CÁC BÀI SUY NIỆM CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY A
1. Thiên Chúa ở đâu?
2. Bên bờ giếng Giacob.
3. Chỉ có Chúa mới lấp đầy được.
4. Cơn khát đam mê – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
5. Giòng nước hằng sống – Cố Lm. Hồng Phúc.
6. “Nước hằng sống” chính là Đức Giêsu.
7. Nước Hằng Sống – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng.
8. Nhịp cầu thiêng liêng – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
9. Cho Tôi xin chút nước uống.
10. Chúa hiện diện đó, khi ta khát
11. Khát vọng vô biên của con người – R. Veritas.
12. Xin mở mắt tâm hồn con – R. Veritas.
13. Trống vắng.
14. Thờ lạy trong tinh thần và chân lý – André Sève.
15. Đổi thay.
16. Gặp gỡ.
17. Trong Thánh Thần và Chân Lý.
18. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu.
19. Suy niệm của JKN..
20. Cuộc gặp gỡ bất ngờ – Lm. FX. Vũ Phan Long.
21. Chú giải của Noel Quession.
22. Gặp gỡ đức kitô biến đổi cuộc đời mình.
23. Nước Không Bao Giờ Khát Nữa.
24. Nước Sự Sống.
25. Nguồn nước đem lại sự sống.
26. Suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay – Năm A..
27. Cơn khát
28. Nơi Bờ Giếng Giacob.
29. Chúa Nhật 3 Mùa Chay A..
30. Khát sự sống.
31. Nước Trường Sinh.
32. Đón nhận ơn tái sinh.
33. Nước trường sinh-
34. Cuộc gặp gỡ đổi đời
Theo Chúa là nguồn nước hằng sống Dẫn lễ.
Theo Chúa sẽ tới dược... Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Khao khát tìm nước hằng sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Nhận ra ân huệ Chúa ban Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Chỉ có Chúa mới lấp đầy Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Trờ lại kiểu mấu Lm Giuse Đinh tất Quý
Làm chứng cho Chúa Lm Giuse Đinh tất Quý
Dõi bước theo Chúa R. Veritas
Tiến trình nhận ra Đức Kitô Fiches Dominicales
Thiên Chúa là thần khí Học Viện Đà Lạt
Gặp gỡ Chúa trong thần khí và sự thật Suy niệm của JKN
Quảng cáo quá hấp dẫn Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn nước Sưu tầm
Nước Sưu tầm
Nước hằng sống Sưu tầm
2. Bên bờ giếng Giacob.
3. Chỉ có Chúa mới lấp đầy được.
4. Cơn khát đam mê – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
5. Giòng nước hằng sống – Cố Lm. Hồng Phúc.
6. “Nước hằng sống” chính là Đức Giêsu.
7. Nước Hằng Sống – Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng.
8. Nhịp cầu thiêng liêng – ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt.
9. Cho Tôi xin chút nước uống.
10. Chúa hiện diện đó, khi ta khát
11. Khát vọng vô biên của con người – R. Veritas.
12. Xin mở mắt tâm hồn con – R. Veritas.
13. Trống vắng.
14. Thờ lạy trong tinh thần và chân lý – André Sève.
15. Đổi thay.
16. Gặp gỡ.
17. Trong Thánh Thần và Chân Lý.
18. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu.
19. Suy niệm của JKN..
20. Cuộc gặp gỡ bất ngờ – Lm. FX. Vũ Phan Long.
21. Chú giải của Noel Quession.
22. Gặp gỡ đức kitô biến đổi cuộc đời mình.
23. Nước Không Bao Giờ Khát Nữa.
24. Nước Sự Sống.
25. Nguồn nước đem lại sự sống.
26. Suy niệm Chúa Nhật 3 Mùa Chay – Năm A..
27. Cơn khát
28. Nơi Bờ Giếng Giacob.
29. Chúa Nhật 3 Mùa Chay A..
30. Khát sự sống.
31. Nước Trường Sinh.
32. Đón nhận ơn tái sinh.
33. Nước trường sinh-
34. Cuộc gặp gỡ đổi đời
Theo Chúa là nguồn nước hằng sống Dẫn lễ.
Theo Chúa sẽ tới dược... Lm Carolo Hồ Bạc Xái
Khao khát tìm nước hằng sống Lm Giuse Đinh lập Liễm
Thánh Vịnh & Đáp Ca Nhóm Thánh vinh Nauy
Nhận ra ân huệ Chúa ban Lm, Gioan M. Nguyễn Thiên Khải, CMC
Chỉ có Chúa mới lấp đầy Linh mục Inhaxiô Trần Ngà
Trờ lại kiểu mấu Lm Giuse Đinh tất Quý
Làm chứng cho Chúa Lm Giuse Đinh tất Quý
Dõi bước theo Chúa R. Veritas
Tiến trình nhận ra Đức Kitô Fiches Dominicales
Thiên Chúa là thần khí Học Viện Đà Lạt
Gặp gỡ Chúa trong thần khí và sự thật Suy niệm của JKN
Quảng cáo quá hấp dẫn Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Nguồn nước Sưu tầm
Nước Sưu tầm
Nước hằng sống Sưu tầm
Phải thờ phượng Thiên
Chúa ở Sichem hay ở Giêrusalem?
Chúa Giêsu đã đưa ra
một lời giải đáp. Ngài khẳng định rằng Thiên Chúa không bao giờ bị khoanh vùng,
Ngài cũng không bao giờ là Chúa riêng của một người hay một dân tộc nào, bởi vì
Ngài là Cha chung của mọi người ở mọi nơi và trong mọi lúc. Không một người
nào, không một dân tộc nào và không một tôn giáo nào được độc quyền chiếm giữ
Ngài cho riêng mình, hay nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ hiện diện trên đất nước của
mình hay trong đền thờ của mình.
Không. Chúa Giêsu đã
khẳng định với người thiếu phụ Samaria: Đã đến giờ ác ngươi sẽ thờ phượng Thiên
Chúa, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Thiên
Chúa trong thần khí và sự thật.
Thiên Chúa là thần
khí, mà thần khí thì vô hình nên ở đâu cũng có. Thiên Chúa hiện diện ở khắp mọi
nơi: Trời là ngai toà của Ngài còn đất là bệ chân của Ngài. Ngài không cần nhà
để ở và hơn nữa, không một nơi nào dù nguy nga tráng lệ đến đâu chăng nữa xứng
đáng với Ngài. Trái lại Ngài có thể hiện diện ở bất kỳ nơi nào, nhất là qua mầu
nhiệm nhập thể, Ngài có thể hiện diện trong chuồng bò tại Bêlem, tạm trú bên Ai
Cập, vất vả tại xưởng thợ Nadarét, để rồi sau đó rảo bước khắp nơi trên mọi nẻo
đường Palestine, đến với mọi người Do Thái, Hy Lạp, cũng như Rôma. Kẻ có đạo
cũng như người ngoại đạo, người đạo đức cũng như kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa là thần khí
nên Ngài tự do tuyệt đối, không ai có thể giam hãm Ngài được. Thánh Phaolô khi
đến Athen, đã gián tiếp nói cho dân Hy Lạp biết rằng họ cũng thờ phượng một
Thiên Chúa như thánh nhân, tuy họ không biết Thiên Chúa ấy là Đấng nào và thánh
nhân còn nhìn nhận rằng họ cũng thuộc dòng giống của Thiên Chúa, bởi vì chính
nhờ nơi Thiên Chúa mà tất cả chúng ta được sống và hiện diện.
Một khi đã xác tín
Thiên Chúa là Cha chung của mọi người, chúng ta không được nhân danh Ngài mà
gây chia rẽ và hận thù, trái lại phải nhân danh Ngài mà yêu thương đoàn kết với
nhau. Thực vậy đối với Chúa Giêsu thì cách thế diễn tả lòng kính mến Thiên Chúa
một cách sâu xa và trọn vẹn nhất, đó là yêu thương anh em của mình. Cách thế
phụng thờ Thiên Chúa đúng theo ý Ngài muốn, đó chính là phục vụ anh em. Bởi vì
yêu mến Chúa thì phải tuân giữ điều răn của Ngài, mà điều răn Ngài truyền dạy
đó là chúng ta phải yêu thương nhau như Ngài đã yêu thương chúng ta.
Bởi vậy, không phải
khi chúng ta xây dựng những ngôi thánh đường hay những gian cung thánh nguy nga
tráng lệ là chúng ta có thể làm cho mọi người nhận ra chúng ta là những kẻ thờ
phượng Thiên Chúa đích thực, nhất là khi chúng ta dùng những đồng tiền bất
chính để xây dựng nhà thờ. Trái lại chỉ có tình yêu thương anh em bằng tinh
thần phục vụ, nhất là đối với những người khổ đau và nghèo túng, mới là cách
thế chứng minh rằng Thiên Chúa hiện diện ở khắp nơi, và nhất là ở những nơi nào
con người biết yêu thương và phục vụ lẫn nhau.
Qua đoạn Tin Mừng vừa
nghe, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai ý tưởng:
Ý tưởng thứ nhất đó là
nước
Mỗi khi đi làm thuỷ
lợi giữa đồng không mông quạnh với cái nắng như thiêu như đốt, chúng ta mới
thấy quý những giọt nước hiếm hoi.
Dân Do Thái trong Cựu
Ước cũng đã trải qua kinh nghiệm ấy. Khi băng qua sa mạc cát nóng để trở về
miền đất Hứa, họ đã hiểu được nước gắn liền với sự sống của họ như thế nào.
Đồng thời qua dòng nước vọt lên từ tảng đá Horeb dưới cây gậy của Maisen, Chúa
đã chứng tỏ Ngài là Đấng đem lại sự sống cho họ.
Với Chúa Giêsu thì
khác, từ thứ nước bình thường dưới lòng giếng, Ngài đã giới thiệu với người phụ
nữ Samaria một thứ nước đem lại sự sống vĩnh cửu. Thực vậy, đã từ lâu người Do
Thái và người Samaria coi nhau như những kẻ thù truyền kiếp. Dưới mắt dân Do
Thái thì người Samaria bị coi như một thứ ngoại đạo và uế tạp cần phải xa
tránh, thế mà qua đoạn Tin Mừng vừa nghe Chúa Giêsu đã vượt qua ranh giới thù
hận như một dòng nước tràn bờ đem lại sự xanh tươi cho những mảnh đất khô cằn.
Ngài đã xin người phụ nữ Samaria chút nước uống. Hành động của Ngài đã gây nên
sửng sốt và từ sự sửng sốt ấy, Ngài đã làm trổi dậy một sự sống mới.
Chúa Giêsu đã chứng tỏ
sứ mạng của mình là được sai đến với những con chiên lạc. Cuộc đối thoại của
Chúa Giêsu đã giúp người phụ nữ nhận ra tình trạng bất chính của mình, để rồi
cuối cùng nàng đã xác tín Ngài chính là Đấng cứu thế. Chúa Giêsu đã khởi đầu
bằng cách xin nàng cho Người uống nước, nhưng rồi cuối cùng chính nàng lại là
người được lãnh nhận nước ban sự sống.
Ý tưởng thứ hai đó là
nơi thờ phượng Chúa.
Người Samaria có đền
thờ của mình tại núi Sichem. Trong khi đó người Do Thái lại khẳng định đền thờ
của họ tại Giêrusalem mới là nơi thờ phượng Thiên Chúa đích thật, bởi vì đó mới
chính là nơi Thiên Chúa ngự trị giữa dân Ngài. Vậy ai đúng. Người Samaria hay
người Do Thái? Cuộc tranh luận có lẽ đã kéo dài nhiều tháng và nhiều năm, nhưng
vẫn không có kết luận. Họ không phải chỉ tranh luận suông, mà hơn thế nữa,
người Do Thái còn khích bác dân Samaria là đã theo đuổi một thứ tôn giáo lai
căng. Còn người Samaria thì có lần đã chơi khăm bằng cách rắc xương người chết
vào nơi thờ kính của dân Do Thái, để làm cho nơi đó ra uế tạp, không còn thích
hợp cho công việc tế tự.
Người phụ nữ Samari
hẳn muốn nhờ Chúa Giêsu đứng ra làm trọng tài giải quyết vì nàng nhìn nhận Ngài
là người của Thiên Chúa, đã biết được những chuyện thầm kín của đời nàng. Thế
nhưng, Chúa Giêsu đã nhân dịp này, mạc khải cho nàng biết phải thờ phượng Thiên
Chúa trong tinh thần và trong chân lý, bằng cách nhận biết Thiên Chúa là Cha.
Chính sự thờ phượng Thiên Chúa là Cha và việc đặt mình vào trong mối quan hệ
cha con với Thiên Chúa mới là việc thờ phượng mà Thiên Chúa hằng mong mỏi.
Còn chúng ta thì sao?
Liệu chúng ta đã thực sự yêu mến Chúa bằng tất cả trái tim và tâm hồn của mình,
hay chúng ta đang còn mải mê chạy theo những nghi thức và những biểu dương bên
ngoài?
trái tim khao khát của
con người.
(Trích từ ‘Cùng Đọc
Tin Mừng’ – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Có đi cả ngày trời
trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân là cát nung như đoàn dân
Do-Thái ngày xưa trong hoang địa mới cảm nhận được cái khát hành hạ người ta
như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới bức xúc làm sao. Thế nên
khi bị cơn khát dày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ vào nơi hoang địa khô
cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá. (Bài đọc I, sách Xuất Hành 17,
3-7)
Thế nhưng ngoài cơn
khát tự nhiên là khát nước, con người luôn có những khao khát mà không có gì
trên thế gian có thể làm cho họ được no thoả. Người ta gọi đây là khát vọng vô
biên. Đây là cơn khát về mặt tâm linh nên chẳng có thứ nước nào trên đời có thể
làm dịu bớt.
Người phụ nữ xứ Samari
trong Tin Mừng hôm nay (Ga 4,4-42) cũng đã từng trải qua cơn khát tương tự. Chị
đã mưu tìm hạnh phúc qua năm đời chồng rồi nhưng lại phải chia tay để tìm hạnh
phúc với người thứ sáu; mà cũng chẳng ai trong họ có thể đem lại cho chị hạnh
phúc thực sự trong cuộc đời. Chị đi tìm hạnh phúc cũng y như đi múc nước. Ngày
nào cũng phải lặn lội tìm đến giếng nước xa, múc cho đầy vò rồi ngày hôm sau
lại khát và tiếp tục đội vò đi tiếp.
Chính vì thế mà Chúa
Giêsu khẳng định với người phụ nữ Samari: "Ai uống nước nầy sẽ còn khát
lại". Ngài muốn nói không gì trên đời có thể đáp ứng khát vọng của con
người.
Triết gia người Đức,
ông Schopennauer khám phá: "những lạc thú mà thế gian cống hiến cho con
người cũng chỉ như nắm cơm bố thí cho người hành khất, chỉ làm dịu cơn đói hôm
nay, rồi ngày mai lại đói."
Cha Anthony de Mello
cũng nhận định tương tự: "Việc thoả mãn dục vọng không giải thoát chúng ta
khỏi dục vọng, nhưng tạo thêm một dục vọng khác còn mãnh liệt hơn để rồi cái
vòng lẩn quẩn: khát khao - thoả mãn, thoả mãn - khát khao... cứ tiếp diễn mãi
không cùng"... lại càng ngày càng tăng "đô" hơn. Và cứ thế,
người ta phải chịu dày vò, thiêu đốt vì sự ngọn lửa khao khát trong lòng mình.
* * *
Qua Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samari cũng như cho chúng ta một Nguồn Suối
mang lại hạnh phúc: "Ai uống nước nầy sẽ lại khát, còn ai uống nước Tôi
cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một
mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời." (Ga 4,13-14)
* * *
Augustinô là người mải
mê tìm kiếm lạc thú trần gian suốt nhiều năm trường nhưng không gì trên thế
gian có thể lấp đầy trái tim khao khát của ngài, mãi đến tuổi 33, nhờ ơn soi
sáng và lời nguyện cầu liên lỉ của người mẹ thánh thiện là Mônica, Augustinô
mới tìm được Thiên Chúa là Đấng đem lại cho ngài niềm hoan lạc vô biên. Bấy giờ
lòng đầy hoan hỉ, Augustinô thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con
cho Chúa, vì thế hồn con mãi thổn thức khôn nguôi, cho đến khi được nghỉ yên
trong tay Ngài".
Chỉ trong Thiên Chúa,
khát vọng của Augustinô mới được lấp đầy. Quả đúng như Lời Chúa Giêsu nói:
"Ai uống nước nầy sẽ còn khát lại, còn ai uống nước Tôi cho sẽ không bao
giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên,
đem lại sự sống đời đời." (Ga 4,13-14)
* * *
Lạy Chúa Giêsu, chúng
con sung sướng được đón nhận Chúa là Mạch Suối thiêng liêng làm tươi mát đời
chúng con. Chúng con như những lùm cây trồng bên suối nước. Chúng con được xanh
tốt là nhờ giáo huấn của Chúa đem lại sức sống thiêng liêng cho chúng con.
Chúng con thật sự hạnh phúc vì có Chúa ở cùng. Chúng con cảm thấy bình an và
hoan lạc vì Chúa đã lấp đầy trái tim khao khát của chúng con.
Nhưng chúng con biết
rằng còn rất nhiều người đang khát Chúa mà vẫn chưa tìm thấy Chúa. Xin thương
đến với họ như xưa Chúa đã đến với người phụ nữ Samari.
Xin cho chúng con, như
người phụ nữ Samari xưa, sau khi nhận được Mạch Suối Chúa ban, thì cũng giới
thiệu cho cả thành ra gặp Chúa, để họ cũng được no thoả nơi Chúa là Mạch Suối
mang lại sự sống đời đời. Amen.
Người ta kể rằng: có
một người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay ở cổng thiên đàng, thánh
Phê rô hỏi:
- Ở trần gian con làm
nghề gì?
- Anh ta thưa: Con làm
nghề đào vàng.
- Thánh Phê rô nói:
Trên thiên đàng đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
- Anh ta đáp: Thưa
ngài, xin cứ cho con vô, để con cai trị bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo
loạn thiên cung, làm sao dẹp loạn.
- Nhờ dẻo miệng anh ta
cũng được thánh Phê rô cho vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng thì
quả thật có rất nhiều tay thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền rỉ tai
rằng: ở hoả ngục vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào.
Thế là một thoáng qua đi, các tay đào vàng đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng
nhảy bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn chỉ còn lại một mình, anh
cũng cảm thấy đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép thánh Phê rô cho anh xuống
tham quan một vòng hoả ngục xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà ảo
tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh
ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn đó, nhưng biết đâu ở đó lại
có vàng thật thì sao? Vì bọn kia đã ra đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở
lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là
cả đống, cả chùm ở dưới hoả ngục. Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn
sàng hy sinh cả hạnh phúc đời đời để thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian
mau qua.
Có thể nói, đói khát
vàng bạc, giầu sang chỉ là một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và giết
chết hàng vạn người. Có biết bao cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác
thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao người vào hố sâu của vực thẳm. Càng
ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách,
đánh mất tính người. Họ đã lầm. Vì tất cả những thứ đó không bao giờ làm thoả
mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ chỉ
bắt được bóng chứ không bắt được mồi. Giếng sâu của lòng tham chỉ làm cho con người
thất vọng, chán chường. Con người vẫn khao khát một điều gì đó vượt lên những
ảo ảnh trần gian.
Người thiếu phụ bên bờ
giếng Giacob hôm nay cũng thế. Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín nước. Nhưng uống
nước này là tự đầy đoạ mình. Dù chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và bị dày
vò vì một cơn khát nào đó mà những mối tình trần tục đã không giải khát nổi, đã
không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào biển tình, chị càng
thấy thiếu thốn.
Thánh Gioan đã nói
"vì chị đã có 5 đời chồng". Nói 5 đời chồng không có nghĩa là một
mình thiếu phụ đã đi lập gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối
tình bất chính. Và cả người thứ sáu cũng không thực sự là chồng. Như vậy, chị
đã quan hệ bất chính một lúc với sáu người đàn ông nhưng không ai thực sự là
chồng của chị. Chị là một phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt, loại trừ, chị
phải đi kín nước vào giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm như bao
phụ nữ khác. Chị đi vào giờ này là để tránh gặp hàng xóm láng giềng. Nhưng
không ngờ chị lại gặp Chúa Giê su. Lần gặp này đã thay đổi vận mạng cuộc đời
của chị. Chúa Giê su đã mở lối thoát cho chị thật nhẹ nhàng, khi Chúa nói:
"Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị cho tôi
xin nước uống, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống. Ai
uống nước này sẽ không còn khát nữa".
Chúa Giê su đã dẫn dắt
chị đi từ ý niệm cụ thể vật chất đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước
giữa trưa hè nắng đổ lửa đến một sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh.
Người thiếu phụ này hằng khao khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong
lạc thú với nhiều người đàn ông một lúc, thế nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát
trong lòng chị.
Cuộc đời của thiếu phụ
này là một thất bại dài đầy nghiệt ngã thất vọng. Cho đến khi gặp được Đấng Ky
tô, chị ta mới nhận ra. "Còn ai uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát
nữa". Nước Chúa ban là nước trường sinh. Nước này không có cặn bã của tham
lam bất chính, của dục vọng đen tối, của đam mê lầm lạc. Nguồn nước ân thánh
tinh khiết có khả năng chữa lành các thương tích của tâm hồn và làm hồi sinh
những tâm hồn đang chết trong đam mê tội lỗi. Người ta nói trong thất bại
thường có sự may mắn. Chị là người may mắn đầu tiên được lãnh nhận nguồn nước
ân thánh đó. Thế là tâm hồn chị được tha thứ, được rửa sạch và đã khát, chị
chẳng cần đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn thoắt chạy vào thành báo tin
cho dân làng biết có thứ nước hằng sống, nước trường sinh mà mọi người đang
khao khát, đó là Đấng Ky tô là Thiên Chúa cứu độ, là Đấng Messia họ đang mong
đợi. Vì chính Đấng ấy đã nói với chị: "Chính tôi là Đấng đang nói với chị
đây".
Hôm nay Chúa viếng
thăm người thiếu phụ Samaria và bà đã được tỉnh ngộ. Bà đã làm lại cuộc đời.
Hằng ngày Chúa cũng đến thăm chúng ta qua thánh lễ, qua Lời Chúa và các bí tích,
nhưng liệu chúng ta đã tìm được nguồn suối ân sủng của Ngài hay ta vẫn còn loay
hoay ngụp lặn trong những ảo ảnh trần gian?
Mùa chay mời gọi chúng
ta hãy tự kiểm điểm lại đời sống của mình: tôi đang khao khát những gì? Tôi đã
tim được chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn về những điều gì? Điều đó có giúp
ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn đói khát bất chính?
Lời Chúa vẫn mời gọi
chúng ta: "ai uống nước này sẽ không còn khát nữa", chúng ta có tin
và sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát của cải danh vọng, quyền
thế để khi không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái hồi ở Masa trong
sa mạc năm xưa?
Dưới ngòi bút linh
động của Gioan, bài Phúc Âm hôm nay mô tả cuộc gặp gỡ của Chúa bên bờ giếng
Giacóp với thiếu phụ Samaria. “Khi ấy, Ngài tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ
Samaria… ở đó có giếng của Giacóp, Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghĩ trên
miệng giếng” giữa trưa hè. Chắc là Chúa ngồi sát mặt đất, lưng tựa vào bờ thành
giếng. Ngài ngồi đó mệt mỏi, sau một khoảng đường dài qua xứ Samaria.
Ngài ngồi đó để chờ
đợi. Ngài biết muốn gặp gỡ đàn ông thì ra phố chợ, muốn gặp gỡ đàn bà thì ra bờ
giếng. Ngài ngồi đó để đón chờ chúng ta, vừa mệt vừa đói. Trời đã về trưa,
nắng, nóng. Ngài ngồi đó để chờ một người đàn bà mà cuộc đời có nhiều sóng gió,
đang ỏn ẻn đầu đội vò, tay xách gầu đi ra.
Cuộc gặp gỡ tương tợ
như những lần gặp gỡ do Thánh Kinh kể lại giữa Giacóp và Rachel (Stk 29), giữa
Moisê và các con gái của Rơuel-Yêthrô (Xh 2. 15-22) bên một suối nước. Chúa
nói: “Xin bà cho tôi uống nước”. Ngài khát. Nhưng khát gì?
Lời nói của Chúa hàm
chỉ hai ý nghĩa. Ngài khát sau những giờ cuốc bộ dưới nắng hè, nhưng Ngài khát
khao cứu các linh hồn đang cần một thứ nước thiêng liêng cao trọng hơn.
Cuộc đối thoại giữa
Chúa và người đàn bà kênh kiệu bắt đầu. Từ bối cảnh một giếng nước sâu đến thảm
trạng một tâm hồn ngụp lặn trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã khơi lên một giếng nước
hằng sống “mà ai uống thì không bao giờ còn khát nữa”.
Mỗi ngày, thiếu phụ
Samaria phải ra giếng kín nước. Nhưng càng uống lại càng khát cũng như càng đi
sâu vào biển tình càng thấy thiếu thốn. Đời của bà là một chuỗi thất bại. Chúa
đưa bà đến chỗ phải thú nhận. Tuy nhiên bà vẫn còn tin cậy và tìm kiếm, vẫn
mong chờ Đấng Messia đến, “Ngài sẽ loan báo hết mọi sự”.
Và giòng nước đã vọt
lên: “Hỡi bà, Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với bà đây”. Thiếu phụ đã cầu
được ước thấy, được rửa sạch. Giòng nước Ngài ban “trở thành mạch nước vọt đến
sự sống đời đời”.
Thiếu phụ Samaria không
còn nghĩ đến giếng, đến vòi, vội chạy về thành báo tin cho mọi người biết để họ
cùng nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Thế.
Gioan qua từng giai
đoạn đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ngài là một người tha hương
mỏi mệt, một người Do thái bị khinh chê, một nhà tiên tri đọc được trong tâm
hồn, là Đấng Messia đến để dạy cách thờ phượng trong tinh thần và chân lý, là
Đấng Cứu chuộc của nhân loại. Đó là tóm lược bài Phúc Âm của Chúa ngày hôm nay.
Suy niệm bài Phúc Âm
này, một số chị em ở Bỉ đã lập ra Tu hội “Eau Vive” (Nước Hằng Sống). Ngoài
việc cầu nguyện trước Thánh Thể, chị em còn mở quán ăn phục vụ khách hàng. Các
cô chiêu đãi là những cô thuộc nhiều quốc tịch mà câu châm ngôn là phục vụ Chúa
Giêsu trong các thực khách. Mỗi buổi tối lúc 9 giờ, chị em có giờ cầu nguyện,
chia sẻ Phúc Âm. Thực khách được mời tham dự, ai không tham gia thì cứ tự
nhiên. Thế rồi các chị em cùng một số ít thực khách sắp ghế vòng quanh lại, bắt
đầu cầu nguyện. Quán ăn đã trở nên Nhà Cầu Nguyện, vì có Chúa hiện diện như ngày
xưa… bên bờ giếng Giacóp.
(Suy niệm của Jos.
Vinc. Ngọc Biển)
Trong kiếp nhân sinh
của con người, phát sinh từ sự thiếu thốn, thèm muốn, mong mỏi và hy vọng được
thỏa mãn, nên người ta thường khao khát một điều gì đó tốt hơn những gì đang sở
hữu. Có những khát khao làm cho cuộc sống của con người tốt hơn sau khi đạt
được. Nhưng cũng không thiếu gì những thỏa mãn làm cho tình trạng của con người
trở nên tồi tệ hơn.
Trình thuật của thánh
Gioan mà chúng ta vừa nghe cho thấy có một thứ khát khao mà theo lẽ thường thì
ít ai nghĩ tới, đó là khát khao “Nước Hằng Sống”. Một khi đã được thỏa mãn niềm
khát khao quan trọng nhất này, thì mọi khát khao khác cũng được trở nên dư đầy.
1. Cuộc gặp gỡ kỳ diệu
Bài Tin Mừng hôm nay gợi
lại cho chúng ta cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari. Một cuộc
gặp gỡ hiếm có và xem ra rất bất thường, hy hữu và đặc biệt giữa một bên là
người Dothái, bên kia là người Samari.
Hy hữu, bất thường,
bởi vì từ trước đến nay giữa người Samari và người Dothái không hề có sự liên
lạc, giao thương và luôn trong trạng thái nghi kỵ, khinh khi. Ấy vậy mà hôm
nay, Đức Giêsu là người Dothái, người phụ nữ là ngưi Samari lại có buổi gặp
nhau thân tình. Câu chuyện được khởi đi từ việc Đức Giêsu rời Giuđê để đi
Galilê. Trên hành trình đó Ngài đã chọn con đường tắt, nhanh nhất để đi. Con
đường đó phải băng qua làng Samari. Chính khi băng qua đây, mà Ngài gặp gỡ
người phụ nữ Samari. Đây là cuộc gặp hy hữu và bất thường.
Cuộc gặp gỡ này cũng
là một cuộc gặp gỡ đặc biệt vì: ban đầu, Đức Giêsu là người chủ động xin nước
nơi chị phụ nữ Samari từ giếng Giacóp, Ngài lên tiếng: “Chị cho tôi xin chút
nước uống!” (Ga 4,7). Người phụ nữ quá ngỡ ngàng bởi lẽ giữa người Dothái và
Samari đã từ lâu, họ không đội trời chung, và người Samari luôn bị người Dothái
khinh miệt, không thèm tiếp xúc… Nhưng Đức Giêsu đã đi bước trước để phá vỡ rào
cản mà lâu nay vẫn trói buộc giữa hai bên, bằng việc Ngài bắt chuyện và chủ
động xin nước uống. Hành động này của Đức Giêsu làm cho người phụ nữ không khỏi
ngạc nhiên, vì thế, chị ta thốt lên: “Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một
phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” (Ga 4,9). Nhưng Đức Giêsu đã trả lời:
“Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút
nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,
10); và như một sự tiệm tiến, Đức Giêsu đã nói trực tiếp chính Ngài là nguồn
mạch nước hằng sống, thứ nước ấy uống vào sẽ không còn khát nữa. Khi nghe thấy
thế, Người đàn bà đã tha thiết xin Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ
nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (Ga 4, 15).
Thật vậy, qua cuộc gặp
gỡ này, Đức Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý,
về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ
cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được
sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ,
mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.
2. Đức Giêsu là Nước
Hằng Sống
Khi nói về cuộc cách
mạng tâm hồn nơi chị phụ nữ trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, tưởng cũng nên
nhắc lại: trước kia giữa người Dothái và người Samari, họ có chung một nguồn
gốc. Nhưng do cuộc sống thay đổi và vì thời cuộc…, nên người Samari có những
giao thương với ngoại bang, từ đó người Do thái cho là lai căng, thậm chí là
bội giáo, và thường khinh thị, không muốn giao tiếp.
Nhưng hôm nay, Đức
Giêsu đã vượt qua ranh giới của cái gọi là “ta và địch”, trong truyền thống để
đến với anh chị em của mình. Khi Ngài chủ động đến với chị ta như thế, Đức
Giêsu đã làm một cuộc cách mạng nhằm cải hóa tâm hồn chị. Tâm trạng và thái độ
của người đàn bà này có thể nói là một cuộc diễn biễn tiệm tiến trong ân sủng
và đức tin. Thật vậy, thoạt tiên, sự xuất hiện của Đức Giêsu trước mặt chị
chẳng hơn gì một “tên Dothái”. Đây là lối nghĩ miệt thị nhau, vì đã có mâu
thuẫn từ nhiều thế hệ. Nhưng sau đó, chị ta đã “thưa ông”. Tiếp theo, khi được
Đức Giêsu mặc khải cho biết chị ta đã 5 đời chồng rồi, lúc đó, chị đã gọi Ngài
là một vị “ngôn sứ” là Đấng “Mêsia”. Cuối cùng, chị đã tôn vinh Ngài là Đấng
Cứu Độ trần gian.
Qua câu chuyện giữa
Đức Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Đức Giêsu đã mặc khải hai điều:
Trước tiên, Đức Giêsu
mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn
dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được
Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: “Ai uống nước này, sẽ lại khát.
Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành
nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14). Như
vậy, Đức Giêsu chính là “Nước Hằng Sống”.
Thứ đến, Đức Giêsu mặc
khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và
Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ,
nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói:
“Nhưng giờ đã đến – và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai
thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).
Như vậy, điều mà Đức
Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc
khải cho chúng ta ngày hôm nay.
3. Sứ điệp Lời Chúa
Chúng ta đang sống
trong một xã hội đề cao nhu cầu hưởng thụ. Thượng tôn vật chất… Tuy nhiên, vẫn
còn đó những thiếu thốn khi trong nhà có nhiều tiền. Vẫn còn đó sự bất an, khi
quyền lực có trong tay. Và, vẫn còn đó, một khoảng cách giữa người với người
ngay trong cùng một căn nhà…
Vì thế, trong cuộc
sống hiện thời, con người luôn khắc khoải và có những khát vọng như:
Khát vọng chân lý,
công bằng khi phải đối diện với sự gian dối, bất công. Hoặc sống trong cảnh thù
hận, ích kỷ…người ta khao khát tình thương, lòng bao dung, sự tha thứ. Còn sống
trong chiến tranh, loạn lạc, đau khổ và bất an, thì người ta mong muốn có hòa
bình, hạnh phúc và an vui…
Như vậy, con người vẫn
luôn mong được hạnh phúc. Nhưng có biết bao người càng tìm càng mất. Tại sao
vậy? Thưa, vì họ tìm và gắn bó vào những thực tại trần thế như: quyền, tiền,
danh vọng, nhục dục… nên không bao giờ họ được khỏa lấp nỗi khát vọng trong sâu
thẳm tâm hồn của mình. Tình trạng của người Phụ nữ bên bờ giếng là một minh
họa. Chị ta ngồi ngay bên miệng giếng, nhưng tâm hồn vẫn khát. Chị ta cứ ngỡ
rằng khi lao mình vào những thú vui nhục dục… thì sẽ được hạnh phúc. Không phải
thế! Chị ta đã lầm khi đặt lý tưởng, mục đích của cuộc đời chị sai chỗ, nhầm
đối tượng. Chỉ khi gặp được Đức Giêsu, chị ta mới hết khát và thỏa mãn. Thật
vậy: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv
61,2). Hay như thánh Augustinô cũng phải thốt lên: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con
cho Chúa, linh hồn con luôn khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.
