CÁC BÀI SUY
NIỆM
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – NĂM A 2017
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT
CỦA THIÊN CHÚA
MỤC LỤC
Chúa
đã sống lại thật ! Alleluia TGM
Phaolô Bùi Văn Đọc
Phúc
cho ai không thấy mà tin ĐC Phêrô Nguyễn Khảm
Ân sủng
Thánh Thần và ....Lm.
Phêrô Lê văn Chính
Bình
an cho các con Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Để
được gặp Chúa phục sinh Ðức
Cha J.B. Bùi Tuần
Hạnh
phúc tự tại Suy Niệm
của JKN
Lạy
Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi Đaminh M. Cao Tấn Tĩnh
Người
chậm tin Lm
Nguyễn Hữu Lượng
Đã
thấy và đã tin Lm. An
Phong
Sức
mạnh phục sinh Fr.
Jude Siciliano, OP.
Kỷ
nguyên cứu rỗi Thiên
Phúc
Đức
Kitô Phục sinh niềm vui cuộc sống Niềm Vui Chia Sẻ
Ngôi
mộ trống JKN
Người
đã chỗi dậy rồi ‘Manna
Xác
nhận lòng tin McCarthy
Sống
với nhau như anh em một nhà Sưu tầm
Giữ
ngày chúa nhật Sưu tầm
Con người thuở ban sơ thật tốt lành, sống chan hoà tình thương
trong cảnh địa đàng. Cùng làm cùng ăn và cùng chung nhau mọi sự. Một cảnh sống
hạnh phúc và thanh bình. Nhưng Sách Thánh đã ghi lại biết bao nhiêu sự tích
phản ảnh cho những sự kiện đã phá vỡ rất sớm cái cảnh hoà bình yên vui đó.
Tội lỗi đã đột nhập vào cuộc sống, khi con người bắt đầu có của
riêng, với nghề nghiệp riêng, quyền lợi riêng, đã gây ra những mâu thuẫn đối
kháng. Ai ngờ anh em ruột thịt như Cain và Abel, đã đi tới chỗ thanh toán nhau,
anh giết em rồi phủi tay như không có một chút trách nhiệm nào. Anh làm nghề
trồng trọt, em làm nghề chăn nuôi, đồng cỏ và ruộng vườn đã trở thành đối tượng
tranh chấp quyền lợi khi nó trở thành đồng riêng và ruộng riêng. Abraham và Lót
là chú cháu. Nhưng đàn súc vật của chú không còn là của cháu và giếng nước càng
phải nên của riêng, chú cháu tranh chấp rồi chia rẽ, mỗi người phải đi về một
hướng, mâu thuẫn nhau như đông với tây.
Tiếp đến là cảnh người được làm chủ nhân, kẻ phải làm đầy tớ,
cũng đã khiến hai anh em Isaac và Ismael cùng cha khác mẹ, trở thành kẻ thù
truyền kiếp. Địa đàng không còn, hoà bình đã tan vỡ, đang khi nó vẫn là đòi hỏi
mãi mãi bức thiết của một nhân loại cần được sống hạnh phúc. Sách thánh có thể
được coi như mặt trái của lịch sử đòi hoà bình trên nền tảng không thể thiếu
của công bình xã hội, theo những đòi hỏi của một niềm tin vào Thiên Chúa.
Lịch sử đã chỉ rõ cho thấy từ bao thế hệ niềm tin mà không tổ
chức thành hành động xã hội thì không thể giải quyết được vấn đề xã hội nào, kể
cả hoà bình: hoà bình giữa người với người, hoà bình giữa dân tộc này với dân
tộc khác, hoà bình trên khắp mặt địa cầu. Bởi vì bao lâu còn bất công, thì bấy
lâu sẽ còn tồn tại những bất bình. Muốn xoá bỏ bất công, muốn chấm dứt bất
bình, thì phải có những hành động xã hội. Phải chăng các tín hữu đầu tiên đã hiểu
ra bài học kinh nghiệm này của lịch sử dân Chúa, hiểu ra được ý nghĩa thiết
thực của sứ điệp Tin Mừng, để tổ chức một nếp sống mới. Từ sau cái chết của
Chúa Giêsu, một cộng đồng tín hữu mới xuất hiện như dấu chỉ của ơn phục sinh,
như hoa trái đầu mùa của ơn cứu rỗi. Họ không lập ra những nghi thức mới, những
đền thờ mới, nhưng họ tổ chức một nếp sống xã hội mới, phỏng theo tinh thần của
Đức Kitô: bỏ mọi sự làm của chung, rồi phân phối theo nhu cầu, không ai phải
thiếu thốn bên cạnh sự giàu có của kẻ khác. Do đó mà giữa họ có được một cảnh
sống đoàn kết yêu thương và hoà bình chan chứa.
Một phần nào đó, tất cả chúng ta đều giống Tôma. Thực vậy, chúng
ta chỉ tin một khi đã thấy. Tinh thần khoa học ngày nay làm cho chúng ta đặt
lại tất tất cả các vấn đề. Chúng ta phê bình, chúng ta phân tích, chúng ta thí
nghiệm, chúng ta kiểm chứng trước khi ưng thuận.
Rồi từ đó chúng ta bước sang lãnh vực đức tin. Chúng ta đòi hỏi
đức tin phải có những lý lẽ hợp lý, xác thực như những sự kiện của khoa học. Vì
thế, những chân lý mạc khải, đối với chúng ta thật khó mà chấp nhận.
Tuy nhiên, để khỏi lầm lẫn tai hại, chúng ta cần phải xác định:
đối tượng của đức tin không phải là đối tượng của khoa học. Phạm vi của khoa
học là vật chất, cho nên nó đòi hỏi những sự vật cụ thể, khả dĩ có thể thực
nghiệm được. Còn phạm vi của đức tin là siêu nhiên, cho nên nó đòi hỏi những
chân lý khả dĩ đem lại cho con người sự giải thoát. Và những chân lý ấy phải
được dựa trên uy quyền và lời chứng của Đức Kitô. Khoa học chỉ có thể biến đổi
cái thế giới vật chất bên ngoài, nhưng đức tin sẽ biến đổi cái thế giới tâm
linh bên trong của mỗi người chúng ta.
Chúng ta thấy khi Chúa hiện đến, Tôma liền nhận ra Ngài và quỳ
gối xuống tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa
của tôi”. Tất cả mọi nghi ngờ đều tan biến. Tôma chấp nhận toàn bộ
thực tế và nhìn nhận Đức Kitô, người đã chết mà nay lại đang sống. Ông không
cần sờ vào vết thương của Ngài, chỉ sự hiện diện của Ngài, một sự hiện diện đầy
yêu thương và uy quyền đã củng cố niềm tin và thay đổi hẳn con người Tôma.
Và như thế, chúng ta sẽ rút ra được một bài học quý giá, đó là
trong phạm vi đức tin, chúng ta cần tìm tòi, cần đào sâu để có được một đức tin
kiên vững. Đó mới chỉ là bước thứ nhất. Bởi vì có đức tin mà thôi chưa đủ, điều
quan trọng hơn là phải sống đức tin. Hay nói một cách khác liệu đức tin có đủ
mạnh để làm chuyển biến cuộc đời, cũng như đổi thay chính con người chúng ta
hay không?
Muốn được như thế, không gì hơn là hãy sống gắn bó và tiếp xúc
thân mật với Đức Kitô. Sự tiếp xúc này, ngày xưa đã biến đổi các môn đệ từ
những người u mê dốt nát, hèn nhát và sợ sệt trở thành những người thông suốt
giáo lý Tin Mừng và nhất là can đảm loan truyền và làm chứng cho Tin Mừng đó.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin hãy biến đổi và uốn nắn con người chúng con.
3. Tin vào Chúa sống lại
Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa Giêsu Phục sinh hiện
ra cách nhau vừa đúng một tuần.
Lần thứ nhất Ngài hiện ra với nhóm các môn đệ đang run sợ trong một căn
phòng đóng kín. Ngài đã cầu chúc bình an, còn các ông thì vui mừng khi gặp lại
Ngài. Chúa Giêsu hiện ra không phải chỉ để đem lại cho các ông niềm vui mừng và
an ủi sau những giờ phút kinh hoàng của cuộc thương khó. Nhưng hơn thế nữa,
Ngài còn muốn mời gọi các ông tham dự vào sự biến đổi sâu xa nơi bản thân Ngài.
Hay nói cách khác, Ngài muốn đưa các ông đi vào mối quan hệ với chính Ngài. Các
ông đã biết Ngài trong cuộc sống thân xác, nhưng cuộc sống ấy đã qua bởi vì
Ngài đã sống lại, đã được đổi mới trong Thánh Thần cho một cuộc sống mới, trong
một cuộc sáng tạo mới.
Đúng thế, khi tạo dựng Adong nguyên tổ loài người, Thiên Chúa đã
hà hơi ban sinh khí thì nay vào ngày đầu tiên của công cuộc tạo dựng mới, Đức
Kitô Phục sinh cũng đã hà hơi trên các môn đệ đang như chết cóng vì hợ hãi, để
ban cho các ông sinh khí mới là Thánh thần. Chính nguồn sinh khí mới này sẽ đem
lại cho các ông quyền tha tội, mà trước đây chỉ dành cho một mình Chúa Giêsu.
Các con hãy chịu lấy Chúa Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy
được tha. Như thế, chúng ta thấy: Chúa Thánh Thần và quyền tha tội được nối kết
chặt chẽ với nhau, vì mục đích chính yếu của Chúa Thánh Thần là tẩy luyện, là
đổi mới. Tiếp đến các ông được Chúa sai đi, hầu tham dự vào công cuộc tẩy luyện
và đổi mới trần gian. Trước kia, khi Chúa Giêsu còn ở với các ông, các ông có
thể sống ỷ lại và tầm thường, nhưng giờ đây thì không được nữa, bởi vì các ông
đã lãnh nhận một sứ mạng lớn lao: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.
VÌ thế các ông tiếp nối chính sứ mạng được sai đi của Chúa Giêsu. Các ông sẽ
lên đường và làm chứng về Ngài cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Lần thứ hai Chúa Giêsu hiện ra với các tông đồ, trong đó có cả Tôma
một người vốn cứng lòng. Và chúng ta thấy Tôma đã tuyên xưng đức tin của mình
sau khi đã nhìn thấy những vết thương nơi tay chân và trái tim của Chúa. Từ đó,
Ngài mời gọi các ông hãy có lấy một lòng tin mới. Từ nay lòng tin sẽ không còn
đặt nền tảng trên giác quan, mà là trên chứng từ của những người đã thấy. Chính
với lòng tin này mà người Kitô hữu được kết hiệp mật thiết với Đức Kitô Phục
sinh.
Ngày nay, Giáo Hội nói chung và mỗi người tín hữu nói riêng cũng
sẽ tiếp nối sứ mạng được sai đi mà ngày xưa Ngài đã trao cho các môn đệ. Chúng
ta được sai đi để rao tỉang sự sống lại, để xây dựng một quan hệ mới giữa con
người với con người. Con người tội lỗi, thuộc thế giới cũ, bị đặt dưới quyền
lực của sự chết và bị coi như thù địch. Trong khi đó, con người phục sinh với
cuộc sống mới, phải đối xử với nhau như anh em phải yêu thương và đùm bọc lấy
nhau. Thực hiện được sứ mạng sai đi như thế, là chúng ta đã chu toàn được điều
Đức Kitô Phục sinh nhắn gởi đến mỗi người chúng ta.
4. Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
GẶP GỠ ĐỨC KITÔ PHỤC SINH
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay,
Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục
sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có
những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo
đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người
có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn,
gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới.
Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất
hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất
hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo.
Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được
bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc
sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người
xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với
các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay
giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc
đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ
cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những
người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường
đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng
hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các
môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối
của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình
an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết
của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: "Bình an
cho các con". Người còn thổi hơi vào các ông và nói: "Các con hãy
nhận lấy Thánh Thần".
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ
còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt
nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát
như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một
tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người
mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh,
Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn
khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ
sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững
niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức
Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn
đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn
sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy.
Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là
linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh,
những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những
trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì
cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo
Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức
Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên
các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về
loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ
Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ
dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau
khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: "Như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con".
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành
những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình
mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể
không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống
cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: "Khốn cho tôi nếu tôi không rao
giảng Tin Mừng".
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người
luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho
đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng
cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi
trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời.
Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt
mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên
chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc
không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón
chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất
nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh,
cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin
hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
5. Trái tim Người Thầy,
Trái tim học trò
(Suy niệm của Lm. Minh Anh)
Anh Chị em thân mến,
Thiên Chúa là tình yêu, một khi đã yêu, Ngài yêu cho đến cùng.
Thật ý nghĩa khi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Đấng Phục Sinh tỏ
mình cho các môn đệ nhân Chúa Nhật “LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA”. Trong vài phút, chúng
ta thử quan sát Trái Tim Giêsu, trái tim người Thầy; đồng thời cũng thoáng qua
trái tim Tôma, trái tim học trò; nhờ đó, có thể hiểu được đôi chút lòng Chúa,
đôi chút lòng ta.
Trái Tim Giêsu, một trái tim chan chứa yêu thương mà Tin Mừng
không ngừng lặp đi lặp lại đã bao lần “Ngài chạnh lòng thương” trước cảnh cùng
khốn của con người: Thấy dân chúng tất tưởi bơ vơ như chiên không người chăn,
“Ngài chạnh lòng thương”; thấy người ta khiêng đi chôn con trai duy nhất của
một bà goá, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy những người phong cùi tiến đến từ
xa, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy hai người mù đang dò dẫm lại gần, “Ngài
chạnh lòng thương”… Và chắc hẳn các tông đồ, kể cả Tôma, cũng đã ít nhiều cảm
nhận cái thổn thức “chạnh thương” đó nơi Thầy mình. Cũng trái tim đó, bởi đã
chạnh thương cho đến cùng nên bị đâm thâu, để giọt máu sau hết và chút nước
cuối cùng nhỏ xuống mà có lẽ Tôma đã chứng kiến xa xa hay ít nữa đã nghe thuật
lại chiều ngày thứ Sáu hôm ấy vì ông không dám lại gần.
Trái Tim Tôma, một trái tim nhát đảm và ngờ vực. Thầy mất, không
ai biết vì lý do gì, “Đi Đi Mô” rời bỏ cộng đoàn. Phải chăng trái tim Tôma đang
tan nát vì thương tích, vì những vết đau dù không nhìn thấy nhưng là những
thương tích có thật và đau thật. Một trái tim ngờ vực khủng hoảng đến tội
nghiệp, “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào
lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin”.
Ôi, còn đâu bao lời tiên báo và giáo huấn của người Thầy khả ái? Còn đâu những
cảm nghiệm đầy thán phục khi chứng kiến bao phép lạ của Con Đức Chúa Trời?
Thật là mỉa mai, thật là chua xót cho người môn sinh tuyệt vọng.
Thật là thất đoạt, thật là vô ích cho người Thầy luống công. Sự ngã lòng của
Tôma xúc phạm đến Thầy đâu kém việc bán Thầy hay chối Thầy của hai bạn đồng
môn! Có khi còn tệ hơn; bởi lẽ, Giuđa và Phêrô tránh né liên luỵ đến một người
sắp từ giã cõi sống trong khi Tôma lại đan tâm chối nhận một Đấng vừa trở về từ
cõi chết.
Vì thế, cũng bởi “chạnh thương” nên tám ngày sau, Vị Thầy lại
phải hiện ra một lần nữa và trái tim đã yêu dấu loài người quá bội đó đã biết
lựa lời khôn khéo nhẹ nhàng trách yêu người học trò. Ngài dỗ dành chứ không
mắng mỏ, chìu chuộng chứ không phỉ báng, “Hãy đặt ngón tay con vào đây, hãy
nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Thôi, đừng cứng lòng
nhưng hãy tin”.
Lạ thay, Tin Mừng không nói đến việc Tôma có sấn tới thọc tay
vào lỗ đinh Thầy, đặt tay vào cạnh sườn Thầy mà trong đó cũng có một trái tim
hay không. Nhưng chúng ta có thể đoan chắc, chính Đức Giêsu Phục Sinh đã một
lần nữa “chạnh thương chạm đến” và băng bó trái tim thương tích của người môn
sinh.
Tim đụng tim, lòng chạm lòng! Nhờ đó, bình an lại đến với tâm
hồn người môn đệ; và thay vì reo lên Magnificat, Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
cách nào đó, Tôma đã phải cất cao Credo, Tôi tin! Bởi lẽ, trước tiên là phải
tin, sau đó mới có thể ca khen Đấng mình tuyên xưng.
Vậy là tim chữa lành tim, lòng cảm mến lòng. Tim Thầy chữa lành
tim trò, lòng Thầy khoả lấp lòng môn đệ. Nhờ lòng Thầy chạnh thương mà từ đây,
lòng người môn đệ xác tín thay cho ngờ vực; yêu mến thay cho hững hờ; chứng tá,
thay cho trốn chạy; và bình an thay cho bất an.
Hơn lúc nào hết, có lẽ mỗi người trong chúng ta hôm nay, dù ở
đấng bậc nào, cũng đều cảm thấy cần đến lòng Chúa xót thương hơn bất kỳ ai. Vì
chỉ có Chúa mới là Đấng xót thật và thương thật; chỉ có Chúa mới biết được mỗi
người cần đến lòng Ngài xót thương biết bao; chỉ có Chúa là Đấng có thể chữa
lành, có thể hàn gắn, có thể băng bó, có thể đem về và trao tặng bình an, một
sự bình an không ai lấy mất. Vì bình an của Chúa là chính Chúa.
Mừng kính Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa, chúng ta không quên
cầu nguyện cách riêng cho các mục tử của mình và cho cả đoàn chiên được Chúa
trao phó cho các ngài. Vì nhiều lúc, cả đoàn chiên lẫn chủ chiên cũng đang “đi
đi mô”, bất an vì ngờ vực, hững hờ vì thiếu lòng mến, trốn chạy vì nhát đảm.
“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,
xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.
“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,
xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.
“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,
xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.
6. Vững một
niềm tin
(Trích "Như Thầy Đã Yêu" của Thiên Phúc)
Hoa bạch chỉ là loại hoa nổi tiếng quý giá. Có một người dân thành
thị về chốn thôn dã tìm hái hoa này. Anh ta nghĩ hoa quý, ắt phải nở trên đỉnh
núi cao, bèn cố sức trèo lên đỉnh núi tìm hoa. Lên đến đỉnh núi, anh ta lục lạo
suốt buổi mà chẳng thấy bông hoa nào, đành thất vọng xuống núi, ra về tay
không.
Hôm sau, anh ta lại tìm theo lối cũ lên núi lục lạo thêm một phen
nữa, vẫn không kiếm ra. Ngày thứ ba, anh vẫn chưa nản chí, tiếp tục leo lên
đỉnh núi tìm hoa bạch chỉ. Anh tự nhủ:
- Giống hoa quý này chỉ có trên đỉnh núi cao, ta không tin là sẽ
không kiếm ra nó trên đỉnh núi cao!
Nhưng cuối cùng, anh ta vẫn không kiếm ra loại hoa quý này. Trong
lúc chán nản thất thểu xuống núi, anh ta chợt thấy trong đám cỏ mọc dướii chân
núi có hoa bạch chỉ. Đáng tiếc là nó đã bị chính anh giẫm nát mất rồi.
* * *
Những người quá tin vào ý nghĩ chủ quan của mình thường cố cháp,
không lắng nghe ai, để rồi công sức của mình đều đem ra đổ sông, đổ biển. Tin
Mừng hôm nay thuật lại sự kiện Đức Giêsu Phục Sinh, hiện ra với các tông đồ,
vắng mặt Tôma.
Vì thế, khi nghe các môn đệ khác nói: "Chúng tôi đã được
thấy" (Ga 10,25), ông đã không tin. Tôma đúng là một con người của thực
nghịệm, việc gì cũng đòi phải kiểm chứng, đòi phải "thấy và chạm đến"
mới tin. Nhưng thực ra đâu phải những gì "thấy mới tin". Có ai thấy
lúc cha mẹ sinh ra mình đâu, thế nhưng vẫn tin đó là cha mẹ của mình. Có ai
thấy luồng điện chạy qua sợi dây điện đâu, thế mà mọi người vẫn tin là có điện
ở trên đó. Người ta thường "tin" vào các sự kiện mà người khác
"thấy". Chúng ta tin Đức Thánh Chsa đang cai quản Hội thánh tại kinh thành
Roma, co dù chúng ta chưa bao giờ thấy ngài. Chúng ta tin Đức Kitô chết và sống
lại , cho dù chúng ta chẳng hề thấy người. Niềm tin của chúng ta chỉ dựa vào
lời chứng của các Tông đồ: "Chúng tôi đã được thấy Chúa".
Như thế, niềm tin đâu chỉ dựa vào giác quan mà còn dựa vào đức
tin của những kẻ đã "thấy và đã tin", những kẻ đã dám lấy cái chết để
chứng minh cho niềm tin của mình.
Nếu Đức Kitô đã thỏa mãn lòng mong ước của Tôma là cho ông được
"thấy và chạm đến" vết thương của Người là để củng cố niềm tin của
ông. Đôi khi trong cuộc sống, Thiên Chúa cũng cho chúng ta được "thấy và
chạm đến" những quyền năng phép lạ, những hồng ân bất ngờ, là để chúng ta
thêm niềm tin tưởng nơi Người.
Đứng trước ân ban của Đức Giêsu cho Tôma được "thấy và chạm
đến" Người, thì ông đã đáp lại bằng một cử chỉ tuyệt vời, là sấp mình
xuống thưa:
"Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" ! (Ga
20,28). Lời tuyên xưng của Tôma quả là rõ ràng, trong suốt như pha lê. Đó là
niềm tin của chúng ta. Niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu đã chết và đã sống lại.
Người là Chúa và là Thiên Chúa thật. Chính nhờ Tôma mà niềm tin của chúng ta
được chúc phúc: "Phúc thay những ngưồi không thấy mà tin" (Ga 20,39).
* * *
Lạy Chúa, Đức tin là một ân huệ Chúa ban, chúng con xin cảm tạ
Chúa. Xin thêm đức tin cho chúng con, để dù bao thăng trầm của cuộc sống, chúng
con vẫn vững một niềm tin vào Thiên Chúa và con người. Amen.
7. Đấng Phục
Sinh đang ở giữa chúng ta
(Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên)
Chúng ta đã long trọng mừng lễ Phục Sinh. Mọi ồn ào của những
cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua. Đối
với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm
tổ chức một lần, lễ xong là hết. Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm
về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái. Để tránh lối suy nghĩ
lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa
phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu. Người hiện diện như mối
dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau.
Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương
mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I). Nếu các
tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng
năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục
sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.
Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi
là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận. Ngay như các môn đệ là
những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục
sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này. Thánh Máccô ghi lại sự
nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: Khi bà Maria Mácđala kể với các ông là
bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin. Các ông cũng không tin khi
hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).
Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma.
Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ. Điều các bạn kể lại không thể
thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở
cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu
đã chết. Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh
sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại. Thực ra, Tôma
không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.
Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra. Tám ngày
sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những
thương tích trên thân thể Người. Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì
nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy. Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón
tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Đúng hơn, ông chẳng cần làm
những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói
với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu
phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người
không thấy mà tin.” Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín
hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận
Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và
những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy
Thiên Chúa của con!” Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị
chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng
từ của anh em mình.
Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi
tiết “các cửa đều đóng kín,” để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới
hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng
ta. Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay
Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức
là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em
vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được
chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả
của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)
Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi
cuộc đời này. Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức
yêu thương của các tín hữu. Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống
giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người. “Đức tin là sự tin
tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người
có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật
Lễ Phục Sinh. Bài Phúc Âm hôm nay trích từ Phúc Âm thánh Gioan có thể được xem
như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho con
đường đức tin của các Tông đồ, của các đồ đệ Chúa.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các Tông đồ, củng cố đức tin của
họ với hồng ân Thánh Thần và sai các ngài ra đi với sứ mạng mà Chúa đã chuẩn bị
các ngài trong suốt thời gian đến Phục Sinh: "Như Cha đã sai Thầy, thì giờ
đây Thầy cũng sai các con ra đi".
Con đường đức tin của các Tông đồ từ ngày được gọi theo Chúa cho
đến giây phút quan trọng được củng cố bởi quyền năng của Chúa Phục Sinh. Chọn
theo con đường đức tin này như được gợi lại cho chúng ta chiêm ngắm nơi đoạn
Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay, trước hết chúng ta nhìn thấy các Tông đồ lo sợ thu
mình lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước những chống đối của những kẻ
không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà Chúa đã trải qua và các ngài
cũng sẽ phải trải qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai mà họ đã nghe Chúa nói đến
và đã được chuẩn bị để thi hành nhưng cảm thấy chưa đủ sức để thi hành. Nếu
không có mầu nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi
mới con người họ thì đức tin của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn
đúng mức Chúa mong muốn để có thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa
trao phó cho.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta được chứng kiến một cuộc
thay đổi quan trọng trong đời sống các Tông đồ, chứng kiến một cuộc đổi mới và
kiện cường đức tin nơi các Tông đồ, từ lo sợ đến được củng cố để ra đi bắt đầu
sứ mạng. Trước khi Chúa Phục Sinh hiện đến, các Tông đồ đang sống trong lo sợ,
đóng kín nơi chính mình và đóng kín trong căn phòng. Ai trong chúng ta đã không
trải qua một giai đoạn thử thách này và cũng có thể là đang trải qua thử thách
đức tin, đó là những giây phút đen tối bị cám dỗ mất đức tin vào Chúa về những
nghịch cảnh xảy ra trong đời sống, về mầu nhiệm thập giá trong đời sống của mỗi
người chúng ta.
Trong bộ phim có tựa đề là Dấu Ấn Thứ Bảy, có một đoạn đối thoại
thật ý nghĩa:
Thần chết hiện ra trong dung mạo của một người phàm và đã đối
thoại với một dũng sĩ, cuộc đối thoại đó như sau:
Trước hết Dũng sĩ bắt đầu:
Tại sao Thiên Chúa lại ẩn mình? Tại sao Ngài không xuất hiện mạc
khải chính mình cho chúng ta biết? Tại sao Thiên Chúa không đưa tay Ngài ra và
chạm đến chúng ta? Tại sao ít ra là Ngài nói vài lời với chúng ta?
Thần chết trả lời:
Nhưng Thiên Chúa đâu có làm điều đó được, không phải vậy sao? Ngài
không chạm đến chúng ta, Ngài không nói, Ngài chỉ giữ im lặng.
Dũng sĩ tiếp:
Đành vậy, Thiên Chúa không làm điều gì như vậy, Ngài không chạm
đến chúng ta, Ngài không nói chuyện với chúng ta. Đôi khi tôi nghi ngờ không
biết Ngài có thật sự hiện hữu ở bên kia nữa không?
Thần chết trả lời:
Có thể Ngài không hiện hữu ở bên kia, có thể không ai hiện hữu bên
kia cả, có thể là tất cả chúng ta chỉ hiện diện một mình nơi cõi đời này mà
thôi. Dũng sĩ có bao giờ nghĩ như vậy hay không? Có lẽ Thiên Chúa không có đâu,
chỉ có chúng ta sống cô đơn lẻ loi một mình trong thế giới này mà thôi.
Anh chị em thân mến!
Mẫu đối thoại trên đây có thể làm chúng ta suy nghĩ thêm. Các
Tông đồ ngày xưa là những kẻ duy nhất được nghe Chúa nói, được sống với Chúa
như với một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, nhưng không phải vì thế mà
các Ngài không bị thử thách, không bị lạc mất niềm tin vào Chúa khi Chúa trải
qua cuộc khổ nạn, các Ngài phải tin vào Chúa là Con Thiên Chúa, là Đấng đã chết
và đã phục sinh.
Chúa cho các Tông đồ và đặc biệt là Tôma, cũng như chúng ta đã
đọc qua trong bài Phúc Âm hôm nay, được dịp may kiểm chứng một cách cụ thể:
"Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây". Chúng ta ngày hôm nay không thể
nào được diễm phúc kiểm chứng như vậy, như cuộc đối thoại tưởng tượng giữa Dũng
sĩ và Thần chết, nhưng như các Tông đồ ngày xưa, chúng ta cần tin vào Chúa để
không còn sống trong lo sợ, để có đủ sức chu toàn sứ mạng của Chúa. Lời Chúa
phán với Tôma cũng như cho chúng ta ngày hôm nay đó là: "Phúc cho những ai
không thấy mà tin".
Xin Chúa ban cho chúng ta hồn ân Chúa Thánh Thần, xin Chúa ban cho
chúng ta sự bình an của Ngài để củng cố chúng ta trong đức tin. Amen.
9. Cuộc sáng
tạo mới – Lm Ignatiô Trần Ngà
Ngày thứ nhất của nhân loại cũ
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy
bùn đất dựng nên Ađam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không
hề có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam (St 2,7), tức thì
Ađam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức
sống và được trở thành thuỷ tổ loài người đông đảo trên khắp trái đất.
Đó là ngày thứ nhất của lịch sử loài người, ngày khai sinh nhân
loại cũ, khởi đi từ con người đầu tiên được Thiên Chúa tạo dựng, thông ban sự
sống và những phẩm tính cao đẹp của Ngài.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo
hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa
đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời nên Thiên Chúa phải thực hiện kế
hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Ngày thứ nhất của nhân loại mới
Thế rồi, "vào ngày thứ nhất trong tuần - và cũng là ngày
thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới - nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín,
vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc
anh em được bình an!" (Ga 20, 19-22)
Kế đó, như thời khởi thuỷ, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi Ađam
để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giêsu cũng thổi hơi trên các tông
đồ đang co cụm như những xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ:
"Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh
Thần" (Ga 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sức sống mới, các
ông được hồi sinh, được trở nên can đảm mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng
kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo
đường, hô vang Tin Mừng cứu độ.
Đó là ngày thứ nhất trong tuần đồng thời cũng là ngày thứ nhất
trong lịch sử của nhân loại mới.
Ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ
Vậy mà cho đến hôm nay, sau hơn hai ngàn năm Chúa Giêsu khai
sinh nhân loại mới, vẫn còn trong ta sự ương ngạnh của Ađam, muốn sống theo dục
vọng của mình bất chấp lời giáo huấn của Thiên Chúa. Vẫn còn trong ta tính ù lì
khiếp nhược của các tông đồ sau biến cố Thầy Giêsu thụ nạn, tự giam mình trong
phòng kín như mộ địa tối tăm. Vẫn còn trong ta con người ích kỷ chỉ biết sống
cho mình, cho gia đình mình mà chưa mở ra với tha nhân và lối xóm.
Thế nên, hơn lúc nào hết, chúng ta cần Chúa Giêsu hiện đến thổi
hơi truyền ban Thần Khí cho chúng ta như Ngài đã thực hiện cho các tông đồ xưa,
để chúng ta được hồi sinh, được vượt ra khỏi ngục tù do lòng tham lam ích kỷ
dựng nên, thoát ra khỏi mộ địa do chính sự hèn yếu của chúng ta vây bọc.
Và nhờ đó, ngày thứ nhất trong cuộc đời người môn đệ được khai
mở trong ta.
10. Phục Sinh
của Lòng Thương Xót
(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)
Phục Sinh, sự kiện vĩ đại về một con người đã bị đóng đinh trên
thập tự giá tới chết và được mai tang trong mộ đá, nhưng đã trỗi dậy và ra khỏi
mồ: đó quả là một biến cố có một không hai trong lịch sử loài người. Sự kiện
này đúng là nền tảng niềm tin của mọi Kitô hữu qua mọi thời đại, thế nhưng nó
lại chỉ được cả 4 Phúc âm tường thuật cách quá tẻ nhạt và tầm thường. Thậm chí,
nếu so sánh với việc Chúa Hiển Dung trên núi Ta-bo, tôi thấy tường thuật thiếu
đến cả các chi tiết tối thiểu: “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y
phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.” (Mt 17,2) Tất cả những gì được đề
cập tới trong trình thuật phục sinh của các sách Tin Mừng chỉ đơn giản là ngôi
mộ trống vắng và lời công bố giản dị: “Người không còn ở đây nữa, nhưng đã sống
lại rồi!” Đôi lúc tôi cũng cảm thấy khó chịu về điều này; và như nhiều tín hữu
trong các đám rước Chúa Phục Sinh, tôi muốn bù đắp bằng một hình ảnh vinh quang
hơn: hình tượng Chúa uy nghi giơ cao cờ chiến thắng khải hoàn, ung dung bước ra
khỏi ngôi mộ với ánh sáng chói lòa, giữa các thiên thần thờ lạy và các tên lính
khiếp sợ.
Chắc chắn Chúa Phục Sinh có khía cạnh thể lý: một Giêsu đã gục
chết trên thập giá, đã được hạ xuống và tẩm liệm, được mai táng trong phần mộ,
mà nay được loan báo là đã sống lại. Sự kiện thể lý này là nền tảng cho việc
tuyên xưng một trong các tín điều căn bản nhất của Kitô giáo: “Tôi tin kẻ chết
sống lại”. Nhưng theo cách diễn tả của các sách Tin Mừng, khía cạnh thể lý xem
ra chỉ là thứ yếu. Cũng như trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu, các đau khổ thể
lý, cho dầu có được mô tả cách sinh động tới đâu thì ý chính vẫn là nói lên
tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Phục Sinh cũng vậy, biến cố (đúng hơn là lời
loan báo) Đức Giêsu ‘không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi’, cũng phải nói lên
được tình yêu cứu độ trong tất cả sức mạnh vô địch của nó: tình yêu của Thiên
Chúa từ nhân đã dứt khoát và vĩnh viễn chiến thắng sự chết về mọi mặt, và sẽ
tồn tại bất diệt.
Theo Kinh Thánh thì chết thể lý chỉ là một trong các hậu quả của
tội lỗi, và là hình bóng của một cái chết khác còn tệ hại hơn nhiều (St 2,17).
Đức tin Công giáo dạy rằng tất cả chúng ta đều đã chết trong tội và cần tới ơn
cứu độ để hoàn lại cho ta sự sống. Trong số các hình ảnh được dùng để diễn tả
tội lỗi, chết là hình ảnh rõ ràng và trung thực nhất. Qua các thời đại, con
người muốn dùng các nghi lễ tôn giáo để hoàn lại cho mình sự sống mà tội đã lấy
mất. Các hình thức hoàn lương, đền tội, tu luyện và khổ chế đều mang cùng một
mục đích đó. Nhưng trong thâm tâm tất cả đều biết rằng: chẳng một ai có quyền
tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa, cũng như chẳng ai có thể hoàn lại sự
sống sau cái chết của tội lỗi ngoại trừ Thiên Chúa toàn năng (xem Ga 11,40-44).
Ngày nay một số người (trong số đó có cả tín hữu – linh mục?) có khuynh hướng cho
rằng tội chỉ là một yếu đuối, một cơn bệnh hay một khiếm khuyết nhất thời mà
con người có nhiều cách để thắng vượt, nhiều cách để chữa trị, trong đó tâm lý
học được coi như liều thuốc hữu hiệu nhất. Nếu tội chỉ là một căn bệnh cho dầu
hiểm nghèo thì tác hại của nó cũng chỉ giới hạn. Cái chết thập giá của Đức
Giêsu là một khảng định ngược lại: tội không chỉ dẫn tới cái chết nhưng thực sự
là chết. Cũng vậy sự phục sinh của Người khảng định ơn cứu chuộc thực sự hoàn
lại sự sống đích thực và toàn diện cho mọi người đã chết trong tội.
Cần bằng chứng Kinh Thánh ư? Dựa và câu khảng định của Đức
Giêsu: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã
chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25) Phao-lô đã có thể xác quyết: “Nếu chỉ vì
một người, một người duy nhất sa ngã mà sự chết đã thống trị, thì điều Thiên
Chúa làm qua một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô lại còn lớn lao hơn biết mấy…
” (Rm 5,17), “Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người
nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15,22). Như vậy,
đối với một Thiên Chúa cứu độ, cho Giêsu Kitô sống lại từ cõi chết là điều nhất
thiết phải làm, cũng thế nhất thiết không kém Người phải làm cho chúng ta,
những kẻ tin, sống lại từ cõi chết. Trên Thập giá, Đức Giêsu đã mặc lấy cái
chết tội lỗi của cả trần gian, mà chết thể lý của Người là hình ảnh cụ thể
nhất, một đàng để mạc khải cho thấy Thiên Chúa yêu thương cứu độ ‘đến cùng’,
đàng khác như một A-đam mới Người cũng trọn vẹn đón nhận tình thương cứu độ của
Cha để được sống, “Con phó linh hồn con trong tay Cha”. Phục sinh của Người là
bằng chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Yêu Thiên Chúa cứu độ vĩnh viễn chiến
thắng sự chết dưới mọi hình thức, lòng nhân ái thần linh chiến thắng tội chết
trong mọi chiều kích. Chính Đức Giêsu đã khảng định cách chắc nịch: “Ai tin vào
Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống”. ‘Sẽ’ đây nói lên một định luật chứ
không phải thì tương lai: sống lại ngay bây giờ, chứ không chỉ trong ngày sau
hết, sống lại trong ân sủng ngay tức thời chứ không chỉ trong ngày thế tận;
cũng vậy ‘chết’ đây là về thể lý, nhưng còn quan trọng hơn nhiều là về mặt
thiêng liêng. “Ngay hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên đàng”.
