CÁC BÀI
SUY NIỆM CHÚA NHẬT LỄ LÁ 2017
MỤC LỤC
1. Đau khổ của Đức Kitô
2. Lễ lá – Mt 21,1-11.
3. Con đường Chúa đi – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
4. Tình yêu đáp lại hận thù - ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
5. Đức Giêsu đối diện với cái chết
6. Con người tham sống sợ chết - Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
7. Cô đơn và im lặng.
8. Chúc tụng Đức Vua
9. Suy niệm Lễ Lá
10. Đám đông dưới chân Thập Giá
11. Ông này là ai vậy?
12. Cành lá phản bội (Mt 26,14-27,66). R. Veritas
13. Tin và không tin – Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
14. Định mệnh an bài! – Như Hạ
15. Chọn Chúa Giêsu – ĐGM. Bùi Văn Đọc
16. Cùng theo Chúa – Lm. Nguyễn Nguyên
17. Vào thành để chịu chết – Lm G. Nguyễn Cao Luật
18. Vui lòng vâng phục Thánh ý Chúa
19. Lắng nghe cuộc khổ nạn – André Sève.
20. Tôi không bán Chúa – PM. Cao Huy Hoàng
21. Chúa chịu tử nạn trong tôi – Lm. An Phong
22. Bạc bẽo
23. Lễ lá
24. Hoan hô - Đả đảo
25. Suy Niệm của JKN
26. Thông Cảm Với Chúa Lm Giuse Đinh lập Liễm
27. Cuộc Thương Khó
28. Giờ Chiến Thắng Vinh Quang
29. Niềm Vui - Thập Giá – Và Ơn Cứu Độ
30. Dõi Theo Cuộc Thương Khó Của Chúa Giêsu
31. Tại làm sao Chúa chết?
32. Một Niềm Tín Trung
33. Con Đường Thập Giá
34. Bóng Tối Và Niềm Tin
35. Lừa Con Chưa Ai Cưỡi Bao Giờ
36. Những Mâu Thuẫn Qua Cuộc Thương Khó Của Chúa Giêsu
37. Bản Án Bất Công
38. Ngài Cưỡi Lừa Vào Thành
39. Sức Mạnh Của Thánh Giá
Theo Chúa Giêsu chịu thương khó Dẫn lễ
Chọn Chúa Giêsu ĐTGM. Bùi Văn Đọc
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Đức Giêsu là Người tôi tớ... Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Tiến bước theo Ngài Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Kinh nghiệm đau đớn Achille Degeest
Lắng nghe cuộc khổ nạn André Sève
Cuộc khổ nạn Noel Quession
Chúng tôi ca ngợi thánh giá Fiches Dominicales
Phục sinh Ladarô Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
Nặng hơn tội hèn nhát Suy Niệm của JKN
Như Đức Giêsu đã yêu thương Suy niệm của JKN
Con đường tình yêu Lm. Kiều Công Tùng
Đường dẫn tới phục sinh Sưu tầm
Đâu là mối tương quan Sưu tầm
Niềm vui phục sinh Sưu tầm
Con đường thương khó Lm Giuse Đinh tất Quý
Trong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc
xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc
cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng
đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử
thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể
chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như
thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ
không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy
đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng
cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu
đựng những khổ đau nào?
Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn. Thực vậy, tại vườn Cây
Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp tới. Còn gì đau đớn
cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và phản bội. Chúa Giêsu đã
trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30 đồng bạc, khi bị Phêrô
chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ bỏ rơi. Và điều quan
trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, và cảm thấy như
bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải thốt lên: Lạy Cha,
sao Cha lại bỏ con?
Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này, khi
chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta yêu
mến và kính trọng phản bội.
Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác. Ngài đã bị đánh đập, bị
đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên chúng ta chưa nếm thử những
đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta cũng đã trải qua những đau
khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau yếu bệnh tật.
Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống
đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị
tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa
Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để
ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao?
Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là
một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với
thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ.
Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây
phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy
được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết
chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập
giá Đức Kitô.
Qua phần phụng vụ hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ ba điểm.
Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành
Giêrusalem cách long trọng.
Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải
bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải
mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái
chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần
dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này
giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.
Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để
dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến.
Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án
của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu
Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi
sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật
thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu
thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.
Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những
đau khổ.
Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá
dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái
chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà
bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan
trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với
Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau
khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến
bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.
Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên,
vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần
của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể
xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết
đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó
cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh
sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục
sinh.
BÀI THƯƠNG KHÓ: Mt 26,14 – 27,66
Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu
Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án,
chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường
vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội
đồ.
Đám rước tưng bừng ngày Lễ Lá gọi ta cùng tiến bước theo Chúa.
Tiến bước theo Chúa để hiểu rằng hành trình không kết thúc tại
cổng thành Giêrusalem với đám đông ngưỡng mộ, với cành lá và quần áo trải thảm
đường đi, nhưng kết thúc trên Núi Sọ với thập giá, với những lời nhục mạ, với
hai tội nhân đồng hành. Chúa Giêsu không xưng vương trước đám đông cuồng nhiệt
nghênh đón, nhưng lại xưng vương trước mặt Philatô, khi tay đã bị trói, khi
thân thể đã tan nát không còn hình tượng con người, khi đã mất hết uy tín, đứng
trước vành móng ngựa như một phạm nhân. Danh hiệu là Vua chỉ được chính thức
ghi bằng chữ viết khi Người bị treo trên thập giá.
Hành trình của Chúa là một hành trình gian khổ. Đích điểm chỉ đạt
tới sau khi đã từ bỏ tất cả, không phải chỉ là nhà cửa, y phục mà cả những
người thân, cả thành công, cả danh dự, cả mạng sống.
Tiến bước theo Chúa để chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của lòng
người.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa vung tay chân hoan hô Chúa, hôm
sau đã vội vung tay vung chân kết án Chúa.
Cũng đám đông ấy hôm trước vừa reo hò chúc tụng Chúa, hôm sau cũng
vẫn reo hò, nhưng để buộc tội Chúa.
Cũng đám đống ấy, hôm trước vừa chen lấn nhau để nghênh đón Chúa,
hôm sau đã xúm đông xúm đỏ để hành hạ Chúa.
Cũng đám đông ấy, hôm trước vừa cởi áo, chặt cành lá lót đường
Chúa đi, hôm sau đã lột áo Chúa, chặt cành gai cuốn lên đầu Chúa.
Tiến bước theo Chúa để dứt khoát lựa chọn cho mình một con đường.
Đường vào Giêrusalem chỉ có một và rộng thênh thang. Mọi người đều
tụ tập và cùng chung lối bước. Nhưng đường lên Núi Sọ chật hẹp và chia ra muôn
ngả. Mỗi người đi theo con đường của mình.
Đường Giêrusalem đông vui và phấn khởi vì mọi người ca hát tưng
bừng. Nhưng đường lên Núi Sọ thật buồn thảm, chỉ có tiếng roi vọt, tiếng than
khóc, tiếng chửi rủa.
Đường vào Giêrusalem mọi người đều theo Chúa, mọi người đều là môn
đệ Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ chỉ còn ít người theo Chúa. Có những người đã
phản bội. Có những người đã trốn chạy. Có những người đã chối bỏ Thầy.
Đường vào Giêrusalem có con lừa chở Chúa. Nhưng đường lên Núi Sọ
Chúa phải vác thánh giá.
Đi theo Chúa trên đường vào Giêrusalem thì dễ dàng và vui vẻ.
Nhưng theo Chúa trên con đường Núi Sọ mới thật chông gai.
Nếu tôi có mặt ở đó, tôi sẽ dễ dàng hoà nhập vào đoàn người cầm
cành lá đón rước Chúa. Nhưng khi Chúa đi lên Núi Sọ, tôi sẽ rẽ sang đường nào?
Tôi sẽ rẽ sang con đường phản bội của Giuđa? Tôi sẽ rẽ sang con đường chối Chúa
của Phêrô? Tôi sẽ rẽ sang những con đường hẻm in dấu chân trốn chạy của các môn
đệ? Tôi sẽ phụ họa với đám đông kết án Chúa? Hay tôi cũng theo quân lính đánh
đập Chúa? Trước sau gì tôi cũng phải lựa chọn một con đường.
Lạy Chúa, xin cho con luôn tiến bước theo Chúa trên mọi nẻo đường
Chúa đi. Xin thêm sức cho con để con kiên trì theo Chúa trên đường lên Núi Sọ.
Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Hãy so sánh đường vào thành Giêrusalem và đường lên Núi Sọ.
2) Nếu bạn có mặt ở Giêrusalem hôm ấy bạn sẽ làm gì?
3) Bạn dám có lập trường riêng hay bạn chỉ biết làm theo đám đông?
TÌNH YÊU ĐÁP LẠI HẬN THÙ
Ngày Lễ Lá cho ta chứng kiến những đổi thay bất ngờ của cuộc đời
và của lòng người. Dân chúng vừa mới hân hoan cầm cành lá đón tiếp Chúa đã lập
tức quay lại la ó kết án Chúa. Chúa Giêsu vừa mới long trọng vào thành như một
ông vua nay đã phải đứng trước toà Philatô như một tử tội. Giuđa vừa ăn chung
một bánh, uống chung một chén với Thầy đã vội vàng ra đi nộp Thầy. Các môn đệ
vừa mới ngồi đồng bạn với Thầy nay đã bỏ trốn. Phêrô vừa mới hăng hái thề sống
chết bên Thầy đã mau chóng hèn nhát chối Thầy.
Những biến cố dồn dập, những đợt sóng thù hận giận dữ dâng cao đến
tột đỉnh như muốn nghiền nát Chúa Giêsu. Nhưng Người vẫn luôn giữ được tâm hồn
bình an thanh thản, thái độ quan tâm ân cần và trái tim chan chứa yêu thương.
Trước hết ta thấy Người thanh thản và chủ động bước vào cuộc
Thương khó khi Người nói với các môn đệ: “Thầy ước ao dự bữa tiệc Vượt qua với
các con”. Trước cái chết ai cũng run sợ. Nếu chết là hết thì cái chết thật là
đáng sợ. Nhưng với Chúa Giêsu, chết là về cùng Chúa Cha. Người yêu mến Chúa
Cha, khao khát kết hiệp với Chúa Cha, nên Người thanh thản bước vào cuộc khổ
nạn để được về cùng Cha.
Quân lính hung hãn đến bắt Chúa Giêsu, nhưng Người vẫn hiền hoà
không kháng cự.
Bị vây bọc trong bầu khí sát máu, Người vẫn cư xử với lòng nhân
hậu khoan dung. Không lo cho an nguy của bản thân, giữa lúc khó khăn khốn đốn
vẫn mở rộng bàn tay nhân ái chữa lành vành tai bị đứt của người đày tớ vị
thượng tế.
Khi Giuđa đến hôn mặt Chúa Giêsu, Người vẫn đối xử một cách lịch
sự, tế nhị. Đối lại tội phản nghịch tày trời, Người chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở, hy
vọng đánh thức lương tâm người học trò mê tiền mà đi đến phản bội.
Lúc đang xét xử, dù phải chịu nhục nhã cay đắng, Người vẫn quan
tâm đưa mắt nhìn Phêrô. Vị đại diện các môn đệ, sau khi chối Thầy, đã nhận được
ánh mắt âm thầm của Thầy. Ánh mắt hiền dịu mà đau khổ. Ánh mắt trách móc thì ít
mà tha thiết van xin thì nhiều. Ánh mắt nhân từ tha thứ đã khiến Phêrô ray rứt
khôn nguôi.
Trên đường lên Núi Sọ, dù vai phải mang cây thánh giá nặng nề, dù
bản thân yếu mệt và tủi nhục, Người vẫn còn đứng lại an ủi những người phụ nữ
khóc lóc, an ủi đám dân đã tố cáo, đã kết án Người.
Trên thập giá, lúc đớn đau đã thấm vào đến tận xương tuỷ, lúc sức
lực đã cạn mòn, Người vẫn còn quan tâm lắng nghe người trộm lành.
Còn hơn thế nữa, Người tha thứ cho những sĩ quan, những binh lính
đã hành hàn. Người không chỉ tha thứ mà còn cầu nguyện xin Chúa Cha tha cho tất
cả mọi người có dính líu vào việc xử án Người.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận,
chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ
quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó (Fulton Sheen). Tình yêu của
Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa
tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn
một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn
nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những
phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng
con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Chúng ta bước vào tuần thánh với Chúa Nhật Lễ Lá, kỷ niệm Đức
Giêsu vào thành Yêrusalem được dân chúng đón rước long trọng. Biến cố Đức Giêsu
vào thành Yêrusalem như một vị vua, gắn liền với những gì xảy đến cho Ngài vào
những ngày cuối cùng của đời Ngài.
Thành công và thất bại trên đời
Sau ba mươi năm sống âm thầm và làm nghề khiêm tốn ở Nazarét, Ngài
đã công khai rao giảng suốt ba năm khắp đất nước Do Thái với những thành công
và thất bại. Hôm nay Ngài trở lại Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất
của người Do Thái mà mọi người trưởng thành thường phải lên Yêrusalem. Cha mẹ
Đức Giêsu cũng vẫn lên Yêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, và Ngài từ năm 12 tuổi
cũng đã được dạy và thực tập hằng năm. “Hôm nay Ngài có lên Yêrusalem không?”
Một số người am hiểu thời sự biết tình trạng nguy hiểm của Đức Giêsu: nếu Ngài
lên Yêrusalem Ngài có thể bị những người lãnh đạo giết chết. Chính vì vậy họ
mới đặt câu hỏi!
Trên đời, ai không gặp thất bại? Một danh nhân Việt Nam đầu thế kỷ
20 đã nói: “không thành công cũng thành nhân”. Vấn đề chính là thái độ hay cách
cư xử của mình thế nào đối diện với những thành công và thất bại trên đời.
Đức Giêsu chấp nhận những gì xảy đến, ngay cả cái chết
Đa số các tông đồ không muốn Ngài lên Yêrusalem dịp này, dù rằng
đây là luật buộc người Do Thái. Thomas khi thấy Ngài quyết định lên Yêrusalem
thì nói: “Chúng ta cùng lên Yêrusalem để cùng chết với Ngài” (Ga.11, 8.16). Cổ
ngữ có câu: “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Tại sao Đức Giêsu không “khôn” một
chút?
Đức Giêsu vẫn làm điều phải làm, Ngài không trốn tránh, Ngài chấp
nhận thân phận làm người trong mọi trường hợp, chẳng hạn Ngài nói với Phêrô dịp
người ta tới bắt Ngài: “xỏ gươm vào vỏ, liệu anh tưởng Thầy không thể xin Cha
cho thầy 12 đạo binh thiên thần sao, nhưng như vậy thì làm sao Kinh Thánh được
nên trọn?” (Mt.26, 53). Đức Giêsu đã không biến đá thành bánh để ăn, Ngài cũng
không xuống khỏi thập giá khi bị thách thức, vì Ngài chấp nhận “thân phận con
người” đến cùng trong mọi trường hợp.
Tôi có sẵn sàng chấp nhận thân phận là người của mình trong cuộc
sống thường ngày không?
Dâng hiến chính mình
Đức Giêsu không chỉ chấp nhận cái chết một cách thụ động. Vì tình
yêu “đối với con người”, nên Ngài đã có một sáng kiến tuyệt vời: dâng hiến
chính mình cho tất cả mọi người qua bí tích Thánh Thể.
Hành vi tình yêu, đòi con người phải vượt qua chính mình, tôn
trọng người mình yêu trong mọi điều kiện, muốn những điều tốt lành cho người
mình yêu. Yêu như Đức Giêsu yêu, tức là sẵn sàng chết để người yêu được sống.
“Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Sự dữ bất lực trước tình yêu.
Phục vụ là dấu chỉ của tình yêu. Các tông đồ tranh luận xem “ai là
người lớn nhất trong họ” nếu thầy không còn nữa. Và đây là đầu mối chia rẽ và
bất hoà. Đức Giêsu dạy các tông đồ: “ai muốn làm lớn thì phải là người phục
vụ”. Đức Giêsu đã đến như một người tôi tớ. Môn đệ của Ngài cũng được mời gọi
nên giống Ngài.
Chuyện kể rằng: Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian,
nhưng anh ta quyến luyến gia đình và bảo rằng: "Vợ con tôi quá thương yêu
tôi, nên họ không bằng lòng cho tôi thoát tục".
Nghe nói thế, vị đạo sĩ muốn cho anh ta biết sự thật nên đã dạy
cho anh một kỹ thuật giả chết. Sau một thời gian học thuần thục, vị đạo sĩ bảo
anh hãy áp dụng kỹ thuật này khi về đến nhà. Và quả thật, anh ta đã thực hành
bài học cách tuyệt hảo để nhắm mắt xuôi tay, nhưng vẫn còn nghe được mọi tiếng
khóc than của vợ con và thân nhân, bạn bè.
Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng thân quyến. Sau những
giây phút tưởng niệm người quá cố, ông nghiêm nghị bảo thân nhân đang khóc
thương người đã từ biệt cõi đời rằng: "Tôi có bí quyết để cứu sống anh ta,
nếu có ai sẵn lòng chết thay cho anh".
Anh chàng giả chết ngạc nhiên khi nghe mọi người trong gia đình
nêu ra mọi lý do để biện minh là mình cần phải sống. Càng ngạc nhiên hơn khi
anh nghe người vợ nghĩa thiết của mình tóm lược mọi lý lẽ trên bằng một lời quả
quyết: "Tôi nghĩ không ai cần chết thay cho chồng tôi. Không có anh ta,
chúng tôi vẫn có thể làm lụng để sống".
Tham sống sợ chết là lẽ thường tình của con người. Cho dù có những
người thề sống chết cho nhau nhưng khi đối diện với cái chết, họ cũng tìm trăm
ngàn lý do để hủy lời đoan hứa. Thế nên, là người thường dễ quên lời hứa, dễ
thất hứa, thất tín và thất trung. Con người thường dễ mất uy tín khi những lời
mình nói mà không làm. Thực tế, con người chỉ dễ dàng hứa trong lời nói xuông
mà rất khó thực hiện những lời đã hứa. Nhất là khi phải hy sinh tiền bạc, thời
giờ, công sức, và càng khó hơn khi phải hy sinh tính mạng mình để thực thi chữ
tín trong cuộc sống.
Có biết bao người yêu nhau thật nồng nàn, thề hứa đủ điều nhưng
khi lấy nhau họ lại bỏ quên nhau và sớm quên đi những lời đã hứa cho nhau.
Có biết bao người có chức có quyền chỉ hứa xuông khi tranh cử,
nhưng khi ngồi trên ghế họ chỉ lao vào kiếm tiền và củng cố địa vị của mình mà
bỏ quên lời hứa với nhân dân.
Có biết bao người đã từng hứa có ăn có hưởng, hoạn nạn có nhau
nhưng họ chỉ gần nhau khi thành công và bỏ rơi nhau khi gặp gian nguy.
Chúa Giêsu trong thân phận con người, Ngài cũng cảm thấy đau khổ
vì bị đồ đệ bỏ rơi, người thân quay lưng chống đối. Biết bao lời hứa đã từng
cam kết sẽ uống cạn chén đắng cùng Thầy, sẽ theo Thầy cho đến cùng, nhưng những
lời hứa ấy chỉ như gió thoảng mây bay. Ngài hiểu thật sâu xa tính mỏng dòn của
tình người. Tình người dễ phôi phai. Lòng người dễ thay đồi. Nhưng, dầu vậy,
Ngài vẫn trung thành với tình yêu của mình. Ngài vượt qua mọi trở ngại để dấn thân
cho người mình yêu. Ngài mãi mãi trung tín trong tình yêu vì đã yêu thì “yêu
cho đến cùng”.
Chúa Giêsu Ngài biết những kẻ mà Ngài thi ân sẽ quay lưng chống
lại Ngài. Ngài cũng biết rõ các đồ đệ sẽ bỏ rơi Ngài trong lúc nguy nan. Ngài
cũng biết số đông theo Ngài sẽ dừng lại để một mình Ngài vác thập giá cô đơn
trên đường lên Núi Sọ. Thế nhưng, Ngài vẫn can trường, vẫn bước đi cho đến cùng
của tình yêu tự hiến hy sinh.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một
tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với
đàn hát, với trải lá lót đường ...; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời
thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa
Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn
trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà
Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Vâng, Chúa Giêsu Ngài đã bình thản trước mọi biến cố vì Ngài muốn
để thánh ý Chúa Cha nên trọn. Ngài biết những cam go trước mắt, thế nhưng, Ngài
vẫn mạnh dạn tiến lên Giê-ru-sa-lem. Ngài biết ở đó bản án đang chờ Ngài, nhưng
“Giờ” để biểu lộ tình yêu đã tới. Giờ đã điểm. Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để
thi hành thánh ý Chúa Cha là cứu độ gian trần. Đây là động lức khiến Ngài can
đảm đối diện khó khăn. Đây cũng là cách nói lên lòng trung thành của Ngài với
thiên ý nhiệm màu.
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám
hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người,
cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy
luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành
cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành
cho chúng ta. Amen
Qua bài thương khó vừa nghe, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nỗi cô
đơn và sự im lặng của Chúa Giêsu.
Trước hết là nỗi cô đơn. Càng về cuối đời, Chúa Giêsu càng bị lẻ
loi cô đơn. Dân chúng và những người thân đều từ bỏ Ngài và giờ đây, cả các môn
đệ cũng từ bỏ Ngài. Chúa Giêsu cô đơn trong vườn Cây Dầu. Ngài lại càng cô đơn
hơn nữa trong lúc bị bắt bởi vì các môn đệ đều trốn chạy. Trước thượng hội
đồng, Chúa Giêsu chẳng có một ai để bênh vực mà chỉ toàn thấy những kẻ cáo gian
Ngài. Trong khi đó, ở bên ngoài, ông Phêrô đã chối Chúa. Ngay cả Đức Chúa Cha
xem ra cũng bỏ rơi Ngài, chỉ còn lại mấy người phụ nữ trung thành, nhưng họ
cũng chỉ đứng tự đàng xa.
Tiếp đến là sự im lặng của Chúa Giêsu. Trước toà án phần đạo, Chúa
Giêsu chỉ trả lời vị thượng tế có một lần. Trước toà án phần đời, Chúa Giêsu
chỉ trả lời Philatô có một lần. Và trên cây thập giá, theo sự ghi nhạn của
thánh Marcô, Chúa Giêsu cũng chỉ thốt lên có một lời.
Thế nhưng sự cô đơn và im lặng của Chúa Giêsu đã đứa tới một hậu
quả thật bất ngờ, đó là lời tuyên xưng của viên đội trưởng Lamã: Quả thực người
này là Con Thiên Chúa. Với lời tường thuật đơn sơ và mộc mạc, thánh Marcô cho
chúng ta thấy: Chân lý tự bản chất vốn giản dị, chứ không màu mè phức tạp.
Không phải cứ nói nhiều, nói hay mà người ta có thể làm sáng tỏ chân lý. Cũng
như không phải cứ sơn phết cho thật màu mè mà người ta tạo được một bức hoạ
tuyệt vời. Chúng ta sẽ lầm khi nghĩ rằng với những sách vở và những bài thuyết
trình sâu sắc, hấp dẫn với những công trình khảo cứu hoàn bị, chúng ta có thể
đem đến cho mọi người tất cả những câu trả lời về Đức Kitô.
Không. Đức Kitô không phải là một mớ những lý thuyết, những tư
tưởng, nhưng Ngài là một con người mà chúng ta cần phải gặp gỡ, phải chiêm
ngưỡng và phải tìm hiểu để rồi dần dần khám phá ra những châh lý về Ngài.
Từ đó chúng ta đi tới một kết luận cụ thể như thế này. Đức Kitô
không phải chỉ là một cái gì chúng ta nói, chúng ta rao giảng, chúng ta tuyên
xưng ngoài môi ngoài miệng, nhưng Ngài cần phải được bén rễ sâu trong tâm hồn
và trong cuộc đời chúng ta.
Điều đó có nghĩa là chúng ta có bổn phận phải sống đức tin hay mói
một cách cụ thể hơn, chúng ta có bổn phận phải sống gắn bó mật thiết với Đức
Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng Ngài bằng hành động và bằng cả cuộc đời chúng
ta.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Con Thiên Chúa chẳng những đã chia sẻ phận người, Ngài còn chia sẻ
thân phận của những người yếu thế. Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn và cái chết của
Đức Giêsu, chúng ta không thấy đó là chuyện xa xôi.
Trên thế giới mỗi ngày, có bao Giêsu vô tội bị kết án bất công, bị
làm nhục, bị khinh khi, bị hành hạ và đối xử tàn tệ cho đến chết.
Đức Giêsu đứng về phía những người cùng khổ. Ngài vác thánh giá
của họ, như họ và với họ.
Chính vì thế khi vác thánh giá theo chân Đức Giêsu, chúng ta cũng
muốn chia sẻ thánh giá của cả nhân loại.
Đức Giêsu còn bị đóng đinh cho đến tận thế, ngày nào còn một người
anh chị em của Ngài khốn khổ.
Đi đàng thánh giá với Chúa trong mùa Chay giúp ta nhậy cảm hơn với
thánh giá của tha nhân, và nhận ra mình có trách nhiệm trước mọi cuộc khổ nạn
đang diễn ra trên toàn cầu.
Đức Giêsu đã xuống tận cùng vực thẳm của phận người. Ngài muốn
gieo hy vọng cho những ai thất vọng. Ngài đem lại ý nghĩa cho những khổ đau vô
lý. Ngài đã đón nhận tất cả với tình yêu thứ tha, nhờ đó thánh giá nở hoa, vực
thẳm tràn trề sức sống.
Khi chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Chúa, ta thấy mình chẳng phải là
kẻ đứng ngoài cuộc.
Tôi thấy mình có nét của Giuđa, một người được chọn, được yêu,
được theo Thầy rất gần. Bao phép lạ đã chứng kiến, bao lời vàng ngọc đã được
nghe. Tất cả vỡ tan khi Giuđa bán Thầy bằng nụ hôn giả dối.