Thật vậy, theo bản
năng của con người, ai trong đời mà lại không mong muốn đạt được chân, thiện,
mỹ. Tuy nhiên, nhiều khi chúng ta cũng không khác gì Dân Itrael khi xưa. Luôn
đi tìm những thứ nhất thời, mau qua. Họ được Chúa cứu và giải thoát ra khỏi cảnh
nô lệ bên Aicập, nhưng không bao lâu, người ta lên tiếng trách mọc Chúa và nhớ
những củ hành củ tỏi bên Aicập. Họ đã lầm! Đang có Chúa ở bên, nhưng vẫn không
nhận ra.
Cũng vậy, khi chưa cảm
nhận được Chúa thực sự, con người luôn sống hình thức và phụ thuộc vào những
chuyện bên ngoài. Vì thế, vẫn còn đó những anh chị em sốt sắng đi lễ nhà thờ,
nhưng sẵn sàng cãi vã to tiếng với những người sống chung quanh chỉ vì con chó,
con mèo, hay mấy đứa trẻ chơi với nhau… Cũng vẫn còn đó khi làng này và làng
bên kia có những khúc mắc từ lâu, nên hôm nay có lễ ở làng bên thì bên này làng
tỏ vẻ ngần ngại không muốn đi, chỉ vì sự nghi kỵ trước kia lại nổi lên.
Mong sao, với sứ điệp
Lời Chúa hôm nay, mỗi người chúng ta sẽ khao khát đi tìm chân lý, sự sống. Đi
tìm chính Chúa và sống với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng bỏ qua khoảng cách kỳ
thị để đến được với nhau. Bởi vì Chúa là Chúa của mọi người chứ không chỉ riêng
ta.
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho chúng con luôn biết vượt lên trên những rào cản của kỳ thị, ghét ghen, để
xây dựng sự hiệp nhất. Luôn biết mở lòng ra để đón nhận chính Chúa vào trong
cuộc đời, hầu chúng con đáng được hưởng hạnh phúc viên mãn. Amen.
Có một câu chuyện mang
tên “Lòng cảm thông”, có nội dung như sau:
Có một goá phụ giàu có
nọ phụng dưỡng một tu sĩ trong 20 năm liền.
Bà xây cho vị tu sĩ
này một tịnh xá ngay trong khu vườn vắng vẻ thanh tịnh của bà. Bà cung cấp cho
ông đủ mọi thứ trong thời gian ông tu niệm. Bà rất đỗi sung sướng khi nhận thấy
những tiến bộ của ông trong bước đường thiêng liêng, nhưng bà vẫn chưa hoàn
toàn tin tưởng. Để xem 20 năm hy sinh của bà có hoài công hay không, người đàn
bà này quyết chí thử lòng kẻ tu trì.
Một hôm, bà cho tìm
một cô gái trẻ đẹp, trả tiền cho cô và sai cô đến cám dỗ vị tu sĩ. Nửa đêm,
trong lúc vị tu sĩ này đang ngồi thiền, cô gái xông cửa bước vào tịnh xá và
dùng đủ mọi lời lẽ, cử chỉ để quyến rũ ông, nhưng vị tu sĩ vẫn một mực chìm đắm
trong việc tụng niệm. Đến một lúc không còn chịu đựng được nổi sự tấn công của
cô gái nữa, vị tu sĩ bèn quơ cái chổi đánh túi bụi vào người cô gái và tống cô
ra ngoài.
Cô gái đến gặp người
đàn bà và kể lại diễn tiến câu chuyện.
Người đàn bà hài lòng
về sự thánh thiện của vị tu sĩ này ư? - Không! Nghe cô gái tường thuật xong,
người đàn bà liền nổi giận thốt lên:
Hắn ta không biểu lộ
một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy
dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được
điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.
Tìm đến con người
Thiên Chúa luôn đi
bước trước để đến với con người. “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa
chúng ta”. (Ga.1,14).
Chúa Giêsu đã đi con
đường băng ngang miền Samari, và Ngài đã mở đầu câu chuyện với một phụ nữ
Samari bằng việc “xin nước uống”.
Thật ra, để có nước
uống, Chúa Giêsu có cần phải “xin” người phụ nữ này không, khi mà người Samari
và người Do-Thái xem nhau như kẻ thù? "Ông là người Do-thái, mà lại xin
tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?" Quả thế, người Do-thái
không được giao thiệp với người Samari. (Ga 4,9) – Chắc hẳn là không! Chúa
Giêsu đang đi với các môn đệ. Chắc các ông sẽ có cách lo liệu cho thầy mình qua
cơn khát. Nên, việc Chúa Giêsu xin nước là để mở đầu câu chuyện trong “hòa
bình”. Ngài đóng vai một người đang cần “sự giúp đỡ”, và người giúp đỡ sẽ dễ
dàng đặt câu hỏi đối với người xin mình, vì họ cảm thấy mình quan trọng.
Cuộc đối thoại trong
Tin Mửng hôm nay là sự trao đổi bằng những ngôn ngữ thật đẹp, thẳng thắn và
chân thành, không có khoảng cách thận trọng e dè giữa đôi bên.
Tôn trọng con người
Thiên Chúa luôn yêu
thương và tôn trọng con người, vì con người là con Thiên Chúa. “Con người là
chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” (Tv.8,5).
Thái độ “xin” là một
thái độ “khiêm nhượng” và “tôn trọng” người mình xin. Trong tình yêu, luôn có
sự kính trọng! Thái độ “lắng nghe” Chúa Giêsu nói của người phụ nữ Samari cho
thấy ranh giới “nghi kỵ, thù hận” đã được tháo bỏ trong tâm hồn chị ấy. Ngay
những lời nói sơ giao, người phụ nữ Samari đã thấy Chúa Giêsu, người đàn ông Do
Thái này, là người “có thể đối thoại được”. Và điều ấy, cũng chính là sự mở đầu
của niềm tin. – Không ai thèm nói chuyện với một người mà người ta hoàn toàn
không thể tin tưởng!
Thái độ “phá bỏ cái
giới hạn hẹp hòi” đã phân chia hai dân tộc anh em là người Samari và Do Thái đã
tạo ra ngay trong lòng người phụ nữ “câu hỏi” đầu tiên:“người này là ai?”, vì
sao là một người Do Thái lại có thể giao thiệp tự nhiên với một người Samari?
Diễn tiến câu chuyện,
Chúa Giêsu đã tạo cho người phụ nữ Samari phải liên tiếp tự đặt câu hỏi về
Ngài. Ta có thể suy ra những ý nghĩ trong lòng người phụ nữ này, tỷ như: Người
này là ai mà biết tất cả những việc mình làm như thế? Người này là ai mà trả
lời trôi chảy mọi điều mình thắc mắc như thế? Để rồi, người phụ nữ ấy đi dần
đến nhận ra Ngài là một Ngôn sứ. Cuối cùng là Đức Kitô.
Người phụ nữ để vò
nước lại, vào thành và nói với người ta: "Đến mà xem: có một người đã nói
với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?”
(Ga.4,28-29).
Cứu chuộc con người.
Diễn tiến sự thay đổi
trong lòng người phụ nữ Samari luôn là câu hỏi: “Người này là ai?”. Và trên
bước đường rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu cũng luôn muốn con người tự tìm ra
câu hỏi ấy cho chính mình. Bởi vì Niềm Tin phải là sự “nhận biết” Đấng Cứu Thế.
Chúa Giêsu hỏi các môn
đệ rằng: “Người ta nói Con Người là ai?”. Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông
Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay
một trong các vị ngôn sứ. Đức Giêsu lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là
ai?” Ông Si-mon thưa: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
(Mt.16,13-16).
Nhận biết Con Người là
ai? Giêsu Nagiarét là ai? Con người mới có thể đi tới Đức Tin. Tin vào Đức
Kitô, con người mới nhận được “Nước Hằng Sống”, thứ nước đáp ứng đầy đủ mọi
“cơn khát chính đáng” của con người, Những “khát vọng” mà cuộc đời không thể
thỏa mãn được.
Chỉ có Đức Giêsu Kitô,
Đấng Cứu Chuộc con người, mới đem lại màu xanh sức sống cho những tâm hồn cằn
cỗi kiếp nhân sinh.
Tất cả đều đến từ Tình
Thương. Và Tình Thương luôn là điều cấp bách, vì con người quá thiếu.
Sẽ chẳng có câu chuyện
Tin Mừng tuyệt đẹp hôm nay nếu Chúa Giêsu cũng tẩy chay người Samari, và lánh
xa người phụ nữ Samari tội lỗi này, như thái độ tống khứ cô gái bằng vũ lực ra
khỏi phòng của vị tu sĩ trong câu chuyện “lòng cảm thông” kể trên.
Hắn ta không biểu lộ
một sự thông cảm nào với con, hắn ta không nói được một lời để khuyên bảo dạy
dỗ con, 20 năm tu niệm ăn chay của hắn qủa là vô ích. Bởi vì hắn chưa đạt được
điều thiết yếu trong cuộc sống, đó là lòng cảm thông.
Tràn ngập trong cuộc
sống con người là những nỗi lòng âm thầm đau khổ, là những bon chen trong hạnh
phúc phù phiếm, là khắc khoải lo toan, là những cơn khát triền miên mà con
người cố gắng tìm cách thỏa mãn với những niềm vui hụt hẫng chóng qua.
Trong điều kiện sống
của người Samari, xứ sở cao nguyên và sa mạc, có được “giếng nước” là xem như
có tất cả. Nguồn nước là nguồn sống. Mạch nước là mạch sống. Nên “giếng nước”
rất quan trọng, đó là sự sống còn của họ.
Chị ấy nói: "Thưa
ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?
Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng
này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người
cũng vậy.”(Ga.4,11-12).
Nhưng sự vui mừng của
người phụ nữ Samari thật rất cảm động, ta có thể hình dung sự vui mừng của chị
ấy khi bỏ tất cả những gì đang có để reo mừng và chạy vào thành để loan báo Tin
Mừng mà chị vừa nhận được.
Sự vui mừng của người
phụ nữ Samari cho thấy cuộc sống của chị tuy đã có rất nhiều nhưng còn đó cơn
khát vô tận. “Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: "Thưa ông, xin ông cho tôi
thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.” (Ga.4,15).
Không có một lời khiển
trách nào đối với một người phụ nữ mà sáu người đàn ông bước qua cuộc đời chị
không ai là chồng cả! Nhưng ở đây, niềm vui của chị khi đón nhận Lời Hằng Sống
cũng chính là Sám Hối. Chị bỏ lại tất cả mọi thứ bên bờ giếng, cũng như bỏ lại
quá khứ tội lỗi của cuộc đời mình, và đã đóng vai người đi loan báo Tin Mừng
với niềm vui khôn tả!
Không có sự ngượng
ngập hay hổ thẹn khi nhắc đến quá khứ đời mình, "Đến mà xem: có một người
đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm”. (Ga.4,29), vì chị không để tâm gì
đến nó nữa, mà trong tâm trí chị giờ đây chỉ nhớ đến một điều là loan tin về
Đấng Cứu Thế. “Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?" (Ga.4,29).
Truyền giáo
Thế giới vẫn còn đây
cơn khát vô tận, dù sự khôn ngoan của con người đã lên đến đỉnh cao và cuộc
sống con người đang rất giàu có.
Chỉ cần dành vài phút
giây để nhìn vào thế giới hôm nay, để thấy đây đó bao cảnh thiên tai, chiến
tranh, mất mát, đau thương. Để hiểu giá trị cát bụi, phù vân. Để nghe cơn khát
bất tận của con người. Để chọn đâu là những chân giá trị. Để đi đúng con đường
của sự sống đích thực.
Con đường Giêsu.
“Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha
mà không qua Thầy.” (Ga 14,6)
Có thể nhận ra trong
Tin Mừng hôm nay bài học tuyệt đẹp về truyền giáo:
Truyền giáo là yêu
thương. "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với
chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban
cho chị nước hằng sống.”
Truyền giáo là sứ
mệnh. "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và
hoàn tất công trình của Người”. (Ga.4,34).
Truyền giáo là cấp
bách. “Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt? Nhưng này, Thầy
bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!”
(Ga.4,35).
Truyền giáo là hạnh
phúc.“Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như
thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.” (Ga.4,36).
Lạy Chúa,
Xin cho con một con
tim giàu lòng nhân ái,
để con biết bước theo
Chúa,
với một tấm lòng dạt
dào yêu thương. Amen.
Từ khi cầu Mỹ Thuận
được đưa vào sử dụng, con đường về miền Tây như ngắn lại, đôi bờ sông Tiền gần
gũi nhau hơn. Đời sống thần linh và đời sống phàm trần cũng như hai bờ sông
cách xa vời vợi. Cần có những nhịp cầu nối liền dòng sông thiêng liêng giúp con
người đi về gặp gỡ Thiên Chúa.
Hôm nay, khi mở đầu
câu chuyện với người phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã bắc những nhịp cầu nối liền
dòng sông ngăn cách. Thái độ gần gũi của Người là nhịp cầu xoá đi biên giới
ngăn cách chủng tộc, tôn giáo. Lời Người chính là nhịp cầu dẫn vào đời sống
thần linh.
Đức Giêsu gặp người
phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt.
Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do
Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin
uống. Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với
người Sêmít, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có
nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có
lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức
trở nên giàu có.
Người phụ nữ có giếng
nước, có cả bình múc nước. Chị còn có gia đình. Chị còn có đền thờ vững chắc
xây dựng trên núi Garidim, trách nào chị chẳng hợm mình.
Nhưng Đức Giêsu đã phá
tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là
phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc
gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối
duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì
đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.
Trong phút chốc, chị
trở nên thật nghèo nàn. Trước kia chị tưởng mình có tất cả. Nay chị thấy mình
trắng tay. Trước kia chị tưởng mình giàu có. Nay chị nhận thức rõ mình thật
nghèo nàn. Bóc đi tất cả những lớp vỏ phù du bọt bèo, chị thấy mình trơ trụi,
khốn cùng. Nhưng từ đáy vực khốn cùng ấy một niềm tin nhen nhúm, một mạch suối
trào dâng.
Chị chợt tỉnh ngộ.
Những thứ mà trước kia chị tưởng là thành lũy che chở cuộc đời, hoá ra chỉ là
những tảng đá ngăn chặn nguồn suối. Tháo gỡ đá đi rồi, mạch suối dào dạt trào
tuôn.
Những thứ mà trước kia
chị tưởng là nơi nương tựa êm ấm, hoá ra chỉ là tổ kén giam kín đời sâu. Trút
bỏ được lớp vỏ xù xì cũ kỹ, sâu nay hoá bướm đẹp lộng lẫy, tự do bay tung tăng
khắp chốn.
Thì ra, của cải, dục
vọng, tôn giáo vụ hình thức là những tấm màn che mắt, không cho chị nhận ra
Đấng Cứu Thế. Ta hãy trở lại phút đầu tiên, khi Đức Giêsu ngỏ lời xin nước. Lúc
đó, bị các tấm màn che mắt, chị chỉ thấy một anh chàng Do Thái xấu xa, đói
rách: "Ông là Do Thái mà lại xin nước tôi ư? ". Nhưng Lời Chúa như
lưỡi gươm sắc bén, phá tan màn mây mù che mắt chị. Nhát gươm thứ nhất vung lên,
một mảnh vảy mắt rơi xuống. Chị nhìn ra người đối diện "cao cả hơn tổ phụ
Giacóp". Nhát gươm thứ hai vung lên, một mảnh vảy nữa rơi xuống. Chị nhận
ra Người là "một tiên tri". Một nhát nữa vung lên, mảnh vảy cuối cùng
rơi xuống. Chị nhận biết Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế. Và chị tin vào Người.
Niềm tin trào dâng.
Hạnh phúc trào dâng. Chị quên cả múc nước, quên cả bình, chạy về làng báo tin
vui.
Chị để quên chiếc
bình, vì chiếc bình từ nay trở nên vô dụng. Cùng với chiếc bình, chị bỏ lại cả
giếng nước, cả người chồng hờ, cả ngôi đền thờ trống rỗng.
Lời Chúa như lưỡi gươm
sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian.
Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.
Lời Chúa là ngọn đèn
soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.
Lời Chúa là chiếc cầu
đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì
bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên
hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu
ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ
trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với
những đường bay rất đẹp.
Về đại bàng, Cha
Anthony de Mello kể một câu chuyện rất sâu sắc. Một người nông dân vào rừng,
lượm được một trứng đại bàng. Anh đem về cho ấp chung với trứng gà. Ít lâu sau
đại bàng nở ra cùng lũ gà con. Nó cứ tưởng mình là gà. Suốt ngày theo gà mẹ bới
đất mổ sâu. Nó cứ sống kiếp gà như thế cho đến lúc già. Một hôm nó thấy trên
trời xanh một con chim lớn khủng khiếp, cánh giang rộng như che kín cả bầu
trời. Con chim bay thật cao và có những đường lượn thật là đẹp đẽ. Đại bàng ta
kinh khiếp hỏi bác gà trống: "con gì mà khủng khiếp quá nhỉ".
"Đó là đại bàng. Đại bàng thuộc về trời cao. Chúng ta thuộc về đất thấp.
Chúng ta chỉ là gà". Đại bàng cứ sống kiếp gà như thế cho đến chết.
Người phụ nữ là cánh
đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên
cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ
bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải,
dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín,
những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không
cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.
Xin lời Chúa như lưỡi
gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả
tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để
dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và
để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Đức Giêsu đã thành
công trong việc đưa người phụ nữ Samaria về nhận biết chân lý. Ta có thể học
hỏi được gì ở nơi Người để thành công trong việc truyền giáo?
2) Đang thoả mãn với
vật chất, người phụ nữ Samaria chợt thấy thiếu thốn về mặt tâm linh. Đây là một
cuộc hoán cải quan trọng, là một ơn Chúa ban. Bạn đã bao giờ được ơn sám hối để
thấy khao khát đời sống tâm linh chưa?
3) Đã bao giờ bạn cảm
thấy Đức Giêsu là nguồn suối trong lành, là nguồn mạch hạnh phúc của bạn?
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau nửa ngày hành
trình từ Giuđê về Galilê, Đức Giêsu nghỉ mệt bên một giếng nước ở vùng Samari.
Ngài vừa đói vừa khát, giữa cái nắng ban trưa. Các môn đệ vào thành mua thức
ăn. Còn lại một mình Đức Giêsu ngồi bên bờ giếng. Chính nơi đây đã diễn ra cuộc
gặp gỡ giữa Ngài và người phụ nữ Samari vốn bị coi là ô nhơ.
Đức Giêsu bắt đầu gieo
hạt để chuẩn bị cho mùa gặt mai sau của các môn đệ.
"Cho tôi chút
nước uống."
Đức Giêsu mở đầu cuộc
đối thoại bằng một lời nài xin. Ngài chẳng sợ thú nhận sự thiếu thốn của mình.
Xin nước uống là làm
một cuộc cách mạng, là bắc một nhịp cầu qua vực sâu ngăn cách hai dân tộc
Samari và Do thái vốn dĩ đã thù ghét và xa lánh nhau từ bốn thế kỷ.
Chẳng ai hiểu nổi một
bậc thầy như Đức Giêsu lại nói chuyện và xin nước một phụ nữ Samari.
Đức Giêsu đã cúi mình
phá bỏ những hàng rào để xây dựng một cuộc đối thoại đích thực và bình đẳng.
"Cho tôi chút
nước uống."
Ngài là người xin nước
trước khi là người cho...
Chúng ta cũng có nhiều
điều phải xin nơi chính những người cần chúng ta giúp đỡ.
Đức Giêsu cho thấy
Ngài có một thứ nước lạ lùng, uống vào không còn khát nữa. Người phụ nữ vội vã
xin Ngài thứ nước kỳ diệu đó. Chị đâu ngờ chính mình đã bắt đầu được nếm rồi.
Nước đó chính là Lời
của Đức Giêsu, Lời vén mở dần dần con người thâm sâu của Ngài.
Đức Giêsu cho thấy
Ngài biết rõ gia cảnh của chị.
Cái biết của Ngài
không nhằm soi mói, nhưng để cảm thông.
Cái biết của Ngài về
những điều riêng tư thầm kín đã khiến chị coi Ngài là một ngôn sứ đáng tin.
Từ đó, chính chị gợi
lên vấn đề tôn giáo, một vấn đề khiến chị rất bận tâm;
Chính chị nói lên niềm
mong đợi của mình về Đấng Mêsia, Đấng sẽ đến dạy dỗ mọi sự (Ga 4,25); rồi cũng
chính chị đã bỏ vò nước lại mà hân hoan chạy đi giới thiệu Đức Giêsu cho đồng
bào.
Chị đã tìm thấy thứ
nước tuyệt diệu nơi Đức Giêsu.
Ngài từ từ tỏ mình cho
chị: "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."
Không thấy nói đến
chuyện Đức Giêsu ăn hay uống.
"Lương thực của
Thầy là thi hành ý Đấng đã sai Thầy."
Đức Giêsu chỉ đòi một
điều, đó là nuôi dưỡng nhân loại.
Ngài chỉ khát một điều,
đó là ban nguồn nước sự sống.
Chúng ta có dám chia
sẻ cơn đói khát của Ngài không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi chiêm ngắm Đức
Giêsu trong đoạn Tin Mừng trên đây, bạn thấy đâu là những thái độ cần thiết mà
người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần có?
Con người đói khát cơm
gạo và nước uống tinh khiết. Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay đói khát điều gì hơn
cả (tình bạn, tình yêu, lòng tin, niềm hy vọng, ý nghĩa cho cuộc sống, sự trung
thực...)? Kitô giáo có thể giúp gì cho giới trẻ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho con biết con, xin cho con biết Chúa.
Xin cho con chỉ khao
khát một mình Chúa, quên đi chính bản thân, yêu mến Chúa và làm mọi sự vì Chúa.
Xin cho con biết tự
hạ, biết tán dương Chúa và chỉ nghĩ đến Chúa.
Ước gì con biết hãm
mình và sống trong Chúa. Ước gì con biết nhận từ Chúa tất cả những gì xảy đến
cho con và biết chọn theo chân Chúa luôn.
Xin đừng để điều gì
quyến rũ con, ngoài Chúa.
Xin Chúa hãy nhìn con,
để con yêu mến Chúa.
Xin Chúa hãy gọi con,
để con được thấy Chúa.
Và để con hưởng nhan
Chúa đời đời. Amen. (Thánh Âu-tinh)
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúng ta đang chứng
kiến Chúa Giêsu khởi đầu đời sống công khai. Người rời xứ Giuđêa, vì ở đó sự
thành công của Người làm cho nhóm Biệt phái tức giận. Trong giai đoạn này, Chúa
không muốn đi vào cuộc tranh chấp mà bọn họ sửa soạn cho Người, nên Người đi
qua Samaria để lên Galilêa. Tại Samaria xảy ra một cuộc gặp gỡ mở màn cho việc
rao giảng cho dân ngoại toàn thế giới. Chúa Giêsu dừng chân ở núi Garidim. Từ 400
năm, đó là Núi Thánh của dân bản xứ. Vì kình địch với người Do Thái, họ đã biến
ngọn núi này thành một nơi cạnh tranh với Giêrusalem. Đi đường xa mệt mỏi, Chúa
Giêsu ngồi xuống bên bờ giếng Giacóp, trong lúc môn đệ đi vào làng mua thức ăn.
Trong cuộc đối thoại với người đàn bà ra giếng múc nước, ta thấy ngay ý Người
muốn dùng nước làm biểu tượng để mặc khải sứ mệnh và danh tính Người. Câu
chuyện người đàn bà xứ Samaria thường được dẫn ra làm tỉ dụ về khoa sư phạm
tuyệt vời của Chúa đối với con người. Chúa thâm nhập vào trong tâm trí con
người, để làm nổ tung các giới hạn của nó, mở nó ra đón nhận chân lý cao cả hơn
bắt nguồn từ Thiên Chúa, chớ không phải từ con người.
Đầu hết, Chúa Giêsu
gợi óc tò mò tìm hiểu của người phụ nữ. Muốn thế, người đặt mình vào mức tầm
thường của đời sống hằng ngày, vào mức của công việc múc nước vất vả. Người làm
cho linh cảm rằng không phải chỉ cần có thứ nước đó để sống mà thôi, không phải
chỉ có những thực tại vật chất mới là quan trọng trong đời sống. Do đó phản ứng
đầu tiên của người đàn bà Samaria là: xin ông cho tôi thứ nước ban sự sống.
Phản ứng lẫn lộn vừa ước muốn thoát khỏi sự vất vả thường ngày vừa lòng khao
khát biết Chúa Giêsu muốn nói gì.
Chúa làm cho bà thắc
mắc hoàn toàn khi thấy rằng Người nhìn tận đáy lòng bà. Bà hãy về gọi chồng lại
đây. Hoàn cảnh bây giờ trở nên nan giải cho người phụ nữ, và bà lái câu chuyện
sang hướng khác. Phản ứng rất tự nhiên.
Về việc thờ phượng tại
Giêrusalem thì sao? Chúa Giêsu theo bà ‘đi vòng quanh’, lợi dụng cơ hội để nói
thế nào là tôn thờ thật sự. Càng lúc càng thắc mắc thêm, bà nghĩ còn có cách
nói tới việc Đấng Cứu Thế sẽ đến để thoát khỏi cuộc đàm luận này. Đó là lúc
Chúa Giêsu chọn để tự mặc khải mình ra.Chính Ta đang nói với ngươi đây, Ta là
Đấng ấy. Bấy giờ bà tin vào Chúa Giêsu và thuật lại điều đã xảy tới, đó là Tin
Mừng rồi.
Chúa hiện diện gần gũi
với đời sống cụ thể thường nhật của ta. Ta có biết nhận ra Người không? Có chấp
nhận đối thoại với Người không? Có chấp nhận rằng không phải chỉ có những của
cải vật chất mới là quan trọng chăng? Ta có cố gắng không để cho mình bị vật
chất hóa chăng? Không phải chỉ có nước uống nuôi xác, còn có nước chảy vọt ra
thành sự sống đời đời. Đời sống ta có được nuôi dưỡng bằng kinh nguyện và thờ
lạy không?
(Trích trong ‘Niềm Vui
Chia Sẻ’)
Andre Frossard, một ký
giả người Pháp đã cho xuất bản cuộc phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II
cách đây vài năm, là con của một người theo chủ nghĩa Marxit. Chính ông đã từng
là một người cộng sản đầy xác tín…
Ngày nọ, ông phải đưa
một người bạn đến một tu viện. Trong lúc chờ đợi người bạn, ông tò mò bước vào
một nhà nguyện có đặt Mình Thánh Chúa. Ông không bao giờ nghĩ rằng Chúa đang
chờ đợi ông. Trong phút chốc, ông bỗng nhận ra một ánh sáng thiêng liêng trong
tâm hồn. Bừng dậy sau một cơn mê tăm tối, ông bước ra khỏi nhà nguyện chạy tức
tốc đến người bạn và hô lớn: “Thiên Chúa hiện hữu. Đó là một chân lý”.
Ông đã ghi lại kinh
nghiệm thiêng liêng ấy trong một quyển sách với tựa đề: “Thiên Chúa hiện hữu,
tôi đã gặp Ngài”. Quyển sách đã được liệt kê vào danh sách những tác phẩm bán
chạy nhất (best-seller)…
Anh chị em thân mến,
Dù cho chúng ta có
chối bỏ Thiên Chúa, Ngài vẫn luôn luôn chờ đợi chúng ta. Tại một góc đường nào
đó, trước một ánh nến lung linh nào đó, trong một biến cố đau thương nào đó,
Ngài đang chờ đợi chúng ta. Phải, Thiên Chúa như một người tình chung thủy lúc
nào cũng chờ đợi chúng ta… Chỉ có sự thất vọng, chán nản mới có thể hủy bỏ mọi
hẹn hò của Thiên Chúa. Bao lâu chúng ta còn tìm kiếm, bao lâu chúng ta còn phấn
đấu, bao lâu chúng ta còn hy vọng, thì bấy lâu Thiên Chúa vẫn chờ đợi chúng ta…
Tin Mừng hôm nay cho
chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng
của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước
uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một
người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ
Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ –
như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là
Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho
dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng
sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.
Cuộc hẹn bất ngờ đã
làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa
Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng
xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ
khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời,
như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho
sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.
Thưa anh chị em,
Con người sinh ra
trong giới hạn, nhưng lại mang một khát vọng vô hạn. Và để thỏa mãn cơn khát
đó, kẻ thì đánh lừa mình bằng cách tạo ra những thần tượng để tôn thờ và họ sẽ
thất vọng… Kẻ thì lấp đầy khao khát đó bằng cách lăn xả vào những khoái lạc vật
chất. Họ cũng sẽ thấy chán chường, không bao giờ thấy thỏa mãn. Chúa Giêsu đã
nói với người thiếu phụ Samari: “Ai uống nước giếng nầy, sẽ vẫn còn khát…”, thứ
nước này không giải khát hoàn toàn, nó vừa xoa dịu cơn khát, vừa duy trì và
kích thích cơn khát. Ai mà chẳng biết cái chu kỳ quỷ quái của dục vọng, luôn
luôn tái phát, chẳng bao giờ no thỏa. Ai lại không cảm thấy nhu cầu được thỏa
mãn cứ trào lên vô tận, thúc đẩy mình hưởng thụ cách nào đó: càng khát lại càng
uống, càng uống lại càng khát…
Chỉ có Chúa Kitô, phát
xuất từ Thiên Chúa vô biên có thể dạy chúng ta ý nghĩa khao khát đó. Ngài dạy
chúng ta sống với vô biên, khát cái phải khát, và chỉ có Ngài mới có thể lấp
đầy khát vọng vô biên của con người. Chính Đấng Vô Biên đã tạo ra trong lòng
chúng ta cái khát vọng vô biên, không sao thỏa mãn, không sao lấp đầy đó. Chỉ
khi nào gặp được Đấng Vô Biên trong Đức Kitô, lòng chúng ta mới được thỏa mãn
mà thôi.
Thánh Augustinô, sau
một khoảng đời đi tìm kiếm danh vọng, địa vị, tiền tài, tình yêu, hạnh phúc,
cuối cùng đã chán ngán, ăn năn sám hối trở lại với Chúa và ngài đã thốt lên:
“Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, thế mà bấy lâu nay con chỉ mải mê tìm
kiếm cái gì khác ở ngoài Chúa. Vì vậy lòng con luôn băn khoăn thao thức mãi cho
đến khi được an nghỉ trong Chúa. Lạy Chúa, con đã biết Chúa quá muộn! Con đã
yêu Chúa muộn quá rồi!”.
Người thiếu phụ Samari
hôm nay khi gặp được Đức Giêsu – nguồn mạch nước hằng sống – đã phải thốt lên
với mọi người: “Mau hãy đến xem một ông đã nói với tôi mọi việc tối đã làm.
Phải chăng ông ấy là Đấng Kitô”. Sau khi dân thành Samari kéo đến gặp Chúa
Giêsu và xin Ngài ở lại, họ đã hân hoan tuyên xưng rằng: “Không phải vì lời chị
kể lại mà chúng tôi tin. Chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng
Cứu Thế”.
Và cũng như Andre
Frossard, một đảng viên cộng sản đầy xác tín đã phải thốt lên: “Thiên Chúa hiện
hữu, tôi đã gặp Ngài”. Không phải chỉ thốt lên bằng một lời nói mà bằng cả một
tác phẩm ghi lại kinh nghiệm gặp gỡ thiêng liêng ấy, một tác phẩm thuộc loại
sách bán chạy nhất.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu là niềm
khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát
vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không
phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại
vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và
hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn
còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.
Chúng ta phải làm sao
để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống
chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai
uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.
(Trích trong ‘Sống Tin
Mừng’)
Quí ông bà, cô bác và
anh chị em thân mến!
Có lẽ chúng ta không
còn cần câu chuyện nào khác để dẫn chứng cho chúng ta đối với đoạn Phúc Âm hôm
nay. Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria được mô tả một cách
thật là hay, với nhiều chi tiết gợi ý và có thể thu hút sức chú ý của chúng ta.
Tác giả Phúc Âm không nhắc đến tên của người đàn bà này, mà chúng ta có thể giả
thuyết là Chúa và các tông đồ, dĩ nhiên trong số các tông đồ có cả tác giả Phúc
Âm tức thánh Gioan, biết tên người đàn bà này, vì Chúa đã lưu lại nơi cộng đồng
trong vùng hai ngày sau đó để giảng dạy. Người đàn bà không được nhắc đến tên,
có lẽ vì hai lý do sau đây:
Trước hết là sự tế nhị
không muốn nêu danh tánh của một người đàn bà đã có năm đời chồng và hiện đang
sống với người không phải là chồng của mình.
Lý do thứ hai quan
trọng hơn, là vì tác giả Phúc Âm thánh Gioan muốn trình bày nơi đây không phải
lịch sử cuộc đời của một người đàn bà tội lỗi, nhưng trình bày cho chúng ta có
thể nói là con đường đức tin của mỗi người chúng ta.
Nói cách khác, chúng
ta không cần biết danh tánh người đàn bà đó là ai. Vì có thể nói, người đàn bà
đó là mỗi người chúng ta đây trước mặt Thiên Chúa. Con đường đức tin của chúng
ta, chúng ta hãy quan sát xem người đàn bà này đã gặp Chúa Giêsu như thế nào.
Hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã gặp bà và hướng dẫn bà từ một thái độ đối
nghịch sang thái độ kính trọng, cuối cùng tin nhận và làm chứng cho Chúa như
thế nào.
