải chết, nhưng có
được sự sống đời đời”. Việc Giáo Hội chọn một đoạn có chủ ý nhấn mạnh tầm quan
trọng của đức tin vào Chúa Giêsu Kitô trong ngày lễ Chúa Ba Ngôi, chứng tỏ rằng
khởi điểm, tiến trình và đích điểm của tác động tin toàn diện chứa đựng trong
việc liên kết toàn diện với Đức Kitô. Ai đến cùng Đức Kitô là đến cùng Chúa
Cha, nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần. Nhưng đây là một câu hỏi khác mà Phúc Âm
mang lại câu trả lời: Thiên Chúa cứu độ thế gian bằng cách nào? Bằng cách sai
Con Người đến. Thế ngày nay Đức Kitô đến trong thế gian bằng đường lối ưu tiên
nào? Qua Giáo Hội. Do đó Giáo Hội có sứ mạng làm cho Đức Kitô hiện diện với thế
gian. Giáo Hội phải thông truyền một sự hiện diện chứ không phải chỉ giảng dạy
những lời nói, một giáo thuyết, một huấn giới. Thiên Chúa Ba Ngôi đã tự hạ
xuống ngang tầm con người nơi ngôi vị Đức Giêsu Kitô, được tỏ lộ bởi và trong
Giáo Hội. Người đặt lòng tin tưởng nơi Đức Giêsu cho đến mức chia xẻ định mệnh
chết và sống lại với Ngài, được tham dự vào mầu nhiệm linh động của Thiên Chúa.
Điều này giải thích tại sao lời giảng của các tông đồ lúc khai nguyên Giáo Hội
không phải là một sách giáo lý về Ba Ngôi chí thánh nhưng là lời loan báo Đức
Giêsu Kitô. Qua giòng lịch sử của mình, nhất là qua các Công Đồng, Giáo Hội cố
gắng diễn tả gẫy gọn một sự suy tư về mầu nhiệm Tam Vị. Nhưng công trình chính
yếu của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội (và trong mỗi người chúng ta) là làm sao
cho Giáo Hội tin và tiếp tục tin vào Chúa Giêsu Kitô. Hai câu hỏi:
1) Đâu là trung tâm đức tin của chúng ta?
Chúng ta có thể tự đặt câu hỏi ấy đối diện với một số người đương
thời đang dấn thân vào những hy vọng nhân loại dựa trên những ý thức hệ. Phúc
Âm có phải là một ý thức hệ như bao nhiêu cái khác và các Kitô hữu có phải là
những người ủng hộ một phong trào nhằm tạo một nhân loại hạnh phúc hơn về mặt
trần thế? Không có gì xa lạ với đức tin chân thật hơn điều đó. Trung tâm đức
tin là con người Đức Giêsu Kitô. Ước vọng một thế giới tốt đẹp hơn nơi người
Kitô hữu được gọi là lòng khao khát ơn cứu độ, khao khát được giải thoát khỏi sự
dữ và sự chết, về mặt vật chất và tinh thần. Việc này chỉ có thể thực hiện được
bằng sự liên kết hồn xác với Chúa Con, nhờ Ngài mà thế gian được cứu. Đức tin
của chúng ta chỉ hữu hiệu cho việc cứu độ thế gian trong mức chúng ta thông
hiệp với Chúa Giêsu, trung tâm đức tin của chúng ta.
2) Sứ điệp của chúng ta là gì?
Người ta chỉ truyền bá có giá trị những gì người ta sống. Để Chúa
Giêsu trở thành nguyên cực ơn cứu độ, nghĩa là gặp gỡ Thiên Chúa trong tự do,
chân lý, cuộc sống hằng cửu. Giáo Hội cần phải tỏ bày Ngài ra cho mọi người.
Giáo Hội là chính mỗi người chúng ta. Mọi tín hữu đều mang trách nhiệm phần
mình làm cho Đức Kitô hiện diện với người ta, bằng lời cầu nguyện hay bằng hành
động, bằng việc dâng hiến một đau khổ hay bằng ảnh hưởng của hoạt động, bằng sự
hy sinh thầm kín hay bằng việc loan báo lời Chúa. Mỗi tín hữu có sứ mạng làm
sao cho Giáo Hội thông đạt tới thế giới sứ điệp ơn cứu độ nơi Chúa Giêsu Kitô.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách tựa đề: “Sức thu hút của Thiên Chúa”, tác giả
người Italia, ông A-léc-xan-drô Phong-xa-tô đã kể lại câu chuyện vui sau đây về
con búp bê bằng muối:
Muốn tìm hiểu thế nào là biển cả để thỏa mãn tính tò mò của mình,
con búp bê một mình tiến ra bờ biển và hỏi:
- “Biển cả ơi, bản chất của biển cả là như thế nào?”
Và biển cả đã trả lời:
- “Biển cả là biển cả. Nếu ngươi muốn biết ta là như thế nào thì
hãy xuống đây, hãy để cho toàn thân ngươi thấm nhập vào biển cả”.
Con búp bê bằng muối do dự. Nhưng rồi vì tính tò mò thúc đẩy, nó
tiến gần ra mặt nước rồi đưa hai chân thấm vào nước biển. Trong nháy mắt sóng
biển đánh mạnh vào đôi chân bằng muối của nó làm cho đôi chân tan thành nước
biển. Con búp bê kinh hãi lùi lại, nhưng đôi chân đã mất. Tiếng biển cả dịu
dàng mời gọi:
- “Này con búp bê nhỏ kia ơi, biển cả là biển cả. Ngươi muốn biết
biển cả như thế nào thì đừng sợ. Hãy tiến vào đây với ta. Ta sẽ bảo vệ ngươi.
Ngươi sẽ được hòa nhịp với ta và hiểu ta như thế nào. Hãy can đảm lên! Nếu bỏ
cuộc nửa chừng thì không bao giờ ngươi sẽ hiểu biển cả như thế nào đâu, và phải
sống những năm tháng còn lại với đôi chân đã mất”.
Tính tò mò thúc đẩy, con búp bê ngâm mình xuống biển. Chỉ một lát
sau con búp bê bằng muối đã hòa tan trong nước biển và hiểu được thế nào là
biển cả.
Anh chị em thân mến, giữa con búp bê bằng muối và biển cả có một
căn bản giống nhau. Cũng thế, giữa con người và Thiên Chúa cũng có một sự giống
nhau. Con người đã được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh của Ngài. Tâm hồn
con người hướng về Thiên Chúa, muốn hiểu biết Thiên Chúa, muốn được kết hợp với
Ngài ngày càng khăng khít hơn, giống như con búp bê bằng muối kia muốn hiểu
biển cả là thế nào.
Như con búp bê được biển cả mời gọi dìm mình vào trong lòng biển
cho mình hòa tan trong biển để hiểu được biển cả, thì mỗi người chúng ta cũng
được mời gọi dìm mình vào trong Thiên Chúa. Cần để cho cái tôi của mình được
hòa tan đi, biến mất đi trong Thiên Chúa để có thể hiểu biết Thiên Chúa, sống
kết hợp với Ngài. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Lý trí loài người
khó mà hiểu biết cho tường tận được. Chúng ta không hiểu biết Thiên Chúa bằng
lý trí cho bằng tình yêu. Thật vậy, chỉ khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì
chúng ta mới hiểu và biết Chúa. Chỉ có sự hiểu biết như vậy mới làm cho ta thỏa
lòng thỏa trí. Vì Thiên Chúa là Tình Yêu. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là một
mầu nhiệm hiệp thông và tình yêu.
Thiên Chúa là Tình Yêu, nghĩa là Ngài không đơn độc một mình. Nếu
như Ngài đơn độc một mình thì Ngài sẽ yêu một mình Ngài một cách ích kỷ vô
cùng. Nhưng Ngài là 3: Cha, Con và Thánh Thần. Là ba, nhưng cả ba hoàn toàn yêu
thương hiến tặng sự sống, hoàn toàn tương quan với nhau, hiệp nhất với nhau:
Cha hoàn toàn là của Con, Con hoàn toàn là của Cha và mối tương quan tình yêu
và sự sống này giữa Cha và Con là Chúa Thánh Thần.
Tình yêu Thiên Chúa không khép kín lại nơi cộng đồng Ba Ngôi mà
còn lan tỏa ra bên ngoài, trên khắp vũ trụ: Thiên Chúa đã yêu thương thế gian
đến nỗi đã trao ban cho thế gian quà tặng quý giá nhất của người Con Chí Ái của
Ngài, nghĩa là chính sự sống của Ngài. Rồi đến lượt Người Con ấy cũng trao ban
Thánh Thần, nghĩa là chính sự sống của Ngài cho thế gian. Chính nơi Người Con
ấy, nơi bản thân, cuộc sống, cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu mà chúng
ta nhận ra được Thiên Chúa là tình yêu và thế nào là sống như con người được
tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa: “Ai không yêu thương anh em là không
biết Thiên Chúa” (1Ga 4,8). Còn ai đã biết Thiên Chúa thì phải yêu thương anh
em như Ngài đã yêu thương, vì Thiên Chúa là Tình Yêu.
Thưa anh chị em, với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa muốn
vạch ra cho chúng ta con đường của yêu thương và hiệp nhất. Chúng ta chỉ có thể
yêu thương và hiệp nhất với nhau khi mỗi người thực sự phải là mình, và chấp
nhận đồng hành gắn bó với tha nhân, coi tha nhân là thành phần của chính hiện
hữu của mình, đồng thời ý thức rằng mình chỉ có thể sống nhờ tha nhân, sống với
tha nhân và sống cho tha nhân; bởi vì tự chính trong nguyên lý, sự sống không
phải là một thực tại đơn độc, khép kín, mà là chia sẻ, hiệp thông: sự sống thần
linh của Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Cái độc đáo mà mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi muốn nói lên đó là
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự khác biệt. Ngài yêu thích sự khác
biệt. Ngài tạo ra sự khác biệt và Ngài bao hàm chính sự khác biệt đó trong bản
tính của Ngài. Nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Ngài hiệp nhất
những gì khác biệt. Phải có cái khác biệt thì mới có thể nói tới hiệp nhất.
Phải có Ba Ngôi mới có thể hiệp nhất thành một Thiên Chúa. chỉ khi nào chúng ta
chấp nhận và tôn trọng cái khác biệt: khác biệt về hiện hữu, về chủng tộc, văn
hóa, tôn giáo, địa vị, phái tính, tuổi tác v.v… và sống với những khác biệt đó,
hiệp nhất những cái khác biệt đó. Chỉ khi đó, chúng ta mới đi đúng con đường mà
ánh sáng của mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi soi dẫn chúng ta. Sự hiệp nhất ấy không làm
cho chúng ta phong phú hơn và sống đúng bản chất là cộng đoàn của Thiên Chúa
yêu thương, là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Anh chị em thân mến, trong Thánh lễ hôm nay, cũng như trong các
Thánh lễ, chúng ta dâng lên Chúa Cha của lễ cuộc đời chúng ta, nhờ Đức Kitô,
cùng với Đức Kitô và trong Đức Kitô, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, để chúc
tụng vinh quang Thiên Chúa Ba Ngôi muôn đời.
Từ tấm bé, chúng ta đã được cha mẹ dạy làm Dấu Thánh Giá: “Nhân
danh Cha và Con và Thánh Thần”. Lớn lên, chúng ta lại được học những bài giáo
lý về Chúa Ba Ngôi. Tuy nhiên, bài học về Chúa Ba Ngôi thật là khô khan và khó
hiểu, chỉ có thể dùng một vài hình ảnh tương tự để cắt nghĩa cho dễ hiểu như:
một tam giác đều có ba cạnh bằng nhau, ba dạng của nước là rắn - lỏng - khí,
bật quẹt thì cùng lúc phát sinh ra ngọn lửa - ánh sáng và sức nóng...
Mầu nhiệm về Chúa Ba Ngôi thật cao cả, lý trí loài người khó mà
hiểu cho tường tận được. Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một hình ảnh sống động
về Chúa Ba Ngôi mà không cần lý luận, không cần hình ảnh so sánh: “Thiên Chúa
yêu thương thế gian” (Gn 3,16). Như thế, tìm hiểu Chúa Ba Ngôi là như thế nào
không hệ trọng cho bằng nhận biết Chúa Ba Ngôi là gì, và Lời Chúa đã cho ta lời
giải đáp: “Thiên Chúa là tình yêu” (1Gn 4,16).
Vì yêu, Thiên Chúa đã bỏ qua mọi lỗi lầm của dân Do thái. Khi Môsê
lên núi nhận Bia Giao ước, dân Do thái dưới chân núi đã tạc tượng bò vàng mà
thờ lạy. Đây là một sự xúc phạm nặng nề đến Thiên Chúa vô hình. Ngài đã chỉ cho
Môsê thấy, rồi nói sẽ tiêu diệt dân và đặt Môsê làm tổ phụ một dân tộc khác
biết vâng lời hơn. Nhưng Môsê đã sấp mình van xin cho dân. Thiên Chúa ghét tội
nhưng luôn thương kẻ có tội. Ngài sẵn lòng bỏ qua tất cả, tha thứ tất cả nếu con
người biết quay trở lại đường ngay nẻo chính (Bài đọc 1).
Vì yêu, Thiên Chúa đã gìn giữ ba thanh niên Do thái trước hiểm
nguy. Thời dân Do thái bị ách thống trị của vua Nabucôđônôzor, vua sai chọn lọc
trong dân Do thái bị lưu đày một số đứa trẻ để đem vào triều dạy dỗ. Trong số
những thanh niên được dạy dỗ từ bé đó, có ba thanh niên, nhờ bạn là Đaniel giúp
đỡ, được cất nhắc. Bọn gian tà Canđê thấy ba chàng được cất nhắc thì ghen tức
nên tìm cách hãm hại. Họ tố cái ba chàng đã chống lệnh vua không chịu lạy tượng
thần. Vì thế, vua cho bỏ ba chàng vào lò lửa, nhưng Thiên Chúa đã gìn giữ ba
thanh niên vững tin nầy. Do đó, ba chàng đã cất lời ca tụng tình yêu Chúa mà
chúng ta nghe ở bài đáp ca.
Vì yêu, Thiên Chúa đã “ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì
khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời” (Gn 3,16). Thiên Chúa đã bày tỏ tình
yêu tột cùng của Ngài, bằng cách trao ban cho con người món quà vô giá là Con
Một của Ngài. Tình yêu Thiên Chúa, qua Ngôi Con nhập thể, dưới tác động của
Thánh Thần, đã phát sinh nguồn ơn cứu độ cho những ai đặt niềm tin vào công
trình sáng tạo mới nầy.
Như thế, các bài đọc hôm nay cùng đưa ra một thông điệp: Thiên
Chúa là Chúa của tình yêu. Đó cũng là điều trên hết và trước hết mỗi người cần
nhận ra khi nghĩ về Chúa Ba Ngôi: Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như một người
Cha hằng yêu thương ta bằng tình yêu tín trung, nồng cháy. Chúng ta nghĩ đến
Chúa Giêsu như một người Anh đã hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của
Người. Và chúng ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như một người Bạn đồng hành, để trợ
giúp chúng ta sống theo gương Đức Giêsu và liên kết chúng ta với nhau trong
cùng một lòng tin, một tình yêu.
Mỗi người, qua Bí tích Rửa tội, đã được dẫn đưa vào sống trong
tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa yêu thương ta, không phải vì ta tốt lành,
nhưng vì Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và từ bi. Chính sự hiện hữu của chúng ta
đã là dấu hiệu rõ nét về tình yêu Chúa. Do đó, sự đáp trả của chúng ta chỉ có
thể là tin tưởng vào tình yêu Chúa và sống yêu thương nhau mà thôi. Mỗi ngày
sống, chúng ta cần ý thức tuyên xưng Chúa Ba Ngôi bằng chính hành động đậm nét
yêu thương của mình. Điều mà Thánh Phaolô khuyên nhủ các tín hữu thành Côrintô
cũng là lời khuyên cho chúng ta: “Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện.
Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên
Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em” (2Cr 13,11).
Ngày nọ, có hai người đàn ông trí thức đi dạo trên bãi biển. Họ
vừa đi vừa thảo luận với nhau về mầu nhiệm Thiên Chúa. Tuy nhiên, cuộc thảo
luận của họ vẫn không có gì tiến triển. Thình lình, họ thấy một trẻ nhỏ đang
chơi trên bờ biển. Nó đào một cái lỗ trên cát và chạy xuống biển lấy cái thùng
đồ chơi trẻ em, lấy nước biển, chạy lên đổ vào cái lỗ nó đã đào.
Hai nhà trí thức thấy nó chạy lên chạy xuống nhiều lần lấy nước
biển và đổ vào cái lỗ. Họ thấy cảnh buồn cười. Bèn đến gần thằng bé để hỏi xem
nó tại sao nó lại làm chuyện ngốc nghếch như vậy. Họ hoàn toàn ngạc nhiên khi
nghe nó nói, nó muốn tát cạn đại dương với cái lỗ nó đào trên cát.
Hai người đàn ông trí thức mỉm cười, bỏ đi và tiếp tục thảo luận
về mầu nhiệm Thiên Chúa. Sau một lúc, một trong hai người dừng lại và nói với
người kia: "anh có biết không, việc làm của chúng ta thật đáng buồn cười
như chuyện thằngbé nói, nó muốn tát cạn đại dương vào một cái lỗ trên cát vậy
đó". Chuyện chúng ta đang thảo luận về Thiên Chúa cũng giống như thế.
Chúng ta thật không thể hiểu hết được mầu nhiệm của Thiên Chúa cũng như đứa bé
không thể dồn hết nước của đại dương vào một cái lỗ. Trí khôn của chúng ta quá
nhỏ như cái lổ trên cát, còn Thiên Chúa như là đại dương mêng mông, làm sao có
thể đặt vào được.
Câu chuyện trên muốn nói với chúng ta rằng: Thật khó có thể hiểu
hết về Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa là mầu nhiệm. Nhưng mầu nhiệm ấy không phải là
cái gì không thể hoàn toàn không thể hiểu được gì hết. Mầu nhiệm Thiên Chúa là
một cái gì đó chứa đầy ý nghĩa, cho dù cố gắng đến đâu, con người cũng không
thể hiểu thấu đến ngọn nguồn. Tuy nhiên, câu chuyện trên không nhằm bào chữa
cho sự lười biếng hoặc cho sự nông cạn của chúng ta không cố gắng để hiểu một
chút gì đó về mầu nhiệm Thiên Chúa.
Cũng như chúng ta hoàn toàn có thể biết được sự hiện hữu của Thiên
Chúa bằng lý trí của mình. Ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, một người có thể
biết được mọi vật không phải tự nó mà có, vì chỉ có một mình Chúa mới là Đấng
tự hữu.
Nhưng chúng ta sẽ biết rất ít về Thiên Chúa nếu như chúng ta không
được Ngài mạc khải. Đặc biệt qua Thánh Kinh, chúng ta có thể biết về Thiên Chúa
cách rõ ràng nhất. Và cũng từ Thánh Kinh, chúng ta biết được Thiên Chúa là Cha,
Con và Thánh Thần.
Và cũng nhờ Thánh Kinh, chúng ta học biết được Thiên Chúa là Đấng
như thế nào. Như qua bài đọc I, chúng ta biết được Thiên Chúa là Đấng quảng
đại, hay thương xót, chậm giận và giàu lòng tình thương và trung tín. Còn Tin
Mừng thì nói cho chúng ta biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đền
nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu
độ".
Tất cả các bài Thánh Kinh hôm nay đều có chung một sứ điệp:
"Thiên Chúa là Thiên Chúa của tình yêu". Đây là một trong những điều
quan trọng nhất mà chúng ta có thể biết được về Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu
thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt lành nhưng vì Ngài tốt lành. Sự hiên
diện của chúng ta trong cuộc đời này là một dấu chỉ về tình yêu của Thiên Chúa.
Và điều mà chúng ta gọi làTin Mừng chính là tình yêu không điều kiện mà Chúa đã
dành cho chúng ta.
Và điều chúng ta có thể đáp trả với Ngài chính là biết đặt niềm
tin vào Ngài và yêu thương anh em. Do đó, những gì mà thánh Phaolô đã nhắn nhủ
với Tín hữu thành Côrintô cũng vẫn còn ý nghĩa đối với chúng ta hôm nay:
"Hãy giúp đỡ nhau, hiệp nhất với nhau, hãy sống trong bình an. Vì như thế,
tình yêu và sự bình an của Thiên Chúa sẽ luôn ở cùng bạn".