Tôi thấy mình có nét giống Phêrô. Ông tự hào về tình yêu của mình
đối với Thầy để rồi dễ dàng chối Thầy trước một cô đầy tớ. Tiếng gà nào khiến
Phêrô chợt tỉnh. Ánh mắt thứ tha nào của Thầy khiến Phêrô oà khóc. Vẫn có những
tiếng gà và ánh mắt Chúa trong đời tôi...
Tôi thấy mình có nét giống Philatô. Ông bị trói chặt bởi nỗi sợ:
sợ dân nổi loạn, sợ mất chức. Ông bị mất tự do vì áp lực của đám đông thét gào.
Ông không đủ bản lãnh để tha một người vô tội.
Tôi cũng thấy mình có nét giống Hêrôđê, tò mò, háo hức, trông chờ
Đức Giêsu làm phép lạ. Nhưng ông mau chóng thất vọng khi thấy Ngài lặng thinh.
Ông buồn vì không gặp một Giêsu như ông mong ước.
Nhưng cuộc khổ nạn cũng có những điểm sáng.
Simon vác đỡ thập giá Đức Giêsu, các bà theo sau than khóc.
Khuôn mặt rực rỡ hơn cả lại là người trộm lành. Một người bị đóng
đinh tin vào một người bị đóng đinh khác. Anh tin Đức Giêsu vô tội và anh xin
Ngài nhớ đến anh. Lòng tin khiến anh trở nên người được hưởng ơn cứu độ.
"Hôm nay, anh sẽ ở với tôi trên thiên đàng": Câu này cũng phản ánh
niềm tin và hy vọng của Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Pascal viết: "Đức Kitô còn hấp hối cho đến ngày tận
thế." Bạn nghĩ gì về câu nói này? Bạn có cảm thấy cơn hấp hối của phần lớn
nhân loại hôm nay không?
Trong các nỗi đau của Đức Giêsu chịu khổ nạn, bạn thấy nỗi đau nào
lớn nhất? Tại sao?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, vì Chúa đã bẻ tấm bánh trao cho chúng con, xin cho
những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức
đối diện với những khó khăn gay gắt của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự
thật.
Vì Chúa bị làm nhục và nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được
tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật
được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo
lực.
Vì Chúa dang tay chết trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời,
con người nối lại mối dây liên đới với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết
đón lấy đời thường với tâm hồn thanh thản bình an. Amen.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thương Khó đã bắt đầu. Chúa
Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho
loài người.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của
đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: "Hoan hô Con Vua Đavit"
có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn
Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc
Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân
chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tổng trấn Philatô
trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo! Đóng đinh
nó vào Thập giá!"
Thưa anh chị em,
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều
khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều
đó còn khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực
cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo
tặc Baraba mà thôi.
Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc
chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không
muốn đến. Con đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở
trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài
hấp hối trên thập giá.
Thử hỏi: nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án Chúa
Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào? Và với thái độ nào? Phải thú nhận
rằng, tôi không dễ gì làm như ông Simon thành Syrênê được đâu. Ông đã vác thập
giá đỡ cho Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi không thể đứng
về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối Chúa, hoặc là nhóm
tông đồ trốn chạy, hoặc là Philatô lên án người vô tội, hoặc là đám quân lính
đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi cho thấy rõ rằng
tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can đảm bênh vực công
lý và dễ trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy,
nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ thể, tương tự hành động của
Giuđa. Thật vậy, chúng ta không ai vô tội trước cái chết của con Thiên Chúa.
Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận thế.
Anh chị em thân mến,
Trong những ngày thánh nầy, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm
rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy bước theo Chúa qua từng chặng đường, từ
toà đạo đến toà đời, và hãy ở lại thật lâu trên Núi Sọ. Đừng theo Chúa như một
người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Chúa chịu là vì chúng ta và cho
chúng ta. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần
và biến đổi chúng ta.
Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống
tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau
khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một
tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với Cha và với nhân loại. Chỉ
có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Vậy chúng ta hãy cảm nếm
thật sâu nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng đừng quên nhận
ra tình yêu bao dung nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài. Ước gì chúng ta có thể
đón nhận những gai góc của cuộc đời với thái độ của Chúa Giêsu. Càng suy nghĩ
về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu
thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembrandt,
người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh "ba thập giá".
Nhìn vào tác phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa
thập giá của hai người bất lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách
ngạo nghễ. Dưới chân thập giá là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ
hận thù oán ghét... tác giả như muốn nói rằng: không chừa một người nào mà
không dính líu vào việc đóng đinh Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt gần như mất
hút trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ để cho các nhà chuyên môn chuẩn
đoán rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt (tác giả của bức tranh).
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự
vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembrandt lại chen vào khuôn mặt của mình? Câu
trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự hiện diện của
tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính ông. Rembrandt
muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc treo Chúa Giêsu
lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói rằng, mọi người
đều được dự phần vào việc đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá...
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây 2000
năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để từ chối trách nhiệm của ông.
Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh
sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của
Đức Kitô trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm, bởi vì chúng ta không thể
hiểu được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đau đớn như
thế? Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã
thực sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu
đóng đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của
chúng ta mà Ngài đã phải treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày nay, cho
dầu cách xa 2000 năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một sỉ vả hoặc
chính một cái đinh đóng vào thân thể Ngài...
Nhưng Chúa Giêsu mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá, nơi Ngài đã
bị treo lên trong tủi nhục đau đớn. Nhìn lên thập giá của Ngài để thấy được án
phạt của tội lỗi. Nhìn lên thánh giá của Ngài để thấy được tình yêu bao la của
Thiên Chúa. Phải, bên kia sự độc ác của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta
nhìn thấy được tình yêu của Thiên Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một
tình yêu vượt lên trên mọi tư tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng
của chúng ta.
Nhìn lên thập giá Chúa không phải để thất vọng vì gánh nặng của
tội lỗi, mà trái lại để cảm nếm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn
được phấn khởi, tin yêu hơn...
Nhìn lên thập giá Chúa để cảm nếm được ơn tha thứ của Ngài. Như
thế, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ hơn đối với người anh
em của chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha thứ của Chúa, chúng ta càng
được mời gọi để tha thứ nhiều hơn. Càng tha thứ nhiều hơn, chúng ta càng dễ cảm
nếm được ơn tha thứ của Chúa hơn.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút
vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán
tụng của đám đông, và chính Ngài cũng muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm
tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò
reo vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách
làm vua của Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương
khó trong thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc
Ngài được tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi,
điều đó khó hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy
lời nói và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón
nhận mọi gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên
những nỗi đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình
Yêu, Tình Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho
khổ đau sinh trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết
thế nào là bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô
đơn và giết chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ
với rất nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi
Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ
mọi sự Ngài chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá
của Chúa hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người
khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì
đánh động bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao
Ngài tự nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt
khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn
lần khôn ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả
chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà
không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự
yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm
máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ của – R. Veritas)
Một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của danh hoạ Rembradt,
người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đó là bức tranh “Ba Thập Giá”. Nhìn vào tác
phẩm, ai cũng bị thu hút ngay vào trung tâm: giữa thập giá của hai người bất
lương, thập giá của Chúa Giêsu trổi lên một cách ngạo nghễ. Dưới chân thập giá
là cả một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ hận thù oán ghét… Tác giả như
muốn nói rằng: không trừ một người nào mà không dính líu vào việc đóng đinh
Chúa Giêsu.
Nhìn kỹ vào đám đông, người ta thấy có một gương mặt như mất hút
trong bóng tối, nhưng một vài nét cũng đủ cho các nhà chuyên môn chuẩn đoán
rằng đó chính là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt, tác giả của bức tranh này.
Tại sao giữa đám đông của những kẻ đằng đằng sát khí khi tham dự
vào cuộc thảm sát Chúa Giêsu, Rembradt, nhà danh hoạ lại chen vào khuôn mặt của
mình?
Câu trả lời duy nhất mà người ta có thể đưa ra để giải thích về sự
hiện diện của tác giả giữa đám người lý hình: đó là ý thức tội lỗi của chính
ông. Rembrandt muốn thú nhận rằng: chính tội lỗi của ông đã đóng góp vào việc
treo Chúa Giêsu lên thập giá. Và qua sự có mặt của ông, tác giả cũng muốn nói
với mỗi người chiêm ngắm bức tranh rằng, họ cũng dự phần vào việc đóng đinh
Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Dưới cái nhìn lịch sử thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên
thập giá là hành động tội ác của những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn
năm. Phêrô đã chối bỏ Ngài. Philatô đã rửa tay để chối bỏ trách nhiệm của ông.
Những người Do Thái đã cuồng tín kêu gào đóng đinh Ngài vào thập giá. Các binh
sĩ La Mã đã đánh đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài lên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của người có niềm tin, thì cái chết của Chúa
Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm. Mầu nhiệm bởi vì chúng ta không thể hiểu
được tại sao Con Một Thiên Chúa đã phải trải qua một thân phận đớn đau như thế?
Mầu nhiệm, bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực
sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng
đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là chính do tội lỗi của chúng ta
mà Ngài đã phải bị treo trên thập giá. Tội lỗi của chúng ta ngày này, cho dù
cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò, một xỉ vả hoặc
chính là một cái đinh đóng vào thân thể Ngài…
Thử hỏi, nếu tôi là người đương thời có liên quan đến vụ án của
Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào và với thái độ nào?
Phải thú nhận rằng, tôi không dễ gì làm được như ông Simon thành
Syrênê đã vác đỡ thập giá Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội quả quyết rằng, tôi
không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô chối
Chúa, hoặc là nhóm tông đồ trốn chạy, hoặc là Phalatô lên án người vô tội, hoặc
là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản thân tôi
cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ đứng về phe kẻ mạnh thế, không dám can
đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng cũng như
khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành động cụ
thể và khi gặp nghịch cảnh, tương tự hành động của Giuđa! Chúng ta không ai vô
tội trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến ngày tận
thế.
Thưa anh chị em, với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt
đầu. Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn
cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung
hô của đám đông quần chúng nô nức phất cao cành lá “hoan hô Con Vua Đavit” có
vẻ một cuộc toàn thắng vang dội. Thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa
mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì
Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của quần chúng đã chất chứa
một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn Philatô, trong tiếng kêu
gào vào những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó
vào thập giá!”.
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều
khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ
dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án,
điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh
vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên
đạo tặc Baraba. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì
chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình
không muốn đến. Còn đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có
mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành đô Giêrusalem và cũng không
được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta phải tìm thời giờ đọc lại
chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động
của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa,
chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản
bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái
chết… Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của
Đức Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ
đau có giá trị cứu độ.
Càng suy niệm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, chúng ta sẽ thấy
mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng
thánh giá của người khác hơn.
Hôm nay chúng ta cùng với Giáo Hội bước vào Tuần Thánh được khai
mạc bằng nghi thức làm phép và kiệu lá, tưởng niệm Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem được người Do Thái tung hô: Hoan hô con vua Davit! Trong suốt Tuần
Thánh cũng là tuần lễ Giáo Hội theo sát Đức Giêsu trong những ngày cuối cùng
của Ngài cho đến khi bước vào cuộc khổ nạn. Khung cảnh ngày lễ hôm nay mang màu
sác tương phản, lúc đầu lễ là một cuộc rước tưng bừng theo hình ảnh cuộc rước
của dân Do Thái ngày xưa khi Đức Giêsu công khai vào thành Giêrusalem trong tư
cách là Vua Mesia, ngay sau đó các bài đọc và bài Tin Mừng lại kể về cuộc
thương khó của Người. Trong trình thuật cuộc thương khó cho thấy những người Do
Thái đồng hương của Chúa, họ tìm mọi cách để loại trừ Đức Giêsu vì họ không tin
Ngài là Đấng Mesia - Con Thiên Chúa, trong khi đó chứng kiến cuộc khổ nạn của
Ngài thì những người dân ngoại lại tin nhận Ngài là người công chính.
Những người Do Thái họ muốn loại trừ Chúa Giêsu vì thấy Đức Giêsu
không như họ nghĩ và Ngài đã không đáp ứng những điều họ muốn, những người này
không chấp nhận một vị Thiên Chúa mà lại khiêm nhu mang gương mặt của một người
đầy tớ như bài đọc thứ nhất mô tả. Trong khi họ chờ đợi một Đấng Mesia oai
phong, bách chiến bách thắng, thì Isaia lại nói về một tôi tớ khiêm hạ, đưa
lưng cho kẻ đánh mình, và đưa má cho kẻ giật râu, không tránh né những lời nhạo
cười phỉ nhổ.
Hình ảnh người tôi tớ của Thiên Chúa đã ứng nghiệm nơi Đức Giêsu,
Đấng đã đến và sống theo tinh thần của một người tôi tớ phục vụ, và cư xử nhân
từ tha thứ, trong khi đó người Do Thái lại muốn một Thiên Chúa phảỉ trừng phạt
hết những kẻ mà họ cho xấu xa, như quân La Mã để đem lại sự độc lập và thịnh
vượng cho đất nước, họ không chấp nhận Đức Giêsu giao du tiếp xúc với người thu
thuế và tội lỗi, họ muốn một Thiên Chúa phải đáp ứng ngay lập tức những thứ họ
cần. Chính vì Đức Giêsu đã không như họ mong đợi, nên những người Do Thái đã
muốn mượn tay Philatô để loại trừ Ngài.
Để thực hiện ý đồ này, những người lãnh đạo Do Thái đã không ngần
ngại vu khống bịa chuyện, xuyên tạc để có cớ lên án Chúa Giêsu. Những người Do
Thái cho là Chúa Giêsu nói phạm thượng khi Ngài xưng mình là Con Thiên Chúa, là
Đấng đến từ Thiên Chúa và làm những việc của Thiên Chúa, họ cho rằng Chúa Giêsu
lộng ngôn khi dám tuyên bố tha tội cho người mù và người bại liệt, và là người
vô đạo khi vi phạm trầm trọng luật nghỉ việc ngày Sabat. Từ những xung khắc ban
đầu hoàn toàn chỉ là những vấn đề liên quan đến niềm tin tôn giáo và những cáo
buộc về tôn giáo tại dinh Caipha, thì sáng hôm sau, vì nhất quyết loại trừ Chúa
Giêsu, những người Do Thái đã dẫn Chúa Giêsu đến dinh Philatô và bịa ra những
vấn đề chính trị xã hội để cáo buộc Ngài, và vu cho Ngài như là một tội phạm
chính trị: Tên này đã xúi dân làm loại, đã tự xưng mình là vua, đã ngăn cản dân
chúng nộp thuế cho hoàng đế La-mã.
Bài tường thuật cũng cho thấy, Chúa Giêsu đã trở thành nạn nhân
của con người và trở thành trò chơi cho các thế lực và như quả bóng trên sân
chính trị của con người. Tất cả những việc làm vì yêu thương của Chúa đối với
dân chúng, thì giờ đây lại bị coi như là những thứ để họ đùa cợt, trong khi
quan Philatô không tìm ra tội gì nơi Chúa Giêsu thì những người Do Thái lại đòi
giết Ngài, Philatô muốn phủi trách nhiệm của mình không chỉ bằng việc rửa tay
để cho rằng mình là người vô can, mà ông còn chuyển giao Đức Giêsu cho vua
Hêrôđê để khỏi mang trách nhiệm. Vua Hêrôđê, đùa cợt coi thường và còn thách
thức Chúa Giêsu làm vài phép lạ để xem cho vui, và khi không được như ý muốn,
thì ông cho rằng Chúa Giêsu là một người điên và trả lại cho Hêrôđê. Mặc dù
việc làm này cho thấy Chúa Giêsu trở thành như quả bóng bị đá qua đá lại giữa
những người có thế lực, như Thánh Luca lại cho thấy, nhờ Chúa Giêsu mà Hêrôđê
và Philatô đã trở nên thân thiết với nhau xóa bỏ được sự thù hằn đã lâu.
Từ sự căm thù, mà những thượng tế và luật sĩ đã cố tình muốn đưa
Đức Giêsu đến cái chết, mặc dù Philatô đã mượn cả Hêrôđê để cho thấy Chúa Giêsu
là người vô tội, nhưng các thượng tế và luật sĩ vẫn muốn loại trừ Ngài, và đánh
đổi Ngài để lấy một tên trộm cướp giết người tên là Baraba. Cuối cùng Philatô
cũng phải chiều theo ý họ, giao Đức Giêsu vào tay họ để họ thỏa mãn cái ác của
mình và đem đi đóng đinh. Kế hoạch của người Do Thái đến đây đã thành công, kẻ
mà họ muốn loại trừ đã ở trong tay họ, cái ác đã thắng thế và càng ngày càng đi
đến tột cùng, họ điên cuồng gào thét, họ hả hê thỏa mãn vì thành công của mình
là đã loại trừ được Đức Giêsu bằng việc đóng đinh Ngài vào thập giá và đứng
dưới chân thập giá để nhạo cười thách thức Người: nếu ông là con Thiên Chúa,
thì hãy xuống khỏi thập giá để chúng tôi tin.
Còn về phía Chúa Giêsu, Ngài đã im lặng và đón nhận tất cả những
sự độc ác và gian dối mà con người đang trút xuống trên Ngài, với lòng tin vào
quyền năng và sự chiến thắng của sự thiện trên sự ác, của Thiên Chúa trên ma
quỷ, của tình yêu thương trên hận thù. Trên cây thập giá khi mà tay chân bị
đóng chặt vào cây gỗ, đau đớn đến tột cùng vì sư phản bội của các môn đệ, sự
bội bạc tráo trở vô ơn của dân chúng, và sự độc ác dã man của con người, Chúa
Giêsu đã hướng về Thiên Chúa Cha để xin Thiên Chúa Cha tha thứ tội lỗi cho nhân
loại cho những người gây ra cái chết cho mình, cho những kẻ đang nhạo cười
Người: Lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết việc họ làm. Chính khi
ở trên cây thập giá Chúa Giêsu đã làm cho tình yêu thương trổ sinh hoa trái là
sự tha thứ, và chính lúc bị treo, bị mọi người từ chối, thì viên sĩ quan người
Rôma lại nhận ra kẻ tử tội mà ông vừa mới hành hình là Người Công Chính, là Con
Thiên Chúa. Viên sĩ quan này đã tin vì đã chứng kiến từ đầu của bản án và thấy
ở nơi Đức Giêsu sự nhân từ và tha thứ, điều mà ông chưa bao giờ thấy ở nơi các
tử tội khác.
Thưa quý ông bà và anh chị em,
Không phải chỉ có người Do Thái ngày xưa họ muốn loại trừ Chúa
Giêsu, mà ngày nay thế giới và con người cũng vẫn đang muốn tìm mọi cách để
loại trừ Ngài. Trong Tông Thư Cánh cửa Đức tin, Đức Thánh Cha Benedictô cũng
cho thấy thế giới ngày hôm nay vẫn đang tìm cách loại trừ Thiên Chúa ra khỏi
cuộc sống, ra khỏi thế giới và ra khỏi tâm hồn họ. Con người ngày nay dường như
họ sợ Thiên Chúa ngăn cản lối sống buông thả dễ dãi của họ, họ sơ Thiên Chúa
đòi họ phải sống nghèo khó thay vì chạy theo lối sống vật chất hưởng thụ, họ sợ
Thiên Chúa đòi họ phải tha thứ đến bảy mươi lần bảy thay vì trả thù trả đũa,
cấm vận, và người ta không muốn chấp nhận một Thiên Chúa đòi con người phải từ
bỏ phải hy sinh và dám sống theo ngài, chính vì thế mà người ta tìm cách loại
trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống họ.
Không chỉ những người vô thần hoặc thế giới đang tìm cách loại trừ
Thiên Chúa, mà ngay những người mang danh là Kitô hữu, cũng đang xa rời Ngài,
vì cho rằng Đức Kitô gây cản trở cho tự do của họ. Chính vì thế, nhiều người
tín hữu ngày nay mang danh là Kitô hữu nhưng lại không thực hành niềm tin của
mình, không hiểu biết về Thiên Chúa và không yêu mến Ngài, và cũng không có
Chuá trong tâm hồn, vì nhiều người đã lười biếng không đón nhận Ngài vào tâm
hồn, không muốn để cho lời Ngài hướng dẫn mình, họ sống một đời sống tôn giáo
khô khan, không tham dự nghi lễ hoặc chỉ tham dự một cách hời hợi cho qua lần.
Chiêm ngắm cuộc thương khó của Chúa hôm nay, mỗi người hãy tự đặt
cho mình cầu hỏi: tôi có còn tin thật Đức Giêsu là Con Thiên Chúa hay không và
tôi sẽ phải làm gì để tuyên xưng và diễn tả đức tin ấy trong cuộc sống hiện tại
của tôi?
Cầu chúc cho mọi người có những ngày Tuần Thánh thật sốt sáng,
theo sát Đức Giêsu trên con đường yêu thương và dành những phút thinh lặng
trong ngày để chiêm ngắm về một tình yêu đến cùng mà Chúa dành cho mỗi người
chúng ta. Amen
Thời gian nào cũng là thời gian. Nhưng không phải thời gian nào
cũng giống thời gian nào. Mỗi người sẽ trải qua những giây phút cực kỳ quan
trọng. Đức Giêsu đã biết trước những giây phút đó. Cuối đời Người là một chuỗi
vinh nhục.
TÌM MỘT CON ĐƯỜNG.
Dù khi vinh quang vào thành Giêrusalem hay tơi tả dưới làn mưa
roi, Đức Giêsu chỉ biết vâng theo thánh ý Chúa Cha mà thôi. Đó là con đường dẫn
tới vinh quang. Con đường phục vụ luôn sáng chói giữa những tương quan chằng
chịt và biến cố bất ngờ. Tương quan trần gian thật mỏng manh. Có ai đáng tin
cậy hơn các môn đệ? Thế mà ông Phêrô "chối Chúa trước mặt mọi người"
(Mt 26,71). Giuđa "nộp Đức Giêsu." (Mt 26,16.48) "Các môn đệ bỏ
Người mà chạy trốn hết" (Mt 26,56). Cháy nhà mới ra mặt chuột! Nhưng Đức
Giêsu không lệ thuộc vào con người dòn mỏng. Chỗ dựa không phải là con người.
Sức mạnh cũng không phải là gươm giáo gậy gộc, nhưng là "Cha Thầy"
với "mười hai đạo binh thiên thần" (Mt 26,53) Bởi vậy, Người mới có
thể đứng vững trước bao thử thách. Qua bao đoạn đường gập ghềnh, Người vẫn
thẳng bước, vì mục tiêu đã được xác định dứt khoát.
Mục tiêu đó chính là vinh quang Thiên Chúa. Có lúc vinh danh Chúa
Cha và Chúa Con không tách lìa. Chính lúc vào thành Giêrusalem, Đức Giêsu tưởng
như đã lên chín tầng mây với Chúa Cha khi dân chúng tung hô: "Hoan Hô Con
vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng
trời." (Mt 21, 9) Nhưng Người cũng thấy vinh quang Chúa Cha tràn ngập ngay
cả lúc nghe những lời nhục mạ: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng
tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26, 68) hay khi "lính của tổng trấn
quì gối trước mặt Người mà nhạo rằng: 'Vạn tuế Đức Vua dân Do thái!'" (Mt
26,29) Một nguồn bình an khôn tả khỏa lấp con tim ngay giữa cảnh "kẻ qua
người lại đều nhục mạ Người." (Mt 27,39) Vinh quang vẫn lóe lên ngay trong
đêm đen hận thù: "Nếu mi là Con Thiên Chúa… Hắn là Vua Ítraen! Hắn đã nói:
'Ta là Con Thiên Chúa!'" (Mt 27, 40.42.43) Đã đến lúc Cha làm vinh danh
Con. Đứng trước các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng, Người vẫn khẳng
quyết mình "là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa." (Mt 26,65) và trước mặt
tổng trấn Philatô, Người xác nhận mình là "vua dân Do thái." (Mt
27,11) Đứng giữa đám đông khát máu đang gào thét: "Đóng đinh nó vào thập
giá!" (Mt 27,23.25.26), Đức Giêsu vẫn nghiễm nhiên vươn lên như Đấng
"Kitô" (Mt 27,22)
Tất cả xảy ra không ngoài "ý cha" (Mt 26,39). Những lúc
"làm thinh" (Mt 26,63) hay "không trả lời một tiếng" (Mt
27,12) là những lúc Đức Giêsu kiên cường bất khuất trước cường lực đối phương.
Người như chìm sâu trong tình yêu Thiên Chúa để tìm một lối thoát cho những bế
tắc hiện tại. Càng nhìn lên cao, Người càng không thấy lý do phải đối đầu với
những toan tính thấp hèn như thế. Chấp nhận cái chết nhục nhã để thi hành thánh
ý Cha, chứ không chịu uốn cong ba tấc lưỡi để tìm đường chạy trốn khỏi định
mệnh. Nếu chối bỏ sự thật về mình, chắc chắn Người đã không khơi bùng ngọn lửa
căm hờn trong lòng các thượng tế và dân chúng. Nhưng Đức Giêsu đã không hèn
nhát đi tìm một con đường dễ dãi như thế. Ngay cả khi giang tay trên thập giá,
Người cũng không chấp nhận những thách thức rẻ tiền để chứng minh mình là
"Con Thiên Chúa" (Mt 27,43). Không thể tìm thấy chân lý nơi những ồn
ào phức tạp đó. Chính trong thinh lặng và cầu nguyện, Đức Giêsu đã khám phá
được tất cả nét hào hùng và dịu ngọt của tình yêu Thiên Chúa.
Tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, Đức Giêsu đã có thể mạc khải
mầu nhiệm Thiên Chúa tình yêu ngay giữa lúc tâm hồn đang cay đắng vì cảnh Giuđa
"nộp Người" (Mt 26,48) và "tất cả anh em sẽ vấp ngã vì
Thầy." (Mt 26,31) Chính khi mọi tương giao nhân loại bị bứt tung, Đức
Giêsu lại mạc khải "đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người
được tha tội." (Mt 26,28) Máu Thầy đem lại sự giải thoát cho toàn thể nhân
loại. Tất cả kế hoạch thâm hiểm của con người vô tình đã làm cho máu Thầy đổ ra
theo đúng chương trình tình yêu của Thiên Chúa.