Trước hết, dung mạo
tinh thần của người đàn bà đó là ai? Mặc dù chúng ta không biết tên và không
cần biết tên, đây là người xứ Samaria, con cháu của những người Do Thái mang
dòng máu Adam. Chúng ta biết vào năm 700 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những
người Do Thái bị bắt đi lưu đày sang Babilon và vùng đất Samari này được người
khác đến cư ngụ. Năm 500 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những người Do Thái được
trở về lập quốc và vùng đất Samari này là vùng đất mà những người Do Thái sống
với những người ngoại quốc, họ lập gia đình với nhau, cưới hỏi nhau. Từ đó
những người Samari này có thể nói là những người Do Thái mang dòng máu lai
người ngoại quốc, không còn là Do Thái chính tông trong sạch như những người Do
Thái ở vùng Giuđêa, quanh thành Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem.
Đây là những người bị
người Do Thái coi như là kẻ thù theo cả hai nghĩa, kẻ thù của dân tộc Do Thái
đã kết thân lập gia đình với những người ngoại quốc, và cũng là kẻ thù coi
thường Luật Chúa, Luật Môsê, không xứng đáng lãnh nhận hồng ân cứu rỗi của
Thiên Chúa nữa. Hơn thế nữa, người đàn bà đã có năm đời chồng và đang sống với
một người không phải là chồng của mình. Một người tội lỗi công khai, bị kẻ khác
xét xử như là kẻ ngoan cố trong tội lỗi, vui lòng với tội lỗi của mình, mà theo
quan điểm con người của chúng ta thì có lẽ đây là trường hợp hết thuốc chữa.
Người đàn bà Samari mà
Chúa Giêsu gặp không còn xứng đáng với ơn cứu rỗi của Chúa, đó là nhìn theo
quan điểm con người chúng ta, nhưng không hẳn như vậy, vì trong thâm tâm của bà
vẫn còn có một thắc mắc, một khát khao vượt ra khỏi tình trạng hiện tại của
mình. Chúng ta có thể ghi nhận bà còn một chút hiểu biết giáo lý, còn đang mong
chờ Đấng Thiên Sai đến để ban ơn cứu rỗi. Do đó bà đã hỏi Chúa Giêsu:
"Chúng tôi phải thờ Thiên Chúa ở đâu? Tại Giêrusalem hay trên núi này? Tôi
biết rằng Đấng Thiên Sai sẽ đến để dạy cho chúng tôi mọi sự". Đó là khao
khát từ trong thâm tâm của bà hướng về Đấng Cứu Rỗi, và hơn nữa nơi con người
bà còn có một điều tốt là can đảm nói sự về cuộc đời mình ra trước mặt Chúa. Bà
đã dám nhìn nhận tôi không có chồng, bà ý thức về tội lỗi của mình, và có chút
khao khát hướng về sự giải thoát, về ơn cứu rỗi.
Chúa Giêsu đã hành
động như thế nào đối với bà? Chúa đến với bà trước hết trong dung mạo của người
Do Thái, tức là kẻ thù của người Samari. Chúa vượt qua hai định kiến xấu đối
với bà, người Samari và người đàn bà. Người vùng Samari như đã nói là những
người Do Thái mang dòng máu lai ngoại quốc, không còn trung thành, không còn là
Do Thái chính cống trong sạch với Luật Môsê nữa.
Một vị thầy của người
Do Thái không bao giờ nói chuyện với người đàn bà nơi công cộng, nhưng Chúa
Giêsu vượt qua hai định kiến xấu này và khơi dậy thiện cảm của người đàn bà khi
mở miệng xin nước uống: "Xin bà cho tôi nước uống". Chúa tạo dịp cho
người đàn bà làm một việc thiện, làm một điều tốt cho một người mà mình không
thích để từ đó nâng dậy người đàn bà sa ngã.
Hành động và lời nói
của Chúa Giêsu đã phá tan thành kiến nơi người đàn bà: "Sao ông là người
Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người Samari?" Hành động và những
lời nói của Chúa làm cho người đàn bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã đổi
cách xưng hô từ việc ngay từ đầu gọi Chúa là ông một cách xa lạ, thì giờ đây
biến thành: "Thưa Ngài, xin hãy cho tôi nước uống". Một lời thưa nói
lên thái độ kính trọng, bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa nói với bà.
Chúa dùng hình ảnh
nước uống để mạc khải về mầu nhiệm ân sủng Thần Linh từ Thiên Chúa muốn ban cho
con người. Chúa không có thái độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ người đàn bà
dễ hiểu và cuối cùng dẫn bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn của bà. Đó
là Chúa cho bà biết là bà đang khao khát một cái gì cao siêu hơn, không phải
nước uống vật chất, không phải tình thương nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu
rỗi, khao khát gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc đó Chúa Giêsu đã mạc khải rõ
ràng hơn cho bà Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người đang nói với bà
đây. Con đường đức tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và trở thành người chứng
đầu tiên cho Chúa, bà chạy về làng kêu mời những người khác đến gặp Chúa Giêsu.
Tin và làm chứng cho Chúa luôn đi đôi với nhau.
Tác giả Phúc Âm thánh
Gioan không kể thêm chi tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi tiết để thỏa
mãn tính tò mò của mỗi người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc Âm này, nhưng
ngài muốn nói đầy đủ trong đoạn Phúc Âm này những chi tiết khác thuộc phạm vi
riêng tư giữa Chúa và người đàn bà, giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa
và mỗi người mà chúng ta không cần biết đến.
Những gì đã được kể ra
trong đoạn Phúc Âm hôm nay là để giúp cho mỗi người chúng ta nhìn lại con đường
đức tin của mình: tôi đã gặp được Chúa như thế nào? Tôi đã gặp Chúa hay chưa?
Để mỗi người chúng ta biết trở về nhìn nhận giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm
mỗi người, Chúa thực hiện một dấu lạ, một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội lỗi
của chúng ta như Chúa dùng trường hợp tội lỗi của người đàn bà để mạc khải một
thực tại cao siêu hơn, để kêu gọi người đàn bà trở về, bà đã có năm đời chồng,
bà nói đúng sự thật về người mà bà đang sống, bà biết người đang sống với bà
không phải là chồng của mình. Chúa có thể dùng những tật xấu, những tội lỗi của
chúng ta để thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng ta trở về với Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi
người chúng ta được thức tỉnh để nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình, nhất là
nhìn nhận nơi chính thâm tâm của mỗi người chúng ta có một khao khát hướng về
Chúa, có một khao khát được ơn Chúa cứu rỗi. Xin Chúa đến và củng cố đức tin
của chúng ta.
Một du khách từ thánh
địa trở về kể lại rằng:
Ngày nọ lúc ông đang
ngồi trên một bờ giếng, thì một phụ nữ Ả Rập, vai mang một cái thùng, tay cầm
một cuộn dây quấn lại tròn như một quả cầu, với một chiếc gàu nhỏ bằng da. Đến
nơi, chị cột dây vào gàu và thả xuống giếng, rồi kéo lên và đổ nước vào thùng.
Khi đã đầy thùng, chị liền rời khỏi giếng và trở về nhà.
Lúc sau, một người đàn
ông xuất hiện. Anh chẳng có gì để múc. Và thế là vì quá khát, anh bèn bò xuống
đất, liếm những giọt nước, mà người phụ nữ đã đổ trào ra.
Câu chuyện đơn giản
trên sẽ giúp chúng ta hiểu điều mà người phụ nữ Samaria đề cập đến qua đoạn Tin
Mừng hôm nay.
Chị ta nói với Chúa
Giêsu:
- Thưa ông, ông không
có gàu để múc, mà giếng thì lại sâu, thế thì ông kiếm đâu ra nước hằng sống.
Và Chúa Giêsu đã cắt
nghĩa cho chị ta hiểu rằng Ngài không định nói đến thứ nước vật chất, làm dịu
đi cơn khát thông thường, mà là thứ nước thiêng liêng, làm dịu đi cơn khát tâm
linh. Ngài nói:
- Ai uống nước này vẫn
còn khát, nhưng ai uống nước Ta ban sẽ chẳng khát bao giờ nữa.
Như thế Chúa muốn nói:
Về mặt thể xác, tất cả chúng ta đều bị khát thế nào, thì về mặt tâm linh, tất
cả chúng ta cũng bị khát như vậy.
Tuy nhiên, sự khát tâm
linh này là gì? Đâu là sự trống rỗng bên trong mà chúng ta đã từng cảm nghiệm…
Các tác giả Cựu Ước đã
nói về điều này như là một cơn “khát Chúa”. Chẳng hạn thánh vịnh 42 thì nói:
- Như nai khát mong
tìm suối mát, hồn con cũng mong đợi Ngài như thế.
Tiên tri Isaia thuật
lại lời Chúa:
- Tất cả mọi kẻ khát
hãy đến cùng ta.
Còn tiên tri Giêrêmia
thì sánh ví Chúa như giòng suối trong. Cơn khát mà tất cả chúng ta đều cảm thấy
là cơn khát Chúa. Đây là một cơn khát nội tâm mà mọi người đều có thể cảm
nghiệm được như lời thánh Augustinô:
- Tâm hồn chúng con
được tạo nên cho Chúa và nó sẽ còn khắc khoải cho đến khi nào được nghỉ yên
trong Chúa.
Thế nhưng, nhiều người
thời nay đang cố gắng tìm cách thỏa mãn cơn khát tâm linh này bằng những thứ
khác không phải là Chúa. Chẳng hạn như tiền bạc, danh vọng, lạc thú. Họ hành
động như cho đứa bé đang khóc một cục kẹo để nó nín. Tuy nhiên kinh nghiệm cho
hay dùng vật chất để làm thỏa mãn cơn khát thiêng liêng chẳng khác nào dùng
muối để giải tỏa cơn khát thể xác. Càng uống lại càng khát thêm. Nơi trái tim
mỗi người đều ẩn dấu một con khát mà không giòng nước nào có thể thỏa mãn nổi,
một nỗi khắc khoải mà không sự thành công nào có thể giập tắt được, một sự
trống rỗng mà không của cải vật chất nào có thể lấp đầy được. Điều đó dẫn chúng
ta tới kết luận của đoạn Tin Mừng hôm nay:
Chỉ có Chúa mới thỏa
mãn được cơn khát trong tâm hồn chúng ta. Và chỉ một mình Ngài mới lấp đầy
khoảng trống trong cuộc đời chúng ta, bởi vì như lời Ngài đã xác quyết: Ai uống
nước Ta ban thì sẽ chẳng khát bao giờ.
Với vẻ tò mò, người
phụ nữ Samaria tiến tới phía người đàn ông đang ngồi trên thành giếng. Bởi vì
Chúa Giêsu đang sống, bởi vì mỗi bài suy niệm này là một cuộc gặp gỡ tình yêu
với Chúa Giêsu hằng sống, tại sao không nghĩ rằng Ngài đang chờ tôi? Chính Ngài
nói với tôi: “Hãy cho Ta uống nước”
Nhưng Ngài khẳng định
ngay: “Nếu ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa ban: chính ngươi biết rõ ơn Thiên Chúa
ban; chính ngươi sẽ xin và ngươi sẽ được uống nước hằng sống”.
Hai nỗi khát khao làm
hoang mang. Chúa Giêsu nói: “Hãy cho Ta”, rồi: “Hãy xin Ta”. Và xa hơn một
chút: “Chúa Cha đang cần những người tôn thờ Ngài thực sự”. Chúng ta đang ở
trên đỉnh cao của sự mạc khải. Chúng ta biết rằng Thiên Chúa có thể làm cho
chúng ta hết khát, nhưng không có bài Phúc Âm này thì ai dám nghĩ rằng Thiên Chúa
khao khát chúng ta?
Cách duy nhất để có
thể xứng đáng với sự khao khát này chính là khao khát Ngài. Sự ước muốn và tình
yêu có qua có lại: tình yêu vì tình yêu. Chính là phải xin nước của Ngài là
nước sẽ làm cho chúng ta ước ao Chúa: “Hãy xin Ta nước hằng sống và nơi ngươi
sẽ phát sinh nguồn mạch tình yêu. Ngươi có thể là một trong những người tôn thờ
mà Cha tìm kiếm”.
Người tôn thờ sao?
Những hình ảnh phiền nhiễu nổi lên, những người sấp mình trước một ngẫu tượng.
Cho nên Thiên Chúa của chúng ta là gì nếu Ngài muốn người ta sấp mình trước mặt
Ngài?
Ngài là Thiên Chúa.
Không có gì có thể thay đổi được cứ liệu này trong quan hệ của chúng ta: Ngài
là Thiên Chúa. Ngài không tìm kiếm những kẻ thờ lạy, Ngài tìm kiếm những kẻ thờ
lạy thực sự. Sự chính xác có một tầm quan trọng lớn lao. Chỉ những kẻ tôn thờ
thực sự mới đáp lại tình yêu của Ngài, không ngừng xem Ngài là Thiên Chúa. Nếu
không, mối quan hệ bị sai lệch, tình yêu của chúng ta không đạt tới Thiên Chuá,
chúng ta hoàn toàn ở trong sự ảo tưởng.
Tôi vừa đặt tình yêu
vào chỗ tôn thờ, bởi vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta và
chờ đợi chúng ta yêu thương Ngài. Nhưng để không lầm lẫn về mối tình kỳ lạ có
thể nối kết con người với Thiên Chúa này, phải đào sâu ý tưởng thờ lạy. Đây
hoàn toàn không phải thờ lay một ngẫu tượng nhưng là biết yêu mến Chúa mà vẫn
luôn luôn cảm nhận sự uy nghiêm của Ngài. Tôi ngần ngại trước khi viết “sự uy
nghiêm”, và sự ngần ngại này chứng tỏ cho tôi thấy rằng không dễ gì tìm được
ngôn từ đúng đắn cho tình yêu tôn thờ này. Do đó ngày nay có một cách nói của
Phúc Âm trở nên nổi tiếng bởi vì nó xác định đầy đủ sự tôn thờ thực sự: “Phải
thờ lạy Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý”.
Khi thánh Gioan nối
kết hai từ tinh thần với chân lý bằng từ và, từ quan trọng nhất thường là từ
thứ hai (chẳng hạn “Ông ta thấy và ông ta tin”). Do đó, ở đây phải chú trọng
đến chân lý. Vẫn đối với Gioan, chân lý làm ta nghĩ ngay đến Chúa Giêsu. Chúa
Giêsu đã khẳng định: “Ta là chân lý”. Trong khi mạc khải chân lý về Chúa Cha,
về chính mình và về quan hệ giữa Ngài với Cha, Chúa Giêsu dạy chúng ta thờ lạy
“trong chân lý”. Điều đó có nghĩa là: yêu Cha như Chúa Giêsu yêu thương Ngài.
Nhưng chỉ có Chúa
Thánh Thần mới có thể ban cho chúng ta những tâm tình như Chúa Giêsu. Thờ lạy
“trong tinh thần” có nghĩa là được Thánh Thần linh ứng khi chúng ta muốn yêu
thương Cha theo cách của Chúa Giêsu.
Bạn chắc chắn cảm thấy
tôn thờ thực sự tức là tôn thờ Ba Ngôi. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu ở giếng
Giacob mang lại cho chúng ta ba màu sắc của sự tôn thờ: Sự tôn thờ này hướng
đến Chúa Cha, trong khi, dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, sự tôn thờ này
được nuôi dưỡng bằng mọi chân lý đến từ Chúa Giêsu.
Qua Tin mừng hôm nay,
chúng ta nhận thấy nơi Chúa Giêsu, con người gặp gỡ được tình yêu và ơn cứu độ
của Thiên Chúa với những diễn biến nội tâm:
1. Một sự thay đổi:
Cũng giống như các
cuộc đàm thoại với ông Nicôđêmô, Marta và Maria, người đàn bà ngoại tình, tất
cả đều kết thúc bằng một sự thay đổi. Qua lời Chúa mà tất cả các nhân vật đã
nhận ra Chúa Giêsu là ai. Người đàn bà Samaria đã có sự thay đổi trong ngôn ngữ
khi nói chuyện với Chúa. Lúc đầu bà gọi Chúa Giêsu là ông (You), ngôi thứ hai,
kế đó là Thưa Ngài (Sir), rồi từ việc nhận thức Ngài là một tiên tri đến Đấng
Thiên Sai. Dịch từ tiếng Hy lạp “Kyrios”, “Đấng Cứu Thế”, là Đấng mà theo thánh
Phaolô diễn tả trong thơ gửi tín hữu Philipphê: “Mọi gối phải bái quì, cả trên
trời dưới đất và nơi âm phủ”.
2. Một sự hiểu biết:
Cuộc đối thoại đã thay
đổi từ sự ngộ nhận tới thái độ thông cảm hiểu biết. Chúa Giêsu nói về Ngài như
là nước hằng sống. Lúc đầu, người đàn bà hiểu nước hằng sống như là dòng nước
luân lưu trôi chảy, khác với nước ao tù ứ đọng. Đối với người Do Thái, nước là
một biểu tượng có ý nghĩa. Họ thường đề cập đến sự khao khát của đời sống tinh thần
đối với nguồn nước hằng sống và sự khao khát của linh hồn tìm kiếm Thiên Chúa.
Trong Cựu Ước, suối nước biểu tượng cho chính Thiên Chúa hay cho sự khôn ngoan
qua việc tuân giữ lề luật. Đó là món quà vĩ đại nhất của Thiên Chúa. Theo Gioan
thì đó là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng được Xức dầu của Thiên Chúa. Nước
biểu tượng cho thần khí, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai tin vào Ta, thì từ lòng
Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống”. “Không ai có thể vào Nước Thiên
Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí”.
3. Một lòng khao khát:
Trong cuộc đối thoại,
Chúa Giêsu đã vượt qua những hàng rào đố kỵ, ngộ nhận để đi thẳng vào lòng khao
khát của con người. Theo William Barclay, thái độ của người đàn bà lúc đầu
không những là hiểu lầm mà còn có vẻ mỉa mai, châm biếm Chúa Giêsu: “Thưa Ngài,
xin cho tôi nước đó để tôi chẳng còn khát và khỏi phải đến đây xách nước nữa”.
Nhưng trong thái độ mỉa mai này đã biểu lộ một sự thật trong trái tim của con
người. Đó là khát vọng tìm kiếm một điều gì mà chỉ có Chúa Giêsu mới làm thỏa
mãn được. Thánh Augustinô đã nói lên sự thật này: “Trái tim của chúng ta không
bao giờ yên nghỉ cho đến khi được nghỉ yên trong Người”.
4. Một chứng nhân:
Cuộc đối thoại bị
ngưng vì các môn đệ trở lại, và người đàn bà đã để chiếc vò múc nước ở giếng,
trở về làng. Bà trở về làng mà không mang vò nước theo chứng tỏ rằng bà rất vội
vã, muốn chia sẻ Tin Mừng gặp gỡ Đấng Cứu Thế cho những người khác. Giống như
Philipphê khi đã gặp được Chúa Giêsu rồi liền đi tìm Nathanaen để loan báo Tin
Mừng. Bà Maria Mađalêna đã vội vã đi tìm các môn đệ và loan báo rằng đã gặp
thấy Chúa.
Sứ mạng của người Kitô
hữu cũng trải qua hai giai đoạn: trước hết gặp gỡ Đức Kitô một cách cá nhân,
như là một chứng nhân; sau đó trở nên nhà truyền giáo, loan báo Tin Mừng. Sự khám
phá ra Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đã làm cho người đàn bà vui mừng đến nỗi
không còn cảm thấy xấu hổ về tội lỗi của mình nữa. Bà chạy đi loan báo công
khai cho mọi người biết về một con người đã biết tất cả cuộc đời của bà. Bà chỉ
nói về điều xảy ra cho bà, và mời mọi người hãy đến và xem.
Vai trò của người đàn
bà Samaria là đưa mọi người đến với Chúa Giêsu như Công đồng Vatican II đã
viết: “Việc tông đồ mà mỗi người phải thực hiện bắt nguồn từ mạch sống phong
phú đích thật Kitô giáo. Đó là căn bản và điều kiện của mọi hoạt động tông đồ
giáo dân.
Dẫn đưa mọi người đến
với Đức Kitô, nguồn nước hằng sống cũng là vai trò của Giáo Hội, của các người
Kitô hữu như thánh Gioan đã nói: “Giờ đây, không phải vì những lời chị kể lại
mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe lời Người và chúng tôi
biết Người thật là Đấng Cứu Thế”.
Bài Tin Mừng thuật lại
một trong những cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu. Đây là cuộc gặp gỡ một phụ nữ ở
Samaria và cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời của người phụ nữ ấy.
Người phụ nữ này đi
kín nước thì tình cờ gặp Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ chân bên bờ giếng, chứ chị
ta không hay biết gì và cũng không có ý định gặp Chúa. Chúa đã gợi chuyện với
chị bằng việc xin nước uống. Sau một cuộc hành trình xa dưới nắng nóng, mệt
mỏi, Chúa Giêsu khát nước, gặp giếng nước và người kín nước, Ngài xin nước uống
là một điều tự nhiên bình thường. Nhưng ở đây không phải Chúa khát nên xin nước
uống mà chỉ là dịp để Ngài đề cập đến một vấn đề quan trọng hơn. Có thể nói
Chúa giả vờ xin nước để gợi truyện, Ngài muốn nói cho chị ta biết: chính chị là
người đang khát, và Chúa cũng muốn nói cho chị ta biết: Ngài là ai, là người sẽ
làm cho chị hết khát: “Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa”.
Nhưng lại ở mức độ cụ
thể của đời thường, người phụ nữ Samaria không hiểu gì hết, nên Chúa đi thêm
một bước nữa, Ngài nói với chị về đời tư của chị, khi đó chị nhận ra ngay Ngài
là một ngôn sứ. Chúng ta thấy Chúa không kết án, cũng không trách chị ta đã có
đến năm đời chồng rưỡi. Đó không phải là vấn đề. Điều Chúa muốn là chị ta nhận
ra Ngài là ai, và Chúa đã thành công. Từ không biết đến nghi ngờ, từ nghi ngờ
đến nhận biết. Chị nghi ngờ người đang nói với chị không phải là bất cứ ai, và
chị đã nhận ra một khuôn mặt mới: không phải là một ngôn sứ mà là Đấng Mêsia
mọi người đang mong đợi.
Thế là giếng đó, vò
đó, người phụ nữ không còn quan tâm nữa, chị chạy ngay đi thông báo nước hằng
sống vừa khám phá. Chính cái quá khứ không ra gì của chị đã làm cho chị trở
thành có khả năng nói về Chúa: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả
những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Kitô sao?” Mọi người tin lời
chị, họ đến gặp Chúa Giêsu và họ cũng tin Chúa. Như vậy, sau khi gặp Chúa
Giêsu, người phụ nữ đã tin và làm chứng cho Chúa giữa những người Samaria trong
thành, và những người này, sau khi gặp Chúa, đã xin Chúa ở lại với họ, và hân
hoan tuyên xưng rằng: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật,
chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
Kinh nghiệm gặp gỡ
Chúa Giêsu của người phụ nữ Samaria là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu
cầu chúng ta hãy cố thực hiện một cuộc gặp gỡ như thế trong Mùa Chay. Sống kinh
nghiệm gặp gỡ Chúa không phải chỉ là một may mắn tình cờ mà là điều ai cũng có thể
tìm gặp được. Muốn gặp gỡ Chúa là điều rất dễ, bởi vì chính Chúa yêu thương
chúng ta, ngày ngày đi tìm và đến gõ cửa tâm hồn mỗi người chúng ta. Chúng ta
đang muốn gặp gỡ Chúa ư? Hãy nhớ lời Chúa nói: “Này Ta đang đứng ngoài cửa và
gõ, ai nghe tiếng Ta và mở cửa thì Ta sẽ vào nhà kẻ ấy”. Như vậy có nghĩa là
cuộc gặp gỡ hoàn toàn tùy thuộc nơi chúng ta, tùy thuộc vào thái độ sẵn sàng
của chúng ta. Có thể Chúa Giêsu đã tìm đến gõ vào cánh cửa của tấm lòng chúng
ta nhiều lần rồi, nhưng chúng ta say ngủ hay bận bịu trăm công ngàn việc hoặc
trong tấm lòng chúng ta có quá nhiều tiếng ồn ào và quá nhiều khách khứa nên
chúng ta đã không nghe thấy tiếng Ngài và không mở cửa cho Ngài. Nếu thế thì
cần phải có những quyết định cụ thể và thay đổi ngay thế nào để khi Chúa đến gõ
cửa, chúng ta sẵn sàng mở ngay. Có thể Chúa đang gõ cửa tấm lòng chúng ta ngay
trong lúc này, chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội. Xin Chúa cho tất cả chúng ta đều sẵn
sàng mở cửa để Chúa đến gặp gỡ và ban nhiều hồng ân cho chúng ta trong Mùa
Chay.
Người phụ nữ Samaria
gặp Chúa Giêsu, cuộc gặp gỡ này đã làm chuyển biến cuộc đời chị. Nếu chúng ta
muốn thay đổi hay đổi mới cuộc đời mình, chúng ta hãy đến với Chúa Giêsu, hãy
gặp gỡ Ngài, bởi vì chỉ có Chúa mới giải đáp được những băn khoăn, những ưu tư
của chúng ta, chỉ có Ngài mới làm cho cuộc đời chúng ta đáng sống, sống vui,
sống mạnh, sống hạnh phúc và có ý nghĩa.
Trong một câu chuyện
ngụ ngôn "Những Sinh Vật của Thói Quen", kể rằng có hai vợ chồng bác
nông dân kia cảm thấy cần phải sửa chữa cái chuồng gia súc cũ. Nóc chuồng thì
dột, một vài tấm ván ghép tường bị mục, còn sàn chuồng bằng đất lại lồi lõm nên
bị đọng nước mỗi khi trời mưa. Thế rồi chuồng mới được xây lên và chuồng cũ bị
phá hủy trước khi mùa đông đến.
Sáng hôm sau, trước
khi đi phố mua thêm đồ dùng, bác cho gia súc ra đồng cỏ và để cửa chuồng mở
phòng hờ nhỡ khi thời tiết đổi xấu. Mà thật, thời tiết trở nên xấu thậm tệ.
Nhiệt độ xuống thấp dần, mưa bắt đầu rơi và nước mưa chuyển thành băng. Bác
nông dân cảm thấy rất vui khi nghĩ mấy con vật giờ đang được ấm áp trong căn
chuồng mới. Khi bác về tới nhà liền đi thẳng ra chuồng thú vật, nhưng căn
chuồng trống rỗng chẳng có con vật nào cả. Bác vội chạy ra ngoài tìm kiếm và
thấy một cảnh thật lạ lùng. Đó là mấy con vật trông thật tội nghiệp, chúng nép
vào với nhau và trên lưng chúng thì phủ đầy băng tuyết; đồng thời chúng lại
đứng trên cái nền chuồng cũ, cảnh ấy thật là Những Sinh Vật của Thói Quen.
Chúng ta thờ Chúa
không phải chỉ làm những việc theo thói quen như đi nhà thờ hay đọc kinh nhưng
phải thờ Chúa trong cả đời sống chúng ta.
Vào thời Chúa Giêsu
thì người Samaritanô là những người xưa ly khai và tách mình khỏi dân tộc Do
thái. Không như người Do thái thờ Thiên Chúa tại đền thờ trên núi Sion ở
Giêrusalem, người Samaritanô đã thờ Chúa Trời tại đền thờ trên núi Garizim. Bởi
đó phụ nữ kia đã nói với Chúa Giêsu: "Tôi thấy Ngài là một tiên tri, vậy
xin Ngài hãy nói với tôi tại sao cha ông chúng tôi thờ Chúa Trời trên núi này
trong khi những người Do thái các ông lại nói phải thờ tại Giêrusalem?"
Chúa Giêsu trả lời: "Hãy tin Ta, vì khi giờ đến thì người ta không còn thờ
phượng Chúa Cha trên núi này hay tại Giêrusalem... Nhưng khi giờ đến, mà thật
sự nó đã đến rồi, thì những người thật sự thờ Thiên Chúa sẽ tin thờ Chúa Cha
trong tinh thần và chân lý; đó chính là điều Chúa Cha muốn" (Ga 4,
20.21.23).
"Thờ Chúa Cha
trong tinh thần và sự thật", qua những lời đó Chúa Giêsu đã hướng quan
niệm về việc thờ phượng Thiên Chúa từ nơi chốn sang tính cách. Tức là việc tôn
thờ Thiên Chúa hệ tại không phải là "ở đâu" nhưng là "thế
nào". Người ta sẽ không còn cho rằng Thiên Chúa chỉ ẩn mình trong những
bức tường của đền thờ thế gian, hay Ngài chỉ quanh quẩn đâu đấy như trên đỉnh
núi chẳng hạn. Thật sự, người ta sẽ thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, và Nhà
của Chúa được tìm thấy trong tâm hồn con người. Người ta không dựa vào thói
quen nhưng mặc lấy tinh thần của Chúa.
Thánh Phaolô đã nhắc
nhớ chúng ta phải tẩy sạch một số thói quen. Ngài nói, "Anh em hãy vất bỏ
tất cả những gì thuộc về thế gian: gian dâm ô uế, đam mê sai trái, dục vọng xấu
xa, tham lam ăn uống, giận dữ, nóng nảy, thù hận, chửi thề và ngôn từ lăng
loàn... anh em hãy dứt khoát với mọi thói quen ấy" (Col 3:5-7). Kể cũng
lạ, vì có rất nhiều trong chúng ta đi nhà thờ, đọc Thánh Kinh, bàn về đạo lý
nhưng vẫn cứ để cho những tính xấu ấy làm chủ đời mình.
Hơn nữa, Thánh Phaolô
nói rằng chúng ta cần phải thay đổi những tập quán xấu bằng những tập quán tốt.
Ngài nói, "Hãy mặc lấy, hỡi những người được Chúa tuyển chọn, lòng quan tâm
trắc ẩn, tốt lành, khiêm nhường, quảng đại, nhẫn nại, chia sẻ nỗi buồn, tha thứ
mọi lỗi lầm anh em xúc phạm tới ngươi, và trên hết hãy mặc lấy tình yêu"
(Col 3:12-14).
Xin cho chúng con thật
sự thờ Chúa trong tinh thần và chân lý, trong cả cuộc sống chúng con.
(Sưu tầm của Linh Xuân
Thôn)
Cuộc sống con người có
nhiều mối tương quan liên đới với nhau, và có nhiều cuộc gặp gỡ khác
nhau. Có những cuộc gặp gỡ như gió thoảng, như mây trôi… gặp đó rồi tan
biến đi không để lại một dấu tích nào trong cuộc đời. Nhưng cũng có những
cuộc gặp gỡ đã làm thay đổi cả một đời người. Đó là cuộc gặp gỡ kỳ diệu
của tôi, người con gái dân làng Samaria, với Đức Giêsu bên bờ giếng.
Hơn hai ngàn năm
trước, giữa trưa hè oi bức, trong lúc mọi người đang nghỉ trưa, nhìn trước nhìn
sau không thấy bóng người, tôi một mình lén lút mang bình ra giếng để múc nước
với hy vọng không phải gặp mặt những người thân quen. Tôi muốn chạy trốn vì gốc
gác thấp hèn không trong sạch của mình, nên những người hàng xóm láng giềng
luôn xa lánh tôi. Tôi muốn trốn chạy vì trót mang thân phận hồng nhan đa truân,
tình duyên lỡ làng với 5 đời chồng, nên những người họ hàng bà con luôn nhìn
tôi bằng con mắt khinh bỉ. Tôi muốn chạy trốn vì xã hội này đã quay lưng với
tôi, đã không có chỗ dành cho tôi, đã âm thầm kết án tôi là phường đàng điếm
tội lỗi …
Một mình tôi bước đi
trong cuộc đời, và hôm nay, một mình tôi bước ra bờ giếng với hy vọng không
phải gặp mặt người nào cả. Nhưng kìa, một người đàn ông Do Thái đang ngồi nghỉ
trưa bên giếng. Ông ngước mắt nhìn tôi, tôi không còn cách nào chạy trốn nên
đành phải cúi đầu bước đi trong thinh lặng. Tôi bước đi nhưng lòng tôi lại có ý
nghĩ khinh miệt người đàn ông này.
Hắn chỉ là một gã Do
Thái đói rách bẩn thỉu, nhưng có lẽ hắn cũng tham lam và coi trọng lề luật như
bao gã Do Thái khác. Nhìn quần áo của hắn thì biết rõ hắn là một gã Do Thái
nghèo. Cuối cùng bước chân nặng nề cũng mang tôi đến bên bờ giếng. Tôi mong
muốn múc nước đổ đầy bình cho thật nhanh để ra về ngay, tránh cái nhìn soi mói
của gã đàn ông Do Thái này. Hơn nữa, theo luật Do Thái, Samari và Do Thái là
hai thế giới riêng biệt, không bao giờ được phép chung đụng, vì người Samari bị
coi là phường ngoại đạo.
Bỗng dưng người đàn
ông lên tiếng gợi chuyện với tôi: “Chị cho tôi xin chút nước uống” (Ga.4:8).