Suy nghĩ như thế làm tôi hiểu ra rằng: chỉ nhấn mạnh về một Đức
Giêsu Kitô phục sinh vinh quang về mặt thể lý rất có thể trở thành một lạc đề
nguy hiểm. Vinh quang đích thực của Phục sinh, đồng thời cũng là sức mạnh vô
địch của Thập giá chính là tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Lòng thương xót của
Người đã vĩnh viễn chiến thắng tội chết nơi con người: tình yêu đã chứng tỏ
mạnh hơn cả sự chết, đặc biệt chết trong tội. Cho nên rõ ràng “nếu chúng ta
cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người, đó là niềm tin
của chúng ta” (Rm 6,8) trong tình yêu nhân hậu và tha thứ của Thiên Chúa. Mầu
nhiệm thập giá và phục sinh không bao giờ được tách rời. Đó chính là sự Vượt
Qua (Pasqua – Passover) của mọi Kitô hữu chúng ta, một mầu nhiệm sống động vĩ
đại.
Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con nhận biết tội đã làm con chết
thực sự, để con nghiệm ra được sức mạnh vô địch của lòng thương xót Chúa. Kinh
nghiệm về cái chết thể lý đã cho con phần nào thấy được lòng nhân từ của Chúa…
nhưng đó cũng chỉ là hình ảnh mờ nhạt của một thực tế vĩ đại hơn nhiều: Đấng
Cứu Độ không ngừng tiêu diệt sự chết nơi con để hoàn lại sự sống. Xin cho con
không ngừng biết đón nhận ơn phục sinh trong suốt cuộc đời, bao lâu con vẫn còn
yếu đuối sa ngã trong tội chết. Và chính trong sự kỳ diệu vĩ đại này, xin cho
con (cùng với mọi tín hữu) cất cao lời ca ngợi lòng từ bi thương xót của Chúa
hàng ngày và cho đến muôn đời. Amen.
11. Suy niệm của
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA ĐỐI VỚI THẾ GIỚI LÀ VÔ CÙNG VÔ HẠN
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa được tiếp liền sau Đại Lễ Phục
Sinh, Phụng vụ của Giáo hội mời gọi chúng ta cách đặc biệt, kể từ ngày 22 tháng
Tư năm 2001 là sùng kính Lòng Thương Xót Chúa. Chính thánh Giáo hoàng Gioan
Phaolô II, hôm nay Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh muốn đáp lại ý muốn
của Thiên Chúa cách minh nhiên được truyền lại cho thánh cho vị thánh đồng
hương của mình là Faustina Kowalska sứ điệp về lòng thương xót Chúa đối với thế
giới là vô cùng vô hạn. Chúng ta cùng nhau thực hành lời khuyên của Chúa, để
nhận được ơn tha thứ tội lỗi và mọi hình phạt, do đó, trong lời Ca nhập lễ hôm nay:
"Như những trẻ sơ sinh, anh em hãy khao khát sữa thiêng liêng tinh khiết,
nhờ đó anh em sẽ lớn lên để hưởng ơn cứu độ. Allêluia".
Tin Mừng chung cho cả ba năm Phụng vụ A,B,C được trích từ Phúc
Âm theo Thánh Gioan (20, 19-31), tường thuật lại sự kiện Đức Giêsu phục sinh
hiện ra gặp gỡ các tông đồ thật là cảm động trong lần gặp gỡ Chúa Kitô Phục
Sinh làm cho chúng ta dâng trào cảm xúc. Cử chỉ trao ban bình an của Chúa cho
các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những
tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những
dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: "Bình an cho các con. Như
Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và
phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai,
thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm
lại" (Ga 20, 21-23).
Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân "tha thứ các tội
lỗi" diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa, hồng ân này phát sinh
từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm
thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống,
ngay cả sau khi Phục Sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt
chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào tin được, lòng thương xót của Thiên
Chúa: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của
Ngài" (Ga 3: 16). Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên
toàn thể nhân loại.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ,
những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ
hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải và tái tạo tâm hồn, mang
lại cho ta niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng
bình an. Thế giới ngày nay cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Hôm nay, Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa chúng ta cùng nhau lặp
lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang:
"Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hỏa tâm, vì đức từ bi của người muôn thuở"
(Tv 117, 1). Quả thật: "Tình thương Chúa tồn tại muôn đời!". Cái chết
và sự sống lại của Chúa Kitô đã thay đổi tận căn số phận của nhân loại nói
chung và mỗi người chúng ta nói riêng. Đây là điều kỳ diệu trong đó được thể
hiện trọn vẹn tình thương của Thiên Chúa Cha, một tình yêu không ai hiểu thấu,
Đấng vì phần rỗi chúng ta, và để cứu chúng ta, Chúa đã nộp chính Con yêu.
Chúa Giêsu Kitô bị hành hạ và chịu đau khổ vì xót thương chúng
ta, thật quá mọi mức độ có thể tưởng nghĩ được. Cả sau biến cố Phục Sinh của
Con Thiên Chúa, Thập Giá nói lên và không ngừng nói về Thiên Chúa là Cha, Đấng
tuyệt đối trung thành với tình thương muôn đời của Ngài đối với con nguời. Tin
vào tình thương này có nghĩa là tin vào lòng nhân từ của Thiên Chúa"
(Dives in misericordia, số 7).
Hãy cảm tạ Chúa vì Chúa hảo tâm, một tình thương mạnh hơn sự
chết và tội lỗi. Giờ đây, nhân loại vẫn đang tiếp tục được thừa hưởng tình
thương và sự tha thứ của Thiên Chúa đổ ra từ những vết thương vinh hiển và từ
trái tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu
chuộc, ơn cứu rỗi, sự thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa tuôn tràn sự dịu dàng, thánh
nữ Faustina Kowalska thấy xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian. Theo
lời Chúa giải thích cho thánh nữ, "Hai tia sáng nầy tượng trưng cho máu và
nước". Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn
nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích
Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: "Lạy Chúa Giêsu, con tín thác
vào Chúa", diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm
tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, Đấng cứu rỗi duy nhất của
chúng ta ! Những tia sáng của lòng nhân từ Chúa ban lại niềm hy vọng, một cách
đặc biệt, cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi.
Lạy Chúa, nhờ sự chết và sự sống lại của Chúa, Chúa đã mạc khải
tình yêu của Thiên Chúa Cha cho chúng con, chúng con tin thác vào Chúa, chúng
con lặp lại ngày lúc này với xác tín rằng: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào
Chúa, xin thương xót chúng con và thế giới.
Lạy Mẹ Maria, Mẹ của lòng nhân từ hay thương xót, xin giúp chúng
con là con cái Mẹ duy trì lòng tin vào Con Mẹ, Đấng cứu chuộc chúng con. Lạy
thánh Giáo hoang Gioan XXII, Gioan Phaolô II hôm nay hiển thánh và thánh nữ
Faustina mà hôm nay chúng con nhớ đến với hết lòng mộ mến, xin cũng trợ giúp
chúng con. Xin cho chúng con được cùng với các thánh, hướng nhìn về Đấng Cứu
Chuộc, và lặp lại lời nguyện: Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa". Bây
giờ và mãi mãi. Amen.
12. Cảm thông
với nhau
(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một bác sĩ nói rằng: mỗi lần mổ bệnh nhân khi thấy thân thể họ
tan nát ông thường đắng lòng kêu lên “Lạy Chúa, lại Chúa tôi”. Đây là lời than
ai oán, lời cảm thương, lời chia sẻ với nỗi đau của tha nhân. Đây cũng là lời
chúng ta vẫn thường nói hay thường nghe khi chứng kiến một người bị tai nạn, bị
đói khổ, bất hạnh chúng ta cũng từng kêu lên “lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Cuộc đời quanh ta có biết bao người khốn khổ lầm than. Có kẻ đói
ăn. Có kẻ đói hạnh phúc. Có kẻ cô đơn, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có biết bao mảnh
đời chung quanh khi nhìn thấy mà lòng chúng ta cũng quặn đau với nỗi đau của
họ. Có chứng kiến được những bất hạnh của tha nhân mới thấy nhu cầu dấn thân
xoa dịu nỗi đau thật cần thiết. Có nhìn thấy nỗi bất hạnh của tha nhân mới biết
mình cần phải làm gì để xoa dịu nỗi đau.
Ông Tôma năm xưa khi được tận mắt thấy những dấu đinh đâm tan
nát nơi thân thể Chúa, khi ông trông thấy lỗ rách nơi cạnh sườn Chúa, ông cũng
đã thốt lên trong đau đớn “lạy Chúa, lạy Chúa tôi”. Ông cảm thương với nỗi đau
của Thầy. Mặc dù ông đã chứng kiến từ xa cảnh tan nát của Thầy, nhưng hôm nay
ông được tiếp xúc gần gũi, gần đến nỗi có thể xỏ ngón tay vào các lỗ đinh của
Thấy thì nỗi cảm xúc của ông cũng dâng trào trong trái tim ông. Dù rằng, ông đã
không xỏ một ngón tay nào vào lỗ đinh của Chúa, nhưng trái tim mách bảo cho ông
biết cần phải làm gì để xoa dịu nỗi đau cho Thầy Chí Thánh.
Khi cảm nghiệm về nỗi đau của Thầy Giêsu, Tôma đã được biến đổi.
Ông quỳ xuống tôn thờ Chúa. Ông mong muốn dành cuộc đời để loan truyền tình
thương Chúa cho nhân loại. Ông hiểu hơn về lòng thương xót của Chúa dành cho nhân
loại. Chính vì yêu. Chính vì muốn biểu lộ lòng thương xót cho nhân loại mà Thầy
Giêsu đã can tâm tình nguyện chịu chết trên thập giá. Chính Thầy Giêsu đã bày
tỏ lòng thương xót của mình khi tự nguyện gánh lấy những cực hình, những đau
đớn để cứu độ chúng sinh. Chính Chúa không chỉ nhìn thấy những khổ đau của con
người để xót xa, chạnh lòng thương mà ngài còn dấn thân phục vụ để xoa dịu nỗi
đau cho chúng ta. Chúa xót thương khi sống nghèo để đồng cảm với những người
nghèo. Chúa xót thương khi sống phục vụ để xoa dịu nỗi đau cho những kẻ bất
hạnh. Chúa xót thương nhân loại đang chết trong tội lỗi nên đã gánh lấy cực
hình để đền thay tội lỗi nhân gian. Lòng thương xót của Chúa mãi mãi chịu hiến
tế để cứu nhân gian.
Hôm nay, ngày lễ Lòng Thương Xót của Chúa, Giáo Hội cũng tôn
phong hai chân phước lên bậc hiển thánh. Đặc biệt Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II, một con người của lòng thương xót. Lòng thương xót của Ngài biểu hiện qua
việc tha thứ cho kẻ đã ám sát ngài. Lòng thương xót của ngài còn biểu hiện qua
việc cảm nhận sự liên đới trách nhiệm với những sự chia rẽ trong quá khứ do
hiểu lầm hay do bất khoan dung, thế nên, Ngài đã rất nhiều lần xin lỗi Chúa,
xin lỗi anh em, xin lỗi vì những đối xử bất khoan dung đã gây nên những đổ vỡ.
Chính ngài cũng là tông đồ của Lòng Thương Xót khi dấn thân cổ
võ lòng thương xót của Chúa. Chính ngài đã thổi vào nhân loại này một năng lực
mới từ lòng thương xót của Chúa. Để rồi lòng thương xót của Chúa như vũ khí mới
để chiến thắng ba thù, như làn nước trong xanh để đem lại ơn phúc cho những ai
tin tưởng chạy đến với Lòng Thương Xót của Chúa.
Ước gì chúng ta luôn nhận ra tình thương vô bờ bến của Chúa để
như Tôma quỳ lạy tôn thờ Chúa trên hết mọi sự. Xin cho chúng ta luôn tín thác
vào lòng thương xót của Chúa để ân sủng của Chúa chữa lành những vết thương tâm
hồn và thân xác cho chúng ta. Amen.
13. Mối phúc
thứ chín – Tổng hợp từ R. Veritas
“Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Có lẽ đây là mối phúc thứ
chín mà Đức Giêsu dành cho những ai tin vào sự phục sinh của Ngài. Đức Giêsu
Phục Sinh là một sự kiện được chứng thực bằng nhiều lần hiện ra với các môn đệ,
và nhất là được chứng thực bằng chính cộng đoàn kitô hữu tiên khởi. Cộng đoàn
này “đã thấy”, “đã tin” và “đã nhận được”.
Họ “đã thấy” Chúa đến viếng thăm khi cửa nhà họ vẫn im ỉm đóng
kín.
Họ “đã tin” khi Đấng Phục Sinh hiện diện giữa họ, thân ái và dịu
hiền.
Họ “đã nhận được” bình an và hoan lạc từ Đấng Phục Sinh.
Khi Đấng Phục sinh giải thoát họ khỏi nỗi sợ hãi, bất an.
Nhưng có một người đã chưa thấy, đã chưa tin và đã chưa nhận
được… đó là Tôma. Ông là người môn đệ không ở với cộng đoàn khi Đức Giêsu đến,
và ông đã không chấp nhận lời chứng của các môn đệ bạn bè. Tôma đã tạo nên một
khoảng cách với cộng đoàn, và hơn nữa, ông đã tự tách lìa với niềm tin của cộng
đoàn. Chính việc đó đã đẩy ông tới chỗ ngờ vực và đa nghi.
Hình ảnh Tôma được xem là biểu tượng cho những người kém lòng
tin; ông không ở với cộng đoàn Giáo hội nên ông đã không thấy; ông không thông
hiệp với cộng đoàn Giáo hội nên đã không tin. Ông tự hào với những nhận định
của riêng mình nên đã không nhận được hồng ân của niềm tin.
Nhưng tình yêu thương của Đức Giêsu đã biến đổi ông. Ngài đã
hiện đến vào tám ngày sau khi Toma đang ở với cộng đoàn. Một chút bối rối, rồi
một chút bất an… và sau đó, mọi sự vụt tan biến. Tôma đã mở miệng thốt lên với
thầy mình: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”. Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích
thân hiện đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập
niềm cảm mến tri ân. Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước
vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các
vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông. Tin bao
giờ cũng đòi hỏi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu của Tôma, nhưng
chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu cách khác. Cần tập thấy Chúa trong
cuộc sống của ta để rồi tin, tin rằng Chúa Phục Sinh vẫn đang có mặt giữa những
trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau trên đường đời.
“Phúc cho những ai không thấy mà tin“, và “phúc cho những ai
biết thấy nên tin”.
***
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước
mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng than khóc bên
mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên
dặm đường dài, như Chúa đã đi với hai môn đệ trên đường Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng
con, như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cứng lòng cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên
nhẫn và khoan dung với chúng con, như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa
sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho các môn đệ bên bờ hồ
năm xưa.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, xin ban cho chúng con “con mắt đức tin”
để được nhìn thấy Ngài, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở
thật gần bên chúng con mỗi ngày. Amen.
14. Bình an – Lm. Giuse Trần Việt
Hùng
Chứng kiến cảnh mồ trống, thánh Gioan đã thấy và đã tin. Gioan
cùng với Đức Maria và một số Tông đồ tiếp tục họp nhau cầu nguyện. Sau khi Chúa
Giêsu chết, lúc còn tranh tối tranh sáng, những người đi theo Chúa tản mát, tâm
trạng mỗi người phản ứng một cách khác nhau. Có người bỏ về quê, có người muốn
quay lại nghề cũ, có người rơi vào sự hoài nghi và có những vị nhiệt thành tín
trung và âm thầm dõi theo. Khi sống lại, Chúa Giêsu không còn bị giới hạn bởi
không gian và thời gian. Ngài có thể hiện diện với bất cứ ai và bất cứ nơi đâu
mà Ngài muốn. Ngài cũng hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau, khi thì giống
như người làm vườn, lúc thì giống như khách bộ hành, khi thì giống người chài
lưới và có lúc là hình ảnh Chúa với chân tay còn dấu tích. Hôm nay Chúa đến với
các Tông đồ một cách rất bất ngờ, vì cửa còn đóng kín. Chúa chúc bình an cho
các ông và Chúa chứng thực chính mình: Người cho các ông xem tay và cạnh sườn
Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa (Ga 20, 20). Niềm vui vỡ
òa hân hoan, các Tông đồ được gặp lại Thầy của mình trong sự sống vinh quang.
Chi tiết câu truyện của ông Tôma giúp chúng ta hiểu rõ hơn và
tin hơn. Tuy Tôma có thái độ hoài nghi, nhưng ông rất thực nghiệm. Sự đòi hỏi
của Tôma, đôi khi cũng là sự đòi hỏi của mỗi người chúng ta. Tôma muốn được
diện kiến, được đụng chạm và sờ mó vào các vết thương của Chúa. Chúa thấu tỏ
lòng tin của Tôma, Chúa cho ông được toại nguyện: Đoạn Chúa với Tôma: “Hãy xỏ
ngón tay con vào đây và hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh
sườn Thầy; chớ cứng lòng nhưng hãy tin (Ga 20, 27). Hiện diện trước mắt các
Tông đồ, Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Chúa Kito Phục Sinh. Chúa Giêsu chúc
phúc cho những ai không thấy mà tin. Qua các sự kiện đã xảy ra với các Tông đồ,
Chúa Phục Sinh đã củng cố lòng tin của các ông bằng nhiều cách. Các ông đã từ
từ xác tín niềm tin và bắt đầu xả thân để làm chứng nhân cho Chúa Kitô sống
lại.
Các Tông đồ bắt tay thực hành ngay sứ mệnh được trao phó, khởi
đầu là qui tụ các tín hữu, tụ họp các gia đình và gầy dựng các nhóm nhỏ cầu
nguyện, nâng đỡ nhau và làm nghi thức bẻ bánh. Nghi thức Bẻ bánh là trọng tâm,
mang một ý nghĩa rất quan trọng. Các Tông đồ nhớ lời Thầy: Các con hãy làm việc
này mà nhớ đến Thầy. Ngay từ buổi sơ khai, Giáo Hội đã hình thành qua những nhóm
nhỏ thông hiệp trong tình liên đới: Khi ấy, các anh em bền bỉ tham dự những
buổi giáo lý của các Tông đồ, việc thông hiệp huynh đệ, việc bẻ bánh và cầu
nguyện (Tđcv 2, 42). Các tín hữu sơ khai hoàn toàn được tự do chọn lựa sống
theo giáo lý mới và tin vào Chúa Giêsu Kitô. Các nhóm nhỏ tiên khởi là rường
cột thông truyền các lời giảng dậy của Chúa và của các Tông đồ. Họ là những
nhân chứng sống động mắt thấy, tai nghe và chứng kiến các biến cố đã xảy ra
trong đời. Họ đã thấy và đã tin.
Các Kitô hữu thời sơ khai đã phải đối diện với sự thay đổi cuộc
sống về các truyền thống và việc tôn thờ. Họ từ từ tách ra khỏi cách thế hành
đạo của Do-thái Giáo. Giáo hội tiên khởi xây dựng một tổ chức riêng thờ phượng
Thiên Chúa trong ngày Thứ Nhất trong tuần. Ngày Chúa Kitô Phục Sinh từ cõi
chết. Họ đồng tâm hiệp ý trong đức tin, đức cậy và đức mến: Hằng ngày họ hợp
nhất một lòng một ý cùng nhau ở trong đền thờ, bẻ bánh ở nhà, họ dùng bữa cách
vui vẻ đơn sơ (Tđcv 2, 46). Chúa Giêsu đã nói với Phêrô: Con là đá, trên đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Kitô đã thổi
hơi trao quyền cầm giữ và tháo cởi cho các Tông đồ để các ngài xây dựng và cai
quản Hội Thánh. Các ngài đã ra đi làm nhân chứng rao truyền Tin mừng và tìm
kiếm các con chiên lạc Israel để qui về một mối.
Với lòng thương xót vô bờ, Chúa Giêsu cư xử rất nhẹ nhàng và cảm
thông sự yếu đuối và chậm chạp của các Tông đồ. Chúa đã chọn gọi họ trong khả
năng và tính khí riêng biệt. Chúa Giêsu kiên nhẫn dẫn dắt các Tông đồ từng bước
đi vào sứ mạng mới. Chúa loan báo trước với các Tông đồ là sẽ phải đối diện với
nhiều sự gian nan, khốn khó, bắt bớ và tù đầy. Muốn làm môn đệ của Chúa là vác
thánh giá hằng ngày mà đi theo Chúa. Cánh đồng lúa chín thì nhiều và sứ mạng
truyền giáo thì bao la, các tông đồ đã can đảm dấn thân ra đi như chiên vào
giữa bầy sói. Từng vị, từng vị đã lần lượt hiến thân mình đổ máu đào để làm
chứng cho Chúa Kitô Phục Sinh. Cái chết của các ngài là hạt giống sinh mầm đức
tin.
Tất cả sứ mệnh rao giảng đều qui về Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ Đức
Giêsu Kitô, chúng ta tôn thờ Thiên Chúa Cha: Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Đức
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, vì lòng từ bi cao cả, nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi
chết sống lại. Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống (1Petr
1, 3). Qua Bí tích Rửa Tội, chúng ta được tái sinh làm con cái Chúa trong niềm
hy vọng cuộc sống đời đời. Chúa Kitô sống lại vinh hiển đã mở cửa nước trời cho
những ai đặt niềm tin tưởng nơi Ngài. Chúa Nhật thứ hai mùa Phục Sinh, đặc biệt
dành để kính nhớ Lòng Thương Xót của Chúa Giêsu. Chúa rất giầu lòng từ bi
thương xót với mọi kẻ khốn cùng, tội lỗi và xa lạc muốn trở về. Vì Chúa đến là
để kêu gọi và chữa lành những tâm hồn bị đau thương và dập nát tâm can.
Truyện kể: Một người đàn ông đang đi thăm viếng Đất Thánh. Vào một
đêm nọ, ông một mình vào trong vườn Gethsemani. Đêm tối rất đẹp, bầu trời đầy
trăng sao tinh tú và khung cảnh thật thanh tịnh. Suy gẫm về cơn hấp hối của
Chúa trong vườn Cây Dầu, ông cảm thấy bị xúc động mạnh và bắt đầu khóc. Ông quỳ
gối xuống và cầu nguyện: Lậy Chúa, xin đừng để con bao giờ phạm tội phản nghịch
cùng Chúa nữa. Lắng nghe một giọng nói từ đáy lòng: Hỡi con, con xin Cha đừng
bao giờ để con phạm tội nữa. Nếu Cha ban điều con xin đó cho tất cả các con cái
của Cha, làm thế nào Cha có thể tỏ bày lòng thương xót của Cha cho chúng sinh?
Lòng Chúa Xót Thương là cửa ngõ dẫn đưa chúng ta vào vòng tay
yêu thương tha thứ. Chúa Giêsu dậy chúng ta hãy thương xót, thì sẽ được xót
thương. Trái tim thương xót là không kết án, nhưng tha thứ và quên lãng lỗi
lầm, bởi vì Chúa đã tha thứ và quên đi tội lỗi của chúng ta. Chúng ta đều là
tội nhân. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện rằng xin Cha tha nợ cho chúng
con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Nếu chúng ta không tha cho anh
chị em, chúng ta bị tách ra khỏi cuộc chơi (out of the game). Sự tha thứ cần
đến lòng khoan dung độ lượng và trái tim nhân hậu. Sự khiêm tốn chân thật sẽ
giúp chúng ta nhận biết thân phận yếu đuối và tội lỗi của mình để nài xin lòng
Chúa xót thương.
Trong thơ, thánh Phêrô khuyến khích các tín hữu đặt niềm tin vào
Chúa Kitô Phục Sinh. Phúc cho ai không thấy mà tin: Anh em yêu mến Ngài, dù
không thấy Ngài, và anh em tin Ngài, dù bây giờ anh em cũng không thấy Ngài bởi
anh em tin, anh em sẽ được vui mừng vinh quang khôn tả (1Petr 1, 8). Các Tông
đồ ra đi rao giảng Tin mừng với hành trang là niềm phó thác cậy trông và uy
quyền chữa lành mọi bệnh họan tật nguyền. Trong khi đi giảng đạo, người ta xin
thánh Phêrô bố thí, Phêrô chẳng có qùa bánh gì để cho họ, nhưng với danh nghĩa
Đức Kitô sống lại, ngài đã truyền cho nhiều người được ơn khỏi bệnh.
Lạy Chúa, Chúa giầu lòng thương xót nhưng chậm bất bình. Xin Chúa
xót thương chúng con là những kẻ tội lỗi đang dõi đường tìm về bên Chúa. Xin
cho niềm vui của Chúa Kitô Phục Sinh tràn đổ sự bình an trong tâm hồn chúng
con. Alleluia!
15. Lòng Chúa xót thương – Lm
Giuse Tạ Duy Tuyền
Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là
cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng
thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay
chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố
diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra
nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành.
Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với
Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn
trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi
làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế
nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng
gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không
mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt,
có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây
trong vườn mà ta đã cấm?".
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là
người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn.
Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi
Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói,
lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa
Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm
để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn
không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than
khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm
hại mình, vì "họ không biết việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương
xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh
trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay
ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức
cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa
Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ
1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá
khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang
nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con.
Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất
mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng
vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn
tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn "Một Thiên
Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ" như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn
bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối
nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong
giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục
không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi
xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là
Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các
tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi
Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn
Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và
cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi
chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực
thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của
mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời
cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan
tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không
khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng
đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh
nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói
một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì
năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao hơn năm
trước".
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông
Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra
hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh
nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha
thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu
diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina,
biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu
thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và
nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối
về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội
được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu
long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.
16. Biến đổi
nhờ gặp Chúa
Có một bài hát sinh hoạt mà chúng ta đã từng hát. Bát hát đó như
thế này: “Gặp gỡ Đức Kitô biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô đón nhận ơn
tái sinh...” Quả thực, nếu ai đã thực sự gặp gỡ Đức Kitô họ sẽ được đổi mới. Họ
sẽ thay đổi đời mình theo như đòi hỏi của chân thiện mỹ. Từ Giakêu đến Maria
Madalena tội lỗi, tham lam đã dũ bỏ mọi quyến luyến của tiền tài mà dấn thân
theo Chúa. Từ Phaolô, Phêrô quá khích, yếu đuối đã hoàn toàn biến đổi để dấn
thân xây dựng và mở mang Nước Chúa. Chính Đức Kitô đã thay đổi cuộc đời họ.
Chính Đức Kitô đã biến đổi cuộc đời họ thành những trang Tin Mừng của Chúa.
Người ta kể rằng: Có một nhà báo không tin có Chúa, cho đó là trò
mê tín dị đoan. Ông ta tìm đến một Giáo Xứ, hỏi thăm mọi người để tìm ra một
người mới theo Đạo, và đã tìm được một người công nhân ít học để phỏng vấn, dự
định từ đó sẽ viết một bài báo bôi bác Đạo. Cuộc phỏng vấn diễn ra như sau:-
Xin hỏi thăm, có phải anh mới theo Đạo Chúa không?- Vâng, nói đúng và rõ hơn,
tôi đã xin theo Đức Ki-tô.- Thế thì chắc anh biết rất nhiều về ông ta, vậy anh
hãy nói cho tôi biết ông ta sinh ra trong quốc gia nào?- Rất tiếc, tôi là người
ít học, lại mau quên, tôi đã có được học những chi tiết này trong một khóa Giáo
Lý, nhưng bây giờ thì tôi lại không nhớ nổi, nghe đâu như Đức Ki-tô là người
Do-thái thì phải!- Thế khi chết, ông ta được bao nhiêu tuổi?- Tôi không nhớ rõ
lắm, hình như cũng vào khoảng tuổi tôi bây giờ, gần 40 hoặc trẻ hơn một chút.-
Vậy, anh có biết ông ta đã thuyết giảng bao nhiêu bài, có bao nhiêu tác phẩm
ông ta để lại, nói chung, về cuộc đời sự nghiệp của ông ta?- Câu này thì tôi
xin chịu thua!- Như vậy, anh biết quá ít, quá mơ hồ để có thể quả quyết là anh
đã thật sự đi theo cái ông Ki-tô ấy!- Ông nhà báo nói thế thì chỉ đúng một
phần. Tôi rất hổ thẹn vì mình đã biết quá ít về Đức Ki-tô. Thế nhưng, điều mà
tôi biết rất rõ là thế này: 3 năm trước, tôi là một tên nghiện rượu, sáng say
chiều xỉn, nợ lút đầu lút cổ. Gia đình tôi xuống dốc một cách kinh khủng. Mỗi
tối, khi tôi trở về nhà, vợ và các con tôi đều tức giận và buồn tủi... Thế mà,
bây giờ thì tôi đã dứt khoát bỏ rượu và đã cố gắng trả được hết nợ nần, gia
đình tôi đã tìm lại được hạnh phúc, các con tôi ngong ngóng đợi chờ tôi về nhà
mỗi tối sau giờ làm ca. Tất cả những điều này, không ai khác hơn, chính Đức
Ki-tô đã làm cho tôi. Và đó là tất cả những gì tôi biết về Người...Nghe đến đây
thì ông nhà báo không tin Chúa hậm hực đứng lên bỏ ra về, không được một lời
cám ơn. Ông ta không ngờ lại gặp một con người hết lòng xác tín vào Đức Ki-tô
như thế...
Hai môn đệ đi làng Emmau đã từng đi trong tâm trạng thất vọng
buông xuôi. Bao nhiêu hy vọng vào Thầy đều tan rã theo cái chết của Thầy. Sự
nghiệp, hoài bão cũng tan thành mây khói. Họ trở về quê trong tâm trạng lo âu
buồn phiên vì tương lai thật đen tối. Thế nhưng, Chúa đã đến với họ trong hình
dáng của người khách lạ. Một người tưởng chừng như tình cờ đến với họ để khai
thông cho họ hiểu Kinh Thánh. Một người bạn đồng hành giúp họ hiểu hơn về những
gì đang diễn ra theo thánh ý Chúa. Họ đã được an ủi nhờ người bạn chân thành
cùng đi với họ. Nhưng điều quan trọng là họ đã bừng tỉnh và thay đổi não trạng
khi họ nhận ra người khách lạ chính là Thầy mình đã sống lại. Niềm vui gặp lại
Thầy đã thay đổi tâm trạng của họ. Từ thất vọng sang hân hoan. Từ mất định
hướng sang việc trở về cùng với đồng bạn loan truyền tin vui Chúa đã Phục sinh.
Quả thực, hai môn đệ đã hoàn toàn thay đổi nhờ gặp được Chúa
Giêsu. Một Giêsu là Chúa của họ đã đánh bại thần chết để sống lại vinh quang.
Chính cuộc gặp gỡ này đã mang lại cho họ một niềm vui và hạnh phúc trong cuộc
sống. Chính cuộc gặp gỡ này đã thay đổi hoàn toàn não trạng của họ từ thất vọng
đến tin tưởng, lạc quan.
Xin cho chúng ta luôn xác tín về sự hiện diện của Chúa để dám sống
làm chứng cho Chúa. Ước gì chúng ta đừng bao giờ tuyệt vọng nhưng luôn tin
tưởng phó thác nơi Chúa trước những khó khăn trong dòng đời. Xin đừng vì những
nghi nan mà chối bỏ Chúa nhưng luôn biết cậy dựa vào Chúa để vượt qua sóng vỗ
ba đào. Amen.
17. Củng cố
đức tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó
là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho Chúa Nhật thứ hai phục
sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào Chúa Nhật thứ hai phục
sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi tiết này nói lên tầm
quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo
cộng đoàn những đồ đệ của Chúa.
Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa
Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Thomas, và trong lần hiện ra
này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: "Bình an cho các con".
Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui
vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha
tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong
giai đoạn này - trong phần thứ nhất của đoạn Phúc Âm hôm nay - đã tin phần nào
và đã chia sẻ cho Thomas: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa", nhưng Thomas
không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ
hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Thomas đã gây chia rẽ hay làm yếu
kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia
rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui
để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay là một cộng đoàn của những
người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn Chúa Phục Sinh hiện diện ở
giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ sự hiệp nhất của cộng đoàn
chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm vui của cộng đoàn chúng ta.
Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên sự bình an, Chúa Thánh Thần
và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Đó là một cộng đoàn lý tưởng cho tất cả mọi
cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua muôn thế hệ. Đó là một
cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã thay thế cho sự u buồn
thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm vui, sự bình an này luôn
luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là những con người cụ thể,
như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của mình và cộng đoàn của
chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải qua những thử
thách, những trở ngại.
Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Thomas, thái độ của Thomas,
tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn.
Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay thái độ
của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có
ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm
này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban
sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Thomas để biến đổi ông, và Thomas đã
tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa
Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó không
nên thách thức như Thomas nữa: "Phúc cho những ai không thấy mà tin".
Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn
Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta
lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui
nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng
như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng
đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế để
tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất
với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải:
"Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì
trên trời cũng cầm lại".
Không có phương pháp nhân loại nào khác có sức phục hồi và củng
cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng phương thế siêu nhiên mà
Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng, và chúng ta biết rất
rõ phương thế đó là phương thế nào. Đó là sự tha thứ bí tích, và đó cũng là bí
tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha thứ của Chúa để chúng
ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự hiệp nhất cộng đoàn các
môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu toàn sứ mệnh Chúa đã trao
phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi người chúng ta cần hành động
như Thomas, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ đi những gì không phù
hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể khiêm tốn tuyên xưng mỗi
ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời con, Lạy Chúa, con tin Chúa
là Thiên Chúa và Đấng Cứu Độ của con." Cần phải canh tân đức tin hàng ngày
để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để chúng ta có được sự bình an,
niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi lúc.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh tân đức tin và củng cố đức
tin.
18. Cộng Đoàn
Phục Sinh
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Cả bốn Tin mừng đều thuật lại những lần hiện ra của Chúa Phục
Sinh với những cá nhân (Ga 20,14-17; Mt 278,5-7; Lc 24,25-31; Mc 16,9-13) và
những nhóm môn đệ khác nhau (Mt 28,16-20;Lc 24,36-49;Ga 21,1-23).
Tường thuật Chúa Phục Sinh đến với Nhóm Mười Hai vào ngày thứ
nhất trong tuần có một tầm quan trọng đặc biệt. Nhóm Mười Hai trở thành nền
tảng của cộng đoàn Phục Sinh, thành những chứng nhân mắt thấy tai nghe về Chúa
Phục Sinh, để loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người ( x. CV 4,20).
Khi Chúa đến với Nhóm Mười Hai lần đầu tiên vào chiều ngày thứ
nhất trong tuần thì Tôma vắng mặt. Các Tông đồ đã nói với ông:”Chúng tôi đã
được thấy Chúa”(Ga 20,25). Đây vừa là lời tuyên xưng đức tin vừa là lời làm
chứng về Chúa Phục Sinh. Những lời này có tác dụng chuẩn bị và khơi dậy đức tin
đã phai lạt nơi Tôma.
Tôma đã không tin vào lời của họ. Không tin như thế không phải
chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ khác vẫn chưa có những
dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin. Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng
tin vào lời nói của những người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Thầy lâm nạn,
không một ai trong họ dám lên tiếng bênh vực cho Thầy. Ai cũng sợ bị vạ lây nên
tất cả đã lánh mặt hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không
biết Đức Kitô là ai. Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết đau thương tủi nhục
trên thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người
yếu hèn nhát đảm đó?
Để xoá tan nghi nan của Tôma, Chúa Phục Sinh hiện đến và tỏ cho
Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Trong cộng đoàn Phục Sinh, Tôma tìm
lại được đức tin của mình. Chính cộng đoàn đã thắp sáng lên niềm tin cho người
anh em. Bởi đó, khi Chúa Phục Sinh với lời mời gọi yêu thương:” Tôma,hãy xỏ
ngón tay con vào lỗ đinh,hãy đặt bàn tay con vào cạnh sườn Thầy. Chớ cứng lòng
nhưng hãy tin” thì lập tức Tôma được biến đổi từ bóng tối nghi nan sang ngời
sáng niềm tin “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”(Ga 20,28).
Một trong những khuyết điểm lớn nhất của Tôma là ông đã tự tách
rời khỏi các Tông Đồ khác, khỏi đời sống cộng đoàn. Trong sự choáng váng, thất
vọng, chán nản, trong tâm trạng hoài nghi, đau khổ, ông đã tự nhốt mình trong
sự cô đơn xa lánh anh em,tìm quên lãng trong sự phiền muộn nên đánh mất cơ hội
gặp Chúa Phục sinh. Chỉ đến khi tham gia trở lại với cộng đoàn, thì ông mới gặp
gỡ Ngài và nhờ đó ông đã tìm lại được lòng tin mạnh mẽ, kiên trung. Truyền
thống Giáo hội kể lại, Tông đồ Tôma qua Ấn độ truyền giáo và chịu tử đạo ở đó.
Đức tin của người tín hữu được trao ban và nhận lãnh nơi cộng
đoàn Phục Sinh, cộng đoàn giáo xứ. Nơi cộng đoàn này, người tín hữu được nuôi
dưỡng và lớn lên trong đức tin, hoặc tìm lại được niềm tin của mình.
Đức tin Kitô giáo vừa có chiều kích cộng đoàn vừa có chiều kích
cá nhân. Đức tin cá nhân được cộng đoàn nuôi dưỡng và làm thành đức tin cộng
đoàn. Cộng đoàn lớn lên và phát triển là nhờ đức tin cá nhân. Cộng đoàn làm cho
đức tin cá nhân phong phú và độc đáo.
Lời Chúa được công bố giữa cộng đoàn Thánh Thể chính là Lời Phục
sinh, mỗi người tín hữu lắng nghe và chấp nhận cho riêng mình. Mỗi người, nhờ
lòng tin và lòng mến mà Lời Chúa sẽ sinh hoa kết quả trong tâm hồn.