Khám phá và chấp nhận tất cả chương trình tình yêu Thiên Chúa đòi
nhiều sáng suốt và can đảm. Chính vì vậy, trước khi nộp mình vào tay các quân
lính thượng tế và kỳ mục, Đức Giêsu đã cầu nguyện ba lần trong vườn Ghếtsêmani.
Trước giờ phút cực kỳ quan trọng đó, các môn đệ vẫn vô tình như đã vô tình từ
trước đến nay. Lúc nào họ cũng chỉ quan tâm đến quyền lợi riêng. Họ có thể dùng
chính những mỹ từ thân thương và cử chỉ âu yếm để che dấu sự phản bội (x. Mt
26,49). Những dấu chỉ tình yêu đó và những lời khẳng quyết "không chối
Thầy" (Mt 26,35) đều mất hết ý nghĩa. Có nhiều lúc ngôn từ không mang nổi
nội dung diễn đạt. Nhưng nếu cố tình phản bội nội dung ngôn từ, con người sẽ
phải trả giá. Sau khi nuốt lời hứa, ông Phêrô "ra ngoài, khóc lóc thảm
thiết." (Mt 26,75) Giuđa cũng hối hận không kém: "Tôi đã phạm tội nộp
người vô tội, khiến Người phải chết oan." (Mt 27,4) rồi "Giuđa ném số
bạc vào Đền Thờ và ra đi thắt cổ." (Mt 27,5) Hối hận đến thế vẫn chưa đủ
sao? Tại sao phải thắt cổ mới xứng với việc đền bù? Thật là một mầu nhiệm.
Giuđa đã trả giá quá mắc! Chúa có đòi vậy đâu!
NGƯỜI MÔN ĐỆ CHÂN CHÍNH.
Điều Chúa đòi là người môn đệ phải chân thành với chính mình. Sau
khi chối Chúa, ông Phêrô đã "khóc lóc thảm thiết" vì thấy mình quá
yếu đuối. Còn ông Giuđa không hề khóc lóc, chỉ giận dữ lên án chính mình và tự
xử cho mình, không kiên nhẫn đợi giây phút trở về với Cha nhân lành. Từ chỗ ồn
ào hăm hở trả giá Thầy, ông đã đụng đầu một cái tôi rối loạn đến nỗi không còn
nhận ra sự thật về mình. Muốn tránh được tai họa thảm khốc đó, "trên hết
trong xã hội tục hóa ngày nay, cần phải có một mục tiêu rõ ràng và một ý chí
kiên vững, trực tiếp phát sinh từ những nguồn mạch Phúc âm chân chính."
(ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 18/03/2002) Sống với Thầy suốt một quãng đường
dài, nhưng ông Giuđa không hề một lần kinh ngạc về thực tại trước mắt. Thói
quen và lối sống hằng ngày đã bưng mắt không cho người môn đệ thấy sự thật về
Thầy. Mọi sự đương nhiên phải như thế!
Thực tế mọi sự chẳng sẵn sàng như ta tưởng. Chính Thầy cũng không
hiện diện đấy như một thực thể nằm sẵn trong tầm tay. Không coi Thầy như một
giá trị tuyệt đối, không thể khám phá Thầy như một chân lý giải thoát. Nhất là
trong thế giới ngày càng xa lạ với Thiên Chúa hôm nay, con người không biết
mình là ai và tại sao mình sống. Triết lý sẽ giúp con người khám phá ra chiều
kích sâu xa đó. Nhưng chỉ "khi triết lý gặp gỡ Đức Kitô trong Tin Mừng,
thì Tin Mừng thực sự mới bắt đầu lan tỏa khắp thế giới." (ĐGH Gioan Phaolô
II, Zenit: 19/03/2002) Hiện nay, công bố Phúc âm ngày càng gặp nhiều khó khăn
vì hoàn cảnh văn hóa phức tạp (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002). Trong
thế giới quá ồn ào hôm nay con người không còn thời giờ khám phá những giá trị
vô cùng quan trọng và cần thiết cho cuộc sống. Nếu không thấy mình có "bổn
phận nặng nề phải chuyển đạt những giá trị nhân bản, tinh thần và thiêng liêng
cho các thế hệ trẻ," (ĐGH Gioan Phaolô II, Zenit: 19/03/2002) cha mẹ và
nhà giáo sẽ không thể cung cấp cho xã hội tương lai những con người chân chính
và đầy trách nhiệm đối với xã hội.
Chỉ trong xã hội đầy những con người như thế mới có thể loan báo
Tin Mừng về Đức Giêsu như Đấng cứu độ duy nhất cho toàn thể nhân loại.
(Bài Giảng của Đức Cha Bùi Văn Đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật Lễ Lá
năm 2005 cho Giới Trẻ).
Cha phải nói với chúng con những gì trong thánh lễ chiều nay? Cha
đã cầu nguyện rất nhiều, và Chúa đã dạy cha.
Chiều nay, cha mời gọi chúng con cùng với cha, chúng ta hãy quyết
tâm thực hiện điều quan trọng nhất đối với cuộc sống kitô hữu của chúng ta: hãy
chọn Chúa Giêsu giữa nhiều đối tượng, dù Chúa Giêsu chịu đóng đinh, dù Người
chịu treo trên thập giá, Người bị bỏ rơi, dù Người bị sỉ nhục, và bị giết
chết...
Chúa Giêsu vẫn tiếp tục bị sỉ nhục ngày hôm nay; Chúa Giêsu vẫn
tiếp tục bị bôi tro trét trấu trên gương mặt đẫm máu của Người. Chúa Giêsu vẫn
không ngừng bị bôi nhọ cho đến ngày tận thế, bấy giờ không ai có thể bôi nhọ
Người nữa, vì Người trở lại trong vinh quang để phán xét mọi người.
Chúng ta chọn lựa Chúa Giêsu, dù có những tiếng kêu mời khác:
tiếng kêu mời của hưởng thụ và tiện nghi, của lợi nhuận và tiền bạc, tiếng mời
gọi của danh vọng và địa vị, của các loại tình cảm và đam mê. Chính Chúa Giêsu
đã nói với các môn đệ: không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã
chọn các con và đã cắt đặt các con để các con đi và sinh nhiều hoa trái và hoa
trái các con tồn tại (Ga 15, 16).
Khi nói như thế, Chúa Giêsu cố ý dạy chúng ta rằng: chính tình yêu
của Người đi bước trước: Chúa Giệsu yêu chúng ta trước, chứ không phải chúng ta
yêu Người trước. Như lời kinh Tin Kính: vì loài người chúng ta và để cứu rỗi
chúng ta, Người đã từ trời xuống thế, nhập thể trong lòng trinh nữ Maria và đã
làm người. Người đã chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Người đã chết vì
tội lỗi chúng ta như lời Kinh Thánh và như lời thánh Phaolô, Người đã sống lại
cho chúng ta được nên công chính, được cứu độ, được chia sẻ Thần Khí Phục Sinh
của Người, thông phần sự sống thần linh của Người...
Khi nói với các môn đệ không phải các con đã chọn Thầy, Chúa Giêsu
không cố ý nói rằng các con đừng chọn Thầy, đừng theo Thầy. Trái lại Người luôn
mời gọi hãy theo Thầy, hãy từ bỏ mọi sự vác thập giá mà theo Thầy. Và đã có
biết bao nhiêu người trẻ bỏ mọi sự mà theo Người.
Đứng trước những khó khăn, Chúa Giêsu còn cho thấy rõ ràng là phải
chọn lựa, như trường hợp có nhiều người bỏ Chúa Giêsu, nhiều môn đệ nói với
Người: lời này chướng tai quá, ai mà nghe nổi? Bấy giờ Chúa Giêsu đã hỏi nhóm
12: các con cũng muốn bỏ đi hay sao? Và ông Simon Phêrô đã nhanh nhẩu đáp thay
cho nhóm 12: thưa Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đến với ai? Chỉ có Thầy mới có
lời đem lại sự sống đời đời (Ga 6, 67-69).
Các con sẽ nói với Chúa Giêsu như thánh Phêrô: Thưa Thầy, bỏ Thầy
chúng con theo ai? Chỉ theo Thầy, chúng con mới có những lời ban sự sống đời
đời. Các con chọn Chúa Giêsu; Các con có biết rằng chọn Chúa là chọn lời của
Người, chọn Tin Mừng của Người không? Lời của Người vẫn còn chướng tai đối với
nhiều người hôm nay. Giáo huấn của Người, dù rất tiến bộ vẫn bị coi là bảo thủ
đó! Muốn vâng nghe lời Người, đôi lúc các con phải lội ngược dòng sông!
Theo bài tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hôm nay, đám đông
người Do Thái đã bị xúi giục chọn lựa Barraba, và họ đã chọn ông. Còn Chúa
Giêsu, thì họ để cho bị lôi đi đánh đòn, và giết chết. Các con có dám nói ngược
lại với đám đông không? Các con có dám chọn Chúa Giêsu, khi nhiều mãnh lực thế
gian tìm cách loại bỏ Người? Các con có sợ mình lỗi thời khi chọn Chúa Giêsu
không? Có nhiều người, vì sợ lỗi thời mà đã bỏ Chúa. Nhưng tất cả những ai đã
bỏ Chúa rồi sẽ thất vọng, vì thế gian này qua đi, chỉ có Chúa mới tồn tại. Chỉ
có Chúa mới là Tương Lai đích thực của loài người.
Với Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay, Tuần Thánh đã bắt đầu bằng việc Chúa
Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho
loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô Giêrusalem giữa tiếng tung hô của
đám đông nô nức phất cao cành lá “Hoan hô con Vua Đavít” có vẻ giống một cuộc
toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn thương khó mỉa mai
nhất và cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc đời Chúa Giêsu.
Thật vậy, khi cho chúng ta nghe lại cuộc thương khó của Chúa
Giêsu, không phải để gợi lên trong ta niềm thương cảm đau xót, nhưng là muốn
mời gọi chúng ta hãy can đảm bước theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá. Rước
lá đi theo Chúa một vòng quanh nhà thờ hay trong vài giờ là điều dễ. Theo Chúa
giữa lúc Ngài được tung hô, cũng chẳng khó khăn gì. Nhưng theo Chúa khi Ngài bị
mọi người bỏ rơi, điều đó khó hơn nhiều. Tin mừng cho thấy không một ai dám lên
tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích
cho tên đạo tặc Baraba. Bước vào tuần thánh, người tín hữu kytô chúng ta được
mời gọi bước theo Chúa Kytô trên con đường thập giá. Những nẻo đường không phải
lúc nào cũng thuận lợi, êm ái. Vì luôn có đó những thánh giá - đời cũng như
đạo.
Đúng như vậy, bước đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá hôm
nay, cho dù chúng ta không bị đòn vọt, tù tội, không có mão gai, không bị đóng
đinh vào tay chân, không bị lưỡi đòng đâm thâu, nhưng cũng không kém phần khốc
liệt. Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải đối diện với nỗi
đau đớn của sự phản bội, vu khống, bội bạc của những người đang cùng sống với
chúng ta. Thậm chí, có khi sự vô ơn, bội bạc đó còn đến bởi những người thân
yêu nhất của chúng ta, những người cùng chung chăn chung gối, anh chị em trong
một nhà, con cái, bạn bè…
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta
đặt vật chất, danh vọng và thú vui là trên hết, còn ta lại chọn Chúa và đặt
Chúa làm giá trị cao nhất là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta
chỉ muốn hưởng lạc thú thể xác mà không muốn sinh con, người ta dễ dàng “khóc”,
và lớn tiếng kêu gọi “chia sẻ” khi thấy những nạn nhân của sóng thần, thiên
tai, nhưng lại cho phép và cổ võ việc giết những con người vô tội, vô phương
chống cự, đó là những thai nhi còn nằm trong bụng mẹ, hay những người già yếu,
bệnh tật. Còn ta, ta biết cộng tác với Chúa một cách ý thức và trách nhiệm
trong việc sinh và giáo dục những con người mới là ta đang vác thập giá theo
Chúa Kitô.
Đi con đường thập giá của Chúa Giêsu là giữa một thế giới người ta
xem lường gạt và dối trá như đút lót, tham nhũng, hay đơn giản hơn, việc “quay”
bài của các em học sinh là điều bình thường, còn ta, ta sống chân thật chấp
nhận chịu thiệt thòi, mất mát là ta đang vác thập giá theo Chúa Giêsu.
Như vậy, bước vào Tuần thương khó, giáo hội mời gọi mỗi chúng ta
tham dự vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống công chính - đời sống
đòi hỏi khước từ những quyến rũ của những thực tại phù vân, đòi hỏi đóng đinh
tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận hiến thân, hy sinh vì
phần rỗi của mình và của người khác. Tuy nhiên, để có thể bước theo Chúa Giêsu
trên con đường thập giá, chúng ta phải chấp nhận đi ngược với suy nghĩ, với
cách sống của con người hôm nay, và lúc ấy người kitô hữu chúng ta sẽ cảm thấy
mình như cô đơn, như đang đứng bên lề của xã hội.
Thế nhưng, cho dù vậy, chúng ta cũng không được phép nản lòng,
thối chí, bởi vì chúng ta tin rằng, chúng ta không vác thập giá một mình, chúng
ta có Đức Giêsu, người Thầy, người bạn, và là Chúa của chúng ta cùng vác với
chúng ta. Và nếu chúng ta dám đi trọn con đường thập giá với Ngài, thì chắc
chắn, cuối cùng chúng ta cũng sẽ được cùng Ngài hưởng trọn niềm vui của cuộc
Phục Sinh vinh hiển. Xin Chúa Giêsu, Đấng đã từng chịu đau khổ thêm sức cho mỗi
người chúng ta, để chúng ta cùng chết với Chúa nhờ đó mai sau được cùng Người
phục sinh vinh hiển. Amen.
Nét bi đát của cuộc khải hoàn
Để sửa soạn vào thành, Đức Giêsu sai hai môn đệ đến ngôi làng
trước mặt để mượn tạm con lừa. Có lẽ không nơi nào cho thấy sự mâu thuẫn như
trong biến cố này: một bên là Thiên Chúa uy quyền, một bên là "tính con
người". Cả hai đều thể hiện trong con người Đức Giêsu. Đó là sự pha trộn
giữa quyền năng Thiên Chúa và sự lệ thuộc, giữa giàu sang và bần cùng. Và đó
cũng là hiệu quả của mầu nhiệm nhập thể.
Vì lòng yêu thương con người, Đấng vốn giàu có đã trở nên khó
nghèo, để con người được giàu có. Trong cuộc đời, có lần Đức Giêsu đã mượn
chiếc thuyền của dân chài làm chôỵ đứng giảng dạy; lần khác Người đã mượn hai
cái bánh và năm con cá của cậu bé vô danh để làm phép lạ nuôi cả đám đông; sau
này, khi trút hơi thở cuối cùng, Đức Giêsu còn mượn tạm ngôi mộ để gửi tấm thân
trong khi đợi ngày sống lại vinh hiển.
Vẫn có những chuyện bi đát như thế trong cuộc đời Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa làm người. Nhưng chưa hết.
Hãy bảo thiếu nữ Xi-on
Kìa Đức Vua đến với ngươi
khiêm tốn ngổi trên lưng lừa
lưng lừa con là con của thú vật chở đồ. (Mt 21,5)
Thời đó, các vị hoàng đế thường ngồi trên chiến mã, oai hùng tiến
vào thành phố. Ngược lại, ở đây, Đấng khải hoàn khiêm tốn ngổi trên lưng lừa
con. Nếu Phi-la-tô có dịp đứng quan sát cảnh này, hẳn ông phải bật cười vì tính
cách khôi hài của con người tự xưng là Vua. Con người ấy đang ngổi trên lưng
một con vật biểu tượng của sự tự huỷ, tượng trưng cho việc tiến dần đến cái
chết.
Nếu Đức Giêsu tiến vào thành phố trong tiếng nhạc hùng tráng,
trong tư thế của người chiến thắng, chắc sẽ có kẻ nghĩ rằng Người là Đấng giải
phóng về mặt chính trị. Trái lại, Đức Giêsu chọn những hoàn cảnh để chứng thực
cho lời tuyên bố: "Nước tôi không thuộc về thế gian này". Như thế,
chẳng có gì cho thấy vị vua này có thể là đối thủ của Xê-da.
Phía sau những lời tung hô
Khi Đức Giêsu đến gần thành phố, một "đám rất đông" dân
chúng ra đón Người. Trong số đó, không chỉ có những người cư ngụ tại
Giêrusalem, nhưng còn có những người từ nơi khác về thủ đô dự lễ, và dĩ nhiên,
cả những người Pha-ri-sêu.
Trong những lần trước đây, Đức Giêsu luôn ngăn cản lòng nhiệt
thành, sự phấn khởi của dân chúng. Người đã lánh mặt khi đám đông hứng khởi,
Người tránh tạo nên những quang cảnh náo nhiệt (x. Mt 16,20; Mc 5,43; Mc 9,9;
Ga 6,15). Vậy mà, trong khi Đức Giêsu tiến vào thành Giêrusalem, các người
Pha-ri-sêu phải thốt lên: "Kìa thiên hạ theo ông ấy hết" (Ga 12,19).
Điều này ngược hẳn với thái độ của Đức Giêsu. Trước đây, Người xoa
dịu sự hứng khởi của dân chúng, còn bây giờ, Người lại khơi lên. Tại sao vậy ?
Bởi vì "Thời" đã đến. Lúc này, sẽ đến giờ Người công
khai tỏ cho dân chúng biết về uy quyền của Người, và đây là lần cuối cùng. Đức
Giêsu biết rõ điều này sẽ đưa Người lên đỉnh Can-vê, đến việc Thăng Thiên và
thiết lập vương quốc trên trần gian. Đây là cơ hội cuối cùng để Đức Giêsu đưa
ra tiếng nói quyết định và đặt con người trước lựa chọn: hoặc tuyên xưng, hoặc
từ khước.
Những cái áo được trải trên đường, những ngành ô-liu được phất
cao; đám đông vui mừng tung hô:
"Hoan hô Thế tử nhà Đa-vít, hoan hô !
Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa !
Hoan hô Chúa ngự chốn cửu trùng" (Mt 21,9).
Đức Giêsu là Hoàng tử thuộc dòng dõi Đa-vít. Người là Đấng được
sai đến để thực hiện công trình của Thiên Chúa. Hosana, khởi đầu là một lời cầu
nguyện, giờ đây trở thành bài ca chiến thắng để đón tiếp Đấng Cứu Tinh. Mặc dù
đám dân đang reo hò không hiểu rõ lý do Người được sai đến, họ cũng chẳng hiểu
được bình an do Người mang lại, nhưng họ cũng biết rằng Người từ Thiên Chúa mà
đến.
Đúng là một cuộc khải hoàn, nhưng Đấng Cứu Thế biết rõ rằng lời
tung hô "Hosana" sẽ được đỗi thành "đóng đinh nó đi", và
vòng gai sẽ thay cho ngành vạn tuế. Ngày hôm nay, người ta trải áo dưới chân
Người, nhưng ngày thứ Sáu tới đây, cả áo của Người họ cũng lột hết. Mặc dù
Người là Vua, và dân chúng nhận rằng Người là Ngôn Sứ, là Thầy... nhưng Đức
Giêsu biết rõ hoàng cung được dành cho Người chính là đổi Can-vê.
* * *
Lạy Chúa,
dù con có thế nào chăng nữa,
cũng xin cho con được tung hô Chúa trong ngày hôm nay.
Ngày thứ Sáu, tất cả tội lỗi của con sẽ bị phơi trần,
nhưng con biết lòng thương xót của Chúa
sẽ ngập tràn trên con:
đó là ngày Phục Sinh.
Cùng với tất cả mọi người
con sẽ reo lên
"Vạn phúc Đấng ngự đến nhân danh Chúa"
Đó là hy vọng, là niềm cậy trông
cho suốt cả hành trình tăm tối của con.
Suy Niệm:
Với Lễ Lá hôm nay, chúng ta bắt đầu tuần lễ quan trọng nhất của
Năm Phụng Vụ gọi là Tuần Thánh. Trong Tuần Thánh, chúng ta cử hành cuộc khổ
nạn, sự chết và nhất là sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Dầu cho với
cái nhìn chính trị, xã hội của con mắt người đời, việc Chúa Giêsu vào thành
Giêrusalem để mừng lễ Vượt Qua, là một việc có tính cách gây rối chính trị, vì
đế quốc Rôma đang cai trị và Hêrôđê đang làm vua. Nhưng Chúa Giêsu, Người biết
rõ việc Người làm. Trước mặt Philatô, Người tuyên bố rõ ràng: "Tôi là Vua
nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này".
Vậy Phụng vụ Lễ Lá có thể gợi lên cho chúng ta ba ý nghĩa. Trước
tiên Chúa nhật lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng
của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ hình và chết. Biến cố đó cho chúng ta
thấy Chúa Giêsu biết rằng giờ của Người đã đến, biết rằng Người phải làm gì và
Người đã tự nguyện bước vào cái chết sinh ơn cứu độ, như hạt lúa miến đã chết
đi để sinh sự sống mới. Người tự hiến mình để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Vì
thế trước đó nhiều lần, những người Do Thái chống đối lập mưu để giết Người,
như ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng họ không làm được việc gì,
vì giờ của Người chưa đến. Và cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại định tôn
phong Người lên làm vua, nhưng Người đã lẫn trốn sang nơi khác cũng chỉ vì giờ
của Người chưa đến.
Ý hướng thứ hai của lễ Lá là ngày lễ để tôn kính Chúa Kitô là Vua.
Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế của Người, Chúa Giêsu đồng ý
để cho dân chúng tung hô vạn tuế Người là Vua: "Hoan hô chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời". Người vào Giêrusalem,
thành của vua cả trong phong cách đế vương, và chính vì phong cách đế vương này
mà Người đã bị kết án tử hình. Bản án của Người được viết bằng ba thứ tiếng, Do
Thái, La Tinh và Hy Lạp, "Giêsu Nagiarét Vua dân Do Thái". Vì thế,
dầu cho Người bị kết án tử hình bằng một hình khổ dã man và nhục nhã, đóng đinh
chân tay căng thây trần truồng trên thập giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi
đậm nét vẻ vương giả của Người để khai mào một vương quốc mới. Vương quốc của
sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình như Người đã nói trước
mặt Philatô: "Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là để làm chứng cho sự
thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi". Vậy Chúa nhật lễ Lá cho
chúng ta một cơ hội nữa để tuyên xưng niềm tin của chúng ta vào Vua các vua,
Vua cả trời đất, nhất là Vua của mọi cõi lòng.
Với ý nghĩa thứ ba, Chúa nhật lễ Lá nhắc cho chúng ta biết sống
trên đời là đối đầu với đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của
Chúa Giêsu, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Người trên đồi
Canvê. Khi chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là
chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Người, noi gương Người để vác thập giá,
nhưng điều quan trọng là không phải vác đi trong than khóc mà trong hy vọng. Vì
với Chúa Giêsu, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn
đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
Hôm nay trong cái nghịch lý của Lễ Lá, vị Vua của chúng ta tiến
lên, vị Vua đã bênh vực nhân vị của con người, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác
như tinh thần của những ai đến cùng Người. Vị Vua đó đã thu, đã hút tất cả
những đau khổ của thể xác và tinh thần của con người vào chính bản thân mình,
để chết đi một lần cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào chốn trường sinh. Đó là
niềm hy vọng của chúng ta.
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi sẽ tìm cách tế nhị giúp
cho một người đang gặp khó khăn vật chất hoặc đau buồn tinh thần, để họ lấy lại
được niềm hy vọng. Và noi gương Chúa Giêsu nơi vườn cây Dầu, khi Người cầu nguyện:
"Lạy Cha nếu có thể được, xin cất chén đắng này xa Con, nhưng xin đừng
theo ý Con một theo ý Cha mà thôi", chúng ta cũng xin Chúa cho chúng ta
biết vui lòng vâng phục thánh ý Chúa, dầu lắm khi chúng ta không hiểu được tại
sao.
Chúng ta vừa nghe lại trần thuật về cuộc khổ nạn. Suy niệm về cuộc
khổ nạn là cách suy niệm tốt nhất trong tuần thánh để nuôi dưỡng đức tin và
tình yêu của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rõ trần thuật kinh khủng này, và
mỗi lần nghe chúng ta đều cảm động. Chúa Giêsu đã chịu đau khổ đến thế sao?
Nhưng trong niềm thương cảm của chúng ta những câu hỏi cứ len vào, khó mà loại
bỏ được. Tại sao Ngài phải chịu đau khổ và phải chết? Những điều đó cứu độ
chúng ta như thế nào?
Những đau khổ và cái chết cứu độ chúng ta không phải vì đó là
những đau khổ và cái chết, mà bởi vì đó là kết cục của một cuộc sống can đảm và
yêu thương. Việc Chúa Giêsu đấu tranh để làm cho con người nhận biết tình yêu
của Thiên Chúa và để thiết lập sự công bằng tình thương thực sự giữa con người
với nhau đã làm cho các nhà lãnh đạo tôn giáo và cuối cùng là toàn dân chống
lại Ngài.
Trên thập giá, Chúa Giêsu cho chúng ta biết yêu thương bằng bất cứ
giá nào và yêu thương cho đến cùng có nghĩa là gì. Ngài đã không được sinh ra
để chịu đau khổ. Ngài đã được sinh ra để yêu thương và dạy chúng ta yêu thương.
Sứ mạng này đã dẫn Ngài đến sự đau khổ, nhưng thập giá không phải là một trường
học của sự đau khổ mà là của tình yêu.
Chúa Giêsu dạy ta điều gì trong sự khổ nạn của Ngài? Tình yêu của
Ngài mạnh mẽ và tự do, và chúng ta không nên ở quá xa Ngài trên con đường này.
Đứng trước những lời kêu gọi yêu thương chúng ta để mình bị cô lập quá nhiều do
sự kiêu căng và bị tê liệt do sợ hãi, chúng ta trở nên điếc và mù vì chúng ta
chỉ nghĩ đến chúng ta mà thôi. Chúa Giêsu có thể nghe tất cả những lời kêu gọi
bởi vì Ngài không bao giờ quan tâm đến lợi ích của chính mình. Ngài không bao
giờ lùi bước trước khó khăn, trước sự không hiểu, trước đe dọa nào khi yêu.