Tôi bâng khuâng ngỡ ngàng về giọng nói trầm ấm đó. Tôi ngạc nhiên về lời xin
nước để uống. Tôi ngước mắt nhìn ông, nhìn vào vầng trán cao với khuôn mặt nhân
hậu … nhìn vào cặp mắt sáng ngời với nụ cười hiền hoà tươi vui … Tôi nhủ thầm
trong lòng: “Chắc hẳn ông này không phải là người tầm thường”. Tôi lên tiếng
nói với ông ” Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông
uống nước sao?” (Ga.4:9). Nghe tôi nói, ông nở nụ cười thật tươi, thật hiền hòa
như trả lời với tôi rằng ông chẳng nặng lề luật, nhưng trọng tình người.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ
diệu này, tôi mới hiểu ra rằng ông chỉ giả vờ xin nước để gợi chuyện với tôi mà
thôi. Ông không khát nước, nhưng từng bước rồi từng bước, ông tế nhị chỉ bảo
cho tôi biết chính tôi mới là người khát, khát Nước Hằng Sống. Ông hé mở cho
tôi biết ông là ai, và ông sẽ làm gì để tôi hết khát: "Ai uống nước này,
sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi
cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời
đời." (Ga.4:13-14). Sự xa lạ và nghi ngờ đối với ông trước đây đã
dần dần tan biến trong tôi, nhường chỗ cho sự yêu thương kính trọng.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ
diệu này, ông nhìn thấu suốt con người của tôi: những cuộc tình vụng trộm chóng
qua, những thù hận và trốn chạy trong cuộc đời, những vết thương lòng nhói đau
… tất cả ông đều biết rõ, cái biết của ông không nhằm soi mói, nhưng để cảm
thông. Tôi giật mình sấu hổ khi thấy ông biết rõ những bí ẩn của đời tôi: “Chị
nói: tôi không có chồng là phải, vì chị đã năm đời chồng rồi, và hiện người
đang sống với chị không phải là chồng chị “ (Ga.4:18). Nghe lời nói của ông,
trong tôi từ chỗ yêu thương kính trọng trước đây, bây giờ tôi cúi đầu tôn kính
ông là ngôn sứ của đời mình.
Trong cuộc gặp gỡ kỳ
diệu này, ông chỉ vẽ cho tôi biết về Thiên Chúa:” Thiên Chúa là thần khí, và
những ai thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật."
(Ga.4:24). Và cũng trong cuộc gặp gỡ kỳ diệu này, khi nghe tôi nhắc đến Đấng
Mêsia, còn gọi là Đức Kitô. Ông đã lên tiếng: “Đấng ấy chính là tôi, người đang
nói với chị đây" (Ga.4:26).
Tôi đứng dậy, để lại
vò nước bên bờ giếng, chạy như bay về nhà, thông báo với bà con họ hàng, với
hàng xóm láng giềng, với mọi người tôi gặp gỡ… những người mà chỉ vài giờ trước
đây tôi còn chạy trốn không muốn gặp mặt, nay tôi mạnh dạn lớn tiếng nói với
họ: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy
không phải là Đấng Kitô sao?” (Ga.4:29).
Giêsu ơi! Cuộc gặp gỡ
kỳ diệu bên bờ giếng đã biến đổi đời con, giúp con trở thành con người mới, với
trái tim mới, trái tim của yêu thương và hy sinh phục vụ... Xin cho con được
gặp gỡ Ngài mỗi ngày trong suốt cuộc đời của con. Amen.
Câu hỏi gợi ý:
1. Có thực tại trần
gian nào thỏa mãn được những khát vọng vô hạn của con người không? Những thực
tại siêu nhiên thì sao? Thực tại nào có thể thỏa mãn những khát vọng của con
người để họ được hạnh phúc?
2. Người ta có luôn
luôn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, trong các bí
tích không? Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa phải có những yếu tố nào?
3. Thế nào là thờ
phượng, gặp gỡ Thiên Chúa «trong thần khí và sự thật»?
1. Khát vọng của con
người không bao giờ được thỏa mãn
Khát nước, đó là tình
trạng thiếu thốn mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta
phải uống nước để thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn
khát dằn vặt rất đau khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian (một
tiếng hay hai tiếng sau) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Đói cũng tương tự
như khát. Ngoài nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác:
tình cảm, tình yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu
biết, trở nên hoàn hảo… Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong
ước, thì con người cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp
tục cảm thấy thiếu thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau
khổ. Khi không có chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp.
Khi đã có chiếc xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy… Cứ thế,
chẳng bao giờ ta hết thiếu thốn, ết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc
của con người vì thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi
lại đói khát triền miên.
Như vậy, con người cứ
phải nô lệ cho những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách
thỏa mãn chúng. Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy
sinh cả gì mình quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa
anh em… Vì thế, cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn
khát loại khác. Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói
chặt con người vào đau khổ.
2. Làm sao để hết khát
vọng? để khỏi đau khổ?
Đức Giêsu nói: «Ai uống
nước này, sẽ lại khát». Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người
đều chỉ là tạm thời. Được thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu
đẳng nhất của con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát
vọng, và không còn phải khát vọng nữa. Làm sao có được giải pháp đó trên đời?
Đức Giêsu đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ
không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước
vọt lên, đem lại sự sống đời đời». Ngài cho biết giải pháp của Ngài sẽ trở
thành «một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» nơi người dùng giải pháp
ấy. Có sẵn trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái
lại còn có thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy «đem lại sự
sống đời đời». Mạch nước ấy là gì? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành
Đức Kitô. Chỉ cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Kitô, ta sẽ có được mạch
nước đem lại sự sống ấy ở trong ta. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp
được Thiên Chúa, các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy
hạnh phúc vô biên bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh
thần rất lớn để dấn thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi.
Vậy vấn đề mấu chốt là thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Đức Kitô.
3. Làm sao để thật sự
gặp gỡ Thiên Chúa?
Nhiều khi ta đến để
gặp Chúa – trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ,
v.v… – nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói
quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện
với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn
không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với
Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa. Cổ nhân có câu:
«Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (Có
duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với
nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau). Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi
hỏi phải có «duyên» với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn
nói: «Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu» (Cùng âm thanh thì phụ họa
nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau). Bản chất của
Thiên Chúa là tình yêu, nên chỉ những ai biết yêu thương – nghĩa là giống Thiên
Chúa – mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: «Phàm ai yêu thương,
thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu
thương, thì không biết Thiên Chúa» (1Ga 4,7a-8). Chữ «biết» ở đây có nghĩa là
cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không
biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.
Đức Giêsu nói: «Đã đến
giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại
Giê-ru-sa-lem». Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian – tức chỗ này chỗ
kia – không phải là chuyện quan trọng: «Đấng Tối Cao không ở trong những ngôi
nhà do tay người phàm làm ra» (Cv 7,48). Đức Giêsu cũng nói: «Giờ đã đến – và chính
là lúc này đây – những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong
thần khí và sự thật». Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp
gỡ Ngài trong thần khí và sự thật.
4. Gặp gỡ Thiên Chúa
trong thần khí và sự thật
Để giải thích điều
này, Đức Giêsu nói: «Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải
thờ phượng trong thần khí và sự thật». Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp
Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình – tức tâm hồn mình – để gặp
Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy
nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên
Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta. Không gì linh thánh bằng
con người, hay tâm hồn con người, vì «con người là hình ảnh của Thiên Chúa» (St
1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con
người: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Đền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh
Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Đền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Đền
Thờ ấy chính là anh em» (1Cr 3,17; x. 6,19). Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung
lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong
nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà
mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài. Thánh Âu-Tinh
đã từng than thở: «Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa
của lòng con» (Confession, cuốn VI, chương 1).
Muốn thật sự gặp gỡ
Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài trong sự thật. Thiên Chúa của chúng ta là Thiên
Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với
mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự
gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất,
«có nói có, không nói không» (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không thể
gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một đằng,
làm một nẻo.
Cầu nguyện
Tôi nghe thấy tiếng
Chúa: «Đã đến lúc trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa.
Con người không nên thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không
gian, vụ thời gian, vụ vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên
Chúa bằng thần khí chứ không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người
cần gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài.
Con người cần hiểu biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài
hơn là bằng những hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của
mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới
được biến đổi để trở nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn»
1.- Ngữ cảnh
Trong cuộc chuyện trò
với Nicôđêmô, tác giả Gioan đã mô tả cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với mộtđại diện
của giai cấp cầm quyền Do Thái. Hoạt cảnh tiếp theo có nội dung là cuộc gặp gỡ
của Đức Giêsu với mộtngười phụ nữ Samari. Người Do Thái và người Samari sống
những tương quan căng thẳng. Người Samari coi mình là hậu duệ của các tổ phụ
(x. Ga 4,12.20) và là số sót của Israel, vì Bắc quốc đã bị người Átsua tiêu
diệt vào năm 722 tCN. Thiên Chúa của họ là Đức Chúa (Yhwh), là Thiên Chúa của
Israel. Họ chỉ chấp nhận năm cuốn sách của Môsê (= Ngũ Thư). Người Do Thái Giêrusalem
coi họ như là mộtdân tộc hỗn hợp bán ngoại giáo (x. 2 V 17,24-41), nên đã cấm
họ không được tham gia vào việc tái thiết Đền Thờ sau Lưu đày (x. Er 4,1-24),
và lại còn ghét họ thậm tệ mà coi họ như là dân ngu ngốc sống tại Sikhem (Hc
50,26).
Đức Giêsu không để
mình bị ảnh hưởng bởi những kiểu đánh giá như thế. Người đã đón tiếp vị đại
diện của Thượng Hội Đồng đã lén đến gặp Người ban đêm như đi gặp một vị tôn sư.
Bây giờ Người ngỏ lời với mộtphụ nữ Samari, có lối sống dường như nước đôi (x.
4,17-18), mà Người tình cờ gặp lúc giữa trưa. Trong cả hai trường hợp, Đức
Giêsu đều ý thức Người chu toàn nhiệm vụ Chúa Cha giao phó (x. 4,34); trong cả
hai trường hợp, Người đều muốn chỉ cho thấy con đường đưa tới sự sống.
2.- Bố cục
Bản văn có thể được
chia thành ba phần:
1) Mở (4,1-3);
2) Cuộc gặp gỡ với
người phụ nữ (4,4-38):
a) Khung cảnh và các
nhân vật (cc. 4-6),
b) Cuộc đối thoại với
người phụ nữ (cc. 7-26):
- Lời xin nước và ân
ban nước hằng sống (cc. 7-15),
- Mạc khải về phụng tự
chân thật (cc. 16-26),
+ Các người chồng (cc.
16-18),
+ “Nếu ông là một ngôn
sứ” (c. 19),
+ Nền phụng tự mới
(cc. 20-26: 20-24; 25-26),
c) Đối thoại với các
môn đệ (cc. 27-38),
3) Gặp gỡ với dân
Samari (4,39-42).
3.- Vài điểm chú giải
- Người phải băng qua
(4): Edei (thì vị hoàn của dei), “phải”, diễn tả một điều nằm trong ý muốn hoặc
chương trình của Thiên Chúa.
- Xykha … Giacóp (5):
Đa số các thủ bản chép là “Xykha” (Sychar). Trong thực tế, trong miền Samari,
không có thành Xykha, mà chỉ có Sêkhem (Shechem) thôi. Có lẽ chữ Shechem đã bị
đọc lầm thành Sychar do vần ar trong Samari. Về liên hệ giữa Giacóp và Shechem,
xin đọc St 33,18; 48,22; Gs 24,32.
- Người Do Thái...
người Samari (9): Người Samari là con cháu của hai nhóm: 1) Những người Israel
không phải đi lưu đày khi Vương quốc phía Bắc sụp đổ vào năm 722 tCN. 2) Những
người thực dân xứ Babylon và Mêđia do các đoàn quân xâm lăng Átsua đưa vào (x.
2 V 17,24tt).
Có một sự đối lập về
thần học giữa những người Do Thái phía Bắc này và người Do Thái phía Nam, bởi
vì người Samari không chịu thờ phượng Thiên Chúa tại Giêrusalem. Tình trạng này
thêm trầm trọng vì người Samari đã gây khó khăn cho người Do Thái hồi hương
trong việc tái thiết Đền Thờ Giêrusalem, rồi đến thế kỷ ii tCN, người Samari
lại giúp các vua Syri trong các cuộc chiến chống người Do Thái. Vào năm 128
tCN, thượng tế Do Thái đã đốt Đền Thờ Samari trên núi Garidim. Đối với người Do
Thái, dân Samari là dân ô uế.
- Người ấy ban cho chị
nước hằng sống... Vậy Người lấy đâu ra nước hằng sống (10-11): Trong Ga, chúng
ta thường gặp tình trạng các người đối thoại với Đức Giêsu hiểu lầm những công
thức Người dùng, ví dụ ở đây, hai công thức “nước hằng sống” trên môi Đức Giêsu
và trên môi người phụ nữ không cùng một ý nghĩa. Tác giả dùng kiểu viết đó để
trình bày mạc khải của Đức Giêsu về bản thân Người.
- Giếng (cc. 6.11):
Trong c. 6, “cái giếng” là pêgê (HL), trong c. 11, “cái giếng” là phrear (HL).
Trong bản Cựu Ước Hy Lạp (= Bản LXX), pêgê và phrear có nghĩa gần như nhau,
nhưng phrear thì gần với nghĩa là “giếng nước”, còn pêgê thì gần với nghĩa là
“mạch/suối nước”. Ý nghĩa là: Lúc đầu, khi nói về nước tự nhiên của giếng
Giacóp, tác giả chưa phân biệt; bây giờ, khi câu chuyện chuyển sang đề tài nước
hằng sống của Đức Giêsu, tác giả mới phân biệt: Đức Giêsu bây giờ là mạch nước
(pêgê; Người sẽ chính thức tuyên bố như thế ở c. 14), còn giếng Giacóp chỉ là
một “cái giếng” thôi (phrear).
- Chẳng lẽ ông lớn hơn
tổ phụ Giacóp (12): Đây là một ví dụ về nét hài hước trong Ga: các nhân vật vô
tình nói ra sự thật về Đức Giêsu.
- Thưa Ngài (cc. 11.15.19):
Ba lần, bản văn Hy Lạp cho thấy người phụ nữ gọi Đức Giêsu là Kyrios (sir,
lord; seigneur). Cùng một kiểu xưng hô, nhưng chúng ta hiểu là có một sự chuyển
biến về ý nghĩa vì người phụ nữ thưa với thái độ càng lúc càng tôn kính hơn.
- Núi này (21): x. Đnl
27,4. Đây là núi Garidim. Trong Bản Ngũ Thư Samari, ở Đnl 27,4, chúng ta đọc
được huấn thị ban cho Giôsuê là dựng một thánh điện trên núi Garidim, núi thánh
của người Samari, chứ không phải trên núi Êvan. Cụm từ “Núi Êvan” rất có thể đã
được sửa lại trong bản văn Híp-ri do chủ trương chống Samari.
- Thần khí và sự thật
(24): tức là Thánh Thần và Đức Giêsu (là sự thật).
- Đấng ấy chính là tôi
(26): Đây là công thức bằng tiếng Hy Lạp egô eimi (I am; Je suis). Công thức
này là chính danh xưng Thiên Chúa tỏ cho Môsê. Tác giả muốn ngầm giới thiệu
thần tính của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản
văn
Bản văn được bố cục
thành những “xen” qua đó Đức Giêsu đối thoại với người phụ nữ và các môn đệ để
đưa họ đến chỗ đón nhận những mạc khải chính yếu về bản thân Người.
* Mở (1-3)
Chương 4 của TM Ga mở
đầu bằng một đoạn văn tóm tắt có vai trò “làm cầu” nối [vì liên kết] 3,22-36
với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42. Đoạn Ga 4,1-4 này thông tin cho chúng ta về Đức
Giêsu và các môn đệ Người, và về phép rửa mà Người đã làm. Hoạt động này của
Đức Giêsu và nhóm của Người dường như diễn tiến song song với hoạt động của
Gioan và các môn đệ ông.
Các câu 1-2 nói với
chúng ta một lần nữa rằng Đức Giêsu đã làm phép rửa cùng với các môn đệ Người
(x. Ga 3,22), rồi nhờ một mệnh đề xen vào giữa, chúng ta biết rằng chính các
môn đệ đã làm phép rửa, đồng thời, bản văn cho biết là Đức Giêsu cũng biết việc
ấy.
Sang c. 3, bản văn xác
định rằng Đức Giêsu bỏ miền Giuđê, mà trở lại miền Galilê.
* Cuộc gặp gỡ với
người phụ nữ Samari (4-42)
a) Khung cảnh và các
nhân vật (cc. 4-6),
Để trở lại miền
Galilê, Đức Giêsu phải băng qua miền Samari. Không phải là Đức Giêsu và các môn
đệ không còn cách nào khác ngoài cách băng qua Samari, một miền đất nổi tiếng
là không hiếu khách (x. Lc 9,51-56). Sự bó buộc này (“phải”, edei) mang tính
thần học và thiêng liêng, vì thuộc về chương trình của Thiên Chúa, sẽ tạo cơ
hội cho cuộc gặp gỡ.
Đến đây chúng ta được
giới thiệu khung cảnh của cuộc gặp gỡ: bên cạnh giếng Giacóp, trong thửa đất mà
Giacóp đã cho con là Giuse. Với chi tiết này, tác giả đưa ta trở lại với bài
anh hùng ca là lịch sử các tổ phụ và đặc biệt của tổ phụ Giacóp. Tác giả TM IV
đã đối chiếu Đức Giêsu với Giacóp trong giai thoại Nathanaen, khi ngài nói đến
các thiên thần lên xuống trên Con Người, tức là gợi đến thị kiến của Giacóp.
Thế rồi truyện Giacóp lại được đặt liên kết với truyện Giuse, từ nơi ông mọi
phúc lành đến với nhà Israel. Cả câu “Người nói gì, các anh cứ việc làm theo”
được Đức Maria nói ở Cana (Ga 2,5b) cũng liên kết với truyện Giuse. Vậy tác giả
muốn liên kết Đức Giêsu cả với cuộc đời Giacóp lẫn cuộc đời Giuse và với những
gì làm nên ý nghĩa của vai trò Giuse trong lịch sử Israel. Đức Giêsu là Đấng
ban lương thực, Đấng cho người đói ăn no, và vì đói luôn đi với khát, Người
cũng là Đấng giải khát, như đã xảy ra trước đây với Giacóp rồi với Giuse. Phải
chăng ở đây chúng ta còn gặp lại đề tài những cuộc hôn nhân phát sinh từ bên
một bờ giếng?
Và hai nhân vật chính
là Đức Giêsu và người phụ nữ Samari xuất hiện, trong khi các môn đệ đã đi vào
thành mua thức ăn.
Đức Giêsu đến ngồi
ngay xuống bờ giếng, vì mệt mỏi. TM IV nhắc đến sự mệt mỏi của Đức Giêsu (khác
với quan niệm của ảo thân thuyết hay của phái ngộ đạo). Người không phải chỉ là
Thiên Chúa, mà cũng còn là một người thật, và vì thế, đôi lúc Người cảm thấy
mệt nhọc. Xa hơn một chút, nhân tính Người còn được nêu bật thêm một lần nữa
khi tác giả viết rằng Người cảm thấy sức nóng nực của lúc giữa trưa và cần uống
nước (x. cc. 6 và 7). Nhu cầu này khiến Người xin nước với người nào xuất hiện
đầu tiên, và đây là một phụ nữ Samari (Ga 4,7-15), bà này có lẽ vẫn quen đi kín
nước tại giếng này.
b) Cuộc đối thoại với
người phụ nữ (cc. 7-26)
Người phụ nữ vừa đến
nơi, liền xảy ra cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và bà ấy, Trong mẩu đối thoại,
sẽ xuất hiện chuyển động này: các nhân vật đi từ nhu cầu thể lý (của Đức
Giêsu), để đi tới cơn khát thiêng liêng (của người phụ nữ), cơn khát duy nhất
có thể giải tỏa tình trạng khao khát của thân phận con người. Nhu cầu hoặc các
nhu cầu tự nhiên luôn luôn có đó để ta phải tìm thỏa mãn, nhưng không đến độ
bóp nghẹt ước vọng sâu xa của con người.
- Lời xin nước và ân
ban nước hằng sống (cc. 7-15). Trong phân đoạn cc. 7-15, chúng ta gặp được một
mạc khải về nước hằng sống. Khi thấy người phụ nữ, Đức Giêsu liền xin uống.
Người đang ở một mình, các môn đệ đã vào thành mua thức ăn (c. 8), nên Người
không thể xin các ông đáp ứng nhu cầu.
Có lẽ do nghe giọng
nói của Đức Giêsu, người phụ nữ biết rằng Người không phải là dân địa phương,
nên đã cao giọng đưa ra mấy nhận xét tiêu cực. Làm sao Người lại dám xin điều
gì với một người Samari? Chẳng lẽ Người lại không biết tập tục cấm một người
đàn ông nói chuyện một mình với một người đàn bà lạ mặt? Các kinh sư thường dạy
rằng nếu ai cần xin một phụ nữ điều gì, thì phải nói thật ít. Do đó, chúng ta
hiểu nỗi ngạc nhiên của các môn đệ, khi trở về, thấy Đức Giêsu đang trò chuyện
với một người phụ nữ và lại là một phụ nữ Samari.
Cũng như trong truyện
Nicôđêmô, ở đây cơn khát của Đức Giêsu tạo dịp cho Người đối thoại, nhưng hoàn
cảnh đầy những dị nghĩa khiến cuộc đối thoại có thể bị phá vỡ. Quả thế, câu nói
của người phụ nữ: “Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho
ông nước uống sao?” (c. 9) lẽ ra đã bắt Đức Giêsu phải thinh lặng. Nhưng Đức
Giêsu lại có sáng kiến bỏ qua cuộc tranh luận về các quy luật xã hội tôn giáo
dựa trên những đối lập hỗ tương có từ bao đời. Các đối lập ấy không bao giờ là
tiếng nói cuối cùng cho các tương quan giữa con người với nhau.
Thoạt tiên, câu trả
lời của Đức Giêsu: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói
với chị: ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho
chị nước hằng sống” (c. 10), dường như muốn nhắc bà nhớ đến truyền thống hiếu
khách của dân Địa Trung Hải: giúp đỡ tận tình bất cứ người lữ khách nào. Thế
nhưng Đức Giêsu còn nhắm một đề tài lớn hơn. Từ c. 10 đến c. 15, có một mẩu đối
thoại nhỏ xoay quanh đề tài “nước/ân ban”. Bằng cách đó, Người muốn lôi kéo sự
chú ý của người phụ nữ vào điểm mà lẽ ra bà phải hiểu, nghĩa là lẽ ra bà không
được lẫn lộn hai yếu tố: một bên là nước cụ thể và vật chất, và bên kia là nước
hằng sống, ân ban hoàn toàn đặc biệt bây giờ được trao tặng.
Từ c. 10, nổi rõ là
“nước” mà Đức Giêsu nói đến thì cao trọng hơn là nước thiên nhiên, nước kín từ
giếng lên. Còn phải hiểu ngầm một điều song song khác, đó là nước mà Đức Giêsu
hứa ban thì cao trọng hơn nước các tổ phụ đã ban; như vậy, mạc khải của Đức
Giêsu về phẩm chất, thì cao trọng hơn mạc khải của các tổ phụ (như pêgê so với
phrear). Ta thấy rõ trên bình diện biểu tượng, trọn con đường mà người phụ nữ
phải trải qua: khởi đi từ cái giếng Giacóp (x. St 24), bà phải đi lên tới tận
nguồn nước hằng sống, là chính Đức Giêsu. Đây hầu như là lời loan báo chương
trình mà bài tường thuật sẽ phải rảo qua. Bởi vì người đàn bà có thể thực hiện
bước ấy, Đức Giêsu mới đề nghị cho bà nước hằng sống (Ga 4,10).
Đã mơ hồ linh cảm
người đang đối thoại với mình là một người khác thường, người phụ nữ không quay
về điều được nói đến nữa, nhưng quay về người đã xin bà cho uống, và bây giờ
lại tỏ ra sẵn sàng ban cho bà nước hằng sống. Bà hỏi (c. 11), y như thể muốn
nói với giọng mỉa mai rằng: “Ông tưởng ông là ai chứ? Ông không có gầu để kín
nước mà giếng lại sâu, thế mà ông lại đề nghị như thế?” Rồi bà tiếp: “Chẳng lẽ
ông lớn hơn tổ phụ Giacóp, là người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã
uống nước giếng này, cả con cháu...”.
Một lần nữa, cuộc gặp
gỡ có thể bị phá hỏng, bởi vì đề nghị của Đức Giêsu đã không được đón nhận.
Nhưng Đức Giêsu kiên nhẫn tiếp tục. Người tìm cách gợi lên nơi bà khát vọng chân
thật sẽ đưa bà đến chỗ quay hướng về Người, như quay về với Đấng duy nhất có
thể thỏa mãn điều bà đang đi tìm. Vậy điều đầu tiên là làm cho bà hiểu rằng có
hai loại nước: loại thứ nhất là nước tự nhiên của giếng, không thể làm cho hết
khát, và loại thứ hai, nước mà Người sẽ ban, sẽ giải khát hoàn toàn. Hơn nữa,
loại nước thứ hai còn biến kẻ uống thành một mạch nước trào dâng. Đàng khác,
Đức Giêsu muốn đưa bà chuyển đi từ ân ban đơn giản hoặc ân ban của Thiên Chúa
đến Đấng ban ơn, là chính Người. Ở c. 15, người phụ nữ đã đưa một bước chân về
phía Đức Giêsu, nhưng đồng thời lại kéo mọi sự về bình diện của bà, về các nhu
cầu trực tiếp của bà, điều đó chứng tỏ bà chưa hiểu gì cả. Thứ nước bà ấy mong
có không phải là thứ mà Đức Giêsu muốn ban cho bà.
Mặc dù lại gặp một
thất bại thứ hai, Đức Giêsu không nản lòng, không dừng lại, Người vẫn tiếp tục
bằng cách dựa trên sự mở lòng nửa vời của người đàn bà.
- Mạc khải về nền
phụng tự chân thật (cc. 16-26). Cuộc đối thoại lại chuyển sang một hướng khác
hẳn. Không úp mở, Đức Giêsu bảo bà đi gọi chồng lại đây. Qua câu nói này, Đức
Giêsu nắm lại phần chủ động trong đối thoại. Bà đã thú nhận không mập mờ rằng
bà không có chồng. Đức Giêsu trân trọng sự chân thành đó. Nhưng Người cho bà
thấy khả năng hiểu biết đặc biệt của Người khi nói rằng rằng bà đã có năm đời
chồng. Đã thế, Người còn nói: “Hiện người đang sống với chị không phải là chồng
chị”. Nếu nói Đức Giêsu đã cư xử thiếu tế nhị và lịch sự, là chúng ta phán đoán
với các tiêu chí của chúng ta hôm nay. Thật ra, khi nói như thế, Đức Giêsu đã
cư xử như các ngôn sứ Cựu Ước, có khả năng đọc trong tim người đối thoại (x.
Êlisa).
Người phụ nữ không mất
tinh thần. Bà nhận ra chiều kích ngôn sứ này. Đây không phải là một cuộc xưng
thú tội lỗi ép buộc, nhưng là một bước đi tới sự thật, nhờ đó người phụ nữ cảm
thấy được giải thoát khỏi quá khứ của bà. Sự thật và sự rõ ràng của cuộc gặp gỡ
đòi hỏi sự trong suốt này. Bây giờ bà hướng về hiện tại và tương lai một cách
mới mẻ, và hậu quả là bà tuyên xưng Đức Giêsu là một ngôn sứ. Ở đây có hai
chuyển động đồng thời: một đàng, người phụ nữ xưng thú tình cảnh thực tế của
mình; đàng khác, việc xưng thú này giúp bà nhận biết chân tính của Đức Giêsu.
Như vậy, bà đã thực sự chuyển sang một bình diện khác và bắt đầu nhìn các sự
việc dưới một góc độ mới. Một mẩu đối thoại về nền phụng tự chân thật đã sẵn
sàng được mở ra.
Cuộc đối thoại tiến
sang một giai đoạn mới nữa. Người phụ nữ đi tới một bình diện hiểu biết mới: đã
linh cảm Đức Giêsu là ngôn sứ, bà hỏi Người rằng đâu là nơi hợp pháp để thờ
phượng Thiên Chúa, núi Garidim hay Giêrusalem, và bà dùng lời lẽ nghèo nàn để
trình bày thế lưỡng nan truyền thống giữa người Do Thái và người Samari. Mặc
nhiên bà nhìn nhận uy tín của Người nên xin Người giải quyết vấn đề. Đây là dịp
tốt để Đức Giêsu đưa bà vào việc phụng tự chân thật (Ga 4,21-24), Người đã nói
thẳng thắn và đơn giản về ý nghĩa của phụng tự trong thần khí và sự thật, mà
không bận tâm xem là bà có hiểu chăng. Người không đi vào các tranh cãi “truyền
thống”, cứ để cuộc xung đột trong tình trạng mở, chỉ nêu bật ý nghĩa đích thực
của việc thờ phượng.
Đối với Đức Giêsu,
điểm chính của vấn đề không chỉ nằm tại việc “thờ phượng”, mà là “thờ phượng
Chúa Cha”. Để nói về thực tại này, Người dùng các đại từ “các người” và “chúng
tôi”. Có những tác giả cho rằng “chúng tôi” là Đức Giêsu, hoặc là cộng đoàn
Kitô hữu, còn “các người” là những người đối thoại không phải là Kitô hữu;
nhưng đọc như thế là không tôn trọng mặt chữ và thời điểm của bản văn. Chắc
chắn nhất, trên bình diện lịch sử, và theo ngữ cảnh cuộc đối thoại giữa Đức
Giêsu và người phụ nữ Samari, là coi “các người” là dân Samari, còn “chúng tôi”
là người Do Thái, và Đức Giêsu cũng thuộc về nhóm đó.
Sau khi đã nêu bật các
yếu tố chính của tranh luận tôn giáo, trước khi đi tiếp, Đức Giêsu không ngần
ngại khẳng định rõ ràng rằng ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái (c. 22). Ý
nghĩa đầu tiên của câu này là Đức Giêsu không đặt lập trường của người Do Thái
và người Samari trên cùng một bình diện (như chúng ta nói: có những người là
“chính thống” và có những người là “lạc giáo”). Không thể dễ dàng loại trừ
những khác biệt thuộc quá khứ; chúng đã có đó, chúng có ý nghĩa của chúng.
Nhưng còn có ý nghĩa khác nữa: Đức Giêsu muốn nhắc nhớ đến lịch sử cứu độ như
đã có và như Thiên Chúa đã muốn có. Và như vậy, đây không phải là một câu thêm
vào (glose) như Bultmann và một vài tác giả đã chủ trương. Khởi đi từ công thức
này, phải nhìn nhận Đức Giêsu đã nhập thể trong dân Do Thái. Điều này lại làm
nổi rõ hơn tầm quan trọng của Cựu Ước, liên hệ đến lịch sử cứu độ. Bây giờ, cho
cả hai nhóm, không còn có một quyền ưu tiên nào cả, họ cần phải đi đến một kiểu
phụng tự mới, “trong thần khí và sự thật”.
Dọc theo lịch sử,
người ta đã thờ phượng Thiên Chúa, bây giờ cần tiếp tục. Việc thờ phượng của
người Israel không sai; vào thời đó, kiểu thờ phượng như thế là tốt và đúng.
Nhưng tính từ “đích thực” (alêthinoi) cho thấy rằng trong kiểu thờ phượng trước
đây còn có nhiều thiếu sót, và chỉ kiểu thờ phượng mới này mới đạt sự hoàn hảo,
do có giá trị phổ quát. Kiểu thờ phượng sau không phải là một ngẫu hứng của
loài người, nhưng là do mạc khải của Thiên Chúa như là Cha trong Con, Đức Giêsu
Kitô. Mạc khải này được đưa đến chỗ thành toàn nhờ chính Đức Giêsu. Việc thờ
phượng này là chân thật bởi vì do Thần Khí, do Thiên Chúa, do từ trên cao, gợi
lên. Kiểu thờ phượng này chuẩn nhận sự thật của những gì Đức Giêsu nói. Từ nay,
bất cứ người nào thờ phượng đích thực đều phải quan tâm thờ phượng Thiên Chúa
như Ngài muốn được thờ phượng, chứ không như họ thấy là tốt.
Người phụ nữ lại nêu
ra một nhận định tổng hợp (Do Thái và Samari) liên quan đến Đấng Mêsia sẽ đến,
mà người Samari cũng đang chờ đợi (Samari: Ta’eb). Đã nhìn nhận Đức Giêsu là
ngôn sứ, lúc này bà còn linh cảm mạnh mẽ tầm quan trọng của con người Đức Giêsu.
Thế là bà đã đủ chín muồi để có thể đón nhận lời công bố long trọng của Đức
Giêsu trong tư cách Đấng Mêsia. Đây là đỉnh cao của cuộc đối thoại.
Hướng đi cứ thay đổi
liên tục. Và Đức Giêsu, chỉ sau tất cả những chặng này, mới tự mạc khải cho bà
như là Đấng Mêsia, Người nói đơn giản: “Chính là tôi (egô eimi)”. Công thức egô
eimi đưa chúng ta trở lại với tên của Đức Chúa (Yhwh), khiến chúng ta có thể
nói Đức Giêsu là chính là Đức Chúa đến viếng thăm dân Samari. Đến cuối cuộc
thăm viếng, người Samari đã nhận biết Người như là “Đấng cứu độ trần gian” (c.
42); Người đã đến để ban sự sống đời đời (c. 14) và dạy cho biết nền phụng tự
chân thật (cc. 23-24).
- Đối thoại với các
môn đệ (cc. 27-38). Trong khi các hiệu quả của cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và
người phụ nữ Samari còn đang triển nở như thế, Đức Giêsu lại đi vào một cuộc
đối thoại khác bên bờ giếng (Ga 4,31-38). Sau những lời nói với Nathanaen, đây
là lần đầu tiên Người quan tâm rõ ràng đến các môn đệ Người. Các ông này đã
cùng đi đường với Người và liên tục được Người nhắc nhở, nhưng rất hiếm khi
Người ngỏ lời riêng với các ông. Chỉ các diễn từ cáo biệt mới trọn vẹn được ngỏ
với các ông thôi. Với người phụ nữ đã đến kín nước, Đức Giêsu nói về ân huệ của
Người, nước vô song; với các môn đệ vừa về tới nơi sau khi đã mua thực phẩm,
Người nói về lương thực mà chính Người nhờ đó mà sống. Cuộc đối thoại có hai đề
tài: Đức Giêsu nói cho các môn đệ biết công việc của Người có những nét tiêu
biểu nào (c. 34) và lần đầu tiên Người khẳng định rằng họ được tham dự vào sứ
mạng của Người và cách thức tham dự (c. 38). Chính Người cũng không đến nhân
danh chính mình, cũng không làm việc theo ý riêng, nhưng đến như là sứ giả của
Chúa Cha và tất cả cuộc đời Người nhắm thi hành ý muốn của Chúa Cha. Tất cả
những gì Người loan báo và cống hiến đều góp phần vào công trình mà Chúa Cha đã
khởi sự (x. 3,16) và nay Đức Giêsu là Chúa Con đưa đến chỗ hoàn tất. Điều này
cũng đúng cho công việc Đức Giêsu đang làm nơi người Samari, mà bây giờ người
ta đã thấy kết quả. Đến lượt Người, Đức Giêsu lại sai phái các môn đệ, để họ
tham dự vào công việc của Người và tiếp tục công việc đó. Nhưng nỗi mệt nhọc
thật là của Đức Giêsu. Những gì các môn đệ làm hoàn toàn lệ thuộc vào những gì
Đức Giêsu đã làm trước đây.