Mình Máu Chúa được trao ban cho mọi tín hữu trong cộng đoàn
Thánh Thể, mỗi cá nhân tín hữu lại đón nhận với mức độ đức tin khác nhau. Người
tín hữu phải đủ đức tin khi rước Thánh Thể của Đấng đã chết và sống lại.Không
chỉ ăn uống Mình Máu Chúa mà còn là gặp gỡ riêng tư với Chúa Phục Sinh như Tôma
vậy.Trong cuộc gặp gỡ riêng tư này, người tín hữu được đón nhận sự sống dồi dào
vào tâm hồn mình.
Đời sống cộng đoàn thật quan trọng cho niềm tin người tín hữu.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông Huấn “Người Kitô hữu giáo dân” đã đưa
ra bốn hình ảnh về giáo xứ, cộng đoàn Phục Sinh, cộng đoàn Thánh Thể.
* Giáo xứ là một gia đình của Thiên Chúa chan hoà tình bác ái
huynh đệ: mọi người được đón tiếp chân thành,được sống trong bầu khí bác
ái,được cảm thấy mình được kính trọng, được yêu thương che chở,ai cũng cảm thấy
mình thuộc về giáo xứ là một vinh dự.
* Giáo xứ là một cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin:Mọi người được bồi
dưỡng đức tin,được kêu gọi sống đức tin,được giúp hiểu biết các vấn đề đức tin.
Các Thánh lễ, các giờ giao lý,các buổi cầu nguyện luôn hướng về Thiên Chúa,
được Lời Chúa và lời Giáo hội soi sáng để người tín hưũ hiểu biết những biến cố
cuộc đời.
* Giáo xứ là một cộng đoàn có tổ chức: Mọi người được sắp xếp
trong một hệ thống trật tự,có phân công, có trách nhiệm.Tất cả liên hệ với nhau
trong tinh thần hiệp thông, cộng tác, trách nhiệm để xây dựng giáo xứ tốt đẹp.
* Giáo xứ là một cộng đoàn truyền giáo: Đây là hình ảnh mà Công
Đồng Vatian II đề cao nhất,hình ảnh cộng đoàn truyền giáo. Mọi người được nuôi
dưỡng đức tin, được sống tình bác ái để ra đi truyền giáo, loan báo Tin Mừng
Phục Sinh, rao truyền niềm vui, niềm hy vọng như cộng đoàn Nhóm Mười Hai đã ra
đi đến với muôn dân.
Cộng đoàn phụng vụ ngày Chúa Nhật là điểm hẹn chính thức và
thường xuyên của Chúa Phục Sinh với các tín hữu. Không nên lỗi hẹn với Chúa
trong các cuộc họp cộng đoàn ( x.Dt 10,25), trái lại cần chuẩn bị cho cuộc gặp
gỡ với Chúa Phục Sinh. Ngài luôn có mặt để giải thích Kinh Thánh đồng thời mở lòng
mở trí cho các tín hữu hiểu Lời Ngài (x. Lc 24,32.45) và hiến ban chính mình để
nuôi sống người tín hữu chúng ta.
Tôma đã nhờ cộng đoàn yêu thương nâng đỡ mà tìm lại được niềm
tin. Nơi Tôma có cái gì đáng yêu đáng ngưỡng mộ, tuy cứng lòng tin nhưng lại dễ
dàng khiêm nhường đón nhận những góp ý chân thành của cộng đoàn.
Nhờ Tôma mà ta có được mối phúc thứ chín: “Phúc cho ai không
thấy mà tin” (Ga 20,29). Mối phúc này nghe như có lời dặn dò: muốn thấy điều
mình tin, hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy và chừng như cũng có
lời ước hẹn: tin điều mình không thấy sẽ thấy điều mình tin. Mỗi tín hữu vững
tin sẽ thấy điều mình tin để nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa”(Ga 20,18), nhờ
đó cả cộng đoàn cũng đều nói lên: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
19. Nếu tôi
không xỏ ngón tay vào lỗ đinh...
(Suy niệm của ĐGM. Cosma Hoàng Văn Đạt)
Có thể nói thánh Tôma là một người rất hiện đại. Ngài đòi hỏi
phải thấy, phải chạm vào, phải chứng nghiệm được mới tin. Đó chính là não trạng
khoa học đang rất phổ biến trong thế giới ngày nay.
Tất nhiên không phải ai cũng như vậy. Thánh Gioan chỉ cần thấy
ngôi mộ trống thì hiểu Thánh Kinh và tin Chúa Giêsu đã phục sinh. Các môn đệ
khác hầu hết nhờ thấy Chúa Giêsu phục sinh nên tin. Có những người chỉ cần lời
chứng của các tông đồ cũng đủ để tin. Ngày nay hầu hết chúng ta không thấy Chúa
Giêsu hiện ra cho xem chân tay và ăn cá nướng để chúng ta tin. Lời chứng của
các tông đồ và của cả Hội Thánh trong 20 thế kỷ qua được chúng ta coi là đủ để
tin. Đó là những người Chúa Giêsu gọi là "không thấy mà tin".
Nhưng thời nay cũng như thời xưa, vẫn có những người đòi hỏi như
thánh Tôma. Chúa Giêsu đã từng đáp ứng những đòi hỏi xem ra quá quắt ấy của
thánh Tôma ngày xưa. Còn những "thánh Tôma" ngày nay thì sao? Họ chờ
mong được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào vết giáo trên cạnh sườn
nơi thân thể Đức Kitô phục sinh là Hội Thánh. Đã từng có những chi thể của Đức
Kitô mang thương tích vì yêu mến tha nhân, thương tích trên chân tay hay trong
trái tim. Và ngay ở đầu thế kỷ XXI này, những thương tích ấy vẫn khá rõ ràng.
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã "cho thánh Tôma xem năm dấu
mình", nay xin cũng cho các môn đệ Chúa biết yêu mến đến phải mang thương
tích để thỏa mãn những người đòi hỏi phải thấy bằng chứng yêu thương qua những
dấu tích nơi Hội Thánh và từng môn đệ Chúa.
20. Mối phúc
thật Đức Tin – Cố Lm Hồng Phúc
Chúng ta đang ở vào cuối tuần bát nhật Lễ Phục Sinh. Mầu nhiệm
Phục sinh là mầu nhiệm lớn lao hơn cả. Mầu nhiệm căn bản của Đức Tin chúng ta.
Thánh Phaolô nói: “Nếu Chúa Giêsu không sống lại thì niềm tin của chúng ta vẫn
còn trong tội lỗi” (1 Cr 15, 17).
Tại Nhã điển, thủ đô Hy lạp, Phaolô gặp ngoài đường phố những
bàn thờ “kính thần vô danh”. Phaolô dùng sự kiện ấy làm nhập đề và giảng một
bài cho giới trí thức tại Tối cao Pháp viện. Ngài trình bày việc Chúa Giêsu đã
Phục sinh sống lại từ cõi chết. Vừa nghe đến việc người chết sống lại, một nhà
trí thức đứng lên, nhắc cho Phaolô biết lời của nhà hiền triết Eschyle rằng:
“Khi tro bụi đã uống máu một con người, người ấy không bao giờ sống lại”.
Phaolô buồn “rũ áo” đi đến cùng dân ngoại (Cv 17, 22-33).
Đạo Kitô giáo không phải là một triết lý theo quan niệm Hy lạp,
một thứ tam đoạn luận, mà là một cái gì cao siêu hơn: một mầu nhiệm, một sự
sống, một niềm Tin.
Mầu nhiệm ấy, Thiên Chúa không mặc khải cho người khôn ngoan
hiền triết mà cho kẻ bé mọn, để bẻ gãy sự kiêu căng của người khôn ngoan.
Bài Phúc Âm hôm nay là một bằng chứng.
Chiều thứ nhất Phục sinh, các môn đệ họp nhau trong nhà Tiệc ly
nơi Chúa đã lập phép Thánh Thể thứ năm tuần trước và hứa rằng Ngài sẽ trở lại.
Bỗng nhưng, trong khi đóng cửa then cài, Ngài xuất hiện. Ngài đứng đó và nói:
Shalom - Bằng an cho các con. Ngài đến đem sự bìng an vui mừng cho họ và sai họ
đi phổ cập ơn cứu rỗi: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai chúng con”. Chúa
Giêsu nhận lấy cho mình quyền năng tha tội, quyền năng của một Thiên Chúa (Mt
9, 2-8). Hôm nay, Ngài trao lại cho các môn đệ bằng một lời nói, bằng một hơi
thở, “Ngài thổi hơi trên họ và nói: Hãy chịu lấy Thánh Thần. Các con tha tội
cho ai thì tội họ được tha, các con cầm tội ai thì tội họ bị cầm lại”. Ngày
khai thiên lập địa, Chúa thổi hơi ban sự sống cho nguyên tổ Ađam (St 2,7) thì
nay, hơi thở ấy chính là Ngôi Ba Thiên Chúa mà một trong hoa quả là bình an (Ga
5, 22).
Nhưng chiều hôm ấy, trong một nhóm môn đệ thiếu mặt Tôma, một
con người thực tế, khó bảo.
Người ta thường dùng giác quan để tiếp xúc với ngoại giới, mắt
thấy tai nghe, tay sờ đụng, nhưng người ta cũng dùng lý trí để kiểm chứng, dùng
niềm tin để tăng phần hiểu biết.
Tôma nghe các bạn cho biết, họ đã nhìn thấy Thầy vì Thầy đã sống
lại. Tôma không tin. Có lẽ ông nói: “Còn khuya tôi mới tin”, nếu tôi không kiểm
chứng bằng mắt thấy, tay sờ đụng. Thái độ của Tôma lại càng làm nổi bật sự hiển
nhiên của dữ kiện sống lại.
Hôm nay, Chúa hiện ra với các môn đệ có Tôma hiện diện. Chúa
nhắc lại các đòi hỏi của Tôma kéo dài cả tuần lễ nay. Tôma không biết làm gì
hơn là phủ phục xuống và tuyên xưng Đức Tin, “Lạy Chúa là Chúa Trời tôi”, một
lời tuyên xưng trong sáng, tóm tắt tất cả Tin Mừng của Gioan và của chúng ta.
Ngài là Cứu Chúa đã chết để đền tội ta nhưng nay Ngài đã phục
sinh trở về với Thiên Chúa, đồng hàng với Thiên Chúa, chính là Thiên Chúa.
Trong dịp này. Ngài cũng để cho chúng ta, qua Tôma, một mối phúc thật khác là
phúc thật Đức Tin. Ngài nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin,
Phúc cho ai không thấy mà tin” (Gio 20, 29). Đức Tin là một đặc ân của Thiên
Chúa, người ta có thể thành tâm đón nhận cũng như có thể, như dân Do thái xưa,
từ chối ơn Chúa.
Tại Lộ-Đức, Đức Mẹ đã ban nhiều ơn và làm nhiều phép lạ. Cách đây
50 năm, có hai người thời danh là Bác sĩ Alexis Carrel và nhà văn Emile Zola
cùng đi Lộ-đức để quan sát. Cả hai cũng chứng kiến một ơn lạ nhãn tiền. Tại nhà
ga Austerlitz, Zola gặp một người đàn bà hấp hối, bệnh lao đến thời kỳ tuyệt
vọng. Bà tên là Marie Lebranche, Zola nói: “Bà này đến Lộ-Đức khỏi bệnh thì tôi
tin!” Người đàn bà sắp chết đó đi tắm suối Đức Mẹ run rẩy nhưng sau đó chỗi
dậy, cất tiếng hát Ave Maria, rồi tự đi ra hang đá quì cầu nguyện một giờ. Bác
sĩ khám, phổi nguyên lành. Zola ứa nước mắt. Bác sĩ Carrel cũng xúc động, được
ơn trở lại. Bác sĩ viết cuốn “Hành trình Lộ-Đức” để nói lên sự thật; Zola chối
sự thật trong cuốn “Lourdes” của ông.
“Tôma, vì con thấy Thầy nên con tin. Phúc cho những ai không
thấy mà tin”.
Xin Chúa ban cho con mối phúc thật niềm Tin ấy.
21. Đức Giêsu
hiện ra với các môn đệ
(Suy niệm của Lm FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Dựa theo bố cục tổng quát của Tin Mừng Gioan, đoạn văn này nằm
trong chương 20 là chương cuối cùng của phần B (Sách về Giờ của Đức Giêsu), kèm
theo lời kết cho thấy mục tiêu của tác giả khi viết Tin Mừng.
Trong tình trạng tranh tối tranh sáng lúc bình minh, Maria
Mácđala đi đến mộ Đức Giêsu và thấy mộ đã được mở và trống không. Cho tới nay,
có hai sứ điệp của Đức Giêsu Phục Sinh đã bao trùm ngày Phục Sinh (20,2.17).
Vào buổi chiều ngày dài này, Đấng Phục Sinh đã đến gặp các môn đệ Người. Người
gặp họ khi họ đang ở trong phòng cửa đóng kín: họ còn đang ở trong mộ của nỗi
sợ hãi, chứ chưa được thông dự vào sự sống của Người. Đức Giêsu đã đưa các môn
đệ ra khỏi tình trạng bế tắc do phản bội, do sợ hãi. Và Người đã trao sứ mạng
để các ông trở thành sứ giả đi khắp nơi mà ban ơn tha tội, ban sự bình an.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (20,19-23):
a) Lời chào “bình an” thứ nhất với việc chứng minh (cc. 19-20),
b) Lời chào “bình an” thứ hai với sứ mạng (cc. 21-23);
2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (20,24-29):
a) Tôma không tin anh em (cc. 24-25),
b) Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);
3) Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu
(20,30-31).
3.- Vài điểm chú giải
- Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần (19): Cuộc hiện
ra xảy ra tại Giêrusalem vào ngày Chúa Nhật. Bản văn Lc 24,33-49 cho biết Đức
Giêsu hiện ra vào buổi chiều, bởi vì vào lúc xế chiều, Người đã ngồi ăn với hai
môn đệ tại Emmau, rồi hai ông đã trở lại Giêrusalem ngay trước khi Đức Giêsu
hiện ra với cả nhóm. Rất có thể tác giả dùng từ ngữ “ngày ấy” mà chỉ ngày Chúa
Nhật ấy là có ý coi đây là ngày cánh chung, ngày mà Đức Giêsu ban Thánh Thần để
ở lại mãi mãi với các môn đệ (xem thêm cc. 14,20; 16,23.26). Tác giả dùng công
thức “Ngày thứ nhất trong tuần” cho cả hai lần hiện ra ở đây (lần sau đúng một
tuần sau) rất có thể là vì ông muốn nhắc đến thói quen của các Kitô hữu cử hành
Thánh Thể vào “ngày thứ nhất trong tuần” (Cv 20,7; xem thêm 1 Cr 16,2).
- các cửa đều đóng kín (19): Lý do nêu ra trong bản văn là “vì các ông sợ người Do
Thái”, nhưng có lẽ tác giả cũng còn muốn cho thấy là thân thể Đức Giêsu Phục
Sinh có thể đi qua cửa đóng kín. Đây cũng có thể là một ghi nhận về hoàn cảnh
hiện tại của các môn đệ.
- Bình an cho anh em (19): Trong tiếng Hípri, shâlôm (= bình an, HL eirênê) là
một lời chào thông thường. Nhưng trong văn cảnh long trọng ở đây, lời của Đức
Giêsu có ý nghĩa khác, không phải chỉ là “Cầu chúc anh em được bình an”, như
thể họ còn phải chờ đợi sự bình an đến trong tương lai. Ở đây, lời Đức Giêsu
nói là một nhận định về thực tại: chắc chắn họ đang có sự bình an của Người.
- Như Chúa Cha đã sai Thầy (21): Trong các Tin Mừng khác, cũng có
lời sai đi này (x. Mt 28,19; Lc 24,47), nhưng ở đây, mẫu mực cho việc sai đi là
quan hệ của Con với Cha (một đề tài thần học của Ga, xem 17,18).
- Người thổi hơi vào các ông... Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần (22): Hành động
này nhắc nhớ đến làn hơi sáng tạo của Thiên Chúa trong St 2,7. Làn hơi của Đức
Giêsu chính là Thánh Thần. Trên thập giá, Người đã “trao Thần Khí” (paredôken
to pneuma; trước đây, vì không quan tâm đến thần học của tác giả Ga, người ta
đã dịch là “trút hơi thở”) (19,30): Người đã trao ban Thánh
Thần cho những người đứng dưới chân thập giá, đặc biêt cho thân mẫu Người,
tượng trưng Hội Thánh hoặc Dân mới của Thiên Chúa, và cho người môn đệ Người
thương mến, tượng trưng các Kitô hữu.
- Anh em tha tội cho ai...; anh em cầm giữ ai... (23): Câu này có
vọng lại Ds 22–24 bằng tiếng Hy Lạp (Bản LXX), Truyện Bilơam: chẳng hạn so sánh
Ga 20,23 // Ds 22,6 LXX. Theo bản văn Hípri, vua Balác xác tín rằng “kẻ nào bị
ông nguyền rủa thì mắc họa/bị nguyền rủa” (Ds 22,6 Hípri), nghĩa là sẽ bị
nguyền rủa qua lời nguyền Bilơam tuyên bố. Ông không bận tâm với quyền năng của
Thiên Chúa Israel, là Đấng có đồng ý thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc
nguyền rủa (Ds 22,12; 23,8). Ngược lại, trong bản văn Hy Lạp, lời của Balác ở
22,6 có một ý nghĩa có thể giải thích theo hai hướng: có thể hiểu “được phúc”
(eulogêntai) và “mắc họa/bị nguyền rủa” (kekatêrantai) vừa theo nghĩa một hậu
quả sẽ xảy ra trong tương lai gần (bản văn Hípri: dạng phân từ và vị hoàn), vừa
theo nghĩa một lời thú nhận không chủ ý rằng chỉ những ai đã được Thiên Chúa
chúc phúc hoặc bị Thiên Chúa nguyền rủa thì Bilơam mới có thể chúc phúc hoặc
nguyền rủa. Đó chính là điều Thiên Chúa đã nói với Bilơam: “Ngươi không được đi
với chúng! Không được nguyền rủa dân đó, vì nó đã được chúc phúc (estin gar
eulogêmenon)”. Bilơam không thể nguyền rủa kẻ đang sống trong tình trạng được
chúc phúc, từ đó chúng ta hiểu là kẻ nào ông nguyền rủa được, kẻ ấy đã đang bị
Thiên Chúa nguyền rủa rồi. Balác đã nói như thế và ông có lý, mà ông không
biết.
Dạng hoàn thành apheôntai (“được tha”) và kekratêntai (“bị cầm
giữ”) ở Ga 20,23 có thể được hiểu như thế.
- Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton
kyrion, 25): Heôrakamen là thì hoàn tất của động từ horaô, diễn tả việc “thấy”
kèm theo sự hiểu biết thật sự.
- Nếu tôi không thấy dấu đinh... (25): Đây là lời Tôma
khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng phải hiện ra với
ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng yêu cầu của ông,
Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.
- Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin (27): Dịch sát
là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”. Đức Giêsu mời
Tôma thay đổi thái độ.
- Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (28): Đây vừa là
một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng chủ-cách (= “Lạy Chúa và lạy Thiên
Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên xưng đức tin (= “Ngài là Chúa và Thiên
Chúa của con”) độc đáo chưa ai làm. “Chúa của con” nhắm đến Đức Giêsu của lịch
sử, còn “Thiên Chúa của con” là một lượng định mang tính thần học về bản thân
Người. Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì Maria Mácđala và các môn đệ đều
đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị “Chúa tể” này là “Thiên
Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là một
phép thế đôi (hendiadys): “Chúa của con” cũng là “Thiên Chúa của con”.
- là để anh em tin rằng (31): Bản văn Hy Lạp ghi “để anh em tin” là hina pisteu[s]ête
(với con chữ sigma nằm trong ngoặc đơn), tức là có thể đọc hina pisteusête hoặc
hina pisteuête. Cả hai cách đọc đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa
rất khác nhau:
(1) Cách đọc thứ nhất, hina
pisteusête (subjuntive aorist): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em
có thể đi đến đức tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật là
truyền giáo. Những người nhận bản văn hẳn là những người ở bên ngoài cộng đoàn
Kitô hữu.
(2) Cách đọc thứ hai, hina
pisteuête (subjuntive present): Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em
tiếp tục tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến
thiện. Những người nhận bản văn hẳn là những người thuộc về cộng đoàn Kitô hữu.
Cho dù cách hợp lý hơn là cách đọc thứ hai, ta cũng không thể
chỉ vì có hoặc không có một con chữ sigma (s) mà phân biệt để xác định rằng mục
đích của tác phẩm là truyền giáo hay không. Ta còn phải khảo sát tất cả các
cách dùng liên từ hina, rồi khảo sát cấu trúc văn chương tổng quát của tác phẩm.
Dù sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có thể nghĩ rằng tác phẩm được ngỏ
với những người đã là Kitô hữu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong cả hai lần Đức Giêsu hiện ra, thời gian là “ngày thứ nhất
trong tuần”, “ngày của Chúa”, ngày Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những
lời như nhau, “Bình an cho anh em!”. Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn
Kitô hữu. Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho các môn đệ của Người.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (19-23)
Các môn đệ đang sống trong căn nhà cửa đóng then cài, “vì sợ
người Do Thái” (c. 19). Điều này hiểu được sau khi Đức Giêsu qua đời, nhưng có
lẽ cũng phản ánh hoàn cảnh của các môn đệ vào lúc Gioan viết Tin Mừng. Nhiều
lần, trong tác phẩm, ta thấy những ai thuộc về nhóm Đức Giêsu đều sợ bị đuổi ra
khỏi hội đường (x. 9,22). Các môn đệ lúc này không còn là mười hai nữa, mà là
mười một, rồi đọc thêm nữa thì thấy chỉ còn có mười. Khi hiện ra, điều đầu tiên
Đức Giêsu làm là cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các
ông. Rồi Người nói: “Bình an (eirênê) cho anh em!” (c. 19). Không chỉ nói về
bình an, Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết
thương (tay [chân] và cạnh sườn). Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập
giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Không có sự buồn phiền khi trông thấy các
dấu vết của cuộc Thương Khó. “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa” (c. 20).
Chỉ có niềm vui bởi vì thời điểm tiêu cực cuộc cuộc Thương Khó đã bị vượt qua.
Các môn đệ vui mừng bởi vì Đức Giêsu vui mừng và chuyển thông niềm vui cho họ.
Các ông cũng vui mừng bởi vì Đức Giêsu đã hoàn tất sứ mạng của Người.
Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông một lần nữa, rồi
cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người
là tha tội. Sau khoảnh khắc nhận biết, như trong trường hợp Maria Mácđala, bây
giờ đến một loại tương quan khác. Ở c. 20, Đức Giêsu nói tiếp: “Như (kathos)
Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (c. 21). Chỉ là một chuyển động
duy nhất: Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách
môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào
Người, để rồi trong Người, các ông được thông hiệp với Chúa Cha. Điểm này rất
quan trọng: tất cả những gì các môn đệ làm, các ông không tự mình mà làm, nhưng
làm theo lệnh Đức Kitô.
Thế rồi để các ông chu toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các
ông Chúa Thánh Thần: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (c. 22). Chính Thánh Thần
sẽ ban cho các môn đệ sức mạnh để làm chứng “ad extra” (hướng ra bên ngoài).
Nhưng không chỉ có thế. Dấu chỉ cụ thể của ân ban này là sự tha tội: “Anh em
tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm
giữ” (c. 23). Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn đệ sẽ
tha tội và cầm buộc. Có dây liên kết rõ ràng giữa ân ban Thánh Thần và quyền
tha tội để xây dựng nội bộ cộng đoàn. Đều này nêu bật chiều kích “ad intra”
(hướng vào bên trong). Sứ mạng và sự tha tội đi chung với nhau và là hoa trái
của cùng một Thánh Thần do Đức Giêsu ban tặng.
Ở trong một thế giới đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã
có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và
niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các ông và làm cho các ông có
thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn đệ không được
khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào
thế giới.
* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (24-29)
Khi Đức Giêsu đến, Tôma, một trong Nhóm Mười Hai, không ở với
các môn đệ. Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và được Người sai đi
(cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa (heôrakamen ton
kyrion)!” (c. 25). Đây không phải chỉ là lời chia sẻ thông tin về một sự kiện,
mà còn là một lời tuyên xưng đức tin: các ông (“chúng tôi” , tương tự cộng đồng
Hội Thánh) đã thấy Thầy, mà các ông gọi là “Chúa” (danh xứng của Đức Giêsu sau
Phục Sinh), và các ông đã hiểu, đã tin. Nhưng Tôma không tin anh em; ông nêu ra
những điều kiện: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin” (c. 25). Tôma muốn làm cho rõ ra là Đấng Phục Sinh chẳng phải là ai khác,
mà chính là Đấng đã chịu đau khổ và đã chết, là đây không phải là một Giêsu
khác, nhưng vẫn là Giêsu như trước đây. Trách Tôma cứng tin, hay không hiểu gì
cả, là quá đáng! Ông muốn có một kinh nghiệm cá nhân, ông muốn chính ông đạt
tới đức tin. Đức Giêsu đã chấp nhận các điều kiện của ông. Người chấp nhận tỏ
mình ra theo cách có thể giúp Tôma nhận biết Người.
Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, và cũng như lần trước,
Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở. Rồi Người ngỏ lời với
Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã xảy ra? Chúng ta không biết, vì bản
văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu chứng tỏ rằng kể từ
nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho dù về thể lý, họ không nhìn
thấy Người. Người bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy.
Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (c. 27). Người cho Tôma thấy những dấu
chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng chứng minh rằng Người là nguồn
mạch ơn cứu độ. Có người cho rằng Tôma đã đưa tay chạm tới Đức Giêsu. Hẳn là
không cần như thế. Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, một lời tuyên
xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa của con” (c.
28). Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến gần Đức
Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên
Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan hệ với Người có tính vững
bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa. Sau đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự
đối lập giữa “thấy” (horaô) và “tin” (pisteuô) (cc. 8b. 18. 20b. 25ab. 27.
29ab; x. 1,45; 4,50), và nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay,
chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là động
lực đưa moi người đến đức tin, chứ không phải là kinh nghiệm về một cuộc hiện
ra trực tiếp của Đấng Phục Sinh hay về một thánh tích.
* Kết luận Kitô học: Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu
(30-31)
Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục tiêu của công trình của Đức
Giêsu và cho thấy, đối với những người không được thấy, đâu là nẻo đường đưa
tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô,
Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con,
chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha. Đó là sự sống đời đời. Phải
chăng ở đây có nguy cơ chủ quan? Chính là xuyên qua tính chủ quan mà ta đạt được
tính khách quan. Kinh nghiệm đức tin của một người riêng lẻ phải được đối chiếu
với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn. Đức tin của một người tự nó không đủ.
Chứng từ của cộng đoàn luôn cần để bảo đảm cho đức tin của từng người. Tuy
nhiên, đức tin của cộng đoàn không bao giờ thay thế đức tin của từng người. Nếu
TM IV có nhấn mạnh là nhấn mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị của tương quan
với Đức Giêsu Phục Sinh.
+ Kết luận
Chúng ta có thể đọc bản văn trên đây như một bức tranh bộ đôi:
trong tất cả các bài tường thuật này, ta ghi nhận chiều kích cá vị trong tương
quan với Đức Giêsu. Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an
(20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an
này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng
Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng
cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự
lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống
giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của
sự bình an của các ông.
Đã nhận được các lời chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma,
các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là
Con Thiên Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ
Người là Chúa Con, các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Các môn đệ của Đức Giêsu cần xác tín rằng Đấng đang sống giữa
họ cũng chính là Đấng đã chết trên thập giá; các ông cũng phải nhận biết rằng
Người vẫn mang những vết tích của cuộc Thương Khó, dù đã sống lại; Người chính
là “Con Chiên đứng như thể đã bị giết” (Kh 5,6). Các vết thương ấy là dấu chứng
tỏ tình yêu vô biên của Người, nhưng cũng là dấu cho thấy sự tàn ác của loài
người: dấu của tình yêu vô biên, để họ luôn luôn tin tưởng dấn thân; dấu của sự
tàn ác con người, để họ có cái nhìn thực tế, biết rằng mình dấn thân vào trong
thế giới nào.
2. Tôma đã tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu theo cách chưa ai
làm: “Lạy Chúa của con và lạy Thiên Chúa của con”. Ông đã đi theo con đường dài
hơn con đường của các anh em, nhưng đã đến gần Đức Giêsu hơn. Đối với cá nhân
ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là Thiên Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu,
ông bày tỏ niềm tin vào Người. Maria Mácđala cũng như các môn đệ đã tin vào Đức
Giêsu như là Đức Chúa. Tương quan của họ với Người nay có giá trị vĩnh viễn và
trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính là Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa
đang tìm đến gần con người để ban cho con người sự sống đời đời. Tôma nhận biết
Đức Giêsu như thế và gắn bó với Người. Do đó, người nào chỉ nói đến một Tôma
thiếu lòng tin, là quên mất là ông đã đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của
Đức Giêsu. Thật ra các tông đồ đều thấy tin vào sự Phục Sinh là điều không dễ
chút nào!
3. Chúng ta thấy Đức Giêsu để cho mình được nhận biết bởi bà
Maria Mácđala, bởi người môn đệ Người yêu mến và bởi Tôma theo cách khác nhau.
Đây là nét đặc trưng của Tin Mừng Gioan. Các “dấu chỉ” hoặc các “bằng
chứng”, được thích ứng với từng người. Đức Giêsu thuận theo các đòi hỏi của mỗi
người. Rồi Người đưa mỗi người đến với đức tin ở bên kia các dấu chỉ ấy. Luôn
luôn cần những dấu chỉ, nhưng cũng phải luôn luôn vượt qua các dấu chỉ. Đàng
khác, kinh nghiệm đức tin của mỗi người phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức
tin của cộng đoàn.
4. Nghe lời “Phúc cho những người không thấy mà tin”, chúng ta
cảm thấy phấn khởi vì chúng ta đâu có được thấy Đức Giêsu bằng xương bằng thịt!
Nhưng tại sao lại “có phúc” có lẽ chúng ta nghĩ rằng bởi vì tin dù không thấy
thì khó hơn, nên có công trạng hơn. Thật ra, “có phúc” là vì niềm tin này trung
thực hơn, tinh trong hơn. Người nào thấy thì đã có sự chắc chắn, có chứng cớ
không thể chối cãi về một sự kiện, nhưng như thế thì không phải là đức tin.
5. Hôm nay, ngày lễ “Lòng Thương xót Chúa” mà Đức cố giáo hoàng
Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức
Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô
II phong thánh 30-4-2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người
mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ
đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích
Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy
cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy
Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng
Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ
cho nhau.
22. Tin – người có
phúc
Chuyện kể rằng: Một môn đệ của Khổng Tử hỏi sư phụ: "Thưa
thầy, đâu là yếu tố cơ bản của một chính quyền vững chắc?". Sư phụ đáp:
"Đủ lương thực, binh khí và lòng tin của dân". "Nhưng giả sử
thầy phải cắt giảm một trong ba thứ đó, thầy sẽ bỏ cái nào?". "Binh
khí". "Giả sử chỉ chọn một trong hai thứ còn lại, thầy sẽ bỏ cái
nào?"."Lương thực. Chết là phần số của mọi người. Nhưng dân tộc không
còn lòng tin vào lãnh đạo, dân tộc ấy sẽ tan rã!".
Vâng, không chỉ trong cộng việc lãnh đạo đất nước, mà bất cứ mối
quan hệ nào cũng cần phải có lòng tin. Vợ chồng tin nhau, trò tin thầy, bạn bè
tin tưởng nhau, tin tưởng đối tác làm ăn... Nếu mất niềm tin lẫn nhau, chẳng
thể giao tế gì với nhau được nữa. Do đó, mỗi người phải tạo uy tín cho mình nơi
người khác dựa trên sự thật.
Tin mừng về "Đức Kitô đã bị giết đi và Thiên Chúa đã cho
Người sống lại" (x. Cv 2,23-24) không phải là tin đồn nhảm. Đây cũng không
phải là chuyện bịa đặt lừa dối thiên hạ. Chính các Tông đồ đã thấy và đã làm
chứng. Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại biến cố Đức Giêsu hiện ra với các Tông đồ,
cho các ông tận mắt xem thấy thân xác sống lại của Người và sai các ông đi loan
báo cho mọi người, để mọi người "nhờ tin mà được sống nhờ danh Người"
(Gn 20,31).
Đức Giêsu không bao giờ lừa dối chúng ta. Hơn nữa, việc nầy
chẳng mang lại cho Người ích lợi gì. Nhưng vì phần rỗi của chúng ta, Người đã
hiện ra với các Tông đồ, những người bảo tồn và loan báo niềm tin Phục Sinh.
Như vậy, niềm tin của chúng ta không đơn độc, không mù quáng. Chưa có một bằng
chứng nào cho thấy tin vào Đức Kitô Phục Sinh là chuyện hoang đường, phù phiếm.
Có hay chăng chỉ là những suy nghĩ thiếu đức tin mà thôi. Thử hỏi những kẻ chối
bỏ niềm tin Phục Sinh giờ ở đâu? Tất cả đã qua đi với thời gian. Đức Kitô Phục
Sinh vẫn ngời sáng từ lúc bước ra khỏi huyệt mộ cho đến ngày nay. Điều đó được
minh chứng bằng Tin Mừng Phục Sinh của Người, Tin mừng ấy đã - đang và sẽ vang
mãi cho đến tận cùng thời gian.
"Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin" (Gn 20,25). Sự cứng lòng của Tôma phản ánh lại thử thách đức tin mà
mỗi người chúng ta thường gặp phải. Rất nhiều lúc chúng ta rơi vào tình cảnh
của Tôma, "không thấy, không tin", một đòi hỏi về tính chắc chắn.
Nhưng nếu đã thấy rồi thì chỉ chấp nhận sự thật thôi, khi đó không cần đến lòng
tin nữa. Như thế, tin là chấp nhận những điều mình không thấy; và tin như thế
mới thật là có phúc (x. Gn 20,29).
"Vì đã thấy Thầy nên anh tin, phúc cho những ai không thấy
mà tin" (Gn 20,29). Lời phê bình nhắm vào sự bướng bỉnh của Tôma, lại là
lời khích lệ đối với chúng ta, là những người được đòi hỏi phải tin vào Đức
Kitô Phục Sinh, mặc dù không có khả năng nhìn thấy hoặc đụng chạm vào Người.
Người ta nói: "Muốn xem thấy cầu vồng, phải biết chịu đựng cơn mưa".
Thiên Chúa để chúng ta gặp thử thách trong đời sống đức tin là vì yêu ta và để
ta chứng tỏ tình yêu dành cho Ngài. Giữa những thử thách mà ta vẫn giữ được
lòng tin của mình thì ta càng xứng đáng hơn với tình yêu Chúa dành cho ta.
23. Chúng tôi đã thấy
Chúa
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được tôn vinh lên làm Chúa,
nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các môn đệ.
Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông.
Ngài đưa các ông ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng
kín cửa âm u.
Ngài chúc cho họ bình an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay
giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến
thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự
vào cùng một sứ mạng: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em."
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc
thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Đức Giêsu phục sinh.
Chỉ biết ông đã "không ở với" các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa
ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông
thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: "Chúng tôi đã thấy
Chúa." Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. "Nếu tôi
không thấy... nếu tôi không xỏ ngón tay... nếu tôi không thọc bàn tay... tôi sẽ
chẳng tin đâu." Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài
muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông
cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều
ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã
thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại. Quanh chúng
ta vẫn có nhiều người giống Tôma. Họ đòi "thấy và chạm đến" những
thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn, đời sau.
Nếu "thấy và chạm" có nghĩa là "có cảm
nghiệm", thì đòi hỏi trên thật là chính đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được
thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp người khác thấy và chạm đến
những điều vô hình nhưng có thật. Chúng ta cần sống như người đang thấy Thiên
Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao, cần bay lên khỏi cái nặng
nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin, làm cho người ta thấy và
chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng ta phải nói được rằng:
"Tôi đã thấy Chúa" (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng ta phải nói
được rằng: "Chúng tôi đã thấy Chúa" (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn thấy đức tin
đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn có thấy cuộc
đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
2. Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai chưa được hưởng
niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt qua của
Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của con,
Vượt qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui sướng và can đảm vượt qua,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an
và hy vọng, tin tưởng và niềm vui.
Ước gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
24. Biểu lộ
niềm tin
Anh chị em thân mến.
Trong một đoàn xiếc, có những diễn viên bước ra sân khấu người
ta vẫn không biết người đó sẽ biểu diễn trò gì. Nhưng có một người vừa bước ra,
thì không ai bảo ai, mọi người đều vui mừng vì họ sẽ được những giây phút thư giãn,
được những trận cười thoã thích. Nhìn vào anh hề, người ta biết anh ta sẽ mang
đến cho họ một sứ điệp vui mừng. Từng cử chỉ, từng điệu bộ, những lời nói, tất
cả mọi hành động đều mang sứ điệp của niềm vui.
Nếu một người nào khác, làm nhiệm vụ thay thế cho anh hề, thì họ
cũng phải có phong cách như thế nào để mọi người nhận ra được phong cách vui
mừng mà họ thay thế. Nếu không làm được như thế thì họ sẽ khó được mọi người
chấp nhận.
Vừa nghe qua bài phúc âm, có lẽ cảm giác đầu tiên đến với mọi
người là Chúa Giêsu khó chịu vì Tôma quá cứng tin, không chịu nghe những gì các
tông đồ chứng kiến và thông báo lại cho ông. Không phải thế. Chúng ta bình tâm
nghe lại lời Chúa Giêsu, một lời nhẹ nhàn thân mật, một lời khiến cho Tôma cảm
động và giật mình, một lời đi vào tận cõi riêng tư của ông mà ông cảm nhận
được, lời khiến ông không thể nào đứng yên được mà phải quỳ gối xuống để tuyên
xưng niềm tin của mình. Những gì Tôma suy tưởng, những gì ông nói, những gì ông
làm, Chúa đều biết cả. Ông cảm nhận được đều đó. Cảm động hơn nữa là Chúa Giêsu
còn nhớ đến ông đặc biệt hơn những người khác, đáp ứng nhu cầu của ông. Nhận ra
như thế ông liền biểu lộ niềm tin của mình.