Người ta thường hiểu một cách tiêu cực về chữ “mầu nhiệm”. Bất cứ
điều gì người ta không hiểu, không vươn tới được thì cho rằng đó là mầu nhiệm.
Thật ra điều đó cũng đúng được phần nào đó, nhưng đúng ra đó chỉ là hiện tượng
của Mầu nhiệm. Chúng ta nên có cái nhìn và cách hiểu tích cực hơn về 2 chữ mầu
nhiệm này nhân dịp chúng ta mừng lễ Chúa Ba Ngôi, một mầu nhiệm lớn lao và vĩ
đại nhất đối với con người.
Mầu nhiệm được hiểu là một thực tại thuộc về Thiên Chúa, mà Thiên
Chúa thì cao siêu vượt trên con người, nên con người không thể nào hiểu được
hay nắm bắt được về Thiên Chúa. Nhưng chính Chúa Thánh Thần đến giúp cho con
người phá vỡ hạn hẹp của mình và nâng cấp con người lên để họ có thể hiểu biết
và tiếp cận cách nào đó với Thiên Chúa theo khả năng mà Chúa Thánh Thần ban cho
họ.
Khi nói về mầu nhiệm về Chúa Ba Ngôi, người ta thường nhắc về một
giai thoại của thánh Augustinô khi ngài cố gắng tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa
Ba Ngôi. Chuyện kể rằng: Khi thánh Augustinô đi dọc theo một bờ biển để suy
nghĩ và tìm hiểu về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, thì ngài gặp một em bé đang
lấy vỏ sò múc nước biển đổ vào một cái hang trên bờ biển. Thánh nhân hỏi em bé
rằng: “Em làm gì thế?” Em bé thản nhiên trả lời rằng:”Em đang múc hết nước biển
đổ vào trong cái hang này!” Thánh nhân cười nhạo và nói với em bé rằng: “Em
không bị tâm thần chứ? Làm sao em có thể dùng cái vỏ sò này để múc được hết
nước biển chứ?”. Em bé trả lời: “có lẽ chuyện tôi làm sẽ dễ dàng hơn chuyện ông
đang cố hiểu về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đó ông ạ”. Thánh nhân liền được
giác ngộ.
Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi tuy rất cao sâu nhưng cũng rất gần
gũi với cuộc sống con người, cuộc sống của từng người chúng ta. Nói cách khác,
Thiên Chúa Ba Ngôi chính là cuộc sống của con người. Bất cứ hoạt động nào của
con người cũng chính là hoạt động của Thiên Chúa Ba Ngôi. Thiên Chúa Ba Ngôi
luôn là nguyên nhân tác thành chính yếu trong mọi hành vi, mọi cử động, mọi suy
tư của con người.
Linh mục Maurice Zundel đã nói về Thiên Chúa như sau: “Thiên Chúa
là khi bạn tốt”. Như thế bất cứ khi nào chúng ta hành động ngay chính và thể
hiện tình bác ái yêu thương thì lúc đó chúng ta trở thành phản ảnh trong suốt
về Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chúng ta có thể nói rằng: một vị Thiên Chúa đích thực chỉ có thể
và phải là một Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Gioan tông đồ đã định nghĩa: “Thiên
Chúa là Tình yêu”. Một tình yêu trọn hảo và tròn đầy khi tình yêu đó hướng về
người khác, trao ban trọn vẹn cho người khác... Thiên Chúa là Tình yêu vì Ngài
là Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Cha yêu Chúa Con, hướng về Chúa Con và trao ban
trọn vẹn cho Chúa Con; Chúa Thánh Thần chính là nụ hôn tình yêu bền chặt và
trọn hảo đó.
Trong cuộc sống hằng ngày, có một điều luôn khiến các bạn trẻ băn
khoăn, đó là làm sao để không bị choá mắt bởi những ảo ảnh của tình yêu, làm
cách nào để khỏi bị lừa dối bởi những ngọt ngào giả tạo để rồi phải vỡ mộng ôm
lấy thương đau trong trường tình? Bài Tin mừng hôm nay sẽ gợi lên chúng ta một
số tiêu chuẩn khi về những điều đó khi chúng ta cùng nhau ngắm nhìn vào tình
yêu của Thiên Chúa.
1. Tình yêu đích thực là tình yêu hiến trao:
Thánh Gioan đã viết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã trao ban
Con Một của Ngài”. Đây không phải chỉ là việc trao tặng một món quà hay một cái
gì đó ở ngoài mình, nhưng là việc cho đi một điều thiết thân và quí báu. Điều
quí báu nhất của Thiên Chúa Cha chính là Người Con Một của Ngài, là Đức Giêsu
Kitô. Khi trao ban cho chúng ta Đấng bị treo trên Thập giá là Thiên Chúa đã
trao ban cho chúng ta chính bản thân của Ngài. Ngài chấp nhận cho Ngài chịu
chết để cho nhân loại được sống. Tình yêu chân thật chẳng hề biết giữ lại điều
gì cho mình, nhưng là chia sẻ, là cho đi, là mong muốn cho người mình yêu được
hạnh phúc.
2. Tình yêu đích thực làm phát sinh và khơi
mào sự sống:
“Bất cứ ai tin vào Người Con ấy thì không phải chết, nhưng được
sống muôn đời”. Sự sống đời đời đã bắt đầu ngay ở đời này. Con người đã được
Thiên Chúa tình yêu đưa vào thế giới thần linh khi con người tháp nhập vào Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa làm người. Con người được chia sẻ hạnh phúc của Ba
Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa không muốn cho bất cứ ai phải hư mất hay bị trầm
luân đời đời. Chính Chúa đã phán: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn
nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 33,11). Nhưng nếu có ai phải chết hay bị hư
mất thì không phải là vì Thiên Chúa độc ác hay không muốn cứu sống họ nhưng vì
họ đã dùng tự do của Thiên Chúa ban cho họ mà từ chối Thiên Chúa là nguồn sống
muôn đời. Con người có thể dùng tự do của mình để mở ra hay khép lại trước sự
sống được trao ban từ Thiên Chúa tình yêu.
3. Tình yêu đích thực còn phải là tình yêu
chia sẻ:
“Thiên Chúa là Tình yêu ”, một tình yêu chia sẻ chan hoà giữa Ba
Ngôi Thiên Chúa: Cha trao tất cả cho Con, Con dâng tất cả cho Cha và chỉ sống
vì Cha, Thánh Thần là sự hiệp thông giữa Cha và Con. Tình yêu ấy đã tràn ngập
khắp cả vũ trụ nhân loại này. Thiên Chúa cũng chính là tình yêu sáng tạo khi
Ngài dựng nên con người theo hình ảnh Ngài. Ngài là tình yêu cứu độ khi Ngài
tha thứ tất cả cho chúng ta qua Đức Giêsu Kitô. Ngài cũng chính là tình yêu
thánh hoá khi Ngài muốn ban cho chúng ta sự sống mới trong Chúa Thánh Thần.
Chúng ta sẽ mãi mãi xa lạ với Thiên Chúa nếu chúng ta xa lạ với tình yêu và
khép chặt lòng mình trước tình yêu của Thiên Chúa. “Ai không yêu thì không biết
Thiên Chúa” (1 Ga 4,8), và ai không ở lại trong tình yêu thì cũng không ở lại
trong Thiên Chúa (x. Ga 4,16).
Ước gì cuộc đời của chúng ta được tới gội bởi tình yêu để mọi
chúng ta làm đều bắt nguồn từ tình yêu và qui hướng về Tình yêu. Ước gì chúng
ta làm chứng về Thiên Chúa tình yêu bằng một đời sống trao ban và chia sẻ.
Amen.
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
"Chúc tụng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, vì Chúa đã
tỏ lòng từ bi đối với chúng ta". Đó là lời mở đầu của thánh lễ mừng kính
Thiên Chúa Ba Ngôi. Các bản văn phụng vụ không nhằm giải thích tại sao một
Thiên Chúa duy nhất mà lại có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Mạc khải trọn
vẹn về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi đã được hoàn tất nơi Chúa Giêsu Kitô. Nhưng
cả khi mạc khải cho các môn đệ về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Chúa Giêsu cũng
không dạy tại sao Thiên Chúa duy nhất phải có ba ngôi. Chúa Giêsu đã mạc khải
cho các tông đồ, nhất là trong bài diễn văn về việc hiện hình trong bữa tiệc ly
vì sự hiện diện và tác động của từng ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần, và
về mối tương quan hiệp nhất giữa ba ngôi mà không giải thích lý do tại sao. Các
tông đồ lúc đó cũng không thắc mắc tại sao như vậy, nhưng các ngài đã yêu mến
chấp nhận và sống mầu nhiệm với hết lòng chân thành: "Ta và Cha Ta, chúng
ta chỉ là một. Ai tuân giữa giới răn Ta truyền, thì chúng ta sẽ đến ngự trong
người đó". Và nơi Phúc Âm thánh Gioan chương 16,12-15 được dùng trong
thánh lễ kính Đức Chúa Trời Ba Ngôi là những lời Chúa Giêsu mạc khải về mầu
nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần.
Vấn đề quan trọng nhất không phải là biết hết tất cả mọi sự về
Thiên Chúa, mà là sống mầu nhiệm về Thiên Chúa. Sự hiểu biết của con người tuy
có thể đạt được phần nào về Thiên Chúa, nhưng không thể nào biết trọn được cả.
Sự việc đã xảy ra cho thánh Augustinô khi thánh nhân suy nghĩ về mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi còn là một lời dạy cho chúng ta ngày hôm nay. Trí khôn con
người hữu hạn, làm sao có thể hiểu hoàn toàn về Thiên Chúa vô cùng. Nếu muốn
hiểu thì chẳng khác nào muốn đem nước của đại dương mênh mông mà đổ vào trong
một lỗ nhỏ, như một trò đùa của em bé mà thánh Augustinô gặp nơi bờ biển.
"Thầy còn nhiều điều phải nói với các con, nhưng bây giờ các con không thể
lãnh hội được. Khi Thần Chân Lý đến, Người sẽ dạy các con biết tất cả sự thật.
Người sẽ đưa các con vào trọn cả trong sự thật."
Mỗi ngày, chúng ta cần lớn lên trong tương quan với Thiên Chúa,
cần được Chúa Thánh Thần soi sáng hướng dẫn chúng ta tiến sâu vào trong mầu
nhiệm Ba Ngôi của Thiên Chúa. Đây là một sự khám phá vô cùng và mãi mãi không
bao giờ ngừng cả khi chúng ta được đối diện với Thiên Chúa trong cõi đời đời.
Mỗi ngày, chúng ta càng được hướng dẫn hay để cho mình được hướng
dẫn tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi thì chúng ta càng trưởng
thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, càng được thần thiêng hóa và trở nên
giống Thiên Chúa hơn và đối xử với anh chị em chung quanh như chính Thiên Chúa
muốn, càng được thấm nhuần trong mầu nhiệm Thiên Chúa bằng đời sống cầu nguyện,
kết hiệp thân tình với Thiên Chúa, thì chúng ta càng có tâm hồn quảng đại, mở
rộng đón nhận anh chị em chung quanh và mời gọi họ trong mọi hoàn cảnh cụ thể.
Đây là kinh nghiệm sống đức tin của những vị thánh mà không sự chứng minh hay
giải thích nào của lý trí có thể đủ sức trình bày.
Nguyện xin Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và Thánh Thần, mà dấu
Thánh Giá chúng ta mang lấy trên thân mình hàng ngày trước mỗi công việc quan
trọng ban cho chúng ta được mỗi ngày một tiến sâu vào trong mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi, được ẩn mình trong Thiên Chúa, được biến đổi trong Thiên Chúa để
sống trọn cuộc sống con người của mình trên trần gian này và mãi mãi trong cõi
vĩnh phúc mai sau.
Anh chị em thân mến.
Một con tàu rời bến, nó đã được định hướng để đi đến một nơi nào
đó. Nó muốn đi đến nơi an toàn, con tàu đó phải còn vững chắc, chiếc máy bên
trong con tàu cũng phải được bảo đảm để làm lực đẩy cho con tàu. Nhưng nếu chỉ
bao nhiêu đó thôi, thì con tàu vẫn nằm yên bất động và trở nên vô dụng vì nó
không được sự hướng dẫn. Người hoa tiêu chính là linh hồn của con tàu, điều
khiển cho con tàu đi đúng hướng cần thiết để đem lại lợi ích cho nhiều người.
Nếu chỉ có người hoa tiêu mà không có con tàu, thì lấy gì mà điều khiển. Nếu
chỉ có con tàu với cổ máy, cho dù có tốt như thế nào đi nữa thì nó cũng không
hoạt động được. Nhưng nếu có con tàu, cổ máy và cả người hoa tiêu, mà người hoa
tiêu lại không điều khiển nổi khi con tàu vận hành, để nó muốn đến đâu thì đến
thì thật là một tai hoạ. Con tàu, cổ máy và người hoa tiêu cùng đồng nhất với
nhau thì mới cho kết quả tốt.
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để
những ai tin vào Con của Ngài thì không phải hư mất nhưng được sống đời
đời". Thiên Chúa yêu thương con người, ban cho họ làm chủ vũ trụ này, ban
cho con người những gì cần thiết cho đời sống của họ. Nhưng con người không
chịu vâng phục Thánh ý Chúa, con người muốn tách rời khỏi Thiên Chúa, nên con người
đã đi mà không biết mình đi đâu. Thiên chúa không bỏ con người, nên sai con của
Ngài đến trần gian, để những ai tin vào Con của Ngài thì đến được sự sống.
Tin là vâng nghe và hành động theo như những gì đã biết và đã được
chỉ dạy. Tin là hành động theo sự hướng dẫn, chứ không phải ngồi yên mà chờ
đợi.
Mừng lễ Đức Chúa Trời Ba Ngôi, chúng ta nhận biết một điều: Ba
Ngôi nhưng chỉ có một Chúa duy nhất, chính vì Ba mà là Một, nên Ba Ngôi chính
là sự hoàn hảo và tốt đẹp mà con người được tận hưởng biết bao nhiêu điều tốt
đẹp từ Ba Ngôi Thiên Chúa.
Mỗi người trong chúng ta, đã nhận được biết bao nhiêu điều tốt
đẹp, từ con người đến cuộc sống. Nhưng người hoa tiêu trên con tàu đời người
của chúng ta, có điều khiển được con tàu cho đi đúng hướng, hay người hoa tiêu
đanh phải chịu thua.
Mỗi người trong chúng ta nhìn lại chính mình, Thiên Chúa ban cho
mỗi người một hoàn cảnh và những điều kiện thích hợp, để chúng ta được sống đến
ngày hôm nay. Có những lúc chúng ta rất hài lòng về cuộc sống hiện tại, nhưng
cũng có những lúc không hài lòng. Có những lúc chúng ta tự hào vì mình làm được
nhiều việc tốt, nhưng nếu giờ này đây bình tâm nhìn lại, chúng ta cũng sẽ xấu
hổ về những việc làm của mình. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta thành công,
được hạnh phúc, được lợi lộc, được mọi người ca tụng, những lúc đó, chúng ta
chỉ biết tự hào về chính mình, nhưng được bao nhiêu lần chúng ta biết cảm tạ
hồng ân Chúa, để tìm hiểu Thánh Ý Chúa và làm việc cho tốt hơn. Rất nhiều lần
trong cuộc sống, chúng ta kêu ca, phiền trách người khác sống không công bằng,
không tốt, không xứng đáng; chỉ vì lý do họ không chịu đáp ứng nhu cầu mà chúng
ta đòi hỏi. Có khi chúng ta phiền trách cả Thiên Chúa mà mình tôn thờ, vì Ngài
không chịu nghe lời đòi hỏi của chúng ta.
Nếu trong cuộc sống đời thường, chúng ta biết suy nghĩ và tìm hiểu
thánh ý Chúa, sau đó mới nói và hành động, thì thật hạnh phúc cho chúng ta. Khi
đó, chúng ta đang sống trong mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi mà chúng ta mừng lễ hôm
nay, Thiên Chúa đang hành động với chúng ta, Thiên Chúa là người hoa tiêu tài
tình đang đưa con tàu chúng ta đến bến bình an.
Có những lúc, chúng ta không cần biết đến ai, chỉ cần thoả mãn
chính mình, thoả mãn những ước muốn, cho dù ngay chính hay bất chính, chúng ta
không cần biết. Chính vì thế, chúng ta rơi vào tình trạng cô đơn, trống rỗng,
chới với giữa dòng đời, như con thuyền không định hướng. Những lúc đó, con tàu
cuộc đời của chúng ta đã không theo sự hướng dẫn của người hoa tiêu, nên con
tàu không biết đâu là bến bờ. Nếu những lúc đó, chúng ta biết chợt giật mình và
để cho Chúa hướng dẫn thì thật là hạnh phúc cho chúng ta.
Chúng ta cùng cầu xin Chúa Ba Ngôi hướng dẫn cuộc đời chúng ta
biết luôn hiệp nhất trong Chúa, để những việc làm của chúng ta đem lại những
kết quả tốt đẹp.
Kinh thánh (St 22, 1-18) cho biết: Sau nhiều tháng năm chờ đợi mỏi
mòn, mãi cho đến trăm tuổi, Cụ Áp-ra-ham mới được diễm phúc sinh đứa con nối
dõi tông đường. I-xa-ác chào đời đem lại niềm vui chan hoà cho Cụ Áp-ra-ham.
I-xa-ác là lẽ sống, là cây gậy chống đỡ tuổi già, là tương lai cho giống nòi và
là tất cả của Cụ già trăm tuổi.
Thế mà Thiên Chúa truyền cho Cụ phải sát tế đứa con yêu để tế lễ
cho Ngài.
Trời đất như quay cuồng sụp đổ khi Cụ Áp-ra-ham nghe lệnh truyền
của Thiên Chúa.
Phải ở trong hoàn cảnh của Cụ già trăm tuổi như Áp-ra-ham mới cảm
nhận thấm thía nỗi đau thương và mất mát vô cùng lớn lao của một người cha phải
sát tế đứa con một rất đỗi yêu quý của mình. Nếu không vì tình thương lớn lao
đối với Thiên Chúa, Cụ Áp-ra-ham không thể nào thực hiện được sự hiến dâng đau
lòng đó.
Cụ Áp-ra-ham sẵn sàng hi sinh tất cả vì Thiên Chúa là Đấng mà Cụ
thần phục và mến yêu.
Nhưng Thiên Chúa chỉ thử lòng Cụ Áp-ra-ham thôi. Ngài không nỡ để
cho một người cha phải gánh chịu nỗi đau thương lớn lao đến thế.
Trích đoạn Tin Mừng trong ngày lễ hôm nay cũng đề cập đến một
người Cha khác đã thực hiện một sự trao ban triệu lần cao cả hơn.
Vì quá yêu thương nhân loại lỗi lầm, vì không muốn cho muôn người
phải lâm vào cảnh đau khổ trầm luân vì tội lỗi ngút ngàn của họ, Thiên Chúa Cha
đã trao ban Con Một vô cùng yêu quý của Ngài, để Con của Ngài chết thay cho
nhân loại, để cho những ai tin vào Con Ngài thì được cứu sống và được sống muôn
đời:
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên
Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để
thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ". (Gioan 3, 16-17)
Xưa kia, Thiên Chúa không nỡ để cho I-xa-ác phải chết dưới lưỡi
dao run rẩy của Cụ Áp-ra-ham, không để cho thân xác của I-xa-ác phải chịu thiêu
đốt trên bàn thờ để làm hy lễ cho Ngài, nhưng đã đến một thời, Thiên Chúa Cha
lại để cho Con Một Ngài, là Ngôi Hai Thiên Chúa, phải chịu đóng đinh, chịu quằn
quại đau thương và chịu chết trên thập giá để đền cho hết tội lỗi chúng ta và
ban lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Tôi tớ thấp hèn liều mình chết thay cho chủ nhân quyền quý, dân
đen cùng khốn chết cho hàng vua chúa cao sang hay con chó trung thành liều chết
để cứu mạng chủ cũng còn là điều dễ hiểu. Đằng nầy Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa
Tể đất trời lại hiến thân chết thay cho loài người hèn mọn thì quả là điều vượt
quá trí tưởng tượng con người.
"Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến
mạng vì bạn hữu mình" (Gioan 15, 13) và không có tình yêu nào sánh ví được
với tình yêu khôn vời của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
* * *
Khi được người khác biếu tặng một món quà, ai trong chúng ta cũng
đều nhớ ơn ân nhân và tìm cách đền đáp lại bằng món quà tương xứng.
Khi được Chúa Trời cao cả ban tặng chính Con Một Ngài để cứu mạng
cho chúng ta, khi được Chúa Giêsu hiến thân chịu chết để cứu ta khỏi chết muôn
đời, có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc đền đáp công ơn cao dày đó?
Để đền đáp phần nào tình thương trời bể của Thiên Chúa Cha, Đấng
đã trao ban Con Một mình cho nhân loại, để đền đáp sinh mạng của Chúa Giêsu đã
trao hiến cho bạn và cho tôi, chúng ta hãy dâng cho Ngài một hiến lễ tương tự,
dù vạn lần nhỏ bé hơn. Đó là "hiến dâng thân mình chúng ta làm của lễ sống
động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa" (Rôma 12, 1). Đó cũng là nguyện
ước của chân phước An-rê Phú Yên hôm xưa: "đem cuộc sống báo đền cuộc
sống; lấy tình yêu đáp trả tình yêu".
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Tại vùng Texas Hoa Kỳ, không ai lại không nghe lòng hào hùng của
anh Biên, chủ một nông trại nuôi bò to lớn. Người ta gọi anh bằng một tên riêng
đầy lòng kính trọng là ông Biên quảng đại, đến nỗi nhiều người không còn nhớ
tên thật của anh là gì, mà chỉ biết tên anh là ông Biên quảng đại. Dù là người
giàu có nhất vùng nhưng nếp sống của ông lại rất gần gũi với mọi người, từ
người giúp việc cho tới những người láng giềng chung quanh.
Ông có một người con duy nhất, nhưng rủi thay trong một chuyến đi
nghỉ cuối tuần, ông bị một tai nạn xe hơi làm cho vợ và người con duy nhất bị
chết. Sau những ngày u buồn, một hôm đi dạo chơi gần nông trại, ông chợt gặp
một đứa trẻ rách rưới và có vẻ đang bơ vơ. Ông gọi lại và hỏi thăm về gia đình,
đứa bé không trả lời chi được về những câu hỏi của ông. Bé mồ côi cha mẹ từ
nhỏ. Mới sinh ra đã bị cha mẹ bỏ rơi, nên từ đó em bé nay sống với người này,
mai sống với người khác, lang thang đây đó. Em chỉ còn biết một điều là tên gọi
của em: ai ai cũng gọi em là Jimmi, nên em biết tên mình là Jimmi. Ông Biên
liền nhận đứa trẻ về nhà làm con nuôi và làm chúc thư, nếu ông qua đời thì tài
sản ông sẽ dành cho Jimmi, người con nuôi mới nhận được.
Nhiều người bạn thân ngạc nhiên hỏi, tại sao ông làm như vậy?
Ông Biên trả lời: với một lý do duy nhất, là Jimmi giống hệt đứa
con của tôi đã chết. Tôi thương nó vì nó giống con tôi, tôi nhìn thấy con tôi
nơi nó.
Anh chị em thân mến,
"Tôi thương nó, vì nó giống hệt con tôi, tôi nhìn thấy con
tôi nơi nó". Câu nói này của ông Biên gợi lại cho chúng ta mối tương quan
giữa tình thương của Thiên Chúa Cha với mỗi người chúng ta là đồ đệ của Chúa
Giêsu Kitô. Thiên Chúa Cha đã yêu thương mỗi người, vì chúng ta đã lãnh nhận ơn
cứu rỗi, được tái tạo giống hệt như Chúa Kitô, Con Một Ngài. Thiên Chúa Cha yêu
chúng ta, vì Ngài thấy Con Một Ngài nơi mỗi người chúng ta.
Mừng Lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta không mừng với lý trí muốn hiểu cho
thấu đáo mầu nhiệm của mọi mầu nhiệm, là mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, một
Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần; nhưng
hãy mừng với một con tim tin yêu chân thành, vì đã cảm nghiệm được Thiên Chúa
Ba Ngôi nơi chính mình.
Tình thương của Thiên Chúa Cha, Đấng Tạo Hóa đã an bài vũ trụ,
nâng đỡ cuộc sống con người và ban cho chúng ta sự sống. Tình thương của Chúa
Giêsu Kitô, Đấng mặc lấy thân phận con người đến cứu chuộc chúng ta, để làm
sáng tỏ lại hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta, giúp chúng ta trở về nhà Cha an
toàn. Tình thương của Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ban ơn soi sáng, nâng đỡ, an
ủi, giúp chúng ta sống trọn kiếp sống trần gian.
Mừng Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được nhắc nhớ rằng, Thiên
Chúa Cha, Con, Thánh Thần đã yêu chúng ta và chúng ta được mời gọi để đáp lại
tình yêu thương ấy bằng một đời sống trổ sinh nhiều hoa trái tốt, xứng đáng con
yêu quí của Thiên Chúa: "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha các con ở
trên trời là Đấng trọn lành" (Mt 5,48).
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nicôđêmô: "Thiên Chúa yêu thương
thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để tất cả những ai tin vào
Người thì khỏi phải chết. Quả vậy, Thiên Chúa đã đến thế gian không phải để lên
án thế gian, nhưng nhờ Con của Ngài mà thế gian được cứu độ, ai tin sẽ được
cứu; ai không tin thì đã bị lên án rồi" (Jn 3,16-18).
Lạy Chúa, xin ban thêm Đức Tin cho con để chúng con mỗi ngày được
trở nên giống Chúa nhiều hơn. Amen.
Người Đông phương chúng ta thường thích giữ im lặng trước những
mầu nhiệm của vũ trụ, của con người và nhất là của Thượng Đế.
Thực vậy, người Trung Hoa rất ít nói về trời, bởi vì họ cho rằng
ngay cả những thực tại trần thế này, chúng ta còn chưa hiểu biết được cho thấu
đáo, phương chi là những thực tại vô hình.
Người Ấn Độ thì có lẽ thích nói về Thượng Đế thật đấy, nhưng họ
luôn tự nhắc nhở cho mình rằng những điều chúng ta biết được về Thượng Đế, thì
cũng chỉ là như một chiếc lá giữa rừng cây bao la.
Trong khi đó, người Tây Phương, nhất là người Kitô hữu, có lẽ ít
khiêm tốn hơn những người Ấn Độ và Trung Hoa, trong vấn đề này. Thực vậy, chúng
ta có biết bao nhiêu sách vở viết về Thiên Chúa, biết bao nhiêu bài giảng bàn
về Thiên Chúa và biết bao nhiêu định nghĩa về những tín điều.
Thế nhưng, phải thành thật mà nói: Kể từ thời thánh Augustino cho
đến ngày hôm nay, chúng ta đã hiểu thêm được những gì về mầu nhiệm Chúa Ba
Ngôi? Hay chúng ta cũng giống như những người lạc vào rừng, càng đi xa, càng
vào sâu, thì lại càng cảm thấy mịt mù và tăm tối. Hoặc giống như người trong sa
mạc, càng đi thì lại càng cảm thấy chỉ có cát và cát mà thôi.
Bởi thế hôm nay, khi mừng kính mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, thái độ
thích hợp nhất đối với mỗi người chúng ta, đó là im lặng, khiêm tốn và thờ lạy.
Từ thái độ khiêm tốn và thờ lạy này, chúng ta đưa ra một cách thế
để cảm nghiện được mầu nhiệm này, đó là tình yêu. Thực vậy, chúng ta không thể
biết rừng, nếu đã chẳng biết cây. Cũng vậy, chúng ta không thể nào biết Thiên
Chúa, Đấng chúng ta hằng kính mến, nếu chúng ta không yêu thương anh em đồng
loại.
Và thật may mắn cho chúng ta vì không cần biết hết mọi thứ cây,
thì mới hiểu được rừng. Cũng vậy, không cần phải nếm hết tất cả nước biển mới
biết nước biển mặn, nhưng chỉ cần nếm một vài giọt mà thôi cũng đã đủ.
Cũng vậy, chúng ta không cần phải yêu thương tất cả mọi người trên
thế gian, mới hiểu được tình yêu là gì? Và hiểu được chân lý Đức Kitô đã mạc
khải cho chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu. Đã hẳn Đức Kitô mời gọi chúng ta yêu
thương tất cả mọi người, nhưng tất cả ở đây không có nghĩa về số lượng, bởi vì
điều đó không thể nào thự c hiện được đối với chúng ta, nhưng Chúa chỉ đòi hỏi
chúng ta yêu thương những người chúng ta gặp gỡ trong cuộc sống của mình, không
ghét bỏ một ai, cũng chẳng loại trừ một ai.
Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa. Có lẽ nhiều người
trong chúng ta nghĩ rằng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là điều quá cao vời, quá rắc
rối. Chuyện hiểu biết mầu nhiệm này nằm ở trong lãnh vực chuyên môn của các nhà
thần học, của các giám mục, linh mục và tu sĩ…Còn mình làm sao có thời giờ để
mà học hỏi, có trình độ đâu mà dám múa rìu qua mắt thợ.
Nhưng chúng ta đâu có ngờ rằng: Trong lãnh vực này, có khi nhà
thần học, cũng như giám mục, linh mục hay tu sĩ vẫn còn thua xa một bà già nhà
quê, nếu như bà ấy biết yêu thương hết thảy mọi người.
Bởi vì, chuyện yêu thương không nhất thiết đòi hỏi một trí rộng
tài cao, mà chỉ đòi hỏi một sự nhiệt tâm và chân thành mà thôi.
“Biết làm sao định nghĩa được tình yêu?”. Có lẽ đây không chỉ là câu hát đầy thi vị trong lãnh vực tình yêu,
mà còn là khắc khoải của từng người trong chúng ta. Thật thế, ai trong chúng ta
cũng yêu và muốn được yêu. Tuy nhiên, không gì khiến chúng ta phải lúng túng
cho bằng định nghĩa thế nào là tình yêu. Tình yêu quả thật là một mầu nhiệm.
Tại sao chỉ có con người mới biết yêu? Có lẽ chúng ta chỉ có thể trả lời câu
hỏi này bằng chính mầu nhiệm của Thiên Chúa mà thôi.
Vào cuối đời mình, khi suy niệm về cuộc sống, cái chết và sự phục
sinh của Chúa Giêsu, thánh Gioan Tông Đồ đã phát biểu như sau: “Thiên Chúa là
Tình Yêu”. Đây quả là công thức độc nhất vô nhị của Kitô giáo; trước và sau
Kitô giáo, có lẽ không một tôn giáo hay một triết thuyết nào đã gọi Thiên Chúa
là Tình Yêu. “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho
thế gian”. Gọi Thiên Chúa là Tình Yêu, bởi vì Thiên Chúa vừa tỏ mình cho chúng
ta một cách gần gũi, thân thiết, lại vừa là một mầu nhiệm mà chúng ta không bao
giờ hiểu thấu được. Vì yêu thương chúng ta, Thiên Chúa đã tỏ mình qua người Con
Một của Ngài, Người Con ấy đã sống kiếp sống của con người và đã chết một cách
đau thương nhục nhã để nói với chúng ta rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta.
Tình yêu nào cũng muốn được bộc lộ, người yêu nào cũng muốn tỏ tình. Bằng cuộc
sống và cái chết của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực sự tỏ tình với con người:
Ngài đã tỏ tình và yêu thương cho đến cùng. Chính vì thế, Ngài đã sai phái Thánh
Thần đến để khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần chính là Tình yêu nối kết Chúa Cha
và Chúa Con. Thiên Chúa thông ban tình yêu của Ngài cho Giáo Hội, để Giáo Hội
hiện diện như một dấu chứng tình yêu của Ngài đối với nhân loại. Giáo Hội là
tiếng tỏ tình của Thiên Chúa đối với con người.
Mừng kính Chúa Ba Ngôi hôm nay, Giáo Hội muốn nhắc nhớ chúng ta
chân lý ấy. Tỏ mình cho chúng ta, Thiên Chúa muốn nói với chúng ta rằng Ngài là
Ba Ngôi Vị, Ngài là Tình Yêu. Đó là mầu nhiệm cơ bản nhất, từ đó Giáo Hội được
xuất phát và xây dựng; Giáo Hội vừa là hình ảnh vừa là thể hiện Chúa Ba Ngôi.
Nhưng mầu nhiệm Ba Ngôi không chỉ là nền tảng của Giáo Hội, mà còn là ánh sáng
chiếu dọi vào bí ẩn của con người. Thật thế, chỉ trong Thiên Chúa Ba Ngôi,
chúng ta mới hiểu rõ được ơn gọi và định mệnh của con người. Nếu Thiên Chúa là
tình yêu và nếu con người được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, thì một
cách tất yếu, con người chỉ thực sự là người khi biết yêu thương. Phẩm giá của
con người được xây dựng trên chính tình yêu. Ai chối bỏ tình yêu, ai gieo rắc
hận thù, người đó cũng chối bỏ con người và chối bỏ chính Thiên Chúa; trái lại
ai sống trong tình yêu, người đó cũng sống trong Thiên Chúa.
Lễ Chúa Ba Ngôi không chỉ là một lời ca tụng tình yêu Thiên Chúa,
mà còn là một tuyên xưng về phẩm giá con người. Thiên Chúa phú bẩm cho con
người khả năng yêu thương; Ngài tỏ mình cho con người để con người cũng nhận ra
được phẩm giá cao cả của mình. Mỗi ngày, từ lúc khởi đầu một ngày mới cho đến
lúc trở lại giường ngủ, chúng ta không ngừng tuyên xưng mầu nhiệm của tình yêu
Thiên Chúa và phẩm giá cao cả của con người. Mầu nhiệm ấy gắn liền với Thập Giá
Chúa Giêsu mà chúng ta vẽ trên người. Qua cái chết trên Thập Giá, không những
Chúa Giêsu tỏ bày cho chúng ta mầu nhiệm của Thiên Chúa, Ngài còn vạch ra cho
chúng ta con đường đi vào mầu nhiệm ấy, đó là con đường của yêu thương. Chúa
Giêsu đã yêu thương và yêu thương cho đến giọt máu cuối cùng; Ngài đã tỏ cho
chúng ta thấy bộ mặt của Thiên Chúa; Ngài đã dạy cho chúng ta biết thế nào là
yêu thương.
Cách đây hàng ngàn năm, có một nhà hiền triết tài giỏi tên là
Simonide. Ngày kia, nhà vua cho vời ông ta đến và hỏi:
- Thượng đế là gì?
Ông ta xin nhà vua cho mình một ngày để suy nghĩ. Sáng hôm sau,
khi nhà vua gọi tới, thì ông ta lại xin thêm hai ngày nữa để suy nghĩ.
Và khi hai ngày đã trôi qua, ông ta lại xin thêm bốn ngày nữa. Rồi
sau đó, ông ta lại xin thêm tám ngày nữa. Cứ mỗi lần nhà vua truyền cho ông ta
đến, thì ông ta lại xin hoãn với số ngày gấp đôi. Sau cùng, nhà vua bực bội,
cho triệu ông ta đến và giận dữ hỏi:
- Cho tới bao giờ, nhà ngươi mới trả lời câu hỏi của ta? Thượng đế
là gì?
Bấy giờ ông ta mới ôn tồn trả lời:
- Xin nhà vua đừng hối thúc tôi. Vấn đề thật khó khăn và tôi nghĩ
rằng sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được câu trả lời. Bởi vì càng suy nghĩ, tôi lại
càng cảm thấy bối rối. Vấn đề dường như đã vượt ra ngoài khả năng của tôi.
Kể lại câu chuyện này, tôi cũng muốn nói lên sự bất lực của chúng
ta khi phải trình bày về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, mà chúng ta mừng kính hôm nay.
Mặc dù chúng ta đã học hỏi, đã tìm tòi, nhưng không bao giờ được quên rằng:
Chúa Ba Ngôi là một mầu nhiệm. Sở dĩ chúng ta biết được là vì chính Chúa đã tỏ
lộ cho chúng ta.
Tất cả những gì chúng ta biết về mầu nhiệm này được gồm tóm như
sau: Nơi Thiên Chúa có ba ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cực thánh
này đều có chung một bản tính, nên bằng nhau về mọi phương diện và chỉ làm
thành một Thiên Chúa duy nhất.
Trong giây phút này, tôi chỉ xin chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ, đó
là đứng trước mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, trí khôn chúng ta lại quá nhỏ bé đề mà
hiểu thấu, nhưng con tim chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến.
Thực vậy, trí khôn chúng ta quá nhỏ bé để mà hiểu thấu. Tôi xin
đưa ra một thí dụ: trước mặt chúng ta đây có ba cô, cô Quít, cô Mít, cô Cam. Đó
là ba ngôi vị. Mỗi người có một bản tính khác nhau và làm thành ba con người
riêng biệt. Đối với Chúa Ba Ngôi thì khác. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần, mặc dù là ba ngôi riêng biệt, những chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Đó là
một mầu nhiệm không thể nào hiểu thấu, bởi vì trí khôn chúng ta quá nhỏ bé.
Hẳn rằng đã nhiều lần chúng ta được nghe mẩu chuyện về thánh
Augustinô. Ngài là một vị thánh tiến sĩ trong Giáo Hội, đã viết nhiều cuốn sách
có giá trị. Ngày kia, để bắt đầu viết một thiên khảo luận về Chúa Ba Ngôi,
ngài đã đi dạo trên bờ biển để suy nghĩ và cầu nguyện. Bỗng chốc ngài nhìn thấy
một em bé đang dùng một chiếc vỏ sò múc nước và đổ vào một chiếc lỗ nhỏ trên
bãi cát. Ngài dừng chân và hỏi:
- Em làm gì thế?
Em bé bèn trả lời:
- Tôi muốn tát hết nước biển vào trong chiếc lỗ này.
Thánh nhân mỉm cười và nói:
- Làm sao tát hết được?
Nhưng em bé nghiêm nét mặt và nói:
- Tôi làm việc này còn dễ hơn cái ảo vọng của ngài là muốn trình
bày cặn kẽ về Chúa Ba Ngôi.
Nói đoạn, em bé biến mất. Thánh nhân hiểu rằng đó chính là một
thiên thần được Chúa sai đến để nhắc nhở: trí khôn con người thì quá nhỏ bé để
hiểu về mầu nhiệm này.
Thế nhưng, con tim của chúng ta lại đủ to lớn để yêu mến Ngài.
Thực vậy, Chúa Giêsu đã tỏ lộ không phải để chúng ta hiểu thấu, nhưng để chúng
ta yêu mến.
Trước hết, con tim chúng ta đủ to lớn để ca tụng ngài. Mỗi khi
hát: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Mỗi khi đọc: Sáng danh Đức Chúa
Cha và Đức Chúa Con và Đức Chúa Thánh Thần. Môi khi làm dấu thánh giá, là chúng
ta ca tụng và thờ lạy Chúa Ba Ngôi.
Hơn thế nữa, con tim chúng ta cũng đủ to lớn để cảm tạ Chúa Ba
Ngôi. Vậy Ngài đã làm gì cho chúng ta? Chúa Cha đã tạo dựng nên chúng ta ngay
khi chúng ta còn chưa cất tiếng khóc chào đời. Chúa Con đã dùng cái chết trên Thập
giá để cứu chuộc chúng ta. Và Chúa Thánh Thần luôn thánh háo chúng ta. Nhờ bí
tích Rửa tội, chúng ta trở nên con cái Thiên Chúa. Nhờ bí tích Thêm sức, chúng
ta trở nên những người lính chiến của Chúa Thánh Thần. Nhờ bí tích Giải tội,
chúng ta được tẩy sạch mọi tội lỗi. Vì thế, chúng ta phải cảm tạ và yêu mến
Chúa Ba Ngôi.
Sau cùng, trái tim chúng ta cũng đủ to lớn để cho Chúa Ba Ngôi ngự
trị. Thiên Chúa không ngự trên chốn trời cao, xa cách ngàn trùng. Trái lại,
Ngài sống trong chúng ta, Ngài ở cùng chúng ta và chúng ta là đền thờ sống động
của Ngài. Mỗi khi tâm hồn chúng ta sạch tội trọng, Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị và
trao ban cho chúng ta sự sống thầm linh, sự sống ân sủng, nhờ đó, chúng ta
thuộc về gia đình của Thiên Chúa.