* Kết luận: Gặp gỡ với
dân Samari (39-42)
Sau khi đối thoại với
Đức Giêsu, các môn đệ lại bị bỏ rơi trong bóng tối một lần nữa. Được đánh động
bởi lời chứng của người phụ nữ, dân Samari đã đến gặp Đức Giêsu. Bây giờ họ
muốn trực tiếp nghe Người. Thế là các môn đệ đầu tiên đã ở lại với Đức Giêsu
(Ga 1,39), còn những người Samari này đã xin Người ở lại với họ. Nhưng dù thế
nào, chỉ nhờ tiếp tục mở ra hiệp thông với Người, người ta mới có thể có kinh
nghiệm về Người là ai và Người ban tặng điều gì. Được Đức Giêsu nhận cho ở lại
với Người, các môn đệ đầu tiên đã khám phá ra Người là “Đấng Mêsia” (1,41);
được Đức Giêsu chấp nhận ở lại với họ, người Samari đã nhìn nhận Người như là
“Đấng Cứu độ trần gian” (4,42), như là Đấng đã được Chúa Cha ban vì lòng yêu
thương và được sai phái đến để cứu độ trần gian (3,16-17). Nay họ tin là nhờ
chính tương quan trực tiếp với Đức Giêsu chứ không dựa vào lời chứng của người
phụ nữ nữa. Lời chứng ấy đưa họ đến chỗ nghe Đức Giêsu để đào sâu đức tin, và
bây giờ đức tin đó có thể thực sự bắt đầu triển nở.
+ Kết luận
Bằng cách dùng nhiều
danh hiệu cách tiệm tiến, mỗi danh hiệu lại như mộtlời mời gọi tin vào Đức
Giêsu, bản văn này vén mở cho thấy mầu nhiệm Đức Giêsu. Lúc đầu, Người chỉ là
mộtngười lữ khách vô danh. Sau đó, Người đã được coi là mộtngười Do Thái (c.
9). Dần dần Người xuất hiện ra như nhân vật còn cao trọng hơn tổ phụ Giacóp (c.
12). Thêm mộtbước nữa, Người được được gọi là ngôn sứ (c. 19). Và cuối cùng,
người phụ nữ linh cảm Người là Đấng Mêsia (c. 29). Nhưng lại chính là những
người Samari, hoa trái đầu mùa của Dân ngoại, mới tuyên xưng niềm tin của họ
vào Đức Giêsu, “Đấng Cứu độ trần gian” (c. 42). Quả thật, Đức Giêsu chính là
ánh sáng thế gian (Ga 8,12; 12,46), Đấng mạc khải và Đấng Mêsia, là Con Một
Thiên Chúa được Ngài cử đến cứu trần gian. Bất cứ người nào tin vào Người thì
được sống đời đời (3,16-18). Người là Ngôi Lời đang thực hiện điều mà Lời Tựa
đã nói: “Những ai đón nhận (Người), tức là những ai tin vào danh Người, thì
Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (1,12).
Ngoài ra, có một ý
nghĩa khác của bản văn, ý nghĩa biểu tượng, cũng có thể nêu ra. Trong truyền
thống Kinh Thánh, cái giếng đã là nơi khởi đầu của nhiều cuộc tình duyên. Vậy
“cái giếng Xykha” này gợi nhớ đến cuộc “tình duyên” nào? Trong Cựu Ước, Israel
thường được giới thiệu là hôn thê của Đức Chúa (Yhwh). Israel-hôn thê thường
thất trung, ngoại tình với các thần Ai Cập, Átsua, Babylon, Ba Tư, Rôma. Câu
truyện người phụ nữ Samari hẳn là câu truyện của dân Israel mà Đức Giêsu đến
gặp và muốn dẫn về với Đức Chúa. Hơn nữa, TM IV còn giới thiệu Đức Giêsu như
chàng rể và nhân loại như một hôn thê tội lỗi, mà Người đến để đưa về sống
trung thành.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Qua cuộc gặp gỡ
giữa Đức Giêsu và người phụ nữ Samari, chúng ta nhận ra cả mộtkhoa sư phạm Đức
Giêsu đã vận dụng để đưa bà đến đức tin. Trước tiên, Người khơi lên sự tò mò để
bà tìm hiểu, qua việc nhắc đến mộtcông việc tầm thường làm mỗi ngày, là đến
giếng kín nước để giải tỏa cơn khát thể lý. Từ đó, Người gợi đến mộtthực tại
khác, nước hằng sống. Thế rồi câu chuyện lại chuyển sang mộthướng khác khi Đức
Giêsu đề cập đến đời sống riêng tư nhất của bà, cơn khát tình yêu dường như vẫn
chưa được đáp ứng thỏa đáng. Mục tiêu của Đức Giêsu không phải là đưa bà đến
chỗ nhìn vào mình, nhưng là nhìn vào Người để nhận biết Người là ai.
2. Là con người, với
sức riêng, chúng ta không thể đạt tới Thiên Chúa và nhận biết Ngài trong thực
tại của Ngài. Chúng ta là “xác thịt”, những hữu thể yếu đuối, mỏng manh, tạm
bợ; ngược lại, Thiên Chúa là “Thần Khí”, đầy sức mạnh ban sự sống vô biên và bất
khả kháng. Bằng sức riêng, chúng ta không thể đạt đến bất cứ sự hiểu biết chân
thật nào về Thiên Chúa, hoặc mộttương quan đúng đắn nào với Ngài. Chỉ Đức Giêsu
mới chỉ cho chúng ta và giúp chúng ta thờ phượng Thiên Chúa đúng đắn, bởi vì
Người ban Thần Khí và Chân Lý cho chúng ta, Người là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ
trần gian (Ga 6,42).
3. Đức Giêsu là Đấng
có khả năng giúp chúng ta khám phá ra mọi chiều kích và ý nghĩa đích thực của
cơn khát đang dày vò lòng dạ chúng ta. Người là Đấng duy nhất có thể tố giác những
phương tiện tạm bợ chúng ta vẫn đang vận dụng để đánh lừa cơn khát ấy hoặc thỏa
mãn nó cách rẻ tiền. Người sẽ dạy chúng ta biết cách sống và làm cho từ lòng
chúng ta trào vọt ra dòng suối ân huệ của Thiên Chúa.
4. Các môn đệ được Đức
Giêsu sai đi, tiếp nối công việc của Người (là công việc Chúa Cha giao phó). Họ
được thu hoạch hoa trái là công việc mệt nhọc của Đức Giêsu; những gì các môn
đệ làm tùy thuộc hoàn toàn vào những gì Đức Giêsu đã làm trước. Đến lượt họ, họ
cũng phải tận tình gieo vãi, để những người đến sau họ được gặt hái hoa trái.
Người này gieo, người kia gặt. Đó chính là sự hiệp thông liên đới trong sứ mạng
chung mà Đức Giêsu đã để lại cho các môn đệ Người cho đến tận thế. Khi làm như
thế, họ cũng luôn cần ý thức họ làm ý muốn của Chúa Cha.
Đức Giêsu đến một
thành xứ Samari, tên là Xy kha gần thửa đất ông Giacóp đã cho ông là ông Giuse.
ở đấy có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, ngồi ngay xuống bờ
giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ, trưa. Có một người phụ nữ Samari đến lấy
nước.
Những trang viết lớn
của Gioan thì không ai quên được. Ta có thể đọc chúng ở nhiều mức độ không đối
lập nhau: 1. Một báu vật văn chương và thi ca. 2. Một ý nghĩa nội sinh từ diễn
tiến kịch tính của các màn diễn. 3. Một sự nêu bật giá trị tâm lý tinh tế của
Đức Giêsu. 4. Một sự phong phú những kỷ niệm Kinh Thánh được sử dụng lại. 5.
Một cách sử dụng các ý nghĩa biểu tượng sâu xa của loài người. 6. Và, bên trong
tất cả những thứ đó, một nền thần học nhiệm tích và Kitô học cực kỳ cụ thể.
Vâng hãy nếm trước hết
ý nghĩa hiện thực của cảnh tượng: Đức Giêsu mệt nhọc, vật vã, kiệt sức vì một
chuyến đi dài dưới ánh nắng ban trưa. Người lại ăn chay, ngay trước bữa ăn
không thể làm được gì nữa, Người ngồi xuống đất, lưng tựa vào thành bờ giếng.
Người khát nhưng không có thùng múc nước. Một phụ nữ tới, đội một vò nước, theo
kiểu phương Đông. Khi tôi kiệt lực, và tôi không thể làm được gì nữa, tôi có
thể cầu ông Giêsu này, Người biết chuyện đó là gì.
Đức Giêsu nói với chị
ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống". Lúc đó các môn đệ của Người đã
vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Samari liền nói: "Ông là người Do
Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông uống nước sao?”. Quả thế người
Do Thái không được giao thiệp với người Samari, Đức Giêsu trả lời: "Nếu
chị nhận ân huệ của Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị xin cho tôi chút
nước uống thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống”.
Đức Giêsu, con người
tự do, ở đây vi phạm ba điều cấm kị: về chủng tộc, về tôn giáo, về giới tính. Ở
Phương Đông, người ta cấm nói với với một người đàn bà ở chỗ công khai.
Những tín đồ Do Thái
tốt đều khinh miệt những người Samari; cho là những kẻ rối đạo và sùng bái thần
tượng. Từ tám thế kỷ, người Samari và Do Thái đã hết sức thù hằn nhau một cách
dữ tợn. Nhưng Đức Giêsu tự do Người không tin vào những cấm cản dứt khoát,
những nhãn hiệu nẩy lửa, những khẩu hiệu quá đơn giản của những cách phân loại
chính trị hay tôn giáo giữa người tốt và kẻ xấu.
Người phụ nữ ấy nói: “
Thưa ông, ông không có gầu mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?
Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng
này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người
cũng vậy”. Đức Giêsu trả lời: "Ai uống nước này sẽ lại khát. Còn ai uống
nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người
ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”. Người phụ nữ nói với Đức
Giêsu: "Thưa ông, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi đến đây
lấy nước".
Chúng ta bắt đầu đoán
về tất cả nghệ thuật tâm lý của Đức Giêsu (và của Gioan). Đây không phải chỉ là
một ngụm nước mà một người nước ngoài đầy bụi bặm xin Đức Giêsu mang đến, ở chỗ
sâu thẳm nhất của sinh thể mình, một thứ khát khao khác. Người đốt cháy lên nỗi
khát khao làm cho những nguồn nước chảy vọt lên ở trong lòng những người đàn
ông và đàn bà... Nước! Nước là một thực tại của sự sống. Không có một sự sống
nào mà không có nước! cái yếu tố xem ra tầm thường và quá đơn giản này, lại là
quí giá nhất. Ngay trong những vùng trên địa cầu mà ở đó có nước dồi dào, thì
ngày nay, người ta lại phát hiện được giá trị thiết yếu của nó: người ta bảo
vệ, người ta để nó sang bên cạnh để nó không thiếu, người ta thanh lọc nó. Thế
thì chẳng ngạc nhiên gì khi nước đã có một giá trị biểu tượng phổ biến trong
tất cả mọi nền văn minh và tôn giáo trong Kinh Thánh. "Nước hằng
sống" là chính hình ảnh Thiên Chúa ban sự sống (Gr 2,13; Is 12,3; 55,1; Ed
47,1; Dc 14,8). Biểu tượng nước đầy dẫy trong sách Tin Mừng Gioan; nước hóa
rượu của Cana (Ga 2,7); nước mà trong đó người ốm muốn lặn xuống ở chỗ giếng
Bết-da-tha (Ga 5,7); nước mở mắt cho người mù ở giếng Si-lô-ê (Ga 9,7), con
sông nước hằng sống chảy từ ngực Đức Kitô được loan báo trên bậc thềm của Đền Thờ
(Ga 7,38), nước của sự sống cho những ai muốn sinh lại bởi nước và Thánh Linh,
được loan báo cho Ni-cô-đê-mô (Ga 8,5), sau cùng, nước chạy vọt ra từ cạnh sườn
của Đấng chịu khổ hình thập giá (Ga 13,39). Bạn có một nguồn nước nơi bạn, bạn
biết đó, từ ngày bạn chịu phép Thánh Tẩy.
Đức Giêsu bảo chị ấy:
"Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây". Người phụ nữ đáp: "Tôi
không có chồng". Đức Giêsu bảo: Chị nói tôi không có chồng là phải, vì chị
đã năm đời chồng rồi, và người đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị
đã nói đúng.
Biểu tượng miền Samari
“bán mình làm đĩ” cho các thần tượng... mà cũng là người phụ nữ có thật. Đó là
thân bèo giạt hoa trôi, cái đồ thừa thãi đáng thương, bị chìm xuống vực thẳm
làm một thứ đồ chơi cho cả một nửa lố đàn ông. Thế thì ông là ai, anh chàng
nước ngoài mệt phờ này, cái anh chàng Do Thái bị tẩy chay này, mà lại đoán ra
vết thương lòng của tôi? Thế thì ông là ai, cái anh chàng dò xét cõi lòng phụ
nữ với một sự tế nhị đến độ không làm người ta phải ngượng ngùng? ông là ai,
cái người mà đã đoán được cả lòng tôi khát khao hạnh phúc mà những thứ tình qua
đường của tôi không làm nguôi được ông là ai, cái anh bạn vô danh có vẻ muốn
chìa tay cho tôi biết rằng, dù kinh nghiệm tôi trải qua có đau đớn thật, nhưng
cuộc đời tôi có lẽ không phải là một thất bại?
Người phụ nữ nói với
Người: 'Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ... Cha ông chúng tôi đã thờ
phượng Thiên Chúa trên núi này còn các anh lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi
thờ phượng Thiên Chúa". Đức Giêsu nói: “Này chị, hãy tin tôi. Đã đến giờ
các người thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay ở Giêrusalem. Các
người thờ phượng Đấng các người không biết, còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi
biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến và chính lúc này
đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí
và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế Thiên Chúa
là Thần Khí và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí vô sự
thật”. Người phụ nữ thưa: tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi
Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự Đức Giêsu nói: "Đấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây".
Ôi đàn bà, cuộc đời
của chị không phải đã hết, đã hỏng. Ôi, loài người, nỗi khát khao của người còn
xâu xa hơn người tưởng. Ôi tội nhân, sự thất bại của người có lẽ sắp trở thành
một nguồn suối.
Thờ phượng! Đấy là mục
tiêu của Người! Ngươi không nghĩ đủ đâu. Nhưng tôi, tôi nhắc lại mười lần tiếng
này: Thờ phượng. Ngươi được tạo thành cho Thiên Chúa. Ôi, đàn bà, tấm lòng
ngươi quá lớn lao, nên không chỉ bằng lòng với những hạnh phúc rời rạc và tạm
bợ! Tất cả những gì tận cùng đều ngắn ngủi.
Thờ phượng! Dù muốn
hay không, con người đã được lập trình cho chuyện này. Chỉ một mình Thiên Chúa
mới thanh thỏa được nhu cầu về vô hạn nơi chúng ta. Nỗi khát không những tái
phát.
Thờ phượng! Thái độ
huyền nhiệm của người đứng trước mặt Thiên Chúa, cõi lòng được ngoạm vào, hít
vào, xoa dịu, no thỏa bởi Đấng trên cao!
Người phụ nữ Samari
vẫn còn có nhiều vấn đề tôn giáo có tranh cãi: phải thờ phượng Thiên Chúa ở
đâu?... trên núi Garizim, miền Samari, hay trên núi Si-on ở Giêrusalem? Câu trả
lời của Đức Giêsu là một sự vi phạm Truyền Thống: dám nói rằng Đền Thờ và các
nghi thức phụng vụ không còn quan trọng gì cả! Thật là phạm thượng! Sự thờ tự
Thiên Chúa đích thực là điều đã được thúc đẩy trong cuộc đời chúng ta nhờ chính
"Thần Khí". Đền Thờ Thiên Chúa đích thực là đền thờ mà Chân lý của
Chính Đức Kitô đến khánh thành: đó là thân xác Người; và Đức Giêsu nhận được sự
đón tiếp tốt nhất không phải chính tại miền Giu-đê, nhưng tại ngay giữa miền
Samari: “Các ông thờ phượng điều mà các ông không biết!". Chính người
"Do Thái" biết sự thật. Nhưng chính "anh rối đạo" lại được
phụ quyền. Lạy Chúa, xin cho chúng con sự yêu thích thờ phượng trong Thần khí
và trong sự thật.
Vừa lúc đó, các môn đệ
trở về. Các ông ngạc nhiên vì Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế không ai
dám hỏi Người "Thầy cần gì vậy?” hoặc "Thấy nói gì với chị ấy
thế?". Người phụ nữ ấy để vò nước lại, vào thành và nói với người ta:
"Đến mà xem, có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm, ông
ấy không phải là Đấng Kitô sao?". Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
Tấm lòng của người phụ
nữ đã được cứu thoát. Trong cuộc đời bị khô héo, một cuộc sống thấp lè tè dưới
đất, hời hợt (tiêu thụ đủ loại), một nguồn nước đã vọt ra nơi chị ta. Chị không
còn gì làm về cái giếng và cái vò nước này. Chị chạy đi thông báo về nước hằng
sống mà chị vừa khám phá ra. Làm sao mà không kêu lên tin mừng cho cả làng
nghe! Và chính cái quá khứ nặng nề tội lỗi của chị đã khiến cho chị thấy quá
hợp để nói về Thiên Chúa: "Hãy đến xem có người đã yêu tôi với lòng xót
thương". Câu chuyện này không phải là câu chuyện của bạn sao?.
Trong khi đó các môn
đệ thưa với Người rằng: "Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa". Người nói
với các ông: 'Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các
môn đệ mới hỏi nhau: "Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?".
Đức Giêsu nói với các ông: lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã
sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người. Nào anh em chẳng nói: Còn bốn tháng
nữa mới đến mùa gặt?" Nhưng này. Thầy bảo anh em: "Ngước mắt lên mà
xem, đồng luá đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái. Ai gặt thì lãnh tiền công và thu
hoa lợi đễ được sống muôn đời, và như thế cả người gieo lẫn người gặt đều hớn
hở vui mừng. Thật vậy câu tục ngữ “kẻ này gieo người kia gặt" quả là đúng.
Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người
khác đã làm lụng vất vả; còn anh em được vào hưởng công lao vất vả của họ.
Có nhiều người Samari
trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng: Ông ấy nói
với tôi mọi việc tôi đã làm. Vậy khi đến gặp Người dân Samari xin Người ở lại
với họ và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn
đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải lời chị kể mà chúng tôi
tin. Quả thật chính chúng tai đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng Cứu Độ
trần gian".
Vâng, từng nấc một,
Gioan đã đưa chúng ta xuốngchiếc giếng sâu, chính là huyền nhiệm về bản vị Đức
Giêsu: một người nước ngoài đáng thương mệt nhoài và khát đến cháy cổ… một
người Do Thái "biết Đấng mình thờ phượng" nhưng còn lớn hớn cả
Giacóp, người sáng lập nước Israel, một ngôn sứ đọc được trong lòng người ta và
đoán được những âu lo bị che khuất Đấng Mêsia được trông đợi đã làm chảy vọt
lên nước hằng sống của cuộc sống muôn đời; và dạy cho loài người biết sự khát
khao đích thực: Thờ phượng Thiên Chúa trong Thần khí và trong sự thật, tóm lại
Đấng Cứu Độ trần gian.
Bao lâu còn chưa khám
phá ra cái suối này, Đức Giêsu mà tất cả thức ăn của Người là thực hiện ý muốn
của Chúa Cha, thì thế gian chết vì đói và khát cũng một thứ đồ ăn và thức uống
đó luôn ở trong thực đơn nơi bàn tiệc của Giáo Hội. Phục sinh đến gần: phải
chăng bạn sẽ ngã quỵ vì bệnh thiếu máu thiêng liêng ở gần ngay suối nước và bàn
ăn? Và này bạn khát khao cái gì?
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn
Độ
Bước vào Chúa nhật III
Mùa Chay, chúng ta nghe lại cuộc đối thoại nổi tiếng của Ðức Giêsu với người
thiếu phụ Samaria, được tường thuật bởi Thánh Sử Gioan. Người thiếu phụ hằng
ngày đi lấy nước từ một giếng nước cổ xưa, có từ thời của tổ phụ Giacóp. Và
ngày hôm ấy, chị gặp Ðức Giêsu đang ngồi trên bờ giếng, mệt mỏi sau một chặng
hành trình đường xa (x. Ga 4,5-42). Chúa Giêsu chính là Nước Hằng Sống, Người
đến làm cho con người khỏi khát nước Thánh Thần.
Chúa Giêsu là Nước
Hằng Sống
Vào những thế kỷ đầu
của Kitô giáo, Các Giáo phụ đã sớm nhận ra nới « nước hằng sống » biểu tưởng
của phép Rửa tội, mà Đức Kitô là chính Nguồn Nước ấy (9). Chúa Giêsu xin người
đàn bà xứ Samaria nước uống, không phải lý do khát về thể lý cho bằng khát đức
tin,khát sự sống đời đời, khát một linh hồn khô héo. Đấng Cứu Thế giả vờ khát nước
đến xin người đàn bà nước để trao ban thứ nước ân sủng khỏi khát đời đời. Đó
chính là nguồn nước mà Tin Mừng nói tới khi Người xin nước của người đàn bà xứ
Samaria… Thực ra, nguồn nước ấy không bao giờ cạn, Đấng là Nước Hằng Sống không
thể uống nước bị ô nhiễm ở vùng đất này. Câu hỏi được đặt ra :
Phải chăng Đức Kitô
khát nước ?
Thưa, Người khát,
nhưng không khát nước trên mặt đất này, hay khát thức uống của con người, mà
khát các linh hồn, khát sự cứu chuộc nhân loại. Thánh Ephrem viết : “Khi khát
nước, Chúa chúng ta đã ngó đầu vào miệng giếng; Ngài xin người đàn bà nước
uống. Từ giếng nước, Ngài đã câu được một tâm hồn. Nhưng tâm hồn ấy đã lại câu
tiếp được cả dân trong thành” (Thánh Thi Giáng sinh số 4, 43-44).
Tại sao Chúa Giêsu lại
xin người đàn bà xứ Samaria nước uống khi bà đến kín đầy vò nước, không những
thế, Người còn khẳng định mình có thể trao ban mạch nước dồi dào hơn từ giếng
thiêng liêng nếu ai đến xin Người ?
Thưa, vì dân Samaria
thờ ngẫu tượng, tâm trí họ hướng về địa giới, nên Chúa khát đức tin không chỉ
của người đàn này mà cả và nhân loại. Chúa Giêsu nói : “Nếu bà nhận biết ơn của
Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với bà : ‘xin cho toi uống nước’, thì
chắc bà sẽ xin Người, và Người sẽ cho bà nước hằng sống (…) Tất cả những ai
uống nước này sẽ còn khát : nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn
khát nữa ; vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự
sống đời đời” (Ga 4, 10-14). Đúng như lời Kinh Tiền Tụng thánh lễ hôm nay diễn
tả : “Lạy Chúa là Cha chí thánh … Khi người phụ nữ xứ Samari cho nước
uống, Người đã ban cho bà đức tin. Vì Người tha thiết ước mong bà tin vững
mạnh, nên đã đốt lên trong lòng bà ngọn lửa yêu mến Chúa…”
Hình ảnh người tân
tòng
Người đàn bà xứ
Samaria là hình ảnh của người tân tòng, còn đang chịu sự ràng buộc của ma quỷ,
năm đời chồng bà đã từ bỏ, người đàn ông thứ sáu đang sống với bà là tượng
trưng. Giếng nước Giacóp thể hiện tiệc cưới của tâm hồn bà cử hành với Thiên
Chúa đã được thanh tẩy bằng nước Rửa tội. Theo M. Dulaey thì : “Giữa thế kỷ thứ
III, Origène giải thích rằng, giếng nước này là dấu chỉ giao ước giữa Thiên
Chúa với dân Người và hiệp nhất tâm hồn với Thiên Chúa.” Từ nay, bà tuyên xưng
đức tin trước mặt mọi người và đi loan báo Đức Kitô cho dân làng bà, kết quả là
: “Một số đông người Samaria ở thành đó đã tin Người vì lời người đàn bà làm
chứng rằng : Ông ấy đã nói với tôi mọi việc tôi đã làm” (Ga 4, 39). Theo
Origène “Vị Hôn Phu đích thực là Chúa Kitô (Ga 13, 181). Một khi người
đàn bà này tìm thấy Ngài, bà liền chạy về loan báo cho dân làng biết; người đàn
bà này là hình ảnh của người kitô hữu tuyên xưng đức tin của mình.”
Nguồn suối cứu độ là
chính Đức Kitô
Đức Kitô, Đấng ngồi
nghỉ trên miệng giếng chính là nguồn nước, từ cạnh sườn bên phải Ngài, tuôn
trào suối nước trường sinh; một phụ nữ có sáu đời chồng đã được tẩy sạch bằng
dòng nước hằng sống ấy. Thật ngưỡng mộ biết bao : một người phụ nữ nhẹ nhàng
đến giếng Samaria kín nước, bà múc nước từ giếng Giêsu ! Tìm được nước, bà ra
đi với sự tiết hạnh. Ngay lập tức bà xưng thú các lỗi mà Đức Giêsu ám chỉ, bà
nhận ra Đức Mêssia và loan báo Đấng Cứu Thế. Bà để vò nước xuống, mang ơn sủng
vào thành ; vai nhẹ bớt tội lỗi, nhưng tràn đầy sự thánh thiện… Đúng là ai đến
trong tội lỗi sẽ trở về với sứ mạng tiên tri.
Nước hằng sống này đối
với chúng ta là nguồn suối dâng trào sự sống đời đời. Nước này không phải là
nước hòa với Máu Chúa Kitô, đã chảy ra từ cạnh sườn bị đâm thâu trên cây Thánh
giá đó sao ? Đây không phải là các bí tích của Giáo hội mà Phép rửa trình bầy mầu
nhiệm của nước ấy, để ám chỉ rằng nước đó phát sinh từ cái chết cứu độ của Đấng
Cứu Thế đó hay sao? Trong mọi trường hợp, các Giáo phụ thấy nước tuôn chảy từ
tảng đá do Môisen đập ra (Xh 17, 3-7) là hình ảnh tiên trưng của nước chẩy ra
từ cạnh sườn Đấng Cứu Thế bị đóng đinh.
Mỗi người chúng ta đều
có thể nhìn thấy chính mình nơi hình ảnh của người thiếu phụ Samari: Ðức Giêsu
chờ đợi chúng ta, nhất là trong thời điểm của Mùa Chay, để đối thoại với chúng
ta, nói với con tim của chúng ta. Người thiếu phụ Samari gặp được Chúa, bà xin
Chúa, “Xin cho tôi nước ấy để tôi chẳng còn khát” (Mt 4, 15). Chúa đã cho bà,
nhưng nước ấy, vò của bà không thể chứa được, bà phải để vò nước lại, đi loan
báo cho dân làng, những người vẫn khước từ bà vì cái vò cũ (đời sống tội lỗi)
nay bỏ vò đi họ liền đón nhận lời bà loan báo.
Phần chúng ta, để tiếp
tục hành trình trong Mùa Chay Thánh, chúng ta cũng phải bỏ lại vò thói quen tội
lỗi, chúng ta mới kín múc từ giếng Giêsu, Nước Hằng Sống, đựng vào trong tâm
hồn trong sạch (vò đã được hoán cải), có thế, chúng ta mới kính múc được ân
sủng của Thiên Chúa toàn năng. Như người đàn bà xứ Samria, chúng ta được mời
gọi làm chứng cho người thời nay về niềm vui gặp gỡ Chúa, một cuộc gặp gỡ linh
thiêng và cứu chuộc.
Lạy Ðức Nữ Ðồng Trinh
Maria, xin giúp chúng con biết tận dụng cơ hội gặp gỡ này, là nơi chúng con có
thể kín múc nguồn hạnh phúc đích thực cho cuộc đời chúng con. Amen.
.
Lm. Gioan Nguyễn Văn
Ty
Chủ đề của cuộc
trao đổi bên bờ giếng giữa Đức Giê-su và người nữ Sa-ma-ri hiển nhiên liên quan
tới ‘Nước Hằng Sống’, thứ nước mà Người hứa sẽ ban cho mọi tín hữu thông qua
Tin Mừng Người rao giảng. Thế nhưng bản chất của thứ nước đó là gì thì vẫn chưa
rõ ràng lắm; nước đó là thứ gì mà, “ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát
nữa”? Cụ thể hơn nữa sẽ là câu hỏi: cơn khát mà nước đó vĩnh viễn giải được là
cơn khát gì? Nắm được hay trả lời được vấn nạn trên tức là hiểu được sứ mạng
đích thực của Đức Giê-su và lý do tại sao ta lại đặt trọn niềm tin đời ta vào Người.
Và để tìm ra câu trả lời thỏa đáng, có lẽ ta nên nhìn sâu hơn vào người phụ nữ
Sa-ma-ri đang tiến tới bờ giếng Gia-cóp để kín nước, vì bà là đối tượng trực
tiếp lúc đó của lời mời gọi: hãy kín lấy ‘nước hằng sống’. Cụ thể hơn nữa, ta
tự hỏi, trong thâm tâm chị ta đang khát khao điều gì nhất, điều gì có thể khiến
chị đi tới xác quyết: ông Giê-su này chính là đấng Ki-tô mà tôi hằng mong đợi?
Câu hỏi là, đối với
một phụ nữ ‘đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là
chồng chị’ thì điều gì chị ta thực sự khao khát nhất? Một đời sống luân lý hoàn
hảo chăng – không dám đâu! vì trong hoàn cảnh cụ thể của chị, điều này đơn giản
là bất khả thi; vả lại xem ra Đức Giê-su cũng không đòi hỏi hoặc quở trách gì
chị về điều đó – Người không có lấy một lời đòi chị phải rời bỏ ông chồng hờ.
Ngoài tình dục là điều rất tự nhiên của đời sống vợ chồng, người phụ nữ này rất
có thể, sau bao nỗi đắng cay ngay trong đời chung sống, đang ủ ấp trong lòng
niềm khao khát có được một tình yêu đầy cảm thông và được chấp nhận, điều mà
chị chưa từng tìm được nơi một ai, kể cả năm ông chồng trước, cũng như nơi
người đàn ông chị hiện đang chung sống với; chị khao khát được thương cảm bao
dung, được thứ tha trọn vẹn! Cuộc đối thoại tiếp sau đó cho thấy: hình như dung
mạo Thiên Chúa mà chị đang âm thầm tìm kiếm và mong đợi cũng liên quan tới cái
khát vọng này. Dầu không phải là nhà thần học để tranh luận vấn đề, phải thờ
phượng Thiên Chúa ở nơi nào cho thích hợp nhất; nhưng chị đã thật sự vui mừng
khi nghe người lữ hành ngồi bên bờ giếng công bố: “giờ đã đến – và chính là lúc
này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong
thần khí và sự thật”; một kiểu thờ phượng sẽ đáp ứng trọn vẹn niềm khát vọng ẩn
chứa bên trong. Về diện mạo đấng Mê-si-a phải đến cũng tương tự như thế: khác
với quan niệm về một đấng Ki-tô thống trị và quyền lực mà giới lãnh đạo vẫn
thường quảng bá, chị chỉ mong vị đó “khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng
tôi mọi sự”, nhất là khi các điều đó đáp ứng được khát vọng thầm kín nhất của
tâm hồn mình. Và một khi phát hiện ra con người mà lòng hằng mong đợi: “Đấng ấy
chính là tôi, người đang nói với chị đây!”, người phụ nữ Sa-ma-ri vội “để lại
vò nước, chạy vào thành và nói với người ta; “Đến mà xem; có một người đã nói
với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là đấng Ki-tô sao?”
Thế rồi dân thành
Xy-kha nghe người phụ nữ loan báo, đã đến gặp và mời Đức Giê-su lưu lại với họ…
‘và Người ở lại với họ hai ngày’. Trong thời gian đó, chắc chắn mỗi người trong
số họ cũng đã, bằng kinh nghiệm của bản thân, khám phá ra rằng: ông Do Thái
Giê-su này đúng là người có thể ban cho ‘nước hằng sống’ để rồi mỗi người trong
họ đều có thể tự quả quyết: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả
thật chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”.
Đối với những con người chất phác, mang trong mình những mảnh đời riêng tư khác
nhau (mà người phụ nữ với sáu đời chồng chỉ là một điển hình…), thì khát vọng
sâu xa nhất sẽ không là gì khác hơn một sự cảm thông sâu sắc và một lòng thương
xót vô bờ. Họ đã khám phá ra rằng: ông Giê-su tới từ Na-da-rét đây đúng là
người đáp ứng được khát vọng mãnh liệt thầm kín nhất ấy cho riêng mình. Và họ
sẵn sàng tin theo ông, cho dầu ông có là người xa lạ, là cừu địch của họ về mặt
xã hội chính trị. Họ đã khảng định niềm tin đó một cách thật rõ ràng và chân
chất nhất: “Người thật là Đấng Cứu Độ!” Đó là một lời tuyên xưng biểu lộ thái
độ hoàn toàn mãn nguyện, tương tự như khi tìm được nguồn nước mát của bao dung
và thứ tha giữa cơn khát khô họng trong sa mạc nóng cháy da của cuộc đời. Đúng
thực, Người là ‘nước hằng sống’ không phải trên lý thuyết, mà là cho những mảnh
đời rất tư riêng!