Còn các tông đồ cũng báo tin cho Tôma: các ông bảo rằng đã nhìn
thấy Chúa sống lại, chúc bình an cho các ông, Chúa sai các ông đi rao giảng Tin
Mừng. Làm sao Tôma có thể tin được các ông ấy khi các ông vẫn ngồi yên bất động
trước lệnh truyền của Đấng đã sống lại. Các ông vẫn hèn nhát, vẫn trốn tránh
mọi người, vẫn ưu sầu phiền muộn, vẫn không có gì đổi mới. Làm sao Tôma có có
thể tin được những người lãnh sứ mệnh loan báo Tin Mừng, nhưng không có một
chút nào là vui mừng. Làm sao Tôma có thể tin được nơi những người không có một
chút niềm tin nào trong cuộc sống để cho ông nhìn thấy.
Chỉ cần nhìn thấy Chúa Giêsu, Tôma biểu lộ niềm tin của mình
ngay: ông không thể ngồi yên bất động, ông quỳ xuống và tuyên xưng "Lạy
Chúa Tôi, lạy Thiên Chúa của tôi".
Trong cuộc sống đời người, mỗi người mang lấy một sứ điệp mà
Thiên Chúa trao ban, để đem Tin Mừng của Chúa đến cho người khác. Mọi người
nhìn vào nơi chúng ta và có nhận ra được rằng chúng ta mang đến cho họ sứ điệp
như thế nào không? Làm sao người khác nhận được niềm vui nơi gương mặt không có
nụ cười, làm sao có được niềm vui nơi một gương mặt giận dữ và những lời nói
nặng nề biều lộ sự nóng nãy, giận hờn với những lời chua cay khó chịu. Cũng
thế, làm sao có được niềm vui nơi những người chỉ biết trốn chạy, với những lời
nói khô khan. Như thế mọi người làm sao có thể tin vào Chúa Kitô được với những
sứ giả Tin Mừng như thế.
Mọi người nhìn vào trong chúng ta và họ nhận ra được Tin Mừng,
khi họ nhìn thấy được một con người biết đổi mới cuộc sống mình tốt hơn. Mọi
người chỉ nhận được Tin Mừng nơi những người sống Tin Mừng thật sự.
Nếu chúng ta vượt qua được những ưu sầu phiền muộn của cuộc
sống, với sự bình tâm chấp nhận mà vẫn có được niềm vui khi đón nhận người
khác. Nếu chúng ta nhận ra được Chúa Phục Sinh và lắng nghe mệnh lệnh của Ngài
để thi hành trong hoàn cảnh sống, để biết đến và giúp đở mọi người khi cần
thiết, biết nói những lời động viên an ủi, biết giằng lại một chút nóng giận để
có thể cho đi một nụ cười, biết nhẫn nhịn khi bi thiệt thòi chút ít, biết chấp
nhận để nâng đỡ người khác làm cho đời sống được nhẹ nhàng hơn. Nếu chúng ta
biết quỳ gối cảm tạ Chúa, vì nhận ra hồng ân lạ lùng của Chúa ban cho mình, thì
thật là hạnh phúc cho chúng ta. Khi đó chúng ta không cần phải dùng lời nói mà
loan báo Tin Mừng, nhưng chúng ta đã thi hành mệnh lệnh Chúa bằng hành động
thật sự. Khi đó chúng ta đáng được lời Chúc phúc của Chúa Giêsu "Phúc cho
những ai không thấy mà Tin".
Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa ban đức tin cho mỗi người, để
biết sống đức tin bằng chính đời sống hằng ngày, và biết đem Tin Mừng cho những
người chung quanh.
25. Đức tin
và lý trí
Sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không những là chuyện khó tin, khó
hiểu đối với người thời đại nhưng nó vẫn luôn là một thách thức cho niềm tin
của mọi Kitô hữu và ngay cả các tông đồ là những người sống cùng thời với Chúa.
Mà đại biểu cho niềm tin yếu kém ấy chính là tông đồ Tôma.
Chúng ta phải công nhận rằng, dù sống cách chúng ta hằng 20 thế
kỷ nhưng Tôma có tâm trạng và lối suy nghĩ giống với suy nghĩ của con người
sống trong thời đại khoa học hôm nay. Ông thuộc mẫu người có đầu óc thực tế.
Ông chỉ xác nhận những gì là chân lý khi được kiểm chứng bằng giác quan. Tuy
nhiên, ông quên một điều quan trong là không phải tất cả mọi vấn đề trong cuộc
sống là tuyệt đối và chắc chắn, điều có thể kiểm chứng bằng giác quan, nhất là
trong lãnh vực tinh thần. Khổng Tử có nói: "những gì mắt thấy, tai nghe
chưa hẳn là sự thật".
Qua thật, kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta thấy, có quá nhiều
vấn đề mà chúng ta không thể giải quyết với kiến thức khoa học. Khoa học không
phải là tất cả và sự hiểu biết của con người vẫn luôn là giới hạn. Khoa học
không thể cho chúng ta thấy được ý nghĩa của cuộc sống này, cũng như không thể
cất đi những đau khổ mà con người đang phải đương đầu gánh chịu. Nhưng câu hỏi:
Con người từ đâu tới? Rồi sẽ đi về đâu? Đằng sau cuộc sống đầy những nuớc mắt
và hạnh phúc là gì...? Vẫn luôn là một dâu chấm hỏi thách thức các nhà khoa
học.
Chúng ta tưởng rằng khi khoa học phát triển đến một cạnh giới
rực rỡ thì chúng có có thể xóa hết mọi đau khổ của kiếp người. Nhưng thực tế
cuộc sống hôm nay cho chúng ta câu trả lời chính xác: có qua nhiều chiến tranh,
quá nhiều bệnh tật, quá nhiều vũ khí giết người tối tân do con người tạo
ra...một sự thật là con người có nguy cơ là nạn nhân của khoa học: vũ khí hạt
nhân, bom nguyên tử... Đương nhiên chúng ta không phủ nhận những giá trị và
những cống hiến của khoa học cho công ích con người nhưng nếu khoa học không
được đặt trên nền tảng ý nghĩa của cuộc sống con người thì nó trở thành thảm
họa cho nhân loại.
Với cách suy nghĩ cá nhân và với đầu óc khoa học của mình, Tôma
có quyền đặt nghi vấn cho sự kiện phục sinh của Chúa Giêsu do các Tông đồ thuật
lại. Ông đòi được thấy và chạm vào Chúa. Và rồi Chúa đã hiện ra, có mặt Tôma.
Chúa chê ông cứng lòng tin trước những lời chứng của anh em. Nhưng Ngài cũng
đáp ứng khát vọng của ông. Để# rồi ông cũng đượcthấy và tin như anh em.
Xung quanh chúng ta hôm nay, cũng có nhiều người như Tôma, thậm
chí còn cứng lòng hơn Tôma. Họ đòi được thấy và chạm đến những thực tại vô hình
như: Thiên Chúa, linh hồn, đời sau... rồi mới tin. Nhưng liệu khi thấy và chạm
đến thì đức tin có còn cần thiết và có ý nghĩa gì nữa không?
Thật ra đức tin và lý trí không mâu thuẫn nhau. Nhưng bổ túc cho
nhau: chính đức tin làm cho chúng ta hiểu biết sâu rộng hơn và cũng chính nhờ
lý trí mà niềm tin của chúng ta thêm vững chắc.
Trước những tực tại vô hình thì sự tuân phục của đức tin vẫn
luôn cần thiết. Chính nhờ sự tuân phục của đức tin mà những người phụ nữ viếng
mồ Chúa nhận ra Chúa Giêsu phục sinh và trở thành nhân chứng cho Người. Các
Tông đồ cũng thế. Cách nào đó họ có diễm phúc hơn chúng ta. Nhưng đức tin của
họ cũng không được trang bị hơn chúng ta bao nhiêu khi đứng trước sự kiện Chúa
Giêsu sống lại và hiện ra. Sự khác biệt giữa Tôma và các Tông đồ khác chính là
sự tuân phục của đức tin. Phép lạ chính yếu không phải là một việc phi thường
mà trước tiêm là một gặp gở trong đức tin. Chỉ có trong đức tin con người mới
nhận ra phép lạ, và cũng chỉ trong đức tin chúng ta mới có thể gặp được Đức
Kitô phục sinh.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã
thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói lên rằng Chúa đã sống lại. Vì
thế, chúng ta cũng phải giúp người khác thấy và chạm đến Chúa. Muốn thế, chúng
ta cần phải sống như người đang thấy Chúa. Thấy Chúa phục sinh khi sống thanh
thoát, không bám díu vào những danh lợi thấp hèn. Tin Chúa phục sinh khi nhận
ra ý nghĩa của thập giá đau khổ chỉ là chặng đường tiến đến sự sống vĩnh cữu.
Tin vào Chúa Phục sinh là dám hiến thân vì hạnh phúc nhân loại. Vì nếu tin vào
Chúa phục sinh mà con tha thiết với cuộc sống trần thế đến nỗi sợ thiệt thân,
ngại hy sinh... thì đó là niềm tin giã tạo.
Lạy Chúa Kitô phục sinh, xin cho ánh sáng của Chúa hướng dẫn tâm
trí, suy nghĩ và hành động của chúng con, để trong tất cả mọi sự chúng con luôn
sống theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con nhận ra được giới hạn của lý trí và
sự yếu kém của đức tin để cần được Chúa gia tăng đức tin và mở mang trí hiểu.
Ước gì sự hiểu biết của con không làm cho con rời xa Chúa mà kéo chúng con đến
gần Ngài hơn để chúng con nhận ra tình thương của Chúa hiện diện quanh con
trong từng phút giây của cuộc sống.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của những
lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm.
Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm ta kém
đẹp, nhưng không làm đau như xưa.
Khi Chúa Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ
nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo.
Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo
nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu;
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó
chẳng đẹp gì.
Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem.
Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên
những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng
chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái
chết nhục nhã.
Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích.
Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên
nhịp cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành. Có
những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo.
Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương. Các vết sẹo
của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó.
Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Chính lúc đó ông khám
phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.
Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông.
Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những
đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.
Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào
thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy.
Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin
Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy.
Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng
ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin.
Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh,
của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn
trở và vấp váp, thất bại và khổ đau.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin", và phúc cho
những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh đã tặng cho
các môn đệ những món quà nào?
Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ của ông
Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải
gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi.
Dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại
với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng
như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng
suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho
đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một
lời kinh. Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng
cuối cùng. Và con sẽ về nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
27. Cho niềm tin
quay về
Sau cái chết của Thầy Giêsu, thì kể như mọi hy vọng và kế hoạch
âm thầm nơi các môn đệ của Ngài cũng tan thành mây khói. Giờ đây, ngẫm nghĩ
"sự đời", chắc các ông hơi nuối tiếc và hối hận vì đã chọn lựa sai
lầm khi bước theo một người thầy có tên gọi Giêsu! Giờ đây, các ông phải sống
trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do thái; sợ họ làm khó dễ một phần, nhưng
chắc cũng sợ miệng đời thị phi! Tôma, người hay vắng mặt nơi cộng đoàn bé nhỏ
này chắc cũng vì đang mang tâm trạng buồn chán và thất vọng ấy. Tôma ra đi kéo
theo cả niềm tin đã tắt lịm hay đã lệch hướng theo mình.
Nhưng rồi mọi sự đã thay đổi trong chớp mắt, vượt quá sức mong
đợi hay nghĩ tưởng của các môn đệ Đức Giêsu. Ngài đã hiện đến với các ông mang
theo niềm vui, hy vọng và bình an tràn đầy tâm hồn các ông. Aùnh sáng đã bừng
lên giữa màn đêm tăm tối. Cộng đoàn bé nhỏ ấy đã bừng lên ánh sáng tin yêu và
hy vọng. Nhưng niềm vui của các ông cũng còn chút gì đó chưa trọn vẹn bởi còn
một thành viên đang vắng mặt. Rồi Tôma trở về, về thăm anh em mình nhưng cũng
trong tâm trạng buồn hiu và thất vọng của ngày nào. Niềm tin của ông vẫn còn
tắt lịm hay đang lạc lối nơi nao. Nghe các anh em bạn mình nói là đã thấy Thầy
hiện ra và Thầy vẫn đang sống, ông cho đó là chuyện đùa của trẻ con. Niềm tin
tắt lịm đã không cho ông tin nhận điều đó. Ông đã phủ nhận những gì các anh em
mình nói lại bằng những lời đầy thách thức: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở
tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh
sườn Người, tôi chẳng có tin" (Ga 20, 25).
Rồi 8 ngày sau đó, Tôma đã chứng kiến được điều ông đã liều lĩnh
nói trong lúc chán nản vì thiếu vắng niềm tin. Và khi đã tận mắt nhìn thấy Chúa
Giêsu, ông đã thốt lên rằng: "Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi".
Lời nói của một con người tuyệt đối tin tưởng được thốt ra. Niềm tin của Tôma
giờ đây đã sống lại, đã quay về với ông cách mãnh liệt nhất. Tôma là môn đệ
cuối cùng tin vào Chúa Giêsu Phục sinh, nhưng ông đã tuyên xưng niềm tin vào
Đức Giêsu cách mãnh liệt nhất và cao độ nhất. Phải chăng, có lạc lối thì khi
trở lại mới thấy mình hạnh phúc; có sai lầm thì khi hồi tâm mới nhận ra trọn
vẹn ý nghĩa của tình yêu! Cho nên điều quan trọng không phải là tôi phạm tội,
nhưng là tôi biết nhận ra tội lỗi để tôi hồi tâm quay về và cố gắng hết mình để
sửa chữa. Cũng vậy, điều quan trọng không phải là lạc lối, nhưng biết mình lạc
lối và can đảm quay về mới là quan trọng trước mặt Thiên Chúa.
Dù các môn đệ đã nhận ra sự thật là Thầy Giêsu của mình đã Phục
sinh và không ai còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng niềm tin của các ông vẫn còn là
niềm tin của những con người tin ở cấp độ thấp: thấy mới tin. Niềm tin đòi có
dấu hiệu để kiểm chứng là niềm tin còn yếu kém và ở mức độ thấp. Đức Giêsu muốn
nâng đức tin và tâm hồn của các ông lên một mức độ cao hơn "Phúc cho những
ai không thấy mà tin" Và lời chúc phúc này là dành cho chính chúng ta đó.
Đức tin không cần kiểm chứng mới thật là đức tin trọn hảo và vững mạnh.
Chúa Giêsu Phục sinh đang sống và đang hiện diện với từng người
chúng ta trong cách thức siêu nhiên. Ngài không còn lệ thuộc vào không gian và
thời gian nữa. Cũng như Đức Giêsu đã đến với các môn đệ đang họp nhau trong căn
nhà tiệc ly đang đóng kín sau ngày Ngài Phục sinh, thì hôm nay, Ngài cũng vượt
qua các bức tường và rào cản trong hay ngoài chúng ta để đến với chúng ta, để
hiện diện với chúng ta bằng nhiều cách thức khác nhau.
"Phúc cho những ai không thấy mà tin". Lời hứa này của
Chúa Giêsu đảm bảo với chúng ta rằng: Không một thế hệ nào sẽ bị kém ưu ái hơn
so với các môn đệ ngày xưa. Chúng ta hãy thắp lửa tin yêu lên trong lòng chúng
ta để cho niềm tin của chúng ta quay về. Vì rất có thể, với những quyến rũ của
trần gian, niềm tin vào Đức Giêsu Phục sinh của chúng ta đã tắt lịm hay còn lạc
lối ở phương trời xa xôi nào đó. Sống đạo đích thực là làm cho niềm tin quay về
trong ta và làm cho niềm tin đó bừng sáng lên trong ta mỗi ngày, để trong mọi
hoàn cảnh, chúng ta vẫn hiên ngang tuyên xưng rằng Đức Giêsu là Thiên Chúa của
chúng ta. Amen.
28. Tần số
tình yêu – Thiên Phúc
Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của
thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha: – Ba ơi! Cái tháp đó để
làm gì vậy?
Người cha giải thích: – Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh,
hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu
ích cho đại chúng.
- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!
- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình bổ ích đó,
con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ
ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!
Chiều Phục Sinh đầu tiên, Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng
mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay
sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả
Tôma. Người gọi đích danh ông: “Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay
vào cạnh sườn Thầy. Đứng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Ông chỉ còn
biết run sợ mà thưa với Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga
20,28).
Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm
xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng
Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và
Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số, đó là tần số
Tình Yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy
ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con
mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy
nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên
bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên “người môn đệ Đức Giêsu
thương mến” (Ga 21,7).
Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô
thì “rất đỗi ngạc nhiên” còn Gioan thì “Ông đã thấy và ông đã tin”? (Ga 20,8).
Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin,
và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức
tin. Nhưng Đức Giêsu đã nói: “Phúc thay những người đã không thấy mà tin!” (Ga
20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.
Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu
chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: “ngày thứ ba,
(Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy” (Hs 6,2) và phép lạ “ông Giôna ở trong bụng
cá ba ngày ba đêm” (Gn 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn
chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.
Niềm tin vào mầu nhiệm phục sinh của chúng ta hôm nay không phải
là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các
Tông Đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô
đứng chung với mười một Tông Đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: “chính Đức Giêsu đó,
Thiên Chúa đã làm cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng”
(Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Đức Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của
chúng ta. Thánh Phaolô viết: “Nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của
anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr
15,17).
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng
con tin Chúa mãnh liệt hơn.
Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa
mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen.
29. Nỗi oan
Tôma – ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam, danh xưng Tôma khơi gợi về
một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình, chẳng những không tích cực
mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn cứng cỏi trước những biểu
cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng như Tôma”; thấy ai biểu lộ
do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo, người ta đã vội đưa vào gia
phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại là một bài học dẫn đến
niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc thứ chín, như người ta
gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay “Phúc cho kẻ không thấy
mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là cả một chặng đường trong
đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa”. Chính vì
chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi sau đó mới đi tới đức tin.
Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong tuần cùng với lời chúc
bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện Tôma, cũng cho thấy
vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được tìm thấy trong phản tỉnh của
cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”. Câu nói tự phát ấy đã trở
thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một kẻ cứng đầu cứng cổ,
đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn. Chính nhờ ông lên
tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin thuở ban đầu và thế
nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc riêng không thể lẫn với
người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì tám ngày sau, qua tiếp xúc
cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không phải bằng công thức chung
nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao tuyên tín Phục Sinh: “Lạy
Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định
chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi sự cho đến hoàn thành.
Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức Giêsu thanh luyện, để
cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn vào một nhận thức
mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng phải tin mới thấy
trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một, thấy Đấng Phục
sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm tin vượt lên tất
cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là chuyện lòng chung của muôn
lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu hơn rằng niềm tin không
phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa ơn thánh và nghị lực con
người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy cơ rơi vào thái độ coi
mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa. Có biết đâu tin như
thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin. Vì tin tất cả nên cả
tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người ta lại có nguy cơ
khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu chuẩn của kinh nghiệm
khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu, không đo lường sờ chạm,
đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn là tin nữa, mà xem ra
lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi, người ta còn có thêm
một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan ngùy, nhưng thực
chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng thịnh xem ra không
có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết đâu bởi vì dễ tin
nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như một kinh nghiệm, và cần
xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho niềm tin đang dấn bước
đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi hãy xa đi những thái
độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng, mà dường như còn nghe
lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối chặng đường gặp gỡ:
“Nhưng hãy tin!”
3. PHÚC CHO KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay cảm nhận hơn niềm vui
trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy Chúa nên tin, còn niềm
vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ đã qui tụ cho Chúa những
kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm tin của mình một cách
sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua cách sống cộng đoàn
biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối cùng, sẽ là sức mạnh
chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn còn ở phía trước. Bổn phận
của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình sao cho thắm đượm hồng ân
Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con người, sao cho chan hòa
với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc cá nhân. Và một khi
niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở thành trách nhiệm
loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin hạnh phúc ấy còn lắm nhạt
nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như trong nếp sống riêng mỗi
tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm tin vào điều mình không
thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng thấy được để vươn đến một
thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả. Nhưng chính lúc ấy,
Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy đã từng trải
nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại sức mạnh.
Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin, hãy bắt đầu
bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin điều
mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một mình ông chịu tai tiếng để
sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông chịu quở là cứng lòng tin để
tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn thấy mới gặp được lối đi hạnh
phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo rằng nỗi oan Tôma là một nỗi
oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh rượu được truyền phép hôm
nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin thêm đức tin cho những tấm
lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người đang yếu đuối, và xin được
hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
30. Lòng mến hỗ trợ
đức tin
Chúng ta đang sống trong một thế giới có nền khoa học phát triển
vượt bậc. Ngày nay, người ta đã phát minh ra được nhiều thứ rất tinh vi và hiện
đại. Người ta có thể đi lên cung trăng hay xuống lòng biển một cách dễ dàng như
đi chợ... Trước tình trạng đó, dường như người ta tưởng là con người có thể kiểm
nghiệm được tất cả mọi sự trong thế giới này. Rồi những gì họ thấy được, nghe
được, sờ được... nói chung là những gì kiểm chứng được giác quan thì họ mới
tin.
Thế là, con người nói chung và cách riêng với người Kitô hữu lại
áp dụng điều trên cho cả niềm tin tôn giáo. Cách riêng là họ áp dụng điều ấy
vào cho đức tin vào Chúa Giêsu phục sinh. Điều này đã có từ thời các Tông đồ.
Khi nghe các bạn báo tin Thầy Giêsu sống lại, Thánh Tôma đã tuyên bố: "Nếu
tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và
không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin".
Do đâu mà Thánh Tôma cũng như con người chúng ta lại thường hay
muốn đòi kiểm chứng như vậy? Thưa vì chúng ta chưa thật sự mến Chúa hết lòng.
Khi thật sự mến Chúa thì có lẽ chúng ta sẽ tin vào Người cách dễ dàng. Ngay cả,
chúng ta sẽ cho là xúc phạm khi nghi ngờ Chúa. Và khi ấy chúng ta mới thật sự
được hạnh phúc và bình an.
Thật vậy, một đứa con trong gia đình khi đã yêu mến cha mẹ thật
lòng thì nó sẽ biết tin và làm theo những điều cha mẹ khuyên dạy. Lúc ấy, chắc
chắn nó sẽ được cha mẹ yêu thương và chăm sóc cho nhiều hơn nữa. Cũng vậy, vợ
chồng khi đã yêu nhau thì sẽ tin nhau chứ không nghi ngờ nhau. Bao lâu họ còn
yêu và tin nhau thì bấy lâu gia đình họ sẽ còn hạnh phúc và đầm ấm.
Như vậy, lòng mến hổ trợ rất nhiều cho đức tin. Nó cũng sẽ là
một trong những điều quan trọng làm nên sự hạnh phúc cho chúng ta đời này lẫn
đời sau. Chúa Giêsu đã nói: "Phúc thay những người không thấy mà
tin!". Hơn nữa, tin vào Chúa Giêsu phục sinh không phải là điều hão huyền.
Vì nếu đây là chuyện phù phiếm thì chắc là niềm tin ấy đã tan rã từ lâu rồi.
Chúng ta đã theo Chúa từ khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chúng ta
đã long trọng mừng lễ Chúa Giêsu phục sinh cách đây đúng một tuần. Thử hỏi chúng
ta có thật sự mến Chúa và thật sự tin vào Người chưa. Hay là chúng ta vẫn còn
nghi ngờ như Thánh Tôma. Chúng ta hãy luôn nhớ bao lâu còn sống trong tâm trạng
nghi ngờ thì bấy lâu đời sống của ta sẽ còn luôn bất ổn.
Như chúng ta biết, đoạn Tin mừng này được Giáo hội chọn đọc
trong cả 3 năm Phụng vụ của Chúa nhật cuối tuần bát nhật hôm nay. Dĩ nhiên là
có lý do. Đó là Giáo hội muốn cũng cố lòng tin và lòng mến vào Chúa Giêsu Phục
sinh của mỗi người chúng ta ngày càng trở nên chắc chắn hơn. Hãy xin Chúa Giêsu
tiếp tục ban thêm lòng tin và lòng mến cho mỗi người chúng ta.
31. Suy niệm của
Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
NHƯ CHA ĐÃ SAI THẦY, THẦY CŨNG SAI ANH EM
Đức Giêsu đã phục sinh. Nhưng điều này đâu có quan hệ gì đến
tôi, nếu Đức Giêsu cũng tương tự như bao người khác, cũng chỉ là một người như
bao người khác: họ được nhưng đâu có nghĩa rằng tôi được? Đức Giêsu Phục Sinh
chỉ ảnh hưởng tuyệt đối đến tôi, nếu Ngài là Thiên Chúa.
Qua các tông đồ Thiên Chúa của Đức Giêsu Phục Sinh hiện diện
Sau khi Đức Giêsu phục sinh, với sự trợ giúp của Thánh Thần, các
tông đồ đã nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa. Và dưới tác động của Thánh Thần
các tông đồ đã can đảm tuyên xưng, rao giảng Đức Giêsu bị đóng đinh đã sống
lại. Và hôm nay sách tông đồ công vụ cho thấy những người tin vào Đức Giêsu đã
trở thành một nhóm đặc biệt, trở thành dấu chỉ của Đức Giêsu Phục Sinh cho con
người thời đó.
Thánh Phêrô trở thành khí cụ Thiên Chúa dùng để ban ơn cho con
người. Bóng của Ngài ngả xuống trên bệnh nhân nào thì người đó được khoẻ lại.
Có người nghĩ: không chừng các tông đồ còn làm được những điều lớn lao hơn cả
Đức Giêsu. Chính Đức Giêsu cũng nói: “Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm người
ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta về cùng
Cha” (Ga.14, 12).
Ngày xưa khi Chúa về trời, các tông đồ đã thành dấu chỉ Thiên
Chúa hiện diện; và ngày nay qua Hội Thánh nơi các tín hữu, Thiên Chúa cũng hiện
diện với con người hôm nay.
Đức Giêsu Phục Sinh là Thiên Chúa
Đức Giêsu khi còn tại thế, Ngài đã nói những lời người Do Thái
không thể chấp nhận được, như Ngài nhận Ngài có quyền tha tội (Mc.2,7), Ngài có
trước Abraham (Ga.8, 58), Ngài là một với Thiên Chúa Cha (Ga.10, 30), Ngài
ngang hàng với Thiên Chúa Cha (Mc.14, 62). Người Do Thái không thể chấp nhận
những lời đó, nên đã lấy đá định ném chết Ngài. Nếu Ngài không là Thiên Chúa,
quả thật Ngài phạm tội “phạm thượng”: là người phàm mà dám nhận mình ngang hàng
với Thiên Chúa.
Ngài đã sống lại, nghĩa là, những điều Ngài nói là thật, vì nếu
Ngài nói dối, Thiên Chúa đâu có phục sinh Ngài! Như vậy, Ngài có quyền tha tội
(mà chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa, Ngài
là Con Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa thật.
Ngài là Thiên Chúa thật, nghĩa là Ngài là Thiên Chúa nhập thể.
Và do đó, người ta biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, vì nếu không
yêu con người, tại sao Thiên Chúa nhập thể làm người? Tại sao Ngài phải chấp
nhận cái chết ô nhục trên thập giá? Tại sao Ngài mãi mãi là người? Chính vì
tình yêu, vì yêu con người, mà Thiên Chúa trở thành một người như bao người.
Thiên Chúa làm tất cả cho con người.
Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con
Khi hiện ra với các tông đồ vào chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Đức Giêsu nói với các tông đồ: “như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Như vậy, các tông đồ, và sau đó là các Kitô hữu, có cùng sứ mạng với Đức Giêsu.
Sứ mạng của Đức Giêsu, của Ngôi Lời nhập thể, là làm sao để con
người nhận biết và tin vào tình yêu Thiên Chúa! Để làm được điều này, Lời Thiên
Chúa đã nhập thể, đã sống như một người hoàn toàn, đã hiến mình làm của ăn cho
con người, đã chấp nhận cái chết ô nhục trên thập giá vì yêu con người, đã yêu
con người đến chết.
Sứ mạng của các tông đồ, của Hội Thánh ngày nay, của mỗi người
tín hữu, là làm chứng cho tình yêu, làm cho thế gian biết rằng Thiên Chúa yêu
thương họ vô cùng. Để làm được điều này, cũng đòi tín hữu phải hy sinh, phải
yêu thương con người ngày nay đến độ quên mình như Đức Giêsu. Thập giá minh
chứng tình yêu. Lửa thử vàng, gian nan thử tình yêu. Tình yêu cải biến, chinh
phục lòng người.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, do đâu các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa?
2. Các tông đồ tin Đức Giêsu là Thiên Chúa khi nào? Tại sao bạn
biết vậy?
3. Sứ mạng của các Kitô hữu hôm nay là gì?
32. Tin
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ: Ông Giêsu, người làng
Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại đã gây nên nhiều thái
độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối. Chúng ta cùng nhau phân
tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta, cũng như soi sáng cho
chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.
Trước hết tin là phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài
tầm tay và suy tưởng của chúng ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị
cám dỗ, chỉ tin vào những gì thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã tuyên bố:
- Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay quanh mặt trăng ba vòng
cũng tuyên bố:
- Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình vào cạnh sườn Chúa thì
ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là trung tâm điểm và bắt
Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin.
Tiếp đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai
người yêu nhau dù có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn
phải dám liều. Biết ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt
làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết về Thiên Chúa cũng như
về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay sống lại, đồng thời
Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô
hình và dường như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta.
Tin như vậy không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta
vào tay Đấng vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp
tục từ bỏ những dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức tin không đem lại sự yên
ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người cũ trong chúng ta. Bởi
đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn có khuynh hướng ôm
chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã tạo ra như của
cải, mạng sống.
Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về đời sau Chúa
hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những gì chúng ta
đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin còn đòi
chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống ngăn cản
Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy, chúng ta
sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng chung của những người chung
quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng có Tin Mừng Phục sinh. Sống
ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải có một ý chí phấn đấu và mạnh
mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm giác lạc lõng và bơ vơ, không
giống ai và bị thiệt thòi ở đời này.
Sống đức tin và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều
khó khăn, chúng ta luôn bị cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau,
giống như người Do Thái ngày xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê,
bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng và đòi hỏi.
Hãy vững niềm tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn
mãi.
Khi bị quân dữ bắt và tra tấn, mọi Tông đồ đều bỏ và chối Chúa,
chỉ trừ một mình thánh Gioan. Trên cây Thánh Giá Chúa cũng chỉ nhìn thấy một
Thánh Gioan bên cạnh và mẹ Người. Khi Chúa sống lại thì các tông đồ lại không
tin, dù những người phụ nữ ra mồ trông thấy và đã nói một cách khẳng định cho
họ, nhưng họ vẫn không tin. Nhưng Chúa vẫn không hề bực tức hay khó chịu, còn
tỏ ra khoan hồng đến nỗi hiện ra với họ, để cho họ trông thấy mà không còn nghi
ngờ nữa. Và hơn thế, khi nói chuyện, Người không một lời la rầy, mắng nhiếc
cũng không, và nhất là không nhắc đến sự hèn nhát, bội phản và yếu tin của họ.
Chắc chắn lần hiện ra này không phải chỉ có Đức Giêsu Phục Sinh, mà tất cả mọi
người chúng ta ai cũng nghĩ tất cả các Tông đồ không còn ai dám nghi ngờ hay
yếu tin nữa. Nhưng không phải thế! Chúa hiện ra và ban cho các Tông đồ ơn huệ
được "mắt thấy" , "tai nghe". Má những ân huệ đó chúng ta chỉ
có thể cảm nghiệm được khi chúng ta có đức tin.
Than ôi! đức tin là cái mà con người ta thường không có. Phúc âm
hôm nay kể lại sự cứng lòng tin của Thánh Tôma. Khuýnh hướng đó cũng chính là
khuynh hướng của những con người đang sống trong thời đại hôm nay. Ai ai cũng
muốn sống bằng thực nghiệm bằng kiểm chứng, chỉ muốn tin cái gì mắt mình trông
thấy, trí mình hiểu được. Còn cái gì mà người khác thuật lại, phải nhờ người
khác cho biết thì khó tin, và cho là nhảm nhí. Vì thế, sự thật mà nói ai ai
trong chúng ta cũng muốn được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và bàn tay vào cạnh nương
long Chúa thì mới tin ở Người.
Người cứng tin nhất chắc chắn là Tôma và người được may mắn nhất
chắc cũng là ông, được thỏa tính tò mò, được đặt tay vào lỗ đinh và bàn tay vào
cạnh nương long Chúa. Vì chính ông đã đòi hỏi đích thân động đến Chúa thì ông
mới tin, nên Chúa đã phán với ông: "Vì đã thấy nên con tin. Phúc thay
những người không thấy mà tin". Do đó, Chúa muốn đòi mỗi người chúng ta
hãy rút ra bài học kinh nghiệm từ Tôma. Khi thấy thì mới tin thì chẳng còn gì
lạ, mà hãy tin khi chưa thấy. Đó mới là đức tin Chúa cần nơi mỗi người.
Thật ra tin chính là chấp nhận có một cái gì đó mà ta chưa thấy,
nhưng phải phó thác vào một người thật đáng tin cậy. Như thế, đức tin của chúng
ta là phó thác vào sự chân thật của Thiên Chúa để mà chấp nhận những chân lý đã
được Người truyền dạy. Mặc dù lúc đó ngũ quan ta không cảm thấy và trí khôn ta
không hiểu được. Nhưng cũng đừng hiểu lầm tin như thế là mù quáng, nhưng mù
quáng sao được khi ta tin vào một người rất đáng tin cậy, vì thế lòng tin của
ta thật có lý.
Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta cũng đã phải tin nhiều
điều chúng ta không thấy rồi. Như ông bà ổ tiên, chúng ta cũng đâu thấy các
ngài, cũng đâu sờ được các ngài, cũng đâu trò chuyện được với các ngài, nhưng
chúng ta vẫn tin trong quá khứ vẫn có các ngài. vậy ai có thể quả quyết chỉ tin
những điều mình trông thấy, và coi tất cả những người nói cho mình biết điều
mình không trông thấy là dối trá, thì người ấy không thể sống trong xã hội loài
người được. Vì trong xã hội loài người mối tương thân tương trợ, chỉ bảo, nương
tựa tin tưởng lẫn nhau là điều cần thiết. Ngược lại, người không tin tưởng vào
bất cứ ai, chứng tỏ họ không có một nhân cách thật sự, chỉ biết cố thủ trong ốc
đảo ích kỷ nghi ngờ, nhìn người khác với cặp mắt giả dối, vì chỉ có người dối
trá mới không tin vào lời người khác nói là sự thật, chỉ có người hà tiện mới
không tin người rộng rãi. Một người không dám đặt niềm tin vào ai, chứng tỏ
mình thiếu hẳn các đức tin của một con người. Đó là nhìn vào phạm vi tự nhiên.
Trong phạm vi siêu nhiên sự lệ thuộc của ta vào Thiên Chúa còn sâu xa hơn sự lệ
thuộc của ta vào xã hội nhiều. Vì thế đức tin không những cần thiết mà còn đánh
giá sự thánh thiện của mỗi người, vì người thánh thiện chắc chắn phải có một
đức tin chuyển được núi, vì người ấy nhận biết Thiên chúa toàn năng và đặt cả
niềm cậy trông của mình vào Người.
Lạy Chúa, chúng con không được may mắn như các tông đồ, được trông
thấy Chúa, sờ đến Chúa, nói cùng Chúa và ăn uống với Người. Nhưng chúng con lại
được may mắn chứng kiến rất nhiều người đã sống cho Chúa và chết cho chúa. Vì
chỉ có Chúa Phục Sinh thật sự mới là động lực như thế. Xin cho con biết vững
tin. Amen.
34. Dấu ấn của
đau khổ
Tôi không ngạc nhiên trước lời đòi hỏi của Tôma. Điều làm tôi
suy nghĩ trong lúc này đó là tại sao thân xác phục sinh của Đức Kitô lại còn
mang những thương tích, những dấu ấn của đau khổ?
Tôi cứ nghĩ rằng: sau khi sống lại, thân xác vinh quang của Đức
Kitô hẳn không còn vết tích nào của những cực hình phải chịu.
Bởi vì, sau cuộc thương khó là sự sống lại, sau đau khổ là vinh
quang, sau ngày thứ sáu tuần thánh là sáng Chúa nhật phục sinh. Sự tương phản
mãnh liệt đến độ chúng ta tưởng như có một bước nhảy vọt, cắt đứt và chia lìa
giữa hai tình trạng kể trên, như thể sự phục sinh và vinh quang là phần thưởng
cho những đau khổ Ngài đã phải chịu trong suốt cuộc thương khó, để rồi chúng ta
sẽ dần dần quên đi những kỷ niệm bi đát ấy.
Trong cuộc sống chúng ta thấy người ta thường tặng thưởng huân
chương cho những kẻ can đảm cứu vớt người bị chết đuối hạy gặp phải tai ương
hoạn nạn. Tấm huân chương xứng đáng với những hy sinh mà kẻ ấy đã phải gánh
chịu. Thế nhưng, đó cũng chỉ là một qui ước do xã hội đặt ra.