Hãy yêu mến Chúa Ba Ngôi, để rồi chúng ta sẽ được chiêm ngắm Ngài
nhãn tiền, mắt đối mặt trong niềm hạnh phúc đời đời.
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chúng ta mở đầu
như thế có nghĩa là chúng ta nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi để bắt đầu bài chia sẻ
này. Không phải riêng tôi mà tất cả mọi Kitô hữu đích thực, khi làm một việc gì
đều muốn làm trong ý nghĩa đó, tức là mỗi khi bắt đầu một công việc gì chúng ta
luôn làm dấu thánh giá. Một nhà văn Kitô giáo ở thế kỷ thứ hai, Ông Tertulianô
đã viết: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một việc gì quan
trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Lời khuyên đó cho thấy việc làm dấu
thánh giá đã có ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Thánh Phaolô cũng thường
mở đầu và kết thúc các thư của ngài một cách tương tự: “Nguyện xin ân sủng của
Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của
Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
Người Kitô hữu biểu lộ thánh giá ra bên ngoài để tuyên xưng đức
tin và tôn vinh Chúa. Cũng có trường hợp vì tôn trọng thái độ tôn giáo của
người khác, chúng ta chỉ thầm nguyện ở trong lòng mà không làm dấu thánh giá
bên ngoài. Nhưng cách này hay cách kia, chúng ta đều ý thức rằng chúng ta đang
làm mọi việc nhân danh Thiên Chúa để tôn vinh Ngài, như lời Kinh Thánh dạy: “Dù
ăn, dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa”. Đặc
biệt hôm nay chúng ta đề cập đến dấu thánh giá để nói về Chúa Ba Ngôi, để nói
lên lòng chúng ta tin nhận một Thiên Chúa độc nhất có Ba ngôi là Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần.
Trước hết, chúng ta phải nói ngay: Thiên Chúa Ba Ngôi là một mầu
nhiệm quan trọng vĩ đại nhất của đạo Công giáo: một mầu nhiệm thuộc đời sống
thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không có quyền cũng như không có khả năng
đạt tới, chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết mà thôi. Bởi vì mầu
nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm về đời sống thâm sâu của Thiên Chúa, tức đời sống
yêu mến của Thiên Chúa, cho nên chỉ được mặc khải trong thời Tân Ước, là thời
yêu mến, và do chính Con Một Thiên Chúa là hình ảnh, là tình yêu của Đức Chúa
Cha.
Đại khái mầu nhiệm ấy được diễn tả như sau: Chúa Cha chiêm ngưỡng
chính mình thì có một hình ảnh, một ý nghĩ, một tâm tình, một lời về mình. Hình
ảnh, ý nghĩa, hay kiến thức hoặc tâm tình ấy là Ngôi Hai hay Ngôi Lời. Thế rồi
hai ngôi chiêm ngưỡng và yêu nhau làm phát xuất ra một mối tình hay một tình
yêu. Tình yêu đó là chính Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần.
Khó hiểu quá phải không? Đúng vậy, mầu nhiệm Ba Ngôi rất khó hiểu
và mãi mãi vẫn là khó hiểu. Chúng ta biết được như thế là do chính Chúa Giêsu
đã mặc khải, các tông đồ đã truyền dạy và cả Giáo Hội không ngừng tuyên xưng
như vậy. Giáo Hội toàn cầu đã nhóm họp nhiều công đồng để xác định rõ đức tin
của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các Công Đồng quan trọng nhất đã định tín về
chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, Công Đồng Constantinopoli năm 381,
công đồng Latran IV năm 1215, công đồng Lion II năm 1274, công đồng Floren năm
1439.
Mầu nhiệm Ba Ngôi được coi như một công thức mà Giáo Hội sử dụng
trong tất cả mọi sinh hoạt: từ một dấu thánh giá, một phép lành cho đến một lời
thề long trọng hay một bí tích. Tất cả đều bắt nguồn ở công thức duy nhất Chúa
Kitô đã dùng để ban truyền mệnh lệnh rửa tội cho muôn dân trước khi Ngài lên
trời. Trong đời sống một người tín hữu, ngay từ khi chưa chào đời cho đến khi
chết rồi, biết bao nhiêu lần công thức ấy đã được đọc trên mình chúng ta kèm
với dấu thánh giá hay một nghi thức hoặc cử chỉ nào khác. Nhưng vì là một công
thức, cho nên khi nghe đến hay đọc lên, nhất là sau khi đã lặp đi lặp lại nhiều
lần, chúng ta không còn cảm thấy gì nữa, công thức ấy đã được nhắc tới một cách
máy móc, vô ý thức, đôi khi còn thiếu tôn kính nữa. Vì vậy, chúng ta cần sửa
chữa lại điều không tốt đẹp ấy và quyết tâm từ nay mỗi khi làm dấu thánh giá chúng
ta sẽ làm một cách ý thức và tôn kính.
Trong thánh lễ ban phép Bí tích Thêm sức, Đức Tổng Giám mục hỏi
một ứng viên định nghĩa Ba Ngôi Thiên Chúa là gì. Một bé gái 14 tuổi nhỏ nhẹ
trả lời: “Thưa Ba Ngôi Thiên Chúa là Ba Ngôi trong một Thiên Chúa”. Đức Tổng
giám mục đã lớn tuổi, nặng tai, nghe không rõ, bèn hỏi lại: “Cha không hiểu con
nói gì?” Vị linh mục giúp lễ cho ngài là một nhà thần học bèn trả lời: “Thưa
Đức cha, Đức cha không cần phải hiểu. Ba Ngôi là một mầu nhiệm!”
Hôm nay Giáo Hội mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta biết rằng mình
không thể hiểu được, vì đó là một mầu nhiệm. Nhưng cũng biết chắc rằng chúng ta
đang sống mầu nhiệm đó. Ai cũng sống trong dòng đời, nhưng mấy ai đã hiểu được
cuộc đời. Ai cũng cảm được dòng nhạc hay, nhưng lại không thể lấy được cái hay
đó ra cho người khác xem!
Tách ra khỏi dòng sông, con cá sẽ chết. Biệt lập ra khỏi dòng đời,
con người sẽ không tìm thấy hạnh phúc. Lẩy ra một nốt nhạc, nó chỉ là một âm
thanh trơ trọi, không còn là một bài ca. Một vũ khúc được liên kết bởi các cử
điệu trong sự liên tục trôi chảy và nhịp nhàng. Đó chính là những hình ảnh sống
động giúp ta hiểu phần nào về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
Có một cuốn sách tuyệt hay với tựa đề “Flow” – “Sự Trôi Chảy” của
Mihaly Csikzentmihalyi, giáo sư tâm lý học trường Đại học Chicago. Tác giả đã
trình bày những kết quả của việc nghiên cứu nhằm xác định một cách chính xác
câu hỏi: “Điều gì làm cho con người hạnh phúc?” Sau khi thử nghiệm và phỏng vấn
hàng trăm người trong nhiều năm, giáo sư đã đi đến kết luận rằng con người cảm
thấy hạnh phúc nhất khi chúng ta sống “trong sự trôi chảy”.
Qua lời khẳng định này, tác giả muốn nói đến khả năng tự làm mất
đi cái bản ngã của mình để hòa điệu vào cái khác hay người khác, hy sinh cuộc
đời mình cho một người, một công trình, hay một hoạt động, nhẩy ra khỏi sự hạn
hẹp của cái tôi chủ quan để hòa mình vào dòng suối cảm nghiệm của cuộc đời.
Sống “trong sự trôi chảy” có thể thực hiện dưới vô số những hình
thức: leo núi, đánh cờ, nghe nhạc, hàn huyên trong câu chuyện gẫu, đắm chìm vào
trong cuốn tiểu thuyết trinh thám, hay hăng say làm việc giúp đỡ người nghèo.
Bất cứ cái gì thúc đẩy chúng ta ra khỏi bản thân mình, bất cứ cái gì làm cho
chúng ta ngây ngất, hay tạo nên hoan lạc có thể được coi như “trong sự trôi chảy”.
Đồng thời, khi chúng ta bị ngã bật ngửa ra, qua sự chán chường hay lo âu, khi
chúng ta tê cóng lại thay vì chuyển động trôi chảy, chúng ta trở nên bất mãn,
không hạnh phúc.
Đối với người Công giáo thì chẳng có gì ngạc nhiên, vì chúng ta
ngầm khẳng định cái kinh nghiệm nội tâm này và biểu tỏ ra một cách sâu xa mỗi
khi làm dấu thánh giá. Tôi tự hỏi chúng ta có thường ý thức rằng Thiên Chúa mà
chúng ta thờ phượng không phải là một tĩnh vật bất động nhưng là một tập thể
của những ngôi vị linh hoạt và năng động: Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức
Chúa Thánh Thần.
Từ nguyên thủy, Đức Chúa Cha, nguồn thần tính vô tận và phong phú,
biểu tỏ qua Chúa Con, một cuộc hành trình đi ra khỏi chính mình trong kiến thức
và tình yêu. Và Đức Chúa Con, từ nguyên thủy tự cho phép mình được phát biểu và
rồi trở về với Đức Chúa Cha trong hoan lạc. Trong tình yêu hỗ tương, sự chia sẻ
thân mật sâu xa của Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con là Đức Chúa Thánh Thần.
Diễn tả theo ngôn ngữ gợi cảm của thánh Bernard of Clairvaux: Đức
Chúa Cha là người hôn, Đức Chúa Con là người được hôn, và Đức Chúa Thánh Thần
chính là nụ hôn mà Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con chia sẻ với nhau. Thiên Chúa
của chúng ta là một sự nhịp nhàng, một vũ khúc, một dòng sông, một dòng đời.
Bản chất của Đức Chúa Cha là hướng về người khác, là đi ra khỏi chính Ngài. Bản
tính của Đức Chúa Con là quên mình, trong khi bản tính của Đức Chúa Thánh Thần
là yêu thương và được thương yêu.
Thiên Chúa không phải là Đấng cực kỳ cao cả đến nỗi Ngài “cứ để”
mình biệt lập trong sự cao cả. Nhà thần bí học Pseudo Dionysius đã nói rằng sự
tốt lành có tính cách lan truyền ra khỏi nó. Sự tốt lành không có khuynh hướng
tự nghỉ yên nơi chính mình, nhưng tuôn tràn ra với những cảm giác vui sướng.
Khi một người nào đó đang hân hoan vui sướng, họ không rút vào phòng để chiêm
niệm cho riêng mình. Trái lại, họ thường có khuynh hướng đi ra ngoài, nói cười
nhẩy nhót và vui mừng hân hoan với người khác, để chia sẻ cái họ đã tìm thấy.
Do đó, Thiên Chúa của chúng ta đầy đủ sự tốt lành, không thể chỉ giữ lại cho
riêng Ngài.
Xưa kia thánh Tôma Aquino cũng đã được hỏi rằng Thiên Chúa làm gì
suốt ngày, và vị tiến sĩ Hội Thánh đã trả lời: “Ngài vui thích với chính Ngài”.
Dĩ nhiên, câu trả lời vắn tắt gọn gàng này hoàn toàn phù hợp với những kết quả
tìm kiếm được của Csikzentmihalyi: “Thiên Chúa Ba Ngôi luôn luôn trong sự trôi
chảy nhịp nhàng”.
Vũ khúc tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa quá mãnh liệt và tốt lành
đến độ đã tuôn chảy tràn lan qua hành động sáng tạo vĩ đại của Ngài. Công đồng
Vatican I đã diễn tả rằng Thiên Chúa đang làm chính mình trở nên khác để chia
sẻ nguồn vui và sự hoàn thiện của Ngài. Vũ trụ lạ lùng là một bằng chứng cho
thấy cái khuynh hướng về người khác của Đấng tạo Hóa, một khuynh hướng không
thể nghỉ yên nơi Chính Mình. Thế nhưng, ngọn lửa hoan lạc của Ba Ngôi vẫn chưa
được diễn tả một cách đầy đủ chỉ trong sự sáng tạo. Thay vào đó, một hình thức
đẹp đẽ với vẻ rực rỡ vinh quang của nó đã được ban cho trong một hành động chưa
từng nghe đến của Sự Nhập Thể, một bước nhảy vọt, qua đó Thiên Chúa trở nên một
tạo vật. Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy trước mắt một chuỗi những biến cố về
sự tuôn tràn của Ba Ngôi Thiên Chúa được trình bày:
Đức Chúa Cha sai Đức Chúa Con đi vào hữu hạn, xác phàm, tội lỗi và
sự chết, vào tất cả những cái đang đe dọa và làm chúng ta khinh khiếp, bằng
cách mở trái tim của Thiên Chúa ra qua một sự vươn tới của tình yêu. Rồi, trong
Đức Chúa Thánh Thần, Đức Chúa Con lại trở về với Đức Chúa Cha, mang theo với
Người tất cả thụ tạo. Vũ khúc đã xảy ra từ nguyên thủy, trong niềm hoan lạc đó
thế giới đã được tạo dựng, hình thành trong Đức Kitô, với thịt và máu của
Người.
Đây là Thiên Chúa mà chúng ta biết. Đây là Thiên Chúa tạo dựng và
duy trì chúng ta trong hiện hữu. Đây là Thiên Chúa chúng ta cử hành khi làm dấu
thánh giá. Do đấy, chúng ta không ngạc nhiên rằng nguồn vui sâu xa nhất của
chúng ta đến từ việc sống “trong sự trôi chảy nhịp nhàng”, vì trong tình yêu
hoan lạc mà chúng ta trở nên giống với “Vũ Khúc của Ba Ngôi” nhất.
Một người cha hứa cho đứa con gái 12 tuổi một số tiền nếu cô bé
xén sạch đám cỏ trước nhà.
Cô bé vui vẻ mang máy cắt cỏ ra làm việc. Đến chiều, cả đám cỏ đã
được cắt xén gọn gàng – ngoại trừ một mảng cỏ tí tẹo còn sót trong góc sân.
Ông bố nói rằng ông không thể trả số tiền đã thỏa thuận, bởi vì
đám cỏ chưa được cắt xong. Cô bé cho biết cô sẵn sàng chịu mất số tiền đó và cô
nhất định không cắt nốt mảng cỏ còn sót kia.
Tò mò muốn biết lý do tại sao, ông bố kiểm tra chỗ cỏ chừa lại.
Hóa ra, ở giữa chòm cỏ ấy, một chú cóc đang ung dung ngồi ngắm cảnh hoàng hôn!
Cô bé quá thương con cóc, đã không đành đưa lưỡi dao của máy cắt vào chòm cỏ
ấy.
Thiên Chúa là tình yêu. Người đã dựng nên con người cao trọng hơn
các loài thụ tạo. Nhưng con người lại bất trung phản bội. Vì yêu thương Thiên
Chúa đã không nỡ hủy diệt, lại sai con Một là Đức Giêsu Kitô xuống thế để cứu
chuộc con người. Người lại gởi Thánh Thần đến để thánh hóa cho nên tạo vật mới,
dẫn đưa họ về hưởng vinh quang Nước Trời. Đó là mầu nhiệm tình yêu mà Ba Ngôi
Thiên Chúa đã thương dành cho con người. Vì thế, lễ Chúa Ba Ngôi cũng là lễ của
Tình Yêu.
Chỉ những ai sống yêu thương mới được ở trong Thiên Chúa Ba Ngôi.
Chỉ những ai thực thi đức ái mới sống trọn ơn gọi làm con Thiên
Chúa.
Chỉ những ai biết sống trao ban mới tìm được nguồn vui đích thực
trong Thiên Chúa Tình Yêu.
Nếu Thiên Chúa đã hiến trao con Một của Người để người Con ấy phải
chết và để nhân loại được sống, lẽ nào người tín hữu còn sống ích kỷ để giữ lại
cho riêng mình những hạnh phúc nhỏ nhoi, tầm thường.
Nếu Thiên Chúa đã muốn chia sẻ hạnh phúc của Ba ngôi, là không
muốn cho con người phải chết nhưng được sống hạnh phúc muôn đời, lẽ nào chúng
ta đành khép lại con tim để chối từ chia sẻ trao ban.
Được dựng nên theo và giống hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu, nên
ơn gọi đích thực của con người chính là ơn gọi sống yêu thương.
Được cứu độ bằng giá máu của Đức Kitô, nên lẽ sống của người Kitô
hữu chính là tha thứ trong yêu thương.
Được thánh hóa bằng sức sống của Thánh Thần, nên cứu cánh của
người tín hữu là phải nên thánh nhờ sống yêu thương.
Nhìn mầu nhiệm Ba Ngôi từ góc cạnh của đức mến, tức là nhìn từ
lăng kính của tình yêu. Người tín hữu không biết đến yêu thương thì cũng hoàn
toàn xa lạ với Thiên Chúa. Vì “Ai không yêu thì không biết Thiên Chúa”. Chỉ
những ai dám sống và dám chết cho tình yêu, mới được ở lại trong Thiên Chúa.
Chỉ những ai dám tự hiến và trao ban cho anh em mới là những chứng nhân của một
Thiên Chúa Tình Yêu.
Hôm nay toàn thể Hội thánh mừng kính trọng thể mầu nhiệm Một Chúa
Ba Ngôi. Đây là mầu nhiệm quan trọng nhất của Kitô giáo. Không một ngày nào Hội
thánh và mỗi người chúng ta lại không tuyên xưng mầu nhiệm ấy, bởi vì mỗi khi
chúng ta làm dấu thánh giá, mỗi khi đọc kinh sáng danh thì đó là lúc chúng ta
tuyên xưng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Nhưng có lẽ chẳng mấy khi ta quan tâm để
tìm hiểu xem mầu nhiệm này có ảnh hưởng như thế nào đối với cuộc đời của chúng
ta. Bởi vì nói tới các mầu nhiệm, đặc biệt là mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng
ta dễ có cảm tưởng đó là những chuyện xa vời và chẳng liên hệ gì tới đời sống
của mình. Nhưng không phải thế. Mầu nhiệm nào cũng rất gần gũi và liên hệ mật
thiết với đời sống của con người, bởi mầu nhiệm nào cũng là một luồng ánh sáng
soi cho chúng ta hiểu rõ thân phận mình và dẫn lối để chúng ta đi tới bến bờ hạnh
phúc.
Đối với mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, chúng ta không thể tìm được
một hình ảnh, một ngôn từ nào để diễn tả cách chính xác, rõ ràng và đầy đủ
được. Tuy nhiên chúng ta có thể tạm dùng hình ảnh một dòng sông để diễn tả ảnh
hưởng của mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi trong cuộc đời mình.
Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, cho các
vườn cây được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống đến
cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó mình
không có chút nước nào để dùng thì cuộc sống sẽ ra sao?
Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào
dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu
chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh
Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn.
Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông. Như
cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái nếu nó không hút lấy sự sống
từ dòng sông mang lại. Càng ở xa dòng sông, cánh đồng càng dễ nứt nẻ và khô
cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông
tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Càng xa rời tình yêu của Thiên Chúa
bao nhiêu, con người càng cằn cỗi bấy nhiêu và rồi sẽ chết khô. Bởi đó, sống
mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là biết mở lòng mình ra để đón lấy nguồn nước
tình yêu và ân sủng của Người, để ta có thể sống và được sống dồi dào. Đón nhận
dòng nước là đón nhận Chúa Kitô và tin vào Người. Lời Tin Mừng trong thánh lễ hôm
nay dạy ta như thế. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một
Mình, để những ai tin vào Người sẽ không phải chết, nhưng được sống muôn đời”.
Mà tin vào Chúa Kitô chính là thể hiện trong đời mình cuộc sống của Người,
nghĩa là suy nghĩ, nói năng, hành động và cư xử như Người. Điều Chúa Kitô quan
tâm nhiều nhất và đã sống triệt để nhất chính là tình yêu thương. Người yêu
Chúa Cha nên thi hành mọi sự theo ý Cha. Người yêu con người nên chấp nhận chết
để cho con người được sống.
Yêu Chúa và yêu người, đó chính là ta đang sống mầu nhiệm Một Chúa
Ba Ngôi vậy.
Ngày kia, có một người nông dân đi lên thành phố. Khi đang đi bộ
trên một con đường đông đúc, thì đột nhiên, anh ta nói với một người bạn cùng
đi với mình: “Tôi có thể nghe được tiếng kêu rúc rích của một con dế”. Người
bạn của anh ngạc nhiên và hỏi: “Làm sao mà anh lại có thể nghe được tiếng dế,
giữa tất cả những tiếng động ồn ào này?”