Ngài đã thấy sự ghen ghét nổi lên và Ngài vẫn tiếp tục tiến bước. Làm sao chúng
ta không xấu hổ về những né tránh của chúng ta được? Trên thập giá, Ngài đã nói
rằng khả năng lớn nhất của con người đó là có thể yêu thương.
Nếu chúng ta quen thuộc với những khó khăn trong việc yêu thương
(và những vui mừng nữa!) thì chúng ta lại ít biết đến khả năng sống còn của
tình yêu. Trong cái chết của Chúa Giêsu, khả năng này lớn đến nỗi nó sẽ bùng nổ
thành sự sống lại. Nó mở ra một thế giới mới trong đó điều kỳ diệu sẽ xảy ra
mỗi lần có một người muốn và có khả năng yêu như Chúa Kitô.
Người ta không suy nghĩ rốt ráo đến những gì cuộc Khổ nạn đã có
khả năng và sẽ có khả năng thực hiện. Người ta quá trì trệ trong những suy niệm
thống khổ trong khi phân tích tỉ mỉ những đau khổ của Chúa Giêsu cho đến cùng
thay vì phải thấm nhuần tình yêu và lòng can đảm của Ngài. Đây không phải là
nơi than vãn về Chúa Giêsu cũng như về chúng ta, đây là nơi kêu gọi lòng anh
dũng và sự sáng suốt: đó là cái giá tình yêu phải trả, nhưng trong những đau
khổ này tình yêu giải phóng biết bao khả năng sinh tồn!
Còn lại việc xem sự sáng suốt của chúng ta phát hiện ra điều gì.
Việc gặp gỡ Chúa Giêsu trên thập giá sẽ vô ích nếu việc gặp gỡ đó không mang
lại kinh nghiệm đức tin nơi Chúa Giêsu Đấng Cứu Thế. Nếu chúng ta tin rằng
những đau khổ của Ngài đã mang lại cho chúng ta khả năng sống trọn vẹn, thì
chúng ta hãy đi đến thập giá bày tỏ một sự bất lực của chúng ta, để có được một
sự chiến thắng. “Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Ngài chẳng vô ích chút nào”.
Cho đến hôm nay, vẫn còn nhiều người tự cho mình là vô can trong
vụ án Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh trên thập tự giá. Trong số đó, có thể có
tôi, có bạn, những người vẫn xưng mình là Kitô hữu, hoặc hơn thế nữa, những
người vẫn đang nhiệt tình tổ chức hoành tráng, cờ hoa rực rỡ, đón rước linh
đình, tung hô vang dội và kêu gọi mọi người hãy cất tiếng: “Hoan hô con Vua
Đavit. Chúc tụng Vua Israel, Đấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng
trời”.
Hai mặt thiện ác trong mỗi con người tưởng như là luôn lẫn tránh
nhau, đối nghịch nhau, thì lại song hành cách đồng thuận trong tâm hồn khi con
người bị thần dữ thống trị. Thần dữ Satan có phép biến những gì mà một người
cho là chân lý, thành công cụ phục vụ cho mưu đồ gian ác của chúng, khi người
ấy nhận tất cả về mình những gì mình có: học thức, hiểu biết, tài năng, và nhất
là đức tin. Đó là trường hợp của những luật sĩ, biệt phái, kinh sư… Họ vẫn nghĩ
rằng đức tin của họ là do sự hiểu biết siêu phàm hoặc do tài năng mà họ có
được. Đối với họ, đức tin của họ không được soi dẫn bởi Thánh Thần, mà là bởi
cái tôi chủ quan và mù quáng của họ. Bởi vậy, họ không thể chấp nhận một Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đến cứu chuộc trần gian, khi hiểu biết của họ vẫn
chưa chịu nhường chỗ cho sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Họ dựa theo suy luận
thấp bé mà cứ tưởng cao siêu của họ để định dạng, định hình một Đấng Cứu Thế có
thể thỏa mãn những nhu cầu của họ. Vì thế, có thể hôm nay họ hoan hô Chúa Giêsu,
nhưng ngày mai họ đả đảo dẫn tới cái chết của Con Thiên chúa.
Có thể chúng ta đã lên án họ, rằng chính họ chủ mưu trong vụ án
Đức Giêsu vô tội bị lãnh án tử hình nhục nhã nhất lịch sử nhân loại. Còn chúng
ta, nghĩ rằng mình vô can sao? Trong khi, mỗi chúng ta, có thể còn kinh khủng
hơn họ nữa: nếu họ “hôm qua hoan hô ngày nay đả đảo”, thì hãy coi chừng mỗi
chúng ta, vừa hoan hô vừa đả đảo, hoặc hoan hô theo cách đả đảo ngay chính
trong cách thể hiện niềm tin của mình.
Quả thật, chúng ta đã từng có suy nghĩ rằng: tôi không tố cáo kết
án Chúa Giêsu, tôi không bán Chúa Giêsu, không nộp Ngài cho thế quyền, không
đánh đập Ngài, không sỉ nhục ngài, không đội mão gai cho Ngài, không quất vào
ngài khi Ngài té ngã, không đóng đinh Ngài…Chính người Do Thái đã làm tất cả
những điều tệ hại ấy, và ấy là chuyện đã rồi của hai ngàn năm trước. Chúng tôi
vô can. Nếu nghĩ như thế, thì việc cùng đoàn người rước Chúa Giêsu vào thành
thánh cách long trọng với lời tung hô vạn tuế hôm nay, và việc nghe lại trang
thương khó đẫm máu của Chúa Giêsu, sẽ không mang lại ý nghĩa, lợi ích gì cho
đời sống đức tin của chúng ta cả.
Phụng Vụ dẫn chúng ta vào tuần thương khó của Đức Giêsu, để chúng
ta có cơ hội hiểu rằng: không phải Đức Giêsu đi đường thương khó hai ngàn năm
trước mà Ngài còn đang đi đường thương khó ngay hôm nay, ngay lúc nầy….
Bao lâu tôi không chịu thương khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu còn
phải chịu thương khó vì phần rỗi của tôi.
Bao lâu tôi còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa
Giêsu còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết.
Bao lâu tôi còn vô tâm không màng đến hay bất cần đến cái chết của
Đấng Vô Tội, thì bấy lâu, tiếng kêu tha thiết của Chúa Giêsu từ thánh giá vẫn
còn vang lên và vọng xa cho tới tân cõi lòng mình: “Ta khát”. Tôi, bạn, cả chúng
ta, không thể là những người đứng ngoài cuộc trong vụ án Thập Tự Giá nầy.
Vì thế, không thể nghĩ rằng: tôi không tố cáo Chúa Giêsu, tôi chỉ
bất bình với những lời dạy nghe chói tai, những yêu cầu từ bỏ nghe có vẻ bất
thường làm đảo lộn cuộc sống trần gian đang đầy thú vị của tôi. Hoặc, tôi là
Ki-tô hữu mà, tôi không hề tố cáo Chúa Giêsu, chỉ là tôi chưa sống đúng như Lời
Ngài dạy, vì đời còn dài, có vội chi mà phải nhốt mình trong cái khung chờ
chết. Nhớ vào dịp tết, có người nhận được lộc xuân, anh ta mở ra đọc: “Của
Cesar trả cho Cesar. Của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa”. Anh ta đưa cho ông hội
đồng đọc và hỏi: “Nói gì thế?”. Ông hội đồng giải thích: “Chúa bảo đừng có tham
lam của thế gian, lo trở về với Chúa”. Anh ta lẩm nhẩm: “Thời buổi nầy, không tham
sao sống nổi. Chúng nó hối lộ tham nhũng nhan nhãn đầy dẫy kia, ai làm gì được
chúng nó”. Ra đến chỗ giữ xe, anh ta vò nát lộc xuân, vất xuống đất, thản nhiên
về. Không phải là chúng ta đang tố cáo Chúa Giêsu nói và dạy những điều sai
trái đấy sao?
Cũng không thể nghĩ rằng: tôi không bán Chúa Giêsu ba mươi đồng
bạc, tôi chỉ đem thời gian, tài năng, tiền bạc và sức lực của tôi để đổi lấy
cho tôi một cuộc sống thoải mái theo bản năng con người, hoặc thiết thực hơn,
tôi chỉ ham theo cho hết cuốn phim tình cảm hay, hay đã lỡ hẹn với bạn bè, mà
không thể đến nhà thờ dâng lễ, rồi thành thói quen, bỏ cả lễ, quên cả Chúa.
Ngày nào, Giáo xứ chưa có linh mục, chưa có nhà thờ, ai nấy khát khao mong mỏi…
đến lúc có cha ngon lành, có nhà thờ to lớn xinh đẹp rồi, thì việc của cha là
sáng chiều làm lễ, việc của giáo dân là sáng ngủ cho đã giấc, chiều xem phim,
hát karaoke, nhậu nhoẹt… chẳng màng! Nếu ngày xưa Giuđa đã xem ba mươi đồng bạc
có giá trị và cần thiết hơn là tánh mạng của Chúa Giêsu, thì rõ ràng hôm nay, không
phải là chúng ta cũng đã từng xem các thực tại chóng qua kia lại có giá trị hơn
một thánh lễ, hơn một Thánh Thể Chúa Giêsu đó sao?!
Càng không thể nói rằng tôi không hề bắt Chúa Giêsu phải vác Thánh
Giá, không hề đội mão gai cho Ngài, cũng không sỉ nhục Ngài, đóng đinh Ngài…
trong khi ngôi nhà tâm linh của chúng ta đã lún, nghiêng theo chiều bất chính
hoặc đã đổ sập, nát vụn thành một đống hoang tàn.
Vâng, không thể nói:
Tôi không hề bắt Chúa Giêsu vác Thánh Giá, tôi chỉ nhường phần khó
nhọc cho anh em và chọn cho mình phần nhẹ nhàng thong thả.
Tôi không hề đánh đập Chúa Giêsu, tôi chỉ làm ngơ trước những bạo
lực của luật rừng đàn áp anh em tôi vô tội.
Tôi không hề sỉ nhục Chúa Giêsu, tôi chỉ ngại lên tiếng bênh vực
cho công lý, lại còn đồng tình với những lời đàm tiếu rằng anh em tôi dại chi
mà chiến đấu cho công lý để phải mất chức, thiệt thân, còn bị phát lưu, tù đày,
hay bị cách ly khống chế.
Tôi không hề đóng đinh Chúa Giêsu, tôi chỉ làm thinh vô tình trước
bao nhiêu cái chết oan uổng của ngàn ngàn thai nhi bé nhỏ, trước cái chết của
những thanh thiếu niên sa đọa vì hút chích, trước những cái chết của những
thiếu nữ bán hoa lỡ lầm, trước cái chết của những người nghèo khổ không tiền
chạy chữa, và trước cả cái chết muôn đời của một tập đoàn không tin, còn chống
lại Thiên Chúa, trong khi tôi có thể góp một phần của mình vào công cuộc cấp
cứu.
Cuộc sống bất chính trong ‘con người tưởng như là công chính’ của
mỗi chúng ta đang là lời chứng hùng hồn rằng chúng ta là những người vừa hoan
hô vừa đả đảo Chúa Giêsu. Chính chúng ta tiếp diễn vụ án Đức Giêsu ngay hôm
nay, trong lúc nầy. Chính chúng ta đang xử Chúa Giêsu theo luật rừng của những
con người hoang dã, không phải vì ngu muội do thiếu ánh sáng văn minh của Thiên
Chúa, nhưng ngu muội do kiêu căng, cố tình tôn vinh sự hiểu biết, khôn ngoan,
tài năng, trí tuệ của mình lớn hơn sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Đức Giêsu vô tội “như con chiên hiền lành” bị đem đi giết để chết
thay đoàn chiên có tội, là chúng ta, được cứu sống.
Tuần thương khó mời gọi mỗi chúng ta nhận ra mình là can phạm, nếu
không nói là chủ mưu, trong vụ án Đức Giêsu bị đóng đinh và chết trên thập giá.
Đồng thời, cũng mời gọi chúng ta thành tâm sám hối tội lỗi để được hưởng ơn
khoan hồng vô lượng. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn mời gọi chúng ta tham dự vào
đường thương khó của Chúa, vào cuộc tử nạn của Chúa bằng cách sống đời sống
công chính – đời sống đòi hỏi khước từ những quyến rủ của những thực tại phù
vân, đòi hỏi đóng đinh tính xác thịt mình, đòi hỏi chấp nhận đau khổ, chấp nhận
hiến thân, hy sinh vì phần rỗi của mình và của người khác.
Hãy cùng chết với Chúa Giêsu để được cùng Người phục sinh vinh
hiển.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con không vô can trong vụ án đóng đinh Chúa.
Đời sống bất chính của chúng con với biết bao là tội lỗi đã hình thành bản án
tử hình Người Vô Tội. Xin cho chúng con biết trân quí ơn Cứu Chuộc nơi Thánh
Giá Chúa, để biết thành tâm sám hối, biết cải thiện đời sống, và biết cùng Ngài
vác Thánh Giá mình mỗi ngày mà theo Chúa, với niềm hy vọng, niềm tin tưởng Phục
Sinh với Ngài. Amen
Vào đầu Tuần Thánh năm 1997, nhà văn Adolto Eskivei, người Ac-hen-ti-na
bị cảnh sát bắt giam vì các hoạt động bất bạo động để bênh vực giới nông dân
nghèo. Trong 32 ngày liên tiếp, ông bị giam trong một cái ống - một loại củi
chật hẹp. Một hôm, ông tìm cách viết được một lá thư cho các người bạn ở Sao
Paolo như sau:
Các bạn thân mến, tôi không muốn nói với các bạn về nỗi khổ đau,
nhưng về niềm hy vọng và về ơn mà Chúa đã ban cho tôi, đó là được chịu khổ đau
và sống với những anh chị em là nạn nhân của bất công, sống với những người mà,
sau hai ba năm bị giam giữ, họ cũng không biết tại sao họ phải chịu những hình
phạt như vậy.
Tuy nhiên, mỗi ngày có một ánh sáng chiếu soi các đau khổ này, đó
là sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi giây phút, trong mọi cử chỉ, Thiên
Chúa của tình yêu thương, Đấng tha thứ trên thập giá qua mọi thời đại:
"Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết việc họ làm".
Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết, đây không phải là một câu
chuyện xảy ra ở đâu đó, để người ta kể cho nhau nghe chơi, để bàn tán xì xào
hoặc để cảm thương cho Chúa của mình.
Chúa Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết vì mỗi người chúng ta và
trong mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu muốn chia sẻ trọn vẹn những khổ đau, vất
vả và cái chết của cuộc sống con người.
Những đau khổ, vất vả, sỉ nhục, và cái chết vẫn còn đấy, nhưng nếu
chúng ta hiệp thông vào cuộc khổ nạn và cái chết cứu độ của Chúa Giêsu; thì
những khổ đau đó không còn có thể đè bẹp con người nữa; thân phận phải chết của
con người không còn là điều gì phi lý nữa; những vất vả không còn là gánh nặng
xiềng xích con người nữa.
Tin vào Chúa, người kitô hữu sẵn sàng chấp nhận khổ đau, vì biết
rằng Thiên Chúa đã cùng chia sẻ cuộc đời với mình và đã đánh tan sức mạnh của
thần chết bằng tình yêu tha thứ.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã trở thành người để đến với con người,
Chúa đã chịu bao khổ đau để cùng chia sẻ
những đau khổ chất chồng của cuộc sống con người
Chúa đã chịu chết
như bao nhiêu tội nhân,
như bao nhiêu bệnh nhân
như bao nhiêu người khác đang chết.
Và lạy Chúa Giêsu,
Ngày hôm nay Chúa lại hiện diện trong tấm bánh nhỏ bé này
để đến với con.
để chia sẻ gánh nặng của con,
để cùng con chết đi hằng ngày vì những khổ đau của con.
Con chẳng biết nói gì
hơn lời tạ ơn,
tạ ơn vì đời con có Chúa.
Trong giây phút này, chúng ta thử chiêm ngắm cảnh tượng Chúa Giêsu
tiến vào thành Giêrusalem một cách long trọng. Ngài khiêm tốn ngồi trên lưng
lừa. Ngoài ra còn có nhiều người trải áo và rải cành cây trên lối Ngài đi để tỏ
lòng tôn kính theo phong tục vùng Cận Đông.
Tiếng reo hò vang dậy. Người ta tung hô Ngài là Đấng Messia, là
vua thuộc dòng dõi Đavid, Đấng sẽ đến để giải phóng Israel. Chúa Giêsu lặng lẽ
để dân chúng tung hô. Ngài để cho lời tiên tri Giacaria được ứng nghiệm:
- Hỡi thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ. Hỡi thiếu nữ Giêrusalem
hãy hân hoan reo hò. Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi. Ngài là Đấng
chính trực, toàn thắng, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa.
Quả thực, Ngài là Vua, nhưng rồi đây, người ta sẽ biết cách thức
làm Vua độc đáo của Ngài. Đó là qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Sau những giây phút tưng bừng và náo nhiệt này, Phụng vụ hôm nay còn để lại nơi
chúng ta một nỗi buồn thấm thía, bởi vì trong thánh lễ chúng ta được nghe đọc
bài thương khó. Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chính là
để hoàn tất mầu nhiệm vượt qua, đem lại ơn cứu độ cho loài người. Từ hai sự
việc trên chúng ta rút ra hai điểm chính yếu để suy nghĩ.
Điểm thứ nhất đó là, theo thánh Gioan, đám đông đón rước Chúa hôm
nay là những người đã nghe biết hay chứng kiến việc Ngài làm cho Lagiarô sống
lại. Chắc hẳn những người này đã thực lòng tung hô Chúa như vị cứu tinh. Thế
nhưng cũng chính đám người này, sau đó một vài ngày khi Ngài bị đem ra trước
Philatô, thì không thấy một người nào dám lên tiếng bênh vực cho Ngài, thậm chí
còn có những người kêu gào:
- Đóng đanh nó vào thập giá.
Đúng như tục ngữ Việt Nam đã diễn tả:
- Bạc như dân, bất nhân như lính.
Biết đâu chính chúng ta lại chẳng cư xử bạc bẽo như vậy với Chúa,
bởi vì mỗi khi phạm tội, chúng ta cũng lớn tiếng kêu gào và đóng đanh Chúa một
lần nữa vào thập giá.
Điểm thứ hai, đó là phải can đảm và kiên nhẫn bước theo Chúa. Thực
vậy, đi theo Chúa Giêsu trong một vài giờ rước lá là điều không khó khăn cho
lắm, biết đâu còn là điều thích thú nữa. Kinh nghiệm cũng cho hay: Bước theo
Ngài giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục bước
theo Ngài khi Ngài bị mọi người bỏ rơi và kết án, điều đó khó hơn nhiều. Nếu
Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Đức Kitô thì chắc chắn có những lúc
chúng ta nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mình không muốn đến.
Con đường theo Chúa có những lúc vui và cũng có những lúc buồn.
Nếu chúng ta đã có mặt trong đám đông tung hô Chúa khi Ngài vào thành
Giêrusalem, thì cũng không được thiếu vắng khi Ngài vác thập giá và chịu chết
trên đỉnh Canvê. Đừng sống theo kiểu:
- Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.
Hãy trung thành bước theo Chúa và gắn bó mật thiết với Ngài ở mọi
nơi và trong mọi lúc vì ai bền đỗ đến cùng người ấy sẽ được cứu thoát.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta
hiểu được tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu
xa, đến nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của
nó trong tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên
Chúa. Còn Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời
thánh Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được
đồng hàng với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở
nên giống chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài,
nhưng Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt,
đứng bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le
biên phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và
cùng đi với chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu
đói chịu khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh
huống của cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời
Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ
nô lệ và phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của
Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm
kín, cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không
muốn vâng phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm
nhường của Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân
xác. Hãy nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn
đau phải chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong
khi đó lại qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo
vật nào đó. Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò
cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như
lời thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ
tội lỗi đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa,
chúng ta sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên
trong trắng như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của
chúng ta vào với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm
thử niềm vui Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành
Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm
có hai phần: phần đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu
lá, phần hai là thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ
đô Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình
vĩ đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những
nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung
hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ
vừa đi vừa tung hô: “Hoan hô con vua Đavid”, “Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa
mà đến”. Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng chấp nhận để họ đón
rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang nhưng khiêm hạ, Ngài
không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là vua phần xác, đến để
giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem cơm áo ấm no cho họ.
Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường
thuật về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau
Chúa nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do
Thái lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị
trói và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô,
bị xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như
một tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của
dân Do Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa
trên thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng
dạ tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã
viết như thế này: “Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản chiếu
cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa: vạn
tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh, hãy
đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta oán
ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng ta
hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai chúng
ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể tiếp
tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể phản
chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu”.
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành
lá dừa. Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa
nhật lễ lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng.
Mỗi lần nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét,
buồn phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại
cọng của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi
có thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây?
Cuộc sống của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau
nhiều hơn làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa
nhiều hơn là xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà
thờ nhưng chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi
khi chúng ta không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh
Chúa. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng
ta hoan hô “vạn tuế” để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành chương
trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong thâm tâm, các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Phi-la-tô
có nhìn nhận Đức Giêsu là vô tội không? Tại sao họ lại kết án Ngài?
2. Phi-la-tô rửa tay để làm gì? Ông muốn chứng tỏ điều gì? Có thật
là ông vô can trong việc đổ máu Đức Giêsu không?
3. Trong đời sống thường ngày, chúng ta có hành động theo kiểu các
vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Phi-la-tô không?
SUY NIỆM
1. Đức Giêsu bị án tử hình, dù ai cũng nhận thấy Ngài vô tội
Cả cuộc đời Đức Giêsu, Ngài không làm một điều gì nên tội, nhưng
Ngài đã bị kết án ở mức độ nặng nhất: tử hình. Lý do chính khiến Ngài bị kết án
chính là sự ganh ghét của giới lãnh đạo tôn giáo (x. Mt 27,18), và sự hèn nhát
của cơ quan công quyền mà đại diện là Phi-la-tô. Giới lãnh đạo tôn giáo biết
Ngài vô tội: «Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng tìm chứng gian buộc tội
Đức Giêsu để lên án tử hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng
ra làm chứng gian» (Mt 26,59-60). Nhưng họ quyết tâm giết Ngài vì Ngài được dân
chúng mến phục và ủng hộ: việc đón rước Ngài vào thành long trọng chứng tỏ điều
ấy. Dân chúng còn đánh giá giáo huấn của Ngài cao hơn của họ: «Thiên hạ sửng
sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền,
chứ không như các kinh sư» (Mc 1,22). Ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng ngày
càng lớn, lấn át ảnh hưởng của họ, và họ cảm thấy điều ấy rất nguy hiểm cho
«chiếc ghế» cũng như quyền lợi của họ. Vì thế, để tự bảo vệ, họ quyết tâm giết
Ngài, vì Ngài, mặc dù chẳng làm chi sai trái, đã trở thành đối thủ rất nguy
hiểm của họ.
Họ muốn giết Ngài, nhưng họ không thể tự ý làm điều ấy, vì làm như
thế họ sẽ bị chính quyền truy tố trước pháp luật. Họ đã khôn ngoan bằng cách
dùng chính tay chính quyền để giết Ngài. Và họ đã thành công. Phi-la-tô – kẻ
đại diện cho công lý, pháp quyền của đế quốc Rô-ma – biết Ngài vô tội: «ông
thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người» (Mt 26,27). Nhưng ông hèn nhát không
dám tha Ngài vì sợ quần chúng đang bị giới lãnh đạo tôn giáo sách động. Ông lo
sợ nguy hiểm cho «chiếc ghế» của mình, và ông đã chủ trương thà bảo vệ «chiếc
ghế» hơn bảo vệ công lý.
Điều đó cũng có thể thông cảm được với một người ngoại giáo như
ông, vốn không được giáo dục tâm linh như các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng điều
đáng ghê tởm là sự thiếu thẳng thắn và giả hình của ông: ông «lấy nước rửa tay
trước mặt đám đông mà nói: «Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người
liệu lấy!». Ông là đại diện cho công lý mà không chịu lên tiếng bênh vực công
lý, để cho công lý bị chà đạp. Tội của ông rành rành ra đấy: đồng loã với sự ác
để giết một người vô tội, nhưng ông lại muốn được mọi người coi là vô tội. Ông
muốn biện minh cho hành động vô trách nhiệm của mình. Thật ra, cứ nhận rằng
mình hèn nhát, mình ham địa vị thì lại đỡ tội, nhưng ông lại còn muốn tỏ ra
mình vô tội, nên tội ông nặng lên rất nhiều. Tương tự như ý nghĩa của câu: «Nếu
các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng:
"Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41). Trước mặt
Thiên Chúa, chính cái tội giả hình, «muốn tỏ ra mình vô tội» ấy còn nặng hơn
tội hèn nhát và vô trách nhiệm kia rất nhiều. Khi tôi còn nhỏ, hễ tôi phạm một
lỗi nào, cha tôi chỉ đánh một hai roi, nhưng nếu đã phạm mà lại chối, thì lỗi
nặng lên gấp hai ba lần, có thể bị phạt tới 5 hay 10 roi, vì đã phạm tới hai
lỗi, mà lỗi sau nặng hơn rất nhiều.