Sự phục sinh của Đức Kitô thì khác. Đó không phải chỉ là một dấu
chứng của chiến thắng, của phần thưởng mà thôi, nhưng còn là một diễn tiến liên
tục nơi thân xác Đức Kitô. Chính Ngài đã cắt nghĩa:
- Như hạt lúa mì rơi xuống đất, có mục nát đi thì mới trổ sinh
nhiều bông hạt.
Giữa hạt giống được gieo trồng và bông lúa chín vàng dưới ắng
nắng mặt trời có một sự liên tục trong phát triển. Bông lúa chỉ là kết quả của
hạt giống được gieo trồng.
Nơi khác, Ngài cũng nói:
- Như người đàn bà lo âu khi giờ của mình đã đến, nhưng sau đó
thì vui mừng vì đã sinh được một người cho thế gian.
Sự sinh nở chỉ là kết quả của việc thai nghén. Giữa hai sự kiện
này luôn có một sự liên tục trong phát triển.
Cũng thế, Đức Kitô đã bước vào sự chết và sống lại. Chúa nhật
phục sinh không phải chỉ đến sau ngày thứ sáu tuần thánh, mà còn là một sự tiếp
nối, một kết quả, một hoa trái.
Chính vì thế, chúng ta hiểu được tại sao Tôma có thể nhìn thấy
những dấu ấn của đau khổ, của cực hình trên thân xác sống lại của Đức Kitô.
Vinh quang xuất phát từ thập giá và những dấu đanh đã không làm
xấu đi, trái lại còn làm đẹp thêm cho thân xác phục sinh của Ngài.
Cũng giống như trên khuôn mặt nhăn nheo của một cụ già. Những
nếp nhăn ấy chính là kết quả những năm tháng dài của cuộc đời với những khổ đau
và tang tóc, những hy sinh và gian khổ, những yêu thương và phục vụ. Những nếp
nhăn ấy tạo nên vẻ đẹp của kinh nghiệm, của già dặn và chín chắn. Và rồi cặp
mắt của cụ già sáng lên niềm hy vọng được gặp lại chính cái nhìn của Thiên
Chúa.
Để kết luận, chúng ta hãy suy gẫm lời Chúa đã phán để hiểu được
toàn bộ cuộc đời của Ngài, đó là Con người phải chịu đau khổ, và phải chết đi
trước khi được bước vào vinh quang.
Bài Tin Mừng kể lại câu chuyện Chúa Kitô Phục sinh hiện ra với
các môn đệ vào ngày thứ tám sau khi Chúa sống lại. Vì thế, hôm nay là ngày thứ
tám sau lễ Phục sinh, tức là ngày cuối cùng của tuần bát nhật mừng đại lễ Phục
sinh, chúng ta nghe đọc lại câu chuyện này. Thực vậy, vào buổi chiều chính ngày
Chúa nhật Phục sinh, Chúa Kitô đã hiện đến với các môn đệ đang tụ họp nhau
trong căn phòng ăn bữa tiệc ly trước đó ba ngày, Chúa cho họ xem các thương
tích ở tay và cạnh sườn Ngài để chứng thực Ngài đã sống lại. Nhưng hôm ấy không
có mặt ông Tôma. Vì thế, khi nghe các bạn kể lại, ông không tin và khi nào tự tay
kiểm chứng mới tin. Tám ngày sau, tức là Chúa nhật liền sau đó, Chúa Kitô hiện
đến lần nữa và gọi ông Tôma ra kiểm chứng tay và cạnh sườn Ngài. Chúa đáp lại
tất cả lời thách đố của Tôma. Khi ấy, ông cung kính và run sợ nói lên lời tuyên
xưng lòng tin: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Chúa âu yếm nhìn ông
và nói: “Hỡi Tôma, vì đã thấy Thầy, nên anh tin”. Rồi Chúa đưa mắt nhìn tất cả
và nói: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Qua câu chuyện Tin Mừng kể
lại, có người coi ông Tôma như là “bổn mạng” của những kẻ hoài nghi, cứng lòng,
hoặc như là “ông tổ” của phái duy lý, duy thực
nghiệm, chỉ tin những gì nhìn thấy được, sờ mó được. Nói thế quả là quá đáng và
bất công. Nhưng dầu sao trong thái độ của ông Tôma, chúng ta cũng thấy phản ảnh
thái độ hoài nghi và kém lòng tin của nhân loại, của mỗi người chúng ta. Trong
đời sống hằng ngày, chúng ta dễ tin lời người ta nói, dễ tin quảng cáo, tuyên
truyền, nhưng trong phạm vi tôn giáo, chúng ta lại dễ hoài nghi, yêu sách lý lẽ
minh bạch và đòi bằng chứng rõ ràng. Cho nên đừng vội trách ông Tôma, vả lại,
thái độ toàn diện của ông rất đáng cho chúng ta khâm phục. Quả thực, lúc ban
đầu, ông Tôma tỏ ra một thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức,
các bạn tông đồ kể lại, ông cho là ảo tưởng, không đáng tin. Chúa nhân từ và
nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những
yêu sách quyết liệt của ông. Nhưng trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục
xuống và kêu lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng,
một học giả Kinh thánh nổi tiếng: đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng
danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt. Cho nên đây là một tác động đức tin hoàn toàn và
quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá
trị, vì thực sự ông Tôma đã vượt qua hình dáng bên ngoài để tới thực tại tiềm
ẩn. Mắt ông chỉ nhìn thấy con người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết
thương vật chất hữu hình, nhưng ông tuyên xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ suy niệm và trở nên
nguồn an ủi phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin.
Phúc thay những người không thấy mà tin”. Nói điều ấy Chúa có ý nhằm đến chúng
ta và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung
nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân
xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo bằng chứng của các tông đồ và lời
giảng dạy của Giáo Hội. Đức tin ở đây không phải là tin theo một học thuyết,
một chân lý viễn vông, nhưng là tin vào một nhân vật lịch sử, sống động: Chúa
Kitô chết và Phục sinh. Quả thực, sự hy sinh lớn lao của Chúa Kitô trên núi Sọ
được Thiên Chúa đáp ứng, đó là Chúa Kitô đã sống lại. Nếu Chúa không sống lại
thì tất cả cuộc khổ nạn của Ngài chỉ là một đường hầm mù mịt, chẳng dẫn đến đâu
hết. Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa nhật Phục sinh là hai mặt của chung một thực
tại. Giả sử thiếu một trong hai biến cố: Chúa chết, Chúa sống lại, thì sự việc
thành vô nghĩa. Tất cả những điều trên đây làm cho chúng ta phấn khởi và tăng
thêm niềm xác tín vào mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô. Tuy nhiên, thái độ
cứng lòng tin của ông Tôma cũng là điều có lợi cho chúng ta. Việc ông không tin
lúc đầu là một bảo đảm làm cho niềm tin của chúng ta thêm vững chắc, vì niềm tin
Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời nói suông, nhưng được
xây dựng trên đức tin của một người thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và
sờ tới tận tay vào thân xác sống lại của Chúa. Do đó, cùng với thánh Gơrêgôriô,
chúng ta có thể kết luận: “Ngón tay đa nghi của ông Tôma đã trở nên ông thầy
của toàn thể thế giới; bàn tay đa nghi của ông Tôma đã dạy cho mọi người một sự
thật rất chắc chắn, đó là thân xác Chúa Giêsu Kitô đã Phục sinh”.
36. Một sự
thăng cấp lạ lùng – Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Cảnh tượng thuật lại ở đây diễn tả ơn Chúa Thánh Thần mà Chúa
Kitô ban cho các môn đệ khi Ngài chưa lên cùng Cha Ngài. Ơn Chúa Thánh Thần mà
Chúa Kitô ban cho các môn đệ khi Ngài chưa lên cùng Cha Ngài. Ơn Chúa Thánh
Thần có mục đích làm cho hàng giáo phẩm nên môi giới trong việc tha thứ tội lỗi
và ban phát Chúa Thánh Thần. Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn đánh dấu
sự chuyển tiếp giữa thời kỳ Chúa Kitô trong những ngày còn trong thể xác và
thời kỳ Giáo Hội tức là thời kỳ Chúa Kitô theo Thần Linh. Đoạn này loan báo
những liên hệ mới nối kết con người với Thiên Chúa. Giáo Hội ngày nay đang sống
trong một sự hiện diện của Chúa Kitô khác với sự hiện diện của những ngày kế
tiếp Chúa sống lại, nhưng là một sự hiện diện thể hiện lời hứa không để các môn
đệ mồ côi. Đâu là những liên hệ hiện nay của người Kitô hữu với Chúa Kitô, với
Chúa Cha và với Chúa Thánh Thần.
1) Với Chúa Kitô. Chúa Kitô trong giai đoạn lịch sử của Ngài trong sự chết
sống lại và vinh hiển, là đối tượng của đức tin. Chúng ta tin Chúa Giêsu Kitô
là Đấng thực hiện sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta và nơi chúng ta.
Thiên Chúa là Đấng cao xa đã nhờ Chúa Kitô, trở thành một sự hiện diện gần gũi
với con người. Niềm xác tín mạnh mẽ rằng Chúa Kitô sống lại và hằng sống vẫn
hiện diện với chúng ta ngày hôm nay, là một ơn huệ kỳ diệu của Phục Sinh. Việc
Chúa sống lại không làm cho Ngài hiện diện cách thể lý như khi còn ở Galilêa,
nhưng nó tạo điều kiện cho một sự kết hợp mới, về thiêng liêng thâm sâu hơn với
Ngài nhờ đức tin và các bí tích. Hơn nữa, Chúa Kitô hoạt động trong chúng ta và
qua chúng ta.
2) Với Chúa Cha. Xuyên qua hành động tin kính Chúa Kitô, chúng ta đến được
với Chúa Cha. Nhìn ngắm Chúa Kitô trong một cái nhìn đức tin, tức là nhìn thấy
Chúa Cha. Ngược lại, Chúa Cha khi nhận ra chúng ta là môn đệ Chúa Con, sẽ có
một cái nhìn trìu mến mà Ngài hằng có đối với Chúa Giêsu. Lời nguyện cầu của
chúng ta với tư cách là môn đệ Chúa Giêsu bắt gặp sự lắng nghe mà Chúa Cha luôn
có đối với Chúa Con; lời cầu nguyện này luôn được chấp nhận. Hơn nữa toàn thể
môn đệ họp thành Giáo Hội hôm nay, làm được những công việc mà Chúa Giêsu đã
làm trong quãng đời ngắn ngủi của Ngài ở trần gian. Việc Phúc Âm hoá thế giới
là một thí dụ. Trên tất cả mọi sự, nhờ ơn cứu độ, chúng ta được nên con của
Thiên Chúa trong Chúa Con. Trở nên con cái Thiên Chúa: ôi, một sự thăng cấp kỳ
diệu!
3) Với Chúa Thánh Thần. Chính Chúa Thánh Thần khơi dậy trong chúng ta những cơ cấu
nội tâm làm phát sinh những hành động đức tin. Chính Ngài tạo ra trong chúng ta
một tương quan mới liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài sáng soi, khuyên nhủ
và củng cố chúng ta. Cần nhấn mạnh điều mà thánh Gioan nói về Thần Linh mà Chúa
Giêsu ban cho các môn đệ. Các môn đệ ngày nay tức là Hàng giáo phẩm. Ngày nay,
chúng ta đang chứng kiến một sự phản kháng chống đối Hàng giáo phẩm nhân danh
cái mà người ta có thể tóm tắt bằng từ ngữ dễ chịu là “tiếng nói tiên tri”.
Những tác phẩm mới đây đã chứng tỏ rằng có một thứ tiên tri sai lầm, tách lìa
khỏi Hàng giáo phẩm hay đối nghịch bằng một sự đối nghịch tự căn bản đối với
giáo quyền, vùng vẫy trong những xung đột mâu thuẫn và chắc chắn không thể xuất
phát từ Chúa Thánh Thần được. Thế thì do thần linh nào đây? Hãy coi, một tiên
tri như thánh Phanxicô thành Assisi ngày xưa và nhiều vị Tông đồ lớn ngày nay,
họ luôn tỏ ra rất lưu tâm đến việc hiệp thông với Phêrô và các môn đệ. Có lẽ
thái độ của họ bắt nguồn từ cái họ không coi tình cảm cá nhân mình là cái gì
tuyệt đối. Thật quá dễ mà chụp mũ từ ngữ Thần linh vào những “tiếng kêu la” của
một thứ nhạy cảm độc địa hoặc những lời sấm của một thứ kiêu ngạo vô thức.
Nhưng ai có được bảo đảm sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần nếu không phải là
Phêrô và các Tông đồ.
37. Dấu chân
của Thiên Chúa – R. Veritas
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhiều năm trước đây có một nhà bác học vượt qua sa mạc với mấy
người Ả Rập thông thạo dẫn đường. Nhà bác học để ý thấy cứ chiều đến, khi hoàng
hôn sắp lặn sau bãi cát mênh mông vô tận, thì những người Ả Rập cùng đi đường
đều dừng lại trải chiếu trên cát, mặt hướng về mặt trời chắp tay cầu nguyện.
Nhà bác học hỏi:
- Các ông làm gì vậy?
Họ thản nhiên trả lời không chút do dự: Chúng tôi sấp mình thờ lạy
và cầu nguyện cùng Allah là Thiên Chúa của chúng tôi.
Nhà bác học hỏi lại một cách mỉa mai:
- Vậy chứ các ông đã thấy Chúa bao giờ chưa? Có sờ tay đụng tới
Ngài chưa? Hoặc đã nghe thấy tiếng của Ngài khi nào chưa?
Hướng dẫn viên Ả Rập mỉm cười đáp lại:
- Chưa, thực ra chúng tôi chưa hề mắt thấy tai nghe tiếng Chúa bao
giờ cả?
Nhà bác học sửng sốt lên giọng:
- Các ông thực là những người điên, các ông mù quáng sấp mình thờ
lạy một Chúa mà các ông chưa hề xem thấy hoặc tai chưa hề nghe tiếng Ngài.
Hướng dẫn viên Ả Rập giữ im lặng không đáp lại lời nào hết.
Sáng hôm sau, mặt trời chưa ló dạng, nhà bác họ đã thức dậy, bước
ra khỏi lều và nói với hướng dẫn viên:
- Ông hãy nhìn xem, chắc chắn là tối hôm qua có con lạc đà nào đã
đi qua đây rồi.
Một tia sáng đầy hy vọng và vui mừng loé lên trong ánh mắt hướng
dẫn viên. Ông cất tiếng hỏi nhà bác học những câu hỏi liên tiếp:
- Vậy thì chắc là ông đã thấy lạc đà đi ngang qua đây tối hôm qua
chứ? Hoặc là tay ông đã sờ tới lông nó đang lúc ông ngủ chăng?
Nhà bác học thật thà đáp lại:
- Không, tối hôm qua tôi ngủ ngon, đâu có thấy lạc đà và cũng
không sờ tới lông nó.
Hướng dẫn viên nói:
- Vậy thì ông cũng chẳng khác gì người điên. Ông quả quyết là lạc
đà đã đi ngang qua đây tối hôm qua, trong khi ông lại nói là mắt ông không
thấy, tai ông cũng không nghe tiếng chân lạc đà.
Nhà bác học cương quyết cãi lại:
- Nhưng đây là bằng chứng rõ ràng: Ông không trông thấy dấu chân
lạc đà còn y nguyên trên mặt cát hay sao?
Cùng lúc đó, mặt trời từ từ ló rạng kéo dài những tia sáng rực rỡ
trên mặt cát bao la. Hướng dẫn viên Ả Rập giang tay trịnh trọng tuyên bố:
- Này ông bạn của tôi ơi! Ông hãy nhìn xem mặt trời và những tia
sáng rực rỡ huy hoàng kia, đó chính là dấu chân huy hoàng của Thiên Chúa, Chúa
mà chúng tôi tôn thờ.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu Phục Sinh đã nói với ông Tôma: “Phúc cho ai không
thấy mà tin”. Thời đại chúng ta đang sống là thời đại khoa học. Đời sống được
xây dựng trên khoa học, được hướng dẫn bởi khoa học, được đánh giá bằng khoa
học. Cái gì cũng phải có khoa học. Mà khoa học thì phải chính xác, rõ ràng, có
thể phân tích, mổ xẻ và kiểm nghiệm được. Tinh thần khoa học thực nghiệm được
áp dụng vào mọi lãnh vực, kể cả tôn giáo. Người ta nhân danh khoa học mà phê
phán tôn giáo. Cái gì có tính khoa học, kiểm nghiệm được mới đáng tin, ngoài ra
là vấn đề tình cảm, cuồng tín, mê tín. Thái độ phê phán và não trạng thực
nghiệm của con người thời nay không khác bao nhiêu so với tâm tính thực nghiệm
và cứng rắn của Tông đồ Tôma thời xưa trong câu truyện Tin Mừng hôm nay.
Nghe các bạn kể lại: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa Phục Sinh”, ông
Tôma vẫn không tin. Ông muốn dựa vào kinh nghiệm giác quan, chứ không phải dựa
trên các chứng từ. Chúa Giêsu đã sẵn sàng đáp ứng và thoả mạn nguyện vọng của
ông. Ngài đã hiện ra và bảo ông: “Tôma, hãy đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn
xem tay Thầy… Hãy đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy”. Đồng thời Chúa
Giêsu cũng mời gọi ông: “Đứng cứng lòng tin nữa, nhưng hãy tin…”. Không những
tin vì đã thấy mà còn phải tiến đến chỗ tin cho dù không được thấy. Dựa vào Lời
Chúa, ông Tôma đã tin mà không cần kiểm chứng nữa. Lúc ấy, Chúa Giêsu mới mạc
khải chân lý này: “Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”.
Thưa anh chị em,
“Ai không thấy mà tin mới là người có phúc”. Lời này như được
ngỏ với chúng ta, những người tín hữu Kitô hôm nay mà lòng tin dựa trên chứng
từ của các Tông đồ, chứ không dựa vào kinh nghiệm giác quan: sống cách xa biến
cố Chúa Phục Sinh gần 2000 năm, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận đức tin. Tin
nơi Thánh Kinh, tin nơi Giáo Hội, những bảo chứng đáng tin nhất, không còn cách
nào khác. Với ơn đức tin, chúng ta có thể gặp Chúa và tiếp cận với Ngài. Đó là
một hạnh phúc thật sự. Theo ý hướng đó, lời tuyên xưng của ông Tôma cũng phải
là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh, của mỗi người ca vào Đức Kitô ”Lạy
Chúa là Thiên Chúa của con!”.
Niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh thực sự đem lại cho người Kitô
hữu một niềm hân hoan khôn tả, như Thánh Phêrô đã xác quyết: “Dù bây giờ anh em
không thấy Ngài, nhưng anh em tin, nên anh em sẽ được vui mừng khôn tả, vì đã
nắm chắc thành quả của đức tin anh em, là ơn cứu độ” (1Pr 1,9). Niềm
hân hoan đó không chỉ lắng sâu trong tâm hồn, mà còn tràn ra bên ngoài trong
cuộc đời các Kitô hữu. Điển hình là niềm vui trong cuộc sống của cộng đoàn Kitô
hữu tiên khởi: “Họ chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn sống với nhau
trong tình huynh đệ, siêng năng tham dự lễ Bẻ Bánh và cầu nguyện không ngừng…
Tất cả các tín hữu, đều một lòng đoàn kết và để mọi sự làm của chung… Họ ca
tụng Thiên Chúa và được toàn thể dân chúng mến thương. Và số người cứu độ gia
nhập cộng đoàn ngày càng thêm đông” (Cv 2,42-47).
Anh chị em thân mến, nếu Giáo Hội hôm nay có được cuộc sống như
các tín hữu tiên khởi thì Giáo Hội lo sợ gì trước những tra vấn của khoa học.
Chẳng những thế, Giáo Hội còn có khả năng cống hiến cho thời đại khoa học một
lời chứng sống động, hùng hồn về hoạt động của Đấng Phục Sinh trong lịch sử,
ngang qua cuộc sống dấn thân của các Kitô hữu để đem lại tình yêu và sự sống
cho anh em đồng loại.
Con đường của lòng tin chúng ta hôm nay là con đường của lòng
mến. Càng yêu mến nhiều, càng tin vững chắc. Và những người có lòng mến Chúa
thường không cần phải tin, mà họ thấy. Thánh Tôma tiến sĩ cầu nguyện: “Chúa ơi,
con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma, nhưng con tuyên xưng Chúa
là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông Chúa và yêu mến
Chúa hơn nữa”. Và có lẽ đó cũng là lời cầu xin của mỗi người tín hữu chúng ta,
trong cuộc hành trình đức tin trên trần thế này cho đến ngày được xuất hiện
trong vinh quang với Đấng Phục Sinh.
38. Phục sinh
Chứng lý về sự Phục sinh của Chúa Kitô, không chỉ dựa vào sự
kiện ngôi mộ trống, mà còn phải kể đến những lần Đấng Phục sinh hiện ra với
nhiều người, cũng như phải quan tâm đến những lời chứng của những người đã tận
mắt nhìn thấy Chúa Kitô sống lại. Trang Tin Mừng hôm nay sẽ cung cấp cho chúng
ta những chứng lý quan trọng và sống động ấy.
Chúa Kitô Phục sinh hiện đến vào lúc thánh Tôma vắng mặt, cho
nên ông đã không tin rằng Chúa Giêsu sống lại. Vì thế, ông đòi hỏi một sự kiểm
chứng. Thử hỏi 10 vị tông đồ kia, nếu không tận mắt nhìn thấy và đích thân gặp
gỡ Đấng Phục sinh, các ông có thể dễ dàng chấp nhận lời của anh em khác không?
Chúng ta rất hồ nghi. Bởi lẽ, chuyện kẻ sống lại là chuyện rất khó chấp nhận.
Và chính các ông đã không ít lần tỏ ra nghi ngờ, nao núng, kể cả sau khi đã gặp
Đấng Phục sinh.
Chúng ta không nên trách Tôma, ngược lại phải biết ơn ngài. Bởi
vì chính “sự cứng lòng” của ngài lại làm kiên vững cho niềm tin yếu đuối của
chúng ta, khi Đấng Phục sinh đáp trả đòi hỏi sự kiểm chứng bằng giác quan của
thánh Tôma: “Tôma hãy đặt ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; đưa tay ra mà
đặt vào cạnh sườn Thầy”. Điều này không chỉ để thỏa mãn đòi hỏi riêng của thánh
Tôma, mà còn đáp trả cho yêu cầu của tất cả chúng ta, những kẻ “không thấy” mà
được gọi là “tin”, nhất là trong thời đại khoa học thực nghiệm hôm nay.
Đồng thời, “sự cứng lòng” của thánh Tôma cũng làm cho lời chứng
của cộng đoàn thêm mạnh mẽ. Ngày nay, chúng ta đều là những người không thấy mà
tin dựa vào lời chứng của các tông đồ – những kẻ dám sống, dám chết cho niềm
tin của mình.
Thánh Tôma là môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là
người đầu tiên tuyên xưng đức tin. Sau khi được kiểm chứng về việc Phục sinh,
ngài đã tin – một niềm tin đầy đủ nhất khi ông tuyên xưng: “Lạy Chúa con, lạy
Thiên Chúa của con”. Khi ông tuyên xưng như thế, thì lời chứng của các tông đồ
thật sự trở thành “đắt giá”, thật sự trở thành nền tảng vững chắc cho việc
tuyên xưng đức tin của bao thế hệ Kitô hữu.
Hơn thế nữa, Đấng Phục sinh hiện ra không chỉ để chứng minh
Người đã sống lại, nhưng còn để ban cho các ông sự sống mới “Người thổi hơi vào
các ông…”
Con người vốn chỉ là bùn đất và chỉ có thể trở nên sống động qua
việc “thổi hơi” của Thiên Chúa. Thì ở đây, chúng ta cũng nói được rằng chính
Đấng Phục sinh đã thực hiện một cuộc sáng tạo mới, Ngài thổi hơi để biến đổi
các tông đồ từ những con người yếu đuối, nhút nhát trở thành những con người
mới với sức sống mới, trở thành những khí cụ sắc bén trong Thánh Thần để rao
giảng Tin Mừng Phục sinh.
Đồng thời với việc ban sự sống mới là mệnh lệnh sai đi: “Như Cha
đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”. Tiếng “như” ở đây không phải
là so sánh, mà là nền tảng và cội nguồn: nguồn cội của mệnh lệnh là chính Chúa
Cha và nền tảng của mệnh lệnh là sứ vụ cứu thế mà Đấng Phục sinh hoàn thành.
Các tông đồ được sai đi để làm chứng về Đấng Phục sinh và để nối dài hành động
của Người trong thế giới. Hành động này giải thoát thế giới khỏi sự thống trị
của tội lỗi, mà sức mạnh lớn nhất của nó là sự chết đã bị vượt qua.
Mỗi chúng ta, nhờ bí tích Thêm sức cũng được mời gọi trở nên
những tông đồ hăng say làm chứng cho Chúa ngay trong môi trường sống của mình.
Trong thời đại hôm nay, chúng ta làm chứng cho Chúa Kitô Phục
sinh không chỉ bằng lời rao giảng mà còn phải bằng chính cuộc sống của chúng
ta. Cụ thể trong xã hội hôm nay, có rất nhiều người nhất là những người trẻ, họ
luôn sống trong lo âu, sợ hãi, khủng hoảng hoặc không cần biết đến ý nghĩa cuộc
sống, họ lao vào những tệ nạn xã hội mà không thoát ra được. Trước tình trạng
đó, lẽ nào chúng ta ngồi yên? Là những con người của thiên niên kỷ mới này,
chúng ta phải là những người đi bước trước đem sự bình an và đức tin sâu sắc
giúp họ thoát khỏi thất vọng để tìm ra ý nghĩa cho cuộc sống.
Mỗi chúng ta cần phải mở rộng lòng dám đi sâu vào thế giới để
tìm hiểu và đem Chúa Phục sinh vào mọi lãnh vực, không bo bo trong vỏ ốc nhưng
phải mở rộng ra khắp thế giới.
Có một câu chuyện kể lại rằng, một nhà thông thái kia muốn sáng
lập một tôn giáo mới. Ròng rã nhiều năm, ông đem tất cả sự khôn ngoan của mình
ra thuyết phục thiên hạ mà chẳng thấy ai theo. Ông bèn than thở với một người
bạn thì nhận được một lời khuyên: “Nếu anh muốn người ta theo anh thì dễ thôi,
anh hãy làm thế này: Thứ năm anh ăn bữa tiệc cuối cùng, thì thứ sáu anh để
người ta đóng đinh anh trên khổ giá rồi chôn cất, Chúa nhật anh sống lại! Chắc
chắn người ta sẽ theo anh rất đông?”.
Quả là lời khuyên độc đáo, và lại càng lý thú hơn, khi tác giả của
lời khuyên này chính là Napôlêon!
Điều mà Napôlêon muốn nhấn mạnh ở đây, đều có sức lôi cuốn người
ta chính là sự sống lại.
Thực vậy, biến cố Chúa Kitô Phục sinh chính là nền tảng và trung
tâm của đời sống đức tin Kitô giáo chúng ta.
Đấng Phục sinh đã chọn “ngày thứ nhất trong tuần” làm ngày gặp
gỡ các tông đồ. Như thế, “Ngày thứ nhất trong tuần” đã trở thành ngày của cộng
đoàn, ngày của gặp gỡ, ngày hát mừng niềm vui Phục sinh, và nhất là ngày của
cuộc “sáng tạo mới”. Xin cho mỗi ngày Chúa nhật cũng trở thành một ngày giúp
chúng ta sống thánh thiện, hiệp thông, yêu thương… Để mỗi chúng ta trở thành
một bằng chứng cho sự hiện diện sống động của Đấng Phục sinh.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón
tay vào lỗ đinh, và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”. Tôma đang tìm
kiếm sự tuyệt đối chắc chắn. Chúng ta có thể gọi ông là một người theo trào lưu
chính thống. Đối với người theo trào lưu chính thống, vấn đề chỉ là trắng hoặc
đen. Nếu có một điều gì đó chưa đích thực theo sát nguyên văn, thì đúng là điều
đó không hề có thật.
Ngày nay, trào lưu chính thống đang trên đà gia tăng. Vì sự
thiếu chắc chắn gây ra nỗi e ngại, nên họ co rút lại vào trào lưu chính thống.
Trào lưu này có thể rất hấp dẫn. Đối với người theo trào lưu chính thống, đường
lối phải thẳng tắp, câu trả lời phải đơn giản. Nhưng trào lưu chính thống là
một cách thức nghèo nàn trong việc nhìn nhận chân lý. Điều này có nghĩa là cuộc
sống chỉ có một chiều kích mà thôi. Trào lưu này tước đoạt mất sự phong phú của
lòng tin, hậu quả là đưa đến một thứ tôn giáo cứng rắn, đơn giản, thuần theo
luân lý và độc đoán. Điều này làm cho người ta biến thành một đám người chỉ đi
theo đúng một đường lối, hơn là một nhóm người bao gồm những cá nhân, mỗi người
đều có câu chuyện riêng của mình để kể ra, và một đường lối đặc biệt riêng để
đi theo.
Sau đây là một câu chuyện ngụ ngôn: có hai người đi đường tự nhận
thấy mình đang giáp mặt với một cánh rừng. Bởi vì chung quanh đó không còn một
con đường nào, nên họ không còn chọn lựa nào khác, ngoài cách phải băng qua
cánh rừng đó. Tự nhiên họ cảm thấy khiếp sợ, họ e ngại rằng mình có thể bị lạc
lối trong rừng. Nhưng họ thật may mắn khi gặp được một người gác rừng, người
này đã cho họ một bản đồ vạch ra những con đường mòn đi xuyên qua rừng.
Sau khi xem xét tấm bản đồ, thì người thứ nhất phát hiện được một
con đường mòn dường như có vẻ đi thẳng trực tiếp nhất, và anh ta đã kiên quyết
đi theo con đường mòn đó. Khi làm như vậy, anh đã tiết kiệm được nhiều thì giờ,
lo lắng và nguy hiểm. Nhưng anh ta cũng tự làm cho mình mất đi cơ hội khám phá
được vẻ phong phú của khu rừng.
Người thứ hai nghiên cứu từng chi tiết của tấm bản đồ một cách cẩn
thận. Anh đã ghi nhận rằng những con đường mòn chính không chỉ xuyên suốt được
khu rừng, mà còn là những lối đi ngắn hơn nhiều. Đối với anh, không nhất thiết
là phải tuyệt đối theo sát tấm bản đồ, nhưng mục đích chính của tấm bản đồ này
là nhằm cung cấp cho anh những phương hướng, để mặc dù đang ở bất cứ chỗ nào
trong rừng, anh cũng sẽ không bị lạc lối. Khi sử dụng bản đồ theo cách này, là
mở ra cho anh toàn thể khu rừng, và giúp cho anh phát hiện được tất cả vẻ phong
phú sẵn có của nó.
Khu rừng tiêu biểu cho thế giới của chân lý. Tấm bản đồ tiêu
biểu cho đức tin của người Kitô hữu. Những con đường mòn tiêu biểu cho các học
thuyết về đức tin.
Người thứ nhất tiêu biểu cho loại người theo trào lưu chính
thống. Anh ta suy nghĩ về các học thuyết đức tin theo một cách thế hẹp hòi,
theo sát từng chữ và dường như không liên quan gì đến những gì còn lại của cuộc
sống. Người thứ hai đã sử dụng cũng những chân lý đó để cung cấp cho anh những
phương hướng. Bằng cách này, những chân lý đó mở ra tất cả cho anh. Chúng giúp
anh có thể tự đắm mình vào cuộc sống, với tất cả những nét phong phú đa dạng và
tuyệt vời của nó. Chúng đem đến cho anh một chiếc chìa khóa, để giải mã mầu nhiệm
của cuộc sống.
Đức tin của người theo trào lưu chính thống tạo ra một đường lối
an toàn. Đức tin này bảo vệ người đó khỏi phải làm một công việc khó khăn, đó
là tìm kiếm ý nghĩa và những giá trị của bản thân mình. Nó giảm bớt cho người
đó khỏi nỗi lo lắng phải đương đầu với sự chọn lựa, với trách nhiệm, và sự thay
đổi liên tục trong ý thức về bản thân mình. Trào lưu chính thống là một đức tin
đã được xác nhận bằng sự thiếu tự tin.
Đối với một người theo trào lưu chính thống, tôn giáo chỉ là một
phần của cuộc sống. Còn đối với người không đi theo trào lưu chính thống, tôn
giáo chính là cuộc sống được nhìn và sống theo viễn cảnh tôn giáo. Mỗi sự kiện
đều được tiếp nhận gấp đôi, nếu không muốn nói là gấp ba lần ý nghĩa, và do đó,
từng sự kiện lại được phong phú hơn và bí nhiệm hơn. Đức tin lấp đầy cuộc sống
của chúng ta bằng những sự kiện mà, nếu không có chúng, thì cuộc sống của chúng
ta sẽ không có ý nghĩa, và linh hồn của chúng ta sẽ bị khô héo và chết đi.
Chúa Giêsu không cổ vũ cho trào lưu chính thống. Người không
muốn những kẻ đi theo Người cách mù qaung. Trái lại, Người đã cố gắng mở mắt
mọi người, mà không hề đe dọa hoặc ép buộc ai cả, Người chỉ mời gọi, mong muốn
người ta tự nguyện đi theo Người, bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Và người còn
đi đến chỗ mong muốn chúng ta có thể có được sự sống, không chỉ ở cuộc sống mai
sau, mà còn ở nơi đây, trên trái đất này nữa, để có được một cuộc sống dồi dào.
Cách xử sự của Tôma cũng là cách xử sự thông thường của nhiều
người. Người ta chỉ chấp nhận là có thật những gì mà người ta có thể xem bằng
mắt, bắt bằng tay, những gì cân, đo, đong, đếm... được. Còn những gì người ta
không thấy, bị xem như là không có. Khi tôi hỏi bạn bè: Tại sao bạn không tin
Thiên Chúa, không tin có linh hồn, không tin có sự sống đời sau? Họ trả lời
thật đơn giản: "Có thấy đâu mà tin!"
Thế nhưng, có nhiều điều chúng ta không thấy nhưng chúng ta vẫn
phải nhận là chúng hiện hữu. Người ta không thể nhìn thấy tình mẫu tử nơi người
mẹ, không nhìn thấy ý chí kiên cường nơi bậc anh hùng, không nhìn thấy trí khôn
tuyệt vời của nhà khoa học (bởi vì tình yêu, ý chí, trí tuệ... là những thực
tại vô hình, không màu sắc, không trọng lượng, không khối lượng)... nhưng không
ai dám phủ nhận rằng những thực tại nầy không có.
Với đôi mắt trần nầy, tầm nhìn của người ta rất hạn hẹp, như
"ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung".
Với đôi mắt trần nầy, chúng ta chỉ nhận thấy một ít sự vật phù
du mà thôi. Còn những điều quan trọng, những điều chính yếu thì không thể nhận
thấy. Nhà văn Saint-Exupéry đã khám phá ra điều nầy, ông viết:
"L'essentiel est invisible pour les yeux" (Thực tại thiết yếu thì mắt
trần không thấy được). Do đó, nhân loại cần đến những con mắt khác, những con
mắt thứ ba để nhận thức những thực tại cao siêu. Con mắt nầy giúp người ta nhìn
xa, nhìn rộng, nhìn sâu, nhìn thấy điều thiết yếu, nhìn thấy chân lý...
Con mắt thứ ba của các nhà vi trùng học là ống kính hiển vi. Nhờ
con mắt nầy, nhà nghiên cứu có thể nhìn thấy vi trùng và những siêu vi cực
nhỏ... Con mắt thứ ba của các nhà thiên văn là ống kính thiên văn, nhờ đó các
nhà khoa học có thể thấy được những ngôi sao cách mặt đất đến mười tỉ năm ánh
sáng... Con mắt thứ ba của các nhà quân sự là màn ảnh ra-đa, là vệ tinh quan
sát... Chúng giúp các nhà quân sự nắm rõ địa hình cũng như các bí mật quân sự
của đối phương nhằm đạt tới chiến thắng.
Trong Phật giáo, con mắt thứ ba của nhà tu hành đạt đạo là 'huệ
nhãn', giúp người ta thấy được những thực tại tâm linh siêu hình. Đối với Đức
Giêsu, con mắt thứ ba mà Ngài mong muốn các môn đệ Ngài phải có là Đức Tin. Nhờ
"Con Mắt Đức Tin", nhân loại có thể nhận ra Thiên Chúa là Cha yêu
thương, nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ, nhận ra mình có hồn thiêng bất tử,
biết mình có cuộc sống mai sau, có thiên đàng hoả ngục...
Tông đồ Tôma chưa có con mắt thứ ba. Anh chỉ tiếp cận với thế
giới qua đôi mắt trần. Anh chủ trương chỉ những gì được xem thấy tận mắt, được
sờ tận tay... mới là điều có thực. Chính vì thế, khi nghe các môn đệ bảo anh:
"Nầy Tôma, Thầy đã sống lại và đã hiện ra với chúng tôi", Tôma cho là
chuyện đùa.
Cho dù Tôma có thấy Chúa tận mắt đi nữa, chắc gì anh đã tin, vì
biết đâu đó chỉ là bóng ma của Chúa Giêsu hiện về. Anh đòi phải kiểm chứng bằng
cách xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn... thì anh mới tin!
Chúa Giêsu không hài lòng với quan điểm đó. Ngài nói: "Tôma, vì anh đã
thấy Thầy nên anh mới tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin."
Như thế, phúc cho những ai không dùng đôi mắt trần, nhưng dùng
con mắt thứ ba, "Con Mắt Đức Tin" để nhận ra Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn tuyên dương những ai có Đức Tin vì đó là
con mắt tối cần giúp thấy được những thực tại siêu nhiên và đạt tới ơn cứu độ.