Người nông dân đáp lại: “Bởi vì hai tai của tôi hòa nhịp được với
tiếng dế”.
Thế rồi anh ta lại càng cố tình lắng nghe nhiều hơn, và dõi theo
âm thanh đó, anh đã tìm ra được một con dế đang bò trên bờ cửa sổ. Người bạn
của anh không thể nào làm được điều này. Nhưng người nông dân không hề tỏ ra
ngạc nhiên. Thay vào đó, anh móc vài đồng xu từ trong túi áo ra, và ném chúng
xuống lề đường. Khi nghe được tiếng leng keng của mấy đồng xu, những người qua
đường liền ngừng lại nhìn theo dấu vết của chúng.
Người nông dân nói: “Bạn hiểu ý tôi chứ: Không có ai trong số
những người này có thể nghe được tiếng dế, nhưng tất cả bọn họ đều có thể nghe
được âm thanh của tiền bạc. Người ta nghe được cái gì hòa nhịp với hai tai của
họ, và không thể nghe được tất cả những thứ còn lại”.
Điểm cần ghi chú ở đây khá rõ ràng: Nếu ít bị lo lắng phiền muộn,
chúng ta có thể hòa nhịp với Thiên Chúa. Voltaire đã nói: “Ngay khi mở đôi mắt
của mình ra, thì tự nhiên, người ta thừa nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa”.
Và Abraham Lincoln đã nói: “Tôi có thể nhận thấy con người có thể nhìn xuống
mặt đất, và trở nên một người vô thần ra sao, nhưng tôi không thể tưởng tượng
được làm thế nào mà người ta có thể nhìn lên bầu trời, và nói rằng không hề có
Thiên Chúa”.
Khi nhìn vào sự vật nào đó hoặc người khác, người ta sẽ nhận biết
ngay rằng những sự vật này không tự hiện hữu được, mà chính là nhờ Thiên Chúa.
Tương tự như một căn nhà phải có người xây dựng ra nó, một cái áo do người may,
một cánh cửa do thợ mộc. Như vậy, thế giới chứng tỏ rằng phải có Thiên Chúa,
Đấng Tạo hóa.
Khi nhìn vào một công trình nghệ thuật, không thể nào bạn không
nghĩ đến người nghệ sĩ. Nhìn vào thế giới tạo vật, mà không nhận thấy Đấng Tạo
hóa, chính là mù quáng, không thấy được ý nghĩa của toàn thể công việc sáng
tạo, và ý nghĩa sự hiện hữu của bản thân mình. Tuy nhiên, thật đáng buồn là có
nhiều người nhìn, mà vẫn không thấy gì. Họ lắng nghe, mà vẫn không nghe được
gì. Đức Giêsu đã nói về Thiên Chúa, như là một người Cha đầy lòng xót thương và
khoan dung. Người nói về chính mình, với tư cách là Con của Cha, và Người gửi
Chúa Thánh Thần đến với chúng ta, để trợ giúp chúng ta sống tư cách người môn
đệ và con cái của Thiên Chúa.
Chúng ta đang trực diện với một mầu niệm vĩ đại. Tuy nhiên, bất cứ
người con nào cũng đều có thể thấu hiểu, bằng cách cầu nguyện và sống mầu nhiệm
này. Chúng ta nghĩ đến Thiên Chúa như là một người Cha (và người Mẹ), một người
Cha yêu thương chúng ta một cách sâu sắc. Chúng ta nghĩ đến Đức Giêsu như là
một người Anh, Đấng hiến tặng cho chúng ta chính cuộc đời của Người. Và chúng
ta nghĩ đến Chúa Thánh Thần như là một người Bạn. Đấng trợ giúp chúng ta sống
theo Đức Giêsu, và liên kết chúng ta với nhau, như là anh chị em trong một cộng
đoàn của lòng tin và tình yêu thương. Với tư cách là những người Kitô hữu, đây
là bầu khí mà trong đó chúng ta sinh sống, di chuyển và hiện hữu.
Bà Rose đã viết thư cho bà Abby như sau, "Chào bà Abby, năm
nay tôi đã 40 tuổi và tôi mong muốn tìm được một người đàn ông chạc tuổi của
tôi, nhưng ông ấy không được có những tất xấu." Sau đó, bà Abby đã trả lời
cho bà Rose như sau, "Kính thưa bà Rose, đó là người đàn ông mà tôi cũng
mong muốn để tìm." Một điều hiển nhiên là cả hai bà Rose và Abby sẽ không
bao giờ tìm được người đàn ông hoàn hảo mà họ hằng luôn mong muốn bởi vì người
đàn ông hoàn hảo đó không hiện hữu trên thế gian này. Tất cả loài người chúng
ta đều có những khuyết điểm. Nói theo tiếng của Thánh Kinh là chúng ta là kẻ có
tội
Vậy thì chúng ta đi đâu để mà tìm được một con người hoàn hảo? Hôm
nay Giáo Hội giới thiệu cho chúng ta một Đấng hoàn hảo mà tất cả chúng ta có
thể tin tưởng, cậy trông, và phó thác trót cả cuộc đời chúng ta cho Ngài. Đó là
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội đặt bài đọc Phúc Âm hôm nay vào ngày Lễ này thật là có ý
nghĩa bởi nó nhắc đến cả Ba Ngôi Thiên Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay kể cho chúng
ta mẩu đổi thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông Nicôđêmô là một trong đám
người Pharisiêu đã nhận ra sự siêu nhiên ở con người Chúa Giêsu. Ông đã đến với
Chúa Giêsu để tìm câu trả lời cho những thắc mắc của mình. Bắt đầu cuộc đối
thoại, Chúa Giêsu đã khuyên Nicôđêmô rằng nếu ông muốn chiếm được Nước Trời ông
phải được sinh lại trong nước và Thần Khí. Chúa Giêsu còn nói với Nicôđêmô,
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài... Thiên Chúa sai Con
của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,
nhờ Con của Người, mà được cứu độ" (Jn 3:16-17).
Qua bài Phúc Âm này, chúng ta thấy sự hiện diện của cả Ba Ngôi
Thiên Chúa: Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã sai Con Ngài xuống thế gian,
Chúa Con xuống thế gian để cứu chuộc nó, và Chúa Thánh Thần là Thần Khí ban sự
sống. Nhận xét một cách kỹ lưỡng, chúng ta thấy sứ mệnh của Ba Ngôi Thiên Chúa
đều qui về một điểm đó là: yêu thương loài người chúng ta và muốn ban ơn cứu độ
chúng ta để chúng ta có thể hưởng vinh quang Nước Trời.
Suy niệm về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta rút ra được bài
học mà Chúa Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô trong bài Phúc Âm hôm nay:
"Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian không phải để lên án, nhưng để
nhờ Con của Người, mà được cứu độ". Chúa Giêsu đến không phải để lên án
thế gian nhưng để thể hiện tình thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Ngài đã
trở nên giá chuộc thế gian. Chúng ta phải tránh không lên án bất cứ ai nhưng
hãy yêu thương người khác.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã kết thúc với câu,
"Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ
là: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa" (Jn 3:21).
Ánh sáng ở đây phải hiểu như thế nào? Một Thầy Rabbi đã hỏi các
học sinh của mình câu hỏi này, "Trong đêm tối, thế nào mới là có đủ ánh
sáng?" Một học sinh trả lời, "Khi có thể nhìn thấy và phân biệt được
rõ ràng được con vật đang ở trước mặt con là con chó hay con chó sói". Một
học sinh khác trả lời, "Khi con có thể phân biệt được cái cây ở trước mặt
con là cái cây gì." Một học sinh khác trả lời, "Khi con gần bước tới
một cái hố mà con bất chợt nhận ra nó và ngừng bước". Sau đó, Thầy Rabbi
mới nói, "Đây là câu trả lời đúng nhất mà Thiên Chúa đã nói với chúng ta:
Có đủ ánh sáng có nghĩa là khi chúng ta có thể nhìn thấy khuôn mặt của người
khác là những khuôn mặt của người anh em chúng ta."
Xin cho chúng con biết sống trong sự yêu thương bác ái. Chúng con
xin tuyên xưng đức tin một Chúa Ba Ngôi: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.
Amen.
(Giảng lễ thiếu nhi – Lm. Giuse Nguyễn Quốc Việt CSsR)
Hôm nay chúng ta cùng với toàn thể Giáo Hội long trọng mừng lễ
Chúa Ba Ngôi, nhưng Chúa Ba Ngôi là sao? Ai có thể trả lời được?... Là Một
Thiên Chúa có Ba Ngôi, Ngôi thứ nhất là Cha, Ngôi thứ hai là Con, Ngôi thứ ba
là Thánh Thần. "Chúa Cha là gì thì Chúa Con là thế ấy, Chúa Con là gì thì
Chúa Cha là thế ấy, và Chúa Cha và Chúa Con là gì thì Chúa Thánh Thần là thế
ấy." (GLCG số 253). Vì sao có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần mà
không phải là ba Thiên Chúa nhưng chỉ một Thiên Chúa? Phải giải thích thế nào
đây, có bạn nào giúp cha không?...
Tèo và Tí là đôi bạn thân học chung lớp tại trường Nguyễn Trường
Tộ. Tí là người Công Giáo, còn nhà Tèo thờ Phật. Có lần Tèo đến chơi ngay lúc
Tí đang học bài giáo lý "Chúa Ba Ngôi", chuẩn bị cho cuộc thi
"Em hiểu Lời Chúa" do cha xứ tổ chức trong trại hè năm ấy. Tèo vừa
nghe liền thắc mắc hỏi Tí: "Làm sao mà một có ba, mà ba lại chỉ có một
được hả Tí?" Nếu có bạn nào đó hỏi chúng con về mầu nhiện Chúa Ba Ngôi như
Tèo hỏi Tí, chúng con có trả lời được không?... Tí trả lời với Tèo là
"được". Tí nói: "Cũng như một tam giác đều có ba cạnh bằng nhau
nhưng chỉ có một tam giác thôi. Hay bạn xem ngón tay của mình nè. Một ngón có
ba đốt, ba đốt nhưng chỉ có một ngón tay thôi." Tí trả lời như thế tốt lắm
nhưng không cho biết gì về ý nghĩa của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm
trọng tâm của đức tin Kitô giáo.
Có truyền thuyết kể rằng thánh Augustinô, một vị thánh lớn của
Giáo Hội, sống vào thế kỷ thứ tư. Ngài rất thông thái, đã viết nhiều cuốn sách
về Đạo, đặc biệt là cuốn "Tự Thuật". Ngài đã cố gắng suy nghĩ để tìm
cách giải thích tại sao một Thiên Chúa có Ba Ngôi, mà Ba Ngôi lại chỉ có một
Thiên Chúa chứ không phải là ba Thiên Chúa. Một hôm, ngài đi dạo trên bờ biển đẹp. Ngài
thấy một em nhỏ đào cái lỗ trên bãi cát dài bị những cơn sóng xô lên đập xuống
phẳng lì một màu trắng ngà rất xinh. Em cầm chiếc vỏ sò liên tục múc nước biển
đổ vào lổ. Nước thấm nhanh xuống cát chẳng để lại dấu vết gì. Em bé cứ mãi miết
làm chẳng để ý chung quanh. Có cái gì đó thúc đẩy, thánh Augustino bước tới hỏi
em bé: “Con đang làm gì vậy?” Em bé ngước mặt lên nhìn thánh Augustino và nói:
“Con có thể múc hết nước biển đổ vào cái lỗ này, còn ngài, ngài không thể hiểu
hết về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi." Thánh Augustinô sững sờ! Tại sao một
em thiếu nhi lại biết được mình đang nghĩ gì? Đến khi thánh nhân bình tĩnh trở
lại thì không còn thấy em bé nữa, và người ta coi đó như là thiên thần đến nhắc
nhở thánh Augustino về sự siêu vời vượt quá trí tuệ con người của mầu nhiệm
Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tìm cách giải thích mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi có cái hay, là
qua đó cho thấy, niềm tin vào Mầu nhiệm không mù quáng; xét về phương diện lý
trí, cuộc sống có rất nhiều hình ảnh cho chúng ta hiểu được phần nào. Tuy nhiên,
điều quan trọng không phải là tìm cách giải thích: “Một mà Ba, Ba mà Một”,
nhưng là lắng nghe Lời Chúa để biết Thiên Chúa Ba Ngôi đối với chúng ta thế
nào.
Các con có nhớ bài đọc thứ nhất trích từ sách gì không?...
"Sách Xuất Hành." Đúng rồi. Con giỏi lắm! Tác giả sách thánh kể, có
một hôm, ông Mô-sê thức dậy lên núi Xinai theo lệnh của Đức Chúa. Chúa hiện ra
với ông. Chúa nói gì?... Chúa giới thiệu về Chúa, Chúa đi qua trước mặt ông
Môsê và nói to: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, hay nén giận,
giàu nhân nghĩa và thành tín.”
Còn bài đọc hai trích từ sách nào?... "Từ thứ hai của thánh
Phaolô Tông Đồ gởi tín hữu Côrintô". Con giỏi!... Trong đó, thánh Phaolô
nói cho chúng ta biết như thế này: “Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an,
sẽ ở cùng anh em.” Khi gần kết thúc bài đọc, chúng ta nghe thánh Phaolô nói
thêm: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Kitô, đầy tình
thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần." Nếu trong bài
đọc một, chúng ta chỉ được biết về Đức Chúa là Thiên Chúa "nhân hậu, từ
bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín” thì trong bài đọc hai, chúng ta
được thấy một cách rõ ràng về Ba Ngôi Thiên Chúa. Chúa Cha là nguồn tình thương
và bình an, Chúa Giêsu là nguồn ân sủng tức là nguồn ơn cứu độ vô tận ban cho
con người, Chúa Thánh Thần là ơn hiệp thông có nghĩa là nối kết chúng ta lại
với nhau và với Chúa. Như thế, mỗi Ngôi mỗi cách nhưng đều chung một điểm là
yêu thương ta. Do đó, trong bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe công bố, thánh Gioan
Tông Đồ đã nói: “Thiên Chúa yêu....” Ai nhớ đọc tiếp giúp cha?... “Thiên Chúa
yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết nhưng được sống muôn đời."
Như vậy, cả 3 bài đọc trong Thánh lễ hôm nay đều nói cho chúng ta
biết: Chúa Cha thương chúng ta, Chúa Con tức là Chúa Giêsu thương chúng ta và
Chúa Thánh Thần thương chúng ta, Ba Ngôi Thiên Chúa cùng thương chúng ta. Nhưng
cha hỏi thật các con nhé: các con có thấy Chúa thương mình không? Con thấy Chúa
thương con thế nào?... Cha thấy Chúa thương cha, vì hồi đó cha thích đi tu mà
cha cứ sợ cha tu không được. Vậy là cha cầu nguyện, cha đi, cuối cùng cha tu
được. Chúa nhậm lời cha nên cha thấy Chúa thương cha. Hay như bạn Thảo chia sẻ,
bạn ấy thấy Chúa thương bạn vì nhờ ơn của Chúa mà kỳ thi vừa rồi bạn được điểm
cao. Bạn Tuấn thì cảm nhận Chúa thương gia đình mình khi mẹ được ơn Chúa thoát
qua cơn bệnh hiểm nghèo. Tất cả những cảm nhận đó rất quí, nhưng thấy Chúa
thương mình khi mình được ơn là bình thường. Độc đáo hơn làthế này: cách đây
không lâu cha vào bệnh viện thăm một bệnh nhân. Người ấy kể cho cha nghe cơn
đau của bệnh ung thư khủng khiếp như thế nào, đến độ cha nghe cũng cảm thấy sợ!
Nhưng có điều rất lạ; người ấy vừa kể mà cứ nói cám ơn Chúa, Chúa thương cho
mình sức chịu đựng. Cha khâm phục một đức tin như thế!... Tuy nhiên, đó cũng
chưa phải là ơn quí nhất mà Chúa Ba Ngôi dành cho chúng ta.
Ơn quí nhất, tình thương lớn nhất mà Chúa Ba Ngôi dành cho chúng
ta là gì các con biết không?... Là Ba Ngôi Thiên Chúa bao bộc cuộc sống của ta.
Con người khi mới sinh bé xíu, rồi lớn lên thành người lớn, thêm tuổi nữa thì
già và cuối cùng là chết. Chết là hết phải không chúng con?... Không! Chết là
về với Chúa. Vậy cuộc đời của người Kitô hữu là con đường về nhà Cha trên Trời.
Nói một cách chính xác thì mỗi ngày trong cuộc sống Chúa Giêsu dẫn ta về, Chúa
Cha đang đứng đợi, Chúa Thánh Thần ban sức để ta đi. Đây chính là ơn quí nhất
Thiên Chúa ban cho chúng ta, và đây cũng chính là ý nghĩa của mầu nhiệm Thiên
Chúa Ba Ngôi trong đời sống chúng ta.
Quí ÔBACE, và các em thiếu nhi thân mến. Tạ ơn Chúa đã mạc khải
cho chúng ta biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, một khi hiểu về ý nghĩa của Mầu Nhiệm
dựa trên Lời Chúa thì thái độ sống của chúng ta cần thiết thế này: Vì Chúa Cha
đang đợi nên em luôn cầu nguyện. Vì Chúa Giêsu dẫn đường nên phải theo Ngài
sát, đừng làm gì khác với Ngài. Vì Chúa Thánh Thần ban sức nên em luôn xin Ngài
sức mạnh để thực hiện lời Chúa Giêsu. Amen.
Dịp lễ giới trẻ, Tony và mấy người bạn xin đóng góp một nhạc phẩm
cho tiết mục văn nghệ với tựa đề: "Greatest love of all" của ca sĩ
Whitney Houston. Tuy hay nhưng thiệt là xui vì lời nhạc đã không được các thầy
đồng ý. Bản nhạc định nghĩa tình yêu cao cả nhất là học sao cho biết để yêu
mình (learning to love yourself, it is the greatest love of all). Ngược hẳn với
lời Chúa dạy: "Tình yêu cao cả nhất là chết cho người mình yêu."
Thật thế, trao ban chính là yêu sách của tình yêu. Càng yêu thì
càng trao ban. Và bao lâu ngừng trao ban là bấy lâu ngừng yêu. Thánh Gioan
trong bài Phúc Âm hôm nay đã khẳng định với chúng ta điều đó. Rằng yêu là trao
ban; và chính Thiên Chúa là Tình Yêu; ngài đã trao ban chính Con Một Người cho
chúng ta, để chúng ta được sống đời đời. Ở đây chúng ta thấy có 2 điểm:
Điểm thứ nhất là về việc Chúa trao ban. Chúng ta thấy mặc dù Phúc
Âm thánh Gioan không qui hướng vào cái chết của Chúa Giêsu như một việc hiến tế
như Phúc Âm nhất lãm (Mát-thêu, Mát-cô, và Luca). Tuy nhiên, việc diễn tả
"Thiên Chúa đã ban Con Một Ngài" (3:16) có thể hiểu được như nói đến
việc hy hiến của Chúa Giêsu vậy (xem Gal 1:4; 2:20; Rom 8:32). Thiên Chúa đã
cho chúng ta hết tất cả khi Ngài trao ban Con Một Ngài hay đúng ra là trao ban
chính Ngài. Mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi mà Giáo Hội hôm nay long trọng mừng
kính đã minh chứng điều đó.
Lý do nào đã thúc đẩy tình Chúa yêu ta đến thế? Thánh Gioan đã nói
rõ. Đó là, để chúng ta được sống đời đời. Và đó là điểm thứ hai mà chúng ta cần
xét đến. Theo thần học thánh Gioan, ngày cánh chung được trình bày rõ ràng nơi
sự liên hệ giữa việc tin vào Con Một Thiên Chúa và sự sống đời đời. Để được
sống đời đời, điều kiện cần có là tin vào Con Một Thiên Chúa. Ai không tin thì
bị hư mất.
Càng yêu thì càng cho, càng thích cho, càng muốn cho, và càng xoay
dở tìm đủ mọi cách để cho. Mặc dù cho là mất, nhưng khi đã yêu rồi thì mất cũng
chẳng thấy tiếc. Nếu không dám nói là càng cảm thấy sung sướng khi được mất đi.