Nếu quả đúng là như
thế thì nội dung ‘nước hằng sống’ sẽ không còn nằm trong suy tư thần học này
nọ, mà đã trở thành một vấn đề hết sức thiết thực và cá nhân. Mùa Chay được Hội
Thánh dành cho tôi, chính là thời gian để tôi xác định được cơn khát của riêng
mình (vì thế mà cần sám hối), hầu cho phép tôi tiến sâu hơn vào một tuyên xưng
đầy xác tín và chân thành: Giê-su Ki-tô quả là Đấng đã, đang và sẽ tiếp tục mãi
ban cho tôi thứ ‘Nước Hằng Sống’ tôi rất cần, là Đấng duy nhất giải được cơn
khát khô họng của cõi lòng tôi. Người quả là ‘Đấng cứu độ’ của tôi và cho tôi!
Lạy Chúa, con cũng có
một mảng đời riêng tư với những khát vọng cháy bỏng. Vào lúc đời xế bóng này,
khát vọng lớn nhất con có chính là được cảm thông, thứ tha và xót thương; vì
cũng như mọi kiếp người, cuộc sống con không tránh khỏi những khiếm khuyết,
thiếu sót và tội lỗi. Nhưng như người đàn bà Sa-ma-ri bên bờ giếng, làm sao
chính con có thể xác tín cho riêng mình rằng: chỉ có ‘nước hằng sống’, tức là
lòng từ ái hải hà vô tận của Chúa, mới hoàn toàn giải được cơn khát cháy khô
họng của con, bây giờ và cho đến muôn đời. Xin cho con luôn được phúc sống sâu
xa cảm nghiệm Tin Mừng này, bây giờ và nhất là trong giờ chết. A-men
.
Lm. GB. Trần Văn Hào
Nước là nhu cầu thiết
yếu để duy trì sự sống cho con người. Người ta có thể tuyệt thực và nhịn ăn
trong nhiều ngày, nhưng khi cơ thể thiếu nước chỉ trong một thời gian ngắn, sức
khoẻ của chúng ta sẽ suy kiệt dần và tính mạng bị đe dọa. Khi mang thân phận
con người, Chúa Giêsu cũng đã từng kinh qua cái đói và những cơn khát. Ngài cần
bánh để ăn và cũng cần nước để uống. Câu chuyện về Chúa Giêsu và người phụ nữ
Samari bên bờ giếng Giacóp hôm nay là một khải thị sâu xa cho chúng ta về chân
dung cứu thế của Đức Giêsu. Ngài chính là ‘Mạch Nước của Sự Sống’. “Ai uống
nước này sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một
mạch nước trào lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14). Đây là chủ đề mà các
bài đọc Lời Chúa hôm nay quy chiếu vào.
Mảnh đời bầm dập nơi
người thiếu phụ.
Câu chuyện khá dài
được Thánh Gioan thuật lại trong chương 4 với nhiều chi tiết hàm ngậm những tư
tưởng thần học rất sâu xa. Chúa Giêsu đang khát, một cái khát thể lý bình
thường giống như mọi người, và Ngài xin nước để uống. Người thiếu phụ Samari
cũng đang khát và chị đến giếng để múc nước. Nhưng nơi chị còn có một niềm khát
khao sâu xa hơn, phát xuất từ mảnh đời nghiệt ngả chị đang trải qua. Chị đã có
5 đời chồng, nhưng chẳng ông nào ra ông nào, và hiện nay chị đang sống với một
người đàn ông khác không phải chồng của mình. Xã hội thời đó chỉ xem phụ nữ như
vật sở hữu của đàn ông để họ có con nối dõi. Phẩm giá của người phụ nữ hoàn
toàn bị coi rẻ. Là con người cũng như bao người khác, chị cũng khát khao được
làm người tử tế, được làm mẹ, làm vợ trong một mái ấm gia đình bình thường,
nhưng hạnh phúc dường như đã vượt quá tầm tay của chị. Chúa Giêsu thấu tỏ tất
cả. Ngài nhận ra cơn khát ẩn sâu nơi tâm hồn người thiếu phụ, và từ từ vén mở
cho chị biết về Ngài, là chính ‘Mạch Nước Trường Sinh’. Trong nguồn nước ấy,
mọi nỗi khát khao của kiếp người sẽ được hóa giải.
Vào tháng 11 năm 2004,
nhân kỷ niệm 10 năm ban hành Tông huấn ‘Đời sống Thánh hiến’ (Vita Consecrata),
Giáo hội tổ chức Đại hội tu sỹ ở Rôma trong 5 ngày. Cuộc họp qui tụ gần 900 đại
biểu đến từ các nơi, gồm các Bề Trên thượng cấp của các dòng tu cùng các chuyên
gia thần học và Thánh kinh, để thảo luận về đời sống thánh hiến. Đại hội đã
chọn chủ đề ‘Đam mê Thiên Chúa và đam mê con người’ (Passion for Christ,
passion for human) để các thành viên suy tư. Hiển thị chủ đề này là 2 biểu
tượng về 2 người Samari : Người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacóp (Ga chương
4) và người Samaritanô nhân hậu (Lc 10,25-37). Câu chuyện về người phụ nữ trong
bài Tin mừng hôm nay đã được kể lại, được hội nghị nghiền ngẫm và đào sâu để
làm khung quy chiếu cho các tham dự viên, đặc biệt cho những ai sống đời thánh
hiến. Người thiếu phụ Samari vốn chỉ là một phụ nữ ngoại giáo bình thường, chưa
hề biết Đức Giêsu là ai và luôn bị người Do Thái xem như thù nghịch. Nhưng chị
đã biết trải lòng mình ra để ngày càng đi sâu vào mối thân tình với Chúa Giêsu.
Cuối cùng chị đã khám phá ra Ngài : Đức Kitô, Đấng Messia, là ‘Nguồn Nước Sự
Sống’.
Sau khi được Đức Giêsu
thấm nhập và biến đổi, người thiếu phụ đã bỏ vò nước lại bên bờ giếng và chạy
vội về làng để ‘công bố Tin mừng’ cho đồng hương của chị. Chị đã gác lại cơn
khát của thân xác, vì đã được thỏa mãn cơn khát thâm sâu trong tâm hồn. Người
thiếu phụ vội vã đi truyền tải thứ nước trường sinh ấy cho những người cũng
đang khát cháy giống như chị. Đây là mô hình về đức tin và về sứ vụ chia sẻ đức
tin, giúp chúng ta học hỏi để noi theo.
Những mảnh đời bất
hạnh nơi phận người.
Con người chúng ta
được sinh ra trong tiếng khóc chào đời của chính mình và chết đi trong tiếng
khóc tiễn đưa của những người thân quen. Cuộc sống con người mãi luôn là một ẩn
số với bao khổ đau. Đức Phật đã dạy các môn sinh rằng, đời là bể khổ, và ai ai
cũng có thể nhận ra điều này. Phật giáo tìm cách giải mã đau khổ bằng liệu pháp
diệt dục. Một vài tôn giáo khác lại chủ trương né tránh. Ông tổ của triết học
vô thần Marxism thì lại lý tưởng hóa bằng cách mơ tưởng đến một thiên đàng trần
gian nơi không còn người bóc lột người, tất cả được no cơm ấm áo… Nhưng tất cả
chỉ là những lý thuyết không tưởng. Chỉ duy nhất Đức Giêsu mới đem lại cho
chúng ta chìa khóa giải quyết tận căn mầu nhiệm đau khổ bằng chính cái chết của
Ngài trên Thập giá. Từ Thập gía, Chúa đưa dẫn con người đến vinh quang (per
crucem ad lucem). Từ cái chết ô nhục, Ngài khai mở cho chúng ta sự sống trường
cửu. Thập giá của Đức Giêsu là mạch nước vọt trào ơn cứu độ, hóa giải những cơn
khát thâm sâu nhất nơi phận người. Điều đó Đức Giêsu đã nói với người thiếu phụ
Samari mà hôm nay chúng ta được nghe Giáo hội đọc lại.
Ông Tổng thống
Mitterand là nhà lãnh đạo của nước Pháp trong 14 năm và được dân Pháp quý mến,
xem ông như một thần tượng. Trong những năm tháng cuối đời, ông có dịp nhìn lại
cuộc đời đã qua và viết lại những dòng nhật ký đáng để chúng ta suy nghĩ. Trang
nhật ký có tựa đề ‘Tôi đang chuẩn bị cái chết’. Ông viết : “Lúc nhỏ, tôi được
dạy phải đọc kinh, nhưng thay vì đọc kinh tôi lại thích thinh lặng và suy niệm.
Tôi suy niệm về tôi, về Thiên Chúa, và về ý nghĩa cuộc đời. Lắm khi tôi tự hỏi
không biết tôi có tin Thiên Chúa hay không, nhưng từ trong thâm tâm, tôi luôn
bị thúc đẩy phải tin Ngài. Nếu không tin, cuộc sống của tôi sẽ trở nên vô nghĩa
và hoàn toàn trống rỗng.”
Ông viết tiếp : “Ai mà
không cảm thấy khao khát muốn vươn tới hạnh phúc và muốn được sống mãi. Một lúc
nào đó, bạn sẽ cảm thấy lẻ loi và bị mất hút trong thế giới vĩnh hằng.
Pascal đã nói chính xác rằng sẽ đến lúc thân xác mong manh của bạn bị ngã đổ.
Bạn sẽ chết, sẽ không còn hiện hữu nơi trần thế này nữa. Nhưng từ trong thâm
sâu, bạn vẫn có ước muốn được trường tồn, được sống và được sống mãi. Niềm khao
khát đó, không một thứ gì ở trần gian này có thể lấp đầy.”
Đó cũng là niềm khao
khát của người thiếu phụ Samaria năm xưa và cũng là của mỗi người chúng ta ngày
hôm nay. Ngày xưa, dân Do Thái đi trong sa mạc Sinai cũng khát (bài đọc 1),
nhưng cái khát đó chỉ là hình bóng. Khát khao tình yêu và hạnh phúc là những ẩn
số triền miên nơi kiếp người, và đáp án của ẩn số đó đã được Chúa Giêsu khải
thị trong bài Tin mừng hôm nay.
Kết luận
Ngày xưa, có một đạo
sĩ dạy cho các môn sinh bí quyết để tìm tới hạnh phúc. Ông giảng dạy rất uyên
bác. Một thanh niên bặm trợn đến gặp ông và thách đố: “Thưa Thầy, Thầy giảng
dạy rất thâm thúy, nhưng tôi chỉ xin hỏi Thầy một câu thôi. Trong tay tôi là
một con chim, đố thầy biết đó là con chim sống hay con chim chết ?” Câu hỏi ma
mãnh của chàng trai nhằm gài bẫy vị đạo sỹ vì trong tay anh ta, con chim đang còn
sống sẽ bị anh ta bóp chết, nếu vị đạo sỹ trả lời rằng đó là con chim sống.
Nhìn nét mặt quỷ quyệt của người thanh niên trẻ, vị đạo sĩ nói thẳng vào mặt
anh ta : “Con chim này sống hay chết là do anh.” Ông nói tiếp : “Cũng vậy, hạnh
phúc có đến được với chúng ta hay không còn tùy thuộc vào sự lựa chọn tự do của
mỗi người.
Trong mùa chay, Giáo
hội mời gọi chúng ta sám hối để trở với Chúa và với nhau. Chúng ta hãy hướng về
Thập giá Đức Giêsu, kín múc cho mình nguồn nước sự sống để tâm hồn chúng ta
luôn được an bình và vươn đạt tới hạnh phúc trường cửu.
.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Ngày 22 tháng 3 hàng
năm đã được Liên Hiệp Quốc chọn làm Ngày Nước Thế Giới – ngày để con người nhìn
lại tầm quan trọng của tài nguyên quý giá bậc nhất trên Trái đất. Nước là tài
nguyên chiếm 3/4 diện tích Địa cầu nhưng chỉ có khoảng 2,5% trong tổng số đó là
nước có thể sử dụng được. Tổ chức Y tế Thế giới đang cảnh báo về tình trạng
thiếu nước sạch trên toàn thế giới. Hiện nay mỗi năm có khoảng 1,2 triệu trẻ em
dưới 5 tuổi chết vì thiếu nước sạch.
Tại Việt Nam, nhiều
người vẫn chưa được sử dụng nước sạch, kể cả tại những thành phố lớn như Sài
Gòn, Hà Hội. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu nước là do việc khai thác bừa
bãi, sử dụng nước cách phí phạm. Nguyên nhân trầm trọng hơn, đó là tình trạng ô
nhiễm môi trường do con người gây ra. Các khu công nghiệp, các cơ sở sản xuất
và các gia đình xả thẳng chất thải, hóa chất chưa được xử lý vào môi trường,
khiến cho nguồn nước ngầm bị nhiễm độc bởi hóa chất và các kim loại nguy hiểm.
Theo Bộ Y tế, tại Việt Nam, hàng năm có tới 10 ngàn người chết vì các bệnh liên
quan đến việc sử dụng nước ô nhiễm. Một trong các bệnh dễ thấy đó là các bệnh
ung thư và các bệnh liên quan đến tiêu hóa, đường ruột.
Lời Chúa tuần thứ ba
mùa chay hôm nay giới thiệu cho chúng ta: Chúa Giêsu là Nguồn Nước đem lại sự
sống đời đời. Ngày xưa dân Do Thái đã có kinh nghiệm thế nào là thiếu nước và
khát nước, khi họ vượt qua sa mạc. Hành trình vượt sa mạc phải đối đầu với bão
cát và gió nóng, thì việc thiếu nước là một thảm họa cho cả con người và súc
vật. Thay vì tin tưởng vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, dân Do Thái
đã tỏ ra thất vọng và muốn nổi loạn chống lại Thiên Chúa và Mose. Họ trách ông
Mose: Tại sao ông đưa chúng tôi vào hoang địa này để chúng tôi và đàn vật phải
chết khát ở đây? Trong lúc không biết phải giải quyết thế nào, Mose chỉ còn tin
tưởng và cầu khẩn cùng Thiên Chúa. Ông thưa với Chúa những điều dân chúng oán
trách ông. Thiên Chúa đã thể hiện quyền năng trước lời kêu xin của Mose. Ngài
muốn cho Mose và dân Do Thái thấy rằng Ngài có thể làm được tất cả, kể cả những
việc tưởng chừng như không thể, Ngài làm cho thành có thể. Chúa truyền cho Mose
lấy cây gậy đập vào tàng đá. Từ tảng đá tại Meriba, Chúa đã cho một nguồn nước
trong lành, tươi mát chảy ra cho toàn dân và súc vật được uống thỏa thuê, không
còn khát nữa.
Phép lạ Chúa làm trong
hoang địa ngày xưa, báo trước việc Thiên Chúa sẽ ban cho nhân loại một nguồn
nước vô cùng quý giá, đó là Nước Trường sinh, nước đem lại sự sống cho tất cả
nhân loại. Nguồn nước sẽ được ban cách dồi dào nới chính con người của Chúa
Giêsu. Thánh Gioan đã nhận ra và giới thiệu cho chúng ta qua câu chuyện Chúa
Giêsu gặp gỡ và đối thoại với người phụ nữ Samaria.
Sau một hành trình
dài, Chúa Giêsu và các môn đệ ngồi nghỉ tại bờ giếng Giacop, thuộc miền
Samaria. Có một phụ nữ Samaria đến múc nước. Chúa Giêsu đã chủ động khởi đầu
câu chuyện bằng việc xin người này: Chị cho tôi xin chút nước. Người phụ nữ
Samaria lúc đầu, chỉ hiểu người đàn ông lạ này xin nước múc lên từ giếng sâu.
Nhưng Chúa Giêsu đã khiến cho chị đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác khi
nói với chị: Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị:
Cho tôi xin chút nước, thì hẳn chị đã xin người ấy ban cho chị nước hằng sống.
Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng việc uống nước để nói về một nguồn nước đặc biệt hơn
đó là nước hằng sống. Nguồn nước do chính Ngài đem đến cho trần gian, có sức
thanh tẩy tâm hồn con người và đem đến cho con người sự sống đời đời. Nguồn
nước này sẽ được ban tặng nhưng không, cho những ai được Thiên Chúa ban ơn để
tin vào Chúa Giêsu.
Người phụ nữ Samaria
chưa thể hiểu những điều Chúa Giêsu muốn mạc khải. Chị tự hào vì tổ phụ Giacop
đã để lại một giếng nước sạch cho con cháu, nhưng Chúa Giêsu đã quả quyết: Ai
uống nước giếng này, sẽ vẫn bị khát, ai uống nước do Ngài ban tặng sẽ không bao
giờ khát nữa và còn bảo đảm đem đến sự sống đời đời. Nói đến đây, người phụ nữ
Samaria, dù chưa thể hiểu hết, nhưng chị đã bắt đầu tin và mở lời xin Chúa
Giêsu: Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước đó để tôi hết khát và khỏi phải đến đây
lấy nước.
Chúa Giêsu đã nói với
người phụ nữ: Chị hãy về gọi chồng chị rồi trở lại đây. Người phụ nữ đã thành
thật thưa: tôi không có chồng. chúa Giêsu trả lời: Chị đã có năm đời chồng rồi,
và người hiện tại đang ở với chị không phải là chồng chị. Người phụ nữ ngạc
nhiên khi thấy Chúa Giêsu nói chính xác về quá khứ của chị. Chị đã thưa: Thưa
ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ, cha ông chúng tôi đã thờ trên núi này.
Qua đoan đối thoại này, Chúa Giêsu chỉ cho người phụ nữ Samaria thấy, trước đây
chị đã bị vật vã trong cơn khát của thế gian đó là sự thiếu thốn tình yêu, thèm
khát dục vọng. Cơn khát trần gian này sẽ dằn vặt và chi phối lôi cuốn chị vào
dòng chảy của nó, không có điểm dừng. Còn người phụ nữ đã đi đến một niềm tin
rằng, người lạ đang nói chuyện với chị không phải là người thường, mà là một
ngôn sứ. Ngôn sứ này hơn hẳn các ngôn sứ trước đây, chị khẳng định: Ngài thật
là ngôn sứ cha ông chúng tôi tôn thờ trên núi này.
Người phụ nữ sau khi
đã tin Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống, là một vị ngôn sứ tổ tiên chị đã tôn
thờ, chị đã vào làng, gọi mọi người trong làng và nói cho họ về Chúa Giêsu.
Nhiều người Samaria đã tin Chúa Giêsu vì thấy người phụ nữ này đã được biến đổi
nhờ gặp được Chúa Giêsu là nguồn nước ban sự sống mới. Chị đã làm chứng rằng:
Ông ấy đã nói cho tôi về việc tôi đã làm. Chị đã được lấp đầy, được giải khát
khỏi cơn khát của xác thịt, dục vọng và sự trói buộc của quá khứ, bằng chính
những điều Chúa Giêsu đã nói với chị.
Cuộc sống chúng ta hôm
nay không chỉ bị ô nhiễm về nguồn nước, chúng ta còn đang bị đầu độc bởi những
chất độc hại là những tư tưởng sai lạc nghịch lại với Giáo Hội. Những sách báo
phim ảnh và những lối sống dễ dãi buông thả chiều theo dục vọng đang kéo nhiều
người, đặc biệt là các bạn trẻ vào cơn khát của nó; có nhiều người bị chìm vào
cơn khát quyền lực, khát danh vọng, khát tiền bạc và của cải, khiến họ quay
cuồng với cuộc sống và không có điểm dừng.
Chỉ có Chúa Giêsu là
nguồn nước hằng sống mới có thể thỏa mãn cho sự khát khao sâu xa trong tâm hồn.
Ngài sẽ thỏa mãn khát khao hạnh phúc, khát khao được sống đời đời và khát khao
trở nên một với Thiên Chúa nơi mỗi chúng ta. Lời Chúa và Thánh Thể là nguồn sức
sống cho nhân loại, có sức mạnh lấp đầy khát vọng sâu thẳm của con người. Xin
cho chúng ta tin tưởng đến với Chúa Giêsu, đón rước Ngài và cầu xin với Ngài:
Xin ban cho con Nước trường sinh phát xuất từ trái tim yêu thương của Chúa và
thương lấp đầy mọi kháo khat trong tâm hồn chúng ta. Chúa sẽ đáp ứng cho chúng
ta như chúng ta khát mong. Amen.
.
Lm. Anthony Trung
Thành
Bài Tin mừng Chúa Nhật
hôm nay là cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu với người đàn bà xứ Samaria được
thánh sử Gioan tường thuật lại.
Câu chuyện xảy ra trong
bối cảnh Đức Giêsu tới thành Sykar thuộc xứ Samaria. Sau một quảng đường mệt
nhọc, Đức Giêsu dừng chân nghỉ tại giếng Gia-cóp. Có lẽ Ngài rất khát nước, vì
đó là giờ thứ sáu. Nhưng làm sao để có nước uống, vì giếng thì sâu, Ngài lại
không có dụng cụ để múc nước. May mắn thay, lúc đó có một người đàn bà xứ
Samaria tới lấy nước. Đức Giêsu nói với người đàn bà: “Xin bà cho tôi uống
nước” (Ga 4,7). Nghe vậy, người đàn bà Samaria ngạc nhiên, vì từ lâu người Do
thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Thậm chí họ là kẻ thù của
nhau. Chính vì thế, người đàn bà mới trả lời với Đức Giêsu rằng: “Sao thế! Ông
là người Do-thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ Samaria?” (Ga 4,9).
Thực ra, việc xin nước
uống chỉ là cái cớ để Đức Giêsu bắt chuyện với người đàn bà. Mục đích của Đức
Giêsu không phải là xin nước, nhưng Ngài muốn mạc khải cho bà biết những điều
quan trọng về Ngài. Vì thế, sau khi nghe người đàn bà thắc mắc, Đức Giêsu mới
bắt đầu vào nội dung chính của câu chuyện, Ngài nói với người đàn bà rằng: “Nếu
chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị : cho tôi chút
nước uống với, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga
4,10). Nghe những lời Đức Giêsu vừa nói, người đàn bà càng thắc mắc nhiều hơn.
Đó cũng chính là sự chờ đợi của Đức Giêsu. Vì thế, Ngài mạc khải tiếp: “Ai uống
nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người
ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời”(Ga 4,4,14). Giờ thì không
phải Đức Giêsu xin chị uống nước mà chính chị mới là người xin Đức Giêsu uống
nước. Chị nói: “Thưa Ngài, xin cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi
phải đến đây lấy nước”(Ga 4,15). Như vậy, Đức Giêsu đã mạc khải cho chị biết,
chính Ngài là Đấng Kitô. Cho nên không phải ai khác, mà chính Ngài là người ban
cho chị Nước Hằng Sống. Rồi Ngài còn mạc khải cho chị về việc tôn thờ Thiên
Chúa trong tinh thần và chân lý. Ngài nói: “Đã đến giờ và chính là lúc này,
những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Đó chính
là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23).
Câu chuyện Tin mừng
đến đây cho chúng ta thấy, Đức Giêsu đã đáp ứng niềm khát vọng sâu xa của người
đàn bà. Bà đã biết về Đức Giêsu và tin nhận Ngài là Đấng Mêsia. Còn chúng ta:
Đâu là niềm khát vọng của chúng ta? Chúng ta đã thực hiện sứ mạng đem “Nước”
cho những người khác như thế nào?
1.
Đâu là niềm khát vọng của chúng ta?
Trước hết, mỗi chúng
ta cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực tự nhiên: Khát nước, khát cơm ăn áo
mặc, khát tình cảm, khát chân lý, khát tự do, khát yêu thương, khát công bằng,
khát hạnh phúc… Nhưng những khát vọng này của chúng ta không bao giờ được thỏa
mãn một cách tuyệt đối. Vì: uống nước rồi vẫn khát, ăn rồi vẫn đói; tình cảm
không bao giờ đong đầy. Ngoài ra, với tâm lý “được voi đòi tiên” của con người
thì sự thỏa mãn càng không bao giờ đủ. Chính người đàn bà xứ Samaria hằng ngày
vẫn đến giếng Giacóp lấy nước. Bà đã có 5 đời chồng rồi, nhưng hiện vẫn sống
với người chồng thứ 6. Hơn nữa, con người vẫn mong muốn những cái tuyệt đối, mà
ở trần gian này không có cái gì là tuyệt đối: Tình yêu, công lý, tự do, hạnh
phúc…chỉ là tương đối mà thôi.
Thứ đến, mỗi chúng ta
cũng có những khát vọng thuộc lãnh vực siêu nhiên như: Khát đức tin, khát Chúa,
khát Nước hằng sống, khát hạnh phúc Thiên đàng…Sự khát khao thuộc lãnh vực siêu
nhiên này chúng ta chỉ được thỏa mãn nơi Chúa. Vì, “Chỉ trong Thiên Chúa mà
thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn” (Tv 61,2). Chính Đức Giêsu cũng đã
nói với người đàn bà: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho
sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch
nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14).
Chính vì vậy, Mùa
chay, Giáo hội kêu mời chúng ta khỏa lấp lòng khao khát sự sống siêu nhiên bằng
việc gặp gỡ Đức Giêsu: qua Lời của Ngài, qua các Bí tích, nhất là Bí tích
Giao hòa và Bí tích Thánh Thể. Chúng ta cũng có thể khỏa lấp lòng khao khát sự
sống siêu nhiên bằng đời sống cầu nguyện và sự chia sẻ cơm áo cho tha nhân.
2.
Chúng ta có sứ mạng đem “Nước Hằng Sống” cho những người khác?
Sau khi người đàn bà
được Đức Giêsu “cho uống nước hằng sống,” bà đã chạy về thành và kêu gọi mọi
người “Mau hãy đến xem, có một ông đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm.
Phải chăng ông đó là Ðấng Kitô?” (Ga 4,29). Dân chúng tuôn nhau ra khỏi thành
và đến cùng Ngài. Nhiều người tin vào Đức Giêsu do lời chứng của người đàn bà.
Họ mời Đức Giêsu ở lại với họ hai ngày. Sau đó, họ nói rằng: “Giờ đây, không
phải vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã được nghe
lời Người và chúng tôi biết Người thật là Ðấng Cứu Thế” (Ga 4,42).
Sứ vụ của người đàn bà
cũng là sứ vụ của mỗi người chúng ta. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã
nói cho các môn đệ biết về công việc của Ngài: “Lương Thực của Thầy là làm theo
ý Ðấng đã sai Thầy và chu toàn công việc của Ngài”(Ga 4,34). Công việc của Đức
Giêsu là loan báo Tin mừng. Đó cũng là công việc của các Tông đồ và là công
việc của mỗi người chúng ta. Công việc đó luôn có tính cấp bách. Chính Đức Giêsu
đã cho biết: “Các con chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt đó ư? Nhưng
Thầy bảo các con hãy đưa mắt mà nhìn xem đồng lúa chín vàng đã đến lúc gặt.
Người gặt lãnh công và thu lúa thóc vào kho hằng sống, và như vậy kẻ gieo người
gặt đều vui mừng. Ðúng như câu tục ngữ: Kẻ này gieo, người kia gặt. Thầy sai
các con đi gặt những gì các con không vất vả làm ra; những kẻ khác đã khó nhọc,
còn các con thừa hưởng kết quả công lao của họ” (Ga 4,35-38).
Để loan báo Tin mừng
có hiệu quả, chúng ta cần phải luôn chủ động, đi bước trước để đến với tha
nhân. Đức Giêsu đã luôn làm như thế. Ngài đã đi bước trước qua việc bắt đầu câu
chuyện bằng việc xin nước người phụ nữ. Rồi sau đó, Ngài đã mời gọi người phụ
nữ uống Nước Hằng Sống. Ngài đi bước trước đến bàn thu thuế và mời gọi ông Lêvi
đi theo Ngài. Ngài đi bước trước để đến với ông Giakêu khi ông đang ở trên cây
sung để cho ông biết “hôm nay tôi đến trọ nơi nhà ông.” Ngài đi bước trước đến
đồng bàn với những người thu thuế và tội lỗi để mời gọi họ bỏ quá khứ tội lỗi
để trở về với Ngài…
Chúng ta cũng phải noi
gương Đức Giêsu, đi bước trước đến với những người cần đến chúng ta. Đặc biệt
là những người đang gặp khó khăn trong đời sống đức tin. Những người gặp khó
khăn trong đời sống gia đình. Những người bỏ Chúa và Giáo hội lâu năm. Những
người đang bất hòa với chúng ta. Thậm chí là những người đang hằn thù, ghen
ghét chúng ta. Chúng ta cần đi bước trước để bắt chuyện với họ, giúp họ nhận ra
con người thật của mình, cần đến Chúa để họ trở về với Chúa và Giáo hội.
Lạy Chúa Giêsu, xin
cho mỗi người chúng con biết từ bỏ tội lỗi, trở về với Chúa. Xin cho chúng con
luôn biết khỏa lấp những khát khao trong cuộc sống bằng chính Chúa. Từ đó,
chúng con trở thành những sứ giả đem Chúa đến với anh chị em và đem anh chị em
trở về với Chúa. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Cuộc đời phàm nhân có
nhiều loại khát – khát về thể lý và khát về tinh thần. Mức độ khát cũng đa dạng
và khác nhau. Cơn khát nào cũng cần được giải khát. Cơn khát của Chúa Giêsu là
cơn khát đặc biệt, liên quan cả thể lý lẫn tinh thần: “Tôi khát!” (Ga 19:28).
Về thể lý, khát là
trạng thái thiếu nước. Muốn hết khát thì phải có nước để làm cho hết khát, gọi
là giải khát. Đồ uống cần gấp hơn đồ ăn, vì người ta có thể nhịn đói dài ngày
hơn nhịn khát. Ngày nay, trên đường đi thường thấy có những nhà để bình “nước
đá miễn phí” cho khách vãng lai sử dụng. Một nghĩa cử đẹp lắm! Tất nhiên nước
đó chỉ có lợi cho những người lao động nghèo thôi, người giàu chẳng ai “để ý”
làm chi.
Điều đó là động thái
rất đơn giản và chỉ là “chuyện nhỏ”, nhưng lại thực sự cần thiết, nhất là vào
những ngày hè nắng nóng, như tục ngữ Việt Nam ví von: “Nắng tháng Ba, chó già
le lưỡi”. Việc nhỏ mà công to, chính Chúa Giêsu cũng chúc lành cho những việc
làm “nhỏ bé” như vậy: “Ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một
chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy thì Thầy bảo thật anh em, người
đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (Mt 10:42). Thật là tuyệt vời!
Về tinh thần, cơn khát
đa dạng hơn (hạnh phúc, tình yêu, danh vọng, sự nghiệp,…), và cũng cấp bách
lắm. Plato (khoảng 427-347 TCN, triết gia cổ đại Hy Lạp) phân tích: “Hành vi
của con người bắt đầu từ ba nguồn chính: khao khát, cảm xúc và tri thức”. Còn
Denis Diderot (1713-1784, văn sĩ kiêm triết gia người Pháp) xác định: “Chỉ có
một khát khao, khát khao hạnh phúc – Il n’y a qu’une passion, la passion du
bonheur”.
Cơn khát thể lý cấp
bách, nhưng cái khát về tâm linh còn cấp bách và mãnh liệt hơn nhiều. Hạn hán
là “thiên tai” (có thể là “nhân tai” nhưng người ta đổ lỗi cho Ông Trời), không
mưa nên thiếu nước, đất đai khô cằn, nguy hiểm lắm, nhưng hạn hán tâm linh càng
nguy hiểm hơn, vì đó là “nhân tai” (chắc chắn cái này chỉ là “nhân tai” mà
thôi). Và rồi chỉ có Mưa Giêsu mới khả dĩ cứu nguy con người khỏi hạn hán.
Chúng ta phải thực sự khát Ngài.
CƠN KHÁT THỂ LÝ
Thời Cựu Ước, trong
hành trình sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Mô-sê: “Ông đưa chúng tôi
ra khỏi Ai-cập để làm gì? Có phải là để cho chúng tôi, con cái chúng tôi, và
súc vật của chúng tôi bị chết khát hay không?” (Xh 17:4). Nắng đồng bằng đã khó
chịu rồi, nắng cao nguyên cũng ghê gớm lắm, nắng sa mạc thì hẳn là như lửa.
Chịu không nổi cái nắng nóng nên dân muốn nổi loạn, ông Mô-sê cũng “ngán” lắm
nên kêu lên cùng Đức Chúa: “Con phải làm gì cho dân này bây giờ? Chỉ một chút
nữa là họ ném đá con!” (Xh 17:4).
Đá luôn có sẵn, vùng
sỏi đá có khác, muốn “chơi” thì cứ việc lấy đá chọi thẳng tay ngay. Chả biết
phải trái thế nào, lạng quạng là chết chắc. Kể cũng “ngại” thật! Thấy tội
nghiệp, Đức Chúa phán với ông Mô-sê: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo
một số kỳ mục Ít-ra-en; cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và
đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đằng kia trước mặt ngươi, trên tảng đá ở núi
Khô-rếp. Ngươi sẽ đập vào tảng đá. Từ tảng đá, nước sẽ chảy ra cho dân uống”
(Xh 17:5-6). Ôi chao, thế thì còn gì bằng! Ông Mô-sê nghe vậy và làm y chang
trước mắt các kỳ mục Ít-ra-en. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Ông đặt tên cho nơi
ấy là Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là THỬ THÁCH và GÂY SỰ, vì con cái Ít-ra-en đã
dám gây sự và thử thách Đức Chúa mà nói: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay
không?” (Xh 17:7). Đặt vấn đề như vậy là nghi ngờ sự hiện hữu của Thiên Chúa.
Chắc hẳn chúng ta cũng đã có lúc “đặt vấn đề” về đức tin như vậy!