Chúa luôn khiển trách các môn đệ khi các ông yếu lòng tin. Chúa buồn phiền vì
dân chúng thiếu lòng tin. Chúa khiển trách Tôma là kẻ cứng lòng tin. Xin khai
mở cho chúng con con mắt thứ ba, con mắt Đức Tin, để chúng con nhận biết Thiên
Chúa Cha là Cha yêu thương, nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và
nhận biết Thánh Thần Chúa là Đấng thánh hoá mọi người, cùng nhận biết mọi người
là anh em thật của chúng con trong Chúa Kitô. Amen.
41. Niềm tin
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn suy nghĩ về thái độ của
Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn tin vào những gì là rõ
ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội vã kêu lên:
- Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại cho chúng ta nhiều an ủi và
khích lệ:
- Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã nghĩ tới hằng triệu triệu
người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần nhìn thấy Ngài, chưa
một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe Ngài giảng, chưa một
lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng, yêu mến
và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
- Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một người đã sống
cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với não trạng của
con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
- Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa trên những cơ
sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu là một sự kiện lịch sử như
sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm về trước, các tiên tri đã
loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được xác định một cách rõ
ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc Ngài đã làm. Qua
đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng ta hãy tin tưởng
vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện vọng riêng tư
của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
- Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên, tại sao không
lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày nay có nhiều người trí
thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một cái nhìn đứng đắn,
chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không phải là những chân
lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có một tâm hồn sẵn sàng.
Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những đam mê vẩn đục thường
là những chướng ngại vật cản ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô chết bốn
ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng, những kẻ chứng kiến đã có
phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
- Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những kẻ lại hậm hực
tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển nhiên như
thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì bảo: Ông
ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học Công giáo thì cũng có
những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của tác dụng ơn Chúa trong
tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước và làm cho ơn Chúa trở
nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
- Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại này luôn luôn chia thành
hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng vào Chúa và giới tuyến của
những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào thời nguyên thủy đã có
những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới tuyến nào? Hãy tuyên
xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa tôi.
42. Chú giải của Noel
Quesson
Vào chiều hôm ấy, ngày thứ nhất trong tuần... các môn đệ khi đó tụ
tập lại... Tám ngày sau, các môn đệ lại ở trong nhà...
Trang Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta hai sự hiện tỏ của
Đức Giêsu đã sống lại, cách khoảng 8 ngày. Một cách tự nhiên, chúng ta có xu
hướng tập trung chú ý vào cuộc hiện ra lần thứ hai, đó là với Tôma... bởi vì
chúng ta thường khi tự động hóa mình với ông, và tìm được một giải pháp thực
tiễn là có dưới tay mình một người nào đó hoài nghi, một người nào đó khó tin...
và tìm ra được nơi ông một thứ biện minh cho sự thiếu lòng tin của chính chúng
ta.
Nhưng những sự thông đồng của chúng ta với Tôma không ngăn chúng
ta đọc toàn thể văn bản. Trước hết chúng ta lưu ý rằng Đức Giêsu hằng sống hiện
ra, chuyện đó có phải tình cờ không? Vào Chúa nhật. Ngày thứ nhất trong tuần.
Chúng ta biết rất rõ những Kitô hữu ban đầu không họp nhau mỗi ngày đâu. Chính
họ, họ cũng có cuộc sống hằng ngày của mình. Họ không thể luôn luôn ở với nhau
được. Vì thế, chính trong khuôn khổ cuộc gặp gỡ hằng tuần của họ, mà Đức Giêsu
sống lại đến thăm. Chúng ta có thể sai lầm khi nghĩ rằng đức tin là một công
việc có nhiều tính cách riêng tư hay cá nhân: chúng ta nhận thấy rằng sự hiện
diện của Đức Kitô sống lại chủ yếu được người ta thử nghiệm, nhận biết, cảm
thấy trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ cộng đoàn. Họ ở với nhau,...hội họp lại...
trong Giáo Hội.
Các môn đệ đã gài chốt các cửa nơi họ ở, bởi vì họ sợ. Đức Giêsu
hiện đến và ở giữa họ.
Khi thánh Gioan viết điều đó, thì lúc ấy luôn luôn là thời gian
sợ hãi và bách hại. Các môn đệ của Chúa Giêsu có thói quen khi hội họp ở nhà
người này, khi ở nhà kia. Họ đón tiếp nhau... Họ tin cậy nhau. Có những vụ bỏ
cuộc, những người bỏ đức tin và nhóm... Họ cũng sợ... Họ cài chốt các cửa lại.
Nhưng ở mỗi Chúa nhật, dấu chỉ của phòng tiệc ly được làm lại, Chúa nhật đầu
tiên này: một cách huyền nhiệm, Đức Kitô lẻn vào giữa những người thân của
Người, tại nơi họ đang ở: E-phê-sô, Cô-rin-tô, Giêrusalem, Roma. Vâng, mỗi Chúa
nhật, chính là lễ Phục sinh! Chúa ở đó, ngay giữa cuộc đời chúng con, và chính
Chúa đã làm cho chúng con được sống... Không thấy Chúa, chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa hôm nay, chúng con cũng bị cám dỗ cài chết cữa nhà một
cách sợ hãi. Khi Thần Khí thổi vào, chớ chi các bức tường trong nhà tù của
chúng con sập đổ, chớ chi thời giờ ca hát của chúng con trở lại: Chúng ta hãy
mở cửa nhà chúng ta cho Đức Kitô sống lại!
Trước khi đi xa hớn trong cuộc suy niệm Tin Mừng này chúng ta
hãy xin Đức Kitô, để giải thoát chúng ta, làm cho chúng ta sống lại khỏi tình huống
chết chóc nào. Như tội lỗi, như thử thách về sức khỏe, như những gò bó đau đớn
và tuyệt vọng, như khó khăn gia đình và nghề nghiệp... Nơi mà ở đó họ đã gài
then cửa!
Người nói với họ: "Bình an cho anh em!".Nói xong Người
cho họ xem bàn tay và cạnh sườn Người. Các môn đệ tràn ngập vui mừng khi thấy
Chúa. Đức Giêsu lại nói với họ: "Bình an cho anh em!"
Niềm vui Phục sinh, niềm vui Kitô giáo trước hết không phải là
một niềm vui dễ dãi, niềm vui tự phát, thứ niềm vui nâng chúng ta lên cao khi
mọi chuyện xuông xẻ, khi sức khỏe được tốt lành, tuổi trẻ ở đó đầy sức sống,
khi các doanh nghiệp của chúng ta thành công, khi các quan hệ bạn bè và gia
đinh được dễ chịu. Niềm vui Phục sinh, chính là niềm vui đến sau sợ hãi! Đó là
niềm vui và sự bình an đi trở lên từ một tinh huống về cơ bản là thất vọng (cái
chết của một Đấng bị đóng đinh) mà không gì có thể tước đoạt được! Đó là niềm
vui và sự bình an đến từ lòng tin vào Đức Giêsu, ở mỗi cuộc hội họp Chúa nhật,
giống như ngày đó, Đức Giêsu nguyện chúc sự bình an qua tiếng nói của vị linh
mục: "Bình an cho anh chị em!". Và Công đồng Vatican II đã lập lại
truyền thống xưa "hôn bình an: các Kitô hữu được mời ban bình an cho nhau,
nhân danh Đức Kitô. Trao cho nhau một cái bát tay, ôm lấy nhau, mỉm cười với
nhau, trong khi vừa chúc với nhau: Bình an Đức Kitô. Đó không phải là một cử
chỉ tầm thướng... chính là "trở nên Đức Kitô" với người gần ta...,
khi nhiều người họp nhau lại nhân danh Ta. Ta sẽ ở giữa họ.
“Như Chúa Cha đã sai Thầy. Thầy cũng sai anh em..”
Đấy! Chúng ta không tin là nói quá tốt như thế!chính Đức Kitô
nói lại với chúng ta... Tôi, người đàn ông đáng thương người đàn bà đáng
thương, tôi là "Giêsu” được sai đến cùng anh em tôi... đúng như Người đã
được Cha mình sai đi. Ta đừng đi quá nhanh trên các từ này. Ta đừng đi quá
nhanh để bắt kịp Tôma, người cứng lòng tin. Hãy nán lại trên các từ về Đức
Giêsu. Chúng ta hãy nghe trách nhiệm cao vời mà Người trao cho chúng ta:
"sứ mệnh" của Đức Kitô được trao cho Giáo Hội, cho tôi, một phần. Tôi
được Đức Giêsu sai đi... như Đức Giêsu đã được Cha sai đi! Tôi còn phải khám
phá ra ý nghĩa của hai từ này, thêm một lần nữa, đó là những từ Latinh và Hy
Lạp không được dịch ra, hỡi ôi. "Sứ mệnh" có nghĩa "sự sai
đi" (từ missus trong Latinh)... và "tông đồ có nghĩa là "người
được sai đi” (từ Apostolos trong tiếng Hy Lạp)...
Khi tôi gặp gỡ một người nào, trong công việc của tôi, trong môi
trường cuộc cống của tôi, tôi không ở đó chỉ nhân danh riêng tôi, vì lợi ích
của tôi: Tôi được Đức Giêsu sai đến đó nhân danh Người, vì lợi ích của chính
Người! Như Đức Giêsu đã được Cha Người sai đi! Tôi còn phải nói với một sứ điệp
của Đức Giêsu: chính Người nói cho bạn biết điều mà tôi sắp nói với bạn...
người đang sống trong tôi là đôi môi và thân xác của Người, ở gần với Người, để
tỏ ra cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Khi đã nói xong. Người thổi hơi trên họ và Người nói với các ông:
“Anh em nhận lấy Thánh Thần”.
Ơn huệ của Thánh Thần, sự sáng tạo mới... Thần Khí của Đức Giêsu
được truyền đạt cho các môn đệ của Người. Đức Giêsu đã chết, "trở lại cùng
với Cha". Nhưng người Kitô hữu nhận lấy đà tiếp sức! Họ là những người
mang hơi thở đầy sinh lực và Thần Khí Người... họ đi theo công trình của Người:
Thánh Phaolô sẽ nói: "Anh em là Thân thể Đức Ki- tô, anh em là Đền Thờ của
Thánh Thần. Thánh Gioan, chính ông cho chúng ta thấy, vì lợi ích chính mình,
Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Sáng Tạo trong sách Sáng Thế (St 2,7):
"Lạy Thần Khí Sáng Tạo, xin hãy đến (Veni, Creator Spintua)".
Đối với Gioan, Lễ Hiện Xuống, chính là buổi chiều ngày Lễ PS cái
chính yếu trong hoạt động của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng cái chết,
chính là ơn huệ của Chúa Thánh Thần, Người đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ
trong những kẻ chết (Rm 8,11). Trong kinh Tin Kính, đó là điều mà chúng ta
khẳng định một cách chính yếu về Chúa Thánh Thần: Ngài là Đức Chúa, và Ngài ban
sự sống. Thánh Thần được ban cho con người ngay chính chiều ngày Phục sinh, và
Ngài sẽ tỏa sáng rực rỡ trên công trường năm mươi ngày sau, vào ngày lễ Hiện
Xuống, chính cùng một Thánh Thần này, vừa mới thành công một đòn bậc Thầy nếu
ta cấm nói như thế, bằng cách kéo Đức Giêsu khỏi sự chết, đồng thời mạc khải
Người là Con Thiên Chúa nhờ sự Phục sinh. "Nhờ sự Phục Sinh Người được lập
là Con Thiên Chúa theo Chúa Thánh Thần".
"Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha..”
Trói buộc, và tháo gỡ, tha thứ và cầm buộc... các tội lỗi. Lời
lẽ này là một công thức ngữ pháp aramên: người ta dùng hai từ trái nghĩa để
khẳng định mạnh mẽ hơn nữa một thực tại, và nhấn mạnh lên từ "tích
cực". Vì thế, khi ban cho họ Thần Khí của Người, Đức Giêsu cũng ban cho
các môn đệ của Người quyền tháo gỡ con người khỏi sự xấu của mình: Từ nay, trên
trần gian này, họ là những người mang theo lòng thương xót của Thiên Chúa...
như Đức Giêsu khi trước: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em".
Các Kitô hữu được mặc lấy sứ mệnh mà chính Đức Giêsu đã nói là của Người, trong
giáo đường Na-da-rét, đầu tác vụ của Người: Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi,
Thần Khí Thiên Chúa đã thánh hóa tôi. Người đã sai tôi đi mang Tin Mừng cho
người nghèo khó, loan báo một năm hồng ân do bởi Thiên Chúa, giải thoát những
người tù đầy " (Lc 4,18-19). Tôi có phải là người mang tinh thần đó, Thần
Khí giải phóng, của Thần Khí ban sự sống, của Thần Khí yêu thương, và tha thứ
nhân danh Đức Giêsu không? Sự tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một trong Nhóm Mười Hai, Tôma, lúc đó không ở với các ông, khi Đức
Giêsu hiện đến... ông tuyên bố: "Nếu tôi không thấy... tôi sẽ không
tin..."
Đấy là "người đến trễ, đến sau cuộc lễ Gặp gỡ. Tôma, luôn
luôn, trong Tin Mừng, là người chỉ tin vào lương tri của mình, con người tích
cực ngờ vực những hành vi táo bạo của Đức Giêsu. "Lạy Chúa, chúng con
không biết Chúa đi đâu" (Ga 14,15). Khi Đức Giêsu nói về sự sống lại của
La-da-rô, thì chính Tôma chỉ thấy sự chết (Ga11,15-16).
Tám ngày sau... Đức Giêsu lại đến: "Đặt ngón tay anh vào đây,
hãy xem tay Thầy, đừng cứng lòng tin nữa..."
Đức Giêsu, dù đã sống lại, vẫn có tính khôi hài? Người đã để cho
Tôma, bên ngoài, xem ra có lý trong một tuần. Chính với một cách mỉm cười mà
tôi đã xem Đức Giêsu nói thẳng với Tôma. Đức Giêsu như có vẻ nói với ông: Anh
bạn đáng thương của tôi ơi, bạn đã tưởng tôi chết, và vắng mặt, khi bạn nói với
các bạn khác, bảo với họ là bạn không tin... nhưng tôi vẫn ở đó, vô hình, có
nghe chuyện bạn nói. Dẫu vậy, tôi không tỏ mình cho bạn lúc đó. Ôi! Sự kiên
nhẫn của Thiên Chúa. Người luôn có tất cả thời gian của Người.
Tôma nói: "Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con".
Đó chính là tiếng kêu đức tin của một người mà đối với anh ta,
sự đụng chạm cũng thành vô ích. Anh ta đã hiểu rằng Đức Giêsu, dù vồ hình, vẩn
có ở đó. Ngay giờ phút ông hoài nghi, thì Người cũng có mặt ở đó.
Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những ai không thấy mà tin.
Một mối phúc thật, mối phúc cuối cùng. Người ta không thể trông
thấy những thực tại cao cả nhất của Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới đưa chúng ta
tới đó. Đó chính là hạnh phúc đích thực.
43. Hiện ra
cùng Tôma
Chương 20 của Phúc Âm thứ tư được cấu tạo thành một khối duy
nhất về phương diện văn thể và đề tài. Nó kể lại vài lần hiện ra của Đức Kitô
phục sinh ở Giêrusalem. Ý chính của chương này: việc chuyển từ kinh nghiệm thể
lý sang đức tin thiêng liêng.
Khi đã để ý đến yếu tố văn thể và giáo thuyết, chúng ta có thể
thấy chương 20 được hình thành như sau:
+ Phần thứ nhất: buổi sáng Phục sinh (20,1-18)
- Đoạn 1: viên đá được lăn ra và ngôi mộ trống (c.1-10); xem Mt
28,1-10; Mc 16,1-8; Lc 14,1-10.
- Đoạn 2: Đức Kitô hiện ra với Maria Madalena (c.11-18; xem Mt
28,9tt; Mc 16,9)
+ Phần thứ hai: hiện ra cùng các môn đệ (20,19-21)
- Đoạn 1: hiện ra ngày phục sinh của Đức Kitô sống lại cho các
môn đồ (c.19-23; x. Mc 16,14; Lc 24,36-49; 1Cr 15,5)
- Đoạn 2: hiện ra sau tám ngày cho Tôma, kẻ cứng tin (c.24-49)
+ Kết cục: (20,30-31)
1) Nhìn sơ qua, chúng ta thấy không những hai phần này được đặt
gần nhau mà còn được cấu tạo một cách gần như đồng nhất, Tôma chiếm một chỗ
quan trọng phần thứ hai. Trong lúc Maria Madalena, trong một giây phút buồn
phiền, đã khóc khi thấy mồ trống, Tôma, cách tự phát nhưng bồn chồn, đã hồ nghi
thực thể của Chúa Giêsu phục sinh. Vắng mặt khi Phêrô và môn đệ dấu yêu khám
phá ra mồ trống và khi Gioan biểu lộ đức tin vào sự phục sinh của Đức Kitô
(c.8-9), Maria tuyên xưng đức tin khi Chúa tự mạc khải cho bà (c. 18). Cũng
thế, vắng mặt khi Chúa hiện ra ngày phục sinh khi các môn đệ tụ họp, Tôma đã
tin cách phấn khởi khi Chúa Giêsu chiếu cố hiện ra với ông tám ngày sau.
Trong cả hai phần, sự kiện hay dịp sờ đến thân xác phục sinh
Chúa đều được đặt nổi bật (đối với Maria, x.câu 17; với Tôma x.câu 25 và 27)
với một cảm giác thật nhân bản. Ngoài ra đức tin của Maria đã làm bà được sứ
mệnh loan báo cho các tông đồ sự sống lại (c.18), trong lúc việc tuyên tín của
Tôma khai mào đức tin của những người không thấy mà tin (c.29).
Cuối cùng, mỗi đoạn đều nhắm đến kiệc chuyển từ kinh nghiệm thể
lý sang đức tin thiêng liêng: môn đồ dấu yêu tin khi nhìn thấy tấm khăn liệm và
dải vải (c.8), Maria tin khi nghe giọng nói quen thuộc của thày gọi tên bà
(c.0, các môn đồ tin khi ngắm nhìn tay và cạnh sườn của Đức Kitô (c.20), cuối
cùng Tôma tuyên xưng đức tin hoàn toàn vào Đức Kitô phục sinh (c.29) khi nhìn
thấy tay chúa và thọc tay ông vào cạnh sườn Ngài (cc.25 và 27). Những tương hợp
này chứng tỏ có sự đồng nhất trong việc sắp xếp và khai triển toàn bộ chương
20. Tuy nhiên bắt đầu phần thứ hai, đức tin vào Đức Kitô phục sinh có những
chiều kích rộng lớn hơn. Thật vậy, ngoài các vị tông đồ, toàn thể Giáo hội được
nổi bật nhờ được sai đi truyền giáo và nhờ việc Chúa Thánh Thần hiện xuống.
Cũng thế, đức tin của một Tôma cứng lòng nhưng đã ăn năn gợi lên đức tin của
tất cả các tín hữu sau này.
2) “Đoạn Ngài phán cùng Tôma: hãy
đem ngón tay ngươi đặt đây, này tay Ta; Hãy đem tay ngươi tra vào cạnh sườn Ta
và đừng ở như người cứng tin mà là như người thành tín” (c.27).
Phần đầu của câu nói hay là một sự hạ cố đến Tôma hầu như làm ta khó chịu. Chúa
Giêsu chấp nhận thách thức mà Tôma đã đòi cho kỳ được: sờ đến Ngài để đảm bảo
đó không phải là một hữu thể tưởng tượng nhưng là một con người thật, sống
động. Ngược lại, phần thứ hai hàm chứa một lời khuyến cáo đích đáng. Tôma phải
trở nên một tín hữu thật sự trong thực thể của Chúa Giêsu phục sinh.
Không có gì trong bản văn cho thấy là vị tông đồ hiểu lời Chúa
theo nghĩa đen và thi hành điều mà thày dạy làm. Lời nói mạnh mẽ của Chúa Giêsu
đã đủ cho ông. Vì thế Toma trả lời và nói: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa
của tôi”. Lời tuyên xưng đức tin rạng rỡ này, lời xác quyết nặng
về phương diện Kitô học phát xuất từ miệng Tôma cứng tin, nói lên sự hiển nhiên
của việc phục sinh.
Từ đầu cho đến giờ, không có ai trong Phúc Âm Gioan gán tước
hiệu này cho Chúa Giêsu Kitô. Một cách bộc phát và phấn khởi, Tôma phát biểu
đức tin hoàn toàn của mình vào thiên tính của Đức Kitô. Lời tuyên xưng đức tin
này là chóp đỉnh, là cao điểm của toàn thể Phúc Âm thứ tư. Câu “Lạy Chúa tôi và
là Thiên Chúa của tôi”, vì nặng phần giáo thuyết, đã làm các nhà chú giải để ý
nhiều. Tước hiệu “Chúa” (Curios) đã được nghiên cứu rất nhiều. Chỉ cần nhắc lại
ở đây là nhiều lần các sách Tân Ước đã gán tước hiệu Curios cho Chúa Kitô.
Nhưng trong mỗi trường hợp, cần phải xét kỹ để có thể xác định một cách rõ ràng
nội dung Kitô học của tước hiệu đó.
Đức Kitô cũng được gọi là Thiên Chúa, nhất là trong các thư mục
vụ (Có lẽ trong Rm 9,5 nữa), trong lúc thánh Gioan chỉ gán tước hiệu này hai
lần trong 1,1.18 (x.5,18; 10,53). Trong trường hợp chúng ta đây, hai tước hiệu
“Chúa” và “Thiên Chúa” đều được liên kết chặt chẽ trong cùng một câu. Để xác
định ý nghĩa đích thực của hai tước hiệu này, một vài tác giả đã nói rằng văn
chương ngoại giáo đã dùng tước hiệu đó (Deisman), đặc biệt trong việc sùng bái
các hoàng đế vào thời đầu tiên của Kitô giáo (Bauer). Tuy nhiên, hầu như chắc
chắn rằng môi trường của câu nói này phải được tìm trước hết trong văn chương
Do thái và Thánh kinh. Thật vậy, câu nói này được tìm thấy nhiều lần trong bản
dịch Hy lạp 70 (xem nhất là 2S 7,28; 1V 18,39; Tv 30,2; 35,5.24; 125,15; 138,1;
Ga 18,17). Có ý nói là Tôma tôn thờ Đức Kitô, Chúa Con, với những lời mà người
Do thái có thói quen dành để tôn thờ TC. Như thế, Tôma đi trước thánh Stephano,
người khi chịu tử đạo, sẽ phó dâng tâm hồn mình cho Chúa Giêsu như cho TC (Cv
7,59).
3) Theo từ ngữ nay thành cổ điển của Origène, Phúc Âm thứ tư là
“Phúc Âm thiêng liêng” (x. Eusèbe de Kesarée, Hist.Eccl. VI,14,7). Hơn cả Phúc Âm
nhất lãm, thánh Gioan, thần học gia, đã nhấn mạnh đến các thực thể cao quí nhất
cấu tạo nên đời sống Kitô hữu: tin, đời sống thần linh, ân sủng, ánh sáng. Ông
có tài hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của các sự kiện và biến cố cùng khám phá
ra những mầu nhiệm linh thiêng của chúng. Tất cả đều xảy ra trên bình diện cao
quí của tâm hồn, của việc chúng ta được kết hợp trong ân sủng với Chúa Cha nhờ
Đức Kitô. Tuy nhiên, sự sống của Thiên Chúa trong chúng ta dù cao quí đến đâu,
cũng không xóa bỏ được bản tính cùng thực tại thể lý. Cần phải luôn lặp lại
điều này: Gioan không giảng đến một thần học thiêng liêng mà không liên quan
đến lịch sử; sứ điệp thiêng liêng của ông giả thiết và đòi hỏi phải có các
chứng nhân mắt thấy tai nghe.
Như thế, một khi đã để ý đến công trình khảo cứu hiện thời của
khoa phê bình văn hình sử (Formgeschichte), và độc lập với mọi cuộc tranh luận
về sự sống lại như một sự kiện lịch sử, chúng ta không thể hoài nghi là chính
Gioan đã lưu tâm nhiều đến các chứng từ liên quan đến những lần hiện ra của Đức
Kitô.
Những lần hiện ra của Đức Kitô ngày phục sinh và 8 ngày sau,
việc nhấn mạnh đặc biệt về sự kiện Chúa Giêsu chỉ các thương tích và cạnh sườn
Ngài cho các môn đệ và cho Tôma, chúng tỏ cách rõ ràng rằng đối với Gioan, Đức
Kitô vinh hiển và Chúa Giêsu chịu đóng đinh và chịu chết là một. Gán cho những
trình thuật của Gioan về các lần hiện ra một ý nghĩa hoàn toàn tượng trưng là
cưỡng chế bản văn. Vì thế chúng ta không chấp nhận lời chú giải nổi tiếng của
Bultmann: “Bài tường thuật về Tôma cũng như bài tường thuật về Maria
Madalena... chỉ có một giá trị tương đối...(chúng ta phải coi chúng) như là một
lời trong đó các biến cố được kể lại đã trở thành những hình ảnh biểu tượng cho
cộng đoàn” (R.Bultmann, The Gospel of John, Oxfort, Elackwell,1971 tr.696).
Lời xác quyết này lại càng đáng ngạc nhiên và gây sửng sốt khi
tác giả Phúc Âm thứ tư, hơn các Phúc Âm nhất lãm, đặc biệt làm nổi bật tính
cách thể lý của thân xác Đức Kitô trong những lần hiện ra. Tại sao Gioan, thần
học gia, tác giả Phúc Âm có tính cách thiêng liêng nhất, lại nhấn mạnh nhiều
đến đặc tính nhân loại của Đức Kitô sau khi sống lại? Ngoài ra chúng ta phải
thành thật tự hỏi tại sao Gioan suốt cả cuốn Phúc Âm, thường chú trọng đến vinh
quang hiển nhiên và thần linh của Đức Kitô, lại tránh ám chỉ đến vinh quang này
trong những lần hiện ra, ngược hẳn với Matthêu? Khó có thể tìm ra câu trả lời.
Đây là câu trả lời: vì Gioan - tác giả Phúc Âm thiêng liêng nhất, tự cảm thấy
cần phải nhấn mạnh phải đến sự kiện Đức Kitô đi vào vinh quang bên cạnh Chúa
Cha, nhưng đến mọt sự kiện khác đã đánh động ông nhất với tư cách là nhân chứng
tận mắt: Đức Kitô giờ đây, cũng như trước khi tử nạn, tiếp tục tiếp xúc cá nhân
với các môn đồ của Ngài, với Tôma.
4) “Còn nhiều dấu lạ khác
nữa...": Gioan, khi kết thúc tác phẩm của ông, biết
rằng tác phẩm đó chưa chấm dứt. Nhưng có khi nào người ta viết cạn ý một quyển
sách không? hay hơn nữa, có bao giờ có thể minh chứng xong xuôi đức tin của ta
không? Chúa Giêsu đã nói trong bài tạ từ: “Thày còn nhiều điều phải nói với các
con...” (Ga 16,2). Với hình ảnh Chúa Giêsu ao ước mạc khải Chúa Cha cho thế
gian - thế gian với tinh thần ích kỷ hay với tâm hồn quá tự mãn để có thể đón
nhận đức tin - Gioan nóng lòng trình bày cho độc giả con người của Chúa Giêsu
trong chiều kích thật sự của Ngài, con người gây nhiều ngạc nhiên vì là thần
linh, Gioan có cảm tưởng tác phẩm của mình chỉ là nét phác họa đơn sơ. Không
phải là ông không nói hết: thật ra còn nhiều dấu lạ khác...(x. Hđ 43,27; 1M
9,22), nhưng nhất là vì trình thuật không bao giờ có thể trình bày đủ.
Cuối cùng, ông có thể làm gì nếu không phải là thuật lại các dấu
chỉ? Chúng ta hãy nhớ lại các dấu chỉ có tính cách thiên sai ở phần đầu trong
đời công khai (Ga 2-4). Ở đây quan niệm này hiểu rộng ra: nó bao gồm những phép
lạ (dấu chỉ và công việc 12,37) cũng như lời nói và cả cuộc đời công khai của
Chúa Giêsu. Lời nói và phép lạ luôn đi đôi với nhau, tạo nên một khối (12,38);
cả hai soi sáng cho nhau vì phép lạ và lời nói chỉ là những dấu chỉ nói lên con
người thiêng liêng của Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể dừng lại nơi những biểu
lộ bên ngoài và kêu lên: “Phi thường thay, những phép lạ đó. Ý nghĩa tôn giáo
sâu xa thay, những lời nói đó”. Bao lâu lời nói và phép lạ không gợi được cho
độc giả con người thiêng liêng của Chúa Giêsu, bấy lâu chúng không đạt được mục
đích. Gioan, với tư cách là tín hữu đích thực và văn sáng suốt, biết chắc rằng
thực tại trổi vượt hơn hình ảnh được diễn tả. Vì thế ông tha thiết kêu xin độc
giả đừng dừng lại nơi dấu chỉ, nhưng phải đạt đến sự vật được dấu chỉ diễn tả,
như ông đã làm dưới ánh sáng của Chúa Thánh Thần.
Độc giả cần phải có đức tin, Phúc Âm không được viết ra như một
lời biện hộ gởi đến người không tin, trong trường hợp này, Gioan có lẽ chứng tỏ
mình thiếu chiến thuật. Thật vậy, cho dù dá mắt vào các sự kiện, ông không quan
sát chúng trên phương tiện thuần lý, nhưng dưới ánh sáng của đức tin do Thánh
Thần cổ võ và soi sáng. Gioan cho các tín hữu đã tin, nhưng ông báo cho biết
không bao giờ họ đi đến mút cùng đời sống đức tin của họ đâu. Dấu chỉ luôn bao
hàm một thực thể không bao giờ cạn đối với ai muốn tin nhiều hơn. Đi từ lòng
tin vào tính cách thiên sai của Chúa Giêsu, tính cách đã được đưa ra ánh sáng
trong phần đầu của Phúc Âm (Ga 2-4) và được củng cố do phản ứng đức tin đầu
tiên của cộng đoàn Kitô hữu (Cv 2,36), người Kitô hữu phải đào sâu lòng tin vào
tử hệ thần linh của Chúa Giêsu, mối tử hệ được mạc khải vào giờ tôn vinh. Và
đức tin càng đâm rễ sâu, thì sự sống thần linh và không thể phá hủy càng được
trao ban nhờ danh - hay con người - Chúa Giêsu, vì Chúa Cha đã ban cho Chúa
Giêsu danh Người (17,11-12) và quyền thông sự sống thần linh vĩnh cửu. Ai tin
vào danh Chúa Giêsu thì nhờ Ngài sẽ được sống muôn đời (1,12; 3,15-18; 12,50;
1Ga 5,13)
Không! Tin Mừng không thể chấm dứt: là một tuyển tập các dấu
chỉ, Phúc Âm vẫn còn là như vậy bao lâu lòng tin của độc giả chưa đạt đến đích.
Và đích này khi nào sẽ đạt được? Khi người tín hữu thấy vinh quang của Chúa
Giêsu mà Chúa Cha ban cho Ngài khi Ngài trở về cùng Cha, thứ vinh quang thần linh
đã hiện hữu trước mọi thời gian (17,24)
KẾT LUẬN
Từ đây đức tin không dựa trên cái nhìn, nhưng dựa trên chứng tá
của những người đã thấy; chính nhờ đức tin này mà các tín hữu kết hiệp sâu xa
với Đức Kitô phục sinh (17,20).
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Phản ứng của Toma khi thấy các tông đồ báo tin cho ông việc
Chúa Giêsu hiện ra cho chúng ta thấy khía cạnh đầu tiên trong hoạt động của
“thế gian”. Vì việc sống lại của Chúa Giêsu vừa khó tin vừa gây bực bội, nên ta
thường bị cám dỗ không chấp nhận. Cũng thế, Tôma giới hạn tri giác về thực tại
và khả năng tri thức vào tiêu chuẩn của kinh nghiệm hay của khả năng suy tư.
Những gì ông không thể hiểu, không thể sờ đến, đo lường, đều bị ông từ chối. Đó
là tinh thần của thế gian muốn kéo lôi tất cả đến với nó và chỉ chấp nhận những
gì nó chứa đựng.
2. Đức tin luôn bao hàm sự liều lĩnh, bởi lẽ nó không tự áp dụng
bằng kinh nghiệm hay lý luận. Đức tin trở nên khó khăn đối với Tôma, thì cũng
khó khăn đối với tấ cả chúng ta. Đức tin dạy điều khó tin vì giả thiết một sự
vượt quá thường xuyên con người chúng ta, vì đức tin là một sự tăng trưởng, một
bước tiến đến Đấng nào đó luôn bí ẩn, luôn gây ngạc nhiên.
3. Đức tin không những là một sự liều lĩnh mà còn là một cuộc
chiến, một trận đấu. Đức tin không có gì là thoải mái tiện nghi; nếu đức tin
xây dựng và tái tạo chúng ta, điều đó có thể thực hiện nếu chúng ta biết từ bỏ
chính mình. Thế gian mà đức tin sẽ toàn thắng không phải là một thực thể trừu
tượng, xa vời. Thế gian đó, là chính chúng ta với những sợ hãi, lo âu, khoe khoang,
ghen ghét, tham vọng và quyến luyến. Bao lâu còn bám chặt thế gian, bấy lâu
chúng ta còn bị thống trị. Và chúng ta hoàn toàn giống nhau, nên chúng ta
thường biện minh cho nhau, tự làm cho mình ra vô tình và không áy náy trong
việc bất tuân lời Chúa và khuyến khích nhau từ bỏ đức tin; thế gian cũng như
não trạng tập thể của xã hội thấm nhiễm vào chúng ta đến nỗi nếu phải suy nghĩ
hay sống khác biệt với tập thể này, chúng ta có cảm tưởng là mình theo tư tưởng
của riêng mình, là không liên đới với những người khác và phá hủy một cái gì
cao quí và cần thiết.
4. Tôma thật đáng quí vì tôi nhận ra tôi trong ông; nếu tôi gặp
nhiều khó khăn thực sự khi phải chấp nhận tất cả dưới lý do là vì Giáo hội dạy;
tôi lại ít sẵn sàng chấp nhận khi thấy Giáo hội không sống như lời giáo hội
nói. Nếu là chân lý, tại sao giáo hội không sống phù hợp hơn với điều Giáo hội
giảng? Trong những lúc nghi ngờ và khủng hoảng như thế, hãy lặp lại lòi nguyện
khiêm nhường của Phúc âm “Lạy Chúa, con tin, nhưng xin ban thêm đức tin cho con”.
5. Chúa Giêsu 3 lần nói cùng chúng ta trong đoạn Phúc Âm này:
“Bằng an cho các con”. Ngày nay, trong thế giới và Giáo hội với những lao động
bất công và bạo hành, ước gì chúng ta sống trong bình an mà Đức Kitô phục sinh
ban cho; chỉ khi nào đức tin toàn thắng thế gian trong con người chúng ta, khi
đó chúng ta mới là kẻ xây dựng an bình.
44. Từ sợ hãi
đến niềm tin
Một cơn dịch xuất hiện, dân làng hoảng sợ dắt díu nhau chạy trốn
vào rừng sâu, bỏ mặc những con bệnh đang nằm chờ chết. Trước thảm cảnh này, một
vị linh mục thừa sai đã quyết định ở lại cùng với mấy người thiện chí, ra sức
chạy chữa cho những người mắc bệnh. Nhờ sự hy sinh tận tụy này, cơn dịch bị đẩy
lui, dân chúng trở về làng để tiếp tục cuộc sống.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và
chúng ta ghi nhận được sự sợ hãi của các môn đệ sau ba ngày đen tối.
Thực vậy, mười hai tông đồ là những người nòng cốt được Chúa
Giêsu kêu gọi và huấn luyện. Cả nhóm đã từng hy vọng Ngài sẽ thiết lập vương
quốc và mình thì sẽ làm lớn và chiếm một chức vụ quan trọng.
Nhưng rồi những biến cố đau thương dồn dập xảy đến, làm cho hiện
tại của các ông trở nên đen tối và tương lai thì mù mịt. Một người trong nhóm
đã phản bội, nộp Ngài cho người ta đem đi giết. Con người phản bội ấy đã thắt
cổ vì tuyệt vọng. Còn Phêrô là trưởng nhóm, cũng đã chối Ngài ba lần. Một vài
môn đệ khác đã lên đường trở về quê cũ, như hai môn đệ đi Emmaus.
Từ bối cảnh này, chúng ta thấy mười một người còn lại như bị co
rúm trong căn phòng đóng kín vì sợ người Do Thái. Thế nhưng, chính trong cái
bối cảnh không mấy sáng sủa ấy, Đức Kitô Phục sinh đã hiện ra, nhờ đó mà niềm
tin của các ông d củng cố. Chỉ cần điểm qua những nhân vật của buổi sáng Chúa
nhật Phục sinh, chúng ta sẽ nhận ra điều đó.
Trước hết là Madalêna. Cô tới mộ từ sáng sớm. Khi thấy cửa mộ mở
tung, cô nghĩ rằng người ta đã ăn trộm xác và đem ra khỏi mộ. Và như vậy, cô
vẫn chưa tin Chúa đã sống lại. Cô chỉ tin khi đã được nghe tiếng Chúa Giêsu gọi
cô và chính cô được thấy Ngài.
Kế đến là Phêrô và Gioan. Khi tới mộ, hai ông thấy khăn liệm và
dây băng đã được xếp lại cẩn thận. Phêrô thì bán tín bán nghi, nhưng Gioan thì
đã tin. Còn nhóm mười một đã tiến từ sợ hãi đến niềm tin, khi các ông được nhìn
thấy Ngài. Cuối cùng là Tôma. Ông đã khởi đi từ tình trạng không tin, nếu mắt
không thấy và tay không sờ. Thế nhưng, chính Chúa đã mời gọi ông đi vào niềm
tin ấy.