Cái này thì có lẽ quí anh chị đang ở trong lứa tuổi mắt có khói cảm nghiệm rõ
hơn ai hết. Leo lên mạng Internet cả đêm mà vẫn thấy còn sung sức. Thẻ điện
thoại quăng vào sọt rác hết cái này đến cái khác mà cũng chẳng tiếc xót... ngày
quên ăn, hay đúng ra là cố quên ăn để giữ eo... đêm thì cứ thổn thức bóng hình
ai... rồi lại nhớ nhung mơ mộng suốt đêm dài... ai da...
Sống cho tha nhân và chết cho tha nhân không phải là điều dễ. Đây
là một ơn Chúa ban. Đây là một ơn gọi cao quí mà Chúa vẫn hằng luôn kêu mời
chúng ta đáp trả. Ba Ngôi Thiên Chúa đã yêu, đã trao ban chính Ngài cho chúng
ta, và muốn chúng ta cũng dâng hiến chính mình cho Ngài và trao ban cho tha
nhân.
Mẹ Têrêsa Calcutta tâm niệm: "Khi tôi chia sẻ, khi tôi trao
ban cho tha nhân một cái gì làm tôi cảm thấy mất mát, đau khổ thì sự chia sẻ
của tôi mới có giá trị. Tôi không chia sẻ và trao ban những cái dư thừa, ba cái
lẻ tẻ, mà chính là trao ban chính tôi, con người và tâm hồn tôi."
Anh chị em thân mến,
Hôm nay chúng ta mừng kính một mầu nhiệm cao cả, cũng là một mầu
nhiệm thách đố trí tuệ loài người. Chúng ta biết rằng mầu nhiệm là một điều con
người không thể đạt thấu bằng trí tuệ, nhưng lại có thể cảm nghiệm bằng đức
tin, bằng lòng mến, bằng sự hiệp thông chân thành yêu mến với Thiên Chúa, nhất
là khi Chúa muốn ban cho ta hồng ân đó. Xin được chia sẻ một vài suy niệm hết
sức thô thiển, nhân ngày đại lễ hôm nay. Kính mời cùng suy niệm….
a/. Câu hỏi ta sẽ nêu trước hết, Thiên
Chúa Ba Ngôi là gì? Thưa đó chính là một mầu nhiệm; vì thế qua bao
thế kỷ, đây vẫn còn là một câu hỏi thách thức trí tuệ con người; và cho đến ngày
tận thế cũng vẫn luôn là một dấu hỏi lớn. Dù vậy con người biết chắc rằng mình
đang sống trong mầu nhiệm đó. Ai cũng sống trong dòng đời, nhưng mấy ai hiểu rõ
được dòng đời? Ai cũng cảm nghe được điệu nhạc, nhưng không thể lấy ra cho
người ta xem được. Con cá đang sống trong nước, nếu bắt nó ra khỏi nước, nó sẽ
chết. Tách biệt con người khỏi dòng đời, con người sẽ không tìm thấy hạnh phúc.
Mỗi nốt nhạc khi đánh lên riêng rẻ, chỉ là một âm thanh trơ trọi, không thành
bài ca. Một ca khúc sống động chính là một sự kết hợp các nốt nhạc trôi chảy,
nhịp nhàng. Mầu nhiệm Thiên Chúa không phải là một vấn đề để con người nghiên
cứu, cân đo bằng trí tuệ giới hạn. Nếu ta chỉ học về Thiên Chúa để làm giàu
thêm kiến thức, thì Thiên Chúa vẫn luôn là một vị thần xa lạ. Nếu niềm tin của
ta chỉ dựa vào những công thức máy móc, những cách cầu nguyện vô hồn, Thiên
Chúa vẫn luôn xa lạ với con người chúng ta. Mầu nhiệm Ba Ngôi chính là lời mời
gọi hiệp thông trong tình yêu, là tham dự vào sức sống thần linh của Thiên
Chúa. Hiểu được điều này, có làm cho chúng ta kinh ngạc không?
b/. Ba Ngôi Thiên Chúa có phải là một
mầu nhiệm tình yêu, và luôn muốn đồng hành với con người không? Thưa phải. Ngay từ khi tạo dựng con người, Thiên Chúa luôn yêu
thương, vẫn ở bên họ, luôn muốn đồng hành với họ. Kinh thánh thuật lại: chiều
chiều Thiên Chúa đi dạo trong vườn và đàm đạo với Adam, Evà. Thiên Chúa cũng
ban cho con người quyền làm chủ cá biển chim trời, vì Chúa luôn muốn con người
được hạnh phúc như Chúa….Khi Môisen dẫn dân Do Thái ra khỏi đất Ai cập, Thiên
Chúa vẫn luôn ở với họ: ban ngày là cột mây, ban đêm là cột lữa trên đầu họ…Sau
đó, bao nhiêu lần dân chúng phản bội, bị phạt; rồi họ ăn năn chạy tới cầu khẩn
Môisen, cầu khẩn Chúa, Chúa vẫn luôn tỏ ra dung mạo Người là Đấng đầy lòng yêu
thương, luôn đồng hành với họ…Dù vậy, những bí ẩn muôn đời của Thiên Chúa chỉ
được bày tỏ trọn vẹn qua Con Người và cuộc đời của Đức Kitô làm người. Với Đức
Kitô, Ba Ngôi Thiên Chúa được gọi là Tình Yêu, Đấng luôn yêu thương và muốn
đồng hành với con người. Với Đức Kitô, mầu nhiệm sâu thẳm về Ba Ngôi không còn
là bức tường thành kiên cố, bất khả xâm phạm, nhưng lại là nhịp cầu nối liền
trời với đất. Mấu nhiệm Ba Ngôi khi xưa là Thiên Chúa vô hình, nay trở nên bằng
xương bằng thịt, nay trở nên là Đấng Cứu thế đầy lòng yêu thương, luôn cảm
thông và đồng hành với con người, sẵn sàng cùng vui với tiệc cưới Cana, cảm
thấy đau xót trước bệnh tật, trước nạn ma quỉ ám ảnh của dân chúng, và cũng
khóc thương với Ladarô bạn thân, vì anh này đã chết. Với Đức Kitô, Thiên Chúa
đó sẵn sàng cảm thông ngay cả tội lỗi, yếu đuối của con người, đã dang rộng
cánh tay trên thánh giá để mở rộng cửa trời, ôm ấp cả nhân loại về cho Thiên
Chúa.
c/. Mầu nhiệm của Ba Ngôi có phải còn là lời mời gọi
hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người? Có phải cũng là lời mời gọi con
người sống bằng sức sống của Thiên Chúa sáng tạo và đổi mới không? Thưa phải.
Đức Kitô đã nói: “Thầy là cây nho, chúng con là cành, là nhánh..” Người Kitô
hữu khi được tham dự vào sự hiệp thông, vào sức sống của Thiên Chúa, họ phải
sẵn sàng bỏ qua tính ganh tị, tính loại trừ, chia rẻ nhau để xây dựng tình
huynh đệ trong Thiên Chúa, y như hình ảnh nhánh nho, muốn được tháp chặt vào
Thân Nho, nó phải loại bỏ nhựa của chính mình, để chỉ hút nhựa từ Thân Nho mà
thôi. Ngược lại, nhánh nào không hút nhựa từ Thân Nho, nó phải khô héo và phải
chết…
Người đời có nói: “Đừng phàn nàn cà phê đắng, có thể tại vì
đường của bạn chưa đủ ngọt”. Nếu đường chúng ta đã đủ ngọt
và cà phê không còn đắng nữa, đó là lúc ta khám phá ra dung mạo rạng ngời của
Ba Ngôi Thiên Chúa, cũng là lúc Thiên Chúa ban cho ta được tham dự vào sự hiệp
thông thần thánh, đầy yêu thương, cũng là lúc ta sống bằng chính sức sống của
Thiên Chúa Ba Ngôi sáng tạo và đổi mới trong một nền văn minh tình thương.
d/. Gợi ý sống và chia sẻ: nhân ngày mừng kính Thiên Chúa Ba Ngôi, ta có nhận ra rằng: lời
mời gọi sống hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa, thúc bách chúng ta mở rộng tâm
hồn mình ra với thế giới và với mọi người chung quanh, để cố gắng xây dựng xã
hội, gia đình chúng ta hôm nay, thành nền Văn minh Tình thương như ý Ba Ngôi
mong muốn không?
Thánh Augustinô, một hôm ra bãi biển đi đi lại lại suy gẫm miên
man về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Bỗng thánh nhân thấy một em bé lấy vỏ sò rồi cứ múc
nước biển đổ vào lỗ cáy. Thánh nhân ngạc nhiên nói với em nhỏ đó: "Này em,
sao em làm việc gì kỳ vậy, làm sao em có thể đổ hết nước biển vào lỗ cáy này
được?" Em bé trả lời: "Múc hết nước biển đổ vào lỗ cáy còn dễ hơn
việc Ngài đang suy để hiểu về màu nhiệm Chúa Ba Ngôi."Nghe vậy, thánh nhân chưng hửng
và hiểu ra rằng, Chúa đã sai một thiên thần hiện ra thành một em nhỏ để giúp
thánh nhân hiểu rằng tự sức con người không thể dùng trí khôn riêng mình để suy
và hiểu rõ về màu nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi được bày tỏ dần dần theo thời gian. Ngôi
Cha được bày tỏ cho Dân Do Thái trong Cựu Ước. Trong thời gian này, Chúa tỏ cho
Dân Chúa biết Ngài là "Cha chúng ta" và cũng là "Cha tôi".
Do đó mọi người Do Thái đều tin rằng họ là con cái Chúa. Nhưng từ khi Đức Kitô
là Ngôi Con đến, thì ý nghĩa đầy đủ về Thiên Chúa là Cha mới được rõ ràng. Ngài
tỏ cho thấy Ngài là Con Một của Chúa Cha. Sự thân tình giữa Ngài và Chúa Cha
được diễn tả dưới danh hiệu Abba: Nghĩa là "Lạy Cha." Từ Abba theo
tiếng Do Thái là từ mà trẻ con dùng để nói với ba nó một cách thân tình; giống
như tiếng "daddy" của tiếng Anh vậy.
Trong mối thân tình với Chúa Cha, Chúa Kitô cho chúng ta thấy Ngài
và Chúa Cha là một. Ngôi Cha không có tuổi tác, và Ngôi Con cũng không lớn lên
hay phụ thuộc. Đấng Bằng Nhau sinh ra Đấng Bằng Nhau giống như ngọn lửa sinh ra
ánh sáng. Nhưng ngọn lửa lại khác với ánh sáng sinh ra nó. Thực vậy, ngọn lửa
tác sinh không sinh ra bởi ánh sáng được tác sinh. Cả hai cùng bằng nhau, cùng
hiện hữu, nhưng ánh sáng sinh ra khác với ngọn lửa.
Nói về Chúa Thánh Thần trong Ngôi Ba Thiên Chúa thì được Chúa Kitô
cho thấy là Ngài là Thần Chân Lý, là Đấng yên ủi. Trong tương quan của Ngài với
Chúa Cha và Chúa Con, chúng ta có thể dùng hình ảnh về hơi ấm phát sinh từ ngọn
lửa và ánh sáng. Không hề có ngọn lửa mà không kèm theo ánh sáng và hơi ấm. Sự
ấm áp khác với ngọn lửa và ánh sáng, nhưng nó lại cùng hiện hữu với ngọn lửa và
ánh sáng. Không có chuyện ngọn lửa hay ánh sáng, hay hơi ấm sinh ra bởi nhau.
Vì chúng đều đồng hành với nhau. Hình ảnh này cho thấy Ngôi Cha, Ngôi Con, và
Ngôi Thánh Thần luôn bằng nhau, không ngôi nào hơn, không ngôi nào kém.
Sự hiệp thông thân thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa còn có tính cách
lan toả. Tự bên trong bản tính thần linh Chúa chiếu toả và đổ tràn tình thương
của Ngài qua việc sáng tạo muôn loài, trong đó có chúng ta. Do tình thương yêu
Chúa đã dựng nên chúng ta qua trung gian thụ tạo của Ngài là cha mẹ chúng ta.
Đó là nói về việc Chúa sáng tạo bởi lan toả.
Còn nói về việc tái tạo chúng ta thì như thế nào? Từ khi Chúa Kitô
làm người, chịu nạn, chịu chết và sống lại, chúng ta được tái tạo nên giống
hình ảnh Thiên Chúa ngày càng rực rỡ hơn nhờ tác động của Chúa Thánh Thần. Qua
tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta được biến tan trong Chúa như người yêu
biến thành Đấng được yêu. Chúng ta sẽ trở nên thần linh, trở nên Chúa do sự
tham phần vào bản tính của Ngài. Sự hợp nhất này hoàn hảo đến nỗi tất cả những
gì Thiên Chúa có thì linh hồn chúng ta có. Nghĩa là chúng ta được biến hoá để
đạt tới sự sung mãn cuối cùng là sự thánh thiện.
Nhưng con đường duy nhất để trở nên trọn lành thánh thiện và hạnh
phúc với Chúa Ba Ngôi là sự từ bỏ mình. Đó là con đường Chúa Kitô đã đi qua
trước khi sống lại và lên trời vinh hiển. Chúa Kitô đã từ bỏ mình, bằng cách
nhận lấy bản tính loài người và làm cho bản tính ấy dần dần biến cải trong bản
tính Thiên Chúa của Người. Sự biến cải đó đạt tới tuyệt đỉnh qua cái chết của
Ngài. Nhờ đó Ngài đã trở thành hoàn toàn là Thiên Chúa và hoàn toàn là loài
người.
Ở trần gian này mỗi người chúng ta cũng phải trải qua con đường từ
bỏ để đạt được vinh quang sau này trên trời. Đức Kitô đã từ bỏ mình, đã sống
lại và lên trời vinh hiển thì chúng ta cũng phải giống như Người trong việc từ
bỏ những gì chưa biến cải thành Thiên Chúa. Xin Mẹ Maria là cung thánh của Chúa
Ba Ngôi giúp chúng ta biết sống cuộc đời quên mình trong các việc bổn phận hằng
ngày để trở nên giống Chúa hơn. Nhờ đó chúng ta càng ngày càng biến đổi và đạt
được cùng đích cuối cùng đời người là kết hợp với Chúa Ba Ngôi sau này trên
thiên đàng.
Trong một gia đình gồm bảy hay tám người, thế nhưng chỉ có một
người cha là gia trưởng. Trong một nhà máy gồm hàng trăm thợ thuyền, thế nhưng,
chỉ có một ông giám đốc để điều hành. Trong một sư đoàn gồm cả ngàn binh lính,
thế nhưng, chỉ vó một vị tướng để chỉ huy. Trong một quốc gia gồm hàng triệu
người dân, thế nhưng, chỉ có một ông tổng thống để cai trị.
Cũng vậy, chỉ có một Thiên Chúa là chủ tể, là vị vua tối cao, đã
an bài và sắp xếp mọi sự. Ngoài Ngài ra, không còn một thần minh nào khác. Đó
là một sự thật tương đối dễ hiểu và dễ tin. Tuy nhiên đã từ lâu, mỗi khi làm
dấu thánh giá hay đọc kinh Sáng danh. chúng ta vốn hằng tuyện xưng: Thiên Chúa
ấy lại có Ba Ngôi. Chúa Cha là Thiên Chúa. Chúa Con cũng là Thiên Chúa và Chúa
Thánh Thần cũng lại là Thiên Chúa. Thế nhưng, cả ba chỉ là một Thiên Chúa vì
cùng chung một bản tính. Đó là một màu nhiệm vượt ngoài khả năng hiểu biết của
chúng ta.
Người ta đã cố gắng đưa ra những hình ảnh để sánh ví. Chẳng hạn
hình ảnh về mặt trời. Phải, mặt trời là một khối lửa, vừa tỏa sáng vừa đem lại
sức nóng. Lửa, sáng và nóng, ba đặc tính này cũng chỉ làm nên một mặt trời mà
thôi. Chẳng hạn một cây hồng gồm rễ, thân và hoa. Thế nhưng, cả ba phần nay
cũng chỉ làm thành một cây hồng mà thôi. Chẳng hạn như nước, có thể ở ba trạng
thái khác nhau, lỏng như nước lã, đặc như nước đá, khí như hơi nước. Thế nhưng,
cả ba trạng thái này cũng chỉ là nước mà thôi.
Tuy nhiên, những so sánh trên chỉ là những hình ảnh quá mờ nhạt,
nếu không muốn nói là què quặt và lệch lạc, khã dĩ bóp méo cả sự thật mà chúng
ta đã tin theo. Trí khôn và ngôn ngữ của con người thì quá nghèo nàn, không thể
nào hiểu thấu và diễn tả nổi về màu nhiệm cao cả này, như trường hợp của thánh
Augustinô: Múc cả nước biển mà đổ vào chiếc lỗ nhỏ còn dễ hơn là suy nghĩ về
Chúa Ba Ngôi.
Sởi dĩ chúng ta tin, đó là vì chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ và truyền
dạy. Thực vậy, khi Ngài chịu phép rửa của Gioan ở sông Giócđan, Phúc âm đã kể
lại: Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu ngự xuống trên Ngài và từ trời có
tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng. Qua đó, chúng ta thấy
có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói từ trời cao, Chúa con đang chịu phép rửa
và Chúa Thánh Thần qua hình chim bồ câu.
Khi Chúa Giêsu biến hình trên đỉnh Taborê, Phúc âm cũng ghi nhận:
Lúc Phêrô còn đang nói, thì bỗng có một đám mây bao phủ và từ trong đám mây có
tiếng phán: Này là Con Ta yêu dấu, hãy vâng lời Ngài. Qua đó, chúng ta cũng
thấy có đủ Ba Ngôi: Chúa Cha qua tiếng nói, Chúa Con đang biến hình và Chúa
Thánh Thần qua đám mây chói lòa.
Sau cùng, trước khi về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ:
Các con hãy đi giảng dạy muôn dân, Rửa tội cho họ nhân danh Cha và Con và Thánh
thần.
Tuy nhiên, điều quan trong chúng ta cần tìm hiểu, đó là Chúa Ba
ngôi đã làm gì cho chúng ta?
Trước hết, Chúa Cha đã yêu thương chúng ta bằng cách dựng nên
chúng ta, nhận chúng ta làm con để rồi trao ban cho chúng ta quyền thừa kế Nước
trời.
Ông vua kia nuôi một con chim hoàng yến. Nó hót rất hay khiến ông
thích nó lắm. Ông mua những thức ăn hảo hạng và làm cho nó một chiếc lồng bằng
vàng. Trong lúc quá say mê, ông đã nói với nó: Ta sẽ nhận ngươi làm con để
ngươi thừa kế gia tai và vương quốc của ta. Chắc hẳn chúng ta sẽ bảo ông vua
này điên khùng hay sao mà lại nói với một con chim như vậy. Tuy nhiên, Thiên
Chúa còn yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên khùng hơn thế nữa.
Báo chí cách đây đã lâu có đăng tải tin một công chúa nước Anh sẵn
sàng từ bỏ tất cả để kết hôn với một anh chàng phó nhòm. Người ta cho rằng cô
công chúa này đã yêu một cách cuồng si. Tuy nhiên, Thiên Chúa còn yêu thương
chúng ta bằng một tình yêu cuồng si hơn thế nữa. Chúng ta là gì mà lại được
diễm phúc gọi Thiên Chúa là Cha?
Thứ đến, Chúa Con đã yêu thương chúng ta bằng cách xuống thế làm
người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Nếu chúng ta ca ngợi
cha Đamiêng, người đã tình nguyện đến sống chung với những người cùi ở Molokai,
một hòn đảo xa xôi và hẻo lánh, để rồi đã chết đi giữa những người cùi bất hạnh
ấy, thì chúng ta lại càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn nữa, bởi vì Ngài đã đến ở
với chúng ta, những kẻ đang mắc phải chứng phong cùi thiêng liêng là tội lỗi.
Nếu chúng ta ca ngợi cha Maximilanô Kolbê, người đã tình nguyện
chết thay cho một bạn tù trong trại tập trung của Đức quốc xã, thì chúng ta lại
càng phải ca ngợi Chúa Giêsu hơn thế nữa bởi vì Ngài cũng đã tình nguyện chết
thay cho chúng ta để nhờ đó chúng ta được sống muôn đời.
Sau cùng, Chúa Thánh Thần đã yêu thương chúng ta bằng cách cư ngụ
trong tâm hồn chúng ta và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh cùng với
những ơn sủng do công nghiệp của Chúa Giêsu để nhờ đó chúng ta được trở thành
con cái Thiên Chúa và xứng đáng lãnh nhận phần sản nghiệp Nước trời.