Có lẽ chúng ta cho
rằng dân Ít-ra-en “uống thuốc liều” quá chỉ định, vì dám gây sự và thử thách
Chúa. Đúng là “bán trời không cần văn tự”. Tuy nhiên, chúng ta cũng chẳng hơn
gì, có khi còn hơn họ nữa đấy. Thật vậy, khi gặp gian nan thử thách theo kiểu
“mắc nối tiếp” như nối các bóng điện, dạng “họa vô đơn chí”, chắc hẳn cũng đã
có những lần chúng ta bị “lung lay” về đức tin. Dù không nói ra nhưng các động
thái của chúng ta cũng bộc lộ nghi vấn: “Có Chúa thật hay người ta chỉ ảo
tưởng?”. Có những người còn liều hơn – kể cả người Công giáo, đã từng dám thốt
thành lời: “Trời không có mắt, trời mù!”. Với các Kitô hữu, Trời là ai chứ? Như
vậy không phải là chúng ta “liều mạng” hơn dân Ít-ra-en sao? Chẳng oan ức chi
mô!
Việc ăn năn sám hối
không là động thái chỉ được thực hiện trong Mùa Chay, Mùa Vọng, kỳ tĩnh tâm,…
mà phải được thực hiện không ngừng trong suốt cuộc đời: Mùa nào cũng là mùa sám
hối, ngày nào cũng là Mùa Chay, khi nào cũng là lúc tĩnh tâm (cấm phòng). Đó là
sẵn sàng dầu đèn như 10 cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể (x. Mt 25:1-13).
Giáo Hội ấn định Mùa Chay như tiếng chuông cảnh báo để “đánh động” mạnh hơn,
nhất là đối với những người còn “ngủ mê”, do đó mà có nghiêm luật: Xưng tội mỗi
năm ít là một lần, đồng thời xưng tội và rước lễ trong Mùa Phục Sinh.
Chúng ta sẽ nhận ra
Thiên Chúa khi nhìn vào vạn vật, thiên nhiên. Đơn giản nhất là không khí. Không
có không khí thì không gì có thể sống được một lúc. Cái cực tiểu nhưng lại là
cực đại. Còn những thứ khác như ánh sáng, không có ánh nắng thì ai cũng như mù
vậy. Vì thế, hãy nghe lời tác giả Thánh Vịnh mời gọi: “Hãy đến đây ta reo hò
mừng Chúa, tung hô Người là Núi Đá độ trì ta, vào trước Thánh Nhan dâng lời cảm
tạ, cùng tung hô theo điệu hát cung đàn” (Tv 95:1-2). Thánh Vịnh này phổ biến,
quen thuộc, vì được Giáo Hội sử dụng hằng ngày trong Giờ Kinh Phụng Vụ.
Không thể im lặng, tác
giả Thánh Vịnh nói thêm: “Hãy vào đây ta cúi mình phủ phục, quỳ trước tôn nhan
Chúa là Đấng dựng nên ta. Bởi chính Người là Thiên Chúa ta thờ, còn ta là dân
Người lãnh đạo, là đoàn chiên tay Người dẫn dắt” (Tv 95:6-7a). Trong Mùa Chay,
chúng ta thường xuyên được nhắc nhở câu này: “Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe
tiếng Chúa phán: Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa
trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù
đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95:7b-9). Và Thánh Phaolô cũng đã xác định: “Đây
thời kỳ Chúa thi ân, Thời gian cứu độ dành phần cho ta” (2 Cr 6:2).
Khi đề cập Mơ-ri-va và
Ma-xa tức là nhắc nhở chúng ta “đừng gây sự và thử thách Thiên Chúa”. Không dám
làm vậy là chúng ta bắt đầu tin Chúa hiện hữu. Niềm tin là khởi đầu của mọi
thứ: Tin Chúa (tín thác) → Thương người → Tha thứ (thương xót tha nhân) → Thánh
ân (được hưởng) → Trắng án (sạch tội) → Trường sinh (nên thánh, làm công dân
Nước Trời). Một chuỗi những chữ T kỳ diệu!
CƠN KHÁT TINH THẦN
Chấp nhận hay từ chối,
đó là tin. Đức tin thật kỳ diệu, vì đó là một trong các “mối phúc ngoại lệ”
(*), và vì đức tin có khả năng làm người ta nên công chính. Thánh Phaolô cho
biết: “Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với
Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vì chúng ta tin, nên Đức Giêsu
đã mở lối cho chúng ta vào hưởng ân sủng của Thiên Chúa, như chúng ta đang được
hiện nay; chúng ta lại còn tự hào về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Thiên
Chúa” (Rm 5:1-2).
Để dễ hiểu và có thể
hiểu thấu đáo, Thánh Phaolô giải thích: “Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không
phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ
Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta. Quả vậy, khi chúng ta không có sức làm
được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì
chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, hoạ may có ai dám chết vì
một người lương thiện chăng. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng
ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”
(Rm 5:8).
Khi đọc các thư của
Thánh Phaolô, chúng ta thấy điều gì cũng được diễn tả rất chi tiết, mạch lạc.
Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa quá vĩ đại, quá cao thượng, và chúng ta gọi
là Lòng Chúa Thương Xót. Đã có lần Chúa Giêsu minh định: “Không có tình thương
nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình”
(Ga 15:13). Thế nhưng đâu mấy ai! Tha thứ đã khó rồi chứ nói chi chết thay ai
đó. Đó là dạng khát “không giống ai”, rất khác lạ. Sẵn sàng tha thứ là làm
thánh rồi đấy!
Như một đoạn phim thú
vị về tính nhân bản và niềm khát khao, trình thuật Ga 4:5-42 nói về phụ nữ
Sa-ma-ri gặp Chúa Giêsu bên giếng nước và được Ngài ban cho loại nước trường
sinh bất tử, uống vô hết khát liền.
Thánh sử Gioan cho
biết: Một hôm, Chúa Giêsu đến thành Xy-kha thuộc xứ Sa-ma-ri, gần thửa đất ông
Gia-cóp đã cho con là ông Giuse và có giếng của ông Gia-cóp. Ngài đi đường mỏi
mệt nên ngồi ngay xuống bờ giếng, còn các môn đệ vào thành mua thức ăn, vả lại
lúc đó khoảng mười hai giờ trưa, nắng như lửa thiêu.
Lúc đó có một người
phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giêsu xin chị chút nước uống. Chị ngạc nhiên:
“Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống
sao?”. (Vì kính trọng Chúa Giêsu khi dịch Kinh Thánh thôi, chứ Chúa Giêsu lúc
đó còn trẻ măng, nếu là người Việt thì chắc là phụ nữ ngoại giáo kia sẽ dùng
hai đại từ là Anh và Em hoặc Tôi). Tại sao chị ấy ngạc nhiên? Vì thời đó, người
Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giêsu xởi lởi: “Nếu chị
nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: ‘Cho tôi chút nước
uống’ thì hẳn chị ĐÃ xin, và người ấy ĐÃ ban cho chị nước hằng sống”. Chúa
Giêsu dùng thì quá khứ trong khi Ngài nói là thì hiện tại. Điều đó cho thấy
rằng những gì Ngài nói đều là sự thật, như Ngài khẳng định với Tổng trấn
Phi-la-tô: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: LÀM CHỨNG CHO
SỰ THẬT” (Ga 18:38).
Cô nàng vô danh người
Sa-ma-ri còn thắc mắc rằng Chúa Giêsu không có gầu, giếng lại sâu, làm gì có
được nước hằng sống mà cho. Chị không hiểu ý Chúa Giêsu. Rồi chị còn chứng minh
rằng tổ phụ Gia-cóp với cả con cháu và đàn gia súc cũng xài nước ở giếng này.
Đức Giêsu lại cười rất hiền, và trầm giọng: “Chị Hai à, ai uống nước này sẽ lại
khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở
thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời đấy”. Chị gãi
đầu và nghĩ thầm: “Chu choa! Lạ dữ nghen!”. Không lạ sao được, thế mới đáng nói
chứ!
Ôi chao, từ ngạc nhiên
này đến ngạc nhiên khác, hết mắt tròn rồi mắt dẹt, cứ miệng chữ A rồi mắt chữ
O, thế nhưng chắc hẳn chị cảm thấy tin tưởng “Anh Chàng” này nói thật, vì thấy
có gì đó rất kỳ lạ. Và chị nói với Đức Giêsu: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ
nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước”. Chả bảo cho hay không
cho, mà Ngài lại bảo chị ấy gọi chồng ra đó. Chị bảo rằng chị chỉ “mình ên”
thôi, không chồng con chi cả. Đức Giêsu cười và bảo chị nói đúng. Ngài nói “toạc
móng heo” là chị đã có tới năm đời chồng rồi, ngay cả người hiện đang sống với
chị cũng không phải là chồng. Chắc đó là dạng “sống thử” hoặc “nửa nhân ngãi,
nửa vợ chồng” đây. Chị hết hồn hết vía vì thấy Chúa Giêsu không phải thầy bói
mà nói trúng phoóc. Ngại thì có ngại, nhưng chị cũng phải công nhận ngay trước
mặt Chúa Giêsu: “Ông ơi, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ”.
Và không chỉ có vậy,
Chúa Giêsu còn nói điều “ngược đời” lắm. Ngài bảo không được thờ phượng Thiên
Chúa trên núi nữa, mà Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.
Kể ra chị Hai ngoại giáo này cũng dễ tiếp thu “cái mới” đấy. Tốt lắm!
Sau đó, Đức Giêsu
nghiêm sắc mặt và nói “dài hơi” chút xíu: “Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các
người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. Các
người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì
ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến, và chính là lúc này đây,
giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và
sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là
thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự
thật”. Chị Hai này hay thiệt, xem chừng giỏi Kinh Thánh nữa nghen, vì chị nghe
Ngài nói vậy mà không “théc méc” chi ráo trọi, rồi chị còn nghiêm túc thưa:
“Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan
báo cho chúng tôi mọi sự”. Trúng phoóc. Giỏi dữ nghen! Và Đức Giêsu nói ngay:
“Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây”. Chị này diễm phúc quá xá
luôn. Chị được gặp và nói chuyện với Đức Kitô. Sướng rơn!
Câu chuyện vừa tới đó
thì đúng lúc các môn đệ đi chợ về, lỉnh kỉnh đồ ăn và thức uống. Các ông ngạc
nhiên vì thấy Sư Phụ nói chuyện với một phụ nữ. Kỳ à nghen! Thế nhưng chẳng đệ
tử nào dám hỏi nửa lời.
Sau đó, người phụ nữ
phấn khởi đến nỗi bỏ vò nước lại, chạy vào thành và bảo người ta đến xem một
“Người Lạ”, rất giống Đấng Kitô. Chị này tự nguyện làm nhân chứng sống. Thế là
dân thành tuôn ra như trẩy hội. Được tận mắt thấy một “Dị Nhân” độc nhất vô nhị
là cơ hội ngàn vàng chứ ít gì. Lạ mà vui! Chắc là ai cũng rất phấn khởi vì thỏa
mãn niềm khát khao lâu nay, nhất là chị Hai ngoại giáo.
Đã quá trưa rồi, chắc
là ai cũng đói meo, thế nên các môn đệ thưa: “Bạch Thầy, xin mời Thầy dùng
bữa”. Ngài “bóng gió” với các ông: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em
không biết”. Các môn đệ lại gãi đầu và ngơ ngác nhìn nhau: “Đã có ai mang thức
ăn đến cho Thầy rồi chăng?”. Họ tưởng Sư Phụ no xôi chán chè rồi, chả cần gì
nữa. Các ông đâu ngờ Sư Phụ nói về loại “siêu lương thực” là THI HÀNH Ý CHÚA
CHA và HOÀN TẤT CÔNG TRÌNH CỨU ĐỘ. Thì phải vậy thôi, trò sao hơn thầy được,
bằng thầy cũng khá lắm rồi (x. Mt 10:24-25). Dĩ nhiên Ngài rất thông cảm cho
các đệ tử của mình thôi. Thuận ngôn nào cũng gây nghịch nhĩ!
Thánh sử Gioan cho
biết rằng, hôm đó có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đã tin vào Đức Giêsu, vì
lời người phụ nữ làm chứng: ÔNG ẤY NÓI VỚI TÔI MỌI VIỆC TÔI ĐÃ LÀM. Hiệu quả
nhãn tiền của việc làm chứng thật. Vâng, chỉ có Thiên Chúa mới THẤU SUỐT MỌI
SỰ, từ thuở hồng hoang tới tận thế, nói chi tới quá khứ và tương lai của một
con người (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2
Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc
23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6).
Ngày hôm đó, dân
Sa-ma-ri xin Ngài ở lại với họ, chắc hẳn Ngài rất vui nên đã ở lại đó hai ngày.
Và rồi số người tin lời Đức Giêsu còn tăng thêm nhiều. Họ bảo chị Hai ngoại
giáo: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi
đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian”. Chả có vấn đề gì,
chị Hai không hề buồn, chị chỉ muốn người ta cũng tin như chị thôi. Chúng ta là
những người được Chúa tuyển chọn, cách này hay cách khác – giáo sĩ, tu sĩ, cán
bộ hoặc hội viên các hội đoàn,… Liệu chúng ta có cảm thấy mắc cở, xấu hổ? Thiên
Chúa có tuyển chọn chị Hai ngoại giáo? (Chỉ có mỗi người TỰ TRẢ LỜI được thôi).
Khi đề cập niềm khát
khao, chúng ta còn nghe văng vẳng tiếng kêu thảm thiết của Chúa Giêsu từ trên
Thập Giá trên Đồi Sọ năm xưa: “Tôi khát!” (Ga 19:28). Đó là nỗi “khát tình”.
Ngài khát yêu thương, muốn thương xót mọi người, nhưng người ta không lưu ý.
Ngài còn có cái khát khác thường là “khát đau khổ”, Ngài bằng lòng uống “chén
đắng”, không chỉ vui vẻ uống mà còn say sưa uống. Thế mà chúng ta lại nhẫn tâm
đối xử tệ bạc với Ngài, chẳng khác bọn thủ ác cho Ngài nếm giấm chua (Ga
19:29), và ứng nghiệm lời tác giả Thánh Vịnh than thở thuở xưa: “Thay vì đồ ăn,
chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69:22).
Trong Mùa Chay, ước gì
mỗi người đều biết thực sự khát khao điều công chính, luôn tin kính Đức Kitô y
như chị Hai Sa-ma-ri và dân thành Xy-kha, đồng thời luôn xác tín: “Linh hồn con
khao khát Chúa Trời hằng sống” (Tv 42:3). Chị Hai và dân thành Xy-kha tin vào
“Người-Lạ” là rất hợp lý, là “đúng ý Chúa”. Chúng ta đều là tội nhân bất xứng,
không đáng tiếp cận Ngài, nhưng Ngài vẫn rộng lòng “hỉ xả” với chúng ta: “Nếu
như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3). Và tất nhiên
chúng ta không thể không “hỉ xả” với người khác.
Thánh LM Thomas
Aquinas (1225–1274, Tiến Sĩ Giáo Hội) đã soạn kinh nguyện chuẩn bị Thánh Lễ thế
này: “Con bệnh tật tìm đến Bác Sĩ Sự Sống, con không tinh tuyền tìm đến Giếng
Nước Lòng Thương Xót, con mù lòa tìm đến Ánh Sáng chói lọi đời đời, con nghèo
nàn và thiếu thốn tìm đến Chúa Tể Càn Khôn”. Ước gì chúng ta cũng có “cơn khát”
như thánh nhân!
Lạy Thiên Chúa là ĐẤNG
HẰNG SINH
con không biết xin
Ngài điều gì, chỉ xin Ngài là “tất cả của đời con”. Lạy Chúa các Chúa, xin giúp
con luôn biết khát Ơn Cứu Độ của Ngài (Tv 119:174), biết can đảm bỏ
chiếc-bình-tội-lỗi bên giếng-đời, dám đốt chiếc-áo-tội-lỗi-quá-khứ để mặc
chiếc-áo-tín-thác-mới-tinh, và xin Thần Khí Ngài tác động để con biết mau mắn
đáp lại lời kêu khát của Chúa Giêsu hiện thân nơi những con người bé nhỏ trên
đường đời mà con gặp. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa Cứu
Độ của nhân loại. Amen.
----
(*) Ngoài Tám Mối Phúc
“nòng cốt” (Mt 5:3-11; Lc 6:20-23), còn nhiều các “mối phúc” khác được đề cập
trong Kinh Thánh: Lc 7:22-23; Lc 11:28; Lc 14:15; Ga 20:29; Rm 4:7-8; Rm 14:22;
Tv 1:1-2; Tv 33:12; Tv 112:5-6; Tv 106:3; Tv 119:1-2; Tv 144:15; Tv 146:5; Cn
3:13; Cn 8:32; Cn 8:34; Hc 28:19; G 5:17; Is 56:2; Gr 17:7; Gc 1:12; Gc 5:11;
Kh 1:3; Kh 19:9; Kh 20:6.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng
Phượng
Bài Phúc âm hôm nay thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu và người đàn bà
Samaria chung quanh vấn đề ơn cứu rỗi, và nước trường sinh. Đây là trang Phúc
âm hồn nhiên và đẹp đẽ nhất. Lần này Chúa Giêsu không giảng trước một cử tọa
đông đúc, nhưng Ngài nói chuyện với một người phụ nữ ngoại quốc về thân thế, và
sự nghiệp của Chúa Kitô. Đọc đoạn Phúc âm này, ta thấy Chúa Giêsu muốn nhấn
mạnh đến những điểm nổi bật sau đây:
1.
Chúa Giêsu muốn chúng ta sống tinh thần hợp nhất yêu thương:
Để sống hợp nhất yêu
thương, như Chúa Giêsu: Chúng ta không là người định kiến, không kỳ thị chủng
tộc, không phân biệt giai cấp, trái lại sống bao dung, quảng đại, coi mọi người
đều là anh em một cha trên trời.
Thái độ tự nhiên của Chúa Chúa Giêsu đã làm cho người đàn bà Samaria ngạc
nhiên. “Tại sao ông là người Do Thái mà lại xin nước uống với tôi là người xứ
Samaria? Vì người Do Thái không hề giao thiệp với người Samaria”.
Thái độ của Chúa Giêsu cũng làm các môn đệ ngạc nhiên. Họ hỏi nhau: “Tại sao
Thầy mình lại nói chuyện với phụ nữ ngoại quốc”. Vì người Do Thái thời bấy giờ
ít giao thiệp với người ngoại quốc.
Ngày nay, khi đọc chuyện này, có lẽ chúng ta cũng hổ thẹn với lương tâm. Chúng
ta đừng trách người Do Thái hay các môn đệ quá hẹp hòi, ích kỷ, kỳ thị chủng
tộc. Nhìn vào người Việt Nam chúng ta, nhìn vào các cộng đồng công giáo trong
các xứ đạo, và nhìn vào chính bản thân mỗi người chúng ta, đâu đâu chúng ta
cũng thấy có kỳ thị, thiên kiến và chia rẽ. Chia rẽ giữa Bắc và Nam, chia rẽ
giữa cũ và mới, chia rẽ giữa giàu và nghèo,…Rồi người theo khuynh hướng này, kẻ
thích khuynh hướng kia. Đúng là “trăm người trăm ý”. Đúng là “lắm thầy thối
ma”. Nếu không vì Chúa vì Giáo hội của Chúa, vì lợi ích chung mà hinh sinh từ
bỏ ý riêng thì khó có thể làm được việc gì nên chuyện.
Hơn nữa, sở dĩ có chia rẽ là vì thiếu tin tưởng và tìm hiểu nhau. Nếu mỗi người
biết để ra một bên những thành kiến của mình, mà xích lại gần nhau để đối thoại
với tha nhân trong tinh thần Phúc âm thì không còn hố sâu chia rẽ nữa.
2.
Do đó, để sống một đời sống tốt đẹp, Chúa muốn chúng ta sống hiệp nhất yêu
thương. Ngoài ra, Chúa còn muốn chúng ta hợp nhất trong vấn đề thờ tự và phụng
vụ:
Người Do Thái và người Samaria từ xa xưa vốn không hợp nhau ở nhiều điều, kể cả
vấn đề tôn giáo. Tuy cũng tôn thờ một Đức Giavê đấy; nhưng người Do Thái bảo
phải thờ Chúa ở Giêrusalem mới đúng; còn người Samaria bảo phải thờ Thiên Chúa
ở Garazim mới đúng. Bởi thế, người đàn bà nơi bờ giếng Giacob mới thắc mắc với
Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, phải thờ Chúa ở đâu mới đúng?”. Chúa Giêsu trả lời:
“Bây giờ không còn thờ Chúa ở đây hay ở kia, mà phải thờ Chúa torng tinh thần
và chân lý”.
Đây không phải là một câu chuyện xa xưa. Ngày nay, chúng ta còn thấy cái quan
niệm hẹp hhòi đó torng Giáo Hội. Người thì đòi làm lễ bằng tiếng Latinh, người
thì thích làm lễ bằng tiếng bản xứ, người thì muốn phụ nữ cũng được làm Linh
mục, người thì không muốn. Hơn nữa, có người thích chọn nhà thờ này, người khác
chỉ chọn nhà thờ kia. Có kẻ thích Linh mục già, có kẻ thích Linh mục trẻ, kẻ ưa
cha này, kẻ chuộng cha kia,…Toàn là chuyện nhố nhăng.
Điều cốt yếu đã được Chúa Giêsu nói rõ trong Phúc âm hôm nay: “Đã đến giờ và
chính là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thật sẽ tôn thờ Chúa Cha trong tinh
thần và chân lý…”(Jn 4,23). Như thế, theo Chúa là theo với cả đời sống của ta
với hết lòng TIN – CẬY – MẾN, chứ không luẩn quẩn với nhà thờ này, nhà thờ nọ,
Linh mục này, Linh mục kia,…
Thánh Phaolô viết: “Như vậy, Chúa Kitô bị phân chia rồi sao?”. Chúa Kitô phải
là một chứ không phải Chúa Kitô bị phân
chia.
Và Chúa cũng muốn những kẻ theo Chúa phải hợp nhất với nhau nên một: “Lạy Cha,
xin cho chúng được hợp nhất với nhau nên một, như Cha ở trong Con, và như Con ở
trong Cha”.
Suy kỹ bài Phúc âm hôm nay, ta thấy Chúa Giêsu mời gọi chúng ta sống chiều sâu
đạo Chúa:
– Hãy làm cho thân xác chúng ta trở thành đền thờ xứng đáng của Chúa Thánh
Linh.
– Hãy làm cho đời sống chúng ta trở thành một ca khúc thờ phượng chân thật.
– Và hãy làm cho chúng ta thành Kitô hữu luôn biết yêu thương mọi người, chẳng
trừ ai.
.
Lm .Giuse Đinh Tất Quý
“Không còn phải vì lời
chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng người
thật là Ðấng cứu độ trần gian.”(Ga 4,42)
Câu chuyện trong bài
Tin Mừng hôm nay như thế nào thì chúng ta đã rõ. Giáo hội cố ý cho đọc cả câu
chuyện vì tính cách đặc biệt của nó. Qua câu truyện này, chúng ta có thể rút ra
được một bài học…rất phù hợp với Mùa Chay: Bài học về sự trở lại. Có thể nói
đây là một cuộc trở lại kiểu mẫu. Nội dung của một cuộc trở lại thường diễn
tiến như sau:
1.
Bắt đầu từ chỗ biết nhìn nhận quá khứ lỗi lầm của mình
Người đàn bà trong bài
trong bài hôm nay là một người tội lỗi với một quá khứ thật đáng ghê tởm. Trong
cái quá khứ đó chúng ta có thể tìm thấy một cuộc sống
chỉ có hiện tại mà
không có tương lai
chỉ có tình dục mà
không có Tình yêu
chỉ có hưởng thụ mà
không có phục vụ
chỉ có bay nhảy mà
không có trách nhiệm
Một quá khứ như thế
tất nhiên sẽ dẫn đến một hiện tại chẳng tốt đẹp gì. Cuộc sống của bà ta lúc này
chẳng khác gì cuộc sống của một nô lệ.
Rất may là bà ta được
gặp Chúa. Cuộc gặp gỡ không có dự tính từ trước nhưng lại đem đến những kết quả
thật lạ lùng. Chúa đã ấn một ngón tay vào đúng chỗ nhức nhối nhất trong cuộc
đời của bà, để rồi sau đó Chúa đưa bà vào cuộc sống mới. Lúc bị Chúa phê phán
về cuộc sống tội lỗi, bà ta đã không nói gì, bà ta im lặng chấp nhận.
Nhìn nhận mình có tội,
nhìn nhận tội lỗi của mình đó là bước đầu tiên và cũng là bước thật quan trọng
trên con đường trở lại.
2.
Tin vào tình thương của Chúa
Lúc đầu khi mới gặp
Chúa, chúng ta thấy thái độ của bà thật đanh đá:
– Ông là người Do Thái
mà lại xin nước uống với tôi là người Samaria sao?(Ga 4,9)
Người Do Thái không
giao tiếp với người Samaria. Có nhiều lý do nhưng lý quan trọng nhất vẫn là vì
hai bên không có cùng một cách biểu lộ lòng tin và nhất là không có sự nhất trí
với nhau về nơi Thiên Chúa ngự.
Nhờ cuộc gặp gỡ này mà
Chúa đã giải tỏa hết những lấn cấn mà bao lâu nay người ta đã vì đó mà bất hòa
với nhau:
– Đã đến giờ và chính
là lúc này những kẻ tôn thờ đích thực…sẽ thờ Thiên Chúa Cha trong Tinh thần và
trong Chân Lý (Ga 4,23).
Nhìn lại quá trình của
cuộc gặp gỡ, chúng ta thấy người đàn bà này đã có một chuyển biến rất rõ rệt
trong cách nhìn của bà đối với Chúa.
– Lúc đầu, đối với bà,
Chúa chỉ là một con người: “Ông là người Do Thái”(Ga 4,9)
– Sau khi Chúa bật mí
cho bà ta biết là Ngài biết rất rõ về đời tư của bà và nhất là khi Chúa tỏ ra
cảm thông với sự vất vả của bà cũng như sẵn sàng giúp bà thoát ra khỏi cuộc
sống cơ cực của hiện tại thì bà đã có một cái nhìn khác về Chúa, một cái nhìn
cao hơn “Quả thực Ngài là một vị Tiên tri”(Ga 4,19)
– Và kết cuộc thì thật
kỳ diệu: Sau khi Chúa chỉ cho bà cách thức để bà có thể tìm gặp được một Thiên
Chúa đích thực thì hình ảnh về một đấng Messia mà muôn dân đang mong đợi đã
thoáng hiện ra trong tâm trí của bà: “Tôi biết Đấng Messia mà người ta gọi là
Ki-tô sẽ đến và khi đến Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”(Ga 4,25)
3.
Sống cuộc sống mới mà mình đã tìm lại được
Bắt đầu bằng một thái
độ dứt khoát với quá khứ. Tin Mừng ghi rõ: “Bấy giờ người đàn bà bỏ vò nước
xuống”(Ga 4,28) Một số nhà chủ giải Kinh Thánh cho rằng việc này có một ý nghĩa
tượng trưng rất đặc biệt. Nó như một kết thúc cho một giai đoạn đã qua của một
cuộc đời và mở đầu cho một gian đoạn mới.
Tiếp theo Tin Mừng
ghi: Bà chạy về thành loan báo cho mọi người rằng
– Ra mà xem một người
đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Phải chăng Ông đó là Đức Ki-tô?(Ga
4,29)
Đó là bước thứ hai
trong cuộc sống mới: Bắt đầu sống cho Chúa bằng cách loan báo cho người ta biết
Ngài.
Và cuối cùng là kết
hợp với Ngài trong niềm tin để được cùng chia sẻ cuộc sống hạnh phúc của những
người tin Chúa:
– Giờ đây không phải
vì những lời chị kể mà chúng tôi tin, nhưng chính chúng tôi đã dược nghe lời
Người và chúng tôi biết Người thật là đấng Cứu Thế.(Ga 4,42)
Để kết thúc tôi xin
tặng anh chị em câu chuyện:
Một Linh mục dòng Tên
người Ailen, cha Doyle, nổi tiếng vì lòng hay giúp đỡ người khác và sự thánh thiện
của cha. Một buổi tối, sau khi giảng một bài về sự truyền giáo, ngài đi ra
đường và gặp một thiếu nữ. Ngài nói dịu dàng với họ:
– Con ạ, trời đã
khuya. Con chưa về nhà sao?
Rồi, với tâm hồn nhiệt
thành, Ngài nói tiếp:
– Đừng làm Chúa đau
khổ. Ngài yêu con.
Năm tháng trôi qua.
Vào một đêm nọ, có điện thoại của bề trên sai Ngài đi Dublin ngay lập tức, để
gặp một người nữ sắp bị hành hình vào sáng mai. Người phụ nữ này yêu cầu được
gặp Ngài. Ngài ra đi đến nơi lúc 5 giờ sáng, và được dẫn ngay tới phòng giam
của cô Fanny Cranbush, một cô gái bất lương đã bị kết án vì cộng tác với kẻ
khác để đầu độc nhiều người. Vừa thấy Linh mục, cô ấy quỳ gối và nói:
– Thưa cha, cảm ơn
Chúa vì Cha đã đến đây.
– Nhưng con ạ, Cha
chưa biết con, con cần gì?
– Cha không nhớ con
sao? Hai năm trước đây Cha đã gặp con trên đường phố Yarmouth vào một đêm tối.
Con là cô gái xấu nết, cả đời con là vậy. Cha đã nói với con: “Con ạ, trời đã
khuya. Con chưa về nhà sao? Ngài yêu con không? Ngài là ai? Con biết quá ít là
Ngài. Con chưa bao giờ cầu nguyện và chưa bao giờ được rửa tội. Nhiều tuần lễ,
con muốn lánh xa con đường tội lỗi, nhưng cái đói đã làm con phải phạm tội. Mỗi
ngày con càng lún sâu trong tội, đến độ giờ đây con sắp bị treo cổ. Con đã
tuyệt vọng, và không muốn gặp vị Linh mục nào. Nhưng rồi con nhớ lại lời cha đã
nói. Con khóc lên. Con ước muốn gặp Cha để nghe Cha con nói về Ngài Giêsu”.
Cha dạy giáo lý cho cô
ta với thời gian cho phép, trước khi rửa tội cho cô. Ngài lập một bàn thờ trong
phòng giam, dâng Thánh lễ, cho cô ta rước lễ lần đầu cũng là lần cuối. Trên
đường đi xử, cô thì thầm: “Thưa Cha, con quá đỗi hạnh phúc. Chúa Giêsu biết con
ăn năn hối lỗi vì đã xúc phạm đến Ngài. Con biết Chúa Giêsu hằng yêu mến con”.
Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Đói ăn khát uống là hậu
quả của lười biếng, bạo bệnh, hay do một quan niệm đầy ẩn ý như câu tục ngữ:
giầu hai con mắt, khó đôi bàn tay ? Hiểu, biết, là kiến thức được trau dồi như
tiền nhân chúng ta vẫn tự tin ví von: không thầy đố mày làm nên, hay khả năng
là do “trời phú” ? Thực ra, khao khát chung chung là khao khát được no đủ, được
khỏe mạnh, hoặc hạnh phúc là không còn đau khổ, mọi nhu cầu được thỏa mãn, được
đáp ứng. Biết bao công khó làm nên sự nghiệp, đầy dẫy kinh nghiệm được chia sẻ,
nhưng các đấng bậc thì chưa an tâm về khả năng linh hội của con cháu, trong khi
thao thức hạnh phúc thì luôn dư thừa.
Cuộc gặp gỡ như tình
cờ giữa Đức Giêsu và người thiếu phụ bên bờ giếng Gia-cób, hẳn sẽ rất phong phú
cho nhiều tâm hồn, mỗi khi chúng ta đặt tình yêu thương trong đối thoại, trong
xã giao hàng ngày. Người thiếu phụ Samaria tới giếng kín nước sử dụng là nhu
cầu tự nhiên, Đức Giêsu đến bên giếng nước vì đi đường nắng nóng. Ngoài nhu cầu
tự nhiên, tâm hồn người thiếu phụ còn khát một thứ mà bấy lâu chị hằng tìm
kiếm, đó là khát bình an, khát sự sống. Ở bên bờ giếng lúc trời nóng bức, Đức
Giêsu sau đó đã chia sẻ cho các môn đệ biết Ngài thực sự có một cơn khát siêu
nhiên, đó là khát mong thực thi thánh ý Chúa Cha, cứu giúp được nhiều tâm hồn.
Trong binh pháp của
Tôn Tử có câu: không kế sách, lấy chi giải bế tắc. Đức Giêsu, người thiếu phụ,
các môn đệ, và cả chúng ta hôm nay, tuy không làm chính trị, nhưng tất cả vẫn
đồng ý rằng để thành đạt ở đời là do biết chăm chỉ làm việc, là nhờ có kế
hoạch, có phương pháp làm việc, có cân nhắc bàn hỏi. Đức Giêsu không dùng mưu,
không dùng sức, bằng sự thân thiện, khiêm tốn, đầy tình người, Ngài nói: “xin
chị cho tôi uống nước”. Người thiếu phụ, không mặc cảm tự ti về thân phận,
không tự mãn vì có gầu, có điều kiện để múc nước, đúng hơn là vì chị tôn trọng
Đấng đang mở lời với chị. “Sao thế ! Ông là người Do-thái mà lại xin nước uống
với tôi là người xứ Samaria”?
Sách có câu: sắc đẹp,
người tài, chỉ thu hút được ánh mắt, còn phẩm giá, tính chất bên trong, mới thu
phục được tâm hồn. Nhu cầu được no đủ, được hết khát, được bình an hạnh phúc,
nhu cầu được hoàn thiện, sẽ là người có ích, không phải là xa vời, khi chúng ta
biết chân thành cởi mở, khiêm tốn đối thoại, dù hoàn cảnh không mấy thuận lợi.