Qua những nhân vật kể trên, chúng ta thấy tin không phải chỉ là
chuyện chấp nhận một số những tín điều. Trái lại tin chính là gặp gỡ Đức Kitô
Phục sinh và nhận được ơn biến đổi của Ngài. Và ơn biến đổi đầu tiên chính là
nhận ra Ngài đã bị đóng đinh vào thập giá, nhưng đồng thời đã được sống lại. Đó
là dấu chứng của tình yêu lớn lao nhất khiến các ông tràn ngập niềm vui.
Và hơn thế nữa, qua Đức Kitô Phục sinh, các ông nhận biết Ngài
là Thiên Chúa. Bản tính Thiên Chúa ấy được dấu ẩn trong suốt những năm tháng đã
qua, bây giờ mới được tỏ hiện với tất cả vẻ huy hoàng, để rồi từ đó, với niềm
xác tín sâu xa, các ông đã lên đường rao giảng Tin Mừng Phục sinh cho muôn dân.
Còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã thực sự là những chứng nhân
cho Đức Kitô Phục sinh giữa lòng cuộc đời này hay chưa?
45. Tin
Thị kiến của thánh Gioan trong bài đọc 2 hôm nay trình bày tổng
quát Kitô học với toàn thể cuốn sách: Tôi thấy một Đấng giống như Con Người.
Qua Giáo Hội, Gioan đã nhìn nhận ra Đức Kitô, nhưng hình ảnh vẫn chưa rõ ràng.
Ở đây Gioan dùng một hình ảnh của Cựu ước trích từ sách Đaniel chương 7 nói về
Con Người. Kiểu nói “giống như” nói lên tính cách
huyền nhiệm và mỹ diệu của Chúa Kitô giống hình ảnh của Con Người. Sau hình ảnh
tổng quát về Con Người, Gioan mô tả thêm cách đặc biệt về Con Người và được đọc
nơi bài đọc 2. Chúng ta có thể nói qua ở đây để thấy đầy đủ quyền hành của Đức
Kitô mà Gioan thấy trong thị kiến. Ngài mặc áo choàng trắng, chỉ vương quyền tư
tế vương giả của Chúa Kitô. Đứng trước thị kiến Con Người, Gioan cũng như các
tiên tri khác và các tông đồ đều lo sợ, vừa trông thấy Ngài tôi đã ngã xuống
như chết dưới chân Ngài.
Thế giới thần thiêng không thể tỏ hiện cho con người mà không
gây nên nơi họ một tâm tình lo sợ không thôi, nhưng đồng thời tin cậy. Chỉ khi
nào được khích lệ trấn an người ta mới yên lòng. Ngài đặt tay lên tôi và nói
đừng sợ, có Chúa nâng đỡ khích lệ Gioan.
Sau cùng khi mạc khải cho Môisê, Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng
Có”. Câu nói này các thánh có những suy tư là: là đầu, là sau hết, là Alpha và
Omêga, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng có đời đời. Các tước hiệu về Thiên Chúa đã
được Giáo Hội sơ khai tin tưởng đặt nơi Chúa Kitô. Ta là Đấng đã chết, nhưng
nay Ta vẫn sống đến muôn đời.
Sống là đặc quyền của Thiên Chúa. Người ta vẫn đặt điều này làm
chủ chốt cho các vấn đề quan trọng. Ba đặc tính “là đầu, là sau hết, là sống”.
Nơi Cựu ước hay áp dụng cho Chúa Kitô, nơi Giáo Hội sơ khai không chỉ suy tôn
Chúa Kitô là Thiên Chúa nhưng còn nhận nơi Ngài là vị đã sống, chết và sống lại
do quyền năng Thiên Chúa ban cho Ngài.
Trong các phần sau của sách Khải huyền, nguồn tư tưởng này được
diễn tả qua hình ảnh chiên được sát tế và được tôn vinh ngự trên ngai vàng để
thống trị mọi loài. Tư tưởng này dựa vào một sự kiện lịch sử trong bản văn Hy
lạp, tác giả viết: Ta đã bỏ nên người chết thật rồi, nhưng này đây Ta vẫn sống
và còn sống cho đến muôn đời. Uy quyền của Đức Kitô còn ảnh hưởng đến sự chết.
Ta giữ chìa khóa sự chết và địa ngục.
Ngày nay sự chết không còn quyền gì với Ngài. Chúa Kitô đã sống
lại và cứu vớt những kẻ chết và tin vào Ngài. Ngài không cần để cho thế giới
của địa ngục hoành hành tác hại nữa. Qua sự việc sống lại của Chúa Kitô đã
thắng vượt tất cả.
Cùng với Chúa Kitô Phục sinh chúng ta phải dám tin Ngài, thông
phần chịu mọi đau khổ của cuộc đời trong sự chiến thắng Phục sinh của Chúa
Kitô. Cuộc sống này chính là cuộc sống mà tác giả sách Khải huyền đã sống, đã
trải qua. Dưới ánh sáng đức tin, chúng ta cần phải tin vững mạnh vào Chúa Kitô
đã chết và đã sống vì chúng ta. Xin Chúa thêm đức tin, niềm cậy trông và sự
chịu đựng mãnh liệt cho tất cả chúng ta, để chúng ta vững bước trên con đường
tiến về quê hương Thiên Quốc.
46. Bình an cho
các con
Trong bài Phúc Âm hôm nay diễn tả buổi tối ngày thứ nhất phục
sinh. Các môn đệ Chúa Giêsu đang ẩn núp trong căn nhà đã được khóa kỹ và suy
nghĩ, "Bây giờ mình phải làm gì?" Nói về sự trung thành với Chúa
Giêsu, họ đã nhát gan chạy trốn. Một câu ngạn ngữ mà người ta thường dùng là
'họ không thể nào chịu nổi sức nóng, nên họ đã đi ra khỏi nhà bếp'. Người vụng
về nhất lại là người cầm đầu trong các môn đệ, Simon Phêrô, không những đã chối
không biết Thầy, mà chối đến ba lần. Cho dù là đến bây giờ Maria Magđalêna đã
báo cho họ biết về sự phục sinh của Chúa Giêsu, nhưng họ vẫn còn rất hèn nhát.
Họ đang trốn chạy. Họ đang run sợ. Đùng một cái, một sự việc đã xảy ra: những
người môn đệ vụng về, nhát đảm, này được chan chứa niềm vui bởi vì họ nhìn thấy
Chúa Giêsu ở giữa họ.
"Bình an cho các con," Chúa Giêsu phán. Ngài cho các
ông xem tay và cạnh sườn Ngài, và Ngài tiếp, "Bình an cho các con."
Một đứa bé viết thư cho Chúa, "Thưa Chúa, người đàn ông và
người đàn bà hàng xóm của con cứ chửi nhau lớn quá. Tại sao Ngài không để cho
người tốt lấy nhau? Karen."
Một đứa bé trai 6 tuổi ghi, "Thưa Chúa, người bố của con thật
là dữ tợn. Xin làm cho bố con hiền lành, nhưng đừng làm hại bố con nhá!
Johnny."
Một đứa bé khác thưa với Chúa: "Khi con lớn lên, Con muốn trở
nên giống như Chúa. Tommy."
Chúa Giêsu, Hoàng Tử của hòa bình, đã sai các môn đệ Ngài đi rao
giảng giống như Ngài! Chúa Giêsu, Hoàng Tử của Bình An, muốn chúng ta trở nên
giống Ngài. Chúng ta là những người xây dựng hòa bình mà Ngài sai đi. Tuy
nhiên, để chúng ta có thể trở nên những người xây dựng hòa bình, chúng ta cần
phải có sự hòa bình trong chúng ta.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con muốn trở nên giống như Chúa. Chúng con
muốn là những người xây dựng hòa bình.
Tháng Mười Một, năm 1940, lúc đó là Đại Thế Chiến II, tại Anh
quốc. Một nhà thờ chánh tòa Coventry đã bị phá hủy. Sau đó, trong đống đá vụn,
người ta đã lượm được một số lớn đinh từ thời Trung Cổ. Các cây đinh đó đã được
dùng để làm thành một cây thánh giá, và được mạ bằng bạc. Cây thánh giá được dựng
lên và ở đằng sau có hàng chữ, "LẠY CHA, XIN THA." Sau đó, nhiều cây
Thánh Giá nhỏ làm bằng những cây đinh đã được gởi đi các nước đã lâm vào cảnh
chiến tranh. Hàng ngàn tấm hình đã được in trên các loại postcards cây Thánh
Giá làm bằng đinh với hàng chữ " LẠY CHA, XIN THA." Cây Thánh Giá tại
nhà thờ chánh tòa Coventry đã trở nên một dấu chỉ của sự tha thứ, giải hòa, và
bình an!
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại cho chúng ta thêm một lần nữa,
"Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa
đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và
nói: 'Bình an cho anh em!'" (Ga 20:19). Trong một câu nói này, Thánh Gioan
chú tâm vào hai khía cạnh của sự sống đã được phân tích do sự phục sinh của
Chúa Kitô: Thứ Sáu Tuần Thánh và Chúa Nhật Phục Sinh. Bắt đầu câu, diễn tả thứ
Sáu Tuần Thánh và được kết câu bằng sự phục sinh. Các môn đệ đã sống trong tình
trạng đau khổ và thất vọng, và khi Chúa Giêsu đến thì tất cả những bi quan đó
đã được thay thế bằng niềm hy vọng và vui sướng. Lo âu và chán nản đã được thay
thế bằng sự bình an. Qua sự cảm nghiệm Chúa Kitô phục sinh, các môn đệ đã tự
trấn tĩnh chính bản thân mình. Họ trở nên giống Chúa Kitô! Họ trở nên những
người xây dựng hòa bình!
"Lạy Chúa, chúng con muốn trở nên giống như Chúa!" Nếu
chúng ta muốn trở nên những người làm phép lạ, người xây dựng hòa bình, thì
chúng ta phải bắt đầu từ đâu? Tôi xin phép đề nghị: mỗi buổi sáng, các bạn hãy
cầu xin cho được một ánh mắt tình yêu để nhìn tất cả sự vật. Sau đó, bạn bắt đầu
ngày sống của bạn, hãy nhìn tạo vật với cặp mắt tình yêu. Hãy nhìn những người
đang sống chung quanh bạn với ánh mắt đầy sự kính trọng. Khi bạn đang làm những
công việc hằng ngày, mỗi lần bị cám dỗ để suy nghĩ một chuyện đau khổ hoặc là
một phiền muộn, bạn hãy nhớ đến lời nguyện trước tấm kiếng của bạn. Hãy nhớ mở
lòng bạn ra với những vẻ kỳ diệu của tạo vật và những phép lạ của tình yêu
Ngài. Hãy nhớ rằng bạn muốn là những sứ giả hòa bình. Hãy nhớ rằng bạn mong
muốn lớn lên trên đường thiêng liêng để trở nên giống Chúa Giêsu.
47. Chứng từ
của một hành trình Phục Sinh
(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
A. Chứng từ của một hành trình phục sinh
Chúa Nhật II Phục Sinh, lễ kính “Lòng Thương Xót Chúa”, ĐTC
Phanxicô tuyên thánh cho hai vị Giáo Hoàng, Gioan XXIII và Gioan Phaolô II.
Câu chuyện về một thanh niên tật nguyền được diễm phúc gặp gỡ
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II thật cảm động.
Tony Melendez là một người Nicaragua, sinh năm 1962 và bị mất cả
hai tay vì ảnh hưởng tai hại của một loại thuốc cảm cúm mà bà mẹ đã uống khi
không biết là bà đang mang thai. Sau khi Tony được 1 tuổi, cả gia đình được ông
ngoại bảo lãnh sang Los Angeles Hoa Kỳ, ở đây Tony học sử dụng mọi thứ bằng đôi
chân, kể cả học đánh đàn ghita. Đến năm 16 tuổi, với cây đàn ghita, anh thường
hát dạo ở một góc phố Laguna Beach để kiếm tiền cho gia đình. Anh cũng rất chán
nản với tương lai đi ăn xin như vậy, và anh tự hỏi, "chẳng lẽ cuộc đời
mình chỉ đi ăn xin như thế thôi hay sao?".
Rồi một ngày kia anh nhận được lá thư mời đến trình diễn cho Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong ngày Đại Hội Giới Trẻ vào tháng 9 năm 1987 ở
Los Angeles. Trong cuộc họp mặt đó có trên 6.000 người trẻ từ khắp nơi đến tham dự. Anh đã nhận lời trình diễn và cũng kể từ đó cuộc
đời anh thay đổi. Sau khi trình diễn một bài do anh sáng tác, cả hội trường
đứng dậy hoan hô anh, ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng đứng dậy và đi đến tận bục
trình diễn để hôn anh, và điều quan trọng là câu nói của Đức Gioan Phaolô II.
Ngài nói, "Tony, con là một người thực sự can đảm. Con đang đem lại hy
vọng cho mọi người ở đây. Cha ao ước con sẽ tiếp tục đem hy vọng cho tất cả mọi
người".
Từ lúc đó trở đi, anh được mời đi lưu diễn ở nhiều nơi trong nước,
và bất cứ ai trông thấy một thanh niên cụt hai tay nhưng vui vẻ dùng đôi chân
đánh đàn và say sưa cất tiếng hát với những lời lẽ không than van, không cay
đắng, không oán hờn thì tất cả mọi người đều ngập tràn hy vọng. Chính Tony, anh
chia sẻ như thế này: "Có lúc tôi thực sự tin rằng tôi phải có đầy đủ chân
tay, mắt mũi để yêu thương, để phục vụ, để lo lắng cho người khác. Tôi nghĩ là
tôi cần những điều đó. Dĩ nhiên, có đôi tay thì giúp đỡ người khác dễ dàng hơn.
Nhưng tình yêu thì không cần đôi tay. Để yêu thương ai đó, tất cả những gì bạn
cần là con tim và để ý đến họ."
Với thân thể tật nguyền, Tony Melendez đã đem lại hy vọng cho
những người thấy anh trình diễn. Đó là chứng từ của một hành trình phục sinh.
B. Ý nghĩa các vết sẹo
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông
đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ, Ngài đều trao ban
bình an: “bình an cho các con” và “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là
những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh
của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở
chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết
thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã
sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy
đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu
đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và
đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo
của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm
cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào
thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm
đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các
thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
1. Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết
sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên
một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã
chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước
về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết
tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy
xem chân tay Thầy đây...”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những
dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi... Chúa bảo họ cứ sờ vào đó
để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà!
Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người
đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay
nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong
bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng
nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa.
Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài
(Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục
sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn
ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất
tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16),
huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi
bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống
chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các
Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
2. Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả
Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc
nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài
đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho
chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn,
chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên,
không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội
lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần
mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể,
Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích
cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói
với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi
gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con
Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm
thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng
với tình yêu ấy.
Có câu chuyện “Trái tim có nhiều vết sẹo” diễn tả tình yêu chia
sẽ trao ban qua những thương tích cuộc đời.
Một buổi chiều trong công viên, có một chàng trai đang chăm chú vẽ
một trái tim. Trên khung giấy trắng dần dần hiện ra một trái tim thật đẹp, thật
hoàn hảo khiến mọi người đứng xem đều trầm trồ khen ngợi.
Bỗng một ông lão đi đến. Ông trầm tư ngắm nghía bức tranh của
chàng trai một hồi lâu, rồi lặng lẽ mượn bút vẽ một hình thoạt nhìn rất lạ,
nhìn thật kỹ mới nhận ra đó là hình một trái tim…
Chàng trai ngạc nhiên nhìn trái tim ông lão vừa vẽ, nó bị chắp vá
chằng chịt, nhưng rõ ràng vẫn là một trái tim. Trên trái tim ấy, có chỗ như bị
khuyết lõm, có chỗ như bị cắt đi và được ghép nối bởi những mảnh to nhỏ khác
nhau. Mọi người bắt đầu bàn tán và lắc đầu tỏ ý không hiểu ý nghĩa hình vẽ trái
tim của ông lão.
Chàng trai thắc mắc:
- Cụ ơi! Cháu không hiểu vì sao ông lại vẽ trái tim như vậy? Làm
sao trái tim lại mang nhiều vết sẹo và ráp nối như thế?
Ông cụ mỉm cười rồi nói:
- Đúng! Trái tim của ta có thể không hoàn hảo, nhưng nó là một
trái tim thật sự. Đấy chỉ là do trái tim này đã có thời gian sống và trải
nghiệm nhiều hơn trái tim của cậu. Hãy nhìn những dấu vết này! Tuy có nhiều
thương tích nhưng tôi luôn tự hào về nó. Cậu biết không, khi tôi trao một mảnh
tim của tôi cho một người thân, cha mẹ, anh chị, bạn bè và cả những người mà
tôi tình cờ gặp được… thì ngược lại, họ cũng trao cho tôi một mảnh tim của họ
để đắp vào chỗ trống ấy. Những mảnh tim này không hoàn toàn giống nhau: phần
trái tim mà cha mẹ trao cho tôi bao giờ cũng lớn hơn phần tôi trao lại; con gái
tôi dành cho tôi phần trái tim trong trẻo nhất; bạn đời tôi tặng cho tôi phần
trái tim đẹp nhất và chung thủy nhất… Những mảnh tim ấy đã ghép vàp nhau và tạo
thành những vết chắp vá của trái tim tôi. Chính điều này luôn nhắc tôi nhớ về
những người tôi yêu dấu, những tình yêu mà tôi đã được chia sẻ trong đời…
Ông lão nói tiếp:
- Còn những vết lõm này là phần trái tim tôi trao đi mà chưa được
nhận lại. Cậu biết đấy, tình yêu trao đi chẳng cần đến sự đền đáp. Dù những
khoảng trống này nhiều lúc làm tôi đau đớn, nhưng cũng chính nhờ chúng mà tôi
có động lực để khao khát được sống, và có niềm tin vào một ngày mai tốt đẹp
hơn. Chàng trai ạ, nhờ những mảnh chắp vá này mà trái tim của tôi có sức sống
mãnh liệt, trưởng thành và cảm nhận cuộc sống trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Đám đông im lặng, còn chàng trai không giấu được nỗi xúc động đang
dâng trào trong lòng. Anh tự hào cầm bút cắt đi một mảnh trong trái tim hoàn
hảo của mình và đắp vào một phần khuyết của trái tim ông lão. Đáp lại, ông lão
cũng tặng anh một mảnh trái tim ông.
Giờ đây, trái tim của chàng trai đã có một vết sẹo. Tuy không còn
hoàn hảo nữa, nhưng chàng trai cảm thấy trái tim mình đầy sức sống hơn bao giờ
hết. Anh nhận ra sức mạnh và vẻ đẹp của trái tim không phải ở chỗ nó được giữ
kỹ để không có một vết tích, tổn thương nào của cuộc đời mà trái lại, càng hòa
nhập và biết chia sẻ, dám yêu, dám sống và sẵn sàng cho đi, trái tim của con
người càng trở nên nhạy cảm, sâu sắc và đập mạnh mẽ hơn...
3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những
cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ
niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng
chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử
thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn.
Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất
công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý
của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui,
của Tình Yêu!
Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân
xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Sống chiều kích Phục
Sinh trong ý nghĩa trao ban và tận hiến chính là sống ý nghĩa “trái tim có
nhiều vết sẹo”.
Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch
cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân hay một gia đình hoặc
một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình, cũng có thể gọi đó là
sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những
thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được
niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).
Nhìn lại đời sống mình, chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục
sinh. Rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh.
Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vỡ, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu
thương thì đó không phải là sự Phục sinh sao ? Khi ta có kinh nghiệm về sự tha
thứ, dẹp tan lòng thù hận, loại trừ sự oán ghét, đó là cuộc vượt qua phi
thường…
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời
sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng
Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm
hồn.
48. Suy niệm
của Lm. Trần Thanh Minh
Phúc cho những kẻ không thấy mà tin
Sau khi Đức Chúa Giêsu Phục sinh, trước hết Người đã hiện ra bên
mồ trống với thánh nữ Maria Mađalêna, và Người truyền cho bà đi loan báo Tin
Mừng Phục Sinh cho các môn đệ, nên bà được truyền thống gán cho danh hiệu là
"tông đồ của các tông đồ". Sau đó, Chúa đồng loạt hiện ra với 2 môn
đệ trên đường Emmaus và với 10 tông đồ nhưng vắng mặt Tôma. Các ngài đã tường
thuật lại cho thánh Tôma, nhưng ngài vốn là con người có óc thực tế, không muốn
tin những gì mà giác quan chưa kiểm chứng. Tám ngày sau, Đức Chúa Giêsu lại
hiện ra với các tông đồ, lần này có cả thánh Tôma. Chúa bảo ông hãy dùng giác
quan để kiểm chứng kẻo hoài nghi. Thế nhưng, khi đối diện với Chúa, Tôma như
hồn xua phách lạc chỉ biết hốt hoảng thốt lên một câu tuyên xưng đức tin đầy ý
nghĩa: "Lạy Chúa con và Lạy Thiên Chúa của con" Đức Chúa Giêsu liền
phán với Tôma: "Vì con thấy Thầy nên con mới tin, phúc cho những kẻ không
thấy mà tin hết lòng!"
Lời chúc phúc nầy, Đức Chúa Giêsu nhắm đến hàng hàng lớp lớp các
thế hệ tín hữu hậu lai trong đó có chúng ta là những kẻ không thấy Chúa nhưng
tin nhận Người qua lời rao giảng của Hội thánh. Đức tin là nền tảng của đời
sống công giáo, là một hồng ân nhưng không Thiên Chúa ban cho và là một trong 3
nhân đức đối thần: Tin, Cậy, Mến; Thánh Phaolô nói: "Mai sau trên thiên
đàng chỉ tồn tại đức Mến, vì khi đã thấy Chúa và đạt được mục đích thì đức tin
và đức cậy không còn nữa!".
Chúng ta hãy nuôi dưỡng đức tin bằng đời sống cầu nguyện liên
lỉ, siêng năng lãnh nhận các bí tích và chớ dùng lý trí để lý luận nhưng hãy
dùng con tim để chấp nhận.
Đức tin rất quan trọng, vì khi làm phép lạ chữa bệnh cho ai Đức
Chúa Giêsu đều nói: "Đức tin của con đã chữa con", và Người cũng từng
phán: "Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi thì chúng con có thể chuyển
núi dời non... và chúng con còn có thể làm những việc vĩ đại hơn thầy nữa"
Những kẻ ly giáo, lạc giáo đều là những kẻ đã đánh mất đức tin
quý báu. Những việc thờ phượng, đạo đức chúng ta làm nếu không có đức tin chỉ
là trò hề hoặc mê tín dị đoan mà thôi.
Trong phúc âm Đức Chúa Giêsu có phán một câu đáng chúng ta run
sợ và tự kiểm điểm mình luôn: "Không biết ngày Con Người trở lại trần gian
có còn tìm thấy đức tin nữa không?".
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn đức tin cho những người lương giáo và
xin tăng thêm đức tin cho những tín hữu chúng con, chớ gì tất cả chúng con được
liệt vào số những kẻ đáng hưởng lời chúc phúc của Chúa ngày xưa: "Phúc cho
những ai không thấy mà tin". Amen.
49. Lòng
thương xót
Hãy tha thứ cho chính mình. Biết nhìn nhận con người tội lỗi của
mình và tha thứ cho chính mình là điểm khởi đầu cho sự hoán cải. Vì không thể
tha thứ được cho chính mình, nên Giuđa mới tuyệt vọng treo cổ tự vẫn!
Sách Giáo lý Công giáo số 827 đã dùng lời của Công đồng Vatican
II để khẳng định rằng: “Giáo Hội gồm những tội nhân trong lòng mình. Cho nên
Giáo Hội vừa thánh thiện vừa được kêu gọi hãy tự thanh tẩy, và phải luôn nỗ lực
sám hối và đổi mới. Tất cả thành viên của Giáo Hội, cả các thừa tác viên, đều
phải nhận mình là tội nhân”. (Lumen Gentium, đoạn 8).
Sau 94 lần xưng tội của Giáo Hội, ngày 12.3.2000, Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã long trọng xưng tội tổng quát cho mọi lỗi lầm của Giáo Hội
từ 2000 năm qua. Ngài đã liệt kê ra 6 loại tội: tội thiếu khoan dung gây ra các
cuộc thánh chiến, tòa án dị giáo, tội chia rẽ, ra vạ tuyệt thông và những cuộc
chiến tranh tôn giáo, tội kỳ thị dân Do Thái, im lặng trước sự bắt bớ của Đức
Quốc xã, tội không tôn trọng quyền các dân tộc, các văn hóa, các tôn giáo khác,
tội không tôn trọng phẩm giá người phụ nữ và tính đơn nhất của nhân loại, tội
chống lại những quyền căn bản của con người.
Hôm nay, Chúa nhật thứ hai Phục sinh, là lễ tôn kính Lòng Thương
Xót Chúa – the Feast of Divine Mercy. Lễ này đã được Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolô II thiết lập vào năm 2000, năm Nữ tu Maria Faustina được phong thánh.
Năm 1930, Chúa Giêsu đã chọn Nữ tu Maria Faustina, người Ba Lan để làm cho thế
giới chấp nhận Lòng Thương Xót vô bờ của Ngài. Nữ tu đã được diễm phúc nhìn
thấy Chúa Giêsu và diễn tả ra để vẽ lên bức hình của Ngài với hàng chữ: “Lạy
Chúa Giêsu, Con phó thác nơi Ngài”. Trong y phục màu trắng, tay phải Chúa Giêsu
đưa lên ban phép lành, và tay trái đặt vào ngực. Từ trái tim Ngài phát tỏa ra
hai luống sáng, màu đỏ và xanh lợt, tiêu biểu cho Máu và Nước đã đổ ra trong
cuộc khổ nạn khi Trái Tim Ngài bị đòng đâm thâu qua trên thập giá. Anh sáng
xanh lợt biểu tượng cho nước lau sạch và thanh tẩy linh hồn. Anh sáng đỏ biểu
tượng cho máu, phát sinh sự sống mới cho linh hồn. Chúa Giêsu đã đặt Nữ tu
Faustina là thư ký và tông đồ của Lòng Thương Xót Chúa. Chị đã được chỉ đạo
phải viết lại những lời hướng dẫn cho mọi người cùng học hỏi để tin tưởng và
phó thác nơi Lòng Thương Xót Chúa.
Chúa Giêsu đã mạc khải cho Nữ tu Faustina biết rằng Lòng Thương
Xót của Ngài luôn sẵn sàng tha thứ cho những tội nhân xấu xa nhất, ngay cả đối
với người tuyệt vọng. Ngài mong muốn mọi người đi xưng tội và rước lễ để hoàn
toàn được ơn tha thứ mọi tội lỗi và hình phạt trong ngày lễ Lòng Thương Xót
Chúa. Chúa Giêsu đã tuôn đổ cả đại dương ân sủng trên những linh hồn đến với
Lòng Thương Xót của Ngài. Mọi tội lỗi đều được Thiên Chúa tha thứ, bởi “tình
thương mạnh hơn tội lỗi”.
50. Sống đức
tin
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả các vấn đề, kể cả vấn đề
niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không cảm thấy khó chịu với
tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì người ta nói, và chống
lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám đông. Tôma khăng khăng
muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói lại là chính họ đã được
thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không có lý do chính đáng để
nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã dễ dàng chấp nhận rồi.
Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng chứng cụ thể, sống động
về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của Chúa: “Phúc thay những
người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng tin thì Chúa đã khiển trách
với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.
Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người Pharisêu hay các tông
đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại sao? Vì Chúa thấy
những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc từ chối đức tin,
nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại chúng ta, có
phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại, phải hy
vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt động
và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những
giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của
Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã
nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát
ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con”. phải chăng chính
những lời bộc phát đó đã diễn tả điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải
chăng đó là tiếng nói của trái tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ
của con người để tìm những lời lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như
lời tuyên xưng của Phêrô. Khi Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là
ai?” Thì Phêrô đã trả lời mà kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng
sống”. Và Chúa đã xác định ngay rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có
phúc, vì không phải xác thịt hay máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là
Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh,
lúc bấy giờ Chúa nói về bánh ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài
quả quyết: “Phải ăn thịt và uống máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa
nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi
không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô:
“Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống
lại và là sự sống, con có tin điều đó không?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng
kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối
với một vật nào đó thì người tìm ra, khám phá được. Nhưng đối với một người thì
người nhận biết. Đức tin là nhận biết một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi
một người chồng đang chờ đợi một người vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và
rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi.
Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta
phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có nghĩa là chúng ta
phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống. Đó là cách thẩm định đức tin của
chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng đều có thể
rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục tinh
thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính sách
hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng dụng
vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của
mình. Chúng ta có ứng dụng đức tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin
Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện
bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp
gian nan thử thách không? Chúng ta là tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho
tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải sống yêu thương, bác ái với mọi người.
Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của yêu thương, quảng
đại, quên mình, tha thứ với mọi người không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu,
vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu
không?
Đức tin của chúng ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được
thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở
chỗ cao để soi sáng cho mọi người, thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được
thắp lên chiếu sáng cho mọi người. Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục
trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách
của nó, chính là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta.
Những mối tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là môi trường
để chúng ta diễn đạt niềm tin của chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng
ta trở thành chứng tích của tình yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả
những ai gặp gỡ chúng ta đều có thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
51. Muôn ngàn đời Chúa
vẫn trọn tình thương
(Suy niệm của Lm. Phêrô Lê Nho Phú)
Hôm nay (27/04/2014), Chúa Nhật II Phục Sinh, toàn thể Giáo Hội
vui mừng dâng lời tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn vì Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra để
ban bình an cho các môn đệ. Tạ ơn vì “Chúa hằng thương xót những ai kính sợ
Người” (Lc,1, 50). Trong chính hôm nay, Giáo Hội có thêm hai người con đã được
dồi dào ơn Chúa để trở nên hai vị thánh: thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII và thánh
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Lễ phong thánh hai vị Giáo Hoàng này diễn ra tại
quảng trường thánh Phêrô vào lúc 10g00 sáng giờ Roma (tức 15g00 Việt Nam)
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trong khung cảnh Chúa Nhật cuối tuần
Bát Nhật Phục Sinh, còn được gọi là “Chúa Nhật về Lòng Thương Xót Chúa”. Chúng
ta không thể không quan tâm đến sự hiện diện vừa có tính siêu việt, vừa rất
thân tình và giàu lòng nhân hậu của Đấng Phục Sinh.
1. Khuôn mặt thương xót của Thiên Chúa thể hiện nơi Đấng Phục Sinh.
Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật về bữa ăn cuối cùng của Chúa
Giêsu và các môn đệ, thánh sử Gioan đã viết “Người yêu thương họ đến cùng” (Ga
13,1).
Do vậy, “vào chiều ngày thứ nhất trong tuần” (Ga 20,19), khi các
môn đệ đang ở trong phòng đóng kín các cửa vì sợ, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện
ra và ban bình an cho các ông. Vì yêu thương nên chính ngày Phục Sinh, Chúa
Giêsu đã lập tức hiện đến và giúp các môn đệ vượt qua nỗi sợ hãi. Vì quan tâm
rất nhiều nên Người tìm cách giúp họ bình an sau những biến cố đau thương vừa
xảy ra. Những lo sợ không còn nữa, thay vào đó là niềm vui không ai có thể lấy
mất được. Thầy Giêsu chịu chết và chịu táng xác giờ đây hiện ra với một quyền
năng lạ lùng. Người không còn bị giới hạn bởi không gian, ngôi nhà đóng kín cửa
không còn cản trở được tình thương của Người dành cho các môn đệ.
Riêng tông đồ Tôma, vì không có mặt khi Chúa Phục Sinh hiện đến
nên ông đòi hỏi với những xác minh cụ thể: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay
Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn
Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,27). Trước một đòi hỏi có tính cứng lòng tin
như vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn yêu thương ông và đã đáp ứng để ông Tôma được
lòng sám hối:“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt
vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga, 20,27). Ông Tôma đã
được biến đổi và tuyên xưng: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Chính
tình yêu, chính lòng thương xót của Đấng Phục Sinh đã hoán cải Tôma và cho giúp
ông được phục sinh tâm hồn!
2. Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương:
Đáp ca hôm nay được lặp đi, lặp lại: “Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa
nhân từ, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 117,1). Trong suốt dòng
lịch sử, dân Israel luôn nghiệm thấy Thiên Chúa là Đấng nhân từ, giàu lòng
thương xót. Trong suốt dòng lịch sử, tội lỗi loài người cứ chồng chất, nhưng
Thiên Chúa vẫn cứ yêu thương, sẵn sàng tha thứ khi con người hối cải. “Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin và Con của Người thì không
phải chết nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Sự hiện diện của Chúa Giêsu
trong thế giới này là sự hiện diện của chính Thiên Chúa tình yêu và giàu lòng
thương xót.
Ngày hôm nay làm sao chúng ta không thể không nhớ đến Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolo II. Trong “Thông điệp và việc sùng kính Lòng Thương Xót
Chúa” có viết: “Ngày 30.04.2000, trong bài giảng lễ phong thánh cho chị
Faustina, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót
Chúa trong toàn thể Giáo Hội. Ngài nói: “Thật là quan trọng việc chúng ta đón
nhận trọn vẹn sứ điệp đến với chúng ta từ Lời Chúa của ngày Chúa Nhật II Phục
Sinh, ngày mà từ nay khắp Hội Thánh sẽ gọi là Chúa nhật của Lòng Thương Xót
Chúa”.
Chính ngày hôm nay, tại quảng trường thánh Phêrô, ĐGH Gioan
Phaolô II được phong hiển thánh. Thật là một biến cố trọng đại và là một tin
vui. Đây là vị thánh Giáo Hoàng đã tin tưởng tuyệt đối vào lòng thương xót
Chúa. Người muốn giới thiệu và mời gọi mọi người hãy chạy đến với lòng thương
xót Chúa. Thế giới ngày nay cần đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một thế giới
có nhiều hận thù và chiến tranh, một thế giới có nhiều bất công và khổ đau. Con
người ngày nay cần chạy đến lòng thương xót Chúa biết bao! Một đời người vui ít
nhưng buồn nhiều, một đời người gặp nhiều oan trái hơn là công bình, một đời
người đầy yếu đuối và tội lỗi, một đời người nhiều bệnh tật thì thử hỏi biết
chạy đến với ai nếu không chạy đến Lòng Thương Xót Chúa?
Hạnh phúc cho những ai gặp gỡ được Đấng Phục Sinh trong cuộc đời
mình. Tốt đẹp biết bao cho những ai tín thác vào tình yêu của Cha trên trời và
cầu khẩn “Vì cuộc Khổ Nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô. Xin Cha thương xót
chúng con và toàn thế giới”; “Lạy Đấng Chí Thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng
hữu, Xin thương xót chúng con và toàn thế giới”; “Jesus I trust in You: Lạy
Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”. Khi siêng năng và sốt sắng dâng lời cầu
nguyện như vậy, chắc chắn Thiên Chúa sẽ ban cho ta, cho người thân, cho nhân
loại nhiều ơn lành hồn xác!
Đấng Phục Sinh không chỉ hiện ra vào “ngày thứ nhất” hay“tám
ngày sau” cho các môn đệ và cho Tôma. Người tiếp tục yêu thương và hiện đến
cách vô hình trong cộng đoàn các tín hữu để giúp họ sống hợp nhất với nhau và
thực hành 05 chuyên: “một chuyên cần giáo lý, hai vững chí hiệp thông, ba bền
lòng phụng vụ, bốn vui thú nguyện cầu, năm cùng nhau làm chứng”. Người vẫn luôn
hiện đến một cách vô hình giữa cộng đoàn cầu nguyện “ ở đâu có hai hay ba người
hợp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20).
Nhờ lời cầu bàu trợ giúp của hai vị thánh Giáo Hoàng: Gioan XXIII
và Gioan Phaolo II cho chúng ta biết chạy đến với lòng thương xót Chúa. Nhờ đó,
mỗi người, mỗi gia đình và thế giới này được gặp Chúa Giêsu Phục sinh, được
biến đổi và được phục sinh với Chúa. Amen.
52. Mọi sự đều
có thể
Có câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập trong một
đoàn xiếc. Anh nói: "Tôi sẽ biểu diễn bằng cách trèo lên bậc cao khoảng 50
mét và nhảy xuống một đống mùn cưa". Chủ đoàn xiếc nói, "Nghe anh nói
thật hấp dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn ra sao đã". Sau
đó, họ làm một dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin việc bắt đầu biểu diễn. Khi
anh ta từ trong đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày méo mó thì ông
chủ đoàn xiếc nói với anh ta rằng, "Thật là tuyệt. Tôi nhận anh vào đoàn
xiếc. Chúng tôi sẽ trả anh 250 Đô La một tuần". Anh ta lắc đầu nói,
"Cám ơn, nhưng tôi không muốn". Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ
250 tới 500 và 1000 Đô La một tuần. Thế nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ
không hiểu nổi nên nói, "Sao anh kỳ vậy? Anh cần việc mà!" Anh ta trả
lời, "Tôi đau lắm... Tôi không bao giờ dám nữa đâu!" Anh thanh niên
này có ước vọng tốt nhưng khi gặp điều khó, anh ta không dám dấn thân. Anh ta
bỏ lỡ cơ hội cho một tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, các môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu
tụ họp cách bí mật trong phòng kín, vì họ sợ rằng những người giết Chúa cũng sẽ
tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ và
ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh Gioan đã nói: "Các môn đệ đã vui
mừng khi nhìn thấy Ngài". Nhưng sau đó khi họ nói với Tôma (Tôma là người
không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là "chúng tôi đã nhìn thấy
Chúa", ông trả lời: "Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và những
lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn
Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy" (Ga 20:25). Tám ngày sau đó, Đức
Kitô Phục Sinh lại hiện ra với các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở
với họ và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: "Lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu đã nói với Tôma: "Con tin
vì đã nhìn thấy Thầy, nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin" (Ga
20:28-29).