Để đáp lại tình yêu cao cả đó, chúng ta sẽ làm gì? Tôi xin đề nghị
hai việc.
Việc thứ nhất đó là mỗi khi làm dấu thánh giá hay mỗi khi đọc kinh
Sáng danh, chúng ta hãy làm và hãy đọc cho trang nghiêm và sốt sắng, để nhờ đó
tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ba Ngôi.
Việc thứ hai đó là trong đời sống thường ngày, chúng ta hãy ra sức
khử trừ tội lỗi, bởi vì tội lỗi chính là kẻ nội thù, làm cho chúng ta quay lưng
chống lại tình yêu mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Bởi vì mỗi khi
phạm tội, chúng ta không còn vâng phục Chúa Cha, chúng ta đóng đanh Chúa Con
một lần nữa và chúng ta xua đuổi Chúa Thánh Thần ra khỏi cõi lòng chúng ta.
(Chú giải và Suy niệm của Lm Px. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ lồng vào
một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21) nằm trong
phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê: biến nước
thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không gian]sang đoạn
sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối thoại với
người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu “làm cầu” nối 2,13-22 với
3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh bởi trên
cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C’(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các môn đệ
ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn nhập
chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu “làm cầu” nối [vì kết] 3,22-36 với [vì
chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23 và hướng tới
4,43-45).
B’(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc có nước
hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A’(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê: chữa con
trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời gian và
không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ đó, có
thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận rằng
Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức Giêsu
trả lời bằng công thức long trọng, “Thật, tôi bảo thật ông” (cc. 3, 5 và 11; đi
trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba câu trả lời của Đức
Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có những liên hệ đến Ba
Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò của Thần Khí; những
lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc. 16-21 liên hệ đến Thiên
Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư tưởng, chúng ta có thể
xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi Thần Khí là
điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự nhiên thì
không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện sinh ra bởi
trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức sinh ra –
nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có thể có
được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin vào Đức
Giêsu.
- cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào toàn phân
đoạn.
(a) cc. 11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) cc. 16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng
nhờ ân huệ này.
Theo R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám
phá ra lược đồ ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: “Chúng tôi
biết Thầy là một vị tôn sư” (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở
đầu của Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, “Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân
Israel, … chúng tôi nói những điều chúng tôi biết” (cc. 10-11).
Ngoài cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được
viết theo kỹ thuật đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm;
bản văn kết thúc với đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b) Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị
tôn sư từ Thiên Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là
Con Một Thiên Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17)
như là ánh sáng cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào “xen”
Nicôđêmô, chúng ta lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe
nói đến những người “đã tin vào danh Người”, nhưng niềm tin của họ không thỏa
đáng vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu
nhấn mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai “tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa”.
2.- Vài điểm chú giải
- Như ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds
21,9tt.
- ai tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng
với Ds 21,8: “Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống”.
- Thiên Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ
aorist (êgapêsen) nhắm diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có
thể nói ở đây chúng ta có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra
thành hành động, bởi vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong
cuộc Nhập Thể và cái chết của Chúa Con.
- đã ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể
(Thiên Chúa gửi Con vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh
(trao nộp cho chết: “giương cao” trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương
tự với paradidomi, “trao nộp”, ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
- Thiên Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với
“ban” (didomi) ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, “sai”
và “ban” ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là “sai phái” có vẻ không
phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con (17): Từ “Con” ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo)
trong Ga thì hầu như song song với cụm từ “Con Người” theo truyền thống Nhất
Lãm.
- không phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu
của sứ mạng Chúa Con đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án,
nhưng để cứu độ (x. Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng
định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử”. Điều duy nhất Thiên Chúa muốn,
đó là cứu độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài
người đến chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là
gắn bó với Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin
vào Người.
- được cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu “được cứu độ” ở đây
có nghĩa là “được sống muôn đời” (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect)
có nghĩa là “đã và vẫn không tin”, một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin vào danh (18): “Danh” chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm điều ác (20): Kiểu dùng động từ “làm” với “điều tốt”, “sự
thật”, hoặc “điều xấu” (xem cc. 20.21) là một kiểu nói Sê-mít.
3.- Ý nghĩa của bản văn
* Con phải lên cùng Cha (11-15)
Qua những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng
để được tham dự vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên
Chúa ban trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong
khởi đầu mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên
Chúa (x. 1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức
Giêsu cho thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã
ban cho chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và
lòng tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của
cuộc sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều
này, chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc
sống chúng ta? Israel đã đứng trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua
sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa (x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân
Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn
mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta.
Khi con người phạm tội, Thiên Chúa đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu
tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng
Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban và sai Con của Ngài đến vì yêu thương
toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ. Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ
và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu
thương thế gian, yêu thương chúng ta, hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc
thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta món quà là Người Con vẫn sống trong một
tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng
ta, Ngài quan tâm giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta
vẫn ở trong tình trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần
chúng ta, hoặc là ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự
ân cần của Thiên Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con
Thiên Chúa chịu đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là
Con Một, Con yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên
Chúa mới có thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra
với ánh sáng và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của
chúng ta.
Điều cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ
lùng, đó là loài người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý
do để trốn tránh ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi
lối sống của con người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều
thiện thì mới dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng
ta không thể coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. “Điều
thiện”, đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng
nghe Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. “Điều ác” là những gì
chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên Chúa,
nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng mình, thậm
chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại với Thiên
Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán lạn về
tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa, làm sao
có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người ấy xa
rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn toàn
lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì mở ra
với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết luận
Chỉ trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối
với loài người được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo
để được hưởng nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước
mạc khải vĩ đại và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh
né mà nói rằng Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta.
Đức Giêsu, Đấng Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý
thuyết, một giả thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một
thực tại lịch sử đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi ý suy niệm
1. Nói đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân
cần, chăm sóc, nỗ lực, vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho
người mình thương. Người ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của
người yêu, nhưng ra sức làm cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên
mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao? Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ
mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có
để ý xem chúng ta thế nào và chúng ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành
chúng ta, đã quan tâm đến số phận của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng
ta được sống viên mãn ngay từ bây giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến
mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những
hình thái ân cần săn sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá
trị tối cao được Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng
ta riêng tư từng người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ,
sẽ đưa ta đến chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu,
Đấng Chịu Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả
thuyết hay một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ
đó, chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện
thực.
3. Thiên Chúa, “một” (độc thần) mà cũng là “ba” (ngôi), là một mầu
nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa
không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng
các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và
phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta
đã được mạc khải rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban
Thánh Thần cho chúng ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với
Nicôđêmô cũng đã cho thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần
ban cho. Thánh Thần đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn
trần tục (3,12). Thiên Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người
Con cứu chúng ta bằng cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên
với Chúa Cha nhờ trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
Phải mất ba thế kỷ, các Công đồng của Giáo Hội mới định nghĩa
chính xác Ba Ngôi. Nhưng ngay từ lúc khởi đầu, mọi sự đã được đem đến trong Tin
Mừng, đặc biệt là Tin Mừng của Thánh Gioan. Cuộc đàm thoại với Nicôđêmô mà
chúng ta đọc hôm nay là một đoạn trích ngắn, thật sự đã làm cho chúng ta khám
phá một điều gì đó chủ yếu: “tranh luận" hẳn là không đi tới đâu, phải đi
theo Đức Giêsu và dấn thân với Người. ông Nicôđêmô đại diện cho các môi trường
trí thức Do Thái ông là bậc thầy trong dân Israel (Ga 3,10)... Tuy nhiên ông
không hiểu! trước tiên Ba Ngôi không phải là một vấn đề hóc búa của trí tuệ mà
một thực tại đơn giản: Thiên Chúa là tình yêu! Và tình yêu này mang một khuôn
mặt: Đức Giêsu trên thập giá. Gioan là tông đồ duy nhất đã dám đối mặt với cảnh
tượng ấy của tình yêu điên rồ của Thiên Chúa, khi tham dự vào bi kịch trên đồi
Golgotha, cả cuộc đời Ngài, thánh Gioan đã suy niệm trước Đức Giêsu “được gương
cao” khỏi mặt đất trước mắt Ngài. Thánh Gioan đã nói với chúng ta sự suy niệm
ấy. Đồng thời nó cũng là chân lý sâu xa nhất về căn tính của Đức Giêsu.
“Thiên Chúa yêu đến nỗi..."
Trước khi đi xa hơn trong câu này, tôi để cho những chữ ấy thấm
vào người tôi.
Vậy ra đây là vấn đề tình yêu. Và một tình yêu sẽ làm những chuyện
điên rồ người ta đã đoán ra điều đó trong trạng từ "đến nỗi"...
Israel biết rằng Thiên Chúa yêu thương. Toàn bộ Cựu ước là một
chung cư về điều đó. Bài đọc đầu tiên cho chúng ta nghe lại mặc khải với Môsê
trong sa mạc Sinai:"Ta là Đức Chúa Giavê, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi,
hay nén giận, giàu nhân nghĩa và thành tín" (Xh 34,4-9). Vâng, toàn bộ
Kinh Thánh đều biết tình yêu của Thiên Chúa nhưng không một ai có thể đoán được
tình yêu ấy đi tới mức nào?
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi..."
Từ thế gian mà trong tiếng Hy Lạp là “kosmos", trong Tin Mừng
Thánh Gioan thường có nghĩa xấu, ở đây cần biết rằng thế gian, toàn vũ trụ được
Thiên Chúa yêu thương. Thiên Chúa yêu thương thế gian mà Người đã làm ra. Người
ta thương yêu cái gì mình đã làm ra. Nhưng cần biết rằng Thiên Chúa yêu thương
mọi người. Thiên Chúa đã yêu thương một ‘anh nọ’ và một ‘chị kia’. Và tôi đặt
những khuôn mặt cụ thể được yêu thương hoặc không... trên những từ ấy. Thiên
Chúa đã yêu thương anh X. đến nỗi... Thiên Chúa yêu thương chị Y đến nỗi.
'Thiên Chúa yêu thế gian đến nối đã
ban..."
Hai động từ này: ‘yêu’ ‘ban’ ở thì quá khứ bất định trong ngôn ngữ
Hy lạp và dịch thì quá khứ trong tiếng Pháp (trong tiếng Việt là “đã yêu” và
“đã ban”). Thiên Chúa đã yêu và đã ban. Đây là một hành động chính xác, có ngày
giờ nơi chốn. Quả thật! Đức Giêsu Nagiaret con của Bà Maria, con người thật đã
can thiệp vào lịch sử cách nay hai mươi thế kỷ trong một xã hội của Đế quốc La
mã đồng thời đó cũng là một biến cố của hoàn vũ đã biến đổi triệt để lịch sử
của nhân loại. Kinh Tin Kính của chúng ta không phải là một chuỗi các ý tưởng,
nhưng là một chuỗi "sự kiện": Thiên Chúa đã sáng thế, Đức Giêsu đã
được trinh thai bởi Chúa Thánh Thần; Người đã đau khổ, đã chết đã sống lại...
Phụng vụ của chúng ta không phải là những ngày lễ các ý tưởng:
Chúng ta không mừng lễ công lý, tình huynh đệ và cả đức tin. Cách nói: "lễ
đức tin tạo ra sự lẫn lộn. Tin Mừng không phải là sách bàn về học thuyết, là
một "tường thuật kể lại các biến cố... mà tác giả là Thiên Chúa. Chính
Thiên Chúa là "chủ thể" của hành động: Người yêu... Người ban...
“Người đã ban Con Một...”
Nếu đọc lướt qua nhanh câu này, người ta có thể chỉ nghĩ đến sự
Nhập Thể: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con của Người! Nhưng có một tính từ
nhỏ: Con "Một" tính từ ấy xem ra có thể tầm thường với bất cứ người
nào không biết Kinh Thánh. Vả lại, đối với thính giả Do Thái, hai từ ấy (Con,
Con Một) nhắc đến một đoạn văn của Cựu Ước trong trí nhớ của mọi người: vị đại
tổ phụ sáng lập đức tin, Abraham đã chấp nhận hiến tế con trai, con duy nhất
của ông (St 22,2-22,16). Đối với Gioan điều này ám chỉ đến sự “tận hiến” trên
đồi Golgotha, chứng tá cao cả nhất của tình yêu. Trong một câu trước, Gioan đã
nói với chúng ta rằng: “Con Người phải được giương lên như con rắn đồng trong
sa mạc” (Ga 3,14). Thánh Phaolô cũng đã viết: ‘Đến như chính Con Một, Thiên
Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8,32). Tình
yêu ấy là vô cùng tận! sự điên rồ của tình yêu.
“Để ai tin vào con của người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời”.
Thiên Chúa đã khởi xướng trước, Người đã “yêu thương đầu tiên”.
Mọi sáng kiến đến từ phía Người. Nhưng như chúng ta biết rõ, để có tình yêu,
nếu chỉ có lời tuyên bố, bày tỏ, trước những bước, dấu chỉ từ một trong hai
phía chưa đủ … mà phải có sự tương ứng, đón nhận, đáp trả, … đức tin là lời đáp
lại của con người đối với lời tỏ bày tình yêu của Thiên Chúa: người ta trao đức
tin cho người khác, người ta làm cho người ấy tin tưởng, tín thác cho nhau,
người ta được “đính hôn”!
Cái được mất của đức tin ấy vô cùng quan trọng: vấn đề là chết hay
sống: “ai tin thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời”. Đó là một song luận
khắc nghiệt: hoặc là …hoặc là.. đó là một chọn lựa quyết định: trong trường hợp
này người ta không sống, trong trường hợp kia người ta được sống… không có con
đường trung bình mà là sự phân đôi triệt để khốc liệt. Hoặc người ta chấp nhận
“sự ban cho của Thiên Chúa” và đi đến sự sống muôn đời là đặc tính của Thiên
Chúa hoặc người ta ở lại với nhân tính của mình và dĩ nhiên là phải chết. Không
thể có thái độ nghiêng ngả quanh co. Phải nói “có” hoặc “không” trước sự ban
cho của Thiên Chúa. Và theo nhà văn Bernanos, Xatan muốn làm chúng ta trở thành
“Ông Ouinn”… là ông vừa nói “có” (oui) và “không” (nn.. non) ông nước đôi đó
nói “có” khi bắt đầu nói “không”.
“Quả vậy Thiên Chúa sai con của Người đến thế
gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian nhờ con của Người mà được
cứu độ”.
Tư tưởng này của Đức Giêsu rất cách mạng. Trong đạo Do Thái cùng
thời với Đức Giêsu, người ta thường loan báo rằng Thiên Chúa sẽ đến tiêu diệt
thế giới tội lỗi. Các thủ bản ở Qumran chứa đầy quan niệm ấy của phái Manikêu:
con cái của ánh sáng sẽ tiêu diệt con cái của bóng tối trong một cuộc chiến đấu
một mất một còn, không khoang nhượng. Gioan Tẩy Giả gần với tâm thức đó, cũng
chờ đợi một Đấng Mêsia trả thù và xét xử (Mt 3,10-12).
Nhưng quan điểm của Kitô giáo về thế gian thì hoàn toàn quân bình
hơn. Không phải là một quan điểm lạc quan, bịt mắt trước sự xấu ác và không
nghe thấy khát vọng bao la về một “thế giới tốt đẹp hơn”… cũng không phải là
quan điểm bi quan luôn luôn lặp lại rằng thế giới thì xấu xa… nhưng là một quan
điểm “cứu độ” thừa nhận sự xấu ác của thế gian nhưng không phải lên án nó,
nhưng để cứu nó! Đức Giêsu cứu thế thật tuyệt vời!
Còn chúng ta thì sao? có phải chúng ta là những môn đệ của Đức
Giêsu ấy không? chúng ta có yêu thương thế gian như Thiên Chúa không? nghĩa là
bằng sự đấu tranh chống lại điều ác và tội lỗi của thế gian để cứu độ nó. Tình
yêu thương của chúng ta có tính “cứu chuộc” không? nghĩa là trước hết phải thực
hiện và sáng suốt trên những khuyết điểm và tội lỗi của anh em chúng ta (cả
chúng ta nữa) bị lệch lạc méo mó nhưng chúng ta cũng phải có đủ lòng nhân hậu
để cứu giúp họ ra khỏi tình trạng ấy và ban cho họ cơ hội để đổi mới…
Tôi còn phải cầu nguyện nhiều về hai từ: ‘không nên đoán xét’ mà
hãy ‘cứu’.
“Ai tin vào Con của Người thì không bị lên
án…”
Đối với Đức Giêsu, đức tin thoát khỏi sự phán xét. Như thể sự phán
xét đã “hiện đại hoá” vào ngày hôm nay, và đặt vào đôi tay của con người: chính
con người tự phán xét mình. Và Đức Giêsu nói rằng đức tin là sự phán xét ấy:
“ai tin là người được cứu, còn ai không muốn tin đã bị lên án rồi…”
“Nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi”.
Chúng ta thấy những lời này rất nghiêm khắc, bởi vì chúng ta nghĩ
đến bao nhiêu người không tin, trong vòng bà con hoặc trong chính gia đình
chúng ta, và trong thế giới bao la đó những nền văn minh lớn hoàn toàn không có
được khả năng biết Đức Giêsu. Tuy nhiên chúng ta không thể loại trừ ra khỏi Tin
Mừng các công thức căn bản ở đó con người bị thúc bách phải chọn lựa “theo”
hoặc “chống”…”có” hoặc “không”…tuy nhiên phải có sự phân biệt chủ yếu:
1. Khi gởi đến các Kitô hữu đã thật sự tuyên xưng đức tin, thì lời
cảnh báo nghiêm khắc ấy tức là không được chối bỏ đức tin mà mình đã tuyên xưng
là một lời mời gọi không ngừng lặp lại sự tuyên xưng ấy bằng cách mỗi ngày canh
tân sự chọn lựa sống theo Đức Giêsu Kitô của mình: nghĩa là "phó dâng đời
sống mình bởi tình yêu như Người!".
2. Về phần mọi người khác, chưa bao giờ có cơ hội chọn lựa Đức
Giêsu một cách thật sự có ý thức, cá nhân là trưởng thành... thì điều mà chúng
ta biết về tình yêu Thiên Chúa (Đấng đã sai Con của Người đến thế gian không
phải để lên án thế gian mà để cứu độ nó), cho phép chúng ta hy vọng rằng nhiều
người trong số những người thực tế 'không theo Đức Giêsu cũng đã theo Người dù
họ không biết điều đó (và quả là thiệt thòi cho họ) bằng cách sống làm người
của họ "theo Đức Giêsu Kitô" nghĩa là "phó dâng đời sống mình
bởi tình yêu như Người!"
"Vì đã không tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa"
Và một lần nữa chúng ta biết chọn lựa ấy khẩn thiết như thế nào...
ngay từ bây giờ. Nhưng trong một đoạn văn song song khác, Đức Giêsu sẽ nói rằng
một "kỳ hạn của ân sủng" sẽ được ban cho con người, bởi vì chỉ đến
ngày sau hết mà "lời của Đức Giêsu sẽ xét xử những kẻ từ chối Người (Ga
12,47-50). Điều đó không loại bỏ sự khẩn thiết của ngày hôm nay... nhưng tất cả
đời sống của chúng ta mỗi ngày là sự phán xét của chúng ta...
Để kết thúc sự suy niệm này, chúng ta biết rõ hơn tại sao trang
Tin Mừng này được chọn cho ngày lễ Chúa Ba Ngôi. Trong Tin Mừng, Thiên Chúa Ba
Ngôi không phải là một vấn đề mà người ta đề cập như một sự trình bày lý thuyết
và trừu tượng... đó là một thực tại của tình yêu người ta bước vào thực tại ấy
để sống tình yêu ngay từ HÔM NAY bởi đức tin trong Đức Giêsu.
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Ca khúc “Làm Dấu” với giai điệu nhẹ nhàng mang tâm tình cầu
nguyện, lời ca tuyên xưng niềm tin Ba Ngôi Thiên Chúa mỗi khi làm dấu thánh
giá. Có lẽ nhiều người thuộc lòng và ngân nga bài ca này hàng ngày.
1. Con đặt tay lên trán tôn vinh Chúa Cha toàn năng.
Con đưa tay xuống ngực chúc tụng Chúa Con tình yêu.
Đưa tay sang trái phải, vinh danh Chúa Thánh Thần nguồn ơn thánh
thiên hồng phúc đời con.