Cái nết đánh chết cái đẹp, hay nói phải, củ cải cũng nghe, đó chính là lợi thế
để thu phục lòng người, để được thêm bạn bớt thù. Khi Đức Giêsu nói đến thứ
nước trường sinh, thứ nước mà ai uống sẽ không còn phải khát nữa, người thiếu
phụ đã bừng tỉnh, vì từ sâu thẳm tâm hồn chị đã từng khát sự bình an, khát sự
sống thật, chỉ thế thôi !
Rất có thể người thiếu
phụ Samaria chưa hề nghe nói tới thứ nước “kỳ lạ” mà khi uống rồi, sẽ không còn
khát nữa. Có thể chị ấy và nhiều người chúng ta vẫn lẫn lộn thứ hạnh phúc tự
nhiên và hạnh phúc siêu nhiên. Thật may mắn cho người thiếu phụ gặp gỡ và có
được lời giải thích hữu hiệu về cơn khát tự nhiên và cơn khát siêu nhiên hằng
thổn thức trong lòng chị. Nếu không được sự ân cần của Chúa Giêsu, thiếu phụ
Samaria đó có tìm kiếm và sống với nhiều đời chồng khác, chị ta vẫn không thể
giải thoát được cơn khát khao lớn trong tâm hồn của chị. Chính Đức Kitô mới chỉ
cho người thiếu phụ Samaria hiểu mạch nước sự sống thật ở đâu, và cần phải làm
gì để chị có mãi sự sống hạnh phúc đó.
Chỉ khi có niềm tin,
tâm hồn người thiếu phụ mới được vui sướng hân hoan, chị bỏ vò nước, mau chóng
chạy về loan tin mừng cho dân làng đến gặp gỡ, cùng tuyên xưng Đức Giêsu là
Đấng Kitô. Tiến trình để chúng ta hôm nay biết khát tình yêu, khát sự sống
thật, sẽ không khác gì thiếu phụ Samaria năm xưa tìm được mạch nước hằng sống,
ta cần phải khiêm tốn, đối thoại, xin Đức Giêsu chỉ đường dẫn lối. Điều làm cho
người thiếu phụ hôm xưa “hết khát” không phải là tìm được tiền của vật chất,
tìm được ông chồng lý tưởng, mà là tâm hồn chị ta vui, bình an, vì chị sẽ có
mãi lời giáo huấn của Chúa Giêsu trong cuộc đời còn lại của chị.
Cuộc sống này, người
ta học cách để kiếm tiền vì vẫn được xem là nhu cầu, nên không mấy ai than là
khó, nhưng học hỏi để rồi biết sống có tình, có nghĩa, bao giờ cũng khó hơn, vì
ta vẫn xem đó thuộc phạm vi tinh thần. Người Kitô hữu gặp Chúa thì dễ hơn người
thiếu phụ Samaria vì chúng ta không vướng phải thứ kỳ thị giữa hai sắc tộc.
Nhưng để đối thoại, nhận ra Chúa, hiểu và sống thánh ý Chúa sẽ không tùy thuộc
đạo gốc hay đạo mới, mà hệ tại chúng ta có đủ khiêm tốn để cậy dựa vào sức mạnh
Chúa như thế nào.
Tục ngữ có câu: thương
cho roi cho vọt, Chúa Giêsu không cho roi, không quở trách người thiếu phụ,
Ngài đối thoại và làm cho người thiếu phụ biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương,
hiện diện và cứu giúp kẻ tội lỗi, sám hối. Có thể thiếu sự khiêm tốn, người ta
sẽ dễ vấp váp, tự mãn đầy thách thức kỳ thị như kiểu nói: “giếng thì sâu mà ông
lại không có gầu, vậy Ngài lấy đâu ra nước để cho ?” Hy vọng khi tin Đức Giêsu
là Thiên Chúa, chúng ta sẽ tin vào quyền năng, tình yêu thương của Đức Giêsu
cách tuyệt đối hơn. Đức Giêsu đã giúp người thiếu phụ thỏa mãn được cơn khát
triền miên, đó là khát bình an tâm hồn, khát sự sống đời đời, Ngài sẽ còn thỏa
mãn cho tất cả những ai tin Ngài là mạch nước ban sự sống. Amen.
.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Chúa ngồi bên giếng
nước trong,
Nơi thành ngoại
giáo, trong lòng hân hoan.
Một người phụ nữ
lo toan,
Khoảng giờ thứ
sáu, hoàn toàn vắng tanh.
Tông đồ môn đệ vào
thành,
Một mình xách
nước, giờ lành tránh dân.
Chúa xin nước uống
cận lân,
Ngạc nhiên ‘sao
thế’, khác phần dân ta.
Ông người Do-thái
kia mà,
Không quyền giao
thiệp, ông cha bao đời.
Ta cho nước uống
bởi trời,
Trường sinh mạch
sống, mọi thời Chúa ban.
Giếng sâu nước cạn
khô khan,
Lấy đâu nước đó,
đổ tràn khắp nơi.
Cho tôi nước uống
từ trời,
Hồn thiêng giải
khát, tuyệt vời biết bao.
Mở lòng đón nhận
dạt dào,
Phụng thờ Thiên
Chúa, khát khao tâm hồn
Tinh thần chân lý
kính tôn,
Niềm tin phó
thác, ơn khôn ở đời.
Nước chính là nguồn
sống. Tất cả mọi thụ tạo cần nước để sinh sống và phát triển. Từ những thực vật
nhỏ li ti đến những loài động vật to lớn đều cần có nguồn nước để tiếp tục sinh
xôi nẩy nở. Vì nước là một trong những nguyên tố chính để nuôi sống vạn vật.
Đối với dân du mục ngày xưa, họ thường quây quần bên suối nước hoặc nơi có
giếng nước. Đây cũng là nơi mọi người trong xóm làng tụ họp, gặp gỡ và truyện
trò thông tin.
Câu truyện dài của
người phụ nữ Samaritanô gặp gỡ Chúa Giêsu nơi giếng nước giúp chúng ta hiểu
được sự quan trọng của nguồn nước. Chúa Giêsu có cơ hội trò truyện với người
phụ nữ bên giếng nước. Chúa rất tế nhị trong đối thoại. Chúa gợi truyện xin cô
ta cho nước uống và từ đó Chúa tìm cách dẫn cô ta ra khỏi con đường lầm lạc.
Chúa cho cô ta nguồn nước trường sinh. Uống vào sẽ không bao giờ khát. Đó là
nhận biết lòng nhân hậu của Chúa và sống trong ngồn chân lý đích thực.
Cuộc sống có biết bao
khát khao. Người thì khao khát chân lý, kẻ thì khao khát tự do, công bình,
người thì khao khát yêu thương và hạnh phúc. Tất cả những khao khát đó đều là
biểu hiện của một khát vọng thâm sâu. Khao khát về chân, thiện và mỹ.
Từ khát nước bên bờ
giếng, Chúa đã dẫn dắt người phụ nữ khát khao chân lý. Chúa giúp cô ta nhìn
được con người thật của mình. Những khoái lạc trong cuộc sống bon chen càng làm
cô khát. Khát khao một cuộc sống chân thật và an bình. Cô đã tìm thấy đường về
để tôn thờ một Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Chúa đã khơi dạy tâm hồn
cô ta như khơi dạy một mảnh đất khô cằn. Có xới, có đau và có xót xa, nhưng
nguồn nước mới có thể thấm nhuần và trổ sinh bông trái tươi tốt.
Mùa chay tiếp tục kêu
gọi chúng ta tìm về nguồn. Nguồn của lòng từ bi thương xót. Nguồn của sự bình
an. Chúa Giêsu đã nói với người phụ nữ: “Nếu cô nhận biết ân huệ của Thiên
Chúa… Chúa sẽ ban cho cô nước hằng sống”. Cô đã nhận biết ân huệ và cô đã đáp
trả ân huệ. Cô bắt đầu ra đi loan tin vui cho mọi người. Chúng ta đã lãnh nhận
biết bao ân huệ Chúa ban, chúng ta hãy tiếp tục ra đi loan tin vui ơn cứu độ
cho mọi người.
.
.
Lm. JB. Nguyễn Minh
Hùng
Tin Mừng theo thánh
Gioan cho biết, người đàn bà có sáu đời chồng, ra giếng múc nước vào buổi trưa,
gặp Chúa Giêsu và được Chúa đánh thức tâm hồn, đó là người đàn bà xứ
Samaria.
Samaria trước là vùng
đất Do thái, vì thế, những người sinh sống tại đây cũng là người gốc Do thái.
Nhưng qua nhiều đổi thay của đất nước, nhất là trong những lần bị đưa đi lưu
đày, nhiều lần bị đặt dước ách đô hộ của các đế quốc, làm cho lịch sử biến
chuyển không ít… Người Do thái ở Samaria không còn giữ được nguyên gốc Do thái.
Họ ngày càng có nhiều mối dây liên hệ với dân ngoại. Do đó, người Samaria luôn
luôn bị người Do thái khinh miệt, tránh mọi liên hệ gần gũi và tiếp xúc.
Nhưng Chúa Giêsu thì
không. Người đã không đứng chung hàng ngũ với những người đồng hương để lên án
con người, mà luôn ý thức vai trò cứu rỗi của mình: đưa con người từ tội lỗi về
lại với sự thánh thiện.
Tin Mừng theo thánh
Gioan viết: “Đức Giêsu tới thành gọi là Kikha thuộc xứ Samaria, gần phần đất
Giacóp đã cho con là Giuse, ở đó có giếng Giacóp, Đức Giêsu đi đường mệt, nên
ngồi nghỉ trên miệng giếng, lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu”(Ga 4,5-6).
Bỗng dưng một phụ nữ
ra giếng múc nước. Chúa nhìn thấy tâm hồn chị. Chúa biết chị luôn sống trong
mặc cảm của tội, bởi chị đã có đến “năm đời chồng và hiện người đang sống với
chị không phải là chồng chị”. Nhưng Người cũng nhìn thấy khả năng đón nhận chân
lý nơi chị, vì thế, chính Chúa lên tiếng trước: “Cho tôi chút nước uống”.
Chúa phá tan sự nghi
kỵ. Chúa đã làm khiến ngạc nhiên không ít. Bởi không phải chỉ vì “Ông là người
Do thái mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống”. Nhưng nếu theo
dõi hết trình tự của câu chuyện, ta sẽ thấy, Chúa khiến chị phụ nữ phải đi từ
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.
Đúng hơn, khi đối
thoại với Chúa Giêsu, người phụ nữ Samaria đã phải chuyển từ ngạc nhiên sơ khởi
dần dần đi lên đến đỉnh điểm của đức tin.
Chỉ cần một chi tiết
sau, đủ chứng minh tình cảm biến đổi từ thấp lên cao dần của chị: Khởi đầu chị
gọi Chúa là “ông”, rồi chuyển sang gọi là “ngài”, kế đến là “đấng tiên tri”,
cuối cùng là “Đấng Kitô”.
Chúa làm thay đổi hoàn
toàn tình thế: Chúa, người xin, trở thành người cho; chị phụ nữ, người được
xin, trở thành kẻ đón nhận.
Một loạt những lời nói
của Chúa Giêsu đã biến chính Người thành Đấng trao ban, còn chị phụ nữ thành
người thụ nhận:
– “Nếu chị nhận ra ân
huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với chị: cho tôi chút nước, thì hẳn chị
đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng sống” (Ga 4,10).
– “Ai uống nước tôi
cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy
một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4,14).
– “Đã đến giờ và chính
là lúc này, những kẻ tôn thờ đích thực, sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân
lý. Đó chính là những người tôn thờ mà Chúa Cha muốn” (Ga 4, 23).
– Thiên Chúa là Thần
Khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật (Ga
4, 34).
– Và sau hết, như một
đoạn kết có hậu, một đoạn kết tất yếu phải có, Chúa Giêsu dứt khoát chỉ cho chị
để chị nhận ra “Chân Lý” mà chị cần gặp, chị phải gặp. “Chân lý” ấy không phải
ai khác mà là chính Chúa, Đấng đã tự mình tìm đến với chị: “Đấng Mêsia chính là
Ta, Người đang nói với chị đây” (Ga 4, 26).
Bất cứ ai, khi được
Chúa chạm đến, với điều kiện người ấy phải chấp nhận sự thật về mình, chấp nhận
vạch trần con người tội lỗi của mình, đều được biến đổi. Một khi đã được biến
đổi, người ấy lập tức trở thành chứng nhân của Chúa, chứng nhân của tình yêu
tha thứ mà Chúa ban cho mình.
1.
BIẾN ĐỔI:
Người phụ nữ Samaria
chắc chắn đã phải giật thót mình khi “bị” một người xa lạ đánh đúng vào thái độ
đùa nghịch với đạo đức, với luân lý mà chị đã quen sống từ trước đến nay.
Chị đã thật sự nhận ra
mình trong phút chốc khi chị được Chúa soi sáng.
Không ai có thể thật
sự thấy mình, cho đến khi soi mình trong sự hiện diện của Thiên Chúa.
Chị phụ nữ đã được
Chúa buộc phải nhìn vào Chúa để từ đây, chị biến đổi chính mình.
Cú “giật mình” đã phải
làm cho chị nhanh chóng thốt lên: “Tôi thấy ngài thật là một tiên tri…” (Ga 4,
19).
2.
CHỨNG NHÂN:
Thánh Gioan đã không
bỏ qua chi tiết chị phụ nữ “bỏ vò nước lại” ngay tại chỗ chị đã gặp Chúa Giêsu.
Tại sao lại bỏ vò nước? hành động này, tuy nhỏ, lại nói lên nhiều ý nghĩa lớn:
– Sự biến đổi ngoạn
mục trong chị đã làm cho chị phải dẹp những gì là cồng kềnh vướng víu, để lập
tức ra đi trong nhẹ nhỏm, trong thanh thoát.
– Sự biến đổi ấy đã
làm cho chị sung sướng đến độ không còn nhớ việc ban đầu của mình.
Điều duy nhất quang
trọng lúc này là chạm đến chân lý, là khám phá tận căn con người hèn hạ của
mình, nhằm chứng minh với mọi người Đấng đã giúp mình khám phá chính bản thân
mình.
– Sự biến đổi đã thôi
thúc chị ra đi với “tốc độ”, ra đi càng nhanh càng tốt.
Chị nóng lòng, không
phải với việc múc nước nữa, nhưng là làm sao phải hô thật to, nói thật nhiều
cho mọi người biết Đấng Tiên Tri và chạm đến Người, như chính mình đã được
biết, đã được chạm đến.
– Chị “bỏ lại” để chị
còn quay lại. “Bỏ lại” là lý do tốt nhất để còn được quay lại.
Bắt đầu từ Chúa Giêsu,
chị khám phá sự thật về mình.
Bắt đầu từ Chúa Giêsu
chị biến đổi chính mình.
Bắt đầu từ Chúa Giêsu,
chị ra đi loan báo ơn tái sinh.
Và rồi bắt đầu từ Chúa
Giêsu, chị quay lại với Chúa Giêsu.
Chúa vẫn yêu thích tìm
đến cùng chúng ta. Chúa muốn chúng ta mở lòng đón Chúa để được tái sinh và biến
đổi đời mình.
Chúng ta hãy làm như
chị người Samaria, đó là mềm lòng để Chúa uốn nắn. Từ nay ta sẽ trở về, biết
chối từ quá khứ lầm lỡ đển vươn tới tương lai thánh thiện trong Chúa.
.
AM. Trần Bình An
Giữa mênh mông đồi núi
nóng bỏng của vùng sa mạc Negev ở miền nam Israel, chốc chốc lại hiện ra những
ốc đảo, những nhà kính trồng rau tươi tốt, những cánh đồng mầu xanh mát mắt của
cây trái trĩu cành.
Nguồn nước tự nhiên
như biển hồ nước ngọt Galilee và nước ngầm đang ngày càng cạn kiệt; lượng mưa
giảm và không bù được lượng nước bốc hơi. Người Israel đã bù đắp sự thiếu hụt
này chủ yếu bằng các nhà máy lọc nước biển; tái chế nước thải; quản lý, sử dụng
nước hiệu quả; phát triển các công nghệ về nước và nâng cao nhận thức của người
dân về vấn đề nước.
Nằm cách Tel Aviv 50
km về phía bắc, bên bờ Địa Trung hải là nhà máy khử mặn nước biển Hadera có
công suất 127 triệu m3 nước ngọt chất lượng cao mỗi năm. Đây là tổ hợp lớn nhất
trong bốn nhà máy sản xuất nước sinh hoạt từ nước biển ở Israel.
Ông Abraham Tenne, phụ
trách lĩnh vực khử mặn nước biển thuộc Cơ quan quản lý nước (Water Authority)
của chính phủ Israel, cho biết nhà máy Hadera sử dụng điện để xử lý nước biển
theo hai chu trình, trong đó áp dụng công nghệ màng lọc nhiều lớp thẩm thấu
nước ngọt, thải muối trở lại biển. Nước lọc từ các nhà máy khử mặn này còn được
bổ sung nhiều khoáng chất có lợi cho sức khỏe, sau đó được cung cấp làm nước sinh
hoạt cho cả nước theo mạng lưới đường ống nước quốc gia.
Tuy giá thành nước khử
mặn của Israel vào hàng thấp nhất thế giới, chỉ 0,55 USD (hơn 11.000 VND)/m3,
nhưng chi phí như vậy cũng rất lớn, không thể ào ạt xây thêm các nhà máy khử
mặn. Do vậy biện pháp hiệu quả tiếp theo là tái chế nước sinh hoạt.
Với công suất mỗi ngày
xử lý 370.000 m3 nước thải, Shafdan là nhà máy lớn nhất trong hơn 100 tổ hợp
tái chế nước thải sinh hoạt ở Israel. Nước và chất thải của 2,3 triệu dân ở 23
thành phố, khu dân cư vùng Gush Dan được dẫn về nhà máy Shafdan qua mạng lưới
đường ống lớn. Ngoài nước, mỗi ngày còn có hơn 40 tấn cặn được xử lý thành phân
bón cung cấp miễn phí cho nông dân. Các kỹ sư ở tổ hợp Shafdan đã không đùa khi
nói rằng mỗi giọt nước ở Israel được sử dụng hai lần.
Chính người Israel đã
sáng tạo ra công nghệ tưới nước nhỏ giọt, áp dụng vào nông nghiệp trong nước từ
giữa thập kỷ 1970. Ngày nay, 100% mùa màng ở Israel được tưới nước, trong đó
75% được tưới theo phương pháp nhỏ giọt. Hệ thống nhỏ giọt không chỉ tưới nước,
mà còn dẫn phân bón, thuốc trừ sâu, trừ cỏ đến tận rễ cây, như lời một nông dân
vùng sa mạc Negev nói: “Đưa vào tận miệng; tưới cây chứ không tưới đất.” Nhờ
phương pháp tưới tiên tiến, từ năm 1975 đến 2010, sản lượng nông nghiệp ở
Israel đã tăng 12 lần, nhưng lượng nước tưới không tăng. Áp dụng công nghệ tưới
nhỏ giọt, năng suất cây trồng ở Israel tăng gấp đôi và hơn 80% các nông phẩm từ
phương pháp này được xuất khẩu. (Mai Hương, Israel: Những giải pháp cho một đất
nước khô cằn)
Nước là tài nguyên
sống còn của Israel giữa vùng cận sa mạc cháy bỏng. Nên rất có ý nghĩa khi Đức
Giêsu muốn dùng nước để ám chỉ phương tiện cứu vãn cuộc sống viên mãn, trong
Tin Mừng Chúa nhật thứ ba Mùa Chay. Từ xưa, Cựu Ước từng tôn xưng Thiên Chúa là
suối nguồn sống (Tv 36, 9) và là mạch nước trường sinh (Gr 17, 13). Qua câu
chuyện với một phụ nữ Samaria, Đức Giêsu đã dẫn dắt chị và tất cả mọi người đến
Nước Trường Sinh.
Ban cho ai thành khẩn,
khiêm tốn
“Ở đấy, có giếng của
ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào
khoảng mười hai giờ trưa.” Chi tiết tường thuật rất chính xác về trạng thái,
không gian và thời gian, cho biết Đức Giêsu đến giếng trước, chờ đợi người nào
đến kín, để xin nước giải khát. Người luôn chủ động chờ đợi và chủ động gần
gũi, cũng như luôn ân cần chờ đợi bên ngoài cánh cửa tấm lòng mỗi con người.
“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ được mở cho.
Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho.” (Mt
7-8)
Hoá giải sự mâu thuẫn
dân tộc, bước qua sự lãnh đạm, Đức Giêsu gây thiện cảm, khéo léo hoán chuyển
vai trò, từ người đi xin thành người cho đi, dịu dàng dẫn dắt người phụ nữ vào
chủ đề : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị:
“Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy ban cho chị nước hằng
sống.” Ban đầu, người phụ nữ còn lầm lẫn hai thứ nước, sau hiểu ra, liền mau
mắn van xin: “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy,…”
Ban dồi dào nhưng
không
“Nếu chị nhận ra ân
huệ Thiên Chúa ban.” Đức Giêsu đã khơi mào ơn Chúa luôn sẵn sàng trao ban. Chỉ
cần nhận ra hồng ân Chúa ban nhưng không, để xứng đáng lãnh nhận. “Ai khát, hãy
đến với tôi, ai tin vào tôi, hãy đến mà uống!”Như Kinh Thánh đã nói: Từ lòng
Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống. (Ga 7, 37-38)
Dân Do Thái trong sa
mạc đã yêu cầu ông Môsê: “Xin cho chúng tôi nước để chúng tôi uống.” (Xh 17, 2)
Chúa phán ông lấy gậy đập vào một tảng đá, sẽ vọt nước ra cho dân. Nay phụ nữ
Samari cũng xin như vậy, Đức Giêsu liền rộng lượng dào dạt trao ban. Khiến chị
hân hoan, bỏ lại vò nước, bỏ lại những gì vướng víu cõi trần, những cám dỗ, dục
vọng, chạy về báo tin vui cho dân làng.
Nước trường sinh dồi
dào, mãnh liệt, tâm hồn thanh thoát, Kitô hữu không còn khao khát sự đời hư vong.
“Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng, vì Thiên Chúa đã đổ tình
yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.” (Rm
5, 5)
Ban sự sống vĩnh cửu
Nước trường sinh còn
là nguồn mạch sự sống đời. Nhờ vậy, không quyền lực đen tối nào có thể chia lìa
người Kitô hữu ra khỏi vòng tay yêu thương của Thiên Chúa.“Cho dầu là sự chết
hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất
cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác,
không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức
Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8, 38-39)
Tâm hồn thấm đẫm nước
trường sinh, chị Samaria công khai tuyên xưng đức tin:“Tôi biết Ðấng Mêsia, gọi
là Ðức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”
Rồi sau đó, chị trở nên chứng nhân Tin Mừng cho cả dân làng. Họ được mời gọi
đến đón rước Đức Giêsu. “Số người tin vì lời Ðức Giêsu nói còn đông hơn nữa.”
Người dừng chân lưu lại giảng dạy hai ngày liền.
“Xin nước bà
Samaritana, mượn lừa cỡi vào thành Jerusalem, mượn thuyền ngồi giảng, mượn
phòng lập phép Thánh Thể, nhìn đồng tiền bà góa bỏ vào hòm cúng; chủ nhân đâu
ngờ việc không đâu mà mình được hân hạnh đến thế!” (Đường Hy Vọng, số
825)
Lạy Chúa Giêsu, xin
giải thoát chúng con khỏi những cơn khát của cải, danh vọng, thèm muốn những
thứ phù vân, mà không bao giờ cảm thấy thoả mãn. Xin Chúa thương ban chúng con
nước trường sinh, để được tỉnh ngộ, buông bỏ mọi sự, vinh hạnh rước Chúa vào
tâm hồn.
Khấn xin Mẹ Maria cầu
bầu cho chúng con sáng suốt phân biệt đâu là sự thật, đâu là chân lý trong đời,
để chúng con biết chọn Chúa, đón nhận nguồn nước trường sinh, trở nên chứng
nhân của Tin Mừng giữa thế gian. Amen.
.
JM. Lam Thy
Suy niệm bài đọc 1 hôm
nay (CN III/MC-A – Xh 17, 3-7), mớI thấy nước cần cho sự sống con người như thế
nào. Dân Do-thái được giải thoát khỏi ách nô lệ Ai-cập, đã nghe lời ngôn sứ
Mô-sê mà “đi hết chặng này tới chặng khác” băng qua sa mạc. Khi “đóng trại ở Rơ-phi-đim,
nhưng tại đấy không có nước cho dân uống. Dân gây sự với ông Mô-sê.” (Xh 17,
1-2). Có đi cả ngày trời trong sa mạc khô cháy, trên đầu là nắng lửa, dưới chân
là cát nung như đoàn dân Do-thái ngày xưa trong hoang địa, mới cảm nhận được
cái khát hành hạ người ta như thế nào và nhu cầu được uống cho đã cơn khát mới
bức xúc làm sao. Thế nên khi bị cơn khát giày vò, họ đổ lỗi cho Mô-sê đã đưa họ
vào nơi hoang địa khô cháy và đòi đem vị lãnh tụ nầy ra mà ném đá.
Sa-ma-ri là vùng đất
nằm giữa Giu-đê (phía nam) và Ga-li-lê (phía bắc). Con đường ngắn nhất để đi từ
Giu-đê lên Ga-li-lê là phải đi ngang qua Sa-ma-ri. Tuy nhiên, người Do-thái
luôn kỳ thị và ghét bỏ người Sa-ma-ri vì họ không phải là dân Do-thái thuần
chủng. Tưởng cũng nên nhắc lại rằng người Sa-ma-ri được hình thành bởi sự pha
trộn giữa người Do-thái và dân ngoại nên họ có văn hóa khác biệt. Về tín ngưỡng
thì họ không chỉ tôn thờ Đức Chúa Trời, mà còn thờ cúng nhiều ngẫu tượng. Chính
vì vậy, khi người Do-thái muốn đi từ Giu-đê về Ga-li-lê hay từ Ga-li-lê lên
Giê-ru-sa-lem, họ thường không đi ngang qua vùng Sa-ma-ri, mà đi đường vòng dọc
theo thung lũng sông Gio-đan, rồi từ Giê-ri-khô đi lên Giê-ru-sa-lem. Đi vòng
như vậy phải đối diện với cái nóng của sa mạc và phải mất thêm khoảng 40 cây số
đường dài, nhưng họ cho là đáng làm vì không muốn va chạm với người Sa-ma-ri để
bị ô nhiễm xấu xa. Người Giu-đa ghét dân Sa-ma-ri đến nỗi khi một người nào đó
bị kêu là người Sa-ma-ri thì đó là một sự sỉ nhục.
Đức Giê-su xuất thân
từ Do-thái, nhưng không theo quan niệm hẹp hòi của Do-thái, Người luôn đến với
tất cả mọi người, không phân biệt dân ngoại (pha tạp) hay dân nội (thuần
chủng). Nhất là đối với những người hèn mọn, đau ốm, tật nguyền, thì Người luôn
chạnh lòng thương và tìm đến để chữa lành cho họ. Chính cách hành xử đó đã
khiến bọn kinh sư luật sĩ Pha-ri-sêu luôn trách Người chuyên “ăn uống với bọn
thu thuế và quân tội lỗi”. Đức Giê-su đã thẳng thắn vạch cho họ thấy sứ mệnh mà
Người được Chúa Cha sai đến thế gian không gì khác hơn là: “Người khoẻ mạnh không
cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công
chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn.” (Lc 5, 30-32). Đó là lý do
giải thích tại sao Đức Giê-su lại chọn con đường tắt đi ngang qua Sa-ma-ri để
lên Giê-ru-sa-lem. Và vì thế mới có “Cuộc gặp gỡ đổi đời” với người phụ nữ
Sa-ma-ri.
Bài Tin Mừng hôm nay
(CN.III/MC-A – Ga 4, 5-42) trình thuật việc Đức Giê-su tới miền Sa-ma-ri, và
Người đã xin nước uống nơi một người phụ nữ đến lấy nước tại giếng Gia-cóp.
Khát nước mà xin nước uống là chuyện bình thường đối với phàm nhân. Đức Giê-su
là Thiên Chúa mặc xác phàm, nên chuyện đói khát về thể lý cũng bình thường như
bao người khác. Nhưng câu chuyện thánh sử Gio-an trình thuật lại gây một ấn
tượng độc đáo, đó là sự hoán vị của 2 nhân tố “xin” và “cho”: Người xin nước
uống trở thành người cho nước và người cho nước uống lại trở thành người xin
nước. Một câu hỏi được đặt ra: Như vậy thì “người xin nước” và “người cho
nước”, ai mới là người thực sư khát nước?
Thực ra, việc Đức
Giê-su xin nước uống chỉ là một cái cớ để Người cho những người Do-thái biết
được Người không phân biệt dân ngoại hay dân nội như quan niệm hẹp hòi của họ,
bởi họ thường cho mình mới thật là dân xịn – dân Thiên Chúa tuyển chọn chính
hiệu – còn ngoài ra, tất cả đều là dân ngoại, là “quân tội lỗi”, là đồ bỏ. Đám
người Do-thái vẫn tự nhận mình là con cái tổ phụ Ap-ra-ham và liệt Đức Giê-su
vào hạng người bị qủy ám, là “dân ngoại” (“Người Do-thái đáp: “Chúng tôi bảo
ông là người Sa-ma-ri và là người bị quỷ ám thì chẳng đúng lắm sao?” – Ga 8,
48), rồi còn “lượm đá để ném Người” (Ga 8, 59). Ỷ mình là dân nội, họ không tin
vào những điều giảng dạy của Đức Ki-tô, nhưng người phụ nữ Sa-ma-ri – là dân
ngoại – thì lại thật sự tin tưởng vào Đấng Mê-si-a mà chị được gặp lần đầu. Và
thế là chị đang là người được Chúa Giê-su xin nước uống, đã trở thành người xin
nước hằng sống.
Sở dĩ vậy, vì Đức
Ki-tô đã khơi lên sự tò mò để người phụ nữ Sa-ma-ri tìm hiểu qua một công việc
thường ngày là đến giếng kín nuớc về để giải toả cơn khát thể lý. Từ đó, Đức
Giê-su gợi ý đến cơn khát tâm linh: Khát nước hằng sống. Câu chuyện chưa dừng
lại ở đây, mà chuyển sang hướng khác, khi Đức Ki-tô đề cập đến đời sống riêng
tư của người phụ nữ, mà cơn khát tình yêu dường như vẫn chưa được thoả đáng (đã
sống với 5 đời chồng và hiện đang sống với người không phải là chồng mình). Đức
Giê-su muốn người phụ nữ mở rộng tầm mắt để nhìn ra người đang nói chuyện với
mình và quả nhiên chị đã nhìn ra. Với một người được gặp lần đầu tiên, mà người
ấy lại biết rõ đời sống riêng tư của mình thì người ấy chỉ có thể là ngôn sứ
(“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ” – Ga 4, 19).
Tin người đối diện với
mình là ngôn sứ, nên chị nêu thắc mắc không hiểu vì sao mà: “Cha ông chúng tôi
đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới
chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” – Ga 4, 20). Đức Giê-su đã chỉ rõ cho
chị biết là thờ phượng Thiên Chúa không phải ở núi này hay núi khác, ở chỗ này
hay chỗ kia, mà là “Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải
thờ phượng trong thần khí và sự thật.” (Ga 4, 24). Cuối cùng thì “Người phụ nữ
thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ
loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giê-su nói: “Đấng ấy chính là tôi, người
đang nói với chị đây.” (Ga 4, 25-26). Và thế là “Người phụ nữ để vò nước lại,
vào thành và nói với mọi người: “Đến mà xem: có một người đã nói với tôi tất cả
những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao?” Họ ra khỏi thành và
đến gặp Người.” (Ga 4, 28-30).
Chính cái quá khứ của
người phụ nữ bị Đức Giê-su khơi lại, khiến chị ta tin tưởng vào những gì Người
nói với chị và từ “người khát nước hằng sống” chị đã trở nên “người gieo” tin
tức về một Đấng Mê-si-a mà chị đã được diện kiến. Như vậy, sau khi gặp “người
xin nước” Giê-su, chị phụ nữ Sa-ma-ri đã tin và làm chứng cho Chúa Ki-tô giữa
những người vốn được coi là dân ngoại, và chính những người này sau khi được
gặp Chúa đã xin Chúa ở lại với họ và tuyên xưng: “Không còn phải vì lời chị kể
mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là
Đấng cứu độ trần gian.” (Ga 4, 42).
Tóm lại, chính là nhờ
Đức Ki-tô đến xin nước mà người phụ nữ Sa-ma-ri có được cuộc gặp gỡ đổi đời: Từ
một người tội lỗi trở thành người loan báo Tin Mừng về một Đấng Mê-si-a Cứu Độ
nhân loại. Nói cách khác, người phụ nữ Sa-ma-ri nhờ cuộc gặp gỡ đổi đời, đã
được chính Đấng Thiên sai đổi mới tận căn, và có lẽ đó là lý do Giáo hội
chọn bài Tin Mừng này để vào CM III Mùa Chay. Cũng bởi vì “Mùa Chay là mùa
thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Ki-tô, cho việc
sống trong lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng giềng của
chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ trong bốn mươi
ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin
Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải,
qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân lời Chúa, được thanh tẩy khỏi những tội
lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Ki-tô hiện diện nơi những anh chị em
cùng quẫn của chúng ta.” (Sứ điệp Mùa Chay 2017, số 3).
Ôi! Lạy Chúa! Suy niệm
Lời Chúa hôm nay, chúng con mới hiểu ra rằng chúng con luôn luôn khát nước hằng
sống, mãi mãi khao khát Lời Chân lý. Cúi xin Chúa đoái thương ban Thánh Thần
giải tỏa cơn khát tâm linh cho chúng con, ban cho chúng con thứ nước chúng con
uống vào sẽ không còn khát nữa, đó chính là thứ nước đem lại cho chúng con sự
sống đời đời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.