Tin luôn đòi có sự dám liều, có sự dấn thân. Khi niềm tin của ta
là vô điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự
việc xảy ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó quay lại với Chúa
khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng
ta biết là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được. Đó là điều kiện
để đi theo một người mà người đó lại là một người mà chúng ta luôn luôn không
thể biết và làm chúng ta ngạc nhiên.
"Mọi sự đều có thể cho những kẻ tin", chính Chúa Giêsu
đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng kiến những phép lạ Người làm.
Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới chân Chúa cách vô điều kiện như
trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể xảy ra cho những ai sẵn sàng chấp
nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng Phục Sinh của Chúa.
Trong những giới hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn trở nên
con người và nhận ra toàn diện bản chất con người của mình như Chúa muốn, thì
xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có thể xảy ra được nếu như bạn không làm một
sự thay đổi và "trở nên như trẻ nhỏ". Nhưng khi bạn làm sự thay đổi
đó thì bạn trở nên con người vĩ đại. Khi bạn quyết định thay đổi con người mình
thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm
một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài đã làm cho chúng ta qua đời sống, sự chết và
phục sinh của Ngài thì chúng ta phải trở về với Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Chúng ta phải trở về với Cha trên trời trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ hoàn
toàn phó thác vô điều kiện trong tay cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể cho những ai mở rộng đôi mắt và thưa cùng
Chúa, "Xin hãy làm cho con được ngạc nhiên!"
53. Lòng Thương Xót
Chúa
Cách đây 10 năm, ngày 30. 04. 2000, Đức cố GH Gioan Phaolô II đã
phong hiển thánh cho chân phước Faustina, người được xem là vị tông đồ của Lòng
Thương Xót Chúa. Và không đầy một tháng sau, ngày 20. 05. 2000, ĐGH đã chính
thức thiết lập lễ kính Lòng Thương Xót Chúa trên Giáo Hội Công giáo toàn cầu
vào Chúa Nhật II sau lễ PS. Kể từ đó đến nay, Chúa Nhật II PS như hôm nay còn
có tên gọi khác là Chúa Nhật về Lòng Thương Xót của TC.
Vậy sứ điệp về Lòng Thương Xót của Chúa nói với chúng ta điều
gì? Theo nhật ký của thánh nữ Faustina để lại thì Chúa Giêsu đã hiện ra với chị
và nói với chị là Ngài muốn: "mọi người hãy tín thác vào Lòng Thương Xót
khôn dò của Chúa. Đó là cơ hội quý báu và tối hậu để nhân loại được cứu
rỗi."
Tín thác vào Chúa là cơ hội quý báu và tối hậu để được ơn cứu
độ. Hay nói cách khác, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là cho ta một cơ hội để
hoán cải đời sống và để được cứu độ.
Thật vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra và cho tất cả các môn đệ một cơ hội để làm lại
cuộc đời.
Đối diện với cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu tuần vừa qua, tất cả
các môn đệ đều vấp ngã. Họ chạy trốn, đóng cửa rất kỹ vì mang trong mình một
nỗi sợ hãi, hoang mang tột cùng. Không chỉ sợ người Do thái bắt được mình và
mình phải chết; mà còn sợ hãi, hoang mang vì mang trong mình một mặc cảm tội
lỗi ghê gớm vì chính mình đã bỏ Thầy, chối Chúa.
Trong tình cảnh bi đát đó, Chúa Giêsu đã hiện ra. Ngài không chỉ
chữa lành vết thương tâm hồn các môn đệ khi trao gởi: "Bình an cho anh
em" (Ga 20, 19-20) và trao ban chính Thánh Thần của Ngài; mà Ngài còn mở
cho các ông một cơ hội để làm lại cuộc đời khi trao cho các ông sứ vụ đi rao giảng
Tm: "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em" (Ga 20, 21). Đó chính
là Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Và còn hơn các môn đệ khác, tôi nghĩ, có lẽ hôm nay Tôma là
người cảm nghiệm sâu xa nhất Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúa Giêsu không
những đã cho ông thấy Chúa như các môn đệ khác, mà Chúa còn tự nguyện đáp ứng
yêu cầu của ông là thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn
Người. Đứng trước nghĩa cử của Chúa, ông chỉ còn biết rưng rưng nước mắt mà
thốt lên: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con."
Chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta vừa tham dự vào Tam Nhật
Thánh tuần vừa qua xong, chúng ta có nhận ra rằng chính Chúa Giêsu đã thương ta
vì ta long đong, lầm than, khốn khổ, và ngay cả khi ta tội lỗi, vô ơn ... thì
Ngài vẫn chịu chết vì ta để cho ta sống không?
Thiên Chúa của ngày hôm qua, cũng là Thiên Chúa của ngày hôm
nay. Ngài vẫn tiếp tục trắc ẩn trước cảnh khốn khó, nhọc nhằn của con cái mình.
Ngài vẫn tiếp tục mở cho ta cơ hội để đến với Lòng Thương Xót của Ngài, cụ thể
là qua các bí tích. Tôi thấy có hai Bí tích thể hiện Lòng Thương Xót của Chúa
rõ nét nhất là Bí Tích Hòa Giải và Bí Tích Thánh Thể.
Ai trong chúng ta, với một lương tâm ngay thẳng, khi phạm tội
thì đều cảm thấy bất an, bất ổn trong tâm hồn. Và khi đã xưng tội xong thì thấy
lòng mình thanh thản, bình an, như trút được một gánh nặng. Quả thật, đến với
Bí Tích Hòa Giải chúng ta được Thiên Chúa xót thương, tha thứ mọi tội lỗi và
Ngài cũng nói với ta như nói với các môn đệ hôm nay: "Bình an cho các
con." Ngài cho ta một cơ hội để được đổi mới cuộc đời, được sống trong ơn
nghĩa của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy mạnh dạn đứng lên để trở về với Lòng
Thương Xót của Thiên Chúa mỗi khi ta vấp ngã bởi muôn ngàn yếu đuối trong cuộc
đời.
Còn với Bí Tích Thánh Thể, Thiên Chúa đã trao ban chính Ngài để
ở lại với ta, để chia sẻ, đồng hành, nâng đỡ và mở cho ta một cơ hội để được
cộng tác với Ngài khi sai ta đi như sai các tông đồ hôm nay: "Như Cha đã
sai Thầy, Thầy cũng sai anh em." Amen.
54. Tin nhận Chúa
Phục Sinh.
Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh là Chúa Nhật kết thúc tuần bát nhật
Lễ Phục Sinh. Giáo hội trình bày cho chúng ta sự kiện Chúa Giêsu sống lại trích
từ Phúc âm thánh Gioan có thể được xem như là một tổng kết về mầu nhiệm Phục
Sinh và hơn nữa là một tổng kết cho chặng đường đức tin của các Tông đồ. Đồng
thời cho thấy sứ mạng sống đức tin, sứ mạng sống mầu nhiệm phục sinh nối dài
trong đời thường của chúng ta.
Thật khó diễn tả cách hiện diện của Chúa Giêsu thế nào sau khi
Ngài từ cõi chết sống lại. Chỉ biết Ngài xuất hiện cách lạ thường nhưng vẫn giữ
nguyên nét gần gũi thân tình với các môn đệ. Do đó, ta không thể trách các Tông
đồ. Các ông mới sống thân tình với Thầy ba năm nhưng sao lại thay đổi quá nhanh
chóng như vậy? Đứng trước cái chết của Thầy mình, môn đồ làm sao mà thoát khỏi
lo âu, ngạc nhiên và còn đầy sợ hãi. Các cửa nhà đều đóng kín. Họ đã kinh hoàng
sợ hãi vì người Do thái vừa giết chết Thầy Giêsu. Chắc hẳn, rồi cũng sẽ đến các
môn đệ của Thầy Giêsu thôi, các ông thừa hiểu rằng rồi đây sẽ đến lượt mình.
Cửa nhà đóng kín và lòng người càng đóng kín hơn. Rõ ràng là một số môn đệ thất
vọng đã trở về quê, một số khác nửa tin nửa ngờ khi biết xác Thầy không còn
trong mộ nữa. Vì thế, đứng vào hoàn cảnh các Tông Đồ lúc bấy giờ chúng ta sẽ
thông cảm hơn, đáng thương các ông hơn là đáng trách.
Tuy nhiên, Thiên Chúa có đường lối riêng của Ngài. Trong lúc sự
kiện phục sinh còn quá mới mẻ, quá lạ thường này, các Tông đồ vẫn chưa được
biến đổi hẳn thì Chúa Giêsu đã nhiều lần hiện ra cho các ông, Ngài ban bình an
và củng cố để các ông tin và đang sống niềm tin ấy. Riêng Tông Đồ Tôma thì dứt
khoát hơn, ông cần một xác tín. Có lẽ, lúc này ông cần một sự ủng hộ Thầy
Giêsu, ông cần một mạc khải, ông cần sự cảm thông và cần được sáng tỏ vấn đề.
Sự khao khát này được thể hiện rất rõ trong câu nói đầy niềm trông cậy:
"Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không đặt bàn tay vào cạnh
sườn Thầy thì tôi không tin". Hay nói một cách khác: "tôi cần gặp lại
Thầy Giêsu yêu dấu". Dường như chúng ta đang đứng trước một sứ điệp của Tôma:
"Nếu anh em đã gặp được Thầy thì tôi cũng cần gặp Người vì tôi cũng là môn
đệ của Người". Tôma tin điều ấy xảy ra.
Sự khao khát của Tôma là chính đáng. Tôma yêu mến Thầy Giêsu nên
đã theo Thầy. Bây giờ Tôma muốn gặp Thầy. Chúa Giêsu thấu suốt những bí ẩn
trong lòng người. Chúa Giêsu biết rõ con người Tôma. Chúa thấu hiểu tâm trạng
hiện thời của Tôma, Chúa biết rõ tâm tình của Tôma trong những lúc này đây.
Chúa không chỉ thấu hiểu tấm lòng mà Chúa còn là Đấng làm thoả lòng cho Tôma.
Chính Ngài đến và nói: "Tôma, con hãy xỏ tay con vào đây". Sự kiện
hiện diện của Thầy Giêsu lúc này là một minh chứng về tình thương và ân huệ của
Thiên Chúa quan phòng. Chúa Giêsu thương mến các Tông Đồ trong đó có Tôma.
Trong cách thức mới, trong quyền phép Đấng Phục Sinh, Người hiện
diện ở ngay bên nhưng các ông không biết được. Thế nên khi Thầy Giêsu hiện ra
trong sự phục sinh, Tôma đã ý thức thân phận của mình chỉ là học trò của Thầy
Giêsu nhưng được Thầy quan phòng yêu thương lớn lao, sự khao khát chính đáng
của ông được Thầy chấp nhận, ông sung sướng thốt lên tâm tình tin tưởng và đầy
lòng yêu mến: "Lạy Chúa là Thiên Chúa của tôi!". Tôma thấy rõ hiệu
quả của tình yêu và sự cậy trông của mình vào Thầy Giêsu. Đó quả là một đức tin
chân chính.
Thầy Giêsu thì luôn quan phòng và yêu thương. Ngài không chỉ
hiện ra để củng cố, an ủi và ban bình an cho các môn đệ mình mà Ngài còn muốn
đi xa hơn nữa, Ngài muốn các Tông Đồ đem đức tin, tình yêu và bình an của Ngài
đem cho muôn dân: "Như Cha đã sai Thầy, thì giờ đây Thầy cũng sai các
con", Ngài muốn các ông đi khắp nơi để làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm cho muôn dân cũng biết Thiên Chúa là tình yêu và quan phòng, cũng đón nhận
ơn cứu độ là tin, yêu và giữ những điều Ngài muốn.
Tuy nhiên, chấp nhận bước theo Chúa để sống đức tin là đều không
mấy dễ dàng. Các Tông đồ lo sợ nên ở lại trong căn phòng đóng kín, lo sợ trước
những chống đối của những kẻ không tin Chúa, lo sợ trước mầu nhiệm thập giá mà
Chúa đã trải qua và các ngài cũng sẽ phải đi qua, lo sợ trước sứ mạng tương lai
mà họ đã nghe Chúa nói đến và đã được chuẩn bị để thi hành. Dù các ông đang
sống trong hoàn cảnh đó, Chúa quan phòng vẫn hiện diện bên các ông và đã dự
liệu hiện ra nhiều lần. Mặc cho đau khổ, sự dữ, gian khó xảy ra, chúng ta luôn
trung thành theo Chúa và thể hiện đức tin và tình yêu của mình. Các Tông Đồ,
các môn đệ, các thánh tử đạo Việt nam,... đã là những nhân chứng về điều đó. Do
đó, nhìn lại bản thân mỗi người, là Kitô hữu nghĩa là những người tin có Chúa
Kitô, người có Chúa Kitô nên chúng ta phải sống niềm tin đó, ta phải thể hiện
niềm tin "có Chúa Kitô Phục sinh" trong đời sống mình. Đó là sống
chứng nhân. Hơn nữa, người Kitô hữu tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và là Cha
đầy yêu thươngnhân từ. Niềm tin ấy được thể hiện bằng một đời sống tin tưởng, hân
hoan và phó thác vào Chúa Kitô; yêu thương, tha thứ và quảng đại với mọi người.
Đồng thời, Chúa Kitô phục sinh cho chúng ta một xác tín rằng có cuộc sống sau
khi chết. Nhờ Chúa Kitô phục sinh, chúng ta tin có một cuộc sống vĩnh cửu, bất
diệt. Ý thức điều đó nên chúng ta sống như chuẩn bị cho cuộc sống mai sau ngay
từ bây giờ, sống như đã chết. Sống như chết là sống hy sinh, sống từ bỏ mình,
làm nhiều việc lành phúc đức, làm nhiều cử chỉ yêu thương bác ái. Cuộc sống này
mỗi ngày với những điều kỳ diệu của nó là nơi để chúng ta sống một cách cụ thể
niềm tin của mình. Tương quan hằng ngày với những người chung quanh chính là
môi trường để chúng ta thể hiện niềm tin của mình. Mặt khác, nếu không có mầu
nhiệm Phục Sinh, nếu không có quyền năng Chúa Phục Sinh đến đổi mới thì đức tin
của các Tông đồ chưa được trưởng thành hoàn toàn đúng mức Chúa mong muốn để có
thể làm chứng cho Chúa, chu toàn sứ mạng Chúa trao phó cho. Do đó, ta cần trung
thành và trông cậy vào ơn Chúa trợ giúp để chúng ta đi trọn đường đời và hoàn
thành xuất sắc sứ mạng chứng nhân của người môn đệ bước theo Thầy Giêsu.
Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Chúa Kitô chính là hình ảnh về
tình thương, lòng nhân lành và hay thương xót đối với loài người. Người luôn
hiện diện bên chúng ta. Ngài ở trong cõi lòng mình, trong các Bí tích, nơi Nhà
tạm, trong bí tích Thánh Thể. Chúng ta hãy chạy đến với Ngài vào những nơi đó
để trò chuyện trong sự thân tình, đàm đạo trong sự thân mật, sống tâm tình tin
tưởng đầy lòng yêu mến Ngài.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho cả cuộc sống của chúng con trở thành dấu
chứng của tình yêu Chúa đối với mọi người. Đó là vui sống niềm tin vào Thiên
Chúa quan phòng, sống tình yêu thương bác ái đối với tha nhân. Xin cho bình an
của Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời của chúng con để cho tất cả những ai gặp
gỡ chúng con đều có thể nhận ra được tình yêu và sự hiện diện của Chúa. Amen.
55. Phúc cho ai không thấy mà tin
– Lm. Trần Khả
Bài Phúc âm tường thuật lại việc Chúa Giêsu hiện ra giữa các
tông đồ khi họ đang tụ họp trong phòng đóng kín. Tất cả đều sửng sốt và vui
mừng. Họ không thể ngờ được một sự lạ phi thường như thế: Chúa Kitô đã sống
lại. Họ đã tận mắt trông thấy Ngài. Không phải chỉ một người, nhưng là tất cả
những người có mặt trong phòng ngày hôm ấy đều thấy Ngài. Ngài đã đưa tay và
cạnh sườn của Ngài cho họ coi. Họ đã nghe thấy tiếng nói của Ngài. Họ đã thấy
Ngài ăn uống và nói chuyện với họ. Ngài không phải là ma nhưng là Đấng Cứu Thế
Phục Sinh. Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết. Họ đã thấy Ngài và họ đã tin.
Gặp Chúa Kitô Phục Sinh
Tôma vì vắng mặt nên đã không nhận được lời chúc bình an, sự vui
mừng và niềm tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh. Khi ông trở về và vẫn còn tâm
trạng hoang mang, lo sợ và nghi nan thì được các môn đệ khác báo tin vui:
"Chúng tôi đã xem thấy Chúa." Tôma đã không tin vào lời của họ. Không
tin như thế không phải chỉ vì Tôma cứng lòng, nhưng cũng vì khi đó các môn đệ
khác vẫn chưa có những dấu chứng tỏ họ là những người đáng tin.
Thực vậy, làm sao Tôma có thể dễ dàng tin vào lời nói của những
người mà chẳng bao lâu trước đó, khi Chúa Kitô lâm nạn, không một ai trong họ
dám lên tiếng bênh vực cho Ngài. Ai cũng sợ bị vạ lây nên tất cả đã lánh mặt
hay bỏ chạy. Phêrô đã không ngượng ngùng ba lần chối không biết Đức Kitô là ai.
Họ đã bỏ Đức Kitô, và Ngài đã chết một cái chết đau thương và công khai trên
thập giá. Như vậy thì làm sao bây giờ Tôma có thể tin lời của những người yếu
hèn nhát đảm đó? Trong khi còn đang nghi nan thì Chúa Giêsu hiện đến và tỏ cho
Tôma xem thấy những vết thương của Ngài. Vừa trông thấy Chúa, Tôma đã kêu lên,
"Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!"
Các tông đồ và Tôma đã tin vì họ đã gặp thấy Chúa Kitô Phục
Sinh. Họ đã nhìn thấy Ngài và thấy những vết thương trên thân thể của Ngài.
Nhưng nếu đức tin chỉ xảy ra qua việc đích thân đối diện với Chúa Kitô Phục
Sinh, được tường tận mắt thấy, tai nghe như các tông đồ, thì có lẽ không biết
cho đến bao giờ chúng ta mới là những người có đức tin. Tuy nhiên, việc Tôma
tin hay không tin vào lời tường thuật của các tông đồ, không có ảnh hưởng gì đến
sự thật của việc Chúa Giêsu sống lại. Tin hay không tin thì Ngài cũng đã sống
lại. Do đó Chúa Kitô đã nói với Tôma, "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên
con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin." Giống như các tín hữu
của những thế kỷ trước đây, chúng ta là những người đã không thấy mà tin.
Bài đọc thứ nhất trong sách Tông Đồ Công Vụ hôm nay kể lại cho
chúng ta về tinh thần tin tưởng vào Chúa Kitô Phục Sinh của cộng đoàn Giáo Hội
thuở ban đầu:
- Họ đã bền bỉ tham dự buổi giáo lý của các Tông Đồ.
- Họ sống hiệp thông trong tình huynh đệ, bẻ bánh và cầu nguyện.
- Các tông đồ làm được những việc phi thường.
- Họ để mọi sự làm của chung.
- Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân mến chuộng.
Chính vì tinh thần hăng say trong cầu nguyện, ca tụng Thiên Chúa
và sống hiệp nhất với nhau như thế mà Giáo Hội đã lớn mạnh. Số người tin càng
ngày càng gia tăng vì người ta đã nhìn thấy những việc phi thường các tông đồ
và các Kitô hữu thuở ban đầu làm được.
Dấu Chứng Củng Cố Đức Tin
Chúng ta đã không được nhìn thấy những vết đinh và vết thương
trên thân thể của Đức Kitô Phục Sinh. Nhưng đức tin của chúng ta ngày nay cũng
được củng cố mỗi khi chúng ta nhìn thấy những dấu đinh và những vết thương của
Chúa Giêsu nơi các Kitô hữu khác trong Giáo Hội. Nhiều thanh niên nam nữ đã
hăng say dấn thân trong đời sống tu trì và làm tông đồ vì họ đã nhìn thấy những
dấu đinh, những vòng gai và những giòng máu hy sinh của các thánh tử đạo và nơi
những nhà truyền giáo vì danh Chúa Kitô. Vì niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh mà nhiều
cặp vợ chồng đang cố gắng sống trung tín với Chúa và trung thành với nhau trong
tinh thần yêu thương của bí tích hôn phối cho dù phải đối diện với nhiều cám dỗ
và thử thách của xã hội ngày nay. Sự dấn thân hy sinh phục vụ của nhiều vị
thánh, nhiều linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân khắp nơi trên thế giới ở mọi
thời đại trong lịsh sử Giáo Hội, tất cả đã là những dấu chứng của niềm tin vào
Chúa Kitô Phục Sinh.
Nếu chúng ta xưng mình là Kitô hữu, là người Công giáo tin vào
Chúa Kitô Phụs Sinh, thì chúng ta cũng là những sứ giả được Chúa Kitô sai đi
làm nhân chứng cho Ngài. Người ta sẽ nói với chúng ta, "Làm ơn cho tôi xem
tay của bạn! Làm ơn cho tôi xem chân của bạn! Làm ơn cho tôi xem cạnh sườn của
bạn! Nếu tôi không thấy những vết thương, những vết sẹo giống như của Chúa
Kitô: yêu thương người nghèo, che chở người yếu thế, bênh đỡ người có tội, yêu
thích điều công chính, làm những điều như Chúa Kitô đã làm, sống như Chúa Kitô
đã sống; chết cho tha nhân như Chúa Kitô đã chết cho nhân loại, thì tôi không tin!"
Các tông đồ và các Kitô hữu của Giáo hội thuở ban đầu đã làm được những việc
phi thường và do đó nhiều người đã tin vào Chúa Kitô. Ngày nay chúng ta làm
được những việc phi thường gì để người khác có thể nhận ra Chúa Kitô và đặt
niềm tin vào Ngài?
Một Câu Truyện
Một người đi xa vượt biển băng rừng để tìm gặp một vị đạo sĩ nổi
tiếng có nhiều môn sinh. Anh tìm đến để hy vọng cũng được theo làm môn sinh.
Khi đến nơi người ấy hỏi một môn đệ của vị đạo sĩ:
- "Thầy của anh đã làm được những phép lạ gì ở xứ
nầy?"
Người môn sinh đó trả lời, "Nhiều phép lạ lắm. Hết phép lạ
này đến phép lạ khác. Ở xứ anh, người ta quan niệm phép lạ xảy ra khi Thiên
Chúa thực hiện những điều người ta mong muốn. Còn ở xứ này, chúng tôi quan niệm
phép lạ là khi một người dám thi hành những điều Thiên Chúa muốn."
Là những Kitô hữu Công giáo, chúng ta không phải là những người
ngồi đó hy vọng chờ để được chứng kiến thêm phép lạ Chúa làm hầu cho đức tin
chúng ta được củng cố. Nhưng chúng ta cần phải là những người dấn thân ra đi
làm phép lạ trong đời sống của chúng ta, trong gia đình chúng ta, và trong xứ
đạo của chúng ta hầu cho những người khác có thể nhận ra Chúa Kitô phục sinh.
Những phép lạ và những điều phi thường chúng ta có thể làm là can đảm sống và
thi hành những điều Thiên Chúa muốn. Và giống như các tông đồ và các tín hữu
thuở ban đầu, sống hiệp thông đoàn kết với nhau trong tinh thần cầu nguyện, bẻ
bánh, ca khen Thiên Chúa, chia sẻ những gì mình có với người nghèo. Sống như
thế tức là chúng ta đang làm được những việc phi thường. Và cuộc đời của chúng
ta, những bàn tay, đôi chân của chúng ta sẽ mang những dấu đinh hy sinh vì tình
yêu tha nhân giống như Chúa Kitô. Và như thế chúng ta sẽ trở nên những nhân
chứng đáng tin cậy.
56. Người chậm
tin – Lm. Nguyễn Hữu Lượng
Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô làm cho Tôma thất vọng. Đức tin của
ngài đã suy yếu đến độ mặc dầu với nhiều chứng tích, mọi người đã tin Chúa sống
lại, nhưng ngài vẫn đòi cho bằng được những bằng chứng cụ thể rồi mới tin:
"Nếu tôi không thấy các dấu tích nơi tay Ngài, và cho tay tôi vào lỗ đinh
cùng cho bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin!"
Đã có bằng chứng cụ thể như Tôma đòi thì cần gì phải tin. Bởi
vậy tám ngày sau Chúa lại hiện ra với các tông đồ, mục đích để sửa lại lòng tin
yếu kém của Tôma: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin. Phúc cho những ai không thấy
mà tin."
Tuy nhiên, ta đừng quên rằng biến cố Phục sinh là một biết cố
quá phi thường vượt trên sức tưởng tượng của loài người. Không riêng gì Tôma,
các tông đồ khác cũng đã không tin khi vừa nghe Chúa sống lại. Chúa biết vậy
nên đã đến cứu đức tin của Tôma, và cũng nhờ đó các thế hệ sau nầy có được một
công thức tuyên xưng đức tin thật đầy đủ phát ra từ đáy lòng thống hối của
thánh Tôma, làm mẫu mực cho chúng ta: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi."
Trong lời nói đột xuất trên kia, thánh Tôma đã gọi Đức Kitô là
Chúa, điều đó bao hàm rằng Chúa Kitô có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài có
quyền lực để tự phục sinh từ cõi chết. Tôma đã xưng tụng Chúa Kitô là Thiên
Chúa của ngài vì tin tưởng lòng Chúa bao dung, sẵn sàng tha thứ cho sự chậm tin
của ngài.
Đó là một công thức đức tin đầy đủ và gọn gàng mà Phúc Âm ghi
lại từ cửa miệng của một kẻ chậm tin như Tôma.
Và cũng để sửa lại sự chậm tin của mình, sau khi Chúa về trời,
tông đồ Tôma đã mạnh mẽ tận hiến cả đời mình cho Tin Mừng Phục Sinh, ngài đã
chết để làm chứng cho chân lý ngàn đời đó.
Đức Tin là một trong ba nhân đức Đối Thần, giúp ta chấp nhận mọi
điều Chúa mặc khải về những mầu nhiệm vượt quá sự kiểm soát của trí khôn loài
người, và thánh Phaolô đã cho ta một định nghĩa thực hành của Đức Tin như sau:
" Tin là chiếm hữu nhiều điều còn trong hy vọng, là phương thức nhận ra
các thực tại người ta không thấy. Vì nhờ đó, tiền nhân đã được Thiên Chúa chứng
giám cho." (Dt 11,1-2)
Mỗi ngày Chúa Nhật, đi tham dự thánh lễ là chúng ta có cơ hội
diễn lại cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Ta phải sống niềm tin đó, đem Chúa
Phục sinh vào đời, nghĩa là đem niềm tin cho những ai đã mất lòng tin, đem sự
vui tươi, niềm hy vọng sống lại cho những người ưu sầu vì tang tóc. Và chính
chúng ta hãy thể hiện trên nét mặt và môi miệng niềm vui đó.
57. Nuôi dưỡng niềm
tin Chúa Phục Sinh
Kính thưa quý OBACE, các tông đồ và các phụ nữ thời Giáo Hội sơ
khai đã may mắn hơn chúng ta, vì họ đã là những người tận mắt chứng kiến ngôi
mộ trống, đã từng chứng kiến việc Chúa Giêsu hiện ra sau khi Người từ cõi chết
sống lại, nhiều người trong họ được đồng bàn với Người, được đụng chạm đến
Người. Còn chúng ta là những thế hệ tín hữu sau các tông đồ chúng ta không được
tận mắt thấy những lần Chúa hiện ra và cũng không thấy mồ trống, nhưng chúng ta
vẫn tin Chúa đã sống lại thật. Vây thì dựa vào đâu để chúng ta tin Chúa đã sống
lại? Đó cũng là điều bài Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta.
Đoạn Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giêsu phục sinh hiện ra, và
lần thứ hai cuộc hiện ra như được dành riêng cho một tông đồ thiệt thòi hơn các
tông đồ khác, đó là Tôma. Có lẽ vì quá thất vọng và hoảng sợ, trong khi các
tông đồ khác dựa vào nhau để nâng đỡ nhau, thì Toma lại chọn một hướng khác, có
lẽ ông bỏ về quê. Vì thế ngay buổi chiều ngày thứ nhất, Chúa Phục Sinh hiện ra
với các tông đồ, đã không có Toma ở đó. Với lần hiện ra này, Chúa Phục sinh đã
ban cho các tông đồ một sức sống mới và một ơn thật đặc biệt, thật cần thiết
cho các ông lúc này, đó là sự bình an. Vì cái chết của Chúa Giêsu quả thật còn
đang đè nặng trên các tông đồ, những tiếng la hét giết đi, đóng đinh nó vào
thập giá, của đám đông Do Thái như còn đang ám ảnh các ông, khiến các tông đồ
sợ hãi, rút vào trong nhà và đóng kín cửa.
Biết được tâm trạng của các tông đồ, biết được nhu cầu của các
ông, Chúa Giêsu đã hiện ra trước mặt các ông, và Ngài nói: Bình an cho các con.
Không chỉ như thế, để củng cố đức tin cho các ông, Chúa Giêsu đã cho các ông
xem tay và cạnh sườn Người, Người đã thổi hơi trên các ông và nói: Các con hãy
nhận lấy Thánh Thần. Thánh Thần chính là quà tặng sự sống mà Chúa Phục sinh
trao ban, cùng với hình ảnh thổi hơi, nhắc cho chúng ta nhớ đến hơi thở đầu
tiên Thiên Chúa thổi vào Ađam khi ông còn là tượng đất, Thiên Chúa đã thổi sinh
khi vào lỗ mũi và cho con người có sự sống, thì hôm nay, hơi thở của Đấng Phục
Sinh được thổi trên các tông đồ, để trao ban cho các ông một sức sống mới, biến
các ông thành con người mới, thành tạo vật mới và sống trong một thế giới mới, thế
giới của sự sống.
Cùng với hơi thở Thánh Thần, Chúa Phục Sinh còn trao cho các
tông đồ một sứ vụ hết sức quan trọng, đó là sai các ông ra đi, cùng ban cho các
ông quyền tha tội. Với năng quyền tha tội, các tông đồ thực hiện và trao ban
tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa, hay cụ thể hơn, đó là các ông trở thành
hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa trong thế giới, và để biến đổi thế
giới nên một thế giới mới, thế giới của tình yêu thương và tha thứ.
Với những sự kiện và sứ vụ quan trọng được trao cho các tông đồ
như thế, nhưng rất tiếc, tông đồ Tôma đã không có mặt. Chính vì tách lìa khỏi
cộng đoàn các tông đồ, tức là Giáo Hội, nên khi các tông đồ khác làm chứng về
việc Chúa sống lại, Tôma đã không thể đón nhận được tin mừng Phục sinh. Không chỉ
như thế, ông còn đi đến một thái độ cực đoan khi ông tuyên bố: Nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi
không tin.
Chúa Giêsu đã không nỡ để cho đức tin của Tôma bị khô héo, cũng
không muốn để cho ông đứng bên ngoài cộng đoàn Giáo Hội, nên có thể nói tám
ngày sau Chúa đã hiện ra cho riêng Tôma. Việc làm này thể hiện lòng thương xót
của Chúa, vì Thiên Chúa không muốn để cho bất cứ một ai phải rơi vào tuyệt
vọng. Tin Mừng nhấn mạnh: Tám ngày sau các môn đệ tụ họp trong nhà và có cả
Tôma ở đó với các ông. Chi tiết này cho thấy dường như Tôma đã quay trở lai với
cộng đoàn sau những ngày, vì lý do gì đó, ông đã chọn tách ra khỏi anh em tông
đồ. Trong bầu khí xum họp và hiệp nhất này, Chúa Giêsu lại một lần nữa hiện ra
với các tông đồ, và Người gọi đích danh Tôma: Hãy đặt ngón tay con vào đây và
hãy xem tay Thầy, hãy đưa bàn tay con ra và thọc vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng
lòng nhưng hãy tin. Trước đặc ân to lớn này, Tôma đã tuyên xưng đức tin của
mình: Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con. Ông đã tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa
và là Thiên Chúa, Đấng tổ tiên ông vẫn tôn thờ. Chúa Giêsu đã trả lời Tôma: Vì
con đã thấy Thầy nên con tin, phúc cho những ai đã không thấy mà tin. Qua lời
này, Chúa Giêsu đã chúc phúc cho những thế hệ tín hữu sau này, họ không được
chứng kiến những lần hiện ra của Chúa, cũng không được diễm phúc đụng chạm, ăn
uống với Chúa như Tôma và các tông đồ, nhưng họ vẫn tin nhờ lời làm chứng của
các tông đồ và của cộng đoàn Giáo Hội.
Từ mệnh lệnh của Chúa Phục sinh, các tông đồ đã miệt mài lên
đường để loan truyền tin mừng phục sinh cho thế giới, các ngài đã hình thành
nên nhiều các cộng đoàn Giáo Hội sơ khai. Sách Công Vụ cho thấy: Các tín hữu
chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau, siêng năng
tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Lời mô tả này cũng đủ để cho thấy
có một sức sống đang tuôn chảy trong Giáo Hội và chi phối mọi hoạt động, và làm
nên đời sống đức tin của các tín hữu.
Thưa quý OBACE, chúng ta sẽ không thể có được đức tin vững chắc
vào mầu nhiệm Chúa Phục Sinh nếu chúng ta không gắn kết một cách chặt chẽ với
Giáo Hội, vì Giáo Hội chính là người mẹ sinh ra chúng ta trong đức tin, đồng
thời cũng là thầy dạy chúng ta trong đức tin, và cũng là điểm tựa đức tin của
chúng ta. Vì thế, ngày nay muốn có được một đức tin vững chắc, chúng ta cũng
phải gắn kết một cách chặt chẽ với Giáo Hội và chuyên tâm lắng nghe lời giảng
dạy của Giáo Hội, đồng thời cũng như các tín hữu sơ khai, chúng ta còn cần phải
sống tinh thần hiệp thông với nhau trong cầu nguyện, và nhất là tham dự Thánh
lễ, đó là những phương thế giúp cho đức tin của chúng ta nên vững mạnh.
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nhiều người, nhiều
nhóm, cùng với các phương tiện truyền thông, họ đang cố tình bôi xấu Giáo Hội
bằng thổi phồng một số những sai phạm của các thành viên trong Giáo Hội, tạo sự
nghi ngờ của chúng ta vào Giáo Hội, và thâm độc hơn, họ muốn tách chúng ta ra
khỏi sự hiệp thông với Giáo Hội, nếu chúng ta để mình rơi vào cái bẫy của thế gian,
nó sẽ kéo chúng ta về phía nó, và biến chúng ta thành những kẻ thù nghịch, hoặc
có thái độ bất mãn với Giáo Hội. Hãy hết sức cẩn thận với những cám dỗ và các
khuynh hướnh đó, hãy tin tưởng, khiêm tốn lắng nghe sự hướng dẫn của Giáo Hội,
vì chỉ khi gắn bó với Giáo Hội, chúng ta mới có được một đức tin tinh tuyền và
chính thống mà thôi, mà Giáo Hội cụ thể là Giáo phận, là Giáo xứ, là nơi chúng
ta được nuôi dưỡng đời sống đức tin và được sự săn sóc của Giáo Hội là mẹ chúng
ta.
Không chỉ củng cố đức tin cho bản thân chúng ta, Đấng Phục
Sinh còn mời gọi chúng ta trở thành những người loan truyền tin vui phục sinh
và lòng thương xót của Chúa cho mọi người. Chúng ta không thể đem Tin Mừng Phục
Sinh cho người khác khi chúng ta chưa được biến đổi, chúng ta không thể báo tin
vui cho người khác nếu chúng ta sống buồn bã chán nản hay thất vọng. Vì thế để
có thể trở thành người loan Tin Mừng, thì trước tiên chúng ta phải là những
người thực sự cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh thực sự là Tin Mừng cho bản thân,
Người đang hiện diện và đang thúc đẩy chúng ta, qua lối sống, qua cách làm việc
va qua cách cư xử của chúng ta. Có như thế thì Tin Mừng mới có thể ảnh hưởng
đến người khác được.
Mỗi người hãy là những người loan truyền tin Mừng Phục Sinh cho
những người chung quanh bằng một đời sống vui tươi, được thể hiện trên gương
mặt, trong đời sống, và trong cách làm việc thường ngày. Hãy sống niềm tin phục
sinh bằng việc tin tưởng nơi Chúa và gắn bó với Giáo Hội, hãy góp phần làm cho
cuộc cá nhân, cuộc sống gia đình và xã hội thêm vui tươi. Hãy bước ra khỏi sự
ngại ngần sợ hãi để nói về Chúa Giêsu cho mọi người, và sống giới răn của Chúa
trong xã hội hôm nay, đồng thời góp phần làm cho cuộc sống xã hội mỗi ngày thêm
tốt đẹp hơn.
Xin lòng Chúa thương xót ban thêm đức tin cho chúng ta, và biến
chúng ta trở thành những chứng nhân không mệt mỏi cho lòng thương xót và tình
yêu thương của Chúa cho những người mà chúng ta thường gặp gỡ. Amen.