Mỗi lần làm dấu thánh xin ngự đến trong tâm hồn con, mỗi khi con
cầu nguyện xin hãy biến đổi tâm hồn con, xin cho con giống Ngài trong lời nói
việc làm, ước mong đời con nên dấu chỉ yêu thương của Ngài giữa đời.
ĐK: Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu
Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu
nhắc nhở con luôn hướng lòng lên Chúa.
Con làm dấu hằng ngày. Con làm dấu một đời, khắc ghi tình yêu Ba
Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình yêu
Chúa mãi ở trong con con ở trong Chúa.
2. Bao lần con quên Chúa khi vô ý hay khi thờ ơ.
Bao phen con ngại ngần lúc làm dấu tuyên xưng niềm tin.
Đã có lúc yếu hèn, không làm dấu giữa đời, Ngài ơi giúp con bừng
cháy niềm tin.
Giữa hiểm nguy khốn khó con làm dấu xin ơn bình an, trong an vui
ngập tràn con làm dấu hân hoan tạ ơn. Khi cô đơn thất vọng, khi mệt mỏi chán
chường, Chúa ơi ở bên con nhé vì con đây luôn cần tới Ngài.
Làm dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin, tôn vinh Chúa Ba Ngôi
của người Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và
những người theo đạo khác.
Mùa Phục Sinh kết thúc với đại lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Giáo
hội nhìn lại chương trình cứu độ được Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử nhân
loại và nhận ra rằng: nguồn ơn cứu độ chính là Thiên Chúa Ba Ngôi: Cha, Con và
Thánh Thần. Vì thế, chúng ta hiểu tại sao ngày Chúa nhật mùa Thường niên tiếp
ngay sau lễ Hiện Xuống, luôn luôn được Giáo hội mừng kính và suy niệm về mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi.
Giáo Hội là công trình của tình yêu Thiên Chúa Ba Ngôi. Từ Ngài,
Giáo Hội sinh ra; nhờ Ngài, Giáo Hội hoạt động; và hướng tới Ngài, Giáo Hội dấn
bước. Chỉ một mình Thiên Chúa mới nắn đúc nên Giáo Hội theo lòng Ngài mong ước.
(Thư Chung 2011, Số 19).
Giáo hội được Chúa Cha tập hợp chung quanh Chúa Giêsu dưới tác
động của Chúa Thánh Thần. Là dân tộc lữ hành, Giáo hội phát xuất từ Chúa Cha,
sẽ trở về với Chúa Cha, nhờ trung gian của Chúa Kitô, dưới hơi thở của Chúa
Thánh Thần. Chính từ mầu nhiệm Ba Ngôi mà Giáo hội được sinh ra và cũng từ
Thiên Chúa mà Giáo hội lãnh nhận sứ mạng để tất cả nhân loại làm thành một Dân
Thiên Chúa, tập họp thành Thân Thể Chúa Kitô, được xây dựng thành Đền Thờ Chúa
Thánh Thần. Giáo hội như là hình ảnh của mầu nhiệm hiệp thông giữa Ba Ngôi Thần
Linh và Giáo hội là dấu chỉ của sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và nhân loại
(x.GH1; GLCG số 772). Ba Ngôi là cội nguồn và là cùng đích của Giáo hội. Giáo
hội là công trình của Ba Ngôi. Giáo hội nuôi sống con cái mình bằng thần lương
Ba Ngôi ban tặng qua các bí tích.
1. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm trung tâm
của đức tin Kitô giáo.
Đây là một mầu nhiệm thâm sâu nhất, cao cả nhất mà lý trí con
người, ngay cả óc tưởng tượng của con người, cũng không thể nào thấu hiểu hay
hình dung được. Bởi vì Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là một vấn đề, càng không
phải là một vấn đề toán học. Mầu nhiệm không phải là vấn đề hay bài toán: 3 là
3; 1 là 1. Không tính với bài toán nào mà 1 là 3 hay 3 thành 1 được. Thiên Chúa
không phải là những con số. Không thể làm trò ảo thuật hay lý luận đưa ngón tay
ba đốt hay hình tam giác mà ví von được.
Vậy ai đã cho chúng ta biết mầu nhiệm này? Chính Chúa Giêsu Kitô.
Nếu Chúa không dạy bảo thì loài người không thể nào biết được. Cho tới trước
khi Chúa Kitô đến, loài người không có một ý niệm nào. Dân Do thái, dân riêng
của Chúa, cũng không biết gì về mầu nhiệm Ba Ngôi. Cựu Ước chỉ nói tới một
Thiên Chúa duy nhất, tạo dựng và làm chủ vũ trụ. Chính Chúa Giêsu, trong đời
sống công khai giảng dạy đã mạc khải dần dần. Ngài đã từng bước vén lên bức màn
của mầu nhiệm Ba Ngôi.
Ngài cho biết: Chúa Cha là Thiên Chúa, còn Ngài là Con Một của
Chúa Cha. Ngài và Chúa Cha là một. Ngài ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong
Ngài, cùng bản tính với Chúa Cha. Ngài cũng là Thiên Chúa. Ngài với Chúa Cha là
một Thiên Chúa.
Ngài cũng cho biết: Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Cha sai đến,
cũng là Thiên Chúa. Như vậy, chỉ là một Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba Ngôi
riêng biệt nhau chứ không phải là ba Chúa.
2. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm Tình Yêu.
Tại sao Chúa Giêsu lại mạc khải cho chúng ta một mầu nhiệm quá cao
siêu như thế? Chắc chắn không phải là để thử thách thiện chí của con người,
hoặc để xây lên bức tường chặn đứng suy luận và óc tưởng tượng của con người.
Nhưng vì Chúa muốn chúng ta hiểu biết đời sống nội tại của Thiên Chúa, đó là
tình yêu. Thiên Chúa là Tình yêu. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nói lên điều đó.
Thiên Chúa là Tình yêu. Thiên Chúa yêu thương con người. Đó là một
công thức khác để nói về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Vì tình yêu thương, Thiên Chúa
đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, ban cho con người được hạnh phúc như
Chúa. Nhưng con người đã phạm tội phản nghịch đánh mất hạnh phúc. Thiên Chúa
không từ bỏ con người. Ngài đã quyết định ban Con Một yêu dấu để cứu chuộc. Và
vì yêu thương con người, Đức Kitô đã vâng lời Chúa Cha đến trần gian thực hiện
sứ mệnh yêu thương đó. Và khi hoàn tất, Ngài về trời. Chúa Thánh Thần đến để
tiếp tục công việc của Ngài, công việc yêu thương. Nhờ Chúa Thánh Thần, tình
yêu của Thiên Chúa tiếp tục được bày tỏ mãi cho tới chúng ta hôm nay và mãi về
sau nữa.
Vì thế, khi mừng kính mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi, Giáo Hội không
chỉ nhắc nhở chúng ta xác tín lại tín điều quan trọng này, nhưng còn mời gọi
chúng ta hãy sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, là sống yêu thương và hiệp nhất. Như
tình yêu thương giữa Ba Ngôi Thiên Chúa đã trào tràn trên mọi thụ tạo, thì tình
yêu thương của người Kitô hữu cũng vậy, phải mở ra cho hết mọi người. Sống yêu
thương là cách diễn tả đúng và đầy đủ ý nghĩa cuộc sống làm người và làm con
Chúa; đồng thời cũng diễn tả cuộc sống của Chúa Ba Ngôi: yêu thương và hiệp
nhất.
3. Mầu nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệm gần gũi nhất
trong đời sống đạo.
Mầu nhiệm Ba Ngôi thật cao cả và cũng thật gần gũi. Thánh
Augustinô đã nói: “Nếu bạn thấy tình yêu, bạn sẽ thấy Chúa Ba Ngôi”. Tình yêu
gắn liền với đời sống con người.
Chúng ta có thấy tình yêu không, và thấy như thế nào? Tình yêu
được nhìn thấy qua những hành vi yêu thương.
- Yêu thương là ban tặng: khi yêu người ta trái tim của mình cho
người yêu. Yêu thương sâu đậm là cho đi điều quý báu nhất cho người mình yêu,
như trường hợp của Chúa Cha mà Chúa Giêsu nói tới trong Tin mừng Gioan: “ Thiên
Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” (Ga 3,
16). Hay chính trường hợp của Chúa Giêsu: “Không có tình thương nào lớn hơn
tình thương của người dám thí mạng sống vì bạn hữu” (Ga 15, 13). Yêu thương là
cho đi chính mình, là tự hiến chính mình. Vợ chồng yêu thương nhau, dâng hiến
bản thân cho nhau, kể cả thân xác mà không chút e dè, trái lại còn hạnh phúc
nữa. Cha mẹ và con cái yêu thương nhau có thể hy sinh mạng sống mình cho nhau.
- Yêu thương là chia sẻ: yêu nhiều, người ta chia sẻ cho nhau
nhiều, yêu nhau hết mức thì người ta chia sẻ cho nhau tất cả. Vợ chồng yêu nhau
chia sẻ cho nhau tất cả, từ của cải vật chất đến gia sản tinh thần, đến cả tình
gia đình. Ông bà cha mẹ của chồng trở thành ông bà cha mẹ của vợ và ngược lại.
Trong Thiên Chúa cũng thế, Ba Ngôi Thiên Chúa chia sẻ cùng một sự sống thần
linh. Và chính sự sống thần linh duy nhất làm cho Ba Ngôi là một. Chúa Cha đã
sai Chúa Con mang sự sống thần linh ấy xuống trần gian chia sẻ cho nhân loại.
Sự sống ấy là Bánh bởi trời mà chúng ta nhận lãnh trong bí tích Thánh Thể.
- Yêu nhau là đón nhận nhau. Đón nhận tình yêu và ý muốn của người
mình yêu, đón nhận tất cả, đón nhận chính bản thân của người yêu. Người được
yêu có vị trí quan trọng trong trái tim của người yêu. Suy nghĩ về tình yêu
giữa Chúa Con và Chúa Cha, chúng ta sẽ thấy ở trần gian này, không có sự đón
nhận nào trọn vẹn như thế. Chúa Con đón nhận tất cả từ Chúa Cha: giáo lý, ý
muốn, lời nói, hành động. Chúa Con đón nhận chính bản thân Chúa Cha làm bản
thân của mình, vì vậy mà đồng bản thể với Chúa Cha.
- Yêu nhau còn là gắn bó với nhau. Càng yêu nhau càng gắn bó mật
thiết đến nỗi là một với nhau. Hai vợ chồng yêu nhau ở mức độ cao nhất thì trở
nên một: một xương thịt, một thân mình. Bấy giờ tình yêu vợ chồng không những
là dấu chỉ hữu hình của tình yêu Chúa Giêsu đối với Giáo Hội, mà còn là dấu chỉ
của tình yêu Ba Ngôi. Ba Ngôi gắn bó với nhau đến nỗi là Một với nhau. Và chỉ
có một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa là Tình Yêu nguồn suối, mẫu mực cho mọi
tình yêu của con người (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Hôm nay chúng ta mừng mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi. Gọi là mầu nhiệm
vì đó là điều vượt quá trí hiểu của loài người. Tuy không thể hiểu thấu mầu
nhiệm đó, nhưng may thay qua Chúa Giêsu, chúng ta thấy được biểu hiện của mầu
nhiệm Một Chúa Ba Ngôi chính là mầu nhiệm của tình yêu.
Chúng ta được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa
là tình yêu. Đời sống của chúng ta chỉ có ý nghĩa khi biết yêu thương. Chúng ta
chỉ được hạnh phúc khi tham dự vào tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng tội
lỗi làm cho chúng ta xa lìa tình yêu của Chúa. Sự ghen ghét hận thù làm cho
khuôn mặt chúng ta lem luốc méo mó, không còn giống khuôn mặt Thiên Chúa.
Hôm nay ta hãy biết sống theo khuôn mẫu của Chúa Ba Ngôi. Biết
sống hiệp nhất với nhau. Biết dâng hiến bản thân mình, biết cho đi, biết chia
sẻ, biết sống chan hoà tình bác ái. Để thực hiện những điều ấy, ta phải biết bỏ
mình, bỏ sở thích riêng, bỏ của cải và nhất là phải biết bỏ ý riêng, hoàn toàn
sống theo thánh ý Thiên Chúa. Khi biết bỏ mình như thế, ta sẽ nên giống hình
ảnh Thiên Chúa. Khi hoàn toàn quên mình để sống cho tình yêu ta sẽ được kết
hiệp với tình yêu của Thiên Chúa. Đó chính là hạnh phúc thiên đàng. Đó chính là
đích điểm của đời chúng ta.
Trước khi dùng cơm, phần lớn trong chúng ta đều làm dấu thánh giá
và đọc nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Khi đọc kinh trong nhà thờ hay tại
nhà, chúng ta đều bắt đầu bằng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Có những
người có thói quen tốt là trước khi làm bất cứ việc gì, họ đều làm dấu thánh
giá. Qua đài truyền hình, thỉnh thoảng chúng ta thấy, có những cầu thủ bóng đá
quốc tế làm dấu thánh giá sau khi đá lọt lưới đối phương, hoặc trước khi đá
phạt đền.
Làm dấu trên trán, chúng ta tuyên xưng Chúa Cha là Đấng tạo dựng
trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình. Làm dấu trên ngực, chúng ta tuyên Chúa
Con là Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã từ trời xuống thế nhập thể trong lòng
trinh nữ Maria và đã làm người. Làm dấu trên hai vai chúng ta tuyên xưng Chúa
Thánh Thần là Chúa và Đấng ban sự sống, Người bởi Chúa Cha và Chúa Con mà ra,
Người được phụng thờ và tôn vinh cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Dấu chữ thập mà
chúng ta làm chỉ thánh giá của Chúa Giêsu, nơi mạc khải trọn vẹn tình yêu của
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần đối với nhân loại.
Dấu Thánh Giá là lời tuyên xưng đức tin vắn tắt nhất của người
Kitô hữu, là dấu chỉ phân biệt những người môn đệ của Chúa Giêsu và những người
theo đạo khác. Lời kinh nhân danh Cha và Con và Thánh Thần tóm tắt đức tin mà
chúng ta đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội, mà nội dung là ba điều khoản lớn
của đức tin công giáo, điều khoản thứ nhất tuyên xưng Chúa Cha, điều khoản thứ
hai tuyên xưng Chúa Con, điều khoản thứ ba tuyên xưng Chúa Thánh Thần và Hội
thánh.
Dấu Thánh Gía là một công thức ngắn gọn nhất, nhưng lại đầy đủ
nhất về đức tin vào Một Thiên Chúa Ba Ngôi.
Như vậy cách thực tế và đơn giản nhất để tôn vinh Chúa Ba Ngôi là
chúng ta hãy làm dấu Thánh Giá cách sốt sắng và ý thức, với tất cả lòng yêu mến
và kính trọng.
Lạy Chúa, khi làm dấu Thánh Giá, xin cho con biết khắc ghi tình
yêu Ba Ngôi Thiên Chúa trong trái tim con. Ôi dấu thánh nhiệm mầu, dấu ấn tình
yêu, Chúa mãi ở trong con, con ở trong Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
“Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Chúng ta mở đầu
như thế có nghĩa là chúng ta nhân danh Thiên Chúa Ba Ngôi để bắt đầu bài chia
sẻ này. Không phải riêng tôi mà tất cả mọi Kitô hữu đích thực, khi làm một việc
gì đều muốn làm trong ý nghĩa đó, tức là mỗi khi bắt đầu một công việc gì chúng
ta luôn làm dấu thánh giá. Một nhà văn Kitô giáo ở thế kỷ thứ hai, Ông
Te-tu-li-a-nô, đã viết: “Dù khi thức dậy hay đi ngủ, dù khi ăn hay khi làm một
việc gì quan trọng, hãy bắt đầu bằng dấu thánh giá”. Lời khuyên đó cho thấy
việc làm dấu thánh giá đã có ngay từ những ngày đầu của Giáo Hội. Thánh Phao-lô
cũng thường mở đầu và kết thúc các thư của ngài một cách tương tự: “Nguyện xin
ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, và tình yêu của Chúa Cha, và ơn
thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh chị em”.
Người Kitô hữu biểu lộ thánh giá ra bên ngoài để tuyên xưng đức
tin và tôn vinh Chúa. Cũng có trường hợp vì tôn trọng thái độ tôn giáo của
người khác, chúng ta chỉ thầm nguyện ở trong lòng mà không làm dấu Thánh giábên
ngoài. Nhưng cách này hay cách kia, chúng ta đều ý thức rằng chúng ta đang làm
mọi việc nhân danh Thiên Chúa để tôn vinh Ngài, như lời Kinh Thánh dạy: “Dù ăn,
dù uống, dù làm việc gì, anh em hãy làm mọi sự để tôn vinh Thiên Chúa”. Đặc
biệt hôm nay chúng ta đề cập đến dấu thánh giá để nói về Chúa Ba Ngôi, để nói
lên lòng chúng ta tin nhận một Thiên Chúa độc nhất có ba ngôi là Chúa Cha, Chúa
Con và Chúa Thánh Thần.
Trước hết, chúng ta phải nói ngay: Thiên Chúa Ba ngôi là một mầu
nhiệm quan trọng vĩ đại nhất của đạo Công giáo: một mầu nhiệm thuộc đời sống
thâm sâu của Thiên Chúa mà con người không có quyền cũng như không có khả năng
đạt tới, chỉ có Con Thiên Chúa mới có thể cho chúng ta biết mà thôi. Bởi vì mầu
nhiệm Ba Ngôi là mầu nhiệmvề đời sống thấm sâu của Thiên Chúa, tức đời sống yêu
mến của Thiên Chúa, cho nên chỉ được mặc khải trong thời Tân Ước, là thời yêu
mến, và do chính Con Một Thiên Chúa là hình ảnh, là tình yêu của Đức Chúa Cha.
Đại khái mầu nhiệm ấy được diễn tả như sau: Chúa Cha chiêm ngưỡng
chính mình thì có một hình ảnh, một ý nghĩ, một tâm tình, một lời về mình. Hình
ảnh, ý nghĩ, hay kiến thức hoặc tâm tình ấy là Ngôi Hai hay Ngôi Lời. Thế rồi
hai ngôi chiêm ngưỡng và yêu nhau làm phát xuất ra một mối tình hay một tình
yêu. Tình yêu đó là chính Ngôi Ba: Chúa Thánh Thần.
Khó hiểu quá phải không? Đúng vậy, mầu nhiệm Ba ngôi rất khó hiểu
và mãi mãi vẫn là khó hiểu. Chúng ta biết được như thế là do chính Chúa Giêsu
đã mặc khải, các tông đồ đã truyền dạy và cả Giáo Hội không ngừng tuyên xưng
như vậy. Giáo Hội toàn cầu đã nhóm họp nhiều công đồng để xác định rõ đức tin
của mình về Thiên Chúa Ba Ngôi. Các công đồng quan trọng nhất đã định tín về
chân lý này là công đồng Ni-xê-a năm 325, công đồng Côn-tăng-ti-nốp năm 381,
công đồng La-trăng IV năm 1215, công đồng Li-ông II năm 1274, công đồng
Fơ-lo-ren năm 1439.
Mầu nhiệm Ba ngôi được coi như một công thức mà Giáo Hội sử dụng
trong tất cả mọi sinh hoạt: từ một dấu thánh giá, một phép lành cho đến một lời
thề long trọng hay một bí tích. Tất cả đều bắt nguồn ở công thức duy nhất Chúa
Kitô đã dùng để ban truyền mệnh lệnh rửa tội cho muôn dân trước khi Ngài lên
trời. Trong đời sống một người tín hữu, ngay từ khi chưa chào đời cho đến khi
chết rồi, biết bao nhiêu lần công thức ấy đã được đọc trên mình chúng ta kèm
với dấu thánh giá hay một nghi thức hoặc cử chỉ nào khác. Nhưng vì là một công
thức, cho nên khi nghe đến hay đọc lên, nhất là sau khi đã lặp đi lặp lại nhiều
lần, chúng ta không còn cảm thấy gì nữa, công thức ấy đã được nhắc tới một cách
máy móc, vô ý thức, đôi khi còn thiếu tôn kính nữa. Vì vậy, chúng ta cần sửa
chữa lại điều không tốt đẹp ấy và quyết tâm từ nay mỗi khi làm dấu thánh giá
chúng ta sẽ làm một cách ý thức và tôn kính.