2. Ta có hành động như thế không?
Thấy người lại nghĩ đến ta. Ta thấy Đức Giêsu đã bị giết bởi giới
lãnh đạo tôn giáo Do Thái vì lòng ganh tị của họ và bởi Phi-la-tô vì sự hèn
nhát của ông. Nhưng liệu ta có hành động như thế đối với các ngôn sứ đồng thời
với mình không? Có thể ta sẽ nói như bọn kinh sư ngày xưa: «Nếu như chúng ta
sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ
máu các ngôn sứ» (Mt 23,29). Nhưng họ có ngờ đâu họ lại phạm chính tội mà tổ
tiên họ đã phạm, cái tội mà họ đang dựa vào để chê trách tổ tiên. Và họ còn
phạm nặng nề hơn tổ tiên họ rất nhiều, vì họ giết chính Đấng Mê-si-a mà họ đang
trông chờ. Tại sao? Chỉ vì cái mối tội muốn bảo vệ «cái ghế» của mình hơn bảo
vệ công lý, mối tội ấy họ cũng có không kém gì cha ông mình. Và cái mối tội thứ
hai còn lớn hơn thế nữa là đã có tội, lại còn muốn chứng minh mình vô tội. Khi
muốn chứng minh mình vô tội, hay muốn biện minh cho tội của mình, người ta dễ
có khuynh hướng tìm cho ra một tội nào đấy để gán ghép cho kẻ vô tội mà mình
không muốn bênh vực, hầu chứng tỏ sự im lặng hay kết án của mình là hợp lý. Rất
có thể ta cũng đang hành động như thế trong đời sống thường ngày của ta. Nhiệm
vụ làm chứng – tức chức năng ngôn sứ – mà ta đã lãnh nhận khi lãnh bí tích rửa
tội, thêm sức, hoặc truyền chức đòi buộc ta phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho
chân lý, công lý và tình thương. Nhiệm vụ hay chức năng ấy đòi hỏi ta phải sống
đúng điều mình chủ trương và rao giảng. Ta rao giảng rằng những thực tại siêu
nhiên, những giá trị tâm linh cao quí hơn những thực tại trần gian, thậm chí
hơn cả mạng sống: «Được cả thế giới mà mất linh hồn thì ích lợi gì?» (Mt
16,26). Nhưng trong đời sống thực tế, qua hành động và cách sống của ta, ta lại
đích thực coi những thực tại trần gian cao quí hơn những thực tại mà ta vô cùng
đề cao khi rao giảng. Ta sẵn sàng hy sinh những giá trị tâm linh để đổi lấy
những thực tại cụ thể của trần gian: tiền bạc, quyền lực, địa vị, lạc thú… Để
bảo vệ những thứ ấy, ta sẵn sàng phạm chính cái tội của các vị lãnh đạo tôn
giáo Do Thái sẵn sàng hãm hại hoặc giết «những Đức Kitô» trong chính thời đại
của chúng ta, hoặc của Phi-la-tô xưa đã im lặng đồng lõa để người vô tội bị hãm
hại. «Những Đức Kitô» ấy có thể là những kẻ thấp cổ bé miệng đang chịu đủ thứ
bất công trong xã hội cũng như Giáo Hội, có thể là những người công chính mà sự
có mặt hay hành động của họ đang ảnh hưởng bất lợi cho «cái ghế» của ta…
Nếu nhận ra mình đang lỗi bổn phận làm chứng theo chức năng ngôn
sứ của người Kitô hữu, ta hãy thành thực nhận lỗi của mình và tìm cách sửa
chữa. Không nên làm như Phi-la-tô, đã có tội lại còn muốn chứng tỏ mình vô tội,
khiến ta lại càng lún sâu hơn vào tội lỗi hơn.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con là người yếu đuối, con rất dễ trở nên hèn nhát. Điều
đó chắc hẳn Cha, cũng như Đức Giêsu, rất dễ cảm thông và tha thứ cho con. Nhưng
xin đừng để con hành động như Phi-la-tô, đã hèn nhát không dám bênh vực người
vô tội, để mặc người vô tội bị giết, lại còn rửa tay để chứng tỏ mình vô tội.
Xin đừng để con mắc tội giả hình như thế, là tội mà Đức Giêsu ghét hơn tất cả
mọi thứ tội. Amen.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Hôm nay chúng ta bước vào Tuần thánh, kỷ niệm cuộc tử nạn và Phục
sinh của Chúa Giêsu Kitô. Tuần thánh được khai mạc bằng nghi thức làm phép lá
và cuộc rước lá. Đây là những ngày cuối cùng của cuộc đời Chúa Giêsu. Tất cả
những việc làm của Chúa Giêsu trong tuần thánh này đều diễn tả tình yêu của
Chúa Giêsu đối với chúng ta : Ngài lập bí tích Thánh thể là bí tích yêu đương,
Ngài hiến trọn thân xác mình làm của ăn nuôi linh hồn chúng ta. Ngài còn dùng
cái chết nhục nhã trên thập giá để cứu chuộc chúng ta, một hành động diễn tả
tình yêu đến tột cùng . Nhưng sau cái chết nhục nhã trên thập giá, Ngài sẽ sống
lại vinh quang để đem lại cho chúng ta sự sống mới và bảo đảm phúc trường sinh.
Hôm nay là Chúa nhật Lễ Lá và Thương Khó, chúng ta bước vào những
ngày mà nỗi khổ đau của Đức Giêsu lên đến cực điểm. Đây chắc chắn phải là những
ngày cuộc đời làm sáng tỏ hơn hết tình yêu Chúa đối với chúng ta. Chính Ngài đã
chẳng nhói :”Bằng chứng lớn lao nhất của tình yêu đối với bạn hữu là chết cho
bạn sao” ? Ngài đã chết cho chúng ta và chết trên thập giá ! Chúng ta có thấu
hiểu mầu nhiệm của tình yêu này không ? Lời Chúa tiên báo :”Khi nào Ta được đưa
lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta” có hấp dẫn được tâm hồn chúng
ta không ?
Chúng ta hãy dùng tuần lễ này để thông cảm với Đức Giêsu bằng việc
suy niệm sự thương khó của Ngài để biết theo gương Ngài đi theo con đường Ngài
đã chỉ vẽ : đường thập giá :”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá
mình hằng ngày mà theo”. Đồng thời chúng ta hãy vui vẻ đón nhận mọi đau khổ
trong đời sống hằng ngày để thông hiệp vào sự thương khó còn thiếu sóttrong
cuộc tử nạn của Ngài để đem lại ơn cứu độ cho chúng ta và nhiều người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1 : Is 50, 4-7).
Ngôn sứ Isaia có 4 bài ca về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài ca
hôm nay là bài ca thứ ba. Người tôi tớ Thiên Chúa này là một tôi tớ nào đó,
được Isaia diễn tả với những đặc tính sau đây :
a) Người tôi tớ Thiên Chúa luôn trung thành với nhiệm vụ được giao
phó nên đã chấp nhận tất cả : sự bách hại, tra tấn, phỉ nhổ, cô đơn.
b) Người tôi tớ nhẫn nhục chịu đựng, không dùng bạo lực chống bạo
lực.
c) Người tôi tớ tin tưởng phó thác cho Thiên Chúa là Đấng sẽ đến
giải thoát mình.
+ Bài đọc 2 : Pl 2, 6-11.
Chúa Giêsu đươc coi như người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo
trước. Nơi Người có hai sự tương phản rõ rệt : sự tự hạ phi thường và chiến
thắng vinh quang. Theo thánh Phaolô, Đức Giêsu có thể là một Đấng Messia chiến
thắng buộc mọi người phải nhận uy quyền của mình. Thế nhưng, Ngài lại muốn hạ
mình làm một người tôi tớ, hạ mình đến tận cùng để phục vụ. Những ai càng hạ
mình càng được nâng lên, sự hạ mình khiêm tốn của Chúa Giêsu đã được đền đáp :
Thiên Chúa đã tôn Ngài lên làm Đức Chúa của muôn loài muôn vật.
+ Bài Tin Mừng : Mt 26,14-27,66.
Chúng ta có bốn bài tường thuật cuộc thương khó của Đức
Giêsu trong Tin Mừng của bốn thánh ký. Mỗi bài tường thuật đều có bố cục giống
nhau nhưng mỗi tác giả chú trọng vào một ý làm cho nó nổi bật lên :
. Marcô chú trọng vào mục đích truyền giáo.
. Luca nhấn mạnh vào tình thương yêu của Chúa.
. Gioan làm nổi bật sự tự do chấp nhận của Chúa, đồng thời cũng
nói lên vương quyền của Ngài.
. Matthêu trình bầy đầy đủ hơn cả. Bài thưong khó này được coi như
bài giáo lý dành cho những người Do thái để họ biết Đức Giêsu là ai.
Bài tường thuật cuộc thương khó của Đức Giêsu là một bằng
chứng hùng hồn về tình yêu của Ngài đối với chúng ta ; đồng thời cũng là một
thiên anh hùng ca về lòng cam đảm và tinh thần hy sinh chịu đựng, cũng như thái
độ khoan dung thứ tha của Ngài. Suy niệm cuộc thương khó của Chúa sẽ giúp chúng
ta biết can đảm đón nhật mọi gian nan thử thách trong cuộc sống để góp phần vào
công cuộc cứu chuộc của Ngài.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Cùng đau khổ với Chúa
1. Nói về đau khổ.
Đau khổ có mặt trên mặt đất này ngay sau khi tổ tông Adong
Evà phạm tội ăn trái cấm. Thiên Chúa đã ra án phạt cho ông bà phải chịu đau khổ
và sau cùng phải chết, và hậu quả bi đát này còn truyền lại cho con cháu ông bà
(x. St 3,14-18).
Đức Giêsu vì đã muốn trở nên con người như chúng ta nên cũng
trở nên con cháu Adong Evà, và nếu đã là con cháu ông bà thì phải chịu đau khổ
như chúng ta, bởi vì Ngài đã trở nên người phàm như chúng ta, chỉ trừ tội lỗi.
Có hai thứ đau khổ : đau khổ vật chất và đau khổ tinh thần.
Thường người ta cho vật chất hay thể xác là đau đớn, còn đau đớn tinh thần là
đau khổ. Tuy nhiên, đau đớn và đau khổ có sự tương quan với nhau : đau đớn có
thể đưa đến đau khổ và ngược lại, đau khổ có thể đưa đến đau đớn , hoặc vừøa
đau đớn vừa đau khổ.
Con người ta ở đời dù lớn, dù nhỏ, thế nào cũng đã phải chịu
đau đớn hay đau khổ hơn một lần. Đứa trẻ dù mới sinh ra cũng phải chịu đau đớn,
mặc dầu chưa biết đau khổ là gì, vì thế :
Vừa sinh ra sao đà khóc chóe,
Trần có vui sao chẳng cười khì.
(Cao bá Quát)
Thiên Chúa không chủ ý dựng nên các đau khổ cho loài người,
nhưng đấy là hình phạt bất đắc dĩ theo sự công bình của Chúa. Ngoài ra, không
phải mọi tai họa, mọi sự đau khổ đều do Chúa gửi đến, mà do chính con người độc
ác đã tạo ra cho nhau. Gần đây người ta phân tích nguyên nhân đau khổ loài
người thì được biết :
. 85% đau khổ là do người làm khổ người.
. 5% là do thiên tai như mưa, gió, lũ lụt, động đất…
. 10% là do ngẫu nhiên.
Nếu người yêu người, người thực hiện tình người thì 85% đau khổ sẽ
không còn, chỉ còn 15% do thiên tai và ngẫu nhiên. Và 15% đau khổ này, khi loài
người thương yêu nhau, san sẻ cho nhau, yên ủi giúp đỡ nhau thì coi như đau khổ
không đáng kể.
2. Ý nghĩa của đau khổ.
Đứng trước thực tại của đau khổ, không ai có thể phủ nhận
được. Ai cũng phải chấp nhận sự hiện hữu của nó. Nhưng trước những đau khổ ấy,
mỗi người, mỗi tôn phái có một chủ trương riêng, một cái nhìn đặc thù và gán
cho đau khổ một ý nghĩa riêng.
a) Các chủ trương trước đau khổ.
* Thiên Chúa giáo :
Theo nhiều bản kinh , nhất là kinh Lạy Nữ vương, thì đời
người được coi như là chốn lưu đầy, là vũng khóc lóc, là thung lũng đầy nước
mắt. Nhưng đấy chỉ là lời kinh của người Công giáo đặt ra, có khi là của bậc
thánh nhân khả kính, chí như trong bộ sách Phúc âm, không hề thấy nói đời là bể
khổ. Chỉ thấy cuộc đời của Chúa Cứu thế này đầy những đau khổ...
Còn trong những lời Chúa Giêsu giảng dạy, nhiều lần Ngài
muốn cho người ta hiểu và tin trên mặt đất này chỉ là tạm gửi trong một khoảng
thời gian dự bị , thời sau mới là sung sướng hay đau khổ, và cũng là yên ủi
những ai lâm vào hoàn cảnh nghèo nàn trên mặt đất này vẫn đầy đau khổ, nhưng
cần phải phân biệt những thứ giả dối qua đi không hẳn là đau khổ hay là hạnh
phúc cho thực.
* Phật giáo.
Đức Thích Ca đã tìm ra nguyên nhân của các đau khổ là :
sinh, lão, bệnh, tử. Ngài đã giác ngộ và giúp cho chúng sinh giải thoát khỏi
đau khổ. Phật giáo cho đời là bể khổ “bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”. Một số
thi sĩ nước ta bị ảnh hưởng yếm thế của Phật giáo, nên các tác phẩm đề có phảng
phất ý tưởng bi quan, coi đời chỉ là bể khổ, là bến mê, là ảo ảnh, là vô
thường...
Đức Thích Ca nói với năm thầy Sa-môn trước kia đã tu luyện
cùng ngài ở Khổ hạnh Lâm :”Này các thầy Sa-môn, đây là phép mầu về sự khổ :
sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, cái gì không ưa mà phải hợp
là khổ, cái gì muốn mà không được là khổ” (trích trong kinh Mahavagga, theo bản
dịch của Phạm Quỳnh, Phật giáo đại quan, Nam phong tùng thư, tr 47). Đó là diệu
đế thứ nhất nói về vạn sự ở đời là khổ, trong Tứ diệu đế là căn bản tinh hoa
của Phật giáo. Chính phật Tổ cũng dạy :”Nước mắt chúng sinh trong ba nghìn thế
giới, đem chứa tích lại còn nhiều hơn nước trong bốn bể”(Bửu Dưỡng, Vấn đề đau
khổ, Đa minh, 1966, tr 55-56).
* Phái Khắc kỷ
Phái này chủ trương triết thuyết về con người hùng. Họ coi
như đời không có đau khổ, và nếu phải đau khổ thì cứ cắn răng mà chịu, không hề
than khóc, cứ phớt tỉnh đi, coi như không đau khổ vậy. Những người theo phái
này đều là những con người dạn dầy với đau khổ, họ không để cho đau khổ chi
phối họ, và ngược lại, họ còn muốn chi phối đau khổ.
Người ta kể : Zénon de Cittium, thuộc phái Khắc kỷ, bị bắt
làm nô lệ. Anh chàng nô lệ này thuyết cho ông chủ về chủ trương của phái mình
trước đau khổ : coi như không đau đớn gì. Ông chủ bèn sai đầy tớ lấy hai thanh
tre buộc vào sợi dây ngắn, quấn vào ống chân của Zénon mà vặn xem có đau không.
Zénon không tỏ ra chút đau đớn, cứ vui cười. Ông chủ lại bảo người đầy tớ phải
xoắn cho chặt, cho mạnh. Zénon cứ bình tĩnh và nói với người đầy tớ ấy rằng :
- Xoắn vừa chứ kẻo gẫy ống chân đấy.
Thấy mình bị trêu chọc, tên đầy tớ lấy hết sức vặn gẫy đôi chân
của Zénon ra. Nhưng Zénon không tỏ ra đau đớn mà chỉ bình tĩnh nói :
- Tôi đã bảo kia mà ! Vặn mạnh quá làm gẫy đôi ống chân ra rồi.
* Theo quan niệm người đời.
Mọi người không phủ nhận đau khổ và cũng cảm thấy khiếp sợ
đau khổ, không muốn chịu nhưng lại coi đau khổ là phương tiện cần thiết để đạt
tới đích cao vời. Ai muốn tới mục đích thì cần phải dùng những phương tiện để
đạt tới mục đích đó. Ví dụ :
Trời đất sinh ta âu hữu ý
Khách tài tình nên trải vị gian truân,
Một mai gặp hội phong vân.
(Cao bá Quát)
hoặc:
Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử ?
(Không vào hang cọp, làm sao bắt được cọp con)
Kinh Thánh cũng nói :”Lửa thử vàng, gian nan thử người nhân
đức”. Chính gian nan tự nó không có ý nghĩa gì, nhưng nó là phương tiện để tô
luyện ta nên tốt hơn. Cũng như giống cúc “Camomile” có đặc tính kỳ lạ này :
càng bị giẫm, bị đè lên bao nhiêu nó càng lớn nhanh bấy nhiêu (Chuyện lạ quốc tế,
tr 108). Cũng một lẽ : chiếc lò xo bị nhận xuống ít thì bật lên nhẹ, còn nếu bị
nhận xuống nhiều thì bật lên càng mạnh. Càng bị thử thách, con người càng hăng
hái tiên lên. Đấy là luật bù trừ ở đời.
3. Mục đích của đau khổ.
Chúng ta phải khẳng định rằng đau khổ không phải là cứu cánh
mà chỉ là phương tiện, là điều kiện “sine qua non” để đi tới mục đích, cũng như
học hành vất vả là điều kiện để thi đỗ, để thành người thông thái ; hoặc muốn
được nhiều hoa trái thì buộc phải cắt tỉa. Việc cắt tỉa không phải là mục đích
nhưng chỉ là phương tiện để cây sinh được nhiều hoa trái.
Đau khổ còn là một mầu nhiệm. Đau khổ được đức tin đặt vào trong ý
định của Thiên Chúa, trở thành một thử thách cao qúi, Thiên Chúa dành cho những
tôi tớ Ngài tín nhiệm. Đức Giêsu đã tuyên bố điều luật khẩn thiết này :”Quả
thật, Ta bảo chúng con, nếu hạt lúc rơi xuống đất không mục đi thì cứ trơ trơ
một mình, nhưng nếu mục đi, nó sẽ sinh ra nhiều hạt”. Như thế đau khổ có ý
nghĩa cao qúi của nó, giúp ta gắn bó với Chúa và giúp ta lập nhiều công phúc.
4. Thái độ của ta trước đau khổ.
Chúng ta có thái độ nào trước đau khổ ? Đương đầu với nó hay
trốn chạy ? Chiến thắng hay đầu hàng ? Về vấn đề này, ông Phạm công Thiện có ý
kiến :”Đối với con người tầm thường, sự đau khổ và hạnh phúc chống đối nhau như
hai kẻ thù không đội trời chung (và hẳn chạy theo hạnh phúc mà trốn đau khổ).
Đối với con người khác thường, đau khổ và hạnh phúc hợp tác với nhau”.
(Phạm công Thiện, Ý thức mới trong văn nghệ triết học, 1965).
a) Thái độ tiêu cực.
Nhiều người khiếp sợ đau khổ, khi thấy đau khổ thì tìm cách
lẩn trốn. Nhưng trốn thế nào được, vì đau khổ đi theo con người như hình với
bóng. Bóng mặt trời khi ta cong lưng chạy xuôi, nó chạy trước chận lối ta đi.
Nếu ta quay đầu đi ngược lại phía mặt trời, bóng đen liền nhường bước cho ta đi
trước, và lui về phía sau. Các sự trái ngược trên đời cũng thế. Nếu ta cong
lưng chạy trốn, chúng nó càng chặn lối ta đi. Nếu ta làm mặt hiền hòa, bình
tĩnh đón nhận, chúng nó sẽ mất hết sức mạnh làm hại ta.
b) Thái độ tích cực
Tình yêu làm cho đau khổ mất hết vẻ man rợ của nó. Tình yêu
cũng làm cho đau khổ thành nguồn an ủi và sức mạnh. Vì tình yêu Chúa, chúng ta
hãy sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh đau khổ trong cuộc sống, hãy biến những đau
khổ ấy thành những hạt ngọc dâng lên Chúa. Không có một hy sinh nào trở nên vô
ích nếu trong đó đã có tình yêu Chúa.
Ta nghĩ thế nào về hạt cát ? Hạt cát có lợi hay có hại cho
ta ? Phải chấp nhận nó hay phủi nó đi vì nó vô ích ? Phải phân biệt :
. Nếu hạt cát rơi vào mắt ta, chắc chắn ta phải tìm cách phủi đi
ngay vì nó làm ta đau khổ.
. Nếu hạt cát đó lại rơi vào miệng con sò thì sao ? Con sò sẽ tiết
ra một chất nhờn bao bọc lấy hạt cát và sẽ biến nó thành hạt ngọc. Vì thế người
ta hay tìm sò hến để kiếm ngọc.
Chúng ta hãy cùng chia sẻ với Chúa Giêsu những sự đau đớn
của Ngài. Đời sống của ta phải trở nên Chúa Kitô chịu đóng đinh : chính nhờ cây
thánh giá mà Chúa đã cứu chuộc cả nhân loại. Chúng ta hãy cùng cộng tác với
Ngài để cứu chuộc nhân loại. Công cuộc cứu chuộc đó được thực hiện trong việc
thuận theo thánh ý Chúa.
Trong một trang rất hay của cuốn sách “La Prìere de toutes
les heures”, cha Charles khi suy niệm về tiếng AMEN đã trình bầy cùng một ý
tưởng ấy, tuy một cách khác nhau nhưng rực rỡ hơn :
“Một hôm gặp những người lấy một trang giấy lớn để viết, một
trang giấy trắng tinh. Mãi cuối trang, thay vì chữ ký, họ chỉ viết một chữ
AMEN. Và rồi họ chuyển đời họ đến Chúa. Chúa Quan phòng bắt đầu viết lên trên
chữ Amen đã viết trước ấy câu chuyện dài và đau thương của cả một đời người.
Các tang tóc xếp đặt từng hàng, có ghi rõ ngày tháng và tiếng Amen đón nhận tất
cả, đã cất đi được cái vị độc, đắng cay của những ngày ấy. Chúa cũng ghi trên
trang giấy những niềm hoan hỉ lành mạnh, kèm thêm cả giờ khắc được hưởng, làm
những trạm nghỉ trong một cuộc hành trình. Thay vì khước từ và quên lãng, hoặc
chúi đầu ngủ mê trong những hoan lạc ấy, tâm hồn ngoan ngoãn cùng vui hưởng với
Chúa và vì Chúa, bởi họ đã đọc lời giải khát.
“Thưa Amen trước với hết mọi mệnh lệnh của Chúa. Amen với
những thất bại bất ngờ, với những vu khống trường kỳ, với những hiểu lầm hằng
ngày khiến ta bực bội. Amen khi xe lửa chạy quá sớm hay quá chậm trễ. Amen khi
trời nắng hay trời mưa, khi mất ngủ, khi nhọc mệt, khi nắng hạn hay rét cóng :
Amen đối với những bạn bè khó nết đầy tật xấu và điên khùng. Amen đối với những
người bà con già nua mà tuổi tác làm cho họ trở nên ích kỷ và quạu cọ. Thưa
Amen vui vẻ nếu có thể được, và luôn thưa cách thành thực can đảm”.
(Charles SJ, La Prìere de toutes les heures, tr 135-136)
Lm Giuse Đinh tất Quý
Anh chị em
thân mến,
Bài Thương
khó hôm nay tương đối khá dài và tự nó đã nói lên rất nhiều ý nghĩa cho mỗi
người chúng ta. Tuy nhiên tôi cũng xin được chia sẻ với anh chị em một vài cảm
nghĩ của tôi. Đọc bài Thương khó hôm nay, tôi thấy có một vài điểm rất đáng cho
chúng ta suy nghĩ.
1. Điểm thứ
nhất là lòng dạ của con ngưòi. Lòng dạ con người sao mà dễ thay đổi quá. Chỉ
trong một thời gian không đầy một tuần lễ mà chúng ta được chứng kiến bao nhiêu
cảnh thay lòng đổi dạ của những con người đối với Chúa Giêsu, Chúa của chúng
ta.
a/ Trước
hết là đám đông quần chúng
Lúc Chúa vào thành thánh Jêrusalem, chúng ta không thể tưởng tượng
được thái độ của họ vui mừng đến như thế nào. Họ sẵng sàng cởi áo trải xuống
lót đường cho Chúa đi qua. Họ bẻ cành cây đầy lá giơ cao để đón mừng Chúa.
Miệng của họ hò la đến vang trời dậy đất khiến nhà cầm quyền lúc đó cũng cảm
thấy rúng động. “Hoan hô con Vua Đavid...Hoan hô....Hoan hô...Vạn tuế....Vạn
tuế ...Vạn tuế con Vua Đavid ....Vạn tuế Đấng nhân danh Thiên Chúa đến cùng
chúng tôi”
Nhưng rồi
cũng lại hầu hết những con người này, chỉ mấy ngày hôm sau lại gân cổ lên mà la
thật to rằng “Hãy đóng đinh nó vào Thập giá, hãy đóng đinh nó vào Thập giá”(Mt
27,33)- Và cả sau khi Chúa chịu đóng đinh rồi họ cũng vẫn chưa chịu buông tha
cho Chúa: “Hãy xuống khỏi Thập giá đi để chúng ta tin nào...Kẻ đã cứu được
người khác mà không cứu nổi chính mình.....Xuống khỏi Thập giá đi...Xuống khỏi
Thập giá đi..”(Mt 27,42)
Ôi lòng dạ
của con người sao mà chóng đổi thay đến như thế.
b/ Thứ đến là lòng dạ của một người môn đệ đã được Chúa dành
cho nhiều tình thương. Người đó là ai thì tất cả chúng ta đều đã biết: Giuđa.
Vâng Giuđa đã phản bội. Phúc Âm đã ghi thật rõ “Giuđa tên phản bội”(Lc 6,16)- .
Lòng dạ của Giuđa thật ích kỷ và hẹp hòi. Anh ta đã được Chúa thương, thương
hơn nhiều môn đệ khác. Anh đã được Chúa tín nhiệm, tín nhiệm hơn những anh em
khác, Chúa trao cho anh quản lý tất cả những gì Chúa có. Chúng ta có thể nói
như thế. Anh đâu dó thiếu gì vậy mà anh đã phản bội. Chúa rất buồn với anh,
buồn tới mức độ Chúa phải thốt lên một lời, một lời mà trong suốt cả cuộc đời
của Ngài, Ngài không hề nói với bất cứ một ai: “Thà nó đừng sinh ra thì hơn”(Mc
14,21). Thật là xót xa cho Chúa, cho Người Thầy chí Thánh của anh, anh Giuđa ạ
c/ Một số các nhân vật khác mà bài thương khó hôm nay cũng
nhắc tới. Đó là nhóm những người được Chúa ưu ái tuyển chọn trong đó có một người
mà Chúa yêu thương rất đặc biệt. Người ấy không là ai xa lạ với chúng ta. Đó là
Ông Phêrô. Phêrô theo nội dung tiếng Do Thái là đá tảng. Trước đó không bao lâu
đá tảng Phêrô đã thề sống thề chết: “Dù tất cả có bỏ Thấy, con cũng không bao
giờ....không bao giờ”- và Phúc âm còn ghi “Các tông đồ khác cũng như vậy”(Mc
18,31). Vậy mà sau đó không bao lâu chỉ có vài lời vu vơ của một đứa đầy tớ
gái, tảng đá Phêrô đã vỡ tan tành. Ông Phêrô ơi! Ông không biết Chúa thật sao?.
Thật là đau đớn cho Chúa....Con người mà Chúa đã tin tưởng đặt làm thủ lãnh một
xã hội mới lại thề thốt trước mặt mọi người rằng không biết Chúa là ai. Thật là
đau xót. Thật là tủi buồn.
2, Nhưng
may mắn thay chúng ta còn có Chúa. Lòng Chúa không bao giờ đổi thay. Chúa luôn
một lòng một dạ...một lòng một dạ với Thiên Chúa Cha, một lòng một dạ với lý
tưởng yêu thương của Ngài. Vâng Chúa luôn một lòng một dạ. Lòng trung thành của
Chúa không bao giờ thay đổi.
a/ Chúng ta
có thể nói sự sống của Chúa là Thánh ý của Thiên Chúa Cha: “ Của ăn của Thầy là
làm theo ý Đấng đã sai Thầy”(Ga 6,38) Cả cuộc đời trần thế của Chúa cũng chỉ là
như vậy: “Lạy Cha này con xin đến để làm theo ý Cha”(Ga 5,30). Ý Cha như thế
nào con cũng một lòng một vâng theo. Trước chén đắng đầy tràn, Ngài cảm thấy
run sợ nhưng lúc nào Thánh ý Thiên Chúa Cha cũng phải được đặt lên trên hết:
“Lạy Cha nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này, nhưng xin đừng
theo ý con mà theo ý của Cha”(Lc 22,42)
b/ Bên cạnh
đó Chúa có một lý tưởng để đi theo: Lý tưởng yêu thương. “Thầy đã đem lửa xuống
trần gian và Thầy mong uớc biết bao cho lửa đó được bùng cháy lên”(Lc 12,49).
Chúa một lòng một dạ với lý tưởng đó. Không có một cái gì trên trần gian này có
thể làm cho Chúa xa rời lý tưởng đó.
Từ trên Thập giá Chúa nhìn xuống cả một đám đông vẫn còn say máu
căm thù vậy mà Chúa vẫn có thể bình thản cầu nguyện “Lạy Cha xin tha cho chúng
vì chúng không biết việc chúng làm”(Lc 23,34).
Cả cuộc đời của Chúa là
cuộc đời phục vụ. Phúc âm cho chúng ta thấy Chúa phục vụ đến quên mình. Chúa
sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh, kể cả cái chết trên Thập giá vì Lý tưởng yêu
thương: “Không có tình yêu nào lớn hơn Tình yêu của người dám hiến mạng sống
của mình cho người mình yêu”(Ga 15,13)
Lạy Chúa,
Chúa đã một lòng một dạ với Thiên Chúa Cha, một lòng một dạ với lý tưởng yêu
thương. Xin Chúa giúp cho chúng con được luôn gắn bó vớ Chúa. Xin cho chúng con
được biết yêu thương như Chúa. Để khi sống như Chúa chúng con biết cho đi mà
không tính toán, biết chiến đấu mà không sợ thương tích,biết làm việc mà không
tìm an nghỉ, biết xả thân mà không tìm một phần thưởng nào khác, ngoài việc
biết rằng chúng con đang thi hành Thánh ý Chúa. Amen
Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Đức Giê-su gọi giờ tử nạn là giờ Ngài được tôn vinh: "Giờ
đây, Con Người được tôn vinh (Gioan 13, 31)
Vinh quang ở đâu mà chỉ thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều,
rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm
thương ô nhục trên đồi Can-vê!
Vậy vinh quang của Chúa Giê-su ở đâu? Vì sao Chúa Giê-su gọi đây
là giờ Ngài được tôn vinh?
Đối với người không am hiểu, cái chết của Chúa Giê-su trên thập
giá là một thất bại não nề; nhưng suy cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng
rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng hận thù bằng lòng bao dung
Đối diện với cuộc kết án bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ
mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được, đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng
đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ chế giễu nhạo cười với bao lời thách
thức, đứng trước đội quân hành quyết dã man tàn bạo... Chúa Giê-su vẫn không
may may oán hận! Ngài chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Ngài
nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu họ bằng trái tim khoan nhân... Rồi vì
sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất trời của họ, Ngài tha thiết cầu xin
Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài: "Lạy Cha,
xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm" (Luca 23, 34). Đó là tâm tình
đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời nầy.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham
sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao cường
Là người ai không sợ chết. Chính Chúa Giê-su cũng đã trải
qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn ảnh cái chết đau thương sắp đến khi
cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Ngài không bị khuất phục bởi cái chết.
Ngài đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với nó. Ngài đã chấp nhận chết cách can
trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giê-su chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh
thần
Là người ai cũng sợ khổ và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa
Giê-su đã đón nhận những cực hình đau thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi
thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận
người.
Qua cách thức Chúa Giê-su đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy
không một thách thức nào làm cho Ngài lùi bước; không một đe doạ nào làm cho
Ngài khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm cho Ngài nổi giận hay mất bình an;
không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao dung vô bờ bến của Ngài ...
Ngài thắng được bản năng tham sinh úy tử; Ngài vượt lên trên nỗi
sợ mọi thứ khổ đau; Ngài thắng được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân
mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất dã man và tàn ác... Trong cuộc khổ nạn
của mình, Đức Giê-su chiến thắng hoàn toàn bản thân mình, vượt qua các thách
thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ không bằng chiến thắng chính bản thân
mình. Chúa Giê-su đã thực sự chiến thắng bản thân mình, hoàn toàn làm chủ
con người mình, bắt thân xác phải vâng phục tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng
thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giê-su Ki-tô,
Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và
đẩy lùi mọi cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn
khiếp nhược, đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp
chúng con kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được
khải hoàn vinh quang như Chúa.
(Mt 26, 14-27, 66)
Với Chúa Nhật Lễ Lá, khai mạc Tuần Thánh, trung tâm của Năm Phụng
Vụ, trong tuần này chúng ta dõi theo hành trình thương khó của Chúa Giêsu, chết
và sống lại.
Niềm vui
Hoan hô Thái Tử nhà Đa-vít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa!
(Mt 21,9)
Nghe đọc những lời trên lúc mở đầu nghi thức làm phép kiệu lá,
tưởng nhớ tới sự kiện Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, dân chúng rủ nhau ra mà
đón : “Đông đảo dân chúng trải áo xuống mặt đường , một số khác lại chặt cành
chặt lá rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vạng dậy
: “Chúc tụng Đấng Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô Chúa trên các
tầng trời” (Mt 21,8-9). Giờ đây mỗi người cầm cành lá trong tay vừa đi vừa hát
“Hoan hô...” thấy thật là vui.
Đám đông dân chúng đón rước Chúa lúc đó hân hoan, ngợi khen, chúc
tụng. Đúng là một bầu khí vui mừng mà chúng ta cảm nghiệm được khi tái cử hành
biến cố năm xưa hôm nay. Chúa Giêsu, Thái Tử nhà Đavít tiến vào Giêrusalem đã
khơi lên bao nhiêu niềm hy vọng nơi tâm hồn những người đơn sơ, nghèo khổ, bị
lãng quên, những người không đáng kể gì trong xã hội. Người thấu hiểu và cảm
thông cảnh lầm than khốn khổ của họ, cúi mình xuống chữa lành những vết thương
thể xác cũng như tâm hồn và tỏ lòng từ bi đối với họ.
Đúng như lời ngôn sứ I-sai-a nói : “Người đã mang lấy các tật
nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” (Mt 8,17). Đó là tình thương
cao cả của Chúa Giêsu, Người đã mang tình thương ấy đi vào thành Giêrusalem.
Chúng ta thật vui mừng và tràn đầy hy vọng, vì thế giới chúng ta sống đang rất
cần tình thương đó.
Thập giá
Niềm vui của dân chúng đang hân hoan, tung hô, chúc tụng Chúa,
bỗng sự đấu tố, đòn vọt, vòng gai và thập giá bao trùm, những lời của Tiên tri
Isaia, bài tường thuật của thánh sử Mátthêu, và những bài đọc phụng vụ khác dẫn
đưa chúng ta vào trong mầu nhiệm Thương Khó và cái chết của Chúa Giêsu. Isaia
mô tả cho chúng ta hình ảnh của một người bị đánh đòn và chịu vả mặt nhục nhã
(x. Is 50, 6). Lời đáp ca: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi, sao Chúa bỏ rơi tôi?”
Giúp chúng ta chiêm ngắm cơn hấp hối của Chúa Giêsu trên thập giá (Mt 27,46).
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô tông đồ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm
Vượt Qua: Chúa Giêsu, “dù là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy
trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc
lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người
lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây
thập tự” (Phil 2, 6- 8).
Một vị Vua cưỡi trên con lừa con, không có đoàn tùy tùng đi theo,
không có một binh đoàn biểu tượng quyền lực tiến vào thành Giêrusalem là Chúa
Giêsu. Người không vào Thành Thánh để nhận vinh dự dành cho các vua trần thế,
cho kẻ có quyền bính, cho kẻ thống trị; Người vào thành để chịu đánh đòn, lăng
mạ và xúc phạm, như Isaia đã tiên báo (x. Is 50,6); Người vào để chịu đội mão
gai và mặc áo choàng đỏ, vương quyền của Người là đối tượng cho sự nhạo cười;
Người vào để bước lên đồi Canvê vai vác khổ giá; Người vào thành Giêrusalem để
chịu chết trên Thập giá. Thập giá là ngai vàng của Người, Người mang lấy Thập
giá trên mình, mang vào mình sự ác, cùng với sự nhơ bẩn, tội lỗi của trần thế
và cả tội chúng ta nữa. Với lòng từ bi và tình thương của Thiên Chúa, Người lấy
máu mình mà tẩy rửa cho sạch. Vì thế, Thập giá được Chúa Giêsu đón nhận với
tình thương không bao giờ đưa tới sầu muộn, nhưng dẫn đến niềm vui, niềm vui
được cứu độ.
Sống Tuần Thánh
Bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội cùng với con cái mình dõi theo Chúa
Giêsu trên hành trình tiến lên đồi Canvê với Thập giá và sự sống lại của Người.
Sống Tuần Thánh là đi vào tình thương hiến thân của Chúa Giêsu hầu mang lại sự
sống cho con người
Lúc sinh thời, Chúa Giêsu đã rong ruổi trên khắp nẻo đường, với
lòng tin, Người đã chọn gọi 12 người đơn sơ để họ ở với và tiếp tục sứ mạng yêu
thương của Người. Trong Tuần Thánh chúng ta sống trọn vẹn cuộc hành trình này.
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để thi hành sứ mạng yêu thương ấy.
Người không sống cách thụ động tình thương dẫn đến hy sinh, hoặc
như một định mệnh không thể tránh được; Người không che giấu được sự xao xuyến
sâu xa của một con người trước cái chết dữ dằn, nhưng phó thác hoàn toàn nơi
Chúa Cha. Chúa Giêsu tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết, để chứng tỏ tình
thương của Thiên Chúa đối với thế gian. Thánh Phaolô cảm nghiệm được rằng, trên
Thập giá, Chúa Giêsu “đã yêu thương tôi và hiến mình vì tôi” (Gl 2,20). Mỗi
người chúng ta có thể nói: Người đã yêu thương tôi và đã phó nộp mình vì tôi.
Nhìn vào Chúa Giêsu trong cuộc thương khó, chúng ta khám phá ra
những đau khổ của nhân loại nói chung và những đau khổ của chính cá nhân mình
nói riêng. Chúa Giêsu, dù vô tội, đã nhận mang lấy vào thân điều mà con người
không thể chịu được như : sự bất công, sự dữ, tội lỗi, hận thù, đau khổ và cuối
cùng là sự chết. Trong Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa phải chịu nhục nhã và đau khổ
để chứng tỏ rằng Thiên Chúa yêu thương tất cả, tha thứ cho tất cả và mang đến
cho con người ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống.
Mỗi năm, với Tuần Thánh, Giáo Hội bước vào trong Mầu nhiệm Vượt
Qua, Mầu nhiệm tưởng niệm cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Chính nhờ sức
mạnh của Mầu Nhiệm Vượt Qua mà Giáo Hội có thể công bố cho thế giới bằng lời
nói và bằng những việc làm tốt của những con cái mình rằng: “Chúa Giêsu Kitô là
Chúa, để Thiên Chúa Cha được vinh hiển” (Phil 2,11). Phải, Chúa Giêsu Kitô là
Chúa, Người là Chúa của thời gian và của lịch sử; là Ðấng Cứu Chuộc con người;
Người là Ðấng Cứu Thế! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến! Hosanna!
Cùng với Mẹ Maria, chúng ta hãy xin với Mẹ là Ðấng đã theo Chúa
Giêsu Con Mẹ trong suốt chặng đường dẫn tới Canvê trong đức tin, giúp con cái
Mẹ vác thập giá với niềm thanh thản và yêu thương bước theo Chúa, để đạt được
niềm vui của lễ Phục Sinh. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Khi Chúa vào Thành Thánh
Chúa Giêsu muốn tất cả thật đơn giản, nhưng giầu ý nghĩa về tính
thiên sai. Trái lại, đám đông từ Galilêa đến dự lễ Vượt Qua lại vui mừng phấn
khởi. Chúa Giêsu tiến vào Thành Thánh, đám đông và đoàn môn đệ cất tiếng ngợi
ca : "Chúc tụng Đấng Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô Chúa
trên các tầng trời” (Mt 21,8-9), làm cho chúng ta nhớ lại lời thiên thần đã hát
trong đêm Giáng sinh : "Vinh danh Thiên Chúa trên trời và bình an dưới thế
cho người thiện tâm" (Lc 2, 14).
Sự nhiệt tình của đám đông gặp phải sự chỉ trích của một số người
Biệt Phái. Chúa Giêsu chấp nhận sự nhiệt tình này bởi nó phát xuất từ trái tim,
cho dù có phù du đi chăng nữa.
Một ngôn ngữ loài người
Toàn bộ sứ mạng của Người Tôi Tớ Đau Khổ được Isaia tóm lại: lắng
nghe để huấn luyện, huấn luyện để loan báo : "Người thức tỉnh tai tôi, để
nghe lời Người giáo huấn … Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện,
để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn" (x. Is 50, 4-7). Thật dễ để
mà nói, "tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những
người phỉ nhổ tôi" (Is 50, 6), nhưng không dễ để mà sống. Vì thế, ta phải
không ngừng lắng nghe Thiên Chúa, để Thiên Chúa huấn luyện ta bằng ngôn ngữ
loài người, để loan báo Thiên Chúa cho anh em.
Người đã không lấy lại
Chúa Giêsu vốn dĩ là Thiên Chúa, chia sẻ tất cả vinh quang của
loài người và vinh quang Thiên Chúa : "Đã trở nên giống như loài người,
với cách thức bề ngoài như một người phàm" (Pl 2,7). Là con người, một tạo
vật có giới hạn trong thời gian, gắn liền với khổ đau, ngược đãi và bị giết
chết. Trở nên giống phàm nhân, ngoại trừ tội lỗi, dù là Đấng vô tội, Chúa Giêsu
đã khước từ vinh quang của Con Thiên Chúa và trở thành con của loài người, để
hoàn toàn liên đới với chúng ta là những người tội lỗi. Không những thế, Người
đã sống giữa chúng ta trong một "điều kiện của nô lệ": không phải như
là vua, cũng không phải là ông hoàng, nhưng là nô lệ. Vì thế Người đã hạ mình,
và vực thẳm sự hạ mình của Người, mà Tuần Thánh cho chúng ta thấy, xem ra không
có đáy, "vâng lời cho đến chết" (Pl 2,8), đành mất tất cả để có được
vinh quang trở về với Thiên Chúa.
Khởi đầu chặng Đàng Thánh Giá
Thánh lễ ngày Thứ Năm Tuần Thánh như là điểm khởi đầu con đường
thập giá, chứ không phải vườn Cây Dầu. Thánh Thể thực hiện hy tế của Thiên
Chúa và ban tặng cho chúng ta những quả phúc tuyệt vời ngay tức khắc. Mỗi khi
cử hành, chúng ta thưa : "Xin đoái nhìn hiến lễ Hội Thánh dâng lên Chúa và
khi Chúa nhận đây chính là của lễ Con Cha đã dâng tiến" (Kinh Nguyện Thánh
Thể III) Chúa Giêsu nói với các môn đệ : "Tất cả các con hãy uống chén
này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được ta tội "
(Mt 26,27-28).
Trong vườn Giệtsimani
Trong thư gửi tín hữu Do thái Chúa Giêsu nói : "Con đến để
làm theo Ý Cha" (Dt 10,9-10) lấy lại những lời Thánh Vịnh (Tv 39, 8).
Nhưng lời đó vẫn tiếp tục và đặt chúng ta vào trong lễ dâng hiến của Chúa Kitô.
Chính trong ý Chúa Cha, Chúa Giêsu đã dâng hiến chính thân mình làm của lễ để
cứu chuộc chúng ta.
Có lần chúng ta bước trượt, lúc đó bàn tay ta không có gì để nắm.
Có lúc trái tim ta bồi hồi trong ta, cuộc sống mất đi ý nghĩa, khi tình yêu tan
rã, tâm trí chúng ta mất hướng. Chúa biết rằng trong vườn cây Dầu, có các môn
đệ ở gần, Người vẫn cảm thấy cô đơn : "Bây giờ các con còn ngủ ư?"
(Mt 26, 45).
Nhưng sự cô đơn không phủ kín trên Người, mà đưa Người đến với lễ
vật tự hiến phổ quát. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê "Để mọi
miệng lưỡi phải tuyên xưng" (Pl 2, 11). Chúng ta phải ra khỏi chính mình,
vượt ra ngoài bóng đêm để tìm kiếm Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn, tìm ánh sáng
của Ngài.
Chối Chúa
Hầu như tất cả các môn đệ khác trốn chạy và bỏ rơi Thày, còn Phêrô
với thanh gươm cầm sẵn trong tay, tin tưởng vào sức riêng mình, ông dồn sức lực
vào sự nhiệt tình với Chúa. Giờ đây ông tìm lại chính mình. Ông biết rõ người
mà tên đầy tớ nữ hỏi ông, nhưng ông vẫn nói : "Tôi không biết người
ấy" (Mt 26,71).
Con gà là con vật không màng chi đến giờ giấc, vào thời điểm đó đã
cất tiếng gáy. Phêrô sau khi chối Chúa, quay lại nhìn Chúa Giêsu, ông sợ hãi.
Lúc này, Chúa không đến nắm lấy tay Phêrô như ngày ông bị chìm trên biển khi
đang đến cùng Chúa. Với cái nhìn yêu thương, giờ đây Chúa Giêsu nhắc nhở Phêrô,
ông quay lại và nhìn Chúa, cái nhìn lén lút, gặp ánh mắt "yêu thương",
ông sực nhớ lời Chúa Giêsu đã nói với ông : "Trước khi gà gáy, con đã chối
Ta ba lần" (Mt 26, 75).
Chúng ta hãy để Chúa Giêsu nhìn chúng ta, cho chúng ta tính xác
thực của tình yêu thương xót vượt trên sự yếu hèn của chúng ta.
Các ông nói, quan nói
Trước Công Nghị, giới lãnh đạo Do thái hỏi Chúa Giêsu xem có phải
là Vua không ? Chúa Giêsu không trả lời. Bị hạ nhục trong tâm hồn với các chế
nhạo, xỉ vả, và khạc nhổ, thân xác phải chịu đánh đập, đòn vọt và mạo gai khiến
cho diện mạo của Ngườii không còn hình tượng người ta nữa. Trước quyền bính tôn
giáo và chính trị: Ngài đã tự biến thành tội nhâ và bị coi là bất chính. Thế
rồi quan Philatô gửi Người qua cho vua Hêrôđê và ông này lại gửi Chúa trở lại
cho quan tổng trấn. Với Philatô, ông lồng chính trị vào khi hỏi Chúa Giêsu :
"Ông có phải là Vua dân Do Thái không?" (Mt 27,11). Chúa Giêsu trả
lời : "Ông nói đúng" (Mt 27, 11). Chúa cũng yêu cầu chúng ta trả lời
cùng một câu hỏi, mà Chúa hỏi các môn đệ : "Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai ?"
Chúa Giêsu không đòi cho mình
Sau khi bị bán với 30 đồng bạc và bị phản bội bởi một môn đệ Ngài
đã chọn và gọi là bạn. Chúa Giêsu trong tư cách là con người bị bỏ rơi và bị
ngược đãi. Người bị nộp vào tay kẻ dữ, bị mạc cả với kẻ sát nhân, phải vác
thánh giá nặng nhục nhã và bị nhạo báng như tên nô lệ. Người khiêm nhường đến
độ không còn được tôn trọng. Người đã tự hủy mình ra không, không còn sức để
vác cây thập giá.
Trong khi Ngài bị khước từ mọi công lý, Chúa Giêsu cũng cảm nhận
trên da thịt mình sự dửng dưng, bỏi vì không ai muốn lãnh trách nhiệm đối với
số phận của Người. Dân chúng biến các lời chúc tụng thành tiếng kêu tố cáo,
thích cho một kẻ sát nhân được trả tự do cho họ hơn. Và thế là Chúa bị chết
trên thập giá, là cái chết đớn đau và hổ nhục nhất dành cho các kẻ phản bội, nô
lệ và các kẻ tội phạm tồi tệ nhất.
Chúa không đòi cho mình một đặc quyền đặc lợi nào, chẳng là gì
trước sự tàn bạo của binh lính, kể cả Simon người Cyrênê, Chúa cũng chẳng là
gì, ông kề vai vác đỡ, chẳng qua ông bị bắt vác mà thôi. Ông không biết ý
nghĩa, cử chỉ vác thánh giá này. Những người nhạo báng hay tên lính lấy bọt
biển nhúng giấm cho Chúa uống, họ có hiểu được không?
Ba năm mỏi chân đi giảng đạo cho muôn dân, với những phép lạ Chúa
làm, an ủi những người ốm đau, bệnh tật, nghèo nàn đã không làm cho họ khám phá
con người thật của Chúa Giêsu. Trong vườn Cây Dầu, một mình đối diện với Chúa
Cha, Chúa không xin điều gì : ngoại trừ xin ơn tha thứ cho những ai làm khốn
mình, vì Chúa đến để mang ơn tha thứ cho mọi người.
Bóng tối và màn Đền Thờ bị xé
"Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù
mịt. Vài khoảng giờ thứ chín thì … Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên
xuống dưới" (Mt 27,45-51). Chúa Giêsu trút hơi thở trao phó linh hồn trong
tay Chúa Cha và từ nay, chắc chắn Người là tác nhân Phục Sinh, hoàn tất điều có
thể trao ban. Lòng thương xót của Chúa chạm tới con tim của viên quản bách
quân, khiến anh ngợi khen vinh quang Thiên Chúa : “Đúng người này là Con Thiên
Chúa" (Mt 27,45-51), và đám đông cảm thấy nhu cầu cần thiết phải được tha
thứ liền đấm ngực ăn năn trở về mừng lễ Vượt Qua.
Giuse người Arimathia với tư cách là môn đệ đã quyết định tự mình
đến xin Philatô cho được tháo đanh táng xác Chúa. Những người phụ nữ thánh
thiện về nhà chuẩn bị thuốc thơm vì hôm sau là lễ Vượt Qua. Các đèn chiếu sáng
ngày Sabát của lễ Vượt Qua bắt đầu tỏa sáng. Nhưng nó vẫn còn tối.
Vinh quang Thiên Chúa sẽ chiếu tỏa vào buối sáng ngày Phục Sinh
khi tấm cửa mộ bị lăn ra như bức màn của đền thờ bị xé. Ngày thứ nhất trong
tuần, sau khi sống lại, Chúa đến gặp mấy người phụ nữ và trao ban sứ mạng loan
báo Tin Mừng Phục Sinh. (x. Mt 28).
Lạy Chúa, chúng con vừa cử hành các mầu nhiệm thánh, Chúa đã ban
cho chúng con được thỏa chí toại lòng. Nhờ Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá,
Chúa làm cho chúng con tin tưởng vững vàng sẽ được ơn cứu độ, thì nhờ mầu nhiệm
Người đã phục sinh, xin cho chúng con đạt tới quê trời như lòng hằng mong ước.
Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đọc bài tường thuật đầy đủ về cuộc Thương Khó của Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta theo thánh Matthêu. Chúng ta không thể không màng chi
đến những sự xảy ra trước đó. Nhiều người không khỏi thắc mắc : một con người
như vậy sao lại kết thúc trên Thánh giá? Đâu là nguyên do dẫn đến cái chết và
ai là người chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Giêsu?
Theo một lý thuyết lưu hành vào thế kỷ 20 sau thảm kịch Shoah,
Hitler tiêu diệt những người Do thái, người ta qui trách nhiệm về cái chết của
Chúa Giêsu cho người Do thái, Philatô và các thẩm quyền Rôma thời ấy, mà động
lực thúc đẩy thuộc bản chất chính trị hơn là tôn giáo.
Bằng chứng là Hội đồng Do thái, đứng đầu là Thượng Tế Caipha đã
họp nhau “bàn với nhau lấy mưu bắt cho được Ðức Giêsu mà giết đi” (Mt 26, 4) ;
“tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người” (Mt 26, 59), chứng gian
tìm không được, Caipha nại vào sự thật để kết án tử hình: “Nhân danh Thiên Chúa
hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa không?” (Mt 26, 63). Ông còn hùng hồn minh họa lời phán
xét bằng cử chỉ xé áo: “Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa?
Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm thượng, quý vị nghĩ sao?” (Mt 26, 65) Cuộc
họp ban đêm kết thúc với lời hô hoán: “Nó đáng chết!” (Mt 26, 66)
Nhưng chuyện không đơn giản, vì muốn giết được Chúa Giêsu phải qua
tay tổng trấn Rôma là Philatô, nên họ “trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn
Phongxiô Philatô” (Mt 27, 2). Philatô không phải là người quan tâm với sự công
chính đến nỗi âu lo về số phận của một người Do thái không tên tuổi; ông ta là
một mẫu người cứng cỏi, độc ác, sẵn sàng đổ máu nếu có một dấu vết rất nhỏ nổi
loạn (x. Lc 13, 1-9). Tất cả sự này là hoàn toàn đúng. Tuy nhiên, ông không ra
sức cứu sống Chúa Giêsu vì thương cảm nạn nhân, nhưng chỉ để ghi một điểm thắng
chống lại những kẻ tố cáo Chúa Giêsu, với họ ông đã có xung đột từ ngày tới đất
Giuđêa. Dĩ nhiên, sự này không giảm bớt trách nhiệm của Pilatô trong việc lên
án Chúa Giêsu, một trách nhiệm ông đã chia sẻ với những nhà lãnh đạo Do thái.
Khi gặp Chúa Giêsu, Philatô hỏi : “Ông có phải là vua dân Do thái
không?” Câu trả lời của Chúa xem ra bí ẩn : “Chính ông nói đó” (Mt 27, 11).Tổng
trấn Philatô rất đỗi kinh ngạc, lại thêm lời của vợ ông : “Xin ông đừng can
thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi
đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”(Mt 27, 19).
Đối diện với những kẻ đòi giết Chúa Giêsu, Philatô không biết làm
sao, ông nghĩ ra trò tráo mạng Giêsu bằng cách đưa cho dân “một phạm nhân khét
tiếng tên là Baraba” (Mt 27, 16), để may chăng dân chúng tha cho Chúa Giêsu,
nhưng ông đã lầm, dân chúng càng hô to: “Tha Baraba , giết Giêsu [ ...] Đóng
đinh nó vào thập giá” (Mt 27, 20-22). Kế sách không thành, nên ông lấy nước rửa
tay trước mặt dân chúng và nói: “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ
các ngươi ”(Mt 27, 24). Các thượng tế và kinh sư chấp nhận: “Máu hắn cứ đổ trên
đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27, 25). Philatô nhượng bộ hoàn toàn:
“phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi
đóng đinh vào thập giá” (Mt 27, 26).
Khi quyết định trao nộp Chúa Giêsu thì ông cũng đi vào cái vòng di
chuyển của họ. Tin Mừng được giả thiết là đã minh oan cho Philatô và tố cáo
những người lãnh đạo Do thái chủ mưu giết Chúa. Chính thánh Phaolô khi tường
thuật về án tử của Chúa Giêsu giống như các sách Tin Mừng mô tả, ông viết
“những người Do thái đã giết Chúa Giêsu” (1 Tx 2,15).
Từ những tường thuật về cái chết của Chúa Giêsu trong Talmud và
trong những tài liệu Do thái khác, truyền thống Do thái không bao giờ từ chối
sự tham gia của các nhà lãnh đạo tôn giáo thời đó trong việc lên án Chúa Giêsu.
Họ không bênh vực mình bằng sự chối bỏ hành động, nhưng nếu có hành động nào,
họ đã chối rằng hành động đó, từ viễn ảnh Do thái, làm thành một tội ác và án
tử Chúa Kitô Giêsu là một án bất công.
Như vậy, đối với câu hỏi, “ tại sao Chúa chết ? ” Sau tất cả những
nghiên cứu và những sự lựa chọn được đề nghị, chúng ta phải đưa ra cũng một câu
trả lời như trong các Tin Mừng là Người bị kết án vì những lý do tôn giáo. Kết
luận, các thẩm quyền tôn giáo và các thẩm quyền chính trị, các thủ lãnh Công
Nghị và quan tổng trấn Roma, cả hai đã tham gia, vì những lý do khác nhau,
trong sự xử án Chúa Kitô.
Phần lớn chúng ta, những người tin Chúa Giêsu đều nghĩ rằng chính
những người Do thái đã giết Chúa. Chúng ta cũng thường qui kết cho Giuđa là kẻ phản
bội đã bán đứng Thấy, kẻ tiếp tay cho các thượng tế và kinh sư bắt nộp Chúa.
Xem ra chỉ có Giuđa và giới lãnh đạo Do thái mới nhìn nhận mình có liên quan
đến cái chết của Chúa Giêsu, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng
bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng :“Tôi đã phạm tội nộp máu
người công chính”. Các thượng thế phủi tay với Giuđa : “Can gì đến chúng tôi.
Mặc kệ anh”. Còn Philatô rửa tay trước mặt họ: “Ta vô can trong vụ đổ máu người
này. Mặc các ngươi liệu lấy”.
Thế là Giuđa nộp máu người vô tội, Philatô cũng nộp máu người vô
tội. Các thượng tế và đám đông hứng máu người vô tội cho mình và cho con cháu
khi đáp : “Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi” (Mt 27, 25).
Mỗi khi Tuần Thánh về, đọc lại bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô Chúa
chúng ta, Giáo Hội muốn mỗi người chúng ta, thay vì đổ tội cho người Do thái,
thì nhìn thấy trách nhiệm của mình trong cái chết của Chúa Giêsu. Chúa đã chết
vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Thánh Kinh. Tội lỗi làm cho chúng ta xa lìa
Thiên Chúa và tha nhân, chống lại Thiên Chúa và chống lại nhau, dẫn đến nguy cơ
mất ơn cứu độ. Nên Thiên Chúa đã vì loài người chúng ta, và để cứu độ chúng ta,
Người đã từ trời xuống thế…chịu đóng đanh, chị chết để chuộc tội cho chúng ta.
Khi ta từ chối Chúa và chương trình thiêng liêng của Người, hay
xúc phạm đến Thiên Chúa, không sống xứng đáng là con Thiên Chúa, chúng ta chịu
trách nhiệm cách đặc biệt hơn vào cái chết của Chúa. Mỗi lần chúng ta phạm tội
bất công, lỗi đức bác ái, gây gương mù gương xấu, cộng tác với sự dữ gây tác
hại trực tiếp cho tha nhân, làm hại bản thân, gây thiệt hại cho cả Hội Thánh
nữa là chúng ta làm khổ nhau, nhất là làm cho Chúa phải đau phiền và phải chết.
Ước gì khi suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta
thêm lòng tin vào Chúa, yêu mến Chúa cách mãnh liệt hơn, và đặt tất cả lòng cậy
trông vào Chúa. Chúng ta tin Chúa Giêsu đã chết vì tội lỗi chúng ta, nhưng
Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Cùng với tất cả các Kitô hữu trên toàn thế giới, chúng ta bước vào
Tuần Thánh. Ngày lễ này được gọi là “Lễ Lá” bởi sự kiện dân chúng cầm ngành lá
thiên tuế đi đón Chúa Giêsu khi Người long trọng tiến vào thành Giêrusalem.
Thánh lễ khởi đầu với bầu không khí hân hoan tưng bừng và kết thúc trong trầm
buồn lặng lẽ, để mời gọi các tín hữu suy tư mầu nhiệm thương khó và thập giá sẽ
được cử hành trong Tuần Thánh.
Bài Thương khó theo Tin Mừng thánh Mátthêu khởi đầu bằng sự
phản bội của Giuđa, một trong mười hai tông đồ. Giuđa đã được Chúa gọi, nuôi
dưỡng và dạy dỗ. Vì tham tiền bạc mà ông đã phản bội Thày mình. Không chỉ có
Giuđa, chúng ta còn thấy một số kỳ lão, người biệt phái, luật sĩ và đám đông
dân chúng cũng đua nhau tố cáo Chúa. “Hội chứng đám đông” đã khiến những người
này hăng hái và liên kết lại với nhau để vu khống cho Chúa đủ điều. Các môn đệ
hằng ngày thân thiết và hăng hái với Thày, lúc này xem ra cũng yếu đuối, run
sợ, thậm chí còn chối Thày như trường hợp Phêrô.
Đối lại với một Giuđa phản bội và một đám đông dân chúng
đang bừng bừng căm giận, Chúa Giêsu vẫn khiêm tốn và trung thành. Người chấp
nhận đi cho đến cùng chặng đường sứ mạng Thiên sai. Người không dùng bạo lực để
đối lại với bạo lực. Cuộc xét xử bất công của Công nghị Do Thái đã lên án người
vô tội. Chúa Giêsu đã chết trên thập giá để đền thay cho tội lỗi loài người.
Người đã đau khổ cho con người hạnh phúc, đã chết cho con người được sống.
Hai bài đọc (Bài đọc I và bài đọc II) đều nhắc đến hình ảnh người
Tôi tớ Trung thành trong đau khổ. Giáo Hội Kitô đã nhận ra Người Tôi tớ đau khổ
mà ngôn sứ Isaia tiên báo nơi Đức Giêsu Kitô. Người đã mang trên thân mình
những đau khổ của cả nhân loại mà không than van (Bài đọc I). Người đã “hủy
mình ra không” để trở nên thân phận tôi đòi (Bài đọc II). Đức Giêsu chấp nhận
tất cả những điều đó, vì vâng lời Chúa Cha và vì yêu thương nhân loại. Người
cũng làm gương cho chúng ta, để rồi, trong cuộc sống còn nhiều gian nan thử
thách này, chúng ta biết vác thập giá đời mình và vác thập giá cho nhau.
Hai mươi thế kỷ sau cái chết của Đức Giêsu, Giáo Hội Kitô
vẫn không ngừng tôn vinh cây thập giá, như cờ hiệu chiến thắng và như biểu
tượng tình yêu. Khi tham dự phụng vụ hôm nay, mỗi người được mời gọi suy tư về
thái độ sống của mình. Nghi thức làm phép lá và kiệu lá nhắc chúng ta, cuộc
thương khó của Chúa vẫn đang diễn ra nơi những người đau khổ, nghèo hèn, bệnh
tật, bị áp bức và thiệt thòi bất công trong xã hội hôm nay. Chúa đang đi qua
cuộc đời này. Có những người đón tiếp Chúa, nhưng cũng có những người dửng dưng
trước việc Chúa đi ngang qua cuộc đời họ, thậm chí có những người từ chối Chúa
và gạt Người ra bên lề cuộc sống. Tiếng gọi của Chúa là tiếng gọi khiêm tốn,
đôi khi bị lấn át bởi biết bao âm thanh hỗn tạp của “biển đời” đầy bon chen và
giành giật. Vì thế, để lắng nghe lời của Người, chúng ta phải trút bớt khỏi tâm
hồn những toan tính, tham vọng. Chúa thường tâm sự với những ai biết chuyên tâm
cầu nguyện và những tâm hồn thích sống trong lắng đọng nội tâm. Ngày lễ Lá giúp
chúng ta tự vấn lương tâm: chúng ta đón Chúa với tâm tình nào? Phải chăng là
dửng dưng như một số người dân thành Giêrusalem năm xưa? Hoặc như một số người
nhiệt thành tung hô Chúa, nhưng rồi sau đó thay lòng đổi dạ, giơ tay tố cáo
Chúa và xin Philatô đóng đinh Người trên thập giá? Lời Chúa hôm nay vừa nêu cao
hình ảnh Đức Giêsu như một Tôi tớ tín trung của Thiên Chúa, vừa mời gọi chúng
ta hãy noi gương Người, trung thành và kiên vững trong đời sống đức tin.
Sau khi tham dự Lễ Lá, chúng ta sẽ mang theo một vài cành lá đã
được làm phép về nhà. Cành lá này nhắc lại điều chúng ta đã hát: “Chúc tụng
Đấng nhân danh Chúa mà đến”. Cành lá này cũng nhắc chúng ta về lòng trung thành
với Chúa trong đời sống. Sứ mạng của mỗi Kitô hữu là sống và làm chứng cho Chúa
trong cuộc sống hằng ngày. Người muốn chúng ta hãy là chứng nhân loan báo sự
chết và phục sinh của Người cho đến tận cùng thế giới. Người muốn mỗi chúng ta
cũng biết hy sinh cho nhau, để cuộc sống này trở nên nhân ái và công bình hơn.
Người còn muốn chúng ta hãy tiếp nối sứ mạng của Người xây dựng Nước Trời, một
công trình được thực hiện ngay ở đời này và sẽ hoàn thành khi Người lại đến
trong vinh quang. Trong suốt Tuần Thánh này, chúng ta hãy liên kết mật thiết
với Chúa trong lời cầu nguyện.
Mỗi khi cử hành Hy lễ Tạ ơn, chúng ta được đón nhận những hoa trái
của cuộc thương khó Đức Giêsu. Người ban cho chúng ta không chỉ Mình và Máu
Người, mà còn sự kết hợp mật thiết với Chúa Cha. Người đã khởi đầu nơi
chúng ta một cuộc sống quảng đại và sự liên kết tiến tới sự thân tình trọn vẹn
với Thiên Chúa là Cha của Người.
.
Lm. Đaminh Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem
để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công
hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người
đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa,
việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là
ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận
Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những
người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt
nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một
vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái
đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân
tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của
họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa
Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn
nhác, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công
chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu
cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3
lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại
chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang
khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một
Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong
giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ
theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản
bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò,
đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với
Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một
lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra
khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên
trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi
người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì
chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời
gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần
thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu
hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo
Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả
khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con
đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt
giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để
đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời,
ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích
kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao
dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách
đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn
độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng
hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta
trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng
đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh
với Ngài.
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
(Phỏng theo bài suy niệm của giáo sư Peter Feldmeier)
Bước vào tuần thánh, chúng ta tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu
tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, chúng ta đi từ vinh quang sáng chói, khi
được toàn dân đón chào, đến cái chết bi thương và nhục nhã trên Thập giá. Thoạt
đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một lãnh tụ oai hùng, nhưng cuối cùng họ đã
trở mặt. Tất cả đã đồng thanh đả đảo và kết án Ngài như một tên tội phạm.
Giêrusalem, thành phố của những đối nghịch
Đỉnh điểm của mùa chay là cuộc hành trình lên Giêrusalem, một
thành phố đầy những mâu thuẫn trái ngược. Giêrusalem là kinh thành có đền thờ
thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời cũng là nơi sùng bái những ngẫu
tượng. Đây là chốn biểu thị niềm tin tôn giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù
khủng khiếp. Giêrusalem là thành phố của ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới
ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu,
nhưng sau đó họ đã trở mặt, lòng chất đầy phẫn nộ và sự căm thù. Giuđa thì bán
đứng vị tôn sư khả kính. Trò phản thầy cách gian ác và tàn nhẫn. Các đầu mục
tôn giáo thì quá quỷ quyệt đã dàn dựng một phiên tòa giả dối. Riêng các môn
sinh nghĩa thiết nhất lại vội quên thầy của mình. Họ ngủ vùi trong mệt mỏi và
cuối cùng đã lặng lẽ tháo lui. Phêrô thì quá khiếp hãi đã thẳng thừng chối bỏ
vị tôn sư đáng kính. Còn Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức
Giêsu cho dù ông biết Ngài hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ
mỉa mai chửi bới và không tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng
lại xin tha Baraba và đòi giết Đức Giêsu. Baraba, theo nguyên ngữ Aram, có
nghĩa là ‘con của cha’. Họ đã chọn để xin tha một người ‘con’ với quá khứ đặc
kín tội ác, và đòi kết án người ‘Con’ duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô
tội đã gánh trên vai tội lỗi của cả trần gian. Giêrusalem quả là nơi nhức nhối
đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Niềm tin kiên định nơi Đức Giêsu
Sự kiên định trong niềm tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của Thập
giá là một chứng tá và cũng là khuôn mẫu tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong
thơ gửi giáo đoàn Philip mà Giáo hội đọc lên trong phụng vụ hôm nay, Thánh
Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và
biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho
rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh thi rất quen thuộc thời xưa. Phần dẫn
nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài đã viết những câu giới thiệu như sau:
“ Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ
chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần khí, nếu chúng ta sống thân
tình và biết cảm thương nhau…, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu
Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị Tông đồ đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở: “
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa
vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy
thân nô lệ”. Bài Thánh Thi đã mô tả Thập gía như cách diễn bày sự khiêm nhường
và vâng phục sâu thẳm nơi Chúa Giêsu. Kết quả của hành vi tự biến mình ra
không, là ‘Thiên Chúa đã tôn vinh Người và mọi loài phải mở miệng tuyên xưng
rằng Đức Giêsu Kitô là Chúa’.
Thông thường, người ta vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận
làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ nơi dáng vẻ bi thương của Thập gía. Đức
Giêsu đã hạ mình, giấu bỏ thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ cho
đến chết và chết trên Thập gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh
song đối, nhưng khác nhau hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo
thành, giống hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang
bằng Thiên Chúa, vì kiêu ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là Ađam đã sa ngã trong
tội dẫn đến cái chết. Ngược lại, Đức Giêsu – Ađam mới, đã sống khiêm tốn
và vâng phục, trút bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được
siêu thăng và đã mở ra cho nhân loại chân trời ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để
chúng ta thấu đạt cả hai cách diễn nghĩa liên kết với nhau. Chúa Giêsu là Ađam
mới, và cũng là người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá mình, mang
lấy tình trạng tội lỗi của Ađam xưa, tình trạng sống kiếp nô lệ, và tiến nhận
cái chết để giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải chết.
Khi suy gẫm việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho
niềm tin mạnh mẽ vào Thiên Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên
Thập giá, có lẽ chúng ta vẫn nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước những gì sẽ xảy
ra. Nếu quả như thế và Đức Giêsu không thể có một sự chọn lựa nào khác, rồi sau
đó Ngài biết chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những
giây phút hấp hối kinh hoàng của Chúa trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì
nữa. Tại sao Chúa lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu lại tuôn đổ
đến mức thảm thiết như vậy? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với
Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7) :“ Cha ơi, nếu có thể, xin hãy cất chén
đắng này xa con”? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì
tại sao trên Thánh giá Ngài vẫn phải thét gào một cách não nuột: “Cha ơi, sao
Cha bỏ rơi con”? Thánh Phaolô đã cho chúng ta thấy rằng, vì Đức Kitô đã tự hư
vô hóa mình, đã tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn
tín thác vào Chúa Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của
Thập giá và cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong
vinh quang, thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám
nữa. Song, khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài
biết, Ngài vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất
và đã hoàn toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả
vẻ bi thương trong kiếp người, mang trên vai mọi tội lỗi trần gian, để có thể
nhận ra nơi Ngài một niềm tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối. Đây là
nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối diện trước những bầm dập và
tan tác trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh qua những phút giây bi
thương như thế chưa, khi chúng ta bị mất hết, bị nhấn chìm trong bóng tối của
khiếp hãi? Khi gặp những bầm dập cay đắng, khi bị bạn bè xa tránh, bị rơi vào
chán chường hay tuyệt vọng…, chúng ta có cảm thấy như đang bị Thiên Chúa bỏ rơi
hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở Giêrusalem và ở trên Thập giá.
Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu lần so với những khổ đau mà
chúng ta đang gặp phải.
Kết luận
Trong tuần này, Giáo hội muốn chúng ta cùng với Đức Giêsu đi vào
lộ trình lên Giêrusalem, để thông dự vào những giờ khắc đen tối nhất trong cuộc
đời tại thế của Ngài.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
Trong trình thuật Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn
Phúc Âm đều ghi nhận chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô
và Lu-ca còn xác định chi tiết hơn: Người cỡi lên ‘con lừa con chưa ai cỡi bao
giờ’. Hình ảnh Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa
thật ấn tượng; ấn tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức
tranh Na-pô-nê-ôn oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của
Jacques-Louis David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời
ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!… Vì kìa Đức Vua
của ngươi đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm
tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ” (Dcr 9:9). Các nhà chú
giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như “Các ngôn sứ đã loan
báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, như
người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng quân”
(Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải thích được
gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như một lối trình
bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi
lừa chẳng có một ý nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua,
các quan án hay mọi người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10:3; 1:14;
1Sm 25:23). Lừa đồng thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả
vùng Pa-lét-tin thời đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du
nhập, lừa mới trở thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng
của thời chiến. “Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!”. Đức
Giê-su tự giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời
thường, của hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh
chiến đánh đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này,
trước mặt tổng trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng
tuyên bố cùng một nội dung đó (Ga 18:36-38).
Đối với những ai am tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết ‘Vua ngươi hiền
hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ’ chắc hẳn
sẽ gợi nhớ hai giai thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông
Bi-lơ-am. Câu chuyện sách Sáng thế chương 22 thuật: “Ông Áp-ra-ham dậy sớm,
thắng lừa, đem theo hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt
của lễ toàn thiêu… rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo… Sang ngày thứ ba,
ngước mắt lên, Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: “Các anh ở lại
đây với con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi
sẽ trở lại với các anh”… Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu
đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng
đi…” I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang nặng.
Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân
Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba
lần con lừa ‘thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay…’
và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: “Con lừa cái
thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta, thì
chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống…” Một con lừa gợi
nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức Giê-su khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng
lừa không đơn thuần chỉ là một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả
một mạc khải vĩ đại về Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh ‘cỡi lừa’
này chính là một phần của mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga
3:14-18). Nó nói lên một Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó
là hình ảnh rất Do Thái về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và
tha thứ; một đấng Mê-si-a, ‘Đấng ngự đến nhân danh Chúa’ phải là như thế, không
thể nào khác được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và
đón nhận Người cách nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp
hèn? Nếu con không biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ
nơi mầu nhiệm Thập Giá, thì y như Chúa nói: “sỏi đá cũng sẽ kêu lên!” Xin cho
tâm hồn con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn
tiếng ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con!
A-men.
.
Tu sĩ Jos. Vinc. Ngọc Biển
Hôm nay, Giáo Hội hoàn vũ cử hành long trọng biến cố Đức Giêsu vào
thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Trên hành trình ấy có các môn đệ,
những người phụ nữ đã theo Ngài từ lâu, và cả những người đã từng chịu ơn hoặc
vì hiếu kỳ nên đi theo Ngài.
Cuộc vào thành của Đức Giêsu lần này cũng như các diễn biến trước
và sau đó có nhiều điều lạ thường. Thật vậy, trong cuộc đời sứ vụ, từ lời nói
đến hành động của Ngài nhiều khi hàm chứa những sự mâu thuẫn đối với cuộc sống
và con người đương thời, cho nên họ không thể hiểu được, và vì thế, dẫn đến cái
chết của Đức Giêsu.
Sự mâu thuẫn từ phía Đức Giêsu
Người ta thường nói: “Mâu thuẫn thì có thể sẽ làm sáng tỏ chân lý
tốt”.Thật vậy, trong công cuộc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu
đã nhiều lần nói đến sự mâu thuẫn này.
Trước tiên, về những lời dạy mang tính mâu thuẫn: ví dụ như khi
nói về sự tự hủy, Ngài đã dùng hình ảnh hạt lúa mục nát để sinh bông hạt mới;
hay“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở
đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (x. Ga 12, 24-25); về
sự khiêm nhường, Ngài phán: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ
mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11); khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ rốt hết,
để được người ta mời lên chỗ danh dự (x. Lc 14, 7-10); vì “ Chúa hạ bệ những ai
quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52); về sự hối cải, Ngài
nói: cả triều thần Thiên Quốc “… ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn
sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn
năn” (Lc 15, 7); về sự từ bỏ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác
thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).
Tiếp theo, Đức Giêsu đã nói và áp dụng sự mâu thuẫn đó vào chính
mình như sau: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng
kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9, 22);“Phần tôi,
một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga
12, 32); và Ngài đã sống sự mâu thuẫn ấy khi dân chúng tôn mình làm vua thì lại
bỏ chốn và khi dân chúng không tôn thì lại vào thành như vị vua; rồi lạ lùng
trong tiến trình “đăng quang”: Ngài là Vua, tiến vào thành của mình, nhưng lại
khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Dc 9,9). Là Vua, nhưng
không có vương miện, chỉ có vòng gai; không có vương trượng, chỉ có cây sậy;
không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhuốc nhơ; không có câu tán tụng, chỉ có lời
nhạo báng khinh chê; không thống trị bằng sức mạnh, chỉ có phục vụ trong yêu
thương cho đến chết và chết trên thập giá vì yêu.
Như vậy, những sự mâu thuẫn đến lạ lùng của Đức Giêsu đều nhằm làm
toát lên sự vâng lời tuyệt đối của Ngài với Thiên Chúa Cha và vì yêu thương,
cứu độ con người. Cả cuộc đời, con người và sứ vụ của Đức Giêsu đều muốn lộ
hiện một vị Thiên Chúa là Tình Yêu.
Sự mâu thuẫn từ phía dân chúng
Ở đời có câu: “Dò sông dò biển dễ dò – Mấy ai lấy thước mà đo lòng
người”. Thật vậy, khi sống bên Aicập, dân Israel ngày đêm cầu khấn danh Đức
Chúa, xin Người đến cứu họ khỏi ách nô lệ tủi nhục cơ cùng, Đức Chúa nhận
lời và đã cho Môisê dẫn dân ra khỏi Aicập, thoát khỏi cảnh áp bức bạo tàn.
Nhưng chẳng bao lâu, họ gặp có chút thử thách, nhưng họ đã than trách Chúa, và
nhớ những củ hành, củ tỏi bên Aicập. Tệ hơn nữa, đã đúc bò vàng để thờ lạy thay
Đức Chúa, Đấng đã cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Đây chính là sự mâu
thuẫn do sự bất trung của dân với Đức Chúa.
Sang thời Đức Giêsu cũng vậy, trong giai đoạn này, những người
Dothái đã chứng kiến các phép lạ của Đức Giêsu làm, nào là chữa lành bệnh tật,
trừ quỷ, cho người chết sống lại, và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng… Vì thế,
họ tâm phục Đức Giêsu, nên khi vào thành, dân chúng đã tung hô Ngài là con vua
Đavít, là Vua Israel. Và như là sự tất yếu, họ đã chặt cành lá lót đường và
trải áo mình để Đức Giêsu đi qua. Cuộc diễu hành rầm rộ làm nao lòng những nhà
lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời bấy giờ. Tuy nhiên, vẫn những người đã tôn
vinh, chúc tụng Đức Giêsu hôm nào, thì chẳng bao lâu sau, họ đã toa dập với thế
lực sự ác để làm chứng gian hại Ngài và hô vang: hắn đáng chết; đóng đinh nó
vào thập giá…
Sự thật đã rõ, họ cung chúc Đức Giêsu chỉ vì hy vọng Ngài làm Vua
để thống lãnh theo kiểu trần gian, đánh đông dẹp bắc, giải thoát họ khỏi ách
thống trị của Đế Quốc và nhiều khi theo Chúa chỉ vì cái bụng, vì những ân huệ,
bổng lộc thức thời… Và, họ đã bị thất bại khi không được Đức Giêsu đáp ứng
những yêu sách đó, vì thế, họ đã sẵn sàng giơ tay ủng hộ án tử cho Đức Giêsu.
Đây là sự mâu thuẫn lòng dân với con người và sứ vụ của Đức Giêsu.
Hai sự mâu thuẫn dẫn đến hệ quả khác nhau
Thật vậy, sự mâu thuẫn trong lời giảng dạy, lối sống và hành động
của Đức Giêsu thể hiện rõ nét sự vâng phục, khiêm nhường, tự hạ, yêu thương và
cứu chuộc con người.
Như vậy, mâu thuẫn nơi Đức Giêsu làm cho con người được kết hiệp
mật thiết hơn với Thiên Chúa và tha nhân để đạt được tình trạng tự do và hạnh
phúc thực sự khi đã loại trừ cái tôi ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để hướng tha.
Còn sự mâu thuẫn của những người Dothái thì hoàn toàn khác:
Khác là chỉ vì cái bụng của họ, do ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo hay
những mục đích tầm thường rẻ tiền.
Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa hay Đức Giêsu cũng chỉ vì cái bụng.
Hoặc chỉ vì danh vọng, chức quyền, lợi nhuận cá nhân hay tập thể, chứ không
phải vì yêu mến, tin tưởng, phó thác.
Sự mâu thuẫn này nơi dân Dothái lộ hiện rõ bản chất thực dụng hay
ý đồ đen tối của họ. Vì thế, dẫn đến sự đối đầu. Đức Giêsu không đối đầu với
họ, nhưng tự họ trở nên bất ổn nên dẫn đến hệ quả là khước từ Thiên Chúa để thờ
bò vàng, rồi đến lượt Đức Giêsu, họ tìm cách loại Ngài ra khỏi môi trường và
cuộc sống của họ.
Người kitô hữu sống sự mâu thuẫn của Tin Mừng
Ngày hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội không mấy chân
thực. Đời sống đạo đức bị đảo lộn rất nhiều. Phong tục tập quán tốt dần dần
được thay thế bằng những trào lưu tục hóa, nhất thời… Đây chính là sự mâu thuẫn
luân thường đạo lý trong xã hội.
Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó trong xã hội những
chuyện:“Chân lý thuộc về kẻ mạnh”; vẫn còn đó những chuyện thỏa hiệp, toa rập
để cho hận thù, chia rẽ lên ngôi; vẫn còn đó những chuyện vì miếng cơm manh áo,
vì lợi nhuận cá nhân, củng cố chức quyền mà sẵn sàng bất chấp bán rẻ lương tâm
để cho lương tháng được nhiều. Những người có lương tri và đạo hạnh lại là mối đe
dọa của sự bất công, suy đồi và gian dối.
Nếu chúng ta thuộc về những thành phần như thế, ấy là lúc chúng ta
làm cho những vết thương của Đức Giêsu tiếp tục rỉ máu, và cuộc thương khó của
Đức Giêsu không ngừng tái diễn, khiến Ngài phải đau khổ, tủi nhục đắng cay và
ngay cả cái chết qua những hành vi, lựa chọn sai lầm và tàn nhẫn của con người.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết can đảm lựa chọn cho
mình sự mâu thuẫn của Chúa, để trong cuộc sống của chúng con toát lên vẻ đẹp
của sự vâng phục, khiêm nhường và yêu thương như Chúa vì hạnh phúc và ơn cứu độ
của con người. Amen.
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Ngày hôm, Phụng vụ cho chúng ta thấy “ Đức Giêsu mạc khải Ngài là
Đấng Thiên Sai. Tuy nhiên, Ngài là Đấng Thiên Sai đem an bình, hòa giải, Đấng
Thiên Sai giầu lòng thương xót chứ không phải là Đấng Thiên Sai mang sự chinh
chiến “. Đức Giêsu là Đấng Thiên Sai đem hòa bình cho nhân loại, nhưng thực tế,
người Do Thái cứng lòng,đặc biệt những vị lãnh đạo tôn giáo, các Kinh sư, Biệt
phái và Pharisêu lúc đó đã căm thù, ghen ghét Ngài vì Ngài không đi theo đường
lối của họ…Do đó mới có bản án bất công…
Đọc Tin Mừng Nhất Lãm và Tin Mừng của Thánh Gioan chúng ta hiểu
được thế nào sự can đảm của Đức Giêsu khi Ngài tiến vào Giêrusalem, vào Giêrusalem
đồng nghĩa với việc chấp nhận cái chết. Chúa Giêsu phải can đảm sâu xa, mạnh mẽ
khi tiến về Giêruasalem vào dịp lễ Vượt Qua. Ngài can đảm đến dộ anh hùng như
Tin Mừng của Thánh Gioan giải thích :” Sắp đến lễ Vượt Qua, và rất nhiều người
đi Giêrusalem…Họ đang tìm Đức Giêsu…và hỏi han nhau “ Bạn nghĩ thế nào, bạn
nghĩ sao ? Chắc Ngài chẳng đến dự lễ đâu !”. Bọn tư tế và biệt phái đã ra lệnh
: bất cứ ai biết Đức Giêsu ở đâu thì phải báo cáo ngay để họ bắt Ngài “ ( Ga
11,55-57 ). Chính vì thế, mọi người đều có quyền lo ngại cho Đức Giêsu khi Ngài
cứ tiến vào thành Giêrusalem. Vậy, ý nghĩa sâu xa về việc Đức Giêsu đi vào
Giêrusalem và cách thức dân chúng tung hô, đón tiếp Ngài ? Chúng ta hãy lắng
nghe thánh Gioan diễn tả :” Đức Giêsu tìm thấy một con lừa và cỡi lên nó, đúng
như lời Kinh Thánh dạy : Hỡi thành Sion, đừng sợ, này đây Vua ngươi đến, Ngài
đang cỡi trên một chú lừa con “ ( Ga 12, 14-15 ). Chúa tiến vào thành, dân
chúng trải áo trên đường, trẻ con, người lớn cầm trên tay những cành lá thiên
tuế và reo lên :” Hosanna! Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến ! Hoan hô Vua
Israen ! “ ( Ga 12,13 ). Thánh Gioan lại kết thúc bài mô tả bằng cách khác
thường :” Lúc đó các môn đệ Đức Giêsu chưa hiểu điều ấy, nhưng khi Đức Giêsu đã
được tôn vinh, họ mới nhớ lại lời Thánh Kinh viết điều này về Ngài và chính họ
đã thực hiện điều ấy cho Ngài “ ( Ga 12, 16 ).
Giacaria đã loan báo trước Đấng Mêsia sẽ cưỡi lừa tiến vào
Giêrusalem. Giờ đây Chúa Giêsu đang thực hiện lời tiên báo của Giacaria. Ngài
xác nhận Ngài là Đấng Mêsia và Ngài mạc khải cho biết sứ mệnh thiên sai của
Ngài.Đức
Giêsu đã được dân chúng tung hô, reo hò mừng rỡ và sau đó, chính
đám đông lại la hét, kết án Chúa Giêsu dù Ngài không có tội tình nào ! Dân
chúng không hiểu biết gì chỉ nghe lời xúi giục của những lãnh đạo, các tư tế,
thượng tế, ký lục , kỳ mục để hò hét, chống đối và lên án Chúa Giêsu. Phiên tòa
được mở ra một cách vội vã dù rằng ai cũng biết Chúa Giêsu chẳng hề có tội gì.
Thẩm phán của phiên tòa là ông Philatô, công tố viên là các thượng tế và kỳ mục,
còn bị cáo là Chúa Giêsu. Dân chúng dự phiên tòa bất công này đều là những
người được mua chuộc. Phiên tòa thật kỳ cục, là người công chính, thánh thiện
lại bị xử như một tên tội đồ. Thay vì, tòa án phải tìm kiếm, phải bảo vệ sự
thật nhưng thực tế vì ganh ghét, tỵ hiềm, hận thù, tư lợi, các thượng tế, kỳ
mục đã toa rập cáo gian Chúa Giêsu . Vì sợ mất chức, mất quyền hành, mất địa
vị, Philatô dù biết rõ Chúa Giêsu vô tội nhưng ông không dám bảo vệ Chúa. Bởi
vì Philatô đang ngồi trên tòa xét xử thì bà vợ sai người đến nói với ông :” Ông
đừng nhúng tay vào vụ người công chính ấy, vì hồi hôm, tôi phải khổ nhiều trong
mộng vì người ấy “ ( Mt 27, 19 ) và “ Bởi ông đã biết là vì ganh tị mà họ đã
nộp Ngài “ ( Mt 27, 18 ). Philatô hoàn toàn im lặng, đồng lõa với sự gian dối,
không hề bênh vực Chúa Giêsu. Philatô đã lấy nước lã rửa tay trước mặt dân và
nói :” Ta vô tội về máu người này; các người tự liệu lấy “ ( Mt 27, 24 ). Chính
vì tư lợi và ghen ghét, Philatô đã bóp chết sự thật.Ông đã hèn nhát, vô liêm sỉ
khi im lặng trước lời vu cáo của dân chúng. vÀ dân chúng đã bất công la hét,
kết án, cáo gian, vu khống cho Chúa Giêsu.
Thật vậy, tòa án và bản án bất công đã được gán ghép cho Chúa
Giêsu, nhưng Ngài đã im lặng vì yêu thương nhân loại và chấp nhận ý định của Thiên
Chúa để cứu rỗi nhân loại, cứu độ con người.
Vâng, con người muôn thời vẫn còn những chuyện như thời Chúa
Giêsu. Mỗi lần con người đó kỵ, hận thù, hiềm khích, đặt điều, nói xấu và kết
tôi nhau là con người lại gán cho nhau những bản án bất công.
Hôm nay chúng ta cũng đang đón mừng một Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai,
Đấng Cứu Độ. Ngài muốn đi sâu vào tâm hồn chúng ta một cách đặc biệt trong Tuần
Thánh này. Chính Đức Giêsu , Đấng Cứu Thế đang hiện diện giữa chúng ta ngay lúc
này, tại đây khi chúng ta bắt đầu nghi thức rước lá.
Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ. Vạn tuế Đấng nhân danh Chúa mà đến !
Vạn tuế Đức Vua của Israen ! Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Chúa Giêsu đi vào thành thánh Giêrusalem để làm gì ?
2.Ngài đi bằng gì vào Giêrusalem ?
3.Dân chúng đã làm gì ?
4.Philatô có dám bênh vực Chúa Giêsu không ? Tại sao ?
5.Tuần Thánh nói gì cho chúng ta ?
.
Tiến Sĩ Trần Mỹ Duyệt
Có thể nói, trong suốt 3 năm miệt mài, vất vả rao truyền lời chân
lý, chữa lành bao kẻ tật nguyền, thực hiện bao phép lạ vỹ đại, hôm nay là ngày
Chúa Giêsu được vinh hiển nhất, được tôn kính trọng vọng nhất. Dân chúng đứng
chật hai vệ đường, người người vui mừng reo hò. Họ tung hô vạn tuế và không
ngừng ca tụng: “Hoan hô con Vua Ðavít. Chúc tụng Ðấng nhân danh Thiên Chúa mà
đến. Hoan hô trên các tầng trời” (Mt 21:9). Lòng sùng mộ và yêu kính của dân
chúng bấy giờ đã khiến họ hành động một cách hết sức đặc biệt. Họ cởi áo ngoài
trải đường như một tấm thảm kéo dài trên đường Ngài đi qua. Và họ cầm trên tay
ngành vạn tuế để vẫy chào Ngài khi Ngài đi qua chỗ họ. Thánh Kinh kể lại, số
người theo tung hô Ngài mỗi lúc một thêm đông, đến độ khiến các Pharisiêu phải
ghen tị.
Quan sát đám rước hôm đó, có một chi tiết có thể khiến chúng ta
phải dừng lại để suy nghĩ. Ðó là Chúa Giêsu không cỡi trên voi, trên ngựa, hoặc
không ngồi trên kiệu mà tham dự cuộc khải hoàn này, nhưng Ngài lại ngồi trên
lưng một con lừa con. Thánh Mátthêu ghi: “Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo
rằng: “Các anh hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó
với con lừa con. Các anh hãy mở dây và dẫn về đây cho thầy” (Mt 21:2). Làm thế,
Ngài đã ứng nghiệm lời Thánh Kinh: “Hãy nói với thiếu nữ Sion rằng, này vua các
ngươi đang ngự đến, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con, là con lừa mẹ” (Mt 21:5).
Cỡi lừa con để khải hoàn vào thành Giêrusalem. Chúa không cỡi voi
hay cỡi ngựa, cũng không ngồi trên kiệu vì Ngài không muốn làm các thiếu nữ
Sion phải hoảng sợ. Ngài không muốn bất cứ ai nhìn Ngài bằng cái nhìn đầy kinh
ngạc, hoảng hốt và sợ hãi. Vì cỡi voi thì đòi nhiều người phục dịch. Ngồi kiệu
cũng phải có kẻ khiêng. Ngồi trên lưng ngựa tuy đơn giản hơn ngồi trên mình voi
hay trên kiệu, tuy nhiên, ngồi trên lưng ngựa vẫn là hình ảnh của những kẻ anh
hùng, những kẻ chiến thắng nên có quyền kiêu hãnh và cũng khiến nhiều người
phải sợ hãi, nể phục. Ngài không muốn tạo cho mình một hình ảnh của kẻ có
quyền, không muốn bất cứ ai phải bắt buộc theo và miễn cưỡng mến Ngài. Ngài
cũng không dùng sức mạnh của kẻ thắng trận để khống chế và thu phục nhân tâm.
Những hình ảnh liên quan đến sức mạnh, quyền lực vì thế đều bị Ngài từ chối.
Ngài chỉ muốn một mình đơn sơ ngồi trên lưng một con lừa con, nhỏ bé để tiến
vào thành. Một hình ảnh nói lên vẻ thanh bình, đơn sơ, nhẹ nhàng, và tự nhiên.
Và đó chính là Ngài, con chiên Thiên Chúa, Ðấng cứu độ trần gian.
Nhưng dù đơn sơ ngồi trên lưng lừa, Ngài vẫn là vua chứ không phải
chỉ là con Vua Ðavít như người ta đã chúc tụng Ngài. Danh Ngài đáng được vang
vọng chúc tụng trên các tầng trời, vì Ngài là Chúa tạo thành vũ trụ. Cả nhân
loại phải phủ phục dưới chân Ngài và trước nhan Ngài. Mọi đầu gối, như Thánh
Phaolô đã viết, trên trời, dưới đất và trong lòng đất phải quì gối trước mặt
Ngài. Việc Ngài chọn ngồi trên lưng một con lừa con là như nói trước với chúng
ta về những gì mà Ngài sẽ làm trong Bữa Tiệc Ly khi hạ mình khiêm hạ rửa chân
cho các môn đệ. Khi để bọn lý hình hành hạ và chế diễu. Khi chấp nhận bản án
bất công. Và khi bị đóng đinh chết treo trên thập tự giá.
Làm sao tâm trạng của một người mang trong mình hình ảnh chiến
thắng hiển hách, ngồi trên lưng một con chiến mã, ngồi trên lưng một con voi,
hay ngồi trong một cái kiệu sang trọng tiến lên giữa tiếng tung hô, lại có thể
chấp nhận được việc quì gối xuống, bưng chậu nước đến và quì trước mặt các môn
đệ của mình để rửa chân cho chúng.
Làm sao một vị đại tướng, một hoàng đế uy nghi trên lưng ngựa dạo
qua rừng người hôn hô vang dội lại có thể chấp nhận chịu cảnh trao nộp, chịu
đánh đòn, chịu khạc nhổ vào mặt, chịu đội mão gai, chịu xét xử bất công, và
chịu đóng đinh chết trần truồng trên thập giá mà không một lời than van, trách
móc.
Phải đơn sơ, nhân từ, và hiền hậu: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền
lành và khiêm nhượng trong lòng” (Mt 11:29). Ngồi trên lưng ngựa, lưng
voi, hay kiệu sang trọng thì không dễ cúi mình xuống được. Nhất là trong tư thế
của kẻ có quyền, kẻ chiến thắng. Cũng không dễ chấp nhận thua thiệt, không dễ
đón nhận nhục nhã, không dễ vâng phục thiên ý. Chúa đã dùng con lừa để làm
phương tiện di chuyển hôm đó để nói với mọi người rằng, Ngài xứng đáng với tất
cả mọi lời chúc tụng. Ngài chính là vua. Ngài là vua chiến thắng. Nhưng trên
hết, Ngài là một vị vua nhân từ. Vua thái bình. Vua của tâm hồn con người. Và
vì thế, Ngài đã cỡi lừa con mà không cỡi chiến mã.
Chúa là vua nhân từ, hiền dịu chứ không phải là vua quyền uy, độc
tài, và hà khắc. Ngài thương yêu tất cả. Ngài mong mọi người hãy đến với Ngài,
để học cùng Ngài, vì Ngài “hiền lành và khiêm nhường”. Làm như vậy, chúng ta
mới dễ mở rộng lòng mình đón nhận mầu nhiệm Thập Giá và Phục Sinh mà Ngài đã
thực hiện vì chúng ta và cho chúng ta.
.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Kể từ sau ngày 11.9.2001, hàng năm, ngày này trở thành ngày giỗ
của trên 3.000 nạn nhân bị khủng bố giết hại tại tòa Tháp đôi Trung tâm Thương
mại Quốc tế ở New York của Mỹ.
Ngày này cả nước Mỹ hướng về biến cố đau thương này, cử hành nghi
thức tưởng niệm long trọng vừa như tưởng niệm các nạn nhân, vừa như nhắc nhau
nhớ mãi sự kiện lịch sử nhói lòng bởi những bàn tay bất nhân, đêm ngày chỉ biết
nhuộm máu đồng loại.
Có thể nói, từ ngày đó cho đến nay, người Mỹ giảm thiểu bình an.
Dù rằng Mỹ rất mạnh về kinh tế, nỗi bậc về vũ khí và quân sự… dư sức đem quân
đi đánh quốc gia của người khác, nhưng tại Mỹ, dân chúng vẫn thắp thỏm, hoang
mang, bởi khủng bố có thể đe dọa bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu.
Bạn cứ nghĩ mà xem, con người ta sống mà cứ phải cảnh giác, cảnh
giác, cảnh giác… thì bình an ở đâu. Thiếu vắng bình an sẽ là đau khổ, sẽ là sợ
hãi, sẽ là tăm tối. Bình an không còn trong lòng người, không còn bảo đảm cho
nơi mình phải sống, không còn là cứu cánh cho cuộc đời nhiều gai góc, chắc chắn
cuộc sống sẽ khó khăn hơn, lòng người nhiều chao đảo, chới với hơn.
Có thể nói, hai tòa tháp đôi ấy là biểu tượng của nền văn minh
hiện đại của nhân loại, biểu tượng của sự khôn ngoan, là sức mạnh vững vàng, là
niềm kiêu hãnh của con người… Vậy mà chỉ trong nháy mắt, hai tòa tháp khổng lồ
biến thành đống gạch vụn, vùi lấp trong lòng nó đến hơn 3.000 sinh mạng cùng
biết bao nhiêu của cải khác.
Nói với bạn về biến cố 11.9.2001 trong những ngày tuần Thánh,
những ngày đặc biệt tưởng nhớ Chúa Kitô Thánh Giá, tôi muốn làm một so sánh,
chẳng phải lớn lao gì, nhưng đủ để thấy sức mạnh vạn năng của Tình yêu Thiên
Chúa trong những gì tầm thường nhất, nhỏ bé nhất.
Cứ ngước nhìn Thánh Giá mà xem, bạn sẽ thấy ở đó một hình tượng
thảm khốc: một người chết gục đầu, chết trần trụi, không đủ một tấm áo che
thân; thân xác gắn chặt vào những chiếc đinh oan nghiệt; chết tức tưởi, chết ô
nhục, thân xác thâm bầm đầy thương tích, lồng ngực mở rộng, trái tim bị đâm
thủng, gai nhọn cài nát đầu, chết đơn độc treo giữa trời và đất…
Người đó là ai? Là Thiên Chúa làm người. Nhưng tất cả sao chỉ là
là đau đớn ê chề. Tưởng chừng chỉ là thất bại?
Thánh Giá – đó là phương tiện của tội lỗi, phương tiện của sự
chết, người ta dùng nó để giết người, và loài người dùng nó để giết chết Chúa
của mình.
Bạn cứ nhìn và sẽ thấy, cây Thánh Giá thật là yếu ớt, mong manh,
nhỏ bé.
Nhưng không: không thất bại! Không yếu ớt! Đối người tin, đó lại
là sức mạnh lớn lao của tình yêu, của ơn cứu chuộc.
Từ một dụng cụ độc ác, đê hèn, loài người nghĩ ra để hành hạ người
khác, Chúa Giêsu biến nó thành dấu chứng của tình yêu lớn khôn cùng: tình yêu
vâng phục đối với Chúa Cha, tình yêu dâng hiến cho nhân loại.
Nếu chỉ nhìn bằng ánh mắt phàm trần, so với công trình lớn lao của
nhân loại, Thánh Giá có đáng gì đâu. Nhưng sức mạnh của Thánh Giá là sức mạnh
ngàn đời.
Văn minh của loài người dẫu lớn đến đâu, niềm kiêu hãnh; sự khôn ngoan
của họ dẫu mạnh cách mấy; những công trình trần thế dẫu có nguy nga, dẫu được
coi là xây dựng vững vàng, nhưng chỉ một hành vi phá hoại mà thôi, tất cả tan
biến như bọt biển. Chỉ có Thánh Giá Chúa Kitô mới muôn đời tồn tại.
Hay dẫu thế gian này có qua đi, dẫu cả loài người có tàn hơi, kiệt
sức, hay nền khoa học hiện đại này được con người ca tụng là phát triển rực rỡ,
một ngày nào đó cũng sẽ là tro bụi. Tất cả chỉ là tạm bợ, là hư nát. Chỉ có
Thánh Giá được giương cao mãi mãi trên khắp thế giới, là cây gỗ duy nhất đáng
để chúng ta tôn thờ.
Dẫu cho bất kỳ thời đại nào, con người có thù nghịch với Thánh
Giá, Thánh Giá vẫn còn đó. Biết bao nhiêu lần trong lịch sử Hội Thánh và lịch
sử nhân loại, người ta đã bắt bớ, bách hại Hội Thánh, cố tình đặt mối hận thù
với Thánh Giá Chúa Kitô, Thánh Giá không vì thế mà mất đi, Hội Thánh không vì
thế mà lụng bại.
Trái lại, Thánh Giá vẫn còn đó, muôn đời là dấu chứng của tình
yêu, của lòng thương xót vô cùng mà Thiên Chúa dành cho loài người, và Hội
Thánh của Chúa Kitô vẫn mãi mãi là dấu chỉ của ơn cứu độ, mà từ nơi Thánh Giá,
Thiên Chúa ban cho trần gian.
Thánh Phaolô đã đúc kết những suy nghĩ của mình trong những dòng
chữ ngắn gọn, nhưng đầy ý nghĩa:
“Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang
trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta, là những người được cứu độ, thì đó lại
là sức mạnh của Thiên Chúa…. Trong khi người Do thái đòi hỏi những điềm thiêng
dấu lạ, còn người Hy lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng
một Chúa Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp
nhận, và dân ngoại cho là điên rồ… Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái
khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ
của loài người” (1Cr 1, 18- 25).
Do những lời trên của thánh Phaolô cho phép ta có quyền nói mạnh
rằng: Thiên Chúa đã dùng chính cái mà con người cho là điên rồ, là yếu đuối để
lật đổ chính sự không ngoan và mạnh mẽ của họ.
Thế mới hay: tất cả chỉ là tạm bợ, còn Thánh Giá Chúa Kitô được
giương cao mãi mãi trên khắp thế giới. Thánh Giá, cây gỗ duy nhất mà muôn đời
chúng ta tôn thờ.
Dẫu cho thời gian có qua đi, vạn vật có qua đi, thì Thánh Giá vẫn
còn mãi như dấu chỉ và sức mạnh của tình yêu mà Thiên Chúa không ngừng yêu
thương con người.
Ta hãy ngước nhìn Thánh Giá để biết ơn Thiên Chúa, và cảm tạ tình
yêu lớn lao của Người. Vì “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga
8, 16).
Chính tình yêu làm nên ơn cứu độ. Thiên Chúa yêu cho đến mức, ngay
chính người Con Duy Nhất của mình, Người cũng chẳng tiếc, để tất cả được trao
ban cho ta.
Yêu trần gian đến thế, cho nên mọi sáng kiến đều nhằm một mục đích
duy nhất là chuộc trần gian về với mình: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian , không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người mà được cứu độ” (Ga 8, 17).
Bạn thân mến, để kết thúc những gì bạn và tôi vừa suy niệm, một
lần nữa ta hãy ngước nhìn Thánh Giá và học nơi đó bài học của yêu thương và tha
thứ, bài học lớn lao của sự chấp nhận và hy sinh – chấp nhận tan biến để mưu
cầu lợi ích cho anh chị em và dám hy sinh để biết từ bỏ những gì cản trở ta
vươn lên trong việc thực hiện yêu thương. Ngước nhìn Thánh Giá, bạn và tôi còn
học nơi đó tất cả lòng khiêm nhu, khó nghèo, vâng phục… Và chính nơi Thánh Giá
Chúa Giêsu, chúng ta sẽ tìm được sức mạnh và sự nâng đỡ để tiếp tục vác thập
giá đời mình bước đi với Chúa Kitô trên con đường thương khó.